nghiÊn cỨu cẤu trÚc cỦa ulvan cÓ hoẠt tÍnh sinh hỌc...
TRANSCRIPT
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
Quách Thị Minh Thu
NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC CỦA ULVAN CÓ
HOẠT TÍNH SINH HỌC TỪ RONG LỤC ULVA LACTUCA VÀ ULVA RETICULATA
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC
Hà Nội - 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
Quách Thị Minh Thu
NGHIÊN CỨU CẤU TRÚC CỦA ULVAN CÓ
HOẠT TÍNH SINH HỌC TỪ RONG LỤC ULVA LACTUCA VÀ ULVA RETICULATA
Chuyên ngành: Hóa lý thuyết và Hóa lý
Mã sỗ: 62.44.01.19
LUẬN ÁN TIẾN SỸ HÓA HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Thành Thị Thu Thủy
2. PGS.TS Trần Thị Thanh Vân
Hà Nội - 2017
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS Thành Thị Thu Thủy và PGS.TS Trần Thị Thanh Vân.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Quách Thị Minh Thu
ii
LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới tập thể cán bộ
hướng dẫn khoa học PGS.TS Thành Thị Thu Thủy - Viện Hóa học và PGS.TS Trần
Thị Thanh Vân – Viện Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ Nha Trang - Viện Hàn
lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hai PGS là những người Thầy đã chia sẻ
kinh nghiệm, hướng dẫn tôi cách tiếp cận với lĩnh vực khoa học chuyên sâu mà tôi
đang theo đuổi, cũng như các vấn đề khác trong cuộc sống trong suốt thời gian thực
hiện luận án.
Đặc biệt, tôi xin cảm ơn Trung tâm Các phương pháp phổ ứng dụng - Viện
Hóa học - Viện Hàn lâm Khoa Học và Công nghệ Việt Nam đã tạo mọi điều kiện
tốt nhất về thời gian cũng như trang thiết bị nghiên cứu để tôi có thể hoàn thành
luận án của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Yuguchi Yoshiaki– Trường Đại học Điện
-Truyền thông Osaka đã giúp thực hiện phép đo SAXS và tạo mọi điều kiện thuận
lợi để tôi có thể hoàn thành công việc trong thời gian thực tập tại Nhật Bản.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Lãnh đạo Viện Hóa học, các anh chị
phụ trách Đào tạo sau Đại học - Viện Hóa học và Học viện Khoa học và Công nghệ
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành các học phần của luận án và mọi
thủ tục cần thiết.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình, bạn bè và những
người thân luôn giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Quách Thị Minh Thu
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................... i
LỜI CẢM ƠN ................................................................................................ ii
MỤC LỤC .................................................................................................... iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ............................................................ vi
DANH MỤC HÌNH .................................................................................... viii
DANH MỤC BẢNG ...................................................................................... x
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN .......................................................................... 3
1.1. Rong biển và sulfate polysaccharide từ rong biển ............................... 3
1.1.1. Phân loài rong biển ............................................................................ 3
1.1.2. Thành phần dinh dưỡng và ứng dụng của rong biển ........................... 6
1.1.3. Sulfate polysaccharide từ rong biển ................................................... 7
1.1.3.1. Sulfate polysaccharide từ rong nâu ............................................... 7
1.1.3.2. Sulfate polysaccharide từ rong đỏ ................................................. 8
1.1.3.3. Sulfate polysaccharide từ rong lục ................................................ 9
1.1.4. Rong lục chi Ulva và ulvan ............................................................ 12
1.1.4.1. Rong lục chi Ulva ....................................................................... 12
1.1.4.2. Thành phần và cấu trúc hóa học của ulvan .................................. 12
1.1.4.3. Các tính chất hóa lý của ulvan .................................................... 16
1.1.4.4. Hoạt tính sinh học và ứng dụng của ulvan .................................. 18
1.2. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc polysaccharide ...................... 22
1.2.1. Phương pháp sắc ký thẩm thấu gel GPC ........................................... 22
1.2.2. Phương pháp phổ hồng ngoại IR ...................................................... 22
1.2.3. Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMR ........................... 23
1.2.4. Phương pháp phổ khối lượng MS ..................................................... 27
1.2.5. Phương pháp tán xạ tia X góc nhỏ SAXS ......................................... 28
1.3. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến nội
dung nghiên cứu của luận án. ................................................................. 30
iv
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước ..................................................... 30
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ................................................... 32
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM .................................................................... 38
2.1. Chuẩn bị mẫu nghiên cứu ................................................................ 38
2.1.2. Phân tích thành phần hóa học của rong ............................................ 39
2.1.3. Chiết tách và tinh chế ulvan ............................................................. 42
2.1.4. Đánh giá hoạt tính sinh học .............................................................. 44
2.2. Xác định cấu trúc của ulvan ............................................................. 47
2.2.1. Phân tích thành phần hóa học của ulvan ........................................... 47
2.2.2. Phương pháp sắc ký thẩm thấu gel (GPC) ........................................ 48
2.2.3. Phương pháp phổ hồng ngoại (IR) ................................................... 48
2.2.4. Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR) ........................... 48
2.2.5. Phương pháp phổ khối lượng (MS) .................................................. 49
2.2.6. Phương pháp tán xạ tia X góc nhỏ (SAXS) ...................................... 49
2.2.7. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM) ......................................... 49
2.3. Sulfate hóa và acetyl hóa mẫu ulvan tự nhiên ................................... 49
2.3.1. Sulfate hóa ....................................................................................... 49
2.3.2. Acetyl hóa ........................................................................................ 50
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................ 52
3.1. Lựa chọn mẫu nghiên cứu ................................................................ 52
3.1.1. Kết quả xác định thành phần hóa học của ulvan ............................... 52
3.1.2. Kết quả khảo sát hoạt tính sinh học của ulvan .................................. 53
3.2. Xác định cấu trúc của ulvan ............................................................. 58
3.2.1. Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva reticulata (UR-H) ........................ 58
3.2.2. Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata (UR-N) ....................... 67
3.2.3. Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca (UL-N) ........................... 82
3.2.4. Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca (UL-H) ............................ 92
3.3. Khảo sát ảnh hưởng của sự sulfate hóa và acetyl hóa đến hoạt tính sinh
học của ulvan ....................................................................................... 101
v
3.3.1. Ảnh hưởng của sự sulfate hóa ........................................................ 101
3.3.2. Ảnh hưởng của sự acetyl hóa ......................................................... 106
KẾT LUẬN CHUNG ................................................................................. 108
KIẾN NGHỊ ............................................................................................... 110
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ ................................... 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 113
PHỤ LỤC .................................................................................................. 131
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu Tiếng Anh Diễn giải
13C- NMR Carbon-13 nuclear magnetic
resonance spectroscopy
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân 13C
1H- NMR Proton nuclear magnetic resonance
spectroscopy
Phổ cộng hưởng từ hạt nhân 1H
AOAC Association of Official Analytical
Chemist
Hiệp hội hóa học phân tích
COSY Correlation spectroscopy Phổ tương tác 2 chiều đồng hạt nhân 1H-1H
CS% Cell survival % % tế bào sống sót
DA Degree of Acetyl Mức độ acetyl hóa
DPPH 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl 1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl
DS Degree of Sulfation Mức độ sulfate hóa
ESI -MS Electron spray ionization mass
spectrometry
Phổ khối lượng ion hóa phun mù điện
Gal Galactose Galactose
GlcA Glucuronic acid Glucuronic acid
GPC Gel Permeation Chromatography Sắc ký thẩm thấu gel
HeLa Henrietta lacks Dòng tế bào ung thư cổ tử cung
Hep-G2 Human hepatocellular carcinoma Dòng tế bào ung thư gan người
HMBC Heteronuclear mutiple bond
connectivity
Phổ tương tác dị hạt nhân qua nhiều liên kết
HSQC Heteronuclear single-quantum
coherence
Phổ tương tác dị hạt nhân qua 1 liên kết
IC50 Inhibitory concentration at 50% Nồng độ ức chế 50% đối tượng thử nghiệm
IdoA Iduronic acid Iduronic acid
IR Infrared spectroscopy Phổ hồng ngoại
MALDI-MS Matrix assisted laser desorption
ionization mass spectrometry
Phổ khối lượng ion hóa khử hấp thụ nền
laze
Man Mannose Mannose
MCF-7 Michigan cancer foundation-7 Dòng tế bào ung thư vú người
MIC minimum inhibitory concentration Nồng độ ức chế tối thiểu
Mn Number average molecular mass Khối lượng phân tử trung bình số
Mw Weight average molecular mass Khối lượng phân tử trung bình khối
NOESY Nuclear Overhauser effect
Spectroscopy
Phổ tương tác không gian đồng hạt nhân 1H-1H
OD Optical density Mật độ quang học
Rha Rhamnose Rhamnose
SAXS Small Angle X-ray scattering Tán xạ tia X góc nhỏ
SEM Scanning Electron Microscope Hiển vi điện tử quét
vii
SP Sulfate polysaccharide Sulfate polysaccharide
UL-H Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca
UL-K Ulvan chiết kiềm từ rong lục Ulva lactuca
UL-N Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca
UR-Ac Ulvan acetyl hóa từ UR-N
UR-H Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva reticulata
UR-K Ulvan chiết kiềm từ rong lục Ulva reticulata
UR-N Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata
UR-S Ulvan sulfate hóa từ UR-N
UroA Uronic acid Uronic acid
Xyl Xylose Xylose
viii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Hình ảnh về một số loài rong nâu ............................................................. 4
Hình 1.2. Hình ảnh về một số loài rong đỏ............................................................... 4
Hình 1.3. Hình ảnh về một số loài rong lục .............................................................. 5
Hình 1.4. Biểu đồ biểu thị sự phân bố các loài rong lục có sulfate polysaccharide
[38] ........................................................................................................................ 11
Hình 1.5. Cấu trúc chuỗi mạch chính trong ulvan [38] .......................................... 14
Hình 1.6. Cơ chế tạo hydrogel của ulvan qua Ca2+: hoặc a) của borate ester hoặc
một phần của b) carboxylate hoặc một phần của c) sulfate [1, 51] ......................... 17
Hình 1.7. (a) Phổ 1H-NMR của hỗn hợp liên kết (13)(14)-β-D-glucan; (b) Phổ
13C-NMR của hỗn hợp liên kết (13)(14)-β-D-glucan ...................................... 24
Hình 1.8. Độ dịch chuyển hóa học của các nhóm trong phân tử polysaccharide ..... 26
Hình 1.9. Cơ chế phân mảnh của carbohydrate [111] ............................................. 28
Hình 1.10. Sơ đồ nguyên lý của một máy đo SAXS ............................................... 29
Hình 1.11. Cấu trúc hóa học của ulvan từ rong lục Ulva pertusa ............................ 35
Hình 2.1. Hình ảnh của mẫu rong nghiên cứu ........................................................ 38
Hình 2.2. Quy trình chiết tách và tinh chế ulvan từ rong lục .................................. 43
Hình 3.1. Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của phần trăm tế bào sống sót ................. 56
vào nồng độ ulvan UL-N ....................................................................................... 56
Hình 3.2. Phổ IR của UR-H .................................................................................. 59
Hình 3.3. Phổ 1H-NMR của UR-H ........................................................................ 60
Hình 3.4. Phổ 13C-NMR của UR-H ....................................................................... 61
Hình 3.5. Phổ COSY của UR-H ........................................................................... 62
Hình 3.6. Phổ HSQC của UR-H ........................................................................... 62
Hình 3.7. Phổ HMBC của UR-H .......................................................................... 63
Hình 3.8. Phổ ESI-MS của UR-H ......................................................................... 65
Hình 3.9. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243 ......................... 66
Hình 3.10. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 419 ........................ 67
Hình 3.11. Phổ IR của UR-N ................................................................................ 68
Hình 3.12. Phổ 1H-NMR của UR-N ...................................................................... 69
Hình 3.13. Phổ 13C-NMR của UR-N ..................................................................... 70
Hình 3.14. Phổ COSY của UR-N .......................................................................... 71
Hình 3.15. Phổ HSQC của UR-N .......................................................................... 72
ix
Hình 3.16. Phổ HMBC của UR-N ......................................................................... 73
Hình 3.17. Phổ ESI-MS của UR-N ....................................................................... 74
Hình 3.18. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243 ......................... 75
Hình 3.19. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaUroASO3]- tại m/z 419 ............. 76
Hình 3.20. Sơ đồ phá mảnh của UR-N ................................................................... 77
Hình 3.21. Cấu trúc ulvan UR-N từ rong lục Ulva reticulata .................................. 78
Hình 3.22. Biểu đồ Kratky của dung dịch UR-N 1% trong nước ............................ 78
và trong NaCl 0,5 M .............................................................................................. 78
Hình 3.23. Biểu đồ Guinier của dung dịch UR-N 1% trong nước........................... 79
và trong NaCl 0,5 M .............................................................................................. 79
Hình 3.24. a) Đơn vị cấu trúc để xây dựng mô hình cấu trúc phân tử, b) Mô hình
cấu trúc phân tử của UR-N xây dựng dựa trên cấu trúc hóa học ............................. 81
Hình 3.25. Biểu đồ Kratky với các đường tán xạ từ thực nghiệm và từ mô hình cấu
trúc phân tử. .......................................................................................................... 81
Hình 3.26. Phổ IR của UL-N ................................................................................ 83
Hình 3.27. Phổ 1H-NMR của UL-N ...................................................................... 84
Hình 3.28. Phổ 13C-NMR của UL-N ..................................................................... 85
Hình 3.29. Phổ COSY của UL-N .......................................................................... 86
Hình 3.30. Phổ HSQC của UL-N .......................................................................... 87
Hình 3.31. Phổ HMBC của UL-N ......................................................................... 88
Hình 3.32. Phổ ESI-MS của ulvan UL-N .............................................................. 90
Hình 3.33. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243 ....................... 91
Hình 3.34. Phổ 1H-NMR của UL-H ...................................................................... 92
Hình 3.35. Phổ 13C-NMR của UL-H ..................................................................... 93
Hình 3.36. Phổ COSY của UL-H .......................................................................... 94
Hình 3.37. Phổ HSQC của UL-H .......................................................................... 95
Hình 3.38. Phổ HMBC của UL-H ......................................................................... 97
Hình 3.39. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243 ........................ 99
Hình 3.40. Phổ IR của UR-N (a) và UR-S (b) ..................................................... 102
Hình 3.41. Phổ 13C-NMR của UR-N (a) và UR-S (b) .......................................... 103
Hình 3.42. Phổ HSQC của UR-N (a) và UR-S (b) ............................................... 103
Hình 3.43. Ảnh SEM của UR-N (a) và UR-S (b) ................................................. 104
Hình 3.44. Phổ 1H-NMR a) và 13C-NMR b) của UR-Ac ...................................... 106
Hình 3.45. Ảnh SEM của UR-N (a) và UR-Ac (b) ............................................... 107
x
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Phân loài rong lục trên thế giới có sulfate polysaccharide [38] ............... 10
Bảng 1.2. Một số nhóm đặc trưng của phổ IR của polysaccharide từ rong biển ...... 23
Bảng 1.3. Độ chuyển dịch hoá học δ (ppm) từ cơ sở dữ liệu SUGABASE của dạng
glucose và galactose [104] ..................................................................................... 25
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của rong (% trọng lượng rong khô) ....................... 41
Bảng 2.2. Kết quả hiệu suất chiết tách 6 mẫu ulvan ............................................... 44
Bảng 3.1. Kết quả phân tích thành phần hóa học của 6 ulvan ................................. 52
Bảng 3.2. Kết quả thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định của 6 mẫu ulvan ...... 53
Bảng 3.3. Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của 4 mẫu ulvan ........................... 55
Bảng 3.4. Kết quả thử hoạt tính chống oxy hóa của 6 mẫu ulvan .......................... 57
Bảng 3.5. Kết quả xác định khối lượng phân tử của 4 mẫu ulvan .......................... 58
Bảng 3.6. Kết quả phân tích phổ IR của UR-H ..................................................... 59
Bảng 3.7. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UR-H ................................ 64
Bảng 3.8. Kết quả phân tích phổ IR của UR-N ..................................................... 68
Bảng 3.9. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UR-N ................................ 74
Bảng 3.10. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UL-N ............................... 89
Bảng 3.11. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UL-H ............................... 98
Bảng 3.12. Kết quả thử hoạt tính chống đông tụ máu của UR-N và UR-S .......... 105
1
MỞ ĐẦU
Từ lâu con người đã khai thác rong biển làm nguyên liệu cho nhiều ngành
công nghiệp như dệt may, mỹ phẩm, dược phẩm và thực phẩm. Hàng năm, theo ước
tính sản lượng rong biển của thế giới đạt 15 triệu tấn và dự tính khoảng 22 triệu tấn
vào năm 2020. Polysaccharide là các polymer sinh học được tìm thấy trong tự nhiên
trên cả thực vật và động vật, cả trên cạn và dưới nước, trong đó rong biển được xem
là một nguồn cung cấp polysaccharide rất phong phú và đa dạng. Trên thế giới, các
nhà khoa học đã xác định được khoảng 10 000 loài rong biển, chia làm 03 ngành
rong chính dựa trên sắc tố của chúng là rong lục (Chlorophyte), rong nâu
(Pheophyte) và rong đỏ (Rhodophyte).
Rong lục được biết đến như là nguồn nguyên liệu để tách chiết các chất có
hoạt tinh sinh học như lipid, protein, peptide, polysaccharide, carotenoid, hợp chất
phenolic, alkaloid,… trong đó polysaccharide được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất
do khả năng ứng dụng đa dạng của nó [1]. Việt Nam là đất nước có một vùng biển
nhiệt đới rộng với bờ biển dài hơn 3000 km, là nguồn cung cấp các loài rong biển
phong phú và đa dạng, rong lục với trữ lượng rất lớn lên tới 152 loài, chủ yếu thuộc
về các chi Ulva, Caulerpa, Chaetomorpha, Enteromorpha, trong đó chi Ulva gồm
69 loài với hai loài phổ biến nhất là Ulva reticulata và Ulva lactuca.
Rong lục chi Ulva phân bố rộng và mọc tự nhiên ven biển, được đánh giá
giàu ulvan là một loại sulfate polysaccharide có nhiều hoạt tính sinh học như chống
đông máu, chống oxy hóa, hạ mỡ máu, chống ung thư, kháng nấm… Do đó, việc
sản xuất và ứng dụng các sản phẩm từ ulvan phục vụ cho mục đích chữa bệnh đang
được chú ý.
Ulvan là sulfate polysaccharide có trong rong lục chi Ulva và Enteromorpha.
Cũng giống như các sulfate polysaccharide từ rong biển khác, ulvan có cấu trúc rất
phức tạp, nó được cấu tạo bởi các thành phần chủ yếu là các đường rhamnose,
xylose, các acid glucuronic, iduronic và nhóm sulfate. Thành phần hóa học và hoạt
tính sinh học của ulvan phụ thuộc rất lớn vào loài rong, thời điểm thu hái, vị trí địa
lý nơi rong sinh trưởng và điều kiện chiết tách. Do cấu trúc của ulvan từ rong lục rất
phức tạp làm cho việc nghiên cứu cấu trúc gặp nhiều khó khăn, do đó cản trở sự
phát triển của các sản phẩm thuốc chữa bệnh. Mặt khác, đã có nhiều nghiên cứu cho
2
thấy có mối liên hệ chặt chẽ giữa cấu trúc hóa học, cấu trúc không gian với hoạt
tính sinh học của polysaccharide, do vậy việc nghiên cứu một cách tổng thể cấu trúc
của ulvan là rất cần thiết và đòi hỏi phải có sự kết hợp một cách hợp lý của nhiều
phương pháp. Hiện nay, một hướng nghiên cứu đang được quan tâm là điều chế các
dẫn xuất của hợp chất thiên nhiên với mục đích nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu
tố cấu trúc đến hoạt tính sinh học, từ đó có thể tạo ra các chất có hoạt tính sinh học
cao hơn mẫu tự nhiên.
Ở nước ta, polysaccharide chiết tách từ rong đỏ và rong nâu như carrageenan,
alginate và fucoidan đã được nghiên cứu và thu được các kết quả tốt ứng dụng vào
cuộc sống thì cho đến nay chưa có công bố nào về polysaccharide từ các loài thuộc
ngành rong lục nói chung và ulvan từ chi Ulva nói riêng.
Với các lý do nêu trên, chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu cấu trúc của ulvan
có hoạt tính sinh học từ rong lục Ulva lactuca và Ulva reticulata”, để nghiên cứu
cấu trúc của ulvan-một polysaccharide có trong rong lục và tìm hiểu ảnh hưởng của
sự biến tính hóa học đến cấu trúc và hoạt tính sinh học của ulvan nhằm góp phần
hoàn thiện hướng nghiên cứu về polysaccharide từ rong biển và mở rộng khả năng
ứng dụng của nguồn rong biển Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu của luận án:
Xác định cấu trúc của các ulvan có hoạt tính sinh học chiết tách từ 2 loài
rong lục Ulva lactuca và Ulva reticulata.
Tìm hiểu ảnh hưởng của sự biến tính hóa học đến cấu trúc và hoạt tính
sinh học của ulvan.
Để đạt được mục tiêu đề ra, nội dung nghiên cứu của luận án gồm:
1. Thu thập 2 loài rong lục phổ biến nhất thuộc chi Ulva ở Việt Nam là Ulva
reticulata và Ulva lactuca
2. Nghiên cứu thành phần hóa học và khảo sát hoạt tính sinh học của ulvan
tách chiết từ 2 loài rong trên.
