nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

38
Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới và bài học đối với Việt Nam Từ những năm 1960 trở lại đây, trong số các quốc gia đang phát triển đã xó những quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nền kinh tế chưa đạt tới trình độ của các nước công nghiệp phát triển nhưng kinh tế các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã vượt qua các nước đang phát triển và thực sự hình thành một nhóm nước mới gọi là các nền nước công nghiệp mới (NICs). Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì đó là Braxin, Mehico, Hồng Kông, Xingapo, Aschentina…Tuy nhiên khi nói đến các nước công nghiệp mới, thế giới chỉ chú ý đến nhiều đến 4 quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Xingapo. I) Các giai đoạn phát triển- Vai trò nhà nước : Quá trình công nghiệp hóa ở các nước NICS trải qua 2 giai đoạn Giai đoạn I : Thời kỳ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu hàng tiêu dùng có kỹ thuật ở mức trung bình. a. Hàn quốc: (1960-1970) Vào nửa cuối thập kỷ 60, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc tập trung vào đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất các mặt hàng khai thác được lợi thế so sánh của đất nước. Ở thời điểm lúc bấy giờ Hàn Quốc không có lợi thế so sánh nào khác ngoài nguồn nhân công rẻ và được đào tạo tốt (năm 1945: 97% người dân mù chữ; năm 1960: còn 20% người dân mù chữ). Do đó, chính sách của Hàn Quốc là khai thác tối đa khả năng buôn bán của các doanh nghiệp Hàn Quốc để tìm thị trường xuất khẩu cho hàng hoá rẻ của mình. Với chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, lại được sự hỗ trợ thuận lợi từ nền kinh tế thế giới (tăng trưởng liên tục 30

Upload: vu-hoa

Post on 22-Dec-2015

248 views

Category:

Documents


9 download

TRANSCRIPT

Page 1: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới và bài học đối với Việt NamTừ những năm 1960 trở lại đây, trong số các quốc gia đang phát triển đã xó những quốc gia và vùng lãnh thổ đạt được sự tăng trưởng kinh tế cao. Tuy nền kinh tế chưa đạt tới trình độ của các nước công nghiệp phát triển nhưng kinh tế các quốc gia và vùng lãnh thổ này đã vượt qua các nước đang phát triển và thực sự hình thành một nhóm nước mới gọi là các nền nước công nghiệp mới (NICs). Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) thì đó là Braxin, Mehico, Hồng Kông, Xingapo, Aschentina…Tuy nhiên khi nói đến các nước công nghiệp mới, thế giới chỉ chú ý đến nhiều đến 4 quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á là Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Xingapo.

I) Các giai đoạn phát triển- Vai trò nhà nước :

Quá trình công nghiệp hóa ở các nước NICS trải qua 2 giai đoạn

Giai đoạn I: Thời kỳ đạt tốc độ tăng trưởng cao nhờ xuất khẩu hàng tiêu dùng có kỹ thuật ở mức trung bình.

a. Hàn quốc: (1960-1970)

Vào nửa cuối thập kỷ 60, chính sách công nghiệp của Hàn Quốc tập trung vào đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, sản xuất các mặt hàng khai thác được lợi thế so sánh của đất nước. Ở thời điểm lúc bấy giờ Hàn Quốc không có lợi thế so sánh nào khác ngoài nguồn nhân công rẻ và được đào tạo tốt (năm 1945: 97% người dân mù chữ; năm 1960: còn 20% người dân mù chữ). Do đó, chính sách của Hàn Quốc  là khai thác tối đa khả năng buôn bán của các doanh nghiệp Hàn Quốc để tìm thị trường xuất khẩu cho hàng hoá rẻ của mình. Với chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, lại được sự hỗ trợ thuận lợi từ nền kinh tế thế giới (tăng trưởng liên tục 30 năm, các nước phát triển ủng hộ), nên công nghiệp nhẹ xuất khẩu của Hàn Quốc đã đạt được bước tăng trưởng cao, tạo được tích luỹ để hình thành một số doanh nghiệp làm ăn thành đạt. Kết quả là đến năm 1969 công nghiệp chế biến của Hàn Quốc đã đóng góp hơn 50% GDP (1962: 70% GDP là nông nghiệp).

b. Đài Loan(1963-1970):

Page 2: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Triển khai chiến lược công nghiệp hóa hướng xuất khẩu, Đài Loan đã thực hiện bước thay đổi căn bản về chiến lược phát triển, về quy mô và quản lý kinh tế, thông qua một loạt cải cách quan trọng

Thứ nhất, áp dụng chế độ một tỷ giá hối đoái

Thứ hai, chính phủ Đài Loan áp dụng nhiều biện pháp ưu đãi đối với doanh nghiệp sản xuất phục vụ hàng xuất khẩu.

Thứ ba, ngoài các nỗ lực huy động các nguồn lực bên trong, Đài Loan ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút vốn và công nghệ bên ngoài

Phương châm của giai đoạn này là: ‘ xuât khẩu để nhập khẩu’, ‘nhập khẩu để thúc đẩy xuất khẩu’. Do đó công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ Đài Loan đã có bước phát triển mạnh mẽ, đạt mức tăng trưởng trung bình hàng năm 18,5%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng đáng kể đạt 41,3%, nông ngiệp giảm tương đối, chỉ còn 15,6%. Sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đài Loan. GDP của Đài Loan giai đoạn này luôn tăng trung bình 10,1%/năm.

c. Singaore ( 1960-1980)

- Giai đoạn 1960-1965: công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu

Singapore thi hành chiến lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Thực hiện chính sách bảo hộ hàng nội địa, hạn chế chủng loại hàng nhập ngoại. Ưu tiên hàng đầu của kế hoạch phát triển quốc gia 4 năm (1961-1964) là khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào những ngành công nghiệp non trẻ, sử dụng nhiều lao động, tạo ra nguồn sản phẩm cho thị trường. Singapore rất chú trọng việc mở rộng sự hợp tác kinh tế và tìm kiếm thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm công nghiệp.

