ngày long trời Đêm lở Đất

248
TRN THNHÂN NGÀY LONG TRI ĐÊM LĐT Tiu thuyết Khi 8406 Tdo Dân chcho Vit Nam Tháng 9 Năm 2010

Upload: sea2com

Post on 22-Jun-2015

1.830 views

Category:

Documents


21 download

DESCRIPTION

Tiểu thuyết viết về công cuộc Cải Cách Ruộng Đất ở Việt Nam những năm 1950s

TRANSCRIPT

Page 1: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

1

TRẦN THẾ NHÂN

NGÀY LONG TRỜI

ĐÊM LỞ ĐẤT

Tiểu thuyết

Khối 8406 – Tự do Dân chủ cho Việt Nam

Tháng 9 Năm 2010

Page 2: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

2

Page 3: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

3

MỤC LỤC

MỤC LỤC ................................................................................................................................................ 3

THƢ CHO PHÉP CỦA TỔ HỢP XB MIỀN ĐÔNG HOA KỲ ............................................................................. 7

LỜI GIỚI THIỆU CỦA KHỐI 8406 ............................................................................................................... 9

LỜI NHÀ XUẤT BẢN ............................................................................................................................... 11

KHÚC DƤO ĐẦU (PRELUDE) ................................................................................................................... 15

Chƣơng 1 TỪ BÊN ẤY SANG BÊN NÀY. TRÊN ĐƢỜNG VỀ HAI CHỊ EM GẶP MỘT NGƢỜI ĐÀN BÀ LƤ.........................17

Chƣơng 2 KHÍ CÔNG DÂN TỘC BÙI LONG THÀNH THẦN KỲ. HỌC TRÒ VÀ ĐỆ TỬ XUẤT SẮC PHAN THUỲ DƢƠNG ............................................................................. 24

Chƣơng 3 CHUYỆN KỂ CỦA NGƢỜI ĐÀN BÀ KHÔNG TÊN BỞI VÌ NGƢỜI TA GIẤU KÍN TÊN TUỔI CỦA NÀNG .......... 29

Chƣơng 4 CHUYỆN SAU CÁI ĐÊM HÔM ẤY ĐÊM GÌ…............................................................................................. 36

Chƣơng 5 CHIỀU THỜI GIAN – THINK DIFFERENT! HÃY NGHĨ KHÁC ĐI! .................................................................. 46

Chƣơng 6 MÍ ĐỒ ĐỒ ĐỒ PHÁ… XỨ THANH HOÁ .................................................................................................. 52

Chƣơng 7 QUÊ NGOƤI HÀ TRUNG, QUÊ NỘI NGA SƠN. NGHĨ VỀ TRỜI LƤI SUY RA MÌNH ........................................61

Chƣơng 8 “HOÀI NGHI TẤT CẢ!” CÂU CHÂM NGÔN ÔNG MÁC YÊU THÍCH… ......................................................... 65

Chƣơng 9 QUÊ MẸ – QUÊ CHA. ĐÓI VÀ RÉT ........................................................................................................... 68

Chƣơng 10 CÁC ĐỒNG CHÍ CỐ VẤN TÀU ................................................................................................................ 70

Chƣơng 11 NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT ............................................................................................................ 73

Chƣơng 12 NHÀ HỌ MAI ......................................................................................................................................... 81

Chƣơng 13 LỆ UYÊN GẶP LƤI BỐ MAI DUY VỸ .......................................................................................................... 84

Chƣơng 14 CHUYỆN CON NÍT… .............................................................................................................................. 87

Page 4: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

4

Chƣơng 15 … SANG CHUYỆN NGƢỜI LỚN .............................................................................................................. 90

Chƣơng 16 CHUYỆN TRONG NHÀ ............................................................................................................................ 93

Chƣơng 17 THUỲ DƢƠNG KỂ CHUYỆN CHO BÁC VỸ NGHE .....................................................................................100

Chƣơng 18 ĐỘI CẢI CÁCH BẮT BỐ VỸ ĐƢA ĐI TÙ. NHÀ BỊ “BAO VÂY” .................................................................... 106

Chƣơng 19 BÀ NỘI BỊ ĐẤU TỐ RỒI CHẾT................................................................................................................ 110

Chƣơng 20 MẸ CŨNG BỊ BẮT VÀ ĐƢA RA ĐẤU TỐ...................................................................................................112

Chƣơng 21 MẸ CON ĐƢỢC RA NẰM NGOÀI HIÊN. LỆ UYÊN CHUI HỐC VÀO NHÀ NGỦ TRÊN Ổ CHÓ ....................... 116

Chƣơng 22 NGÔI NHÀ HỌ MAI ĐƢỢC ĐỘI CHIA “QUẢ THỰC” CHO BẦN CỐ, CỐT CÁN. BA MẸ CON BỊ ĐUỔI RA KHỏI NHÀ ....................................................................................................... 118

Chƣơng 23 TRỜI CÓ MẮT. CHUYỆN CỔ TÍCH VỀ CHA CON NHÀ BÁC LƢƠNG ..........................................................119

Chƣơng 24 SỐNG NHỜ TRONG CÁI LỀU VỊT NGOÀI ĐỒNG CỦA BÁC LƢƠNG, MẸ CON NHÀ HỌ MAI KIẾM ĂN SINH SỐNG NHƢ THẾ NÀO? ................................................................. 124

Chƣơng 25 MẸ CON NHÀ HỌ MAI ĂN THỊT NHỮNG CON GÌ, XƠI NHỮNG MÓN GÌ? ............................................... 128

Chƣơng 26 TRỞ LƤI CHUYỆN… CON CHUỘT ........................................................................................................... 131

Chƣơng 27 VỀ THĂM LƤI MÁI NHÀ XƢA ................................................................................................................. 134

Chƣơng 28 BÉ LỆ UYÊN ĐÒI BỐ MAI DUY VỸ KỂ CHUYỆN MÌNH CHO CÁC CON NGHE ............................................. 137

Chƣơng 29 NHỮNG ĐÊM TRẮNG ............................................................................................................................140

Chƣơng 30 CHUYỆN ĐỒNG CHÍ Y TÁ TOÀNH. CHUYỆN VỚ VẨN TRONG NHÀ. CHUYỆN TÀO LAO KHÁCH KHỨA..... 144

Chƣơng 31 LÀ CON NGƢỜI, MAI DUY VỸ CŨNG THAM SỐNG SỢ CHẾT...................................................................148

Page 5: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

5

Chƣơng 32 TÂM TƢ TRONG TÙ. BỐ VỸ NGHĨ VỀ NHỮNG NGƢỜI CỘNG SẢN MÌNH QUEN BIẾT NGÀY XƢA VÀ BÂY GIỜ ......................... 152

Chƣơng 33 CHUYỆN MỔ XẺ THỜI CHIẾN TRANH CHỐNG PHÁP. NHỮNG CA MỔ RUỘT THỪA ĐẦU TIÊN CỦA BỐ VỸ, NGƢỜI THẦY THUỐC TÀI HOA ƢU TÚ .................... 156

Chƣơng 34 CA MỔ RUỘT THỪA CHO JACQUES, HÀNG BINH PHÁP. PHÚC HOƤ KHÔN LƢỜNG ................................ 161

Chƣơng 35 THỊ KÍNH VÀ CÁI RÂU MỌC NGƢỢC. MAI DUY VỸ VỚI CÁI RUỘT THỪA................................................ 164

Chƣơng 36 MỔ RUỘT THỪA CHO THẰNG CU CON CÒ TOE. CÁI “NƢỠI CƢA” CỦA Y TÁ TOÀNH ............................ 166

Chƣơng 37 TRUNG THU TRĂNG SÁNG… CHUYỆN CHỒNG KỂ SAY SƢA, VỢ NGHE ĐẰM THẮM................................ 169

Chƣơng 38 NGƢỜI VÔ HÌNH................................................................................................................................... 177

Chƣơng 39 ĐỒNG HỒ SỐNG. SỰ SỐNG TRONG SIÊU NHÀ TÙ, SIÊU ĐỊA NGỤC...................................................... 189

Chƣơng 40 QUỶ NGƢỜI – NGƢỜI QUỶ ................................................................................................................... 192

Chƣơng 41 ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN… ........................................................................................... 194

Chƣơng 42 PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT! ...................................................................................................................... 198

Chƣơng 43 NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG. ÁN TỬ HÌNH .......................................................................................... 199

Chƣơng 44 CHÔN SỐNG ........................................................................................................................................ 221

Chƣơng 45 CHA ĐI TRƢỚC, CON VỀ SAU… BÂY GIỜ CON LƤI ĐI TRƢỚC… ........................................................... 227

Chƣơng 46 ĐOƤN KẾT (EPILOGUE). SIÊU THOÁT ................................................................................................... 230

BƤT......................................................................................................................................................233

SUY NGẪM KHI ĐỌC “NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT” CỦA TRẦN THẾ NHÂN ..................................... 234

Page 6: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

6

Page 7: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

7

THƢ CHO PHÉP CỦA TỔ HỢP XB MIỀN ĐÔNG HOA KỲ

Kính thƣa Quý vị

Thật là một vinh-dự cho Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ khi đƣợc Khối 8406 yêu-cầu đƣợc in lại và phổ-biến cuốn tiểu-thuyết NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT

của tác-giả Trần Thế Nhân ở trong nƣớc. Mục-đích của một nhà xuất bản nhƣ

Tổ Hợp ở ngoài này không nhằm gì ngoài một ƣớc-vọng giữ đƣợc tiếng nói

trung thực của ngƣời Việt chúng ta cho hôm nay và cho mai sau.

Cuốn tiểu-thuyết NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT là một tiếng nói nhƣ

vậy. Do đó, Tổ Hợp rất trân trọng nó và xin, với lá thƣ này, thuận để cho Khối

8406 in lại và phổ-biến ở trong nƣớc nhƣ một chứng-từ giá trị hàng đầu về một giai-đoạn đau thƣơng trong lịch-sử nƣớc nhà. Những oan-hồn của vụ Cải Cách

Ruộng Đất ở miền Bắc cần phải đƣợc chiêu tuyết. Lịch-sử cuối cùng bao giờ

cũng sẽ rất công bằng: Ai đắc tội thì tất yếu sẽ phải ra trả lời trƣớc vành móng

ngựa của “bia miệng ngàn năm.”

Và chắc chắn tác-giả Trần Thế Nhân cũng cùng một ý nghĩ đó mà thôi.

Thân kính,

Nguyễn Ngọc Bích và Trương Anh Thụy

Đại diện Tổ Hợp XBMĐ Hoa Kỳ

Ngày 27 tháng 8, 2010

LỜI TRI ÂN CỦA KHỐI 8406

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Tác giả và Tổ hợp Xuất bản Miền Đông Hoa

Kỳ đã vui lòng cho phép chúng tôi phổ biến tác phẩm quý giá này đến Đồng bào quốc nội. Chúng tôi cũng xin cảm ơn vị Thân hữu đã giới thiệu và gởi tặng

tác phẩm cho chúng tôi vì mong muốn nó đƣợc tới tay Ngƣời dân trong nƣớc.

Khối 8406 Quốc nội

Page 8: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

8

Page 9: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

9

LỜI GIỚI THIỆU CỦA KHỐI 8406

Kính thƣa toàn thể Đồng bào, nhất là Đồng bào quốc nội,

Cuộc Cải cách Ruộng đất là một biến cố quan trọng đánh dấu lịch sử tộc Việt,

đồng thời là một thanh sắt nung đỏ dí lên trái tim dân Việt. Nó chính là “tác phẩm

rợn ngƣời” của Hồ Chí Minh và đồng đảng Cộng sản trong thập niên 50 của thế kỷ

trƣớc. Nhiều tác giả đã viết về nó trên phƣơng diện sử học lẫn phƣơng diện văn

học. Trên phƣơng diện sử học thì có giám mục Lê Đắc Trọng, các ông Bùi Tín,

Minh Võ, Nguyễn Minh Cần, Trần Gia Phụng, Võ Trƣờng Sơn, Vũ Thƣ Hiên...

Trên phƣơng diện văn học thì có các nhà văn Hoàng Minh Tƣờng (Thời của

Thánh Thần), Ngô Ngọc Bội (Ác mộng), Nguyễn Khoa Đăng (Nƣớc mắt một

thời) Tô Hoài (Ba ngƣời khác)… Thế nhƣng xem ra các tác giả này chƣa lột tả

đƣợc tất cả sự tàn ác và thâm độc của cuộc CCRĐ.

May thay, gần đây xuất hiện tại hải ngoại một cuốn tiểu thuyết với nhan đề

“Ngày long trời, đêm lở đất” của một tác giả đang còn ở trong nƣớc mang bí danh

Trần Thế Nhân. Văn phong tác phẩm này hết sức đặc biệt: vừa hƣ cấu vừa tả thực,

vừa nhƣ tiểu thuyêt vừa nhƣ hồi ký, dùng cõi âm để nói cõi dƣơng, ngƣời chết

hiện hồn về kể lại các chuyện của mình khi sống. Giọng văn có lúc mô tả, có lúc

triết lý, có lúc suy niệm. Lời lẽ khoan hòa nhân hậu pha với ngôn ngữ cay đắng

mỉa mai. Tất cả xoay quanh cuộc CCRĐ lở đất long trời và số phận đớn đau của

một nạn nhân tiêu biểu mang tên Mai Duy Vỹ cùng với thân thuộc của đƣơng sự.

Rất nhiều máu và nƣớc mắt dùng để diễn tả cảnh ngƣời hành hạ ngƣời, kẻ quyền

lực giết chết đám thảo dân. Và trên bối cảnh bi thƣơng đó hiện ra chân dung của

một nhân vật mang tên “Hoàng Thƣợng ngự Ngai Rồng Đỏ, tự nhận là Đấng Chí

Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần…” nhƣng hành động cực thâm, cực đểu, cực

hung, cực bạo… mà ngƣời đọc đều nhận thấy đó là thủ phạm chính của biến cố

kinh thiên động địa, máu lệ chan hòa này: Hồ Chí Minh.

Khốn nạn cho Dân tộc là những gì tên đại tội đồ này đã làm cách đây hơn nửa thế

kỷ, nay chính đồng đảng và đồ đệ của ông ta tiếp tục thực hiện ở mức độ tàn bạo

hơn và rộng rãi hơn, qua bao cuộc cƣớp bóc đất đai của cá nhân lẫn tập thể, của

dân thƣờng lẫn tôn giáo.

Chúng tôi may mắn đƣợc một ngƣời bạn ở hải ngoại vừa tặng cho tác phẩm giá trị

này vừa mong muốn nó đƣợc phổ biến tại quốc nội. Điều này hẳn cũng không ra

ngoài ƣớc vọng của chính tác giả. Thành thử chúng tôi xin kính gởi nó đến Đồng

bào, nhất là Đồng bào tại VN, đặc biệt trong dịp CS rùm beng nhắc lại cái gọi là

“Thân thế sự nghiệp của Hồ Chủ tịch” nhân kỷ niệm ngày mất của ông ta (02-09)

Khối Tự do Dân chủ cho Việt Nam 8406

Page 10: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

10

Page 11: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

11

LỜI NHÀ XUẤT BẢN

NGÔN NGỮ của loài người hình như bất lực trước sự thô bạo của con người một

khi nó đã thành thú. Bởi con thú không ác, chỉ có con người mới ác với người.

Con thú khi đói thì đi tìm mồi, khi no nó để yên cho các đồng loại và cả những sinh vật yếu kém hơn được “chung sống hoà bình.” Ngay cả khi phải giết để sinh tồn, con vật cũng không tìm cách kéo dài cái đau, đay nghiến con mồi cho nó thêm

khổ sở. Và hiển nhiên, vì không có ngôn ngữ nên cũng không có vấn đề làm cho

con mồi phải chịu nhục, chịu cực hình tâm lý hay nghe những điều phi lý được thốt ra về mình, về gia đình, tổ quốc, hay lý tưởng của mình.

Có lẽ vì thế mà mỗi khi có sự đổi đời, ngôn ngữ của một dân tộc thường phải trải qua như một cuộc lột xác. Người ta đã nhắc đến văn học Đức sau thời Đức Quốc

Xã, cũng như văn học Nga sau thời Stalin, các tác giả đến sau đều đã phải đẻ ra một ngôn ngữ mới vì những từ ngữ cũ đã hoàn toàn bị vét cạn

[1] ý nghĩa để trở

thành vô dụng. Song sự lột xác này không dễ dàng, thường phải là cả tập thể của một cộng đồng ngôn ngữ bỏ ra hàng chục năm, đôi khi mất cả thế kỷ rồi mới tạo dựng lại được một ngôn ngữ “khả tín.”

Những chuyện tương tự không phải là đã không xảy ra trong tiếng nước ta. Trong lịch sử tiếng Việt, để cho một từ như chữ “tôi” mà nghĩa đầu là “tôi tớ, tôi đòi, tôi mọi” chuyển thành một chữ “tôi” ngang ngạnh, xấc xược, ngang hàng của ngày

hôm nay (nhất là khi được nói ra trước người có vai vế, chức vị hơn mình) thì nó cũng đã phải trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, thậm chí có thể đến cả hàng

ngàn năm.

Người Cộng sản khi vào tiếp quản Hà Nội cuối năm 1954 hay sau này, khi vào thành ở miền Nam năm 1975 làm đảo lộn chữ nghĩa như thế nào thì chúng ta cũng đã kinh qua đủ rõ để biết nó hại tới đâu cho sự trao đổi trong xã hội. Sự kiện một

người gác cổng, với sự khuyến khích của nhà cầm quyền mới, hôm trước hôm sau

có thể gọi chủ mình là “anh” thì không những chỉ có nghĩa là đã có một sự đổi ngôi, một sự lên voi xuống chó trong chữ nghĩa mà còn có cả một sự đảo lộn trật tự xã hội mà trong đó người biết việc thì mất vai trò lãnh đạo (ông giám đốc hết

làm giám đốc) còn người dốt đặc lên làm “đỉnh cao trí tuệ,” làm “cha” thiên hạ.

Nhưng không phải đợi đến khi họ vào thành. Ngay từ những ngày mới phát động phong trào đấu tố trong Cải cách Ruộng đất, họ đã bắt các nông dân, nhiều khi

chỉ là lớp tôi tớ, hôm trước còn gọi chủ mình là “ông, bà,” hôm sau đã phải gọi

[1] Có ngƣời nhắc nhở chúng tôi là chữ “vét cạn” này quá nhẹ. Thực ra, dƣới thời Cộng sản,

phải nói là chữ nghĩa nhiều khi bị đảo lộn hoàn toàn để trở thành nghịch nghĩa. Thí dụ, ông

Hồ Chí Minh nói, “Luật CCRĐ chí nhân, chí nghĩa, hợp lý hợp tình…” trong khi xem ra, cuộc cải cách đó đã tỏ ra “CHÍ ÁC, PHI NGHĨA, TRÁI ĐẠO LÝ, TRÁI TÌNH NGƢỜI.”

Page 12: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

12

chính những người đó là “thằng nọ, con kia,” rồi còn bắt người chủ tự xưng là

“con” để “thưa ông, thưa bà” với các “ông bà” bần cố kia. Thậm chí một đứa trẻ con cũng có thể bắt một “địa chủ” xưng “con” với mình, để “ông con” hành hạ ngay chính bố mẹ nuôi của mình… chơi. (Tệ hơn nữa, ở trong lãnh vực bang giao

quốc tế, nhiều cán bộ và dân chúng được dạy cho quen miệng để gọi những nhà lãnh đạo ở các nước mà VNCS không thích là “thằng,” là “con” một cách rất láo xược và có thể nói thẳng là “mất dạy”).

Có lẽ cũng vì thế mà người Cộng sản Việt Nam, khi họ theo chỉ thị của Nga Tàu

(nhận mệnh lệnh của Stalin và rập khuôn theo mẫu thức “Thủ ti Cải cửa” của Mao Trạch-đông và Lưu Thiếu-kỳ) họ cũng đã có lý phần nào khi gọi cách mạng ruộng đất của họ là “cuộc cách mạng long trời lở đất.” Kết quả là như một bộ

lịch sử kinh tế trong nước gần đây đã thú nhận, số nạn nhân chính thức của cách mạng ruộng đất ở mới 16 tỉnh,

[2] chưa đầy một nửa nước ta hồi bấy giờ (1953-56),

đã lên đến 172.008 người, trong đó 70% được xem là vô tội, nghĩa là đã bị bắt

lầm, tố điêu, đánh đập, tra tấn, tàn ác dã man rồi giết oan. Sự thực lịch sử là như thế, có nghĩa là đã có diệt chủng ở nước ta, bởi định nghĩa của diệt chủng (“genocide”) chính là giết người vô tội vạ, “sự sát hủy có hệ thống và có kế hoạch

một nhóm người dựa trên chủng tộc, tín ngưỡng, chính trị hay văn hóa của họ.”

Sự thực là thế nhưng làm sao nói lên được sự thực đó trong văn chương lại là cả một vấn đề. Vì muốn vẽ nên cuộc sống thật trong tất cả những vi mạch của nó không thể là những con số khô khan, trong đó không thấy đâu là máu và nước mắt

và sự phản bội và niềm tin đặt nhầm chỗ (như đêm Mai Duy Vỹ tỏ lộ hết niềm tin

của mình vào một con người huyền thoại[3]

khi nằm bên cạnh vợ, một con người còn hơn cả Chúa lẫn Phật), không thấy đâu là tiếng cười, là đói khát, ăn cả cỏ,

[2] Đích xác là ở 3563 xã thuộc 16 tỉnh với dân số trên 10 triệu ngƣời (lúc bấy giờ dân số toàn

miền Bắc VN khoảng 15 triệu, đến năm 1960 cuộc điều tra dân số cho biết miền Bắc VN có 16 triệu ngƣời). Nếu chỉ nói đơn giản là “16 tỉnh” thì ngƣời đọc có thể hiểu lầm là đã có cải cách ruộng đất ở các tỉnh lỵ hay ở các thành phố, trong khi ở những nơi này thì lại có đổi tiền, có “cải tạo tƣ sản” là những cách giết tiềm năng sản xuất của một thành phần khác của dân tộc. Quy mô và phạm vi vùng thực hiện CCRĐ là toàn bộ nông thôn miền Bắc VN,

chƣa kể vùng miền núi -cũng làm CC nhƣng nhẹ hơn ở đồng bằng. Và tỷ lệ là phải tìm cho ra đƣợc 5% dân số là địa chủ. Nói cách khác, ngƣời CS dƣới sự lãnh đạo tối cao của ông Hồ Chí Minh đã tìm cách giết 5% dân số những ngƣời giàu và có khả năng nhất để trên danh nghĩa là phân phát cho ngƣời nghèo nhƣng đích thực, nhƣ ta sẽ thấy mấy năm sau, chính là để cƣớp hết của dân trên toàn quốc để đƣa vào tay đảng CSVN -để nông dân trở thành tá điền cho Đảng, công nhân trở thành giai cấp bị Đảng bóc lột thay vì các chủ tƣ bản. (Chúng tôi xin cảm ơn ông Nguyễn Minh Cần đã chỉ cho những chi tiết trên đây.)

[3] Con ngƣời huyền thoại này trong truyện đƣợc mô tả là “một con ngƣời đƣợc tôn vinh là Đấng Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần còn hơn cả Chúa lẫn Phật,” một con ngƣời mà trên

bốn ngàn năm chƣa có ai bằng. Đây không phải chuyện tiểu thuyết ngoa ngôn, mà chính là cách mà đám lãnh đạo từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng đều học nhau mà nói nhƣ vậy.

Page 13: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

13

đụt khoai, cào cào, châu chấu, giun dế, cóc nhái, chuột… để rồi chết, có khi còn tệ

hơn cả một con vật.

Văn học Việt Nam biết nhưng đã bất lực trước những đòi hỏi nghệ thuật ghê gớm

quá của một thực tế quê hương như vậy. Không ít người đã thử vật lộn với đề tài

nhưng hình như không thành công, kể cả một tài năng lớn như Tô Hoài (Ba Người Khác), nhưng vì không phải là nạn nhân nên ông chỉ nhìn được từ bên ngoài, từ trên xuống, từ góc nhìn của “đội cải cách,” những điều hủ bại ở trong đó, mà không nằm trong da thịt của một Mai Duy Vỹ, một người suốt đời trong sáng,

sống chết cho lý tưởng, cho nhân quần.

Người ta nói muốn viết thuyết phục, cần có thời gian để ta nhìn lại với đủ độ xa, cần có khoảng không gian để ta đủ cách mà cân nhắc được mọi sự. Năm mươi

năm hơn đã qua từ những “ngày long trời, đêm lở đất” đó thì may ra cũng có thể có người đủ xa cách để có cái nhìn viễn cận đầy đủ mà viết lại thật sâu sắc về giai đoạn kinh dị và bi thương này của lịch sử -dù là chỉ viết dưới dạng tiểu thuyết.

Chúng tôi đâu ngờ, để có được cái nhìn chính xác, vấn đề không phải là năm

tháng hay không gian trên trần thế. Chúng tôi ở nhà xuất bản đã sửng sốt khi nhận được bản thảo từ quê nhà. Thì ra tác giả tiểu thuyết chúng ta cầm trong tay

đã phải dùng đến thế giới bên này và thế giới bên kia, nghĩa là không còn biên giới không-thời-gian nữa, mới nói lên nổi cái thảm kịch “cải cách ruộng đất” ở quê ta. Đây là một giải pháp mà thỉnh thoảng văn học thế giới cũng phải dùng đến

để nói lên những sự thật không thể nói bằng cách nào khác được: Đó là những

“linh hồn chết” của Gogol, đó là những hồ ly tinh của Bồ Tùng-linh trong Liêu trai chí dị.

Trong tay Trần Thế Nhân, những hồn ma kia, vì kiếp trước chính là chúng ta, nên

giờ đây tuy họ không còn ở thế giới bên này song họ vẫn không khác ta là mấy. Một Mai Duy Vỹ, vì là người thật bằng da bằng thịt trước kia nên cũng không khác ông A ông B đi giữa chúng ta. Nhà báo Nguyễn Minh Cần đã hơn một lần

ngỡ ngàng khi nhận ra những nhân vật trong truyện chính là những người ông đã

từng biết rõ khi còn ở trong nước, còn một số người khác tuy có thể vì một vài lý do đã bị đổi thay tên một chút song vẫn không che giấu được căn cước thật ngoài

đời của họ. Câu chuyện, tuy là tiểu thuyết, song vẫn thật tới mức đó. Đó chính là sự thành công của tác giả.

* *

*

Page 14: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

14

Trong tác phẩm Le degré zéro de l’écriture (“Độ không của chữ viết”), Roland

Barthes đã nói: “Sự bùng vỡ của ngôn ngữ văn chương đã là một thể hiện của ý thức”

[4] và chính ý thức đau thương của mình đã dẫn người viết đến “cái bi đát

của chữ viết.” Song cái “bi đát của chữ viết” cũng sẽ không thuyết phục được ai

nếu nó không dựa được lên trên những sự thật mà không ai có khả năng phủ nhận, những sự thật đôi khi thật tầm thường nhưng vẫn làm nên cái lớn của một tác phẩm, thậm chí, theo Tolstoi, làm nên một đại tác phẩm.

Tiếp tay tác giả Trần Thế Nhân để cho cuốn sách này ra mắt độc giả trước hết là

một sự ngẫu nhĩ. Có lẽ chỉ có chữ “duyên” của nhà Phật mới giải thích nổi tại sao chúng tôi, một nhà xuất bản hải ngoại, lại có được một bản thảo lạ kỳ như tiểu thuyết này ở trong tay. Song vì sức hút vĩ đại của nó nên gần ngay sau đó, chúng

tôi ở Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ đã có được sự cộng tác chi li và cặn kẽ của hai người bạn của Tổ Hợp, ông Nguyễn Quảng Tâm, và nhà biên khảo

Nguyễn Minh Cần ở Mạc Tư Khoa -một đàn anh mà chúng tôi đã được may mắn

biết trong nhiều năm qua. Nhờ sự cặm cụi săn sóc của hai ông, chúng ta đã có được một tư liệu thật xác đáng về một đề tài lớn của quê hương, và có thể của cả nhân loại, kể cả sự kiện ông tìm ra cho được những bức hình chụp ngay tại hiện

trường trong cải cách ruộng đất ở Việt Nam hồi năm 1955 do nhà nhiếp ảnh Liên

Xô Dmitri Baltermants.

Nguyễn Ngọc Bích

Đại diện

TỔ HỢP XUẤT BẢN MIỀN ĐÔNG HOA KỲ

Đầu Xuân Canh Dần 2010

[4] Nguyên văn trong tiếng Pháp là “l’éclatement du langage littéraire a été un fait de

conscience” (Le degré zéro de l’écriture, 1953, trang 57).

Page 15: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 15

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT

KHÚC DƤO ĐẦU (PRELUDE)

Bạn đọc hỡi!

Bạn là ai?

Là người Bên Này hay Bên Ấy?

Bên Ấy hay Bên Này?

Mới ngày qua còn thoáng thấy Bên Này?

Sao hôm nay thoắt đã về Bên Ấy?

Bên Này - Bên Ấy bao xa

Hai bên rồi cũng chỉ là một bên!

Xin đừng phân cách rẽ chia

mà đau lòng người đi kẻ ở

Bể khổ trần gian đã không bến không bờ

lại càng bao la hút sâu thăm thẳm

Tội ác bọn Quỷ Thần vòi vọi

chồng chất đỉnh Muôn Năm!

Luật Nhân Quả bao trùm khắp thế gian

Ác Giả rồi Ác Báo!

Những gì trái phản với Tự Nhiên

dù bay có cố công vẽ tô xây đắp

thành đầu lâu Núi Tháp

rồi cũng tới ngày rã tan đổ sập!

Chỉ cần nỗi oan khốc của một người đàn bà

ngây thơ chân thật

cũng đủ góp phần vào tiêu tan cả Ác Nghiệp

của một Quỷ Vương Chí Linh Chí Thánh Chí Thần!

Chẳng có ai sống đời đời muôn năm!

Không tội ác nào được bóng tối bít bưng

mây mù che vĩnh viễn!

Vậy Nó là Ai?

Là Ai?

Mà ai chống Nó - Nó giết!

Ai yêu Nó - Nó giết!

ước mơ được hóa thân thành Nó

Nó cũng giết!

Giết! Giết! Giết!

Page 16: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

16 Trần Thế Nhân

Trần Thế Nhân

Và ai đây?

Người đứng ra kể lại câu chuyện này?

Xin thưa cùng quý bạn… Ai?

Người ấy hẳn phải là người đã chết

Chết thật rồi

mới dám nói

Và Nói Thật!

Thời Gian Giải Ảo

Vô Thường Giải Ngộ

Có hai người đàn bà

Mai Lệ Uyên và Phan Thùy Dương

Chị em kết nghĩa

Tên tuổi họ đã được ghi vào Sổ Siêu Thoát

Một lần cuối trước khi đi vào Cõi Vĩnh Hằng

Họ cùng nhau trở lại Bên Này

Tìm về chốn quê hương

Gặp lại cha mẹ, người thân…

Dẫu chết rồi họ vẫn là Con Người

Còn Con Người hơn Con Người nữa!

Khi kể lại cho bạn đọc nghe

“NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT”

Họ cũng là Sóng là Hạt

Là Không - Thời Gian nhiều chiều

Hãy lắng nghe!

Chuyện Bên Này - Bên Ấy Chuyện Bên Ấy - Bên Này

Và khi… cần thiết

Bạn biết không?

Thượng Đế cũng đứng ra

Kể thay cho Họ?

Còn tác giả?

Tôi ư?

Tôi chỉ là… Vô Ngã.

Page 17: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 17

Chƣơng 1 TỪ BÊN ẤY SANG BÊN NÀY. TRÊN ĐƢỜNG VỀ HAI CHỊ EM GẶP MỘT NGƢỜI ĐÀN BÀ LƤ

– Ta đi đâu bây giờ, chị Uyên ơi?

Tiếng ai cất lên nghe vừa quen vừa lạ. Rõ ràng cô em Thùy Dƣơng vẫn ở bên

cạnh Lệ Uyên, bƣớc đi nghiêng ngả làm cho cả hai liêu xiêu nhƣ cùng trƣợt trên băng.

Lệ Uyên nói mà cứ ngỡ nhƣ ai nói:

– Hay là chị em mình lại trở về chỗ cũ thôi?

– Chỗ cũ là chỗ nào hở chị?

– Chỗ cũ….

Cả hai cùng dừng lại nhìn nhau. Họ vẫn nhận ra nhau với hai khuôn mặt mang hai tên khác nhau. Chỉ có cái Bể Khổ làm bằng nƣớc mắt của nhân loại chúng

sinh bao quanh Khối Cầu lớn – giọt lệ đau vẫn đi mãi đƣờng vòng cô đơn

trong Vũ trụ… Họ cảm thấy những giọt lệ từ mắt mình trào ra, rơi xuống cũng

có hình dáng nhƣ thế.

Lệ Uyên cầm tay Thùy Dƣơng cố hình dung ra nhịp đồng hồ kỳ lạ thời gian

nào chị đã lắng nghe ở trong cơ thể mình, các con mình và cả ở một vì sao

xanh phía chân trời? Có lẽ Cái Chết cũng chỉ là tên gọi mà cuối cùng mỗi một con ngƣời, ai rồi cũng đƣợc nhận danh cho chính mình ở một thời khắc tính

đếm bằng KHÔNG (0) và trƣớc đó là vô thủy, sau đó là vô chung?

Thùy Dƣơng đặt một bàn tay lên trán, cau mày hỏi:

– Chị có nhớ chúng ta vừa từ chỗ nào ra tới đây không?

– Không.

– Chúng ta vừa từ biệt một ngƣời nào?

– Ai nhỉ? Ngoài chị với em ra còn có ai đâu?

– Lạ thật. Em hỏi thật chị nhé, chị có nhìn thấy em nữa không?

– Em nói gì nghe đến buồn cƣời. Này, chị Uyên mô tả em Thùy Dƣơng của

chị. Em đứng cao hơn chị gần nửa cái đầu, cặp lông mày nhíu lại, hàm răng vừa hé ra rất đều và một lọn tóc thả xuống vầng trán mà em mới đƣa tay vuốt lên.

Page 18: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

18 Trần Thế Nhân

Đúng chƣa? À quên, lại còn một vết sẹo nữa nhỏ vừa bằng cánh hoa nhài bên

má… Phải tinh mắt mới quan sát đƣợc…

– Cái sẹo đó là món quà tặng của mụ vợ lão Hƣớn-Mộ-Đức-cắt-cu. Mụ nằm đè lên ngƣời em, cắn vào má em… Thùy Dƣơng bật cƣời.

– Em vẫn trông rõ chị chứ?

– Thì chị vẫn thế. Nhƣng mà… lạ thật. Hình nhƣ em quên hết mọi thứ. Em

đang quên, đang quên…

– Quên sao em lại nhắc tới mụ vợ lão Hƣớn-Mộ-Đức-cắt-cu?

– Vợ lão Hƣớn-Mộ-Đức-cắt-cu nào? Vớ vẩn!

– Chị thấy mình nhƣ đang rơi xuống một cái vực sâu nào, lại thấy mình đang bay lên cao, cao cao… Một nơi nào đó… Thùy Dƣơng hãy nắm tay chị, đừng

buông ra… Chị cũng đang quên đây. Con ngƣời không thể quên đƣợc bản thân

nó; đó chính là nỗi đau khổ lớn nhất. Nhƣng tất cả rồi sẽ đi qua, chìm vào quên lãng. Phải chăng lại là điều may mắn cho chúng ta?

Đột nhiên, trƣớc mắt họ từ xa hiện ra một đốm sáng đỏ. Đốm sáng chuyển

dịch dần về phía họ mỗi lúc một gần. Rồi loé cháy lên thành ngọn đuốc hồng.

Ngọn đuốc thẳng đứng, cao lên, chập chờn theo một vũ điệu xƣa vùng rừng núi. Hai chị em sửng sốt đứng nép vào nhau, cảm thấy lạ hơn là sợ. Ngọn đuốc tới

gần, lững đững trƣớc mắt họ.

“Con ơi! Con ở đâu rồi? Mẹ đây… Mẹ của con… Mẹ thƣơng nhớ con… Sao ngƣời ta nỡ bắt con tôi mang đi! Nó có tội tình chi… Hãy trả con cho tôi!”…

Tiếng than khóc, gào la của ai đang rền vang bên tai họ?

– Lệ Uyên ơi – Thùy Dƣơng nói – Chị có trông thấy và nghe cái gì không?

– Một đuốc lửa… Ma trơi! Kìa!

Lệ Uyên trả lời, lạc hẳn giọng, giơ tay chỉ.

– Không phải ma trơi! Một con ngƣời.

– Một ngƣời ƣ?

– Một ngƣời đàn bà…. nhƣ chúng ta!

Đuốc lửa vừa đi qua, bỗng nhiên dừng lại. Sắc đỏ của ánh lửa lúc sậm lại, khi

bợt đi tựa hồ theo nhịp thở của một sinh linh thoi thóp, run rẩy. Rồi, với cử động của một hình nhân, đuốc lửa có vẻ nhƣ muốn mời gọi hai chị em hãy tới

gần…

Page 19: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 19

– Các chị ơi! Lại đây!

Có tiếng ngƣời kêu. Bàn tay ai đang giơ lên vẫy vẫy kìa? Hai chị em ngơ ngẩn

nhìn nhau. Lệ Uyên còn phân vân lƣỡng lự không biết có nên lại gần đuốc-lửa-ngƣời hay không, Thùy Dƣơng đã nắm tay chị lôi đi.

– Chào các chị!

Đuốc lửa rơi rụng, tàn dần… Chỉ còn một đốm lửa đỏ hiu hắt, khi tắt khi sáng.

Và kìa, một ngƣời đàn bà hiện ra nhƣ đứng trong mây khói nhìn hai chị em.

– Chào hai chị!

Lệ Uyên và Thùy Dƣơng lúng túng không biết nên trả lời, xƣng hô nhƣ thế

nào cho phải lẽ bởi ngƣời đàn bà này tuổi chỉ vào khoảng hai mƣơi, hăm mốt? Cô? Em? Chị? Vậy mà điều lạ lùng là cả hai đều linh nghiệm thấy phái yếu này

ra đời ở Bên Ấy trƣớc mình chắc đã lâu, lâu lắm… May mà họ còn nhớ ra cách

đáp lễ tiện lợi nhất mà các vị thầy chùa vẫn thƣờng làm khi giao tiếp là cúi đầu, chắp hai tay lại, khẽ nhếch miệng…

Ngƣời đàn bà có vẻ ngỡ ngàng, sợ sệt. Nàng nói giọng phƣơng Bắc:

– Các chị sang đây đã lâu chƣa?

– ?!…

– Đƣợc bao lâu rồi?

– Bọn này mới sang… Thế còn đằng ấy sang đây từ khi nào, đã bao lâu?

– Không, không biết.

Hai chị em ngạc nhiên. Có phải một ngƣời điên đang đứng trƣớc mặt họ? Ngƣời

đàn bà hình nhƣ hiểu ý, khẽ cƣời, cƣời không thành tiếng, từ khoé miệng một

vệt ánh sáng lạ loé ra, thắp sáng cả khuôn mặt hiền hậu, thật thà, buồn đau khiến chẳng ai có thể hoài nghi về lời ăn tiếng nói của mình.

Lệ Uyên nói:

– Chúng ta có thể ngồi xuống đây trò chuyện đƣợc không? Ngƣời đàn bà đứng

ngây ra.

– Tôi không ngồi xuống đƣợc nữa.

– Sao vậy?

Page 20: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

20 Trần Thế Nhân

– Tôi đi. Đi thành thói quen rồi. Từ lúc ở Bên Ấy sang tới Bên Này là tôi đi.

Lúc nào tôi cũng đi. Không có ngồi. Cũng chẳng nằm. Đi suốt bao năm. Lúc

nào không đi thì đứng.

– Sao lại thế?

– Tôi đi tìm con tôi.

– Cháu là trai hay gái?

– Trai.

– Cháu tên gì?

– Không biết.

– Nó đang ở Bên Này à?

– Không biết.

– Ủa? Thế thì… Lúc cô sang Bên Này nó đang ở đâu?

– Không biết.

– Nhƣ vậy nghĩa là làm sao?

– Ngƣời ta bắt nó mang đi khi nó mới hơn hai tuổi. Tôi đi tìm khắp nơi từ lúc

còn Bên Ấy, có lẽ nó đang ở Bên Này…? Tôi đi tìm….

– Cô không thể ngồi xuống đây đƣợc một lát sao? Ai lại đứng nhƣ thế này. Ngồi xuống đi!

Lệ Uyên nói nhƣ cầu xin. Thùy Dƣơng với tay ngƣời đàn bà định cầm lấy

nhƣng nàng đã vội lùi lại, noảng sợ.

– Đừng! Đừng! Tôi chỉ có thể đi… và đứng lại nhƣ thế này thôi. Tôi đi tìm con

tôi mà!

– Xin lỗi. Cô tên là gì? Cho bọn này biết quý danh?

– Không biết.

– Ơ? Cô đùa bọn này ƣ?

– Không. Tôi không đùa. Ở Bên Ấy, hồi mới sinh ra tôi cũng có một cái tên do

cha mẹ đặt. Nhƣng rồi ngƣời ta cấm tôi không đƣợc xƣng tên. Nếu tôi xƣng tên ra với ai đó mà ngƣời ta biết đƣợc, họ sẽ giết cả hai mẹ con… Mà tôi thì muốn

sống để đi tìm con. Lâu ngày, không ai gọi tên tôi, tôi cũng không xƣng tên,

thành ra tôi quên mất tên mình.

Page 21: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 21

– Xin lỗi. Nếu vậy cô có thể cho chúng tôi biết cô là ai, làm gì, ở đâu không?

Ngƣời đàn bà cúi đầu, yên lặng nhƣ cân nhắc điều gì; Nàng đặt một bàn tay

lên ngực, rùng mình rồi nói:

– Tôi… Tôi là cung phi triều nhà Nguyễn.

Hai chị em cùng ố lên một tiếng rồi trố mắt ra nhìn. Họ cố liên tƣởng lại những

vai hoàng hậu, công chúa, cung nữ trên sân khấu cải lƣơng hồi còn ở Bên Ấy họ

vẫn thƣờng ngáp ngắn ngáp dài kêu la làm sao tối thứ bảy mà VTV3 cứ hành tình hành tội bắt bà con phải tiêu hoá những món ăn tinh thần dân tộc đó vào

trong cái cơ thể đã mệt mỏi, rệu rã suốt cả tuần rồi….

Ngƣời đàn bà này chẳng có dấu vết, biểu hiện gì của một cung nữ cả. Cung nữ gì mà ăn mặc quá sơ sài dân dã; cái áo màu xanh chàm kiểu bà ba không có túi,

cái váy dệt thổ cẩm dài sát đất và đôi hài trông giống nhƣ dép Bitis có quai hậu,

lại cũng na ná dép Trƣờng Sơn của các chú bộ đội… Phải tinh mắt lắm mới nhận ra dấu hoa văn rất nhỏ, in hình một con rồng thêu bằng chỉ đỏ quấn

quanh cổ áo. Hai chị em nhìn kỹ hai cái “góc” con ngƣời nàng: mái tóc dày

đen đƣợc búi sơ sài có một cây trâm bằng sừng trâu cài xuyên qua; hàm răng

vừa chợt hé ra sau làn môi mọng, dù hai chiếc răng cửa phía trên có hơi to một chút vẫn đều đặn dễ thƣơng nhƣ để phát ra những lời lẽ thật thà nhân hậu;

không phải nhƣ hàm răng Thùy Dƣơng, dẫu đều đặn sít sao hơn, nhƣng chỉ để

găm giữ lại hoặc bộc phát ra những ngôn từ gian manh, thô bạo…

Lệ Uyên đâm ra băn khoăn về tiêu chuẩn cái đẹp mà những vƣơng triều xƣa đã

tuyển chọn các cô gái mới choai choai từ khắp miền vùng quê thị thành để đƣa

vào cung cấm. Tây Thi, Dƣơng Quý Phi, Ỷ Lan, Đặng Thị Huệ… nếu đạt điểm 10 thì nô tì này chỉ đạt 7,5 hoặc 8… Thế thôi. Nhƣng dù không có đƣợc

cái đẹp lộng lẫy nghiêng nƣớc nghiêng thành, cô nàng lại có nét hiền hậu dễ

thƣơng đến gần nhƣ dại dột, và vẻ đẹp của đôi mắt huyền hơi có quầng buồn

buồn, dƣới hàng mi cong mơ màng khép mở… khiến cho những gã đàn ông nào bôn ba phiêu bạt dễ ham muốn thèm khát. Cái cổ cao ba ngấn trắng ngần

làm mái đầu nàng tựa đầu con hƣơu sao vừa cúi xuống dòng suối trong thƣợng

nguồn uống nƣớc, chợt ngẩng lên nhìn cánh rừng già trƣớc mặt trời ban mai. Một vẻ đẹp sơn dã thâm u.

Nàng khóc. Khóc nấc lên mà vẫn không thành tiếng. Những giọt lệ ứa ra; và

kìa, cứ mỗi giọt rơi xuống lại sủi sôi lên, lặn đi, rồi hiện ra thành một dấu

chấm đỏ.

Hai chị em căng mắt ra nhìn. Trời ơi! Những giọt máu. Đúng là những giọt

máu.

Page 22: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

22 Trần Thế Nhân

Thùy Dƣơng rùng mình, nói:

– Bạn đáng thƣơng ơi! Chắc bạn có điều gì đau đớn trong lòng lắm. Hãy nói

cho bọn này biết.

Lệ Uyên cũng tiếp lời:

– Bạn ơi! Trƣớc hết xin hãy tha lỗi cho chị em chúng tôi, bởi vì không biết

phải xƣng hô với bạn nhƣ thế nào cho phải lẽ. Cứ theo lời bạn mà suy, nếu tính

về thời gian tuyệt đối thì chúng tôi thuộc lớp hậu duệ con cháu của bạn rồi; còn nếu căn cứ vào thời gian tƣơng đối, thời gian tâm lý, thời gian Vũ trụ… thì

với hai mƣơi, hăm mốt xuân… bạn còn quá trẻ, thuộc lớp thanh niên so với hai

kẻ nạ dòng tuổi tác này. Thật là nghịch lý và trớ trêu! Tuy nhiên, nỗi đau của bạn chắc sẽ gần gũi và thân thuộc với chúng tôi, những kẻ đã sống quá nửa thế

kỷ loạn lạc và tàn phá… Sinh cùng thời với Tố Nhƣ Tử, chắc bạn cũng biết tới

hai câu thơ, lời than của nàng Kiều: Đau đớn thay phận đàn bà…

Ngƣời cung nữ vội lắc đầu nói:

– Tôi rất sợ những câu nói chữ, những lời ghi trong sách. Ngƣời ta có dạy

tôi… Số chữ tôi biết đƣợc rốt cục lại cũng chỉ để đọc tên của Hoàng Thƣợng và

ghi vào giấy tờ tên của tôi. Nhƣng tên tôi, tôi đã quên mất rồi. Tôi chỉ còn nhớ láng máng tên của Đức Vua?

Thùy Dƣơng bực bội nói:

– Chị em chúng tôi cần biết tên của bạn thì bạn lại không nói. Còn tên của Đức Vua thì biết để làm cái chó chi! Mấy ngàn năm loạn lạc chinh chiến thử hỏi có

đƣợc ông vua nào hiền lành tử tế, toàn dâm gian độc đểu ba que xỏ lá cả. Mà

giả sử có đƣợc một ông vua hiền rồi trái gió trở trời, lắm lúc ông ấy cũng đểu, cũng ác kinh khủng. Nhớ làm cứt chi những ông vua cho chật óc, mệt ngƣời!

Tôi không biết Hoàng Thƣợng của bạn là ai? Cho dẫu ông ấy có là cha hiền của

muôn dân thì bọn tay chân thuộc hạ, mấy thằng hoạn quan chúng cũng núp

bóng Hoàng Thƣợng mà cắt đầu xẻo chim những ngƣời trung hiếu; còn đám con đỏ dân đen chúng ta thì cấm không cho ăn, cấm không đƣợc nói… Cuối

cùng, Đức Vua có biết chăng nữa rồi cũng tảng lờ, cho qua, không coi là

chuyện hệ trọng quốc gia đại sự. Bạn có xem phim Tàu không? Tể Tƣớng Lƣu gù, Mộng đoạn Tử Cấm Thành…

Lệ Uyên ngăn lại:

– Thùy Dƣơng, em nói năng gì lạ thế? Thời Nguyễn làm gì có chiếu phim! Hồi

ấy chỉ có nhã nhạc cung đình, hát bội, hát chèo… Đừng làm cho nàng bối rối,

Page 23: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 23

mất tự nhiên. Bạn ơi, trần gian Bên Ấy dù có là bể khổ thì không vì thế chúng

ta có quyền bỏ sót, lãng quên đi… một giọt đau thƣơng của con ngƣời!

Ngƣời cung nữ trân trân nhìn Lệ Uyên:

– Các chị muốn tôi kể lại câu chuyện này ƣ? – Nàng nói, giơ ngón tay trỏ chỉ

vào đầu mình – Óc bên phải tôi dập nát, tung toé, vƣơng vãi ra đất hết rồi, chỉ

còn chút ít bên trái thôi. Có một cái cục gì màu đen đen, tôi cảm thấy thế, đông

cứng lại đằng trƣớc trán này. Lại còn hai bên thái dƣơng, cứ nhƣ hai cái lỗ có nắp đậy khoá kín lại. Các chị có cách gì đập vỡ hoặc làm chảy cái cục đen đen

ấy, mở thông hai nắp hai bên này ra giúp tôi… may ra tôi có thể nhớ lại đƣợc!

Hai chị em xích lại gần, quan sát đầu ngƣời cung nữ. Khác nào một em bé vừa bị ngã đau, đƣợc ngƣời trong nhà đỡ dậy, chỉ trỏ cho họ biết bé bị đau ở chỗ

nào để ngƣời ta xoa bóp rồi bắt đền… Nàng thuận lòng mặc cho Thùy Dƣơng

đƣa tay sờ chạm, gạt sang bên những sợi tóc còn dâm dấp máu, có sợi dính bết vào nhau… để lộ từ gờ trán lên tới đỉnh đầu, chạy xuống tới sau gáy một vết

nứt toác. Vết nứt toác này khác nào vết nứt toác của một quả dừa bị bổ ra làm

hai, có thể thấy rõ đƣợc cùi dừa, lớp đục trắng nhờ nhờ máu bên trong. Thảo

nào, ông bố cựu chiến binh của Thùy Dƣơng rất ít khi gọi cái đầu mà chỉ gọi là cái gáo.

Đột nhiên Thùy Dƣơng nói to:

– Em có cách…

Lệ Uyên ngạc nhiên:

– Cách gì?

– Chị đứng xê ra, lui lại… để em làm. May quá, em còn nhớ…

Page 24: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

24 Trần Thế Nhân

Chƣơng 2 KHÍ CÔNG DÂN TỘC BÙI LONG THÀNH THẦN KỲ. HỌC TRÒ VÀ ĐỆ TỬ XUẤT SẮC PHAN THUỲ DƢƠNG

Thùy Dƣơng lấy tay đẩy Lệ Uyên sang bên, kéo lui lại chừng dăm bƣớc chân

rồi ngồi xuống, loay hoay tìm hƣớng, chắp hai tay trƣớc ngực, miệng lầm bầm

khấn: “Kính lạy Đức Phật từ bi cứu độ! Kính xin thầy Thiên Địa Long cho con đƣợc thụ khí…”

Kể từ lúc Bên Ấy sang Bên Này, một thời gian dài ả không luyện tập môn võ

thuật khí công họ Bùi cho nên đã ngồi một lúc lâu vẫn chƣa thấy có dấu hiệu gì tỏ ra đắc khí cả. Ả xoay đi trở lại ngƣời mình đến mấy lần, hai tay vẫn chắp

trƣớc ngực, mặt mày căng thẳng bấn loạn khiến Lệ Uyên cũng đâm ra sốt ruột.

Ả lầm bầm khấn tiếp: “Kính lạy Thầy Bùi Long Thành, vị đạo sƣ lừng lẫy khí công dân tộc Việt Nam! Thầy còn nhớ em không? Phan Thùy Dƣơng, đệ tử,

học trò khoá hai của Thầy ở Nhà văn hoá, Câu lạc bộ Lao động Thành phố

đây! Em kính xin Thầy hãy truyền thẳng khí công vào ngƣời em, ngay chỗ

huyệt đan điền đây nè; em đang cần dƣơng khí của Thầy Bên Ấy, cùng hoà vào âm khí của em Bên Này, tổng hoà âm dƣơng, đắc khí rồi em sẽ dùng liệu

pháp thần kỳ để giải toả cho một con bệnh đặc biệt… Gọi là con bệnh kể ra

cũng chƣa thật đúng, một nạn nhân bị thƣơng tổn nghiêm trọng, bị ức chế bƣng bít tất cả các luân xa. Thầy ơi! Thầy cứu giúp chúng sinh với!”…

Quả nhiên, chỉ chờ thêm một chút nữa, Lệ Uyên thấy đầu ả khẽ lắc lƣ, toàn

thân động cựa, nghiêng ngả, hai tay rung giật rồi tách đôi ra… Cứ thế mƣời

ngón tay ả vung vẩy đập vào bụng, vào ngực, vào hai vai, hai bên má, gõ gõ lên đầu trông chẳng khác gì một con điên, ngƣời động kinh. Khí của thầy Bùi

phát ra từ Bên Ấy, truyền vào Thùy Dƣơng mạnh đến nỗi ả từ từ đứng dậy thở

đặc trị, tập dịch cân kinh rồi chuyển sang múa Thất tinh quyền. Ả nhảy cò cò nhƣ chim, bò qua lăn lại mấy vòng nhƣ rắn, bạnh mồm nhe răng nhăn nhở nhƣ

khỉ, giơ tay cào cào cấu cấu nhƣ báo… Mƣời ngón tay ả xoè ra rồi co quắp lại,

răng nghiến trèo trẹo, miệng thở phù phù, ả nhảy chồm tới rồi giật lùi lại nhƣ hổ vồ mồi, và đột nhiên trở lại thƣ thái, mềm mại, hai tay đƣa cao vẫy vẫy nhƣ

đôi cánh hạc đang bay lên…

Tuyệt vời!

Cảnh tƣợng lạ lùng kỳ thú này khiến ngƣời cung nữ mắt sáng, khoé miệng động đậy nhách ra có vẻ nhƣ cƣời. Một dấu hiệu tốt lành! Nàng ngẩn ngơ nhìn.

Page 25: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 25

Cánh rừng sƣơng mù của ký ức chợt loé lên một tia chớp nhỏ. Thuở ấu thơ có

một thầy mo nào đã nhảy múa quanh nàng, quất roi dâu đuổi con ma sốt rét và

ỉa ra máu ra khỏi cơ thể cô bé…? Nhƣng màn sƣơng mù nặng cùng bão giông nhằng nhịt lại kéo tới phủ lấp, che kín đến nỗi Thùy Dƣơng từ từ tiến lại, đứng

sát trƣớc mặt mà nàng vẫn không hay.

– Hỡi ngƣời đàn bà đáng thƣơng! – Thùy Dƣơng đặt một bàn tay lên trán

ngƣời cung nữ – hãy nghe ta! Đây là lời truyền đi từ Vũ trụ của Đấng Chí Tôn, Chí Cao, Chí Linh… đến cho ngƣơi! Hãy làm theo ta! Ngồi xuống!

Cung nữ đứng yên không nhúc nhích.

– Ngồi xuống!

Nàng khẽ rùng ngƣời, vai nghiêng lệch, đầu lắc lƣ.

– Ngồi xuống!

Đôi chân nàng rung rung, cố trụ cho toàn thân khỏi sụt xuống.

– Ngồi xuống!

Đầu gối nàng co lại, kéo gập hai ống chân; tấm thân cứng ngắc trở nên mềm

mại, tà tà hạ… Nàng bó gối theo kiểu dân tộc ngồi trên bờ ruộng, nhà sàn.

– Hãy ngồi lại nhƣ ta đây, theo kiểu dáng Phật ngự trên toà sen…

Nàng loay hoay, chật vật lắm mới tạo đƣợc kiểu ngồi vắt chéo, xếp bằng gần

giống nhƣ Thùy Dƣơng.

– Chắp hai tay lại!

Nàng nắm mỗi tay thành một quả đấm từ từ giơ lên.

– Chắp tay lại!

Lóng ngóng, xoay trở một lúc nàng mới xoè đƣợc bàn tay, rồi úp hai lòng bàn tay vào nhau; mấy ngón vẫn khum khum còng queo nhƣ càng cua…

– Nhắm mắt lại!

Thùy Dƣơng đi quanh nàng chín vòng. Cung nữ lờ đờ, chao đảo nhƣ ngƣời say

sóng. Thùy Dƣơng nhìn cung nữ. Cái nhìn nhƣ phóng sâu, khoan xoáy… Ả chìa một cánh tay ra, mồm thở phù phù, răng rít. Vừa truyền khí vào ngƣời

cung nữ, ả vừa nói những lời mà thầy Bùi năm xƣa đã dạy cho đệ tử, mấy học

trò yêu của mình biết thụ khí cây, thụ khí Mặt Trăng trên núi Yên Tử… Giọng nói của Thùy Dƣơng nghe y chang, nỏ khác chi giọng Bình Định – Tây Sơn của

võ sƣ Bùi:

Page 26: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

26 Trần Thế Nhân

– Hãy mở rộng tất cả các cánh cửa của 6 giác quan ra! Mở ra! Mở ra! Hãy nạp

năng lƣợng Vũ trụ vào mình! Tự cứu lấy mình! Hãy cƣời đi! Cƣời đi!

Cung nữ nhăn nhó mặt một lúc nhƣ chống lại cơn đau thắt trong ngƣời rồi đột

nhiên nhoẻn một nụ cƣời rất dễ thƣơng.

– Hãy mở 7 luân xa ra! Mở hết! Mở hết! Nghị lực vô biên! Năng lƣợng vĩ đại! Chuyển động cơ mặt. Đƣa máu lên não! Khí dẫn toàn thân… Dẻo dang mềm

mại, khéo léo cực kỳ! Ta là Vũ trụ đây! Vũ trụ chính là ta! Du thủy hành vân.

Bám chặt lấy chân khí. Đừng sợ! Tôi đang trở về con ngƣời thật của mình! Cảm giác khoan khoái! Trí lực tràn đầy! Tiến lên! Chỉ có tiến công mới giành

đƣợc thắng lợi!

Hãy tự mình cấu xé đập vỡ cục đen đặc kết đọng trên đầu, trƣớc trán của

ngƣơi! Đó là nỗi buồn đau căm uất của ngƣơi trong quãng thời gian đày đọa Bên Ấy kết tụ lại. Nghiền nát đi! Nghiền nát đi!

Cung nữ nghiến răng, hai tay giơ lên trƣớc trán xoắn vặn, cào cấu. Đoạn nàng

quăng ném cái vật vô hình gì xuống rồi dùng chân chà đi chà lại. Cử chỉ của nàng rất chi là đàn bà trẻ con, thật đáng yêu!

Thùy Dƣơng vẫn rít răng, truyền khí:

– Tôi đang chuyển động mạnh lên đây! Tôi gia tăng sức mạnh lần thứ 5, thứ 6… Chù chù! Chíu chíu! Chuyển lên! Chuyển lên! Chuyển cả thể chất!

Chuyển cả tinh thần! Tôi gia tăng sức mạnh lần thứ 7! Chủ động tấn công tiêu

diệt ổ bệnh đi! Dũng mãnh lên! Tự mình cứu lấy mình! Tiến lên! Quyết định

vận mệnh mình! Giải toả cơ bắp! Giải toả tâm lý! Buồn đau ƣ? Thì khóc to lên! Nếu đã thấy vui trong lòng thì cƣời to lên! Chù chù! Chíu chíu! Thắng lợi

đang chờ đợi phía trƣớc kia!

Hãy nhận lấy năng lƣợng vĩ đại của Vũ trụ! Tiếp năng lƣợng Vũ trụ qua đƣờng lỗ miệng, lỗ mũi! Tôi đang tấn công nghiền nát ổ bệnh, nỗi đau đây! Tôi đang

trở về con ngƣời thật của tôi đây! Tôi tìm thấy tôi rồi!

Hãy dùng cái chìa khoá Tự Do mở toang hai cánh cửa Ngục tù ở hai bên thái dƣơng của ngƣơi đi! Mở đi! Mở đi!

Thùy Dƣơng thét lên. Ngƣời cung nữ gần nhƣ bấn loạn. Dần dần trở lại trạng

thái cân bằng, nàng tà tà giơ hai tay lên, xoay vặn, làm cái động tác y nhƣ ai đó

cầm chìa khoá mở khoá xe đạp hay khoá cổ xe honda. Mở xong phía thái dƣơng bên trái nàng đƣa tay sang mở phía thái dƣơng bên phải; động tác sau

cùng y hệt mở khoá một cánh cửa vậy.

Page 27: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 27

Thùy Dƣơng cúi mình xuống nhƣ để nhìn cho rõ hơn ngƣời cung nữ. Ả nói với

một giọng dịu dàng nhỏ nhẹ, cái âm tố chọ chẹ xứ Nghệ nặng ngƣời khổ tai

lâu nay bây giờ không hiểu sao lại mềm mại điệu nghệ kiểu cố đô Huế, vừa dễ lọt tai lại vừa ngọt ngào:

– Nào nghe đây… Ngƣơi đang cầm trên tay ba mũi tên Thời gian: mũi tên

nhiệt động học, mũi tên tâm lý học, mũi tên Vũ trụ học. Có đúng không?

Ngƣời cung nữ gật đầu, xoè bàn tay ra rồi bóp giữ lại.

Ngƣơi hãy bắn đi mũi tên tâm lý, có thể bắn thêm mũi tên nhiệt động nữa. Hai

mũi tên cùng nhắm về một hƣớng, cùng lao về Quá Khứ! Nào bắn đi! Phóng

đi! Lao vút đi!

Thùy Dƣơng vỗ tay ba lần.

Ngƣời cung nữ quỳ hai đầu gối xuống, một tay nắm đƣa ra phía trƣớc, tay kia

kéo lui lại phía sau, tựa hồ nhƣ kéo căng sợi dây cung… vẻ mặt thẳng căng, môi mím…

Phựt! Phựt! Nàng làm hai lần nhƣ thế.

Hai mũi tên bắn đi đã cùng lao về một hƣớng – Thùy Dƣơng nói – Quá khứ sẽ

hiện ra!

Ngƣời cung nữ mệt nhoài, đầu lắc lƣ, ngồi không vững nữa.

Thùy Dƣơng lại gần đặt bàn tay lên trán nàng.

– Bây giờ ngƣơi hãy thu khí công về đan điền! Từ từ! Chậm rãi! Vững chắc! Hãy nằm xuống đi! Thƣ giãn toàn thân! Đi vào giấc ngủ! Tôi đang ngủ đây!

Tôi đang ngủ đây! Ngủ đi! Ngủ đi! Sâu hơn! Sâu hơn! Dài hơn! Dài hơn!

Cung nữ lim dim mắt nhìn Thùy Dƣơng. Vẻ mặt ngây thơ nhƣ em bé đang nhìn ai từ trong nôi… Nằm duỗi chân tay, khoan khoái ngáp dài, mí mắt từ từ

nhắm lại… Nàng ngủ ngay trƣớc mặt hai chị em.

Thùy Dƣơng bắt đầu đếm từ số 1 đến số 99 thì ngƣời cung nữ mở mắt ra.

Nàng ngồi dậy ngơ ngác nhìn hai ngƣời đàn bà đang hiện diện trƣớc mắt mình, rụt rè bẽn lẽn hỏi:

– Các chị ngƣời ở đâu ta? Có phải dân Việt Nam mình không?

Lệ Uyên khẽ gật đầu, mỉm cƣời. Thùy Dƣơng vẫn lầm bầm đếm những con số 7. Cung nữ rùng ngƣời một cái, cƣời theo, mắt sáng lên:

Page 28: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

28 Trần Thế Nhân

– Tôi nhớ lại rồi các chị ạ. Nhƣ vậy là từ ngày ở Bên Ấy sang tới Bên Này, tôi

đã đi suốt 180 năm tính theo thời gian tâm lý, vị chi là 43 năm tính theo thời

gian 3 chiều. Cảm ơn các chị nhiều. Bây giờ xin kể cho hai chị nghe chuyện đời của tôi…

– Khoan đã – Lệ Uyên nói – Trƣớc khi kể nàng có thể cho bọn này biết quý

danh của mình không?

Ngƣời cung nữ lắc đầu:

– Bây giờ tôi đã nhớ ra tên tôi, tên con trai tôi… nhƣng tôi không thể nói cho

các ngƣời biết đƣợc đâu; bởi vì nếu tôi nói ra, e chừng cơ sự lại hỏng hết cả.

Tôi còn phải ở Bên Này đi tìm con trai tôi, hoặc chờ đợi tới lúc gặp đƣợc nó…

Thùy Dƣơng nói nghe nhƣ gắt:

– Lệ Uyên! Chị thật buồn cƣời. Đúng là bà giáo. Có phải ai cũng là học trò của

chị cả đâu mà bắt ngƣời ta xƣng tên.

Ngƣời cung nữ cúi đầu trƣớc Thùy Dƣơng, chắp hai tay lại:

– Ngàn lần cảm ơn chị, ngƣời đã giúp em hồi sinh… Từ Địa ngục Bên Ấy

sang tới Bên Này không phải tất cả ai cũng đều là ác quỷ tinh ma cả; hoá ra

vẫn có những ngƣời tốt, những ngƣời còn là Con Ngƣời…

Thùy Dƣơng chắp tay lại, cúi đầu:

– Xin nàng đừng nói thế. Đó là nghĩa vụ và bổn phận của mỗi một con ngƣời

chúng ta. Bây giờ nàng hãy kể lại câu chuyện của đời mình. Nào, bắt đầu…

Page 29: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 29

Chƣơng 3 CHUYỆN KỂ CỦA NGƢỜI ĐÀN BÀ KHÔNG TÊN BỞI VÌ NGƢỜI TA GIẤU KÍN TÊN TUỔI CỦA NÀNG

Cũng chỉ vì cái đêm trăng ấy….

Ngƣời cung nữ kể.

Buổi chiều tháng Tám, năm con Rồng Nhâm… sau Trung Thu, trời đổ mƣa.

Cơn mƣa rừng xối xả làm những con suối ngập nƣớc, không thể lội qua đƣợc;

lại thêm đƣờng rừng đất nhão dính bám vào xe làm đoàn ngự giá không sao đi tiếp… Lệnh trên truyền xuống cho chúng tôi biết đêm nay Hoàng Thƣợng và

đoàn ngự giá sẽ ở lại rừng, sáng mai mới trở về Kinh Đô.

Trong ngƣời tôi tự nhiên nôn nao một cảm giác lạ lùng. Có điều gì đây mách bảo rằng đời mình sắp có một biến động chẳng rõ là buồn hay vui, lành hay dữ? Tôi

phấp phỏng sợ lo….

Năm con Rồng này tính theo tuổi bà mụ tôi đã 19. Nếu không vì ông dƣợng tôi, quan Tham Tri Bộ Hình, tiến cử cháu mình vào cung, có khi tôi là vợ của

chàng rồi, đã bế ẵm trong tay đứa con yêu quý… Chắc chàng oán giận tôi lắm,

cho rằng tôi đã khinh thị chàng, một chân tú tài, thầy đồ dạy con trẻ trƣờng làng đi đánh đổi mối tình thôn dã để đƣợc bén hơi Rồng, ôm ấp mộng Quân

Vƣơng! Ôi chao! Thật oan cho thiếp quá chàng ơi! Giả sử chàng không phải là

chân tú tài đi nữa, mà chỉ là anh nông phu cày ruộng thôi, thì thiếp đây cũng sẽ vui vẻ bế con, đƣa cơm ra cho chàng tận ngoài ruộng… Bên thảm lúa vàng,

chàng nghỉ buổi gặt trƣa, ngồi rít điếu cày nhả khói thuốc lào thả hồn say lên

mây trong khi con chúng ta bi bô chuyện, thiếp cũng đã thấy đời sƣớng vui mãn

nguyện lắm rồi. Còn hơn là sống cái kiếp đi đày, ở tù nơi cung cấm thâm nghiêm đã ba năm rồi mà đến cái vảy Rồng cũng chƣa đƣợc chạm tới, một

thoáng hơi Rồng cũng chƣa đƣợc hít hà. Nói thầm than vụng, gởi gió nhờ mây

đƣa về chốn làng quê yêu dấu, chỉ nơm nớp sợ đao phủ cung đình, sấm sét Thiên Tử cao xanh biết mà giáng bổ xuống đầu đen vô tội khốn khổ này!

Đêm…

Sau khi cắt cơn mƣa, cả rừng cây tắm gội xong, ngƣời cùng vạn vật nhƣ hồi

tỉnh lại trong hơi khí mát tƣơi của đất trời. Đã lâu lắm tôi mới đƣợc đứng

ngâm chân dƣới một con suối nhƣ thế này. Đang cúi mình, lấy tay vốc nƣớc

rửa mặt, bắt chợt ngẩng đầu lên tôi nhìn thấy Trăng. Hay Trăng nhìn thấy tôi? Vầng trăng mƣời sáu tròn to đến nỗi tôi phân vân đời mình rồi có tròn to nhƣ vậy

Page 30: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

30 Trần Thế Nhân

không hay là… Và kìa, Trăng lỏn lẻn đậu trên cành thông. Trăng nhìn tôi nhƣ

mỉm một nụ cƣời ý nhị, thầm kín.

Tôi đứng sững. Bỗng nhiên có tiếng gọi tên tôi đằng sau lƣng. Quay lại nhìn, tôi nhận ra quan Thƣợng Thƣ Bộ Hình. Ngài bảo, tối nay vào giờ Tuất, sau lúc

bãi triều, tôi đƣợc lên gặp Hoàng Thƣợng. Thoạt nghe, tôi giật mình hoảng sợ

hơn là vui mừng. Trái tim trong lồng ngực đập mạnh đến nỗi choáng ngƣời, tôi phải trấn tĩnh để lấy lại cân bằng. Thật thà ngây dại, tôi run run thƣa với quan

Thƣợng Thƣ rằng tôi phải chuẩn bị những gì đây, sẽ phải hoàn thành nhiệm vụ

gì, xin Ngài chỉ giáo cho. Ngài nheo mắt cƣời tinh quái và đểu giả (không hiểu sao tôi cảm nhận nhƣ vậy, mình đâu dám xúc phạm tới ai?) bảo rằng, khỏi phải

chuẩn bị cái gì hết, ngoài tấm thân ngọc ngà trinh trắng sẵn có, Thị cứ một

mình tay không theo ta tới nơi Thiên Tử ngự. Lẽ ra nếu ở dƣới Kinh Đô, bọn

thị vệ sẽ đặt tôi lên kiệu mà khiêng đi; nhƣng hoàn cảnh đặc biệt nơi rừng xanh sơn cƣớc này, tôi phải tự mình đi bộ tới cùng với sự kèm cặp của Ngài… Ngài

dặn thêm, nếu không tắm đƣợc nƣớc thơm nấu bằng hoa và thảo dƣợc quý, thì

thôi tạm thời về tắm nƣớc suối trong. Và rất nên, cầm trên tay hoặc cài vào mái tóc một nhành hoa huệ, thứ hoa Hoàng Thƣợng rất mê, nhƣng thôi ở chốn

rừng núi này khó tìm ra hoa huệ, ta thay vào một đoá phong lan, thứ lan rừng

mà Hoàng Thƣợng cũng đặc biệt yêu thích. Quan Thái Giám sẽ sai ngƣời đƣa tới cho tôi nhành phong lan đó.

Dặn dò xong, Ngài bụm miệng cƣời. Cƣời trong mồm, găm lại không thành

tiếng. Dáng ngƣời bè bè gân guốc của Ngài đã khuất sau lùm cây rồi mà ánh mắt dâm đểu còn móc cắm vào thân thể tôi. Tôi vừa căm ghét vừa ghê sợ Ngài.

Trăng càng lên cao càng sáng. Trăng sáng đến nỗi tôi đâm ra hoảng sợ. Bƣớc

chân mình vừa giẫm phải một cành cây khô nằm ngáng lối đi; tiếng gẫy của thân gỗ mục đè lên lá khô nhƣ tiếng tim mình nát vỡ dƣới chân?

Ngôi nhà Hoàng Thƣợng nghỉ tạm qua đêm là nhà quan Tri Châu ở vùng này.

Lính thị vệ canh gác từ trong ra đến ngoài hết sức cẩn mật.

Thiên Tử đang ngồi bên một cái bàn đặt cạnh cửa sổ. Ly rƣợu Mao Đài vừa

cạn, Ngƣời tự mình nghiêng bình rót thêm một ly nữa. Ngọn nến rƣng rƣng

cháy. Cây bút lông gác trên nghiên mực cạnh bên tờ giấy hoa tiên có mấy dòng thơ chữ Hán đang thảo dở chừng. Hoàng Thƣợng mặc bộ quần áo dân dã

may bằng lụa tơ tằm của Thiên Triều.

Thấy tôi vào, Ngƣời vẫn tự nhiên điếu thuốc Cẩm Lệ ngậm mồm, nhả khói rồi quay đầu lại nhìn, thần trí lâng lâng…

Năm ấy Ngƣời đã 66 xuân. Mới trông ai cũng tƣởng Ngƣời còn già hơn số tuổi bởi tóc râu đã bạc trắng hết. Tuy nhiên, để bù lại, đôi mắt sáng vầng trán cao

Page 31: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 31

của Ngƣời không chỉ gây ấn tƣợng kính phục mà còn có sức lôi cuốn hấp dẫn

đặc biệt; lại thêm điệu cƣời sảng khoái hiền hoà nhƣ xoá sạch đi dấu vết già

nua và sự ngăn cách lứa tuổi con ngƣời. Ai cũng mơ có đƣợc một ngƣời cha nhƣ thế và sẵn sàng đi theo, hiến dâng tất cả vì Ngƣời, cho dân, cho nƣớc…

Thấy tôi cúi đầu, quỳ xuống lạy, Thiên Tử nói khẽ: Miễn lễ!

Đoạn Ngƣời giơ tay chỉ một cái ghế bảo tôi ngồi. Khoảng cách giữa tôi và

Hoàng Thƣợng áng chừng vừa bằng cái đòn gánh.

Tôi ƣớc lƣợng thế bởi từ thời thơ ấu, tôi thƣờng nghe mẹ tôi tính đo theo kiểu cách nhƣ vậy.

Hoàng Thƣợng hỏi thăm sức khoẻ tôi, quan tâm tỉ mỉ đến cả bữa ăn thƣờng

ngày của bọn cung nữ. Tăng khẩu phần rau củ quả lên là đúng, Ngƣời nói, nhƣng cắt giảm bớt cá thịt đi, lại còn nhét đầy thêm những rau muống, cà pháo, mắm

ruốc, chao ớt là không nên. Ăn mặn quá hại gan thận, lại ảnh hƣởng tới tim

mạch, nƣớc da… Ngƣời sẽ nhắc bên Bộ Lại, kiểm tra chặt chẽ công việc của các quan thái giám, ngự y về việc này.

Sáu năm trƣớc, Triều đình đã xử chém ngang lƣng một viên quan tổng kho.

Dẫu y là công thần, đã từng theo gót chân Thiên Tử xông pha nơi lam chƣớng ngàn trùng, vào ra trong máu lửa, tên khuyển nho đầy tớ hoang dâm vô độ này

đã biển thủ công quỹ và xài phí tài sản vƣơng quốc để cung phụng tiệc cƣới xa

hoa của hắn…. Xử chém tên quan này không chỉ treo một tấm gƣơng nhật

nguyệt trên xứ sở Lƣ Giang mà còn vằng vặc trên toàn cõi An Nam vƣơng quốc để tất cả quan dân, những ai đang có ý đồ nuôi sâu bọ tham nhũng trong

máu mình hãy trông đó mà tu sửa nhân cách.

Ngƣời hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ tôi. Nghe nói song thân tôi không đƣợc

khoẻ, nhà neo đơn vắng bóng, từ khi con gái lên Triều đình để phụng sự quốc

gia, hoàn cảnh lại còn khó khăn hơn; Ngƣời xúc động bảo, Triều đình sẽ sắc

phong cho ông bà tấm bằng tƣởng thƣởng lòng trung với dân, hiếu với nƣớc và công lao đóng góp; còn hơn thế, quan tri huyện bản địa sẽ thừa lệnh, ƣu tiên

cấp đất ruộng cho gia đình tôi một mẫu thâm canh hai vụ có xác nhận sổ vàng,

còn riêng phần tôi sẽ đƣợc cấp hai mẫu, dự phòng trƣờng hợp tuổi già, lúc không còn phụng sự ở Triều đình đƣợc nữa.

Tôi cúi đầu, quỳ xuống lạy tạ ơn mƣa móc của Thiên Tử.

Ngƣời khẽ nhắc lại một lần nữa “miễn lễ” và cho phép tôi đƣợc tự nhiên hơn.

Tôi rƣng rƣng nhìn Hoàng Thƣợng, lệ ứ đầy tròng mắt. Nhiều lần nghe thiên

hạ nói, có ngƣời chỉ mới đƣợc tin mình sắp đi gặp Thiên Tử, vậy thôi mà đã

Page 32: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

32 Trần Thế Nhân

nghẹn ngào khóc nấc lên rồi, tôi hơi lấy làm lạ. Bây giờ thì đúng là tôi muốn

khóc thật.

Tôi rụt rè hỏi thăm sức khoẻ của Hoàng Thƣợng. Mắt Rồng sáng lên. Ngƣời cƣời sảng khoái, hai tay giang rộng trƣớc mặt. “Tốt! Tốt! Vẫn nhƣ thanh niên,

còn đang trai…” Cái lối vui đùa, tự nhiên, suồng sã của Ngƣời làm tôi vui lây

bởi sự gần gũi hiếm thấy xƣa nay. Các bậc cha mẹ, ông bà làng quê tôi chẳng mấy ai có đƣợc dáng vẻ tự nhiên, giản dị nhƣ thế. Ngoài trời lúc bấy giờ hình

nhƣ trăng sáng lắm. Trăng sáng đến mức độ cả rừng cây đang thiếp ngủ bỗng

bừng thức dậy. Cơn gió mát nổi lên, xào xạc lay động cành cây ngọn lá, lộp bộp rơi xuống những giọt mƣa còn đọng lúc ban chiều… Một con dế cất tiếng gáy tỉ

tê. Một đôi rắn bò đi nghe nhƣ tiếng giải lụa kéo trên lá khô. Có con chim gì

bay qua gần cửa sổ nhƣ chiếc lá đen chập choạng rồi vụt biến. Đàn nai rừng

đạp giẫm trên lá vàng khô, ngơ ngác theo nhau xuống suối tìm nƣớc. Chúng đang nhảy một điệu vũ động tình, giao phối mà chỉ giác quan của ngƣời vùng

sơn cƣớc mới cảm nhận ra đƣợc. Nhƣng rồi tất cả những âm thanh rừng đêm

ấy đột nhiên lặng dần, lặng dần. Chỉ còn tiếng suối tuôn róc rách, nỉ non…

Ngọn nến đã nhỏ đến giọt lệ cuối cùng. Tôi định thắp ngọn nến khác. Hoàng

Thƣợng nhƣ chợt tỉnh nói: “Thôi mà, khỏi cần thắp nến. Trăng sáng đến thế mà

nãy giờ không tắt nến đi, đúng là có lỗi với chị Hằng”. Ngƣời cƣời. Tiếng cƣời nghe trầm ấm ung dung.

Quả thật, lúc bấy giờ trăng sáng lắm. Trăng sáng đến nỗi tôi có cảm giác trong

đời mình chƣa thấy đêm nào trăng sáng nhƣ thế. Đầu óc tôi trong suốt. Toàn thân rạo rực. Ngực nặng căng. Đầu vú kích thích. Khó thở…

Hoàng Thƣợng cất giọng trìu mến hỏi tôi: Khanh có nghe tiếng suối chảy

không? Tôi dạ, thƣa rằng có. Ngƣời chậm rãi nói nhƣ để cho mình mình nghe. “Tiếng suối róc rách nhƣ tiếng trẻ thơ đùa, nỉ non nhƣ lời thiếu phụ than. Chị

Hằng suốt đêm không ngủ đắm say nhìn thế giới kỳ diệu xinh tƣơi. Riêng Trẫm

không ngủ đƣợc…”. Ngƣời đƣa mắt nhìn tôi dò ý. Tôi khép nép chắp hai tay lại đặt trên đầu gối, tránh nhìn ánh mắt của Đấng Tối Cao, dù biết rằng cái

nhìn đó đang ngự trị, chiếm lĩnh cả thể xác tâm hồn tôi. Kính lạy Thiên Tử!

Xin Ngƣời xót thƣơng con, thân phận nhỏ nhoi, hèn mọn…

Thiên Tử vẫn miên man dòng suy tƣ:

– Lòng Trẫm nặng một nỗi thƣơng đau. Khanh có biết chăng? Trẫm thƣơng

những con dân cơm chƣa đủ no, áo chƣa đủ ấm, bầy trẻ lớn lên chƣa đƣợc cắp sách tới trƣờng… Đất nƣớc ngàn năm loạn lạc chinh chiến; may Trời cho còn lại

đƣợc ít ngày thái bình yên vui… Vậy mà nay ngoại bang quay trở lại xâm

chiếm, cắt chia. Chiến tranh lại tiếp nối chiến tranh. Nghe tiếng suối khóc,

Page 33: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 33

lắng tiếng gió than, lòng Trẫm càng não nề xót xa. Trăng càng sáng, nƣớc non

xinh đẹp càng tang thƣơng, lòng Trẫm càng nặng nỗi lo cho dân, chua xót

niềm đau cho xứ sở. Trẫm làm sao nhắm mắt ngủ yên?

Tôi nhìn Hoàng Thƣợng lòng rƣng rƣng, cảm kích. Đúng nhƣ lời các quan

trong Đại Nội nói: Bốn ngàn năm từ thuở Hùng Vƣơng dựng nƣớc đến nay mới

có đƣợc một vị vua hiền, Đấng Minh Quân thƣơng dân yêu nƣớc đến nhƣ vậy.

Đã bƣớc sang giờ Hợi. Mình Rồng xem đã mệt mỏi, ủ ê… Hoàng Thƣợng bảo

tôi trải nệm, treo màn để Ngƣời đi nằm.

Làm xong những việc Ngƣời sai bảo, tôi khép nép đứng, chắp tay cúi đầu xin

phép Thiên Tử đƣợc cáo lui. Ngƣời nhìn tôi có chiều đắn đo. Bỗng nhiên, mắt

Rồng sáng lên. Ngƣời bƣớc tới bên cầm tay tôi ân cần nói: “Khanh đừng về. Ở

lại với Trẫm cho trọn đêm nay…”

Thoạt nghe, tôi hoảng sợ. Nhƣng ánh mắt vui tƣơi, nụ cƣời đùa nghịch của

Đấng Con Trời đã cuốn hút tôi, làm nhịp tim tôi êm đằm lại, dịu đi.

“Dẫu có là Thiên Tử đi nữa thì cũng chỉ là con ngƣời. Ta là con Dân, từ Dân

mà ra…”. Ngƣời bƣớc tới đứng sát trƣớc tôi. “Nhìn xem nào… cũng tai, mắt,

tay, chân… nhƣ mọi con ngƣời, có khác gì đâu…” Ngƣời dùng ngón tay trỏ chỉ vào mình bông đùa. “Không thừa ra cái nào, nỏ thiếu mất cái chi. Đúng

không? Y nhƣ mọi anh đàn ông trên thế gian! Đêm nay Trẫm tạm bỏ ngai vàng

với mũ triều thiên… Ngoài trời kia có trăng, trong nhà này có ái khanh. Ta với

ái khanh nằm bên nhau, cùng say giấc mộng vàng…”

Tôi vẫn chƣa hết sợ. Còn nhớ lời cố ngoại tôi dặn con cháu: “Trong phúc đà có

họa, trong họa có khi lại mang phúc…” Tôi chƣa biết nên ứng xử nhƣ thế nào, Thiên Tử đã áp sát ngƣời vào ngực, vào bụng tôi… Ngƣời choàng một tay ra

sau lƣng tôi kéo tôi lại phía giƣờng….

“Cởi ra! Cởi hết ra! Nằm xuống…”

Ngƣời vừa nói vừa thở… Nhƣ đứa trẻ, tôi nhắm mắt lại mặc kệ cho ngƣời lớn

muốn làm gì thì làm.

“Cởi ra! Cởi ra… Can chi mô mà xấu hổ”… Mà tôi xấu hổ thật. Tự mình cởi

tháo ra trƣớc mặt Đấng Con Trời, lồ lộ thân thể giống cái đàn bà còn hơn là xấu

hổ, là vô lễ, bất kính nữa. Tôi nhắm mắt. Ngƣời tự tay sờ soạng cởi hàng khuy

nút, tháo cái áo ra khỏi vai lƣng tôi… Ngƣời dừng lại. Khẽ búng nhẹ vào hai đầu vú làm tôi giật nẩy, ƣỡn ngƣời lên. Ngƣời cƣời khẽ. Rồi bập môi, ngoạm

vào hai trái dừa tiên. Ngƣời vừa mút vừa bú. Tôi ƣỡn quẫy ngƣời, vẫn còn sợ

hơn là thích, vội mở mắt ra. Mái đầu bạc, chòm râu trắng đang trăn qua trở lại trên ngực, trên bụng tôi. Hai tay tôi vẫn nắm giữ đai lƣng quần.

Page 34: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

34 Trần Thế Nhân

“Cởi ra! Cởi ra! Còn tiếc chi nữa mà chẳng mở ra. Nào…”

Tôi vẫn giữ chặt. Ngƣời nhìn tôi, ánh mắt không tỏ ra tức giận mà còn có vẻ

thích thú. Tôi thấy yên tâm hơn. Đột nhiên, Ngƣời gục đầu xuống rồi hậc lên một tiếng. Tôi hoảng sợ, tƣởng Ngƣời khóc nấc. Lầm! Hàm răng Ngƣời đã

ngoạm lấy giải rút quần tôi, đầu nghiêng qua nghiêng lại cắn xé. Tôi vội buông

tay, mặc Ngƣời tuỳ ý. Thật ra tôi cũng chẳng biết làm gì hơn, bởi theo thói quen ông bà cha mẹ dặn, giữa thời buổi loạn ly, giặc và quỷ đầy đƣờng, dây rút

quần con gái còn trinh là phải luôn bền chắc và buộc chặt…

Ngƣời dừng lại thở. Ánh mắt dịu sáng, suy tƣ. Có lẽ phải mở một đợt tấn công mới? Quyết đánh và quyết thắng! Y nhƣ rằng lần này quyết liệt hơn, vũ bão

hơn. Mái đầu bạc, chòm râu trắng lại vục xuống, răng nghiến rứt… Đai lƣng

hình nhƣ đang nhão ra, nát thành sợi. Phựt! Tôi nghe rõ tiếng dây quần đứt tung kèm theo tiếng xé toạc một đoạn nửa gang tay cái váy thổ cẩm dệt, ngay

phía dƣới rốn trên bầu bụng… Ngƣời khẽ xuýt xoa. Tôi sợ Ngƣời long gẫy

răng và nổi cơn thịnh nộ. Nhƣng kìa, Ngƣời cƣời… Thắng lợi cuối cùng đã về

ta! Có thế chứ!. Phải tiến công, tiến công. Dù có dừng lại rồi cũng để tấn công, tấn công!

Bây giờ thì món ăn ngon nhất của trần gian không thể nào cất kín; cái quý nhất của giống cái, cái lạ nhất của đàn bà, là Thế giới, là Vũ trụ của tôi đang bày ra

trƣớc mặt Thiên Tử. Ngƣời nhẹ nhàng kéo cái váy thổ cẩm của tôi, lôi từ từ ra

khỏi hai ống chân ngà ngọc…

Ngƣời dừng lại ngắm… Nụ cƣời toả sáng cả gƣơng mặt Rồng. Bây giờ thì tôi

chờ đợi và hồi hộp. Hồi hộp đến tim muốn ngừng đập. Tôi mỉm cƣời, nhắm

mắt lại… Bỗng nhiên một cảm giác nhồn nhột khắp ngƣời khiến tôi phải mở

mắt ra. Thiên Tử đã trần truồng thành một con Rồng ôm quấn tấm thân trinh trắng của tôi. Ngƣời lè lƣỡi liếm hai đầu vú, khẽ nghịch cắn hơi đau một chút

rồi nhả ra, tụt đầu Rồng xuống, lè lƣỡi tới tấp liếm vào Trái Cấm. Trời! Ngƣời

liếm đi liếm lại rất lâu, rất trƣờng kỳ… Tôi không chịu nổi, hấc một tiếng rồi ƣỡn ngƣời lên. Ngƣời thích thú, cƣời khẽ.

Tôi lại nhắm mắt. Bây giờ thì, một con rắn dài từ Mình Rồng bò ra, tuồn sâu,

chui thẳng vào con ngƣời tôi. Đau quá! Tôi hét lên! Tƣởng chừng ngất đi. Ngƣời bật lên cƣời. Hí hí hí… Khẹc khẹc… Con rắn cứ làm theo kiểu của

Thiên Triều chín lần cạn, một lần sâu… Cơn đau dịu dần…

Ngai vàng, cung đình trùm lên đè xuống. Luỹ tre làng quê tơi tả, mái tranh thôn dã cuốn bay.

…Đêm ấy tôi đã làm cho Hoàng Thƣợng mãn nguyện. Chính tôi cũng thấy mình hạnh phúc. Có lẽ Hoàng Thƣợng cũng cảm nhận đƣợc cái điều vỡ lòng

Page 35: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 35

trên trần gian: khi ân ái với ngƣời đàn bà thì bất luận kẻ đó là ai, có là Thiên

Tử đi nữa cũng phải quyết tâm làm đƣợc cái việc, hoàn thành cái nhiệm vụ mà

một anh đàn ông phải thực hiện. Còn nếu nhƣ không làm đƣợc thì túp lều tranh và cái cuốc cùn còn sáng giá hơn cung điện ngai vàng; chàng ngƣ phủ đực rựa

lại nghễu nghện đứng trên vai đấng cao cả Hoàng Đế!

Hoàng Thƣợng đã căn bản làm đƣợc công việc đó. Dẫu chƣa hoàn thành vƣợt mức, Ngƣời cũng đã giành đƣợc thắng lợi nhất định, không đến nỗi hổ thẹn

với lời tự thú, tự khoe rằng mình vẫn còn xuân và đƣơng trai…

Tỉnh dậy. Ngoài trời đầy trăng. Quanh mình tôi – một vũng trăng.

Cung nữ dừng lại. Ngƣời nàng bợt bạt, lởn vởn lớp màn che phủ mù sƣơng. Hai chị em nhìn chỉ còn thấy tròng mắt lờ đờ nửa nhắm nửa mở và những giọt

lệ trào rơi xuống. Máu! Máu...! Toàn là máu.

Thùy Dƣơng nói:

– Nàng mệt lắm phải không? Nghỉ một lát đã…

Cung nữ gục đầu, tựa cằm trên gối, hai vai rung giật… Nàng khóc không thành tiếng.

Lệ Uyên nói:

– Bạn thƣơng yêu ơi! Bọn này chỉ mới mƣờng tƣợng ra cái đầu ngôi Sao Chổi của câu chuyện, còn cái đuôi dài hàng triệu cây số nữa, chắc vậy. Xin nàng

nghỉ lấy sức rồi kể tiếp… Có ngƣời đồng cảm với mình thì một biển khổ đau

cũng có thể nghiêng đi, san bớt; dù chỉ cạn vơi một ly đời cay đắng vẫn dịu

nhẹ cho ta nỗi khổ đau trong lòng. Thế rồi sau cái đêm hôm ấy đêm gì, Đấng Minh Quân của nàng, Đấng Chí Tôn của muôn dân có còn đoái hoài gì tới

mảnh trăng giữa rừng không?

Ngƣời cung nữ ngẩng đầu, chớp chớp mắt. Hàng mi cong còn ƣớt lệ khác nào bờ cỏ đọng sƣơng mai trong nắng xuân. Vẻ đẹp dịu hiền ngây thơ không chút

làm điệu khiến ngƣời cùng giới cũng phải động lòng thƣơng yêu.

Nàng ngập ngừng nói:

– Có nên kể tiếp nữa không hay là thôi…?

Hai chị em ngồi yên lặng. Nài ép ngƣời đàn bà này kể tiếp khác nào nghiền nát thêm trái tim đã tan vỡ… Nhƣng nàng đã mỉm cƣời lƣợng thứ trƣớc cõi lòng

bè bạn, chị em… Lại tiếp nối câu chuyện bằng giọng nói của đàn bà phƣơng

Bắc, dẫu hơi xƣa cũ nhƣng rất dễ nghe…

Page 36: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

36 Trần Thế Nhân

Chƣơng 4 CHUYỆN SAU CÁI ĐÊM HÔM ẤY ĐÊM GÌ…

Bây giờ xin ngắn gọn lại thôi, bởi có kéo dài ra mấy đi nữa cũng không hết đƣợc

chuyện; hơn thế đau cái lòng này lắm…

Tôi biết mình có thai… từ ngay cái đêm hôm ấy. Đứa con của Hoàng Thƣợng chƣa biết là trai hay gái, đang là hạnh phúc thiêng liêng, lại là nỗi lo sợ phấp

phỏng… trong mình?