3. Nghiên cứu cấu trúc của các ulvan có hoạt tính tốt.
4. Nghiên cứu ảnh hưởng của sự biến tính hóa học (sulfate hóa và acetyl
hóa) đến cấu trúc và hoạt tính sinh học của ulvan.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Rong biển và sulfate polysaccharide từ rong biển
Rong biển hay tảo bẹ hay cỏ biển là loài thực vật sinh sống ở biển, thuộc nhóm tảo
biển. Rong biển có thế sống ở cả hai môi trường nước mặn và nước lợ, chúng mọc
trên các rạn san hô hoặc trên các vách đá, hoặc có thể mọc dưới tầng nước sâu với
điều kiện có ánh sáng mặt trời chiếu tới để quang hợp.
1.1.1. Phân loài rong biển
Trên thế giới, các nhà khoa học đã xác định được khoảng 10 000 loài rong
biển và chia thành 3 ngành có giá trị kinh tế cao dựa vào màu sắc của chúng, bao
gồm: rong đỏ có khoảng 6500 loài; rong nâu với khoảng 1800 loài và rong lục
khoảng 1500 loài [2, 3].
So với các nước vùng Đông Nam Á, nước ta thuộc vào nước có nguồn rong
biển đa dạng và phong phú [4, 5]. Các khảo sát điều tra cho thấy số lượng các loài
rong biển tại các vùng biển như sau: Phú Quốc có 108 loài; Trường Sa 66 loài; Vịnh
Hạ Long 99 loài; Cồn Cỏ 48 loài; Bạch Long Vĩ 46 loài. Riêng vùng Nha Trang có
210 loài. Năm 2003, tác giả Đàm Đức Tiến, Trần Đình Toại và CS cho biết riêng
vùng ven biển Bắc Bộ đã có 259 loài [6, 7].
Với tổng số gần 800 loài rong tìm thấy ở vùng biển Việt Nam, các nhà khoa
học Việt Nam cùng thống nhất xếp chúng vào 3 ngành trong hệ thống phân loại 10
ngành của Gollerbakh năm 1977 [8]:
+ Ngành rong đỏ (Rhodophyta)
+ Ngành rong nâu (Phaeophyta)
+ Ngành rong lục (Chlorophyta)
Rong nâu: Là loài rong thường có kích thước lớn, loại lớn thường dài
khoảng 20 mét, loài trung bình dài từ 2-4 mét, các loài nhỏ hơn dài từ 30–60 cm [2,
3]. Chúng chứa sắc tố xanthophyll-fucoxanthin cùng với chlorophyll a và c nên cá
thể của rong nâu đều thể hiện màu nâu lục đặc trưng. Rong nâu là loài rong phổ
biến nhất với trữ lượng lớn, khoảng 1800 loài, thường sinh trưởng ở vùng biển đá,
nước biển lạnh thuộc bán cầu Bắc, chúng không chỉ mọc trên đá mà còn trên các
chân đập, cầu cảng, san hô, động vật thân mềm và ngay cả trên các loài rong khác.
4
Rong nâu phân bố nhiều nhất ở Nhật Bản, tiếp đến là Canada, Việt Nam,
Hàn Quốc, Alaska, Ireland, Mỹ, Pháp, Ấn Độ…. Trước đây, rong nâu được sử dụng
để tách iodine và kalium. Trong thời gian gần đây, rong nâu được khai thác rộng rãi
để chiết tách alginate và fucoidan. Hình 1.1 là ảnh của một số loài rong nâu.
Sargassum microcystum Padina australis
Hình 1.1. Hình ảnh về một số loài rong nâu
Rong đỏ: Là loài rong có kích thước nhỏ hơn rong nâu, thường dài từ vài
centimet đến hàng mét; tuy nhiên rong đỏ không luôn luôn có màu đỏ: thỉnh thoảng
chúng có màu tím, thậm chí là nâu đỏ nhưng chúng vẫn được xếp vào ngành rong
đỏ do những đặc tính khác như màu sắc của chúng là do các hạt sắc tố
phycobilin tạo thành, phycobilin là sắc tố đặc trưng cho rong đỏ. Ngành rong
đỏ có khoảng 6500 loài, gồm 400 chi thuộc nhiều họ. Phần lớn các loài rong đỏ
sống ở biển, có cấu tạo từ nhiều tế bào, trừ một số ít thuộc dạng một tế bào hay
quần thể. Rong đỏ có dạng hình trụ dẹp dài, phiến chia hoặc không chia nhánh,
phần lớn chia nhánh kiểu một trục, một số ít theo kiểu hợp trục [2, 3, 9]. Hình 1.2 là
ảnh của một số loài rong đỏ.
Porphyra Vietnameusis Acanthophora spicifera
Hình 1.2. Hình ảnh về một số loài rong đỏ
5
Rong đỏ phân bố nhiều ở Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, Chile, Indonesia,
Philippine tiếp đến là Thailand, Brazil, Pháp, Trung Quốc, Hawaii, Ấn Độ, Anh,
Mỹ … Trên thế giới, rong đỏ được sử dụng với khối lượng lớn để phục vụ cuộc
sống con người, một số loài có hàm lượng cao về agar, carageenan, furcellaran được
sử dụng để chế biến keo rong biển và làm phụ gia thực phẩm.
Các loài rong đỏ được chia thành hai nhóm chính [8]:
- Nhóm rong cho agar (Agarophit): Bao gồm các loại như Gelidium,
Gracilaria và Acanthopeltis.
- Nhóm rong cho carrageenan (Carrageenophit): Bao gồm các loại như
Gigartina, Eucheuma, Chondrus, Iridaea và Furcellaria.
Rong lục: Là loài rong có kích thước nhỏ giống như rong đỏ, chúng bao gồm
cả những loài đơn bào và đa bào. Rong lục chứa chlorophylls cả hai dạng a và b.
Trên thế giới, rong lục phân bố chủ yếu tập trung tại Philipine, tiếp theo là Hàn
Quốc, Indonesia, Nhật Bản và ít hơn là ở Việt Nam với các loài như Ulva
reticulata, Ulva lactuca, Caulerpa racemosa, … Ngoài ra, rong lục còn phân bố rải
rác ở các nước: Canada, Chile, Pháp, Israel, Italy, Malaysia, Achentina,
Bangladesh… [2, 10]. Hình 1.3 là ảnh của một số loài rong lục.
Hình 1.3. Hình ảnh về một số loài rong lục
6
1.1.2. Thành phần dinh dưỡng và ứng dụng của rong biển
Từ lâu con người đã khai thác rong biển làm nguyên liệu cho rất nhiều ngành
công nghiệp như thực phẩm, dệt may, mỹ phẩm, dược phẩm. Rong còn được dùng
để làm phân bón, cung cấp nhiều K, Ca, P cho đất... [11]. Rong biển được coi là loại
thực phẩm có giá trị cao, cả góc độ ẩm thực và dinh dưỡng.
Tại các nước trong vùng châu Á - Thái Bình Dương, rong biển được tiêu thụ
nhiều nhất, chiếm 80% tổng sản lượng toàn cầu, châu Âu chỉ tiêu thụ 1%, rong biển
được dùng nhiều để nấu súp, làm sushi, trộn salad … [2, 3].
Thành phần hóa học của rong biển bao gồm lipid, protein, peptide,
polysaccharide, carotenoid, các hợp chất phenolic, alkaloid... Trong đó,
polysaccharide là thành phần chính của rong biển, được coi là nguồn đường vô tận
của rong biển, được cho là rất có giá trị về mặt kinh tế và được các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu nhiều nhất cho mục đích y học [3, 10]. Ngoài chức năng là
làm vật liệu tạo nên thành tế tào, các polysaccharide giữ nhiều chức năng quan
trọng khác đối với tế bào như trao đổi chất và bảo vệ tế bào do chúng có độ bền cơ
học cao [12, 13].
Từ rong biển, người ta đã sản xuất ra rất nhiều loại sản phẩm mà tổng giá trị
hàng năm được ước tính đạt cỡ 5,5-6,0 tỷ USD. Trong đó các polysaccharide đóng
góp phần lớn giá trị của rong. Các sản phẩm mỹ phẩm, như kem bôi da, nước hoa
(mỹ phẩm lỏng) mà trong nhãn của nó có chứa các cụm từ “marine extract”,
“extract of alga”, “seaweed extract” hoặc tương tự, thường có nghĩa là nó chứa một
trong số các hydrocolloid được chiết từ rong biển [14].
Các nghiên cứu về giá trị thành phần dinh dưỡng của rong biển [2, 11] cho
thấy rong biển rất giàu dưỡng chất, ngoài thành phần đạm rất cao, rong biển còn
chứa rất nhiều khoáng chất, các yếu tố vi lượng trong đó nổi bật là iodine (yếu tố vi
lượng tối cần thiết cho tuyến giáp), các vitamin (A, E, C, B12 và B1) và chất xơ [1,
11]. Hàm lượng sinh tố A trong rong biển cao gấp 2 - 3 lần so với cà rốt, gấp 10 lần
trong bơ, hàm lượng calcium cao gấp 3 lần so với sữa bò, vitamin B2 cao gấp 4 lần
trong trứng, vitamin C, E cao gấp nhiều lần trong rau quả.
Thực tiễn cho thấy rong biển còn có tiềm năng sử dụng trong xử lý nước
thải. Một số loài rong biển có khả năng hấp thụ các ion kim loại nặng như: Zn và
Cd từ nước bị ô nhiễm [3, 10]. Cũng do khả năng hấp thụ cao mà một số vi lượng
7
có trong rong khá cao nên rong còn được dùng làm thức ăn bổ sung để phòng bệnh
thiếu một số chất như sắt, iodine….[3].
Polysaccharide từ rong biển có tính chất đặc biệt là dễ tạo gel, có độ nhớt cao
rất dễ tạo màng nên chúng được sử dụng rộng rãi trong nhiều ngành kinh tế như:
công nghệ thực phẩm (chế biến thịt, sữa, làm bánh kẹo), làm thuốc đánh răng, dùng
trong mỹ phẩm…ngoài ra chúng còn là nguồn nguyên liệu để làm dược phẩm [2,
10]. Do tính chất dễ tạo màng, có thể dùng polysaccharide tự nhiên để tạo màng
polymer sinh học, khi sử dụng polysaccharide để làm vật liệu chế tạo màng sinh
học, màng này giữ lại nhiều tính chất tốt của polysaccharide tự nhiên. …Một điều
quan trọng là các phế thải của chúng (màng sau khi sử dụng) không gây ô nhiễm
môi trường, vì các vật liệu này sau khi thải ra môi trường sẽ dần phân hủy bởi các
hệ vi sinh vật có sẵn trong tự nhiên [1].
Tại Hội nghị Bali về khí hậu trái đất, một nhóm nhà khoa học cho biết rong
và rêu biển có thể là một vũ khí hữu hiệu chống lại sự ấm dần của trái đất do chúng
có khả năng hút khí carbon dioxide trong khí quyển với một tốc độ tương đương với
những cánh rừng nhiệt đới rộng lớn.
Polysaccharide từ rong biển còn có tác dụng hấp thụ cholesterol thải ra ngoài
cơ thể, khiến hàm lượng cholesterol trong máu duy trì ở mức cân bằng. Nhiều
nghiên cứu khoa học trong thời gian gần đây cũng đã xác nhận, rong biển có tác
dụng phòng chống virus và phòng chống ung thư [16, 17].
1.1.3. Sulfate polysaccharide từ rong biển
1.1.3.1. Sulfate polysaccharide từ rong nâu
Fucoidan là sulfate polysaccharide có trong rong nâu, fucoidan chiếm hàm
lượng khoảng 0,6 - 4% trọng lượng rong khô và cấu trúc của nó thay đổi theo loài
nhưng thành phần chính vẫn là đường fucose và nhóm sulfate [18]. Cấu trúc của
fucoidan trong rong biển là vô cùng phức tạp và không giống nhau với những thay
đổi trong liên kết, sự phân nhánh, vị trí nhóm sulfate và các loại đường đơn khác
nhau [19, 20]. Cấu trúc của fucoidan còn phụ thuộc vào nguồn gốc của chúng.
Việc phân tích cấu trúc của các polysaccharide nói chung và fucoidan nói
riêng là một trong những thách thức lớn trong hóa học các chất hữu cơ có gốc
đường. Các fucoidan có cấu trúc phức tạp bao gồm nhiều vấn đề cần làm sáng tỏ
8
như thành phần các đường đơn, các dạng đồng phân của đường, mức độ phân nhánh
và polymer hóa của chúng. Vì vậy, cho tới nay, việc làm sáng tỏ cấu trúc của chúng
vẫn còn là vấn đề khó khăn, ngay cả khi sử dụng các kỹ thuật NMR phân giải cao
mới nhất [21, 22]. Hiện nay phương pháp sử dụng phổ khối ion hóa phun mù điện
(ESI-MS) đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm, ứng dụng trong
nghiên cứu cấu trúc fucoidan [23, 24, 25].
Bằng phương pháp sắc ký, phổ IR và NMR đã cho các thông tin về thành
phần đường, kiểu liên kết của các đường trong phân tử fucoidan, nhưng các thông
tin về trật từ sắp xếp của các đường cũng như vị trí của nhóm sulfate trong phân tử
vẫn chưa được xác định, do đó chưa giải thích được các đặc tính sinh học khác nhau
của các phân đoạn fucoidan một cách rõ ràng và thuyết phục [18, 19].
Fucoidan có hoạt tính sinh học rất phong phú, nhiều hoạt tính sinh học quí
báu như hoạt tính chống khối u, hoạt tính chống oxy hóa, hoạt tính kháng khuẩn,
kháng nấm, chống đông tụ máu và hoạt tính chống lại các virus như HIV [26, 27,
28]. Ngoài ra, fucoidan còn được mô tả có nhiều tác dụng sinh học lý thú khác như
tác dụng hạ cholesterol, giảm mỡ máu, giảm LDL-cholesterol, triglyceride máu,
tăng HDL-cholesterol, ức chế miễn dịch nên có thể sử dụng fucoidan trong các
trường hợp ghép phủ tạng … [29, 30].
1.1.3.2. Sulfate polysaccharide từ rong đỏ
Carrageenan là sulfate polysaccharide mạch thẳng, có khả năng tạo gel và
làm đặc dung dịch. Carrageenan tồn tại trong một số rong đỏ thuộc họ
Rhodophyceae. Hiện nay, carrageenan thường được chiết từ một số loài rong như
Gigartina, Chondrus, Iridaea, Eucheuma [31].
Carrageenan được tạo thành từ các đường galactose mạch thẳng với hàm
lượng sulfate khác nhau (trong khoảng 15%-40%). Các loại carrageenan khác nhau
thì khác nhau về thành phần và cấu dạng, vì thế chúng tạo nên một khoảng biến đổi
rộng các tính chất lưu biến cũng như các tính chất đặc biệt khác [32].
Cũng như các polysaccharide tự nhiên khác, carrageenan cũng không có khối
lượng phân tử xác định. Carrageenan thương mại loại dùng trong ngành chế biến thực
phẩm có khối lượng trung bình nằm trong khoảng 200 000 g/mol. Các tính chất của
9
carrageenan phụ thuộc rất lớn vào khối lượng mol phân tử của chúng và chúng gần
như mất đi nếu mol phân tử nhỏ hơn 100 000 g/mol [33].
Do carrageenan là polymer được tạo thành từ khoảng 1000 mắt xích nên khả
năng của sự biến đổi cấu trúc là rất lớn. Cho đến nay, ba loại carageenan chính tồn
tại trong tự nhiên là kappa-(-), iota-(i-) và lambda-(-) carrageenan.
Cấu trúc của carrageenan đã được nghiên cứu từ những năm 50 của thế kỷ
20. Tuy nhiên cấu trúc chi tiết cũng như cấu hình không gian của carrageenan vẫn
chưa được nghiên cứu đầy đủ. Việc sử dụng phổ MS và NMR trong nghiên cứu cấu
trúc của carrageenan còn gặp nhiều khó khăn do sự phức tạp của phổ và cn nhiều
vấn đề như liên kết hydro nội/ ngoại phân tử hay vai trò của nhiệt độ và dung môi
làm ảnh hưởng đến cấu trúc [33, 34].
Carrageenan tách chiết từ các loài rong khác nhau có thành phần hóa học,
đặc điểm cấu trúc cũng như khả năng tạo gel rất khác nhau. Các carrageenan đều
chứa nhóm thế sulfate trong phân tử, hàm lượng và vị trí của nhóm este sulfate ảnh
hưởng lớn đến sự tạo gel của chúng.
Carrageenan thể hiện hoạt tính sinh học quí như: khả năng kháng nhiều loại
virus (đặc biệt là rotavirus gây bệnh tiêu chảy), trong đó lambda-carrageenan thể
hiện khả năng ức chế rotavirus mạnh nhất [35]; hoạt tính chống u bướu (khả năng
ức chế di căn của tế bào ung thư) [36]. Hoạt tính sinh học của sulfate carrageenan
phụ thuộc vào trọng lượng phân tử, cấu trúc carbohydrate cũng như hàm lượng và
vị trí liên kết của các nhóm sulfate [37].
1.1.3.3. Sulfate polysaccharide từ rong lục
Trên thế giới, các loài rong lục cho sulfate polysaccharide được chia thành 4
nhóm chính [38]:
- Nhóm rong lục cho ulvan: Bao gồm các loài rong lục thuộc 2 chi Ulva và
Enteromorpha. Từ năm 2000, nhóm rong cho ulvan được gọi chung là chi Ulva
[http://www.algaebase]. Ulvan có thành phần đường gồm: Rha, Xyl, UroA, Glu,
Gal, Man … và nhóm sulfate tạo thành chuỗi các disaccharide lặp lại với tỉ lệ khác
nhau, tạo nên cấu trúc rất đa dạng, phức tạp gồm nhiều kiểu liên kết glycoside như:
Ở Rha: α-(1→4)-, α-(1→3)-, α-(1→3,4)- và α-(1→2,3,4)-, ở Xyl: β-(1→4)-, β-
10
(1→2,4)-; ở Glu: β-(1→4)- và β-(1→3); ở GlcA: β-(1→4)-. Nhóm sulfate trong
phân tử ulvan đều ở vị trí carbon C-3 hoặc C-2 của Rha.
Bảng 1.1. Phân loài rong lục trên thế giới có sulfate polysaccharide [38]
Họ Chi Loài Monostromataceae
Monostroma M. latissimum M. nitidum M. angicava
Ulvaceae
Enteromorpha
E. clathrata E. compressa E. intestinalis E. linza E. prolifera
Ulva
U. arasakii U. armoricana U. clathrata U. conglobata U. fasciata U. lactuca U. pertusa U. reticulata U. rigida U. rotundata
Capsosiphonaceae Capsosiphon C. fulvescens Cladophoraceae Chaetomorpha C. antennina Bryopsidaceae Bryopsis B. plumose Halimedaceae Halimeda H. monile Caulerpaceae Caulerpa C. brachypus
C. cupressoides C. lentillifera C. prolifera C. racemosa C. sertularioides
Codiaceae Codium C. adhaerens C. cylindricum C. dwarkense C. fragile C. istmocladum C. latum C. pugniformis C. tomentosum C. vermilara C. yezoense
11
- Nhóm rong lục cho sulfate arabinogalactan: Bao gồm các loài rong lục
thuộc chi Codium như C. fragile, C. adhaerens, C. cylindricum… Thành phần
đường chủ yếu trong phân tử sulfate arabinogalactan là Ara, Gal với lượng nhỏ Glc,
Man, Xyl và nhóm sulfate tạo thành cấu trúc chuỗi các disaccharide lặp lại với tỉ lệ
khác nhau: β-(1→3)-D-Gal và β-L-Ara với hàm lượng sulfate cao, Gal bị sulfate hóa
ở carbon C-2 và C-4 hoặc chỉ ở C-4 và phần nhỏ ở C-6; β-(1→3)-D-Gal và lượng
nhỏ β-(1→3,6)-Gal, với nhóm sulfate chủ yếu ở vị trí carbon C-4, phần nhỏ ở C-6.
- Nhóm rong lục cho sulfate galacotan: Bao gồm các loài thuộc chi
Caulerpa, chủ yếu là loài C. cupressoides và C. racemosa. Sulfate galacotan là một
loại polysaccharide hỗn hợp từ nhiều loại monosaccharide khác nhau với thành
phần chủ yếu là đường Gal, lượng nhỏ các đường Glc, Man, Xyl và nhóm sulfate
tạo thành chuỗi với nhiều kiểu liên kết glycoside: (1→3)- và (1→3,6)-Gal, (1→4)-
và (1→3,4)-Ara, (1→4)-Glu, với nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3 của (1→4)-Ara
và C-6 của (1→3)-Gal, (1→3)-β-D-Gal và (1→6)-β-D-Gal, nhóm sulfate ở vị trí
carbon C-2.
Theo biểu đồ ở Hình 1.4 cho thấy: nhóm rong lục chứa số lượng lớn các loài
cho sulfate polysaccharide bao gồm các chi Ulva (38%), Enteromorpha (nay gọi là
Ulva) (14%), Monostroma (14%), Codium (16%), và Caulerpa (11%). Các chi còn
lại bao gồm Capsosiphon, Chaetomorpha, Bryopsis, và Halimeda, chỉ chiếm 7%
trong tổng số (Hình 1.4).
Hình 1.4. Biểu đồ biểu thị sự phân bố các loài rong lục có sulfate polysaccharide
[38]
12
1.1.4. Rong lục chi Ulva và ulvan
1.1.4.1. Rong lục chi Ulva
Trong thời gian gần đây, trên thế giới, rong lục là nguồn tài nguyên tự nhiên
ngày càng được quan tâm sử dụng trong cuộc sống nhiều hơn phục vụ đời sống con
người như làm thực phẩm, mỹ phẩm và dược phẩm đặc biệt là trong lĩnh vực y học.