- Công nghiệp hướng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động (1966-1979)

Môi trường đầu tư và không khí kinh doanh được cải thiện từ năm 1967, nguồn vốn đầu tư của các ngành công nghiệp hướng xuất khẩu, đặc biệt là nguồn đầu tư nước ngoài tăng rất nhanh. Từ 157 triệu đô la những năm 1960-1965 đã tăng lên 2,3 tỷ năm 1973., các nhà đầu tư Mỹ đi đầu trong việc đưa vốn vào ngành lọc dầu và công nghiệp điện tử ở Singapore. Các nhà đầu tư Hong Cong đi đầu trong việc đầu tư ngành dệt vải, may mặc xuất khẩu

Page 3: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Sau khi đạt được mục tiêu chính là tạo đủ việc làm cho nhân dân và mức sống tối thiểu của nhân dân được đảm bảo, từ cuối năm 1973, chính phủ Singapore đã bắt đầu chuyển nền kinh tế theo hướng đổi mới công nghệ và sử dụng nhiều chất xám. Nhưng cuộc khủng hoảng thế giới năm 1973-1975 đã làm chậm quá trình này. Mãi đến năm 1979 chương trình cải tổ cơ cấu nền kinh tế mới được thực hiện.

d. Hong Kong (1955-1970)

Công nghiệp hóa của Hong Kong được đi kèm với gia tăng số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) chứ không phải là hợp nhất. Năm 1955, 91 phần trăm cơ sở sản xuất sử dụng ít hơn một trăm công nhân, một tỷ lệ tăng lên đến 96,5 phần trăm năm 1975 bởi các nhà máy sử dụng ít hơn một trăm công nhân chiếm 42 phần trăm xuất khẩu trong nước của Hồng Kông đến Vương quốc Anh vào năm 1968, lên tới HK 1,2 tỷ USD

Cho đến cuối những năm 1960, chính phủ đã không tham gia vào việc lập kế hoạch hoạt động công nghiệp.Một phần là vì chính phủ đang bận tâm với chi tiêu xã hội về nhà ở lưu lượng lớn người nhập cư, và một phần là do một sự cảm thông tư tưởng cho các lực lượng thị trường tự do. Điều này có nghĩa rằng Hồng Kông phù hợp với ngoài mô hình thông thường của phát triển kinh tế châu Á dựa trên công nghiệp nhà nước lãnh đạo (Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan) hay sự thống trị của các công ty nước ngoài (Singapore) hoặc các công ty lớn có quan hệ chặt chẽ với nhà nước (Nhật Bản, Hàn Quốc). Thuế thấp, luật lao động lỏng lẻo, không có nợ chính phủ và thương mại tự do là tất cả các trụ cột của kinh nghiệm Hồng Kông phát triển kinh tế.

Từ giữa những năm 1950 thành công nhanh chóng của Hồng Kông như là một nước xuất khẩu tạo ra ma sát thương mại dệt may dẫn đến hạn chế xuất khẩu tự nguyện trong một loạt các điều ước quốc tế với sự khởi đầu Vương quốc Anh năm 1959 Mặc dù có những thỏa thuận, các nhà xuất khẩu của Hồng Kông tiếp tục khai thác tính linh hoạt và khả năng thích ứng của họ tăng sản xuất và tìm kiếm thị trường mới. Thật vậy, xuất khẩu tăng từ 54% GDP trong năm 1960 lên 64% vào những năm 1970.

Giai đoạn 2: tốc độ tăng trưởng tiếp tục được giữ vững nhờ xuất khẩu hàng công nghiệp có dung lượng vốn lớn và hàm lượng kỹ thuật

a. Hàn Quốc:

Page 4: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

- Thời kỳ chuyển sang trọng tâm đẩy mạnh phát triển công nghiệp nặng và công nghiệp hoá dầu.

Sau 10 năm phát triển công nghiệp nhẹ, thu nhập quốc dân đầu người của Hàn Quốc đạt mức 2000-3000USD. Nếu tiếp tục phát triển công nghiệp nhẹ thì lợi thế nhân công rẻ không còn nữa do đó hàng hoá của Hàn Quốc sẽ kém sức cạnh tranh. Mặt khác, Chính phủ Hàn Quốc muốn làm chủ kỹ thuật công nghệ sản xuất thiết bị và nguyên liệu, một mặt cung cấp cho các cơ sở công nghiệp nhẹ trong nước, mặt khác tăng tiềm lực quốc phòng (thép, ôtô, đóng tàu....). Để thực hiện thành công chiến lược chuyển hướng này, Chính phủ đã vạch ra các kế hoạch 5 năm (lần 3, lần 4) định rõ các ngành chiến lược và đổ nguồn vốn ưu đãi vào đây khá lớn. Đồng thời Chính phủ thi hành chính sách bảo hộ cho các doanh nghiệp trong các ngành chiến lược. Với sự hỗ trợ rất lớn của chính phủ, các cơ sở công nghiệp luyện kim, chế tạo ôtô, sản xuất xăng dầu của Hàn Quốc đã hình thành, có sản phẩm  xuất khẩu sang thị trường nhiều nước phát triển và đang phát triển. Sở dĩ giai đoạn này xuất khẩu sản phẩm công nghiệp chế biến của Hàn Quốc thành công là do Hàn Quốc chủ định giảm giá đồng won, bảo hộ thị trường trong nước, quản lý chặt chẽ ngoại hối, do đó sản phẩm công nghiệp của Hàn Quốc dù không tốt bằng của Nhật Bản nhưng rẻ hơn nhiều nên có thể vào thị trường Châu Âu và Mỹ. Kết quả của thời kỳ này là Hàn Quốc đã hình thành các ngành công nghiệp nặng khá phát triển dựa trên các tập đoàn kinh tế lớn

Thời kỳ những năm 80 và 90 của thế kỷ XX: chuyển hướng trọng tâm sang các ngành công nghiệp có kỹ thuật cao

Mặc dù thành tích phát triển công nghệ của hai thập kỷ trước là ngoạn mục nhưng nền kinh tế Hàn Quốc đã xuất hiện những vấn đề mất cân đối cơ cấu và những ngành công nghiệp phát triển ở thập kỷ 70 do quá dựa vào bảo hộ tín dụng ưu đãi của nhà nước nên sức cạnh tranh yếu, chất lượng hàng hoá không cao. Mặt khác, kế hoạch nhà nước định hướng công nghiệp hoá tỏ ra không bao quát được quy mô quá lớn của nền kinh tế. Cùng với quá trình tự do hoá chung của nền kinh tế, quá trình phát triển công nghiệp đã được giao về cho các doanh nghiệp tự lựa chọn. Trọng tâm của chiến lược công nghiệp trong hai thập kỷ này là phát triển công nghiệp điện tử, công nghiệp tiết kiệm nguyên vật liệu, sử dụng lao động có tay nghề và tri thức cao, khuyến khích phát triển công nghệ cơ khí... Thời kỳ này, Hàn Quốc đã xây dựng thành công 13 khu công nghiệp trong cả nước. Kết quả nổi bật nhất của chính sách phát triển công nghiệp ở Hàn Quốc chính là tốc độ phát triển nhanh của cơ sở công nghiệp trong thời gian ngắn. Nếu như năm 1960 công nghiệp