Trở về lại Khiêm Trang Viện thâm nghiêm tôi mang bầu tâm sự u uất, nỗi nhớ

mong Hoàng Thƣợng. Hai tháng trời trôi qua, Đấng Minh Quân dẫu ngự rất gần đây mà sao vẫn vắng bóng, bặt tin? Đã hai lần trăng mƣời sáu đi qua rọi

sáng thềm cung điện, tấm thân lẻ chiếc trong phòng khuê này thức ròng rã

cùng mảnh gƣơng lạnh giá ngoài trời, hố mắt sâu trào lệ năm canh…

Hoàng Thƣợng đâu rồi? Sao bỏ mặc mẹ con tôi chẳng đoái hoài? Mẹ con tôi

đang ở chín tầng cao Thiên Đƣờng hay chìm sâu dƣới Địa ngục?

Trăng mƣời sáu thứ ba đi qua. Tâm thần tôi bắt đầu hoảng loạn. Chắp hai tay

lại cầu xin, tôi nhắm mắt thả hồn bay theo khói trầm lan để may chăng, đến đƣợc nơi Ngƣời ngự, gợi thức lòng ai nhớ lại mảnh trăng tủi phận hờn duyên

ngày nào giữa rừng khuya.

Sau này, có nhà thơ bạc mệnh, cháu gọi bằng dì của một ngƣời cung nữ sống bên tôi, biết chuyện đã ghi lại cảnh ngộ thân phận của chúng tôi hồi ấy.

Xin đọc các bạn nghe nhé!

Trầm ngán nghê bay trong lãnh cung

Xuân thơm bối rối ngọt vô cùng

Chao ôi, Thánh Thượng vô tâm quá

Lòng thiếp buồn như một tấm nhung.

Ở đây châu báu vô tri cả

Pho sách quần phương lộ ý nhiều

Thử tìm hoa mọc trong cung cấm

Xem thử tên hoa có mỹ miều?

Ngoài kia Xuân đã chớm duyên chưa?

Trời ở trong đây chẳng có mùa

Không có niềm trăng và ý nhạc

Có người cung nữ ước mơ Vua.

Page 37: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 37

Bƣớc sang tháng thứ tƣ… Đột nhiên, quan Thƣợng Thƣ Bộ Hình và quan Thái

Giám đến thăm tôi. Nói đến thăm cũng chƣa đúng, thực ra họ đến để làm việc

với tôi. Sau khi lục vấn tra hỏi về mẹ con tôi; họ cho biết, để bảo toàn mạng sống cho cả hai, mẹ con tôi cần đƣợc đƣa ra gấp khỏi Khiêm Trang Viện!

Chuyện gì kỳ lạ vậy? Tôi mơ hồ rồi giật mình nghĩ ra những mƣu mô thâm

độc đang rập rình sắp đặt, những tai ƣơng thảm khốc sẽ ập xuống đầu mẹ con

tôi. Thảo nào ba tháng trôi qua, sự im lặng của Đấng Minh Quân đã vây bủa quanh tôi một bức màn ma quái. Có lẽ nào?

Tôi cúi đầu chấp nhận xin Triều đình gia ân, đƣợc phép về quê nhà sống cùng

cha mẹ để báo hiếu song thân những ngày cuối đời. nhƣng quan Thƣợng Thƣ Bộ Hình cƣời bảo, thai nhi đang ở trong bụng tôi là con của Thiên Tử đâu phải là

con của thƣờng dân! Triều đình đã có phƣơng án tối ƣu, hiện tại tạm đƣa mẹ con

đến một nơi… sau khi tôi sinh hạ, mẹ con sẽ đƣợc đón về Kinh chăm sóc và ƣu đãi đặc biệt. Hài nhi này, nếu là con trai mai sau lớn lên là niềm tự hào chung

của nòi giống Tiên Rồng; rất có thể, nó sẽ lên ngôi báu, trị vì đất nƣớc Lạc Hồng!

Sau một ngày dài ngồi xe song mã mui che bịt kín, đúng vào lúc nửa đêm mù mịt

tăm tối, gió mƣa tầm tã, họ đƣa tôi đến một ngôi nhà vùng rừng núi phía Tây.

Cửa nhà mở. Vợ chồng viên quan Tri Châu kinh ngạc lạ lùng khi thấy chúng

tôi bƣớc vào. Quan Thƣợng Thƣ Bộ Hình, quan Thái Giám không để cho sự lạ

lùng, bỡ ngỡ kéo dài. Họ báo cho chủ nhà biết rằng từ giờ phút này trở đi, ông bà chủ đƣợc vinh dự đón nhận ngƣời đàn bà này làm thƣợng khách tá túc ở

trong nhà. Triều đình và Bộ Hình giao nhiệm vụ cho các ngƣơi, quan Thƣợng

Thƣ nói, đƣợc hầu hạ chăm sóc ngƣời đàn bà này cho đến kỳ sinh nở mẹ tròn con vuông. Trong thời gian Thị còn ở đây, gia đình tuyệt mật giữ kín không cho

ai biết. Con cháu trong nhà mồm miệng mà bép xép, để lộ ra ngoài, gây chuyện

xôn xao bàn tán trong dân thì… liệu mà giữ lấy cái đầu! Quan giơ tay làm điệu,

ra hiệu xử chém! Hoàn thành nhiệm vụ của Thƣợng cấp giao cho, các ngƣơi sẽ đƣợc Triều đình ghi công và trọng thƣởng!

Cất giấu cây kim trong bị dù sao vẫn dễ làm hơn là tàng chứa một ngƣời đàn

bà lạ mang thai trong nhà mình. Vậy mà vợ chồng viên quan lại địa phƣơng và gia đình đã ra sức phấn đấu, hoàn thành xuất sắc công việc đó.

Ngay trong đêm ấy, tôi đƣợc đƣa vào riêng một buồng kín. Hai hôm sau, họ

chuyển tôi tới một căn lều nhỏ, giữa vƣờn đồi có rào ngăn, không lối ngƣời

qua lại. Khu vƣờn này nằm trong điền trang của họ nên ngoài vợ chồng và cô con gái lui tới, may chăng chỉ có những con ong lạc lối bay, tìm hoa hút mật

mới lọt vào đƣợc.

Page 38: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

38 Trần Thế Nhân

Các ân nhân của tôi đối xử với tôi rất tốt. Ngoài nhiệm vụ Triều đình giao mà

họ phải thi hành một cách cẩn mật chu toàn, là mối tình thân thƣơng ruột thịt

bà con họ dành cho tôi. Coi tôi nhƣ ngƣời gặp nạn, mặc dầu cố giấu tình cảm đó, tôi vẫn nhận ra đƣợc từ ánh mắt nụ cƣời của họ. Hình nhƣ họ linh cảm

rằng, ngƣời đàn bà hồng nhan bạc mệnh này, Trời chẳng để cho sống trên trần

thế đƣợc bao lâu nữa; Tử thần nay mai sẽ đến cắt hái nốt những ngày xuân

cuối cùng mang về Bên Ấy… họ không tiếc một cái gì hết để tôi đƣợc sống những ngày bình an vui vẻ!

Đúng 9 tháng có dƣ mấy ngày, đứa con của Hoàng Thƣợng ra đời! Nó là con

trai! Mọi ngƣời mừng vui đến rơi lệ. Vậy mà lòng tôi vẫn đầy lo sợ. Tại sao nó không là con gái? Không có ai đến làm chứng, nhận mặt cho nó cả? Ôi đứa con

Thiên Tử, con đầu lòng của tôi!…

Rồi mùa Thu tháng Tám nữa lại trôi qua. Tôi chờ.

Cuộc sống mẹ con tôi lâu ngày ở trong khuôn viên của quan Tri Châu cũng trở

nên bình dị tự nhiên. Chẳng còn ai nhìn chúng tôi bằng con mắt dò la nghi vấn

nữa. Một số ngƣời dân trong vùng cũng tới làm quen chơi thân với chúng tôi. Sữa tôi không nhiều, lắm hôm con trai tôi phải đi bú thêm, bú chui sữa bầu của

mấy cô mấy bà trong vùng. Trong con mắt họ con tôi cũng giống nhƣ mọi đứa trẻ

làng quê, chẳng có gì khác để phân biệt cả. Tôi cầu mong lâu dài đƣợc nhƣ vậy.

Có lúc tôi đã nghĩ đến chuyện hay là mình bế con tìm đƣờng về nhà cha mẹ đẻ.

Ôi hạnh phúc xiết bao! Nhƣng biết tìm đƣờng nào mà lần về, hỏi ra thì xa cả

ngàn dặm; mẹ con cô độc ngu dại làm sao vƣợt qua đƣợc cạm bẫy hiểm nghèo bủa giăng khắp nơi khắp chốn? Làm thế khác nào mình chống lại Triều đình,

phạm tội khi quân? Nghĩ vậy mà giật mình, ớn lạnh toàn thân. Thôi đành vậy,

cứ nƣơng nhờ núp bóng gia đình quan Tri Châu ở đây, chờ đợi tháng ngày.

Chắc ngƣời ta quên hẳn mẹ con tôi rồi. Càng hay. Trong cái họa vậy là đã có cái phúc chăng?

Một hôm tôi ra suối giặt giũ quần áo về thấy có cỗ xe song mã đỗ ngay trƣớc

sân. Tôi giật mình run sợ đến nỗi xuýt làm rớt đồ giặt xuống đất, chân run run chẳng dám bƣớc vào nhà.

Quan Thƣợng Thƣ Bộ Hình và quan Thái Giám vừa mới tới, theo sau còn có

hai ngƣời lính cƣỡi ngựa đi kèm. Họ ở lại một đêm, sáng mai sẽ hộ tống mẹ con

tôi về Kinh.

Page 39: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 39

Theo lời quan Thƣợng Thƣ nói với quan Tri Châu (ngƣời ta đâu thèm hạ cố tới

tôi), Hoàng Thƣợng đã biết tất cả, ghi nhớ mọi chuyện, rất quan tâm tới mẹ

con tôi; nhƣng vì việc dân việc nƣớc bộn bề, Thiên Triều luôn dòm ngó, ngoại bang gây chiến xâm lăng toàn cõi, Đấng Minh Quân chẳng còn phút giây nào

rảnh rang để có thể đến với mẹ con tôi… Nay Triều đình thừa lệnh Đức Vua,

sai các quan đến đón ái phi và hoàng tử về Kinh.

Sáng hôm sau mẹ con tôi từ giã gia đình quan Tri Châu. Trƣớc lúc lên đƣờng tôi nói với ông bà và cô con gái:

“Hai năm trời chung sống, bao kỷ niệm buồn vui, bây giờ đây biết lấy gì để

đền ơn cƣu mang nuôi dƣỡng của ông bà và gia đình ta? Chỉ còn dòng lệ tuôn ƣớt má thấm khăn chứng cho lòng thành này buổi biệt ly! Mai sau thể phách

dẫu mất đi, tinh anh này còn trở về theo ngọn gió xuân run rẩy trên cành đào kia,

lẫn vào khói hƣơng tan, nguyện cầu phù hộ cho gia đình ta luôn đƣợc an vui hạnh phúc. Vĩnh biệt!”

Cỗ xe và hai kỵ mã chạy tròn một ngày đƣờng. Chiều tối, họ đƣa mẹ con tôi

vào một huyện đƣờng. Đƣờng về Kinh Đô còn theo lối nào, cách bao nhiêu dặm

xa? Quan Tri Huyện sở tại ngƣời béo mập, tuổi ngoài bốn mƣơi, nói giọng miền Trung. Cúi rạp ngƣời trƣớc các thƣợng quan, tay xoa xoa khúm núm, y nhìn

tôi cƣời nụ vừa tinh quái vừa dâm dê. Thì cũng khác gì đâu các đấng bề trên

của y? Bè lũ quân tử mọt dân thời bây giờ nhung nhúc, ở đâu mà chẳng có. Gặp mặt chúng ai ngƣời ta cũng sợ, liệu hồn mau mau tìm cách tránh cho xa!

Bữa đại tiệc Tri Huyện sở tại chiêu đãi các thƣợng quan hình nhƣ đã đƣợc

chuẩn bị từ trƣớc. Chỉ riêng món óc khỉ là phải làm ngay trong tiệc rƣợu. Ngƣời ta trói một con khỉ vàng trƣớc công đƣờng, đập mấy chày vào đầu cho vỡ toác

ra rồi nạo khoét lấy óc đem chƣng cách thủy với mƣời vị thuốc bắc…

Quan Tri Huyện mời tôi dùng thử. Tôi rùng mình, từ chối. Tự nhiên linh cảm

biết đâu thân phận mình rồi cũng giống nhƣ con vật khốn khổ kia? Máu con khỉ cũng đƣợc lấy ra bát, hòa với rƣợu thuốc dâng lên các quan. Từ chối mọi

thứ cũng không tiện, tôi đành phải chấp nhận uống một thứ khác, ly sâm

nhung nhỏ họ dành riêng cho tôi… Mấy năm ở vùng sơn cƣớc, thỉnh thoảng tôi cũng uống rƣợu cần với gia đình quan Tri Châu. Uống rƣợu cần vào thấy

trong ngƣời êm ái dễ chịu…

Ngoài trời đêm lúc bấy giờ đang mƣa phùn, gió bấc.

Đến giờ đi ngủ, mẹ con tôi đƣợc đƣa vào một buồng riêng. Buồng này là phòng ngủ đặc biệt dành cho các thƣợng quan có dịp đi công tác trên đƣờng

ghé lại, bây giờ để quý phi và hoàng tử tạm qua đêm.

Page 40: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

40 Trần Thế Nhân

Sau một ngày đƣờng ngồi xe song mã, vừa đặt lƣng xuống giƣờng mẹ con tôi

đã lăn ra thiếp ngủ. Tôi mƣờng tƣợng hình nhƣ mình chƣa gài cửa, muốn ngồi

dậy bƣớc ra, gạt kéo ngang chốt lại… Nhƣng chín phần hồn, bảy phần xác tôi đã chìm vào Cõi Âm; chỉ còn biết ôm lấy con trong cánh tay mệt mỏi. Và cánh

tay cũng nhƣ cành cây nào đang dần dần rã xuống, lìa khỏi thân xác…

Tôi mơ thấy mình trở về nhà cha mẹ ở quê hƣơng.

Làng tôi sao bây giờ khác quá, không còn dấu vết gì của thôn dã nữa. Đƣờng sá ngập tràn ngựa xe qua lại, dân chúng ăn mặc nhƣ ở chốn kinh kỳ. Nhƣng

ngôi nhà thân yêu nơi tôi sinh ra vẫn y nguyên nhƣ vậy. Vẫn ba gian gỗ, mái lợp

cọ, ngoài hiên lát mấy hàng gạch và cái sân đất nện có rải sỏi ven lối đi…

Bế ẵm con suốt cả một ngày đƣờng, hai tay mỏi rời, tới cổng nhà, tôi thả con

xuống để nó chập chững đi vào, cốt làm sao cho ông bà ngoại phải ngỡ ngàng

ngạc nhiên.

Kìa! Từ trong nhà cha mẹ tôi đang lật đật vội vã bƣớc ra đón con cháu. Cha

mẹ ơi! Chúng con đã về đây! Con đúng là đứa con vô phúc bất hiếu với cha.

Tôi kêu to. Tôi reo lên. Mẹ cha tôi đây rồi! Hình dong mặt mũi vẫn nhƣ ngày

nào, có gì đổi thay đâu! Tôi nhìn song thân. Ông bà nhìn tôi. Những gƣơng mặt nhoà đi sau màn mƣa lệ. Tôi cúi xuống bảo con: “Con ơi! Chắp hai tay lại,

cúi chào lạy tạ ông bà ngoại đi! Con ngoan lắm. Đúng là con cháu của ông bà,

dòng họ ta. Hoàng tử của mẹ ơi, mai mốt con có ngồi trên ngai vàng trị vì muôn dân, thì cả giang sơn, gấm vóc, cung đình vàng son cũng không bằng ba

gian nhà gỗ mái lợp cọ này đâu! Ngồi ngự trên ngai vàng cũng không bằng

ngồi vào lòng ông bà ngoại, những ngƣời đã sinh ra mẹ con! Mẹ con mình sẵn sàng đánh đổi tất cả! Con có đồng ý nhƣ thế không?”

Con trai tôi gật đầu. “Mẹ ơi, thằng bé bập bẹ nói, con chẳng thích làm hoàng

tử đâu! Con chỉ muốn làm con của mẹ, cháu của ông bà. Làm hoàng tử chán

lắm. Không đƣợc bốc đất, đi chơi, bắt chuồn chuồn, ăn khoai luộc với cà”…

Nghe con nói mà mát mẻ gan ruột, nở nang mặt mày. “Mẹ ạ, con trai tôi lại tiếp

lời, con cũng chẳng thích làm Vua. Làm Vua ở nƣớc ta cực nhục lắm. Thiên

triều kè kè sát nách, nhất cử nhất động của mình đều không qua khỏi con mắt ác thú của họ. Mấy ngàn năm qua, bao giờ họ cũng xem mình nhƣ tôi tớ, là cái

đuôi ngoe nguẩy theo họ. Đến nhƣ Hoàng Thƣợng cha của con cũng vậy thôi.

Đã đƣợc họ tấn phong cho phép ngồi trên ngai vàng rồi, vẫn phải cúi đầu ăn

theo, nói theo, làm theo Thiên triều đến nỗi đầu óc u mê tăm tối đâm ra lừa ngƣời, dối dân! Mẹ coi, cứ mỗi lần đƣợc bệ kiến Hoàng Đế của họ là cha con

ôm ghì lấy, mồm ngoạm vào má, môi mút chùn chụt, hút hít hơi thở Rồng Bắc

Page 41: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 41

Phƣơng để rồi trở về An Nam quốc lại tuân lệnh làm những việc bất nhân, thất

đức, đổ máu oan bao ngƣời vô tội! Không! Con chẳng thích làm vua đâu!”

Tôi ngạc nhiên sửng sốt. Ồ con tôi học nói tự bao giờ, ai bày cho con phát ngôn những điều kỳ lạ đó? Thảo nào quan Tri Châu có lần nhìn ngắm con trai

tôi, tắm tắc gật đầu khen: Đúng là giống nòi Thiên Tử! Rồi quỳ rạp xuống chân

con mà lạy.

Nhƣng, ơ kìa, sao song thân tôi cứ đứng giữa sân nhìn tôi trân trân nhƣ ngƣời lạ từ đâu tới?

Bỗng dƣng cha tôi lắc đầu thiểu não nói: “Con ơi, sao tóc trên đầu con bạc

trắng hết cả thế kia?”

Tôi đƣa tay lên sờ đầu, ngơ ngác: Đâu?

Mẹ tôi cũng giơ tay chỉ lên đầu tôi nói: “Chẳng còn sợi nào đen nữa, trắng xóa

hết. Thử nhìn vào gƣơng mà xem!”

Tôi nhìn vào tấm gƣơng ai đó treo ngay trƣớc mặt mình mà phát hoảng. Đúng

là đầu tóc tôi trắng xóa, khuôn mặt chẳng hiểu sao bẹp nát ra nhƣ trái lê rớt

xuống đất vừa bị ai giẫm xéo lên.

Vội cúi xuống nhìn con thì trời ơi, lạ lùng chƣa, toàn thân nó bỗng chốc nhỏ dần, nhỏ dần rồi hoá thành một con chim trắng. Tay chƣa kịp giơ ra nắm bắt

lấy con thì nó… con chim gì chẳng rõ, đã đập cánh bay lên, vƣợt qua mái nhà,

chấp chới trên ngọn cây, tít tắp theo đám mây trắng trên bầu trời rồi mất biến.

Cứu tôi với! Cứu con tôi với! Làng nƣớc ơi!

Tôi thét lên, loạng choạng ngã xuống, nằm lăn ra trƣớc sân nhà.

Đúng vào lúc ấy bừng con mắt dậy, tôi biết mình nằm mơ.

Ngoài trời… Mƣa. Gió. Bàn tay gió luồn vào buồng đang mở ra rồi khép lại

cánh cửa? Hình nhƣ có ai bƣớc vào? Nhìn sang bên chẳng thấy con tôi đâu, tôi

giật mình sờ soạng; định ngồi dậy xem nó còn ở trên giƣờng không hay lăn lóc

dƣới nền nhà? Nhƣng chƣa kịp ngồi dậy thì một tấm chăn, rồi cả khối thịt ngƣời trùm lên đè xuống. Tôi hét lên. Tấm chăn đã phủ kín mặt, bàn tay đã bịt đè kín

miệng. Tôi ú ớ. Cố vùng ra. Tôi cắn vào tay ai đó, cắn cả vào cái má nung núc

thịt, cái cằm bạnh lởm chởm râu… Chỉ mình hắn thôi hay còn ai đó nữa nhét đầy vào mồm tôi chiếc khăn, ấn sâu vào; rồi cởi áo, tuột váy tôi ra khỏi thân

xác… Bất lực và yếu đuối. Chẳng còn thiết sống nữa nhƣng không thể chết

ngay đƣợc. Mình đâu có bằng một con vật. Nếu có kiếp sau xin đừng để chúng

sinh này phải hóa thành ngƣời!

Page 42: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

42 Trần Thế Nhân

Ác mộng trong ác mộng! Ác mộng tiếp liền ác mộng!

…Mở mắt ra tôi thấy mình đang nằm trên một manh chiếu rách có lót rơm rạ ở dƣới. Trời rét buốt. Ánh lửa cháy gần bên góc nhà làm tôi mƣờng tƣợng ra một

cái bếp đun củi. Tôi đang ở đâu thế này? Con ơi! Con đâu rồi? Mẹ đây… Nghe

tiếng tôi ú ớ, hai ngƣời ngồi bên bếp lửa vội vàng đứng dậy, bƣớc tới. Nhìn

thấy ngƣời, tôi kinh hoàng những muốn thét lên. Chắc con ngƣời lại định giết tôi một lần nữa. Còn con tôi, họ đã giết nó hay bắt nó đƣa đi đâu rồi? Nhƣng

không, hai khuôn mặt ngƣời đang cúi nhìn tôi kia lại có dáng vẻ khác hẳn. Già

nua, tiều tụy, đói khát, sạm nắng gió, nhăn nheo, nứt nẻ đất ruộng. Và giọng nói vừa phát ra khàn đục, ốm đau… Xem chừng cũng khổ ải, xót xa, chân thiệt

nhƣ bà con làng quê tôi. Họ vừa cứu sống chứ không phải giết tôi đâu. Nhƣng

còn con tôi, ai đã giết nó, bắt nó đi đâu rồi? Ối, con ơi!

Tôi lại ngất đi trong cơn mê sảng…

Đến chiều tối tôi mới mở đƣợc mắt ra. Sau khi nuốt mấy thìa cháo loãng ông

bà già bón vào miệng, dần dần hồi tỉnh, giƣơng cặp mắt ráo khô nhức nhƣ kim

châm nhìn ân nhân, tôi nghe họ kể lại đầu đuôi câu chuyện.

Chiều hôm kia, ông già cùng mấy ngƣời hàng xóm đi đào củ nâu trong rừng về.

Họ bắt gặp tôi đang nằm trong bụi lau sậy ngay lối rẽ đi xuống đƣờng cái quan.

Lúc đầu họ đâu có chú ý mà cũng không nhận ra. Đi qua rồi, ông già chợt nghe và nhớ hình nhƣ có tiếng ai rên rỉ ú ớ, mới lấy làm lạ bảo mấy ngƣời kia quay

trở lại. Tôi đang nằm sấp, hai tay bị trói trật cánh khuỷu sau lƣng, mồm ngậm

khăn, quần áo bị xé toạc, ngực và mặt xây xát máu, tay chân bầm tím, kiến nhọt đầy ngƣời…

Cởi trói xong, khiêng vác về nhà, tìm thuốc lá đắp vào vết thƣơng… họ chẳng

biết tôi là ai, từ đâu tới? Mấy ngày sau, dẫu óc não gần nhƣ điên loạn, tôi vẫn

còn chút ít tỉnh táo để giấu kín tên tuổi và kể cho họ nghe những tai ƣơng bất hạnh của mình theo chiều hƣớng dễ hiểu, thuận tai hơn.

Tôi ở lại nhà ấy 3 tháng 14 ngày… Nhà có hai con trai đều chết trận cả hai. Ông

bà coi tôi nhƣ con và tin rằng Trời, Phật sai tôi xuống trần gian để an ủi, chăm sóc tuổi già của họ.

Lẽ ra tôi đã nên chấp thuận làm con của một gia đình cùng khốn; dẫu bị nhấn

chìm dƣới vực thẳm đói khổ, nhƣng đƣợc lũ ma quỷ vƣơng triều quên đi, xóa

gạch tên tuổi cung nữ phi tần bất hạnh tai ƣơng này khỏi bộ nhớ độc địa dai dẳng của chúng, mà kinh tởm nhất là quan Thƣợng Thƣ Bộ Hình, kẻ đã nhiều

lần hãm hiếp tôi… Nhƣng ƣớc muốn đƣợc trở về làng quê với cha mẹ già cứ

Page 43: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 43

luôn canh cánh bên lòng, hơn nữa tôi còn phải tìm con trai tôi… Một ngƣời mẹ

sinh con ra mà để ngƣời ta cƣớp mất con đi, thì bất luận thế nào, cũng không

còn đƣợc gọi là mẹ nữa! Một kẻ có tội! Một ngƣời mang tội lớn!

Lạ thật, lúc tỉnh khi mơ, bất chợt ở trong nhà ngoài đƣờng, tự nhiên tôi nghe

tiếng con tôi: “Mẹ ơi! Con đây…” Rõ ràng tiếng con tôi. Thế là, tim tôi dừng

lại, sững sờ rồi oà lên gào thét: “Con ơi! Mẹ đây… Con của mẹ ơi! Con đang ở

đâu?”

Nghe mấy bà trong xóm nói ở làng Bái Long gần hồ Cổ Mã, ngay đầu đƣờng

vào chùa Thiền Tâm có một ông thầy coi số rất hay. Mấy lần tôi đã định đến tìm

Thầy…

Sáng ngày 11 tháng 2 năm Đinh Dậu, chẳng hiểu sao trong ngƣời thấy nôn nao.

Ngủ dậy vừa mở cửa không rõ cánh chim hay cánh dơi đen thui từ ngoài trời

vụt bay vào, loạng choạng va vào cây cột, rơi bịch xuống nền nhà… Mắt mình chƣa kịp nhận dạng nó đã gƣợng dậy, đập cánh bay ra khỏi cửa…

Thấy tôi cắp nón sắp bƣớc ra sân, ông bà hỏi ngay: Con đi đâu? Tôi thƣa rằng

con đi đây có chút việc. Họ nói, hôm nay “dƣơng công kỵ nhật”, một trong

mƣời ba ngày xấu của năm, đi đâu nhớ phải cẩn thận… Đắn đo giây lát nhƣng cái lòng đã định rồi, tôi phải đi tìm Thầy, xin Thầy chỉ cho biết con tôi hiện

nay ở đâu? Thế là tôi ra đi…

Bƣớc chân nhƣ có ma đƣa quỷ dẫn, ra khỏi nhà rồi là không thể nào dừng, chẳng còn cách gì quay trở về đƣợc nữa! Cơn gió lốc nổi lên. Gót chân nhẹ

tênh, thoăn thoắt chẳng mấy chốc đã ra tới đƣờng cái. Hồ Cổ Mã kia! Con

đƣờng theo lối rẽ tới chùa Thiền Tâm đó! Nghe nói nhà Thầy núp bóng dƣới cây thị, hỏi bà con quanh đó chắc dễ tìm ra. Thầy ơi! Cái số con là cái số khốn

số nạn! Có hai con mắt sáng sờ sờ mà rồi chẳng tìm thấy con đẻ của mình ở

đâu. Còn Thầy, hai mắt tuy mù nhƣng lại xuyên thấu cả màn đêm, chiếu rọi cả

sáu cõi tâm linh… Kính xin Thầy chỉ cho con nơi chốn bọn ác quỷ vƣơng triều cất giấu thằng bé ở đâu? Con cắn rơm, cắn cỏ… lạy Thầy!

Bỗng nhiên trƣớc mắt tôi nổi lên một trận cuồng phong, ù ù cuộn tung đám bụi

mù. Cơn lốc này dữ dội, khủng khiếp đến nỗi mấy ngƣời đang đi lại trên đƣờng phải chạy rạt, đứng nép, run rẩy nhƣ những chiếc lá khô sắp bứt ra khỏi

cành. Cỗ xe nào đang lao tới? Định thần lại, tôi cố hình dung ra xem có phải cỗ

xe song mã ngày nào đã chở mẹ con tôi đi? Không phải! Đây là cỗ xe tứ mã.

Những bốn con ngựa kéo! Cỗ xe này chẳng phải từ Thiên đình xuống, nó vừa mới từ Địa ngục lên.

Page 44: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

44 Trần Thế Nhân

Cỗ xe lao tới trƣớc tôi rồi dừng lại. Tôi hét lên, định quay lui tháo chạy. Không

kịp nữa rồi! Từ trên xe hai con quỷ vận toàn đồ đen, trùm kín mặt, nhảy

xuống… Chúng ôm ngang lấy ngƣời tôi, vật ngửa ra; con cầm hai tay, con nắm đôi chân… và mau lẹ đến nỗi tôi chƣa kịp nhìn, đã thấy mình bị tung lên, ném

gọn vào trong xe rồi.

Cỗ xe lại rùng rùng chuyển bánh. Giải băng đen bịt mắt, buộc quấn quanh đầu

chặt đến nỗi tôi tƣởng hai con ngƣơi mình bật máu.

Xe dừng. Bọn quỷ lại xốc ôm tôi xuống, đƣa tôi vào một căn nhà. Tôi biết là

căn nhà bởi có tiếng chân ghế kéo lui xịch tới trên nền nhà. Chúng ấn tôi ngồi

xuống trên một cái ghế đẩu không có chỗ dựa. Tôi loạng choạng. Chƣa kịp lấy lại cân bằng, con quỷ đứng trƣớc đã giữ lấy hai vai tôi để tôi khỏi ngã và lựa

thế cho con quỷ đứng sau choàng tấm chăn đen trùm kín xuống đầu tôi. Tôi

hét lên: “Cứu mẹ với, con ơi, cứu mẹ với!”. Dẫu chỉ còn là tiếng ú ớ từ trong chăn trùm kín, bọn quỷ hình nhƣ nghe thấy. Tôi đoán vậy, vì chúng dừng lại...

Một con cƣời khẽ. Con kia nói nhỏ. Rồi chúng đƣa đẩy, chuyền tay nhau vật gì

đó. Tôi lại cố lần nữa hét lên: “Con ơi, cứu mẹ với! Con ơi! Con có nghe lời

mẹ không?”. Tiếng kêu của ngƣời mẹ từ Địa ngục vọng về chắc con mình phải nghe thấy? Tôi tin nhƣ thế. Và kìa, tiếng con tôi, đúng tiếng con trai tôi, không

thể lầm lẫn vào đâu đƣợc, vọng lên bên tai: “Có! Có! Mẹ ơi! Con đây!… Con

nghe rõ lời mẹ…”

Một nhát búa từ phía sau bổ xuống, qua đầu, trƣợt xuống vai. “Con ơi!”… Tôi

còn muốn kêu lên. Nhƣng nhát búa thứ hai từ phía trƣớc, tiếp liền, đã bổ xuống

chính giữa đầu tôi.

Địa cầu vỡ đôi. Vũ trụ nổ tung. Máu và óc phọt văng, tung toé…

Từ Bên Ấy tôi sang tới Bên Này. Câu chuyện đời tôi là vậy.

Ngƣời cung nữ từ từ đứng dậy. Nàng ý tứ kéo váy lên để khỏi vƣớng chân, khẽ

rùng mình.

– Tôi phải đi đây.

Hai chị em cũng đứng dậy.

– Tạ ơn các chị! Ngàn lần tạ ơn! Nhờ các chị mà tôi phục hồi đƣợc trí nhớ. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng tôi kể chuyện này… Thôi xin phép, tôi

đi…

Hai chị em cùng chắp tay lại, ấp úng:

– Bạn ơi! Có lẽ nào…

Page 45: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 45

Ngƣời cung nữ cúi đầu, cắn môi. Ngẩng đầu lên nàng cƣời chúm chím, giơ

ngón tay trỏ chỉ vào họ.

– Ơ? Cái vòng tròn sáng đang bao quanh đầu các chị kìa! Có thấy không?

Hai chị em ngơ ngác nhìn nhau, chẳng hiểu nàng nói gì.

– Vòng tròn sáng mờ mờ, chốc chốc lại lấp lánh – Nàng lại giơ tay chỉ – Các

chị sắp… hạnh phúc, sung sƣớng! Chúc mừng nhé… Thôi, tôi đi.

Vừa dứt lời, cung nữ đã vội bƣớc. Trong thoáng chốc nàng trở lại nguyên hình đuốc lửa đỏ, hình nhƣ có xanh hơn, rồi nhỏ dần, nhỏ dần chỉ còn một đốm

lửa…

“Con ơi! Con ở đâu rồi? Mẹ của con đây… ”

Tiếng nàng vọng lại cũng nhỏ dần, nhỏ dần.

Tắt.

Page 46: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

46 Trần Thế Nhân

Chƣơng 5 CHIỀU THỜI GIAN – THINK DIFFERENT! HÃY NGHĨ KHÁC ĐI!

Lệ Uyên hỏi Thùy Dƣơng:

– Này em, thử nhìn chị một tí xem chị thế nào?

Thùy Dƣơng sững lại:

– Ơ! Chị… chị làm sao thế?

– Không biết nữa.

– Ừ nhỉ! Em cũng vậy.

Cả hai cùng cƣời. Nghe nhƣ hai giọt sƣơng. Hai giọt trăng. Cùng rơi.

– Ồ lạ thật. Em có nhớ những gì về mình không?

– Không.

– Thế chị có biết những gì về mình không?

– Không.

Im lặng. Bỗng nhiên họ nghe tiếng ai đó vọng lên:

“Đời là sân khấu của những tấn bi hài kịch. Bốn ngàn năm lịch sử, cái ngƣời đóng kịch tài ba điệu nghệ nhất là ai các con có biết không? Nó kia kìa! Các

con không thấy sao? Khi phải cƣời, nó cƣời; lúc cần khóc, nó khóc. Cứ y nhƣ

thật. Và sân khấu ngập tràn máu, nƣớc mắt. Nó là ngƣời, chỉ là ngƣời thôi. Vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, ai cũng coi nó là Chí Thần, Chí Thánh? Các

con chẳng nhớ sao? Nỗi nhớ nào cũng ẩn chứa một niềm đau. Tất cả rồi sẽ qua

đi và chìm vào quên lãng. Cũng có thể đó là điều may mắn cho chúng ta

chăng?…”

Ai vừa nói gì thế nhỉ?

– Chị có nhớ chúng mình mới từ đâu tới không?

– Không.

– Còn ngọn lửa… đốm sáng ấy đâu rồi?

– Đốm sáng nào? Chẳng rõ…

– Kìa!

Trƣớc mắt họ hiện ra những đốm sáng đang chuyển dịch về mọi phía. Một vài

đốm sáng đi về phía họ. Đúng vào lúc hai chị em chập chờn nhận ra những

Page 47: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 47

hình ngƣời, vẻ mặt dƣờng nhƣ đã gặp ở đâu đó một lần thì những cây đuốc

ngƣời ấy lại đột ngột rẽ ngoặt vào một lối khác.

Hai chị em nắm tay nhau, cùng muốn đi tới, nhƣng chẳng hiểu sao cảm thấy

hình nhƣ đang đi ngƣợc chiều lại phía sau. Thoạt tiên họ tƣởng mình quay

lƣng, giật lùi? Đâu có! Rõ ràng họ đang đi ngƣợc chiều thời gian. Cảm giác thật buồn cƣời nhƣng thú vị, không khỏi làm họ bồn chồn. Thùy Dƣơng nhận ra sự

biến dạng kỳ lạ ở bà chị mình: vẫn là Lệ Uyên, nhƣng Lệ Uyên này mới mƣời

chín đôi mƣơi. Lệ Uyên cũng bất chợt nhận ra sự chuyển đổi của cô em: một

Thùy Dƣơng ở độ tuổi mƣời lăm…

Không có cái gƣơng nào ở trƣớc mắt để cho họ soi; đành vậy, ngƣời này chỉ có

thể nhận ra ngƣời kia thôi. Tuy nhiên, cả hai cùng ý thức đƣợc một điều kỳ lạ là, ở Bên Ấy con ngƣời ta sống để rồi già đi, còn ở Bên Này, con ngƣời vẫn giữ

nguyên hình dáng cũ hoặc có thể còn trẻ lại nữa!

Đột nhiên những đuốc lửa ngƣời hồi nãy vừa biến đi, bây giờ lại hiện ra. Họ

hƣớng về phía hai chị em mà tiến tới. Lệ Uyên hoảng sợ ôm lấy Thùy Dƣơng.

– Chị làm sao thế? – Thùy Dƣơng khẽ gỡ tay Lệ Uyên ra – Họ cũng nhƣ chúng ta đây thôi, có khác gì đâu!

– Chị sợ quá, em ơi!

– Thì họ nhìn chúng ta chắc cũng nhƣ chúng ta nhìn họ. Chị tƣởng chúng ta

khác với họ lắm sao? Vớ vẩn!

Những đuốc ngƣời đến cách hai chị em chừng dăm chục bƣớc chân rồi dừng

lại. Cánh lửa rụng rơi lả tả quanh mình để hiện dần những thân ngƣời nguyên vẹn cả hình thể, vóc dáng từ đỉnh đầu tới gót chân. Ôi! Những con ngƣời, bà

con anh em của chúng ta! Họ đang nhìn hai chị em bằng ánh mắt buồn nhớ và

đau khổ. Nét mặt ai cũng hiền lành, tiều tụy, nhẫn nhục. Không thấy ai nở nụ

cƣời trên môi. Cái thời cấm không cho ăn, cấm chẳng cho nói mà! Những con ngƣời tội nghiệp kia dẫu có lúc phải tính toán mƣu toan, nhƣng sự yếu đuối

mệt mỏi đã nhận chìm, nhƣờng chỗ cho vẻ chân quê, thực thà đến đau lòng.

Cũng có những ngƣời chẳng hiểu sao cúi đầu xuống, trông rất quen, nhƣ cố giấu

khuôn mặt mình, tách ra khỏi đám đông, lặng lẽ đi lùi về phía sau?

Lệ Uyên nhìn theo những ngƣời này, cảm thấy hình nhƣ họ có mối liên hệ gì

đây với mình. Ô kìa! Có lẽ nào...?

Có phải cái ông Đơ – Bí thƣ chi bộ xã kia, hồi ấy đã phê bậy bạ vào tờ khai lý

lịch của con bé Mai Lệ Uyên, là gia đình địa chủ phản động có nợ máu với cách

mạng, cấm cửa không cho vào đại học?

Page 48: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

48 Trần Thế Nhân

Có phải anh chàng Tốn, giáo viên cấp hai xứ Nghệ, học cùng khoá Sƣ phạm

Vinh, Bí thƣ chi bộ lớp, đã tấn công, ngỏ lời yêu cô sinh viên Lý năm thứ nhất

Mai Lệ Uyên nhƣng không đƣợc cô này đồng ý chấp thuận… Để trả thù, đồng chí Tốn lớp trƣởng đã gửi thƣ về địa phƣơng cô, trình bày hạnh kiểm, báo cáo

tác phong tƣ tƣởng Mai Lệ Uyên có vấn đề chính trị nghiêm trọng, đến nỗi quê

hƣơng Thanh Hoá anh hùng, một lần nữa lại gửi công văn vào bắt buộc Phòng

Tổ chức, khẩn thiết yêu cầu Ban Giám hiệu Sƣ phạm Vinh phải mời Lệ Uyên ra khỏi trƣờng, trở về quê tiếp tục lao động cải tạo!...

Cả hai con ngƣời khốn nạn, chẳng mấy may mắn đó mới vừa cháy lên trong bộ nhớ của Lệ Uyên đã lụi dần. Còn những hình nhân bí hiểm kia nữa, chị đang cố

nhận ra, cũng rã dần, chỉ còn là những đốm lửa rồi tắt biến…

Bỗng nhiên, Thùy Dƣơng cuống quít, kêu to:

– Anh Tiến!

Ngƣời ả vừa gọi là anh Tiến đó hiện nguyên hình trong bộ quân phục Trƣờng

Sơn, lính Cụ Hồ, binh chủng đặc công, mặt mày còn lem luốc đất cát và khói

bom; một vệt máu chảy từ thái dƣơng xuống cằm…

– Anh Tiến! Anh ruột của em… Anh Tiến ơi! Em, Dƣơng đây…

Tiến sững lại, nhìn bất động, nghe tiếng ai gọi nhƣ từ xa lắm, nỗi buồn đau

thƣơng nhớ lan toả trên khuôn mặt gầy, hỏm hóp, già trƣớc tuổi hai mƣơi,

đang hoá dần thành đá tƣợng đài… Anh lính Giải phóng ngẩng đầu lên nhƣ kiểu “Rõ! Có tôi!”, rồi trở về vị trí, hoà vào hàng ngũ bƣớc đi.

– Anh Tuấn! Anh Tuấn!

Thùy Dƣơng lại bắc loa tay, kêu lên:

– Anh Tuấn! Ngƣời yêu… Mối tình đầu của em… – Thùy Dƣơng lắp bắp –

Chị Uyên ơi! Dạo đó, 1967, Tuấn đang là sinh viên Thủy lợi năm thứ tƣ. Cái

đêm hôm ấy… trƣớc ngày lên đƣờng vào B, em đã tình nguyện hiến dâng tất

cả cho Tuấn. Nói ra chị đừng cƣời, em đã giải toả hết quần áo trên ngƣời, ghì riết anh ấy vào lòng nhƣ thế này này… Vậy mà Tuấn vẫn không dám, co rụt

ngƣời lại, cứ một hai rằng đừng đừng… Ý anh ấy là muốn cho Thùy Dƣơng

trinh trắng, trọn vẹn kẻo sợ sau này làm khổ em. Tội nghiệp! Một khối linh hồn nhân đạo, trong sáng! Ôi! Cái thời ấy, sao con ngƣời ta họ đạo đức, nghiêm

túc, cao cả đến thế hả chị?

Ngƣời có tên gọi là Tuấn đó, cũng nhƣ Tiến, là lính Cụ Hồ, nhƣng vóc dáng có

vẻ thƣ sinh hơn. Đầu đội mũ tai bèo, khuôn mặt Tuấn tròn bầu, đôi mắt hồn

nhiên ngây thơ đến nỗi tƣởng đâu anh chàng này còn ở tuổi “tiến lên đoàn viên

Page 49: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 49

theo Đảng tiền phong”. Vệt máu dài từ cổ chảy xuống ngực trông nhƣ đuôi khăn

quàng đỏ…

Tuấn dừng lại, vẻ sửng sốt. Nét mặt của cậu học trò bị thầy giáo bắt quả tang

vì một trò nghịch ngợm trong lớp, ngây thơ sợ sệt khiến ngƣời đứng ngoài lớp

nhìn vào thấy thƣơng thƣơng lạ! Có thể con ngƣời này còn trong trắng hơn thế. Anh chàng sống theo kỷ luật, tổ chức, phơi phới lý tƣởng Cộng sản, không

dám ăn Trái cấm, giữ nguyên vẹn khối linh hồn trong trắng để vác súng đi vào

cuộc chiến đấu giải phóng Miền Nam… Tuấn đâu có hay rằng Trái cấm của

chàng hai mƣơi năm sau, cái đám ngƣời ngợm thời Đổi mới Kinh tế thị trƣờng đã thay nhau đớp ngoạm, cắn xé điên dại hả hê…

Anh lính Giải Phóng hơi rƣớn ngƣời lên, giơ cao mũ tai bèo khoát khoát nhƣ chào tạm biệt, tiếp tục bƣớc, miệng vẫn vang ca: Trƣờng Sơn ơi! Trên đƣờng

ta đi không một dấu chân ngƣời… Có chú nai vàng đang nghiêng tai ngơ

ngác… Rồi cũng mất biến.

Thùy Dƣơng ngây đờ ngƣời ra. Đau khổ và hờn giận. Ả có ngờ đâu gặp lại

ngƣời thân ở Bên Này thật khác xa với trí tƣởng tƣợng của ả và anh chồng ngạo

ngƣợc hồi còn Bên Ấy.

– Chị ạ. Em mong gặp lại thầy em quá!

– Chị cũng vậy.

Thùy Dƣơng có lúc cũng gọi cha mình là Thầy làm cho Lệ Uyên thấy gần gũi và xúc động. Hoá ra hai miền quê Thanh – Nghệ có những tập tục giống nhau.

– Em cảm thấy hai Cụ hình nhƣ ở gần đâu đây?

– Hay là ta cứ ngồi chờ…

– Không! Phải đi chị ạ. Đi thì may ra mới tìm gặp đƣợc. Em nóng ruột, sôi gan

rồi!

Trên đƣờng từ Đồng Trâu tới nhà họ vẫn đi về với tốc độ tâm linh. Bây giờ họ

trôi về quá khứ với tốc độ cổ điển chậm rãi hơn, mắt ngƣời thƣờng ở Bên Ấy có thể dõi theo đƣợc nhƣ nhìn thấy một vệ tinh nhân tạo trên bầu trời sao

những đêm ít mây vậy.

Qua Đèo Rù Rì, Đèo Cả, Đèo Hải Vân, Đèo Ngang… họ đã tới rặng Hồng Lĩnh.

Qua Sông Lam. Bƣớc trên mặt sông, Thùy Dƣơng cúi mình lấy tay vốc nƣớc rửa mặt. Ả còn dùng chân đá nƣớc cho tung bọt sóng lên.

– Hồi nhỏ, tụi em vẫn ra sông này tắm, đùa giỡn té nƣớc vào mặt nhau. Một

lần, xuýt chết đuối…

Page 50: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

50 Trần Thế Nhân

Ả cƣời trong trẻo, hồn nhiên kể lại bàn chân ả hụt hẫng, mồm ngậm nƣớc, may

sao anh Tiến đã lội ra, nắm tay kéo vào… Ghé Nam Đàn, Thùy Dƣơng dừng lại

nhìn núi non, đồng ruộng, xóm làng. Ả bƣng mặt khóc.

– Bây giờ em mới hiểu – Ả nghẹn ngào, tấm tức – Em mới cảm nhận đƣợc vì

sao vùng quê em ngƣời ta gọi là địa linh nhân kiệt! Nơi đây Đất Mẹ đã hun đúc nên bao con ngƣời mang thể chất anh minh, phẩm giá cao cả, ngoại trừ em,

đứa con hƣ hỏng bỏ đi. Ôi nhục nhã xấu xa! Cái con khốn nạn này…

Ả vung tay tát rồi vỗ vào mặt, nỏ khác chi gã nô tài trong phim Tàu tự tay tát vào mặt mình trƣớc Hoàng Thƣợng để cầu mong đƣợc tha tội vậy.

Lệ Uyên đề nghị:

– Chị em mình ghé qua nhà Thùy Dƣơng một chút đi!

Thùy Dƣơng lắc đầu:

– Không! Không! Nhà em làm gì còn ở đó nữa. Nhà cũng chẳng còn mà ngƣời thân, bà con hàng xóm bỏ làng đi kiếm sống khắp mọi miền đất nƣớc rồi…

Vòng về Diễn Châu họ ra Thanh Hoá.

Giáo xứ Ba Làng – Tĩnh Gia… Sông Ghép – Quảng Xƣơng. Thị xã Thanh

Hoá thấp thoáng…

– Thùy Dƣơng ơi! Em có thấy cái gì kia không?

– Cái gì hở chị?

– Hòn Vọng Phu. Ngƣời đàn bà đứng trông chồng hoá đá trên đỉnh núi Nhồi.

Ôi chị xúc động quá!

Lệ Uyên nhắc lại chuyện ngày xƣa mẹ kể. Một ngƣời đàn bà xứ Thanh có

chồng bị vua quan bắt đi lính; chiều nào nàng cũng dắt đứa con nhỏ đứng ở đầu núi nhìn ra Biển Đông trông đợi chồng về. Ngoài xa kia, sóng biển lô

nhô… Chiều dần tắt. Có vài con thuyền trông nhƣ chiếc lá dạt trôi. Ngƣời

chồng vẫn biệt mù tăm hơi. Chinh chiến triền miên… Biết khi nào chồng nàng

mới trở về? Nàng vẫn chờ, vẫn chờ. Nắng dội, mƣa tuôn… Một hôm Trời nhìn xuống thấy nàng mà mủi lòng xót xa. Mƣa ngàn xối xả hay dòng lệ nhớ

thƣơng chàng nƣờm nƣợp tuôn đẫm ƣớt mình nàng? Và tóc nàng xoã bay rũ

rƣợi hay mây trời trắng xoá? Ôi tấm lòng ngƣời thiếu phụ trung trinh, son sắt! Đâu chỉ riêng nàng ở xứ Thanh này, còn bao ngƣời vợ trẻ khắp hai miền đang

ngóng chờ chồng đi chiến trƣờng trở về. Dẫu không ra đứng ở đầu non họ cũng

đang vò võ một mình, đêm ngày khoá chặt cửa nằm trong buồng kín, lấy khăn

che mặt hoặc trùm kín chăn nức nở!

Page 51: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 51

Trời quyết định cho nàng thiếu phụ đứng ở đầu non này đƣợc hoá đá để làm

gƣơng cho tất cả mọi ngƣời; trẻ già lớn bé, đàn ông đàn bà… lấy đó mà soi

chung. Từ ấy… nàng trở thành tƣợng đài tự nhiên – Hòn Vọng Phu vời vợi trên đỉnh núi Nhồi.

Ở miền Nam ra, từ ngoài Bắc vào…. Bất cứ ai đi qua đây, dừng lại đƣờng cái quan ngƣớc nhìn lên cũng thấy nàng Vọng Phu trên núi Nhồi xứ Thanh.

Thùy Dƣơng nghe chị Hai kể say sƣa… Theo ngón tay chỉ của Lệ Uyên, ả nheo

mắt nhìn, gật gật đầu:

– Thật giống nhƣ đúc, y chang ngƣời đàn bà dắt tay con đứng trông chồng!

Ngƣời nàng cũng cao ráo, không thấp lùn, mặc áo dài…

– Áo tứ thân đấy em ạ – Lệ Uyên giảng giải – Không phải áo dài dân tộc, thời

trang mô đen bây giờ đâu!

– Tổ tiên mình, các cụ xƣa bao giờ cũng mực thƣớc đứng đắn. Chị xem, vạt áo

đàng trƣớc từ cổ ngực buông thẳng xuống chân, rộng rãi mà kín đáo…

Ả còn hậm hực chƣa nguôi mối hận về áo dài mô đen, quần đầm bó… trong

khi Lệ Uyên đang dõi nhìn về núi bà Vọng Phu. Chị nói:

– Đố Thùy Dƣơng biết nàng Vọng Phu đầu choàng khăn gì?

– Khăn vuông…

– Nói cho thật đúng lời các cụ xƣa là khăn mỏ quạ, thứ khăn choàng của các

bà ngoài Bắc; cũng là đội nắng che mƣa nhƣng khác với khăn rằn của các má trong Nam… Bà nội của chị, mẹ chị ngày xƣa cũng trùm khăn này. Họ là

những nàng Vọng Phu. Nhìn núi lại nhớ ngƣời! Ôi! Những ngƣời muôn năm

xƣa! Nghĩ tới các ngƣời là thƣơng nhớ xót xa, lòng rƣng rƣng muốn khóc.

– Em đố lại chị: Việt Nam mình có mấy Hòn Vọng Phu?

– Hai ba hòn chi đó… Hình nhƣ vậy. Nghe nói nàng Tô Thị Vọng Phu ở Lạng Sơn cũng giống lắm, đẹp lắm. Tô Thị Vọng Phu tay bế ẵm con; còn Vọng Phu

núi Nhồi thì tay dắt con… Cả hai cùng đứng trông chồng. Chị chƣa bao giờ lên tới

Lạng Sơn…. Hồi còn là công nhân đƣờng sắt, đơn vị chị có lần đóng quân ở đây.

Nhiều hôm đang gánh đá sửa đƣờng tàu, đội nón trùm khăn, mồ hôi đầm ƣớt,

chị cũng ngƣớc nhìn ai kia, Vọng Phu đứng trên núi Nhồi. Chị còn ngồi trƣớc hiên, trong sân, ngoài đƣờng nhìn nàng Vọng Phu trong sấm chớp gió mƣa,

trong trăng lên huyền ảo và cả trong lửa bom B 52…

– Chị của em làm thơ?

– Đâu có! Nghĩ gì nói vậy. Chị kể chuyện thực mà!

Page 52: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

52 Trần Thế Nhân

Chƣơng 6 MÍ ĐỒ ĐỒ ĐỒ PHÁ… XỨ THANH HOÁ Thị xã Thanh Hóa hiện dần ra với những dãy nhà tranh nối nhau san sát, lác

đác chen vào một vài nhà ngói… Nhà nào cũng có bốn cây luồng dài, móc nối

từ trên nóc, kéo níu mái nhà xuống, chốt đóng cọc dƣới đất để chống bão. Đƣờng phố “rộng thênh thang tám thƣớc” còn lổn nhổn sỏi đá, hai bên là rãnh

nƣớc. Ngƣời qua lại trên đƣờng đi chân đất, dép cao su, mặc áo quần nâu…

Lâu lâu, một vài chiếc xe đạp kính coong bóp chuông qua đƣờng.

Đầu ngã Ba Bia có một chiếc ô tô của Liên Xô đậu. Xe bốn bánh, đầu nhỏ mõm ngắn, sơn màu xanh lá cây đang đƣợc đám đông ngƣời vây quanh bu lại

xem. Nhiều ngƣời lần đầu tiên trong đời đƣợc thấy ô tô, cái vật không có

ngƣời đẩy mà vẫn chạy, xem ra họ mê mẩn thích thú lắm…

– Xe Mô-lô-tô-va – Có ai đó reo lên – Liên Xô đƣa sang giúp ta đấy!

Đám đông đang sôi nổi bàn tán.

– Trung Quốc đã có xe ô tô chƣa?

– Chƣa. Chƣa có… Nhƣng họ đông ngƣời lắm. Những sáu trăm triệu dân! Họ giúp ta ngƣời, gạo. Chỉ cần mỗi ngƣời dân Trung Quốc nhổ một bãi nƣớc bọt

là cả Đài Loan, các nƣớc đế quốc chìm nghỉm và chết đuối! Bác Mao bảo thế.

– Liên Xô có xe tăng, máy bay, bom nguyên tử. Liên Xô có Xiết-Ta-Liên!

– Trung Quốc có Mao Trạch Đông!

– Việt Nam ta có Bác Hồ!

Đám đông tự động giãn ra rồi quây lại thành vòng tròn ngƣời ngồi dƣới đất; một thanh niên dáng dấp nửa bộ đội nửa dân, đứng giữa vung hai tay, cầm

càng bắt nhịp cho mọi ngƣời cùng hát. Họ vỗ tay rộp rộp, miệng ca vang:

Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa

Đây bao la non nước vui chan hoà

Hoa bay qua Triều Tiên khói lửa

Hoa lan sang đồng Việt Nam ta

Gió đưa hoa về ngập miền Dân Chủ

Cánh hoa muôn màu đẹp đời Tự Do!

Hai chị em bƣớc vào đứng trong đám đông. Cả hai phải nắm tay nhau để khỏi

bị tách rời, xô dạt mỗi khi quần chúng nhân dân chuyển đổi các tiết mục văn nghệ, trò chơi liên hoan.

Page 53: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 53

Một cô gái mặc áo quần nâu có miếng vá bên vai, tuổi mới hai mƣơi, tóc buộc

sau gáy, thả dài xuống quá mông đít, giơ tay “xung phong” xin đƣợc hát một

bài.

Ngƣời cầm càng văn nghệ hỏi:

– Đồng chí đơn ca bài chi?

Cô gái trả lời:

– Cái bài tôi thích nhất: Mùa xuân không đến với đế quốc!

Rồi đứng nghiêm theo kiểu quân sự, thẳng ngƣời, đầu hơi ngẩng lên, cất giọng

ngân nga:

Mùa xuân không đến với đế quốc

Nhưng đến với dân ta

Khắp nơi nở hoa…

Rập! Rập! Rập!

Tất cả đồng loạt vỗ tay.

Có hai anh – Lê Văn Xà và Nguyễn Hữu Cột – từ hồi nãy giờ ngồi tụt phía sau, hơi lùi vào một góc đang nhỏ to tranh cãi.

Xà: Mỗi năm có bốn mùa… Mỗi mùa có ba tháng. Chẳng riêng gì nƣớc ta,

khắp thế giới, nơi nào Xuân cũng đến rồi Xuân lại đi. Châu Âu, châu Á, châu Mỹ, châu Úc, châu Phi... xem ra nơi nào cũng có mặt đế quốc cả. Thế thì…

Xuân không đến với đế quốc nghĩa là làm sao? Xuân nó đi đằng nào, về đâu?

Cột: Yên, để ta nói cho mà nghe… Mùa Xuân là mùa đẹp nhất. Đồng ý

không? Nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, các nƣớc Cộng sản trong phe Xã hội chủ nghĩa anh em rất yêu mùa Xuân. Còn các nƣớc tƣ bản thì bọn đế

quốc ngày đêm chỉ âm mƣu chiến tranh, đƣa quân đi xâm lƣợc, đem bom bỏ

khắp nơi. Chúng nó chỉ thích mùa hè, mùa đông thôi. Mùa hè thì nhởn nhơ tắm biển, mùa đông thì nằm dài ra ngoạm thịt gà, uống bơ sữa. Nhân dân lao động

các nƣớc này đói khát cùng cực, còn hơi sức nào mà vui Xuân, đón Xuân? Cho

nên, mùa Xuân nó mới từ mặt lũ đế quốc Mỹ, Anh, Pháp, nó kiềng mặt các nƣớc tƣ bản phản động áp bức, nô lệ, bất công… Xuân mới đi thẳng sang Liên

Xô và các nƣớc anh em trong phe Xã hội chủ nghĩa, có Việt Nam ta… Nhân

dân các nƣớc vô sản dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tƣng bừng cờ hoa,

reo mừng hát ca, hân hoan chào đón, mùa Xuân nó mới phấn khởi, say sƣa tìm đến chứ?! Nó dại gì mà đến với bọn đế quốc! Hả?

Page 54: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

54 Trần Thế Nhân

Xà: Đồng chí nói bè lũ đế quốc chỉ thích mùa Hè, mùa Đông. Thế còn mùa

Thu?

Cột: Có hai mùa thu. Mùa thu lũ lụt, lúa khoai chìm nghỉm, mùa màng mất trắng thì dứt khoát là nhân dân ta không có ƣa. Còn mùa Thu cách mạng thì

nhân dân dĩ nhiên là vỗ tay, hân hoan chào đón! Bởi thế, bọn đế quốc tƣ bản

chúng nó cũng chẳng thích mùa thu!

Xà: Còn mùa đông? Hình nhƣ Cách mạng tháng Mƣời Nga lại nổ ra vào mùa Đông?

Cột: Thì đúng rồi! Vào mùa đông bọn Nga Hoàng phản động móc nối với bè

lũ đế quốc, chúng nó mới đú đởn ngóc đầu dậy. Cho nên nhân dân Nga dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga mới quật cho tơi bời, nện cho tan tành cả lũ.

Và khi thành lập chính quyền Xô Viết xong, bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa

Cộng sản… Lê Nin vừa tuyên bố là… mùa Xuân đến! Ở Việt Nam ta cũng vậy. Hễ khi nào hết mùa đông giá rét, Bác Hồ vẫy tay gọi ấy là mùa Xuân tới!

Xà: Nhƣng mùa Xuân, đã gọi là Xuân thì dù ở đâu Xuân cũng chỉ đến có một

lần, trong 3 tháng. Còn sau đó, lại là hè…?

Cột: Khổ quá! Đồng chí quan niệm thế nào là Xuân? Xuân ở đây là Xuân trong lòng, Xuân Cách mạng, Xuân Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Xuân cả bốn mùa,

Xuân đời đời, Xuân muôn năm, Xuân Cộng sản!

Xà: Nhƣng mà…

Cột: Không nhƣng, chẳng mà cái gì hết. Đồng chí tự kiểm điểm bản thân, đánh

giá lại tƣ tƣởng chính trị, quan điểm giai cấp của mình đi xem nó thế nào? Lơi

là, bấp bênh, không đứng vững trên lập trƣờng cách mạng là hỏng! Hỏng! Bỏ mẹ! Chết cha!

Xà: Vâng. Vâng.

Cột: Tôi tuyên bố, khẳng định lại một lần nữa cho đồng chí nghe: Bọn đế quốc

chẳng bao giờ có mùa Xuân! Mùa Xuân thèm vào mà đến với chúng nó! Chỉ phe Xã hội chủ nghĩa ta, Đảng ta, Nhân dân ta mới có mùa Xuân! Thôi, đồng

chí vào mà nhảy múa liên hoan văn nghệ với bà con!

Xà: Đồng ý. Nhất trí thôi. Nhƣng …

Cột: Còn nhƣng cái con khỉ gì nữa. Phải hoàn toàn nhất trí! Tôi xin nhấn mạnh

lại, củng cố thêm một lần cúi còng nữa là: mùa Xuân không bao giờ đến với đế

quốc! Bởi vì sao? Khổ quá! Đồng chí quên mất bài ca Công nhân rồi hả? Này

nghe…

Page 55: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 55

Lúc đế quốc sắp tan rã dần

Ta tiền phong chiến đấu

Sức chiến đấu đi trước miền Đông Nam

Lúc đế quốc đang tàn…

Đế quốc đang tàn, đang rẫy chết! Nhớ chƣa? Chủ nghĩa đế quốc, giai đoạn cuối cùng của chủ nghĩa tƣ bản! Nó đang ngắc ngoải, chết ngắc chết ngƣ. Ta

đang sẵn sàng chuẩn bị cuốc xẻng vác vai lên đƣờng đi đào mồ chôn nó… ấy

đó! Vậy thì mùa Xuân nó còn đến với đế quốc làm… làm chó gì nữa! Mùa Xuân dại gì mà chẳng quay sang trở về với chúng ta!

Cột: Vâng. Vâng. Bây giờ thì nhất trí. Hoàn toàn nhất trí!

Lệ Uyên hỏi Thùy Dƣơng:

– Em có biết tác giả của bài hát “Mùa Xuân không đến với đế quốc” là ai

không? Chàng nhạc sĩ ấy tên là gì?

Thùy Dƣơng ngây ngƣời ra, đầu khẽ lắc:

– Để em nhớ xem… Đêm qua mơ dáng em đang ôm… Quên mất rồi! Quên hết

rồi! Khổ chƣa? Hình nhƣ chàng cùng quê Nghệ Tĩnh với em? Một nhạc sĩ có

tài. Bố em nhiều lần nhắc tới chàng và còn thuộc mấy bài hát nữa…

Hai chị em đang định bƣớc đi thì đám đông lại thay đổi tiết mục chuẩn bị

chuyển sang nhảy múa. Sống động hơn. Tƣng bừng hơn.

Đám ngƣời tản ra, nắm tay nhau thành vòng tròn lớn bao quanh bãi cỏ xanh.

Họ ngồi xuống, buông rời nhau, mắt long lanh, đầu nghiêng ngả, tay vỗ nhịp, rập rập theo lời hát Đất Trời mới ban cho:

Thắm thiết tình Việt-Trung-Xô!

Đế quốc càng đầy mối lo!

Mối tình của người dân Việt.

Mối tình tràn ngập núi sông

Quyết tâm xây đắp tình Việt-Trung– Xô!

Đất dƣới chân họ hình nhƣ đang trôi dạt, bầu trời cũng nghiêng ngả theo cơn

cuồng say. Và một bàn tay vô hình khổng lồ nào từ trên cao quờ xuống, tóm

gọn tất cả, lôi giật họ vụt đứng lên. Tất cả đều hồn nhiên ngây thơ đến mức thoạt nhìn họ hai chị em tƣởng chừng khó phân biệt đƣợc lứa tuổi và giới tính

nam nữ. Ôi! Những thiên thần đáng yêu!

Page 56: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

56 Trần Thế Nhân

Họ vừa vỗ tay vừa hát:

Yêu hoà bình Tổ quốc chúng ta!

Yêu ruộng vườn quê hương ngàn đời!

Toàn dân đoàn kết!

Bước hiên ngang lừng vang câu ca…

Rồi vẫn giữ âm nhƣng chuyển ngữ:

Mí đồ đồ đồ phá mí rê

Rế đô xì đô rế xồn xồn

Đồ mí rề phá

Mí rê đô xồn đô đô đô…

Thứ nhạc xƣớng âm rất chi hoang sơ nguyên thủy này chắc phải làm cho vị

cha cố nhà thờ La Tinh-La Mã nào thời ngàn năm xƣa, ngƣời đã sáng chế ra bảy

nốt nhạc, phải sửng sốt kinh ngạc; còn Chúa Giê Su, dẫu ít khi cƣời cũng gật đầu, mỉm một nụ cƣời đồng cảm. Dân chúng, đồng bào họ đang vui vì cuộc

chiến tranh chống Pháp chín năm trời máu đổ, đầu rơi đã dừng!

Hát ca lên, ới bà con ơi! Nhảy múa đi, ới đồng chí ơi!

Trai gái thanh niên xung phong bƣớc ra làm đầu tàu văn nghệ. Từng cặp một… Bắt đầu! Họ đứng trên chân phải, nhảy cò cò, chân trái đƣa ra phía trƣớc… Tay

phải giơ lên quá đầu, tay trái đƣa ra, hạ xuống sát năm đầu ngón bàn chân

trái… Vừa cò cò nhún nhún, vừa cà tâng nhảy nhảy; lại chuyển đổi tƣ thế đôi chân đôi tay, sang chiều ngƣợc lại; rồi tay vỗ bộp bộp, miệng hát đi hát lại khúc

ca bốn ngàn năm, từ thuở các Vua Hùng dựng nƣớc đến nay mới có:

Đồ mi rề phá

Mí rê đô xồn đô đô đô…

Mí đồ đồ đồ phá…

Thùy Dƣơng bắt đầu đƣa ra những nhận xét:

Một vũ điệu thật kỳ lạ! Chị đã nhảy van xờ, quốc tế vũ bao giờ chƣa? Chƣa

hả? Thử nghe em nhận xét, so sánh với vũ điệu này. Quốc tế vũ! Gọi là quốc tế vũ mà đâu có phổ thông, phổ biến dễ học, dễ nhớ… Xình chát chát… Nhảy mà

không khéo đƣa hai chân, dịch chuyển lui tới đúng kiểu cách là giẵm xéo lên

chân ngƣời ta nhƣ chơi! Chát chát xình… Có lẽ bọn Tây ngƣời họ cao, chân họ dài cho nên chỉ cần nhẹ đƣa chân, nhích đôi vai là họ xoay vòng, tiến lên lùi

xuống rất dễ dàng. Còn lũ chúng ta thì sao? Chẳng có mấy ngƣời cao, chân đã

ngắn mà lƣng lại…. hơi dài; bởi thế, cặp chân đƣa thì lũn cũn, đôi vai xoay

Page 57: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 57

cứng đờ đờ, tay ôm eo lóng ngóng, tay cầm tay vụng về… Ở khách sạn Thắng

Lợi – Nha Trang em đã nhảy với khá nhiều ngƣời, từ bọn trai choai tới các cụ

kỵ già xoan; vậy mà em chỉ chịu có một ngƣời, một tay khiêu vũ rất tài hoa… Là ai chị có biết không? Cụ Đàm Du Sâm, nhà giáo ƣu tú Cao đẳng Sƣ phạm…

Mới nhìn qua ông thầy tuổi gần 80, tóc trắng xoã bờm, râu dài phủ ngực, mồm

trống hoác, răng thò thụt… cứ tƣởng hƣu trí này tới đây là chỉ để tham quan,

giải sầu: Lầm to! Cụ tới đây để biến dịch, sống trẻ, sống khoẻ. Cụ nhảy! Và nhảy tài hoa điệu nghệ. Thanh niên nỏ mấy tay bì kịp. Em rất lấy làm lạ và có

lần thăm dò cụ. Té ra bà cố nội của cụ Sâm ngày xƣa, thuở Pháp mới sang là

vợ một thằng Tây! Cụ kể, dạo ấy vua Thành Thái vừa lên ngôi… Cố bà gánh chuối ra chợ bán, đi ngang qua một cái đồn gác. Thằng Tây quan ngồi trong đó

cầm ống nhòm nhìn ra… Thấy cô gái xinh đẹp đang gánh chuối sợ sệt rụt rè

trƣớc cổng gác, Tây mới sai lính tập ra mời cô vào bảo Tây sẽ mua chuối. Cô có ngờ đâu vào trong đồn rồi Tây đã chẳng mua chuối cho, lại còn nhét cô vào

phòng, đè ngửa ra, bắt cô phải… ăn chuối! Chuối của Tây dĩ nhiên là to và dài

quả hơn chuối ta. Và thế rồi, cố bà về nhà mang bầu, sang giữa năm sau là sinh

hạ ra ông nội của Sâm…

Sâm đã kể cho em nghe sự tích quả chuối Tây lý thú… Để trả công lão và còn

muốn lợi dụng, lão có của chị ạ, con Thùy Dƣơng này đã cho phép nhà giáo ƣu

tú Sâm sờ soạng gọi là… Sâm đểu một cây, chị ơi. Mắt lão rất đĩ! Khiêu vũ với em xong, lão còn muốn… ngủ với em nữa. Sức mấy!

Sau này nghĩ lại em cũng chẳng trách lão Sâm. Đến nhƣ đại tá hải quân Mai

Đắc Xuân, ngƣời tình yêu quý của em, gần gũi chung sống với nhau là thế, mà cứ mỗi lần khiêu vũ với các em xong là… là… Xuân thú nhận, hễ quốc tế van

xờ nổi lên, tay mới để vào vòng eo, chân dịch bƣớc… y nhƣ rằng trong ngƣời

nổi cơn ngay. Đã ôm eo ngƣời ta, Xuân nói, không dìu ngƣời ta theo vũ khúc,

lại chỉ muốn đƣa tay về sờ soạng mân mê hai trái bƣởi Năm Roi; còn ông chim thì trời ơi, cứng ngắc, cứ muốn lôi pháo ra kéo pháo vào bắn ngay!

Đại tá của em cho rằng bọn Tây chúng nó khác với chúng ta, hoàn toàn chẳng

giống nhau. Quốc tế van xờ nổi lên, chúng nó khiêu vũ tự nhiên, bình thƣờng, có sao đâu! Cái ADN, thứ gien di truyền trong điệu nhảy này là thuộc về họ,

của họ… Bao đời tự nhiên, muôn năm đã quen rồi. Cứ nhƣ ta thì cả châu Âu,

thế giới phƣơng Tây có mà điên mà loạn! Lớp thanh niên bây giờ vậy mà đỡ,

bởi chúng nó biết vi tính, làm quen với intờnét; lớp hƣu trí, cựu trào… Anh Sáu, chị Ba mới đáng sợ chứ! Bởi chƣa quen nên họ dễ hoá điên nổi khùng; lại

cũng vì ăn mặn lâu ngày, bây giờ đâm ra khát nƣớc… Anh Xuân bảo em, anh

cũng đang lo cho mình đây, không biết mai mốt rồi anh có còn là anh nữa không?

Page 58: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

58 Trần Thế Nhân

Lệ Uyên ngắt lời Thùy Dƣơng:

– Em nói những gì lan man, khúc mắc quá?

Thùy Dƣơng cƣời rất tự nhiên:

– Thì em đang diễn dịch, so sánh, biện luận để kết thúc vấn đề. Xem kìa!

Ả giơ tay chỉ. Lệ Uyên nhận ra ngay cô gái hát bài “Mùa Xuân không đến với

đế quốc”. Cô này đang nhảy với một chàng trai cùng lứa tuổi. Hai tay vỗ bộp

bộp, đôi chân nhảy nhót cà tâng… bó tóc dày và dài sau lƣng rung theo, đƣa qua trái hất sang phải. Chàng trai kia đang đối diện tƣơng xứng; cũng vỗ hai

tay cẫng đôi chân, miệng hát vang bài ca Hoà bình, Hữu nghị:

Mí đồ đồ đồ phá mí rê

Rế đô xì đô rế xồn xồn

Đồ mí rề phá…

Thùy Dƣơng lại biện luận, so sánh:

– Tự nhiên và sống động! Chị coi, trông họ nhƣ sếu cò trên đồng ruộng, khỉ vƣợn chốn rừng xanh. Chẳng ai bày vẽ huấn luyện, khỏi phải qua lớp học nào,

cứ nhìn theo nhau, bắt chƣớc nhau rồi nhảy! Rất đẹp và rất hay! Lành mạnh và

sảng khoái! Khỏi phải ôm sờ, nỏ cần đụng cọ. Đực cái dẫu còn tí xa cách nhau

mà âm dƣơng vẫn rất chi hoà hợp… Tuyệt vời! Chị Hai của em thấy thế nào?

Lệ Uyên gật đầu đồng cảm, xúc động nói:

– Đúng là một vũ khúc kỳ lạ mấy ngàn năm nay mới có. Chị rất vui khi thấy

ngƣời dân xứ Thanh, những anh em bà con trên quê hƣơng mình ca múa vũ khúc này. Vũ khúc này tên gọi là gì em biết không?

Vừa đúng lúc Lê Văn Cột, ngƣời đàn ông hồi nãy bắt bẻ, rèn chỉnh cho đồng

chí của mình về “Mùa Xuân không đến với đế quốc” đã bƣớc ra giữa sân chơi,

la to:

– Kính thƣa các đồng chí!

– Kính thƣa đồng bào!

Anh em vô sản, quần chúng cách mạng Công Nông Binh thân mến! Tháng này là tháng Hữu Nghị Việt Trung Xô! Để nhớ ơn Liên Xô vĩ đại, để tỏ tình đoàn

kết gắn bó keo sơn với Trung Quốc anh em… tôi thiết tha đề nghị tất cả chúng

ta hãy vỗ tay, hét to, hát vang lên nữa bài ca Hữu Nghị Việt Trung Xô và nhảy múa say sƣa tƣng bừng điệu múa Hoà bình mí đồ đồ đồ phá… nào. Xin mời!

Hai, ba…

Page 59: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 59

Quần chúng cách mạng lại bùng trào lên theo làn sóng đỏ văn nghệ.

Cô gái có bó tóc dài vắt vẻo nãy giờ ca hát nhảy múa xem chừng đã mệt nhoài,

thở chẳng ra hơi nữa. Xung phong đầu tàu thế là quá đủ, cùng với Mùa Xuân không đến với đế quốc, cô trở về đứng trong hàng ngũ của quần chúng nhân

dân!

Chƣa kịp ngồi xuống đất, ngƣời đàn bà sát bên đã vội đƣa con cho cô, nhờ cô bế

hộ thằng cò để đƣợc ra sân nhảy mí đồ đồ.

Đứa bé khóc thét, ƣỡn quẫy trong vòng tay cô gái, đái vổng cần câu. Xung

quanh vội dạt ra, ầm ĩ cƣời thích thú. Ngƣời mẹ tuổi đã ngoài băm, toét miệng

cƣời rất đáng yêu. Chị đang ngập ngừng do dự thì tiếng vỗ tay rộp rộp, lời mời gọi í ới của bà con đã thúc đẩy bàn chân chị bƣớc ra… Và ngƣời đàn ông bằng

vai phải lứa, bố Hĩm hàng xóm, dẫu không là giống đực chồng, cũng bà con

làng nƣớc… đang đứng chờ kia! Đến gần rồi, cách nhau chừng nửa cái đòn gánh, họ bắt đầu nhún nhún chân, duỗi duỗi tay, cò cò tâng tâng nhảy mí đồ đồ

đồ phá. Miệng họ vang ca mà con tim họ hát theo. Và Đất Trời cũng cƣời vui,

hân hoan nhảy múa. Trên đầu họ là Thiên đƣờng Cộng sản! Dẫu rằng còn cách

xa nhƣng mắt họ rõ ràng đã trông thấy. Ai cũng tin mình sẽ sống đủ trăm năm; còn hơn thế, phải quyết tâm sống muôn năm! Chẳng ai chết đi cả, chỉ có những

ngƣời hy sinh để rồi sống mãi trong lòng chúng ta!

– Chị nhìn đi đâu thế?

Nghe tiếng Thùy Dƣơng nhắc, Lệ Uyên quay đầu lại ngơ ngác.

– Chị không thấy cái gì kia ƣ?

– ?!

– Tuyệt vời! Một cặp già đang… mí đồ đồ. Xem kìa!

Lệ Uyên mỉm cƣời. Sự xuất hiện của hai đồng chí lão thành trên sân chơi quả

đã làm cho quần chúng thêm náo nức, tháng Hữu Nghị Việt Trung Xô càng

tƣng bừng… Chàng đang độ tuổi 70, nàng cũng xấp xỉ ngoài 60. Cả hai cùng hốc hác, tiều tụy, móm mém, miệng hoác ra cƣời mà răng gẫy rụng gần hết.

Áo nâu của chàng toạc một mảng bên vai; váy đụp của nàng đàng trƣớc đàng

sau có hai miếng vá. Họ đã nhịn ăn nhịn mặc, nhịn mọi thứ, dành tất cả để nuôi bộ đội đánh thắng quân thù. Nào, mí đồ đồ đồ phá…

Đang co co nhún nhún, tâng tâng, nhảy nhảy, chẳng hiểu sao, tại vấp phải mô

đất hay vì đầu gối khớp xƣơng long ra, chàng sụm xuống ngã ngồi trên đất! Còn

nàng thì, chàng đâu có đụng tới, vẫn cách khoảng nửa cái đòn gánh; ấy rứa mà, mới mí đồ đồ đồ chƣa đƣợc vài phút đã lăn quay ra, ngã chỏng gọng!…

Page 60: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

60 Trần Thế Nhân

Thế mới hay, mới vui chứ! Cả sân chơi trẻ già lớn bé ôm bụng cƣời lăn cƣời

bò. Nhờ có Bác Xiết-Ta-Liên bên Liên Xô, Bác Mao Trạch Đông bên Trung

Quốc, Bác Hồ dẫn đƣờng chỉ lối, nhân dân Việt Nam, bà con Thanh Hoá ta mới đƣợc sung sƣớng cƣời vui nhƣ vậy!

Cặp già mí đồ đồ đã đƣợc quần chúng văn nghệ dìu đỡ hai tay, nắn bóp đôi

chân, ngồi dậy trên sân cỏ. Chàng đƣợc lũ con trai nhong nhong cõng trên vai

trở về lại hàng ngũ. Nàng đã có lũ con gái ôm bế đƣa về tới tận nhà. Chàng vẫn cƣời nhe hai cái lợi mòn nhẵn răng. Nàng cũng muốn cƣời nhƣng chẳng

hiểu sao lại sụt sịt khóc mếu? Có lẽ bốn ngàn năm nay, đến bây giờ họ mới

đƣợc sung sƣớng hạnh phúc nhƣ vậy!

Thùy Dƣơng hỏi:

– Chị à, nhạc sĩ Phạm Duy có biết vũ khúc mí đồ đồ này không nhỉ?

Lệ Uyên suy nghĩ, nhẩm tính:

– Theo nhƣ chồng chị kể, nhạc sĩ Phạm Duy sau khi từ chiến khu Bình Trị

Thiên ra, sáng tác “Bà mẹ Gio Linh” xong là ông vào Thành Hà Nội luôn. Ông

có còn ở đây đâu mà biết đƣợc! Giờ phút này hình nhƣ nhạc sĩ và gia đình đã

xuống Hải Phòng lên tàu vào Nam?

Thùy Dƣơng lại hỏi:

– Còn nhạc sĩ Trần Văn Khê?

Lệ Uyên cƣời:

– Giáo sƣ nhạc sĩ này từ lâu đã sang Pháp, có biết gì về cuộc kháng chiến

trƣờng kỳ chín năm đâu! Hiện ông ấy đang giảng bài ở Xoọc-Bon. Vị Tiến sĩ

này rất mê nhã nhạc Cung đình Huế.

Thùy Dƣơng nhăn mặt, trề môi:

– Nhã nhạc Cung đình Huế, hát dặm Nghệ Tĩnh… làm sao bì kịp, so sánh nổi

mí đồ đồ đồ phá…

Lệ Uyên gật gật đầu:

– Đồng ý, hoàn toàn nhất trí. Nếu nhƣ cả hai nhạc sĩ mà biết đƣợc, tận mắt

chứng kiến vũ khúc mí đồ đồ đồ phá trong tháng Hữu nghị Việt Trung Xô; nhất

là giáo sƣ Trần, chị tin rằng họ sẽ lập trình, đề nghị UNESCO công nhận mí đồ đồ đồ phá… là di sản văn hoá phi vật thể của thế giới!

Page 61: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 61

Chƣơng 7 QUÊ NGOƤI HÀ TRUNG, QUÊ NỘI NGA SƠN. NGHĨ VỀ TRỜI LƤI SUY RA MÌNH

Hai chị em bƣớc tới bên một ông già đang ngồi trƣớc hiên nhà đọc báo. Lệ Uyên

kính cẩn hỏi:

– Thƣa Cụ, báo ra ngày mấy ạ?

Ngẩng đầu lên, kính lão tụt xuống mũi, cụ nói nghe nhƣ gắt:

– Cái chi? Hử. Cái chi? Có biết chữ không mà hỏi? Báo Nhân Dân số ra ngày

7 tháng 5 năm 1955, kỷ niệm một năm chiến thắng Điện Biên Phủ…

Cả hai chị em cùng ngơ ngác.

– Bây giờ, thƣa Cụ… Năm nay sao lại là 1955?

Ông cụ nổi quặu:

– Không là 1955 thì là cái chi? Nghìn chín trăm đút nút hử? Rõ là đồ con ních!

Thôi chúng bay đi đi, yên cho ngƣời ta đọc!

Vội nắm tay nhau bƣớc đi, đƣợc một đoạn hai chị em còn nhìn lại xem mắt mũi ông già thế nào mà trông gà hoá quốc, gọi mình là “đồ con ních”? Nhƣng

kìa, cụ đang nhỏ dần nhỏ dần cho đến khi chỉ còn bằng hạt đậu đen rồi… biến!

Họ dừng lại, nhìn nhau.

– Lệ Uyên! Trông chị buồn cƣời quá!

– Làm sao cơ?

– Một cô bé mới lên… bảy!

– Đâu có! Chị vẫn là chị… Còn em? Thùy Dƣơng? Ô! Sao em lại nhƣ… nhƣ một con cún mới chập chững, lon ton…

– Vớ vẩn!

– Thật mà!

Họ ôm nhau cƣời.

Hàm Rồng đây rồi! Dòng sông Mã co hẹp lại giữa đôi bờ, bị chẹn giữa hai ngọn núi, một ngọn nằm, một ngọn ngồi khiến con sông bực mình, vùng vẫy,

chảy xiết. Cầu sắt hình bán nguyệt, vòng cung gẫy gục vì mìn đánh sập, rơi

xuống sông, còn nhô lên mặt nƣớc bên bờ Nam một mảng vai, mấy cẳng chân

Page 62: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

62 Trần Thế Nhân

ống tay bằng sắt rỉ nát sau 9 năm kháng chiến trƣờng kỳ. Khách bộ hành phải

sang sông bằng phà, lác đác cũng có một hai cái thuyền chở ngƣời.

Tới Đò Lèn. Cầu sắt cũng chìm nghỉm dƣới sông Lèn. Ra giữa sông Lệ Uyên đứng lại nhìn quanh. Thấp thoáng sau luỹ tre, vƣờn cau là những mái nhà tranh

ẩn mình lặng lẽ. Một vài căn nhà ngói đứng riêng ra có vẻ nhƣ sợ sệt bởi sự

cách biệt với những mái nhà tranh xơ xác nghèo hèn. Còn ngôi đình làng uy nghi kia, chẳng hiểu nguồn cơn thế nào cũng đã gục đổ xuống trên đống gạch

vôi? Tiếng gà gáy vọng lên từ xóm nhỏ, ngay lối đi xuống bãi cát ven sông, có

mấy ngƣời đàn bà đang giặt chiếu…

Làn điệu chày vung lên đập xuống mặt chiếu, lòng sông chen lẫn tiếng cƣời í

ới.

– Thùy Dƣơng ơi, chẳng hiểu sao cứ mỗi lần nghe tiếng gà gáy ở một vùng quê cất lên là tim chị sững lại, ngẩn ngơ! Vừa vui sƣớng vừa đau khổ…

Thùy Dƣơng cƣời:

– Phải là gà gáy ở xóm quê kia, chứ gà gáy ở thành phố thì chán phèo! Gà gáy ở

thành phố nỏ khác gì chó sủa, mèo kêu, chuột rúc! Y nhƣ tiếng kêu của ngƣời

bị nhốt giam: Tôi đang bị tù đây! Mở cửa cho tôi ra!

Lệ Uyên phì cƣời:

– Em nói đúng nhƣng hơi quá lời. Chị nghĩ, mèo kêu chó sủa ở làng quê nghe cũng thú vị chứ?

– Chị chƣa hiểu ý em. Em nói vậy có nghĩa là thành phố nhiều khi cũng giống

nhƣ một trại giam khổng lồ. Trại giam đó cứ ngày một đƣợc mở rộng ra, thêm nhiều nhà nhiều buồng giam bê tông cốt sắt, cổng đóng cửa khoá rất chi là kỹ

lƣỡng…

– Và cái số ngƣời ở xóm làng quê êm ả, nơi tiếng gà gáy vừa cất lên kia, cứ ùn ùn rủ nhau ra thành phố, mỗi ngày một đông, tự nguyện chui vào những phòng

biệt giam đó… Em ạ, chị nhớ có lần nghe ai nói, đời con ngƣời ta bắt đầu từ

lúc sinh là cứ lòng vòng đi, quanh quẹo bƣớc, mãi cho tới khi ra Nghĩa địa! Bây giờ em lại bổ sung thêm một ý tƣởng rất chi là sâu sắc: con ngƣời chúng ta sinh

ra trên đời ai rồi cũng bị nhốt giam, ở tù cả; cuối cùng mới đƣợc trả tự do, cho

về Nghĩa địa…

Hai chị em lại ôm nhau cƣời.

– Có một cái nhà tù – Mắt Thùy Dƣơng sáng lên, láu lỉnh – theo ý em mỗi con

ngƣời chúng ta nên đƣợc nhốt giam dài hạn, chung thân ở trong đó trƣớc khi ra Nghĩa địa. Em đố chị biết nhà tù ấy tên gọi là gì?

Page 63: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 63

– Chịu. Làm sao có thể đoán ra đƣợc những tƣ duy siêu phàm mang tầm thế kỷ

của em, Thùy Dƣơng yêu quý!

– Nhà tù đó là Gia đình! Tên gọi nó là Gia đình. Vậy mà con Thùy Dƣơng hƣ hỏng, khốn khổ này chƣa bao giờ chịu nhốt giam, thuần phục cải tạo trong nhà

giam đó thật đáng tiếc. Cơ sự đã lỡ rồi…

– Vậy mà nhà tù mang tên Gia đình có từ nghìn vạn năm đó chẳng hiểu vì sao,

Trời lại xúi ngƣời trong nhà quậy, rƣớc quỷ bên ngoài vào phá; sụp đổ tan tành

cả nửa thế kỷ nay!?

– Bởi vậy con Thùy Dƣơng này muốn trở về Gia đình nó mà cũng không về nổi;

nhà cửa đâu còn, anh em bà con ly tán hết!

– Đồng ý. Nhƣng đồng chí Phan Thùy Dƣơng ạ, chị thấy chúng ta không nên đổ tất cả mọi lỗi cho Trời, dù rằng Trời đã gây ra mọi chuyện. Tự bản thân

chúng ta cũng có lỗi, cũng phải nhận lấy một phần trách nhiệm. Đúng là Trời

đã đập nát, xé lẻ các gia đình nhỏ chúng ta ra, rồi thu gom tất cả đống vụn nát tinh thần đó xây thành Ngôi Nhà Lớn, Ngôi Nhà Chung cao cả thiêng liêng bắt

mọi ngƣời đến ở… Làm nhƣ vậy, Trời đã lầm tƣởng rằng sẽ đơn giản hoá

đƣợc cuộc sống con ngƣời, dễ nắm dễ sai cái lũ chúng ta, gán ghép chúng ta

vào một Trật tự Mới…

Và lũ chúng ta lại cũng ngây thơ, ngu muội tin vào Trời đến nỗi không phân

biệt đƣợc ngày và đêm, lẫn lộn lẽ phải và điều sai quấy, nhân đạo và vô nhân

đạo. Chúng ta phá mà cứ tƣởng là xây, giết ngƣời mà lại cho rằng cứu ngƣời. Quỷ thì không giết mà giết ngay chính chúng ta!

– Chị có tin Trời không?

– Có chứ. Không tin làm sao đƣợc. Trời phủ che tất cả. Ngoài Trời ra ai còn

thấy cái gì đâu! Có những cái đúng là chỉ có Trời mới làm đƣợc. Đƣợc Trời

cho, Trời cứu thì còn gì bằng! Xấu xa mấy rồi cũng thành tốt đẹp! Ngu dốt mấy rồi cũng thành thông thái…

– Và ngƣợc lại… Trời mà đày đọa, hành hạ cho thì chỉ có mà chết! Hồi ở Bên

Ấy, em còn nhớ Lê Vĩnh, chồng yêu quý của em, cứ ngâm nga: Bắt phanh trần phải phanh trần, cho may ô mới đƣợc phần… may ô!

– Phải theo Trời mà sống và cũng phải tin Trời. Nhƣng em ạ, lúc nào ở đâu,

trƣớc mắt Trời, theo chị, con ngƣời chúng ta cũng nên biết dừng lại, chừa ra một khoảng cách…

– Khoảng cách nhƣ thế nào?

Page 64: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

64 Trần Thế Nhân

– Rất khó nói. Thật ra, Trời đã nắm cổ lôi đi thì chỉ có mỗi một việc là đi tới,

muốn lùi cũng không đƣợc, bởi có còn chỗ đâu mà lùi! Tuy nhiên, biết dừng lại

cũng là điều cần thiết. Dừng lại, tức là đã đi lùi đƣợc… một bƣớc?

– Chị nói thế. Mình muốn dừng lại nhƣng phía sau ngƣời ta cứ ào ào xốc tới,

trƣờn đè lên! Bánh xe Lịch sử sẽ nghiến nát!

– Ôi chào! Toàn là những sáo ngữ véo von cả. Bánh xe kiểu gì mới đƣợc chứ?

Xe cút kít, xe bò, xe cải tiến, xe ô tô, xe hoả? Cái ngƣời đầu tiên nào sáng tác

ra Bánh xe Lịch sử đó, theo chị, ý tƣởng của hắn không vƣợt ra đƣợc khỏi

bánh xe có ngựa kéo bò lôi…

– Nói tóm lại, thƣa cô giáo, cô cho em Thùy Dƣơng biết, ai đã dạy cho cô biết

dừng lại, chừa ra khoảng cách đó… Em vẫn cho rằng, một thời ở Bên Ấy,

nhiều khi chúng ta cứ phải nai lƣng phấn đấu, ra sức thi đua để thực hiện những cái mà chính chúng ta cũng không hiểu để làm cái quái gì!

– Những sai lầm và nỗi đau của lớp ngƣời đi trƣớc soi vào chính bản thân chúng ta. Suốt quãng đời sống Bên Ấy chị đã chiêm nghiệm đƣợc một điều:

Đừng quá tin vào sự sáng suốt của Trời, tự mãn về sự khôn ngoan của mình.

Trong khi Trời chƣa cứu mình, thậm chí quay mặt làm ngơ thì tự mình phải tự

lo cứu lấy mình. Thừa nhận cái ngu dốt, rút ra bài học từ nỗi đau của mình là tốt nhất!

Không biết ai đây nhỉ, một ngƣời rất gần gũi thân thiết với chị… Yên nào, để

chị nhớ lại xem. Ngƣời ấy đã từng vẽ chân dung chị, có lần nói rằng: “Lệ Uyên ạ, cái điều anh cảm nhận đƣợc một cách đầy đủ thấm thía gần trọn cả đời

mình ấy là “Tôi ngu. Vâng rất ngu!”. Hoặc giả nói theo kiểu triết học “Tôi ngu

dốt, ấy là tôi tồn tại”. Đến tuổi 50 chỉ trong giây lát, sau một đêm dài bừng thức dậy, “mặc khải” đƣợc rằng mình đã lầm lẫn, u mê đến không thể tin nổi.

Khoảnh khắc ấy, tôi mới thấy mình còn có đƣợc chút sáng suốt, thông minh.

Lệ Uyên dừng lại, ngơ ngác. Chị cố nhớ khuôn mặt của ai đó, đôi mắt mơ màng, đắm đuối, làn môi mê cuồng điên dại. “Anh yêu em”. Ba tiếng rạo rực

cả thân mình, chìm sâu vào trái tim.

Ai? Ai nhỉ? Trái tim chị nhoà nƣớc mắt. Những giọt lệ màu hồng.

– Lệ Uyên! Chị làm sao thế? Sao chúng ta lại đứng giữa trời giữa đất thế này?

Thùy Dƣơng cầm tay chị, khẽ lôi về phía mình.