Rong lục là một trong 3 ngành rong chính đã biết hiện nay, chúng tồn tại
trong tự nhiên với số lượng lớn và rất đa dạng về thành phần loài, bao gồm những
chi chủ yếu sau: Enteromorpha, Ulva, Ulothrix, Cladophora, Valonia,
Boergessenia, Caulerpa, Bryopsis, Codium... Trong đó có nhiều loài thuộc các chi
rong lục là Ulva, Enteromorpha, Caulerpa, Codium được sử dụng như là nguồn
thức ăn phổ biến [38].
Ở nước ta, rong lục là ngành có trữ lượng rất lớn lên tới 152 loài, chủ yếu
thuộc về các chi rong Ulva, Caulerpa, Chaetomorpha, Enteromorpha, trong đó chi
Ulva gồm 69 loài trong tổng số 100 loài đã được định danh trên thế giới.
Rong lục chi Ulva được cho là rất giàu protein, polysaccharide, các vitamin
và các khoáng chất, trong đó, polysaccharide ngày càng được quan tâm nhiều nhất
do chúng có những tính chất vật lý và hóa học đáng chú ý và có nhiều tiềm năng
ứng dụng trong y sinh học.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, có 4 dạng polysaccharide được tìm thấy từ
rong lục chi Ulva bao gồm: dạng tan trong nước là ulvan, dạng không tan trong
nước là cellulose, dạng tan trong kiềm là xyloglucan mạch thẳng và lượng nhỏ
glucuronan [13].
1.1.4.2. Thành phần và cấu trúc hóa học của ulvan
Ulvan là sulfate polysaccharide từ rong lục thuộc chi Ulva, được biết đến là
các hợp chất có nguồn gốc từ tự nhiên với nhiều hoạt tính sinh học quý báu như
điều chỉnh hệ miễn dịch, kháng viêm, chống oxy hóa, chống đông tụ và kháng vi
sinh vật kiểm định [3, 38, 39]. Thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của ulvan
phụ thuộc rất lớn vào loài rong, thời điểm thu hái, vị trí địa lý và điều kiện xử lý sau
thu hái [12, 13]. Do đó, việc sản xuất và ứng dụng các sản phẩm từ ulvan tự nhiên
phục vụ cho mục đích chữa bệnh đang được chú ý nhiều hơn và đóng vai trò quan
trọng trong các đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, các ulvan từ rong lục có cấu trúc rất
13
đa dạng và không đồng nhất, làm cho việc nghiên cứu cấu trúc của chúng gặp nhiều
khó khăn, cản trở sự phát triển của các sản phẩm thuốc chữa bệnh.
Ulvan là sulfate polysaccharide tan trong nước, được phân lập chủ yếu từ 2
chi rong lục Ulva và Enteromorpha thuộc họ Ulvaceae. Ulvan được tạo nên bởi các
thành phần đường chủ yếu là rhamnose (Rha), xylose (Xyl), các acid là acid
glucuronic (GlcA), acid iduronic (IdoA) và nhóm sulfate để tạo thành mạch
polymer sinh học với disaccharide chính là acid 3-sulfate ulvanobiuronic dạng A
((β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S-(→1)) và acid 3-sulfate ulvanobiuronic dạng B ((α-
L-IdoA-(1→4)-α-L-Rha3S (→1)). Cấu trúc hóa học này tương tự như các
glycosaminoglycans (GAGs) của động vật có vú, có hoạt tính chống đông máu như
heparin.
Ulvan thường được chiết bằng dung dịch nước ở nhiệt độ 80º-90ºC với sự có
mặt của tác nhân cation chelat hóa trị 2, như ammonium oxalate. Hiệu suất chiết
tách thu được từ 8% đến 29% trọng lượng rong khô [13] và hiệu suất chiết ulvan từ
15% đến 70% tùy thuộc loài rong. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng GlcA và Rha
tồn tại ở dạng acid aldobiouronic và 4-O-α-D-glucuronosyl-L-Rha, tương ứng (Hình
1.6). Ulvan từ một số loài rong lục như Ulva lactuca, Enteromorpha compressa,
Enteromorpha intestinalis, Ulva rigida, và Ulva arasakii được tạo thành từ các hợp
phần Rha, Xyl, GlcA, IdoA và sulfate với tỉ lệ tương ứng 16,8%-45%, 2,1%-12%,
0,5%-6,4%, 6,5%-19,0% và 16%-23,2% [12]. Nghiên cứu của tác giả Quemener
[40] đã chứng minh rằng, IdoA (1,1%-9,1%) cũng là một carbohydrate thành phần
trong ulvan, các thành phần đường mannose (Man) và galactose (Gal) cũng được
tìm thấy trong phân tử ulvan và tùy thuộc vào loài rong nghiên cứu, ví dụ như Man
và Gal là các đường được tìm thấy trong polysaccharide chiết tách từ rong lục Ulva
conglobata; gần đây, đường arabinose (Ara) được phát hiện là một monosaccharide
có trong rong lục Enteromorpha clathrata.
Theo các nghiên cứu trước đây, khối lượng phân tử của một polysaccharide
bị ảnh hưởng lớn bởi một vài yếu tố, đối với ulvan khối lượng phân tử thay đổi từ
150 000 g/mol đến 2 000 000 g/mol. Các phân tử ulvan có xu hướng tập hợp lại với
nhau làm ảnh hưởng đến việc xác định khối lượng phân tử Mw. Các loại ulvan khác
nhau xảy ra hiện tượng phân tử bị tụ lại khác nhau do đó khối lượng phân tử cũng
khác nhau, sự khác nhau về thành phần và cách sắp xếp các phân tử đường cũng tác
14
động đến tính chất tập hợp này, nó có thể lý giải cho tính chất đa phân tử của ulvan.
Tuy nhiên, ulvan được biết đến gồm 2 thành phần đại phân tử chính là thành phần
có khối lượng phân tử cao (Mw = 500 000–800 000 g/mol) và thành phần với khối
lượng phân tử thấp (Mw=150 000–200 000 g/mol). Trong đó, phần có khối lượng
phân tử cao là phổ biến và có độ nhớt cao hơn [38].
Các kết quả nghiên cứu ban đầu cho thấy ulvan từ Enteromorpha được tạo
thành bởi liên kết glycoside ở Rha là α-(1→4)-, α-(1→3)-, α-(1→3,4)- và α-
(1→2,3,4)-, liên kết glycoside ở Xyl là β-(1→4)- và β-(1→2,4)-. Kết quả nghiên
cứu ulvan phân lập từ Ulva lactuca chỉ ra rằng, phần lớn liên kết glycoside ở Rha
trong phân tử ulvan là liên kết α-(1→4)- và Rha bị sulfate hóa ở vị trí carbon C-3.
Những nghiên cứu sau đó cũng cho thấy, cấu trúc của ulvan có những đặc trưng
sau: liên kết glycoside ở Xyl là β-(1→4)- và β-(1→3)-, liên kết glycoside ở Glu là
β-(1→4)- và β-(1→3)-, liên kết glycoside ở GlcA là β-(1→4)-. Gần đây, những số
liệu nghiên cứu khẳng định lại sự có mặt của 2-sulfate Xyl trong phân tử ulvan và
chứng minh là hầu hết các nhóm sulfate trong phân tử ulvan từ rong lục Ulva đều ở
vị trí carbon C-3 hoặc C-2 của Rha [38, 40-44].
Hình 1.5. Cấu trúc chuỗi mạch chính trong ulvan [38]
15
Thành phần chính trong cấu trúc của ulvan là acid sulfate aldobiouronic, gồm
có 2 dạng là IdoA và GlcA. Các loài Ulva khác nhau cho ulvan với cấu trúc của
dạng chuỗi disaccharide lặp lại là khác nhau, các disaccharide được phân thành 2
dạng chính là dạng A (A3s) với β-D-GlcA nối với L-Rha3S tạo thành dimer qua liên
kết glycoside (1→4) (β-D-GlcA-(1→4)-L-Rha3S) và dạng B (B3s) với sự có mặt
của α-L-IdoA nối với α-L-Rha3S cũng qua liên kết glycoside ở vị trí (1→4) (Hình
1.5).
Lahaye và CS [43] và Hela và CS [12] đã nghiên cứu cấu trúc hóa học của
ulvan từ loài rong lục Ulva lactuca, kết quả chỉ ra rằng polysaccharide được tạo
thành bởi phần lớn là chuỗi liên kết glycoside ở Rha dạng (1→4) và (1→2,4) và
Rha bị sulfate hóa ở vị trí carbon C-3, liên kết glycoside ở GlcA là β-(1→4)-, liên
kết glycoside ở Xyl là (1→4)- và (1→3)- và xylose bị sulfate hóa ở vị trí carbon C-
2. Gần đây, những số liệu nghiên cứu khẳng định lại sự có mặt của 2-sulfate Xyl
trong phân tử ulvan và chứng minh là hầu hết các nhóm sulfate trong phân tử ulvan
từ rong lục Ulva đều ở vị trí carbon C-3 hoặc C-2 của Rha-(1→4)-.
Trong nghiên cứu cấu trúc của ulvan từ rong lục Ulva rigida, Ray và CS
[44] cho thấy: sau khi mẫu ulvan bị thủy phân nhẹ trong môi trường acid tạo
oligosaccharide và desulfate hóa, cấu trúc hóa học của những oligomer này được
xác định bằng phổ NMR. Các tác giả đã khẳng định rằng các chuỗi liên kết
glycoside trong phân tử ulvan có dạng sau: α-L-Rha-(1→ 4)-D-Xyl; β-D-GlcA-
(1→2)-α-L-Rha-(1→4)-D-Xyl; β-D-GlcA-(1→4)-L-Rha3S; β-D-GlcA-(1→4)-[β-
D-GlcA-(1→2)]-α-L-Rha-(1→4)-D-Xyl và β-D-GlcA-(1→4)-[β-D-GlcA-(1→2)]-
α-L-Rha. Sự phân nhánh ở các chuỗi liên kết trong phân ulvan thường xảy ra ở vị
trí C-2 của liên kết (1→4)-α-L-Rha là β-D-GlcA; nhóm tác giả cũng khẳng định
lại rằng nhóm sulfate nằm ở vị trí C-3 của rhamnose. Các nghiên cứu sau đó cho
thấy các liên kết glycoside và vị trí nhóm sulfate trong cấu trúc của ulvan này là
phổ biến cho các loài Ulva khác nhau [39, 41, 42].
Nghiên cứu của Delattre và CS [4] cho rằng các sulfate polysaccharide với
khối lượng phân tử lớn được chiết tách từ rong lục Ulva armoricana là ulvan có cấu
trúc dạng B3s. Các tác giả cũng đã chứng minh sự có mặt của các chuỗi lặp lại -
A3s-A3s-, -A3s-B3s-, -A3s-U3s-, -A3s-GlcA-A3s- trong cấu trúc phân tử ulvan, ở
đây U3s là 3-sulfate ulvanobiose. 3-sulfate Ulvanobiose được xem là một dạng
16
ulvan khi Xyl thế chỗ acid uronic hoặc GlcA là nhánh ở vị trí C-4 của Rha3S (Hình
1.5).
Tóm lại, ulvan từ chi rong lục Ulva được tạo nên bởi các thành phần chính
chủ yếu là các đường Rha, Xyl, các acid GlcA, IdoA và nhóm sulfate tạo thành
chuỗi các disaccharide lặp lại với tỉ lệ khác nhau. Cấu trúc chi tiết của các phân tử
ulvan từ các loài rong lục Ulva đã được các nhà khoa học công bố, bao gồm, kiểu
liên kết glycoside, sự sắp xếp các phân tử đường, cách phân nhánh và/hoặc kiểu
sulfate hóa. Các chuỗi oligosaccharide ulvan khác nhau này được tìm thấy trong
những polysaccharide có nguồn gốc từ các loài rong Ulva khác nhau, được giải
thích là do chúng bị tác động bởi các nhân tố sinh lý môi sinh làm ảnh hưởng đến
quá trình sinh tổng hợp của rong. Ví dụ, 2 mẫu ulvan từ rong lục Ulva rigida thu hái
được ở quần đảo Canary-Spain và Brittany-France, cùng có chung cấu trúc chuỗi
dạng -A3s-A3s-, -A3s-U3s-, -A3s-U2s,3s- ; khác nhau ở cấu trúc dạng -A3s-U3s-
U3s-, -A3s-U2s,3s-U3s-, và -A3s-U2s,3s-U3s-U3s- đối với mẫu xuất xứ từ quần
đảo Canary; còn mẫu từ Brittany chuỗi cấu trúc có dạng -A2g,3s-U3s và -A2g3s-
U2s,3s-. Trong đó U2s,3s là 2,3-disulfate ulvanobiose và A2g,3s gán cho dạng A
acid 3-sulfate ulvanobiouronic bị thế ở vị trí C-2 của Rha3S bởi một GlcA (Hình
1.5).
1.1.4.3. Các tính chất hóa lý của ulvan
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, ulvan có cấu trúc đa dạng là do thành phần
hóa học của ulvan rất phức tạp [45]. Tính đều đặn cục bộ của ulvan tự nhiên dựa
vào sự lặp lại của các đơn vị là A3s và B3s (Hình 1.5), tồn tại trong thời gian ngắn
gây ra sự tạo thành gel yếu [46]. Cấu trúc đều đặn của ulvan bền là do tương tác hút
và đẩy sinh ra giữa các nhóm chức của ulvan, đặc biệt là lực tĩnh điện. Ulvan là một
polymer mang điện do trong cấu trúc của nó chứa nhóm carboxylic và sulfate, độ
bền của ulvan phụ thuộc và pH và nồng độ ion trong dung dịch. Điện tích thực
trong ulvan tác động đến hình dạng của chuỗi polymer và điều khiển quá trình
chuyển từ dạng này sang dạng khác của chuỗi [45]. Về phương diện hóa học, khả
năng thay đổi hình dạng của ulvan là rất rõ ràng phụ thuộc vào hiệu lực tự nhiên của
các nhóm chức. Độ tan và hình thái học của ulvan tác động sâu đến khả năng phản
ứng của nó trong môi trường làm việc.
17
Ulvan được biết đến là chỉ tan trong nước và bản chất là có khả năng hút
nước cao. Tuy nhiên, dung dịch thu được không trong suốt, cho thấy dạng tập hợp
cực nhỏ của vật liệu polymer không phân tán hoàn toàn trong dung môi. Thực vậy,
khi phân tích mẫu ulvan trong dung dịch nước, người ta thấy sự có mặt của các tập
hợp dạng hình cầu được nối với nhau bởi các sợi rất nhỏ [47]. Sự có mặt nhóm
methyl ở rhamnose trong phân tử ulvan với hàm lượng lớn được cho là nguyên nhân
của tính chất kị nước khác thường của polysaccharide mang điện tích [47]. Tính
nhớt thấp khác thường của ulvan trong dung dịch cũng có thể bị quy cho là do các
tập hợp hình cầu bị cô đặc lại, không đặc trưng cho các polymer mang điện, hình
dạng của các tập hợp hình cầu tăng lên về thể tích dẫn đến tăng độ nhớt [48, 49]. Sự
hình thành các tập hợp siêu nhỏ trong dung dịch cũng không cho phép phân tích
được khối lượng chính xác của ulvan, dạng tập hợp khác nhau ảnh hưởng mạnh đến
sự phân bố peak, điều này thường biểu hiện rất rõ trên sắc đồ của phương pháp đo
sắc ký thẩm thấu gel GPC [49, 50].
Hình 1.6. Cơ chế tạo hydrogel của ulvan qua Ca2+: hoặc a) của borate ester hoặc
một phần của b) carboxylate hoặc một phần của c) sulfate [1, 51]
18
Ulvan còn có khả năng tạo gel trong nước giống với alginate, khả năng tạo
gel này đặc biệt liên quan đến tạo borate ester, điều kiện tối ưu cho sự tạo thành
hydrogel là khi có mặt của acid boric và ion calcium trong dung dịch với pH = 7,5,
hydrogel tạo thành với độ đàn hồi (storage modulus) khoảng 250Pa. Cơ chế của sự
tạo gel là không tạo mạng hoàn toàn, bắt nguồn từ việc tạo thành borate ester với
ulvan 1,2-diol tiếp theo bằng liên kết ngang qua ion Ca2+. Ion calcium sẽ làm cầu
nối của phức và/hoặc làm cho borate ester trở nên bền hơn (Hình 1.6.a), nhóm
sulfate và acid carboxylic cũng có thể tạo liên kết với ion Ca2+ (Hình 1.6.b,c) góp
phần vào quá trình tạo gel của ulvan [13, 51]. Cơ chế tạo hydrogel của ulvan qua
Ca2+ được mô tả ở Hình 1.6.
1.1.4.4. Hoạt tính sinh học và ứng dụng của ulvan
Các nghiên cứu chỉ ra rằng polysaccharide có hoạt tính sinh học quý báu là
do sự có mặt của nhóm sulfate trong phân tử [52]. Ulvan và các oligosaccharide của
nó là những sufate polysaccharide nên nó cũng thể hiện có hoạt tính sinh học phong
phú như khả năng chống oxy hóa [53, 54], chống đông tụ [55], kháng vi sinh vật
kiểm định [56] và tăng khả năng miễn dịch [57]. Thêm nữa, ulvan còn được biết
đến là có nhiều tác dụng sinh học khác như tác dụng hạ mỡ máu [58], giảm
cholesterol, giảm LDL-cholesterol, triglyceride máu, tăng HDL-cholesterol [59, 60],
điều chỉnh miễn dịch nên có thể sử dụng ulvan trong các trường hợp ghép phủ tạng
… Những hoạt tính nêu trên đã được các nhà khoa học chứng minh ở cả mô hình thí
nghiệm in vitro và in vivo. Do vậy, ulvan là hợp chất rất có giá trị cho khả năng sử
dụng vật liệu sinh học trong những lĩnh vực y sinh, và có thể phát hiện ra “chìa
khóa” để phát triển hoạt tính sinh học của ulvan.
1.1.4.4.1. Hoạt tính chống ô xy hóa
Những kết quả nghiên cứu hoạt tính sinh học của ulvan cho thấy, ulvan là
hợp chất có tác dụng chống oxy hóa rất tốt [61, 62], hoạt tính chống oxy hóa thể
hiện ở khả năng làm sạch gốc tự do superoxide, khả năng quét gốc hydroxyl và gốc
DPPH (1,1-diphenyl-2-picrylhydrazyl), khả năng oxy hóa tổng và khả năng khử sắt.
Khả năng chống oxy hóa của ulvan phụ thuộc chủ yếu vào thành phần và cấu trúc
hóa học của chúng, đặc biệt phụ thuộc vào khối lượng phân tử, thành phần sulfate
và sự phân bố nhóm sulfate trong phân tử [52]. Các nhà khoa học đã thành công khi
tăng hàm lượng sulfate trong phân tử ulvan bằng cách xử lý mẫu ulvan với sulphur
19
trioxide/N,N-dimethylformamide [63] hoặc điều chế các dẫn xuất của ulvan với
nhóm thế phù hợp (bằng cách acetyl hóa và benzoyl hóa) nhằm làm tăng hoạt tính
của ulvan tự nhiên [64].
Một số nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng hoạt tính chống oxy hóa của sulfate
polysaccharide tăng lên khi khối lượng phân tử của chúng tăng [65]. Sự ảnh hưởng
của hàm lượng sulfate đến hoạt tính chống oxy hóa của các sulfate polysaccharide
từ rong lục là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Ví dụ, các ulvan chiết tách từ rong Ulva
fasciata với hàm lượng sulfate khác nhau đã được thử hoạt tính chống oxy hóa trên
mô hình thí nghiệm in vitro; kết quả chỉ ra rằng các ulvan với hàm lượng sulfate
thấp biểu hiện hoạt tính cao hơn [66, 67]. Sự liên quan giữa thành phần sulfate và sự
phân hủy gốc superoxide có quan hệ tuyến tính, tuy nhiên, mối quan hệ giữa cấu
trúc và cơ chế chống oxy hóa cho tới nay vẫn chưa được làm sáng tỏ [68].
1.1.4.4.2. Hoạt tính chống đông tụ máu
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu hoạt tính chống đông tụ máu của các
ulvan chiết tách từ rong lục. Người ta thấy rằng, hoạt tính chống đông tụ máu của
ulvan phụ thuộc vào thành phần đường tự nhiên, vị trí nhóm sulfate và hàm lượng
sulfate trong phân tử [69, 70] và nhóm sulfate là yếu tố cần thiết cho hoạt tính
chống đông tụ máu [71]. Ngoài ra, khối lượng phân tử cũng là yếu tố quan trọng tác
động đến khả năng chống đông tụ máu của ulvan, những ulvan với khối lượng phân
tử lớn hơn có khả năng ức chế sự nghẽn mạch máu tốt hơn. Acid uronic không là
thành phần cần thiết cho hoạt tính chống đông tụ máu, nhưng nó có thể làm tăng
khả năng chống đông tụ máu thông qua việc cải thiện độ linh hoạt của chuỗi đường
[72, 73].
Các nhà khoa học đã chứng minh rằng ulvan có cấu trúc giống với heparin,
nó được dùng rộng rãi để ngăn chặn sự rối loạn nghẽn tĩnh mạch [74, 75].