Page 5: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

chỉ chiếm chưa đến 25% trong GDP thì năm 1996 công nghiệp đã đạt tỷ lệ hơn 50% GDP.

b. Đài Loan (1974 đến nay)

Giai đoạn này Hồng Kông tiếp tục công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất song có một bước điều chỉnh quan trọng về cơ cấu nghề, trong đó tập trung ưu tiên hàng đầu là phát triển các ngành công ngiệp cơ bản có hàm lượng vốn và kĩ thuật cao, tuy nhiên vẫn duy trì chính sách phát triển các ngành công nghiệp nhẹ hướng ra xuất khẩu. Công nghiệp hóa hiện đại hóa của Đài Loan giai đoạn này tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:

Nâng cấp, cải tiến trang thiết bị ở các ngành công nghiệp nhẹ nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, giảm nguyên liệu, hạ giá thành sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Tăng cường đầu tư ra nước ngoài,; đồng thời chuyển giao công nghệ, dùng nhiều lao động sang một số nước đang phát triển khác ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương.

Tập trung nghiên cứu, triển khai và nhập khẩu dây chuyền công nghệ mới có triển vọng sáng sủa hơn, trong đó có các ngành tiêu biểu cho cuộc cách mạng khoa học-kĩ thuật hiện đại như vi điện tử, máy tính, bán dẫn,...

Đẩy mạnh xây dựng các công trình công cộng và xí nghiệp có quy mô lớn.

Nhìn chung, quá trình công nghiệp hóa của Đài Loan đã cơ bản hoàn thành các mục tiêu đặt ra. Quá trình công nghiệp hóa tạo điều kiện cho Đài Loan giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao mức sống của người dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.

Tuy nhiên, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đài Loan cũng bộc lộ không ít yếu kém. Sự can thiệp quá nhiều của chính phủ đã tạo ra khu vực tài chính lạc hậu và một nền công nghiệp thiếu các doanh nghiệp có quy mô lớn có khả năng cạnh tranh quốc tế. Hiện nay Đài Loan chi tiêu khoảng 1,8% GDP cho nghiên cứu triển khia, thấp hơn nhiều so với tỷ trọng tương ứng của nền kinh tế tiên tiến. Điều đó cho thấy Đài Loan cần đầu tư nhiều hơn cho phát triển công nghệ và nghiên cứu triển khai muốn duy trì sức mạnh cho nền kinh tế dựa trên tri thức mới.

c. Singapore

Page 6: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Cải tổ cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa công nghệ và sử dụng nhiều chất xám.

Thời kì đầu của cách mạng công nghiệp lần 2( 1979-1985)

Từ năm 1979 trở đi, Singapore chuyển sang một giai đoạn mới vowiss chiến lược công nghệ hiện đại và khả năng kỹ xảo của bàn tay và khối óc con người ta thường gọi là ‘cuộc cách mạng lần thứ 2’ tại Singpore. Cuộc cách mạng nhằm tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế và từng bước chuyển dần sang nền văn minh điện toán với mức ống và chất lượng cuộc sống của một nước phát triển

Chính sách đổi mới công nghệ, thu hút đầu tưu vào các ngành có kỹ thuật tinh xảo tiến đến làm bùng nổ nền công nghiệp điện tử- bán dẫn tại Singapore đầu những năm 80. Đóng góp của ngành này vào tổng giá trị công nghiệp tăng từ 12% năm 1970 lên 30% năm 1985

Tuy nhiên,cuộc cải tổ cơ cấu theo hướng ưu tiên hiện đại hóa công nghệ và sử dụng nhiều chất xám cũng nảy sinh nhiều điều bất hợp lý đối với tổng thể nền kinh tế và cũng góp phần đưa đến sự trì trệ trong giai đoạn 1985-1986. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp trong những nawm1980-1985 chỉ đạt 6,1% trong khi mức tăng trưởng chung là 8,5%. Mức đóng góp của lĩnh vực chế biến-chế tạo trong tổng sản phẩm trong nước tụt từ 24% xuống 21% vào năm 1979

Đổi mới và đa dạng hóa hơn nữa các hình thức hoạt động của công nghiệp và dịch vụ

Đứng trước những thách thức do tình trong nước và quốc tế. Chính phủ đổi mới và nâng cấp các ngành kinh tế , trong đó có các ngành như dịch vụ, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông kết hợp chặt chẽ với sản xuất công nghiệp và phát triển trung tâm thương mại và tài chính quốc tế.

d. Hồng Kông

Từ 1976-1996 GDP tăng trưởng ở mức trung bình 5,6% mỗi năm. Có những cú sốc tiêu cực trong 1967-1968 là kết quả của rối loạn địa phương từ sự khởi đầu của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, và một lần nữa trong 1973-1975 từ cuộc khủng hoảng dầu mỏ toàn cầu. Trong đầu những năm 1980 đã có một cú sốc tiêu cực liên quan đến chính trị, các điều khoản của trở lại của Hồng Kông để kiểm soát Trung Quốc vào năm 1997 đã được chính thức hóa.

Page 7: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Open Door Chính sách của Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình công bố vào cuối năm 1978 đánh dấu một kỷ nguyên mới cho nền kinh tế của Hồng Kông. Với sự tham gia mới mạnh mẽ của Trung Quốc trong thương mại và đầu tư quốc tế, hội nhập của Hồng Kông với đại lục tăng tốc như nó đã lấy lại vai trò truyền thống của mình là nhà cung cấp chính của nước đó các dịch vụ thương mại và tài chính. Từ năm 1978 đến năm 1997, thương mại rõ ràng giữa Hồng Kông và Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ trung bình 28% mỗi năm. Đồng thời, các doanh nghiệp Hồng Kông bắt đầu di chuyển các hoạt động lao động của họ vào đất liền để tận dụng lao động rẻ hơn. Sự tích hợp của Hồng Kông với châu thổ sông Pearl ở Quảng Đông là khía cạnh nổi bật nhất của các liên kết thương mại và đầu tư. Vào cuối năm 1997, giá trị tích lũy của đầu tư trực tiếp của Hồng Kông tại Quảng Đông ước tính đạt 48 tỷ USD, chiếm gần 80% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở đó. Công ty Hồng Kông và công ty liên doanh ở tỉnh Quảng Đông sử dụng khoảng năm triệu người. Hầu hết các doanh nghiệp đã lắp ráp nhiều lao động xuất khẩu, nhưng từ năm 1997 trở đi đã có sự gia tăng đầu tư trong các dịch vụ tài chính, du lịch và thương mại bán lẻ.