Yên! Yên nào! Chị đang cố nhớ lại. Vụ nổ Big Bang. Vũ trụ trong 3 phút lẻ mấy

giây?… Trong mỗi con ngƣời là một Vũ trụ…

Page 65: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 65

Chƣơng 8 “HOÀI NGHI TẤT CẢ!” CÂU CHÂM NGÔN ÔNG MÁC YÊU THÍCH…

Lệ Uyên tiếp nối dòng suy tƣ sau Vụ-Nổ-Lớn trong con ngƣời mình:

– Em thƣơng yêu ạ, thời của chúng ta lúc còn ở Bên Ấy, chúng ta chỉ đƣợc

phép tin chứ không đƣợc quyền hoài nghi. Hoài nghi coi nhƣ là một căn bệnh, tội lỗi. Năm chị học đại học Sƣ phạm có một thầy giáo cùng cảnh ngộ nhƣ chị.

Ngƣời đàn ông ánh mắt đen biếc và thông minh đó hình nhƣ có cảm tình với

trò Uyên; và ngƣợc lại, trò Uyên cũng… Nhƣng cả hai đều biết dừng lại. Có một câu chuyện thầy kể mà sao bây giờ tự nhiên chị vẫn còn nhớ.

Hồi “Cải Cở Thủ Ti”, thầy kể, ông thân sinh ra thầy bị Đội quy sai đổ oan cho

là “địa chủ phản động, Việt gian bán nƣớc”.

Vào Đảng từ những năm đầu 40, ông Phó Chủ tịch Huyện này uất ức và đau

khổ. Biết mình sắp bị án tử hình, thân phụ thầy tìm cách trốn ra đƣợc khỏi

phòng giam rồi trèo lên tít ngọn cây đa ở sát ngay bên trụ sở Uỷ ban. Thời thơ

ấu, vốn là một đứa trẻ nghịch ngợm gan dạ, cậu bé đã từng leo lên tuốt ngọn đa bắt tổ chim. Đến tuổi thanh xuân, cũng nhờ tài leo trèo đó mà ngƣời chiến sĩ

hoạt động bí mật có lần đã nằm im trên ngọn cây, thoát đƣợc cuộc truy lùng săn

bắt của mật thám Pháp bảo hộ và lính Nam triều thuộc địa.

Và bây giờ, Cộng hoà Dân chủ năm thứ mƣời một, ông thân sinh ra thầy vào

tuổi 37, lại đang ngồi trên chót vót ngọn đa này.

Ông làm cái gì trên đó? Dạng háng, trụ vững chân vào hai chạc cây, dựa lƣng

vào thân cây, ông đƣa hai tay bắc loa mồm và… chửi! Từ sáng lúc mặt trời mới mọc dậy bà con làng nƣớc đã nghe ông chửi. Ông chửi ai và chửi cái gì? Đại

loại là chửi Trời, chửi Đất, chửi Nhân gian, chửi Thế giới, chửi Ngƣời, chửi

Ta… Chửi tuốt! Nhiều ngƣời dƣới đƣờng đi qua muốn dừng chân lắng nghe xem ông này chửi cái chi, muốn lắm nhƣng rồi sợ Đội… nên vội vàng đi thẳng.

Dân chúng ở những nhà quanh đó thì có lúc giật mình, tái xanh mặt khi nghe

những câu móc mắt Trời, những lời phơi bày gan ruột Thần Thánh. Lại có lúc thắt ruột, bể bụng, toét miệng ra cƣời vì những chuyện lạ lùng trớ trêu lâu nay

cứ tƣởng chỉ có trong cổ tích, tiếu lâm… Nỏ phải đi đâu xa, mấy khi đƣợc rảnh

rỗi ngồi nhà mà nghe… hát! Ông này ca còn hay hơn hát dặm, thú vị bằng mấy

Văn công trung ƣơng.

Page 66: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

66 Trần Thế Nhân

Đội ra lệnh cho dân quân phải trèo lên ngay, tóm cổ lôi xuống, nhƣng rồi

chẳng có ai quen trèo cây, leo lên nổi. Thôi đành mặc cho thằng phản động

Việt gian này chửi; chửi mỏi mồm rát họng rồi cũng phải im. Và… để xem cái bài chửi này đƣợc ca cho đến khi nào?

Đội Cải cách và các đồng chí rễ chuỗi cùng toàn thể nhân dân lắng chờ. Giữa

trƣa nắng. Im lặng. Có lẽ ca sĩ khát và đói, đã mấy hôm rồi không uống nƣớc

chẳng ăn cơm nên lả gục xuống trên cành cây? Hay thằng phản động này còn định giữ sức và cũng muốn đồng bào ta … nghỉ trƣa, giải lao?

Y nhƣ rằng! Quá hai giờ chiều ca sĩ lại tiếp tục chửi! Tuy nhiên lời ca chửi bắt

đầu rời rạc, lộn xộn; tiếng ca chửi khàn đục, đứt quãng… không còn là tiếng ngƣời căm uất đớn đau nữa, mà chỉ là tiếng tru, tiếng hú hừ hừ, hậc hậc của con

thú bị cắt cổ, hết máu, cạn hơi!

Mặt trời đã xuống núi rồi vẫn cố ngoi lên lần nữa nhìn, dòng lệ đỏ ứa tràn… Cả thế giới đau thƣơng chẳng còn ai theo dõi lắng nghe ca sĩ. Từ sáng tới

chiều nhân loại đói khổ đã mệt mỏi, rã rời…

Đúng vào lúc ấy, ca sĩ buông thả hai tay, mặc cho tấm hình hài thân thể bao

năm nay vẫn gọi là con ngƣời, từ ngọn cây đa làng đƣợc tự nhiên... rơi xuống!

Gần nửa đêm, quần chúng đi họp đấu tranh về, qua lối Ủy ban, tình cờ phát hiện

ra xác chết của thằng Phó Chủ tịch Huyện, tên địa chủ phản động bán nƣớc hại

dân… Đầu vỡ toác, toàn thân dập nát…Hắn nằm bên bờ đƣờng, cách gốc cây đa một đoạn chừng bảy tám bƣớc chân.

Họ vội báo cáo lên cho mấy ông Đội biết.

Câu chuyện thầy giáo dạy vật lý của chị kể nghe thật lạ lùng kinh dị, cứ tƣởng

đâu huyền hoặc dƣới Địa ngục – Âm ty, có ai hay lại hiện nguyên hình trên trần

gian tự do hạnh phúc.

Sau đó ít lâu, có lần thầy hỏi cô học trò:

“Lệ Uyên, em có biết Karl Marx, ngƣời thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, khối óc

khủng khiếp của nhân loại chúng ta yêu thích câu châm ngôn nào không?”

“Dạ thƣa thầy, em làm sao biết đƣợc?”

“Hoài nghi tất cả!”. Câu châm ngôn mà Marx yêu thích đã làm thầy ngạc

nhiên, đầu óc tỉnh lại và sáng ra. Ông tổ sƣ của chủ nghĩa Cộng sản chẳng đã

khẳng định quyền của con ngƣời chúng ta là đƣợc hoài nghi đó sao? Trƣớc

Marx một thời, nhà bác học Descartes cũng đã từng nói: “Tôi tƣ duy tức là tôi

Page 67: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 67

tồn tại”. Đã tƣ duy, con ngƣời ắt phải hoài nghi. Không hoài nghi làm sao nhận

ra đƣợc cái sai lầm, tìm thấy đƣợc cái Mới, cái Chân Thiện Mỹ! Không hoài

nghi làm sao có những phát minh khoa học!

Con ngƣời đời thƣờng chúng ta vẫn hay cao ngạo cho rằng mình khác loài vật

ở chỗ có tƣ duy. Lệ Uyên ạ, cứ cho rằng loài vật không có tƣ duy nhƣng nhiều

khi nhìn con chó, con mèo, con chuột… thầy vẫn nghĩ hình nhƣ có lúc chúng

cũng biết hoài nghi? Hoài nghi để tránh đòn, thoát hiểm. Hoài nghi để tồn tại…. Nói nhƣ Descartes. Đúng không?

Vậy thì con ngƣời chúng ta bị Trời cấm không cho đƣợc hoài nghi, hoá ra còn

thua cả con vật hay sao?

Thầy dừng lại, vẻ mặt căng thẳng. Con ngƣời đa sự này nhiều lúc trông tội tội

thƣơng thƣơng. Dạy vật lý mà thích văn chƣơng. Đã từng làm thơ, viết cả

truyện ngắn.

Nhớ lại câu chuyện thầy kể hôm trƣớc không hiểu sao Lệ Uyên tự nhiên hỏi

thầy:

“Thƣa thầy, xin thầy tha thứ… Ông thân sinh ra thầy một thời cũng đã từng

tin…”

Thầy mỉm cƣời, mắt sáng:

“Chứ sao! Còn quá tin nữa. Cuồng tín!”

Rồi không để Lệ Uyên hỏi tiếp, thầy buột miệng cƣời phá lên:

“Và cha tôi đã biết hoài nghi. Cái ngày hôm ấy, khi ông ngồi chót vót trên

ngọn cây đa, bắc loa miệng chửi từ sáng cho đến chiều tối là ông đã “Hoài

nghi tất cả!”

– Chị Hai nói lung tung nhiều quá đấy! – Thùy Dƣơng kêu lên – Ngoài đề,

cháy giáo án rồi, cô giáo ạ. Từ lúc sang tới Bên Này, gặp nhau kết nghĩa, bà

chị thân yêu của tôi bao giờ cũng kín tiếng giữ lời. Chẳng hiểu vì sao hôm nay

lại say sƣa, đa ngôn thế nhỉ? Chắc có chuyện gì lạ lùng sắp xảy ra đây.

Lệ Uyên ôm hôn Thùy Dƣơng, nghẹn lời:

– Ôi! Thùy Dƣơng! Chị yêu em. Yêu không biết bao nhiêu mà kể. Hãy tha thứ

cho chị. Bàn chân chị đang run lên… Đất Hà Trung quê mẹ, Nga Sơn quê cha đây rồi!…

Page 68: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

68 Trần Thế Nhân

Chƣơng 9 QUÊ MẸ – QUÊ CHA. ĐÓI VÀ RÉT

Trời đang hửng nắng bỗng nhiên tối mờ. Có một cánh cửa vô hình nào vừa

khép lại, sập xuống! Những tia vàng còn rớt lại viền quanh ngọn đồi, còi cọc những cây thông đứng chẳng theo hàng lối.

Gió mùa Đông Bắc tràn về. Những đám mây đói rét ùn ùn đàn lũ, khác nào lũ

ăn mày ăn xin bị xua đuổi về phƣơng Nam, tuyệt vọng nhìn xuống những thửa

ruộng chiêm trũng khô hạn xác xơ.

Giữa đồng không mông quạnh, sân chơi tự nhiên của gió, thấp thoáng một vài

chấm nâu bạc: ấy là những con ngƣời đang còng lƣng xuống moi tìm con ốc

con cua trong bùn đất…

– Hình nhƣ cả vùng này đang đói?

Thùy Dƣơng thốt lên.

– Có lẽ thế – Lệ Uyên đồng tình – Nếu nhƣ không phải là đói thì cũng chẳng

còn gì để mà ăn. Hoặc nói nhƣ ai, không có ngƣời chết đói nhƣng có những ngƣời đang đói đến chết.

– Hòn núi gì kia hở chị?

– Hòn Yến Sơn thuộc làng Bình Lâm huyện Hà Trung.

– Trông hay quá nhỉ. Cái cây gì mọc ngay trên đỉnh núi nhìn giống nhƣ hình một

con trăn cuộn. Nó mọc tự nhiên hay ngƣời ta trồng, hả chị?

Lệ Uyên trầm ngâm:

– Mẹ của chị là ngƣời làng Bình Lâm. Bố của chị ngƣời ở Nga Bạch – Nga

Sơn. Ông làm rể Hà Trung. Trong con ngƣời chị có hai quê; quê chính là Nga

Sơn. Hồi còn nhỏ có lần chị cũng đã hỏi mẹ về cái cây này. Mẹ bảo đó là cây đa

các cụ trồng từ xửa từ xƣa không biết thời nào, thuở ấu thơ mẹ đã thấy nó nhƣ thế rồi. Sau này, có lần hai mẹ con cùng đi qua đƣờng quốc lộ, ngay chỗ bây giờ

chị em mình đang đứng đây, mẹ lại giơ tay chỉ lên cây đa mà nói: “Con ạ, cả

vùng ta hình nhƣ chỉ còn sót lại cây đa này. Tất cả những cây đa có bóng mát toả che, ngƣời ta đều chặt đốn sạch. Đình miếu trong làng chẳng hiểu vì lẽ gì, họ

cũng đập phá bằng hết… Chỉ còn Đền Bà Triệu, Đền Hàn, Đền Sòng… là

chƣa động đến mà thôi.

Page 69: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 69

Trời rét. Cái lạnh sắc bén nhƣ dao len vào trong da thịt làm ngƣời ta có cảm

giác những linh hồn đang run rẩy lập cập quanh đây không dám ra khỏi những

nấm mồ để trở về dƣơng thế. Mấy con trâu xạc xờ lông, lòi xƣơng đang cúi đầu sục tìm, gặm cỏ khô ven bờ đê vẫn điềm nhiên nhƣ chẳng biết gì các bạn

đồng hƣơng cò gầy rạc, mệt lả vừa mới tìm ra chỗ tựa nơi đậu xuống yên lành,

là cái lƣng nô lệ và nhẫn nhục của mình.

Lệ Uyên nói:

– Đây là quốc lộ Một, con đƣờng ta rộng thênh thang tám thƣớc… Thùy

Dƣơng chắc nhiều lần từ Nghệ An ra Hà Nội đi qua đây mà không nhớ. Từ đây,

ta đi tới thì ra Hà Phong, Hà Bình, Cầu Cừ, Bỉm Sơn, Đồng Dao. Cũng có một con đƣờng rẽ phải dƣới chân đồi kia gọi là đƣờng Mƣời Ba, qua Hà Phong, Hà

Toại, Hà Lan… ra tới cầu Báo Văn. Qua cầu này là sang đất Nga Sơn. Nhƣng

đi đƣờng ấy hơi xa. Cứ men theo con đê trƣớc mặt này… (Lệ Uyên giơ tay chỉ con đê đất pha cát, mặt đê rộng khoảng 6m, cao chừng 4m, chạy vòng theo

hƣớng Đông Bắc) cũng ra tới cầu Báo Văn. Đƣờng này thì ngắn hơn nhƣng

vắng ngƣời…

Page 70: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

70 Trần Thế Nhân

Chƣơng 10 CÁC ĐỒNG CHÍ CỐ VẤN TÀU

Con cún Thùy Dƣơng hình nhƣ chẳng để tai gì mấy lời chỉ dẫn của cô giáo Lệ

Uyên, nó đang mải nhìn đâu đâu…

– Chị xem kìa!

– Cái gì thế?

Theo ngón tay trỏ của Thùy Dƣơng, chị Hai Lệ Uyên đã nhận ra đám ngƣời

đang ngƣợc chiều đi tới. Một tiểu đội lính. Một ngƣời cỡi ngựa, còn những

ngƣời kia đi bộ. Họ mặc quân phục màu đất sét vàng, đội mũ vải trông chẳng giống gì bộ đội Cụ Hồ trong màu xanh lá cây quen thuộc. Hai chị em nhìn sững.

Ngƣời ngồi trên yên ngựa, chắc là sĩ quan, một tay giơ cao, đầu cúi gật gật, kêu lên:

“Nỉ hảo!”

Thùy Dƣơng há miệng, không hiểu con ngƣời quái lạ đang nhe cả hai hàm răng

kia là ai, vừa nói cái gì?

Y lại xổ ra tiếp một tràng nghe nhƣ chó sủa:

“Duê Nản giẩn mỉn hở Trung Của giẩn mỉn, ủa mẩn sƣ I cha xung ti… Mảo trủ xỉ oan xuê! Oan xuê! Hủ trủ xỉ oan xuê!” (Nhân dân Việt Nam và nhân dân

Trung Quốc là anh em một nhà. Mao Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn

năm!)

Mấy ngƣời lính đi bộ theo sau chân ngựa cƣời vui vẻ, nhất loạt vung tay lên hô:

“Oan xuê! Oan xuê!”

Toán lính đi qua rồi, hai chị em mới sực nghĩ ra hình nhƣ họ là ngƣời Trung

Quốc? Chỉ có thể là Trung Quốc thôi. Mà không Trung Quốc thì cũng Tàu.

Trung Quốc – Việt Nam, Tàu với Ta. Anh em một nhà. Họ là anh, mình là em.

Còn ai vào đó nữa?

“Quân của Bác Mao sang giúp ta đấy!”

Một ngƣời vừa dừng lại bên đƣờng tay bắc loa mồm hồ hởi kêu to cho bà con, nhân dân Việt Nam mình biết.

Y nhƣ rằng chỉ đi tới đoạn đƣờng nữa hai chị em lại gặp thêm một đồng chí

Trung Quốc, duy nhất chỉ một đồng chí Tàu thôi, còn tất cả là Ta; trong số Ta một nửa bộ đội, một nửa dân thƣờng… đang đứng vây quanh.

“Đồng chí Vƣơng !”

Page 71: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 71

Có ai đó kêu lên.

“Oảng thủng trƣ!”

Một ngƣời to béo nung núc e đến cả tạ thịt và mỡ trông thật dễ thƣơng mà

buồn cƣời đang đứng bên con ngựa nâu gầy còm, giữa vòng vây của bà con

Việt Nam rộc rạc ốm đói chỉ còn da bọc xƣơng.

Đám đông xôn xao.

“Cố vấn Trung Quốc do Bác Mao cử sang Việt Nam để giúp Bác Hồ và Đảng

ta làm cuộc Cách mạng Cải cách Ruộng đất!”

Cố vấn cƣời híp mắt, nửa giống Mảo Trủ xỉ nửa hao hao con lợn đang sục đầu

vào máng ăn chợt dừng lại, ghếch mõm lên nhìn ngƣời cho nó ăn.

Oảng-thủng-trƣ cƣời, gật gật đầu.

“Hảo! Hảo! Hẩn Hảo!”.

Đám đông lại ồn ào:

“Ông ấy bảo Trung Quốc sẽ giúp cho ta thêm nhiều gạo để cứu đói…”

“Không phải gạo đâu! Bánh khảo! Bánh bao!”

“Bác Mao thích ăn bánh khảo! Ngƣời Tàu hay ăn bánh bao!”

Một ngƣời cao giọng nói ra vẻ hiểu biết:

“Hảo là tốt. Không phải gạo, chẳng phải bánh khảo, bánh bao đâu! Đồng chí

Trung Quốc khen chúng ta tốt, rất tốt!”

“À ra thế!…”

Họ lại cƣời. Điệu cƣời hân hoan đồng cảm. Tiếng Trung Quốc vậy mà nghe

hay đáo để. Gần gũi anh em, sát nách nhau là thế mà cứ nhƣ tiếng ai đâu xa lạ. Có ông anh Trung Quốc khổng lồ ngày đêm bảo vệ, kè kè chở che thì đố thằng

đế quốc nào trên thế giới này còn dám sờ mó đến chú em Việt Nam nữa!

Cố vấn Vƣơng đang loay hoay đặt một chân vào bàn đạp để tạo thế trèo lên yên ngựa.

Mới vừa đu ngƣời lên, ráng sức đƣa chân phải qua lƣng ngựa, chẳng hiểu làm

sao mất đà, cố vấn loạng choạng rơi từ trên mình ngựa xuống… Hự! Cả đống thịt đồng chí nằm chình ình trên đất.

Đám đông cƣời rộ lên. Ngƣời Việt Nam vốn sẵn cố tật hay cƣời! Hình nhƣ

cảm thấy mình có lỗi đối với ông anh vĩ đại, họ xúm nhau lại nâng đỡ cố vấn dậy, vừa xuýt xoa phủi bụi lau giày vừa bóp nắn tay chân cho đồng chí.

Một sáng kiến đƣợc đƣa ra để sửa sai ngay tức thì sự cố đáng tiếc…

Page 72: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

72 Trần Thế Nhân

Họ phân công, giao nhiệm vụ cho một anh ngồi xổm dƣới đất để đồng chí

Vƣơng bƣớc lên, đặt chân đứng trên đôi vai, và hai anh nữa đứng sát bên ngựa

cúi đầu còng lƣng xuống để cố vấn tiếp tục phóc lên, họ sẽ dùng vai và đầu đội hai mông đít tạo thế ƣu tiên và thuận lợi cho cố vấn dễ dàng gác chân phải qua

lƣng ngựa rồi vững vàng ngồi vào yên…

Cố vấn hiểu ý, thông cảm và làm theo đúng nguyện vọng thiết tha của quần chúng – Quân Chủ lực Cách mạng!

Xem kìa! Những cặp môi mím, hàm răng nghiến, mặt mày nhăn nhó ráng sức…

Cố vấn đã gác chân qua yên ngựa, vậy mà lóng ngóng thế quái nào, cẳng chân trái lại tuột ra khỏi bàn đạp, vô ý đạp thẳng vào đầu một ngƣời anh em Việt

Nam làm đồng chí này choáng váng, té ngửa xuống… Rất may là sau khi lóp

ngóp bò dậy, đế dày da xăng đá của cố vấn chỉ làm xây xát nhẹ một bên má… Không can chi!

“Xia xia nị!”

Cố vấn gật gật đầu cƣời, vung xòe năm ngón tay ra trƣớc mặt. Rồi hai bàn tay

đan ngón, nắm lại, giơ lên quá đầu bày tỏ dấu hiệu đoàn kết keo sơn, hữu nghị

bền vững.

“Xia xia nị! Xia xia nị!”

Cố vấn nhắc lại một lần nữa trƣớc khi giật dây cƣơng cho ngựa lên đƣờng

thẳng dong.

Đoàn ngƣời ngựa đã khuất bên kia dốc rồi Thùy Dƣơng vẫn còn ngơ ngác… Ả

ngây thơ hỏi:

– Chị Uyên! Cái ông cố vấn Trung Quốc đó đang đi tìm chỗ để “ỉa” có phải

không?

Lệ Uyên tròn mắt ngạc nhiên:

– Sao em lại nghĩ thế?

– Thì chị không nghe à? – Ả cắt nghĩa rành rọt phân minh – Ông ta nói xia xia nghĩa là đi xia, đi cầu tiêu chứ còn gì nữa. Lại còn thêm tiếng ị vào cho rõ

nghĩa. Mà ị tức là ỉa. Xia xia ị, nghĩa là tôi đi ỉa đây. Chính xác cả trăm phần

trăm! Ngƣời to béo thế, ăn no quá cho nên cơn đau bụng nó mới quặn lên,

muốn đi ỉa ngay mà không biết ỉa chỗ nào! Chắc mấy ngƣời kia đang dẫn ông ta đi ỉa đó, chị ạ…

Lệ Uyên mỉm cƣời, lắc đầu:

– Chịu! Chị thật chẳng còn hiểu ra làm sao nữa!

Page 73: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 73

Chƣơng 11 NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT

Vừa đặt chân lên đất Nga Sơn chẳng hiểu sao tự nhiên khựng lại, hai chị em

nhìn nhau ngơ ngác. Trên đầu họ nhƣ có hàng loạt bom nổ liên tiếp, dƣới chân đất rùng rùng xô dạt. Từ sau những luỹ tre xơ xác, một đoàn ngƣời áo nâu

quần đen, mặt mày hốc hác, bàn chân đất nối nhau đi hàng hai, giơ những cánh

tay khẳng khiu lên trời, đồng loạt hô vang:

– Đả đảo giai cấp địa chủ cƣờng hào phản động, áp bức bóc lột nông dân ta!

– Đả đảo! Đả đảo!

– Đả đảo bọn địa chủ, quân Việt gian phản động, lũ tay sai bán nƣớc cƣỡng

hiếp đồng bào ta, hành hạ nông dân ta!

– Đả đảo! Đả đảo!

– Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!

– Muôn năm!

– Hồ Chủ tịch muôn năm!

– Muôn năm!

– Hoan hô ngƣời Anh Cả Trƣờng Chinh!

– Hoan hô!

– Hoan hô đồng chí Hoàng Quốc Việt!

– Hoan hô!

– Hoan hô đồng chí Lê Văn Lƣơng!

– Hoan hô!

– Hoan hô đồng chí Hồ Viết Thắng!

– Hoan hô!

– Hô! Hô!…

Đoàn ngƣời mang cái tử khí lạnh toát và khủng khiếp rùng rùng đi qua trƣớc

mặt hai chị em khiến họ rùng mình hoảng sợ.

Những ngƣời đi sau cùng có mang theo súng trƣờng, dao mác, thuổng cuốc,

gậy gộc cùng với dây trói, vậy mà những nắm đấm đang tung lên trong không khí kia xem ra lại đáng sợ hơn súng đạn vũ khí nhiều. Đoàn biểu tình đang đi

Page 74: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

74 Trần Thế Nhân

về phía cái bãi rộng ở rìa làng, dƣới chân núi Tam Lênh; nơi đây đã lâu rồi

không thấy có ai họp chợ hoặc đá bóng…

– Đả đảo!

– Ảo ảo!

– Muôn năm!

– Ăm… ăm!…

Tiếng hô còn dội lại nhƣ muốn nhắc nhở cảnh báo Trời về cái gọi là “Nhất

Đội” rồi mới đến “Nhì Trời” chứ không phải nhƣ lâu nay Trời vẫn cứ lầm tƣởng. Và Con Ngƣời thì phải sờ lên gáy xem xa hay gần, sau cái đại biến này

thế tất ít nhất phải có dăm ba tên tội phạm gục ngã xuống vì đạn bắn, dao

chém hoặc thuổng cuốc bổ toác cái đầu ra… Có thế mới đảm bảo cho Cách

mạng thành công. Nhƣ vậy nông dân ta mới là Quân Chủ lực dƣới sự lãnh đạo của công nhân, giai cấp tiên phong…

Câu hò vẫn vang lên mê hoặc, lôi kéo…

– Hò lơ hó lơ lắng tai nghe tiếng ai hò lờ…

– Ai đi hò lờ…

– Hó lơ hò lơ…

Thùy Dƣơng ngây ngƣời ra hỏi:

– Hồ Viết Thắng là ai hở chị?

Lệ Uyên cau mày, cố nhớ:

– Không biết. Bác Hồ thì cả nƣớc, cả thế giới biết rồi. Ông Trƣờng Chinh thì chẳng cứ bên Ta, ngay đến bên Tàu họ cũng quen tên. Các ông Hoàng Quốc

Việt, Lê Văn Lƣơng thì nhiều lần bà con mình cũng có nghe. Còn ông Hồ Viết

Thắng là ai, ở đâu ta?

– Chịu chết.

– Có lẽ là một nhân vật quan trọng trên Trung ƣơng?

– Ông Thắng này họ Hồ… Có khi bà con với Bác Hồ chƣa biết chừng.

– Không bà con thì cũng học trò!

– Nhìn xem kìa!

Thùy Dƣơng nhìn theo ngón tay chỉ của Lệ Uyên.

Trong một cái vƣờn sát ngay bên đƣờng có hai ngƣời đàn bà đang làm trò gì đó không ai hiểu nổi. Hai ngƣời đứng trƣớc hai cây chuối. Ngƣời đàn bà nhiều

Page 75: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 75

tuổi đầu trùm khăn mỏ quạ, mặc váy đụp rách. Ngƣời đàn bà ít tuổi hơn đầu

quấn khăn vành, tóc thả đuôi gà, mặc áo quần nâu. Cả hai đều làm những động

tác giống nhau.

Một tay chống nạnh, tay kia giơ ngón trỏ chỉ vào cây chuối, miệng vừa nói vừa

hét theo nhịp vỗ tay và điệu hát của tốp nam nữ thanh niên ngồi phệt dƣới đất

làm thành vòng tròn vây quanh.

Không nghe rõ lời hai ngƣời đàn bà, chỉ nghe đƣợc lời hát:

Chúng ta cùng nói vì chúng ta căm thù

Cùng tố rằng địa chủ giết người

Loài rắn độc thâm hiểm nhất đời

Nhớ lấy từng lời bần cố nông ơi!

Hai ngƣời đàn bà làm những động tác rất ăn khớp và trùng nhau. Khi cả hai

giơ ngón tay trỏ xỉa xói, đâm bổ xuống cây chuối mà họ đang hình dung ra đó

là thằng địa chủ phản động hoặc con mẹ địa chủ bóc lột gian ác quỳ trƣớc mặt họ trên đấu trƣờng, thì toàn thân họ đổ về phía trƣớc, đít vổng lên đàng sau; khi

họ rút tay về, thân hình ngả ra phía sau thì mái đầu họ cùng ngửa lên.

Chúng đi ăn cướp từng hạt lúa giống

Chúng manh tâm bắt người để tang trâu

Lòng chúng ta ghi căm hờn sâu

Bần cố nông ta xây tự do!

Cứ theo lời hát mà suy ra thì đế quốc và địa chủ cũng chỉ là một duộc, cấu kết,

móc nối nhau. Tuy nhiên, địa chủ mũi tẹt da vàng có thể hình dung ra trƣớc mặt không đến nỗi khó khăn lắm, cho nên hai ngƣời đàn bà chỉ cần dùng ngón tay

trỏ nhƣ mũi dùi khoan vô đâm xuống, còn đế quốc thì chúng ở xa nhiều, phải

tƣởng tƣợng ra một cách vất vả hơn; đã thế, đế quốc mắt xanh mũi lõ là quan

thầy, cha mẹ của địa chủ phong kiến, cho nên niềm căm thù của hai ngƣời đàn bà này không thể chỉ dùng tới ngón tay trỏ mà phải huy động thêm 4 ngón tay

kia nữa nắm chặt lại thành quả đấm giơ lên rồi nện xuống:

Chúng ta thề đánh vào đầu đế quốc!

Nó thông đồng với bọn địa chủ thu tô!

Rồi dừng lại không phải để nghỉ mà để lấy lại tƣ thế mới tấn công, họ biểu

diễn những động tác quay vòng, lần thứ hai, lần thứ ba… vẫn nhƣ cũ, cũng theo nhịp hát vừa rồi, nhƣng hình nhƣ có hơi khác đi:

Nhớ lấy từng phần, bần cố nông ơi!

Page 76: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

76 Trần Thế Nhân

Mối căm thù đƣợc phân ra “từng lời” cho dễ nhớ rồi nối kết, keo đúc lại thành

“từng phần” để găm giữ vào tim óc con ngƣời. Nhạc sĩ tài ba đặt ra bài hát đã

thể hiện khéo léo và đúng khớp cái thâm ý của ông Đội, kẻ đang ngồi trong vòng vây của Quân Chủ lực, điều khiển khơi gợi cái man dại hận thù của đám

đông sôi sục.

Sức mạnh ma quái đầy duy tâm thần bí đã lây nhiễm bùng phát nhanh nhƣ chớp

vào những con ngƣời duy vật chân quê đến nỗi… Con Quỷ Đỏ sau khi chui

vào đƣợc đầu óc chàng nhạc sĩ u mê cuồng dại vừa trông thấy cũng hốt hoảng

vùng căng tháo chạy, khiến cho bài ca phải tạm ngừng.

Ngƣời đàn bà lớn tuổi lùi lại hai bƣớc, vỗ đít đánh bộp, đâm bổ tới trƣớc cây

chuối la lên giọng khàn đục:

– Thằng địa chủ Q. Mi có biết tao là ai không?

Rồi dừng lại, lúng túng. Ông Đội đang đứng tách riêng, cạnh cái đụn rạ gần

bên, vội bƣớc ra lắc đầu giơ tay xua xua:

– Không đƣợc! Nhỏ quá! Yếu quá! Phải thét to, gào lên làm sao cho địa chủ nó

sợ chứ! Làm lại!

Ngƣời đàn bà tập lại. Một lần. Hai lần. Tới lần thứ ba ông Đội miễn cƣỡng gật đầu:

– Tiếp tục! Nào bây giờ… kể khổ đi!

Ngƣời đàn bà lấy ngón tay trỏ dí vào cây chuối, la to:

– Q! Mi có biết suốt mƣời hai năm tao đi ở cho nhà mi, mi không hề trả công

cho tao một đồng nào; mi bỏ đói tao nhiều khi nhƣ con chó… Mỗi bữa mi cho

tao ăn cái chi mi còn nhớ không? Hử! Một nắm cơm khoai với mấy quả cà thâm. Cả đời tao chƣa đƣợc ăn lấy một miếng “thịch”!

Có tiếng cƣời khúc khích trong đám ngƣời ngồi ở góc cái sân đất cách Tên-

địa-chủ-phản-động-Cây-chuối khoảng bảy tám bƣớc chân: lực lƣợng quần chúng này có mặt ở đây vừa để đi xem vừa để ủng hộ Quân Chủ lực.

Ông Đội quay đầu lại, trợn mắt:

– Cƣời hả! Cƣời cái chi! Ai cƣời đó?

Và lầm bầm giọng Nghệ Tĩnh:

– Ý thức giai cấp, tinh thần đấu tranh… mà nhƣ rứa hử?

Rồi quay lại Rễ Cái, diễn viên hơi u mê vụng về, ông Đội đạo diễn tuồng nói

nhƣ gắt:

– Tiếp tục đi!

Page 77: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 77

Ngƣời đàn bà lúng túng một lúc để nhớ cho ra.

– Một lần… Tao đói quá… Tao mới phải mò vào nhà bếp của mi… Tao mở vung nồi cám lợn… thế là con chó nhà mi nó mới nhảy vào cắn ngay giữa trán

tao… Tao vùng chạy ra sân. Mi đã không xua đuổi chó đi mà lại còn xuỵt cho

nó ngoạm vào chân tao. Vết sẹo đang còn rành rành đây!

Ngƣời đàn bà kéo váy, ghếch một chân lên.

– Đã đảo thằng Q. địa chủ cƣờng hào gian ác!

– Đả đảo! Đả đảo!

Đám quần chúng cách mạng ngồi ở góc sân nhất loạt cùng hô. Họ hô không lấy

gì làm to lắm bởi vì đây chỉ là diễn tập; mai mốt ra đấu-trƣờng-thật đấu gục, tử

hình thằng Q. thật chứ không phải thằng Q-cây-chuối, họ mới ra sức hô to.

Ông Đội gật gật đầu, tỏ ý hài lòng hơn lúc nãy, bảo Rễ Cái ngồi xuống nghỉ.

Đến lƣợt mình, ngƣời đàn bà trẻ cũng làm lại những động tác của ngƣời làm

trƣớc mình nhƣng có phần nhanh hơn, khéo léo hơn.

– Thằng Q! Tên địa chủ cƣờng hào gian ác, thằng Việt gian phản động bán

nƣớc… Mi có biết Bà là ai không?

– ?!

– Nói đi, thú tội đi… Mi đã cƣỡng hiếp tao bao nhiêu lần?

– ?!

– Ba lần! Có đúng không?

– ?!

– Mi trèo lên ngƣời tao, đè tao ra, cƣỡng hiếp tất cả… những… ba lần?

Rễ Cái chợt đứng im, bối rối. Ông Đội bƣớc tới gần bên nói nhƣ gắt:

– Đã nhắc đi nhắc lại bao nhiêu lần rồi, đầu óc để đi mô, sao vẫn không nhớ?

Ba lần thì làm sao đủ để gây lòng căm thù, nâng cao tinh thần đấu tranh… Hử?

Ngƣời đàn bà đỏ mặt, lắp bắp:

– Dạ. Ba mƣơi… lần!

– Tập lại!

Ngƣời đàn bà đã ra sức, quyết tâm hoàn thành cái bài diễn tập khó khăn này.

Ba mƣơi lần! Đúng ba mƣơi lần. Lỗi tại Cây chuối đâu phải tại ngƣời! Thằng

địa chủ Q. liệu cái thần hồn, chờ ít hôm nữa…

Lệ Uyên ngây ngƣời đứng xem cảnh tƣợng kỳ lạ. Cho tới khi hai ngƣời đàn bà

rời khỏi hai cây chuối và đám ngƣời ngồi ở góc sân cùng đi với Rễ Cái theo

Page 78: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

78 Trần Thế Nhân

lệnh của ông Đội ra trụ sở Uỷ ban cũ để họp bàn… chị mới sực tỉnh. Hoá ra

nãy giờ chị đứng đây có một mình? Thùy Dƣơng đâu? Ả đã siêu thoát trƣớc

rồi chăng? Cảm giác đơn độc bơ vơ khiến Lệ Uyên lo lắng, hốt hoảng.

Kìa! Ả vừa xuất hiện. Thong thả bƣớc từ trong ngõ, tay cầm một bông hoa dâm

bụt đặt trên cặp môi hơi dẩu ra rất chi là điệu nghệ…

– Em đi đâu từ nãy giờ, sao lại để chị một mình đứng ở đây?

– Làm gì mà chị Hai cuống lên thế? Em vừa từ trong nhà kia ra.

Ả giơ tay chỉ một ngôi nhà nửa lợp ngói nửa lợp tranh, trƣớc sân lố nhố đám

ngƣời phần lớn là đàn bà, trẻ con.

– Em xem cái gì trong đó?

– Cũng nhƣ ở đây thôi. Có điều trong đó sôi động hơn, dữ dội hơn. Ở đây hai

mụ đàn bà cứ vỗ đít nhảy đành đạch trƣớc hai cây chuối trông chán chết, em

thấy mà! Ở trong kia hai gã đàn ông giậm chân gầm gừ, la hét, lúc thì xỉa đầu mũi ngón tay, khi thì vung nắm đấm….

– Thì có khác gì ở đây?

– Khác chứ! Họ tập đấu tố trƣớc… hai cây cột nhà!

– Hai cây cột?

– Ừ hai cây cột nhà. Cây cột nhà mới hay chứ. Cây cột ở trong nhà nó mới biết

nhiều chuyện gia đình xã hội. Cây chuối ngoài vƣờn thì chỉ nghe có gió thổi, chim hót, giun dế rĩ rền… Chị quên lời các cụ xƣa à? Không biết thì dựa cột mà

nghe. Nghe không phải là nghe ngƣời ta nói đâu mà là nghe cây cột nói. Cây cột

biết đủ mọi chuyện thế gian…

– À ra vậy. Chịu em thôi, Thùy Dƣơng ơi, hoá ra em khôn mảnh, bỏ chị đứng

đây một mình, đi xem cái nơi vui hơn, hay hơn. Em phải xin lỗi chị đi.

– Chị tha lỗi cho em…

Thùy Dƣơng choàng hai tay ôm lấy chị Hai. Họ nghẹn ngào những gì chẳng thành lời. Cƣời nhƣ trẻ thơ. Tiếng cƣời tan trong gió, chạm vào những nụ hoa

đào còn ngậm kín trên cành, dù Xuân chƣa tới đã mấp máy môi, rạo rực…

– Chúng ta vừa xem cái gì nhỉ, em biết không?

– Ca kịch Bắc Kinh đấy chị ạ.

– Chị cũng ngờ ngợ…

– Ông chồng yêu quý của em có lần bảo Bác Mao viết kịch bản. Nhà Hát

tuồng Thiên An Môn diễn trƣớc, rồi đƣa sang Ba Đình Hà Nội… Ta cứ thế mà

làm theo Tàu… Văn nghệ Quần chúng phục vụ Công Nông Binh. Gió Đông

Page 79: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 79

thổi bạt Gió Tây. Gió Bắc đè lên Gió Nam. Gió Đen, Gió Đỏ, Gió Vàng, Gió

Xanh… loạn xạ thổi vào nhau.

– Em của chị giỏi thật. Cái gì cũng biết.

Họ đang đi trên đất Nga Lĩnh.

Từ trên cây xoan sát ngay bên đƣờng đang phát đi lời kêu gọi và hô hào của Đội

Cải cách. Một ngƣời ngồi dạng háng trên cành cây, tay cầm cái loa sắt tây,

mồm áp sát vừa đọc vừa la theo lời nhắc của ngƣời ngồi bên, tay cầm mảnh giấy có ghi sẵn những dòng chữ…

“Đồng bào, đồng chí chú ý!

Hai giờ chiều nay xin kính mời tất cả bà con chúng ta, bần cố nông và trung

nông lớp dƣới, không kể trung nông cứng và phú nông trẻ già lớn bé đều tập trung trƣớc trụ sở Uỷ ban cũ theo tổ chức đoàn thể. Sau đó sẽ kéo quân về sân

vận động, cùng bà con Nga Bạch, Nga Thủy, Nga Thanh, Nga Liên, Nga Phú…

phối hợp cùng lúc hai chiến tuyến, hai đấu trƣờng… để tham gia đấu tranh, đấu gục hai tên địa chủ phản động, Việt gian bán nƣớc, tay sai của đế quốc, hai

thằng cƣờng hào ác bá, hai con rắn độc Mai Duy Vỹ và Trần Vĩnh Quyền.

Hôm nay là 27 tháng Chạp năm Ất Vị 1955. Đội sẽ tuyên án tử hình, xử bắn ngay tại chỗ hai tên này để bà con đồng chí ta ăn một cái tết Nguyên Đán thật

phấn khởi vui vẻ! A lố! A lồ!

Lệ Uyên giật mình. Mai Duy Vỹ. Trần Vĩnh Quyền. Tên cha mình, tên bạn của

cha mình… cả hai ngƣời vừa đƣợc nhắc đến trên loa phát thanh!

– Nhƣ vậy là thế nào nhỉ, Thùy Dƣơng… Cha của chị và ông Quyền đã chết rồi

kia mà. Sao bây giờ lại còn đƣa ra xử bắn nữa?

– Có thể ngƣời ta giết lần thứ hai…

– Ơ hay!

– Đã giết một lần rồi nhƣng ngƣời bị giết sống lại, thì ngƣời ta phải giết lần thứ

hai, chứ còn sao nữa!

– Nếu vậy thì… làm thế nào bây giờ? Chị em mình phải đi nhanh lên, đến chỗ

sân vận động, đấu trƣờng… may ra có thể thấy đƣợc cha chị… Ối cha ơi! Cha

kính yêu của con! Bố Mai Duy Vỹ… Bao năm rồi xa khuất, con chỉ mơ ƣớc đƣợc thấy lại cha một lần. Một lần duy nhất mà thôi!

Hai chị em cầm tay nhau cùng chạy. Phải tới ngay đấu trƣờng may ra còn kịp. Nhƣng khốn nỗi bàn chân họ không sao nhích lên đƣợc mà bƣớc chứ chƣa nói

đến chạy. Lực hút nào quái lạ từ dƣới lên níu chặt, đúc kết hai ống chân họ lại,

bê tông hoá… Những mái lều tranh, hàng cau và con đƣờng trƣớc mặt cũng

Page 80: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

80 Trần Thế Nhân

mờ dần, mờ dần. Hơi gió ngừng thở trên ngọn cỏ, lá cây… Những con chim sẻ

đang cãi vã trò chuyện cũng bảo nhau lặng im.

Đột nhiên, từ trên nền da trời bầm tím trƣớc mắt họ hiện lên những quầng sáng

đỏ; những tia lửa bắn tung toé đuổi theo nhau thành hình vòng cung. Cảnh

tƣợng xem ra có phần hứng khởi bởi tiếng reo hò, vỗ tay từ đâu đó rộ lên, chen lẫn tiếng sóng biển ì ầm vọng vào ngoài cánh đồng cói. Nhƣng những tiếng nổ

cách quãng tiếp theo dẫu không to lắm, vẫn làm hai chị em giật mình kinh hãi,

đến nỗi họ phải nắm tay nhau để khỏi đổ vào nhau mà sụm xuống… Những

tiếng nổ khiến bất cứ ai ở Bên Ấy hay ở Bên Này, nghe thấy cũng thất kinh hết hồn.

Thùy Dƣơng nhẩm tính:

– Sáu phát… tất cả chị ạ.

Lệ Uyên cũng vừa đếm xong:

– Ừ. Sáu phát súng trƣờng.

Lại thêm hai tiếng nổ tiếp. Nhẹ hơn nhƣng rất rõ. Rồi im lặng.

Đất trời đang từ từ nứt làm đôi. Răng rắc. Rào rạo…

Lệ Uyên bỗng giơ hai tay lên ôm lấy đầu:

– Ôi! cái đầu tôi sao lại nhƣ thế này?

Thùy Dƣơng cũng kêu lên:

– Chị ơi! Chị làm sao thế?

Lệ Uyên lảo đảo, toàn thân ngã vào vòng tay Thùy Dƣơng.

– Có phải đầu chị toác vỡ ra làm hai rồi phải không em?

Thùy Dƣơng cố gỡ bàn tay chị, những ngón tay co quắp… Ả trố mắt nhìn vào

mái tóc đen dày quen thuộc, có những sợi quăn hơi cứng vòng xuống vầng trán

sáng… Không có dấu vết gì tỏ ra là cái trôốc của chị Hai nứt làm đôi cả. Có lẽ là cơn đau đột biến của phụ nữ thôi. Ả cũng đã từng có những cơn đau nhƣ thế.

Hai chị em cùng ngã xuống bên đƣờng.

Đất trời tối đen. Cái màu đen pha chì đun chảy ra từ đâu, khi nào, bây giờ kết

đúc lại thành một khối vô hình vô tận. Lỗ tai ngƣời bị nút kín. Mắt dù cố mở to vẫn không thấy gì cả. Cơn sợ hãi nhƣ luồng điện giật, còng khoá cả thân mình,

đau đớn, tê dại… bất động. Mà đâu chỉ hình hài họ, cả Trái Đất, Vũ trụ cũng bị

còng khoá lại!

Page 81: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 81

Chƣơng 12 NHÀ HỌ MAI

– Chị Uyên ơi, ngồi dậy đi!

Thùy Dƣơng thoắt ngồi dậy, cầm tay Lệ Uyên kéo lôi. Chƣa kịp ngồi dậy, Lệ Uyên đã vụt đứng lên theo… Lực hút nào vừa kéo lên, lực đẩy nào đang dồn

tới? Họ nhƣ cùng đi trên mây, lƣớt trên sóng… Trôi... Trôi…

Rồi dừng lại bên đƣờng làng, phía trƣớc một ngôi nhà có hàng rào dâm bụt

chen lẫn với cúc tần. Ngôi nhà ngói 5 gian đứng giữa khu vƣờn rộng bốn sào đất, vây bọc những bụi tre luồng ken dày, rậm rì:

– Nhà chị đây rồi, em ơi!

Lệ Uyên nói, bối rối cầm tay Thùy Dƣơng đặt lên ngực mình khiến ả bật cƣời.

– Chị làm cái gì lạ thế?

Lệ Uyên nhắm mắt lại.

– Dù chúng ta có là ngƣời âm nhƣ ở Bên Này vẫn gọi thì từ Bên Ấy trở về đây,

ai mà không nghẹn ngào xúc động khi đặt bàn chân trƣớc ngõ lối đi vào nhà mình, nhà của cha mẹ ông bà, tổ tiên trên quê hƣơng. Ồ, bàn chân chị lại nặng

trĩu rồi và trái tim… trái tim của con ngƣời! Nếu ở Bên Này trái tim của ai đó

ngừng đập thì sang tới Bên Ấy nó lại tiếp tục đập theo một nhịp khác mà những ngƣời dƣơng ở Bên Này đâu hình dung ra đƣợc.

– Chị thật sung sƣớng. Chị còn có một ngôi nhà nhƣ thế này để mà trở về, còn

em thì…

Chƣa nói xong Thùy Dƣơng đã tay ôm lấy mặt khóc.

– Thôi mà! Nhà chị cũng là nhà em, nhà của chúng ta… Vào đi em!

Một con ong mật từ đâu trên bụi dứa hay cây lựu bay tới, vòng vo quanh đầu

hai chị em, cất tiếng rè rè hỏi han. Đôi bƣớm vàng từ luống cải xanh vội tung cánh bay theo, chập chờn trên vai, quấn quít đƣa đƣờng dẫn lối cho khách vào

nhà.

Ngôi nhà 5 gian lợp ngói vảy cá, hai chái cong lên nhƣ mái đình làng, có hai cửa sổ, nối liền với nhà bếp thấp lè tè…

Lệ Uyên dừng lại trong sân, những viên gạch vuông màu nâu bạc lên rêu,

thẳng hàng, nhẫn nhục phơi mặt cùng năm tháng. Chị cúi nhìn từng hình bóng

Page 82: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

82 Trần Thế Nhân

thân thuộc, thân thuộc đến nỗi có một viên gạch vỡ làm đôi, lâu nay không ai

tìm viên khác để thay thế, cũng chẳng có xi măng vôi cát để hàn gắn lại, đang

nằm ngay dƣới chân mình... năm nào đây bé Lệ Uyên chơi nhảy cò cò cùng bọn trẻ cứ phải tránh sang một bên.

Cái bậc thềm bằng đá tảng gồm 6 tấm nằm ngang kề sát kia vẫn kiên gan bám

giữ, tạo thế cho hàng hiên lát gạch, cùng nhau cố thủ sao cho ngôi nhà từ

đƣờng này đứng vững tới ngàn năm. Và những cánh cửa lim nặng cả tạ, trời ôi, mở ra khép vào nhìn đã mệt ngƣời; tƣởng đâu nhƣ Trần gian Bên Này là

Nhà tù Lớn không bằng!… Thứ cửa ấy mà lỡ rớt xuống đầu ai thì gây ra án

mạng chứ không chơi!

Lệ Uyên khẽ kéo một cánh. Cửa mở. Hai chị em cùng bƣớc vào. Ánh sáng bên

ngoài vào theo, trong nhà dần dần hiện ra những đồ vật phủ mờ bóng tối, mặc

dù trƣớc mặt họ là một đĩa đèn dầu lạc, ba ngọn bấc đang cháy lửa hiu hắt... Vừa chợt thấy ngƣời về, ngọn đèn mù loé lên ánh vui mừng rồi lụi dần, trở lại

với nỗi đau của đêm dài thiên thu.

Thùy Dƣơng trố mắt nhìn hai bức hoành phi treo bên hai cây cột nhà với dòng

chữ Hán thếp vàng nền sơn đen và bức trƣớng treo phía trên bàn thờ họ có chữ Hán lớn. Ả nhớ lại ngôi nhà gỗ ba gian lợp tranh ở Nam Đàn quê nhà. Bàn thờ

trong nhà ả chỉ là cái bàn gỗ tạp có đặt bát hƣơng đơn sơ trơ trọi. Phía trên bàn

thờ, treo buộc vào vách đất là một tấm cót quét vôi có dòng chữ viết bằng mực đen (hay là nhọ nồi cũng chẳng rõ) pha trộn mực tím học trò. Dòng chữ khẩu

hiệu này do chính tay ông thân sinh ra Thùy Dƣơng viết, không ai dám thay

đổi, cứ để vậy qua bao nhiêu năm: “Hồ Chủ tịch muôn năm! Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!” Trƣớc ngày lên đƣờng đi chiến dịch Tây Bắc, anh bộ

đội Cụ Hồ, quân của ông Giáp đã viết mấy chữ đó.

Lệ Uyên nói:

– Bốn chữ Hán trên bức trƣớng treo tƣờng kia theo lời mẹ chị nói, là chữ của Cụ Tổ. Ngày xƣa, bên phải góc bàn thờ kia còn có cờ biển của Vua ban. Năm

1945, Cách mạng tháng Tám, ngƣời nhà sợ quá vội đem cất giấu. Bây giờ còn

nằm ở đâu hay đốt hết rồi cũng chẳng ai biết. Toàn là những vật nguy hiểm cả, em ạ.

Thùy Dƣơng hỏi:

– Ông Cụ Tổ chị ngày xƣa là ai?

Lệ Uyên chớp chớp mắt, cƣời buồn:

Page 83: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 83

– Cả nhà không ai đƣợc phép gọi tên Cụ. Trong câu chuyện thƣờng ngày, tiếng

gì chữ gì xa xa gần gần tên Cụ đều phải nói nhỏ lại hoặc đọc chệch đi. Chị đâu

có đƣợc thấy Cụ. Lúc chị sinh ra, Cụ đã mất lâu lắm rồi. Bà nội bảo, Cụ ngƣời đẹp… Mắt sáng, chòm râu trắng nhƣ cƣớc. Cụ đậu Thám hoa thời Tự Đức.

Dòng họ, dân chúng cùng đi đón rƣớc cờ biển vua ban cho Cụ về làng… Cố

nội chị và ông nội chị, hai cha con đậu cử nhân thời vua Thành Thái…

Dừng một lát, mắt nhìn quanh nhƣ tìm kiếm vật gì, Lệ Uyên nói nhỏ lại, thầm thì:

– Nhà này, cụ Nguyễn Thƣợng Hiền đã từng ghé qua. Nghe nói hai ngƣời ngồi ở

ghế tràng kỷ kia, vừa uống trà vừa đàm đạo. Thơ của hai ngƣời xƣớng họa về sau bà nội chị còn giữ đƣợc. Ông Đinh Công Tráng cũng tới đây với mấy đồng

chí; họ thức tới khuya, cùng nhau soạn thảo Hịch Khởi nghĩa Ba Đình.

Trong nhà tự nhiên nhƣ có sƣơng khói lãng đãng. Mấy cây cột tròn gỗ lim hiện dần ra tựa hồ những nhân chứng của thời gian. Đến cả bộ ấm trà cổ màu gan

gà đặt trên khay sứ bày 6 chén màu lam có hình vẽ “Bảy ngƣời hiền trong

Rừng Trúc” nhƣ cũng muốn kể lại những chuyện xƣa, nhắc lại những ngƣời

trong nhà, nhất là những ai đã ngồi bên bộ tràng kỷ kia, rằng cả trăm năm lẻ mơ màng, cuộc đời dẫu có lúc lành lúc dữ, dù là gì đi nữa thì suy cho cùng, rốt

cục lại… cũng chỉ là giấc mộng!

Page 84: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

84 Trần Thế Nhân

Chƣơng 13 LỆ UYÊN GẶP LƤI BỐ MAI DUY VỸ

Có tiếng động gì rất lạ. Hai chị em giật mình nhìn ra.

Một cơn lốc từ ngoài ngõ quay vòng theo chiều kim đồng hồ đã vào tới trong

sân. Đứng lại giữa sân và xoáy tròn. Bụi cát lá cây rơi xuống những viên gạch, cọ xát, vang lên nghe nhƣ ai rên xiết khóc than.

Và luồng sáng nửa vàng nửa đỏ từ ngoài cửa đã rọi thẳng vào trong nhà, ập lên tƣờng, bắn ra vụn vỡ, hoà cùng sƣơng khói, toả bay khắp mấy gian nhà.

– Các con đấy à?

Họ đƣa mắt nhìn nhau. Tiếng ai nói từ đâu vừa phát ra?

Một vòng tròn sáng, mờ tỏ ánh vàng, chầm chậm xoay vòng:

– Thầy đây mà, Lệ Uyên. Con không nhận ra ƣ?

Giữa vòng tròn sáng hiện ra một cái đầu ngƣời. Xoay chầm chậm. Lệ Uyên

đếm từ vòng quay Một đến vòng quay thứ Ba mƣơi sáu thì cái đầu ngƣời dừng

lại theo chiều thẳng đứng.

– Thầy đây mà, cha của con đây… Lệ Uyên!

Lệ Uyên nhìn sững. Từ cái đầu lại tiếp nối, hiện dần ra toàn thân thể một con

ngƣời mặc quần áo trắng. Màu trắng tàn rã dần, rụng rơi hết để trở lại nguyên

hình màu nâu ố bạc của bộ áo quần rách tủa…

Cha của Lệ Uyên đấy ƣ? Mai Duy Vỹ, ngƣời đàn ông 36 tuổi kia là cha chị,

chứ còn ai khác nữa!

Lệ Uyên định quỳ xuống, sụp lạy, nhƣng rồi lại bƣớc tới, giơ hai tay lên chới với!

– Cha!

Thùy Dƣơng cũng vội chắp hai tay trƣớc ngực, cúi đầu:

– Con chào… bác!

Ngƣời đàn ông đƣa mắt nhìn Thùy Dƣơng, khẽ gật đầu rồi lùi lại, giơ một tay lên trƣớc mặt.

– Khoan đã – Mai Duy Vỹ nói – Lệ Uyên! Đừng lại gần cha mà máu cha có

thể vấy sang ngƣời con. Họ vừa mới giết cha xong! Con có nghe những phát

súng nổ vừa rồi cùng tiếng thuổng cuốc đập xuống đầu cha răng rắc, lạo

xạo…? Cha mới ở ngoài sân vận động, đấu trƣờng… từ huyệt đào lấp đất về tới nhà mình đây. Cha về đây để gặp con!

Page 85: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 85

– Cha ơi! – Lệ Uyên kêu lên – Có lẽ nào lại thế? Họ giết cha đã lâu rồi mà!

Con chờ mong gặp lại cha, đằng đẵng trọn cả luân hồi ba kiếp; nếu tính thời gian

ở Bên Này thì cũng đã 46 năm rồi! Vậy mà sao cha lại nói cha mới từ ngoài đấu trƣờng về đây?

Thùy Dƣơng vội chen vào:

– Bác nói đúng quá rồi còn gì nữa! Cháu cho rằng thời gian và ánh sáng là hai

khái niệm không thể tách rời nhau đƣợc. Chúng ta vận chuyển theo vận tốc của ánh sáng, tuỳ theo nhanh hay chậm… Ba kiếp luân hồi mà chị Uyên nói là thời

gian tâm lý; 46 năm ở Bên Này là thời gian 3 chiều; còn khoảng thời gian bác

từ ngoài đấu trƣờng về đây là thời gian Vũ trụ bốn chiều, đa chiều…

Cha của Lệ Uyên hình nhƣ nghe chƣa hết lời lẽ của Thùy Dƣơng, ông lịch sự

gật đầu rồi ngồi vào một bên ghế tràng kỷ, đối diện với các con mình.

– Nào, bây giờ con hãy nhìn kỹ thầy đi! Bố Vỹ đây! Cha của bé Uyên tội nghiệp! Con mới lên bảy, bố đã bỏ con biền biệt đi gần cả nửa thế kỷ. Ôi! con tôi!

Lệ Uyên ngẩng đầu nhìn cha mình. Một mái đầu tóc xanh, dày đậm, rẽ đƣờng ngôi giữa; mái tóc thuở cậu Mai Duy Vỹ mƣời bốn tuổi, vừa mới đậu primaire,

bây giờ ta gọi là tiểu học… Anh thuộc lớp ngƣời giao thời, đã từng học chữ

thánh hiền của cha ông một dạo trƣớc khi chuyển sang học chữ Tây. Vầng trán sáng, rộng mở ra tới hai bên thái dƣơng, nổi trội lên là cặp mắt thông minh

nhân hậu, có hơi chút mềm yếu. Sống mũi cao, ngay thật, nhìn xuống đôi môi

thƣờng khép lại, chịu đựng, nhẫn nhục… Khuôn mặt thƣ sinh, trẻ trung thoáng

chốc trở nên linh hoạt hơn; cặp lông mày hơi nhíu lại làm ánh mắt thêm phần quyết đoán…

Ấy là thời y sĩ Mai Duy Vỹ ở nhà thƣơng Thanh Hoá; ngƣời thầy thuốc đƣợc các

bạn đồng nghiệp và cả bác sĩ bệnh viện trƣởng ngƣời Pháp mến phục.

Khuôn mặt bỗng chốc lại gầy đi nhƣng đẹp thêm bởi nƣớc da sạm nắng lửa, và

nụ cƣời nở hàm răng trắng sáng cởi mở hân hoan (đôi lúc cũng hài hƣớc châm

biếm, đó là điều bất lợi và nguy hiểm cho con ngƣời ta một thời, cái thời tai ác trớ trêu.)

Ấy là năm 1946, Mai Duy Vỹ có con trai đầu, em của Thanh Tâm, anh của Lệ Uyên.

Rồi sau đó 2 năm, đồng chí Mai Duy Vỹ đƣợc đứng trong hàng ngũ những

đảng viên Cộng sản ngoài mặt trận cầm dao mổ xẻ những khối u, cƣa cắt chân tay các thƣơng bệnh binh, cứu họ thoát khỏi cái chết thƣơng tâm sau những trận

pháo kích, ném bom của giặc Pháp…

Đây, bàn tay Mai Duy Vỹ đang giơ ra đặt trên bàn; những ngón dài mềm đã

từng kéo nhị, chơi đàn nguyệt, viết thảo chữ Hán, lại cũng khéo léo tài nghệ

lúc cầm con dao mổ… Bàn tay…

Page 86: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

86 Trần Thế Nhân

Mái đầu ấy, bàn tay này đƣợc đồng chí, đồng nghiệp, dân chúng xứ Thanh

ngợi khen; ngƣời ta cho rằng y sĩ Mai Duy Vỹ không chỉ vƣợt qua đầu các bạn

y tá y sĩ mà còn ăn đứt cả những bác sĩ có bằng cấp cao nhƣng chƣa quen thạo tay nghề!

Mai Duy Vỹ – cha của Mai Lệ Uyên!

– Bác rất giống chị Uyên!

Thùy Dƣơng thốt lên. Ả xoay ngƣời, nghiêng mình ngắm ông Vỹ, gật gật đầu.

– Dạ thƣa bác – Ả chăm chú, so sánh – Tóc bác có nhạt màu hơn tóc chị Uyên,

cả hai đều hơi cứng; và có một lọn cong vòng trƣớc trán… còn đôi mắt thì khỏi phải bàn, cha con giống nhau đến nỗi – Ả ngập ngừng – nhìn ngƣời này

thấy đƣợc ý nghĩ ngƣời kia…

Ông Vỹ mỉm nụ cƣời buồn buồn:

– Bác thấy cháu cũng giống… Lệ Uyên… nhƣ hai chị em.

Thùy Dƣơng lắc đầu:

– Bác nói thế chứ… Đúng là hai chúng con sống với nhau đã lâu và lây nhiễm

nhau. Lệ Uyên đẹp hơn, tốt hơn cháu cả ngàn lần!

Ông Vỹ khiêm nhƣờng hoà nhã:

– Bác thấy cháu cũng… rất đáng mến. Càng nhìn lâu càng thấy giống bố cháu.

– Ô? Làm sao bác biết đƣợc thầy con? Bác gặp thầy con khi nào?

– Cháu cũng gọi cha đẻ là thầy ƣ? Thế này chứ, một thời gian dài Bên Này bác chỉ có mỗi một mình. Mãi đến gần đây, tình cờ sao chúng tôi mới gặp đƣợc

nhau rồi quen nhau. Cha cháu thuộc lớp sau bác, vào Đảng năm 1954… Hoàn

cảnh hai bên có khác nhau nhƣng rồi chúng tôi cảm thông nhau, quý mến nhau. Đời bố cháu cũng cơ cực và thiệt thòi; có điều không mắc phải oan trái

thôi. Ông ấy đi rồi…

– Đi đâu hở bác?

Ông Vỹ không giấu đƣợc nụ cƣời vui mà buồn.

– Đi đâu à? Siêu thoát! Mừng cho bố cháu. Bây giờ ông ấy sung sƣớng, thênh

thênh đƣờng lên Hạnh Phúc… Chỉ còn tôi là phải ngồi chờ ở đây. Có lẽ còn lâu

mới đến lƣợt…

– Vậy là… cháu không còn đƣợc gặp lại bố cháu!

Thùy Dƣơng cúi đầu, cắn môi. Hình nhƣ ả khóc?

Ông Vỹ không kìm giữ đƣợc một tiếng thở dài.

Page 87: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 87

Chƣơng 14 CHUYỆN CON NÍT…

Lệ Uyên nghẹn ngào nức nở. Ông Vỹ đứng dậy bƣớc tới bên con gái. Bàn tay

ông vừa chạm vào tóc con mình thì một vòng sáng long lanh đã hiện ra quay quanh đầu Lệ Uyên. Toàn thân chị cứ thấp dần nhỏ dần, trở lại nguyên hình bé

Mai Lệ Uyên hồi mới lên 6 tuổi.

Nhẹ nhàng bế con gái ngồi vào lòng mình, bố Vỹ khẽ cọ cằm vào đầu tóc,

nghiêng đầu hôn má con.

– Ôi! Con gái yêu của thầy mẹ! Con đi đâu về mà gọi mãi không thƣa? Giang

nắng suốt buổi trƣa. Chắc là theo anh con và mấy đứa đi bắt con ve sầu đậu trên

cành mít, con cáp cáp bò ngoài gốc cau phải không? Nắng cháy khét cả tóc, rám cả má con tôi rồi đây này. Coi chừng không mà cảm sốt đấy!

Bé Uyên giơ tay lên sờ mặt bố. Bé còn đƣa tay che mồm, bịt kín hốc mũi bố.

Vậy mà ông Vỹ lại còn thấy làm thích thú. Xem kìa! Bà nội cau mày, còn mẹ thì

phát gắt lên cho rằng bố Vỹ nuông chiều con gái út quá sá! Kiểu này không khéo rồi con hĩm đâm hƣ. Lại còn bày trò ra nữa! Bố hắn nằm thẳng đơ ra giả

chết để con bé nắm tóc, lôi giật tay chân mãi cho tới khi tƣởng bố chết thật rồi,

chẳng còn sống nữa, thế là mếu máo khóc oà lên. Đến nƣớc ấy rồi bố Vỹ mới từ từ mở mắt, miệng vẫn còn bụm lại, cố ngăn tiếng cƣời phát ra: “Thầy vẫn

còn sống đây! Còn sống mà! Hà hà hà!”.

Vẫn là bố Vỹ cái đêm trăng nào ở ngoài sân kia… Hai cha con nằm trên chõng tre trải chiếc chiếu đậu, loại chiếu trắng trơn không in hoa, chiếu Nga Sơn nổi

tiếng mà chỉ nhà họ Mai dệt ngƣời ta mới chịu cho là đẹp…

Trời trong suốt không có trăng, chỉ thấy sao chi chít dày đặc. Nhìn trời sao yên

tĩnh vậy mà sao lòng bố Vỹ cứ phấp phỏng lo buồn. Ông nghĩ, quân Pháp đại bại rồi, chiến thắng Điện Biên Phủ vang lừng khắp thế giới, còn gì vui hơn.

Thế thì sao làng xóm lại cứ im ắng nhƣ bãi tha ma thế này? Lạ thật. Đám mây

đen nào đang tới che kín bầu trời, phủ nặng nấm mồ ai?

Đột nhiên, con gái rƣợu của ông cất tiếng hỏi:

– Thầy ơi! Có phải ai sinh ra rồi cũng chết cả phải không?

Bố Vỹ ngạc nhiên, hơi giật mình. Lẽ nào một đứa bé mới lên 6 tuổi, bập bẹ đánh vần mà lại nghĩ tới cái chuyện duy tâm ấy? Chắc nó nghe lỏm mấy ông

Page 88: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

88 Trần Thế Nhân

bà già bên chiếu rƣợu hôm giỗ ông nội tuần trƣớc. Con hĩm Uyên này mới lạ

chứ. Huyết thống tinh anh dòng họ Mai đây, chẳng còn có thể lẫn vào đâu nữa.

– Hỏi vớ vẩn. – Bố Vỹ nói nhƣ gắt rồi trở lại giọng dịu buồn – Ừ, ai sống ở trên đời này một thời gian rồi cũng phải chết cả. Đúng thế.

Con hĩm nhổm ngƣời dậy một tay chống xuống chiếu, mở to mắt nhìn ai kia?

Đôi mắt giống cha y hệt. Hai hòn ngọc nâu đen vừa đƣợc giăng lƣới kéo vớt

lên từ dƣới lòng biển sâu ngoài Hòn Nẹ?

– Bà rồi có chết không hở thầy?

– Bà còn khoẻ. Năm nay mới năm mƣơi sáu. Bà còn sống ít ra là tám mƣơi, chín

mƣơi… mới… đi.

– Còn mẹ?

– Mẹ cũng nhƣ bà. Con muốn mẹ sống tới bao nhiêu tuổi nào?

– Chín mƣơi, một trăm…

Bé Uyên dừng lại, tính đếm… Cau mày đăm chiêu nhƣ ngƣời lớn.

– Thầy ơi!

– Cái gì con?

– Trời có chết không hả thầy?

– Trời làm sao chết đƣợc! – Bố Vỹ khẽ cƣời – Trời sinh ra tất cả muôn loài,

chúng ta… Trời sống mãi!

– Còn Đất. Đất có chết không?

– Đất chôn vùi tất cả. Đất cũng… không chết.

– Thế còn… Bác Hồ? Bác Hồ rồi có chết không?

Ông Vỹ giật nẩy mình, ngồi bật dậy. Đƣa mắt nhìn ai quanh sân, dõi theo bóng mấy gian nhà, dỏng tai nghe tiếng động trong vƣờn, ngoài đƣờng làng và cả

bầu trời sao trên đầu, bố líu lƣỡi, nói nhƣ đe nạt con:

– Ai? Ai… ai bảo con thế?

Lệ Uyên há mồm nhìn bố, mắt chớp chớp:

– Bầy đứa…

Page 89: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 89

– Bầy đứa nào? Đừng có nói tầm bậy mà ngƣời ta cắt lƣỡi đấy! Bác Hồ không

bao giờ chết! Bác Hồ sống mãi với non sông đất nƣớc Việt Nam… Con hiểu

chƣa?

Chợt thấy mặt con mình ngơ ngác, nhƣ bị ai mắng mỏ đe nẹt, hình bóng nhỏ

lại, thu lu tròn một cục, bố Vỹ vội ôm con vào lòng vỗ về.

– Con ạ. Bác Hồ đời đời sống mãi. Bác là thần, là thánh! Còn hơn thần thánh

nữa! Thầy sinh ra con đây cũng không chết. Thầy còn phải sống để hầu hạ Bác Hồ, chăm lo sức khoẻ cho Bác, cho Dân, cho bà, cho mẹ, cho các con… cho

tất cả bà con quanh vùng ta.

Lệ Uyên rối rít:

– Thầy không chết hả? Thầy đừng chết. Thầy sống mãi với con. Con biết mà.

Thầy hứa với con đi!

– Ừ thì hứa.– Bố Vỹ hắng giọng trịnh trọng – Thầy không chết. Thầy mãi mãi sống với con, với cả nhà ta… Đƣợc chƣa?

– Hoan hô! Thầy không chết!

Lệ Uyên gật gật đầu, vỗ tay. Nghĩ tới cái lần bố Vỹ giả đò chết mới hôm nào

đây, tự nhiên bé vùi đầu vào lòng bố, ôm chặt lấy bố.

Ấy là một đêm hè tháng 6 năm 1954…

Page 90: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

90 Trần Thế Nhân

Chƣơng 15 … SANG CHUYỆN NGƢỜI LỚN

Ông Vỹ đang nhỏ dần, nhỏ dần… cho tới khi chỉ còn lại một chấm sáng rồi

mất biến. Sƣơng mù lãng đãng mờ mịt khắp mấy gian nhà. Hai chị em ngơ ngẩn nhìn nhau.

Tiếng con lắc chiếc đồng hồ cổ điểm nhịp nghe từ thuở nào xa xăm. Thời gian

đang đi về mọi phía, vừa mới quay ngƣợc lại rồi nhƣ đang đi tới.

– Các con nhìn đi đâu thế? Kìa, Lệ Uyên, thầy đây…

– Thầy đâu rồi? Con chẳng còn thấy…

– Thầy đây! Thầy đây! Thôi con, đừng khóc…

Vòng tròn sáng lại hiện dần ra, chầm chậm quay quanh đầu bố Mai Duy Vỹ, không thể là ai khác, mỗi lúc một rõ… Nhƣng kìa. Tóc tai ai mà bù rối xạc xờ,

lâu ngày dao kéo không đụng tới, dài phủ xuống hai vai; đôi mắt trừng trừng

mở, lòng trắng đảo ngƣợc lên… Máu rỉ ra từ đỉnh đầu, dâm dấp cả lọn tóc

vòng trƣớc trán, dính bết vào lông mày, xuống mũi, tới cằm… Hai bên má hõm hốc, quai hàm trồi ra, gân cổ nổi chằng… Mấy con chấy bò từ tóc thái

dƣơng xuống cùng lúc lũ rận chui ra vạt áo rách xoạc bên vai để lộ những vết

bầm tím đánh bằng gậy, dùi đâm, dao rạch…

– Thầy đói, con ơi!

Ông Vỹ khẽ kêu, đầu lúc lắc, hai tay xoắn vặn…

– Nhà hết gạo, tối qua mẹ nấu cháo đụt khoai đƣa vào cho thầy một bát. Sáng nay chờ mãi không thấy gì, chẳng hiểu ai đó vứt vào đây một củ khoai? Đói thì

nhịn, cắn răng mà chịu. Các chiến sĩ Cộng sản họ còn tuyệt thực, không ăn kia

mà! Vậy mà lòng họ trong sáng, thanh thản. Còn mình thì không có ngày nào đi

qua đây nhìn vào, ngƣời ta không chửi rủa, xỉ vả: “Thằng Vỹ địa chủ phản động kia, mi sống làm chi nữa? Mi không xứng đáng ăn canh thừa cơm vãi của nông

dân bầy choa. Hút máu hút mủ nhân dân bao năm rồi, bây giờ mi còn muốn ăn

cái chi nữa? Cục cứt tao đây này tao cũng để cho chó chứ không dành cho mi. Hiểu chƣa? Ít hôm nữa, chờ đó, rồi Đội sẽ cho mi ăn kẹo đồng!”

Hỡi Trời! Hỡi Phật! Hỡi Chúa!

Nếu các Ngƣời có thật thì trên cao xanh kia sao nỡ lòng ngoảnh mặt làm ngơ để cho Mai Duy Vỹ chịu bao nỗi đớn đau nhục nhã thế này!

Page 91: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 91

Nếu con ngƣời quả thật có ba kiếp thì sao kiếp trƣớc đừng cho Mai Duy Vỹ

đƣợc làm ngƣời, để kiếp này hắn đƣợc làm con trâu, con chó, con giun, con dế

có hơn không? Mà lại bắt hắn phải làm ngƣời trong cái thời buổi đại loạn, đau thƣơng, lầm than này!

Ôi ! Mai Duy Vỹ là một con ngƣời! Xin hãy nghe đây!

Một ngƣời lƣơng thiện, một ngƣời bình thƣờng nhƣ bao con ngƣời!

Từ lúc cha mẹ sinh ra tôi làm ngƣời tới nay, tôi đâu có ăn cắp của ai, nói dối ai, làm hại ai? Thấy ai đói, tôi cho họ ăn. Thấy ai rét tôi nhƣờng áo cho họ mặc. Ai

ốm đau đến tìm tôi, tôi chữa bệnh chích thuốc cho họ; chữa bệnh cho ngƣời

nghèo tôi đâu có lấy tiền. Tôi đã cứu sống bao sinh mạng!

Ông bà, cha mẹ dạy tôi sống nhƣ thế. Sao bây giờ họ lại quy cho tôi là bóc lột,

hút máu, giết hại nông dân!?

Tôi là một đảng viên Cộng sản! Đảng kết nạp tôi ngoài mặt trận tháng 12 năm 1948…

Những năm Bốn Mƣơi gia đình tôi đã nuôi giấu các chiến sĩ Cộng sản ở trong

nhà. Có đồng chí bây giờ làm lớn trên Trung ƣơng. Đồng chí này đã giới thiệu

kết nạp tôi vào Đảng, giấy tờ còn ghi rõ… Sao bây giờ ngƣời ta lại vu khống cho tôi là Việt gian phản động! Tôi đi đâu, tôi làm gì, tôi hội họp với ai ngoài

các đồng chí trong chi bộ tôi? Sao lại dựng chuyện, đơm đặt tôi cấu kết với

Công giáo, Nhà thờ Phát Diệm, làm điệp viên cho Pháp, liên lạc với Tề Ngụy trong thành? Ối! Oan cho con lắm Bác Hồ ơi! Oan cho tôi lắm anh Trƣờng

Chinh ơi!

Ông Vỹ gục đầu xuống, bất động.

Tiếng con lắc đồng hồ cổ lại điểm nhịp, đếm thời gian. Lệ Uyên không dám lại

gần cha. Chị nghĩ, Thƣợng Đế bây giờ cũng bất lực. Có ai đây lại còn nói: Con

Ngƣời đã giết chết Thƣợng Đế từ lâu rồi. Họ cùng với Ma Quỷ làm chủ cả Thế

giới… Một hai ba bốn… Ba mƣơi sáu. Ông Vỹ từ từ mở mắt ra, cố quay vặn ngƣời để chống lại cơn đau đớn. Cử động này làm mặt ông nhăn nhúm khiến

ông phải cắn môi cố kìm giữ sao cho tiếng rên đƣợc khe khẽ bật ra…

Lệ Uyên đau khổ nhìn cha. Thùy Dƣơng cúi đầu xuống nhƣ định tìm cái gì, ả phát hiện ra hai chân của ông Vỹ đang bị kẹp cứng trong cái cùm.

– Chị xem này! Lệ Uyên…

Ả vừa nói vừa giơ tay chỉ.

Page 92: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

92 Trần Thế Nhân

Đôi chân của Mai Duy Vỹ, hai ống xƣơng dài, bèo nhèo lớp da trầy trụa… Cổ

chân xây xát, tấy sƣng… Hai vòng tròn máu và mủ ấy khít gọn trong hai vòm

miệng bằng gỗ lim dày ngoạm chặt; quấn xiết quanh là chuỗi xích sắt móc vào còng khoá sắt nặng. Những con dòi bò ra từ hai cổ chân nhầy nhụa máu mủ và

cả sau hai mông đít lở loét hôi thối…

Hai chị em phải nhắm mắt lại.

Từ hai cái miệng cùm, hai hốc mắt Hung thần nhƣ còn rít lên lời đe doạ: “Hãy biết sợ Ta, hỡi những Con Ngƣời! Trên thế giới này còn nhiều vƣơng quốc

không có pháp luật. Vua Chúa toàn cai trị dân bằng đạo nghĩa suông. Cho dù

pháp luật có trên danh nghĩa đi nữa thì ẩn chứa bên trong đó chẳng thiếu gì những khâu lỏng lẻo, những điểm phi lý. Bởi thế, chỗ nào rồi cũng cần sự có

mặt của… Ta!”

Page 93: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 93

Chƣơng 16 CHUYỆN TRONG NHÀ

Ông Vỹ nói:

– Tai họa cứ nhƣ từ trên Trời đổ xuống, dƣới đất trồi lên. Cái Họa của nhà ta đúng là nảy sinh ra từ cái Phúc. Con còn nhớ chú Đông không? Chuyện dài

dòng quá…

Sáng mùa đông năm ấy, 1925… khi cha lên 6 tuổi, ngƣời làng đi qua ngõ nhà

ta bắt gặp một đứa bé nằm dƣới bụi xƣơng rồng, gần kề lối cổng ra vào. Tội thân đứa nhỏ mới sinh còn đỏ hỏn nhƣ con chuột, giẻ rách quấn quanh mình,

tấm chiếu nhỏ bó tròn… Bố mẹ nào sinh con ra mà lại vứt bỏ nó đi nhƣ thế này

hở Trời! Mọi ngƣời hô hoán. Bà nội con là ngƣời đầu tiên trong nhà trông thấy sinh vật còn sống, da dẻ bắt đầu tím lại vì giá rét. Bà nói một câu mà sau này

nhiều ngƣời còn nhắc lại: “Có lẽ Trời đem phúc cho nhà ta nên mới xúi ngƣời

đặt thằng bé nằm ngay trƣớc cổng. Thôi, đƣa nó vào nhà đi. Từ nay gắng mà

nuôi nó.”

Hình nhƣ lúc ấy có ai chen vào, bàn lùi sao đó nên ông nội con mới nói:

“Không nuôi nó là mình có tội. Mang tội với Ngƣời thì chỉ một kiếp này thôi;

còn mang tội với Trời thì không biết đến kiếp nào mới giải đƣợc!”

Thế là nhà ta nuôi đứa bé. Ông nội đặt tên cho bé là Mai Duy Đông. Tên gọi là

Đông để mọi ngƣời nhớ tới mùa đông năm ấy, cái năm rét ghê ngƣời…

Ông bà nội con coi chú Đông nhƣ con đẻ… Mấy chị em thầy trong nhà, bát cơm manh áo chia đều nhƣ nhau không hề có phân biệt. Thầy còn có lần bị

ông nội con đánh roi, bà nội rầy la, chứ chú Đông thì chẳng ai đụng chạm đến,

dù chỉ một lời nói nặng. Ông bà còn cho chú đi học… Khổ một nỗi, cái đầu

chú sao tăm tối chật hẹp quá không tài nào nhét chữ nghĩa vào đƣợc! Đã vậy chú lại có tính tắt mắt, hay ăn cắp vặt… những thứ vớ vẩn. Thế là phải bỏ học ở

nhà làm ruộng, dệt chiếu. Mà làm ruộng dệt chiếu cũng đâu có xong. Chú lƣời

lắm! Thôi thì, phải lấy vợ sớm cho chú may ra còn có thể tu tỉnh con ngƣời, vì vợ vì con mà chịu thƣơng chịu khó làm ăn…

Trong tuổi thơ và sau này khi đã trƣởng thành, nói cho đúng ra chú Đông đối

với thầy mẹ cũng không có gì sai trái. Chẳng giúp ích đƣợc gì cho thầy mẹ, điều đó mình chẳng cầu mong. Còn chuyện thầy mẹ giúp đỡ, chạy chữa cho vợ

con chú, là nghĩa tình trong nhà, chẳng ai tính toán cả.

Page 94: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

94 Trần Thế Nhân

Ấy thế rồi mà cái họa vẫn sinh ra. Sinh ra từ cái mồm điêu ngoa của vợ chú

Đông.

Hồi ấy, mẹ của con cũng đã đôi lần nhắc thầy về việc phải “coi chừng” thím Đông – ả Thị Mầu của xứ Nga Sơn Thanh Hoá! Thầy chỉ cƣời, đàn bà các chị

rõ lắm điều, toàn để bụng những chuyện vớ vẩn. Mẹ cũng không vừa, cứ một

hai đay đi nghiến lại, rằng để mà coi, nuôi ong tay áo rồi sẽ có ngày…

Bà ngoại con có lần sang thăm sui gia, nghe chuyện cũng chép miệng thở dài: Lời nói đọi máu, ghi nhớ lấy, ai ơi!… Làm ơn nên oán, cái sẩy rồi nảy cái

ung… Bà chẳng đƣợc học hành, chữ to đánh vần bập bẹ, mà sao lại nhớ nhiều

cách ngôn tục ngữ!

Thế rồi năm 1955… Đội Cải cách tới bắt rễ xâu chuỗi nhà Mai Duy Đông!

Ông nội con may phúc đã khuất núi về với tổ tiên gần hai năm. Cả cái núi vạ

đổ lên đầu bà nội. Nghe nói lúc đầu chú Đông không chịu đấu tố bà. Nhƣng rồi nghe lời thím xúi ngon dụ ngọt thế nào mà chú xiêu lòng, máu tham nổi lên,

muốn chiếm hết cả ngôi nhà từ đƣờng 5 gian 2 chái này!

Khi Đội Cải cách chuẩn y, kết nạp chú vào Đảng, hình nhƣ thấy mình mang họ

Mai nó nhục nhã xấu xa, bất lợi thế nào… chú mới nghe ai, ông Đội kết nghĩa anh em, đổi cả họ lẫn chữ lót thành Lê Trạch Đông! Đồng chí Lê Trạch Đông!

Mẹ vào thăm bố trong tù kể cho bố nghe nhƣ vậy.

Có một hôm, thầy ngồi trong nhà giam… Nghe ai gọi tên loa hay trong cuộc họp Đảng ở trụ sở Uỷ ban cũ gần bên… Các đảng viên cũ nhƣ thầy thì bị đuổi,

khai trừ, tóm bắt hết rồi, coi nhƣ là một lũ phản động bán nƣớc, chỉ còn toàn

đảng viên mới đƣợc Đội kết nạp – Đồng chí Lê Trạch Đông!

Lê Trạch Đông nào nhỉ? Có phải Mai Duy Đông nhà ta không?

Cho tới khi đấu lần đầu tiên, thứ nhất… cái ngón tay trỏ của chú Đông dí vào

trán thầy, trợn lòng trắng mắt, chú quát vào mặt thầy, bảo thầy cúi mặt xuống…

thầy mới hiểu ra!

“Mai Duy Vỹ! Mày có biết tao là ai không?” – Dạ có, ông là Mai Duy Đông…

– Không phải! Tao là Lê Trạch Đông chứ không phải Mai Duy Đông! Tao đâu

có anh em gì với mày, bà con gì với dòng họ Mai bẩn thỉu chó má của mày! Tao là bần cố nông bị cha mẹ mày bóc lột, anh chị em mày đánh đập, ức hiếp,

đè nén nhƣ con trâu, con chó gần cả 30 năm nay. Vỹ! Mày có biết ai sinh ra

tao không? – Dạ, tôi không biết. – Thằng này láo! Không đƣợc xƣng tôi, phải

xƣng là… là… con, nghe chƣa? – Dạ thƣa con không biết. – Cách mạng ruộng đất sinh ra tao! Đội Cải cách Ruộng đất cho tao một cuộc đời mới Độc lập, Tự

Page 95: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 95

do… hiểu chƣa? – Dạ… dạ… đồng ý, nhất trí. – A! Thằng này láo! Mày có

còn là đồng chí, anh em đâu mà đồng ý nhất trí ! Hử! Mày là… là… cái… –

Dạ, dạ. Vâng.

Ông Vỹ nói tiếp:

“Nhà ta có tất cả hai mẫu ruộng. Ruộng của ông bà tổ tiên để lại. Một số do các

cụ xƣa khẩn hoang, một số mua. Tất cả đều do sức lao động làm ra, đâu có

cƣớp không của ai! Ông ngoại con làm ruộng, trồng vƣờn giỏi. Bà nội dệt chiếu khéo tay cả vùng này ai cũng biết. Chẳng ai chơi không, ngồi mát ăn bát

vàng cả. Mẹ con khi về làm dâu xứ Nga Sơn cũng học nghề dệt chiếu chẳng

thua kém gì mẹ chồng.

Lúc mới sinh Lệ Uyên, mẹ mua thêm hai sào nữa.

Hồi đó, năm 1948, quân Pháp nhảy dù xuống Phát Diệm, đồng bào chạy loạn

tản cƣ, kéo nhau vào Tam Lênh… Thầy đã nổi điên lên về cái chuyện mua bán ruộng ấy và mẹ cũng đã ngãng ra rồi… Nhƣng cái ngƣời bán ruộng là Hĩm

Xoa lại cứ nằn nì, van xin nhà mình mua hộ cho, làm phúc cho… chồng của

Hĩm Xoa lâu nay vốn là con sâu rƣợu, mới vừa rồi đánh bạc lại thua to, không

bán ruộng đi thì lấy cái gì để trả nợ! Ừ thì mua hộ ruộng cho! Ừ thì làm phúc cho! Đúng là chuyện lăng nhăng, vớ vẩn! Vừa bán ruộng xong là vợ lăn ra ốm,

nổi cơn sốt rét ác tính, Hĩm Xoa lại đến nhà gặp thầy, van xin thầy một lần nữa

làm phúc, cứu chữa…

Trời có mắt, Trời nhìn… Rõ rành đấy!

Vậy mà khi Đội Cải cách đến bắt rễ, xâu chuỗi, Hĩm Xoa lại tố rằng, thầy mẹ đã

cƣớp không 2 sào ruộng đó của anh ta! Hĩm Xoa bịa đặt là, con vợ của Mai Duy Vỹ chuốc rƣợu cho anh ta say rồi lừa ép Hĩm Xoa ký nhận là… gán nợ hai

sào ruộng đó. Mà anh ta thì cả đời chẳng nợ ai một đồng chinh nào hết! Nguy

hại hơn, Hĩm Xoa còn tố rằng thầy tiêm phát thuốc gì không biết cho vợ anh ta

mà… vừa mới rút mũi kim ra là chị Hĩm Xoa chết ngay tức khắc!

Đúng là thầy có tiêm thuốc cho vợ Hĩm Xoa thật. Con ạ, chị ấy bị accès

pernicieux, sốt rét ác tính. Phát thuốc thầy tiêm là một ống quinine phải nhờ

ngƣời ta mua ngoài Phát Diệm, vùng tề mới có. Vì thƣơng ngƣời, muốn cứu ngƣời mà mình phải lấy của nhà ra cho ngƣời nghèo khốn. Nhƣng một ống

quinine thì làm sao đủ để cứu đƣợc một cơn bệnh sốt rét ác tính! Cho nên tiêm

thuốc xong, về tới nhà, gần nửa đêm thì thầy nghe tin bà con làng xóm nói chị

vợ Hĩm Xoa đã tắt thở rồi!

Page 96: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

96 Trần Thế Nhân

Lúc ra đấu trƣờng, ông Đội ngƣời Nghệ An có hỏi thầy về ống thuốc. Thầy khai

ống kí-ninh đó là thuốc của Pháp. Ông Đội lại hỏi, có đúng là thuốc của Tây

không? Thầy thƣa, dạ đúng.

Cứ tƣởng hỏi xong rồi cho qua, có ai ngờ bà Đội đứng bên cạnh đay lại: tại sao

cứ phải dùng thuốc của Tây mà không dùng thuốc của ta? Thầy thƣa, thuốc của

ta chỉ có loại viên kí ninh vàng, chất lƣợng kém, không đủ hiệu lực để đẩy lùi

cơn sốt rét ác tính ở giai đoạn cuối cùng… Bà Đội, thầy còn nhớ tên là Lê Thị Chuộc, ngƣời Quảng Xƣơng Thanh Hoá quê ta, cau mặt lại mà rằng, thằng

Tây nó đánh ta, nó giết hại đồng bào ta, nhân dân ta. Làm sao có thể tin đƣợc

rằng thuốc nó đƣa sang ta mà không phải là thuốc độc, thuốc giết ngƣời!? Ông Đội cau mày nhăn nhó nói: Đã không dùng thuốc ta, cũng chẳng dùng thuốc

Trung Quốc, thuốc Liên Xô anh em, mà chỉ dùng thuốc Tây của Pháp, nghĩa là

làm sao?

Thầy xuýt bật cƣời. Tự nhiên không thấy ghét mà cảm thấy buồn, lại cũng

thƣơng mấy ông bà Đội này. Thầy nói, dạ thƣa… Bây giờ thì con không biết

thuốc Trung Quốc, thuốc Liên Xô đã đƣợc dùng ở nƣớc ta chƣa, chứ còn năm

1948, khi con tiêm thuốc cho bà Hĩm Xoa thì quả thật thuốc Trung Quốc, thuốc Liên Xô chƣa đƣợc Bác Mao, Bác Xít đƣa sang ta…

Vừa đúng thóp, Hĩm Xoa chồm dậy, dí ngón tay trỏ vào giữa mặt thầy la làng:

Đúng là thuốc độc! Thuốc độc, không sai, bà con đồng chí ạ. Vì thằng Vỹ mới tiêm xong là mẹ Hĩm nhà tôi trợn mắt lên, thở hắt ra rồi… chết. Có khổ nói

khổ, nông dân vùng lên! Bà con ơi!

Và đám đông ngƣời, Quân Chủ lực Nông dân trƣớc mặt, bốn bên đã vung nắm đấm lên trời: “Đả đảo Mai Duy Vỹ! Thằng thầy thuốc thâm độc giết hại nông

dân ta! Đả đảo! Đả đảo!”

Đả đảo Mai Duy Vỹ! Thằng địa chủ phản động cấu kết với với đế quốc Pháp,

âm mƣu tàn sát nhân dân ta! Đả đảo! Đả đảo! Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!

Vùng lên!

Trở lại chuyện ruộng đất…

Năm 1953, hồi mới phát động quần chúng đấu tranh đòi giảm tô giảm tức, ông

nội con lúc đó đang làm Phó Chủ tịch Mặt trận Liên Việt huyện có lần bảo thầy:

“Tại sao Cụ Hồ, Chính Phủ không ban hành sắc lệnh hiến ruộng cho Nhà nƣớc, nhƣợng đất cho nông dân? Năm 45 đã có “Tuần lễ Vàng” sao bây giờ lại

Page 97: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 97

chƣa có “ Tuần lễ Đất”? Hồi “Tuần lễ Vàng” nhà ta đã ủng hộ Nhà nƣớc một

lạng rƣỡi vàng, tất cả số vàng nhà họ Mai có đƣợc bao đời nay. Nếu có “Tuần

lễ Đất” nhà ta sẵn sàng hoan nghênh và ủng hộ. Xin hiến tất cả cho Nhà nƣớc! Xin nhƣợng tất cả cho nông dân! Cứ ôm mãi ruộng đất nhƣ thế này thầy thấy

có cái gì bất ổn, e rồi tới lúc mang họa vào ngƣời đấy con ạ. Hay là, ta viết thƣ

lên Tỉnh gửi mấy ông lãnh đạo, tình nguyện xin hiến cho Nhà nƣớc, nhƣợng

lại tất cả cho làng xã… số ruộng này?”

Thầy đã mơ hồ nhận ra cái lý, cái tình trong lời nói của ông. Nhƣng rồi lại

phân vân vì xƣa nay chƣa từng thấy ai trong thiên hạ tự nhiên lại làm cái việc

biếu không, cho không cả ruộng đất nhà mình đi nhƣ vậy?

Bà nội con cũng nói, này ông ơi, ông có hoá điên hoá ngộ không; nếu cho

không, biếu cả ruộng đất đi nhƣ vậy thì nhà ta rồi sẽ sống bằng cái chi?

Ông nội bảo, bà và mẹ Cò dệt chiếu, nuôi lợn gà, tôi làm vƣờn, còn anh Vỹ thì làm việc Nhà nƣớc có lƣơng rồi lo cái chi?