Tầm quan trọng của việc tìm ra nguồn nguyên liệu tự nhiên có hoạt tính
chống đông tụ máu thay thế cho heparin đang rất được quan tâm là do khi sử dụng
heparin, gây nhiều tác dụng phụ liên quan đến miễn dịch và bệnh chuyển hóa, thêm
nữa quá trình tinh chế heparin phải qua nhiều bước rất phức tạp [76]. Vì vậy, đòi
hỏi liệu pháp điều trị chống đông tụ máu an toàn hơn là rất cần thiết. Do đó, sulfate
polysaccharide và ulvan có nguồn gốc tự nhiên sẽ là nguyên liệu được thay thế cho
heparin một cách rất hiệu quả và đáp ứng được yêu cầu an toàn.
20
1.1.4.4.3. Hoạt tính điều chỉnh hệ miễn dịch và chống ung thư
Những tài liệu nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, hầu hết các loại sulfate
polysaccharide phân lập được từ rong biển được biết đến đều thể hiện hoạt tính điều
chỉnh hệ miễn dịch ở động vật có vú, do chúng có khả năng làm tăng hiệu lực của
các bạch huyết cầu [77, 78].
Ulvan là điển hình cho các hợp chất có cấu trúc giống với sulfate
chondroitin, là một proteoglycan được tạo thành bởi bạch huyết cầu và bạch cầu
đơn nhân to của người ở những nơi dễ bị viêm [79, 80, 81], do đó ulvan có hoạt tính
điều chỉnh hệ miễn dịch tương tự sulfate chondroitin. Ulvan từ Ulva rigida đã được
công bố là có khả năng điều chỉnh hoạt động của bạch huyết cầu chuột và được
chứng minh là do trong thành phần của ulvan này có chứa các nhóm sulfate [16,
57]. Tác động tăng cường miễn dịch của sulfate polysaccharide từ rong lục chủ yếu
dựa trên sự thay đổi bạch huyết cầu. Một vài nghiên cứu trên thí nghiệm in vitro chỉ
ra rằng, sulfate polysaccharide từ rong lục thể hiện hoạt tính chống sự tăng sinh vô
hạn độ, ngăn chặn khối u phát triển trên chuột rất tốt ở vài dạng tế bào ung thư.
1.1.4.4.4. Hoạt tính hạ mỡ máu và chống độc cho gan
Ulva được biết đến là loại rong biển chứa thành phần dinh dưỡng tốt, có khả
năng chống lại sự thoái hóa do các enzym nội sinh, thường được dùng phối kết hợp
trong thực đơn của người bị bệnh béo phì, người đái tháo đường do thành
phần alga alkan mannitol trong rong biển cho một lượng calo rất thấp [54]. Người ta
cho rằng các nhóm mang điện trong phân tử ulvan có khả năng kết hợp với các acid
trong mật đã làm tăng sự bài tiết phân do đó đẩy mạnh sự suy giảm cholesterol
trong máu [60, 82-83]. Ulvan đã được chứng minh là có tác dụng làm giảm nồng độ
LDL-cholesterol trong huyết thanh và làm tăng bài tiết mật hàng ngày ở chuột [59,
84]. Tác dụng làm giảm cholesterol trong máu của ulvan phụ thuộc rất nhiều vào
khối lượng phân tử của chúng, các dẫn xuất của ulvan với khối lượng phân tử thấp
không làm giảm hàm lượng cholesterol trong huyết thanh nhưng làm cho những
động vật có hàm lượng mỡ cao trở về bình thường [60, 85].
1.1.4.4.5. Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định
Các nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng các sulfate polysaccharide từ
rong lục có khả năng ức chế đáng kể sự phát triển của các vi khuẩn Gram dương
(Gr (+)) và vi khuẩn Gram âm (Gr (-)), trong khi đó lại kích thích hệ thống miễn
21
dịch. Những nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng các sulfate polysaccharide từ rong
biển có khả năng ngăn chặn một số loại viêm nguy hiểm xuất hiện trong màng não,
một biến chứng nguy hiểm của viêm do virus và vi khuẩn [56]. Phát hiện trên thêm
gợi ý rằng các sulfate polysaccharide từ rong biển có khả năng diệt vi khuẩn trong
khi đó lại tăng cường hệ miễn dịch, đây là tính chất quý mà ít thuốc có được [77].
1.1.4.4.6. Hoạt tính kháng virus
Những năm gần đây, các sulfate polysaccharide từ rong lục được biết đến
như là nguồn những chất tự nhiên mới trong việc tìm ra thuốc chống virus. Các
nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các sulfate polysaccharide này có khả năng kháng virus
là do trong cấu trúc của chúng có chứa nhóm sulfate [86].
Hoạt tính kháng virus ở mô hình thí nghiệm in vitro của sulfate rhamnan
chiết tách từ rong lục Monostroma latissimum cũng đã được thử nghiệm, kết quả
cho thấy: Polysaccharide này thể hiện hoạt tính hỗ trợ chống HIV-1 [87]. Hoạt tính
chống virus HSV-1 của 11 sulfate polysaccharide tự nhiên từ 10 loài rong lục khác
nhau cũng đã được nghiên cứu, kết quả chỉ ra rằng, tất cả các sulfate polysaccharide
từ rong lục Enteromorpha compressa đều thể hiện hoạt tính chống virus HSV-1
mạnh với nồng độ IC50 (50% inhibitory concentrations) là 388,5 µg/mL [88, 89].
Một phân đoạn sulfate polysaccharide được phân lập từ rong lục Cornus racemosa
có khả năng chống virus HSV-1 và HSV-2 trên tế bào Vero với IC50 ở 2,2-
4,2µg/mL nhưng không gây độc với tế bào vật chủ [90].
Các tác giả [91] cũng chỉ ra rằng khả năng chống virus của các sulfate
polysaccharide phụ thuộc vào hàm lượng sulfate, vị trí nhóm sulfate, thành phần
đường và khối lượng phân tử.
1.1.4.4.7. Hoạt tính kháng viêm và giảm đau
Trên thế giới, các sulfate polysaccharide có nguồn gốc từ rong lục đã được
biết đến để làm thuốc kháng viêm và giảm đau, ulvan phân lập từ rong Ulva lactuca
là bằng chứng rõ ràng cho tính chất kháng viêm do tác dụng làm giảm phù nề ở
chuột sau 4 ngày thí nghiệm, nghiên cứu này đã công bố ở tạp chí Mar. Drugs 2014
[38]. Ở một nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra rằng, thành phần đường và sulfate cũng
như cấu trúc của ulvan ảnh hưởng tới khả năng kháng viêm [92, 93].
22
1.2. Các phương pháp nghiên cứu cấu trúc polysaccharide
1.2.1. Phương pháp sắc ký thẩm thấu gel GPC
GPC (Gel Permeation Chromatography) là một kỹ thuật sắc ký để phân tách
các phân tử kích thước lớn dựa trên sự rửa giải của chúng trên cột sắc ký. GPC có
thể xác định một vài thông số cấu trúc quan trọng bao gồm khối lượng phân tử trung
bình khối Mw, khối lượng phân tử trung bình số Mn, khối lượng phân tử trung bình
Mz và đặc trưng cơ bản nhất của một polymer là sự phân bố khối lượng phân tử của
nó (Mw/Mn). GPC được sử dụng để nghiên cứu các chất phân tử lớn như polymer
tổng hợp hay các polymer tự nhiên như polysaccharide. Ngoài việc cung cấp thông
tin về sự phân bố khối lượng phân tử, GPC cũng tách một hợp chất phân tử lớn
phức tạp thành các thành phần của nó như polymer, oligomer, monomer và các chất
phụ gia [94]
1.2.2. Phương pháp phổ hồng ngoại IR
Phương pháp phổ hồng ngoại là phương pháp vật lý được sử dụng rộng rãi
trong phân tích cấu trúc nói chung và phân tích cấu trúc các ionic polysaccharide
nói riêng. Phương pháp này mang đến những thông tin cấu trúc quan trọng để xác
định vị trí nhóm chức trong phân tử ionic polysaccharide [34, 95]. Phân tích phổ
hồng ngoại cho thông tin về các dao động của các liên kết điển hình trong cấu trúc
của phân tử polysaccharide: các băng sóng hấp thụ ở 820–850, 1220–1260 và 1640–
1650 cm 1 là đặc trưng cho dao động hóa trị của liên kết C–O–S của nhóm sulfate ở
vị trí axial, liên kết S=O của nhóm sulfate, và liên kết COO- của acid uronic, tương
ứng; các dải hấp thụ ở 3420–3450 và 1050–1070 cm 1 được gán cho dao động của
liên kết O–H và C– O–C, tương ứng [96, 97].
Phổ IR đã được áp dụng thành công để phân tích các polysaccharide như
pectin, hemicellulose, cellulose, tinh bột và các dẫn xuất polysaccharide từ rong
biển. Mặc dù việc sử dụng phương pháp phổ hồng ngoại đặc biệt hiệu quả khi xác
định vị trí của nhóm sulfate trong cấu trúc của polysaccharide nhưng chúng vẫn còn
một số hạn chế nhất định, đó là không xác định được dạng hỗn hợp
monosaccharide, vị trí liên kết của vòng glycoside cũng như sự khác nhau giữa hai
đồng phân quang học D, L của các gốc đường. Bảng 1.2 cho thông tin về các nhóm
đặc trưng của phổ IR trong phân tích polysaccharide [98, 99, 100].
23
Bảng 1.2. Một số nhóm đặc trưng của phổ IR của polysaccharide từ rong biển
Tần số (cm-1) Nhóm dao động Hình dạng Chất đặc trưng
3423 -OH hóa trị (có liên
kết H) Rộng, rất mạnh
Fucoidan, ulvan,
carrageenan
2936 -CH hóa trị Nhọn, trung bình Fucoidan, ulvan,
carrageenan
1630 COO- hóa trị của acid
uronic Nhọn, rất mạnh
Fucoidan, ulvan,
carrageenan
1235 S=O Nhọn, mạnh Fucoidan, ulvan,
carrageenan
1080 C-O-C hóa trị Nhọn, rất mạnh Fucoidan, ulvan,
carrageenan
842 nhóm sulfate tại vị trí
C-4 Nhọn, trung bình
Fucoidan, ulvan,
carrageenan
820 nhóm sulfate tại vị trí
C-2 và/hoặc C-3 Vai, trung bình
Fucoidan, ulvan,
carrageenan
1.2.3. Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMR
Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân là phương pháp hữu hiệu trong
nghiên cứu cấu trúc của polysaccharide, phổ NMR [101, 103] được thể hiện bằng
độ chuyển dịch hóa học (δ, ppm) với chất nội chuẩn (TPP, DSS…). Đặc trưng phổ
1H- và 13C-NMR của polysaccharide được thể hiện theo Hình 1.7.
Phổ 1H-NMR của polysaccharide có thể khẳng định độ tinh khiết của mẫu
(không có mặt của các tín hiệu các oligonucleotide, protein hay lipid) [12, 103]. Phổ
cũng có thể cho biết số monosaccharide từ số các tín hiệu cộng hưởng proton
anomer với độ chuyển dịch hóa học ở khoảng δ4,4-5,8 ppm. Như vậy dựa vào tỷ lệ
tích phân tương đối của các tín hiệu cộng hưởng ở vùng anomeric cũng có thể đánh
giá tỷ lệ phân tử của các monosaccharide. Về mặt này kết quả phân tích thành phần
hoá học của polysaccharide có thể phù hợp với kết quả phân tích phổ 1H-NMR. Dựa
vào phổ hai chiều đồng hạt nhân 1H-1H NMR, các nhóm thế có thể được xác định
hoặc dự đoán được sự có mặt của chúng. Tiếp theo, số lượng của các
24
monosaccharide có thể được khẳng định chính xác nhờ vào việc khảo sát vùng
anomeric của phổ 2 chiều dị hạt nhân 1H-13C-HSQC [13, 104].
Hình 1.7. (a) Phổ 1H-NMR của hỗn hợp liên kết (13)(14)-β-D-glucan; (b) Phổ
13C-NMR của hỗn hợp liên kết (13)(14)-β-D-glucan
So với tín hiệu cộng hưởng từ phổ 1H-NMR, phổ 13C-NMR thường có tín
hiệu yếu hơn nhưng nó có lợi thế hơn so với phổ 1H-NMR trong phân tích cấu trúc
polysaccharide là do độ dịch chuyển hóa học (δ) trong phổ 13C-NMR được trải rộng
trên thang đo (từ 0 ppm đến 200 ppm), nên đã khắc phục được hiện tượng chồng
chéo của các tín hiệu trên phổ 1H-NMR (thang đo chỉ từ 0-12 ppm). Thực vậy, trên
phổ 1H-NMR, độ dịch chuyển hoá học của proton anomer (δ4,4 – 5,8 ppm) được
tách biệt một cách không hoàn toàn rõ rệt khỏi các tín hiệu cộng hưởng ở các vị trí
nonanomeric proton (δ3,2 – 4,5 ppm) trong khi đó, trên phổ 13C-NMR, độ dịch
chuyển hóa học của các tín hiệu anomeric carbon (δ90–110 ppm) lại tách biệt rất rõ
và không hề trùng chập với các tín hiệu cộng hưởng của các nonanomeric carbon
25
(δ60 – 85 ppm). Với polysaccharide có nhóm de-oxygen như nhóm –CH3, tín hiệu
xuất hiện tại vùng trường cao hơn (δ15–20 ppm) [42, 96]
Bảng 1.3. Độ chuyển dịch hoá học δ (ppm) từ cơ sở dữ liệu SUGABASE của dạng
glucose và galactose [104]
Monosac
charide
H-1
C-1
H-2
C-2
H-3
C-3
H-4
C-4
H-5
C-5
H-6a
C-6
H-6b
-D-Glc 5,11 0,30
97,5 4.5
3.520,06
72,51,0
3,760,10
73,80,4
3,410,05
70,70,6
3,740,10
72,90,5
3,640,16
61,40,4
3,780,08
-D-Glc 4,840,46
102,92,4
3,310,05
74,11,1
3,550,07
76,31,4
3,510,13
70,41,0
3,550,09
76,01,3
3,770,05
61,51,0
3,940,05
-D-Gal 5,160,35
99,13,1
3,890,12
68,91,3
3,930,16
70,21,7
4,120,19
68,61,9
4,110,29
71,02,0
3,730,07
61,70,8
3,730,04
-D-Gal 4,680,26
103,52,4
3,530,17
71,72,1
3,800,16
73,51,7
4,080,18
67,92,0
3,740,20
75,51,1
3,740,05
61,80,7
3,740,05
Độ chuyển dịch hóa học của các proton anomer và carbon anomer của mỗi
monosaccharide đều được nhận biết riêng, phụ thuộc vào cấu hình hay : tín hiệu
- proton anomer sẽ xuất hiện tại vùng có độ chuyển dịch hóa học δ5–6 ppm trong
khi đó với - proton anomer là tại vùng δ4–5 ppm; tín hiệu của - carbon anomer
xuất hiện tại vùng δ95–100 ppm trong khi đó tín hiệu của hầu hết - carbon anomer
xuất hiện tại vùng δ100-105 ppm. Với polysaccharide có chứa thành phần acid
uronic, các tín hiệu của carbon trong nhóm carboxyl sẽ xuất hiện tại vùng δ170–180
ppm. Các tín hiệu của carbon bậc một có chứa nhóm hydroxyl như C-6 trong
pyranose và C-5 trong furanose sẽ chuyển dịch về vùng trường cao (δ60–64 ppm),
trong khi đó độ chuyển dịch hóa học của nguyên tử carbon bậc 2 có chứa nhóm
hydroxyl (C-2, 3, 4 trong pyranose và C-2, 3 trong furanose) sẽ xuất hiện tại vùng
26
δ65–85 ppm. Với nguyên tử carbon alkoylate (C-5 trong pyranose và C-4 trong
furanose) độ chuyển dịch hóa học sẽ chuyển về phía trường yếu với δ5–10 ppm
[105, 106, 107].
Trong phân tử polysaccharide, các vị trí được thế của monosaccharide được
gọi là vị trí aglycon, tương ứng với nguyên tử C ở các vị trí không phải anomer của
liên kết glycoside. Từ dữ liệu phổ NMR, vị trí liên kết được suy ra dựa trên sự tăng
mạnh (> + 3ppm) về độ dịch chuyển hoá học của 13C so với độ dịch chuyển hoá học
của các monosaccharide không thế. Trật tự các đơn phân trong mạch của
polysaccharide được xác định chính là chuỗi các liên kết glycoside, thể hiện thông
tin cấu trúc chính cần xác định thu được từ hai loại phổ HMBC và NOESY.
Một cách tổng quát về độ chuyển dịch hóa học của polysaccharide theo Hình
1.8
Hình 1.8. Độ dịch chuyển hóa học của các nhóm trong phân tử polysaccharide
27
1.2.4. Phương pháp phổ khối lượng MS
Cho đến tận những năm đầu của thập kỷ 80, việc làm thế nào để phân tích
các hợp chất cao phân tử bằng phương pháp phổ khối và làm cho khối phổ trở thành
detector mạnh trong kỹ thuật phân tích lỏng vẫn còn là một thách thức. Một thời
gian dài, ðối với các polysaccharide, phương pháp khối phổ chỉ có thể được áp dụng
sau khi đã có sự chuyển hoá hoá học. Trước hết, mẫu được thuỷ phân để tạo thành
các mono hoặc disaccharide, sau đó các tiểu phân này cần được methyl hoá để có
thể phân tích bằng GC/MS. Quá trình phân tích đòi hỏi nhiều thực nghiệm, tiêu tốn
thời gian và hoá chất, trong khi kết quả thu được chỉ cho biết gián tiếp về các đơn
phân hình thành nên mạch mà không cung cấp nhiều thông tin về trật tự liên kết, do
các đơn phân đã được methyl hoá nên có thể thông tin về nhóm thế của đơn phân sẽ
bị mất đi. Chính vì thế phương pháp phổ khối (MS) sử dụng kĩ thuật ion hoá thông
thường và chùm electron không phát huy sức mạnh đối với các mẫu polysaccharide.
Những vướng mắc về kĩ thuật ion hoá đối với các đại phân tử đã được giải
quyết nhờ sự ra đời gần như đồng thời của 2 kĩ thuật: ion hóa phun mù điện ESI
(Electro Spray Ionisation) và ion hóa khử hấp thụ nền laser MALDI (Matrix-
Assited Laser Desorption Ionisation). Đây là bước nhảy vọt về mặt kĩ thuật đã đưa
khối phổ thành một công cụ mạnh trong nghiên cứu các phân tử sinh học lớn, và nó
đã được trao giải Nobel 2002 cùng với những thành tựu về cộng hưởng từ hạt nhân.
Một ưu điểm của kĩ thuật ESI là đối với những phân tử lớn có nhiều trung tâm điện
tích thì tỷ số khối lượng/điện tích trở nên đủ nhỏ để cho phép chất có thể được phân
tích bằng các máy khối phổ thông thường. Cả hai phương pháp MALDI-TOF-MS
và ESI–MS đều đưa ra các mảnh có số khối m/z tương đương nhau và cung cấp
thông tin về cấu trúc polysaccharide, tuy nhiên phương pháp ESI–MS thì nhạy hơn
với ion có m/z nhỏ còn với phương pháp MALDI-TOF-MS thì tốt hơn với ion có
m/z lớn [108].
Theo các nghiên cứu [20, 109, 110] polysaccharide tự nhiên được thủy phân
(enzym hóa) thu được hỗn hợp oligosaccharide và được kiểm tra bằng phổ khối
MALDI-TOF-MS và phổ khối ESI–MS. Tuy nhiên hỗn hợp oligopolysaccharide
thường phức tạp và các mảnh có khối lượng mol tương đương nhau, do vậy việc xác
định cấu trúc hoàn chỉnh là rất khó, nhưng có thể khắc phục bằng cách sử dụng phổ
khối nhiều lần để nghiên cứu cấu trúc một cách hoàn chỉnh. Các nghiên cứu gần đây
28
đưa các dữ liệu trên phổ khối của polysaccharide như: nhóm khử cuối trong
oligosaccharide, các nhóm thay thế nhóm hydroxyl và vị trí liên kết glycoside của
oligosaccharide hoặc gán cho các mảnh oligosaccharide đã được xác định. Tuy
nhiên, quá trình biến tính hay phương pháp tạo dẫn xuất từ polysaccharide tự nhiên
(khử, thủy phân) cần thực hiện cẩn thận để không bị ảnh hưởng đến cấu trúc
polysaccharide và dẫn xuất (cấu trúc phụ thuộc vào quá trình khử, môi trường pH).
Hiện nay, phương pháp phổ khối lượng với kỹ thuật Tandem – MS là
công cụ rất hữu hiệu để phân tích cấu trúc chuỗi của polysaccharide [108],
bằng cách sử dụng hai hay nhiều hơn số lần phân tích trên một mẫu đo. Lần đầu
bằng cách sử dụng từ trường bắn phá chọn một ion muốn nghiên cứu từ hỗn hợp,
sau đó xem chi tiết các phân mảnh của ion được chọn này.
Cơ chế phân mảnh của cacbohydrate đã được Domon và Costello đề xuất
[111]. Sự phân mảnh của các oligosaccharides được diễn ra chủ yếu ở các vị trí
anomer hay ở các liên kết glycoside (Hình 1.10). Các ion mảnh tách ra được kí hiệu
là Ai, Bi, Ci và Xj, Yj , Zj, trong đó i và j là vị trí liên kết của ion mảnh tách ra tính
từ đầu không khử và đầu khử, tương ứng. Liên kết giữa carbon anomeric với oxy
được đánh số vị trí là 0.
O
OH
O H
O H
O H
O
O
HO H
O H
O H
O
O
HO H
O H
O HR
A 1 B 1 C 1
X 1
Y 1
Z 1
B 2
C 2
Y 2Z 2
Hình 1.9. Cơ chế phân mảnh của carbohydrate [111]
Như vậy, sự phân mảnh của các oligosaccharide nhìn chung chủ yếu diễn ra
ở các vị trí anomer hay ở các liên kết glycoside.