Trong khi sản xuất đã được di chuyển ra khỏi các thuộc địa trong những năm 1980 và 1990, đã có một sự đột biến trong lĩnh vực dịch vụ. Sự biến đổi cấu trúc của nền kinh tế của Hồng Kông từ sản xuất đến dịch vụ là rất ấn tượng. Đáng kể nhất là nó đã được thực hiện mà không cần sút kém tốc độ tăng trưởng tổng thể, và với một tỷ lệ thất nghiệp trung bình chỉ 2,5% từ năm 1982 đến năm 1997 Hình 2 cho thấy rằng giá trị sản xuất đạt đỉnh điểm vào năm 1992 trước khi bắt đầu một sự suy giảm tuyệt đối. Ngược lại, giá trị của các dịch vụ thương mại và tài chính tăng vọt. Điều này được phản ánh trong sự đóng góp của các dịch vụ và sản xuất với GDP thể hiện trong hình 3 việc làm trong ngành dịch vụ tăng từ 52% đến 80% lực lượng lao động 1981-2000, trong khi việc sản xuất đã giảm từ 39% đến 10% trong cùng thời kỳ.

Cần có sự điều tiết kinh tế của nhà nước.

CNH là một quá trình phức tạp đòi hỏi có môi trường trong và ngoài nước thuận lợi. NIEs có thể coi là những trường hợp thành công trong việc tạo lập môi trường như vậy.

- Tạo môi trường pháp lý và chính trị - xã hội thuận lợi cho CNH.

Ngay từ đầu NIEs đã rất chú ý đến việc tạo hành lang pháp lý cho CNH, đồng thời cũng coi trọng việc duy trì và ổn định chính trị - xã hội để giúp cho theo đuổi và triển khai các chính sách dài hạn, giúp các nhà đầu tư yên tâm hoạt động

Page 8: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

kinh doanh của mình. Bên cạnh việc tuyên truyền rộng rãi tư tưởng CNH, khai thác các yếu tố văn hóa truyền thống, NIEs còn quan tâm nhất định tới các vấn đề xã hội khiến cho dân chúng tin rằng CNH là quyền lợi của chính họ, từ đó tạo ra niềm hứng khởi lao động, cống hiến cho đất nước.

- Tạo lập môi trường quốc tế thuận lợi cho CNH cũng là một nhiệm vụ mà các chính phủ NIEs đặt ra cho mình.

Thực hiện nhiệm vụ đó, các nhà lãnh đạo của các nước và lãnh thổ này luôn tận dụng mọi cơ hội để củng cố quan hệ với Mỹ, Nhật, Tây âu, khai thác triệt để

thị trường các nước này, đồng thời không ngừng tìm kiếm, khai phá, thâm nhập các thị trường mới, mở rộng quan hệ với các tổ chức kinh tế, tài chính khu vực và quốc tế để thu hút vốn, công nghệ và đa dạng hóa đối tác thương mại,phục vụ cho CNH.

Chính phủ NICs chủ trương để mặc tư nhân tự do sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, dùng gậy chỉ huy là hệ thống các chính sách và đạo luật kinh tế nhờ đó cỗ máy kinh tế vận hành đều đặn, nhịp nhàng và đem lại hiệu suất cao. Trong CNH, vai trò của nhà nước được thể hiện rõ nét , nhà nước đã vạch ra chiến lược đúng đắn, năng động, sáng tạo để phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Phân bổ nguồn lực hợp lý cho các khu vực kinh tế, nhằm đổi mới cơ cấu nông nghiệp và kỹ thuật. Khu vực kinh tế nhà nước phát huy sứ mệnh đầu tàu vào giai đoạn CNH nâng cao tạo mọi điều kiện cho tư bản tư nhân phát triển. Như vậy, nhờ sự điều chỉnh của nhà nước mà thúc đẩy kinh tế tư nhân. ở NICs từ những năm 1970 trở lại đây, kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ lực, chi phối các hoạt động kinh tế đối nội và đối ngoại. Nhà nước đã hậu thuẫn vững chắc cho các cơ sở kinh tế tư nhân và đi tiên phong trong những lĩnh vực có liên quan mật thiết đến lợi ích lâu dài của đất nước. Chính phủ rất chú trọng nâng cấp và phát triển toàn diện hệ thống cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các dự án đầu tư. Đồng thời, chính quyền nhà nước của NICs được thiết lập theo mô hình của các nước tư bản. Đây là nhân tố thuận lợi đặc thù của NICs mà không phải quốc gia nào cũng có. Chẳng hạn, ở Hàn Quốc vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường được đề cao và thể hiện rất rõ trong thực tiễn đời sống kinh tế. Chính phủ hướng dẫn các tập đoàn doanh nghiệp, còn các tập đoàn doanh nghiệp thì chấp nhận sự kiểm soát của chính phủ. Mới đây, chính phủ Hàn Quốc buộc các công ty cải tổ ban quản lý, tách quyền sở hữu khỏi quản lý để hạn chế sự chi phối của một gia đình đối với hoạt động kinh doanh của các công ty, tập trung nguồn lực kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định để tăng sức mạnh cạnh tranh quốc tế của các

Page 9: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

sản phẩm Hàn Quốc. Nói chung, ở NICs, vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực kinh tế là rất lớn.

II) Cơ cấu ngành:

Cơ cấu kinh tế chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp, đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo.

Ngược dòng lịch sử, vào những năm trước 1960 các nước NICs cũng là những nước nông nghiệp, với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm tới 75% lao động và trên 30% GDP. Tuy có những điểm khác nhau, nhưng tất cả các nước đều có điểm chung là thực hiện kết hợp và chuyển đổi giữa các mô hình CNH thay thế nhập khẩu, CNH hướng về xuất khẩu, và CNH hướng tới công nghệ cao phù hợp với yêu cầu và mục tiêu đặt ra trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể.

Xu hướng chung trong chuyển dịch cơ cấu ngành của các nước công nghiệp mới NICs là: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm 40-60%, công nghiệp từ 10-20%, dịch và từ 10-30%) sang nền kinh tế công nông nghiệp (tỷ trọng ngành nông nghiệp 15-25%, công nghiệp 25-35%, dịch vụ 40-50%) để từ đó chuyển sang nền công nghiệp phát triển (tỷ trọng ngành nông nghiệp dưới 10%, công nghiệp 35-40%, dịch vụ 50-60%). Mô hình CNH hướng tới công nghệ cao, bằng việc tập chung phát triển các ngành có hàm lượng khoa học cao như: sản xuất xe hơi, máy công cụ, máy kỹ thuật số, người máy…, làm đầu tàu cho tăng trưởng.