Mẹ con cũng không thuận lòng, cho rằng đất nhà ta là của ông bà tổ tiên để lại

chứ có cƣớp không của ai đâu. Thầy cũng có ý nghĩ nhƣ vậy. Nhà họ Mai

mình xƣa nay, từ ngƣời cầm bút lông đến anh bút sắt, từ ngƣời cầm xê ranh chích thuốc đến kẻ làm ruộng, dệt chiếu… chẳng thấy có ai chơi không cả. Ai

cũng làm việc cật lực sớm hôm, ai cũng cần kiệm từng hào từng xu…

Mẹ con đƣa ra ý kiến hay là ta bán đi một mẫu ruộng, để lại một mẫu?

Ông nội con cƣời bảo, đã bán là bán tuốt tuột, còn giữ lại một mẫu dăm sào

làm cái chi? Tiếc rẻ cái gì mới đƣợc chứ? Đi theo Cụ Hồ làm Cách mạng là để

tiêu diệt áp bức bất công. Hay lắm, tốt lắm… Dân ta ai cũng đồng lòng mong muốn nhƣ thế cả. Đôi lúc thầy lẩn thẩn nghĩ, muốn có công bằng xã hội thì chỉ

có mỗi một cách là, làm sao để ngƣời ngƣời, nhà nhà ai cũng nghèo khổ nhƣ

nhau… Thế nhƣng, bản chất của con ngƣời ta xƣa nay là ham muốn, tham

lam, ai cũng chỉ muốn sƣớng, chẳng ai muốn khổ cả… Thử nhìn xem loài vật nuôi trong nhà, cho chúng ăn ngoài sân kìa. Con nào rồi cũng muốn ăn nhiều

hơn con nào, tranh giành mổ cắn nhau chí choé. Con vật tự nhiên mà còn thế,

huống hồ con ngƣời mƣu ma chƣớc quỷ!

Công bằng xã hội ƣ? Hay đấy, tốt đấy… nhƣng xem ra để làm đƣợc, thực hiện

đƣợc cái mơ ƣớc đó cũng chẳng dễ đâu! Còn lâu… Biết đến bao giờ?

Nhà ta bây giờ có hơn hai mẫu ruộng, trong khi làng xã có nhà chỉ có một hai

sào, có ngƣời không có nổi tấc đất cắm dùi! Phải chăng nhƣ vậy là không hợp với Đạo Trời, Lòng Ngƣời? Nhiều đêm nằm nghĩ ngợi, thầy hết sức e ngại.

Những năm Ba Mƣơi ở Nghệ Tĩnh dân chúng đã nổi dậy “đào tận gốc, trốc tận

Page 98: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

98 Trần Thế Nhân

rễ” các tầng lớp “trí, phú, địa, hào” rồi; bây giờ thầy lo sợ rằng cái chuyện ấy

đến lúc cũng lại xảy ra ngay trên quê ta cho mà xem”…

Hai tháng sau câu chuyện trong nhà hôm đó, ông nội con qua đời.

Lúc hấp hối ông có dặn: “Sau khi tôi chết rồi, con cháu có thƣơng tôi thì nhớ

đào huyệt chôn thật sâu, khỏi cần hòm ván… Càng sâu càng tốt… Tôi sắp về

với Đất, Đất phủ che tôi… Tôi sẽ làm mồi cho giun dế. Có sao đâu! Tôi đã

hoàn nợ cho Đất. Chỉ thƣơng và lo cho con cháu còn ở lại Bên Này”…

Ông lại nói thêm, riêng để cho mình thầy nghe: “Anh Vỹ, thầy thấy anh biết

thƣơng ngƣời nhƣng hình nhƣ chƣa biết sợ ngƣời. Con ngƣời là giống loài

đáng sợ nhất! Không phải lời tôi nói đâu, Cụ Phan Bội Châu nói đó. Cụ nói: “Loài gì đáng sợ nhất? Loài ngƣời!”

Ông mất rồi, không khí trong nhà u buồn thảm đạm. Bảo rằng có nhớ lời ông

dặn không thì vẫn là có nhớ, thế nhƣng cái lòng nghĩ về ông lại nhiều hơn nghĩ về mình, cho nên mọi sự trong nhà rồi đâu vẫn hoàn đấy. Ruộng vẫn không

bán cho ai, mà nghĩ cho cùng thì biết bán cho ai lúc bấy giờ? Ai ngƣời ta dám

mua? Mà có bán đƣợc đi nữa thì cũng phải lo tẩu tán ngay. Tẩu tán ra Hà Nội

thủ đô, giấu biệt tăm tích, hoặc xuống tàu Hải Phòng di cƣ vào Nam chẳng bao giờ quay về quê quán nữa, may ra… chứ vẫn còn lù lù ở làng xã, không đi đâu

ra khỏi xứ Thanh Hoá thì lƣới trời vẫn không thoát!

Nhà họ Mai ta từ trong khí huyết tổ tiên di truyền lại những tố chất cũng thâm căn cố đế lắm. Nói ra thì động đến vong linh các cụ, xin đƣợc đại xá cho…

Chẳng hạn, chỉ quen Cho và Mua chứ không bao giờ Bán! Ngay chuyện đổi

chác ông bà nội con cũng chẳng mấy ƣa. Trong nhà cái gì xấu, cái gì tốt là cứ thế giữ y nguyên mà dùng, dùng cho đến khi nào hƣ hỏng bỏ đi mới thôi…

Bảo thủ đến thế là cùng!

Hồi còn nhỏ, có lần thầy đồng ý đổi cho thằng bạn cùng lớp một cây bút máy

Kao-lô để lấy cái cặp da; chả là, nó thì khoái cây bút máy còn mình cũng thích cái cặp… Chuyện có thế thôi mà ông nội bắt con mình nằm xuống, lột quần ra,

quất cho mấy roi quắn đít!

Ngay cả chuyện trong nhà dệt chiếu rồi bạn hàng đến lấy đƣa ra chợ Hồ bán cũng vậy; nói là dệt chiếu để đổi lấy tiền có phần nào đúng hơn là bán lấy tiền!

Trở lại chuyện ruộng đất…

Nhà ta có bóc lột bà con nông dân không? Có! Lần đấu đầu tiên thầy cúi đầu

xin nhận tội là có bóc lột nông dân, những gia đình bần cố nông làm rẽ ruộng, thuê ruộng.

Page 99: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 99

Hồi xƣa, từ thời các cụ, cứ 100 thùng lúa thì chủ ruộng thu của tá điền 10

thùng, mỗi thùng là 10 kilô gam. Mƣời phần trăm! Nhà bác Trần Vĩnh Quyền,

bạn của thầy ở bên Nga Phú cũng thu theo tỷ lệ nhƣ vậy. Nhƣng khi ra đấu trƣờng bà con nông dân họ đâu có chịu cái 10 phần trăm đó! Họ la lối lên rằng

địa chủ nhà họ Mai cứ 100 thùng thì lấy tới 50 thùng, có ngƣời hét lên 70

thùng; còn lại chỉ đủ cho họ hớp cháo… cầm hơi thôi!

Còn ở các nơi khác thì sao? Chẳng hạn, nhà chú Đoàn Hiền ở Quảng Trạch, Quảng Bình, một ngƣời bạn lớp trẻ của thầy thì cứ 50 phần trăm mà ăn chia.

Mất mùa hay đƣợc mùa, cứ là chia đôi anh một nửa tôi một nửa… Địa chủ 50,

tá điền 50! Xong!

Và mẹ của con nữa, cũng có lúc cho ngƣời ta vay tiền. Đây mới thật là đầu

mối gây ra tai họa. Thời ấy, cho vay lúa vay gạo có lấy lời cũng đã là tội ác

rồi, còn chuyện cho vay tiền lấy lãi thì đúng là… Trời không dung, đất không tha! Thầy làm ở nhà thƣơng Thanh Hoá, ngoài việc chích thuốc chữa bệnh ra

hầu nhƣ không biết, chẳng mấy quan tâm tới việc làm ăn của mẹ con ở nhà.

Không hiểu mẹ con cho nông dân vay tiền lấy lãi bao nhiêu?

Ối Trời Đất ơi!

Ông Vỹ ngừng lại, nghển cổ, há miệng ngáp. Toàn thân run giật từng cơn…

Con cá mới vừa bị lôi lên khỏi nƣớc, nằm trên thớt đang ƣỡn quẫy.

Page 100: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

100 Trần Thế Nhân

Chƣơng 17 THUỲ DƢƠNG KỂ CHUYỆN CHO BÁC VỸ NGHE

Thùy Dƣơng nãy giờ ngồi nghe đã nhấp nhổm mấy lần định ngắt lời ông Vỹ. Ả nói:

“Dạ thƣa bác. Cháu thật không hiểu nổi những điều vừa đƣợc nghe bác kể. Làm sao lại có chuyện mình gặp lúc túng thiếu, đói khát đi vay ngƣời ta, ngƣời ta đã

cho mình mƣợn, rồi trở lại quay mặt oán ghét vu khống trả thù ngƣời ta? Đã đành

rằng tâm lý con ngƣời ta thƣờng vậy, khi vác mặt đến nhà ngƣời vay thì quỵ luỵ van xin đến vãi nƣớc mắt ra; nhƣng khi ngƣời ta đã cho vay rồi, về tới nhà mình

là cứ ỳ ra không muốn trả nữa, mà có trả đi nữa thì cũng tiếc đứt ruột...!

Trong công chuyện kiếm sống làm ăn, đƣợc ngƣời ta cho mình vay mƣợn là quá tốt rồi, phải đội ơn ngƣời ta mới đúng chứ! Có thứ luật pháp nào lại đi bao

che cho kẻ trốn nợ, khuyến khích chuyện vu cáo, điêu toa, dựng đứng… dù là

cho con vật chứ chƣa phải cho con ngƣời!

Thời của bác là thời của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, chắc bác không thể hình dung nổi thời của con cháu mình, sau này nó nhƣ thế nào? Dạ thƣa bác…

Ả cúi thấp đầu xuống, lấy tay chỉ vào ngực mình. Những năm 90 của thế kỷ 20

Đổi Mới, Cởi Trói… Thời Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, con Thùy Dƣơng này đã từng đi vay và cho vay. Nó đã từng là con nợ và chủ nợ. Nó đã từng làm

chủ một ổ huê hụi, nhờ mấy chú công an bảo kê, và có lúc còn thuê cả một băng

đầu gấu yểm trợ. Vô cùng tự do và thoải mái! Thật đúng là hết đời cha ăn mặn

đến đời con khát nƣớc! Ha! Ha!... ”

Ông Vỹ trố mắt nhìn Thùy Dƣơng.

– Cháu nói gì lạ thế?

– Dạ thƣa bác. Với một ngƣời nhƣ bác thật không ai nỡ lòng nào lại dối trá. Phản bội, đày đọa một ngƣời nhƣ bác không chỉ là tội ác của một số ngƣời mà

còn là nỗi ô nhục cho cả Nhân loại! Bốn mƣơi lăm năm bác đi xa, có biết bao

nhiêu là đổi thay, bác không hình dung ra nổi đâu!

– Tôi không trở về đƣợc Bên Ấy, dù chỉ là một lần.

– Sao vậy, thƣa bác?

– Muốn về lắm mà không đƣợc. – Ông Vỹ đau đớn kêu lên – Những đồng chí

nhƣ tôi đâu chỉ chết có một lần. Ngƣời ta giết chúng tôi nhiều lần! Sang tới Bên Này rồi, chúng tôi đâu đã đƣợc siêu thoát! Thầy sinh ra cháu dạo ở Bên

Này với bác có về Bên Ấy đƣợc dăm lần…

Page 101: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 101

– Thầy con về khi nào, thƣa bác?

– Lần thứ nhất lúc vừa mới sang đây, ông ấy đùng đùng đòi về ngay. Lần thứ

hai, vào dịp thất tuần, 49 ngày. Lần thứ ba vào ngày giỗ đầu. Lần thứ tƣ, Rằm tháng 7. Lần thứ 5, lễ Đoạn tang… Mỗi lần về, thầy cháu đều kể lại cho bác

nghe.

– Còn lần nào khác nữa không, thƣa bác?

– Chỉ mấy lần đó thôi. Bác hỏi thầy cháu, sao đồng chí không về dăm lần nữa trong khi tôi đây rất muốn về mà không về đƣợc. Thầy cháu cƣời, nói rất thật

thà: Về làm đếch! Nỏ đƣợc cái chi! Về mà nghe họ “chỉnh đốn”, xem họ

“trong sạch vững mạnh” à? Mệt! Tôi đã làm tròn nghĩa vụ. Hồi còn Bên Ấy đã có lúc muốn nằm dài rồi, sang tới Bên Này chỉ muốn “Siêu thoát” thôi!

– Thầy con còn nói gì nữa không?

– Ông ấy rất kiệm lời, vẻ ngƣời mệt mỏi… Thầy cháu kể hồi Cải cách, nông dân lấy đƣợc ruộng đất từ tay địa chủ, vừa cắm thẻ xong một thời gian… Đảng

lại bảo tập trung ruộng đất lại giao cho Hợp tác xã! Có ông nào đó trên báo

Nhân Dân làm thơ ca ngợi Đại Nhảy Vọt.

Sao không đi đứng bình thƣờng lại cứ nhảy, cứ vọt? Lạ nhỉ? Lại còn mong muốn bà con nông dân ta phải làm theo tiến lên Công xã Nhân dân nhƣ kiểu

Tàu nữa kia! Cải cách Ruộng đất rồi khổ vẫn hoàn khổ, phải tiếp tục xây dựng

xã hội chủ nghĩa xong đâu đấy mới sƣớng đƣợc. Thầy cháu bảo thế. Nghe nói sau này mỗi gia đình bần cố nông lại đƣợc chia cho một số ruộng phần trăm.

Ruộng phần trăm là thế nào, hở cháu?

– Dạ thƣa bác, ruộng phần trăm là ruộng không phải nộp thuế, trên giao cho mình làm để tự nuôi sống mình suốt cả thời bao cấp và chiến tranh. Nhƣng

không phải là ruộng của mình đâu, vẫn là của Hợp tác xã, của Nhà nƣớc… Tất

cả là của chung bác ạ, không có cái gì là riêng hết!

– Nhƣ vậy cũng hay đấy chứ nhỉ? – Ông Vỹ mỉm cƣời, gật gật đầu – Đỡ mệt biết bao nhiêu! Có của, ôm của suốt một đời, nhất là ruộng đất, mệt lắm cháu

ơi!

– Để cháu nói thêm về ruộng phần trăm cho bác nghe. Cứ mỗi nhân khẩu đƣợc chia 36 mét vuông mà nhân lên cho cả nhà. Có cái phần trăm đó rồi thì nỏ khác

chi ngƣời chết đuối vớ đƣợc cọc, quờ đƣợc tấm ván… Ngày đêm lo mà cày

cuốc, mà tự cứu sống! Bởi vậy, đƣợc sống rồi thì đừng quên nhiệm vụ là phải

làm ruộng Hợp tác xã. Hợp tác xã sẽ ghi công tính điểm tử tế đàng hoàng. Còn nhớ mẹ cháu kể, năm nào đói kém thì một ngày công đƣợc tính 3 lạng thóc,

Page 102: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

102 Trần Thế Nhân

lúc đƣợc mùa thì đƣợc tính 4 kg thóc… Bà ấy rền rỉ ca cẩm suốt năm, suốt

tháng. Mất mùa liên miên, chẳng thấy khi nào đƣợc mùa; mà có đƣợc đi nữa

rồi cũng mất bởi ruộng là ruộng cha chung không ai khóc… Dù ở trên có hô hào thi đua làm việc bằng hai, bằng ba thì bà con nông dân cái đầu đã mệt mỏi,

cái tay chân đã rã rời. Mỗi ngƣời làm việc bằng hai, để ông Chủ nhiệm mua

đài mua xe… Mỗi ngƣời làm việc bằng ba, để ông Chủ nhiệm xây nhà xây

sân… Mỗi ngƣời làm việc bằng năm, để ông Chủ nhiệm vừa nằm vừa chơi… Mỗi ngƣời làm việc bằng mƣời, để ông Chủ nhiệm hát cƣời ha ha ha! Ông Chủ

nhiệm Hợp tác xã ghê gớm lắm bác ơi, quyền sinh quyền sát trong tay, muốn

cho ai sống, muốn cho ai chết là tuỳ ý, tuỳ thích…

Lý lịch của thanh niên chúng con lúc bấy giờ, một mình ông ấy phê duyệt.

Đứa nào ông ấy phê cho tử tế thì đƣợc đi học trung cấp hoặc đại học, đƣợc kết

nạp Đảng. Vào Đảng thì đƣợc lên chức tăng lƣơng, con cái thi vào đại học đƣợc cộng thêm 2 điểm, đƣợc đi nƣớc ngoài… Đứa nào ông ấy không ƣa hoặc

ghét, chẳng hạn thành phần xấu, không trong sạch… thì đừng hòng bén mảng

tới cổng trƣờng đại học chứ chƣa nói chuyện mơ màng vào Đảng.

Lý lịch tờ khai của ngƣời ta, ông ấy phê bậy phê bạ, có khi chẳng thèm phê nữa, cầm bút chì đỏ gạch hai gạch chéo, hoặc giơ lên trƣớc mặt họ, mắm môi mắm

lợi lấy tay xé đôi xé tƣ rồi quẳng xuống nền nhà Uỷ ban… Đảng là tao, là

tào… tào đây. Đã nhớ chƣa? Hết hồn hết vía, lo mà nhanh chân lủi mau về nhà. Về tới nhà rồi còn sởn gai ốc vì tiếng cƣời gằn, tiếng gào rít của ông ấy…

Lệ Uyên bật cƣời:

– Chuyện lung tung lang tang quá. Em nói thế thì bố của chị làm sao mà hiểu nổi!

Ông Vỹ nghiêm vẻ mặt, khẽ xua tay:

– Không sao! Em con nói rất hay, có điều Thùy Dƣơng ạ, chuyện về mấy ông

ấy thì bác cũng đã từng biết và phần nào có thể hình dung đƣợc. Còn chuyện về ruộng đất, về đời sống làm ăn của bà con mình… bác muốn cháu kể thêm

nhiều nữa…

Thùy Dƣơng kể tiếp:

Cháu xin đọc cho bác nghe mấy câu thơ – Ả ngâm nga:

Dân có ruộng dập dìu hợp tác

Lúa mượt đồng ấm áp làng quê

Chiêm mùa cờ đỏ ven đê

Sớm khuya tiếng trống đi về trong thôn.

Page 103: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 103

Thơ của Tố Hữu đấy, có hay không bác?

Ông Vỹ vẻ đăm chiêu, mơ màng:

– Những năm tháng ấy đồng ruộng lúa tốt lắm, hở cháu? Lúa mƣợt đồng ấm áp… Mà sao bà con nông dân lại đem cờ đỏ ra bờ đê, đánh trống từ sáng đến

đêm khuya để làm gì? Biểu tình à?

Thùy Dƣơng trề môi dƣới ra:

– Có mà tốt! Ruộng cha chung không ai khóc làm sao mà tốt nổi! Mấy ông nhà thơ, nhạc sĩ họ véo von cho hay thôi. Một dạo ồn ào lên về chuyện 5 tấn thóc

trên 1 hecta ở Thái Bình. Nghe “bài ca 5 tấn” của cái ông gì đó mà lỗ tai thì

khoan khoái, gan ruột cũng phơi phới. Có điều nhiều ngƣời vẫn không tin, họ cho là bia nặng… bịa!

May ra có miếng ruộng phần trăm là mƣợt mà, ấm áp tí chút bởi vì mình phải

chăm sóc nó để mà cứu đói cho cả nhà. Nhân công làm ruộng mỗi ngày một thiếu: trai gái trong làng đi đánh giặc, ra mặt trận hết chỉ còn lƣa thƣa mấy ông

bà già trẻ con, những nàng Vọng Phu cày cuốc ngoài cánh đồng. Nhà cháu

chẳng hạn, thầy cháu thì tái ngũ, anh cháu nhập ngũ… cả hai cùng ra mặt trận,

ở nhà chỉ còn mẹ và hai chị em… Một năm, thiếu tới 4 tháng gạo ăn là chuyện bình thƣờng. Lâu lâu, họa hoằn lắm mới đƣợc ăn một bữa cơm trắng, cơm

không độn…

Cháu đọc cho bác nghe thêm mấy câu thơ nữa nhé. Hay lắm bác ạ…

Cầm vàng còn sợ vàng rơi

Vào Hợp tác xã đời đời ấm no…

...Anh đi bộ đội mười năm

Trở về buồng cũ đắp chăn em chờ…

Ông Vỹ hình nhƣ chẳng quan tâm gì mấy chuyện âm nhạc và thơ phú…

– Này cháu – Ông hỏi với giọng nể nang cầu thị – Cháu vừa nói… cơm không

độn; vậy thì cơm có độn là độn những thứ gì?

– Đủ thứ cả bác ơi. Khoai, sắn, ngô, mì bột, mì sợi, bo bo…

– Bo bo là cái gì?

Thùy Dƣơng lúng túng. Nhƣng rồi ả nhớ ra đƣợc và toét miệng cƣời.

– Bo bo hay còn gọi là mì ba đời. Nó là một loại hạt mì Trung Quốc còn

nguyên chƣa xay xát, luộc lên ăn vào khó tiêu lắm… Thế này chứ, con nói bác bỏ quá cho… Trƣớc hết, mình ăn vào dạ dày không tiêu hoá nổi, ỉa ra phân vẫn

Page 104: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

104 Trần Thế Nhân

còn nguyên hạt, thế rồi con chó nó mới xực bãi cứt đó, cũng không tiêu nổi, lại

ỉa ra, hạt cứ còn nguyên; cuối cùng con gà mổ tiếp nuốt vào… Thế là xong! Đúng

phóc ba đời!

Thùy Dƣơng kể tiếp cho bác Vỹ nghe những năm 80, thời kỳ đất nƣớc chƣa

“đổi mới”. Ả đi chợ Xóm Mới xếp hàng mua 2 lạng thịt heo để nấu bát cháo

cho con trai đang ốm nằm bệnh viện. Đáng lý phải cắt cho ả một miếng thịt

nạc thì con mẹ cửa hàng lại xẻo cho ả một miếng bạc nhạc có núm vú. Thế là, ả và mụ bán hàng to tiếng xô xát… Mụ túm tóc ả. Ả tát cho mụ một cái nên

thân vào giữa mặt!

Ông Vỹ cau mày, cố tìm hiểu ra những điều lạ lùng trong câu chuyện.

– Thầy cháu cũng có kể cho bác nghe. Mùa đông ở ngoài Bắc mà ông ấy phải

đi nhặt cành khô, quét lá phi lao đem về nhà đun. Lƣơng hƣu cựu chiến binh mà

chậm tới 3 tháng chƣa lĩnh; có tháng không lĩnh tiền mà lĩnh bằng phân uya-rê! Đúng vậy, phải không cháu?

Thùy Dƣơng cắn môi, cúi đầu. Ả nghẹn ngào.

– Đó là giai đoạn sau Đổi tiền, cái thời Bù giá vào lƣơng. Ở Hà Nội ngƣời ta

gọi là Bù-đá-vào-lƣng. Cũng chỉ vì cả nƣớc làm thơ, nhà thơ nhảy ra làm kinh tế nên toàn quân toàn dân ta mới điêu đứng khốn khổ nhƣ vậy, bác ạ. Thầy

cháu ra đi… đúng vào những năm nƣớc ta bắt đầu đổi mới, kinh tế bao cấp

chuyển sang kinh tế thị trƣờng. Cụ mới thấy mà chƣa đƣợc hƣởng lấy một ngày gọi là sung sƣớng.

Rồi bƣng mặt khóc oà.

Năm gian nhà bỗng mờ tối dần. Không-Thời-gian đứng lại. Có ai đang đổ chì vào đêm đen từ mọi phía làm cho mấy con ngƣời tự nhiên cảm thấy mình bị

đóng khuôn, chôn chân tại chỗ, không thể cựa quậy chuyển dịch đi đâu đƣợc.

Lệ Uyên rất muốn ngồi xích lại gần bố, đƣa tay sang sờ mái đầu cô em đang

rung lắc tội nghiệp kia mà không sao giơ lên đƣợc. Cái màu đen gì thế này nhỉ? Chị căng mắt nhìn thẳng, cố chọc thủng xuyên qua để nhận ra hình ảnh căn

nhà, thế giới… mà thấy mình hoàn toàn bất lực.

Màu đen gì nữa thì ánh sáng có lúc rồi cũng xuyên qua đƣợc, hoặc tự nó nhƣờng chỗ cho ánh sáng, thậm chí hài hoà cùng ánh sáng. Màu đen này hoàn

toàn khác lạ. Sợ hãi, u mê, câm điếc, mù loà… Màu đen này bƣng bít, đè nặng,

huỷ diệt tất cả!

– Thầy ơi! Thầy ở đâu rồi?

Page 105: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 105

Lệ Uyên kêu lên nhìn quanh, hai tay sờ soạng. Không có tiếng trả lời. Chị thấy

mình hoảng loạn nhƣ ngày nào, hồi lên bảy tuổi trƣợt chân rớt xuống ao vì với

tay hái bông hoa súng. Lần ấy may mà có chị Tâm đẩy vội ra một cành xoan khô cho mà bám lấy lôi vào… chứ không con hĩm Uyên đã chết đuối rồi!

– Thầy ơi! Thầy của con ơi!

Lệ Uyên đau khổ rền rĩ. Vẫn lặng im. Không-Thời-gian đang chuyển dịch từ

mọi phía. Sự Sống đang kéo lùi Cái Chết về một bên. Vòng tròn sáng lại hiện ra. Chầm chậm xoay…

– Thầy đây mà, con…

– Thầy đâu?

Tiếng ông Vỹ chậm rãi, rõ ràng nhƣ ai đang đánh vần:

– Thầy là con. Thầy ở trong con. Mạng hai cha con mình tuy hai mà vẫn là một.

Thầy đi trƣớc con rồi lại về sau con…

– Thầy đừng xa con…

– Ừ. Thầy vẫn là bố Vỹ năm 36 tuổi; con là bé Uyên lên 7 tuổi. Đồng ý không

nào? Vừa lòng chƣa?

Cái đầu ông Vỹ đang hiện dần ra.

Mái tóc đen dày hơi cứng, buông lơi một lọn cong vòng trên vầng trán rộng.

Đôi mắt đen sáng đƣợm vẻ buồn cả nể, mềm yếu. Đôi môi mở hé tình thƣơng

yêu, lộ mấy chiếc răng cửa trắng đều, chân thật; biết hờn dỗi khi còn trẻ thơ và nhẫn nhục chịu đựng lúc đã trƣởng thành. Đầu Mai Duy Vỹ, đảng viên Đảng

Lao động Việt Nam trƣớc ngƣời thân và đồng chí kia, sao bỗng nứt vỡ, toác

đôi… máu trào óc phọt ra từng mảng? Kìa!

Ông Vỹ nói, giọng trầm:

– Thôi, bây giờ con hãy kể cho thầy nghe về ngôi nhà từ đƣờng họ Mai chúng

ta, về hoàn cảnh sống của gia đình ta, bà nội, mẹ và các con… lúc thầy đi sang

Bên Ấy…

MAI LỆ UYÊN KỂ CHO BỐ VỸ NGHE

Page 106: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

106 Trần Thế Nhân

Chƣơng 18 ĐỘI CẢI CÁCH BẮT BỐ VỸ ĐƢA ĐI TÙ. NHÀ BỊ “BAO VÂY”

Thầy ơi! Con kể thầy nghe… những gì năm ấy con còn nhớ đƣợc qua ký ức của

cô bé lên 7 tuổi. Và sau này còn đƣợc mẹ và chị con bổ khuyết thêm.

Con còn nhớ cái đêm hôm ấy đêm gì mà trời oi bức nhƣ thể sắp có giông bão.

Mẹ bảo mấy đứa con nằm giƣờng nóng lƣng chắc không ngủ đƣợc, thôi thì

chịu khó quét nền nhà gạch, trải chiếu ra ngủ cho mát mẻ hơn. Thế là, con bé

Uyên của thầy lăn ra ngủ một giấc chẳng còn biết trời đất ra sao nữa.

Sáng dậy, mở mắt ra con thấy sao không khí trong nhà ta có cái gì khác lạ?

Mặt mày ai nấy buồn rầu lo lắng. Con đi quanh quẩn hết trên nhà rồi xuống

dƣới nhà, lại đi ra cả trƣớc sân đứng nhìn cây hoa ngọc lan, mấy chậu hồng, chậu cúc mà thầy thƣờng đứng nhìn hoặc cúi xuống hít thở, lấy ngón tay mơn vuốt…

Quay vào nhà, thấy mẹ đang ngồi thừ trên ghế tràng kỷ, con hỏi:

– Mẹ ơi, thầy đi mô rồi hả mẹ?

Mẹ nhìn con nhƣ ngƣời mất hồn, thở dài.

– Thầy qua Bình Lâm, bên ngoại Hà Trung có chút việc…

Đến bữa ăn trƣa vẫn chƣa thấy thầy về! Rồi bữa tối đến… Thầy cũng chƣa về!

Lúc bấy giờ mẹ mới nói thật cho con biết cái điều khủng khiếp đã xẩy ra…

– Thầy bị ngƣời ta bắt đƣa đi đêm hôm qua rồi!

Nói xong, mẹ nâng vạt áo lên úp trùm mặt, nghẹn ngào.

– Thầy bị bắt sao con không biết?

– Thì con ngủ say nên không đánh thức con dậy.

– Sao không đánh thức con dậy? Lỡ nhƣ thầy đi luôn, con không thấy thầy nữa

thì sao?

– Đừng nói dại con, thầy đi chừng dăm bữa, nửa tháng thôi rồi thầy về.

– Ai bắt thầy đi thế hở mẹ?

– Đội Cải cách… mấy ngƣời bần cố đƣợc bắt rễ xâu chuỗi.

– Vì sao thầy bị bắt?

Page 107: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 107

– Mẹ cũng không biết nữa! Trời ôi, thôi con đừng hỏi nữa!

– Thầy hiền lành thế cơ mà, mẹ…

Thầy đi đƣợc mấy hôm thì nhà ta bắt đầu bị “bao vây”.

Mẹ cắt nghĩa, truyền đạt cho các con và cả bà nội nhƣ sau:

“Nhà ta đã bị bao vây. Nhƣ vậy có nghĩa là từ nay mọi cái trong nhà, ngoài

vƣờn, tất cả không còn là của mình nữa mà thuộc về tay nông dân, mấy ngƣời

bần cố nông… Ngay cả con ngƣời mình nữa, Đội bảo nông dân để cho mình sống là mình còn đƣợc sống, Đội bảo nông dân bắt mình chết là mình phải

chết. Hiểu chƣa? Trong nhà này, từ bây giờ trở đi, nhất nhất mọi chuyện, ai nấy

đều phải nghe tôi, làm theo tôi! Cấm không đƣợc nói cái gì, làm cái gì mà không đƣợc phép của tôi!!!”

Mệnh lệnh đã ban ra, cứ thế mà thi hành.

Y nhƣ rằng ma quỷ bắt đầu rục rịch hoạt động, liên tục khiêu khích.

Lần thứ nhất, không hiểu ai lẻn vào nhà lúc nào, bẻ gẫy song cửa sổ lấy đi mấy

lọ thuốc aspirine, quinine, dagenan?… Cả nhà xì xào rồi im. Mẹ bảo im là phải

im.

Lần thứ hai, không rõ vào lúc chập tối hay mờ sáng, ai đó chui vào nhà cắt đứt dây, chặt nát khung dệt chiếu?... Thật quá thể! Mẹ bảo im, không đƣợc lên tiếng

chửi bới.

Lần thứ ba, mấy nải chuối xanh ngoài vƣờn tự nhiên bị ai chặt, chặt nham nhở sứt mẻ… Ra cái điều rằng chỉ có con vợ thằng Vỹ vì sợ nên mới cắt vội vàng,

chặt nham nhở nhƣ rứa. Còn ai vào đó nữa!

Có giỏi thì cứ việc la lối lên, bầy choa sẵn sàng vu vạ cho rồi tóm cổ lôi đi… đấu!

Tiếng đồn loang đi khắp vùng, ngƣời ta chao chác ngay ngoài đƣờng cho mà

nghe rằng đến mấy đêm liền bọn phản động ném đá vào các cuộc hội nghị.

Hòn đá mô nhỏ thì bằng quả ổi. Hòn đá mô thì to bằng quả… bƣởi con. Có một hòn xẹt qua vai ông Đội, xuýt nữa thì nhằm trúng vào đầu! Chả là ngồi

họp lâu, ông Đội mót tiểu mới bỏ hội nghị ra ngoài mà!

Ngồi mãi trong nhà không chịu nổi, một buổi sáng nhìn quanh chẳng thấy mẹ đâu, con mới đi ra ngõ, tháo cái then cài, mở cánh cổng bƣớc ra đƣờng. Ngay

sát cổng, bên bụi xƣơng rồng, ơ hay, có một đống đá nhỏ ai vừa mới đổ?…

Cúi xuống nhìn, con mới tò mò cầm thử một hòn… Eo ôi, cái gì đen đen dính

dính bám vào tay thế này? Cứt ngƣời à? Không phải. Xa xa trƣớc mặt có một

Page 108: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

108 Trần Thế Nhân

ngƣời đang đi tới. Sợ quá, con vội kéo cánh cổng để chạy vào nhà. Vừa kịp cài

then thì một cành gai tre cào vô mặt, chảy máu bên má. Đúng lúc mẹ từ ngoài

vƣờn đi vào. “Làm sao thế?” Mẹ kêu khẽ rồi hớt hãi nhìn con. “Đƣa tay đây mẹ xem. Biết ngay mà! Nhựa đƣờng, hắc ín… ở đâu ra thế này?” “Đống đá

ngoài cổng…” Vừa nói con vừa giơ tay chỉ. “Thôi chết cha rồi, con ơi, đã bảo

mà không nghe, ai cho phép con ra ngoài đó? Họ lập mƣu vu vạ để giết mình

đó. Có ai trông thấy không?” “Có… có… nhƣng từ xa”.

Hai mẹ con vội nhìn ra ngõ. Có một ngƣời, đúng là ngƣời thật, đang đứng

ngoài cổng, cái đầu lù lù sau ô cửa trống hình vuông, thấy rõ cả con ngƣơi

đang nhìn vào. Run bắn ngƣời, mẹ ôm ghì con vào lòng, cúi đầu, một tay khẽ luồn vào đầu tóc con ra vẻ nhƣ đang bắt chấy…

Một lúc lâu… nhìn ra không còn thấy cái ngƣời ấy nữa mẹ mới buông con ra.

Bà khóc. Khóc ôi là khóc. Nƣớc mắt hai mẹ con nhoà ƣớt trên mặt nhau.

Mẹ lôi con ra giếng, rửa lau tay. Nhựa đƣờng, hắc in vẫn dính bám. Nhà hết

dầu hoả rồi. Mẹ bảo con cọ bàn tay vào đất cát, may ra… Chẳng ăn thua gì.

Lại lấy con dao bào lƣỡi mỏng thử cạo, thử gọt… Ôi! Khốn khổ khốn nạn!

Con xin kể tiếp thầy nghe…

Thầy còn nhớ mấy cây mít dai, mít mật nhà ta không? Nó mọc ở cuối vƣờn,

quả trĩu cành. Nhiều hôm ngồi trong nhà nghe có tiếng rơi đánh bịch một cái, anh Bình con mới chạy ra vƣờn xem. Hoá ra là mít chín, quả nó long rời

cuống, rơi xuống đất vỡ tung toé ra… thật là uổng phí.

Bởi thế năm đó, không hiểu Trời xui Phật khiến thế nào ấy mà mẹ nhà ta mới nhờ ngƣời tới trèo lên hái xuống tất cả những quả mít đang xanh, sắp chín…

Rồi mẹ và bà, hai ngƣời bóc múi ra, thái lát, rải ra nong phơi khô. Có ai ngờ cái

bao lƣơng khô, chỉ có mít và mít, đã cứu sống ngần ấy con ngƣời trong thời

gian bị “bao vây” đó. Ngoài mít ra, nhà họ Mai phải lê la ngoài đƣờng, ngoài ruộng để hái rau má. Bà nội nhắc lại năm đói Ất Dậu 45: “Đói thì ăn rau má,

chớ có ăn bậy ăn bạ mà chết”.

Có một hôm thầy ạ, chẳng hiểu ai đã cả gan vô phép vƣợt qua mặt ông Đội, ném vào trong sân cho mấy củ sắn. Thế là, tự nhiên khi không họ làm phúc mà

lại gieo họa. Bà và mẹ nhƣờng cho các con ăn… Cả mấy chị em đều bị ngộ

độc, say sắn. Mẹ hốt hoảng nghe lời bà, nửa đêm mò ra ngoài ruộng khoai.

Ruộng là ruộng của nhà mình, tay mình vun trồng… mà cứ nhƣ là du kích, ngƣời đi ăn trộm! Mang về đƣợc một bó lá, mẹ cùng với bà hai ngƣời giã lấy

nƣớc đổ vào mồm từng đứa cho chúng con uống để nôn oẹ ra…

Page 109: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 109

Gần sáng, ba đứa chúng con may mà qua khỏi.

Qua tới tuần sau thì anh Bình con… mất tích!

Anh con đi mò cua bắt ốc ngoài đồng từ sáng sớm. Cả nhà đợi tới trƣa, sang chiều, rồi quá nửa đêm vẫn không thấy về. Sáng ngày sau, rồi ngày sau nữa!…

Nhƣ vậy nghĩa là thế nào?! Mẹ và bà nằm liệt. Biết nhờ ai đây xin phép mấy

ông bà Đội để đi tìm. Mà ai ngƣời ta cho! Mà biết tìm ở đâu?

Rồi làng xóm ngƣời ta đồn anh Bình con chết đuối. Chết đuối sao xác không nổi lên, dù là ngoài sông hay ở trong ao đầm, thì cũng có ngƣời trông thấy bắt

gặp chứ!?

Mẹ nằm mơ thấy anh con về… Cổ bị trói, đầu vỡ toác, máu me đầy mình… 45 năm qua… dẫu nhà ta đã đi tìm, hỏi thăm cũng nhiều ngƣời, vẫn không ai biết

xác anh Bình con nằm ở đâu! Nhà mình lại ở không xa trụ sở Uỷ ban. Nơi đó,

Đội Cải cách nhốt giam, tra tấn những tên tội phạm, phản động… Chúng con nghe rõ tiếng la, tiếng thét, tiếng gào khóc trong đêm khuya mà hoảng hồn,

không sao chợp mắt đƣợc!

Page 110: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

110 Trần Thế Nhân

Chƣơng 19 BÀ NỘI BỊ ĐẤU TỐ RỒI CHẾT

Bà bảo, sắp tới thế nào họ cũng lôi bà ra đấu. Sớm muộn rồi cũng ra đi thôi!

Mẹ bảo, thà chết chứ không chịu nhục. Họ có lôi mẹ ra đấu, mẹ cũng không chịu nhận những điều vu oan giá họa cho chồng, bôi nhọ phẩm giá của dòng họ!

Quả nhiên, bà nội bị họ tới nhà bắt vào buổi sáng. Bị trói hai tay, không phải

còng chân vào cùm nhƣng nhốt giam cả tuần trƣớc khi đƣa ra đấu.

Từ ngày bị “bao vây”, cả tháng trời nhà ta chỉ ăn có mít khô và rau má nhƣ con đã kể. Bà vốn đã gầy yếu lại thêm chứng kiết lị mà không có thuốc uống nên

mạng sống chỉ còn tính đếm từng ngày.

Họ vu cho bà tội phản quốc hại dân!

Chứng cớ là, ông nội vào Đảng Dân chủ, thƣờng xuyên tụ tập bọn phản động ở

trong nhà. Bà đã nấu nƣớng, hầu hạ bọn này để chúng nó chống phá Cách

mạng.

Bà bảo, chồng tôi có vào Mặt trận Liên Việt chứ không theo đảng phái nào cả.

Họ nói, Liên Việt không phải là Việt Minh. Vào Mặt trận Liên Việt chẳng qua

là cái cớ để cho thằng Cử Hoà (Mai Duy Hoà, tên của ông nội) đội lốt phá hoại

Cách mạng mà thôi!

Vợ chú Đông, tố giác bà đã có lần ỉa vào giếng làng để bà con nông dân, cả

làng cả xã ăn! Chính thím ấy đã tận mắt theo dõi, đi rình bà vào đêm Rằm tháng

Bảy… Bà chui vô bụi ngồi một lúc, chờ khi vắng ngƣời, tƣởng là không có ai xung quanh mới mò ra, rồi cởi quần ngồi trên bờ giếng, chổng đít, phẹt phẹt

liền cả mấy bãi!

Còn ông Cò Toe cũng tố bà rằng có lần thấy bà đi ỉa xong rồi, liền giả bộ chùi

đít, để… vứt truyền đơn cho gió bay tán loạn ra ngoài đƣờng. Truyền đơn gì không biết mà có in cả chữ Tây, chữ Tàu.

Họ kéo bà ra ao làng.

Vợ Cò Toe, thím Đông và cả Hĩm Xoa lôi bà xuống, túm tóc nhận chìm đầu một lúc dƣới ao để bong bóng sủi, rồi kéo lên cho thở. Làm đi làm lại cả chục

lần nhƣ thế. Họ vừa la vừa chửi, hỏi bà rằng, con mẹ Cử Hoà đã hiểu thế nào

là cái khổ của nông dân bầy choa sống trong bùn lầy nƣớc đọng chƣa?

Page 111: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 111

Họ ngồi trên bờ ao, xem bà bị trói vào cầu ao, nƣớc ngâm đến cổ, đỉa bám đầy

mình…

Sáng hôm sau, họ đƣa bà ra ngoài ruộng, dùng dây thừng buộc hai cổ chân, rồi cột vào cái bừa cho trâu kéo trên những luống đất lổn nhổn mới cày dƣới ánh

nắng mặt trời thiêu đốt… Bà đau đớn, kêu la. Họ vỗ tay cƣời. Vừa cƣời vừa

hỏi con mẹ Cử Hoà ngồi mát ăn bát vàng bao năm nay, bây giờ đã hiểu cái cực

nhọc của nông dân bầy choa đi cày đồng dƣới nắng ban trƣa chƣa?

Tuần sau bà đƣợc thả về.

Mẹ kiếm đâu ra đƣợc nắm gạo và ít đụt khoai nấu cháo, múc một bát mời bà

ăn. Bà không ăn. Nài nỉ van xin thế nào bà cũng lắc đầu. Đã bảo không ăn là không ăn mà, bà nói, tôi sắp chết rồi… Mẹ Cò gắng ở lại nuôi con. Tôi có nuốt

đƣợc hớp cháo vào bụng thì cũng chẳng sống thêm đƣợc mấy ngày… thôi để

cho hai cháu chúng nó ăn. Mà tôi sống để làm gì nữa chứ. Nhục nhã đau đớn lắm! Ai mà biết đƣợc cái Đời nó đổ đốn khốn nạn đến thế này thì… cha mẹ ơi,

tha tội cho con, đừng sinh con nữa! Cái Đời gì mà đến đứa con mình cƣu mang

nó, nuôi sống nó từ ngày còn chƣa mở mắt bọc trong tã rách, cái thằng Đông

ấy, nhặt đƣợc nó ngoài bụi xƣơng rồng trƣớc ngõ… đã không mang ơn nhà họ Mai thì thôi, lại còn lấy ngón tay trỏ đè dí lên mặt mẹ mình, trƣớc đám đông

bà con làng nƣớc, gọi mẹ là mi, xƣng mình là tao! Chƣa đủ, lại còn gọi là con

mẹ Cử Hòa, xƣng mình là chúng tao… thế đấy! Ai bày cho ông, ai dạy cho ông làm thế, hở ông Đông là ông Đông ơi! Trời đất lộn ngƣợc rồi! Đạo ở đâu?

Lý ở đâu? Nhân nghĩa ở đâu?

Bà chết trên tay mẹ. Một manh chiếu tử tế để quấn cho bà cũng không có. Đồng cói Nga Sơn bao đời nay không đủ để dành cho bà một manh chiếu gọi là để

chôn cất, vùi vào lòng Đất hay sao? Mẹ gào khóc, kêu lên. Bàn tay bà, bàn tay

mẹ một đời đã dệt ra bao nhiêu tấm chiếu!

Page 112: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

112 Trần Thế Nhân

Chƣơng 20 MẸ CŨNG BỊ BẮT VÀ ĐƢA RA ĐẤU TỐ

Mẹ con đào đất chôn bà đƣợc mấy hôm thì ma xui quỷ ám thế nào chú Đông

lại tới.

Sáng mai mới bảnh mắt chú dẫn một đoàn ngƣời đi vào sân. Mấy ngƣời cốt cán

đƣợc Đội xâu chuỗi bắt rễ làm theo lệnh của ông Đội. Họ xô cửa sầm sầm, bƣớc

vào nhà, tháo ảnh ông nội trên bàn thờ xuống, đập vỡ kính, xé nát cả tấm hình…

“Đào tận gốc, trốc tận rễ”. Ông Đội nói. “Phải tiêu diệt đến cùng, xoá sạch các

tàn tích của bọn địa chủ phong kiến phản động!”

Chú Đông đứng trƣớc bàn thờ, giơ ngón tay trỏ lên, xỉa xói theo:

“Cái nòi giống bóc lột ăn bám ấy thì để ảnh lại làm cái chi, thờ cúng làm cái chó

chi! Đốt ! Đốt hết!”

Chiều hôm sau mẹ cũng bị bắt.

Cái đêm hôm ấy… hai chị em con kinh hoàng đến không thể nhắm mắt đƣợc. Mấy đêm liền nhƣ thế. Bụng cồn cào, đói lả… Con chuột chạy nghe cũng sợ.

Chim lợn kêu ngoài trời cũng thất kinh. Hai chị em hoảng hồn, ôm ghì lấy

nhau.

Cũng may là tờ mờ sáng… bốn hôm sau đó mẹ đƣợc thả về.

Mẹ kể…

Thoạt tiên, chẳng hiểu vì sao họ để cho một lũ trẻ con tới hành hạ. Bắt mẹ quỳ

xuống trƣớc sân Uỷ ban… Đứa bẹo má, đứa gõ đầu, đứa túm tóc giật… Có một thằng, mẹ không nhớ rõ tên, con ai đó trong làng, lấy nhọ nồi bôi trẹt vẽ râu

lên mặt mẹ. Một thằng nữa, táo tợn hơn, cởi quần ra, ngỏng chim đƣa ra trƣớc

mặt mẹ, lấy tay búng búng rồi hỏi: con mẹ địa chủ, mi có muốn bú c… ặc cho tao không?

Hạch hoẹ chán, chúng lôi mẹ ra bụi tre gần đó, bắt quỳ xuống ổ kiến lửa rồi lấy

dây thừng trói vào thân một cây tre. Kiến lửa rần rần bò lên khắp ngƣời, cắn khắp mặt mũi, mình mẩy chân tay. Hai đầu gối sƣng. Ngƣời lên cơn sốt, tƣởng hoá

điên hoá dại. Bọn chúng vây quanh, vỗ tay cƣời.

Rất may, lúc ấy có anh Phận đi qua. Ngày trƣớc, một dạo anh Phận đi ở cho

nhà mình. Nhớ ơn thầy mẹ nuôi cơm, cho áo, không nỡ nhắm mắt quên đi những ngày đƣợc ông bà cứu mạng, anh ấy mới nghĩ ra kế để đuổi bọn trẻ con đi.

Page 113: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 113

“Chúng bay ngu quá! Trói ngƣời mà trói không ra hồn! Làm ăn nhƣ thế hả...?”

Anh Phận quát nạt, la to “Cút xéo tất cả đi! Để tao trói lại cho!”

Bọn trẻ ngơ ngác, anh lại càng làm căng. Chúng vừa tản ra, vừa đi vừa ngoái cổ lại nhìn.

Anh Phận gỡ từng nút dây thừng, tháo tung hết… rồi dẫn mẹ sang cây xoan

cách một quãng gần đó, lại buộc mẹ vào… Anh trói sơ sơ, nới lỏng ra… rồi dặn

mẹ: “Bà ơi, bà chịu khó quỳ ở đây một lúc, con đi báo cho Đội, rồi con dẫn bà về lại trụ sở… ”

Mẹ bảo, nếu không có anh Phận, mẹ đã chết từ buổi chiều hôm đó, vĩnh biệt các

con rồi!

Mấy ông Đội cố ý vu cho mẹ tội phản quốc, chống Đảng. Họ mớm cho Cò

Toe tố cáo vợ thằng Vỹ cất giấu trong nhà nhiều truyền đơn, bản đồ… Những

thứ này là của Pháp giao cho Vỹ để khi nào Pháp nhảy dù, đổ bộ lên Nga Sơn thì vợ chồng Vỹ cứ theo cách lối chỉ dẫn trong đó mà chỉ điểm cho Pháp đi càn,

bỏ bom…

Mẹ bảo, nghe Cò Toe tố mà tao xuýt bật cƣời. May mà tao bặm môi, bấm bụng

lại, cố nín. Tao mà cƣời thì họ đập cho chết. Lại còn vấn đề nhận tội hay không nhận tội, biết tính sao đây? Nhận thì mất mạng mà không nhận thì họ

cũng hành cho đến chết. Họ là quỷ, mình phải làm ma chứ không thì nguy khốn.

Mẹ nhận rằng trong nhà mình có mấy cái hòm toàn giấy cả. Vì không biết chữ Tây, chữ Quốc ngữ cũng lỏm bỏm thôi, nên chẳng hiểu những giấy tờ đó là gì.

Bởi thế, mẹ mới đem ra dùng lung tung. Loại nào giấy cứng thì đun bếp, loại nào

giấy mềm thì chùi đít cho các con. Hiện cũng đang còn một ít cất ở xó nhà…

Nhƣ vậy, những tang chứng mà Cò Toe đƣa ra là có thật. Đội dẫu chƣa vừa

lòng cũng dừng tra khảo.

Cuối cùng, cái tội phản quốc, chống Đảng họ buộc mẹ phải nhận và nói to lên

cho Quân Chủ lực, quần chúng nông dân cách mạng nghe.

Mẹ bảo, tôi ngu si dốt nát mà chữ nghĩa câu kệ các ông dài quá, đầu óc nhớ

không nổi, nói ra sợ không đúng với cái tội mà Đội quy cho… Cho nên, bây

giờ các ông cứ nói trƣớc đi dăm ba tiếng nửa câu, để tôi nói theo, có thế mới thành Tội nên Nợ đâu ra đó đƣợc. Cứ tƣởng là đùa, thế mà chẳng hiểu sao họ

lại đồng ý? Ông Đội trƣởng ngƣời Nghệ An bảo bà Đội ngƣời Quảng Xƣơng

Thanh Hoá đứng ra… cầm càng, xƣớng lên để mẹ đế theo. Đại loại, vì theo

chồng, vợ thằng Vỹ cũng phản quốc, chống Đảng… có điều con vợ hắn chƣa giết chết một ngƣời nào!

Page 114: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

114 Trần Thế Nhân

Mẹ bảo, có mấy ngƣời Đội đã xâu chuỗi bắt rễ, vậy mà khi ra đấu trƣờng họ

không chịu lên đấu tố, hoặc bƣớc lên, nhìn vào mặt mẹ một lúc rồi đứng im.

Có ngƣời nói ông Vỹ đã từng chữa bệnh cho chồng con tôi mà không lấy đồng nào.

Có ngƣời nói, dẫu là đứa ở trong nhà, chẳng những bố con ông cử Hoà không

đánh đập họ mà còn săn sóc cái ăn chốn ở tử tế.

Thậm chí họ còn nói, năm đói Ất Dậu 45, may nhờ có nồi cháo nhà ông Cử đặt

ở trƣớc sân mời bà con tới… mà còn đƣợc sống đến bây giờ.

Ông Đội trƣởng khi ấy nổi khùng lên, quát tháo: “Các đồng chí mần ăn nhƣ cục cứt! Phát động quần chúng, thăm nghèo hỏi khổ mà nhƣ rứa à? Quần

không động, chúng chẳng chuyển, chƣa làm cho bần cố nông thấy hết đƣợc tội

ác của của cha con nhà họ Mai chất cao nhƣ núi Tƣờng Thơn, mênh mông nhƣ biển Đông trƣớc mặt… Thôi dừng!”

Cả đấu trƣờng ngừng lại một lúc để nghỉ, ca hát…

Một cô văn công, là ngƣời của Đội, đứng trên “lễ đài” ngâm thơ. Bài thơ kể về

những nỗi khổ của một bà cụ mù loà ở làng Còng thuộc huyện Tĩnh Gia. Sau

này khi vào học Cấp Hai, Lệ Uyên của mẹ có lần phải học thuộc lòng bài thơ ấy

trong sách giáo khoa và mẹ đã nhớ ra.

Lôi cổ chúng nó ra đây

Bắt cúi đầu xuống đọa đày chết thôi!

Tiếp theo, ông Đội đứng ra cầm càng cho đám thanh niên hát Bài ca Đấu tố.

Hồn vía lên mây, vừa đói vừa khát, hai lỗ tai ù xé nhƣ có sấm rền sét nổ, mẹ xỉu

ngƣời, đổ vật xuống…

Họ lôi cổ dậy, bắt quỳ thẳng ngƣời, thẳng lƣng…

Ngƣời cuối cùng lên đấu tố mẹ thoạt tiên mẹ nhận không ra…

Ngày xƣa năm 1948, khi đến ở cho nhà ta, chị Xoan này trông chẳng đến nỗi nào. Dẫu không đẹp gái cũng mặn mà dễ coi; còn bây giờ là một mụ già tiều

tụy, gầy đen… Mẹ bảo, hồi ấy cô Xoan có má lúm đồng tiền này cứ e thẹn ửng

đỏ lên mỗi khi mẹ đi đâu về, bắt gặp chị ta đang chuyện trò với chú Đông? Thế rồi cái bụng Xoan cứ tự nhiên mỗi ngày một to lên. Một buổi sáng bà nội

gọi “Ớ Xoan” có đến bốn năm lần mà chẳng thấy chị ta đâu cả? Anh Nuôi bảo,

từ tối qua tới giờ Xoan đi đâu chẳng thấy về nhà?… Rồi dân làng ồn lên chuyện Xoan sang Hậu Lộc, về nhà mẹ… đẻ! Lại còn ồn, Xoan ra Ninh Bình,

Hải Dƣơng… vào chùa tu!

Bây giờ… Xoan đang đứng trƣớc mặt mẹ đây.

Page 115: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 115

Chị ta lấy ngón tay vê vê vạt áo nâu rách, lúng búng trong miệng, thở hổn hển.

Xoan ngƣớc mắt, cầu cứu mấy ông Đội, nhìn ai đó trên hàng ghế Chủ toạ, mím

môi lại, lấy ngón tay trỏ dí xuống đầu mẹ.

– Con vợ thằng Vỹ này… mi có biết tao là ai không?

Chị ta hét lên thật to.

– Dạ … thƣa, tôi biết.

– Láo! Phải xƣng là con…

– Dạ, con biết. Bà là cô Xoan, trƣớc có ở nhà con…

– Rứa thì… mi có biết cái thai trong bụng tao hồi đó… cái hồi tao bị dân làng

ồn là chửa hoang í… nó… nó là của ai không?

Mẹ ngẩng đầu nhìn ả:

– Dạ thật tình là… con này không biết!

Xoan vỗ tay đánh bốp, nhảy một cái bạch, la lên:

– Của thằng Vỹ, chồng mày chứ còn đứa mô vào đó nữa! Thằng Vỹ làm tao có chửa. Đúng không?

Mẹ lấy lại hơi, dừng một lúc để cho tiếng ồn bốn bên tạm lắng xuống rồi mới

thong thả nói:

– Bà Xoan ơi! Bà nói làm sao chứ. Cái năm bà ở nhà con, năm 1948, lúc ấy

chồng con, ông Vỹ đang ở ngoài mặt trận. Ông ấy đang bận công tác, phải cƣa

chân cƣa tay mấy anh Vệ Quốc Đoàn, mãi tới đầu năm 1950, ông ấy mới đƣợc về nhà. Nhƣ vậy, thƣa bà Xoan, bà lầm rồi; cái thai ấy, đứa con ấy là của ai

đó… Bà thử cố nhớ lại xem…

Xoan đứng ngây ngƣời một lúc, lại đƣa mắt tìm ai đó.

– Nếu không là của thằng Vỹ chồng mày, thì thằng con mày…

– Dạ thƣa bà – Mẹ đốp ngay, nói thật to – Con trai tôi lúc đó mới có hai tuổi thì làm ăn gì đƣợc mà có con với bà!

Xoan cuống lên nhƣ bị ai dội nƣớc sôi vào ngƣời, rồi đuối hơi…

– Không thằng con mày… thì… thì… là mày!

Mẹ cố nhịn cƣời, nói nhẹ nhàng:

– Bà Xoan ơi! Bà nói gì nghe lạ quá. Đàn bà mà lại làm đàn bà có chửa đƣợc, chuyện ấy xem ra chỉ trong cổ tích ngày xƣa có một…

Page 116: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

116 Trần Thế Nhân

Chƣơng 21 MẸ CON ĐƢỢC RA NẰM NGOÀI HIÊN. LỆ UYÊN CHUI HỐC VÀO NHÀ NGỦ TRÊN Ổ CHÓ

Ba mẹ con đƣợc Đội mời ra khỏi nhà.

Họ khoá cửa, buộc giằng dây trong dây ngoài. Tạm thời cho chúng mày lê la

ngoài hè, góc sân.

Cái đêm hôm ấy đêm gì mà rét cắt da xé thịt. Gió bấc hun hút lùa vào khe cửa,

len lỏi vào tấm quần rách manh áo mỏng. Mẹ ôm con vào lòng vừa rên vừa dỗ

dành: Nín đi con, đừng khóc. Ông Đội và chú thím Đông mà nghe đƣợc thì họ bắt họ làm thịt, nƣớng chả, nấu cháo hành đó! Ngủ đi con… Trời sắp sáng

rồi…

Nghe mẹ nói, con sợ quá, run bắn ngƣời, hàm răng va cốp vào nhau… Nhƣng nào trời có chịu sáng, càng về khuya càng rét. Tình cờ, mẹ nhìn thấy cái hốc chó

ở đầu hồi nhà, lâu nay con Vện đêm tới cửa đóng vẫn chui ra chui vào… Tội

nghiệp cho Vện!

Vện đã bị chú Đông đập chết, làm cỗ thết đãi ông Đội rồi… Mẹ bảo con chui vào thử trong nhà xem có đƣợc không, nằm ở trong nhà, ngay trên ổ chó có

rơm rạ, giẻ rách… cũng đỡ rét hơn ngoài này…

Con chui vào đƣợc thầy ạ, có lạ không? Mẹ khen con giỏi ngoan… Đêm hôm sau con mách cho mẹ biết là ở trong nhà, gần ngay cửa, còn một cái nong. Mẹ

bảo, đƣợc đấy, đẩy cái nong ra gần ngạch cửa, tối đến kéo nó ra ngoài… Uyên

ơi, con chịu khó nằm xuống…. Nào, nào… mẹ và chị Tâm bẻ tay gấp chân con,

khẽ ấn đè rồi đẩy nhẹ, chui qua đƣợc ngạch cửa vào tới bên trong… Đừng sợ! Mẹ và chị vẫn nằm sát ngoài đây, trong nhà có ông bà nội che chở, phù hộ!…

Mới tờ mờ sáng, mẹ đã vội đánh thức con dậy, thò tay vào kéo cái nong, giục

con chui ra ngay, lại đẩy cái nong vào đúng chỗ y nguyên dấu cũ…

Mấy đêm ngủ ngoài hiên ngoài trời là nhƣ vậy đó. Chả bù cho đêm hè nào,

con nằm trên chõng tre trải chiếu đậu ngoài sân, nhìn sao đếm sao, nghe thầy

kể chuyện rồi ngủ quên đi, thầy bế con vào nhà lúc nào con cũng không biết.

Tất cả đều theo thầy vào Cõi Xa thẳm. Tất cả đều đã chấm… hết? Bây giờ chỉ

còn lại đói rét và nỗi sợ hãi! Con ngƣời ta sinh ra đời để sống chứ không phải để

chết, có đúng vậy không, hở thầy? Mà sao chúng con hễ cứ thấy bóng ai là vội

Page 117: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 117

nín thở, nghe tiếng nói ai là đã giật mình! Ngƣời ta có quyền vu oan giá họa cho

mình bất cứ chuyện gì có thể; ngƣời ta có thể giết mình bất cứ khi nào cần giết…

Bởi vì mình đâu còn đƣợc coi là con ngƣời, cũng chẳng đƣợc là con vật nữa; chẳng có pháp luật nào quy định, phân xử, không có ai dám đứng ra che chở,

bênh vực cho mình nữa! Gia đình mình đã bị quy thành phần địa chủ: cái án tù

chung thân trọn đời mãn kiếp!

Từ nỗi sợ hãi con ngƣời, thầy ạ, mình đâm ra sợ mọi thứ! Nghe tiếng con thạch sùng chặc lƣỡi cũng giật mình, thấy cánh dơi sà xuống, vụt qua màn đêm

cũng… cảnh giác, thấy con chó nhà ai chạy qua đƣờng cũng nghi ngại, gặp

con trâu đứng dƣới bụi tre cũng băn khoăn, day dứt: có chuyện gì xẩy ra liên quan tới mình không?

Chỉ còn có cỏ cây và ánh trăng là hoà dịu, trấn an nỗi sợ hãi! Hình nhƣ hƣơng

hồn thầy, ông bà nội, anh Bình ẩn khuất trong đó, âm thầm chở che, an ủi mẹ con nhà họ Mai?

Page 118: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

118 Trần Thế Nhân

Chƣơng 22 NGÔI NHÀ HỌ MAI ĐƢỢC ĐỘI CHIA “QUẢ THỰC”

CHO BẦN CỐ, CỐT CÁN. BA MẸ CON BỊ ĐUỔI RA KHỏI NHÀ

Cứ tƣởng nấn ná dăm mƣời hôm lê la ngoài hiên góc sân, rồi ngƣời ta động

lòng, họ sẽ cho mẹ con vào chái bếp hoặc chuồng trâu ngủ cũng đƣợc, bởi cái

lòng mình đâu có muốn xa rời ngôi nhà tổ tiên, hơn nữa, cũng chẳng còn biết đi đâu, ở vào đâu?…

Nhƣng rồi một buổi sáng, ông Đội xuất hiện bƣớc vào sân, theo sau là vợ chồng

chú Đông, Hĩm Xoa… tay cầm dao, gậy và cuộn dây thừng.

Ông Đội nói, vợ con thằng Vỹ không đƣợc phép ở đây nữa, đi tìm chỗ khác.

Nhà này bây giờ là quả thực, Đội đã chia cho ba gia đình cốt cán, bần cố…

Chú Đông chẳng nói chẳng rằng, bƣớc lên thềm, lấy dao cắt dây buộc, dùng

búa đập văng khoá, mở toang cửa… Thím Đông giơ tay xỉa xói vào mặt mẹ: Cái nhà này bây giờ là của chúng tao, hiểu chƣa? Chúng mày mau mà cút xéo

ngay, đi đâu ở đâu, chết rấp xó xỉnh nào, mặc xác! Đừng đứng đây nữa mà

gớm cái con mắt!

Thím khạc nhổ trƣớc mặt mẹ, bắn cả nƣớc bọt vào trán con.

Hĩm Xoa cầm gậy hùng hổ bƣớc tới bên hòn Non Bộ ở ngoài sân. Gác một

chân lên bể cạn, tay cầm gậy gõ gõ vào mấy hòn đá có những con ốc xoắn, ông Tiên ông Bụt bằng sứ gắn vào… Xoa hỏi mẹ, con mẹ Vỹ có biết những cái chi

đây không? Mẹ sợ sệt, im lặng. Xoa bảo, đó là xƣơng cốt của bà con nông

dân… Bƣớc tới bên bụi hoa hồng đã héo khô, tàn úa, cầm gậy phạt ngang, Xoa

nói:

Máu, nƣớc mắt bầy choa bón tƣới ba thứ hoa hoét cho chúng mày ngồi rồi, ăn

không, vui chơi… hả?! Rồi bặm môi trợn mắt vung gậy lên phang đập hòn

Non Bộ, mấy chậu hoa cho bể nát ra.

Trong khi đó, chú Đông lặng lẽ cầm dao rựa chặt đổ mấy cây ngọc lan, lựu,

tƣờng vi… ngày xƣa ông nội trồng.

Ba mẹ con lặng lẽ xách mang mấy cái bị cói rách đi ra ngõ…

Page 119: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 119

Chƣơng 23 TRỜI CÓ MẮT. CHUYỆN CỔ TÍCH VỀ CHA CON NHÀ BÁC LƢƠNG

Chân vừa bƣớc tới ngoài đƣờng, mới đi đƣợc một đoạn, chị Tâm bỗng nhiên

khóc oà lên. Mẹ cũng đứng sững lại rồi nói nhƣ gắt: “Tâm, con không đƣợc

khóc! Chẳng việc gì phải khóc cả. Còn nhớ câu nói lúc còn sống, thầy vẫn nhắc không? Khóc là nhục, rên hèn, van yếu đuối… Ngƣời ta muốn giết mình

nhƣng Trời Phật còn có mắt, Trời Phật vẫn cho con cháu họ Mai cái quyền

đƣợc sống. Chẳng chết đâu mà sợ…”

Thế nhƣng ra tới đầu làng rồi thì chính mẹ cũng chẳng biết dẫn các con đi đâu.

Mệt quá, bà mới bảo các con ngồi xuống bên vệ đƣờng. Tay nhổ một cây cỏ

đƣa lên trƣớc mặt, mẹ vừa nói vừa rƣng rƣng nƣớc mắt: “Ngƣời ta không cho mình ăn cơm thì mình nhai cỏ mà sống vậy. Ác giả rồi ác báo! Mai đây dù mẹ

có đi theo thầy, thì các con phải sống tới cái ngày ấy; để tận mắt thấy cái ngày

mà Trời Phật vạch mặt, trừng phạt bọn quỷ đội lốt ngƣời ngay trên trần gian

còn đẫm máu bao ngƣời vô tội này mà chẳng cần phải chờ tới kiếp sau, đày lũ chúng xuống Địa ngục!”

Và đúng là Trời Phật có mắt thật, thầy ạ.

Có một ngƣời từ nãy giờ vẫn theo dõi mấy mẹ con. Ngƣời ấy đang đứng trƣớc sân nhà nhìn ra. Nhân lúc vắng vẻ, ông ta đi ra, bƣớc tới đằng sau, khẽ lên tiếng

chào. Mẹ giật mình quay lại sửng sốt. Thầy có biết ai đó không? Bác Lƣơng!

Ngƣời đã từng làm rẽ ruộng nhà ta, đƣợc thầy chữa bệnh, chích thuốc…

“Mời bà Vỹ và hai em vào nhà tôi ở tạm cái đã…” Bác nói ngập ngừng, hai tay chắp trƣớc ngực. Mẹ lặng nhìn bác vừa sợ sệt vừa hoài nghi. Giữa thời

buổi điên loạn này vẫn còn có ngƣời không sợ cái án chung thân mà Đội Cải

cách sẽ quy chụp lên đầu, trói chặt một đời cho đến chết về tội “cấu kết với địa chủ” hay sao?

“Mời bà và hai em vào nhà! Đừng ngại gì hết! Tôi đã không sợ thì thôi chứ việc

gì bà và các em phải ngại!”

Đi theo bác vào tới nhà rồi, mẹ mới nhớ ra ngƣời làng nƣớc năm xƣa. Bác

Lƣơng, phải rồi, bác Lƣơng. Cái năm vợ bác mất vì bệnh uốn ván, lâu lắm rồi,

thầy không cứu chữa đƣợc, nhƣng bác vẫn nhớ ơn, mấy lần lên xuống

nhà…Trong cái nhà tranh vách đất hai gian này bao năm rồi, bác ở vậy một

Page 120: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

120 Trần Thế Nhân

mình nuôi đứa con gái… Khi bà vợ mất, đứa con gái mới lên hai tuổi, bây giờ

nó đã mƣời bảy…

Câu chuyện cô con gái bác lúc bấy giờ và sau này, khi đội Cải cách rút đi, đã trở thành chuyện tiếu lâm, trò vui đùa cho bà con cả vùng. Đôi lần, mẹ cũng có

nhắc lại…

Số là, khi Đội mới về làng, bác Lƣơng đã lọt đƣợc vào mắt xanh của Đội. Bởi

hai lẽ: Một là, nhà bác rất nghèo, đã từng đi ở, làm rẽ ruộng cho địa chủ; hai là, nhà chỉ có hai bố con, rộng rãi hơn các nhà khác, cô con gái lại xinh xắn nõn

nà…

Lúc đầu bác cũng có kể cho ông Đội đến ba cùng bắt rễ nghe những nỗi khổ của mình từ thời còn thơ ấu… Kể thật lòng, thật tình không để gây hằn thù,

làm hại ai. Về sau, trong các cuộc họp, những buổi đấu tố, bác Lƣơng thấy

nhiều cốt cán, nhiều rễ bịa đặt dựng chuyện cho bọn địa chủ bóc lột, phản động… đến nỗi trời nghe trời cũng bật cƣời, trâu bò nghe cũng phải vùng căng

bỏ chạy!

Bác đâm ra băn khoăn day dứt.

Những cuộc họp đêm ngày triền miên, những buổi đấu tố căng thẳng làm thần kinh bác rời rã…

Ruộng vƣờn lâu nay bỏ hoang không cày cấy, nhà hết gạo, chẳng còn gì để đổ

vào mồm mấy hôm rồi.

Đã vậy, cô con gái của bác lại đƣợc Đội thƣơng, Đội ƣu tiên cho đi họp, tham

gia đấu tranh suốt ngày đêm. Nhiều hôm bác thức suốt đêm không ngủ, chẳng

hiểu nó đi với ai, nó đang làm gì… đến phát sốt lên. Bác cứ ngờ ngợ nó với ông Đội ở trong nhà, hai tên này lâu nay chắc hẳn có cái trò gì đó với nhau đây?

Và bác rình…

Một hôm, cơm tối xong, bác dặn con gái rằng bố đi sang Nga Thủy thăm ông

cậu ốm, có thể đến khuya mới về. Ở nhà con cứ để cửa mở đừng đóng và cũng không phải chờ. Thế rồi quanh quẹo đâu đó một lúc ngoài đƣờng, bác quay về

nhà theo lối vƣờn sau, rón rén mở cửa bƣớc vào, chui xuống gầm giƣờng nằm

im…

Thoạt tiên, hai chú cháu còn ngồi đối diện nhau hai bên bàn uống nƣớc. Sau

đó, chú chuyển chỗ sang ngồi bên với cháu, rồi… anh với em, em với anh cƣời

đùa rúc rích, cù véo nhau. Anh kéo ống quần em lên, khen đùi em đẹp; em kéo

ống quần anh lên, khen cẳng anh to. Đùi ẻm đùi em, đùi ảnh đùi anh… Đùi em non, đùi anh cứng.

Page 121: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 121

Hai tên đứng dậy, dìu nhau tới bên giƣờng… Vật nhau, cởi áo quần nhau, đè

nhau ra… để chơi trò “bóc lột áp bức giai cấp”. Tên gọi trò vui này chính là từ

mồm ông Đội bô bô phát ra.

Đúng vào lúc trò vui đã mở màn sắp đi vào chiều sâu… bác Lƣơng mới lặng lẽ

bò dƣới gầm giƣờng ra, tới ngồi lên bàn, e hèm một tiếng rồi thủng thẳng rít

một hơi thuốc lào, tay vỗ vỗ miệng điếu, ngửa cổ nhả khói lên mái nhà…

Hai tên hoảng hốt, buông nhau ra, ngồi dậy.

Bác Lƣơng giơ ngón tay trỏ chỉ vào mặt con gái:

– Từ nay… tối đến lo mà ở nhà. Ban ngày muốn đi đâu phải xin phép tao!

Rồi quay sang ông Đội:

– Nhất Đội nhì Trời, các ông muốn cho ai đƣợc sống, bắt ngƣời nào phải chết

là quyền của các ông. Cả làng cả nƣớc ai cũng biết điều đó. Tôi cũng biết. Có

điều đồng chí Đội ạ, đồng chí bắt rễ xâu chuỗi nhà tôi nhƣ vậy là quá sâu, quá đủ rồi. Bây giờ thì tuỳ đồng chí. Nếu thích thì ở lại, không thích thì đi. Thế

thôi!

Hôm sau ông Đội rời nhà bác Lƣơng sang “ba cùng” ở một nhà khác.

Con gái bác rƣng rức khóc trong buồng mấy hôm, rồi… đâu lại hoàn đó. Tối đến nó vẫn đi họp, tham gia đấu tố, khỏi cần xin phép bác. Từ chỗ xấu hổ,

sƣợng sùng tránh mặt mỗi khi phải nhìn bố, dần dần trở nên chai sạn, trơ tráo,

sƣng sỉa. Nó tỉnh bơ khi bác gợi lại tình cảm cha con, nhắc tới mẹ sinh ra nó, khi nó mới chập chững đi… Nó ném vào mặt bác một câu đe doạ thách đố:

“Con có thể bỏ bố, bỏ làng, bỏ xóm, chứ Đội và Đảng là con không bỏ. Coi

chừng!”

Chỉ mấy hôm sau hàng xóm mách cho bác hay rằng Đội đã kết nạp con gái bác

vào Đảng. Nó đã lên ngồi ghế chủ tịch đoàn trên “khán đài” ngoài đấu trƣờng!

Nó không là con bác nữa! Bây giờ nó là con của Đội, cháu của Trời!

Thế rồi, những tin đồn nhảm về bác Lƣơng tên tay sai của bọn địa chủ phản động gian ác mỗi ngày một lan truyền. Thằng Lƣơng, cái đuôi của thằng Vỹ

ngày xƣa có lần theo lệnh vợ chồng Cử Hoà, năm đói Ất Dậu 45 ấy, bỏ cái

chất độc gì của Tây vào nồi ba mƣơi cháo rồi khiêng ra để trƣớc sân bố thí cho dân làng ăn… Có ngƣời ăn xong dăm bữa, ít lâu tự nhiên ôm bụng kêu la rồi

lăn ra… chết!

Lại có tin đồn tên Lƣơng đã từng đi lính cho Pháp. Bác Lƣơng thừa nhận điều

này có thật, hồi còn đi ở cho nhà giàu ở Nho Quan, Phát Diệm, bọn Pháp đi

Page 122: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

122 Trần Thế Nhân

càn, bác bị chúng tóm cổ vào lính. Nhƣng chỉ một thời gian sau bác trốn đƣợc

ra và quay trở về quê nhà Nga Sơn. Vì thế có ngƣời kể rõ ràng tận mắt thấy

thằng Lƣơng mặc áo trắng ngồi bờ đê thả diều. Cái diều màu trắng cứ vo vo ò ò tiếng gì chẳng hiểu mà chỉ tiếng đồng hồ sau là máy bay Pháp đến… bỏ

bom!

Nghe những chuyện này bác Lƣơng không cảm thấy sợ lắm nhƣng lại buồn.

Buồn cho cái tình làng nghĩa xóm không còn nữa; ngay đến con mình sinh ra, sợi dây cuối cùng nối buộc với đời ngƣời cũng bị ngƣời ta cắt đứt!

Ngay từ khi Đội mới về làng, tên tuổi bác đã đƣợc xếp vào hàng đầu trong danh

sách dự bị loại B những bần cố nông cần đƣợc xâu chuỗi, bắt rễ; có thể đƣợc bồi dƣỡng thành cốt cán chuẩn bị cho công cuộc đấu tố. Bác tin vào vị thế của

mình, thành phần bần nông Đội đã xác nhận, đóng dấu son của Trời. Còn tin

hơn nữa, là tấm lòng ngay thực nhân hậu của chính mình. Ấy là chƣa nói tới con gái, gì gì đi nữa nó cũng là con, là đảng viên vừa mới đƣợc kết nạp còn tƣơi

rói ánh hào quang!

Vậy mà con ngƣời chƣa đọc thông viết thạo chữ quốc ngữ này lại cũng mắc

chứng nan y của thời đại, nhƣ mọi bậc trí giả sáng giá cùng thời – ấy là bệnh mù quáng ngây thơ.

Cho tới khi Đội lôi cổ tên Lƣơng ra đấu trƣờng, bắt bác quỳ xuống cái hố cạn,

để cho quần chúng, Quân Chủ lực Nông dân đƣợc đứng cao hơn kẻ thù mà đấu và tố… thì cái ngƣời bƣớc lên, đứng ở thế trên đầu thù, giơ ngón tay trỏ đè dí

xuống trán bác kia lại không phải ai khác mà chính là con gái bác.

Một cơn ác mộng! Trời đất lộn nhào! Cƣơng thƣờng đạo lý giữa thời buổi Cộng hoà Dân chủ hoá ra là thế này đây!

– Thằng Lƣơng kia! – Con gái bác thét lên – Mi có biết tao là ai không?

– Dạ, tôi… biết – Bác ngẩng đầu nhìn nó.

– Láo nào! Cúi đầu xuống. Phải xƣng là con. Và thƣa bà!

– Dạ.

– Trả lời đi! Tao là ai?

– Dạ thƣa… Bà là con gái … con!

– Không phải! Tao không phải là con của mi! Mẹ tao đẻ tao ra…

– Dạ đúng thế. Mẹ bà sinh bà ra đƣợc hai tuổi rồi mẹ bà chết đi, để bà lại cho

tôi nuôi. Tôi ở vậy một mình để nuôi bà lớn đến bây giờ…

Page 123: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 123

Cả đấu trƣờng im lặng.

Con gái bác loay hoay một lúc để lấy lại khí thế, gia tăng thêm sức mạnh… đấu

tranh.

– Lƣơng! Mi có biết – Nó ngập ngừng – Mi đã hãm hiếp tao – rồi líu lƣỡi,

ngọng nghịu – Mi đã... ôm lấy tao, ngủ với tao bao nhiêu lần không?

Bác ngẩng đầu nhìn nó kinh ngạc hơn là căm giận, thủng thẳng nói:

– Dạ thƣa bà… Từ lúc bà mới bỏ bú, mẹ bà chết rồi, chiều nào con cũng phải tắm rửa cho bà, xong rồi là… mớm cháo, đút cơm... Tối đến, bà mà lên giƣờng

ngủ đi cho thì còn đỡ; gặp khi bà ngứa ngáy, ốm đau, quấy khóc… là con phải

gãi lƣng, vỗ vỗ, rồi quạt mát, rồi ru ới ru ời, ru hời ru hỡi cho đến khuya để cho bà ngủ. Đúng là con đã ngủ với bà không biết bao nhiêu là đêm, bây giờ

bắt con nhớ lại, khai ra… làm sao con nhớ nổi!

Nói xong, ông bƣng mặt nghẹn ngào la to:

– Ối! Bác Hồ ơi! Ối mấy ông Đội ơi! Hãy giết con đi cho rồi, để con sống làm

chi ở cái đời này nữa!

Cả đấu trƣờng bốn bề im lặng. Có tiếng thở dài. Có ai sụt sịt khóc.

…Thế rồi Đội cũng phải tha cho tên Lƣơng về nhà. Con gái bác một đêm lén lút trở về theo, bụng mang cái thai của ông Đội cho. Nó quỳ xuống trƣớc mặt

bác, van xin cha tha tội. Im lặng không trả lời, cũng chẳng nhìn mặt con, bác

Lƣơng thủng thẳng đi ra vƣờn sau. Đến lúc trở vào nhà không thấy con gái đâu, tự nhiên bác chột dạ.

Rồi cả một đêm trắng ngồi chờ con chẳng thấy con trở về. Bác đâm ra ân hận về

sự ứng xử của mình. Nào bác có ghét bỏ gì con gái đâu, nó là con đẻ của bác kia mà! Bác giận thân thƣơng ngƣời, bác đau xót cho cái thời…

Ba hôm sau, ngƣời làng đến báo tin cho biết con gái bác nhảy xuống sông tự tử,

xác đã nổi… bà con họ vừa mới vớt lên.

Bác ngã vật xuống, mê man bất tỉnh.

Page 124: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

124 Trần Thế Nhân

Chƣơng 24 SỐNG NHỜ TRONG CÁI LỀU VỊT NGOÀI ĐỒNG CỦA BÁC LƢƠNG, MẸ CON NHÀ HỌ MAI KIẾM ĂN SINH SỐNG NHƢ THẾ NÀO?

Ở nhà bác Lƣơng mấy hôm, ba mẹ con đƣợc dẫn ra ngoài đồng tạm trú trong cái

lều chăn vịt của bác.

Theo lời bác kể, từ sau khi vợ mất, buồn quá nhiều đêm bác ở luôn ngoài này. Dạo ấy, mỗi khi đi đâu về tới nhà, nhìn thấy cái gì cũng nghĩ tới vợ. Lòng nhớ

thƣơng đau đớn cuộn lên không sao chịu đựng nổi. Con gái bác cũng đã từng

nằm trên cái võng cói mắc vào hai cây cột kia, rồi chập chững đi trên nền đất mấp mô này.

Năm tháng trôi qua… Biết bao ngày mặt trời dừng lại trên mái nhà, nhìn qua

lỗ thủng, rọi xuống giƣờng… Có lần con gái bác chỉ cái dấu tròn tròn sáng hỏi

bố đó là cái chi, bác bảo đó là quả trứng bà Âu Cơ cho nhà ta. Biết mấy đêm trăng lên ngay đằng trƣớc nhà, nhòm qua cửa sổ nhắc nhủ cầu mong hai con

ngƣời cô quả tai qua nạn khỏi, bình an, phúc lành… Ngƣời nông dân nghèo

khổ, hiền đức thầm ƣớc đƣợc sống tới ngày con gái đi lấy chồng rồi thân xác có vùi trong cồn đất hoang, cỏ xanh mọc phủ lên mình… cũng thấy thoả lòng.

Vậy rồi mà Địa ngục ở ngay cái trần gian này chứ có phải đâu xa mà con

ngƣời khéo lơ mơ ƣớc đoán. Thần Chết bƣớc ra từ miệng lƣỡi con ngƣời. Máu gọi máu. Lễ Hội Máu của vua chúa bày ra nhiều màn lắm trò dễ say lòng bọn

quỷ ngƣời u mê tăm tối.

Cái đêm hôm ấy đêm gì mà cô con gái đáng thƣơng của bác Lƣơng đã ghé về

đây, gửi lại chiếc vòng bạc của mẹ, đặt sau bát hƣơng trên bàn thờ… rồi mang cái thai của Đội cho, ra sông tự vẫn. Khúc sông ấy, sau này có lần hai chị em

con đã lội qua, cũng cạn thôi có sâu lắm đâu… Kể cũng lạ.

Từ sáng sớm, hai chị em con bắt đầu ra ngoài cánh đồng mò cua bắt ốc.

Ở nhà, mẹ lấy cái màn cũ cắt thành 20 mảnh hình vuông; xin bác Lƣơng một

cây tre, nhờ bác chặt khúc, chẻ vót thành những cái nan. Mỗi mảnh vải màn,

hai cái nan uốn cong bắt chéo, buộc vào bốn góc, thành cái vó nhỏ… bà con nông dân vẫn gọi là cái te.

Mẹ lấy cám gạo, trộn lẫn ít ngô xay, bỏ vào nồi đất rang lên vừa chín, có mùi

thơm, hoà vào ít nƣớc sền sệt nhƣ cháo đặc rồi bôi trẹt vào mặt vải màn những

cái te.

Page 125: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 125

Ba mẹ con đi quanh khắp các bờ ruộng, tìm những chỗ nào có vũng nƣớc thả

te xuống… Ngồi chờ một lúc đợi mồi tôm tép đến rồi cầm cái que tre nhƣ cần

câu, thò vào, nhấc te lên.

Mỗi lần nhấc te lên, nƣớc lỏng tỏng chảy rớt xuống, nhìn những con tép con

tôm văng mình nhảy trên lƣới vải màn cũng vui mắt!

Nắng cháy xém tóc, đốt xạm da, mặt mũi lấm lem bùn, ba mẹ con rộc rạc

ngƣời, vừa đi vừa lội hết ruộng này sang ruộng khác, mỗi ngày cũng kiếm đƣợc chừng bát, hơn một bát tép. Hôm nào có mẹ đi kèm tụi con còn yên tâm,

hôm nào mẹ ốm nằm nhà, chúng con cứ nơm nớp sợ ngƣời, sợ quỷ.

Ở cái lối rẽ từ con đƣờng nhỏ băng qua đồng về nhà, thầy ơi, bọn trẻ con có hôm chúng đứng chờ sẵn. Chị Tâm đi trƣớc, con đi sau. Chẳng còn cách gì để

che giấu đƣợc cái giỏ cua ốc, tôm tép chúng con cầm về trên tay.

“Mả bố thằng Vỹ!” – Một đứa la lên.

“Mả bố thằng Vỹ!” – Hai ba đứa cùng hùa theo.

“Tiên sƣ cha thằng Vỹ! Chết không kịp ngáp, chắp tay lạy mà bầy choa không

tha; chôn không hòm ván, mồm ăn đầy đất, mắt vùi đầy cát”…

Cả lũ nhao nhao. Có thằng rũ ra cƣời.

Tụi con đứng lại, cố ghìm nƣớc mắt, ngƣời run lên…

Bất thình lình một thằng bƣớc tới giật cái giỏ cua từ tay chị Tâm. Chị nghiến

răng, lôi lại. Con cũng nhảy vào góp sức để giằng lại cho đƣợc cái giỏ. Nhƣng cái thằng ấy nó khoẻ gấp mấy chị em con. Thế là, nó xách cái giỏ giốc ngƣợc,

đổ xuống bên đƣờng. Ốc, trai, tôm, tép, cua… ngổn ngang vƣơng vãi.

Bọn chúng xúm lại chọn những con nào to; vứt cái giỏ không xuống đƣờng, mặc cho chị em con nhặt bốc lại những con còn rơi rớt chƣa kịp chạy xuống

ruộng… Chúng đốt rơm, thổi lửa nƣớng chín rồi chia nhau ăn. Vừa ăn vừa cƣời

khúc khích.

Lại một lần khác nữa.

Lần này hai chị em xuống chợ Bạch. Chiều hôm trƣớc ba mẹ con trúng đƣợc

một mẻ kha khá. Mẹ bảo các con có thể gắng đem xuống chợ bán kiếm ít tiền

về mua gạo đƣợc không? Chúng con thƣa có, rồi hăng hái… lên đƣờng! Chị Tâm mang giành ốc, con mang rá tép.

Bƣớc chân vừa ra tới đƣờng, đi đƣợc một đoạn thì gặp thím Đông.

Chúng con sợ quá, đứng nép vào nhau ở bên đƣờng.

Page 126: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

126 Trần Thế Nhân

Thím hỏi: Hai đứa con thằng Vỹ đi đâu?

Thím bƣớc tới, tự tay giằng lấy cái giành, giật cái rá của chúng con, lật lá

chuối đậy trên xem trong đó có những thứ gì. Nhìn thấy cua, ốc, tôm tép còn tƣơi sống, thím hỏi, tụi bay kiếm đƣợc những thứ này ở đâu?

Chị Tâm thƣa, chúng con đi mò cua bắt ốc, kéo te ngoài đồng.

Thím trợn tròn mắt, quát to: Cái bộ chúng mày mà đi bắt ốc, kéo te hả? Có mà

đi ăn cắp! Ăn cắp! Nòi giống thằng Vỹ mà cũng đòi mò cua, bắt tép! Láo! Láo!

Thím đặt cái giành, cái rá của tụi con xuống đƣờng, rồi lùi lại lấy đà, dùng chân

đá phốc cả hai cái xuống dƣới ruộng…

Thím vừa đi vừa cƣời sằng sặc nhƣ ngƣời điên. Hai chị em ngồi lại bên đƣờng nhìn cua ốc, tôm tép vung vãi dƣới ruộng, ôm mặt khóc.

Mò cua, bắt ốc, kéo te… hoá ra có lúc cũng rắc rối, nguy hiểm. Một lần con hĩm Uyên của thầy bị rắn cắn, cứ tƣởng chết, may mà qua khỏi. Hình nhƣ là

rắn nƣớc, rắn ráo, có phải không thầy? Còn cái lần chị Tâm bị bò cạp cắn mới

thật là khốn khổ. Rồi lại bị rết cắn nữa… Chị ấy rên la quằn quại cả đêm, may

sao gần đến sáng thì cơn đau dịu dần. Mẹ bảo, hƣơng hồn ông bà nội ngoại, thầy phù hộ cho cháu con đấy!

Tụi con chuyển sang nghề đi mót.

Mẹ dặn, khi ngƣời làng họ đang gặt thì chớ có ló mặt ra, đi sau họ. Trông thấy con cái địa chủ, họ lại chửi mắng, đuổi đánh cho. Thửa ruộng nào họ đã gặt

xong từ mấy hôm trƣớc rồi, nhìn trƣớc trông sau chẳng có bóng ai thì các con

hãy xuống mà mót. Tuy nhiên, những thửa ruộng đã gặt qua một hai ngày, chim sẻ đã kéo đàn tới mổ, nhặt tha đi; may ra còn sót lại vài bông lép hạt, còi

cọc…

Chúng con đem ra nắng phơi khô rồi mƣợn bác Lƣơng cái vỏ chai, đổ thóc ra

mẹt, đè lăn cho tróc vỏ…

Cái ngày hôm ấy… Con lên cơn sốt nóng, đắp chiếu nằm còng queo. Chị Tâm

vẫn đi mót.

Chẳng mấy khi nhân lúc con ốm, hôm nay Trời cho một bữa cơm…! Mẹ lấy gạo nấu một niêu, ủ vào tro bếp, để trƣa đến cả nhà… liên hoan! Mẹ bảo, các con

gắng chờ một tí, mẹ qua chợ mua ít rau muống về nhà để trồng. Trƣớc khi đi

lấy tay sờ trán con thấy nóng nhƣ hòn than, mẹ ngập ngừng định ở nhà không

Page 127: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 127

đi nữa. Nhƣng con bảo, mẹ đừng lo, con sắp khỏi rồi, mẹ cứ đi đi… Thế rồi

mẹ đi, còn con thì mệt quá, ngủ thiếp…

Trƣa. Chị Tâm về trƣớc, mệt luỗi… cũng nằm vật ra.

Rồi đến lƣợt mẹ về. Mẹ hỏi, các con đã ăn cơm chƣa, sao không dọn ra mà ăn,

còn chờ mẹ làm chi?

Bà bƣớc vào bên bếp một lúc rồi quay ra hỏi, các con đã ăn cơm rồi à?

Chƣa, còn chờ mẹ về cơ mà! Đã ăn đâu! Cả hai đứa ngồi ậy cùng trả lời. Mẹ tròn xoe mắt, môi run run. Thế thì nồi cơm… nó ở đâu rồi? Ơ hay! Nhƣ bị điện

giật chúng con choàng dậy, vội lao vào bếp. Tƣởng mình loá mắt, bà dụi dụi

con ngƣơi… Ớ! Nồi cơm? Nó… Nó… Ai tha nó đi mô rồi? Ô hay! Đứa nào thế không biết?

Ngồi phệt xuống đất, mặt mày xệch xạc, mẹ vừa mếu vừa khóc…

Trƣa hôm ấy chúng con phải vơ rau má, rau sam quanh nhà, cho vào nồi trộn ít cám lợn, nấu láo nháo vài bát ăn qua bữa! Vậy rồi mà, chỉ mấy hôm sau mẹ lại

tƣơi cƣời vui vẻ. Mẹ bảo, các con ạ, ngƣời muốn cho ta chết đi thì Trời Phật lại

cho ta sống lại. Mẹ con nhà họ Mai chẳng chết đâu, rồi mà xem… Ngƣời không

cho ta ăn cơm thì ta ăn rau ăn cỏ. Cùng lắm thì ta sống nhƣ con trâu, con bò. Con vật có gì là xấu đâu. Chỉ có con ngƣời là xấu thôi. Con ngƣời gian manh,

tàn ác, hiểm độc sao cứ đòi so sánh với con vật! Ừ, nếu cần, lúc cùng, không

còn cua ốc tôm tép nữa thì ta ăn giun dế, ăn cóc nhái, ăn cào cào châu chấu!… Ha ha!

Page 128: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

128 Trần Thế Nhân

Chƣơng 25 MẸ CON NHÀ HỌ MAI ĂN THỊT NHỮNG CON GÌ, XƠI NHỮNG MÓN GÌ?

Lời mẹ nói quả không lầm, cũng chẳng sai.

Để có thêm thịt bồi bổ cho mấy cơ thể đã giơ xƣơng lòi da, chúng con đào trùn,

mổ ruột, rửa sạch nấu cháo. Thật kỳ lạ, ăn món này vào, cơn sốt hạ xuống,

ngƣời thấy khoẻ hẳn.

Lại còn một nguồn thực phẩm nữa bồi bổ cơ thể cũng rất tốt, ấy là bọn cóc

nhái. Hồi ấy sao mà nhiều cóc nhái đến thế! Chẳng phải lùng tìm đâu xa, ngay trong lều, xó xỉnh, vại nƣớc… Nhiều khi chỉ cần nhấc hòn đá, lôi cái hòm đựng

áo quần giẻ rách ra… là đã có mấy chú ẩn nấp trong đó rồi. Cứ mỗi hôm mƣa

là Trời lại cung cấp, phân phối, bổ sung cho các nguồn thức ăn này: cóc nhảy ra sân, ếch nhái từ dƣới ruộng bò lên… Hai chị em tha hồ mà bắt.

Nhƣng bắt đƣợc bọn này cũng không dễ đâu, thầy ạ. Nhiều con nhanh lắm, mình vồ mấy lần cũng trƣợt; nó đã vọt lên trƣớc, mình chộp hụt, thế là ngã

ngửa ra giữa sân. Ôm bụng thắt ruột mà cƣời!