1.2.5. Phương pháp tán xạ tia X góc nhỏ SAXS
Hiện nay, các phương pháp tán xạ là rất hữu hiệu được các nhà khoa học ứng
dụng hiệu quả để nghiên cứu cấu trúc không gian của phân tử chất tan trong dung
29
dịch [33, 112], nguyên tắc của các phương pháp này là dựa vào đường cong tán xạ,
có thể biết được các thông số cấu trúc như trọng lượng, kích thước và hình dạng của
phân tử chất tan.
Các quá trình tán xạ đều tuân theo phương trình Bragg:
=dsin
Với d và là bước sóng của tia tới, kích thước của vật tán xạ và góc tán
xạ. Như vậy, với góc tán xạ nhỏ thì có thể nghiên cứu được phân tử lớn. Đường tán
xạ phản ánh sự phụ thuộc của cường độ tán xạ vào góc tán xạ.
Hình 1.10. Sơ đồ nguyên lý của một máy đo SAXS
Phương pháp SAXS [112, 113] với bước sóng nhỏ (λ = 0,154 nm) có thể đo
được các kích thước của phân tử ở kích thước cỡ nano, là phương pháp rất hữu hiệu
trong việc nghiên cứu kích thước, hình dạng của các chất ở kích thước nhỏ từ 1-100
nm trong dung dịch, dựa vào giá trị của bán kính từ hồi chuyển để xác định hình
dạng của phân tử chất tan. Ví dụ: với phân tử chất tan có dạng hình trụ đường tán xạ
biểu diễn bằng phương trình:
I(q) = exp (-q2R2gc/2)
Với Rgc là bán kính hồi chuyển của mặt cắt; I(q) là cường độ tán xạ và q là
biên độ của vector tán xạ. Rgc được xác định bởi độ dốc của đường ln(q.I(q)) và q2
– được gọi là “Guinier plot”, với điều kiện qRgc<1.
30
1.3. Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước liên quan đến
nội dung nghiên cứu của luận án.
1.3.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Hướng nghiên cứu về cấu trúc và hoạt tính sinh học của polysaccharide từ
rong biển đã và đang được các nhà khoa học trong nước quan tâm nghiên cứu
cập nhật theo xu hướng của các nước tiên tiến trên thế giới, bao gồm: chiết tách,
thử hoạt tính và biến tính để tìm các sản phẩm có hoạt tính cao hơn hay nghiên
cứu mối quan hệ cấu trúc-hoạt tính.
Nhóm nghiên cứu về vật liệu biển tại Viện Nghiên cứu & Ứng dụng công
nghệ Nha Trang, với lợi thế địa lý gần vùng biển, là nơi tập trung nhiều loài rong
biển đã có một số kết quả nghiên cứu về rong biển. Các nhà khoa học ở đây đã
thu thập, phân loại, chiết tách và xác định cấu trúc nhiều loại polysaccharide từ
rong biển có ứng dụng thực tế cao như agar, carrageenan, alginate hay fucoidan
[18, 114-117].
Tác giả Bùi Minh Lý và CS [99] đã sử dụng các phương pháp phổ NMR
và ESI-MS để nghiên cứu cấu trúc của fucoidan tách chiết từ rong nâu
Sargassum polycystum, kết quả cho thấy, cấu trúc bộ khung chính của fucoidan ở
đây có dạng α-L-fucose liên kết với nhau qua liên kết 1-3 và nhóm thế sulfate
nằm chủ yếu ở vị trí carbon C-2 và một phần ở vị trí carbon C-4. Tác giả Nguyễn
Duy Nhứt [98] với luận án tiến sĩ “Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh
học của polysaccharide từ một số loài rong nâu ở tỉnh Khánh Hòa” đã thành công
trong việc xác định cấu trúc của 2 phân đoạn fucoidan có và không có hoạt tính
kháng ung thư chiết tách từ rong nâu Sargassum swartzii và Sargassum polycystum,
bước đầu đã đề xuất mối quan hệ cấu trúc – hoạt tính kháng ung thư của fucoidan.
Tác giả Nguyễn Duy Nhứt [98] với luận án tiến sĩ “Nghiên cứu thành phần
hóa học và hoạt tính sinh học của polysaccharide từ một số loài rong nâu ở tỉnh
Khánh Hòa” đã thành công trong việc xác định cấu trúc của 2 phân đoạn fucoidan
có và không có hoạt tính kháng ung thư chiết tách từ rong nâu Sargassum swartzii
và Sargassum polycystum, bước đầu đã đề xuất mối quan hệ cấu trúc – hoạt tính
kháng ung thư của fucoidan.
31
Tác giả Thành Thị Thu Thủy và CS [113] đã nghiên cứu cấu trúc của
fucoidan từ rong nâu Turbinaria ornate thu thập ở Nha Trang – Việt Nam bằng
phương pháp phổ khố lượng với kỹ thuật ion hóa phun mù điện (ESI-MS) và kỹ
thuật tán xạ tia X góc nhỏ (SAXS), đây là cách tiếp cận mới trong việc nghiên
cứu cấu trúc polysaccharide nói chung, fucoidan nói riêng, bằng cách này cấu
trúc phức tạp của fuocidan đã được làm sáng tỏ. Các phương pháp ESI-MS và
SAXS cũng đã được tác giả và CS dùng để nghiên cứu cấu trúc của các fucoidan
khác từ rong nâu Sargassum crasifolium và Padina austrasis, trong nghiên cứu
này hoạt tính tăng cường hệ miễn dịch đường ruột của fucoidan cũng đã được
công bố [119].
Khi nghiên cứu cấu trúc của fucoidan có hàm lượng sulfate cao được phân
lập từ rong nâu Sargassum polycystum bằng sắc ký trao đổi ion, tác giả Bilan, và CS
[99, 120] bằng phương pháp NMR và ESI-MS đã chỉ ra rằng, sự phân bố các mảnh
galactose dọc theo mạch chính dường như khá phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến cấu
trúc không gian và hoạt tính sinh học của polysaccharide.
Tác giả Trần Vĩnh Thiện [121] với luận án tiến sĩ “Điều chế, khảo sát cấu
trúc và tính chất của alginate và oligosaccharide tách từ rong mơ khu vực Bắc Hải
Vân và ứng dụng của chúng” đã thành công trong việc khảo sát chi tiết ảnh hưởng
của các yếu tố đến tỷ lệ tách và khối lượng phân tử trung bình của alginate từ rong
mơ khu vực Bắc Hải Vân theo quy trình acid, cũng như cấu trúc của các alginate
thu được.
Tác giả Hồ Đức Cường [100] đã bảo vệ thành công luận án tiến sỹ hóa học
năm 2014 với đề tài “Nghiên cứu cấu trúc và khảo sát hoạt tính sinh học của
fucoidan và alginate từ hai loài rong nâu Sargassum henslowianum và Sargassum
swartzii của Việt Nam”, tác giả đã thành công trong việc xác định cấu trúc hóa học
bằng các phương pháp phổ như IR, NMR, MS và cấu trúc không gian bằng phương
pháp LS, SAXS của fucoidan và alginate chiết tách từ rong nâu Sargassum
henslowianum và Sargassum swartzii, 2 focuidan nghiên cứu có tác dụng hạ mỡ máu
trên mô hình động vật béo phì.
Tác giả Phạm Đức Thịnh [118] với luận án tiến sỹ hóa học “Nghiên cứu
phân tích cấu trúc, thành phần và hoạt tính của fucoidan từ rong biển Việt Nam” đã
32
phân tích được thành phần hóa học của fucoidan từ 8 loài rong nâu phổ biến nhất ở
Việt Nam S. oligocystum, S. denticapum, S. swartzii, S. polycystum, S. mcclurei,
Padina australis và Turbiaria ornata; tác giả đã thành công trong việc sử dụng các
phương pháp phổ IR, NMR cùng với việc kết hợp 2 kỹ thuật MALDI-TOF/MS/MS
và ESI-MS/MS để nghiên cứu cấu trúc của các mẫu fucoidan trong luận án.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về rong lục đã được một số nhà khoa học tiến
hành. Tuy nhiên các nghiên cứu hầu hết mới chỉ tập trung vào việc phân loại, đánh
giá trữ lượng, điều kiện sinh thái, khai thác rong [6, 7, 9, 122]. Kết quả nghiên cứu
cho thấy: tại 10 đảo thuộc quần đảo Trường Sa, các nhà khoa học đã xác định được
255 loài rong biển, trong đó, rong Lục có 69 loài chiếm 27,0%; vùng triều ven biển
một số tỉnh (Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng
Bình) phát hiện được 45 loài rong biển, trong đó rong Lục (Chlorophyta) có 16 loài
chiếm 35,5%.
Tác giả Đặng Diễm Hồng và CS [123] đã nghiên cứu các thành phần dinh
dưỡng của một số loài rong trong đó có rong lục Ulva reticulata. Kết quả chỉ ra
rằng, các loài rong biển nghiên cứu rất giàu protein, lipid (đặc biệt là các acid béo),
các vitamin và các nguyên tố đa lượng và vi lượng. Trong nghiên cứu này, tác động
sinh lý học của dịch chiết từ rong lục Ulva reticulata lên sự chuyển hóa acid béo ở
gan cũng được kiểm tra trên chuột. Nhóm nghiên cứu này cũng nghiên cứu hoạt
tính kháng viêm và giảm đau trên động vật của dịch chiết methanol từ một số loài
rong biển sinh trưởng ở biển Việt Nam, trong đó có loài rong lục Ulva reticulata
với liều 500 mg/kg trọng lượng cơ thể. Kết quả cho thấy dịch chiết của rong lục này
thể hiện tác động làm giảm đau và kháng viêm mà không có tác động độc tính nào
kể cả ở liều cao, kết quả này củng cố thêm sự khẳng định rằng có thể sử dụng rong
biển này làm nguồn nguyên liệu sản xuất thuốc điều trị kháng viêm [124].
Cho đến nay, chưa có một công bố nào về qui trình chiết tách, thành phần,
cấu trúc hóa học, hoạt tính sinh học của polysaccharide từ các loài thuộc ngành
rong lục nói chung và chi Ulva nói riêng.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Trên thế giới, các polysaccharide từ rong biển như carrageenan từ rong
đỏ, fucoidan từ rong nâu và ulvan từ rong lục cùng được quan tâm nghiên cứu,
33
trong đó ulvan từ rong lục đã được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu từ
những năm 1950. Thời gian đầu, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc chiết
tách và xác định thành phần đường trong ulvan từ các loài rong lục khác nhau.
Brading [125] và Percival [126] đã xác định sulfate, rhamnose, xylose, và acid
glucuronic là các thành phần hóa học có trong ulvan. Tuy nhiên, phải đến năm
1997, Quemener và CS [40], nhờ vào phương pháp cắt mạch hóa học kèm
enzym, mới phát hiện ra acid iduronic cũng là một đơn vị đường trong ulvan.
Các tác giả cũng khẳng định rằng, thành phần đường, tỉ lệ đường đơn, hàm lượng
sulfate trong ulvan phụ thuộc rất nhiều vào loài rong, vị trí địa lý nơi rong thu
hái và thời điểm thu hái.
Ảnh hưởng của việc xử lý rong tươi (như làm khô trong không khí, trong
tủ đông lạnh, giữ trong dung môi và hỗn hợp dung môi hữu cơ…) đến hiệu suất
chiết, tính chất hóa lý và lưu biến của ulvan từ rong lục Ulva rotundata đã được
Robic và Lahaye nghiên cứu [71].
Nhiều phương pháp khác nhau đã được sử dụng để chiết tách ulvan từ rong
lục dựa vào tính tan được trong nước của nó. Các phương pháp chiết tách ulvan từ
rong lục được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu gồm chiết bằng
dung môi nước [1, 14, 127-130], acid [96, 131]và kiềm [13, 47, 49]; trong đó,
phương pháp chiết bằng dung môi nước được sử dụng nhiều nhất.
Hela Y và CS [131] đã nghiên cứu ảnh hưởng của điều kiện chiết tách đến
hiệu suất chiết và tinh chế ulvan từ rong lục Ulva lactuca bằng dung môi acid. Kết
quả chỉ ra rằng các yếu tố như pH, thời gian chiết và nhiệt độ chiết đều ảnh hưởng
đến hiệu suất chiết tách và độ tinh khiết của ulvan.
Các nghiên cứu của Lahaye [13] và Robic [47, 49] đã chiết ulvan bằng cách
đun bột rong khô trong dung dịch natri oxalate ở nhiệt độ khoảng 80º-90ºC, sau đó
kết tủa bằng methanol thu được ulvan. Kết quả cho thấy, hàm lượng của ulvan là
khoảng 8%-29% trọng lượng của rong khô, tùy thuộc vào loài rong, vị trí thu
mẫu và phương pháp chiết tách. Những kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các
điều kiện chiết tách như dung môi (acid, nồng độ dung dịch natri oxalate, nước),
nhiệt độ và thời gian chiết đến hiệu suất chiết tách, thành phần và tỉ lệ các đường
trong ulvan, khối lượng phân tử và phân bố khối lượng phân tử, cấu trúc ulvan cho
thấy có sự phụ thuộc rất lớn của các yếu tố này vào phương pháp chiết tách.
34
Tác giả Lerio và CS đã chiết tách ulvan từ rong lục Ulva rigida bằng dung
môi acid, thu được ulvan có thành phần chủ yếu được tạo thành từ các disaccharide
bao gồm GlcA và Rha sulfate. Trong nghiên cứu này, các tác giả cũng đã chứng
minh rằng, nhóm sulfate có trong thành phần phân tử ulvan từ rong lục Ulva rigida
đóng vai trò quan trọng, quyết định đến hoạt tính chống khối u của phân tử ulvan.
Thí nghiệm cho thấy tác động chống khối u của ulvan giảm đáng kể sau khi các
ulvan bị khử sulfate [57].
Qi và CS đã có nhiều công trình nghiên cứu [83, 84] về ulvan từ rong lục
Ulva pertusa và những dẫn xuất của chúng, ví dụ như các acetylate ulvan (AUs) và
các ulvan có hàm lượng sulfate cao (HUs), để đánh giá hoạt tính hạ mỡ máu. Hoạt
tính hạ mỡ máu có sự khác nhau rõ ràng giữa ulvan tự nhiên và các dẫn xuất của
chúng đã được quan sát.
Costa, Alves và CS [127] đã chiết tách ulvan từ rong lục Ulva lactuca bằng
dung môi nước, mẫu ulvan thu được được đo khối lượng phân tử, xác định thành
phần hóa học và phân tích cấu trúc bằng phương pháp phổ NMR. Kết quả cho thấy,
mẫu ulvan thu được được tạo thành bởi các thành phần chính là rhamnose (22,4%),
acid glucuronic (22,5%), xylose (3,7%), acid iduronic (3,1%) và glucose (1,0%);
hàm lượng sulfate trong phân tử ulvan cũng rất cao (32,2%); khối lượng phân tử của
ulvan chiết tách được là rất cao (790 000 g/mol). Cấu trúc của phân tử sulfate
polysaccharide từ rong lục Ulva lactuca được tạo thành chủ yếu bởi disaccharide
acid 3-sulfate ulvanobiuronic dạng A3s: [→4)-β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S-(1→]
và một lượng nhỏ của acid 3-sulfate ulvanobiuronic dạng B3s: [→4)-α-L-IdoA-
(1→4)-α-L-Rha3S-(1→].
Wenjun Mao và CS [128, 132] đã thu thập và chiết tách ulvan từ Ulva
conglobuta ở 3 vị trí địa lí khác nhau là Quingdao, Yantai và Rizhao bằng dung
môi nước và khảo sát hoạt tính chống đông tụ máu của chúng. Kết quả nghiên
cứu cho thấy ulvan tách từ rong biển ở vùng biển Quingdao có hàm lượng sulfate
cao nhất và có hoạt tính chống đông tụ máu tốt nhất.
Masakuni Tako và CS [96] đã thành công trong việc xác định cấu trúc hóa
học của ulvan từ rong lục Ulva pertusa thu thập ở vùng biển Okinawa – Nhật Bản,
bằng các phương pháp phổ IR và NMR. Tác giả đã khẳng định rằng các chuỗi liên
35
kết glycoside có dạng sau: α-D-GlcA hoặc α-L-IdoA-[(1→3)-α-L-Rha-(1→4)-α-
L-Rha, (1→4)-α-L-Rha-(1→4)-α-L-Rha-(1→4)-α-L-Rha-(1→4)-β-D-Xyl. Sự
phân nhánh ở các chuỗi liên kết thường xảy ra ở vị trí C-2 của liên kết (1→4)-α-
L-Rha là β-D-GlcA; tác giả cũng khẳng định nhóm sulfate nằm ở vị trí C-3 và C-
2 của rhamnose; ở vị trí C-3 của xylose, chuỗi liên kết trong cấu trúc của ulvan có
dạng như ở Hình 1.11 dưới đây.
Hình 1.11. Cấu trúc hóa học của ulvan từ rong lục Ulva pertusa
Tác giả Qi và CS đã sử dụng dung môi nước để chiết tách ulvan từ rong
lục Ulva pertusa, sau đó điều chế các dẫn xuất của ulvan tự nhiên này bằng cách
acetyl hóa và benzoyl hóa với khối lượng phân tử khác nhau, sau đó thử hoạt
tính chống oxy hóa trên mô hình thí nghiệm in vitro. Kết quả cho thấy, những
mẫu ulvan bị acetyl hóa và benzoyl hóa thể hiện hoạt tính chống oxy hóa cao
hơn mẫu ulvan tự nhiên, điều này đã chứng minh rằng khi thay đổi cấu trúc hóa
học ulvan tự nhiên thì hoạt tính chống oxy hóa sẽ tăng lên; khối lượng phân tử
ulvan cũng ảnh hưởng đáng kể tới hoạt tính chống oxy hóa của chúng, ulvan với
khối lượng phân tử thấp có hoạt tính cao hơn ulvan có khối lượng phân tử cao.
Trong những nghiên cứu khác, các tác giả trên cũng đã điều chế các dẫn xuất
sufate của ulvan tự nhiên với các hàm lượng sulfate khác nhau, kết quả thử hoạt
tính cho thấy: các mẫu có hàm lượng sulfate khác nhau thể hiện hoạt tính chống
oxy hóa khác nhau, ulvan với hàm lượng sulfate cao hơn ulvan tự nhiên thể hiện
hoạt tính chống oxy hóa cao hơn [63-65, 133]. Hoạt tính gây độc tế bào cũng đã
được Qi nghiên cứu trên chuột với các ulvan từ rong lục Ulva pertusa, kết quả
cho thấy, chúng thể hiện khả năng gây độc tế bào rất tốt [134].
Lahaye, Robic và các CS là nhóm nghiên cứu rất mạnh về cấu trúc của
ulvan trên thế giới hiện nay. Phương pháp chủ yếu mà các tác giả sử dụng để
36
nghiên cứu cấu trúc ulvan là phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân. Các công
trình của nhóm nghiên cứu này cho thấy rằng cấu trúc ulvan rất phức tạp và phụ
thuộc nhiều vào loài rong nghiên cứu [97, 105, 106]. Các tác giả cũng đã quan
tâm đến các sulfate đường hiếm như 3-sulfate rhamnose và 2-sulfate xylose
trong ulvan và cho rằng: Rhamnose, thành phần chủ yếu của ulvan, được sử dụng
như là tiền chất để tổng hợp các hợp chất thơm tạo tiền đề cho khả năng ứng
dụng rhamnose trong lĩnh vực công nghiệp dược phẩm.
Ulvan là sulfate polysaccharide có điện tích cao, tan được trong nước và
được tạo bởi các thành phần chủ yếu là rhamnose, acid glucuronic, acid iduronic,
xylose và nhóm sulfate để tạo thành mạch polymer sinh học với disaccharide
chính là acid 3-sulfate ulvanobiuronic dạng A (β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S →1)
và acid 3-sulfate ulvanobiuronic dạng B (α-L-IdoA-(1→4)-α-L-Rha3S →1)
(Hình 1.5) [38].
Lahaye, Robic và các CS [105, 107] đã nghiên cứu cấu trúc của ulvan từ
rong lục Ulva rigida bằng cách thủy phân tạo oligosaccharide và desulfate hóa.
Cấu trúc hóa học và chuỗi đường của những oligomer này được xác định bằng
phổ NMR. Tác giả đã khẳng định rằng các chuỗi liên kết glycoside có dạng sau:
α-L-Rha-(1→4)-D-Xyl, β-D-GlcA-(1→2)-α-L-Rha-(1→4)-D-Xyl, β-D-GlcA-
(1→4)-α-L-Rha3S, β-D-GlcA-(1→4)-[β-D-GlcA-(1→2)]-α-L-Rha-(1→4)-D-Xyl
và β-D-GlcA-(1→4)-[β-D-GlcA-(1→2)]-α-L-Rha. Sự phân nhánh ở các chuỗi
liên kết thường xảy ra ở vị trí carbon C-2 của liên kết (1→4)-α-L-Rha là β-D-
GlcA; tác giả cũng khẳng định lại rằng nhóm sulfate nằm ở vị trí carbon C-3 của
rhamnose. Các nghiên cứu sau đó cho thấy các liên kết glycoside và vị trí sulfate
này trong cấu trúc ulvan là phổ biến cho các loài Ulva khác nhau.