Ví dụ

+ Trung Quốc: tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm đáng kể và tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ tăng lên. Công nghiệp đã trở thành lực lượng chính trong nền kinh tế quốc dân từ chỗ chỉ chiếm 27,9% năm 1978, vươn lên 50% vào năm 1990, đồng thời nông nghiệp năm 1990 còn 45,4% mànăm 1978 là 68,4%. Tốc độ tăng trưởng bình quân công nghiệp thời kì 1980-1990 đạt 11,7%, nông nghiệp đạt 5,5%

+ Hàn Quốc: Các sản phẩm liên quan đến ngành CNTT, như chip máy tính, điện thoại di động, chiếm tới hơn 30% tổng lượng hàng hoa xuất khẩu của Hàn Quốc.

+ Xingapo là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn. Xingapo còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.

Page 10: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Nền kinh tế Xingapo chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân)…………………Trong khi đó Việt Nam có dịch chuyển cơ cấu ngành theo hướng CNH nhưng còn chậm và chất lượng chưa cao:

Tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995; 24,5% năm 2000; 20,9% năm 2005, vàđếnnăm 2008 ướccòn 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng, năm 1990 là 22,7%; năm 1995 tăng lên 28,8%; năm 2000: 36,7%; năm 2005: 41% và đến năm 2008 ước tính sẽ tăng đến 41,6%. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%; năm 1995: 44,0%; năm 2000: 38,7%; năm 2005: 38,1%; năm 2008 sẽ là khoảng 38,7%.

Đối với công nghiệp, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung ở mức trung bình, đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu là do phát triển các ngành công nghiệp lắp ráp ô-tô, xemáy, dệt may, giày dép…,trong khi đó tỷ trọng ngành công nghiệp chế tạo còn rất thấp, hàng xuất khẩu qua chế biến sâu vẫn còn thấp, chủ yếu là hàng thô, sơ chế.

Ngành dịch vụ có giá trị chất xám và giá trị gia tăng cao như dịchvụ tài chính tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển và chiếm tỷ trọng rất thấp trong kim ngạch xuất khẩu (13,4%-dưới mức trung bình của thế giới là 20%)……..

III) Chiến lược tạo vốn và đầu tư:

Các nước NIEs chú ý đa dạng hóa nguồn vốn cho kênh đầu tư phát triển: nguồn viện trợ và nguồn vay của các nước hoặc các tổ chức tài chính quốc tế; thu hút FDI; nguồn tích lũy trong nước. NIEs đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài như đảm bảo cung cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ tốt, luật đầu tư thông thoáng, cho thành lập các khu chế xuất với những ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư tạo ra từ trong nước dựa vào các chính sách và biện pháp khuyến khích tiết kiệm. Để khuyến khích dân cư gửi tiền tiết kiệm nhà nước cố gắng ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát và thực hiện lãi suất dương.

IV) Chiến lược công nghiệp hóa của các nước công nghiệp mới

Sau khi giành được độc lập, hầu hết các nước đã coi công nghiệp hóa là biện pháp quan trọng để khắc phục tình trạng lạc hậu về kinh tế- kỹ thuật, nâng cao trình độ của lực lượng sản xuất.

Page 11: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Hông Kông , Xingapo khuyến khích các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu nhưng chú trọng phát triển các ngành công nghiệp nhẹ, nhất là các ngành sử dụng lao động như dệt, da, may mặc…,phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản để đáp ứng nhu cầu trong nước.

Sang thập niên 1960, bắt đầu chuyển sang thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng ra xuất khẩu. Lúc đầu, quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ nhưng được trang bị tốt, năng suất lao động cao, quản lí có hiệu quả. Dần dần kinh tế phát triển, các tập đoàn kinh tế có quy mô thế giới ra đời (Hàn Quốc – Dewoo, Samsung…, Đài Loan - công ty Evergreen…, Hồng Công - Stelux sản xuất đồng hồ nổi tiếng thế giới, Xingapo - công ty Promet với sản phẩm giàn khoan trên biển). Chỉ sau khoảng 3 thập kỷ đã hoàn thành công nghiệp hóa, trở thành NICs.

Thực hiện chiến lược tăng cường xuất khẩu, từ những sản phẩm như giày, dép, quần áo… đến các sản phẩm có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao như điện tử, máy ảnh, máy tính… và hiện nay còn là những nước xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nặng nổi tiếng như ô tô, tàu biển, giàn khoan trên biển.

Chú trọng phát triển kinh tế công nghiệp và dịch vụ, bởi tốc độ tăng trưởng của hai ngành này là luôn cao và tỷ trọng chiếm trong tổng sản phẩm trong nước (GDP) không ngừng tăng lên đặc biệt là dịch vụ.

Thực hiện có hiệu quả chiến lược công nghiệp hóa với những bước đi khôn khéo:

i. Sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thay thế nhập khẩu, trong khi vẫn tiếp tục nhập máy móc và các sản phẩm công nghiệp nặng.

ii. Xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng và phát triển công nghiệp nặng cần nhiều vốn nhằm sản xuất các sản phẩm trung gian, thiết bị, máy móc để thay thế nhập khẩu.Đây chính là giai đoạn thay thế nhập khẩu lần thứ hai.

iii. Chuyển giao công nghệ công nghiệp hàng tiêu dùng cần nhiều lao động, đẩy mạnh công nghiệp có hàm lượng khoa học kĩ thuật cao để xuất khẩu.

Cụ thể các nước như sau:

1) Xingapo:

Page 12: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Sau quá trình công nghiệp hóa, đất nước nhỏ bé này đã trở thành một trong những trung tâm công nghiệp chế tạo cao nhất trong các nước cùng khu vực.

Xingapo có cơ sở hạ tầng và một số ngành công nghiệp phát triển cao hàng đầu châu Á và thế giới như: cảng biển, công nghiệp đóng và sửa chữa tàu, công nghiệp lọc dầu, chế biến và lắp ráp máy móc tinh vi.

Singapore là nước hàng đầu về sản xuất ổ đĩa máy tính điện tử và hàng bán dẫn.

Singapore còn là trung tâm lọc dầu và vận chuyển quá cảnh hàng đầu ở châu Á.

Nền kinh tế Singapore chủ yếu dựa vào buôn bán và dịch vụ (chiếm 40% thu nhập quốc dân).

Một thế mạnh nữa là Singapore là nơi vận chuyển quá cảng, nơi giao thương kinh tế giữa nước ngoài với các nước Châu Á.