Có cái hố tăng-xê bác Lƣơng đào để làm hầm tránh máy bay Pháp mấy năm

trƣớc, chẳng lấp lại nay vẫn còn đó. Cứ mỗi lần sau cơn mƣa lại lỏng bỏng

nƣớc… Một hôm ngồi trên miệng hố con thấy có một con ếch đang thô lố mắt nhìn mình dƣới nƣớc. Thịt ếch ngon hơn thịt cóc, thịt nhái; vì thế con mới hạ

quyết tâm, loay hoay tìm cách bắt cho kỳ đƣợc Chú của Ông Trời này…

Thế là, vô ý sẩy chân, tụt ngã xuống. Nƣớc trong hố lút đến mang tai; con cứ

ngoi lên hụp xuống bám víu hai bên, định trèo lên nhƣng miệng hố thì rộng, đất

hai bên sụt lở… Càng ngoi lên càng lún chìm, sặc sụa mấy ngụm nƣớc…

Thật may cho con! Nghe tiếng rơi đánh bùm trong nhà mẹ đã ngờ ngợ. Lại thêm

tiếng đất sụt, nƣớc quẫy bì bõm, mẹ càng sinh nghi. Thế là bà vội vàng ra ngay, chỉ cần chậm mƣời lăm phút nữa là con bé Lệ Uyên của thầy đã thành ma rồi!

Lại nói chuyện làm thịt cóc, thịt Cậu Ông Trời… Chị Tâm còn gọi ếch là Chú Ông Trời. Mẹ gọi bọn nhái, chão chuộc, ểnh ƣơng là cháu bên ngoại, đằng nội

của Ông Trời… gọi Trời bằng bác, bằng dƣợng… Bác Lƣơng bày cho rất kỹ

lƣỡng. Bác dặn đi dặn lại là chặt đầu, lột da vứt đi, bỏ hết tim gan mật phổi, đừng tiếc cái gì hết, chỉ lấy bốn cái chân bóp muối, rửa sạch…

Page 129: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 129

Bác đe rằng, chỉ cần ăn một tí gan cóc, dính một chút mật cóc vào là nổ bụng ra

chết tƣơi ngay!

Còn một món ăn rất ngon nữa là chuột.

Thịt chuột ngon chẳng kém gì thịt gà, thịt chó. Chuyện là thế này thầy ạ. Có

một hôm trời mƣa, bác Lƣơng đi thăm ruộng về, ghé vào lều cho chúng con

mấy chú chuột đồng. Bác bảo, mổ bụng vứt hết gan ruột của chuột đi; nếu sợ

không dám nƣớng ăn thì om với măng hoặc khế cũng đƣợc… Thế nhƣng, ngon nhất vẫn là nƣớng!

Chúng con hỏi, thƣa bác, thịt chuột trong nhà có ăn đƣợc không? Bác cƣời

bảo, chắc cũng đƣợc thôi, có điều khi làm thịt và nấu phải cẩn thận hơn, bởi vì bọn này sống gần ngƣời lây bẩn, tạp ăn, lắm khi ăn cả xác chết!

Ngay sát bên chái nhà, cái lều mình ở có một cây cau khô, chết đã từ lâu rồi

mà sao nó vẫn không đổ, dù thân xác đã lỗ chỗ ruỗng mục? Trên đầu ngọn cau, chen vào giữa mấy cành khô lá héo đó có một ổ chuột. Đêm tối, nằm

trong lều cứ nghe chúng kêu chít chít… Khi trời mƣa, ngồi trong lều nhìn ra

thấy có con leo lên, có con chạy xuống trông rất vui mắt. Chị Tâm mới nghĩ ra

cách để tóm bắt bọn chuột này.

Chị lục tìm mấy cái quần nâu của mẹ, cái nào cũng rách cả, chọn đƣợc một cái

tuy có vá vài miếng nhƣng không có lỗ thủng… Tốt quá rồi! Chị lấy lạt buộc

sít hai ống quần lại đem úp trùm cả cái quần vào đầu ngọn cây cau… Chị bảo con đứng dƣới cầm cái que dài chọc chọc, khua khua… Lũ chuột cùng đƣờng

bí lối, chạy lên chạy xuống đều không thoát, phải chui vào hai ống quần…

Thiên la địa võng! Lƣới trời khôn thoát! Trên dƣới đều buộc chặt! Thế là chúng con bắt tay vào, nghiến răng, bóp chết từng con một. Kể lại cho thầy

nghe chuyện này bây giờ con vẫn thấy rùng mình. Chẳng hiểu vì sao mà lúc

bấy giờ chúng con lại ác thế!

Hay là, nói nhƣ mẹ, tại vì ngƣời ta muốn mình phải chết nên mình quyết sống cho kỳ đƣợc bằng mọi cách, mọi giá đến nỗi chẳng còn sợ chết; và ham sống

đến độ sẵn sàng ăn tƣơi nuốt sống tất cả những thứ gì đến miệng mình!

Có ai đời, cào cào, châu chấu, muỗm… bỏ vào nồi, đậy vung, đốt lửa rơm cháy… chúng nhảy rào rào một lúc rồi nghe im tiếng; vậy là chín tới, con gái

thầy, hai chị em bốc lấy, thổi phù phù trên lòng bàn tay, bỏ vào mồm nhai gau

gáu!

Có lần chúng con còn ăn cả dế mèn – “dế mèn phiêu lƣu ký” ấy thầy ạ. Cũng ngon!

Page 130: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

130 Trần Thế Nhân

Khoái nhất vẫn là hôm nào chộp đƣợc ếch, nhái, cá rô hay cà cuống. Thôi thì,

còn phải nói gì nữa, hôm đó đời tƣơi vui nhƣ hoa hồng thắm!

Cũng may là mẹ con nhà họ Mai bị Đội ghét nhƣng Trời Phật vẫn còn thƣơng. Dẫu rằng Đội và Quân Chủ lực có trăm tay, ngàn mắt, xƣơng sắt da đồng…

cũng chỉ có thể tóm bắt đƣợc ngƣời vô tội, chứ không giết hết muôn loài chim

chóc, côn trùng, thảo mộc… Cho nên, vận may vẫn còn đến với mình, mở ra

con đƣờng sống, giúp cho mình thoát… chết!

Mà ngay cả con ngƣời nữa, có những ngƣời không bị ma lôi quỷ ám, vẫn còn

là ngƣời… thì đối với mình, họ vẫn cứ thƣơng!

Page 131: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 131

Chƣơng 26 TRỞ LƤI CHUYỆN… CON CHUỘT

Trở lại chuyện… con chuột!

Thầy ơi! Sau này ở Sài Gòn, có một dạo nhà con nhiều chuột quá. Đêm tới chúng cứ lục đục trên chạn bát đũa, rúc rích dƣới sàn nhà, có con chạy vào cả

giƣờng nằm… không sao nhắm mắt nổi. Anh Thái Minh, chồng con, mới nhờ

ngƣời ta mua hộ cho một cái lồng bẫy chuột làm bằng lƣới sắt đan, bán ở các cửa hàng ngoài chợ Bà Chiểu.

Một hôm, sáng dậy đã thấy con chuột bị sập bẫy, sa lƣới nằm trong lồng.

Chồng con bảo, để anh lấy phích nƣớc sôi đổ xối cho nó chết rồi bỏ bịch ni lông đem quẳng ra thùng rác ngoài đƣờng… Con nói, anh Minh, bây giờ anh

mắc công chuyện gì thì cứ đi đi, để em xử lý giải quyết vụ việc này cho.

Còn lại một mình Lệ Uyên với con chuột ở trong bẫy đặt trên nền nhà. Con

nhìn nó! Ồ con chuột đang độ tuổi thanh niên múp míp, mƣợt mà và ngoan ngoãn biết điều làm sao! Nó đang nhìn con bằng ánh mắt thăm dò ý tứ. Chít!

Chít! Nó khẽ kêu. Chết! Chết! Mày có sợ chết không, hở chuột? Con chăm chú

theo dõi vẻ tinh khôn mà dại dột của nó. Cô nhìn cái gì? Thì tôi cũng mắt mũi, tay chân… có khác gì con ngƣời đâu! Còn nhớ năm 1955 không? Có lẽ nào cô

lại quên cái trò bó thắt quần, giăng bẫy, tóm bắt bọn này? Có lẽ nào cô lại

quên đƣợc món nƣớng, chuột om với măng và khế… cả nhà xúm nhau lại

đánh chén? Tụi này đã đóng góp vào khẩu phần thức ăn nuôi sống các ngƣời… lại còn không nhớ sao?

Tôi kể thêm cho cô nghe câu chuyện nữa. Muốn bí mật thì cứ giữ kín, còn lộ

bem ra cho bốn bể anh em biết thì… cũng chẳng sao. Ở Thanh Hóa có hai ông bác sĩ Đỗ Vân, Đặng Ngọc Khôi. Chỉ nghe tên thôi à? Họ là bạn của bố Mai

Duy Vỹ đấy! Năm 1955. Cải cách Ruộng đất. Mấy vị thầy thuốc này bị Lê

Xuân Tái, thằng mọt gian hung thần ký lệnh bắt giam nhốt vào tù.

Ở trong tù, họ đói khát đến nỗi nhiều khi có thể vơ bốc mọi thứ quanh mình bỏ

vào mồm những cái mà họ tƣởng là có thể ăn đƣợc!

Tinh mơ gà mới gáy, có hôm đoàn tù đã phải lên đƣờng giải đi sớm.

Mặt trời còn mê mệt ngủ trong chăn mây.

Phƣơng Đông biến dịch màu trắng đang chuyển dần sang màu hồng.

Page 132: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

132 Trần Thế Nhân

Và kìa! Mặt trời đã thức dậy mỉm cƣời, bắn hàng loạt mũi tên vàng chân lý

vào màn đêm nô lệ đen tối dƣới ngục tù thế gian, chói lọi xuyên qua những trái

tim hồng. Đoàn tù ngẩng đầu ngƣỡng vọng, sững sờ. Đỗ Vân và Đặng Ngọc Khôi đang bƣớc hàng hai bên nhau bỗng dừng lại. Bàn chân trần khô nẻ, buốt

giá của họ vừa giẫm phải cái gì mềm mềm trơn trơn? Ồ! Mấy nhánh hành tƣơi,

củ hành tròn nằm rơi vãi giữa đƣờng. Của ai nhỉ? Chắc là mấy bà nông dân

sáng sớm mai gánh rau đƣa hành ra chợ bán, vô ý làm rơi đánh rớt… Ôi cái mùi gia vị quen thuộc kích thích đến nỗi con ngƣời ta chƣa gì nƣớc bọt đã ứa từ

chân răng, nƣớc miếng đã tuôn ra nơi đầu lƣỡi. Khỏi cần phải nói, hai vị bác sĩ

vội cúi xuống vơ bốc, phù phù thổi sơ qua rồi bỏ mồm nhai nghiến ngấu. Ái chà chà ngon! Ngon quá! Nhai tới đâu da thịt rƣng rƣng, mắt ngời sáng lên tới

đó!

Chƣa hết!

Chuyện còn tiếp… Đoàn tù đã chuyển chỗ tới nơi ngục thất mới.

Những trận đói cơn khát bây giờ còn thống khổ ác liệt hơn trƣớc.

Đã vậy, nhà giam lại chật chội, u tối, cực hình gấp mấy lần nơi cũ!

Nhiều đêm họ thức trắng… Canh một, canh hai, canh ba, canh tƣ… Tới canh năm, gần sáng rồi họ chợt thiếp đi. Đỗ Vân đƣa cánh tay rời rã quờ quạng sang

bên cạnh mình. Ơ, cái gì thế này nhỉ? Mềm mềm, ấm ấm. Lúc nhúc, lổn nhổn…

Một, hai, ba, bốn…Thịt da gì nhƣ thịt da con mình? Nhƣng đây là xó xỉnh hôi thối ngục tù chứ có phải căn nhà thoáng đãng êm ấm gia đình lâu nay đâu mà

còn mơ với tƣởng!

Vừa lúc, Đặng Ngọc Khôi mới mở mắt dậy cũng đƣa tay sang quờ đụng phải…

Chít! Chít! Cái tiếng gì phát ra bên bức tƣờng kia, lại con gì vừa rùng rùng bò

trên cột xà ngang ngay trên đầu họ?

Đỗ Vân thảng thốt kêu: Ô! Chú chích!

Đặng Ngọc Khôi cũng thều thào: Ồ! Con chuột!

Một ổ chuột nhắt! Chính xác một ổ chuột vừa mới sinh!

Mắt họ cùng sáng lên. Dẫu còn phủ mờ bóng tối cả hai đã cảm nhận ra đƣợc cái mƣợt mà múp míp, cái hồng hào hon hỏn của đĩa thịt tƣơi ngon đến phải tứa

nƣớc bọt ra mà nuốt đánh… ực! Trong tù chẳng có bếp núc, lấy đâu ra than củi

để đun nấu nƣớng xào. Thôi thì… Cơn đói đang cồn cào dâng, thức ăn trời cho

lại bày sẵn, còn lòng nào nữa mà khách khí từ chối!

Page 133: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 133

Thế là, tự nhiên nhƣ không, bọ bốc từng con bỏ vào mồm nhai gau gáu.

Cái vị ngọt của máu, cái mùi thơm của thịt chuột sữa, chuột nhi đồng làm răng

lƣỡi họ tê mê khoan khoái, tứ chi rung động, toàn thân ngây ngất. Ôi! Bữa tiệc ngon lành nhất trần đời! Dẫu có là vua chúa ngàn năm xƣa, các quan chức đại

gia thời bây giờ cũng không thể nào đƣợc nếm thử, xơi ngon một đại tiệc ngon

lành đến nhƣ vậy!

Ăn xong rồi, cả hai vị thầy thuốc chẳng kiếm đâu ra đƣợc ngụm nƣớc để súc miệng, cái tăm để xỉa răng. Thôi đành vậy, biết làm sao? Họ tà tà nằm xuống,

thƣ thả duỗi chân, đầu óc chẳng muốn nghĩ gì nữa. Vậy mà, mắt đã nhắm

nghiền lại rồi, làm sao lệ nóng từ đâu trong con ngƣơi vẫn ứa ra, chảy ào tràn hai hố mắt!

Thế nào, Lệ Uyên, cô đã nghe rõ chƣa?

Chuyện là chuyện của loài chuột chúng tôi kể, cho dù đã 45 năm qua, hơn 80 đời lƣu truyền lại vẫn là chuyện có thật, chuyện trung thực; không phải thứ

chuyện lếu láo bịa đặt, vu cáo, dựng đứng của loài ngƣời các ngƣơi đâu!

Tôi nhắc lại để cho cô nhớ và đừng quên: Chính tụi này đã đóng góp vào khẩu

phần thức ăn nuôi sống các ngƣời!

À, hoá ra bây giờ các ngƣời lại đền ơn chúng tôi bằng cách trả oán nhƣ vậy

đó?

Cái giống ngƣời các ngƣơi toàn là nhƣ thế cả!

Hử? Hử!

Thầy ơi!

Tự nhiên nƣớc mắt con trào ra. Lồng ngực đau nhói.

Cầm cái lồng bẫy bƣớc ra ngoài đƣờng trông trƣớc nhìn sau, chờ tới khi chẳng

còn ai chú ý đến mình, con mới nhẹ nhàng mở tấm lƣới cửa cho con chuột

thoát ra. Sao? Còn ngần ngừ gì nữa! Chuột ơi! Chạy mau đi!

Men theo rìa đƣờng nó chạy thẳng một lèo, rồi đột ngột rẽ ngang, phóc lên hè

phố… Biến!

Họ Mai nhà mình liệu còn hay mất, hở thầy?

Mai sau, năm tháng trôi đi, con cháu dù có đời đời nhớ ơn ai nữa, thầy ơi, cũng

đừng quên ơn mấy con… chuột!

Page 134: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

134 Trần Thế Nhân

Chƣơng 27 VỀ THĂM LƤI MÁI NHÀ XƢA

Có một lần, thầy ơi… Lệ Uyên nức nở kêu lên, hai chị em con về làng…

Chẳng hiểu sao chúng con lại thờ thẫn đi ngay vào cái lối đàng sau nhà mình.

Trời nắng nhƣ đổ lửa mà không đội nón, giơ đầu trần, hai đứa mới kéo nhau vào đứng núp dƣới bụi tre. Từ chỗ này nhìn vào thấy vƣờn nhà mình đã phân

chia làm ba, cuốc xới nham nhở, cây cối chặt trụi… Ngôi nhà trên đã ngăn đôi

bằng hàng cọc gỗ, gác nối mấy cây luồng chạy từ cửa chính ra tới ngoài sân…

để chia ranh giới. Hai mái ngói trƣớc sau chẳng hiểu sao bị bóc giở gần hết, lợp tranh rạ vào. Cái nhà bếp còn rách nát thảm hại hơn, mái thủng trống lòi cả rui

mè ra… Thầy có biết ai ở nhà bếp này không? Chị Tít. Chị Tít không có

chồng, chẳng có con, một thân một mình sống trong đó.

Thầy còn nhớ chị Tít không? Chị thấp ngƣời, chột mắt, chân vòng kiềng, gù

lƣng; khi bƣớc đi hai tay vắt vẻo đu đƣa nhƣ bị gẫy gập… Mẹ bảo, một lần trông thấy chị ấy ngồi trên ghế chủ tịch đoàn ở ngoài đấu trƣờng. Mẹ không

ghét bỏ gì chị Tít; bà cho rằng vì bị mấy ông Đội ép buộc mà chị ấy phải tố

bậy nhà mình thôi. Sau này, có lần gặp mẹ ngoài chợ, chị Tít nhắc lại cái chuyện hồi đi ở cho ông bà, phải ăn chung với hai con chó để đến nỗi chó nó đớp vào

mặt là chuyện không có thật. Họ dựng chuyện lên rồi ép buộc chị phải nói thế;

không nói thì lại bị quy kết làm cái đuôi cho địa chủ, làm tay sai của bọn phản

động; có nói vậy thì họ mới kết nạp cho vào Đảng…

Nhắc lại chuyện ngày xƣa, chị bảo nếu không đƣợc bà nội cho ăn, cho ngủ dƣới nhà bếp thì… Tít đã thành ma từ lâu rồi.

Đứng trƣớc nhà bếp chị Tít giơ tay vẫy vẫy. Chúng con thấy làm lạ không hiểu chị ấy muốn gì?

Hay là ta vào đi? Con nói với chị Tâm. Chị Tâm trợn mắt lên, bảo mày muốn chết hả? Liệu hồn! Mày không sợ ngƣời ta vu oan giá họa cho à? Con bảo, chị

Tâm ơi, em nhớ nhà ta quá, để cho em vào xem lại cái giếng và cây khế ở ngay

sau nhà bếp kìa! Chị Tâm gắt lên, nhà ta làm gì còn nữa, mày điên à, nhà của mấy ngƣời bần cố nông… Mặc kệ! Con chứ chui qua bụi gai, rách toạc cả mặt,

chân đạp lên mấy cây mây… thế là bƣớc vô đƣợc trong vƣờn. Con vào nhà

bếp. Chị Tít vẫn đứng trƣớc cửa. Con nhìn chị. Chị cƣời. Chị hỏi con có ăn khoai không? Con lắc đầu. Chị bƣớc lại sát gần con. Con sợ quá, lùi lại. Chị

ghé mồm sát vào tai con, thì thào: “Có lặt đƣợc mấy bò gạo không?” Con ngơ

Page 135: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 135

ngác nhìn chị : “Gạo nào?” Chị trợn tròn con mắt độc nhãn lên: “Gạo của tôi,

một bò, mấy bà kia, hai bò… lại còn một mo cau khoai nữa!” Con lắc đầu bảo,

không biết, không biết…

Khi về lại túp lều ngoài đồng con kể lại chuyện cho mẹ nghe, mẹ ngẩn ngƣời

ra, rồi sụt sịt khóc.

Mấy hôm mới ra ở lều ngoài đồng đúng là chẳng còn hạt gạo nào, mẹ nói, đêm

nằm quằn quại không sao ngủ đƣợc. Gần sáng, vừa mới chợp mắt, nghe có cái gì rơi đánh bịch, chắc là ai vừa ném đất quăng đá vào sau lều? Sợ quá, mẹ nằm

im thin thít. Sáng dậy, bò lết ra coi thử, thì thấy sau tấm liếp trên đống cỏ có một

gói bọc giẻ rách, buộc chằng thêm mấy sợi lạt… Mẹ lấy làm lạ, thử mở ra xem, hoá ra là gạo. Trời đất ơi! Của ai vậy? Trời Phật xót thƣơng cho mẹ con

sống, sai ai đem tới đây thế này? Mẹ cố đoán ra xem ai là ngƣời to gan lớn mật

dám làm cái việc động trời ấy? Ai? Ai? Hoá ra là con Tít! Chắc hƣơng hồn bà nội hiện lên ám ảnh, lƣơng tâm cắn rứt không chịu nổi, nó mới đổi mặt lại làm

ngƣời!

Từ chị Tít, mẹ đoán lần đoán mò sang mấy ngƣời nữa: ông Bơ, bà Tạu, chị

Te… những ngƣời có dạo ở nhà ta. Phải rồi, chỉ mấy ngƣời đó thôi. Rồi mẹ ôm

mặt khóc.

Trở lại chuyện chị Tít…

Vào nhà chị, chỉ thấy cái chõng tre xiêu vẹo, mấy cái nồi, vại… và mớ quần áo

rách treo trên vách vừa chua vừa hôi. Chị bảo, lúc chia quả thực, vợ chồng

Đông giành hết mọi thứ chỉ để cho chị một cái niêu đồng nhỏ. Chị hiện đang đói, còn đói hơn hồi ở với ông bà, lại còn bị đau cái chi ở trong bụng, không

có thuốc uống, mỗi ngày bụng cứ thấy to dần lên. Có ngƣời độc miệng phao

lên rằng ông Đội làm chị có chửa… nhƣng đâu phải, bụng chị đã to đến cả nửa năm nay rồi, chắc là sắp chết thôi… Chị khóc!

Bƣớc ra vƣờn, một mình con đứng dƣới cây khế nhìn lên. Thầy ơi! Con nhớ bà nội quá! Mới ngày nào năm trƣớc đây, bà cháu còn cầm sào chọc hái mấy quả

khế trĩu trịt trên cành kia! Bà bảo giống khế ngọt này xin từ quê mẹ con ở làng

Bình Lâm bên Hà Trung. Bà còn kể chuyện con Chim Thần ngày xƣa bay đến nói với hai anh em nhà nọ. Nó kêu: Ăn quả khế, trả cục vàng, may túi ba gang,

mang đi mà đựng… Nhà nọ ngày xƣa có hai anh em, ông anh thì tham và ác,

ngƣời em thì hiền lành, biết nhƣờng nhịn… Kẻ tham lam độc ác thì cuối cùng

phải chết chìm ngoài biển khơi. Còn bây giờ thì sao? Lời bà kể có đúng nữa

Page 136: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

136 Trần Thế Nhân

không, bà ơi! Ngƣời hiền lành nhân đức thì bị vu oan, giết hại; kẻ gian manh

tàn ác thì lại đƣợc Đội ban thƣởng, cho không mọi thứ. Có phải vậy không?

Bƣớc tới bên cái giếng con cúi đầu xuống nhìn. Mặt nƣớc đục hôi, đầy những

lá khô, vỏ mía và cung quăng. Mới ngày nào đây chị Tâm thả cái gàu làm bằng

tôn xuống (còn một gàu nữa làm bằng mo cau, con thích dùng gàu này hơn!) kéo dây thừng múc nƣớc lên đổ vào chậu thau đồng có pha bồ kết… Mẹ cấm

con không đƣợc thả gàu xuống giếng múc nƣớc, con còn nhỏ mà, sợ có khi lộn

cổ xuống đó… Mẹ xối nƣớc lên ngƣời, kì ghét mạnh tay làm da thịt con ửng đỏ, đến nỗi con phải nhăn nhó; rồi mẹ gội đầu, chải tóc cho con…

“Đứa nào đứng ngoài giếng đấy?”

Tiếng quát to sau lƣng làm con giật nẩy mình. Quay lại nhìn con thấy vợ chồng

chú Đông.

“Con gái thằng Vỹ hả? Mày đến đây làm gì?”

Chú Đông bặm môi, hằm hằm nhìn con, tay cầm thuổng và bó rau lang. Con

nhìn chú chẳng nói gì. Thím bƣớc tới, xỉa thẳng ngón tay cái vào mặt, nói nhƣ hét; nƣớc bọt bắn cả vào mặt mũi con…

“Mày vừa bỏ cái gì xuống giếng phải không?”

“Không!” Con hoảng sợ, cuống lên. “Cháu đứng đây… chơi mà!”

“Cháu ai? Mày là cháu ai hử? Rõ khéo… Chơi với ai, chơi cái gì? Mày định

bỏ thuốc độc xuống giếng để giết hại mấy gia đình bầy choa ở đây phải không? Hử? Con thằng Vỹ địa chủ phản động giết hại nhân dân!”

Toàn thân con run lên. Không thể nói đƣợc gì, con chỉ biết nhìn thẳng vào mặt chú Đông. Con muốn nhảy ngay xuống giếng để đƣợc chết theo thầy, thầy ơi!

Vừa lúc ấy, chị Tít đứng ngay đằng sau con.

“Khong! Khong!” Chị kêu lên, lƣỡi ngọng líu, mắt đảo ngƣợc.

“Khong ! Khong!” Vừa nói vừa lắc đầu, chị quờ tay ôm lấy vai con “Tôi gặp

nó ngoài kia, tôi bảo nó vào nhà chơi với tôi…” Chị nắm tay con lôi kéo vào nhà. Chị ấn con ngồi xuống chõng tre, lấy quạt mo quạt quạt cho con…

… Trở ra ngoài đƣờng gặp lại chị Tâm, chị ấy cốc lên đầu con một cái: “Đồ

ngu! Tao đã bảo rồi mà không chịu nghe. Thấy chƣa?”

Page 137: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 137

Chƣơng 28 BÉ LỆ UYÊN ĐÒI BỐ MAI DUY VỸ KỂ CHUYỆN MÌNH CHO CÁC CON NGHE

Lệ Uyên gục đầu xuống, hai tay bƣng mặt nghẹn ngào. Chị khóc nhƣ bao đứa trẻ trên đời này không hiểu vì đâu, chẳng rõ tại sao mình sinh ra trong một gia

đình tử tế lƣơng thiện, có đến nỗi nào mà tự nhiên mới lọt lòng ra đã lãnh chịu

án chung thân thành phần, khổ sai đọa đầy ngay giữa cái Địa ngục Trần gian hỗn độn những giai cấp!…

Ông Vỹ vuốt ve đầu tóc con, lấy hai ngón tay nâng cằm Lệ Uyên lên nói:

– Nín đi con, con gái thƣơng của thầy mẹ. Lỗi tại thầy mẹ cả. Thầy mẹ sinh

các con ra để các con chịu bao nhiêu là đau khổ. Vì thầy mẹ mà anh trai con, không rõ chết đói hay chết đuối. Ai đã đánh nó, thắt cổ nó, dìm nó xuống

sông… đến nỗi, sau này chết rồi, xác vùi lấp ở đâu cũng chẳng ai biết…? Thầy

xin lỗi các con. Hãy tha tội cho thầy!

– Thầy chẳng có tội gì hết! – Lệ Uyên hét lên – Trời có tội! Chính Trời đã gây

ra bao tai họa đau thƣơng cho gia đình ta! Trời! Trời!

– Đừng! Đừng! – Ông Vỹ hốt hoảng xua tay – Đừng làm kinh động lên cả Bên

Này Bên Ấy. Cả đất nƣớc, cả nhân loại… ngƣời ngƣời nhà nhà đau khổ, đâu chỉ riêng gia đình họ Mai chúng ta. Bể khổ Trần gian này thầy vẫn đủ can đảm để

nhìn vào, chìm xuống. Nhƣng đôi mắt nhoà lệ của con, ôi con gái thƣơng của

thầy mẹ, dù chỉ một giọt trào rơi thôi, cái lòng mẹ cha đây thật không sao chịu đựng nổi. Lệ Uyên ơi, đƣợc gặp nhau nhƣ thế này con không thấy là hạnh phúc

sung sƣớng hay sao? Thôi! Hãy quên đi! Quên đi! Quên tất cả đi!

– Không! Không! – Lệ Uyên vùng vằng, lúc lắc đầu nhƣ sắp đập vào bức tƣờng nào trƣớc mặt – Thầy chƣa kể hết mà, thầy phải kể tiếp! Kể cho con

nghe, em Thùy Dƣơng nghe, cho tất cả loài ngƣời ở Bên Ấy Bên Này, Bên

Này Bên Ấy nghe.

Con chƣa đƣợc biết, đƣợc thấy khoảng thời gian còn lại, những giây phút cuối cùng khi thầy từ Bên Ấy đi sang Bên Này!… Mẹ và các con sau này cũng có

nghe ngƣời ta, bà con ở Nga Sơn, cả tỉnh Thanh Hoá và cả Miền Bắc Xã hội

Chủ nghĩa kể chuyện ông Mai Duy Vỹ bị chôn sống vào cái năm Cách mạng long trời lở đất ấy!

Page 138: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

138 Trần Thế Nhân

Dẫu rằng chuyện là chuyện có thật, đâu phải bịa đặt dối trá nhƣ bao chuyện

trên đời này, nhƣng thầy ơi, suốt 45 năm nay, con chỉ mong ƣớc trông chờ đến

ngày hôm nay để đƣợc nghe chính thầy kể. Chỉ có thầy kể con mới thật tin.

Thầy phải kể để cho con ngƣời ở Bên Ấy Bên Này, Bên Này Bên Ấy nhận mặt

chỉ tên ra đƣợc Tội Ác. Nếu nhƣ không ngăn chặn tiêu diệt đƣợc thì cũng để

giúp cho con ngƣời biết đƣờng mà tránh mặt Tội Ác! Con van thầy! Con xin

thầy kể đi, kể đi!...

Ông Vỹ dừng lại nhìn con. Cái nhìn phân vân do dự cách đây đã 45 năm, khi

đứa con gái út hờn dỗi đòi bố đƣa sang Bình Lâm để chơi với bà ngoại. “Con nhớ bà, con thƣơng bà!” Bố thì bận đi khám bệnh chích thuốc cho ông Toành,

ngƣời quen, cũng là y tá… Ông Toành đau nặng. Con trai vừa lên mời chú Vỹ

xuống cấp cứu… Thế mà con hĩm Uyên này cứ lẳng nhẳng bên bố, nó khóc, nó dậm chân, nó đòi thầy phải đi sang bà ngay… Bực quá, ông khẽ ẩy nó ra.

Chỉ một cái đẩy nhẹ thế mà con bé ngã ngửa, đầu đập xuống nền nhà, may mà

không can gì.

Đạp xe trên đƣờng, nghĩ tới con ông ân hận đến nôn nao ngƣời, chỉ muốn đến nhà Toành chích thuốc cho mau xong mà về.

Sau này, khi đã bị Đội Cải cách nhốt cùm ở điếm canh, cái ngƣời đƣợc Mai

Duy Vỹ cứu chữa cho hôm đó, y tá Toành đã tích cực góp phần không nhỏ trong việc dựng chuyện, vu khống thằng Vỹ phản động gian ác đã tiêm thuốc

độc vào mạch máu bà con nông dân, kèm theo những con số ngƣời bị giết hại cứ

y nhƣ thật!

Ôi! Hoá ra không có thứ độc dƣợc nào, dù nọc rắn hay thạch tín ở trên đời này

độc bằng cái miệng lƣỡi của con ngƣời! Y sĩ Vỹ biết y tá Toành bấy lâu vẫn

ngầm ganh ghét mình nhƣng ông vẫn nhẹ nhàng bỏ qua nhiều chuyện… Cái

Tâm trong lành của ông lúc nào cũng vậy, không muốn vấy nhiễm dù chỉ là một gợn hằn thù.

Đêm khuya trong điếm canh khi miệng cùm ngoạm cắn ngang cổ chân làm da

thịt rơm rớm máu, ông Vỹ ngƣớc nhìn màn đêm… Kìa, đôi mắt nâu đen đẫm nƣớc, cặp môi hờn dỗi của bé Uyên hiện ra. Con ơi, ông thầm kêu, có lẽ ông

nội xúi con chăng; ngày hôm ấy thầy không đƣa con về thăm bà ngoại ở Bình

Lâm là dở quá! Thầy có lỗi lớn. Chỉ hơn một tháng sau là thầy bị bắt giam.

Vĩnh viễn thầy không còn đƣợc thấy lại bà ngoại. Là con rể, thầy mang tội bất hiếu. Hai lần bất hiếu!

Ông Vỹ thở hắt ra, rùng mình.

Page 139: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 139

– Chuyện dài lắm con ơi! Kể làm sao cho hết đƣợc?

Vệt máu từ mé đầu bên phải lại ứa ra chảy xuống thái dƣơng; vệt máu từ giữa

đỉnh đầu chảy qua trán, bò dọc theo sống mũi, đến giữa nhân trung… Hai vệt gặp nhau đọng ở dƣới cằm. Cái vết nứt ở giữa đầu toác ra, sủi lên, ứa trào

những mảng óc lợn gợn máu. Mai An Tiêm lần đầu tiên bổ đôi quả dƣa hấu

dƣới chân núi Nga An cho vợ con ăn, nhìn những giọt nƣớc hồng, lịm ngọt từ

quả quí trời ban, làm dịu dần cơn đói khát của những đứa con lƣu đày thuở Vua Hùng dựng nƣớc, chắc không thể nào ngờ rằng, mấy ngàn năm xa lắc sau

này, những giọt đỏ từ đầu một đứa con cháu mình bị bổ toác đôi chảy ra còn

nhiều hơn, thấm đậm hơn mà vẫn không đã thèm đƣợc cơn khát của bọn quỷ Đỏ trên bàn tiệc máu!

– Ừ thì thầy kể đây – ông Vỹ tiếp – kể đƣợc chừng nào hay chừng ấy, kể tới

đâu hay tới đó… Nhƣng các con đừng nhìn thầy bằng ánh mắt nhƣ thế! Nào, hãy bình tĩnh lại…

Dòng Thời gian tự nhiên đứng lại. Rồi chuyển dịch ngƣợc chiều.

Không chỉ mấy cây cột nhà mà bàn ghế trong nhà, mọi vật cùng chuyển động,

chầm chậm xoay ngƣợc làm hai chị em cũng thấy mình đang biến dịch, trôi về một quá khứ nào.

Một con bé 7 tuổi, áo nâu bạc phếch, quần đen vá đít đang đứng trƣớc cổng

nhà gọi thầy ơi, mẹ ơi, mồm méo xệch.

Con bé kia thì bò bên ngạch cửa, mặt mũi lấm lem đất cát…

Ông Vỹ lại dần dần biến thành hòn lửa đỏ, chầm chậm xoay 36 vòng nhƣ cây

hƣơng vòng cháy rồi lặn. Chỉ còn tiếng nói của ông trầm ấm nghe nhƣ hơi gió thở từ đồng cói hoà với tiếng sóng biển chiều đông.

– Nào, các con nghe thầy kể…

CHUYỆN KỂ CỦA BỐ MAI DUY VỸ

Page 140: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

140 Trần Thế Nhân

Chƣơng 29 NHỮNG ĐÊM TRẮNG

26 tháng Chạp năm Ất Mùi 1955. Ôi, cái ngày ấy nó rét gì mà rét dữ!

Hai cổ chân thầy bị trầy loét, bƣng mủ. Chỉ cần khẽ cựa thôi cũng đã chạm vào

miệng cùm, cứ nhƣ cƣa nhƣ cắt không tài nào chịu nổi. Mấy đêm liền thức

trắng.

Vừa chợp mắt, xỉu đi đƣợc một lúc lại chợt mở ra. Ồ lạ chƣa, có cái gì nhám ráp

phủ lên, cọ vào ngƣời mình? Thầy đƣa tay sờ soạng… Rơm rạ đâu ra thế này? Ai mang vào đây? Thảo nào mình chợp mắt đƣợc một lúc. Thầy cứ nằm yên để

cho những cọng rơm phủ lên trán, mũi và hít thở cái hƣơng thơm thôn dã.

Hồi nhỏ, có lần thầy với anh Nuôi, hai tên ngồi canh bên nồi bánh chƣng đêm

27 Tết rồi lăn quay ra ngủ quên lúc nào không biết. Nằm trong rơm ấm lắm.

Một đêm vui, ôm lấy anh Nuôi nghe kể chuyện làng xóm. Lại cũng có lần thầy

với chú Đông, hai anh em quần nhau trong đống rơm gần chuồng trâu. Chú ấy đã hay dỗi lại còn bẳn tính; hơi đụng một tí là nhè, lại đi mách bà. Lạ thật! Hồi

ấy, thầy không hay biết gì hoặc giả không quan tâm gì chú em mình là con

nuôi, con rơi ông bà nhặt đƣợc. Mãi tới sau này, khi vào học trƣờng Cô-le-giơ trên tỉnh, khai giấy tờ, mới có ngƣời nói cho thầy biết. Biết là biết vậy thôi, chứ

cái tình anh em lúc nào cũng ruột thịt.

Có tiếng ngƣời tranh cãi nhau trƣớc sân, ngoài phòng giam, chen lẫn tiếng gió

hú lùa qua lỗ thông hơi.

Bây giờ chắc độ khoảng 1 giờ sáng. Trời rét cắt thịt xé da thế mà sao ai đó vẫn còn thức để làm gì không biết. Thầy dỏng tai cố nghe câu đƣợc câu chăng.

Thật không ngờ, ngoài kia hai anh dân quân vẫn canh gác ngày đêm, còn có đủ mặt cả năm ngƣời: chú Đông, Hĩm Xoa, Cò Toe, y tá Toành và ông Đội.

Qua câu chuyện của họ thầy mới hiểu ra: đã hai hôm nay nhà họ Mai chẳng còn cái gì để đổ vào miệng; sau khi bà chết rồi, mẹ cũng lăn ra ốm và không ai đƣa

cơm đến cho thầy.

…Gọi là cơm cho nó ra vẻ chuyện ăn uống của con ngƣời thôi, chứ cái đọi cháo mẹ và chị con đƣa tới cho thầy hai hôm trƣớc chỉ có mỗi nhúm gạo nấu

với lá khoai và đụt khoai.

Mẹ bảo, mẹ phải thức dậy lúc nửa đêm, lén bò ra luống khoai nhà mình sát bụi

tre, dùng con dao cùn đào bới… Khoai đã thành củ đâu, chỉ mới nhú ra đụt, giải

khoai. Đang đào đang moi thì con chó nhà Đông nó mới chạy ra, may mà nó không sủa, lại còn vẫy đuôi ngửi hít bên chân nữa. Hú vía ba hồn chín vía! Nó

Page 141: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 141

mà sủa thì vợ chồng Đông thức dậy, Quân Chủ lực nông dân cứ là xông ra đạp

đầu mình xuống đất. Khoai là khoai mình trồng, ấy thế mà lại phải lén lút đi ăn

trộm về. Có khổ nhục không, hở Trời!

Vậy là hai hôm nay không ai đƣa cơm cho thầy!

Thế thì, cục cơm độn khoai và mấy củ sắn thầy nhận đƣợc từ tay anh Tình, dân

quân canh gác ở đây là của ai? Của ai nhỉ?

Ai mà to gan lớn mật dám đƣa vào đây? Anh Tình này chăng?

Thầy nghĩ. Cứ nhìn vẻ mặt kín đáo lạnh lùng của anh bần nông này thì… thật

khó đoán.

Thầy nhớ lại tháng 3 năm Ất Dậu 45, khi ông nội con sai ngƣời nhà khuân cái

nồi ba mƣơi cháo ra đầu ngõ để cứu đói cho làng xã thì ông bố đẻ ra Tình là ngƣời đến trƣớc tiên. Lúc đƣa bát cháo để anh Nuôi múc cho, ông này cúi gập

đầu xuống nói: Kính lạy ông bà, một miếng khi đói bằng một gói khi no, qua

cơn đói kém lần này, chẳng biết con có còn không hay là chết; dù có về Âm phủ con cũng đội mồ lên ghi nhớ ơn cƣu mang của ông bà!...

Hồi ấy, cứ mỗi tuần ông bà nội con nấu hai nồi cháo nhƣ vậy.

Mẹ của Tình cũng có lần lên nhà ta xin thuốc, chích thuốc. Những ngƣời này có

tiền đâu mà trả, mà thầy cũng chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện lấy tiền của họ.

Vậy thì, ai là ngƣời hai hôm nay đƣa cục cơm, củ sắn cho mình?

Cứ nghĩ tới cái nhìn rụt rè sợ sệt, đảo bốn phía quanh buồng giam, bàn tay lóng ngóng lấy gói bọc lá chuối khô lôi từ trong túi áo lƣng quần ra đặt vội

trƣớc mặt thầy… “Ông ăn đi cho đỡ đói”… “Ai cho tôi thế này?” Thầy ngạc

nhiên hỏi. “Không biết! Không biết!”. Lắc đầu, đáp khẽ, vội vã bƣớc ra ngoài… anh ta còn ngoái lại nói: “Tóc ông bạc trắng hết cả rồi!”

Bây giờ thì Tình đang phân bua với những ngƣời kia về chuyện mình đã quẳng

ít rơm rạ vào phòng giam để thầy lấy cái phủ đắp lên.

“Mày thƣơng thằng Vỹ hả?” – chú Đông nói, nghe nhƣ quát nạt.

“Ái chà! Anh lày nại muốn nàm tay sai, niếm gót cho thằng địa chủ bóc nột, áp

bức nhân dân, phản động bán lƣớc đây”.

Y tá Toành hay lè nhè, mồm nồng nặc rƣợu, vừa tiêm thuốc cho bệnh nhân vừa

thô tục cà chớn… không thể lẫn đi đâu đƣợc.

“Rét! Rét cái gì! Chỉ mình thằng Vỹ biết rét thôi hử, thế còn trẻ con ngƣời già,

nông dân cả cái Nga Bạch, Nga Sơn này ngƣời ta không ai rét hay sao? Cho nó

chết!” – Hĩm Xoa nói.

“Cho nó chết!” – Cò Toe đế thêm, lặp lại.

Page 142: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

142 Trần Thế Nhân

“Ló bóc nột, ló hãm hiếp dân nành, ló nhai xƣơng hút máu bà con lông dân

bao lăm lay, trong ngƣời ló còn ói mỡ nà mỡ, anh no cho ló rét ló nạnh nà

nghĩa ní ra nàm sao?”

“Nó chƣa chết ngay đâu!” – Ai đó nữa, vừa nói vừa ngáp.

“Còn nâu ló mới chết!”

Chờ cho mọi ngƣời nói xong, ông Đội ngƣời Nghệ An vừa rít một hơi điếu cày

dài, sặc sụa ho, lấy tay vỗ vỗ vào miệng ống điếu nói:

“Tôi đã trao đổi mấy lần rồi và các đồng chí cũng đã nhất trí thông qua trong

cuộc họp hôm trƣớc là, ta phải nhét một cái que sắt ngang mồm thằng Vỹ, lấy dây buộc ra phía sau gáy, ngăn sao cho hai hàm răng khỏi chạm vào nhau, để

nó khỏi cắn lƣỡi tự tử. Kinh nghiệm xƣơng máu đấy, các đồng chí ạ. Ở trong

quê tôi đã xẩy ra mấy vụ tự tử vì thiếu cái que sắt gang mồm mấy thằng địa chủ… Tại sao đến bây giờ các đồng chí vẫn chƣa… thi hành?”

Thầy giật nẩy mình. Từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới bây giờ, đã có khi nào nghe cái chuyện quái ác, lạ lùng nhƣ vậy? Ừ thì mình là con ngựa, con trâu để con

ngƣời họ làm cái trò đó cho đành một thể; đằng này mình là con ngƣời! Họ

chẳng bàn kín với nhau ở đâu, sao lại kéo nhau tới đây cố ý rót vào tai, đổ vào

óc mình những lời ấy, ra cái điều để cho mình biết rằng mình chẳng còn đƣợc là cái con vật nữa hay sao? Còn họ là… là Trời, hơn Trời nữa, Trời cũng phải đội

họ lên đầu. Nhất Đội nhì Trời mà!

Thầy ứa nƣớc mắt.

Nghĩ tới cái đêm tháng trƣớc đây họ dùng dây thừng buộc hai ngón chân cái thầy rút ngƣợc lên xà nhà, để đầu và hai tay rơi thõng xuống, rồi… cứ gậy tre,

gậy lim, hai ngƣời đứng hai bên phang đập vào ống chân, sau lƣng, trƣớc

bụng… vừa hét vừa la bắt thầy phải nhận tội là đã cƣa chặt hết chân tay của 51

anh Vệ quốc đoàn, đã tiêm và cho uống thuốc độc giết chết gần cả trăm bà con nông dân, trong đó có bốn phụ nữ mang thai, vị chi là 8 mạng một lúc; không

phải, những 9 kia, vì có một bà mang thai đôi, sinh hai đứa…

Thầy kêu lên trong cơn đau: Thƣa các ông bà Đội, các ông bà nông dân…

Vâng, tôi xin nhận tội. Tôi đã cƣa, đã chặt, đã tiêm thuốc độc, đã giết chết…

nhƣng không phải chỉ có thế thôi đâu, nhiều hơn, nhiều hơn nữa… Một ngàn chín trăm năm mƣơi lăm ngƣời kia! Nghĩ tới năm 1955 tự nhiên thầy buột

miệng nói vậy.

Và thầy hét to: Đúng tôi đã giết ngƣời. Giết bằng dao! Giết bằng xê ranh! Tôi đã cầm xê ranh đâm cả đồng chí Bí thƣ Tỉnh uỷ, đâm cả Chủ tịch tỉnh, đâm cả

Trƣởng ty Công an! Rồi thầy cƣời sằng sặc. Hình nhƣ trong bọn họ có ngƣời

không nhịn đƣợc cũng đã cƣời theo.

Page 143: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 143

Ngay lập tức, Cò Toe cầm cây gậy lim vuông cạnh, gõ một cái thật mạnh vào

đầu gối chân phải thầy. Rồi tiếc rẻ, gõ thêm một cái nữa còn mạnh hơn, vào

đầu gối bên kia.

Họ cởi tháo dây thừng, định để thầy ngối xuống đất nhƣng thầy đã ngã vật

ra… Máu từ trong lỗ mũi, ộc tuôn xuống nền nhà. Chờ cho thầy mở mắt, họ lại tiếp tục tra hỏi thêm về hai tội nữa.

Tội một: Cắt dây điện!

Thầy trả lời họ: Khắp cả Nga Sơn và Thanh Hoá, mọi nhà dân đều thắp đèn

bằng dầu trảu, dầu lạc và rất ít dầu hoả; tìm đâu ra dây điện đèn ngoài đƣờng?

Nếu còn sợi dây điện nào từ thời Pháp thuộc để lại thì cũng chỉ để giăng phơi quần áo. Tôi cắt dây điện để làm gì? Cắt ở đâu? Ai thấy tôi cắt?

Họ bảo: Cái năm mày làm y sĩ cƣa chân chặt tay các anh Vệ quốc đoàn, mày đã dùng liềm, trèo lên cây quạc cho đứt dây điện để đơn vị bộ đội không bắt

liên lạc đƣợc với Bộ chỉ huy. Rồi máy bay Pháp tới, mày còn giả vờ đi ỉa; chui

vào ngồi trong bụi cây, bấm đèn bin lên trời làm hiệu cho Pháp nó bỏ bom! Còn

chối nữa không? Ai thấy thì làm sao mày biết đƣợc, mà biết để làm cái chi! Có ngƣời thấy. Thấy rõ ràng. Quần chúng, Quân Chủ lực trăm tai, trăm mắt…

Còn tội thứ hai nữa, tội này rất nặng, rất to!

Mày đã từng bắt liên lạc với các cha cố ở Bùi Chu, Phát Diệm, từ đó mày cấu

kết với Pháp. Mày quen thân với thằng Lê Hữu Từ, trùm sỏ Công giáo… Còn chối nữa không?

Thầy trả lời họ: Tôi là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Tôi chỉ thờ các ông Mác, Ăngghen, Lênin, Stalin và Bác Hồ… Ngoài họ ra tôi thờ ông bà, tổ tiên.

Tôi không theo tôn giáo nào. Những ngƣời Công giáo yêu nƣớc nhƣ bác sĩ Vũ

Đình Tụng, có con trai hy sinh ngay những ngày đầu cuộc kháng chiến chống

Pháp, tôi cũng kính trọng họ…

Họ cắt ngang lời thầy: Vỹ! Mày nói bậy! Tôn giáo tức là quân phản động, bè

lũ tay sai của đế quốc phong kiến, chống phá Cách mạng… Chỉ có ngƣời Cộng sản, nhân dân ta mới yêu nƣớc, ngoài ra chẳng có ai yêu nƣớc hết! Hãy nhận

tội đi! Trong nhà mày có đủ sách Tây sách Tàu. Rất nhiều sách chữ Tây. Có

một quyển rất dày, to bằng cái gối, trong đó chụp đủ hình bọn vua quan phong kiến, thực dân… Có cả ảnh Giêsu nữa. Đúng không?

Trong đầu thầy bóng tối dần dần chuyển thành ánh sáng. Thôi chết cha rồi! Hoá

ra là…

Page 144: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

144 Trần Thế Nhân

Chƣơng 30 CHUYỆN ĐỒNG CHÍ Y TÁ TOÀNH. CHUYỆN VỚ VẨN TRONG NHÀ. CHUYỆN TÀO LAO KHÁCH KHỨA.

Thầy gặp Toành ở Đại đội trong chiến dịch Hà Nam Ninh. Cứ theo lời Toành tự kể thì anh ta quê gốc ở Thái Bình, Nam Định gì đó, đói Ất Dậu phiêu bạt

vào Nga Sơn – Thanh Hoá. Ừ thì cũng coi đồng chí này nhƣ đồng hƣơng Nga

Sơn – Thanh Hoá. Chính thầy đã lấy anh ta lên làm lao công, hộ lý. Toành có tật nói ngọng, cà lăm… chữ to quốc ngữ đọc cũng chƣa thạo; tên thuốc thì

chẳng những không gọi đƣợc mà còn nhớ tầm bậy; tiêm thuốc thì trầm trầy

trầm trật mãi mới chọc đƣợc mũi kim vào ven…

Đã thế lại còn phách lối, nói trạng. Có biết quái gì đâu về y tế. Ngay cả danh

hiệu y tá cũng là do anh ta tự phong cho mình, Toành có đƣợc qua trƣờng lớp

đào tạo nào đâu!

Một lần đang ca mổ, tay chân lóng ngóng thế nào, Toành đánh rớt cái khay có đủ dao, kéo, pince… xuống đất; anh ta vội nhặt lên, phồng má thổi phù phù,

đƣa vạt áo ra lau vội… Thầy mới nổi điên lên mắng anh ta là đồ ngu, hậu đậu,

đồ óc bùn… Giữa đám y tá, hộ lý, Toành đỏ mặt giận, từ đó có ý để bụng…

Thầy biết, nhƣng rồi công việc ngập đầu, chẳng còn thì giờ đâu trò chuyện với

anh ta nữa. Thƣơng binh ngày một nhiều, ngƣời phục vụ không đủ, rồi lại phải

nhờ đến Toành. Có hôm thầy bảo đƣa đây lọ cồn, đầu óc để đâu đâu Toành lại

đƣa cuốn băng, cái kéo… Các loại thuốc Tây thông dụng cũng thế, đã bày đi dặn lại nhiều lần, dẫu có khá hơn rồi vẫn vậy… nghĩa là lộn phèo, bát nháo chi

khƣơn!… Áp bờ phên (aspirine), đá ghè răng (dagenan), Canh kí dốt (teinture

d’iode)… xít tép, pêni… cứ Việt Nam hoá ra vậy thì may ra Toành còn nhớ.

Một lần, ở Tiểu đoàn bộ, thầy giảng giải cho Toành hiểu “nhà dây thép” là gì,

bƣu điện là gì, điện thoại moóc-xờ là gì, đánh moóc nghĩa là làm sao?… dây

điện thoại mà bị đứt là tin tức phát đi cũng bị ngừng, nghĩa là không còn nghe thấy gì nữa. Ngƣời chỉ huy, Bộ Tƣ lệnh mà mất tin tức liên lạc với cấp dƣới thì

chiến dịch ở thế thắng cũng chuyển thành thế thua. Rất nguy hiểm! Trong

chiến tranh ở các nƣớc phƣơng Tây, ngƣời ta mà bắt đƣợc quả tang ngƣời nào

đang cắt dây điện là kẻ ấy chắc chắn lãnh án tử hình.

Có một lần thầy cùng đi với Toành từ Phát Diệm về Nho Quan. 9 giờ tối. Đột

nhiên có máy bay Bà Già Pháp rè rè tới lƣợn quanh vùng. Lại đúng lúc thầy

đau bụng nên chạy vội vào bụi cây gần đƣờng để đi ỉa. Chính tay thầy giao túi xách cứu thƣơng có chữ thập đỏ và cái đèn pin cho Toành, dặn anh ta chớ có táy

Page 145: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 145

máy thò tay vào công tắc mà đèn bật sáng; máy bay nó xả liên thanh dội bom

xuống đầu cho mà chết cả lũ bây giờ!…

Vừa ngồi vào bụi cây chƣa kịp ị, thì lạ chƣa, cái đèn pin bên kia đƣờng tự nhiên loé sáng. Thầy hét lên. Lóng nga lóng ngóng một lúc Toành mới tắt

đƣợc ánh đèn. Máy bay Bà Già Pháp xuống rất thấp, nhƣ vừa nhận đƣợc dấu

hiệu ở dƣới đất, lƣợn quanh mấy vòng…

Cả hai đồng chí vùng căng chạy. Chạy đƣợc một quãng chừng hơn nửa cây số thì đạn pháo ca nông của địch từ ngoài biển câu vào uỳnh oàng liên tục. Hú vía!

Thầy mắng cho Toành một trận. Hắn ta cƣời hì hì bảo rằng lần đầu tiên trong

đời đƣợc cầm đèn Bim nên thích quá, thử… bấm chơi! Thích cái tiên sƣ cha mày! Đồ đồ…

Thầy lại nhớ tới cuốn tự điển Larousse của nhà ta thƣờng đặt trên bàn làm việc

sau cửa sổ… Đúng là trong ấy có đủ hình ảnh các ông Tây đế quốc từ Napoléon tới Pasteur. Có lần thầy còn chỉ dẫn cho bầy đứa và cả chú Đông

đứng bên xem hình Chúa Jesus Christ.

Rồi lại nhớ…

Cái lần nào nhỉ? Giữa đám bạn bè khách khứa tới chơi nhà, nhân lúc vui chuyện thầy kể mình đã thấy Vua Bảo Đại năm vào thăm Huế đúng dịp lễ Nam

Giao. Rồi sau này Tổng khởi nghĩa 1945, khi Cố vấn Vĩnh Thuỵ trên đƣờng ra

Hà Nội, qua Thanh Hoá, nghỉ lại nhà Uỷ ban, ngày xƣa gọi là Toà Sứ, thầy lại gặp Bảo Đại.

Lần này không phải thấy xa xa mà ngay trƣớc mặt.

Chả là, dạo ấy thầy đƣợc cấp trên điều động công tác vào nhà Uỷ ban để phục vụ, khám chữa bệnh, tiêm thuốc cho mấy ông lớn Cách mạng: Chủ tịch, Bí

thƣ… Khách Trung ƣơng từ Hà Nội vào, trong Nam ra… Các ông Tố Hữu,

Đặng Thai Mai, Tôn Quang Phiệt, Lê Tất Đắc, Lê Chủ…

Đang ngồi ở phòng khách, thấy cố vấn Vĩnh Thuỵ đi từ buồng tắm gần đó ra, trên ngƣời chẳng mặc quần áo gì hết, cứ trần truồng rất chi là tự nhiên, thầy

đâm ra lúng túng, không biết nên chạy đi đâu… Cố vấn hiểu ý, gật đầu cƣời,

nói giọng Huế: “Cứ tự nhiên! Cứ tự nhiên!” Rồi thong thả trở về phòng mình.

Chuyện kể tới đó mọi ngƣời ai cũng cƣời. Có ngƣời lắc đầu không tin. Lẽ nào

đồng chí Cố Vấn, anh Vĩnh Thuỵ, cựu hoàng Bảo Đại mà lại nhƣ thế?

Một ngƣời bạn của thầy là Hà Kính Lãm, còn gọi là Bang Lãm, thời Pháp ông

này làm Bang Tá, có lúc làm việc và sống gần Bảo Đại… Ông Lãm lên tiếng

Page 146: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

146 Trần Thế Nhân

xác nhận đúng là Bảo Đại quen sống tự nhiên nhƣ Tây vậy. Cựu hoàng vô tƣ và

hiền lành, cả đời chƣa giết hại một ngƣời nào!

Nhân ngày lễ Noel sắp đến, mọi ngƣời lại nói sang chuyện Nhà thờ và các Cha cố!

Hồi thầy còn làm ở Nhà thƣơng Thanh Hoá các Cha cố đến khám chữa bệnh là

chuyện thƣờng. Họ là ngƣời, cũng ốm đau bệnh tật nhƣ ai. Thầy cũng chỉ biết

sơ sơ về họ, không quen thân với một vị nào.

Ông Bang Lãm, bạn của thầy, biết khá nhiều về họ. Ông này kể chuyện mình đã từng gặp Giám mục Lê Hữu Từ tại nhà thờ Phủ Cam ở Huế. Cũng tình cờ

mà gặp thôi chứ không có quan hệ gì; bởi lẽ đồng chí Lãm bây giờ đã là đảng

viên đảng Cộng sản, ngày xƣa hồi còn làm bang tá cho Tây, không chỉ che chở cho ông em là Hà Kính Thắng, hiện là Phó Chủ tịch tỉnh, mà còn cƣu mang cả

đồng chí của em ruột mình nữa…

Lãm kể, Lê Hữu Từ ngƣời nhỏ gầy, trông rất thông minh mà cũng có vẻ hiền lành, bây giờ đang là trùm Công giáo ngoài Bùi Chu, Phát Diệm, ngay sát nách

Nga Sơn mình…

Một ngƣời khác chen vào, thông tin cho mọi ngƣời biết, ngoài Bùi Chu, Phát

Diệm, dƣới nhà thờ có những cái hầm sâu, nhiều đảng viên Cộng sản, du kích quân của ta đang om xƣơng rã thịt… Cả một núi đầu lâu Việt Minh trong đó!

Kinh khủng chƣa!

Nhƣ vậy, ngƣời gặp Giám mục Lê Hữu Từ là ông Bang Lãm, sau Cách mạng tháng Tám chuyển sang làm nghề dạy học, đƣợc kết nạp vào Đảng năm 1948,

chứ đâu có phải Mai Duy Vỹ, mà bây giờ ngƣời ta lại tra hỏi thầy!

Ối! Trời cao đất dày! Lời nói đọi máu! Cái đời này sao mà rắc rối hiểm độc thế! Ai trong đám khách khứa bạn bè họp mặt ở nhà tôi hôm ấy đã dựng chuyện

đổ vấy sang cho tôi? Ông Bang Lãm, đồng chí Lãm, thầy giáo Lãm thì xa chạy

cao bay, sống nơi nảo nơi nào rồi!

Ai thế nhỉ? Ai?

Chú Đông thì rõ mƣời mƣơi là tác giả của cuốn sách dày nhƣ cái gối có đầy đủ

ảnh bọn Tây đế quốc và Chúa Trời phản động rồi. Không lẽ chú lại còn là tác

giả của… Chắc chắn không phải! Chúa Trời làm sao mà nhét nổi Đức cha Lê Hữu Từ vào cái đầu bò, óc lợn của đồng chí Lê Trạch Đông!

Vậy thì ai? Ai? Ai là ngƣời đơm đặt chuyện, dựng đứng thanh gƣơm độc này

lên!? Thầy cố nhớ… cố nhớ…

Page 147: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 147

Đột nhiên, cả chùm thần kinh trong đầu rão ra, đứt dần… còn lại sợi căng nhất

nối linh hồn thầy với Cõi Sống cũng muốn đứt luôn.

Linh hồn thầy chìm trong vũng máu. Mê man…

Mở mắt ra…

Tiếng rít điếu cày lại vang lên trong đêm đông giá rét nghe phát kển ngƣời nhƣ

đƣờng gƣơm đƣa, lƣỡi hái vung của Thần Chết. Vỗ vỗ miệng điếu cày xong,

lại vẫn cái ông Đội trƣởng Đội Cải cách ngƣời Nghệ An đó nói: Ông ta nhắc lại cho cả bọn nghe là phải gang mồm thằng Vỹ, đặt ngay một cái que sắt,

buộc dây vòng vào sau gáy… để đề phòng nó cắn lƣỡi tự tử, nó mà cắn lƣỡi tự

tử là hỏng bét! Không đƣa nó ra bắn ở đấu trƣờng đƣợc là cả một thất bại chung không chỉ cho công cuộc vận động đấu tố của quần chúng Cách mạng,

Quân Chủ lực Nông dân… mà còn hạ thấp uy tín của Đội, của Chi bộ Đảng mới

thành lập!

Cả bọn xuýt xoa, nói sang chuyện thời tiết giá rét. Rét gì mà rét dữ! Rét không

kém gì năm Ất Dậu 45! Rét cóng cả tay chân, máu trong ngƣời đông lại. Rét

đến nỗi cá trong ruộng, ngoài đồng chết cóng nổi lên. Sáng dậy, sƣơng giá nhƣ

rắc muối bột trên lá cây, rau trồng không mọc nổi, héo úa… vụ mùa này coi nhƣ mất trắng. Biển động, không ai đi khơi. Nhà nhà hết gạo. Phải đào củ

chuối ăn với hổng xanh!

Page 148: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

148 Trần Thế Nhân

Chƣơng 31 LÀ CON NGƢỜI, MAI DUY VỸ CŨNG THAM SỐNG SỢ CHẾT

Thầy lại thiếp đi.

Vũng máu quanh mình hồi đầu đêm còn dâm dấp dƣới lƣng bây giờ đã ngập tràn lên tới mũi, mang tai? Thầy muốn động cựa ngoi lên để thở, muốn chống

tay ngồi dậy; nhƣng mỗi lần cố lại mỗi lần xuội đi, xịu xuống…

Biển máu ngập ngụa đang duềnh lên, duềnh lên… Cái thây Mai Duy Vỹ nằm ngửa không trôi đi mà cứ yên vị tại chỗ. Mình chết thật rồi chăng? Thầy nghĩ.

Họ sắp giết mình? Đã mấy ngày nay câu hỏi ấy cứ lui tới, vòng vo trong đầu;

lúc thì âm i vo ve nhƣ cánh ong ruồi, khi thì ầm ào nhƣ cơn bão biển. Ừ thì đời con ngƣời ta, ai sinh ra rồi cũng một lần chết. Nhƣng mình mới 36 tuổi, bàn

chân chƣa đi vợi nửa con đƣờng; cả một đời trong trắng vô tội, ấy là chƣa kể

bao điều hữu ích, nhân đạo mình đã làm vì Đảng, cho dân!

Mình yêu đời, thƣơng ngƣời thế sao mình lại phải chết? Ai bắt mình phải chết? Thật oan uổng và bất công!

Đôi mắt của con hiện lên kìa! Ôi Lệ Uyên, con mới 7 tuổi. Mắt con nhƣ mảnh

trăng trên Hòn Nẹ, đêm nào thầy bồng con ngoài đồng cói nhìn ra biển. Mảnh trăng vô tội. Hòn Nẹ vô tội. Con gái tôi vô tội. Chúng ta đều vô tội. Làm sao

các con tôi từ đây có thể sống mà không có bố?

Ngƣời ta sắp giết Mai Duy Vỹ ƣ? Chuyện vô lý quá. Vô lý nhƣ ngƣời ta muốn

giết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Mùa nào thì cũng phải để tự nó hết, tự nó ra đi chớ.

Bao năm rồi y sĩ Mai Duy Vỹ vẫn thƣờng nghe ngƣời ta nói, hoặc chính ông ta

nói, khi một con bệnh không còn sống nữa: “Anh ấy… bà ấy… chết rồi…” Chuyện này có thể hiểu đƣợc bởi vì Vỹ cùng các thầy thuốc đã bó tay, không

còn cách gì cứu mạng cho những con bệnh đó. Và phải chấp nhận.

Còn bây giờ thì Mai Duy Vỹ lại nghe ngƣời ta nói: “Thằng Vỹ sắp chết! Chúng ta sắp đem nó ra bắn để toàn Đảng toàn dân thấy đƣợc rằng ý nghĩa của

cuộc Cách mạng long trời lở đất này rất chi là quan trọng. Đừng để Vỹ chết

trƣớc khi đem nó ra xử bắn. Phải đặt một cái que bằng sắt gang mồm nó lại để

cho nó khỏi cắn lƣỡi tự tử.”

Nhƣ vậy thì… vô lý hay là có lý?

Thầy tiếp tục suy luận nhƣ đang tranh cãi với ai ngồi trƣớc mặt mình.

Page 149: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 149

Cái ngƣời-vô-hình đó nói với thầy nhƣ thế này:

Mai Duy Vỹ phải chết bởi tội của nó nặng lắm, lớn lắm. Nó đã giết bao nhiêu

ngƣời! Chúng ta giết Mai Duy Vỹ chẳng những không có tội mà còn có công lao thành tích nữa. Bởi cái điều đơn giản dễ hiểu là, giết một kẻ có tội thì không

bao giờ có tội!

Nhân dân ta, Đảng ta không bao giờ có tội! Làm Cách mạng có thể mắc khuyết

điểm chứ không bao giờ phạm sai lầm. Nếu chỉ vì sợ sai mà không dám làm thì còn gọi gì là Cách mạng nữa! Ƣu điểm bao giờ cũng là chính, khuyết điểm là

phụ… có sai lầm khuyết điểm thì mới thấy đƣợc thành tích ƣu điểm là to lớn,

quan trọng. Bởi thế cho nên, ngay cả trong khuyết điểm và sai lầm, nếu có đi nữa nhân dân ta vẫn bất diệt, Đảng ta càng vĩ đại!

Phải giết thằng Vỹ! Không chỉ một thằng Vỹ mà hai ba thằng Vỹ nếu cần.

Đừng để cho nó chết trƣớc khi chúng ta đƣa nó ra giết…

Đó là mục tiêu duy nhất mà chúng ta phải nhắm tới và thực hiện.

Thầy quay sang đếm những con số. Một hai ba bốn… Bắt đầu là kim giây

đồng hồ chỉ từ số 12 đến số 6. Chỉ vậy thôi rồi nhân đôi lên để biết mạch đập

của bệnh nhân trong một phút là bao nhiêu. Biết bao lần nhƣ thế trong bệnh viện?

Đến số 36, thầy chợt dừng lại. Mình đã sống tới hơn nửa đời ngƣời sao? Nhà

ta chƣa có ai sống tới 70 cả. Ông cố họ Mai, cụ Thám hoa chỉ sống tới 63. Ông nội của thầy chỉ… 43. Ông nội của con 60. Bà nội con 57. Dòng họ Mai cứ

đoản thọ, yểu mệnh dần…

Ngày xƣa, năm hết Tết đến ngƣời ta thƣờng chúc nhau mạnh khoẻ sống lâu. Vậy mà rồi có ngƣời lại ngậm ngùi thở than: đa thọ đa nhục! Chỉ có vua chúa

mới đƣợc dân chúng cầu nguyện và tung hô vạn tuế, vạn vạn tuế!

Ngày nay thì ngoài Đảng ra chỉ có Bác Hồ là đƣợc toàn dân hô muôn năm.

Đến nhƣ anh Trƣờng Chinh cũng chỉ đƣợc hoan hô thôi thì còn nói gì đến ai!

Mọi ngƣời dân đều phải sống hy sinh quên mình. Hy sinh, trƣớc hết có nghĩa là

phải chấp nhận cái nghèo, sau nữa là cái chết khi Cách mạng cần.

Lo lắng cho bản thân mình là chuyện xấu xa đồi bại rồi, nhƣng thƣơng cảm cho gia đình, ngƣời thân lắm khi cũng vẫn là điều kiêng kị, đáng chê trách.

Phải hiến dâng tất cả cho sự nghiệp cách mạng để chủ nghĩa Cộng sản, thế giới

đại đồng đƣợc kiến lập trên khắp địa cầu. Ấy mới là tiêu chuẩn, mẫu mực đạo

đức của ngƣời đứng trong hàng ngũ Đảng Cộng sản quang vinh!

Page 150: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

150 Trần Thế Nhân

Vâng! Đó cũng chính là ƣớc muốn của đời con. Kính thƣa Bác cùng các anh

lãnh đạo trên Trung Ƣơng! Đã có bao giờ lòng con hoen ố vì những vết mờ hoài

nghi cái mục tiêu cao cả thiêng liêng của Cách mạng?

Không! Không bao giờ! Lòng dạ con đây… hoàn toàn trong trắng! Tâm hồn

con đỏ tƣơi màu cờ Liềm Búa. Cha mẹ con, vợ chồng con vui vẻ chấp nhận

đƣợc chia sẻ, hoà đồng với cảnh nghèo khó túng thiếu của bà con nông dân. Ăn

bát đất mẻ, cơm độn, cà thâm, đắp chiếu, mặc áo quần nâu, lội bùn, cày cấy trên mảnh ruộng cùng bà con ƣ? Chúng con xin cố gắng làm theo, làm đủ.

Một thời dòng họ, gia đình con đƣợc đầy đủ, sung sƣớng hơn bà con làng xã.

Đúng thế! Bây giờ bà con làng xã cần bao nhiêu ruộng, theo lệnh Đảng, vâng lời Bác, chúng con sẵn sàng dâng hiến!

Nếu các ông bà nông dân, các đồng chí công nhân lãnh đạo tiền phong, coi

những tri thức của con do nhà trƣờng đế quốc thực dân đào tạo ra là không bằng cục phân, à cục cứt chứ, Mao Chủ tịch vĩ đại đã từng gọi nhƣ vậy: Cục

cứt! Vâng cục cứt! Và một đời cầm xê-ranh, cầm dao mổ của con đã không có

công mà còn có tội nữa; bởi vì thể xác con, đầu óc con, tâm hồn con đều do nòi

giống, thành phần địa chủ bóc lột mà ra cả… thì hãy cho con đƣợc làm kiếp tôi đòi, phục dịch bà con bần cố nông để trả nợ, đền ơn họ.

Con xin làm con trâu đi cày, con bò đi bừa… Con xin làm đứa ở để dọn dẹp

nhà cửa, hầu hạ bếp núc. Nếu vẫn chƣa thoả mãn đƣợc bà con bần cố thì con xin làm con chó để sủa trộm, dọn phân, con xin làm con mèo để bắt chuột!…

Nhƣng xin đừng giết con, để cho con sống! Tuổi đời con mới 36, ba đứa con

dại thì một đứa vùi xác mất tích ở đâu rồi, còn lại hai đứa… con mà chết thì lấy ai ngƣời nuôi chúng?

Lệ Uyên! Lệ Uyên! Thầy gọi tên con!

Thầy sợ chết, các con à. Thầy sợ lắm. Thầy khóc. Cứ tƣởng đâu lệ đã cạn khô

rồi; vậy mà, hễ nghĩ tới các con dòng lệ lại tuôn trào.

Chắp hai tay thầy lạy Đội Cải cách, thầy vái bà con nông dân. Họ đâu có trƣớc

mặt mình nhƣ ở ngoài đấu trƣờng, vậy mà thầy cứ gập đầu xuống ngực mà vái

mà lạy.

Mấy lần ngoài trƣờng đấu thầy còn ngẩng đầu lên, không phải để doạ nạt cao

ngạo với ai; khốn nạn, đã biết mình sa vào cái phận “chim treo trên lửa, cá

nằm dƣới dao” rồi, vậy mà vẫn còn cố cãi!

Không cãi làm sao đƣợc hở con, Lệ Uyên ơi, khi ngƣời ta vu oan giá họa cho mình những tội danh mà chẳng phải mình, thiên hạ có nằm mơ cũng không

Page 151: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 151

tƣởng tƣợng ra nổi. Chỉ nghe thấy thôi, trẻ con nó cũng chẳng tin, ngƣời lớn

tuổi không nhịn đƣợc cƣời. Cái thời chúng ta đang sống đây, Địa ngục Trần

gian ma đƣa quỷ dẫn, nó lạ lắm, rùng rợn lắm, con ơi! Ai muốn sống kẻ ấy phải biết sợ. Sợ rồi, chƣa đủ, còn phải chịu nhục, chịu hèn nữa!

Hai ống chân thầy lở loét vì lâu ngày cọ xát với miệng cùm. Phía sau mông đít

còn khốn khổ hơn, ung nhọt thối rữa, dòi bọ bò lên cả trên ngực, trên cổ…

Mỗi lần trở mình hoặc muốn ngồi dậy thầy cố nghiến răng để khỏi bật lên tiếng kêu rên. Kêu rên để làm gì khi không có ai nghe nỗi đau của mình?

Cũng còn may là họ chƣa đặt que sắt ngáng mồm mình lại. Thầy đâm ra biết

ơn ngƣời nào đó đã bàn ngang, bàn lùi, chƣa thực hiện cái chỉ thị của ông Đội, là phải gang mồm thằng Vỹ… Anh ta cho rằng chƣa thật cần lắm và cũng

chẳng đến nỗi nhƣ vậy đâu!

Đã thế thì thầy còn phải ghi ơn tất cả bọn họ; nhất là ông Đội trƣởng, anh bộ đội Cụ Hồ, đã từng tham gia Cải cách Ruộng đất đợt đầu tiên, ngƣời quê gốc

Nam Đàn, nhƣ lời anh ta nói với các đồng chí ngoài sân kia…

Lần này nếu tai qua nạn khỏi, họ không giết mình, còn để cho mình sống…

thầy sẽ đến trƣớc từng ngƣời, cúi gập xuống dƣới đầu gối họ mà lạy, ghi ơn họ!

Thầy sẽ lạy mỗi ngƣời ba lạy; riêng chú Đông, Hĩm Xoa, Cò Toe, y tá Toành

thì… xin lạy 5 lạy, không, nhiều hơn kia, những 10 lạy! Bởi vì sao? Bởi vì chính bốn vị này đã dắt dẫn Cái Chết đến cho thầy, làm thầy hiểu đƣợc mình

ham sống, quý mạng sống đến chừng nào!

Page 152: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

152 Trần Thế Nhân

Chƣơng 32 TÂM TƢ TRONG TÙ. BỐ VỸ NGHĨ VỀ NHỮNG NGƢỜI CỘNG SẢN MÌNH QUEN BIẾT NGÀY XƢA VÀ BÂY GIỜ

Ở trong phòng giam này, nhiều lúc không phân biệt đƣợc ngày và đêm.

Tiếng chó sủa trong làng ngoài xóm vẳng vào đây chẳng nghĩa lý gì: cái giống

loài ba phải nông nổi ấy có thể gâu gâu sủa bất cứ lúc nào khi thấy có bóng

ngƣời bóng ma…

Thật kỳ lạ. Nó có công với con ngƣời đến thế mà vẫn bị giống ngƣời nguyền

rủa, khinh rẻ. Tiếng mèo kêu rất hiếm khi nghe thấy, một đôi lần trên mái

nhà… Tiếng dế kêu tỉ tê, năn nỉ ngoài hè sân kia, chẳng hiểu sao lại khiến thầy cảm nhận ra màn đêm đang bao phủ trần gian và hình nhƣ còn có cả ánh trăng

đang rọi chiếu. Ôi! Ánh trăng vàng từ thuở ấu thơ, đêm đêm theo ta lớn lên len

vào giấc mơ, nhƣ thuốc mê làm dịu cơn đau ngƣời bệnh khi ta trực đêm canh giấc cho bệnh nhân sau ca mổ ở nhà thƣơng Thanh Hoá!

Và tiếng gà! Tiếng gà vang lên trong xóm. Thầy nôn nao nhớ nhà, nhớ ông bà,

cha mẹ… Nhớ buổi sáng nào thầy đƣợc đánh thức dậy khi sƣơng sớm còn lãng đãng ngoài trời, trƣớc sân; con gà trống đập cánh bên chuồng trâu, gà mẹ dẫn

bầy gà con tục tục ra vƣờn kiếm ăn… Bà nội con đã thức dậy từ canh tƣ.

Ngƣớc nhìn trăng già cuối tháng trên mái bếp, lơ lửng phía đông ngoài biển kia mà cứ tƣởng đâu mảnh trăng liềm đầu tháng ngây thơ tinh nghịch, đồ chơi

của con trẻ bỏ quên đi còn rớt lại chiều tối qua trƣớc sân nhà... Bà nhen bếp lửa

sớm, gói sẵn đùm xôi nếp để con trai mang theo đi đƣờng lên tỉnh học. Bà bảo,

họ Mai nhà ta xƣa, Cố ông đậu tới Thám hoa, ngày nay con gắng chăm học để đậu lấy cái bằng Thành chung, đừng để ngƣời đời chê cƣời, mang tiếng là con cháu

dòng họ Nho gia... Và thầy đã không phụ lòng cha mẹ. Cái năm Mậu Dần 1938,

cả tỉnh Thanh chỉ có ba ngƣời đậu đíp-lôm; thầy là một trong ba ngƣời đó…

Khi chọn nghề, ông nội muốn con mình làm nghề giáo, dạy chữ cho con cái

nhà ngƣời, may còn đƣợc khoẻ nhẹ thân xác… Bà thì lại mong con mình học

nghề y, làm ông đốc tờ chữa bệnh cứu ngƣời. Dạy học và chữa bệnh, hai nghề vốn bẩm sinh, lƣu truyền đã bao đời, phụng sự cho dân ta, nghề nào cũng hiền

lƣơng cứu độ cả. Vậy mà, có ai ngờ đến cái thời buổi trời long đất lở này lại lật

ngƣợc, đánh tráo cả Chân, Thiện, Mỹ: chữa bệnh cứu ngƣời mà lại quy thành đổ bệnh, giết ngƣời!

Làm nghề giáo vậy mà ít nguy hiểm hơn. Thế mới biết ông nội con là ngƣời

nhìn xa thấy rộng!

Page 153: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 153

Thầy lại khóc, lại thƣơng cho thân mình, vợ con mình.

Khóc hết hơi, cạn nƣớc mắt rồi đờ đẫn nhìn quanh phòng giam. Những ngày

đầu mới bị bắt, họ nhốt giam thầy ở cái điếm canh; sau đó, suy tính thế nào họ lại chuyển thầy tới chỗ này. Đây chính là đình làng xƣa, nơi các bậc tiên chỉ

cùng dân làng hội họp, lễ tết… Cái đình này còn tồn tại đến bây giờ đã trở

thành hiếm hoi, bởi khắp nơi xứ Thanh Hoá, từ khi Dân chủ Cộng hoà lên, ngƣời ta đã đập phá cho kỳ bằng hết. Một mái bên đã sạt lở hƣ hại, còn lại cái

phòng xƣa kín nhƣ bƣng của ông Từ giữ đình, coi kho là vẫn y nguyên. Tƣờng

gạch dày chắc, cột lim tròn to đùng, cánh cửa lim còn lớn và nặng bằng mấy cửa nhà ta… Chọn nơi này làm phòng giam nhà tù, mấy ông bà Đội Cải cách

quả là khôn ngoan sáng suốt.

Thầy miên man nghĩ tới những nhà tù của thực dân, đế quốc. Những tên gọi dẫu xa lạ, đã mấy ai trông thấy, mà sao vẫn gần gũi quen thuộc: Hoả Lò, Côn

Đảo, Lao Bảo, Kontum, Sơn La, Ban Mê Thuột, Thừa Phủ, Vinh… Một số

ngƣời quen biết, thân thuộc của mình cũng đã bị tù đày ở những nơi ấy. Cụ

Đinh Chƣơng Dƣơng, cụ Trần Thị Nam, ở nhà tù Hoả Lò. Cụ Đinh Chƣơng Dƣơng, bị Pháp cắt gân chân; cụ Trần Thị Nam có ngƣời con duy nhất là Trần

Nhu, từ Liên Xô về nƣớc cũng bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo và chết ở ngoài

ấy… Cụ Dƣơng mới mất gần đây. Cụ Nam vẫn còn sống. Và năm anh em ruột họ Đào… Anh cả Đào Duy Anh vào nhà lao Thừa Phủ, em trai thứ tƣ Đào

Duy Dếnh ở nhà tù Sơn La… Em trai thứ nhì Đào Duy Phiên, em trai thứ ba

Đào Duy Kỳ và đặc biệt, cô em gái út Đào Thị Đính, cả ba ngƣời này đều bị đày ra Côn Đảo…

Làm sao có thể quên mà không nhắc tới các anh Cao Hữu Duyệt, Trịnh Hữu

Thƣờng, Trần Mai Ninh, Thôi Hữu… Cả bốn đồng chí đều bị Pháp bắt tù, đày Lao Bảo. Anh Duyệt vào Đảng từ đầu năm 1930, làm Bí thƣ chi bộ Đảng Cộng

sản đầu tiên của trƣờng Quốc học Huế. Chƣa học xong đệ tứ niên, mới 19 tuổi,

chỉ vài tháng sau đó bị Pháp bắt, xử án tù 9 năm, đày lên Lao Bảo. Hai anh Trần Mai Ninh, Thôi Hữu là nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Anh Trịnh Hữu

Thƣờng, điềm đạm, sâu sắc, nhân hậu… Ôi! Những con ngƣời quý giá vô

ngần! Đã đƣợc gặp các anh rồi thì suốt đời không thể nào quên!

Nghe những đồng chí này kể thì thực dân Pháp nhốt giam họ trong xà lim,

chuồng sắt, dƣới hầm sâu lòng đất; vậy mà gặp cơ may, đƣợc tổ chức, có ngƣời

vẫn vƣợt ngục thành công. Trở về giữa lòng dân, đƣợc dân giấu kín trong

buồng, che chở dƣới hầm sâu bí mật, thì cứ việc an tâm mà hoạt động cách mạng, say sƣa lạc quan chiến đấu cho lý tƣởng Cộng sản. Đế quốc phong kiến

nào muốn truy lùng bắt giam họ lại cũng không phải dễ! Trƣờng hợp anh

Huỳnh Ngọc Huệ là một minh chứng cụ thể. Vƣợt ngục Daklay ở Kontum

Page 154: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

154 Trần Thế Nhân

xong, trở về sống với đồng bào Thƣợng, không chỉ đƣợc bà con nuôi sống, họ

còn giúp anh tìm đƣờng ra tới Thanh Hoá. Ở Thanh Hoá, thuận lợi hơn, tình cờ

và may sao, anh lại đƣợc bác Cao Hữu Lẫm, anh ruột Cao Hữu Duyệt, cƣu mang cất giấu trong nhà. Huệ với Duyệt là đồng chí, biết quen nhau từ hồi Huệ

còn học trƣờng Kỹ nghệ thực hành, còn gọi là trƣờng Bách Công ở Huế. Còn

thầy và bác Lẫm là đồng nghiệp, cùng là thầy thuốc ở nhà thƣơng Thanh Hoá.

Tại nhà bác Lẫm, trong thành Thanh Hoá, thầy đã đƣợc gặp các anh Cao Hữu Duyệt, Cao Hữu Hiến, Huỳnh Ngọc Huệ, Phạm Triều, Trần Mai Ninh, Thôi

Hữu… Cái tình của họ mình đã thấy và tiếp nhận. Cái lòng của họ mình đã

cuốn hút theo từ những tháng năm ấy…

Phải kể cho con biết thêm về ngƣời vợ hiền của bác Lẫm – Nguyễn Thị Chinh,

ngƣời đàn bà xứ Huế nhân đạo, thâm trầm, kín đáo, có lẽ không biết gì mấy về

chủ nghĩa Cộng sản, thầy e chừng vậy, mà vẫn coi những đồng chí của em trai chồng mình nhƣ ngƣời thân yêu ruột thịt, nuôi giấu họ trong nhà… Giữa thời

buổi đen tối hiểm nghèo ấy mà có những ngƣời tự nhiên dám sống nhƣ thế thật

sự là những ngƣời can đảm!

Còn bây giờ… cái ngƣời khi không trở thành có tội với dân, kẻ thù của Đảng

nhƣ Mai Duy Vỹ đây, thì đành chịu cứng, chỉ còn biết nằm yên chờ… ngày Đội

tới dẫn đi cho ăn “viên kẹo đồng”!

Mà đâu phải chỉ riêng thầy, bác Trần Vĩnh Quyền, Chủ tịch xã bị bắt nhốt giam

bên Nga Phú kia, cách mấy cây số đƣờng chim bay chắc cũng đang nghĩ nhƣ

thầy: Đây mới chính là Địa ngục Trần gian, nơi cùng trời cuối đất, chỉ còn mỗi con đƣờng đi qua thế giới Bên Ấy…

Mấy ngày trƣớc khi bị bắt, chẳng biết nguồn tin nào từ đâu ra đến tai thầy.

Bác Nguyễn Xuân Thuý, Thƣờng vụ Tỉnh uỷ, cựu tù Côn Đảo những năm 30,

bây giờ cũng trở thành một tên phản động đội lốt Cách mạng, vừa mới bị bắt,

đã vào… tù!

Anh Đỗ Vân, bác sĩ, Trƣởng ty Y tế Thanh Hoá, cựu sinh viên Đại học Y khoa

Hà Nội, một thầy thuốc mà cả về nhân cách lẫn tài năng, bố Vỹ của con rất mến

phục. Đỗ Vân là em ruột của Đỗ Thị Xuyến, dƣợc sĩ hạng nhất Đông Dƣơng; bà Xuyến là vợ của luật sƣ Phan Anh, bộ trƣởng…

Đỗ Vân bị kết tội giết ngƣời hàng loạt bằng thuốc độc và dao kéo, cũng đã bị

bắt trói, đƣa vào… tù!

Anh Đặng Ngọc Khôi, bác sĩ trẻ lớp sau thầy, nổi tiếng vì bàn tay phẫu thuật

tài hoa, cũng bị kết tội cƣa chân, chặt tay hàng loạt các chiến sĩ ngoài mặt trận

Page 155: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 155

và là thủ phạm của mấy vụ giết hại các đồng chí lãnh đạo cao cấp đầy mờ ám

hiểm độc.

Khôi là con bác Đặng Ngọc Thọ, y tá giỏi thời Pháp, đã từng làm ở nhà thƣơng Thanh Hoá, tính tình nhanh nhẹn bộc trực. Năm khởi nghĩa 1945, nghe nói bác

Thọ bị Việt Minh ta giết vì tội danh làm… Việt gian!

Khôi cũng vừa bị tóm bắt vào tù cùng một đợt với Đỗ Vân.

Chƣa hết! Cao Hữu Hiến, Trƣởng ty Lao động Thanh Hoá vừa mới bị bắt giam

mấy ngày sau khi Nguyễn Xuân Thuỳ vô tù. Chú Hiến ít hơn thầy một tuổi nhƣng vào Đảng sớm hơn, từ những năm đầu 40. Bạn học cùng trƣờng Bách

Công ở Huế với Huỳnh Ngọc Huệ, em út của bác Cao Hữu Lẫm và bác Cao

Hữu Duyệt… Chú Hiến đã hăng hái tham gia cuộc biểu tình đón Gô-đa thời Mặt

trận Bình Dân, có lần ngang nhiên lên Bến Ngự thăm cụ Phan Bội Châu giữa ban ngày ban mặt, chẳng thèm để ý gì tới bọn chó săn mật thám của Pháp rình

rập quanh đó!

Chàng trai sôi nổi gan góc họ Cao này đã từng đảm trách cƣơng vị quan trọng

của Ty Liêm phóng trong những ngày đầu Cách mạng tháng Tám, truy đuổi

lùng bắt bọn phản động chống phá nền Dân chủ Cộng hoà non trẻ, tên tuổi

đƣợc nhắc đến nhƣ một huyền thoại trinh thám…

Ngƣời Cộng sản trung thành cuồng nhiệt với lý tƣởng Cộng sản đã từng chịu

những đòn roi tra tấn trong lao Thừa Phủ, ngục Kontum thời Pháp thuộc, bây

giờ… đƣợc tính công trả ơn bằng những ngón đòn thẩm vấn quái lạ, những hình phạt khổ nhục học theo Tàu còn man rợ ngàn lần hơn thực dân Pháp…

Cải cách Ruộng đất, Chỉnh đốn Tổ chức long trời lở đất đã quy chụp cho đồng

chí này một tội danh mới chƣa từng có trong lịch sử nhân loại, chẳng mảy may gì liên quan đến luật pháp của thế giới – Chống Đảng và phá hoại Cách mạng!

Đột nhiên, hình ảnh các đồng chí Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong,

Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ… hiện lên.

Hồi Cách mạng tháng Tám, tại Phòng Thông tin Thanh Hoá thầy đƣợc thấy

hình ảnh của những ngƣời này. Những tấm ảnh của bọn Pháp ghi lại chân

dung họ trong tù gây cho thầy một niềm kính trọng thiêng liêng. Đôi khi thầy vẫn cố tƣởng tƣợng hình dung ra những khuôn mặt đẹp cao quý của họ mà

lòng ngập tràn vui sƣớng, tự hào. Mình với họ đều là đồng chí. Thầy tự nhủ.

Đến với Đảng Cộng sản khi đất nƣớc còn tối tăm nô lệ, họ là những “nhà cách mạng” đúng theo nghĩa của ba từ này, còn mình đến với Đảng khi nƣớc nhà đã

độc lập, tự do, mình chỉ là “ngƣời đi theo Cách mạng”. Bởi vậy mình sẽ không

tiếc sức, tiếc của, hiến dâng tất cả đời mình cho Cách mạng để xứng đáng với họ, xứng dáng với danh nghĩa “đồng chí”… Cái lòng thầy là nhƣ thế đó, con ơi!

Page 156: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

156 Trần Thế Nhân

Chƣơng 33 CHUYỆN MỔ XẺ THỜI CHIẾN TRANH CHỐNG PHÁP. NHỮNG CA MỔ RUỘT THỪA ĐẦU TIÊN CỦA BỐ VỸ, NGƢỜI THẦY THUỐC TÀI HOA ƢU TÚ

Có một lần mẹ của con dằn dỗi về chuyện lâu nay chồng mình bỏ bê con cái,

phó mặc việc nhà cho bà ấy.

“Ông đâu có thƣơng vợ con, mẹ nói, ông chỉ xót cho vợ con nhà ngƣời thôi;

việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng… Bệnh viện mới là nhà của ông, nhà mẹ con tôi chỉ là cái quán trọ để ông ghé về ăn cơm… Có hôm vợ con chờ suốt

cả ruột, cơm thì nguội lạnh, thịt cá thiu thối, ông cũng không chịu về ăn, ông

còn xách túi đi khám bệnh chích thuốc cho ngƣời ta, ông còn mắc họp. Thiên hạ đau, đồng chí đau thì ông thƣơng xót lắm; còn vợ con ở nhà đau thì ông bảo

không can chi, uống ít viên thuốc, chỉ vài hôm thôi là khỏi… Tôi xem ra cái

phúc nhà này lớn lắm đấy!”

Mẹ nói rồi khóc lóc. Thầy muốn điên lên. Thầy nghiến răng đấm ngực la:

“Trời ơi, bà muốn cho tôi sống hay là giết tôi đi! Con bệnh đang cơn đau, tôi

không khám chữa chích thuốc, bỏ mặc đó để ngƣời ta chết à? Cuộc họp có mặt

các đồng chí đông đủ cả, không lẽ thiếu vắng mình tôi sao? Bà có đi họp thay cho tôi đƣợc không?”

Mẹ gào lên: “Họp sống họp chết, họp cái chó gì họp lắm thế? Sao lâu lâu

không bớt đi vài cuộc họp ở nhà cho vợ con nhờ?”

Thật quá thể! Quá thể! Có ai đời vợ mình lại ngoa ngoắt, tục tằn xúc phạm

chồng đến thế, lại còn to gan động chạm tới đoàn thể, chính trị nữa. Thầy mới

vung tay tát cho bà ấy một cái. Cái tát mạnh đến nỗi mẹ ngã ngửa, đầu đập vào

cây cột, ngất xỉu dƣới nền nhà…

Từ dạo lấy nhau tới giờ, đây là lần đầu tiên vợ chồng cãi cọ to tiếng. Cũng là

lần đầu tiên trong đời thầy đánh ngƣời, mà đánh ai, đánh vợ mình! Ôi khốn

khổ, khốn nạn!

Thầy đùng đùng bỏ nhà, ra ngoài đƣờng đi một mình giữa ơn giông. Gió quất

liên tiếp những roi mƣa vào mặt; nƣớc mắt trời tuôn hay lệ ai đang xối xả ƣớt

đầm hai hốc mắt, gò má hõm hóp lâu ngày thiếu ngủ? Đứng lại giữa đƣờng, đƣa hai tay vuốt, thầy mới sực nhớ ra là mình đã quên tấm ni lông che mƣa ở

nhà.

Page 157: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 157

Cũng may, lại đúng lúc bệnh viện cho ngƣời tới nhà tìm thầy lên mổ ca cấp

cứu cho một bệnh nhân chẩn đoán đau ruột thừa. Thầy gặp anh lao công. Cả

hai che chung tấm ni lông lên đầu cùng vội vã đi.

Ca mổ trầy trật cả tiếng đồng hồ. Mổ xong, thầy nằm vật ra giƣờng ngủ thiếp

đi nhƣ vừa bị đánh thuốc mê…

Hồi ấy, những năm 48-50… khái niệm mổ xẻ kinh hoàng rùng rợn lắm, con ơi!