You S.G và CS [135] đã chiết tách ulvan từ rong lục Ulva pertusa ở biển
Hàn Quốc bằng dung môi nước, sau đó sử dụng các phương pháp GC/MS và
NMR để xác định cấu trúc của ulvan thu được. Các tác giả đã khẳng định rằng,
mạch chính của phân tử ulvan được tạo thành bởi liên kết của α-(1→4)-L-
rhamnose hoặc β-(1→4)-D-acid glucuronic với β-(1→2)-L-rhamnose và β-
(1→4)-D-xylose, sự phân nhánh ở vị trí carbon C-2 của (1→4)-rhamnose và
nhóm sulfate hầu hết được tìm thấy trên acid glucuronic ở vị trí carbon C-3.
37
Hanaa và CS [136] đã nghiên cứu chiết ulvan từ loài rong lục Ulva lactuca,
kết quả phân tích thành phần bằng HPLC chỉ ra rằng, ulvan chiết tách được có
thành phần chính gồm rhamnose, xylose, acid glucouronic và sulfate cùng lượng
nhỏ mannose và fucose. Kết quả thử hoạt tính sinh học cho thấy: các ulvan đều thể
hiện hoạt tính chống oxy hóa, chống đông tụ máu tốt; có khả năng kháng virus cúm
HSV-1 cao, đều thể hiện hoạt tính gây độc tế bào trên cả 2 dòng tế bào ung thư là
ung thư vú (MCF7) và ung thư gan (HepG2) với IC50=0,54 µg/ml và 9,22 µg/ml,
tương ứng.
Lahaye Marc [107] đã nghiên cứu thành phần và cấu trúc của 2
oligosaccharide từ loài rong lục Ulva rigida được thu thập từ 2 vùng biển khác nhau
(Tây Ban Nha và Pháp). Kết qủa chỉ ra rằng thành phần đường của 2 ulvan tách
chiết được là giống nhau nhưng với tỷ lệ khác nhau; cấu trúc hóa học và chuỗi
polysaccharide trong 2 phân tử ulvan được nghiên cứu bằng phương pháp phổ
NMR, kết quả đã khẳng định rằng, cả 2 ulvan đều có cấu trúc mạch chính dạng acid
3-sulfate ulvanobiuronic dạng A3s [→4)-β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha 3-sulfate-(1→]
nhưng chúng khác nhau ở mạch nhánh và vị trí phân nhánh. Như vậy, thành phần và
cấu trúc của ulvan từ cùng một loài rong phụ thuộc vào vị trí địa lý nơi rong sinh
sống.
Như vậy, qua tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, ở Việt Nam các
polysaccharide từ rong lục còn chưa được nghiên cứu. Các nghiên cứu trên thế
giới cho thấy ulvan từ các loài rong lục có cấu trúc rất đa dạng và có hoạt tính
sinh học phong phú. Trong nghiên cứu cấu trúc của ulvan từ các loài rong lục,
các tác giả hầu hết mới chỉ tập trung khai thác phương pháp phổ như phổ hồng
ngoại, phổ cộng hưởng từ hạt nhân mà chưa thấy có tài liệu nào ứng dụng
phương pháp phổ khối lượng hay các phương pháp vật lý hiện đại khác như
phương pháp tán xạ ánh sáng hay tán xạ tia X góc nhỏ để nghiên cứu cấu trúc
ulvan.
38
CHƯƠNG 2. THỰC NGHIỆM
2.1. Chuẩn bị mẫu nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là ulvan có hoạt tính sinh học chiết tách từ
2 loài rong lục thuộc chi Ulva phổ biến ở vùng biển Nha Trang của Việt Nam là
Ulva reticulate và Ulva lactuca. .
2.1.1. Thu thập và định danh rong
Các mẫu rong lục thu thập được dùng để chiết ulvan được thu hái tại vùng
biển Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, tháng 4/2014 bao gồm 2 loài sau:
+ Rong lục Ulva reticulata
+ Rong lục Ulva lactuca
Rong lục Ulva lactuca
Rong lục Ulva reticulata
Hình 2.1. Hình ảnh của mẫu rong nghiên cứu
39
Các mẫu rong lục được định danh bởi TS. Lê Như Hậu (Viện Nghiên cứu và
Ứng dụng công nghệ Nha trang). Tiêu bản của 2 mẫu rong nghiên cứu được lưu trữ
tại Viện Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ Nha Trang và Viện Hóa học với kí
hiệu UR-14 (Ulva reticulata) và UL-14 (Ulva lactuca). Sau khi thu hái, 2 mẫu rong
lục được rửa sạch bằng nước biển để loại các chất bẩn cơ học, sau đó rửa nhanh
dưới vòi nước máy và phơi trong bóng râm. Rong được sấy khô trong tủ sấy tại
nhiệt độ 50ºC. Rong khô được nghiền thành bột và bảo quản ở nhiệt độ phòng.
2.1.2. Phân tích thành phần hóa học của rong
2.1.2.1. Phương pháp xác định thành phần hóa học của rong
Phân tích độ ẩm, hàm lượng tro, protein thô, chất béo thô, carbohydrate theo
phương pháp của Hiệp hội phân tích Mỹ AOAC [137].
a) Xác định độ ẩm của rong:
- Nguyên tắc của phương pháp xác định độ ẩm: dùng nhiệt để làm bay hơi
nước có trong mẫu. Từ chênh lệch khối lượng mẫu trước và sau khi sấy, tính được
độ ẩm của mẫu.
- Thực nghiệm: Cân khoảng 5g mẫu vào trong đĩa đáy bằng, sấy ở nhiệt độ
100º-1100C tại áp suất khí quyển và sấy đến khối lượng không đổi. Độ ẩm của mẫu
được tính theo công thức:
khối lượng mẫu trước sấy (g) - khối lượng sau sấy (g) Độ ẩm (%) = x 100
khối lượng mẫu trước sấy (g)
Ở mẫu rong nghiên cứu, chúng tôi xác định được độ ẩm của rong là 8%.
b) Hàm lượng tro:
- Nguyên tắc của phương pháp xác định hàm lượng tro: Mẫu được nung ở
nhiệt độ 550º - 600°C để nung cháy hoàn toàn các chất hữu cơ, đem cân phần tro
của mẫu sau khi nung và tính ra phần trăm tro có trong mẫu.
- Tiến hành thí nghiệm: Nung chén sứ đã rửa sạch ở lò nung 550º – 600°C
đến khối lượng không đổi. Để nguội ở bình hút ẩm và cân ở cân phân tích chính xác
đến 0,0001g. Cho vào chén sứ khoảng 5g mẫu. Cân tất cả ở cân phân tích với độ
chính xác như trên, cho tất cả vào lò nung và nâng nhiệt độ từ từ cho đến 550º –
600°C. Nung cho đến tro trắng, nghĩa là đã loại hết các chất hữu cơ, thường khoảng
40
6 - 7 giờ. Trường hợp còn tro đen, lấy ra để nguội, cho thêm vài giọt H2O2 hoặc
HNO3 đậm đặc và nung lại đến tro trắng.
Để nguội trong bình hút ẩm và cân đến độ chính xác như trên. Tiếp tục nung
thêm ở nhiệt độ như trên trong 30 phút rồi để nguội trong bình hút ẩm và cân cho
đến khối lượng không đổi.
- Tính toán kết quả: Hàm lượng tro theo % được tính theo công thức:
X = ((G2 - G)/(G1 - G)) × 100
Trong đó G: khối lượng chén (g)
G1: khối lượng chén và mẫu trước khi nung (g)
G2: khối lượng chén và mẫu sau khi nung (g)
c) Protein thô:
Lượng nitơ có trong mẫu được xác định bằng phương pháp micro-Kjeldahl,
được tiến hành như sau: Cân khoảng 2g mẫu rong khô, cho vào bình cầu 100ml, cho
thêm vào 30ml dung dịch H2SO4 đậm đặc, tiếp theo 10g K2SO4 và 1g CuSO4.5H2O.
Hỗn hợp này được đun nhẹ cho đến khi hết sủi bọt thì đun tăng mạnh nhiệt độ lên.
Khi dung dịch chuyển thành không màu hoặc trong suốt, tiếp tục đun thêm 1 giờ
nữa, để nguội, pha loãng với nước cất và chuyển vào bình Kjeldahl 800ml. Thêm
vào 100ml dung dịch NaOH 40%, lắp bình với hệ thống chưng cất, bình hứng có 25
ml dung dịch H2SO4 0,1N và tiến hành chưng cất. Khi hai phần ba lượng chất lỏng
đã được cất, kiểm tra xem phản ứng đã xảy ra hoàn toàn chưa. Bình hứng được lấy
ra chuẩn độ với dung dịch KOH 0,1N. Khi đó, lượng protein thô được tính theo
công thức sau:
Protein = Nitơ x 6,25
d) Hàm lượng lipid:
Hàm lượng lipid trong mẫu được phân tích theo phương pháp của Bligh và CS
(1959) [138]. Cân chính xác 2 g rong khô, cho vào bình cầu 100ml. Thêm vào 20ml
methanol và 10ml chloroform, lắc kỹ. Sau đó thêm 10ml chloroform, tiếp tục lắc kỹ
rồi thêm 10ml nước cất, tiếp tục lắc mạnh, lọc bỏ bã. Dịch lọc được ly tâm với tốc
độ quay 1000 vòng/phút trong 5 phút ở nhiệt độ phòng. Dịch sẽ được tách thành hai
pha, tách bỏ pha nước, thu pha hữu cơ và cất quay loại dung môi trên máy cất quay
chân không ở nhiệt độ 60°C. Quá trình tách chiết được thực hiện 3 lần cho đến khi
41
thu được toàn bộ lượng chất béo thô trong mẫu rong nghiên cứu, làm khô sản phẩm
bằng nitơ lỏng, đưa vào bình hút ẩm đến khối lượng không đổi.
e) Phân tích tổng carbohydrate
Được xác định bằng phương pháp phenol-acid sulfuric [139]. Hỗn hợp gồm
1ml dung dịch mẫu có nồng độ khoảng 0,1 mg/ml được cho vào ống so màu, thêm
1ml phenol 4,0%, 5,0 ml acid H2SO4 đậm đặc 95,5% (d=1,84g/ml) và lắc mạnh, sau
đó để yên 10-20 phút. Sau đó, hỗn hợp được đo mật độ quang tại bước sóng 490
nm. Dung dịch chuẩn được dùng là glucose hoặc galactose.
3.1.2.2. Kết quả về thành phần hóa học của rong
Thành phần hóa học chính của rong bao gồm protein, lipid, sulfate,
carbohydrate và tro, các thành phần này bị ảnh hưởng rất lớn bởi môi trường nơi
rong sinh sống. Kết quả nghiên cứu về thành phần chính của 2 loại rong Ulva
reticulata và Ulva lactuca thu hái ở vùng biển Nha Trang – Khánh Hòa của Việt
Nam được tóm tắt trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Thành phần hóa học của rong (% trọng lượng rong khô)
Rong lục Protein Lipid Tro Sulfate Carbohydrate
Ulva reticulata 9,1 0,5 23,6 4,2 14,2
Ulva lactuca 7,75 0,5 20,7 3,4 6,7
Kết quả phân tích thành phần hóa học của 2 mẫu rong nghiên cứu cho thấy,
hàm lượng protein dao động từ 7,75 đến 9,1%, hàm lượng lipid <1% và hàm lượng
tro từ 20-24%. So sánh với các tài liệu đã công bố trên thế giới [43, 44] hàm lượng
protein có trong rong lục từ 10 đến 47%, hàm lượng tro dao động từ 20 đến 40% và
hàm lượng lipit < 4%. Như vậy, rong biển sinh trưởng tại vùng biển Nha Trang –
Khánh Hòa nhìn chung có hàm lượng protein nhỏ hơn, hàm lượng tro và lipit là
tương đương so với các nghiên cứu trên. Hàm lượng sulfate và carbohydrate trong 2
mẫu rong nghiên cứu tương ứng là từ 3,4-4,2% và 6,7-14,2%. So sánh với kết quả
nghiên cứu trên thế giới thì 2 loài rong lục Ulva reticulata và Ulva lactuca của Việt
Nam có hàm lượng sulfate và carbohydrate thấp hơn [12, 13, 140, 141]. Điều đó
42
một lần nữa khẳng định vị trí địa lý nơi rong sinh trưởng rất ảnh hưởng đến thành
phần hóa học của rong.
2.1.3. Chiết tách và tinh chế ulvan
Trước khi tiến hành chiết ulvan, mẫu rong lục được loại chất màu và các chất
hữu cơ có khối lượng phân tử thấp như sau: Dùng lượng ethanol phù hợp cho vào
một lượng bột rong lục, khuấy mạnh rồi ngâm ở nhiệt độ phòng qua đêm. Hỗn hợp
được lọc để loại dung môi, tiếp tục cho ethanol vào và khuấy mạnh, bước này lặp
lại 3 lần. Sấy chân không đến khối lượng không đổi thu được mẫu bột rong dùng để
chiết ulvan.
Sau khi nghiên cứu tham khảo các quy trình và điều kiện chiết tách ulvan từ
rong lục mà các tác giả đã công bố, chúng tôi đã khảo sát và đưa ra các quy trình để
chiết tách ulvan từ 2 loại rong lục thu thập được như sau:
2.1.3.1. Quy trình chiết ulvan bằng dung môi nước:
Ngâm chiết 20 g bột rong trong 400 ml dung dịch nước ở nhiệt độ 80º-90ºC
trong 2h. Lọc lấy dịch chiết. Bã rong được chiết tiếp lần 2 ở điều kiện như trên. Gộp
dịch chiết trong 2 lần, ly tâm lấy dịch trong, sau đó, cô quay cho đến khi thể tích
còn khoảng 100 ml, thêm tiếp cồn tuyệt đối vào để kết tủa ulvan (Vcồn:Vdịch = 4:1).
Gạn lọc rồi ly tâm lấy tủa, rửa tủa nhiều lần bằng cồn 96º. Sấy tủa ở 60°C đến khối
lượng không đổi thu được ulvan thô. Ký hiệu UR-N, UL-N [127-129].
2.1.3.2. Quy trình chiết bằng dung môi acid:
Ngâm chiết 20 g bột rong trong 400 ml dung dịch acid HCl 0,05-0,1N ở
nhiệt độ 90ºC trong 2h. Lọc lấy dịch chiết. Bã rong được chiết tiếp lần 2 ở điều kiện
như trên. Gộp dịch chiết trong 2 lần, trung hòa dịch chiết bằng dung dịch NaOH
0,1N rồi ly tâm lấy dịch trong, sau đó cô quay cho đến khi thể tích còn khoảng 100
ml, thêm cồn tuyệt đối vào để tủa ulvan (Vcồn:Vdịch = 4:1). Gạn lọc rồi ly tâm lấy
tủa, rửa tủa nhiều lần bằng cồn 96º. Sấy tủa ở 60°C đến khối lượng không đổi thu
được ulvan thô. Ký hiệu UR-H, UL-H [96, 131].
2.1.3.3. Quy trình chiết ulvan bằng dung môi kiềm:
Ngâm chiết 20 g bột rong trong 400 ml dung dịch kiềm NaOH 0,1N ở nhiệt
độ 60ºC, thời gian 2h. Lọc lấy dịch chiết. Bã rong được chiết tiếp lần 2 ở điều kiện
như trên. Gộp dịch chiết trong 2 lần, trung hòa dịch chiết bằng dung dịch HCl 0,1N
43
rồi ly tâm lấy dịch trong, sau đó, cô quay cho đến khi thể tích còn 100 ml. Thêm
cồn tuyệt đối vào để tủa ulvan (Vcồn:Vdịch = 4:1). Gạn lọc rồi ly tâm lấy tủa, rửa tủa
nhiều lần bằng cồn 96º. Sấy tủa ở 60°C đến khối lượng không đổi thu được ulvan
thô. Ký hiệu UR-K, UL-K [13, 47, 49].
Tinh chế ulvan: mẫu ulvan thô được hòa tan trong nước cất và được tiến
hành tinh chế bằng màng thẩm tách MWCO 10000 (Da) của hãng Thermo
Scientific – USA dưới vòi nước chảy trong 72h để loại các chất thấp phân tử, sau đó
kết tủa ulvan bằng cồn tuyệt đối, ly tâm lấy tủa, rửa tủa nhiều lần bằng cồn 96º, sấy
tủa ở 60ºC đến khối lượng không đổi, thu được mẫu ulvan sạch.
Sơ đồ tổng quát về quy trình chiết tách và tinh chế ulvan từ rong lục được
đưa ra ở Hình 2.2.
Hình 2.2. Quy trình chiết tách và tinh chế ulvan từ rong lục
Mẫu bột rong lục khô (20 g)
1. 400 ml dung môi ở 80º-90º trong 2h, 2 lần 2. Lọc bỏ bã 3. Ly tâm loại cặn 4. Trung hòa dung dịch 5. Cất quay giảm thể tích
Dịch chiết
1. Bổ sung EtOH 2. Ly tâm lấy tủa
Ulvan sạch
Ulvan thô
1. Hòa tan trong nước cất 2. Cho qua màng thẩm tách trong 72h 3. Kết tủa bằng EtOH 4. Ly tâm lấy tủa
44
Kết quả về hiệu suất chiết tách 6 mẫu ulvan được đưa ra ở Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Kết quả hiệu suất chiết tách 6 mẫu ulvan
Mẫu UR-N UR-H UR-K UL-N UL-H UL-K
Hiệu suất
(%w) 8,3 7,2 5,1 6,5 6,4 4,1
2.1.4. Đánh giá hoạt tính sinh học
Các phép thử hoạt tính sinh học được thực hiện tại Phòng Thử nghiệm
sinh học - Viện Công nghệ Sinh học và Phòng Hóa phân tích và triển khai công
nghệ - Viện Nghiên cứu và Ứng dụng công nghệ Nha Trang, thuộc Viện Hàn lâm
Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
2.1.4.1. Hoạt tính gây độc tế bào
Xác định hoạt tính độc tế bào trên các dòng tế bào ung thư thử nghiệm bao
gồm: HepG2 (ung thư gan), MCF7 (ung thư vú) và HeLa (ung thư cổ tử cung).
Các dòng tế bào được nuôi cấy dưới dạng đơn lớp trong môi trường nuôi cấy
DMEM với thành phần kèm theo gồm 2 mM L-glutamine, 10 mM HEPES, và 1,0
mM natri pyruvate, ngoài ra bổ sung 10% fetal bovine serum – FBS (GIBCO). Tế
bào được cấy chuyển sau 3-5 ngày với tỉ lệ (1:3) và nuôi trong tủ ấm CO2 ở điều
kiện 37ºC, 5% CO2.
Phương pháp thử độ độc tế bào in vitro được Viện Ung thư Quốc gia Hoa Kỳ
(National Cancer Institute – NCI) xác nhận là phép thử chuẩn nhằm sàng lọc, phát
hiện các chất có khả năng kìm hãm sự phát triển hoặc diệt tế bào ung thư ở điều
kiện in vitro. Phép thử này được thực hiện theo phương pháp của Monks [142].
Phép thử được thực hiện trong điều kiện cụ thể như sau:
- Chất thử (20 ml) pha trong dimethyl sulfoxide 10% được đưa vào các giếng
của khay có 96 giếng để có nồng độ 100 mg/ml; 20 mg/ml; 4 mg/ml; 0,8 mg/ml.
- Trypsin hóa tế bào thí nghiệm để làm rời tế bào và đếm trong buồng đếm
để điều chỉnh mật độ cho phù hợp với thí nghiệm.
45
- Thêm vào các giếng thí nghiệm lượng tế bào phù hợp (trong 180 ml môi
trường) và để chúng phát triển trong vòng từ 3 - 5 ngày.
- Một khay 96 giếng khác không có chất thử nhưng có tế bào ung thư (180
ml) sẽ được sử dụng làm đối chứng ngày 0. Sau 1 giờ, đĩa đối chứng ngày 0 sẽ được
cố định tế bào bằng acid trichloracetic – TCA.
Sau giai đoạn phát triển trong tủ ấm CO2, tế bào được cố định vào đáy giếng
bằng TCA trong 30 phút, được nhuộm bằng SRB trong 1 giờ ở 37ºC. Đổ bỏ SRB và
các giếng thí nghiệm được rửa 3 lần bằng 5% acid acetic rồi để khô trong không khí
ở nhiệt độ phòng.
- Cuối cùng, sử dụng 10 mM dung dịch đệm base để hòa tan lượng SRB đã
bám và nhuộm các phân tử protein, đưa lên máy lắc đĩa lắc nhẹ trong 10 phút và sử
dụng máy ELISA Plate Reader (Bio-Rad) để đọc kết quả về hàm lượng màu của
chất nhuộm SRB qua phổ hấp phụ ở bước sóng 515 nm. Xác định khả năng sống sót
của tế bào khi có mặt chất thử sẽ được xác định thông qua công thức sau:
[OD(chất thử) - OD(ngày 0)] x 100
% sống sót =
OD(đối chứng âm) - OD(ngày 0)
% ức chế tế bào = 100% - % sống sót
- Các phép thử được lặp lại 3 lần để đảm bảo tính chính xác. Ellipticine
(Sigma) luôn được sử dụng như là chất đối chứng dương và được thử nghiệm ở các
nồng độ 10 mg/ml; 2 mg/ml; 0,4 mg/ml; 0,08 mg/ml. Giá trị IC50 của Ellipticine luôn
ổn định trong khoảng từ 0,25 - 0,56 mg/ml trên tất cả các dòng tế bào ung thư
nghiên cứu.
Dimethyl sulfoxide 10% luôn được sử dụng như đối chứng âm. Giá trị IC50
(nồng độ ức chế 50% sự phát triển) sẽ được xác định nhờ vào phần mềm máy tính
TableCurve.