Singapore tập trung phát triển công nghiệp lọc dầu bên cạnh đó đất nước này cũng đầu tư cho công nghiệp điện tử với kỹ thuật hiện đại được nâng cấp từng ngày.Đây được coi là những ngành công nghiệp mũi nhọn của Singapore. Là trung tâm lọc dầu lớn trên thế giới, Singapore trở thành nhà cung cấp sản phẩm lọc dầu cho các nước Đông Nam Á, các nước Đông Nam Á không có khả năng này thường phải xuất khẩu dầu với giá rẻ và nhập dầu đã qua chế tạo với mức giá cao để dùng. Đây là ngành công nghiệp mang về cho Singapore một nguồn thu nhập khổng lổ cho ngân sách nhà nước.

2) Hàn Quốc:

Cùng với sự phát triển và thâm nhập mạnh mẽ của internet cũng như các thiết bị di động điện thoại vào đời sống con người, Hàn Quốc thấy được lợi ích to lớn cũng như nhu cầu của con người về các vấn đề liên quan đến thiết bị viễn thông .Đất nước này không ngần ngại đầu tư phát triển nền công nghệ- khoa học giúp tạo tiền đề phát triển ngành công nghiệp công nghệ thông tin. Bằng chứng chính là việc khuyến khích phát triển nền công nghệ- khoa học tiên tiến, Chính phủ Hàn Quốc thành lập Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc vào năm 1966 và Bộ Khoa học và Công nghệ (MOST) vào năm 1967. Tin tưởng rằng tương lai của đất nước sẽ dựa vào việc phát triển nguồn nhân lực và phát triển khoa học-công nghệ, Chính phủ thành lập Bộ Giáo dục, Khoa học và Công nghệ vào ngày 29 tháng 2 năm 2008.

Page 13: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Ban đầu chính sách công nghệ- khoa học chủ yếu là việc đưa vào giới thiệu, tiếp thu và ứng dụng công nghệ nước ngoài.

Tuy nhiên, trong những năm 1980, trọng tâm chuyển hướng sang quy hoạch và thực hiện các dự án Nghiên cứu và Phát triển (R&D) Quốc gia để nâng cao trình độ kỹ năng khoa học-công nghệ. Việc này bao gồm các chương trình tăng cường các dự án đầu tư R&D cho cả khu vực công và tư nhân, và đào tạo nguồn nhân lực R&D trình độ cao.

Kể từ đầu những năm 1990, Chính phủ tập trung vào ba lĩnh vực chính: đẩy mạnh nghiên cứu khoa học cơ bản, bảo đảm phân phối và sử dụng nguồn lực R&D một cách hiệu quả, mở rộng qui hợp tác quốc tế. Những nỗ lực này nhằm mục đích tăng tính cạnh tranh về công nghệ của Hàn Quốc.

Hàn Quốc tập trung vào các ngành công nghiệp công nghệ thông tin. Họ tập trung vào các sản phẩm bán dẫn, màn hình tinh thể lỏng, các thiết bị di động cầm tay và nhiều thiết bị khác. Với công nghệ hiện đại và chất lượng sản phẩm được đánh giá cao trên thị trường quốc tế, Hàn Quốc đã tìm được chỗ đứng mạnh mẽ trong ngành công nghiệp này.Cho đến nay đây vẫn là ngành công nghiệp được ưu tiên hàng đầu ở Hàn Quốc. Hàn Quốc đang không ngừng phát triển ngành công nghiệp này về sự đa dạng mẫu mã, nâng cao tính siêu việt cùng với tốc độ, độ xử lý tinh vi trong các sản phẩm của họ, điều này giúp họ tạo khoảng cách với các đối thủ quốc tế và giữ được thị trường cho riêng mình.

Chính việc định hướng rõ ràng ngành công nghiệp mũi nhọn đi cùng với các chính sách đầu tư của nhà nước mà Hàn Quốc đã trở thành một trong những nước sản xuất và xuất khẩu nhiều nhất các sản phẩm liên quan đến IT. Việc này đã mang đến cho Hàn Quốc tỷ lệ GDP hằng năm cao cùng với thu nhập quốc doanh tăng.

3) Đài Loan

Với vị trí địa lý được bao quanh bởi các eo biển, nền kinh tế Đài Loan phụ thuộc nhiều vào thương mại quốc tế .Vì thế có thể nói ngoại thương nước này chính là yếu tố chủ chốt đối với tăng trưởng kinh tế của Đài Loan. Từ năm 1960, nền kinh tế Đài Loan có bước nhảy vọt thần kỳ về nền kinh tế, kết quả đó là nhờ những chính sách chuyển mình trong ngành công nghiệp mũi nhọn của chính phủ nước này. Trước đó Đài Loan tập trung vào những ngành công nghiệp nhẹ tận dụng nguồn lao động rẻ, tuy nhiên điều đó đã không mang lại cho Đài Loan thành công,

Page 14: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

hơn nữa lại khiến đất nước này gặp khủng hoảng và buộc phải thực hiện thay đổi mới trong ngành công nghiệp trọng yếu.

Bắt đầu từ năm 1960, Đài Loan tập trung vào những ngành công nghiệp nặng yêu cầu công nghệ cao và sử dụng nhiều vốn cụ thể như ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp thông minh và sinh học.

Đài Loan không tập trung ngành công nghiệp trong một lĩnh vực cụ thể nào như Hàn Quốc vì bản thân nước này phụ thuộc vào ngoại thương nên việc đa dạng các mặt hàng xuất khẩu là điều cần thiết. Họ chỉ tập trung xây dựng những ngành công nghiệp quy tụ công nghệ, vốn, chất lượng để thu hút người tiêu dùng. Họ cho xây dựng các khu công nghiệp tập trung thành từng ngành công nghiệp cụ thể như khu công nghiệp chế xuất( chuyên sản xuất ra các mặt hàng xuất khẩu), công viên công nghệ, công viên khoa học, khoa học sinh học và môi trường.

Việc xây dựng các khu công nghiệp tạo thuận lợi cho các xí nghiệp phát triển thông qua việc cùng hợp tác xây dựng và sử dụng chung các công trình phụ trợ kỹ thuật, các công trình và mạng lưới kỹ thuật hạ tầng, nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và giảm các chi phí quản lý khai thác.

4) Hồng Kông:

Hồng Kông là một trung tâm tài chính, thương mại quan trọng và là nơi tập trung nhiều đại bản doanh công ty của khu vực châu Á- Thái Bình Dương

Kinh tế Hồng Kông là một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển dựa trên nền kinh tế thị trường, thuế thấp và ít có sự can thiệp kinh tế của Chính Phủ

Hong Kong được xếp hạng nhất thế giới về tự do kinh tế trong 13 năm lien tục, kể từ khi có chỉ số này từ năm 1995.