Ngƣời ta chỉ dám nghĩ tới chuyện cắt cục amiđan trong họng. Tuy nhiên, vẫn

có trƣờng hợp không cầm đƣợc máu, bệnh nhân đành phải chịu chết. Thuốc men quý hiếm, công cụ y tế thô sơ, kỹ thuật mổ xẻ còn yếu kém lắm. Bệnh

viện không có điện, không có máy phát điện. Tại bệnh viên “Cổ Định” – Nông

Cống, để soi khám hai cục amiđan trong họng, ngƣời ta phải dùng tới ánh đèn xe đạp. Thầy kể cho con nghe nhé. Một y tá cầm pêđan xe đạp quay mạnh để

bình điện cọ vào lốp xe làm cho đèn xe bật sáng… Đèn xe đƣợc đặt trƣớc mặt

bệnh nhân; bệnh nhân há mồm to ra để bác sĩ ngồi phía sau đèn nhìn vào…

khám xét hai tên lính gác thực quản và phế quản. Giáo sƣ bác sĩ Trần Hữu Tƣớc từ Pháp về cùng với những ngƣời học trò ƣu tú của ông, các bác sĩ, đều

làm việc trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn nhƣ vậy.

Cƣa cắt tay chân thƣơng binh, ngƣời bị tai nạn chiến tranh là điều ngƣời ta có thể hiểu và chấp nhận. Còn chuyện lên bàn mổ nằm để bác sĩ cầm dao rạch

bụng… ít ai dám nghĩ tới, cầm bằng cái chết chắc chắn chín mƣơi phần trăm,

coi nhƣ là… định mệnh!

Nhiều ngƣời lên cơn đau ruột thừa không có ai khám và mổ cho đành phải ôm

bụng chờ chết. Vũ Hồng Côn, học sinh trƣờng Cấp 3 Lam Sơn, cậu con trai dễ

thƣơng thông minh của nhà văn Vũ Ngọc Phan và nhà thơ Hằng Phƣơng đã

chết vì căn bệnh ruột thừa; một bằng chứng đau thƣơng của y tế nƣớc ta thời chiến tranh chống Pháp!…

Thuở nhỏ, thầy rất sợ máu. Những ngày giỗ tết, không dám cầm dao cắt tiết,

mổ bụng gà vịt, cứ phải để cho anh Nuôi và chú Đông làm công việc khủng khiếp đó. Khi học ở trƣờng Y khoa Hà Nội thầy cũng chỉ đƣợc đôi lần đứng

phụ mổ đƣa bông băng dao kéo cho bác sĩ ngƣời Pháp.

Cuối năm 1946, toàn quốc kháng chiến, thầy phải ra mặt trận để phục vụ các

chiến sĩ Vệ Quốc quân. Cái cảnh thƣơng binh ùn ùn khiêng chở từ mặt trận về nằm la liệt ở Quân y viện thật không tài nào kể xiết. Máu chảy chan hoà nƣớc

mắt… Không cƣa chân, không cắt tay làm sao đƣợc! Cƣa cắt may ra anh em

Page 158: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

158 Trần Thế Nhân

họ còn sống! Mà đâu chỉ chân tay, đầu cổ, lƣng ngực… Tất cả những bộ phận

sinh ra để cho con ngƣời ta sống, chiến tranh đều dùng tới Cái Chết để huỷ hoại,

tàn sát! Nhìn thấy ruột gan trong bụng thƣơng binh lòng thòng xổ ra, dù có rùng mình kinh hãi, cũng phải mau mau bắt tay vào cắt hớt, may khâu lại…

Phải làm tất cả để dành lại Cái Sống cho đồng chí, đồng bào!

Những lần đầu thầy cũng run tay, đêm tới chợp ngủ chỉ mơ thấy toàn máu… là

máu.

Vậy rồi mà, chỉ mấy tuần trôi qua là bắt đầu quen với máu, nói cho đúng hơn,

là thuận tay, lên tay mổ xẻ. Tất cả chỉ vì tấm lòng thôi, con ơi!

Thầy thƣơng các đồng chí, chiến sĩ, một tình thƣơng chƣa từng bao giờ thấy, ngay cả đối với vợ con gia đình… Tổ quốc và Cách mạng đã sinh ra Mai Duy

Vỹ một lần thứ hai và hun đúc tình thƣơng ấy trong con ngƣời thầy thuốc! Phải

cứu những anh em đồng chí khỏi cái chết, giành lại mạng sống, đƣa họ về với gia đình vợ con!

Những ánh mắt, lời nói tỏ lòng biết ơn khâm phục của thƣơng bệnh binh và các

bạn đồng sự trong Quân y viện đã giúp thầy quên bao mệt nhọc, thức thâu đêm

suốt sáng cầm con dao mổ…

Quân y viện trƣởng Trần Thế Đức, bác sĩ tốt nghiệp đại học Y khoa Hà Nội…

lớn hơn thầy cả tuổi đời, tuổi nghề, học rộng biết nhiều, bác sĩ Đức già dặn về

bệnh lý nhƣng không hiểu sao lại non tay về phẫu thuật? Về quan hệ nghề nghiệp thầy là cấp dƣới, là học trò của ông ấy. Từ chỗ dè dặt trong cách cƣ xử,

dần dà Đức mến thƣơng thầy nhƣ ngƣời thân ruột rà… Sau này, trong một lần

giao tiếp, bác sĩ nói: “Anh Vỹ, anh có qua lớp phẫu thuật với một giáo sƣ nào không? Có biết bác sĩ Lơ-roa-Đề-ba ở Hà Nội không?” Thầy lắc đầu cƣời nhũn

nhặn. Thế thì lạ thật đấy. Đức tần ngần nhìn thầy. “Anh đƣa bàn tay tôi xem…

Đúng là có hoa tay, tiếc cho anh chƣa đƣợc học lên”…

Ca mổ ruột thừa appendicite đầu tiên, thứ nhất trong đời thầy không phải dành cho ai khác mà chính là Trần Thế Đức. Thật kỳ lạ. Nhớ lại ngày hôm ấy…

Đức lên cơn đau bụng sau buổi ăn trƣa, quằn quại tới chiều và tự chẩn đoán

mình đau ruột thừa. Dạo ấy thầy chỉ quen cƣa tay chân, chƣa một lần mổ bụng ai và cũng chỉ mƣờng tƣợng… về cái ruột thừa. Thời Pháp, chỉ có các bác sĩ mới

đƣợc cầm dao mổ. Một y sĩ nhƣ thầy làm sao dám đụng tới! Quân y viện trƣởng

động viên thầy: Anh Vỹ, mạnh dạn lên, không sao đâu! Anh không mổ thì tôi

cũng chết. Mổ đi! Tôi tin anh làm đƣợc. Tôi chịu trách nhiệm. Đức lại còn khôi hài: Thì cũng nhƣ mổ gà, cắt cái khúc ruột ấy bỏ đi, thế thôi… Anh đã mổ gà

nhiều lần chƣa? Thầy thú thực rằng chƣa, hồi nhỏ rất sợ cắt tiết, mổ lòng gà

vịt…

Page 159: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 159

Ca mổ đƣợc tiến hành vào 8 giờ tối.

Số phận dành cho đời thầy những món quà tặng về ban đêm. Ban đêm khi đầu

óc con ngƣời ta phần nhiều mệt mỏi, lầm lẫn thì đầu óc thầy chẳng hiểu sao lại thông suốt, bàn tay lại khéo léo chuẩn xác lạ lùng. Dƣới ánh sáng của ba chiếc

đèn pin tụ lại, thầy cầm dao rạch phía bên phải bụng bác sĩ Đức và… thật kỳ lạ,

cái ý nghĩ ruột ngƣời ta cũng giống nhƣ ruột gà làm cho thầy tỉnh táo, chẳng

mấy chốc tìm ra ngay cái ruột thừa ẩn núp, bám đeo vào…

Trông nó nhƣ một tên tội phạm lẫn trốn, bị truy tìm ra rồi mà vẫn cho rằng

mình vô tội. Tôi cũng là một bộ phận của con ngƣời, làm ra con ngƣời. Tạo

Hoá chẳng đã cùng sinh ra một lần cho con ngƣời hay sao? Vậy mà các ngƣời chƣa hiểu đầy đủ về tôi!

Có tiếng nói nào bên trong vang lên… Bàn tay ai sinh ra lỡ nhƣ có 6 ngón, sao

các ngƣời không cắt ngón thứ 6 đó đi! (Thật bất công và vô lý!).

Nhƣng ruột thừa ơi, mày đã làm mủ rồi và đang gây ra cái chết chắc chắn cho

con ngƣời. Hiểu chƣa? Còn ngón tay thứ 6 kia, nó xấu xí và vô ích thật đấy,

nhƣng nó lại không gây ra hiểm họa nhƣ mày; dẫu rằng nó cứ phô ra trƣớc mặt

mọi ngƣời chẳng cần che giấu thì… chúng ta cứ để yên cho nó tồn tại!

Đời là vậy! Còn biết bao nhiêu cái thứ 6 quái gở, cấn cái, vƣớng víu cho con

ngƣời, e rằng có khi con ngƣời chết rồi đã chắc gì nó sẽ chết theo?

Thầy cắt cái ruột thừa đó quả quyết và nhanh gọn còn dễ hơn ngƣời ta hái đi một quả thối trên cây.

Chiều hôm sau, khi đã tỉnh táo hẳn, bác sĩ Đức nói với thầy: Tôi nói có sai

đâu. Anh cắt ruột thừa còn dễ hơn mổ bụng gà. Đôi mắt hiền hậu thâm trầm sáng lên, bàn tay ông ấy đặt lên bàn tay thầy. Anh đúng là một thầy thuốc bẩm

sinh, trời phú… anh Vỹ ạ. Sau này kháng chiến thành công, còn sống trở về

Hà Nội, tôi sẽ kể cho vợ con nghe. Chúng nó sẽ ghi nhớ, đền ơn anh…

Bác sĩ Đức có hoàn cảnh hơi éo le. Cô vợ trẻ đẹp của ông nghe nói là con một gia đình giàu có ở Hà Nội. Gia đình theo bác sĩ chạy giặc, tản cƣ vào tới Thanh

Hoá. Đời sống ở hậu phƣơng, vùng tự do lúc ấy gian khổ không sao chịu đựng

nổi đã khiến họ phải quay trở lại Hà Nội “dinh tê” vào Thành. Cuộc chia tay diễn ra… Bác sĩ Đức một lòng đi theo Quân đội, ở lại với Cụ Hồ. Chắc ông ấy

buồn khổ lắm.

“Chiến tranh là chiến tranh”. Bác sĩ nói với thầy bằng tiếng Pháp. “Con ngƣời

chẳng phải là ma quỷ, cũng chẳng phải thánh thần. Anh Vỹ ạ, khi giết ngƣời, có ai nghĩ mạng ngƣời là thần thánh đâu. Giết là giết! Thế thôi!

Page 160: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

160 Trần Thế Nhân

Ngƣời thầy thuốc giàu tình cảm thôi chƣa đủ, anh ta còn phải mạnh mẽ về lý

trí. Bởi thế, đôi khi rất khó chữa bệnh cho bản thân và ngƣời nhà; ấy là chƣa

nói tới cầm dao mổ cƣa cắt, phẫu thuật chính vợ con mình… thƣờng những lúc ấy anh ta phải nhờ ngƣời khác làm hộ. Bọn mình ở chiến trƣờng lại càng phải

đòi hỏi cao. Chỉ thƣơng cảm xúc động anh em thƣơng binh thôi mà thiếu tỉnh

táo, thậm chí đôi khi còn phải lạnh lùng nữa, chứ không thì công việc hỏng

hết!”

“Chiến tranh là chiến tranh”. Bác sĩ Đức nhắc lại câu tiếng Pháp với nụ cƣời

buồn bã.

Ông ấy là một con ngƣời hoàn thiện hơn thầy nhiều do có đƣợc đức tính điềm tĩnh đôi khi đến lạnh lùng đó.

Có lần, thấy thầy khóc bên giƣờng một anh chiến sĩ đã chết vì vết thƣơng quá

nặng ở ngực, máu chảy cạn kiệt… bác sĩ yên lặng đứng một lúc lâu rồi nhẹ nhàng đặt tay lên vai thầy. “Đồng chí Vỹ”. Bác sĩ nói. Hai tiếng “đồng chí” làm

thầy nhớ lại, cả hai ngƣời, thầy và ông ấy cùng đƣợc kết nạp Đảng vào dịp

cuối năm 1948, lúc mọi ngƣời đang chuẩn bị ăn Tết Xuân Kỷ Sửu. “Đồng chí

Vỹ! Bình tĩnh nào. Chúng ta còn nhiều việc phải làm.” Rút tay ra khỏi vai, thầy còn nghe tiếng thở dài sâu kín của bác sĩ.

Thầy có một ngƣời bạn đồng nghiệp, ngƣời anh đáng quý đến nhƣ thế.

Tiếng vang về những ca mổ ruột thừa của thầy lan truyền đi khắp các đơn vị, khắp tỉnh Thanh. Có ngƣời gọi thầy là Hoa Đà tái thế, là Tôn Thất Tùng của

Thanh Hoá.

Bác sĩ Viện trƣởng cũng vui lây cái vui của mọi ngƣời. Ông ấy cũng cầm dao mổ, bởi vì không mổ cũng không đƣợc, con số thƣơng binh mỗi ngày một

nhiều.

Một lần xong ca mổ, rửa tay xà phòng, Đức gật đầu cƣời nói: “Có anh Vỹ

đứng bên, tôi mới thực sự yên tâm cầm dao đấy, các đồng chí ạ. Chúng tôi là cặp anh em song sinh mà!”

Cả phòng mổ, anh chị em y tá cƣời theo. Ôi! Những giây phút đầm ấm tình

ngƣời, tình đồng chí… làm thầy quên đi tất cả nỗi mệt nhọc lo lắng trên đời. Những giây phút sáng tƣơi, hạnh phúc.

Page 161: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 161

Chƣơng 34 CA MỔ RUỘT THỪA CHO JACQUES, HÀNG BINH PHÁP. PHÚC HỌA KHÔN LƢỜNG

Có một lần, lần này khá đặc biệt; ấy là ca mổ ruột thừa cho một hàng binh Pháp tên là Jacques, con một nông dân nghèo ở Provence. Ông nội bị bọn Đức giết

hồi chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Jacques chỉ mong sao chiến tranh Việt

Nam mau kết thúc để trở về quê hƣơng. Giữa năm 1948, Jacques bỏ quân đội Pháp, chạy sang hàng ngũ ta, đƣợc đƣa từ Hoà Bình về… Jacques không muốn

cầm súng nữa, và thể theo nguyện vọng của anh hàng binh Pháp, Chính uỷ

Trung đoàn sắp xếp cho anh ta đƣợc làm “y tá” ngay trong đơn vị của thầy. Y

tá là nói cho vui, cho ra vẻ, cũng nhƣ Toành, khiêng cáng, băng bó là chủ yếu. Và Jacques đã làm việc hết lòng, không tiếc sức…

Chẳng biết Quỷ xui Trời khiến thế nào, ca mổ cho Jacques cũng là… ruột

thừa!

Bƣớc vào phòng mổ bác sĩ Đức nhún vai, cƣời nói: “Anh Vỹ, ca mổ này chúng

ta phải hoàn thành thật tốt, không chỉ để cho nhân dân Pháp thấy rằng, dù cuộc

chiến tranh đẫm máu do chính họ gây ra trên đất nƣớc ta, chúng ta vẫn không

đánh mất đi tình cảm con ngƣời, tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Mà còn hơn thế, để cho nƣớc Pháp của Louis Pasteur, Alexandre Yersin hiểu rằng, những

công lao và tri thức của các thầy thuốc Pháp ở trƣờng Y khoa Hà Nội không

phải là uổng phí”.

Sau ca mổ, đƣợc cứu sống, cái tình cảm của Jacques đối với những ngƣời anh

em Việt Nam quả là không kể xiết. Hai lần thoát chết, cái ơn nặng trên đầu,

trên vai anh hàng binh Pháp khiến chàng ta nhiều khi không kiềm chế đƣợc xúc động. Thấy thầy ở đâu, Jacques cũng muốn dừng lại để… nói chuyện!

Trong đơn vị bộ đội chỉ có bác sĩ Đức và thầy là nói chuyện đƣợc với Jacques

bằng tiếng Pháp.

Y tá Toành nhiều lần bắt gặp Jacques và thầy chuyện trò. Mặc dù chẳng biết lấy một chữ Tây, Toành đôi lúc vẫn cố tình kéo ghế ngồi sát bên hóng chuyện,

theo dõi…

Đó là chứng cớ Trời cho, Đội khiến để sau này Toành tố giác thầy trên đấu trƣờng:

“Vỹ! Chính mi đã nhiều nần âm mƣu thông đồng với Pháp!

Page 162: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

162 Trần Thế Nhân

Ngày xƣa Pháp dạy mi lói tiếng Tây để mi giao dịch với chúng ló, rồi nại còn

dạy mi cầm dao mổ để rạch bụng, giết hại chiến sĩ đồng bào ta! Có đúng

không?

Chính mi đã nhiều nần lói chuyện với thằng Tây Giắc. Mi lói gì hồi ấy mi

tƣởng tao không biết hả? Thƣa bà con lông dân, thằng Vỹ với thằng Tây Giắc,

hai đứa cùng giơ cao tay nên trời nhƣ thế lày lày, xong rồi nại còn cúi đầu

chọc chọc hai ngón tay xuống đất. Rồi cƣời hà hà! Cƣời cái gì? Cƣời cái mả cha chúng bay hả? Chúng ló nại “ùm ùm oàng oàng” ra hiệu thông đồng với

nhau, báo cáo mật cho Tây ló biết, để Tây ló đƣa máy bay đến bỏ bom vào đơn

vị quân đội chúng ta đấy bà con lông dân ạ. Bà con có biết không? Thế lày chứ… Có nần thấy tôi đến bên thế nà hai đứa im bặt, nấm nét đƣa mắt nhìn

nhau. Tôi mới nghĩ... Chúng mày giấu nàm sao lổi tao, có mà ông đi guốc vào

trong bụng chúng mày! Tao biết hết!

Thƣa bà con lông dân, quân Chủ nực của Cách mạng! Thằng Vỹ ló cấu kết với

đế quốc Pháp để giết hại bà con nhƣ thế đấy bà con ạ!”

“Đả đảo! Đả đảo!”

Tiếng đả đảo vang lên, trời long đất lở khắp cả đấu trƣờng.

Thầy ngẩng đầu lên nhìn Toành, mặc dù lệnh của ông Đội trƣởng và yêu cầu của

Quân Chủ lực Nông dân là “tên Vỹ phải cúi đầu xuống”.

Thầy nhìn Toành bằng ánh mắt ngạc nhiên hơn là căm thù. Có thể cái hôm ấy lúc kéo ghế ngồi bên cạnh Vỹ và Jacques, Toành đã tin một cách thành thật và

ngây thơ nhƣ thế chăng? Ừ có thể lắm. Ôi trời cao đất dày! Địa ngục Trần gian

này thật đen tối man rợ khôn cùng!

Toành cúi đầu xuống, tránh cái nhìn của thầy. Hình nhƣ anh ta nhận ra chẳng

phải riêng thầy mà chính mình nữa, đều là những con ngƣời. Còn con quỷ vừa

sinh ra, mới trỗi dậy trong ngƣời Toành, thì chính anh ta cũng không biết nó ở

đâu ra, từ đâu tới? Và Toành luống cuống…

Nhƣng rồi nghĩ cho cùng thì Toành cũng chỉ là loại ký sinh trùng ăn theo bé li

ti, đã thấm tháp nhầm nhò gì so với bọn khổng trùng ký sinh khủng khiếp cỡ Lê

Xuân Tái, ngƣời cầm đầu công cuộc Cải cách Ruộng đất trời long đất lở của cả Thanh Hoá quê ta!

Tái quê đâu ở Thiệu Hoá, nguyên là anh cấp dƣỡng bếp núc cho mấy ông Tỉnh

uỷ, mới qua khỏi nạn mù chữ, đƣợc Đội bồi dƣỡng kết nạp Đảng, bỗng nhiên

vụt dậy nhƣ một hung thần, giƣơng cao liềm búa của hai Bác Xít-Mao, giáng Cái Chết xuống đầu các bậc tiền bối Cách mạng, vô hiệu hoá loại trừ tất cả các

Page 163: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 163

cựu đảng viên Cộng sản ra khỏi hàng ngũ đồng chí, xua đuổi tống cổ sang

hàng ngũ bè lũ quân phản động chống Đảng, phá hoại Cách mạng!

Tái trở thành Thần Chết, nỗi lo sợ khủng khiếp của toàn thể cán bộ đảng viên tỉnh Thanh Hoá.

Mọi cử động hành vi của hắn: lắc đầu, gật đầu, xua tay, mím môi, nhăn mặt,

hắt hơi, cƣời khì, trợn mắt… và nhất là chữ ký ngoằn ngoèo, vòng lên hay

quặp xuống nhƣ con sâu, con ốc… đều có ảnh hƣởng quyết định tới số phận sống chết con ngƣời.

Ấy là chƣa kể tới những tên đồ tể lừng danh mà Trời nghe Trời cũng giật mình:

Đặng Thí trong Liên Khu Tƣ, Hồ Viết Thắng ngoài Trung ƣơng… Mấy anh này có thể ngủ gật, vừa chơi cờ tú lơ khơ mà… ký duyệt án tử hình cả mấy cái

cùng một lúc!

Vậy thì để bụng, trách cứ làm chi cái thứ y tá Toành này!

“Đả đảo! Đả đảo! Có khổ nói khổ nông dân vùng lên! Vùng lên!”

Chẳng có ai đứng lên bảo vệ cho Mai Duy Vỹ cả.

Jacques đã hồi hƣơng về Pháp sau Hiệp định Genève.

Bác sĩ Đức về lại Hà Nội thủ đô. Trong một bức thƣ gửi tay thầy nhận đƣợc ông ấy báo tin mừng mình đã về kịp, đúng lúc vợ con “đang bị địch cƣỡng ép”

xuống Hải Phòng, di cƣ vào Nam. Vợ chồng tái hợp. Hạnh phúc, sung

sƣớng…

“Nhà tôi gửi lời kính thăm anh. Cháu Hà, con gái tôi, nhắn mời chú Vỹ ra chơi.

– Bác sĩ viết – Chúng nó dành riêng một phòng trên gác 3 để chú Vỹ nằm và

nghỉ ngơi. Ở phố Hàng Bông này dẫu có lúc ồn vì ngƣời xe qua lại, nhƣng phòng nghỉ khuất vào phía sau, trên cao, rất yên tĩnh… Nga Sơn – Hà Nội

cách nhau chẳng bao xa. Vỹ ra chơi, Vỹ nhé! Chúng tôi chờ!…”

“Đả đảo! Đả đảo!”

Quanh mình thầy chỉ thấy những nắm đấm, gậy gộc, dây thừng, giáo mác, súng trƣờng giơ lên. Bầu trời đầy mây, sũng nƣớc. Trời sắp mƣa. Từng tia

chớp rạch da trời, bật loé những vệt máu. Sự thật – Chân lý cũng chỉ loé lên rồi

tắt.

“Đả đảo! Đả đảo!”

“Muôn năm! Mu…uôn… Nă…ăm!”

Page 164: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

164 Trần Thế Nhân

Chƣơng 35 THỊ KÍNH VÀ CÁI RÂU MỌC NGƢỢC. MAI DUY VỸ VỚI CÁI RUỘT THỪA

Thầy trở mình, nghĩ miên man. Trần gian này sao nhiều cái “Thừa” thế nhỉ?

Nhớ chuyện bà nội con kể… Ngày xƣa Thị Kính vì quá yêu chồng, thấy chồng

có cái râu mọc ngƣợc trên cằm, cầm dao bổ cau đƣa lên định cắt cái râu mọc

vô tổ chức, thiếu ý thức kỷ luật đó, thì ông chồng đang ngủ gà ngủ gật tự nhiên giật mình mở mắt ra. Hắn ta la toáng lên. Rồi cả nhà hô hoán. Thế là Thị Kính

chịu cái oan tày trời: Giết chồng! Con dao cau đây! Tang chứng rành rành đây!

Hồi ấy thầy mới lên 8 tuổi. “Tại sao cô Kính không lấy cái nhíp nhổ râu cho

chồng nhƣ thầy vẫn nhổ râu, hở mẹ?” Câu hỏi ngây thơ của bố Vỹ lúc ấy không chỉ làm cho bà và ông nội con cũng phì cƣời. “Thời xƣa ấy làm gì có

nhíp. Ngƣời lớn thƣờng nhổ râu bằng cách cấu hai đầu móng tay vào chân râu

rồi giật… Các bà nhà quê đôi khi lại lấy hai hạt thóc nhám kẹp lại nhổ tóc sâu tóc bạc cho nhau. Cái kẹp, cái nhíp nhổ râu… ờ hình nhƣ từ lúc thằng Tây nó

sang đô hộ ta mới có…”

Sau này, có lần cầm tới cái pince kẹp bông băng, gắp kim tiêm, động tay tới con

dao mổ… thầy lại bâng khuâng nhớ tới Thị Kính. Ả ta đúng là một ngƣời thật thà, vụng dại, có thể nói là ngu nữa mới chuốc lấy cái oan tày trời đó.

Mình đâu có ngu dại nhƣ Thị Kính? Cái râu mọc ngƣợc thì kệ mẹ nó, đụng đến

làm gì. Cũng nhƣ cái ruột thừa, nó đang bình thƣờng tự nhiên thì cứ để nó yên vị, khi nào nó sƣng thối mới rạch bụng ngƣời mà cắt bỏ đi chứ!

“Nhƣng mà… bố Vỹ ơi! Có ai đây vừa lên tiếng cãi lại… Thị Kính cắt râu vì ả

thấy nó mọc ngƣợc, xấu xí, khó coi. Ả yêu chồng, muốn làm đẹp cho chồng đấy chứ! Mai Duy Vỹ cũng vậy thôi. Y sĩ mổ bụng, cắt ruột thừa là để cứu

mạng sống cho con ngƣời. Ông ta thƣơng ngƣời, không muốn con ngƣời phải

chịu đau khổ, tang tóc nên mới cầm tới con dao mổ! Có đúng không?”

Thầy lƣỡng lự… Chƣa biết nên gật đầu hay lắc đầu?

Cái tiếng ai vừa nói đó tƣởng đã im rồi lại cất lên:

“Thế nhƣng… đồng chí thầy thuốc kính mến ạ. Cần phải nói cho rõ thêm. Thị

Kính mang cái án giết chồng mà rồi ngƣời ta đâu có xử tử hình! Thị chỉ phải vào Chùa nhẫn nhục tu hành một thời gian. Và sau khi chết già rồi lại còn đƣợc

minh oan! Còn Mai Duy Vỹ thì sao? Sau khi để ngƣời ta đổ cái núi oan lên

Page 165: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 165

ngƣời, xâu vào cổ, ngoắc vào đầu… rất có thể ngày mai đây, Đội Cải cách sẽ ra

lệnh cho các đồng chí Lê Trạch Đông, Hĩm Xoa, Cò Toe, y tá Toành… tử

hình, bắn chết!

Ôi! Cái thời Thị Kính xƣa phong kiến tối tăm u mê vậy mà pháp đình lại còn

văn minh nhân đạo hơn cái thời Dân chủ Cộng hoà đến thế!”

Page 166: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

166 Trần Thế Nhân

Chƣơng 36 MỔ RUỘT THỪA CHO THẰNG CU CON CÒ TOE. CÁI “NƢỠI CƢA” CỦA Y TÁ TOÀNH

Lại vòng vo Tam Quốc cùng Mao Chủ tịch bên Tàu sang tới Lê Trạch Đông bên ta, cùng với các đồng chí bần cố nông Hĩm Xoa, Cò Toe, Toành… về với

cái ruột thừa của thằng cu con Cò Toe mổ cắt tối hôm đó.

Mổ xong rồi, thầy dặn vợ chồng Cò Toe, ngƣời nhà bệnh nhân, cho thằng bé

uống nƣớc cháo 3 ngày, sau đó ăn cháo trắng dăm ngày nữa… để vết mổ đƣợc

hồi phục, trở lại bình thƣờng. Cái hồi đói kém ấy, dân ta ăn cháo dăm ba ngày là chuyện bình thƣờng, có khó khăn gì mà không thực hiện đƣợc. Nhƣng chẳng

hiểu sao, mới về nhà đƣợc một hôm, bà con thƣơng cháu, có ai đó đã đem xôi

và thịt lợn tới cho thằng bé ăn. Nghe đồn, lại còn cho ăn cả củ từ chấm mật nữa? Thế là, thằng bé lên cơn sốt, ôm bụng quằn quại. Ruột nó bục ra rồi, Trời

cũng không cứu đƣợc. May ra có Đội… Nhƣng năm 1952 đó làm gì đã có

Đội! Nó chết!

Thầy đã mất công giải thích, mấy ngƣời trong bệnh viện cũng hết lời khuyên nhủ… Vợ chồng cò Toe xem ra đã có phần chấp nhận thông suốt. Cái số nó

Trời không cho sống, phải chết là… đúng thôi. Họ bảo nhau vậy.

Nhƣng đến cơn Trời long Đất lở, sục sôi Đấu tố này thì bố mẹ thằng bé, vợ

chồng Cò Toe đƣợc y tá Toành mớm, ông Đội trƣởng bơm… lại hùng hổ

chồm lên, nhảy tới xỉa xói thầy…

“Vỹ! Mày giết con tao! Mày rạch bụng nó ra, nhét vào trong bụng nó một lƣỡi cƣa làm cho ruột đứt tung. Nó mới ôm bụng kêu la từ chiều tới nửa đêm gần

sáng rồi… chết?”

Thầy ngạc nhiên không hiểu sao lại có chuyện nhét lƣỡi cƣa vào trong bụng?

Lƣỡi cƣa gì nhỉ?

Nhất Đội nhì Trời! Bà con nông dân đƣợc Đội phóng tay phát động, vùng lên

đấu tố thì trí tƣởng tƣợng ngày xƣa có một… bà đẻ ra trăm trứng… có một cái nỏ chỉ cần bắn phựt một mũi tên là giết chết tới cả ngàn thằng địch… cũng đều

trở nên nghèo nàn vô vị.

Chứng cớ là, thằng Vỹ nó ngồi ở Nga Sơn, giả bộ cầm ống lắng úp lên ngực

bệnh nhân nghe tim mạch, nhƣng thực ra là để bắt tin tức của gián điệp ngoài

Phát Diệm gọi vào!

Page 167: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 167

Chứng cớ là, máy bay Pháp có lần thả xuống sau vƣờn nhà thằng Vỹ một quả

bom câm; mở quả bom ra trong đó có cả một túi thuốc độc và một cái bị rất chi

là to, toàn truyền đơn với truyền đơn!…

Bà con nông dân đã không nói thì thôi, chứ đã nói ra rồi thì cái gì cũng đúng cả. Đúng thôi chƣa đủ, còn là Chân lý nữa. Ông Trời nghe, dẫu có lắc đầu cho

rằng sai, nhƣng ông Đội gật đầu bảo rằng đúng thì cuối cùng… bà con nông

dân, Quân Chủ lực của Cách mạng vẫn đúng!

Khi ngón tay trỏ của vợ Cò Toe dí lên trán thầy làm thầy mất cân bằng loạng

choạng suýt ngã ngửa, thầy vẫn ngơ ngẩn về chuyện cái lƣỡi cƣa nằm trong bụng thằng bé. Thầy từ tốn xin phép Đội đƣợc hỏi bà Toe xem cái lƣỡi cƣa ấy

là lƣỡi cƣa gì? Bà Toe ngớ ra, quay đầu nhìn lên mấy ông bà Đội cầu cứu. Để

gỡ bí nguồn cơn rắc rối, y tá Toành đang ngồi ở hàng đầu đám Quân Chủ lực

vụt đứng dậy la lên:

“Cái nƣỡi cƣa của Pháp dùng để cƣa cổ mấy ống thuốc tiêm ấy, chứ còn nƣỡi

cƣa lào lữa! Nại còn khéo giả vờ giả vịt!

Nƣỡi cƣa ống tiêm thủy tinh, ló dài bằng hai đốt ngón tay, mỏng nhƣ cái ná

núa… Vỹ! Mày còn chối lữa không?”

Đám đông nông dân bần cố bỗng nhiên ồn ào.

À ra vậy. Cái lƣỡi cƣa đựng trong hộp thuốc của Pháp, có lần thầy nhờ Toành

cƣa giùm một ống Quinoforme. Chẳng biết cƣa thế quái nào mà ống tiêm thì vỡ, mảnh vụn rớt ra bàn, rơi cả xuống nền nhà. Tay chân anh ta lúc nào

cũng… hậu đậu!

“Vỹ! Mày đã nhét cái nƣỡi cƣa đó vào bụng thằng bé, mày có chịu nhận tội

không?”

“Dạ có”. Thầy ngẩng đầu lên nhìn mấy ông bà Đội. Những khuôn mặt bẩm sinh

đã có cái vẻ chai lỳ tự nhiên vốn chỉ để cho thần thánh xui, ma quỷ khiến. Hơn cả thiên tai địch họa, họ đã làm cho long trời và lở đất. Khổng Tử, Lão Tử…

Tử gì đi nữa, có sống lại, trƣớc mắt họ rồi cũng phải cúi đầu chắp tay lại:

“Vâng, tôi ngu…”

Quay sang nhìn Toành, chẳng hiểu sao thầy không căm ghét mà chỉ thấy thƣơng hại. Quả thật bọn đế quốc đã ban phát cho Mai Duy Vỹ cả một kho tri

thức, còn lũ phong kiến thì sao không san sẻ bớt cho Toành lấy một ống bò,

một bốc… dăm hạt rơi vãi gọi là những thứ đó.

Page 168: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

168 Trần Thế Nhân

Quả là bất công, phi lý! Cần phải đạp đổ, phá sạch tan tành. “Du passé faisons

table rase… Bien! Très bien”. Đúng! Rất đúng!

Toành hoàn toàn chẳng có lỗi gì khi sinh lòng ganh ghét với mình, còn mình

thì đúng là có tội!

Đã sinh ra bất công rồi thì phải san bằng, cào lấp, tiêu diệt bất công cho đến khi nào trên đời này chẳng còn bất công nữa. Cách mạng là vậy. Lúc bấy giờ, chủ

nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn thế giới. Trái đất là một vƣờn hoa thắm.

Ngƣời lớn, trẻ con nhảy múa, vui chơi ca hát. Trong trƣờng học, các thầy cô

giáo chắc phải vất vả lắm mới giải thích cho học trò hiểu đƣợc hai chữ “bất

công!”

Cái Tâm của thầy con ạ, không hiểu sao, bao lâu rồi cũng ngập tràn niềm vui

sƣớng hân hoan đó.

Ánh mắt thầy dừng lại trên khuôn mặt của Toành (anh em có ngƣời đùa cho là

giống mặt ngựa). Anh ta ngoảnh đi. Tự nhiên thầy buột miệng nói:

“Dạ kính thƣa Đội và bà con nông dân. Con đúng là ngƣời đã bỏ cái lƣỡi cƣa

của ông Toành vào bụng cháu bé. Chƣa đủ, con còn nhét thêm vào đó cả cái

kéo, cái xê ranh tiêm thuốc nữa! Ha ha!”

Rồi thầy lắc đầu cƣời sặc sụa. Cƣời y hệt nhƣ lúc ở nhà vui với bạn bè, đùa

nghịch với các con vậy. Thầy không còn nghe gì tiếng la hét, tiếng hô “đả đảo”

đang ầm ào cả biển sóng bên lỗ tai ù đặc. Sau hai lần đấu, tiếng ầm ào cũng đã quen tai, nghe chẳng to hơn tiếng vo ve của con ong ruồi kia từ đâu bụi cây sau

“khán đài” đấu trƣờng, thấy động bay vào tới đây, đang lƣợn quanh đầu thầy…

Cặp cánh, râu, càng nó đang gại gại sống mũi, vo vo bên tai mình: “Vỹ ơi! Làm sao thế? Có lẽ nào?” Thầy muốn trả lời nó: “Ong ơi! Giống loài cần mẫn,

hữu ích, đáng yêu quý nhƣ em mà rồi con ngƣời vẫn có lúc chì chiết miệt thị:

nuôi ong tay áo! Thế giới này đầy bất công phi lý! Lời nói của con ngƣời nhiều

khi thật ngu xuẩn và ác độc!”

Thầy dừng lại, kinh hoàng chợt nghĩ: Ta đã hoá điên rồi sao?

Ngơ ngác nhìn quanh, đầu gục xuống, không khóc mà sao nƣớc mắt cứ trào ra…

Page 169: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 169

Chƣơng 37 TRUNG THU TRĂNG SÁNG… CHUYỆN CHỒNG KỂ SAY SƢA, VỢ NGHE ĐẰM THẮM

Trở về với câu chuyện đêm Trung thu năm 1950…

Sau khi mổ ruột thừa cho thằng bé xong, thầy trở về nhà vào lúc 10 giờ đêm.

Tội nghiệp mẹ con! Bị chồng đánh đã không để bụng giận chồng lại còn nhƣ

biết lỗi nữa! Vịm cháo gà mẹ nấu ủ trong chăn đợi thầy về vẫn còn đủ hơi nóng. Ăn xong thầy tỉnh cả ngƣời.

Vợ chồng lại làm lành, thƣơng yêu nhau. Mẹ sụt sịt khóc, hứa sẽ không bao

giờ hỗn hào nông nổi nhƣ thế nữa.

Chiếc giƣờng gỗ của thầy kê đặt trong buồng riêng, hai cửa sổ hai phía thông thoáng, từ đầu đêm tới bất chợt lúc nào trong tháng cũng thấy bóng trăng tròn

hay trăng khuyết.

“Lệ Uyên đã ngủ rồi, mẹ nói, lúc mình về nó không biết”. Mẹ nằm xuống bên cạnh thầy. Cái tiếng “mình” ai vừa nói đó làm lòng thầy dịu lại, mềm đi…

Thầy kể cho mẹ con nghe về Bác Hồ

Bác Hồ hiện đang sống trên chiến khu Việt Bắc. Bác không có gia đình, không

có vợ, chẳng có con… Một đời Bác hy sinh cho dân tộc, đồng bào… Hai mƣơi lăm triệu dân mình, hai mƣơi lăm triệu đứa con cháu yêu của Bác. Bác là vị

cha chung của tất cả chúng ta.

Mẹ bảo, Bác Hồ mắt sáng nhƣ sao, ngƣời Bác đẹp thế, ai cũng thƣơng yêu kính trọng, Bác muốn lấy cô nào mà chẳng đƣợc? Sao Bác không lấy một bà,

để bà ấy nâng khăn sửa túi, lại còn phòng khi đau ốm, tuổi già đến, trái gió trở

trời?…

Thầy nói, Bác còn thì giờ nào nữa, ngày đêm cùng mấy ông Trung ƣơng, lãnh

đạo toàn quân, toàn dân đánh giặc cứu nƣớc, lo cho đồng bào ai cũng đƣợc ăn

no, ai cũng đƣợc học hành… Bác mà cũng nhƣ chúng ta, ngày đêm vợ kè kè

bên, con cái vƣớng víu… thì cái trí làm sao cho tĩnh, cái tâm bằng cách nào yên; còn hơi sức nào nữa mà lo cho dân từ bát cơm đến cái kim, sợi chỉ…

Mẹ hỏi, thế còn mấy ông trên Trung ƣơng thì sao? Có ông nào cũng không vợ

không con nhƣ Bác?

Page 170: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

170 Trần Thế Nhân

Thầy bảo, mấy ông ấy đều có gia đình riêng, vợ con tử tế cả. Chỉ có riêng mình

Bác thôi là phải hy sinh trọn một đời cho dân cho nƣớc vậy. Nghe mấy ông

trên Tỉnh kể, có 8 đồng chí suốt ngày đêm ở bên Bác chăm lo bảo vệ Bác; 8 ngƣời ấy có tên riêng do Bác đặt cho là: Trƣờng, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất,

Định, Thắng, Lợi.

Mẹ cƣời, ồ vui nhỉ. Thích thật, mấy ông đó đƣợc sống bên Bác suốt đời. Còn

mình thì chỉ mơ đƣợc gặp Bác thôi, nhƣng biết đến bao giờ?

Thầy bảo, khi nào kháng chiến thành công, thế nào Bác cũng về lại Hà Nội, có

khi về cả Thanh Hoá, Nga Sơn nữa. Theo lời mấy ông trên Tỉnh kể, thì cuối

năm 1946 – đầu 47 Bác Hồ có về Thanh Hoá. Tại Rừng Thông, Bác nói chuyện động viên hậu phƣơng Thanh Hoá hãy giốc hết sức ngƣời sức của cho

tiền tuyến. Bác còn tranh thủ ghé qua Phát Diệm gặp Giám mục Lê Hữu Từ

cùng các cha cố, khuyên bảo họ hãy củng cố và phát triển mối tình đoàn kết lƣơng – giáo, cùng toàn quân toàn dân góp sức đánh đuổi giặc Pháp xâm

lƣợc…

Trên đời này có lẽ chẳng có ai đƣợc nhƣ Bác cả, ngƣời mà ở đâu, lúc nào cũng

đƣợc dân quý, dân thƣơng… Thầy say sƣa nói đất nƣớc mình từ xƣa tới nay chẳng có ai sánh đƣợc với Bác Hồ. Bà Trƣng, Bà Triệu, ông Trần Hƣng Đạo,

ông Lê Lợi, ông Nguyễn Trãi, ông Quang Trung… ông nào cũng thua kém

Bác. Còn trên thế giới thì sao? Kể ra thì có những ngƣời còn vĩ đại hơn Bác. Chẳng hạn, ông Mác, ông Ăngghen, ông Lênin, ông Xít-ta-lin…

Mẹ hỏi, có phải mấy ông Tây râu xồm, thầy nó dán ảnh lên tƣờng không?

Thầy bật cƣời, ừ mấy ông đó. Còn Bác Mao nữa. Bác Mao ngƣời Trung Quốc, trông còn trẻ và khoẻ. Bác Mao không có râu. Trên mép dƣới cằm đều nhẵn

nhụi. Mình nhìn thấy ảnh Bác Mao rồi chứ? Bác Mao có khi… e còn vĩ đại hơn

Bác Hồ. Cũng phải thôi, Trung Quốc những 600 triệu ngƣời, mình chỉ có 25

triệu, mới bằng một tỉnh của họ… Bác Mao vĩ đại hơn Bác Hồ. Đúng thế. Nhƣng cái tấm gƣơng cần kiệm liêm chính, chí công vô tƣ, yêu nƣớc thƣơng

dân, yêu quí trẻ con… thì chẳng có ông nào bằng Bác Hồ của ta cả!

Mẹ hỏi, thế còn Đức Chúa, Ông Phật?

Thầy cƣời, Chúa Phật là mấy Ông Duy Tâm, dân chúng ngƣời ta mê tín thì họ

cúng vái vậy thôi, chứ làm sao sánh đƣợc với Bác Hồ!

Ngoài trời, lúc bấy giờ trăng sáng lắm. Gối đầu lên tay thầy, mẹ giơ tay chỉ

ông trăng ngoài cửa sổ, vằng vặc giữa trời cao. Ánh trăng trong và mát tắm gội đất trời, không chỉ làm cho cây cỏ hoa lá ngoài vƣờn mà cả lòng ngƣời cũng

sạch thơm tƣơi thắm. Gió rì rào từ ngoài biển xa, qua đồng cói vào tới đây dìu

Page 171: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 171

nâng, mơn vuốt, làn điệu côn trùng năn nỉ, tỉ tê… nhƣ muốn nhắn nhủ cho con

ngƣời hiểu rằng ai đƣợc sinh ra ở cõi đời này, xứ sở đất nƣớc này là có hồng

phúc, là gặp vận may không chỉ riêng cho bản thân mà cho cả gia tộc… tới muôn đời sau!

Hồng Phúc, Vận May nhƣ ánh trăng kia lai láng đời đời vô tận!

Thầy rƣng rƣng nhìn trăng nói: “Mình xem, Bác Hồ nhƣ vầng trăng kia, rọi

sáng khắp muôn nhà…”

Rồi nhắc nhủ mẹ phải cố gắng, cố gắng nhiều hơn nữa, đừng có kêu ca phàn

nàn. Sự hy sinh, chịu đựng của gia đình ta so với đồng bào, đồng chí cả nƣớc

chỉ là hạt cát, hạt mẵn… chẳng là cái nghĩa lý gì hết!

Thầy lại kể sang chuyện gia đình Bác Hồ.

Đâu phải chỉ mình Bác, hai ngƣời anh và chị của Bác đều không lập gia đình.

Ông Cả Khiêm không lấy vợ, bà Thanh không lấy chồng. Cả hai đều hiến dâng đời mình cho công cuộc đánh đuổi giặc Pháp xâm lƣợc, giành lại độc lập tự do

cho đất nƣớc.

Ở thời buổi ấy, ngay đến cả những ông Vua ngồi trên ngai vàng nhƣ Hàm Nghi,

Thành Thái, Duy Tân rồi cũng phải cảm nhận đƣợc nỗi đau mất nƣớc, thấy thân phận mình cũng chỉ là ngƣời dân nô lệ. Cả ba vua đều nổi dậy chống

Pháp, rồi bị đày đi biệt xứ, chung thân tại mấy hòn đảo bên Châu Phi xa lắc….

Số phận mấy ông quan có lòng yêu nƣớc thƣơng dân cũng thê thảm bi đát.

Ông thân sinh của đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thƣ đầu tiên của Đảng ta là một

biểu tƣợng xót thƣơng đáng ghi nhớ. Đậu Thủ khoa chữ Hán, đƣợc bổ làm

quan Tri phủ một tỉnh ở Miền Trung… Ông luôn luôn dằn vặt, đau lòng trƣớc cảnh dân lành bị đói khổ, chà đạp dƣới ách nô lệ áp bức của thực dân Pháp và

Nam triều.

Một lần, bất tuân lệnh của thƣợng cấp, không thể đang tâm đƣa lính đi đàn áp

cuộc nổi dậy chống thuế của nông dân địa phƣơng, bố của Trần Phú, vị quan nhà Nguyễn dào dạt lòng nhân đạo và khí tiết… đã lặng lẽ thòng dây treo cổ tự

vẫn ngay tại phủ đƣờng nơi ông đang làm việc!

Mối thƣơng đau, nỗi hờn căm này sẽ không bao giờ nguôi ngoai trong lòng ngƣời con của ông là Trần Phú!

Còn trƣờng hợp Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Bác Hồ cũng

vậy… Ông quan Tri huyện ở một tỉnh miền Trung này cũng đau lòng nhức óc

vì thảm cảnh của đồng bào xẩy ra thƣờng ngày, đến nỗi ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên! Đã nhiều lần cụ chứng kiến những trận mƣa roi bọn lính

Page 172: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

172 Trần Thế Nhân

cò cẩm Pháp trút lên thân mình đám phu đƣờng, các tù nhân chính trị ở nhà

đày…

Và có lần tận mắt thấy viên quan lại Nam Triều lè nhè say trong khi ngồi trên ghế ở Huyện đƣờng, đã cầm cây gậy lim to tƣớng quật nện xuống giữa đầu

ngƣời nông dân vô tội, khiến cho gáo anh này vỡ toác, máu óc vữa ra lênh

láng, gục ngã xuống nền nhà, chết ngay tại chỗ…

Cụ Phó bảng tƣởng đâu mình cũng ngất xỉu chết theo! Vài ngày sau, cụ viết đơn gửi lên Chính quyền Pháp và Nam triều xin cáo quan, từ chức!

Kinh tởm chế độ thực dân thuộc địa, chán ngấy bƣớc đƣờng làm quan, Cụ Phó

bảng Sắc vào thẳng trong Nam Bộ lặng lẽ sống đời của một lƣơng dân, làm thuốc Nam chữa bệnh cứu ngƣời!

Cả gia đình Bác để phúc, dành đức cho dân tộc mình!

Mẹ mới chen ngang vào hỏi thầy, rứa thì Phó bảng là cái chi? Thầy phải dừng lại cắt nghĩa dài dòng cho mẹ hiểu. Ngày xƣa, dƣới chế độ phong kiến, các ngôi

thứ trong khoa bảng đƣợc sắp xếp từ thấp lên cao theo ba kỳ thi: Hƣơng, Hội,

Đình.

Kỳ thi Hƣơng, Triều đình chọn một số thí sinh đậu thấp gọi là Tú tài, số cao hơn gọi là Cử nhân. Tú tài không đƣợc làm quan, chỉ đƣợc phép dạy học và

làm thơ nhƣ ông Tú Xƣơng chẳng hạn. Cử nhân thì đƣợc làm quan, thƣờng

nhậm chức tri huyện… Đỗ đầu khoa thi Hƣơng này, đè sấp đè ngửa tất cả các ông Cử nhân đƣợc gọi là Thủ khoa, hay còn gọi là Giải nguyên. Ông thân sinh

ra Trần Phú là ngƣời chiếm ngôi thứ này.

Thời xƣa đậu Thủ khoa-Giải nguyên danh tiếng đã lẫy lừng. Nhƣ cụ Phan Bội Châu chẳng hạn, năm Canh Tý 1900, chiếm gọn cái Thủ khoa xong là cụ đi

thẳng sang Nhật, chẳng cần ngoái đầu lại… Cụ Phan thi là để lấy tiếng, đâu có

cần miếng. Tiếng nghĩa là uy tín đối với giới sĩ phu, tầng lớp trí thức, lòng

ngƣỡng mộ kính yêu của dân chúng, đồng bào; để khi cần đề ra đƣờng lối, chủ trƣơng kêu gọi toàn thể quốc dân tham gia phong trào cách mạng, thì lời nói

việc làm của Cụ dù là ở đâu, lúc nào cũng sẽ đƣợc đa số ngƣời dân Việt đồng

tình ủng hộ, tham gia ngay!

Còn miếng, có nghĩa là thi đậu để ra làm quan thì… xin lỗi… Cụ ỉa vào! Thầy

văng tục làm mẹ phì cƣời. Là tri huyện, tri phủ, tổng đốc, thƣợng thƣ ƣ? Ngay

từ lúc cất tiếng khóc chào đời, Cụ Phan đã khóc cho cái thân phận mình là làm

ngƣời dân nô lệ rồi! Khác với các sĩ phu yêu nƣớc cùng thời, một số vị do hoàn cảnh ép buộc, cũng phải dính tới cái miếng, nghĩa là có ra làm quan cho Nam

triều một thời gian, trƣớc khi cởi bỏ mũ áo quan trƣờng, tham gia các trào lƣu

Page 173: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 173

cách mạng… Cụ Phan căm ghét Pháp từ lúc mở mắt chào đời, muốn đánh đuổi

thực dân ra khỏi nƣớc, xoá bỏ chế độ phong kiến nô lệ; từ thuở còn là nhi đồng

đã bày trò chơi diệt Pháp-Lan-Tây cho các bạn nhỏ trong làng… Còn nói gì tới cái miếng nhơ nhớp, xa lạ, khốn khổ ấy! Không có ai sáng giá, hùng vĩ nhƣ

Phan Bội Châu lúc bấy giờ. Và Phan Chu Trinh… Một con ngƣời kỳ diệu. Cụ

sinh trƣớc và mất trƣớc Găng-đi… Vậy mà… nguồn sáng tƣ tƣởng Cụ không

chỉ tƣơng đồng mà lại còn vƣợt trội trƣớc Găng-đi! Một nhân vật lịch sử mà dân tộc Việt Nam, loài ngƣời chúng ta rồi sẽ gặp lại và còn suy nghĩ…

Thầy lại nói thêm về cái miếng cho mẹ hiểu đầy đủ hơn.

Lúc Pháp mới sang, cái miếng lại càng cuốn hút ngƣời ta bởi nhiều mùi vị khác lạ tân kỳ. Ngày xƣa, nói của đáng tội, các cụ ta làm quan cũng nghèo.

Bây giờ làm quan có nghĩa là tiền của, giàu sang. Chẳng thế mà Pháp mới sang

buổi sáng, buổi chiều đã có anh cắp ô đi làm cho Pháp ngay. Tiêu biểu nhất cho bọn ngƣời này là Tôn Thọ Tƣờng. Cũng phải kể thêm hai anh em họ Dƣơng:

Dƣơng Khuê, Dƣơng Lâm – hai con chó săn của Tây, hai thằng Việt gian. Có

ai đời ông bạn thâm giao Nguyễn Khuyến khuyên “biết thôi thôi thế thì thôi

mới là”, họ Dƣơng vẫn không chịu nhả ra, vẫn đớp lấy, ngoạm chặt cái miếng “đẩu thăng”… Rƣợu sâm banh, sữa bò, chơi đĩ, hát ả đào… là những cái khoái

“ngây ngây dại dại” của hai tên quan ô nhục này!

Thầy say sƣa dẫn giảng cho mẹ nghe những chuyện trong đời sống lịch sử của dân tộc Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ qua, mà không hiểu sao đêm nay, thầy

thấy gần gũi mật thiết với mình đến thế! Khác nào một con chiên mới theo

Đạo, muốn giải bày cho bạn tình nghe về những “mặc khải” (revelation) trong ngƣời mình, Đạo Mác Lênin cũng đang phơi phới dâng trào làm ngập cả cõi

lòng thầy.

Im lặng một hồi lâu. Tƣởng mẹ đã buồn ngủ, nhƣng không, mắt mẹ mở to, vẫn

muốn nghe thầy kể chuyện.

Mẹ nhắc lại là, thầy vẫn chƣa nói rõ Phó bảng là cái chi, còn Thám hoa nữa…

là gì? Làm sao Cụ Tổ họ Mai nhà ta lại gọi là Cụ Thám?

Thầy mỉm cƣời, gắng dẫn giải sơ lƣợc nhƣng rõ ràng hơn cho mẹ hiểu. À, thế này chứ… Thi Hƣơng xong ngƣời ta lại thi Hội. Trừ cụ Phan Bội Châu ra, ai

ngƣời ta cũng vác lều chõng tiếp tục kỳ thi Hội. Thi Hội là để chọn Tiến sĩ,

còn gọi là ông Nghè. Ông Cử đã đƣợc phép làm quan nhƣng là quan nhỏ; còn

ông Nghè thì đƣợc làm quan lớn hơn; chẳng hạn, án sát, tuần vũ, tổng đốc…

Kỳ thi Hội này, có những ngƣời tuy không đậu đƣợc Tiến sĩ nhƣng cũng đậu

đƣợc… cái thấp hơn, gọi là Phó bảng. Cũng có thể gọi là Á Tiến sĩ. Dẫu chƣa

Page 174: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

174 Trần Thế Nhân

đƣợc gọi là Nghè, nhƣng vẫn đƣợc ra làm quan, dĩ nhiên… Cử nhân còn đƣợc

làm quan kia mà! Có điều, cũng là chuyện tất yếu thƣờng tình, nhiều ông Phó

bảng thƣờng mang cái cục u uất, bất mãn trong ngƣời nhƣ khối u vậy. Học tài thi phận, chỉ cần gắng thêm một tí, may mắn hơn một chút, là cái ông Nghè

đã… nằm trong tầm tay với rồi!

Tuy nhiên, lại cũng tuỳ thời, tuỳ ngƣời… Chẳng hạn, ông Nghè Trần Quý Cáp

vào làm quan ở Khánh Hoà lại gặp tay Tú tài Phạm Ngọc Quát từ trong Nam ra. Phạm Ngọc Quát nghe đâu là ông nội hay bố đẻ ra Phạm Ngọc Thạch, Bộ

trƣởng Bộ Y tế của ta thời bây giờ? Tiến sĩ họ Trần dẫu học rộng tài cao cũng

vẫn ngồi hàng quan chức thấp hơn Tú tài họ Phạm, là tay chân của Pháp. Vụ án tày trời do Phạm gây ra cho Trần về mấy tội: đọc sách cấm Tân thƣ, hoan hỉ

đồng tình với bà con nông dân nổi loạn chống thuế ngoài Quảng Nam, treo

một tấm bản đồ thế giới ở đầu giƣờng, trong phòng ngủ… đã khiến ông Nghè Trần Quý Cáp phải chịu xử tử hình thƣơng tâm, rùng rợn, đau đớn bên cầu

Sông Cạn ở thành Diên Khánh: chém ngang lƣng!

Mẹ ôm ghì lấy thầy, xuýt xoa: Trời ơi! Thƣơng quá! Tội quá! Các cụ mình

thời xƣa sao lắm ngƣời khổ sở đau đớn thế!

Thầy dẫn giải tiếp:

Sau kỳ thi Hội, mấy ông Tiến sĩ lại tiếp tục thi Đình. Ngƣời đậu đầu kỳ thi

Đình, gọi là Trạng nguyên. Trạng nguyên là ngôi cao nhất, ngƣời đứng đầu khoa bảng thời xƣa. Dƣới Trạng nguyên, thấp hơn một chút, Triều đình chọn

thêm một ngƣời nữa là Bảng nhãn, còn gọi là Á Trạng…

Từ thời Lê trở về trƣớc, các khoa thi Đình, đều có tuyển chọn. Từ thời Nguyễn trở đi, không rõ vì sao Triều đình không tuyển chọn Trạng nguyên nữa; chỉ còn

có Bảng nhãn, thậm chí cho đến thời Tự Đức chỉ còn lại Thám hoa, sang thời

Thành Thái chỉ còn có Hoàng giáp…

Ông Cụ tổ họ Mai nhà ta đậu Thám hoa thời Tự Đức. Cũng coi nhƣ là Trạng nguyên… làm quan một dạo rồi xin về quê mai danh ẩn tích.

Càng về khuya, trăng càng sáng. Trời trong vắt, không một gợn mây. Qua cửa sổ, thời gian và không gian nhƣ lắng lại cùng hoà làm một. Thầy thấy mình

ngây thơ nhỏ bé trƣớc Nhân dân và Tổ quốc, rƣng rƣng cảm nhận ra sự lớn lao

của hạnh phúc đƣợc làm một ngƣời dân Việt… Liên Xô, Trung Quốc và các

nƣớc Xã hội Chủ nghĩa dĩ nhiên là họ sung sƣớng hơn mình rồi; nhƣng còn các nƣớc tƣ bản và những nƣớc ở quanh ta nhƣ Ấn Độ, Nam Dƣơng, Thái Lan,

Mã Lai… thì sao? Chắc chắn là lạc hậu tăm tối hơn ta nhiều vì họ không có

Page 175: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 175

đảng Cộng sản dẫn lối đƣa đƣờng, lại càng không thể có một lãnh tụ kiệt xuất

anh minh nhƣ Bác Hồ!

Nghĩ vậy, mà nƣớc mắt cứ rƣng rƣng và trong tim mình nhƣ cũng ứa lệ. Cảm ơn Đảng, cảm ơn Cách mạng đã sinh con ra đúng thì đúng lúc… Chẳng phải

nhƣ ai cùng lứa tuổi, thế hệ với con mà rên rỉ kêu than là “đầu thai lầm thế kỷ,

lạc loài dăm bảy đứa” đến nỗi “quê hƣơng ruồng bỏ, giống nòi khinh”…

Mẹ con lại hỏi, vậy thì ai mới đƣợc gọi là nhà cách mạng?

Trƣớc hết, ngƣời đầu tiên phải nhắc tới là Bác Hồ Chí Minh, Cha già dân

tộc…

Thầy vừa nói đã nghẹn lời vì xúc động. Rồi lần lƣợt kể tên: Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,

Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Ngô Gia Tự…

Thầy dừng lại nhƣ đứng trƣớc biển, đang ngợp đi vì những đầu sóng dạt xô vào bờ.

Khách quan mà kể thì ba ông vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân cũng là ba

nhà cách mạng – những nhà cách mạng lớn! Chấp nhận tù đày, đặt Tổ Quốc lên

trên hết, không chịu làm nô lệ, coi ngai vàng nhẹ nhƣ chiếc lông hồng… hy sinh tất cả để dành lại độc lập, tự do cho Đất nƣớc… Nhƣ vậy, nếu không là

Cách mạng thì là gì?

Cũng phải kể tên những ngƣời kế tiếp sau đó: Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Tri Phƣơng, Hoàng Diệu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện

Thuật, Lƣơng Ngọc Quyến…

Mẹ đƣa ra một nhận xét: Trong danh sách những nhà cách mạng Việt Nam thì đa số là đàn ông nam giới, đàn bà nữ giới không nhiều.

Mẹ hỏi, chị Nguyễn Thị Minh Khai là ai, nghe nói cùng quê Nghệ An với Bác

Hồ, có bà con gì với Bác không?

Thầy giảng giải cho mẹ hiểu: chị Minh Khai là vợ của đồng chí Lê Hồng Phong. Cả hai vợ chồng chị cùng với Trần Phú, Hà Huy Tập… đều là học trò

của Bác. Thầy và trò đây có nghĩa ở trƣờng đời, trƣờng Cách mạng… chứ

không phải trƣờng học đơn thuần dạy a b c dành cho trẻ con đâu! Thầy tức là ngƣời đi trƣớc, ngƣời đào tạo, rèn luyện… truyền lại những kinh nghiệm đấu

tranh, dắt dẫn đƣờng lối chủ nghĩa Mác Lênin…

Chị Minh Khai là ngƣời đàn bà Việt Nam đầu tiên sang Liên Xô, đất nƣớc của

Lênin. Lê Hồng Phong bị Pháp bắt, đày ra Côn Đảo và chết ở ngoài đó. Còn

Page 176: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

176 Trần Thế Nhân

chị Minh Khai thì chết trong khởi nghĩa Nam Kỳ. Bọn Pháp đƣa chị lên máy

chém.

Nghe thầy kể cái lƣỡi máy chém nặng cả bảy tám chục cân từ trên cao phập xuống, chặt đứt cổ lìa đầu các chiến sĩ cách mạng! Những năm trƣớc đó là

Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái và bây

giờ, năm 1942, là Nguyễn Thị Minh Khai… Mẹ con sợ quá, rúc đầu vào ngực

chồng rùng mình: “Trời ơi, bọn Pháp chúng nó ác quá, dã man quá, chặt đầu cả một ngƣời đàn bà!”

Vợ chồng Lê Hồng Phong – Nguyễn Thị Minh Khai sinh đƣợc một bé gái, đặt

tên là Hồng Minh… thầy kể thêm. Nghe nói một thời gian dài họ phải gửi Hồng Minh cho các đồng chí cƣu mang, nuôi giùm để đi hoạt động cách mạng. Có

đâu đƣợc nhƣ bé Lệ Uyên nhà mình, ngày đêm bố mẹ nuôi dƣỡng, ông bà

chăm sóc…

Trƣớc khi chết, chắc chị Minh Khai nhớ thƣơng con lắm. Mẹ thở dài. Thế bây

giờ cháu bé nó ở đâu? Ở bên Trung Quốc à? Giá nhƣ cháu ở gần đây, ngay tỉnh

Thanh, nhà mình đem về nuôi thì hay biết mấy. Thƣơng quá!

Thầy gật đầu đồng tình. Nhà ta những năm 40 cũng đã từng nuôi giấu các chiến sĩ Cộng sản trong nhà. Cái giƣờng gỗ em và bé Uyên nằm bây giờ, mấy

ông Cộng sản vƣợt ngục ra… đã từng yên giấc.

Vừa lúc đó, bé Uyên u ơ khóc trong nhà đòi mẹ. Thầy bảo mẹ vào với con.

Thầy vừa chợp mắt một lúc thì mẹ lại quay trở ra. Nghe thầy ú ớ hỏi, mẹ xuỵt

bảo im… Thầy hiểu ý. Lúc ấy vào khoảng hơn một giờ khuya. Mảnh trăng đã

đi khuất sang bên kia mái nhà.

Đêm ấy, mẹ có thai. Bé Thụ, em trai của con mới thật là cậu út của cả nhà.

Em con chết khi vừa đầy năm. Dạo ấy thầy phải đi họp, học tập chỉnh huấn

chính trị trong Nghệ An. Ở nhà chẳng có ai biết cứu chữa, cũng không tìm đâu

ra thuốc uống để cầm dứt chứng ỉa chảy, dịch tả…

Về tới nhà thầy mới biết tin. Em bé đã chôn cất đƣợc hai ngày rồi. Ôi...!

Page 177: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 177

Chƣơng 38 NGƢỜI VÔ HÌNH

Thầy lại nằm yên, trông đợi trời sáng.

Trời sáng, một ngày tới, con ngƣời quanh ta họ lại thức dậy và làm những việc thƣờng ngày. Trong đó có cái việc quan trọng nhất mà họ phải hoàn thành và

hoàn thành vƣợt mức, ấy là đánh đổ giai cấp địa chủ, tiêu diệt bọn Việt gian

phản động bằng tất cả ngón đòn hóc hiểm, trò chơi man rợ nhất mà họ moi tìm, nhào nặn ra từ trong đầu óc. Phải giết ngƣời làm sao đây để cho thoả cái khoái

cảm của lòng hận thù, ganh ghét giai cấp mà Trời đã ra lệnh, Đội đã phóng tay,

ban cho họ cái quyền tự do vô hạn độ!

Nghĩ tới chuyện vợ chú Lê Trạch Đông tố bà nội con, mà cũng là mẹ của thím

ấy chứ còn gì, đang đêm một mình mò ra giếng làng, cởi quần, chổng mông

đít, ngồi xổm, ỉa phẹt xuống giếng mấy bãi liền để cho cả làng phải uống nƣớc

cứt. Rồi nghĩ sang chuyện vợ chồng Cò Toe đƣợc y tá Toành mớm cho, tố thầy đã nhét cái lƣỡi cƣa vào ruột thằng cu con… để đến nỗi thằng bé lăn đùng

ra chết ngay… Thầy phải lắc đầu bái phục chịu thua cái trí tƣởng tƣợng phong

phú cực kỳ của các ông bà nông dân ta!

Các chuyện cổ tích hoang đƣờng, tiếu lâm nực cƣời xƣa nếu đem so sánh với

những chuyện đấu tố thời bây giờ, nói nhƣ chàng Xuân tóc đỏ của Vũ Trọng

Phụng là “chẳng nƣớc mẹ gì”.

Không nhịn đƣợc, tự nhiên thầy phá lên cƣời.

Tiếng cƣời vang lên trong phòng giam giữa đêm khuya làm chính thầy cũng

giật mình.

Vỹ ơi! Anh hoá điên rồi sao? Ừ, tôi đang điên đây. Là con ngƣời đôi lúc cũng dễ hoá điên lắm, nhất là sinh ra ở cái đời này!

Thầy dỏng tai, rán sức nghe. Không ai hay biết gì cả. Chỉ có tiếng mọt nghiến

từ tấm ván cửa đàng sau buồng giam. Giữa đêm khuya nghe rõ mồn một, lại có vần có điệu nhƣ tiếng nhai rồn rột, trèo trẹo, vỡ vụn một khúc xƣơng từ hàm

răng của con chó, con gấu… Hay chính con ngƣời chúng ta?

Ngày mai đây, 27 tháng Chạp năm Ất Mùi 1955… thầy linh cảm rằng Mai Duy

Vỹ sẽ không còn nữa, hay nói cho thật đúng và chính xác hơn, Mai Duy Vỹ sẽ chết. Ngƣời ta sẽ giết hắn để cho tất cả mọi ngƣời ở quanh đây, khắp cả Nga

Sơn Thanh Hoá đƣợc sống. Riêng những ngƣời nhƣ các ông Đông, Toành,

Page 178: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

178 Trần Thế Nhân

Xoa, Toe… và mấy ông bà Đội, đặc biệt ông Đội trƣởng, ngƣời Nam Đàn, nói

tiếng Nghệ thì không chỉ đƣợc sống thôi mà còn đƣợc giết. Giết! Giết!

Ngày mai đây, tiếng con mọt nhai nghiến kia lại vẫn rồn rột, trèo trẹo vang lên trong đêm khuya. Không chỉ thế thôi đâu, còn nhiều con khác nữa, chuột, mối,

bọ sẽ gậm nhấm khoét đục Mai Duy Vỹ này, đùn đất lên, khỏa vùi nỗi đau một

thời của dòng họ Mai cùng năm tháng.

Thầy muốn sống, các con ơi, thầy muốn sống! Ai lại đi bắt một con ngƣời vô tội phải chết ở tuổi 36! Trời Đất ơi! Hãy cho tôi sống để tôi nuôi các con nhỏ, báo

hiếu đền ơn cha mẹ! Bà con ơi! Các đồng chí ơi! Tôi vô tội! Hãy để cho Mai

Duy Vỹ đƣợc sống để Vỹ chữa bệnh cho dân nghèo, báo đền công ơn các đấng tiên liệt! Oan cho con lắm, Bác Hồ ơi! Oan cho tôi lắm, anh Trƣờng Chinh ơi!

“Vỹ!”

Một tiếng thét đập vào tai, ngay trƣớc mặt làm thầy giật mình, sững ngƣời.

“Sao đồng chí hèn nhát thế?”

Thầy ngƣớc nhìn phía trƣớc. Căng mắt tìm xem trên nền tối của màn đêm có

hình bóng ai hiện lên không? Lại cũng muốn ngoái sang bên, quay ngoặt lại đằng sau… nhƣng cái cổ đã cứng ngắc nhƣ hoá đá.

“Đồng chí Vỹ! Thử nhớ lại xem nào…” – Tiếng nói bớt gay gắt, có phần ôn

tồn. – “Thử nhớ lại xem… Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn Thụ, Lý Tự Trọng… đã nói những gì với kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp

trƣớc lúc ra đi. Ánh mắt của họ đã nhìn thẳng vào Cái Chết nhƣ thế nào? Mới

đó thôi, chƣa tới 15 năm… Vậy mà sao bây giờ đồng chí lại có thể đớn hèn, tham sống sợ chết thế nhỉ?”

Thầy chới với trƣớc một đợt sóng ngầm xô tới, ào lên, bật ngửa. Là một tay

bơi vào loại khá thế mà mình bỗng nhiên trở thành ngƣời không biết bơi, cứ

thế chìm xuống, chìm xuống…

“Không! Không mà!… Cho tôi nói” – Thầy ú ớ la lên – “Tôi đâu có đứng

trƣớc kẻ thù… Bà con nông dân, Đội Cải cách… các anh em, đồng chí…

những ngƣời tôi xin đƣợc cúi đầu, tuân thủ, phục vụ. Chính họ coi tôi, Mai Duy Vỹ, là kẻ thù của dân tộc, kẻ thù của giai cấp đấy chứ! Giả dụ đế quốc

Pháp có bắt đƣợc tôi, giam giữ tra tấn, đem tôi ra pháp trƣờng xử bắn, nhƣ

Trần Phú, Nguyễn Thị Minh Khai, Hoàng Văn thụ… tôi tin rằng mình cũng có

đƣợc sự dũng cảm, kiên cƣờng… nếu không 10 phần, thì ít ra cũng đƣợc ba bốn năm phần nhƣ các đồng chí ấy. Trƣớc lúc ra đi, lòng dẫu đau đớn thƣơng

Page 179: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 179

vợ nhớ con, tôi vẫn có đủ sức mạnh bình tĩnh nhìn vào Cái Chết! Tôi không có

kẻ thù! Tôi không phải là kẻ thù!”

Thầy uất nghẹn, muốn thét lên.

Một vệt sáng đi ngang qua. Hòn lửa đỏ nhấp nháy chập chờn. Hình nhƣ Ai đó?

Ngƣời-vô-hình nào đang lởn vởn mờ tỏ đằng trƣớc mặt?

“Vậy kẻ thù là ai?” Tiếng Ngƣời-vô-hình đay lại có phần gay gắt không khoan

nhƣợng.

“Tôi không phải là kẻ thù! Thế thôi!” – Thầy lắc đầu, dằn giọng.

“Anh cho rằng mình không phải là kẻ thù thì… chính anh đã là kẻ thù!”

“Ủa? Sao vậy?”

Ngƣời-vô-hình nói thủng thẳng từng tiếng nghe nhƣ đọc bài:

“Lịch sử của loài ngƣời từ khi có giai cấp là lịch sử của đấu tranh giai cấp.

Từ khi xã hội loài ngƣời phân chia ra giai cấp là từ đó sinh ra kẻ thù. Giai cấp bóc lột là kẻ thù của giai cấp bị bóc lột. Và ngƣợc lại… Ai cũng trở thành kẻ

thù của ai hết! Không ai là không có kẻ thù, và không ai không phải là kẻ thù.

Và tôi đây này, tôi cũng là kẻ thù của chính tôi! Hiểu chƣa?”

“Vâng. Nhƣng mà…”

“Nhƣng mà cái chi? Hử? Hạnh phúc là đấu tranh!”

“Đồng ý. Có đấu tranh mới có hạnh phúc…”

“Cho nên, đấu tranh ban ngày chƣa đủ, phải đấu tranh cả ban đêm. Làm ngày chƣa đủ, tranh thủ làm đêm. Lao động sản xuất, giết giặc…”

“Đồng ý”.

“Ngay cả ban đêm, nhắm mắt rồi trong giấc ngủ cũng phải… đấu tranh!”

“Dạ. Vì sao thế ạ?”

“Kẻ thù nó chui vào, ẩn khuất ngay trong giấc ngủ, không phải thế sao? Chẳng

hạn, đồng chí mơ thấy mình ăn no mặc ấm, vợ đẹp con khôn, không phải làm

chi cả mà thóc lúa đầy bồ, chết đi rồi còn đƣợc lên Thiên Đàng, về Niết Bàn… Không phải là kẻ thù nó len vào, nó xui khiến bậy bạ hay sao? Kẻ thù nó xúi

mày làm những điều ác hại nhƣ cƣa tay, chặt chân, bỏ lƣỡi cƣa vào bụng, tiêm

thuốc độc vào ngƣời các ông bà, anh chị nông dân… cho nên mày là kẻ thù

Page 180: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

180 Trần Thế Nhân

đứt đuôi của giai cấp nông dân, anh em bần cố, Quân Chủ lực… rồi chứ còn

gì! Còn cãi nữa không?”

“Nhƣng mà…”

“Nhƣng… nhƣng cái con khỉ! Vẫn chƣa thông hả?”

“Nhƣng… nói nhƣ vậy hoá ra trƣớc khi xã hội loài ngƣời phân chia giai cấp

thì kẻ thù có rất ít hoặc gần nhƣ không có. Còn từ khi phân chia giai cấp tới

nay thì nẩy sinh ra không biết bao nhiêu là kẻ thù! Con ngƣời đang từ chỗ vô tƣ, nhân hậu, bỗng nhiên trở nên xấu tính: dòm ngó, xét nét, ganh ghét, cấu

véo, đâm chọc, đánh lộn, bắn giết nhau… Có phải thế không ạ?”

“Ừ… thì nói nữa đi”.

“Con ngƣời mang tính giai cấp rồi cũng ảnh hƣởng tới loài vật… Chẳng hạn

nhƣ con chó. Trƣớc đây, con chó nào cũng là con chó. Nghĩa là, ở với con

ngƣời thì ban ngày sủa gâu gâu để cho chủ biết có ngƣời qua đƣờng hoặc vào nhà, ban đêm ăng ẳng kêu to để chủ hay rằng trời vẫn còn tối và Ông Trăng

đang còn mắc trên ngọn cây đang chờ Bà Trời lên gỡ thoát ra…

Nghĩa là, cùng với con ngƣời, chó ta rất hồn nhiên, vô tƣ!

Nhƣng từ khi con ngƣời phân chia giai cấp rồi, bắt đầu cấu véo, uýnh lộn, bắn giết nhau thì loài chó tự nhiên cũng thay đổi cách nhìn, lối sống đối với nhau.

Con chó nhà này bắt đầu ganh ghét với con chó nhà bên kia. Tại sao mình gầy

gò, xấu xí nhƣ ri mà hắn ta thì béo tốt mƣợt mà nhƣ rứa? Vì cớ chi mà mình thì một miếng cơm vãi, cơm rơi trông chờ mỏi cổ lắm khi cũng nỏ có, còn phải

kiếm thêm bãi phân, cục cứt; tranh nhau đớp cắn mổ rỉa cùng với con gà thằng

mèo… Còn hắn thì sao, cơm thừa canh cặn chẳng thiếu, thỉnh thoảng còn đƣợc bồi dƣỡng thêm cục xƣơng heo, xƣơng bò to tƣớng, gân thịt còn đeo bám tua

tủa, ngoạm đƣa vào xó ngồi gặm cả buổi cũng chƣa hết…

Bởi thế cho nên, đôi khi ta vẫn thƣờng thấy ngoài ngõ, trên đƣờng có những

con chó đè nhau ra, cắn nhau chí tử. Một hai con cắn nhau đâu đã xong, tự nhiên nhiều con khác xuất hiện ở đâu trong các ngõ xóm, hóc hẻm… chạy ra,

chúng cũng chia làm hai phe rõ rệt, nhập vào liên kết với hai con chó kia, nhảy

chồm lên nhau, cắn xé nhau cho đến khi nào tơi tả da thịt, sứt mõm, long răng… rồi mỗi con chạy đi mỗi nơi, mà vẫn không sao hiểu đƣợc vì đâu lại xẩy

ra trận đại chiến, cuộc đấu tranh giai cấp khủng khiếp, quyết liệt nhƣ vậy?”

Thầy dừng lại, giữ ý. Cứ tƣởng u mặc (humour) một chút cho vui, có khi chạm

nọc hắn lại nổi điên lên, nhƣng không, Ngƣời-vô-hình lại còn pha trò góp vui thêm.

Page 181: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 181

“Thế còn trƣờng hợp nhƣ ta vẫn thƣờng gặp, hắn nói, một con chó và một con

cầy, hai con chổng đít lại nhau, ngoắc ngoéo đuôi nhau, làm cái trò gì mà dù

ngƣời ta có lấy đá ném vô đầu, dùng gậy nện vào sống lƣng, hoặc cầm dao rựa chặt một phát xuống giữa… hai cái nớ, thì… hai đứa, à hai con, vẫn cứ đoàn

kết, kiên quyết không chịu ly khai, buông rời nhau ra! Theo đồng chí, hiện

tƣợng đó biểu hiện bản chất gì?”

“Tôi chƣa dám đánh giá và cũng không quen kết luận về cái gọi là bản chất, tuy nhiên về hiện tƣợng, theo tôi, ta có thể gọi đó là sự đồng cảm giai cấp, mối

giao hoà giai cấp hoặc khối liên minh giai cấp…”

“Chƣa chắc! Hiện tƣợng và bản chất dù không thể lúc nào cũng đánh đồng lại làm một, tuy nhiên vẫn không thể tách rời hai cái đó ra… Hai cái con đó,

chúng nó chắc gì đã mang bản chất giai cấp giống nhau, thành phần giai cấp

giống nhau? Phải truy tìm cho ra thành phần giai cấp, lý lịch ba đời của chúng…”

“Ba đời thôi ƣ? Theo tôi vẫn chƣa đủ. Phải bốn năm đời trở lên ta mới tạm gọi

là nắm đƣợc bản chất giai cấp của từng ngƣời: Lịch sử nhân loại, lịch sử đấu

tranh giai cấp đã trải qua cả mấy ngàn triệu năm kia mà!”

Thầy khẽ cƣời. Hắn im lặng. Có vẻ nhƣ đồng ý mà lại cảnh giác.

“Đã nói đi nói lại rồi! Vấn đề quan trọng nhất vẫn là giai cấp và đấu tranh giai

cấp.” Giọng hắn lại trở nên khô queo và lạnh lùng. “Không thể, dù là một phút, mà buông lơi quan điểm giai cấp, chao đảo đứng không vững trên lập trƣờng

giai cấp. Có đấu tranh giai cấp thì xã hội mới phát triển đƣợc. Phải đẩy đấu

tranh giai cấp lên tới đỉnh tột cùng! Và đây là trận cuối cùng…”

Rồi Người-vô-hình nói như hát:

Đây là trận cuối cùng sẽ thắng

Đè bẹp quân thù đế quốc!

Chúng ta không xa rời!

Quyết không bao giờ xa rời!

Đảng là đội ngũ của giai cấp tiên phong!

…Đây Liềm Búa vung lên nhằm vào đánh cho quân thù nát tan.

Chúng ta bao người quyết không xa rời

Đảng Cộng sản mến yêu.

Ai đi tiên phong giành cơm áo cho dân?

Ai đứng lên lãnh đạo được toàn dân đấu tranh

Cung sang tang! Củng sản tàng…

Cung sản tàng! Giai cấp tiền phong!

Page 182: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

182 Trần Thế Nhân

Trong ngƣời tự nhiên thấy phấn khởi, lâng lâng… thầy cũng hai ba nào… vỗ

tay lấy nhịp, đệm theo cho hắn hát… Hắn dừng lại đột ngột, dò xét.

“Trận cuối cùng này. Hắn dằn giọng, nói to. Dù có phải hy sinh, đổ máu đến một phần ba nhân loại cũng phải quyết tâm chiến đấu và… hoàn thành!”

“Đồng ý! Quyết tâm!” Thầy hùa theo một cách chân thành ngây thơ. “Xin đƣợc

phép hỏi đồng chí… Sau trận cuối cùng sẽ thắng, và chắn chắn sẽ thắng cả trăm

phần rồi, xã hội loài ngƣời sẽ tiến lên… tới đâu?”

“Cộng sản chủ nghĩa, chứ còn gì nữa!?” Hắn nói nghe nhƣ gắt.

“Tiến lên Cộng sản chủ nghĩa rồi thì khi ấy… xã hội loài ngƣời có còn giai cấp

nữa không?”

“Không! Xoá sạch hết giai cấp!...”

“Thế còn đấu tranh giai cấp?”

“Hết! Hết giai cấp đấu tranh! Còn giai cấp nào nữa mà đấu với tranh!”

Thầy cƣời. Hắn cũng cƣời.

“À… mà vẫn còn đấu tranh chứ? Đấu tranh với ai, biết không? Đấu tranh với

Thiên nhiên. Phải làm chủ Thiên nhiên. Bắt Thiên nhiên phải mƣa nắng theo ý

của con ngƣời chúng ta! Không đƣợc bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần lung tung…”

“Phải trèo lên đầu, cỡi lên cổ Thiên nhiên… Nhong nhong ngựa ông… Nếu

Thiên nhiên không chịu nghe lời làm theo thì đè xuống, ngồi lên lƣng, bóp dái… Cấm không đƣợc kêu. Hà hà. Nếu mày không chịu làm theo tao, thì tạm

thời tao cứ vắt đất ra nƣớc thay trời làm mƣa, nghiêng đồng đổ nƣớc ra sông

cái đã! Có phải thế không ạ? Thƣa đồng chí…”

Ngƣời-vô-hình chững lại. Hắn cảm thấy ta và hắn, hắn và ta hình nhƣ cả hai

đều đã ít nhiều buông lơi quan điểm giai cấp, đi chệch ra hơi xa đấu tranh giai

cấp, bèn quay trở về tƣ thế cũ, lên giọng huấn thị răn đe ngay:

“Này, ta báo cho ngƣơi hay. Từ nay cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc đấu tranh cuối cùng, giai cấp vô sản thế giới, quần chúng công nông binh, nông dân

Quân Chủ lực chúng ta… có rất nhiều kẻ thù và phải tiêu diệt cho kỳ hết những

kẻ thù đó! Giết! Giết! Giết hết!”

“Đồng chí nói… con số đến cả một phần ba nhân loại kìa mà!”

“Không có đùa! Một phần ba chứ hai phần ba cũng phải … giết! Mày nằm trong

con số đó…”

Page 183: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 183

“Nhƣng… tôi đâu có phải là kẻ thù!”

“Đã nói đi nói lại rồi! Ai cho rằng mình không phải là kẻ thù thì chính hắn là

kẻ thù!”

“Sao lại thế?”

“Ai tự cho rằng mình không có kẻ thù thì chính hắn trở thành kẻ thù của tất cả

mọi ngƣời! Bởi cớ sao? Bởi vì cái tên đó, là mày chẳng hạn, suốt đời có bao

giờ đấu tranh bảo vệ cho ai đâu… cho nên cứ tƣởng là mình không có kẻ thù. Tại mày ngu ngơ không biết đó thôi, chán vạn kẻ căm ghét mày, coi mày là kẻ

thù của họ. Có đúng không?”

Thầy bắt đầu cảm thấy chờn chợn, rờn rợn trƣớc cái lý lẽ ghê gớm, chết ngƣời đó.

“Nhƣng… Tôi đã một đời yêu thƣơng, quý trọng, cứu giúp nhiều ngƣời!…”

“Xì! Mày đã từng làm công chức cho Pháp, ăn lƣơng của Tây… Đế quốc thực dân, địa chủ phản động, công giáo tay sai của Pháp, Việt gian bán nƣớc cho

Tây… Mày cũng thƣơng yêu, cứu chữa, giúp đỡ… chúng nó? Hử?!”

“Đâu có!” Thầy cảm thấy đuối hơi, chới với.

“Này, hãy nghe ta hát khúc ca này. Nghe! Chúng ta thề phá tan quân thù: thực dân, đế quốc, sài lang với phe phản động ta đập tan à hoang!… Kết đoàn!

Chúng ta là sức mạnh! Kết đoàn chúng ta là sắt gang! Đoàn kết ta bền vững!

Dù sắt hay là gang. Dù sắt hay gang còn kém bền vững!… Cái bài ca hay nhất mà Bác Mao và Bác Hồ, cả hai Bác đều rất thích, mày lại còn không biết hay

sao, hở Vỹ?”

“Vâng, tôi cũng biết hát và thuộc lòng bài Đoàn Kết đó, nhƣng mà…”

“Chẳng nhƣng chẳng mà cái gì hết! Đế quốc, phản động… Chúng nó là kẻ thù!

Chúng ở đâu mày biết không? Ở bên Tây, ở ngoài mặt trận và ở ngay… trong

mỗi một cái thằng nhƣ mày. Đúng chƣa? Mày đã từng học tập chính trị, chỉnh

huấn… còn lạ gì nữa, biết tỏng tòng tong rồi, thực dân đế quốc, Việt gian phản động… chúng nó nằm trong tƣ tƣởng, ăn sâu vào tác phong của mày!”

“Vâng, tôi hiểu, và tôi đã thành khẩn bộc lộ ƣu khuyết điểm, phê và tự phê và

tôi đã lột xác cải tạo, tẩy rửa… làm theo đúng yêu cầu của Cách mạng, của Đảng…”

“Xì! Mày thì chỉ có khuyết điểm, làm chó gì có ƣu điểm? Hử? Đã là địa chủ

phản động thì chỉ có cấu kết làm tay sai cho đế quốc chứ làm sao tẩy rửa, cải

Page 184: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

184 Trần Thế Nhân

tạo, lột xác nổi! Hử! Mày là kẻ thù! Chính mày là kẻ thù một trăm phần trăm

của nông dân, của dân tộc! Hiểu chƣa? Còn chối cãi nữa hay thôi?”

Lạ thật! Tự nhiên thầy thấy mình thiểu số, nhỏ bé đến vô cùng tận. Cái Ngƣời-vô-hình này do Bác Mao đẻ ra, rồi ai đó kéo lôi vào đất nƣớc mình là hoàn toàn

có lý và đúng đắn. Thế gian này ngập ngụa, chen chúc những kẻ thù. Con số

một phần ba là chƣa đủ, e chừng có khi hơn. Thầy đã học lịch sử Cách mạng

Pháp. Đâu chỉ có vợ chồng Louis 16, nhà bác học Lavoisier… mà rồi đến cả Robespierre, ngƣời đã làm cho nhiều cái đầu rơi xuống, đến lƣợt cuối cùng là

mình rồi cũng… “porter sa tête sur l’échafaud”. Rơi đầu!” Cái đầu con ngƣời ta

quan trọng là thế rồi có lúc cũng phập một phát, sật một cái… cắt đi, rời ra, rớt xuống… nhƣ củ khoai sọ! Ngƣời-vô-hình có lý lắm. Mai Duy Vỹ thì đã là cái

gì đâu!

Thầy ngây thơ hỏi:

“Dạ, nếu vậy thì… Trong gia đình, cha mẹ, con cái, anh em, bà con… có là kẻ

thù của nhau không? Thƣa đồng chí…”

“Trƣớc khi trả lời mày, ta muốn xác định rõ: Ta không có đồng chí, đồng rận

gì với mày hết! Mày là kẻ thù kia mà! Đã nói rồi, lại quên sao?”

“Nhƣng mà…” thầy nói ngay để cho hắn không kịp ngắt lời. “Đồng chí, đồng

rận gì gì nữa, rồi cũng có lúc trở thành kẻ thù của nhau! Điều ấy có lẽ… là

không sai”.

“Ừ… ừ… thì…” Hắn lƣỡng lự. “Thì cứ gọi là đồng chí cho nó xong. Cũng

không sao! Đó là cái lối xƣng hô tiện lợi nhất của thời đại chúng ta!”

Tự nhiên hắn dịu giọng:

“Đồng chí nhắc lại câu hỏi vừa nêu ra…”

“Trong một gia đình thì ông bà, cha mẹ, anh em, bà con… có là kẻ thù của nhau

không?”

“Sao lại không nhỉ? Gia đình là một xã hội thu nhỏ. Xã hội có đấu tranh giai cấp thì gia đình cũng có đấu tranh giai cấp. Không đấu tranh thì gia đình làm

sao củng cố đƣợc khối đoàn kết liên minh vững bền? Vợ phải đấu tranh với

chồng. Chồng phải đấu tranh với vợ… Con cái phải đấu tranh với cha mẹ! Ấy là chuyện thƣờng ngày trần tục. Còn trong đấu tranh chính trị thì vấn đề giai

cấp đƣợc ƣu tiên, đặt lên trên hết! Lúc bấy giờ, quan hệ trong gia đình là quan

hệ giai cấp. Nghĩa là không phải chồng bảo gì vợ cũng phải tuân theo; cha mẹ

nói gì con cái cũng phải nghe theo! Phải đấu tranh chống lại tƣ tƣởng phong kiến, tàn dƣ bóc lột trong đầu óc họ. Và khi cần, phải tố cáo những hành vi

Page 185: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 185

phản động, chống phá giai cấp trƣớc quần chúng, trƣớc Đảng! Lúc bấy giờ, dù

chồng mình đi nữa thì vẫn cứ là kẻ thù. Vợ phải đấu tố chồng! Dù cha mẹ

mình đi nữa cũng vậy thôi, là kẻ thù, con cái phải đấu tố cha mẹ! Dĩ nhiên, muốn đấu tranh thì phải tố giác. Nói gọn và rõ hơn là muốn đấu thì phải tố!

Đấu tố! Đấu tố! Và… đấu tố!”

“Đồng chí nghĩ gì khi dân gian ngƣời ta nói: “Công cha nhƣ núi Thái sơn,

nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con!… Anh em, nhƣ thể tay chân…”

“Xì! Chuyện cũ xƣa rồi! Cha mẹ sinh chúng ta ƣ? Đúng vậy. Nhƣng khi họ

nuôi chúng ta lớn lên rồi, chúng ta lại thuộc về Giai cấp, về Đảng. Tổ quốc, Đồng bào là trên hết! Cha mẹ sinh con ra, nuôi dạy đến khi chúng nó lập gia

đình, sinh con cái… rồi chúng nó cũng thành cha mẹ. Nếu nói cha mẹ là trên hết

thì ông bà là bố mẹ đẻ ra cha mẹ, lại còn phải đặt lên trên nữa, rồi còn cố kí, cụ kị đẻ ra ông bà… thì sao? Cái này trên cái nọ, cái nọ trên cái kia, cái kia trên

cái nớ, cái nớ trên cái í… Cái kiểu sắp xếp ngôi thứ nhƣ thế chính là mầm

mống sinh ra, nền nếp tạo dựng thành chế độ phong kiến! Cực kỳ nguy hiểm!

Trung với Nƣớc hiếu với Dân, thế là quá đủ! Khỏi phải khen chê, trách móc nhau. Đó là tiêu chuẩn sáng giá nhất để xếp loại Đạo đức của con ngƣời!”

Hắn lại cao giọng ngân nga nhƣ hát:

“Vợ chồng lấy nhau ƣ? Thì đó là sự kết hợp tự nhiên giữa hai Cái Con, hai giống Đực Cái. Cũng tốt thôi! Chẳng có vấn đề gì! Tuy nhiên cũng phải điều

tra lại ba đời, đánh giá bản chất, đề ra phƣơng án hành động cho từng trƣờng

hợp theo quan điểm giai cấp đúng đắn.

Chẳng hạn, nếu hai vợ chồng cùng xuất thân từ tầng lớp nghèo khổ bần cố thì

vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ còn là củng cố, xây dựng khối đoàn kết liên

minh, vậy thôi. Nhƣng nếu xuất thân từ hai thành phần khác nhau, thì phải

cƣơng quyết đấu tranh giai cấp đến cùng để phân loại nhau, và nếu cần thì… loại bỏ nhau! Lấy ví dụ, vợ xuất thân từ thành phần bần nông, trung nông lớp

dƣới mà chồng là địa chủ phong kiến thì dứt khoát vợ phải đấu tố chồng đến

cùng!

Nếu đồng chí lấy vợ lẽ, thì con vợ hai, vợ ba của đồng chí thực chất chỉ là đứa

ở cho hai vợ chồng đồng chí, bởi họ đã bị đè nén, chịu áp bức đến hai ba tầng!

Cho nên, hai mụ vợ hai, vợ ba phải đoàn kết thành một khối liên minh công

nông, vùng lên đấu tố mụ vợ cả và thằng chồng (tức là vợ chồng đồng chí)!”