2.1.4.2. Hoạt tính chống đông tụ máu
Xác định hoạt tính chống đông tụ máu theo phương pháp của Anderson và
CS [143] trên chuột nhắt trắng dòng BALB/c. Hút 10µl mẫu nghiên cứu hoặc
46
dextrose hoặc nước cất vào ống eppendof. Hút 50µl máu chuột vào các ống
eppendof đã có mẫu thử hoặc aspirin hoặc dextrose hoặc nước cất. Lắc nhẹ và để ở
nhiệt độ phòng. Ghi thời gian máu bị đông tụ. Aspirin (Sigma) được sử dụng làm
đối chứng tham khảo. Các thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
2.1.4.3. Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định
Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định được tiến hành theo phương pháp
khuyếch tán đĩa thạch theo phương pháp của Vanden và CS [144] với 100 µl dịch
nuôi cấy có chứa 107 – 108 khuẩn và lượng dịch chiết sử dụng để thử hoạt tính là
200 µl. Chất đối chứng là mẫu trắng (dung môi nước). Các chủng vi sinh vật kiểm
định bao gồm : Vi khuẩn Gr(-): Escherichia coli (E. coli), Pseudomonas
aeruginosa, Listeria monocytogenes (L. mono). Vi khuẩn Gr(+): Bacillus cereus,
Streptococcus faecalis, Staphylococcus aureus. Nấm men: Candida albicans.
Vi khuẩn được duy trì trong môi trường dinh dưỡng: Trypcase Soya Broth
(TSB). Các chủng kiểm định được hoạt hóa trước khi tiến hành thử nghiệm trong
môi trường dinh dưỡng dịch thể (24 giờ đối với vi khuẩn). Môi trường nuôi cấy vi
sinh vật: Môi trường duy trì và bảo tồn giống: Saboraud Dextrose Broth đối với
nấm; Trypcase Soya Broth đối với vi khuẩn. Môi trường thí nghiệm: Eugon broth
đối với vi khuẩn và Myco phil đối với nấm.
Mẫu ulvan được hoà tan trong dung môi nước với nồng độ 4-10 mg/ml.
Chuyển vào mỗi giếng của đĩa vi lượng 96 giếng 10 µl dung dịch mẫu thử theo các
nồng độ đã được pha loãng. Bổ sung thêm vào mỗi giếng 190 µl vi sinh khuẩn và
nấm tương ứng đã hoạt hoá. Để trong tủ ấm 37ºC trong 24h đối với vi khuẩn và
30ºC trong 48h đối với nấm. Tiến hành đồng thời với mẫu trắng.
Xác định đường kính vòng vô khuẩn trên các mẫu có hoạt tính.
2.1.4.4. Hoạt tính chống oxy hóa
- Xác định hoạt tính oxy hóa tổng số theo phương pháp Prieto và CS [145].
Lấy 0,3 ml mẫu có nồng độ 6 mg/ml, thêm vào 3 ml chất phản ứng (0,6 M acid
sulfuric, 28 mM natri phosphate và 4 mM amoni molybdat). Phản ứng được tiến
hành tại nhiệt độ 95ºC trong 3h, để nguội đo tại bước sóng 695 nm. Độ hấp thụ của
47
hỗn hợp tăng tại bước sóng 695 nm chỉ ra khả năng oxy hóa tổng của mẫu nghiên
cứu. Hoạt tính oxy hóa tổng số tính theo acid ascorbic.
- Xác định khả năng khử sắt theo phương pháp Zhu và CS [146].
Lấy 0,2 ml mẫu có nồng độ 6 mg/ml thêm hỗn hợp gồm 0,2 ml đệm phốt phát
pH= 7,2 và 0,2 ml dung dịch kali ferricyanide 1%. Hỗn hợp được giữ ở 50ºC trong
20 phút. Sau đó, thêm tiếp 0,2 ml CCl3COOH 10%. Sau cùng, lấy 0,125 ml hỗn hợp
trên và 0,125 ml nước cất được đặt vào giếng 96 lỗ cùng với 0,02 ml FeCl3. Độ hấp
thụ của hỗn hợp tăng tại bước sóng 655 nm chỉ ra khả năng khử sắt của mẫu nghiên
cứu.
2.2. Xác định cấu trúc của ulvan
2.2.1. Phân tích thành phần hóa học của ulvan
- Xác định hàm lượng sulfate: Xác định hàm lượng sulfate bằng phương
pháp khối lượng [147, 148]. Mẫu được thủy phân hoàn toàn bằng dung dịch HCl
1M ở nhiệt độ 100°C trong 8 giờ. Dung dịch BaCl2 1M được thêm dư vào dung
dịch thủy phân để tạo kết tủa BaSO4, ly tâm lấy tủa, sấy tủa ở 80ºC đến khối lượng
không đổi. Sau đó định lượng BaSO4. Hàm lượng sulfate có trong mẫu được tính
theo công thức sau:
10096
233(%)
4
xm
xm
DS
BaSO
Trong đó DS: hàm lượng sulfate (%); mBaSO4: khối lượng của BaSO4 (g); m:
khối lượng mẫu thử nghiệm (g).
- Xác định hàm lượng acid uronic: Xác định bằng phương pháp của Bitter và
CS [149]. Thủy phân hỗn hợp gồm 1 ml dung dịch mẫu nồng độ 100 µg/ml và 6 ml
H2SO4 đậm đặc ở 100ºC trong 20 phút, sau đó để nguội tới nhiệt độ phòng. Tiếp
theo thêm 0,2 ml dung dịch carbazol 0,1% trong ethanol 96º và lắc đều, phản ứng
được tiến hành tiếp ở 100ºC trong 10 phút. Đem đo mật độ quang ở bước sóng 527
nm. Acid glucuronic được dùng làm chất chuẩn.
48
- Xác định thành phần đường: Xác định theo phương pháp của Billan và CS
[150]. Nguyên tắc là thủy phân ulvan thành các monosaccharide, chuyển các
monosaccharide sang dẫn xuất alditol acetate rồi định lượng bằng GC.
+ Thủy phân khử từng phần trên hệ NaBH4/TFA
Cân 15 mg ulvan vào trong ống nghiệm (có nắp) chứa 1ml TFA 2,0M. Đem
đun nóng ống nghiệm ở nhiệt độ 80oC trong 3h. Sau khi để nguội thêm chính xác
1ml dung dịch inositol 1mg/ml, lắc đều. Dung dịch được lọc, loại tủa, rồi thêm 2ml
ethanol và cô quay đến cạn. Sau đó thêm 1ml NH4OH 1M để đuổi acid còn dư, sấy
khô bằng cô quay chân không ở nhiệt độ 40oC. Cặn thu được được hoà tan trong 0,5
ml dung dịch NaBH4 10% vừa pha trong NH4OH 1M, lắc nhẹ ở nhiệt độ phòng và
để qua đêm. NaBH4 dư được phân huỷ bằng 0,5ml CH3COOH đậm đặc. Tách acid
boric và trimethyl borat bằng cách cho bay hơi nhiều lần ở nhiệt độ 40oC với
methanol để cặn thu được chỉ còn là alditol.
+ Phản ứng acetyl hoá các alditol
Cho 1ml acid anhydric acetic và 1ml pyridine vào bình có chứa ulvan đã
được thuỷ phân ở trên và đem đun nóng ở 100oC trong 1 giờ. Sau đó làm lạnh, bay
hơi khô ở nhiệt độ 40oC. Alditol acetat trong hỗn hợp được chiết bằng ethyl acetat.
Xác định thành phần đường đơn trên máy sắc kí GC-FID Agilent (Mỹ).
2.2.2. Phương pháp sắc ký thẩm thấu gel (GPC)
Phép đo khối lượng phân tử bằng phương pháp GPC được thực hiện ở Phòng
Thí nghiệm Phân tích Trung Tâm – Ðại học Khoa học Tự nhiên - Hồ Chí Minh, trên
máy HPLC Agilent 1100 với pha động là dung dịch NaNO3 0,1N, pha tĩnh là cột
Ultrahydrogel 500 (300 mm x 7.8 mm ID), tốc độ dòng 1ml/phút. Đầu dò RID.
2.2.3. Phương pháp phổ hồng ngoại (IR)
Phổ hồng ngoại được đo trên máy FT-IR Affinity-1S SHIMADZU tại Bộ
môn Hóa vô cơ – Khoa Hóa học – Trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội.
2.2.4. Phương pháp phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR)
Mẫu nghiên cứu được hòa tan trong dung môi D2O và được đo phổ NMR ở
nhiệt độ 70ºC với chế độ đo khử tín hiệu của nước, trên máy Bruker AVANCE
49
500MHz tại Viện Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, DSS
(acid 4,4-dimethyl-4-silapentane-1-sulfonic) được dùng làm chất chuẩn nội.
2.2.5. Phương pháp phổ khối lượng (MS)
Phổ ESI-MS được ghi trên thiết bị khối phổ LTQ Orbitrap XLTM, Thermo
SCIENTIFIC kiểu ion hóa âm tại Khoa Hóa học – Trường Đại học Khoa học Tự
nhiên Hà Nội, dung môi MeOH : H2O = 1:1. Khí phun mù là N2 với áp suất khí là
30 psi với tốc độ phun khí 650 lít/giờ tại nhiệt độ là 180ºC.
2.2.6. Phương pháp tán xạ tia X góc nhỏ (SAXS)
Phương pháp tán xạ tia X góc nhỏ (SAXS) được thực hiện tại BL19B2,
SPring-8, Hyogo, Nhật Bản.
Tia X được phát ở bước sóng = 0,149 nm. Phép đo kéo dài 600 giây để
đảm bảo đủ thời gian đo cần thiết mà mẫu không bị phá hủy bởi tia X. Kết quả được
tính toán bằng đồ thị Kratky (q2I(q) vs q) và đồ thị Guinier (ln(qI(q)) vs q2 ). Ở đây,
I(q) là cường độ tán xạ và q được định nghĩa bằng (4)sin(với là bước sóng,
là góc tán xạ. Từ đồ thị Guinier, bán kính từ hồi chuyển Rgc có thể xác định được.
Giá trị Rgc cho biết cấu trúc không gian của chất đo ở kính thước cỡ nano [151].
Chuẩn bị mẫu đo:
Mẫu ulvan nồng độ 1 mg/ml trong nước và trong dung dịch NaCl 0,5M được
chuẩn bị cho phép đo SAXS.
2.2.7. Phương pháp hiển vi điện tử quét (SEM)
Ảnh SEM được chụp trên hệ thiết bị Nova NaNoSEM 450 – FEI tại Khoa
Vật lý - Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Hà Nội.
2.3. Sulfate hóa và acetyl hóa mẫu ulvan tự nhiên
2.3.1. Sulfate hóa
Dẫn xuất sulfate hóa của ulvan được tổng hợp theo phương pháp của Lihong
Fan và CS [152]. Qui trình được tiến hành theo 2 bước như sau:
- Bước 1: Tạo tác nhân sulfate hóa: Hòa tan khoảng 5,2g sodium bisul te
trong 40 ml nước cất rồi đưa vào bình 3 cổ và lắp vào hệ thống đun hồi lưu cách
50
thủy. Sau đó, hòa tan hoàn toàn khoảng 3,16g sodium nitrite trong 10ml nước cất và
đưa vào phễu nhỏ giọt, nhỏ từ từ vào bình 3 cổ ở trên, phản ứng được tiến hành với
khuấy từ ở 90ºC trong 1,5h. Tác nhân sulfate hóa được tạo thành theo phương trình:
4NaHSO3 + NaNO2 (NaSO3)3N + Na2SO3 + 2H2O
- Bước 2: Tổng hợp ulvan sulfate: tác nhân sulfate hóa tạo thành ở trên được
điều chỉnh đến pH=9 bằng dung dịch NaOH 0,1M. Tiếp theo hòa tan 1,0 g ulvan
UR-N bằng 30 ml nước cất rồi thêm từ từ vào bình cầu 3 cổ ở trên và khuấy mạnh,
phản ứng được tiến hành ở 60ºC trong 4h. Sau đó hỗn hợp được cất loại bỏ dung
môi, thẩm tách qua màng MWCO 3500 (Da) để làm sạch rồi được thêm ethanol 96°
để kết tủa ulvan sulfate, sản phẩm được sấy ở 50ºC đến khối lượng không đổi. Dẫn
xuất ulvan sulfate thu được được kí hiệu là UR-S.
Xác định hàm lượng sulfate trong mẫu bằng phương pháp khối lượng: 0,5g
mẫu UR-S được hòa tan với 10ml nước cất thành dung dịch, sau đó thêm 3ml dung
dịch HCl 1M và thủy phân hỗn hợp ở nhiệt độ 100°C trong 8h, thêm tiếp dung dịch
BaCl2 1M đến dư để kết tủa lượng sulfate sau khi thủy phân, ly tâm lấy tủa, sấy tủa
ở 80ºC đến khối lượng không đổi. Sau đó định lượng BaSO4 và tính được hàm
lượng sulfate có trong mẫu theo công thức như ở phần 3.2.1.
Thí nghiệm được lặp lại 3 lần và lấy kết quả trung bình.
2.3.2. Acetyl hóa
Dẫn xuất acetyl của ulvan tự nhiên được tổng hợp theo phương pháp của
Xiao-xiao Liu và CS [153, 154] như sau: 0,5 g UR-N được hòa tan trong bình cầu
với 6 ml nước, thêm 6 ml NaOH 1M khuấy mạnh tại nhiệt độ 30ºC trong 30 phút để
tạo sodium ulvan, thêm tiếp 4ml dung dịch acid anhydride acetic, tiến hành phản
ứng ở 75ºC trong 4 giờ. Hỗn hợp được điều chỉnh về pH = 7,0, cất loại dung môi,
thẩm tách qua màng MWCO 3500 (Da) để làm sạch và kết tủa bằng ethanol 96°.
Dẫn xuất acetyl của ulvan được kí hiệu là UR-Ac, được sấy khô tại 50ºC đến khối
lượng không đổi.
Xác định hàm lượng acetyl trong mẫu UR-Ac bằng phương pháp phân tích
thể tích theo Luis.A [155] : Theo phương pháp chuẩn độ ngược: 0,5g UR-Ac được
hòa tan trong hỗn hợp ethanol (50 ml) /nước (100 ml), lắc đều trong 30 phút ở nhiệt
51
độ 50°C. Thêm tiếp vào 20 ml dung dịch KOH 0,2M và lắc đều. Chuẩn độ lượng
KOH dư bằng dung dịch HCl 0,2M với chỉ thị phenolphtalein. Tiến hành tương tự
với mẫu trắng UR-N tự nhiên.
Hàm lượng acetyl được tính theo công thức
10043,0.).(
(%) 0 xm
NVVDA
AcUR
HClTN
Trong dó: DA: hàm lượng acetyl (%); V0: thể tích mẫu trắng (ml); VTN: thể
tích mẫu nghiên cứu (ml); NHCl: nồng độ đương lượng acid HCl; mUR-Ac: khối lượng
mẫu thử nghiệm (g). Thí nghiệm được lặp lại 3 lần và lấy kết quả trung bình.
52
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Lựa chọn mẫu nghiên cứu
3.1.1. Kết quả xác định thành phần hóa học của ulvan
Rong lục có thành phần polysacharide rất phức tạp, do vậy mẫu được tiến
hành chiết theo 3 quy trình là chiết nước, chiết acid và chiết kiềm như mô tả trong
phần thực nghiệm. Kết quả về hiệu suất chiết tách và thành phần hóa học của
polysaccharide theo 3 quy trình chiết được đưa ra ở Bảng 3.1. Kết quả cho thấy cả 6
mẫu ulvan đều có thành phần đường chủ yếu là rhamnose và 4 loại đường khác là
galactose, xylose, mannose và glucose nhưng với các tỷ lệ khác nhau. Hàm lượng
sulfate trong các mẫu ulvan thu được dao động ở khoảng 13-19%, hàm lượng acid
uronic rất lớn nằm trong khoảng 18-23% tính theo khối lượng rong khô, trong đó, 2
mẫu ulvan chiết bằng nước cho hàm lượng sulfate cũng như hàm lượng acid uronic
là cao nhất và tỷ lệ đường Rha cũng khá cao so với các ulvan chiết bằng acid và
kiềm. So sánh với các kết quả phân tích thành phần hóa học của ulvan ở các nghiên
cứu trên thế giới cho thấy, ulvan chiết tách từ 2 loài rong lục của Việt Nam có hàm
lượng sulfate thấp hơn còn hàm lượng acid uronic là tương đương [156, 157].
Bảng 3.1. Kết quả phân tích thành phần hóa học của 6 ulvan
Ulvan
SO3Na
(% khối
lượng)
Acid uronic
(% khối
lượng)
Thành phần monosaccharide ( % mol)
Rha Gal Xyl Man Glu
UR-N 17,60 22,5 1 0,03 0,06 0,01 0,06
UR-H 14,3 19,3 1 0,1 0,11 0,01 0,21
UR-K 13,2 19,8 1 0,1 0,14 0,03 0,14
UL-N 18,9 21,5 1 0,03 0,07 0,01 0,06
UL-H 15,1 18,7 1 0,01 0,10 0,01 0,06
UL-K 14,2 18,2 1 0,04 0,09 0,01 0,07
53
Như vậy, ta thấy thành phần hóa học của 6 mẫu ulvan là khác nhau tùy thuộc
vào quy trình chiết tách chúng.
Mục đích nghiên cứu của luận án là nghiên cứu cấu trúc của ulvan có hoạt
tính sinh học. Do vậy, cả 6 mẫu ulvan mà chúng tôi chiết tách được đều được đánh
giá hoạt tính sinh học.
3.1.2. Kết quả khảo sát hoạt tính sinh học của ulvan
3.1.2.1. Hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định
Theo các kết quả nghiên cứu về hoạt tính sinh học [77, 85] thì dịch chiết từ
rong lục có hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định rất tốt. Do vậy, chúng tôi thử hoạt
tính kháng vi sinh vật kiểm định của cả 6 ulvan chiết tách được, kết quả được chỉ ra
ở Bảng 3.2.
Kết quả cho thấy, trong 6 mẫu ulvan chiết tách từ 2 loài rong lục nghiên cứu,
UL-N và UR-N cho kết quả tốt nhất thể hiện dương tính với E. coli, Pseudomonas
aeruginosa, Bacillus cereus và Enterobacter cloace, UR-H và UL-H thể hiện hoạt
tính tốt với E. coli trong khi UR-K và UL-K không thể hiện hoạt tính đối với các
chủng vi khuẩn dùng trong nghiên cứu này. Theo Bảng 3.1, UL-N có hàm lượng
sulfate cao nhất, điều này cũng phù hợp với xu hướng của các sulfate
polysaccharide là phân tử có hàm lượng sulfate cao thường có hoạt tính sinh học
cao.
Bảng 3.2. Kết quả thử hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định của 6 mẫu ulvan
Vi Khuẩn UR-H UR-N UR-K UL-H UL-N UL-K Đối chứng
Gram
(-)
E. coli ++ ++ - ++ +++ - +++
Pseudomonas aeruginosa - + - - + - +++
Vibrio haveyi - - - - - - +++
Gram
(+)
Bacillus cereus - - - - ++ - +++
Streptococcus faecalis - - - - - +++
Enterobacter cloace - ++ - + ++ - +++
Staphylococcus aureus - - - - - - +++
Các ký hiệu tính theo đường kính vòng tròn kháng khuẩn: (+++) 14 – 20mm;
(++) 12 – 14mm; (+) 8 – 11mm; (-) không ảnh hưởng.
54
3.1.2.2. Hoạt tính gây độc tế bào
Quy trình thử nghiệm xác định hoạt tính gây độc tế bào trên các dòng tế bào
ung thư HepG2 (ung thư gan), MCF7 (ung thư vú) và HeLa (ung thư cổ tử cung)
của cả 6 mẫu ulvan chiết tách được từ 2 loài rong lục nghiên cứu được tiến hành
theo như mô tả ở phần thực nghiệm, các phép thử được lặp lại 3 lần để đảm bảo tính
chính xác. Hóa chất Ellipticine (Sigma) luôn được sử dụng để làm chất đối chứng
dương và được thử nghiệm ở các nồng độ 10mg/ml; 2mg/ml; 0,4mg/ml; 0,08mg/ml.
Chất đối chứng dương Ellipticine hoạt động ổn định trong thí nghiệm.
Kết quả thử nghiệm cho thấy, các mẫu chiết kiềm UL-K và UR-K không thể
hiện hoạt tính này. Trong khi đó, các mẫu ulvan chiết nước và chiết acid đều thể
hiện hoạt tính tốt trên cả 3 dòng tế bào ung thư, cụ thể như sau: UR-H với IC50 =
47,75-50,69 µg/ml; UR-N với IC50 = 31,31-36,37 µg/ml; UL-N với IC50 = 25,09-
36,33 µg/ml và UL-H với IC50 = 40,74-50,93 µg/ml. Kết quả được đưa ra ở Bảng
3.3.
Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của 4 mẫu ulvan UR-H, UR-N, UL-N
và UL-H cho thấy, khi tăng nồng độ mẫu thử lên thì phần trăm (%) tế bào sống sót
giảm và đạt 0% khi nồng độ ulvan ở 100 µg/ml.