Kinh tế Hong Kong chủ yếu dựa vào dịch vụ. Tỉ trọng của khu vực này trong GDP lên đến 90%.

o Trong quá khứ chế tạo là khu vực quan trọng nhất của nền kinh tế do

Hong Kong đã tiến hành công nghiệp hóa sau chiến tranh thế giới thứ hai.

o Trong thập niên 1970 xuất khẩu làm động lực, kinh tế Hong Kong đã

tăng trưởng tốc độ bình quân hàng năm là 8,9%o Hồng Kông đã trải qua một quá trình chuyển dịch nhanh sang một nền

kinh tế dịch vụ trong những năm 1980, khi tốc độ tăng trưởng đạt 7,7% bình quân mỗi năm. Phần lớn các hoạt động sản xuất được

Page 15: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

chuyển qua Trung Hoa đại lục trong thời kỳ này và công nghiệp hiện nay chỉ còn chiếm 9% nền kinh tế.

o Khi Hồng Kông đã lớn mạnh để trở thành một trung tâm tài chính,

tăng trưởng chậm lại xuống còn 2,7% mỗi năm trong những năm 1990.

V) MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ SỞ CHO SỰ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC NICs VÀO VIỆT NAM:

Từ thực tế CNH của các nước NICs và ASEAN có thể rút ra nhiều bài học kinh nghiệm sâu sắc, song để vận dụng kinh nghiệm này vào Việt Nam cần phải làm rõ những điểm giống nhau và khác nhau giữa nước ta hiện nay và các nước NICs - ASEAN giai đoạn bước vào CNH.

1. Những điểm tương đồng.

- Tương đồng về trình độ phát triển kinh tế (thể hiện ở cơ cấu kinh tế cũng như trình độ kỹ thuật, công nghệ).- Tương đồng về cơ chế kinh tế (thể hiện ở việc duy trì và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường với vai trò to lớn của nhà nước trong điều tiết, quản lý kinh tế).- Tương đồng về môi trường kinh tế quốc tế (thể hiên ở các xu hướng cơ bản của nền kinh tế thế giới như: quốc tế sản xuất và nguồn vốn, tự do hóa thương mại, bước đi mạnh mẽ của cách mạng khoa học kỹ thuật, được hình thành từ khi các nước NIEs và ASEAN bắt đầu CNH vẫn tồn tại và phát triển cho tới nay).

2. Những điểm khác biệt.

Bên cạnh tương đồng, CNH - HĐH ở Việt Nam hiện nay có nhiều khác biệt so với các nước NIEs và ASEAN trước đây.- Sự khác nhau về chế độ chính trị - xã hội.Đây là điểm khac nhau quan trọng vì nó dẫn đến những khác biệt trong mục tiêu xã hội của CNH và trong chính sách, biện pháp tiến hành CNH. Các nước NIEs và ASEAN lựa chon mục tiêu tăng trưởng, chấp nhận phân hóa

Page 16: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

giàu nghèo, sự chênh lệch giữa các vùng…Còn Việt Nam hướng tới xây dựng xã hội công bằng, văn minh, mọi người, mọi vùng được hưởng thành quả của sự phát triển. sự khác biệt này đã làm cho Việt Nam khó khăn hơn, đồng thời cần thận trọng hơn trong việc thu hút các nguồn lực bên ngoài phục vụ cho CNH.- Sự khác nhau về bối cảnh quốc tế hiện nay so với cách đây 3-4 thập kỷ là cục diện thế giới 2 cực đã chấm dứt. Với việc đặt phát triển kinh tế ưu tiên thành hàng đầu, mọi nước, mọi quốc gia đều có nhu cầu tìm hiểu bạn hàng, mở rộng thị trường, liên kết kinh tế với các nước khác. Đây là thời cơ thuận lợi to lớn đối với Việt Nam trong việc mở rộng, hợp tác, lựa chọn đối tá, thị trường thu hút vốn và công nghệ bên ngoài.Bên cạnh đó, so với trước đây, xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa nền kinh tế thế giới, tự do hóa thương mại cũng như cách mạng khoa học – kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ hơn, tạo ra thời cơ và thách thức mới cho CNH - HĐH ở Việt Nam.+ Trong thu hút đầu tư nước ngoài: Việt Nam có thuận lợi là nguồn vốn bây giờ phong phú hơn, di chuyển nhanh chóng, thuận lợi hơn. Tuy nhiên, trong bối cảnh mới, Việt Nam phải cạnh tranh nhiều hơn để thu hút vốn vì danh sách các nước cần vốn tăng lên.+ Trong tiếp thu và phát triển công nghệ: Thuận lợi là toàn cầu hóa và quá trình chuyển giao công nghệ diễn ra mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, do công nghệ thay đổi nhanh nên chúng ta phải chịu sức ép lớn hơn so với NIEs và ASEAN trước đây.+ Thách thức về xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa: Với sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam có thể lựa chọn đối tác, thị trường công nghệ thuận lợi hơn.Tuy nhiên, ngày nay cạnh tranh trong thương mại quốc tế trở nên gay gắt, chính sách bảo hộ công nghiệp trong nước sẽ khó áp dụng. Trong khi đó chúng ta không có được những ưu đãi thương mại mà Mỹ, Nhật, Tây Âu dành cho NIEs và ASEAN trong suốt thời kỳ CNH trước đây.

CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CÔNG NGHIỆP HÓA Ở VIỆT NAM TRÊN CƠ SỞ VẬN DỤNG KINH NGHIỆM CÔNG NGHIỆP HÓA CỦA CÁC NƯỚC NIEsTrên cơ sở vận dụng kinh nghiệm CNH của các nước NIEs và ASEAN, căn cứ vào điều kiện và bối cảnh hiện nay, để đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt

Page 17: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Nam trở thành nước công nghiệp, chúng ta cần triển khai tích cực các giải pháp:

1. Nâng cao năng lực triển khai chiến lược CNH và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển khoa học công nghệ.

- Về triển khai chiến lược CNH:Chúng ta lựa chọn việc triển khai chiến lược theo hướng “Hướng mạnh vào xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước có hiệu quả” là hoàn toàn đúng đắn. Tuy nhiên cần phải nâng cao năng lực triển khai, linh hoạt trong điều tiết vĩ mô và phải có tính thích ứng cao khi tình hình trong nước và quốc tế biến đổi.- Về bước đi trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế:Đây là một nội dung chủ yếu của CNH - HĐH đất nước. Phải lựa chọn và bố trí cơ cấu kinh tế và theo đó là cơ cấu đầu tư trên cơ sở khoa học. Qua kinh nghiệm các nước và thực tiễn Việt Nam, căn cứ quan trọng nhất để bố trí cơ cấu kinh tế là lợi thế so sánh. Cần có hai tầm nhìn:

Tầm nhìn ngắn hạn: dựa trên cơ sở lợi thế so sánh ban đầu cơ cấu - kinh tế được lựa chọn trên cơ sở này chính là bước đi hiện nay cuả CNH.