Phải bấm bụng, thót hốc đít để khỏi vãi ra cƣời, thầy nói ngay:

Page 186: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

186 Trần Thế Nhân

“Thƣa đồng chí! Chẳng cứ gì phải lấy tới hai ba vợ, chỉ cần một vợ duy nhất

thôi, đàn ông chúng ta cũng đã thƣờng xuyên phạm tội áp bức, bóc lột đàn bà

rồi! Cho nên tôi đề nghị, phải phóng tay phát động tất cả chị em phụ nữ, đàn bà vùng lên! Và mỗi gia đình, phải để cho các bà vợ đƣợc đấu tố chồng!

Chẳng phải họ đều là tầng lớp bị áp bức bóc lột cả hay sao?”

Ngƣời-vô-hình dừng lại, ý tứ. Có thể hắn chƣa quen mà cũng chẳng ƣa lối đùa

của bọn tiểu tƣ sản trí thức, cái bọn mà Bác Mao vẫn đánh giá xếp loại là chƣa bằng cục cứt. Hắn xẵng giọng:

“Mày định nói gì? Ám chỉ ai thế, Vỹ?”

Thầy bình tĩnh trả lời với một sự tự tin rằng mình đang áp đảo Cái Chết.

“Tôi đang biện luận về sự áp bức giai cấp đúng nhƣ quan điểm hận thù giai cấp

của đồng chí”.

Thầy nhìn hắn tần ngần và lấy làm lạ về sự lựa chọn ngôi nhân xƣng: Đồng chí! Hai tiếng “Đồng chí” vốn có từ bên Tàu, không phải, có lẽ từ bên Liên Xô

qua Tàu, dịch nghĩa biến âm rồi lƣu truyền sang ta. Hai tiếng đó cào bằng, xoá

sạch, thay thế vào tất cả các ngôi thứ. Hãy coi chừng và cảnh giác! Đồng chí…

“Đƣợc rồi. Cho đồng chí phát biểu ý kiến!”

“Tôi nghĩ rằng, dù ai đi nữa, đã là một đồng chí chồng thì đêm tới thƣờng hay

giở trò áp bức bóc lột đồng chí vợ. Cái lề thói cũ xƣa bắt đàn bà nằm dƣới để

đàn ông chồm đè lên trên là bắt nguồn từ bản chất, xuất phát từ quan điểm phong kiến mà ra. Ngay cái chuyện đó thôi đã nảy sinh mối thù mang tính giai

cấp rồi.

Nói nhƣ vậy có nghĩa là tất cả các đồng chí từ Mao Chủ tịch vĩ đại trở xuống đều gây ra mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng. Cho nên, bây giờ ta phóng

tay phát động cho các đồng chí đàn bà vùng lên, đảo ngƣợc trở lại, để họ nằm

lên trên, bắt các đồng chí đàn ông nằm xuống dƣới. Nhƣ thế may ra mới xoá

bỏ đƣợc phần nào ách áp bức phong kiến, mối hận thù giai cấp. Có phải không ạ?”

Ngƣời-vô-hình im lặng, không thấy phản ứng gì. Cuối cùng hắn nói: “Giai cấp

tƣ sản, bọn tƣ bản Phƣơng Tây vẫn ƣa làm cái trò đảo ngƣợc đó. Chúng cho đàn bà nằm lên trên, đàn ông nằm ở dƣới… Nhƣng xét cho cùng, đó chỉ là trò

cải lƣơng giả hiệu, không phải là Cách mạng, chẳng giải quyết đƣợc yêu cầu

cấp thiết gì của quần chúng Công Nông Binh…”

Page 187: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 187

“Nếu vậy thì… hay là… ta sắp xếp lại hai lực lƣợng cách mạng này cho nó ổn

thoả hơn: Không nằm nữa mà cùng đứng, mặt đối mặt, áp sát vào nhau! Thế

là, hết áp bức bất công, hết hận thù giai cấp! Ha! Ha! Ha!”

“Cƣời cái gì?” – Ngƣời-vô-hình hét lên – “Toàn là những trò Cách mạng giả

hiệu cả. Đâu phải là Cách mạng thật sự, Cách mạng chân chính! Phải tiếp tục

làm Cách mạng vô sản! Phải chuyên chính đến tận cùng! Sau cuộc Cách mạng

trời long đất lở này phải tiếp tục làm cuộc Cách mạng đất lở trời long khác! Cách mạng không ngừng!”

“Nếu vậy thì đến khi nào mới thôi Cách… cái mạng?”

Thầy hỏi lại, dẫu rằng có hơi vui đùa, mà sao lòng thầy đầy xúc động hân hoan. Hình nhƣ cảm nhận đƣợc sự băn khoăn chân thật đó, Ngƣời-vô-hình cũng

đắc ý và hào hứng:

“Đến khi nào trên toàn thế giới xây dựng xong chủ nghĩa Cộng sản, xoá bỏ hết giai cấp… Đã nói từ lúc nãy. Quên rồi à? Khi nào tất cả các nƣớc đều nhổ vứt

hết các cột mốc biên giới, chẳng ai thèm lấn chiếm của ai một tấc đất; tất cả

đều là của chung, của anh cũng là của tôi. Bốn phƣơng vô sản đều là anh em.

Đất nƣớc Việt Nam là của Trung Quốc… Và… Tổ quốc Trung Hoa là Mẹ chung của tất cả chúng ta! Bác Mao nào phải đâu xa, Bác Hồ ta đó chính là

Bác Mao! Ha ha!”

“Có nghĩa là… đến cái ngày con anh cũng là con tôi, vợ của anh cũng là vợ… của tôi!…”

“Vỹ!” – Hắn hét to – “A? Thằng này láo nhỉ? Mày đã nhận ra cái tội lỗi của

mày chƣa?”

Sự chuyển đổi đột ngột trong giọng điệu thái độ của Ngƣời-vô-hình khiến thầy

hụt hẫng loạng choạng. Mối thù giai cấp, mâu thuẫn đối kháng giữa ngƣời với

ngƣời, giữa hai cái giống đực cái theo kiểu này thì đời đời kiếp kiếp e cũng

không thể nào hết đƣợc. Mà có lên tới chủ nghĩa Cộng sản đi nữa, có khi đã không giảm bớt lại còn gia tăng rắc rối, ác nghiệt hơn!

Thầy ấp úng:

“Tôi thừa nhận rằng tôi có bóc lột bà con nông dân, đúng thế, nhƣng tôi không có áp bức gì ai cả, ngoài vợ tôi… Đó là theo quan điểm đấu tranh giai cấp của

đồng chí mà tôi suy diễn, chứ thực ra hai chúng tôi xuất thân cùng một giai

cấp. Có khác chăng tôi là địa chủ phong kiến, còn vợ tôi là địa chủ… nông

dân. Cùng một bản chất giai cấp giống nhau làm sao có mâu thuẫn đối kháng?

Page 188: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

188 Trần Thế Nhân

Tôi thƣơng yêu vợ con tôi, tôi chẳng thù ghét ai trên đời này cả. Tôi chƣa hề

làm hại ai, trái lại…”

“Vỹ!” – Ngƣời-vô-hình gằn giọng, nghe còn rõ và dữ dằn hơn gầm thét. – “Giờ tận số đến rồi mà mày vẫn còn ngoan cố hử? Tao nhắc lại cho mày nghe. Mày

là tên địa chủ cƣờng hào gian ác, phản động bán nƣớc; vợ mày là con mẹ địa

chủ bóc lột, hà hiếp, áp bức bà con nông dân. Mày phải khép vào tội chết và

chịu án tử hình! Còn vợ mày, con cái mày thì cho sống để lao động cải tạo, trả nợ đền ơn bà con nông dân bần cố cho đến tàn đời, hết kiếp nghe chƣa?”

Ngƣời-vô-hình vụt biến sau cánh cửa khoá hai vòng xích sắt.

Vệt sáng đỏ từ tay hắn vừa phóng ra nhắm thẳng vào đầu thầy. Một tiếng nổ không to lắm nhƣng rất chói và đau xé.

Thầy ngật ngƣời ra sau, đổ vật xuống nền nhà.

Page 189: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 189

Chƣơng 39 ĐỒNG HỒ SỐNG. SỰ SỐNG TRONG SIÊU NHÀ TÙ, SIÊU ĐỊA NGỤC

Trời vẫn tối! Không hiểu bây giờ là mấy giờ?

Đã lâu rồi thầy mất thói quen xem đồng hồ, coi giờ. Tự nhiên nhớ lại hai cái

đồng hồ mình đã dùng trong đời.

Cái đồng hồ quả quít Thụy Sĩ thầy mua vào những năm 40 ở hiệu Tàu có sợi dây bạc đeo cất, bỏ túi… rất tốt. Dạo ấy Lệ Uyên chƣa sinh. Một lần thầy bỏ

quên, đánh mất nó ở đâu cũng không biết. Bà nội có ý ngờ cho anh Nuôi. Mẹ

thì lại nghi chú Đông. Cũng chỉ vì vậy mà anh Nuôi khóc lóc, thề thốt, doạ

nhảy xuống giếng tự tử. Mẹ chồng con dâu cãi lộn. Bà vẫn thƣờng bênh che cho chú Đông, kể cũng lạ, và có phần khắt khe với con đẻ, con dâu!

Cái đồng hồ thứ hai đeo tay nhãn hiệu Niklès – Made in France là của một

đồng chí tặng.

Tiểu đoàn trƣởng Lê Hải Ba đƣợc thầy mổ ruột thừa, sau khi lành đã cởi tháo

đồng hồ đặt vào tay thầy. “Tôi tặng anh vật này làm kỷ niệm. Có thể một ngày

nào đó chỉ còn lại nó trên đời này và… anh sẽ nhớ đến tôi…” Đồng chí ấy nói

mà rƣng rƣng nƣớc mắt. Thầy từ chối không nhận.

Hồi ấy đồng hồ là vật quý hiếm. Cái Nikles lên dây cót đó phải mua ở Hà Nội

hoặc vùng tề đƣa ra. Dẫu rằng một mạng sống đƣợc cứu sinh là chuyện ân

nghĩa khó quên, thầy cũng không nỡ nhận món quà quý của bệnh nhân mà bệnh nhân đó là một đồng chí, một ngƣời lính Cụ Hồ.

“Ngƣời thầy thuốc rất cần đồng hồ, cần hơn ai hết, anh giữ lấy nó… cho tôi

vui lòng.” Tiểu đoàn trƣởng nài nỉ.

Bây giờ nhớ lại, nghĩ tới câu nói của đồng chí ấy mà thấy nhƣ điềm gở... “Chỉ

còn lại nó trên đời này”. Quả đúng thế. Tiểu đoàn trƣởng pháo binh đã hy sinh ở

mặt trận Điện Biên, còn Mai Duy Vỹ này mạng sống đang đƣợc đếm từng giây,

từng phút…

Đột nhiên, thầy đặt tay lên phía trái ngực và kinh ngạc cho trái tim mình. Tic

tac! Tic tac! Nó vẫn còn đập? Thật kỳ lạ. Tic tac tic tac… Đã bao năm rồi, mỗi

lần cầm ống lắng đặt lên ngực bệnh nhân, dùng ngón tay bắt mạch bệnh nhân mà sao y sĩ Mai Duy Vỹ lại không cảm nhận đƣợc trái tim con ngƣời mới là cái

Page 190: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

190 Trần Thế Nhân

đồng hồ đích thực. Cái đồng hồ đếm đo mạch sống của con ngƣời vô tƣ, hào

phóng, kỳ diệu phi thƣờng! Ôi trái tim con ngƣời chúng ta!

Quả tim Mai Duy Vỹ vẫn còn đập! Thầy muốn la to lên cho mọi ngƣời nghe, cho cả nhân loại biết.

Nhịp đập đầu tiên của nó là lúc còn nằm trong thai mẹ! Mẹ ơi! Mẹ đã cho con

một sinh mệnh, một đời sống. Vậy mà bây giờ ngƣời ta lại nỡ cƣớp nó, giết nó

đi! Con có tội tình chi! Đã không đƣợc sống để báo đền ơn sinh thành của thầy mẹ, lại còn để ngƣời ta giết mẹ mình đi! Làm con mà không cứu sống đƣợc mẹ

sao còn có thể gọi là con, là mang tội bất hiếu bất nghĩa biết mấy lần! Trời đất

ơi!

Thầy bƣng mặt khóc. Khóc không thành tiếng. Và ngạc nhiên sao mình vẫn

còn nƣớc mắt để mà khóc? Điều kỳ lạ! Vậy là sự sống trong con ngƣời mình

vẫn còn? Lần này, nếu họ không giết thầy, cho thầy ra khỏi nhà tù, chắc thầy lại sống, tiếp tục sống nhƣ mọi ngƣời đƣợc tha khác. Nhƣng cái buồng giam

trong đình làng này nghĩ cho cùng không thể gọi là nhà tù đƣợc. Nó đâu có

giống Hoả Lò, Lao Bảo, Kontum, Côn Đảo… Nó là Siêu nhà tù! Siêu địa

ngục!

Con ngƣời là một động vật kỳ lạ! Thầy nghĩ ngợi miên man. Nếu mình là con

chó, con mèo, con trâu, con bò… ừ cứ cho là con cọp đi nữa, mà bị ngƣợc đãi

hành hạ nhƣ thế này chắc chắn là nó đã chết trong một thời gian ngắn, vài ngày, dăm mƣời ngày!… Vậy mà Mai Duy Vỹ này vẫn còn sống, vẫn chịu

đựng đƣợc mọi ngón đòn hiểm hóc, tai ác, chết ngƣời!

Sự chịu đựng, sức sống này có từ đâu? Có phải từ trong bào thai mẹ sinh ra? Có đấy. Nhƣng chỉ một phần thôi. Sức đề kháng, thích nghi kỳ lạ này lại chính

là do nhà tù sinh ra. Ai có ở tù mới hiểu đƣợc điều này. Hơn hết mọi nhà tù trên

thế gian này là nhà tù Cải cách Ruộng đất! Nhà tù Siêu phong kiến! Nhà tù

Siêu đế quốc!

Cảm thấy mình nhƣ vừa khám phá ra đƣợc điều gì mới lạ, một phát minh trong

Y học, thầy nở một nụ cƣời ngây thơ…

Nụ cƣời chợt tắt. Dòng lệ từ trong hai hốc mắt lại ứa ra.

Nƣớc mắt mình vẫn còn? Vậy là mình vẫn sống. Câu hỏi, câu trả lời cứ lặp đi,

lặp lại.

Mai Duy Vỹ này đã tận mắt thấy con ngƣời ta lúc lọt lòng mẹ, cất tiếng khóc.

Chính bàn tay Vỹ đỡ đẻ và không ít ngƣời đã ngợi khen là khéo tay mát tay hơn cả các cô đỡ Sage-femme. Nghiên, Hoà, Lan… các cô đều mê Vỹ!

Page 191: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 191

Vỹ đã thấy dòng lệ ngƣời mẹ trào lên má, giọt nƣớc mắt trẻ sơ sinh hiện ra

cùng tiếng khóc: Tôi đã sinh ra một con ngƣời cho đời! Tôi là một con ngƣời

đây!

Mà đâu chỉ con ngƣời, Vỹ đã từng thấy con chó Vện khóc, con trâu cái nhà

mình khóc… lúc chúng nó chết. Thế đấy! Vậy mà bây giờ những giọt nƣớc

mắt của Mai Duy Vỹ đang trào ra đây lại không có một con ngƣời nào trông

thấy cả. Có ai thƣơng xót Mai Duy Vỹ này không?

“Không!”

Tiếng búa nện. Phát súng nổ. Chát chúa lỗ tai. Buốt nhói cả tim óc.

Thầy gục xuống. Chẳng cần tới một nhát búa, một phát súng mình cũng đã chết. Và đang chết đây!... Thầy nằm yên không động cựa.

Page 192: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

192 Trần Thế Nhân

Chƣơng 40 QUỶ NGƢỜI – NGƢỜI QUỶ

Có tới bảy tám con quỷ… Thầy đoán chừng vậy. Bởi vì nhìn toàn thân thì có

vẻ giống giống con ngƣời, cũng hai chân hai tay, nhƣng cái mặt thì khang khác, là lạ…

Nếu là con trâu, con chó, con cọp… thì cái sừng, cái mõm, móng móng vuốt

của chúng đều biểu thị cái gì đó thuộc về nòi giống của chúng. Đằng này… đít giống nhƣ mặt, mặt na ná nhƣ đít? Mắt và mồm là hai cái lỗ – mồm ở trên, mắt

ở dƣới. Và hình nhƣ… chúng có đuôi? Cái đuôi thay cho cái tay, ngoắc ngoéo,

móc nối nhau biểu thị sự đồng cảm, đồng tình. Đặc biệt hai cái tay xoè cụp, rung rinh… rất nhạy bén trƣớc mọi tiếng động, trạng huống. Chúng nói với

nhau những gì thầy không nghe rõ. Ao áo, nháo nháo… báo cáo… láo nháo…

xạo xạo… đả… ảo… đảo … đảo… í í… lí bí… chí chí… đồng ý…

Hồi nhỏ, mình cứ suy từ loài vật mà hình dung ra con quỷ. Đầu trâu mặt ngựa có gì đáng xấu đâu. Thật sai lầm! Hình nhƣ đoán ra đƣợc ý nghĩ của thầy, bọn

quỷ biến hình trở thành những bóng đen. Trông chúng lại có vẻ giống con

ngƣời hơn. Thầy bắt đầu so sánh phân loại bằng cách lặp đi lặp lại hai mệnh đề tƣơng phản nhau: con ngƣời là con quỷ – con quỷ là con ngƣời. Rồi, ngƣời là

quỷ – quỷ là ngƣời. Rồi ngƣời-quỷ, quỷ-ngƣời… quỷ-ngƣời, ngƣời-quỷ!…

Thầy lặp đi lặp lại nhƣ một trò chơi lúc còn học lớp đồng ấu, tiểu học.

Hồi ấy, thầy và chú Đông ngồi đối mặt với nhau, giơ tay ra vỗ chéo vào bàn tay nhau, miệng thì kêu: chó, mèo… mèo chó… Cứ thế tranh nhau nói; cho đến

khi nào mỏi mồm, rã mép, răng lƣỡi va cắn vào nhau… Rồi cuối cùng, dừng lại.

Một tay anh này chỉ vào mặt anh kia la lên: “Chó!”

Con chó, con mèo biết con nào xấu hơn con nào? Con chó có gì là xấu đâu!

Vậy mà chú Đông vùng vằng, ấm ức đến phát khóc; lại chạy vào mách với bà

nội là anh Vỹ anh ấy bảo con là con chó! Và bà thì lúc nào chả thế, lại bênh thằng Đông, đe mắng thằng Vỹ!

Bây giờ thầy đang thử cố sức lặp đi lặp lại hai tiếng ngƣời-quỷ, quỷ-ngƣời…

và định bụng đến một lúc nào đó, hết hơi rồi, hoặc lý trí không còn kiểm soát,

chế ngự đƣợc đầu óc nữa thì… cái tiếng cuối cùng ấy là một phán quyết đúng đắn nhất.

Ngƣời… quỷ!

Page 193: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 193

À ra vậy. Con ngƣời chính là con quỷ! Ông Pasteur khi tìm ra vi trùng bệnh

chó dại – khám phá ấy cũng chƣa quan trọng bằng phát minh này của Mai Duy

Vỹ! Phát minh này sẽ mở ra con đƣờng mới, tránh cho nhân loại bao thảm họa tai ƣơng.

Hình nhƣ bọn quỷ này đã nhận ra mƣu đồ, biết đƣợc tƣ tƣởng, nắm chắc quan

điểm chính trị của Mai Duy Vỹ… Cả lũ xúm lại, vật ngửa, chận đè lên ngƣời

thầy:

– Không cho nó ngóc đầu dậy!

Một con kêu lên. Mấy con kia chồm tới, bóp cổ thầy một lúc cho đến nghẹt thở

rồi từ từ buông ra. Con lớn nhất, cũng là đầu đàn, lãnh đạo cả lũ, dựng thầy ngồi dậy, dùng tay bịt mồm. Con nhỏ hơn, cũng thuộc hàng lãnh đạo, chổng đít

lại, lấy cái đuôi ngắn ngủn ngoáy ngoáy chọc chọc vào hai lỗ mũi thầy…

– Mặc quần áo liệm vào cho nó! Mau lên, Quân Chủ lực!

Hai ba con cùng “dô nào” bắt tay ngay vào việc. Chúng làm nhanh đến nỗi

mình chƣa kịp vùng vẫy, đã mặc gọn vào ngƣời một bộ áo bằng vải xô trắng,

thứ vải thô tháp mà ngƣời ta thƣờng khâm liệm khi đặt tử thi vào quan tài…

Thầy hoảng sợ, kinh hãi định la thét lên thì lạ chƣa, lũ quỷ bỗng chốc biến đi đâu hết?… Chỉ còn một mình Mai Duy Vỹ, thầy của mẹ và các con giữa cõi

Trần gian.

Page 194: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

194 Trần Thế Nhân

Chƣơng 41 ĐẤNG CHÍ TÔN, CHÍ THÁNH, CHÍ THẦN…

Thầy đang đứng ở một con đƣờng.

Nhìn quanh chẳng thấy cái gì hết. Không một mái nhà, không một con ngƣời, con vật, không một bóng cây. Màu trắng đục bao quanh, không phải mây,

chẳng là sƣơng mù. Chẳng có hình bóng gì cả. Sắc sắc không không. Bỗng

nhiên thầy nhớ tới bốn tiếng trùng âm ông nội con nói ngày xƣa… Sắc sắc không không… Có lần thằng cò Vỹ ở truồng, chẳng mặc quần áo, từ ngoài

giếng vừa tắm xong, chạy vào nhà la lên: “Không không sắc sắc giơ cặc lòi

cu… mình mẩy thu lu, ai cho thì… đút!” Chẳng hiểu ai bày cho thầy, anh Nuôi thì phải, cứ thế mà ca mà hát… Từ dƣới bếp tới trên nhà, ai nấy đƣợc một mẻ

cƣời no nê.

Hôm đó, ông Cử Mai, ông nội con đang tiếp ông Cử Hồ bên Hà Trung sang

chơi. Mỗi lần gặp nhau ngồi bên ghế trƣờng kỷ hai ông Cử thƣờng hay nói chữ. Ngoài “sắc sắc không không” lại còn “vô vi”, “tri túc”… thầy chẳng hiểu

ý nghĩa của những cái đó là gì?

Thấy mọi ngƣời vui cƣời hoan hỉ, lại bắt gặp con mình đang nồng nỗng ngoài sân trông nhƣ thằng ngộ, trƣớc mặt khách, bậc túc nho tri kỷ, ông nội con bất

bình đứng dậy, bƣớc ra sân, hỏi chuyện đầu đuôi rồi nắm tay thầy lôi vào nhà

bắt nằm sấp xuống phản, thong thả hỏi tội, quất cho hai roi vào mông đít…

Chữ nghĩa thánh hiền, chuyện thần thánh, sao lại dám đem ra đùa cợt? Đứa nào xui? Đứa nào bày? Nhớ lấy!

Bây giờ cái sắc sắc không không ấy đang vây quanh thầy.

Thầy chợt nghĩ, đã sinh ra con đƣờng là để cho ngƣời ta đi; mình phải đi, không thể cứ đứng mãi ở đây đƣợc. Thế là thầy cất bƣớc. Vừa bƣớc đi dăm

chục bƣớc, chƣa gì đã dừng chân. Ngoái lại nhìn, thì lạ chƣa, đoạn đƣờng phía

sau lƣng mình không thấy nữa, biến đi đâu mất? Sắc sắc không không. Thầy suy lí: Vậy là con đƣờng này chỉ có mà đi tới, đi tiếp, muốn dừng chân để quay

trở lại cũng không đƣợc. Con đƣờng gì mà lạ nhỉ? Nhƣng ta đang đi đâu, đi để

làm gì?

– Mai Duy Vỹ!

Một tiếng kêu từ trên cao vọng xuống.

Page 195: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 195

Thầy sững sờ ngƣớc nhìn. Tia chớp lửa loằng ngoằng vẽ một con đƣờng giữa

trời nhƣ con rắn đỏ. Tiếp liền, tiếng sét nổ không to lắm mà sao chói tai, buốt

óc, rợn cả ngƣời.

– Mai Duy Vỹ!

Thầy giật mình đứng sững nhìn cảnh tƣợng lạ lùng. Trƣớc mắt bây giờ chẳng

còn sắc sắc không không nữa mà da trời phía Đông, thầy tin là phía Đông, có lẽ

ma xui quỷ khiến nhƣ vậy chăng, đang ửng lên một màu hồng sáng. Con rắn khi nãy bây giờ biến thành con rồng lửa uốn lƣợn, khép vòng. Ô kìa! Một cái

ngai màu đỏ. Những tia vàng loé ra từ Ngai Đỏ và một vị Vua, chỉ có thể là một

Hoàng Đế thôi, đang ngự trên đó.

Theo thói quen, tính cố hữu trong khí huyết, cân não của một ngƣời dân nô lệ

Á Châu, đầu gối chƣa gì đã rã khớp, hai ống chân nhũn mềm ra nhƣ bún, thầy

vội vàng quỳ xuống…

– Mai Duy Vỹ!

Âm giọng rền vang nghe nhƣ lƣỡi gƣơm khua, viên đạn rít trên đầu. Thầy vội

vàng lắp bắp:

– Muôn tâu Bệ hạ!

– Ta không phải là Vua, chẳng phải Tổng Thống. Hãy nhìn lên đây!

Thầy ngửa cổ, rƣớn đầu cao hơn:

– Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí…

Vừa sợ hãi lại tò mò, thầy trố mắt nhìn. Một mái đầu tóc trắng nhƣ mây, vuốt

ngƣợc, loà xoà hai bên vầng trán rộng… Đôi mắt ánh lên tinh thần của khoái

lạc và thủ đoạn, hoà điệu theo miệng cƣời giả trá, hơi tuồng kịch… Cái mặt vừa giả lại vừa thật có một sức hấp dẫn đến nỗi thầy ngây dại nhìn và môi nở

nụ cƣời.

– Mai Duy Vỹ!

Âm giọng nghe rõ ràng, đanh rắn từ trên cao vọng xuống.

– Ta đây! Ta là ngƣời nô bộc trung thành của muôn dân. Hãy nghe và trả lời

những câu hỏi của ta!

– Dạ. Con cũng là… – Thầy lắp bắp – đầy tớ của nhân dân…

– Xì! Mi là thằng địa chủ phản động, bán nƣớc hại dân… lại không tự biết mình

hay sao?

Page 196: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

196 Trần Thế Nhân

– Dạ, tôi là địa chủ – Thầy ngập ngừng suy tính. Đang từ con chuyển sang tôi,

thầy bỗng hốt và sợ, nhƣ hai lần đấu quỳ trƣớc các ông bà nông dân. Trót đã lỡ

lời… – Nói cho thật đúng, cha đẻ ra con mới thật là địa chủ, con là công chức, cán bộ… Nhƣng chối cãi điều đó, con lại là một đứa con bất hiếu với cha

mẹ… Vâng, con là địa chủ. Nhƣng con đâu có phản động, bán nƣớc, hại dân!

Im lặng một lúc. Hoàng Thƣợng ngự trên Ngai Rồng Đỏ hình nhƣ ít nhiều có

phân vân. Ngƣời thong thả điệu nghệ vuốt chòm râu bạc…

– Không ai tin điều mày nói cả.

– Dạ, làm sao vậy? Kính thƣa…. Muôn tâu… Dân ngƣời ta không tin hoặc phủ

nhận cố tình, điều đó có thể hiểu đƣợc, bởi họ bị vây bọc, đè nén trong vòng ngu muội, bùa mê, tăm tối, dốt nát… nhƣng còn Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí

Thánh… Ngƣời thấu suốt cả sáu cõi…

Đấng Tối Cao cƣời, lấp lửng.

– Ngƣơi quên rằng… Ta cũng chỉ là kẻ nô bộc trung thành của muôn dân thôi

hay sao?

Thầy gân cổ, cãi lý:

– Con cũng là đầy tớ… của dân. Vào Đảng năm 1948, cho đến nay tính ra đã 7 năm vì nhân dân phục vụ, quên mình hy sinh…

Đấng Tối Cao cau mày, ra chiều lƣỡng lự, cân nhắc:

– Biết vậy. Nhƣng mà…

– Nhƣng mà sao ạ?

Thầy chắp hai tay trƣớc ngực, chờ đợi, cầu khẩn.

Có tiếng súng nổ vọng lên đâu đó, nghe xa mà lại gần. Thầy rùng mình cố giữ hai đầu gối sao cho vững, tì trên đất.

– Đồng chí Vỹ! Nghe đây – tiếng sấm truyền từ trời cao xuống – Ta biết anh

vô tội, lòng anh trong trắng. Nhƣng… ta không thể cứu anh đƣợc. Mà cho dù

ta có muốn cứu anh, ban lệnh xuống thì đã chắc gì quần chúng nhân dân ngƣời ta nghe cho? Cải cở thủ ti – Cải cách Ruộng đất là cuộc Cách mạng lớn nhất

trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong

cơn trời long đất lở này, sóng thần Cách mạng đang ào ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai ngƣời bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ

thƣờng tình. Miễn sao Cách mạng Thế giới đạt đƣợc thắng lợi cuối cùng!

Page 197: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 197

Có một ngƣời phụ nữ lòng dạ còn trong trắng tốt đẹp hơn anh, còn đáng thƣơng,

đáng quý hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một ngƣời đàn bà! Ta đau lòng

nhắc lại: Một ngƣời đàn bà! Anh đã nghe rõ chƣa? Vậy mà ta cũng không cứu đƣợc! Mong anh thông cảm cho ta…

Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù còn vọng lại tiếng sấm rền xa xa.

– Ta... không… thể… cứu anh đƣợc!

Thầy đổ vật ngƣời xuống, nằm lăn ra giữa đƣờng.

Page 198: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

198 Trần Thế Nhân

Chƣơng 42 PHÚT GIÂY… VĨNH BIỆT!

Mở mắt… Thầy thấy mẹ đang ngồi ở cái ghế nhỏ trƣớc mặt.

Vẫn chƣa tin đó là mẹ của các con. Trời ơi, mẹ gầy ốm sút đi đến không thể nhận ra. Có ai tin đƣợc rằng vợ của Mai Duy Vỹ, bà y sĩ ngày xƣa mà bây giờ

còn thảm hại hơn mụ ăn mày năm đói Ất Dậu 45! Làm gì đƣợc là đứa ở, con

nuôi, đầy tớ nhà họ Mai!

Mẹ nói, ông Đội trƣởng ngƣời Nghệ An cho phép vợ Mai Duy Vỹ đƣợc vào

thăm chồng… Nói xong, hai tay ôm mặt khóc. Thầy bảo, đời ngƣời sớm muộn

rồi ai cũng một lần ra đi. Anh sắp đƣợc gặp lại thầy mẹ, ông bà, tổ tiên… Mình em khóc thế đủ rồi, khóc nữa kiệt sức, dành sức ở lại mà nuôi con… Mẹ

nói, mình cứ yên lòng mà ra đi. Một phần đời em đã để dành ra phụng thờ ông

bà, tổ tiên, thì nay phần còn lại, xin trọn đời thờ chồng! Anh đừng quá lo mà

tâm linh làm bối rối, xao xuyến ngƣời ở lại. Trời sinh voi sinh cỏ. Các cụ đã dạy rồi. Mẹ con nhà Vỹ sẽ vƣợt qua cơn hoạn nạn này. Ngƣời ta không cho

mình ăn cơm thì mình ăn rau, ăn cỏ. Cùng đƣờng thì ăn cóc, ăn nhái, ăn châu

chấu… miễn là sống đƣợc!

Thầy bảo, nếu còn sống sót, em gắng nuôi dạy các con nên ngƣời. Đói cho

sạch, rách cho thơm. Dù trời long đất lở, xã hội loạn lạc, nhân tình đảo điên, vợ

con cũng phải cố mà giữ lấy phẩm chất, danh dự, đức hạnh của dòng họ Mai…

Thanh Tâm, Lệ Uyên dẫu là con gái, chúng nó vẫn đại diện cho nòi giống, phẩm tiết của dòng họ Mai. Đầu tháng này, Lệ Uyên bị ngộ độc sắn, không ai

vào báo cho thầy biết, chẳng ai cứu chữa cho con tôi cả, quằn quại ôm bụng

suốt cả một đêm, may mà qua khỏi. Phúc phận nhà họ Mai vậy là vẫn còn. Ôi, Thanh Tâm, Lệ Uyên, các con của tôi, nỗi đau lớn nhất của thầy trƣớc lúc ra đi

là không đƣợc ôm các con vào lòng!

Câu chuyện trao đổi tới đó thì anh dân quân vào báo Đội bảo hết giờ rồi, vợ thằng Vỹ phải ra ngay! Ừ thì nhờ ơn Đội mà vợ chồng Vỹ, thầy mẹ các con,

còn đƣợc gặp nhau. Đội mà không cho thì cũng đành chịu!

Mẹ nhìn thầy: Vĩnh biệt! Nói đƣợc hai tiếng rồi quay ra, nón rách úp vào mặt,

nức nở. Vĩnh biệt!

Đất trời sụp đổ. Trần gian tan nát…

Page 199: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 199

Chƣơng 43 NGÀY PHÁN XÉT CUỐI CÙNG. ÁN TỬ HÌNH

– Vỹ!

Thầy hơi giật mình, mở mắt ra. Họ vào khi nào mà mình chẳng biết?

Gần cả chục ngƣời đứng trong gian buồng chật, quần nâu áo nâu, đi chân đất,

thật khó phân biệt. Định thần một lúc thầy mới dần dần nhận ra. Bốn ngƣời

cầm gậy, quấn dây thừng. Một ngƣời vai mang khẩu súng trƣờng mut-ca-tông.

Một ngƣời có vẻ khác lạ bởi đôi dép lốp dƣới cái xà cột bên hông, chắc là ông Đội trƣởng. Từ khi bị bắt, sau hai lần đấu, có điều lạ là thầy vẫn chƣa tận mắt

nhận rõ mặt đƣợc ông Đội này. Nghe giọng nói, biết ngƣời Nghệ An, là bộ đội

Cụ Hồ…

– Tháo cùm ra, bắt ló đứng dậy!

Y tá Toành nói, vung văng tay chân, điệu bộ ra vẻ chỉ huy. Họ xúm nhau lại tháo cùm. Ổ khoá ngoắc nối dây xích cũ rỉ rét lâu ngày khiến họ loay hoay,

ngắc ngứ mãi với chìa khoá xoay vặn, kéo đi lôi lại làm vết loét hai cổ chân nhƣ

bị cƣa, bị cắt. Thầy kêu rên. Họ càng mạnh tay hơn.

Cùm lim vừa đƣợc tháo gỡ, lôi nhấc hai ống chân trầy trụa máu mủ, mụn nhọt

ra… họ để thầy ngồi yên một lúc. Hai anh dân quân xốc nách thầy đứng lên.

Thầy đổ vật xuống khiến hai chàng gầy ốm loạng choạng cũng muốn ngã theo.

– Ló đói đấy. Ló chƣa chết đâu mà no!

Vẫn giọng Toành, khó lẫn vào đâu đƣợc.

– Để cho ló thông cảm với cái khổ của bà con lông dân bị dòng họ Mai nhà ló

bóc nột đè lén hằng mấy mƣơi lăm lay.

Không thấy những ngƣời kia nói gì. Họ đƣa thầy ra ngoài cửa buồng giam, nói cho đúng hơn, cái buồng ngủ của ông từ canh giữ ngôi đình làng ta bao đời

nay.

Ra trƣớc sân đình, cái hơi khí tự nhiên của Đất Trời làm mình nhƣ đƣợc sống lại. Quên cả rét tháng chạp, phong phanh quần áo nâu rách, thầy ngƣớc nhìn

bầu trời xám: lớp lớp mây ùn ùn đang theo gió mùa đông bắc tràn về. Cảm tạ

Đất Trời! Thầy muốn kêu lên. Lạy tạ Nga Sơn, Mẹ quê hƣơng đã sinh ra con! Không nỡ tâm để Mai Duy Vỹ, đứa con tội nghiệp oan khốc phải chết trong

buồng giam, nơi xó đình mà đƣợc chết ở ngoài Đất Trời này! Chƣa kịp chắp

Page 200: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

200 Trần Thế Nhân

tay cúi đầu, quên mất rằng mình đang bị trói trật cánh khuỷu hai tay sau lƣng,

xƣơng khớp hai ống chân nhƣ đã gẫy rã ra, thầy khuỵu gục xuống sân đình.

“Thằng Vỹ đói! Phải cho nó ăn cái gì để nó tỉnh dậy rồi mới dẫn nó ra ngoài trƣờng đấu đƣợc…”

Có ngƣời đƣa ra ý kiến nhƣ vậy. Giọng nói của một ngƣời xa lạ không phải ngƣời trong làng này. Một ngƣời đàn bà!

Một ngƣời nữa lôi chiếc chiếu rách từ trong đình ra trải phủ lên ngƣời thầy.

Khoảng dăm mƣời phút sau, họ kiếm đâu ra đƣợc một khúc sắn luộc đã nguội lạnh, gại gại cọ cọ mồm thầy, bảo ăn đi… Sực nhớ tới lời các cụ năm xƣa, ai

đi về Bên Ấy mà không có cái gì lót dạ, ngƣời ấy sẽ trở thành con ma đói, lang

thang vật vờ khắp Âm phủ… Đã bao lần trong nhà thƣơng, chứng kiến cảnh

ngƣời bệnh lúc sắp chết, cố gƣợng dậy để ngƣời nhà đút vào mồm thìa cháo, miếng cơm, ngậm cả thịt gà, thịt lợn… thầy cũng cố ngậm lấy khúc sắn và

nhai… để còn kịp nhận ra quanh mình hiện tại là những con ngƣời chứ không

phải những con quỷ.

Lạy trời! Lạy ngƣời! Con xin cắn cỏ ngậm vành cái ơn sâu ngƣời đàn bà nào đã

động lòng nghĩ tới chuyện cho Mai Duy Vỹ ăn cái gì đó trƣớc khi chết!

Thầy mở mắt… Bây giờ là mấy giờ? Buổi sáng hay buổi chiều?

Đột nhiên, một con quạ đen nãy giờ đậu trên nóc đình rƣớn mình, đập cánh rồi

lao thẳng vào bầu trời nhƣ quả đạn moóc-chi-ê… Quạ… ạ! Qu… ạ! Nó kêu lên. Tƣởng đâu nó biến mất, ai ngờ một lúc sau lại quay trở lại, bay một vòng

trên đầu mọi ngƣời. Quạ… ạ! Quạ… ạ! Họa! Họa!… Từ mỏ nó nhƣ vừa rớt ra

một cái gì không phải con mồi mà là vệt máu!

Rồi, thật trùng hợp kỳ lạ! Một bầy ong vỡ tổ, vù vù bay qua, cứ nhƣ một đám

ngƣời chạy loạn, chạy giặc.

Họ lại dựng thầy lên. Hai ngƣời xốc nách hai bên. Kéo lê lết đi đƣợc chừng mƣời bƣớc, họ phải dừng lại. Hai chân thầy nhƣ đã gẫy đôi không thể nào đặt

bƣớc lên đất. Từ đây ra tới đấu trƣờng-bãi bắn còn cả một đoạn đƣờng không

phải ngắn. Chỉ còn cách là đặt thằng Vỹ lên xe bò rồi cho trâu kéo. Họ bàn nhau… Con trâu thì có thôi nhƣng xe bò kéo thì kiếm đâu ra. Họ lại đƣa ra

sáng kiến cho Vỹ ngồi vào cái thúng, đặt vô quang gánh, rồi dùng đòn càn

lồng vào quang gánh để hai ngƣời khiêng đi. Ngƣời đề xƣớng ra cách lối tiện lợi này là cò Toe, từ nãy giờ đứng khuất ở phía sau, nhƣng lập tức bị y tá

Toành phản đối. “Nàm nhƣ thế hoá ra nà mình hầu hạ địa chủ, khiêng cáng ló

nhƣ ngày xƣa khiêng võng cáng quan huyện, nhƣ thế nà lô nệ…”

Page 201: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 201

Ý kiến của hĩm Xoa đƣa ra xem chừng đƣợc hơn cả, tức là, trói chân trói tay

thằng Vỹ lại rồi buộc nó vào cây luồng, thay nhau khiêng đi. Nhƣ thế, vừa

nhanh chóng thuận lợi, đỡ mệt nhọc, mà lại còn hạ đƣợc uy thế của giai cấp địa chủ bóc lột, phản động…

Rồi mặc cho thầy đau đớn kêu rên, họ làm xong công việc đó chẳng mấy khó

khăn.

– Đồng bào, đồng chí chú ý!

Từ ngọn cây xoan gần trụ sở Uỷ ban cũ, một ngƣời ngồi trên hai chạc cây tay cầm cái loa sắt tây, mồm áp sát… đang đọc theo lời một ngƣời ngồi bên tay

cầm tờ giấy có ghi những dòng chữ…

– Đồng bào, đồng chí chú ý! Đúng hai giờ chiều nay xin mời tất cả bà con ta, bần cố nông, Quân Chủ lực Nông dân, trung nông lớp dƣới… không kể trung

nông cứng, phú nông… trẻ già lớn bé, tập trung trƣớc trụ sở Uỷ ban cũ, xếp

hàng theo tổ chức đoàn thể… sau đó, chúng ta sẽ kéo quân ra trƣờng đấu để tham gia đấu tranh, đấu gục tên địa chủ bóc lột phản động, thằng Việt gian bán

nƣớc Mai Duy Vỹ...!

Hôm nay là 27 tháng Chạp, Đội sẽ thi hành bản án, tuyên án tử hình tên địa chủ phản động, thằng Việt gian bán nƣớc Mai Duy Vỹ để bà con nông dân ta,

các đồng chí chúng ta đƣợc ăn một cái Tết Nguyên Đán cho thêm phần vui vẻ,

phấn khởi! A lố! A lồ!

Nhƣ vậy là mình sắp chết rồi. Họ giết mình thật sự chứ không phải đem mình

ra đấu nhƣ hai lần trƣớc đây.

Cái Chết đến thật rồi mà sao Mai Duy Vỹ còn trông chờ… Trông chờ cái gì nữa! Mai Duy Vỹ vẫn còn ngây thơ, ngây thơ suốt cả một đời ƣ? Thậm chí, Vỹ

còn nhìn lên mấy cành xoan trụi lá mùa đông và nhớ tới ngày nào!

Lệ Uyên ơi! Ngày nào, năm nào đây thầy còn cõng con trên vai. Con nhong nhong ngồi trên đôi vai thầy, hai chân thõng xuống. Cha con mình đi dạo mát

buổi chiều, qua chỗ này đây… Mảnh trăng rằm hôm ấy hiện ra sau rặng cây

xoan này, tròn to và sáng đến nỗi khi thầy giơ tay chỉ cho con xem Ông Trăng kìa, Ông Trăng đang đậu trên cành xoan, thì bé Uyên cứ đòi thầy, thầy ơi, cho

con Mặt Trăng! Đòi cho bằng đƣợc Mặt Trăng, dẫy nẫy lên, hai chân đạp đạp

vào ngực thầy! Về tới nhà rồi mà vẫn còn đòi, còn khóc, chƣớng ách là thế… đến nỗi bà nội phải kêu lên: Anh Vỹ ơi! Anh nuông chiều con quá đấy, rồi anh

làm hƣ con mất thôi! Phải nghiêm khắc với con…

Ừ, thế đấy… Hoá ra một đời Mai Duy Vỹ cho tiền, cho gạo, cho thuốc men, cho cả bàn tay mổ xẻ, hiến cả xƣơng máu… Cho không thiên hạ hết mọi thứ! Vậy

Page 202: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

202 Trần Thế Nhân

mà rồi, có cái Mặt Trăng kia vẫn không làm sao lấy cho con gái mình đƣợc.

Đời vô lý, bất công là thế đấy!

Chuyện tự nhiên, dễ hiểu thế mà sao Vỹ không thấy đƣợc! Vỹ không biết thƣơng cho chính bản thân hắn, vợ con hắn, thì bây giờ đến lúc cơ nhỡ này

đây, còn ai vào đó mà cứu hắn đƣợc nữa! Hắn phải tội chết là… đáng đời!

“Không có cái gì lạ dƣới ánh sáng mặt trời!” Thầy chợt nhớ tới câu nói không

biết ở đâu, của ai mà ông bác sĩ ngƣời Pháp ở nhà thƣơng Thanh Hoá vẫn hay

nhắc tới những lần gặp gỡ, mỗi khi bắt tay vào việc.

Và bây giờ kìa, mặt trời đang mờ mờ rọi ánh qua đám mây ngầu đục trên đầu

mình kia cũng nhắc lại cho mình biết cái Chân lý đó. Phải rồi, tất cả đều đảo

điên, giả trá và lừa dối hết, chỉ còn lại đôi mắt của con tôi, đôi mắt của Lệ

Uyên đang nhìn cha nó, đôi mắt ấy là thật. Thầy đang đếm từng phút, từng giây cuộc sống để tính xem mình còn đƣợc sống với đôi mắt con hiện ra đƣợc bao

lâu? Ôi! Con gái thƣơng của thầy mẹ! Mai sau lớn lên xin con đừng oán trách

cha!

– Đặt nó xuống đây thôi!

Ngƣời khiêng đằng trƣớc bỗng thốt lên.

– Tôi cũng gãy cả xƣơng bả vai ra.

Ngƣời khiêng đằng sau phụ họa theo. Thầy không biết hai ngƣời này là ai, ở đâu trong xã này. Vừa nói xong cả hai đã quẳng vứt “thằng Vỹ” xuống bên

đƣờng. Họ làm nhanh đến nỗi thầy tƣởng cột xƣơng sống mình gẫy đôi một

cái rụp.

Y tá Toành lên giọng cha bố:

– Ló chỉ còn xƣơng với da, lặng gì mà lặng đến lỗi phải bỏ ló nại đây hử?

Hai ngƣời vặc lại:

– Nặng chứ sao không nặng? Sao đồng chí không ghé vai vào mà lại bắt bọn

này khiêng?

– Từ sáng tới giờ bầy choa cũng chỉ đƣợc hớp cháo vào bụng…

Y tá Toành vênh váo:

– Tao ấy à? Đời lào tao khiêng! Cả một đời tao hầu hạ ló, ló áp bức đè lén tao

chƣa đủ sao hử?

Ông Đội cất giọng Nghệ An phân xử:

Page 203: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 203

– Thôi mà, các đồng chí! Gắng thêm một đoạn nữa, đến lối rẽ vào đấu trƣờng ta

sẽ dừng lại, bắt nó đứng dậy, đƣa dẫn nó vào. Các đồng chí có phải khiêng nó

vào tận trƣờng đấu đâu mà sợ! Thôi đừng cãi nhau nữa! Gắng lên! Nào…

Hai ngƣời dân quân lại đặt đòn ống lên vai. Nhất Đội nhì Trời! Đội đã nói là họ

phải nghe thôi.

Ông Đội lý giải thêm:

– Đến đó rồi, dù hắn có nằm liệt đi nữa, các đồng chí cũng dựng cổ dậy, kéo

lết nó vô… để cho đồng bào, đồng chí tận mắt nhận dạng vạch mặt chỉ tên hắn… có nhƣ thế mới cổ vũ đƣợc tinh thần, nâng cao đƣợc sức mạnh đấu

tranh!

Quả nhiên, Đội khiến Trời xui thế nào mà họ khiêng vác thầy tới cái chỗ rẽ vào trƣờng đấu rồi đặt xuống một cách nhẹ nhàng hơn, không đến nỗi dữ dằn

nhƣ quăng tảng đá, ném con chó lúc nãy. Tháo dây trói ra khỏi cây luồng, đòn

khiêng, rồi để “thằng Vỹ” nằm trên bãi cỏ một lúc, chính họ cũng ngạc nhiên thấy thầy chẳng những chƣa liệt bại, chết ngắc mà còn cụ cựa rồi mở mắt ra

nhìn. Thầy bắt đầu cảm nhận, hiểu ra, chính cái không khí tự nhiên ngoài trời

đã làm cho mình tƣơi tỉnh, khoẻ khoắn cho dù bị trói cột khiêng đi nhƣ con

lợn, con chó.

Ôi! Cái buồng giam khủng khiếp! Cái nhà tù kỳ quái rùng rợn đã giết dần giết

mòn mình cả mấy tháng nay!

Biển động. Ồ biển động. Rõ ràng thầy đang nghe tiếng sóng ầm ì, theo gió rì

rào ngoài biển từ Hòn Nẹ lùa vào đồng cói. Biển động. Gió thổi. Hơi thở của

Đất Mẹ Nga Sơn lay động những cành cây ngọn cỏ, đang mơn man hai bên má thầy!

Nhƣng có một cái biển khác, biển ngƣời trên đấu trƣờng đang ầm ào gào thét

bên tai thầy, không thể lầm lẫn vào đâu đƣợc.

– Đả đảo Mai Duy Vỹ, tên địa chủ cƣờng hào áp bức bóc lột nông dân, thằng

Việt gian phản động bán nƣớc!

– Đả đảo!

– Đả đảo!

Cái âm tiếng “đảo” kéo dài ra nghe ảo ảo, ào ào, rạo rạo nhƣ gƣơm đao cọ xát.

– Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!

– Vùng lên!

– Vùng lên!

Page 204: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

204 Trần Thế Nhân

– Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!

– Muôn năm!

– Hồ Chủ tịch muôn năm!

– Muôn năm!

Lặng đi một lúc lại ầm ầm vang dội:

– Đại nguyên soái Xiết-Ta-Liên muôn năm!

– Mao Chủ tịch vĩ đại muôn năm!

– Muôn năm! Muôn năm!

– Hoan hô Ngƣời Anh Cả Trƣờng Chinh!

– Hoan hô đồng chí Hồ Viết Thắng!

– Hoan hô! Hoan hô!

Rồi ào ào tiếng kêu la lẫn tiếng gào thét hổ lốn, lẫn lộn:

– Hoan hô các đồng chí Cố vấn Trung Quốc sang giúp ta đánh bại kẻ thù giai

cấp, đấu gục bọn địa chủ ngoan cố phản động!

– Hoan hô! Hoan hô!

– Cải cách Ruộng đất long trời lở đất thắng lợi và thành công muôn năm!

– Muôn năm! Muôn năm!

Tiếng vỗ tay đồng loạt nhịp nhàng hoà theo tiếng hát của thiếu nhi lẫn thanh

niên, xoay đi vần lại:

Mí đồ đồ đồ phá mí rê

Rế đô xì đô rế xồn xồn

Đồ mí! Rề phá!

Mí rê đô xồn đô đô đô…

Lại tiếp theo bài hát khác, có tiếng trống đệm nghe nhƣ tiếng súng, đứng tim

dựng óc ngƣời ta lên:

Chúng ta cùng nói vì chúng ta căm thù

Cùng tố rằng địa chủ giết người

Loài rắn độc thâm hiểm nhất đời

Nhớ lấy từng lời bần cố nông ơi!

Chúng ta thề đánh vào đầu đế quốc!

Nó thông đồng với địa chủ thu tô.

Cùng tiến lên xây đời Tự do...!

Page 205: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 205

Rồi biển ngƣời lại cùng tấu lên, không ra hát cũng chẳng ra nói:

– Liên Xô ngày nay là Trung Quốc ngày mai!

– Trung Quốc hôm nay là Việt Nam ngày mai!

– Ngày mai! Ngày mai!

– Đời đời nhớ ơn Đảng ta vĩ đại!

– Đời đời nhớ ơn Bác Hồ!…

– Đời đời! Đời đời!

– Nhớ! Nhớ!

– Ời ời!

– Ớ ớ!

Long trời lở đất một lúc. Biển ngƣời Quân Chủ lực Nông dân lại im lặng. Im

lặng lần này lạ lùng và khó hiểu. Cái bẫy đang rình chờ con thú mồi… Nhƣng

bẫy hay không bẫy thì còn để làm gì nữa, Vỹ ơi! Đời anh cũng đã sập xuống rồi!

Tùng! Tùng! Tùng! Tùng!

Một hồi trống vang lên nghe nhƣ nòng súng bắn cách quãng rồi nhanh dần.

Một hồi trống nữa tiếp liền. Tiếng vọng từ Âm phủ về, từ Địa ngục lên. Thầy giật mình. Cả lũ cũng mất bình tĩnh.

Ông Đội trƣởng nói:

– Các đồng chí dẫn Mai Duy Vỹ vào!

Y tá Toành đứng gần bên, đế theo:

– Thằng Vỹ đứng nên! Anh em ta dẫn ló đi!

Hai anh dân quân cúi xuống, thò tay qua nách, xốc thầy ngồi dậy.

Họ định lôi đi, kéo lê cái xác chết Mai Duy Vỹ vào trong bãi bắn nhƣ thế này

hay sao? Một ý nghĩ thoáng qua. Tia chớp loé trong đầu. Cụ Cử Mai Duy

Hiển, thân phụ ông Cử Mai Duy Hoà, ngƣời mà Mai Duy Vỹ gọi bằng ông nội,

Mai Lệ Uyên gọi bằng cố nội… hiện ra? Cổ đeo gông, tay khoá, chân xiềng xích… Cố đang lê bƣớc giữa hai hàng lính bảo hộ. Vừa là bạn, vừa là đồng chí

của Đinh Công Tráng, cụ Cử họ Mai bị Pháp giết trong khởi nghĩa Ba Đình.

Dòng họ Mai chúng ta dẫu thế nào, cũng không chịu mang khí huyết nô lệ trong ngƣời…

Page 206: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

206 Trần Thế Nhân

Thầy khẽ gạt tay hai ngƣời dân quân:

– Xin các ông cho tôi…

Họ ngạc nhiên, dừng lại.

– Cho tôi đƣợc đứng lên, tự đi…

Thầy từ từ đứng lên, loạng choạng. Đất dƣới chân nhƣ sụt lở…

Y tá Toành lải nhải:

– Ló giả vờ đấy. Ló đi đƣợc. Cái đồ địa chủ bóc nột, phản động, bán lƣớc hại lòi, đụng vào ló nàm chi cho bẩn nhớp tay chân…

Thầy quay sang nhìn thẳng vào mặt hắn. Con rắn độc ngóc đầu trân trân nhìn

lại rồi không hiểu sao cụp mặt xuống.

Ông Đội trƣởng sốt ruột, nói nhƣ gắt:

– Đồng chí Toành! Đủ rồi, thôi đừng nói nữa! Khổ quá! Dẫn nó đi ngay!

Thầy loạng choạng bƣớc. Đã xuýt ngã chúi xuống, may có hai anh dân quân đƣa tay ra đỡ…

– Cảm ơn…

Thầy nói lắp. Rét run và xúc động. Cảm ơn… Hai tiếng “merci”… cảm ơn đã

phát ra thành thói quen suốt một quãng đời sống và làm việc ở nhà thƣơng Thanh Hoá, không hiểu bây giờ là lần thứ mấy, có lẽ là lần cuối cùng!

Cảm ơn. Thầy gắng sức đặt từng bƣớc chân… Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn đã cho

con khí huyết, dòng sống họ Mai, từ khi ngƣời con đầu tiên của dòng họ – Mai An Tiêm – bị vua Hùng Vƣơng thứ 4 phạt tội đày ra đảo xa ngoài biển này.

Cảm ơn Đất Mẹ Nga Sơn lần cuối cùng lại cho con vùi xác vào trong lòng

Mẹ… Cảm ơn!

Thầy đi. Nhích chân từng bƣớc. Từng bƣớc của Con Ngƣời.

– Đả đảo thằng Vỹ địa chủ bóc nột, cƣờng hào áp bức, cƣớp thóc núa, nhai

xƣơng uống máu bà con lông dân!

– Đả đảo! Đả đảo!

– Đã đảo thằng Vỹ, tên Việt gian bán lƣớc, hại lòi, con chó săn đắc nực của đế

quốc phong kiến!

– Đả đảo! Đả đảo!

Page 207: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 207

Y tá Toành bƣớc vội lên trƣớc, đầu ngoái sang trái rồi quay sang phải, tay

vung lên hô la. Hắn ta hét đến vỡ họng, giọng khản đặc. Cái giọng thuốc lào

Thái Bình (hay Nam Định?) của Toành dù có sang tới Bên Ấy thầy cũng không quên.

Trời rét. Rét đến nỗi hai bàn chân nứt nẻ, ống chân khô cứng co rút, lại thêm

hai tay bị trói trật cánh khuỷu ra sau lƣng, mấy lần dúi dụi ngã xuống mặt đất.

Vậy mà, Lệ Uyên ơi, thầy cảm nhận cái giá rét của Đất Mẹ Nga Sơn một cách dễ chịu, gần nhƣ sung sƣớng. Cảm tạ mùa đông Xứ Bắc! Không có cái lạnh của

Đất Mẹ làm sao con đƣợc hƣởng hơi ấm ngọn lửa thiêng của hạnh phúc sum vầy

dòng họ, tổ tiên, gia đình… nhất là vào những ngày giáp Tết, chuẩn bị đón xuân nhƣ hôm nay: 27 tháng Chạp – Ất Mùi – 1955!

Ôi! Cái thời đại loạn lạc, đảo điên, băng hoại, vô đạo, vô luân!

Con ngƣời muốn tồn tại, muốn sống, dẫu đã giả ngu, hoá hèn, trở thành con vật rồi vẫn cứ bị giết chết! Phải làm ma, làm quỷ kia thì không chỉ sống thôi

đâu, mà còn đƣợc hiển vinh cao sang nữa! Mai Duy Vỹ ơi! Anh đã… ăn hết

Quả Lừa chƣa?

Gió thổi lao xao chen sóng biển rì rào… Âm thanh hoà trộn mà rành rọt đáng yêu sao từ xa khơi vào, lƣợn vòng dãy núi Tam Lênh, qua những rặng vẹt,

đồng cói mênh mông u buồn; lại hoà điệu cùng lời ca, tiếng vọng của ai xƣa…

lênh đênh qua cửa Thần Phù, khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm… vừa đến bên tai thầy u u ƣ ƣ… một hồi dài. Làn sóng âm thanh đó tự nhiên lại tách bạch, rõ

rệt, rành rọt:

“Ngu! Ngu! Còn ngu! Còn ngu lâu! Chƣa hết đâu!”

Rồi loé chói lên trong đầu nghe nhƣ tiếng sét đánh:

“Ai bảo khôn cũng chết, dại cũng chết, biết… thì tƣởng rằng khỏi chết hay

sao? Xì! Thôi đi! Cái điều cũ kỹ mấy ngàn năm nghe đi nghe lại, cứ tƣởng là

mới mẻ hay ho lắm! Biết rồi cũng chết! Chỉ có chết rồi mới hết… Hết mà vẫn …còn.”

Vâng! Con biết con ngu, con ngu mà! Con có nói gì nữa đâu!

Con ngu vậy là còn ít, Vỹ ơi, bởi con ngây thơ và thật thà. Thánh thần, vĩ nhân kia cái bọn ranh ma độc ác đó mới thật là ngu, ngu hết chỗ nói…

Và Cái Chết! Cái Chết đã hiện ra trƣớc mắt con kìa!

Cái Chết…

Page 208: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

208 Trần Thế Nhân

Vẫn là cái bãi tha ma ấy… Ngày xƣa, có lần thầy theo anh Nuôi, hai anh em

cùng cỡi trâu ra đây cho trâu ăn cỏ, ngồi thả diều, đánh khăng…

Ngày ấy, cỏ mọc xanh lút mồm trâu bò, bây giờ hoang sơ cằn cỗi. Nơi đây, bây giờ là chỗ tập trung ngƣời để mít tinh, biểu tình của làng xã. Bƣớc chân ngƣời

giẫm đạp, tiếng ngƣời vỗ tay, thét loa, hò la… từ ngày Khởi nghĩa tới nay, làm

cho cỏ cũng sợ hãi mọc ít đi, không lớn nổi, trâu bò cũng ít tới… Một phần rẻo

đất bên kia nay đã lô nhô hiu hắt những nấm mồ.

Vẫn là cái “khán đài” dựng lên trên mô đất cao gồm mấy bộ bàn dài bằng gỗ

kê sát nhau. Ghế ngồi là mấy cây tre giằng, cây luồng ghép, đặt buộc lên

những cọc gỗ…

Cũng nhƣ hai lần đấu trƣớc, ngƣớc nhìn lên thầy đã thấy những khuôn mặt cũ,

ông Đội trƣởng Đội Cải cách Ruộng đất ngồi trên đó, còn một bà Đội nữa đang

đứng lẫn trong đám quần chúng, Quân Chủ lực Nông dân. Tám chín “cốt cán” Đội đã “xâu chuỗi bắt rễ” tách ra đứng một chỗ phía dƣới “khán đài”, mấy

ngƣời dễ dàng nhận ra: vợ chồng Cò Toe, Hĩm Xoa, thím Đông, y tá Toành…

Còn mấy ngƣời nữa trông quen quen nhƣng không nhớ tên, hình nhƣ Đội mới

xâu chỗi bắt rễ thêm?… Không thấy mặt chú Đông!

Y tá Toành sau một lúc lăng xăng đi lui đi tới dƣới “khán đài”, cũng đã thấy

leo lên ngồi trên hàng ghế lãnh đạo, Chủ tịch đoàn…

Trên đầu những ngƣời này là ba bức ảnh treo khung gỗ: chân dung Bác Hồ, Bác Mao và đồng chí Malencốp. Ngọn cờ đỏ sao vàng buông rũ, khẽ dật dờ

trong gió. Hai bên, hai băng khẩu hiệu bằng cót, quét vôi trắng, nền chữ đen đỏ:

Đảng Lao động Việt Nam muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm! Toàn dân đoàn kết, quyết tâm đấu gục tên địa chủ phản động bán nƣớc Mai Duy Vỹ!… Vẫn là

mấy câu khẩu hiệu của hai lần đấu trƣớc, đem ra treo dựng lại, nhƣng hôm nay

có một cái bảng cót trông không lớn lắm, chữ viết nguệch ngoạc, lại đƣợc cắm

ngay dƣới chân “khán đài” trƣớc mặt Quần chúng Nông dân Chủ lực: “Lợ máu phải đền lợ máu!”

Thầy chƣa kịp nghĩ gì về mấy chữ “máu” này thì bàn chân đã dừng lại trƣớc

cái hố hình chữ nhật đào sâu khoảng hai gang tay…

Hai lần đấu trƣớc thầy đã phải quỳ trong cái hố này, cúi đầu xuống, cấm không

đƣợc ngẩng mặt lên, để cho các đồng chí cốt cán bần cố nông đƣợc Đội xâu

chuỗi bắt rễ đứng ngay trên miệng hố gào thét, xỉa xói, tố hết nỗi khổ đau của

họ, tội ác trời không dung đất không tha của thầy… Họ đứng trên cao, trƣớc miệng hố mới nổi bật lên đƣợc uy thế bần cố, xƣa là nô lệ nay là Ông Bà Chủ;

còn mình quỳ ở dƣới hố bây giờ không đƣợc là cái con chó, con sâu bọ…

Page 209: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 209

“Vỹ ơi! Anh đang nhìn cái gì đấy?”

Lạ thật. Có tiếng ai đang thủ thỉ bên tai mình? Vẫn là cái hố hôm trƣớc, có gì

lạ đâu. Lại nghe tiếng ai kêu đến lạc cả giọng:

“Nhìn về bên trái! Mắt với mũi! Phía tả! Cánh tả!”

Thầy chợt nhận ra cây cột ngƣời ta mới đào đất chôn từ sáng nay. Một đoạn

luồng ngâm dài đã cắm sâu dƣới đất để họ trói đứng mình vào cột rồi vẫn còn

dôi ra một khúc, nhô lên trên đầu chừng 20 phân.

“Lùi lại sau lƣng dăm bƣớc chân thôi, cái huyệt ngƣời ta đào sẵn, đất cát ùn

chất lên cả đống kìa! Anh không thấy à? Lúc nào anh cũng thật thà, ngây thơ

đến dại dột! Cái huyệt ấy, ngôi nhà Vĩnh cữu, Cách mạng ruộng đất chia phần cho anh… Đã thấy chƣa?”

Thầy đang định ngoái cổ lại nhìn thì bóng hình ai kia trông quen quá đã hiện ra

ngay trƣớc mặt, một nụ cƣời nhân hậu buồn buồn…

“Đồng chí Mai Duy Vỹ! Anh Vỹ… Tôi, Trần Vĩnh Quyền, chủ tịch Uỷ ban

Kháng chiến Hành chính xã Nga Phú… bạn học cũ, bệnh nhân của anh đây.

Tôi đi trƣớc anh… Họ vừa mới tử hình tôi ngay dƣới chân núi An Tiêm. Sáu

viên đạn súng trƣờng vào ngƣời. Một viên đạn súng lục vào thái dƣơng bên trái. Một đầu đạn còn mắc ở trong ngực, chếch lên phía bả vai trái… Chào

Vĩnh biệt!”

“Vĩnh biệt!” Thầy vừa định kêu lên thì bác Quyền, Trần Vĩnh Quyền chứ không thể là ai khác lại hiện ra…

“Anh Vỹ! Xin báo cho bạn của tôi biết một tin mới. Có thể đây là thông điệp

của Yavê Thiên Chúa? Trên đƣờng tôi trở về Nƣớc Chúa thì ngƣợc đƣờng Bên Ấy có một ngƣời chạy bộ từ thị xã Thanh Hoá về tới Nga Sơn mang theo mệnh

lệnh của Đoàn Cải cách Ruộng Đất, coi nhƣ Bộ Tổng Chỉ huy hoặc Toà án Tối

cao, tạm hiểu nhƣ thế nhé… Cái lệnh truyền mồm ấy là “Huỷ bỏ bản án tử hình

có chữ ký của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần Vĩnh Quyền!”

Cảm ơn ngƣời anh em đồng chí tôi không đƣợc biết tên đã lập một kỷ lục chạy

bộ ma-ra-tông mới cho nƣớc nhà trên đoạn đƣờng dài 40 ki-lô-mét.. khi bàn

chân đất không dày dép, toạc da, toé máu vừa tới chân núi An Tiêm, truyền đƣợc khẩu lệnh mồm thì anh này đã gục xuống bất tỉnh!

“Huỷ bỏ án tử hình có chữ ký của bà Đội Lê Thị Choét! Tha chết cho Trần

Vĩnh Quyền!”

Page 210: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

210 Trần Thế Nhân

Trần Vĩnh Quyền đây! Tôi đã nghe rồi! Lạy tạ Đất Mẹ Nga Sơn! Vĩnh biệt bà

con Nga An! Tôi đang trên đƣờng về Nƣớc Chúa mang theo 40 tuổi đời, bốn

ngàn năm tuổi nƣớc… Mình đi trƣớc nhé, Mai Duy Vỹ ơi! Vĩnh biệt!”

“Vĩnh biệt!” Môi thầy mấp máy, lặp lại. Thầy chỉ muốn kêu to lên… nhƣng bàn

tay ai từ phía sau đã chụp lấy vai phải, lôi lại, ấn xuống.

– Vỹ! Đứng lại!

Thầy dừng lại.

– Quỳ xuống!

Chƣa kịp quỳ xuống, hai ngƣời hai bên đã kéo lôi, đẩy thầy xuống hố cạn

trƣớc mặt. Sợi dây thừng trói cột hai tay làm thầy loạng choạng ngã chúi. Đầu đập vào cạnh hố, môi răng dính đầy đất cát, mông đít chổng lên… Họ phải thò

tay xuống vực dậy, để thằng Vỹ có thể co duỗi quỳ dƣới hố.

Trận mƣa đêm qua làm lớp đất mùn bên trên còn ƣớt dính nhoe nhoét. Một con nhái bén nhảy lên đậu vào vành tai thầy, vừa rớt xuống dƣới bụng lại bò

lên đầu gối… Kìa, nó nhìn thầy! Ôi! Con vật đáng yêu! Chẳng cứ gì mày mới

có vẻ đẹp tự nhiên, hiền hoà, mà rồi đây, cả đến dòi bọ, mối, đục khoét thân

thể ta… cũng chẳng có gì đáng gọi là xấu! Chỉ có con ngƣời! Con ngƣời! Giống loài hung dữ độc ác nhất trên Trái Đất, thứ khổng trùng dịch bệnh

khủng khiếp mà Louis Pasteur, Robert Koch, Alexandre Yersin cũng không ngờ

tới, hình dung nổi!

Tiếng loa ọ ẹ cất lên.

Ông Đội nói tiếng Nghệ An thông báo cho bà con nông dân buổi đấu tố lần thứ

3, lần cuối cùng hôm nay bắt đầu. Để đảm bảo thắng lợi to lớn của cuộc Cách mạng long trời lở đất, Ông Đội đề nghị tất cả mọi ngƣời có mặt hôm nay, Quân

Chủ lực Cách mạng phải ra sức phát huy cho kỳ hết lòng căm thù giai cấp, tinh

thần đấu tranh kiên cƣờng bất khuất để đấu gục tên địa chủ ngoan cố nham

hiểm, thằng Việt gian phản động, bán nƣớc Mai Duy Vỹ!

“Thành tích cách mạng hôm nay…” – ông Đội la to – “chúng ta sẽ dâng lên

Bác, Trung ƣơng Đảng và Chính phủ, làm tấm gƣơng sáng cho cuộc đấu tố

điển hình không chỉ toàn huyện Nga Sơn mà toàn tỉnh Thanh Hoá chúng ta!”

Tiếng trống đánh điểm nhịp cho tiếng hoan hô nổi lên nghe nhƣ tiếng súng.

Trong rừng cánh tay vung lên có chừng dăm bảy khẩu súng trƣờng, mấy chục

cây gậy, còn lại là thuổng, cuốc, mã tấu, dao… Cũng nhƣ hai lần trƣớc, thầy dễ

dàng nhận thấy có những cánh tay giơ lên nửa chừng cùng những tiếng hô rụt

Page 211: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 211

rè, phải phép, những ánh mắt sợ sệt… Ai đó? Ai mà không sợ ông Đội hơn sợ

Trời, sợ ngƣời… sợ cả chính mình?

– Vỹ!

Thầy ngƣớc đầu nhìn, ngạc nhiên hơn là… sợ hãi. Chú Đông, Mai Duy Đông

nhà ta đang đứng trƣớc mặt, giơ ngón tay trỏ xỉa vào mặt thầy.

– Cúi đầu xuống! Mi có biết tao là ai không? Thầy cúi đầu, nói nhỏ:

– Dạ, tôi không biết.

– Láo! Biết chứ răng lại không biết! Thằng này…

– Dạ. Vì tôi phải cúi đầu xuống, có đƣợc ngẩng đầu lên đâu mà bảo tôi nhìn ra

ông là ai?

Thầy ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mặt chú Đông.

Có tiếng ồn ào ở phía dƣới. Trong đám đông hình nhƣ có tiếng ai cƣời. Vài

tiếng la, hô “đả đảo”.

– Phải bắt thằng Vỹ ló xƣng nà con, thƣa với bà con lông dân nà ông bà lông

dân… không đƣợc phép gọi mình nà tôi!

Y tá Toành đứng ra để nhắc nhở Lê Trạch Đông, còn là để lấy oai.

Đƣợc tiếp sức, Đông chồm lên hét to:

– Nói đi! Tao là ai, mi có biết không?

– Dạ, thƣa ông – thầy điềm đạm từ tốn – ông là Mai Duy Đông, em của tôi…

– Láo! Tao không có anh em gì với mi! Tao là… là... Lê Trạch Đông, là đứa ở của nhà mi. Cha mẹ mi, hai đứa bóc lột tao, đè nén áp bức tao suốt ba mƣơi

năm, bắt tao ăn đói nhịn khát, cực khổ còn hơn con chó… để còn hầu hạ vợ

chồng mi…

– Dạ thƣa ông Ma… à quên (xuýt nữa thì thầy gọi “Mao” cũng bởi dòng họ

nhà ta là Mai, tự nhiên mình lú lẫn)… ông Trạch Đông, ông không muốn nhận

mình là con cái nhà họ Mai nữa, cái đó là quyền của ông. Còn đối với tôi thì

trƣớc sau ông vẫn là Mai Duy Đông, cha mẹ tôi nuôi nấng ông từ lúc ông mới sinh ra, tìm thấy ông nằm trong cái tã váy rách ở bụi xƣơng rồng trƣớc cổng

nhà vào một sáng mùa đông… Tôi không muốn nhắc lại làm gì bởi vì ở Nga

Sơn này nhiều ngƣời còn nhớ và… chắc ông cũng biết!

– Mi nói láo! Mả bố mả mẹ mi, tao nói cho mi biết, tao có cha, có mẹ hẳn hoi.

Tao con nhà cố nông, vì nghèo khổ quá, cha mẹ tao bắt tao đi ở cho nhà mi để

Page 212: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

212 Trần Thế Nhân

gán nợ… ba đời! Cái dòng họ Mai bẩn thỉu chó má của mi tao thèm vào! Tao

là con của nông dân, sinh ra trong thành phần bần cố nông nghèo khổ. Đội Cải

cách đã cứu sống tao. Đảng cho tao làm ngƣời. Mi hiểu chƣa? Vỹ!

– Dạ, thƣa ông Đông, tôi hiểu…

– Đã nói rồi! Không đƣợc xƣng với tao (chú Đông vỗ ngực) là tôi, mi phải

xƣng mi là con chó, con lợn…

– Dạ, con chó con lợn này xin…

Quả thật, thầy cũng thấy lúng túng cứ phải xƣng hô theo kiểu con chó con lợn

này… May mà con chó nó chỉ biết sủa, con lợn nó chỉ biết ụt ịt chứ không

thì… Ôi, khốn khổ cho cái kiếp con ngƣời ta!

Thầy im lặng. Chú Đông dừng lại, thở hổn hển. Đột nhiên, chú hét rất to nhƣ

có ai bày cách cho phải làm nhƣ thế.

– Vỹ! Mi có biết không? Cách đây mấy năm rồi… vào cái Tết năm… năm… (chú chắc lƣỡi, ngọng nghịu) nhà mi tụ tập toàn bọn Quốc Dân Đảng… Mi giơ

tay xin thề trung thành với chúng nó đến hơi thở cúi còng, thề diệt hết… kẻ thù

Cách mạng và bán nƣớc cho Tây, rồi… thì… là…

Thầy ngạc nhiên, hoảng sợ. Hai lần đấu trƣớc cái chuyện “Quốc Dân Đảng” này không thấy có? Chắc là Đội trƣởng hay Toành đã bày trò cho Đông? Cái

đầu chú ấy thì biết gì tới chuyện chính trị, Việt Quốc, Việt Cách… Đến nƣớc

này thì Mai Duy Vỹ có một cái đầu chứ có hai cái đầu ngƣời ta cũng chặt cho bằng đƣợc!

Thừa lúc chú Đông ngẩn ngƣời để nhớ ra những điều đã học thuộc lòng mấy

hôm nay, bây giờ lú lẫn quên mất, thầy đột nhiên dứng dậy trong hố. Nhƣ có bàn tay vô hình nào lôi thầy dậy, vƣơn mình đứng thẳng; thầy định giơ cánh

tay phải về phía lá cờ đỏ sao vàng và chân dung Bác Hồ ở trƣớc mặt, trên đầu,

nhƣng khốn nỗi hai tay bị trói chặt, toàn thân run rẩy loạng choạng…

– Thƣa bà con nông dân! Thƣa các đồng chí! Tôi, Mai Duy Vỹ, đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, tiền thân là Đảng Cộng sản Đông Dƣơng… Ông Lê

Trạch Đông đã dựng chuyện, bịa đặt, xuyên tạc… Tôi là một ngƣời Cộng sản.

Đảng Cộng sản kết nạp tôi ở ngoài Mặt trận năm 1948 chứ không phải tại nhà tôi. Các đồng chí của tôi, một số là thầy thuốc, một số ngƣời ở trên Tỉnh uỷ, Uỷ

ban có lúc đến thăm tôi, gặp gỡ tại nhà tôi. Chuyện ấy là có thật nhƣng họ là

những đảng viên Cộng sản chứ không phải Quốc Dân đảng. Quốc Dân đảng

chúng nó theo Tƣởng Giới Thạch, Nguyễn Hải Thần về bên Tàu từ lâu. Mà bên

Page 213: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 213

Tàu bây giờ có thằng nào là Quốc Dân đảng thì Bác Mao và Đảng Cộng sản

Trung Quốc cũng đã bắt nhốt hoặc làm thịt hết rồi!

Nhƣ một đứa con bị đòn oan, cậu học trò bị xử phạt vô lý, thầy ngƣớc nhìn ảnh Bác Hồ và ngọn cờ đỏ sao vàng, hai mắt trào lệ… Thầy uất ức, dằn từng tiếng,

rõ từng lời:

“Bác Hồ là lãnh tụ tối cao của toàn dân Việt Nam, là ngƣời thầy tôn kính nhất

của tôi. Tôi làm theo lời dạy của Bác, đi theo con đƣờng của Đảng. Tôi nguyện trung thành với Đảng, hy sinh cho Cách mạng đến giọt máu cuối cùng. Có…

Có…! Có lần tôi đã nói nhƣ vậy…

Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!

Đảng Lao động Việt Nam muôn năm!”

Thầy ngẩng cao đầu, lấy hết hơi sức la to. Rồi ứa trào nƣớc mắt, nghẹn nấc.

Y tá Toành đang ngồi trên “khán đài” đứng dậy, giơ ngón tay xỉa xuống dƣới đấu trƣờng.

– Thằng Vỹ ló lói náo đấy bà con ạ. Ló nà tên Quốc Dân đảng chính cống

nhƣng nại đội nốt chui vào, trá hình nàm đảng viên Đảng Nao động để phá

hoại Đảng ta! Cộng sản đâu đến phần ló! Ló nà tên Việt gian phản động bán lƣớc! Các đồng chí! Bịt mồm thằng Vỹ nại! Không cho ló lói lữa! Thằng Vỹ

phản bội nại dân tộc lòi giống Việt Lam! Ló phải chết! Đả đảo thằng Vỹ!

Vài tiếng hô “đả đảo” rời rạc tiếp theo.

Cả đấu trƣờng lặng đi. Ngay cả ông Đội trƣởng đang méo mồm trợn mắt rít

điếu thuốc lào cũng dừng lại bối rối.

– Bắt ló câm mồm ngay! Không cho ló lói lữa!

Toành rít lên.

Thầy đứng thẳng nhƣ cây cột chôn trƣớc mặt. Cây cột nhƣ cũng sửng sốt nhìn

thầy, ngạc nhiên sao một con ngƣời lại có thể đứng yên đƣợc trƣớc sự xúc

phạm, vu oan giá họa đến thế.

Ông Đội quát tháo ra lệnh cho du kích, dân quân bắt thầy phải quỳ xuống.

Tiếp theo, đến lƣợt Hĩm Xoa, vợ chồng Cò Toe bƣớc lên đấu tố.

Vẫn những chuyện cũ lặp lại hai lần đấu trƣớc: cƣớp ruộng, tiêm thuốc độc cho vợ Xoa chết, nhét lƣỡi cƣa vào ruột thằng cu con Cò Toe. Lƣỡi cƣa đó

rành rành là của y tá Toành mớm cho Cò Toe. Khi nói ra chi tiết này, Cò Toe

Page 214: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

214 Trần Thế Nhân

hơi lúng túng quay sang nhìn Toành lúc đó đã từ “khán đài” xuống chầu chực

sẵn bên…

Một điều lạ, có thể ngƣời ta không tin đƣợc, thầy không có ghét bỏ căm thù gì những ngƣời nghèo khổ tăm tối đó. Họ là ngƣời làng nƣớc, bà con xóm giềng

thân thuộc của mình bao đời nay bây giờ trở thành nạn nhân, con tốt trên bàn

cờ đen tối và độc ác của Đội Cải cách. Giả sử, nếu Trời thƣơng Đội cho thầy

thoát khỏi án tử hình, Mai Duy Vỹ lại sẵn sàng cầm túi thuốc nửa đêm lên đƣờng, khi họ lâm bệnh đến nhà mình cầu cứu.

Ôi! Chữ Tâm của Mai Duy Vỹ, Lòng Nhân của dòng họ Mai xứ Nga Sơn –

Thanh Hoá!

Dẫu rằng không theo Phật Giáo và Công Giáo, đôi lúc thầy vẫn nghĩ đã là con

ngƣời thì không ai tránh khỏi tội lỗi. Đó là lẽ tự nhiên… Mình sinh ra trong

gia đình sung sƣớng ắt phải mang nợ với những kẻ tật nguyền, nghèo khổ. Và, đi theo Đảng, làm đầy tớ cho dân, san bằng cái hố giàu nghèo để khắp thế giới

này chẳng còn ngƣời bị đói khổ áp bức, ai ai cũng bình đẳng sung sƣớng… đó

chính là mơ ƣớc của thầy…

Trong Chỉnh huấn khi viết tự kiểm điểm, thầy cũng đã thành khẩn bộc lộ, kê khai những sai lầm tội lỗi của mình đối với bà con nông dân nghèo khổ và thấy

mình trở nên trong sạch khoẻ khoắn nhƣ một con bệnh đƣợc chữa lành cứu

sống.

Nghe bạn kể, ông Karl Marx nghèo túng đến nỗi không còn đồng nào trong túi

để trả tiền thuê nhà trọ, cuối tháng phải trèo tƣờng chạy trốn chủ nhà; Bác Hồ

giản dị tiết kiệm chỉ mặc bộ quần áo nâu, đi dép cao su, quanh năm ăn cơm muối khoai lang cà pháo… thầy rƣng rƣng nƣớc mắt.

Thầy đã kể lại những mẩu chuyện này cho cả nhà nghe để răn đe, giáo dục mọi

ngƣời.

Con ạ, thầy chẳng ƣa gì lối sống tu hành của các nhà sƣ và cha cố; nhƣng sao mình lại mang một đức tin ngây thơ rằng hình nhƣ chỉ sống trong nghèo khổ

con ngƣời ta mới có đạo đức và, mọi tội ác trên đời này đều bắt nguồn từ cuộc

sống giàu sang, thừa mứa?

Và ngƣời Cộng sản xuất hiện!

Ngƣời Cộng sản sinh ra trên Trái Đất này là để hoàn thiện ƣớc mơ cao đẹp nhất

của con ngƣời!

Đến nƣớc này rồi mà Mai Duy Vỹ cẫn còn nghĩ ngợi lan man nhƣ thế đấy, thử hỏi có dở hơi không?

Page 215: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 215

Và kìa, Lệ Uyên ơi, Thần Chết đã đến lạnh lùng đứng bên “khán đài” cách một

quãng trƣớc mặt thầy. Bên tai thầy có ai nói thầm thì:

“Vỹ ơi! Tội ác trên thế gian này lũ lụt kéo đến từ hai phía, phía ngƣời giàu và cả phía ngƣời nghèo. Đừng lầm tƣởng rằng chỉ có phía ngƣời giàu thôi đâu, và

hình nhƣ… con ơi, điều trái với mong muốn của tất cả chúng ta là, cái phía

ngƣời nghèo ấy xem ra lại nhiều và… nhiều hơn! Ôi! Tai họa!

– Vỹ!

Tiếng ngƣời hét trƣớc mặt gần đến nỗi thầy váng cả đầu óc, chƣa nhận ra đƣợc

ai kia, Thần Chết hay y tá Toành, vừa đè dí ngón tray trỏ vào trán làm mình

xuýt ngã ngửa.

– Mi có biết tao nà ai không?

– Dạ, biết…

– Lói to nên cho bà con lông dân, quần chúng nao động Quân chủ nực Cách mạng ngƣời ta nghe! Hử! Mi có biết tao nà ai không?

– Dạ, thƣa… Ông là ông Toành, y tá…

– Ái chà! Mi tƣởng mi nà y sĩ nà ghê gớm nắm hả? – Toành dừng lại cƣời gằn

– mi nà cái cục cứt, con chó, con nợn mà thằng Pháp ló lặn ra… Có phải bọn Tây, mấy thằng đốc tờ Pháp, chúng ló dạy mày cƣa chân, chặt tay bộ đội, mổ

bụng ngƣời ra nhét nƣỡi cƣa vào ruột gan họ rồi khâu chỉ nại rồi thì… mi còn

pha chế tẩm chất độc vào những viên thuốc của Tây rồi đƣa cho anh em chiến sĩ, bà con lông dân uống để ngƣời ta năn đùng ra chết. Có đúng nhƣ thế

không?

Thầy im lặng. Cố nhớ lại và hơi ngạc nhiên. Thật ra mình đâu có biết gì nhiều về cái anh Toành này. Cò Toe, Hĩm Xoa… bà con trong làng thì mình biết, bởi

họ cùng quê, thậm chí cùng họ… Còn Toành? Họ tên hắn là gì, quê quán ở

đâu? Hình nhƣ có ai nói hắn từ Thái Bình vào Nga Sơn năm đói Ất Dậu 45; lại

có ngƣời nói hắn chạy loạn từ Ý Yên Nam Định vào đây năm 1947?…

– Vỹ! Mi giết tất cả anh em bộ đội, bà con lông dân, trẻ già nớn bé nà… nà…

hai trăm mạng ngƣời có đúng không? Hử!

Thầy ngƣớc mắt nhìn Toành, ngạc nhiên về sự bịa đặt tƣởng tƣợng của con ngƣời – động vật tàn ác nguy hiểm nhất trên Trái Đất. Con số 200 mà Toành

vừa công bố đã đƣợc Đội Cải cách thống kê ghi vào biên bản lần đấu thứ hai.

Hôm đó, chẳng hiểu vì đầu óc đã điên loạn hay bởi cái bản chất nghịch ngợm,

Page 216: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

216 Trần Thế Nhân

hài hƣớc từ thuở còn là học trò, thầy đã xin phép Đội đƣợc sửa con số 200

thành 1955… Vậy mà sao hôm nay hắn vẫn còn nhắc lại?

Thầy nói nhanh để hắn không kịp ngăn lại:

– Thƣa ông Toành. Con đã nói lần trƣớc rồi sao ông vẫn không nhớ? Không

phải chỉ 200 đâu! Con đã giết tất cả là một ngàn chín trăm năm mƣơi lăm

mạng ngƣời!

Toành ngớ ngƣời. Hình nhƣ hắn chƣa hiểu ra.

– Thƣa ông Toành. Năm nay là năm 1955. Tính từ khi con cầm xê ranh, dao

mổ cho đến nay, con đã giết tất tần tật là một ngàn chín trăm năm mƣơi lăm

mạng ngƣời chứ còn sao nữa? Chỉ hai trăm thôi à? Ít quá! Một lần nữa… Con xin nhắc lại!

Đám đông Quân Chủ lực Cách mạng ồn ào, sôi động. Có tiếng ai cƣời khẽ.

Toành chợt hiểu, cƣời găm lại trong mồm:

– Mi nếu náo hả Vỹ? Đến chết rồi mà vẫn còn dám đùa cợt, chế nhạo các ông

bà lông dân chúng tao.

Rồi vụt đứng thẳng ngƣời, tay vung nắm đấm lên hô:

– Đả đảo thằng Vỹ náo xƣợc, ngoan cố, coi thƣờng quần chúng, Quân Chủ nực Cách mạng, chế nhạo bà con bần cố lông dân!

– Đả đảo!

– Đả đảo!

Biển ngƣời đả đảo ào ào cuộn dâng lên. Toành càng hét to hơn:

– Kiên quyết đấu gục Mai Duy Vỹ, thằng địa chủ bóc nột gian ác, thằng thầy

thuốc giết ngƣời cƣa chân, chặt tay bộ đội, uống máu lông dân, bỏ thuốc độc cho bệnh nhân uống…

– Đả đảo! Đả đảo!

– Có khổ nói khổ nông dân vùng lên!

– Vùng lên! Vùng lên!

Mắt Toành đỏ nọc nhƣ vừa bật máu. Hắn dừng lại lấy sức, dồn hơi để hét:

– Vỹ!

– Dạ.

Page 217: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 217

– Mi đã cắt dây điện để cho quân ta không nhận đƣợc nệnh của Bộ Tƣ nệnh

mặt trận ở trên đánh Móc về! Có phải không?

– Dạ.

– Vỹ! Chính mi ở Nho Quan đã bấm đèn bim nên trời để gọi máy bay Pháp tới

bỏ bom. Đúng không?

– Dạ

– Có đúng không? Dạ nghĩa nà nàm sao?

– Dạ!

– Vỹ! Có phải mi đã niên nạc với Nê Hữu Từ ở Phát Diệm không?

– Dạ. Không. Thƣa ông Toành. Con đâu phải ngƣời Công Giáo. Con theo đạo Cộng sản, làm sao quen biết đƣợc Giám mục Lê Hữu Từ?

– Mi lói náo! Mi với hắn là hai thằng phản động cấu kết với nhau, niếm gót

giày cho Pháp, chống phá Cách mạng!

– Dạ. Kính thƣa Đội! Kính thƣa các ông bà Nông dân – Thầy nói chậm rãi –

Con không có quen biết gì với cha Lê Hữu Từ cả. Nhƣng Bác Hồ, năm 1947,

theo lời mấy ông trên Tỉnh nói cho con biết, Bác có vào thăm Thanh Hoá, lúc

về Bác đã ghé qua Phát Diệm gặp Lê Hữu Từ khuyên bảo ông ấy nên đoàn kết Lƣơng Giáo chống Pháp…

Ông Đội trƣởng đặt điếu cày xuống, đập bàn, đứng dậy, xỉa ngón tay trỏ xuống

phía thầy, thét lên:

– Vỹ! Mi toàn bịa đặt, nói láo! Bác Hồ sao lại đến gặp Lê Hữu Từ? Nó là

thằng cha cố phản động bán nƣớc buôn dân. Mi cả gan dựng chuyện cho Bác

Hồ, định hạ uy tín lãnh tụ tối cao của toàn dân phải không? A! Thằng này… ghê gớm thật. Tự lột trần rành rành chân tƣớng của một tên Việt gian bán

nƣớc… Đáng tội chê… ết!

Toành chồm tới nhổ một bãi nƣớc bọt vào mặt thầy, xỉa xói theo:

– Vỹ! Chính mi đã cứu sống thằng Tây Giắc, thằng Pháp cƣớp lƣớc. Sau đó, một thời gian dài mi nàm gián điệp cho ló, cho tới Hiệp định Giơnevơ khi ló về

lƣớc. Thƣa bà con Lông dân, Quân Chủ nực… các đồng chí ạ, thằng Vỹ với

thằng Giắc, hai đứa suốt thời gian ở mặt trận cứ lói chuyện với nhau bằng tiếng Tây xì nà xì nồ… Ló lói gì, chỉ chúng ló mới hiểu đƣợc thôi. Nhƣng anh em,

đồng chí trong quân đội hồi ấy, rồi ngƣời ta cũng biết, biết hết… Chẳng hạn,

thằng Giắc giơ tay nên quay vòng nà ra cái ý máy bay Pháp ló nƣợn vòng, còn

Page 218: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

218 Trần Thế Nhân

thằng Vỹ thì… cũng giơ tay nên nhƣng nại đâm thọc xuống rồi kêu đùng một

cái, tức nà ra hiệu cho phi công Tây ló lém bom chứ còn gì lữa! Có phải thế

không hở bà con, các đồng chí?

Ông Đội trƣởng hô to:

– Đả đảo thằng Việt gian Mai Duy Vỹ liếm gót Tây, cấu kết với Pháp, âm mƣu

bán rẻ nƣớc ta cho bọn thực dân đế quốc!

– Đả đảo!

– Đả đảo!

– Thằng Vỹ đáng tội chết!

– Phải tử hình Mai Duy Vỹ!

– Tử hình! Tử hình!

Mặt trời bỗng nhiên ló ra khỏi đám mây đen. Ánh nắng lấp loáng trên “khán

đài”. Thầy nheo mắt cảm nhận đây là tia nắng cuối cùng của Trái Đất. Vầng mặt trời quang minh chính đại thênh thang đi vòng trên đầu thế gian từ khi Mai

Duy Vỹ mở mắt chào đời cho đến nay. Mặt trời đỏ lửa thần diệu ấy bây giờ

không còn nguyên hình nữa, chỉ là một đám cháy… Đám cháy cũng sắp tắt.

Quả nhiên đám mây đen khác đùn tới, che lấp. Bóng tối sa sầm. Một giọt mƣa trên cao ấy rơi nghiêng xuống đúng vào giữa trán thầy.

Ông Đội trƣởng đọc to, dằn nặng từng tiếng Nghệ An những dòng chữ trên tờ

giấy trong lòng hai bàn tay run run… Bản án tử hình Mai Duy Vỹ đã đƣợc Đoàn Cải cách – Cấp trên ký duyệt.

“Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – Độc lập Tự do Hạnh phúc”

Thầy chỉ nghe đƣợc ngần ấy chữ. Cái đoạn kể tội, luận tội vu vơ, lảm nhảm cứ nhƣ lời trẻ con chơi bịt mắt bắt dê; và cả cái phán quyết giết ngƣời rùng rợn

cũng nhƣ trò đùa, tuồng diễn trên sân khấu: Tên địa chủ phản động Mai Duy

Vỹ phải chịu án tử hình!

Thần Chết đã tới, đứng gần cây cột chôn trƣớc mặt.

Lời ai đây nghe rành rọt bên tai thầy:

“Ngƣời ta bảo Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Mai Duy Vỹ ơi, anh đã

mải mê đi trong đám quần chúng. Và tới bây giờ, trên sân khấu của Ngày Hội anh cũng phải tham gia đóng nốt vở tuồng. Khốn nạn thân anh, vai diễn này lại

đẫm máu và nƣớc mắt!”