Tầm nhìn dài hạn: dựa trên xu hướng và khả năng tạo ra lợi thế so sánh mới – đây là hướng lựa chon cơ cấu kinh tế ở các bước đi tiếp theo. Trong khi phát huy lợi thế ban đầu, phải đồng thời tính đến tạo ra lợi thế so sánh cho bước phát triển tiếp theo. Căn cứ tiếp theo là phải đảm bảo phát triển trong công bằng, phải quan tâm phát triển cơ cấu vùng. Do nguồn vốn có hạn, đất nước còn nghèo, nên trước hết đầu tư trọng điểm vào một vài nơi có tiền lực nhất, từ đó sẽ lan tỏa ra các vùng xung quanh. Ta chỉ chọn 3 vùng trọng điểm ở 3 miền (Bắc, Trung, Nam) là hợp lý để hướng đến trải đều lợi ích của CNH cho mọi người dân.- Trong những năm trước mắt, cần đặc biệt coi trọng CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.- Việc lựa chọn và bố trí cơ cấu kinh tế phải gắn liền với phát triển khoa học - công nghệ. Phải có chương trình phát triển khoa học – công nghệ trong đó xác định các bước đi và trật tự ưu tiên. Phát triển khoa học – công nghệ phải được coi là nội dung cổt lõi là thực chất của CNH - HĐH.

2. Phát huy các nguồn lực cho CNH.

a. Phát huy cao độ nội lực.

Page 18: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Cần xác định nôi lực là nhân tố quyết định. Thực tế ở các nước NIEs và ASEAN gần đây đã làm rõ thêm vai trò của nguồn lực này đối với sự nghiệp CNH đất nước. Các giải pháp:- Triệt để tiết kiệm, kiên quyết dành vốn cho các lĩnh vực kinh tế có hiệu quả nhất. Nâng cao chất lượng quy hoạch dự án đầu tư. Hoàn thiện cơ chế, chính sách huy động vốn xã hội loại trừ tình trạng lãng phí và tham nhũng.- Nâng cao chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực, kết hợp chặt chẽ với giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Đây là nhân tố cơ bản, hàng đầu có ý nghĩa quyết định sự thành công của CNH - HĐH.- Nâng cao trình độ năng lực công nghệ hồi sinh. Tạo điều kiện cho phát triển khoa học – công nghệ.- Triển khai có hiệu quả việc điều tra cơ bản nắm vững và đưa vào khai thác các nguồn tài nguyên của đất nước, chống lãng phí buông lỏng.b. Hết sức coi trọng thu hút các nguồn ngoại lực.- Đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng các vốn nước ngoài. Đặc biệt là coi trọng vốn FDI. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách tạo sức hấp dẫn cho các đối tác và nhà đầu tư nước ngoài.- Triệt để khai thác các khả năng chuyển giao công nghệ từ bên ngoài vào Việt Nam, nhất là công nghệ từ các nước phát triển.- Thúc đẩy tăng trưởng xuất nhập khẩu vì mục tiêu CNH - HĐH.- Tăng việc du nhập phổ biến tri thức khoa học, công nghệ.

3.Tăng cường vai trò của nhà nước trong CNH.

Đây là điều kiện tiên đề quan trọng nhất, quyết định tốc độ và thành quả của CNH - HĐH đất nước. Các giải pháp:Một là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thông văn bản pháp luật, cải cách tổ chức hoạt động tư pháp, đề cao tính nghiêm minh, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.Hai là, tăng cường công tác chiến lược và kế hoạch hóa.Ba là, xây dựng cơ chế và chính sách hữu hiệu nhằm bảo vệ môi trường sinh thái ngay từ giai đoạn đầu của CNH.Bốn là, coi trọng công tác xã hội trong CNH: bình đẳng cơ hội việc làm, về góp vốn, kết hợp nguyên tắc phân phối theo lao động và nguyên tắc phân phối của thị trường với chính sách xã hội về thu nhập.Năm là, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua các công cụ tài chính, tiền tệ và hệ thống doanh nghiệp nhà nước.

Page 19: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx

Sáu là, nâng cao năng lực quản lý CNH của các cấp các ngành từ trung ương đến cơ sở.Trước mắt, cần tăng cường vai trò của nhà nước để giải quyết các vấn đề bức xúc nhất nhằm khai thác và phát huy nội lực của nền kinh tế như: phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nội địa, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư, lành mạnh hóa nền tài chính tiền tệ, hoàn thiện chính sách đối với các thành phần kinh tế. Đồng thời đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính từ trung ương đến cơ sở.

4.Quan tâm, bồi dưỡng, đào tạo nguồn lực con người phục vụ cho CNH.

Sự nghiệp giáo dục đào tạo những năm qua cũng có tiến bộ lớn. Song so với yêu cầu của CNH – HĐH, đội ngũ lao động còn nhiều bất cập. Đó là do: đào tạo đại học tràn lan, quy mô quá lớn so với nhu cầu trong khi đào tạo nghề lại quá ít dẫn đến tình trạng nhiều thầy, ít thợ…Do vậy, cần phải thực hiện các biện pháp sau:Một là, nên quay về chế độ học miễn phí đối với bậc tiểu học. Đây là mặt bằng dân trí cần thiết cho bất kỳ quốc gia nào đi vào CNH.Hai là, tăng nhanh quy mô dạy nghề, gắn chặt lợi ích của cơ sở sử dụng nhân lực với các trung tâm đào tạo, trong đó cơ sở sử dụng nhân lực đưa ra các yêu cầu về cơ cấu đào tạo và hỗ trợ kinh phí, còn cơ sở đào tạo có trách nhiệm cung cấp đội ngũ lao động có tay nghề và chất lượng.Ba là, tăng cường xu hướng mở trong đào tạo nhân lực, chú ý cả vấn đề hợp tác quốc tế trong đào tạo lẫn việc trang bị ngoại ngữcần thiết cho người học.

Page 20: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 21: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 22: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 23: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 24: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 25: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 26: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx
Page 27: Nghiên cứu chiến lược phát triển kinh tế các nước công nghiệp mới.docx