Page 219: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 219

Họ dựng thầy dậy, lôi ra khỏi cái hố cạn, đẩy kéo sang tới cây cột dựng đứng

kia.

Thoạt tiên, họ định cởi tháo dây trói trật cánh khuỷu ở sau lƣng thầy nhƣng y tá Toành không chịu. Theo ý Toành, cứ để nhƣ thế rồi trói luôn vào cây cột. Cò

Toe, rồi cả Hĩm Xoa không tán thành bởi lẽ, nếu để vƣớng hai tay trật sau lƣng

thì làm sao mà trói đƣợc, đã vừa cấn cái… lại không chắc chắn. Phải tháo ra rồi

cũng trói hai tay sau cây cột thì tiện lợi hơn. Ba tên cãi nhau. Ông Đội trƣởng lại đứng ra phân xử.

– Sau trƣớc gì rồi cũng phải tháo dây thừng, cởi trói ra – Ông ta nói – Bắn

xong rồi, còn phải cho nó xuống huyệt nằm để mà lấp đất chứ!

Toành vẫn còn cay cú:

– Để ló chết trong tƣ thế bị trói mà chôn nại không hơn à? Nhƣ thế mới đúng

cách. Sang tới Bên Ấy ló có muốn ngửa tay đi ăn xin bà con lông dân cũng không đƣợc. Phải thế chứ!

Cò Toe, Hĩm Xoa lặng lẽ làm theo phán quyết của Đội. Thoáng chốc, họ đã

cởi tháo hai tay thầy rồi trói ngoặt ra phía sau cây cột; một cuộn thừng quấn

năm sáu vòng từ ngang ngực xuống bụng. Một đoạn thừng buộc hai ống chân vào cột…

Trói rất chắc, thở cũng đã khó, chứ chƣa nói đến muốn cụ cựa…

Ông Đội khẽ ra lệnh:

– Bịt mắt nó lại. Miếng giẻ đâu rồi?

– Dạ. Có… có đây…

Toành nói sau lƣng thầy. Vội bƣớc lên, lôi trong túi áo ra một đoạn vải dài đã buộc nối, rộng bản chừng ba ngón tay chập lại, hắn làm một vòng quanh đầu

thầy rồi buộc thắt phía sau gáy. Đoạn vải đen đã cũ, khăm khắm mùi mồ hôi

nƣớc tiểu Toành đặt để chƣa đúng cách, trƣớc lỏng sau chặt, hơi tụt xuống

sống mũi… Thằng hậu đậu! Chứng nào vẫn tật ấy. Y hệt nhƣ năm xƣa buộc ga-rô, quấn bông băng cho anh em thƣơng binh.

– Đồng chí Đông đâu rồi?

Ông Đội nói nghe khản cả tiếng.

– Dạ thƣa Đội, có… có tôi.

– Từ nãy giờ đi đâu, sao chƣa đứng vào hàng ngũ?

Page 220: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

220 Trần Thế Nhân

– Dạ… dạ…

Thật lạ lùng. Lệ Uyên ơi! Nói ra hẳn không ai tin: thầy muốn gặp lại, thấy mặt

chú Đông! Cả nhà ta không có ai đƣợc đến đây để… tiễn đƣa thầy. Dòng họ Mai vắng mặt, diệt vong hết rồi sao? Thôi thì, dù chú ấy có thay lòng đổi dạ đi

nữa vẫn còn là con nuôi của ông bà, vẫn là dấu vết, hơi hƣớng của dòng họ

Mai chúng ta! Sự ngu dốt kém cỏi của con ngƣời hoá ra đôi lúc cũng cần thiết:

thầy vẫn thấy đƣợc mờ mờ qua băng giẻ buộc che hai con mắt. Kìa! Chú Đông đang nhìn thầy, hố mắt hoảng loạn, tay run run giơ ra cầm lấy khẩu súng

trƣờng.

Ông Đội điểm danh đủ 6 tên: Toành, Cò Toe, Hĩm Xoan hai anh dân quân và Lê Trạch Đông. Sáu ngƣời đứng dàn thành hàng ngang.

– Chú ý! Tất cả làm theo lệnh tôi!

Ông Đội vừa nói dứt câu thì ai kia từ đám đông xô đẩy, chen lấn ngƣời bƣớc ra… Ngƣời đàn bà này đâu phải ai xa lạ, thím Đông, vợ Mai Duy Đông, tóc tai

loà xoà, miệng chửi bới, hai tay vùng vẫy giằng lấy khẩu súng của chồng làm

chú Đông loạng choạng để mũi súng quệt xuống đất.

– Anh hèn nhát, anh sợ… anh không dám bắn nó hả? – Thím Đông hét lên – Đƣa súng đây, tôi bắn cho! Thằng Vỹ phải đền nợ máu!

Cả đấu trƣờng nhốn nháo. Thần Chết cũng sững lại, đƣa mắt nhìn về phía

ngƣời đàn bà lạ lùng đó. Thím Đông nhà ta, không phải là ai khác, đã xô chồng ngã dúi dụi lăn quay trên đất, hùng hổ cầm khẩu súng trƣờng đứng vào vị trí của

chồng.

Vĩnh biệt!

Vĩnh biệt Nga Sơn quê hƣơng ngàn đời! Vĩnh biệt dòng họ Mai! Vĩnh biệt Thầy

Mẹ kính yêu! Vĩnh biệt vợ hiền thƣơng! Vĩnh biệt Thanh Tâm, Lệ Uyên, các

con yêu quý… Mai Duy Vỹ đi đây!

Trƣớc mắt thầy lần lƣợt hiện ra từng khuôn mặt thân thƣơng yêu dấu. Lệ Uyên ơi! Con gái yêu của thầy! Đừng nhìn thầy nhƣ thế! Đừng buồn! Đừng khóc!

Đừng oán trách thầy để con côi cút giữa Trần gian!

– Tất cả các đồng chí làm theo lệnh tôi! – tiếng ông Đội nhắc lại – Bồng súng lên!

Sáu cây súng cùng giƣơng lên nhằm về một phía – Mai Duy Vỹ!

Page 221: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 221

Chƣơng 44 CHÔN SỐNG

– Bắn!

Năm viên đạn nổ cùng một lúc. Một viên đạn nổ tiếp theo. Viên đạn chính xác hơn cả của y tá Toành trúng vào ngực phải, xuyên qua phổi. Bốn viên kia vào

bụng, cổ, tay, chân. Và viên sau cùng, có lẽ của thím Đông, bay sƣợt qua đầu

thầy. Một tràng vỗ tay nghe rời rạc đứt quãng. Toành chống súng xuống đất, nhe răng cƣời. Nghĩ ngợi thế nào, hắn lại quay đầu lại đám đông quần chúng –

Quân Chủ lực Cách mạng la lên:

– Sao vỗ tay ít thế? Chỉ vỗ vậy thôi à? Ơi bà con ơi! Vỗ tay nên! Vỗ mạnh nên! Lào lào!…

Im lặng.

Ông Đội bƣớc tới, nhìn hai con mắt thầy vẫn còn mở, toàn thân run giật, nói:

– Thằng Vỹ còn sống hả?

Họ xúm nhau lại, từng ngƣời cúi đầu xuống nhìn.

– Dạ, còn sống…

Y Tá Toành cúi đầu sát xuống nhìn vào mắt thầy, lùi lại nói với ông Đội:

– Xin đề nghị đồng chí… bắn thêm cho ló một phát lữa vào đầu, thế nà chắc

ăn.

Ông Đội ngần ngừ. Toành vẫn bám dai:

– Theo đúng nuật quốc tế mà! Các lơi đều nàm thế…

Ông Đội lầm bầm:

– Sáu ngƣời bắn vào một cái xác không hồn mà rồi cũng không xong! Các

đồng chí làm ăn nhƣ cứt! Bộ đội ngoài chiến trƣờng mà nhƣ thế ni có mà thằng Pháp nó chịu giơ tay đầu hàng cho!

Toành đế theo:

– Thôi, các đồng chí ạ. Nần lày ta rút kinh nghiệm cho những nần sau…

Ông Đội lừ lừ nhìn hắn, hự một tiếng:

– Lần sau là thế quái nào? Đồng chí nói năng gì lạ. Lần nào nữa?

Page 222: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

222 Trần Thế Nhân

Đám đông quần chúng, Quân Chủ lực Cách mạng đang nhốn nháo hoảng loạn.

Cái đê ngƣời vỡ dƣới kia ầm ào tiếng kêu la lẫn tiếng khóc… Những bàn tay

bƣng che… Những chiếc nón rách úp trùm mặt.

Ông Đội bối rối nói:

– Các đồng chí! Đằng nào nữa, sớm muộn trƣớc sau gì thằng Vỹ cũng chết.

Chỉ lát nữa thôi. Chi bằng lôi cổ nó xuống huyệt chôn quách đi cho rồi! Tôi ra

lệnh: Chôn! Chôn ngay!

Họ xúm nhau lại quanh cây cột, tháo gỡ dây thừng giằng buộc thi thể tội nhân.

Cò Toe càu nhàu rằng Hĩm Xoa buộc quá chặt bây giờ khó gỡ nút. Hĩm Xoa

gọi thêm mấy dân quân nữa tới giúp việc. Họ dùng liềm giật, lấy dao cứa đứt. Thầy tụt xuống, tụt xuống… cho tới khi hai đoạn dây cuối cùng buộc hai ống

chân đứt sổ thì thầy đổ xuống, lăn ra đất…

Bỗng nhiên, sự Sống từ Trời cao xuống, từ dƣới Đất lên, hay từ dòng giống họ Mai xƣa mấy ngàn năm Hùng Vƣơng dựng nƣớc trở về làm thầy hồi tỉnh. Nhịp

đập trở lại trái tim, hơi thở mở hai buồng phổi, óc não phát sáng.

Chẳng biết thần linh nào hiện ra sai khiến, bảo thầy chắp hai tay, run rẩy đƣa

lên trƣớc ngực… Thầy nói:

– Tôi lạy các ông… đừng chôn sống tôi… cho tôi sống… để tôi chữa bệnh cho

dân…

Ông Đội ngẩn ngƣời ra chốc lát, cau mày, hình nhƣ không hiểu ý nghĩa câu nói của thầy.

Thầy lặp lại:

– Cho tôi sống… tôi chữa bệnh cho dân…

Rồi đuối hơi, lịm ngất đi. Máu từ đâu lại ứa ra, kéo màn che cả bầu trời trƣớc

mắt.

Y tá Toành rít răng, giọng khàn đục nghe vẳng bên tai:

– Chữa bệnh cái gì! Có mà mày nại giết hại bà con lông dân ấy chứ. Lợ máu phải đền lợ máu! Thằng Vỹ, mày phải chết! Lào, lào… các đồng chí, mỗi

ngƣời lắm một tay, một chân cùng tôi…

Hắn cùng cò Toe, Hĩm Xoa, thím Đông – bốn tên nắm hai tay hai chân thầy lôi kéo đến huyệt chôn.

Page 223: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 223

Máu ộc ra từ ngƣời Mai Duy Vỹ, rớt chảy trên đất cát một vệt dài. Ném thầy

xuống huyệt rồi, tay chân họ đều dính máu. Cò Toe, thím Đông vừa đƣa tay

lau quệt vào ống quần vừa nhổ nƣớc bọt.

Cái huyệt vừa hẹp lại vừa ngắn. Vùng đất này cát pha, có cứng lắm đâu mà

sáng nay họ đào qua loa chiếu lệ. Mai Duy Vỹ chỉ cao mét sáu dƣ vài phân

thôi mà họ không để cho hắn đƣợc nằm duỗi thẳng tay chân trong huyệt. Lại

phải kéo hai chân, nhô đầu gối lên, co hai ống sậy. Đã vậy, chiều sâu cũng chỉ bằng nửa cây gậy chống, chắc hồn ma Vỹ có thể đêm đêm giơ tay lên chỉ trỏ,

trò chuyện với các vì sao! Mà biết đâu đấy, chỉ một hai trận mƣa xuống, đất trôi

đi hết là xƣơng thịt hắn lại lòi ra cho quạ rỉa, chó tha…

Nga Sơn ơi! Đất Mẹ mênh mang sâu dày cho cói mọc ngƣời sinh, sao nỡ để

đứa con bất hạnh của mình phải nằm xuống trong cái nhà mồ theo kiểu chuột

chui dế đùn thế này! Luật nhân quả bù trừ bao trùm khắp thế gian. Ai bảo ông bà tổ tiên họ Mai xƣa khai phá đất hoang rừng thiêng làm gì, ôm cho lắm vƣờn

ruộng vào mình, để vạ Cải cách Ruộng đất bây giờ lại cho con cháu, bắt Mai

Duy Vỹ phải độc đắc trúng cái án tử hình này!

Lệ Uyên ơi! Thảo nào ông nội con lúc hấp hối đã sấm truyền lại: sau khi tôi chết rồi, con cháu có chôn tôi thì khỏi cần tới hòm ván, nhƣng nhớ đào huyệt

thật sâu, chôn thật sâu; dẫu thân xác có làm mồi cho giun dế cũng đƣợc, miễn

sao đừng để ngƣời đời đụng tới, moi tìm ra!…

“Anh Vỹ!”

Có tiếng ai vừa gọi thầy?

“Đồng chí Mai Duy Vỹ!”

“Có tôi! Ai gọi tôi đó?”

“Cao Hữu Hiến đây…”

“Cao Hữu Hiến, Ty trƣởng Ty Lao động Thanh Hoá phải không?”

“Vâng. Chính tôi!”

Giữa trời mây u ám, tia chớp loé hiện ra một khuôn mặt thân thƣơng quen

thuộc. Kém thầy một tuổi, con ngƣời mới 35 xuân nở một nụ cƣời tƣơi, hàm

răng sáng tuyệt đẹp… Cái đẹp của một thời hăng say bốc lửa, dâng trọn cuộc đời cho lý tƣởng Cộng sản mà Paul Vaillant Couturier gọi là “Mùa xuân của

nhân loại”.

“Vĩnh biệt Mai Duy Vỹ! Tôi đi trƣớc anh nhé!”

Page 224: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

224 Trần Thế Nhân

“Ơ kìa! Sao vội vàng thế? Lại không nói với nhau đƣợc một lời hay sao? Hiến

ơi!”

“Biết nói gì bây giờ? Vỹ ơi! Ở đời chẳng có cái gì bất biến vĩnh cữu, kể cả chủ nghĩa Cộng sản. Tôi vào Đảng Cộng sản từ thời bí mật, trƣớc anh 5 năm. Vậy

mà bây giờ, cũng nhƣ anh, bọn côn đồ, lƣu manh, cơ hội chúng nó dám gán

cho mình cái nhãn hiệu là Quốc Dân Đảng. Đồng chí Vỹ à, thời nay chúng nó

cũng chẳng biết Mác Ăngghen là ai đâu; toàn nói mép cả thôi, và dĩ nhiên cái đầu Nguyễn Thái Học cùng với 11 cái đầu đồng chí của ông ấy rơi xuống

trong khởi nghĩa Yên bái, thậm chí cả đầu của Nguyễn Thị Minh Khai trong

khởi nghĩa Nam Kỳ chúng cũng chẳng quan tâm…

Tôi không có đƣợc sự kiềm chế nhƣ anh. Chữ Nhẫn trong tôi yếu lắm. Sáng

hôm qua, nhân lúc ngƣời gác ngục đi ra ngoài đánh rớt cái gƣơng con trƣớc

cửa, tôi vội nhặt lấy. Thừa biết sớm muộn gì cũng chỉ vài hôm nữa chúng nó sẽ tới dẫn mình đi cho “ăn kẹo đồng” theo lối nói đùa cợt mất dạy của tụi này,

đồng chí Vỹ ạ, tôi quyết định tự tử! Trọn đời, tôi chỉ chấp nhận một toà án duy

nhất – đó là Đảng Cộng sản của tôi.

Vì vậy, tôi đã đập vỡ cái gƣơng tròn vừa bằng lòng bàn tay ra làm hai mảnh. Chọn cái mảnh có mũi nhọn sắc hơn, tôi rạch thẳng một đƣờng từ cổ họng

chạy xuống tới bụng dƣới; rồi thọc tay vào trong sâu lôi rút hết tất cả ruột non

ruột già ra… Máu chảy lai láng từ trong nhà tù, ngoằn ngoèo tới ngoài cửa, bò ra tới sân…

Bọn chúng trông thấy, hốt hoảng chạy vào. Tôi giơ tay chỉ đống ruột bầy nhầy,

lòng thòng trƣớc bụng nói:

“Xin nhờ các ông báo cáo lên trên… để cho Bác Hồ và Anh Trƣờng Chinh biết

ruột gan lòng dạ của Cao Hữu Hiến, đảng viên Cộng sản trong trắng nhƣ thế này

đây!”…

Nói vừa hết câu, tôi tắt thở.

Vợ con tôi ở xa. Các con còn nhỏ.

Chỉ có hai cháu Duy và Sơn, con của hai ông anh ruột, may vừa tới kịp. Các

cháu dùng một cái đọi lớn, loại bát múc canh, úp vào trƣớc bụng, che lại để cho mớ gan ruột khỏi sổ ra lòng thòng; đoạn lấy dây chuối buộc chận vòng từ bụng

xuống dƣới lƣng, rồi đặt tôi lên võng cáng đƣa về nhà.

Tôi quê ở Thừa Thiên – Huế. Vì tham gia Cách mạng nên xa nhà từ nhỏ,

không đƣợc nhƣ anh nằm trong lòng Đất Mẹ Nga Sơn – Thanh Hoá. Cũng nhƣ anh, tôi chết chôn không ván không hòm, bó cuốn manh chiếu rách; chỉ hơn

Page 225: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 225

anh mỗi một điều là cái huyệt của tôi các cháu đào rất sâu, nằm ở dƣới này

duỗi thẳng chân tay rộng rãi và thoải mái!

Vĩnh biệt nhé, bạn thân yêu Mai Duy Vỹ! Tôi về trƣớc anh đây! Hẹn gặp lại!”

Tia chớp lại loé sáng. Con Rồng Đỏ hiện lên. Cao Hữu Hiến vụt biến.

Ông Đội vai mang xà cột, đi lại quanh huyệt tỏ vẻ bực bội:

– Có mỗi cái hố chôn cỏn con này mà đào cũng không xong! Từ sáng tới giờ, mấy cậu dân quân làm chi, ngồi tán phét hả? Mần ăn nhƣ cứt! Đồng chí

Toành! Tôi đã phân công đồng chí…

Toành lý sự, phân bua:

– Báo cáo anh… có sao đâu ạ. Bà con lông dân ta chôn ló thế lày nà phúc cho

ló nắm rồi. Chôn thằng Vỹ thì cũng nhƣ chôn con chó, con nợn… Tôi có cách

lày, giải quyết nà xong ngay!

Vừa dứt câu hắn đã vớ lấy cái cuốc, đứng dạng háng trên huyệt, quay ngƣợc

lƣỡi cuốc, trở cán giơ lên cao bặm môi méo mồm nện hai cái thật mạnh xuống

hai đầu gối thầy.

Rắc! Rắc!

– Nhƣ thế lày đã đƣợc chƣa, các đồng chí?

Hắn quay lại nhìn mọi ngƣời mắt long lên, miệng cƣời cƣời. Sự sống trong

ngƣời thầy nhƣ dòng điện giật run, bật lên, co duỗi. Và hai con mắt lại tự nhiên mở ra trừng trừng nhìn những con quỷ, không phải đâu, những con

ngƣời! Thanh Tâm, Lệ Uyên, ơi các con yêu thƣơng, thầy vẫn còn sống mà.

Cò Toe cầm thuổng, Hĩm Xoa cầm mai, hai tên vọt lên đứng hai bên.

– Vỹ! Cho mày về chầu tiên tổ họ Mai nhà mày!

Toe vừa nói vừa nghiến răng giơ cao cây thuổng, giộng một nhát xuống đầu

thầy. Xoa méo mồm trợn mắt giơ cao cán mai làm tiếp một nhát vào ngay mắt

bên phải thầy.

– Vỹ ơi! Cho mày về chơi Âm phủ để mày chữa bệnh cho thằng cha sinh ra

mày, con mẹ đẻ ra mày, chữa cho cái lũ địa chủ bóc lột, bọn Việt gian bán

nƣớc…

Thím Đông cũng cầm cuốc chen vào, cuốc lấy cuốc để lên đầu “Thằng Vỹ”.

Page 226: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

226 Trần Thế Nhân

– Tiên sƣ cha thằng Vỹ! Mả mẹ thằng Vỹ! – Tay cuốc mồm la – Tiệt nòi tiệt

giống họ Mai nhà mi nhé.

Xem ra thím Đông đã thoả mãn bần cố, toại nguyện trăm phần trăm: vừa trút khỏi thân mình của nợ thành phần địa chủ, lại đƣợc mang cái lý lịch cao sang

bần cố, đứng vào hàng ngũ các đồng chí. Cũng nhƣ mấy ngƣời kia, trên tay

thím nhầy nhụa những máu và óc của Mai Duy Vỹ…

Lƣỡi mai, lƣỡi cuốc cứ va chạm nhau chan chát, rào rạo… Từng mảng óc hoà lẫn máu văng ra, phọt lên tung toé…

Lê Trạch Đông lùi lại sau… Tuân lệnh ông Đội chú ấy cũng cầm xẻng xúc đất

đổ xuống huyệt, làm theo những ngƣời kia.

Chỉ trong thoáng chốc đất cát đã chồng chất lấp đầy xác Mai Duy Vỹ – nấm

mồ của đứa con dòng họ Mai ở xứ Nga Sơn – Thanh Hoá.

Một ngọn Tam Lênh bé tí trong cõi ngƣời ngập tràn máu và nƣớc mắt.

Page 227: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 227

Chƣơng 45 CHA ĐI TRƢỚC, CON VỀ SAU… BÂY GIỜ CON LƤI ĐI TRƢỚC…

– Thầy ơi! Thầy ở đâu rồi?

Lệ Uyên hoảng hốt kêu lên, hai tay quờ quạng…

– Đây, đây… thầy của con đây. – Tiếng ông Vỹ nghe từ đâu xa xăm, vẫn trìu

mến dịu dàng – Thầy kể xong rồi đấy. Những điều con muốn biết mà gần nửa thế kỷ nay thời gian còn kéo màn che kín, phủ đầy cả một biển máu và nƣớc

mắt. Thôi nhé, thầy đi…

– Một lần nữa thầy lại bỏ rơi đứa con côi cút tội nghiệp của thầy ƣ?

Lệ Uyên bật khóc. Ông Vỹ cƣời không thành tiếng; nụ cƣời còn nguyên nỗi buồn đau… lại hiện ra trƣớc mặt hai chị em.

– Thầy chúc mừng các con đã đƣợc Siêu thoát …

Thùy Dƣơng cũng ngỡ ngàng bối rối:

– Bác bỏ chúng con đi thật à? Bao giờ thì bác mới đƣợc Siêu thoát?

Ông Vỹ ngập ngừng, đắn đo:

– Bác còn phải chờ…

– Bác đã gặp Tiến sĩ Võ Ngọc Châu chƣa?

– Có. Gặp rồi. Tiến sĩ Châu bảo tôi phải chờ tới năm hai ngàn lẻ 19…

– Sao phải tới 2000 lẻ 19, thƣa bác?

– Năm đó, Bên Này sẽ có một biến cố trọng đại. Ông Châu cũng chờ… tới

2019 mới có ngƣời ở Bên Này sang Bên Ấy giữ Sổ Siêu Thoát thay phiên cho

Tiến sĩ… Các con ạ, loài ngƣời ở Bên Này do đa phần không nắm đƣợc Thuyết Tƣơng Đối, lại luôn bị nhốt tù trong Bể Khổ nên họ mỗi ngày một thêm nhỏ

nhoi, tham lam, đố kị. Vì bị ép buộc sống bên nhau, lại chịu một Trời độc đoán

đè nén nên càng ngày họ càng hèn hạ, càng hiểm độc tàn ác hơn. Cái mối dây ràng buộc liên hệ đó tệ hại khủng khiếp đến nỗi sang tới Bên Ấy rồi không phải

ai cũng dễ dàng đƣợc Siêu thoát cả…

Page 228: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

228 Trần Thế Nhân

Những kẻ độc ác một cách hồn nhiên đó, cháu Thùy Dƣơng ạ, hầu hết đều mắc

tội và phạm tội. Họ vừa là nạn nhân lại vừa là phạm nhân… Làm sao chúng ta

dễ dàng thoát ra khỏi mối liên hệ ấy? Bác đã nói rồi… Còn trƣờng hợp bác thì…

– Cháu hiểu. – Thùy Dƣơng bồng bột – Ôi bác! Trong gia đình Nhân loại ai cũng chỉ mong có đƣợc một ngƣời cha nhƣ bác; và cũng… mong sinh ra đƣợc

một ngƣời con nhƣ bác..

– Cháu không quá lời đấy chứ? Bác đã gặp cha của cháu… Ông ấy là một

ngƣời rất đáng mến…

– Bác ơi! Hồi còn ở Bên Này, dẫu nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn

ăn nói thật lòng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu đời sống xã hội

bằng cháu đâu. Cháu biết rõ, cái lũ tự phong ta đây là thần thánh, chẳng có đứa nào đáng đƣợc gọi là ngƣời, toàn một bọn chó má, quỷ sứ, đồ ba que xỏ lá cả!

Ông Vỹ ngần ngừ, phân vân.

Thùy Dƣơng càng hăng:

– Nếu bác theo đạo Ki-tô, chắc Toà thánh La Mã đã phong Thánh cho bác!

Ông Vỹ cƣời, vẫn nụ cƣời không thành tiếng, êm sâu nhƣ một vết thƣơng.

– Không dám đâu, cháu! Bác nào có mơ ƣớc làm một Jeanne d’ Arc?

– Thế thì… chắc bác phải là một vị Bồ Tát?

Ông Vỹ lại cƣời:

– Càng không dám… hai chữ Bồ Tát theo giáo lý Nhà Phật mà có lần bác tìm

hiểu, có nghĩa là “chúng sinh đã giải ngộ”. Phải không cháu? Giải ngộ cho mình chƣa đủ, còn phải giải ngộ cho ngƣời khác nữa! Thùy Dƣơng ơi, bác Vỹ

của cháu, nếu tính tuổi từ lúc mới sinh ra đến bây giờ cũng đã gần cả trăm năm

trong cõi ngƣời… Vậy mà, bác vẫn chƣa hiểu đƣợc mình là ai; vì sao mình lại sinh ra vào đúng cái thời khốc hại, ê chề, độc địa, tối tăm có một không hai

này? Và cái vòng luân hồi sinh tử, tử sinh này đến bao giờ mới ngừng quay?

Ngậm ngùi một lúc, ông nói thêm nhƣ để cho riêng mình nghe:

– Tôi theo Đạo Con Ngƣời, đạo của chính tôi. Lúc ở Bên Này sang Bên Ấy,

tôi đã nhận biết: có Trời ở trên đầu, có Đất ở dƣới chân, có cha mẹ ông bà tổ

Page 229: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 229

tiên họ Mai sinh ra mình. Đạo của tôi là Đạo Ông Bà Tổ Tiên, Đạo ở quanh

mình, khắp nơi khắp chốn…

Rồi quay sang Lệ Uyên:

– Con gái yêu của thầy mẹ… Thầy đã kể hết rồi. Toại nguyện chƣa? Chúc

mừng các con đƣợc Siêu thoát. Thôi, để thầy đi!

Lệ Uyên hờn dỗi, vùng vằng:

– Chúng con không thể chờ thầy đƣợc sao? Thầy khoan hẵng đi!

Ông Vỹ chăm chú nhìn Lệ Uyên:

– Lạ thật! Con không có thay đổi bao nhiêu. Từ hồi ấy cho đến nay, 45 năm

rồi, làn môi con gái họ Mai tôi vẫn thế, dỗi hờn, phụng phịu, thấm mọng nƣớc mắt…

Đột nhiên ông thoáng giật mình, sửng sốt:

– Thôi, thầy phải đi…

Lệ Uyên hốt hoảng:

– Không! Không! Thầy cho con đi với! Biết thế này thì… thà con đừng có Siêu

thoát nữa!

Ông Vỹ giơ tay ngăn lại:

– Đừng! Đừng! Con ngƣời ta có mệnh hệ, con ơi! Mệnh hệ con từ lúc mới sinh

ra là để gắn với thầy. 45 năm qua, cha con mình chỉ nghĩ tới nhau. Thầy mong

gặp lại con ở Bên Này để kể lại đầu đuôi câu chuyện cho con nghe. Nếu chỉ riêng có hai cha con mình thôi thì nhƣ vậy e rằng chƣa đủ. Bởi Nhân loại-Lớn

cần có một ngƣời thứ ba nữa xác nhận, chứng kiến, đó là Thùy Dƣơng, em kết

nghĩa của con. Thùy Dƣơng cũng là con của thầy mẹ. Các con cứ yên tâm mà Siêu thoát. Thôi nhé, thầy đi…

Ông Vỹ lùi lại. Hình bóng ông nhỏ dần… Chỉ còn một đốm sáng loé lên.

Rồi tắt.

Biến…

Page 230: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

230 Trần Thế Nhân

Chƣơng 46 ĐOƤN KẾT (EPILOGUE). SIÊU THOÁT

Lại trở về Bên Ấy…

Họ ngồi bên nhau im lặng.

Họ biết cái câu mình hoặc ngƣời kia sẽ nói lên, chỉ câu ấy thôi, hễ đã nói xong

là một đột biến sẽ xẩy ra. Đột biến này xem ra rồi quá sức chịu đựng!

Lúc còn ở Dƣơng gian, nhƣ mọi con ngƣời, cả hai đều sợ Chết, bây giờ một nỗi sợ khác xem ra còn lớn hơn, chiếm đoạt, ngự trị hình hài họ, thứ hình hài

mảnh hơn ánh sáng, nhẹ hơn không khí cả siêu lần: nỗi sợ phải xa nhau!

Lệ Uyên chăm chú nhìn cô em kết nghĩa.

Cái đầu hơi nhỏ, mái tóc uốn kiểu con trai úp lên nhƣ chiếc súp lơ Đà Lạt

nhuộm màu hoe khiến cho ả có vẻ ngây thơ dễ thƣơng của một cô bé lai Tây,

góp phần xoá bớt, mờ nhạt đi những nét chƣa hoàn hảo của cánh mũi hếch,

vầng trán hơi cao mà hẹp, hai con mắt hơi lồi bộc lộ sự lì lợm ham hố lắm khi nóng nảy đến dại dột…

Để bù trừ lại cái “trôốc” chƣa lấy gì làm hoàn mỹ lắm, Bà Mụ đã nặn cho cô

em một cặp môi phải nói rất chi là đáng kể, dẫu rằng có hơi mỏng một chút nhƣng lại rất tƣơi. Màu tƣơi tự nhiên nhƣ cánh sen, nụ hồng lẽ ra chẳng cần tới

mỹ phẩm (Thùy Dƣơng đã hối hận vì đua đòi lây nhiễm phải thói quen dại dột

thời hiện đại), mỗi khi cần mở ra hay khép lại để trình diễn hai hàm răng sáng

bóng đều đặn không thể chê vào đâu đƣợc, đến nỗi Lệ Uyên đôi lúc cũng phải thầm so sánh tự thấy hàm răng của mình đúng là chƣa đạt đƣợc điểm 10 nhƣ

vậy, Hàm răng ấy khi phát ra, dù là âm điệu chọ chẹ của xứ “cà cuống có

đuôi” vẫn đầy ma lực cuốn hút lòng hảo tâm, hào hiệp của phái mạnh!

Có lẽ chàng Lê Vĩnh thuở hoa niên đã đắm say một trong hai cái “góc” của

nàng Phan Thị Thùy Dƣơng thuở ban đầu gặp gỡ làm chi; sau này thì kể sao

cho hết những đấng mày râu thời Đổi mới Tƣ duy lần lƣợt xếp hàng đứng sau, thế chân cho Lê Vĩnh, kẻ đã có tội phản bội và cũng góp công đột phá đổi mới

nàng…

Nổi trội hơn cả có lẽ là Lão Hƣớn và kết thúc là đại tá Mai Đắc Xuân, ngƣời

tình lý tƣởng của nàng!

Page 231: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

NGÀY LONG TRỜI, ĐÊM LỞ ĐẤT 231

Biết kể sao cho hết bao kẻ không tên và có tên đã tự nguyện xung phong hoàn

thành nhiệm vụ để làm thoả mãn khát vọng đổi đời của cô gái núi Hồng sông

Lam!

Không ai đáng yêu dễ thƣơng hơn cô em kết nghĩa của mình. Lệ Uyên thầm

nghĩ. Mọi tiêu chuẩn về đạo đức, thẩm mỹ ở Bên Ấy, qua bao đời tƣởng đã

thành khuôn mẫu cho mọi ngƣời noi theo làm theo, bây giờ trở nên mớ bòng

bong phế thải những lầm lẫn và ngu dốt!

Trong khi đó, Thùy Dƣơng đã ngả ngƣời vào lòng chị kết nghĩa, mắt nhắm tay

ôm ghì… Lệ Uyên khẽ kéo cái váy đầm bó xuống, phủ che đầu gối và cặp giò

hơi nhỏ nhƣng rất thẳng của cô em. Cử chỉ này làm Thùy Dƣơng thoáng mỉm nụ cƣời biết ơn. Nụ cƣời dễ thƣơng đến nỗi không kiềm chế đƣợc, Lệ Uyên

phải cúi xuống đặt một cái hôn lên cặp môi hồng thắm, quên mất mình đang

luyến ái đồng tính, điều mà nhân loại vẫn còn tranh cãi, rào cản…

Thùy Dƣơng mở mắt ra. Ả cƣời. Trong mắt ả, ngƣời chị hiền thục và xinh đẹp,

gần nhƣ trái ngƣợc hoàn toàn với hình thể tƣ chất con ngƣời ả một thời, tƣởng

chừng nhƣ mâu thuẫn đến chối bỏ, phủ nhận thì nay đã gắn bó đến hài hoà:

Chị của em, em yêu chị biết bao! Em chẳng bao giờ muốn xa chị!…

Lệ Uyên đọc đƣợc ý nghĩ ấy. Lẽ ra chị phải đặt ngay một cái hôn tiếp lên đôi

mắt kia, nhƣng đã ngập ngừng khiến cặp môi yếu đuối của ả phải run lên, mấp

máy…

– Chị em mình…

Lệ Uyên vội vàng đặt bàn tay lên miệng Thùy Dƣơng nhƣng đâu còn kịp nữa,

một phần nửa câu còn lại của cô em đã lọt qua kẽ tay chị, dẫu hơi lệch pha nhƣng vẫn rành rọt:

– … Rồi sẽ ra sao đây?

Đột nhiên cả hai cùng rùng lên một cái, buông rời… Họ đều cố cƣỡng lại, chới với, xáp vào nhau. Nhƣng một lực kéo đến từ đâu hai phía, giữ họ lại, lôi họ ra

khiến họ cảm thấy mình mỗi lúc một đuối sức và sự gắng sức của cả hai trở

nên vô nghĩa. Ngƣời nọ thấy ngƣời kia cứ nhƣ giật lùi, trôi đi… mỗi lúc một cách xa nhau hơn.

– Lệ Uyên ơi!

Thùy Dƣơng kêu lên rồi bật khóc.

– Thùy Dƣơng! Chị đây mà…

Page 232: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

232 Trần Thế Nhân

Lệ Uyên nghẹn ngào, giơ tay vẫy…

– Chị…

– Em…

– Ơ kìa! Chúng ta mãi mãi xa nhau hay sao?

– Chị em mình rồi sẽ… lại gặp nhau…

– Gặp nhau ở đâu?

– Chƣa rõ. Nhƣng chắc rồi sẽ… gặp lại nhau. Em cứ tin đi!

– Biết thế này thì chị em mình thôi đừng có Siêu thoát nữa! Siêu thoát nỏ làm

cái chi! Lệ Uyên ơi, em có mơ chi Thiên Đƣờng, Niết Bàn nhƣ ngƣời ta đâu!

Mà Thiên Đƣờng, Niết Bàn dù có thật đi nữa rồi cũng chỉ nên hiện hữu, tồn tại ngay trong hiện tại của Cõi Trần chúng ta… Kiếp trƣớc đã qua rồi, kiếp sau còn

nói làm quái gì! Cứ ngồi đó mà chờ ngày mai tƣơi đẹp, mà đợi kiếp sau đàng

hoàng! Chị em mình thà bị nhốt giam đời đời, muôn năm trong cái nhà tù đoạn trƣờng, Bể Khổ Trần gian… còn hơn là Siêu thoát nhƣ thế này!

Tiếng nấc.

Tiếng khóc.

Hai đốm sáng nhỏ dần.

Tắt.

Biến.

Đầu năm 2002 – Noel 2005

Hoàn chỉnh năm 2009

TRẦN THẾ NHÂN

Page 233: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

233

BƤT

Thƣa Quý độc giả!

Đến đây Quý vị đã đọc xong cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”.

Với những vị đã cao niên, từng kinh qua thực trạng xã hội Miền Bắc Việt Nam

trong những năm 50 của thế kỷ trƣớc, đều biết chắc chắn rằng cuốn tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” không khác gì một bộ phim phóng sự với độ

xác thực 100% từ A tới Z.

Nhƣng với những bạn sinh sau đẻ muộn, lại đang đƣợc sống trong một xã hội

tự do dân chủ, rất có thể sẽ cảm thấy khó tin rằng ở quê hƣơng chúng ta lại có một thời kỳ khủng khiếp hơn cả cảnh cuối tầng Địa ngục nhƣ vậy. Thật là

ngoài sức tƣởng tƣợng có phải không?! Nếu các bạn phân vân nhƣ vậy, thay vì

tôi lớn tiếng dõng dạc tuyên bố: xin đem trọn cái mạng của mình ra đảm bảo cho cái điều không thể tin đƣợc đó là SỰ THẬT, thì tôi chỉ xin mời quý bạn

hãy ghé về Việt Nam lúc này – thời kỳ những năm đầu thiên niên kỷ thứ ba –

mà sống và chiêm nghiệm, dù chỉ một ngày thôi – cũng đủ để bạn nếm trải những gì đã đƣợc “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” ghi lại. Cảnh ấy, ngƣời ấy,

không khí xã hội ấy, bạn tƣởng chỉ là một quá khứ ngắn ngủi bi thảm của dân

tộc ƣ? Không đâu! Thảm trạng ấy vẫn đang tiếp diễn nhãn tiền.

Quái thai độc tài đảng trị đã và vẫn đang ở cao trào đào huyệt nhằm chôn sống cả Dân Tộc. Hãy làm những gì trong khả năng của bạn để mỗi ngƣời và mọi

ngƣời thấy, biết và hiểu rõ đƣợc điều này, cho bây giờ và cho cả mai sau./.

Nguyễn Quảng Tâm.

Page 234: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

234 Nguyễn Minh Cần

SUY NGẪM KHI ĐỌC “NGÀY LONG TRỜI ĐÊM LỞ ĐẤT” CỦA TRẦN THẾ NHÂN

Nguyễn Minh Cần

… Ôi ! Quê hương

Hỡi những ngày xưa !

Thủy chung – nhân ái

Tất cả chìm-ngâm

Trong lừa dối cuồng điên… (Phùng Cung – 1965)

Trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm của Dân Tộc ta, chƣa từng có một

trận thảm sát nào mà ngƣời Việt lại giết hại ngƣời Việt khủng khiếp nhƣ trong

cuộc Cải cách Ruộng đất (CCRĐ) dƣới “thời đại Hồ Chí Minh” hồi giữa thập niên 50 thế kỷ 20! Đó là trận thảm sát dân lành cực kỳ man rợ do đầu óc kỳ thị

giai cấp, do ý thức hệ Cộng sản của tập đoàn cầm quyền gây nên!

Trên thế giới đã từng có nhiều nƣớc làm CCRĐ. Phần đông ngƣời ta làm một cách ôn hoà bằng cách Nhà nƣớc mua lại số ruộng đất chủ sở hữu có trên tiêu

chuẩn do NN quy định, hoặc cho phép họ đƣợc hiến tặng. Nhờ đó, các nƣớc ấy

đã nhẹ nhàng xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến, tạo điều kiện cho nền kinh

tế phát triển mạnh, đồng thời giữ đƣợc hoà khí và ổn định xã hội, tránh những đảo lộn nguy hại.

Thế nhƣng, các “lãnh tụ” Cộng sản thì cho đó là con đƣờng “thoả hiệp giai

cấp”, không đúng đƣờng lối chủ nghĩa Marx-Lenin, không thể hiện tinh thần “đấu tranh giai cấp”, không phát động đƣợc lòng “căm thù giai cấp”, không

mang tính “cách mạng triệt để”… Theo họ, CCRĐ phải là một “cuộc cách

mạng long trời lở đất”. Phải “phóng tay phát động quần chúng”, nghĩa là làm

hết sức mãnh liệt, thẳng tay, không khoan nhƣợng, không thƣơng xót, có thế mới dấy lên lòng căm thù giai cấp cao độ trong quần chúng bần cố nông mà họ

coi là “quân chủ lực cách mạng” để đánh gục giai cấp địa chủ.

Đảng Cộng Sản dõng dạc tuyên bố CCRĐ là để thực hiện “ngƣời cày có ruộng”, ƣớc mơ ngàn đời của nông dân.

[5]

[5] Tại kỳ họp thứ ba của Quốc Hội Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà khoá 1 (tháng 12 năm 1953), để

thông qua Luật CCRĐ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dõng dạc khẳng định một lần nữa khẩu hiệu

“ngƣời cày có ruộng” và tính chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình của cuộc CCRĐ. Ông nói: “Luật

CCRĐ của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông,

trung nông ở dƣới có ruộng cày, nhƣng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố

đồng bào địa chủ” (nguyên văn). Ngày nay, mọi ngƣời đều thấy rõ lời nói của “lãnh tụ” Cộng sản

kiêm Chủ tịch Nƣớc khác nhau một trời một vực so với thực tế và việc làm của những ngƣời

Cộng sản! Thật đúng là “nói dzậy mà không phải dzậy”!

Page 235: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 235

SUY NGẪM

Nhƣng, đó chỉ là trên lời nói! Còn trong thâm tâm, các “lãnh tụ” Cộng sản có

một ý đồ khác hẳn, nhắm những mục tiêu khác hẳn. Họ dùng khẩu hiệu “ngƣời cày có ruộng” làm “con mồi” nhử nông dân mà họ coi là “đồng minh chiến

lƣợc”[6]

đi theo họ thực hiện những mục đích xa hơn, độc địa hơn. Họ dùng

CCRĐ để tiêu diệt giới hữu sản bị họ coi là “giai cấp bóc lột” ở nông thôn, để truy quét các thành phần mà họ cho là “phản động”, quét sạch các tƣ tƣởng và

hệ thống giá trị đạo lý cổ truyền nặng về quyền tƣ hữu, loại bỏ cuộc sống tâm

linh trái với chủ nghĩa vô thần của họ, xoá bỏ đạo đức truyền thống của gia đình, thôn xóm mà nền văn hoá làng xã lâu đời ở nƣớc ta đã để lại. Chủ ý của

họ còn là khủng bố tinh thần nhân dân, gây ra nỗi khiếp sợ triền miên trong

ngƣời dân nhằm triệt tiêu mọi mầm mống chống đối họ. Họ ra sức xúi giục,

kích động lòng hận thù, gieo rắc tính độc ác, tham lam, dối trá, đểu cáng… vào lòng ngƣời nông dân vốn chất phác, hiền lành… Tất cả những điều đó nhằm

mở đƣờng thực hiện cuộc cách mạng XHCN và huy động “quân chủ lực cách

mạng” xông vào trận chiến đánh chiếm miền Nam.

Chính với ý đồ đó, các “lãnh tụ” Cộng sản đã gây ra những tội ác tày trời đối

với Dân Tộc: họ đã biến CCRĐ và Chỉnh đốn Tổ chức thành một cuộc đày

đọa, tàn sát dân lành và cả các cán bộ đã từng đứng dƣới lá cờ của họ. Trong

lúc nhân dân đang sống yên lành thì bỗng dƣng Đảng phái những “Đội cải cách” về làng xã khép “tội” địa chủ cho nửa triệu ngƣời trong nƣớc VN Dân

Chủ Cộng Hoà (với dân số nông thôn hồi đó trên 10 triệu)[7]

, và số ngƣời này

ngay lập tức bị hành hạ, bị đọa đày, bị giày xéo tận bùn đen! Hơn nữa, trên 172 ngàn sinh mạng vô tội đã gục xuống dƣới lƣỡi gƣơm “chuyên chính vô

sản” vì bị quy oan là địa chủ cƣờng hào gian ác, Việt gian, phản động, gián

điệp, Quốc Dân Đảng![8]

Những cuộc “đấu tố” với cảnh con đấu cha, vợ tố chồng, con dâu vu oan cho bố chồng, con rể giá họa cho mẹ vợ, bà con, hàng

xóm, láng giềng tố điêu lẫn nhau… đã đảo lộn đạo đức thông thƣờng, giày xéo

lên nền văn hiến lâu đời của ngƣời Việt, phá hoại truyền thống hoà hiếu, “lá

[6] Hồi đó, nông dân chiếm đến trên 90% dân số của nƣớc ta. [7] Trong báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trƣớc Quốc Hội đã nói rõ địa chủ chỉ có 5% dân

số mà chiếm phần lớn ruộng đất ở nông thôn. Vì thế, trong CCRĐ, Đảng chính thức quy

định tỷ lệ địa chủ trong dân số nông thôn là 5%. Tỷ lệ 5% đó dựa trên cơ sở nào không ai biết, vì hồi đó không hề có một cuộc điều tra nào về tình hình kinh tế, xã hội và ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam. Nhiều nhà phân tích cho rằng đó là nhận định chủ quan của các “lãnh tụ” Cộng sản theo kiểu volontarisme (duy ý chí). Cái tỷ lệ 5% này đã gây ra biết bao oan khốc cho ngƣời dân, vì các Đội Cải cách phải cố sức “đôn” nhiều ngƣời lên “thành phần địa chủ” cho đủ số tỷ lệ!

[8] Số liệu này trích từ bộ “Lịch Sử Kinh Tế Việt Nam 1945-2000” gồm 3 tập, do Viện Kinh tế Việt Nam xuất bản tại Hà Nội – xem tập 2.

Page 236: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

236 Nguyễn Minh Cần

lành đùm lá rách”, “tối lửa tắt đèn có nhau” của cƣ dân làng xã nƣớc ta. Còn

điều các “lãnh tụ” Cộng sản không ngừng rao giảng: “xây dựng con ngƣời

mới” theo “đạo đức mới”, tức là “đạo đức Cộng sản” và “tƣ tƣởng Hồ Chí Minh”, thì… than ôi, ngày nay, nhân dân ta đã thấy quá rõ “kết quả” thực tế

rồi: đạo đức băng hoại, xã hội sa đọa, nạn tham nhũng tràn lan, nạn mua quan

bán chức phổ biến, tệ nạn lừa dối, đảo điên, đểu cáng, độc ác… nhan nhản

khắp nơi trong nƣớc.

Còn câu chuyện hoang đƣờng “ngƣời cày có ruộng” hoá ra là… một “quả lừa

vĩ đại” mà Đảng Cộng Sản đã cho nông dân “xơi” đến bội thực! Vì CCRĐ vừa

xong hồi cuối năm 1956, một số nông dân vừa mới hí hửng “cắm thẻ nhận ruộng” để Đảng chụp ảnh quay phim tuyên truyền thì đến năm 1957-1958, họ

đã bị Đảng lùa vào hợp tác xã để “tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội”.

Thế là ruộng đất của nông dân biến thành của hợp tác xã, còn ngƣời nông dân thì hoàn toàn lệ thuộc vào ban chủ nhiệm hợp tác xã, vào đảng uỷ và uỷ ban xã

nhƣ những nông nô! Đến khi Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà “đƣợc” Đảng

chuyển thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thì… chỉ bằng một câu

ngắn gọn trong Điều 19 của Hiến pháp năm 1980 “Đất đai, rừng núi, sông hồ… đều thuộc sở hữu toàn dân”, Đảng đã tịch thu một cách ngon ơ toàn bộ

ruộng đất của nông dân, đất đai của toàn dân! Nông dân và nhân dân bị Đảng

tƣớc đoạt quyền sở hữu về ruộng đất, nói chung về đất đai, trong nháy mắt! Thế là ƣớc mơ ngàn đời của nông dân mãi mãi vẫn chỉ là… “ƣớc” và “mơ”!

“Quả lừa vĩ đại” này của Đảng chẳng phải một mình nông dân bị mà cả đại bộ

phận nhân dân nƣớc ta cũng bị. Thậm chí nhiều nạn nhân, khi đã “dựa cọc” rồi, sắp bị hành quyết mà vẫn chƣa tỉnh, cứ nghĩ rằng tai họa của họ là do mấy

“ông bà Đội” gây ra, nên trƣớc khi chết có ngƣời vẫn gắng gƣợng kêu lên mấy

tiếng “Hồ Chí Minh muôn năm!”. Con cái của họ, kể cả nhiều ngƣời có học

thức mà vẫn cứ bị lừa cho đến… hơi thở cuối cùng! Mà chẳng những nhân dân ta, ngay cả một phần dƣ luận thế giới, một số nhà đại trí thức nổi tiếng cũng bị

đánh lừa! Cố nhiên, đến bây giờ thì thế giới ngƣời ta tỉnh rồi, chỉ có một số

khá đông ngƣời Việt Nam ta vẫn còn mê muội hoặc… giả vờ mê muội.

Mỉa mai thay, nửa thế kỷ sau cuộc “cách mạng long trời lở đất”, dƣờng nhƣ

Lịch sử Việt Nam lại trôi theo dòng chảy ngƣợc! CCRĐ (1953-1956) “đã đánh

đổ giai cấp địa chủ” thì giờ đây, ở nƣớc Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt

Nam cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21, lại xuất hiện những địa chủ mới mà dân ta gọi là bọn “cƣờng hào đỏ”, vì chúng là những cán bộ Cộng sản lợi dụng chức

quyền chiếm dụng đất đai (là sở hữu toàn dân!) phát canh, thu tô, cho vay nặng

lãi ở nông thôn để bóc lột chẳng khác gì địa chủ thời xƣa. Giáo sƣ Viện sĩ Đào Thế Tuấn đã phải nói thẳng thừng: “Không có nƣớc nào (nhƣ ở nƣớc ta) ngƣời

Page 237: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 237

nông dân bị bạc đãi, bóc lột, hiếp đáp bởi bọn cƣờng hào mới, đa số là đảng

viên trong các đảng ủy điạ phƣơng đƣợc cấp trên thông đồng che chở. Không

ở đâu, chƣa bao giờ nông dân bị tƣớc đoạt đất ruộng qua “thu hồi” kiểu cƣỡng bức và tùy tiện, với chính sách “đền bù” nhảm nhí, “bèo bọt” chỉ bằng một

phần 10, có khi chỉ một phần 20 của giá trị thực!” Giờ đây lại xuất hiện cảnh

nông dân cầm cố ruộng đất mà họ đƣợc phép sử dụng để đi làm thuê làm

mƣớn hoặc đi tha phƣơng cầu thực, các nhà khoa học xã hội gọi đó là “tình trạng ly nông”. Giờ đây xuất hiện thêm một lớp ngƣời “mới” có tên gọi là “dân

oan”, tức là gần một triệu nông dân và ngƣời lao động bị chiếm đoạt đất đai, bị

cƣớp đoạt nhà cửa đi “kêu oan”, thậm chí đi biểu tình, ở các “cửa quan” Cộng sản hàng chục năm trời mà vẫn “không đi đến đâu cả”! Giờ đây còn xuất hiện

thêm những cảnh tƣợng nhục nhã chƣa từng thấy trong lịch sử nƣớc nhà: “nhà

nƣớc xã hội chủ nghĩa” đem trên nửa triệu nam nữ nông dân, lao động “xuất khẩu” ra nƣớc ngoài bán cơ bắp, mồ hôi, nƣớc mắt và cả máu nữa để nhà nƣớc

thu về hàng nhiều triệu đô la[9]

; “nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa” cho phép các dịch

vụ “buôn ngƣời” dƣới dạng “lấy chồng ngoại quốc” đƣa hàng mấy trăm ngàn

cô gái nông thôn vì nghèo đói phải bỏ mẹ cha, bỏ anh chị em, bỏ quê hƣơng làng xóm để… bán mình cho các “ông… chồng” Hàn Quốc, Đài Loan, Trung

Quốc…, thực chất là đi làm nô lệ, kể cả nô lệ tình dục![10]

Nhiều nhà nghiên

cứu và nhà báo trung thực trong nƣớc đã mô tả cuộc sống của ngƣời nông dân Việt Nam ngày nay còn lầm than, khổ ải hơn hồi trƣớc “cách mạng”, hơn

trƣớc ngày “thống nhất đất nƣớc”! Đó là sự thật hết sức phũ phàng mà nông

dân Việt Nam đang phải ngậm đắng nuốt cay cúi đầu chịu đựng!

CCRĐ “long trời lở đất” nhƣ vậy, một sự kiện lịch sử lớn lao nhƣ vậy, thế mà

đã trên nửa thế kỷ qua, chƣa có một công trình nghiên cứu chân thật, khách

quan nào của các nhà khoa học trong nƣớc đƣợc công bố! Chƣa có một tác

phẩm nghệ thuật, văn chƣơng nào của các nhạc sĩ, họa sĩ, nhà điêu khắc, nhà văn, nhà thơ… trong nƣớc diễn tả lại tấn thảm kịch đầy đau thƣơng của Dân

Tộc! Chẳng phải vì giới trí thức sáng tạo nƣớc ta thiếu ngƣời có tài, có tâm,

[9] Theo báo cáo Cục quản lý Lao động nƣớc ngoài của VN, năm 2008 có trên 500 ngàn ngƣời

Việt đang lao động tại hơn 30 nƣớc trên thế giới. Từ năm 2005, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Mã Lai bắt đầu nhận ngƣời Việt “xuất khẩu lao động”. Báo cáo còn cho biết trong

vài năm tới, số lao động “xuất khẩu” có thể sẽ tăng lên đến một triệu. [10] Theo tài liệu năm 2008 từ Văn phòng Kinh tế Văn hoá Đài Bắc tại Việt Nam, có khoảng 770

ngàn cô gái Việt Nam sang Đài Loan “làm… dâu”! Đáng chú ý là trong số đó, phụ nữ miền Tây Nam Bộ (vốn là vùng có cuộc sống trƣớc năm 1975 tƣơng đối sung túc) bị bán qua Đài Loan chiếm tỷ lệ cao nhất so với các tỉnh thành trong nƣớc. Báo chí ở một vài nƣớc sở tại cho biết nhiều cô bị đánh đập, bị bỏ đói, bị buộc phục vụ sinh lý cho cả gia đình hoặc bị bán

cho các “động” mãi dâm. Một số cô không chịu đƣợc nhục nhã đã tự tử, hoặc phản ứng lại và bị đánh chết!

Page 238: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

238 Nguyễn Minh Cần

mà chỉ vì ngay sau CCRĐ các “lãnh tụ” Cộng sản đã coi đó là một trong

những đề tài cấm kỵ không ai đƣợc đụng đến. Cái tabou khắc nghiệt này thì

đám quan chức của chế độ cực quyền ngày đêm canh giữ nghiêm ngặt mãi cho đến ngày nay!

Hồi đầu cuộc “đổi mới”, cuốn “Ác Mộng” của Ngô Ngọc Bội chỉ mới dám

lƣớt nhẹ qua chuyện “cải cách”… Mãi đến gần đây, đầu thế kỷ 21, mới lác đác

xuất hiện vài cuốn tiểu thuyết đề cập thẳng đến đề tài cấm kỵ đó. Cuốn “Ba Ngƣời Khác” của Tô Hoài, hoàn thành từ năm 1992 nhƣng chật vật mãi đến

năm 2006 mới đƣợc xuất bản. Cuốn “Nƣớc Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa

Đăng sắp xuất bản thì bị cấm ngay tức thì và cuốn “Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tƣờng vừa in xong, chƣa kịp phát hành thì số sách in đã bị

Đảng ra lệnh thu hồi để nghiền làm bột giấy!! Một hành động man rợ, phản

văn hoá của bọn Tần Thủy Hoàng thời nay!

Ngƣời viết những dòng này đã phải sống suốt quãng thời gian “long trời lở

đất” rất kinh hoàng, đầy bi thƣơng, đầy máu lệ, đầy chết chóc, đầy tàn phá,

đầy “lừa dối cuồng điên”... Đã nhiều lần dự hội nghị về CCRĐ, đƣợc nghe

“Bác Hồ vĩ đại” và “Anh Cả Trƣờng Chinh” huấn thị về “CCRĐ”, “Chỉnh đốn Tổ chức”, về “phóng tay phát động quần chúng”... Đã từng chứng kiến nhiều

cuộc đấu “địa chủ cƣờng hào ác bá” ở Bắc Ninh, Hƣng Yên, Hà Đông. Cũng

đã từng đi làm nửa đợt “cải cách” ở Thái Bình, giữa chừng thì Thành uỷ xin về Hà Nội để nhận trách nhiệm lãnh đạo công tác “sửa sai cải cách” ở Ngoại

Thành Hà Nội. CCRĐ quả là một cú đẩy mạnh làm ngƣời viết thức tỉnh, đánh

giá lại Đảng Cộng Sản và các “lãnh tụ” của Đảng, cũng nhƣ nhìn lại con đƣờng mình đã đi… Đó là khởi đầu cho một quá trình đấu tranh, dằn vặt, đau

đớn để có đƣợc một nhãn quan mới, tƣ duy mới, cuối cùng dẫn đến việc rời bỏ

Đảng Cộng Sản. Chính vì thế, ngƣời viết biết rõ nỗi đau khổ của bà con nông

dân, vô cùng thông cảm với các nạn nhân của CCRĐ và nóng lòng mong mỏi đƣợc thấy những tác phẩm văn học nghệ thuật chân thật mô tả về sự kiện lịch

sử đau thƣơng này.

Thế rồi, hồi năm 1996, tôi đặc biệt cảm động khi lần đầu tiên đƣợc cầm trong tay tập copy bản thảo tiểu thuyết “Ba Ngƣời Khác” của Tô Hoài. Tôi thầm

cảm ơn nhà văn Tô Hoài đã giáng một đòn mạnh vào cái tabou kỳ quái của

Đảng để hé ra cho độc giả biết đƣợc phần nào sự thật về Cải cách RĐ. Ông là

nhà văn lão thành có tên tuổi ở nƣớc ta nên cái gƣơng sáng của ông sẽ cổ vũ nhiều ngƣời khác noi theo.

Đọc xong, tôi đƣa “Ba Ngƣời Khác” cho một ông bạn già xem. Ông ta đọc kỹ

lắm rồi gặp tôi, ông bực bội phán: “Viết về CCRĐ mà Tô Hoài chỉ kể về ba thằng Đội ba lăng nhăng ấy thì không đƣợc! Phải nói đến “Ba Ngƣời Khác”

Page 239: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 239

cơ!” Tôi hỏi lại: “Là ai?” Ông đáp: “Ai nữa? Là Bác Hồ vĩ đại, Bác Mao cũng

vĩ đại và Cụ Xít càng vĩ đại! Chính ba ông đầu nậu ấy đã bày ra cái chuyện

“cải cách” ở nƣớc ta”. Tôi nói: “Anh nói cũng đúng thôi! Không có Cụ Hồ và Đảng Cộng Sản, và Cụ Hồ không đi xin “chỉ thị” Cụ Xít, không xin phép Cụ

Mao cho rƣớc đoàn cố vấn Tàu sang thì chẳng có chuyện “cải cách” khủng

khiếp này”. Anh ta hăng lên: “Đó là nói hàng trên. Còn dƣới một bậc thì “Ba

Ngƣời Khác” là “Anh Thận” (Trƣờng Chinh), sau đổi là Năm để nhún nhƣờng đứng sau Ba Duẩn, rồi đến thằng cha Hồ Viết Thắng và “Anh Lành” (Tố Hữu)

“nhƣng dạ chẳng lành”[11]

. Tôi hỏi: “Tố Hữu thì có liên quan gì đến? Lão ta

không có chân trong Uỷ ban CCRĐ Trung ƣơng mà”. Anh ta đáp: “Thế anh không biết à, y là kẻ “gác cổng” tƣ tƣởng của Đảng ta. Y phụ trách công tác

tuyên truyền cho chiến dịch “cải cách” đấy. Chính y đã đánh tơi bời Trần Bá

Xá chỉ vì cái truyện ngắn chân thật “Anh Cò Lấm” đăng trên tạp chí “Tổ Quốc” hồi tháng 1 năm 1956, y buộc cho tác giả những tội “chết ngƣời”, nhƣ

có tƣ tƣởng phản động của giai cấp địa chủ, chống phá chính sách CCRĐ! Ban

biên tập “Tổ Quốc” cũng điêu đứng vì y. Rồi đến khi Hà Minh Tuân cho ra

cuốn “Vào Đời” có đụng chi mấy đến chuyện “cải cách” đâu mà y và lão (Nguyễn Chí) Thanh xúm vào đánh cho tơi bời, kỷ luật tùm lum. Cũng chính y

đã tung ra những câu thơ sặc mùi đao phủ để kích thêm đầu óc hiếu sát của các

Đội cải cách. Anh còn nhớ không?” Rồi anh ta đọc vanh vách:

“Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ,

Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế[12]

mau xong,

Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng,

Thờ Mao Chủ tịch, thờ Xít-ta-lin bất diệt”…

[11] “Anh Lành nhƣng dạ chẳng lành” là một câu vè về Tố Hữu lƣu truyền trong giới văn nghệ sĩ

hồi ông ta còn sống, ám chỉ những vụ đàn áp tàn nhẫn trí thức, văn nghệ sĩ dƣới thời ông. [12] Ý nói thuế nông nghiệp là nguồn thu chính của chính quyền, đƣợc áp dụng hồi đó (từ năm

1951) ở nông thôn miền Bắc Việt Nam. Đây cũng là một cơn ác mộng nữa đối với nông dân, vì thuế đánh theo lối lũy tiến, nghĩa là thu hoạch đƣợc nhiều thì phải nộp thuế cao hơn gấp bội. Nếu không nộp đủ thuế thì ngƣời nông dân bị đày đọa đủ cách, thậm chí bị bỏ tù. Và nếu không muốn bị ở tù thì nông dân đành phải mang trâu bò ra bán, hết trâu bò thì phải bán đến nữ trang, đồ vật trong nhà, thậm chí cả những đồ tế tự trên bàn thờ, v.v… để nộp thuế. Những cuộc “bình diện tích” và “bình sản lƣợng” nhằm tính số lƣợng thu hoạch để định mức thuế chủ ruộng phải nộp đều do các đảng viên Cộng sản mớm cho các cốt cán bần cố nông “phát giác” để tăng mức thuế lên và gán ép cho chủ ruộng nhắm “đánh” vào lớp ngƣời hữu sản ở nông thôn. Trong tác phẩm “Chuyện Làng Ngày Ấy” (xuất bản năm 2006), nhà

văn Võ Văn Trực đã mô tả rất rõ nét những cảnh cƣỡng bức trắng trợn nông dân đóng thuế hồi đó.

Page 240: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

240 Nguyễn Minh Cần

Chuyện phiếm đàm của hai ông bạn già chúng tôi còn dài. Nhƣng, nói chuyện

nghiêm chỉnh thì phải công nhận là Tô Hoài đã bất chấp tabou, đề cập đến một

đề tài “rất nhạy cảm”, và với văn tài của mình ông đã tạo nên một cuốn tiểu thuyết khá hấp dẫn. Ông đã vẽ lên rất rõ nét hình ảnh ba “anh Đội” cải cách –

đội trƣởng Cự, đội phó Bối kiêm chánh án và một cán bộ Đội tên Đình. Cả ba

gã này mỗi tên một vẻ nhƣng đều có tính lƣu manh, đều hám quyền lực, đều

dối trá, ham gái, dâm đãng và không gờm tay trƣớc tội ác. Tác giả đã mô tả rất “ấn tƣợng” những cảnh hoang dâm, quần dâm của ba “anh Đội” với các cô “rễ

chuỗi” bần cố, với các nàng dân quân… tạo nên một cảm giác tởm lợm của

ngƣời đọc đối với mấy tên này. Tuy nhiên, ngƣời đọc tinh ý thấy rõ rằng Tô Hoài dù đã đụng đến đề tài CCRĐ nhƣng lại tránh né, không dám phơi bày

thực chất và nguồn cơn tấn thảm kịch của Dân Tộc đã diễn ra trong lịch sử.

Độc giả chờ đợi rất nhiều ở một nhà văn có tầm cỡ nhƣ Tô Hoài, nhà văn đã từng tham gia hai đợt CCRĐ, làm đội phó lại kiêm chánh án Đội cải cách, họ

hy vọng đƣợc thấy từ ngòi bút của ông hiện lên một bức tranh toàn cảnh đồ sộ,

chân thật về cuộc đảo lộn khủng khiếp này. Nhƣng, đọc xong “Ba Ngƣời

Khác”, độc giả vẫn chƣa thấy đƣợc toàn bộ sự thật, “sự thật trần truồng” không che đậy. Ngƣời đọc bàng hoàng nghĩ rằng lẽ nào chỉ vì ba cái thằng

khốn nạn này mà mọi sự trong xã hội dƣới thời “dân chủ cộng hoà” lại đảo lộn

tùng phèo đến nhƣ thế ƣ? Thế thì ai cho chúng nó cái quyền “nhất Đội nhì Trời” để chúng nó tác oai tác quái làm những chuyện “long trời lở đất” nhƣ

vậy? Ai đã vạch đƣờng chỉ lối cho chúng, ai đã “phóng tay” cho chúng làm

“cách mạng long trời lở đất”, làm loạn xị cả một vùng nông thôn nhƣ vậy? Ai đã đã kích động chúng “Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ” để cho chúng

thẳng tay tàn sát dân lành không chút xót thƣơng? Ai? Ai?? Nhiều ngƣời cho

rằng Tô Hoài là đảng viên Cộng sản, một cán bộ quan trọng của Đảng trong

lĩnh vực văn học, một nhà văn-con cƣng của chế độ, ông muốn sống “tròn” với Đảng nên dù có đề cập đến CCRĐ, nhƣng ông đã hết sức gƣợng nhẹ, cố lái

câu chuyện sang một hƣớng khác. Đoạn kết của tiểu thuyết, tác giả “cho” Đội

trƣởng Cự chạy vào Nam đầu hàng địch và bị “quân ta” giết… thì càng làm cho ngƣời đọc lạc hƣớng hơn nữa, dƣờng nhƣ “Mỹ Nguỵ” có dính líu gì đến

những chuyện xấu xa, những điều man rợ, những đảo lộn xã hội khủng khiếp

hồi CCRĐ. Cố nhiên, cách kết cấu cốt truyện, hƣ cấu tình tiết là quyền của tác

giả, nhƣng độc giả có quyền đòi hỏi tác giả phải làm sáng tỏ sự thật của những tội ác tày trời.

Cuốn “Nƣớc Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng và cuốn “Thời Của

Thánh Thần” của Hoàng Minh Tƣờng tôi cũng đƣợc đọc khá sớm bản photocopy từ trong nƣớc gửi ra. Sau đó ít lâu, một ngƣời bạn thân trong nƣớc

Page 241: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 241

gửi cho cuốn “Thời Của Thánh Thần” còn thơm mùi mực. Đó là một trong

những cuốn may mắn “lọt lƣới” thu hồi của nhà nƣớc!

Điều đáng nêu lên ở đây là cả hai nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và Hoàng Minh Tƣờng đều rất can đảm “xông xáo” vào đề tài cấm kỵ này. Họ không ngần

ngại mô tả rõ nét thảm cảnh kinh hoàng của nông thôn trong thời kỳ “cải

cách”. Tuy nhiên, độc giả vẫn cảm thấy đôi chỗ còn gƣợng nhẹ, tránh né, dè

dặt, mà đó là điều dễ hiểu, vì các tác giả đang sống dƣới chế độ cực quyền khắc nghiệt, lƣỡi gƣơm “chuyên chính” luôn luôn lơ lửng trên đầu… Hơn nữa,

những ai đã từng sống trong thời kỳ “cách mạng long trời lở đất” cũng dễ nhận

thấy là hai tác giả chủ yếu chỉ đƣợc nghe kể lại những cảnh khủng khiếp thời “cải cách” chứ chƣa thật sự sống trong đó, nên có những chỗ phản ánh không

thật sát thực tế, dùng lời ăn tiếng nói không phải thuộc về thời ấy. Riêng

Hoàng Minh Tƣờng còn đi xa hơn thời “cải cách”, ông đã mở rộng khung cảnh xã hội ra cả giai đoạn sau này, muốn giúp độc giả thấy rõ tính liên tục của cả

một thời đại lịch sử. Đó là một ý định rất tốt, nhƣng vì mở rộng quá nên phần

sau của tiểu thuyết “Thời Của Thánh Thần” hơi bị loãng.

Còn tiểu thuyết sắp ra mắt ngƣời đọc nay mai, cuốn “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” của Trần Thế Nhân mà tôi vừa đƣợc xem bản thảo mới từ trong nƣớc

“vƣợt biên” ra ngoài thì chủ yếu tập trung phản ánh cuộc CCRĐ ở một vùng

thuộc tỉnh Thanh Hoá. Nhƣng qua những màn “cải cách”, qua chuyện kể của các nhân vật, đôi lúc tác giả cũng nhẹ nhàng đụng đến những chuyện về sau,

chuyện “hậu cải cách”.

Tác giả là một ngƣời đã sống trong cuộc, cảm nhận sâu sắc nỗi đau của nhân dân và dũng cảm phơi bày sự thật kinh hoàng trên những trang viết. Tôi vốn là

“dân” Khu Bốn[13]

, có dịp qua lại, quen biết vùng đƣợc mô tả trong truyện, biết

rõ các “vị” mà dân địa phƣơng coi là “hung thần cải cách”, nhƣ Hồ Viết

Thắng, Đặng Thí, Chu Văn Biên… Ngay cả vài nạn nhân trong truyện tôi cũng đã từng nghe tên, vì tác giả giữ tên thật. Còn một số nhân vật khác tôi hơi ngờ

ngợ là mình đã nghe đâu đấy, có lẽ vì lý do tế nhị nào đó tác giả đã đổi tên

chút ít chăng. Cho nên tôi rất xúc động khi đọc những trang viết đƣợm đầy nƣớc mắt trong “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”. Tôi có thể khẳng định rằng

cuốn tiểu thuyết này của nhà văn Trần Thế Nhân đã dựa trên “ngƣời thật việc

thật” mô tả sự kiện kinh hoàng đúng nhƣ nó đã diễn ra, không chút dè dặt, e

ngại, không chút gƣợng nhẹ. Có thể độc giả trẻ tuổi ngày nay khi đọc nhiều

[13] Liên khu Bốn hồi đó có sáu tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,

Thừa Thiên – Huế. Ba tỉnh phía Nam vì hoàn cảnh bị chiếm, hợp thành Phân khu Bình Trị Thiên, ở trong Khu Bốn.

Page 242: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

242 Nguyễn Minh Cần

cảnh tƣợng hết sức lạ lùng, kỳ dị, quái đản, rùng rợn quá sức tƣởng tƣợng, thì

không thể nào hiểu nổi làm sao trong cuộc sống đã có thể diễn ra những điều

nhƣ thế đƣợc, đâm ra nghi ngờ tính chân thật của truyện. Nhƣng, than ôi, những chuyện quái đản nhƣ thế hồi đó thật sự đã diễn ra và diễn ra ở nhiều

nơi!

Cố nhiên, đã là tiểu thuyết thì tác giả phải hƣ cấu. Điều hƣ cấu nổi bật nhất là

Trần Thế Nhân đã dùng “những ngƣời âm” của thế giới Bên Ấy để kể chuyện thật, rất thật của thế giới Bên Này. Tác giả dùng lối hƣ cấu đó vì… “Chết thật

rồi/ mới dám nói/ Và Nói Thật!” (Khúc Dạo Đầu). Lối hƣ cấu này gần với tín

ngƣỡng dân gian, gần với đạo Phật, dễ đƣợc đại chúng chấp nhận. Có lẽ lối hƣ cấu này cũng không xa khoa học lắm khi gần đây các nhà vật lý học hiện đại

đã phát hiện ra “vật chất đen”… Nhƣng, điều quan trọng đáng nói là tác giả sử

dụng lối hƣ cấu này thật nhuần nhuyễn đến mức ngƣời đọc thấy mọi sự kiện, mọi tình tiết trôi chảy rất tự nhiên, và câu chuyện rất đau thƣơng lại cuốn hút

mạnh tâm trí ngƣời đọc từ đầu đến cuối sách. Chính nhờ lối hƣ cấu này tác giả

đã mô tả đƣợc rất chân thật nội tâm các nạn nhân của những “Ngày Long Trời

Đêm Lở Đất” nửa thế kỷ trƣớc. Trong một lá thƣ gửi bạn, tác giả tâm sự: khi viết tiểu thuyết này, tác giả có cảm giác rất thật rằng mọi lời nói, mọi sự

kiện… trong tác phẩm là do chính ngƣời âm đồng hành, nhập vào tác giả mà

kể lại.

Đọc “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất”, tôi cảm nhận rằng Trần Thế Nhân đã

thực hiện đúng thiên chức cao quý của ngƣời cầm bút để không tự nhốt mình

trong cái “chuồng văn” tù túng, ngột ngạt với đủ loại ý thức hệ Mác-Lê, đảng tính, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa… vớ vẩn, nhảm nhí, không tự ép

mình phải đi theo “lề phải” của kẻ cầm quyền, ông mới có thể sáng tạo nên

một thiên tiểu thuyết – nói theo từ ngữ thời thƣợng trong nƣớc – sáng giá nhƣ

vậy. Sáng giá cả về tính chân thật, cả về mặt văn chƣơng.

Bút pháp của tác giả bình dị mà táo bạo, trầm tĩnh, nhẹ nhàng mà da diết, xoáy

sâu vào lòng ngƣời đọc. Lối viết hình ảnh, bóng bẩy, ẩn dụ đôi khi xen vào

những triết lý sâu xa. Giọng văn hóm hỉnh, châm biếm, hài hƣớc, trào lộng gây hứng thú dù bức tranh toàn cảnh thật vô cùng ảm đạm.

Có những câu nói thật thà, thơ ngây của nhân vật lại rất thâm thuý, nêu lên

đƣợc thực chất của những vấn đề lớn. Chẳng hạn, câu nói mộc mạc của Thùy

Dƣơng, một nhân vật nữ: “Ông chồng yêu quý của em có lần bảo Bác Mao viết kịch bản. Nhà Hát tuồng Thiên An Môn diễn trƣớc, rồi đƣa sang Ba Đình

Hà Nội… Ta cứ thế mà làm theo Tàu…”. Suy cho cùng, câu nói đó phản ánh

sự thật nửa thế kỷ trƣớc và cả sự thật ngày nay, và cả những gì rất đắng cay cho Đất Nƣớc, cho Dân Tộc ta nằm đằng sau sự thật khốn nạn đó nữa! Đúng

Page 243: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 243

thế, nhƣ chúng ta đều biết, chính sự thần phục, quỵ luỵ đớn hèn và sự lệ thuộc

nhục nhã của kẻ cầm quyền CS đối với “Thiên triều Đỏ” nửa thế kỷ trƣớc và

cả ngày nay đã gây cho Đất Nƣớc ta biết bao tai ách, kể cả việc mất đất, mất biển, và hiện đang đặt Dân Tộc ta trƣớc hiểm họa mất nƣớc rành rành!!

Cái nhìn của tác giả đối với nông dân trong truyện rất công bằng: trong khi mô

tả những “rễ chuỗi” gọi là “bần cố” có tính lƣu manh, tham lam, độc ác, vô ơn

vô nghì, gieo oan giá họa cho ngƣời ngay, ông lại đƣa lên hình ảnh những ngƣời nông dân hiền lành bị Đội ép buộc phải miễn cƣỡng “tố điêu” ở “đấu

trƣờng” theo lời mớm của Đội, nhƣng sau lƣng Đội họ vẫn lén lút, thầm lặng

giúp đỡ cho ngƣời bị oan. Hồi đó mà dám làm nhƣ vậy thì thật là liều lĩnh, nhƣng lƣơng tâm thôi thúc họ phải hành động theo tính ngƣời, theo tình ngƣời,

bất chấp hiểm nguy.

Khác với mấy cuốn tiểu thuyết viết về CCRĐ mà nhiều ngƣời đã biết, nhƣ “Ba Ngƣời Khác” của Tô Hoài, “Nƣớc Mắt Một Thời” của Nguyễn Khoa Đăng,

“Thời Của Thánh Thần” của Hoàng Minh Tƣờng, cuốn “Ngày Long Trời Đêm

Lở Đất” của Trần Thế Nhân không chỉ phơi bày rất rõ nét những tội ác tày trời

trong CCRĐ, mà còn khéo léo vẽ lên bằng những đƣờng nét ẩn dụ để ngƣời đọc tinh ý có thể liên tƣởng nhận ra đƣợc bộ mặt thật của những thủ phạm

chính đã gây ra tội ác.

Nhà văn mở đầu thiên tiểu thuyết của mình bằng mấy chƣơng kể lại câu chuyện bi thảm của nàng cung phi thời xƣa. Nhƣng chuyện xƣa lại phảng phất

bóng dáng một nàng “cung nữ” thời nay – thời “dân chủ cộng hoà” – cùng với

“Đức Vua” và viên “Thƣợng Thƣ” đầy quyền lực cũng thời nay… Hoá ra, “khúc cung oán” thời nay lại ngậm ngùi, ai oán, bi thƣơng, thê thảm hơn nhiều

so với “Cung oán Ngâm Khúc” thời cụ Ôn Nhƣ Hầu Ng. Gia Thiều! Lối mở

đầu nhƣ vậy làm ngƣời đọc cảm thấy dƣờng nhƣ tấn thảm kịch đầy máu lệ của

một con ngƣời bé nhỏ, yếu ớt lại mở đầu cho cả một loạt thảm kịch triền miên của nhân dân…

Chẳng phải ngẫu nhiên mà trong truyện tác giả đã nói rõ tuổi tác của “Đức

Vua” “triều nhà Nguyễn”: “Năm ấy Ngƣời đã 66 xuân”. Nếu lấy năm 1955 là năm xảy ra cuộc CCRĐ ở huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá để tính, thì năm sinh

của “Đức Vua” thời nay nhằm đúng vào năm 1890. Một chi tiết khác – “Sáu

năm trƣớc, Triều đình đã xử chém ngang lƣng một viên quan tổng kho. Dẫu y

là công thần, đã từng theo gót chân Thiên Tử xông pha nơi lam chƣớng ngàn trùng, vào ra trong máu lửa, tên khuyển nho đầy tớ hoang dâm vô độ này đã

biển thủ công quỹ và xài phí tài sản vƣơng quốc để cung phụng tiệc cƣới xa

hoa của hắn….” – hoàn toàn ăn khớp với sự kiện ngày 5 tháng 9 năm 1950, viên Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trƣởng Cục quân nhu của Quân đội Việt Nam Dân

Page 244: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

244 Nguyễn Minh Cần

chủ Cộng hoà bị xử tử theo lệnh của “Đức Vua”, vì tên này đã phạm tội tham ô

lãng phí, lấy của công để tổ chức đám cƣới xa hoa của y. Vụ án này xảy ra đúng

sáu năm trƣớc cuộc CCRĐ ở Thanh Hoá hồi năm 1955 mà tác giả đã mô tả.

Giọng lƣỡi của “Đức Vua” “triều nhà Nguyễn” nói về mình với nàng cung nữ –

“Lòng Trẫm nặng một nỗi thƣơng đau. Khanh có biết chăng? Trẫm thƣơng

những con dân cơm chƣa đủ no, áo chƣa đủ ấm, bầy trẻ lớn lên chƣa đƣợc cắp

sách tới trƣờng… Đất nƣớc ngàn năm loạn lạc chinh chiến; may Trời cho còn lại đƣợc ít ngày thái bình yên vui… Vậy mà nay ngoại bang quay trở lại xâm

chiếm, cắt chia. Chiến tranh lại tiếp nối chiến tranh. Nghe tiếng suối khóc,

lắng tiếng gió than, lòng Trẫm càng não nề xót xa. Trăng càng sáng, nƣớc non xinh đẹp càng tang thƣơng, lòng Trẫm càng nặng nỗi lo cho dân, chua xót

niềm đau cho xứ sở. Trẫm làm sao nhắm mắt ngủ yên?...” – sao mà giông

giống giọng văn trong “Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động… “ của… Trần Dân Tiên đến thế!

Đó là vài chi tiết về “Đức Vua”. Còn về nàng cung nữ thời xƣa thì những nét

chấm phá rất nhỏ, nhƣ “cái áo màu xanh chàm kiểu bà ba không có túi, cái váy

dệt thổ cẩm dài sát đất”, “vẻ đẹp sơn dã thâm u”, “giọng nói của đàn bà phƣơng Bắc”… làm ngƣời đọc dễ nhận ra đây chính là cô thôn nữ miền núi, một đoá

hoa rừng Việt Bắc, thậm chí ngƣời am hiểu có thể đoán đƣợc cả họ tên cô “cung

nữ” bất hạnh thời nay. Ngay cả cái kết cục đầy bi thƣơng của nàng trong truyện không thể không làm cho ta liên tƣởng đến cái chết tức tƣởi đầy oan nghiệt của

ngƣời “cung nữ” thời “dân chủ cộng hoà” mà cô em của nàng đã kể lại cho

ngƣời chồng chƣa cƣới của cô…

Ngƣời viết những dòng này cảm thấy dƣờng nhƣ những chữ, những câu sau đây

trong truyện cũng nhắm vào một hay những đối tƣợng cụ thể nào đó: …“Tội ác

bọn Quỷ Thần vòi vọi/chồng chất đỉnh Muôn Năm!”...“Những cái gì trái phản

với Tự Nhiên/dù bay có cố công vẽ tô xây đắp/thành đầu lâu Núi Tháp/rồi cũng có ngày rã tan đổ sập!/Chỉ cần nỗi oan khốc của một ngƣời đàn bà/ngây

thơ chân thật/cũng đủ góp phần vào tiêu tan cả Ác Nghiệp/của một Quỷ

Vƣơng Chí Linh Chí Thánh Chí Thần!” (Khúc Dạo Đầu),… hay… “Im lặng. Bỗng nhiên họ nghe tiếng ai đó vọng lên: “Đời là sân khấu của những tấn bi

hài kịch. Bốn ngàn năm lịch sử, cái ngƣời đóng kịch tài ba điệu nghệ nhất là ai

các con có biết không? Nó kia kìa! Các con không thấy sao? Khi phải cƣời, nó

cƣời; lúc cần khóc, nó khóc. Cứ y nhƣ thật. Và sân khấu ngập tràn máu, nƣớc mắt. Nó là ngƣời, chỉ là ngƣời thôi. Vậy mà ma xui quỷ khiến thế nào, ai cũng

coi nó là Chí Thần, Chí Thánh?...” (Chƣơng 5)… hay lời của Thùy Dƣơng nói

với Mai Duy Vỹ: “Bác ơi! Hồi còn ở Bên Này, dẫu nhiều khi sống lăng nhăng bậy bạ, cháu vẫn ăn nói thật lòng không chút giả trá. Chị Uyên không am hiểu

Page 245: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 245

đời sống xã hội bằng cháu đâu. Cháu biết rõ, cái lũ tự phong ta đây là thần

thánh, chẳng có đứa nào đáng đƣợc gọi là ngƣời, toàn một bọn chó má, quỷ sứ,

đồ ba que xỏ lá cả!” (Chƣơng 45).

Đặc biệt là tác giả đã giành cả chƣơng 41 để mô tả cuộc hội ngộ kỳ lạ nhƣ

trong giấc mơ của Mai Duy Vỹ, ngƣời tử tù của cuộc CCRĐ, với “Hoàng

Thƣợng ngự trên Ngai Rồng Đỏ” : “Muôn tâu Bệ hạ!...” – “Ta không phải là

Vua, chẳng phải Tổng Thống… Ta là Đấng Chí Tôn, Chí Linh, Chí Thánh, Chí Thần, Chí… (Đức Vua kịp dừng lại, suýt nữa thì Ngƣời nói thêm một chữ có

thể làm lộ mình ra – ngƣời viết ghi thêm). Ta đây! Ta là ngƣời nô bộc trung

thành của muôn dân. Hãy nghe và trả lời những câu hỏi của ta!”

Và cuộc đối thoại bắt đầu giữa Mai Duy Vỹ, ngƣời tử tù, với “Đấng Chí Tôn”.

Sau khi buộc tội cho Mai Duy Vỹ “Mi là thằng địa chủ phản động, bán nƣớc

hại dân… ” và bị ngƣời tử tù này khéo léo, lễ phép phản bác lại, cuối cùng “Đấng Chí Tôn” đuối lý đã phải nói: “…Ta biết anh vô tội, lòng anh trong

trắng. Nhƣng… ta không thể cứu anh đƣợc. Mà cho dù ta có muốn cứu anh,

ban lệnh xuống thì đã chắc gì quần chúng nhân dân ngƣời ta nghe cho? Cải cở

thủ ti – CCRĐ là cuộc Cách mạng lớn nhất trong lịch sử đấu tranh giai cấp của dân tộc, mang tầm cỡ nhân loại… Trong cơn trời long đất lở này, sóng thần

Cách mạng đang ào ào dâng cao, cuộn tới, bánh xe lịch sử đang lăn đi... Ai

ngƣời bị cuốn trôi, nghiến nát âu cũng là lẽ thƣờng tình. Miễn sao Cách mạng Thế giới đạt đƣợc thắng lợi cuối cùng! (Chữ đậm do ngƣời viết nhấn mạnh). Có

một ngƣời phụ nữ lòng dạ còn trong trắng tốt đẹp hơn anh, còn đáng thƣơng,

đáng quý hơn anh ở cách đây không xa lắm… Một ngƣời đàn bà! Ta đau lòng nhắc lại: Một ngƣời đàn bà! (Ý nói bà Nguyễn Thị Năm chăng ?! – ngƣời viết

ghi thêm) Anh đã nghe rõ chƣa? Vậy mà ta cũng không cứu đƣợc! Mong anh

thông cảm cho ta… ”

Nói xong, “Đấng Chí Tôn vụt biến. Trong mây mù còn vọng lại tiếng sấm rền xa xa : Ta... không… thể… cứu anh đƣợc!”…

Đoạn trích trên đây nêu bật ý đồ sâu xa của Đảng Cộng sản khi làm CCRĐ

không phải để cho “ngƣời cày có ruộng” mà chính là để chủ nghĩa Cộng sản thắng lợi trên toàn Thế giới, đồng thời nó vạch trần cái nhẫn tâm, lòng tàn ác

cũng nhƣ sự dối trá của các “lãnh tụ” Cộng sản.

Có thể nói, trong văn chƣơng đƣơng đại thật là hiếm thấy ở các văn nghệ sĩ

trong nƣớc ta cái thái độ dũng cảm, thẳng thắn phê phán nhƣ vậy đối với kẻ cầm quyền toàn trị.

*

Page 246: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

246 Nguyễn Minh Cần

Xin nói thêm rằng, trong thƣ gửi bạn, tác giả cho biết cuốn tiểu thuyết “Ngày

Long Trời Đêm Lở Đất” đã đƣợc hình thành cách đây 10 năm, đƣợc tác giả

chỉnh sửa nhiều lần, nay coi nhƣ đã xong. Vì lƣờng trƣớc đƣợc rằng khó có một nhà xuất bản nào ở Việt Nam nhận in tác phẩm này mà không phải gánh

chịu những rủi ro, nên tác giả đã có ý định “bỏ tủ khoá lại”. Nhƣng, sau khi

vƣợt qua nỗi sợ chính mình, lại gặp đƣợc “thiện duyên”, tác giả đã quyết định

cho “đứa con tinh thần” của mình xuất ngoại tìm đƣờng tự do để kể lại cho đồng bào trong và ngoài nƣớc, cũng nhƣ cho toàn Nhân Loại biết những

chuyện hãi hùng, khủng khiếp khôn cùng, những đau thƣơng, khổ nhục ê chề

nơi Địa Ngục trần gian mà ngƣời dân Việt Nam đã và đang chịu đựng.

Cũng có thể ai đó nghĩ rằng chuyện CCRĐ xảy ra đã hơn nửa thế kỷ rồi, kể lại

làm chi cho thêm đau lòng, nên quên đi thì hơn. Còn tập đoàn Cộng sản cầm

quyền đƣơng thời thì luôn miệng hô hào nhân dân “quên quá khứ, hƣớng tới tƣơng lại”. Đó là một thủ đoạn bịp bợm, một chính sách ngu dân thực thụ của

kẻ cầm quyền xảo quyệt. Vì một dân tộc quên quá khứ thì không bao giờ có

tƣơng lai tốt đẹp cả!

Vả lại, quên làm sao đƣợc khi nỗi oan khốc của hàng triệu con ngƣời không hề đƣợc giải toả, nó ngấm sâu vào tiềm thức của Dân Tộc đã trên nửa thế kỷ rồi?

Quên làm sao đƣợc khi những thủ phạm chính gây ra tội ác không bị đƣa ra

ánh sáng, khi cái Đảng gây ra tội ác không bị vạch trần, và Đảng ấy lại không hề sám hối và thề sẽ không tái phạm nữa? Quên làm sao đƣợc khi ngày nay

giữa thanh thiên bạch nhật tập đoàn Cộng sản cầm quyền vẫn ngang nhiên tiếp

tục dùng những thủ đoạn tàn bạo thời CCRĐ để đối xử với nhân dân? Những vụ cƣớp đoạt ruộng đất, nhà cửa trắng trợn, những cuộc “đấu tố” các nhà dân

chủ ở phƣờng, ở làng, những cuộc “làm việc” của công an với tính cách sách

nhiễu, nhục mạ, hành hạ đối với các nhà trí thức dân chủ bất đồng chính kiến,

việc sử dụng bọn cặn bã xã hội, bọn “xã hội đen”, giống nhƣ “rẽ chuỗi” hồi “cải cách”, để cùng với công an “nhân dân” đánh đập dã man các nhà tu hành,

các giáo dân, Phật tử, tín đồ Hoà Hảo, Tin Lành, Cao Đài, phá chùa, phá nhà

thờ, đập nát Thánh giá, xúc phạm tƣợng thờ, bao vây suốt ngày đêm nhà cửa các chiến sĩ dân chủ không cho họ đi lại làm ăn, bao vây kinh tế không cho họ

sinh sống bình thƣờng, ném đồ dơ bẩn thối tha vào nhà ngƣời dân… tất cả

những chiêu thức độc ác, đê tiện đó có khác chi thời CCRĐ? Thậm chí, lối xét

xử của các toà án “nhân dân” ngày nay đối với các chiến sĩ dân chủ, đối với thanh niên, trí thức yêu nƣớc dám lên tiếng bảo vệ chủ quyền của Tổ Quốc thì

có khác chi lối xét xử của các toà án “nhân dân đặc biệt” đối với các ngƣời bị

quy là “địa chủ, cƣờng hào” hồi “cải cách”? Vẫn cái lối buộc tội vu khống, oan uổng, vẫn cái cách xử độc đoán, độc tài của “quan” toà, cố tình trấn áp không

Page 247: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

SUY NGẪM 247

cho bị cáo đƣợc nói, thậm chí công nhiên bịt miệng bị cáo trƣớc toà, cái lối xử

mà bắt bị cáo chỉ đƣợc phép cúi đầu nhận tội, không cho tranh cãi, còn ai dám

phản bác cáo trạng thì “quan” toà hèn hạ trả thù bằng cách tăng mức án thêm nhiều năm tù! Chính vì thế chúng ta không có quyền quên, mà phải nhớ, nhớ

mãi cái bài học đắng cay của thời CCRĐ đã qua. Nhớ không phải để trả thù ai

mà để cho chính mình bớt ngu dại, bớt ngây thơ, để khôn thêm, cảnh giác hơn,

dũng cảm hơn và để không còn bị đánh lừa, không còn bị đè đầu cƣỡi cổ nữa.

Tiểu thuyết “Ngày Long Trời Đêm Lở Đất” chắc sẽ giúp cho những ai đọc nó

sẽ không quên mà nhớ mãi những ngày đen tối, khủng khiếp của thời qua để

tăng thêm nghị lực và quyết tâm đấu tranh cho một tƣơng lai tƣơi sáng hơn, không còn bóng dáng những kẻ nhân danh chủ thuyết này, chủ nghĩa nọ, tƣ

tƣởng kia để đè nén, áp chế, hành hạ, thậm chí giết hại dân lành.

Có thể coi cuốn tiểu thuyết này là một đài tƣởng niệm không gì phá vỡ nổi, một nén tâm hƣơng thơm ngát của tác giả Trần Thế Nhân thắp cho vong linh

các nạn nhân của chế độ Cộng sản cực quyền toàn trị ở nƣớc ta! Đài tƣởng

niệm và nén tâm hƣơng đó làm ấm lòng ngƣời Bến Ấy cũng nhƣ Bên Này!

Moskva, ngày 23 tháng 1 năm 2010,

Nhân dịp kỷ niệm Ngàn Năm Thăng Long

Viết thêm vài đoạn ngày 31 tháng 5 năm 2010.

NGUYỄN MINH CẦN

Page 248: Ngày Long Trời Đêm Lở Đất

248

TỘI ĐỒ SỐ MỘT, THỦ PHẠM CHỦ YẾU

CỦA CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT

Trường Chinh Tố Hữu

Hai trong số những tên đồ tể của CCRĐ