55
Bảng 3.3. Kết quả thử hoạt tính gây độc tế bào của 4 mẫu ulvan
% tế bào sống sót Nồng độ
(µg/ml)
UR-H Nồng độ
(µg/ml)
UR-N Nồng
độ
(µg/ml)
Ellipticine HepG2 HeLa MCF-7 HepG2 HeLa MCF-7
100 0,00 0,00 0,00 100 0,00 0,00 0,00 HepG2 HeLa MCF-7
20 42,26 50,30 44,72 20 50,34 36,29 48,74
4 70,18 69,05 76,84 4 84,22 83,05 89,66 10 1,33 3,31 5,93
0,8 83,24 90,44 85,45 0,8 94,90 96,44 95,91
IC50
(µg/ml) 49,10±1,56 47,75±2,37 50,69±1,86
IC50
(µg/ml) 31,31±1,56 34,75±1,38 36,37±1,73
2 29,14 21,87 28,86
Nồng độ
(µg/ml)
UL-H Nồng độ
(µg/ml)
UL-N
HepG2 HeLa MCF-7 HepG2 HeLa MCF-7 0,4 49,42 48,89 48,58
100 0,00 0,00 0,00 100 0,00 0,00 0,00
20 50,21 55,34 48,67 20 60,67 66,24 58,71 0,08 81,59 77,13 76,92
4 71,46 73,58 79,45 4 78,13 77,0 67,89
0,8 92,42 94,26 95,53 0,8 89,30 88,0 87,41
IC50
(µg/ml)
0,50 0,34 0,45 IC50
(µg/ml) 40,74±2,21 44,25±2,32 50,93±1,67
IC50
(µg/ml) 29,67±2,87 36,33±3,84 25,09±1,36
56
Mối quan hệ giữa hoạt tính gây độc tế bào đối với các dòng tế bào ung thư
HepG2, MCF7 và HeLa trước và sau xử lý với mẫu UL-N ở các nồng độ khác nhau
(0,8; 4; 20 và 100 µg/ml) được biểu diễn trên Hình 3.1, tương ứng.
HepG2
0
20
40
60
80
100
0 0.8 4 20 100Concentration (mg/ml)
Cell
Viab
ility
(%)
MCF-7
0
20
40
60
80
100
0 0.8 4 20 100Concentration (mg/ml)
Cel
l Via
bili
ty (
%)
Hela
0
20
40
60
80
100
0 0.8 4 20 100Concentration (mg/ml)
Cel
l Via
bili
ty (
%)
Hình 3.1. Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của phần trăm tế bào sống sót
vào nồng độ ulvan UL-N
57
3.1.2.3. Hoạt tính chống oxy hóa
Theo các kết quả nghiên cứu về hoạt tính sinh học của các sulfate
polysaccharide phân lập từ các loài rong lục Codium, Caulerpa, Bryopsis, Ulva, và
Enteromorpha đã được chứng minh là có tác dụng chống oxy hóa rất tốt [38, 154,
157]. Do vậy, chúng tôi thử hoạt tính chống oxy hóa của 6 mẫu ulvan chiết tách
được, thông qua các phép thử khả năng khử sắt và hoạt tính chống oxy hóa tổng số,
quy trình thử hoạt tính chống oxy hóa được mô tả như phần thực nghiệm. Kết quả
được chỉ ra ở Bảng 3.4
Kết quả cho thấy, 6 mẫu ulvan nghiên cứu thể hiện hoạt tính chống oxy hóa
khá tốt, đặc biệt là ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata thể hiện hoạt tính
mạnh nhất ở khả năng khử sắt ứng với giá trị 4,86 mg Fe2+/g ulvan và hoạt tính oxy
hóa tổng ứng với giá trị 3,96 mg acid ascorbic/g ulvan.
Bảng 3.4. Kết quả thử hoạt tính chống oxy hóa của 6 mẫu ulvan
TT Mẫu Hoạt tính khử sắt
(mg Fe2+/g ulvan)
Hoạt tính chống oxy hóa
tổng số (mg AcidAscobic/g
ulvan)
1 UL-N 2,51 3,75
2 UL-H 1,93 2,60
3 UL-K 0,01 1,12
4 UR-N 4,86 3,96
5 UR-H 1,34 2,56
6 UR-K 0,22 0,86
Kết luận: Từ kết quả khảo sát hoạt tính sinh học của các mẫu ulvan tự nhiên
chiết tách được ở trên, chúng tôi đã lựa chọn các mẫu sau cho mục đích nghiên cứu
cấu trúc:
- Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata (kí hiệu: UR-N)
- Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva reticulata (kí hiệu: UR-H)
- Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca (kí hiệu: UL-N)
- Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca (kí hiệu: UL-H)
58
Lí do chúng tôi lựa chọn các mẫu trên đó là: Hai mẫu UL-N và UR-N đều
thể hiện hoạt tính sinh học rất tốt, đây là 2 mẫu ulvan được chiết bằng nước từ 2 loài
rong lục nghiên cứu – là phương pháp chiết đã được nhiều nhà khoa học trên thế
giới ứng dụng để chiết ulvan từ rong lục cho mục đích nghiên cứu cấu trúc và hoạt
tính sinh học như ở phần tổng quan tài liệu đã nêu; hai mẫu UL-H và UR-H thể hiện
hoạt tính chống oxy hóa và hoạt tính kháng vi sinh vật kiểm định khá tốt, ngoài ra
chúng được chiết bằng dung môi acid – là phương pháp chiết được ít nhà khoa học
ứng dụng để chiết ulvan.
3.2. Xác định cấu trúc của ulvan
Khối lượng phân tử trung bình khối Mw, khối lượng phân tử trung bình số
Mn và độ phân tán khối lượng phân tử Mw/Mn được xác định bằng phương pháp
sắc ký thẩm thấu gel GPC, kết quả được đưa ra ở Bảng 3.5. Cũng giống như các
sulfate polysaccharide tự nhiên khác, ulvan là polymer có độ phân tán cao với giá trị
Mw/Mn từ 2,19 đến 5,16 và Mw cũng rất cao từ 8,1x104 g/mol đến 3,47x105 g/mol,
tùy theo điều kiện chiết tách. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đã
công bố là khối lượng phân tử của ulvan từ 1,8x105 g/mol đến 2,0x106 g/mol, phụ
thuộc vào điều kiện chiết tách, vị trí địa lý và thời gian thu hái rong [13, 38].
Bảng 3.5. Kết quả xác định khối lượng phân tử của 4 mẫu ulvan
Ulvan Mw
(x103 g/mol) Mw/Mn
UR-N 281 4,26
UR-H 119 5,16
UL-N 347 2,79
UL-H 81 2,19
3.2.1. Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva reticulata (UR-H)
Đối với phân tử sulfate polysaccharide, hoạt tính sinh học không những phụ
thuộc vào hàm lượng của nhóm sulfate trong phân tử mà vị trí của nhóm sulfate gắn
trên mạch phân tử cũng là yếu tố then chốt có ảnh hưởng quyết định đến hoạt tính
sinh học [154].
59
Trong luận án này, khi nghiên cứu cấu trúc hóa học của ulvan, phổ hồng
ngoại được sử dụng để có các thông tin ban đầu về vị trí của nhóm sulfate trên mạch
phân tử của ulvan, phổ IR của UR-H được đưa ra trên Hình 3.2.
Hình 3.2. Phổ IR của UR-H
Trên phổ IR, chúng tôi thấy xuất hiện băng sóng hấp thụ ở 848 cm 1 được
gán cho liên kết C-O-S của nhóm sulfate ở vị trí axial. Dải hấp thụ ở 761 cm-1 là
dao động C-O-S của nhóm sulfate ở vị trí equatorial; ở 1078 cm-1 là dao động của
liên kết glycoside C-O-C; dải hấp thụ tại 1624 cm 1 là do dao động của nhóm
COO của acid uronic. Thêm nữa, dải phổ rộng tại 3315 cm 1 là đặc trưng cho dao
động của nhóm OH có liên kết hydro, băng hấp thụ ở 2927 cm 1 được gán cho dao
động hóa trị của nhóm CH [95, 96, 100]. Kết quả phân tích phổ hồng ngoại của
ulvan với các dao động đặc trưng được đưa ra trên Bảng 3.6
Bảng 3.6. Kết quả phân tích phổ IR của UR-H
Nhóm dao động Hình dạng Tần số (cm-1)
-OH hóa trị (có liên kết H) Rộng, rất mạnh 3315
COO- của uronic acid Nhọn, mạnh 1624
C-O-S của nhóm sulfate Nhọn, trung bình 848, 761
C-O-C của liên kết glycoside Nhọn, trung bình 1078
C-H liên kết hóa trị Rộng, vừa 2927
60
Phổ 1H-NMR và 13C-NMR của ulvan chiết bằng acid từ rong lục Ulva
reticulala lần lượt được đưa ra ở Hình 3.3 và Hình 3.4.
Hình 3.3. Phổ 1H-NMR của UR-H
Quan sát phổ cho thấy có sự trùng chập của các vạch phổ, điển hình cho mẫu
polymer có cấu trúc phức tạp. Phân tích phổ 1H-NMR, chúng tôi kí hiệu A, B, C là
các cụm peak tương ứng với 3 tín hiệu của proton anomer ở δ5,30; δ4,65 và δ5,20
ppm.Trên phổ, xuất hiện tín hiệu ở vùng trường cao (δ1,17 ppm) được gán cho
proton gắn với C-6 ứng với nhóm CH3 của rhamnose và các tín hiệu ở vùng δ3,4-
4,3 ppm là các proton của vòng pyranose. Phân tích các tín hiệu cộng hưởng trên
phổ 13C-NMR cho thấy, các tín hiệu cộng hưởng ở vùng trường thấp ứng với dộ
chuyển dịch hóa học khoảng δ94–102 ppm là đặc trưng cho các carbon anomer, còn
các carbon còn lại trong vòng sẽ ở vùng δ72–80 ppm. Tín hiệu ở vùng trường cao
(δ17-18 ppm) đặc trưng cho nhóm C-CH3 và tín hiệu điển hình cho nhóm carboxyl
ở vùng trường thấp ứng với δ167 ppm. Bốn tín hiệu ở δ63,39; 63,32; 63,12; 63,06
ppm là các tín hiệu gán cho nhóm CH2 (C-6) của galactose và/hoặc glucose và/hoặc
CH2 (C-5) của xylose.
61
Hình 3.4. Phổ 13C-NMR của UR-H
Với sự hỗ trợ của phổ hai chiều 2D NMR: COSY, HSQC và HMBC, việc
nghiên cứu cấu trúc của ulvan được thuận lợi hơn và có độ chính xác cao. Các
proton từ H-1 đến H-6 của A được xác định dựa vào các tín hiệu trên phổ COSY
(Hình 3.5), từ đây các carbon từ C-1 đến C-6 cũng lần lượt được gán dựa vào phổ
HSQC (Hình 3.6). Trên phổ HSQC, từ tín hiệu của proton anomer H-1(A) có độ
dịch chuyển hóa học ở δ5,3 ppm sẽ xác định được carbon anomer C-1(A) tương ứng
với độ chuyển dịch hóa học ở khoảng δ102-103 ppm, độ dịch chuyển hóa học của
H-1(A) đặc trưng cho H anomer. Tương tự như vậy, từ vị trí tín hiệu cộng hưởng
của các proton H-2 đến H-5 sẽ xác định được vị trí các tín hiệu carbon C-2 đến C-5,
tương ứng. Ta thấy, tín hiệu của C-2 (δ79-80 ppm), C-3 (δ75-77 ppm) và C-4
(δ74-76 ppm) đã bị đẩy về vùng trường thấp chứng tỏ rằng liên kết glycoside ở
rhamnose trong mẫu ulvan UR-H có thể là (12,3,4) và/hoặc nhóm sulfate ở vị trí
C-2, C-3 và C-4. Kết quả này được khẳng định một lần nữa thông qua mối tương
quan giữa H-1(A) và C-2(A), C-3(A), C-4(A) trên phổ HMBC (Hình 3.7).
62
Hình 3.5. Phổ COSY của UR-H
Hình 3.6. Phổ HSQC của UR-H
63
Đối với cụm B, tín hiệu của proton anomer H-1 trên phổ 1H-NMR ứng với
độ dịch chuyển hóa học ở δ4,65 ppm, đây là giá trị cộng hưởng đặc trưng cho
proton anomer H. Điều này được khẳng định một lần nữa bằng việc phân tích phổ
HSQC: carbon anomer C-1(B) ở δ98,39 ppm và δ98,52 ppm có liên hệ với proton
H-1(B) tại δ4,65 ppm. Dựa vào tín hiệu của H-1(B), từ phổ COSY các tín hiệu tại
δ3,2 ppm và δ3,75 ppm lần lượt được gán cho H-2(B) và H-3(B), tương ứng; còn từ
phổ HSQC các tín hiệu tại δ77 ppm và δ74 ppm được gán cho C-2(B) và C-3(B),
tương ứng.
Hình 3.7. Phổ HMBC của UR-H
Ta thấy, tín hiệu carbon C-2 của acid uronic bị đẩy về vùng trường thấp,
chứng tỏ C-2 là carbon tham gia liên kết glycoside (Bảng 3.7). Đối với gốc C, tín
hiệu cộng hưởng của proton anomer H-1 trên phổ 1H-NMR nằm ở vùng trường thấp
(δ5,2 ppm) là điển hình cho H. Bằng việc kết hợp các phổ 1D và 2D, gán được
proton anomer H-1(C) tại δ5,2 ppm, carbon C-1(C) tại δ94,51 ppm và δ94,70 ppm.
Tương tự như vậy, lần lượt gán được H-2(C) ở δ3,6 ppm và C-2(C) ở δ77 ppm.
64
Trên phổ 13C-NMR, cho thấy, tín hiệu cộng hưởng của C-2 của acid uronic bị đẩy
về vùng trường thấp chứng tỏ C-2 là carbon tham gia liên kết glycoside, do vậy
khẳng định được rằng liên kết glycoside của C trong phân tử ulvan là kiểu liên kết
(12) (Bảng 3.7). Các kết quả nghiên cứu trước [97, 105] đã chứng minh rằng,
ulvan từ rong lục Ulva có thành phần chính là -rhamnose, - acid glucuronic và -
acid iduronic, do đó B được đề xuất là (12)- acid glucuronic và C là (12)-
acid iduronic. Các carbon anomer C-1(B) và C-1(C) bị tách thành 2 tín hiệu, có thể
được lý giải là do liên kết của monomer B và C với 2 cấu dạng and . Chuỗi liên
kết glycoside trong mạch polymer của phân tử ulvan được suy ra từ việc phân tích
phổ HMBC (Hình 3.7), trên phổ HMBC thể hiện tương tác giữa H-1(C) và C-4(A),
H-1(B) và C-2 (A).
Từ kết quả phân tích phổ NMR ở trên, có thể kết luận rằng phân tử ulvan
chiết acid từ rong lục Ulva reticulata được cấu thành bởi 2 disaccharide tạo thành
chuỗi như sau: [→2)--D-GlcA-(1→2)--L-Rha-(1→] và [→2)--L-IdoA-(1→4)-
-L-Rha-(1→], phân nhánh ở C-2 của acid uronic và nhóm sulfate xuất hiện ở cả 3
vị trí C-2, C-3 và C-4 của Rha. Kết quả phân tích phổ 1H-NMR và 13C-NMR chi tiết
của UR-H được tóm tắt trong Bảng 3.7.
Bảng 3.7. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UR-H
Monosaccharide C-1/H-1 C-2/H-2 C-3/H-3 C-4/H-4 C-5/H-5 C-6/H-6
A
→2)--L-Rha-(1→
→4)--L-Rha-(1→
102-
103
/5,30
79-80
/3,63
75-77
/ 3,95
74-76
/3,85
75-76
/3,65
17-18
/1,17
B
→2)--D-GlcA-1(→
98,52;
98,39
/4,65
77,0
/3,20
74,0
/3,75
74,0
/ 3,85 - 167
C
→2)--L-IdoA-1(→
94,70;
94,51
/5,20
77,5
/3,60
76,0
/3,95
74,0
/3,85
-
167
65
Mẫu ulvan được thủy phân với điều kiện đưa ra ở phần thực nghiệm, thu
được mẫu phù hợp với nghiên cứu cấu trúc bằng phương pháp phổ khối, phổ ESI-
MS của mẫu ulvan được đưa ra trên Hình 3.8. Trên phổ khối của UR-H ta thấy xuất
hiện disaccharide dạng [RhaUroASO3]- biểu hiện qua peak [M-H]- tại m/z 419. Các
peak ion mảnh với số khối m/z 243 và m/z 195 tương ứng với các monosaccharide
là monosulfate rhamnose [RhaSO3]- và acid uronic [UroA], số khối ở m/z 503 là của
ion mảnh monosulfate trirhanose [Rha3SO3]-. Số khối tại m/z 339 được gán cho ion
mảnh [RhaUroA]- còn peak tại m/z 401 là của [RhaUroASO3-H2O]-.
Hình 3.8. Phổ ESI-MS của UR-H
66
Hình 3.9 là phổ ESI-MS/MS của ion mảnh ứng với m/z 243, các công trình
nghiên cứu [100, 113] chỉ ra có sự ảnh hưởng của vị trí nhóm sulfate lên phổ MS.
Trên phổ, cho thấy có peak khá mạnh tại m/z 183 chỉ ra sự có mặt của nhóm sulfate
ở vị trí C-4 của rhamnose, số khối ở m/z 139 là do nhóm sulfate ở vị trí C-2 của
rhamnose. Một peak ion mảnh có cường độ yếu tại tại m/z 169 là minh chứng rằng
ulvan bị sulfate hóa một phần tại vị trí số 3 của rhamnose. Như vậy, ulvan chiết acid
với kí hiệu UR-H mà chúng tôi nghiên cứu có rhamnose bị sulfate ở cả 3 vị trí: chủ
yếu ở C-2 và C-4, một phần nhỏ ở C-3. Điều này cũng phù hợp với các thông tin thu
được qua phân tích phổ IR và NMR ở trên.
Hình 3.9. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243
Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh tại m/z 419 được đưa ra ở Hình 3.10, ion
mảnh với số khối m/z 243 hình thành do sự cắt liên kết glycoside có cường độ
mạnh, các ion mảnh khác có cường độ nhỏ tại m/z 139, 225 và một mảnh m/z
193. Ngoài ra, trên phổ còn có các mảnh tại m/z 339 là do mảnh m/z 419 mất
nhóm SO3 và mảnh tại m/z 401 là do mảnh m/z 419 bị loại nước.
67
Hình 3.10. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 419
Kết hợp với việc phân tích phổ NMR ở trên, cấu trúc mạch chính của ulvan
chiết tách bằng dung môi acid từ rong lục Ulva reticulata Việt Nam được đưa ra có
dạng [→2)--D-GlcA-(1→2)--L-Rha-(1→] và [→2)--L-IdoA-(1→4)--L-Rha-
(1→], phân nhánh ở C-2 của acid uronic với nhóm sulfate ở cả 3 vị trí C-2, C-3 và
C-4 của Rha. Đây là một ulvan có cấu trúc mới so với các ulvan đã được công bố
thì chưa thấy xuất hiện liên kết (1→2) ở mạch chính.
3.2.2. Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata (UR-N)
Trên phổ IR của ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata (Hình 3.11),
cho thấy, có dải hấp thụ ở vùng 845 cm 1 được gán cho dao động của liên kết C-O-
S của nhóm sulfate ở vị trí axial. Ngoài ra còn có dải hấp thụ tại vùng 783 cm-1
được cho là dao động đặc trưng cho liên kết C-O-S của nhóm sulfate ở vị trí
equatorial, dải hấp thụ trong vùng khoảng 1595 cm 1 đặc trưng cho nhóm COO
của acid uronic. Hơn nữa, băng sóng ở vùng 3261-3370 cm 1 là dao động của nhóm
OH hóa trị có liên kết hydro trong phân tử, ở 2922 cm 1 là dao động hóa trị của liên
68
kết C-H, và dải hấp thụ ở 1028 cm 1 đặc trưng cho liên kết glycoside C-O-C [95,
105]. Kết quả phân tích phổ IR được tóm tắt ở Bảng 3.8.
Bảng 3.8. Kết quả phân tích phổ IR của UR-N
Nhóm dao động Hình dạng Tần số (cm-1)
-OH hóa trị (có liên kết H) Rộng, mạnh 3261-3370
-CH hóa trị Nhọn, trung bình 2922
COO- hóa trị Nhọn, rất mạnh 1595
C-O-C hóa trị Nhọn, rất mạnh 1028
C-O-S của nhóm sulfate Nhọn, mạnh 845
Hình 3.11. Phổ IR của UR-N
Phổ 1H và 13C-NMR của UR-N được đưa ra ở Hình 3.12 và 3.13, phân tích
phổ 1H-NMR, cho thấy rằng trên vùng anomeric xuất hiện 2 tín hiệu ứng với độ
chuyển dịch hóa học ở δ4,82 và δ4,63 ppm, được ký hiệu A và B, tương ứng. Một
tín hiệu ở vùng trường cao ứng với độ chuyển dịch hóa học δ1,3 ppm được cho là
69
proton gắn với C-6 của nhóm methyl của rhamnose và các tín hiệu cộng hưởng
trong vùng δ3,35-4,59 ppm là đặc trưng của các proton vòng pyranose (Bảng 3.9).
Các kết quả phân tích phổ 13C-NMR của mẫu polysaccharide UR-N cũng cho
thấy trong vùng anomeric xuất hiện các tín hiệu carbon anomer ứng với độ chuyển
dịch hóa học δ100–103 ppm và các tín hiệu ở vùng δ69–80 ppm là của carbon vòng,
tín hiệu ở δ17 ppm là đặc trưng cho carbon của nhóm methyl C-CH3, còn tín hiệu
cộng hưởng ở δ177,6 ppm là điển hình cho carbon của nhóm carboxyl (Bảng 3.9).
Trên phổ 13C-NMR, không thấy xuất hiện tín hiệu ở vùng khoảng δ63 ppm đặc
trưng cho sự có mặt của carbon C-6 của nhóm CH2 của galactose và/hoặc glucose
và/hoặc carbon C-5 của nhóm CH2 xylose, điều này cho chúng ta thông tin rằng,
trong mẫu ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata, chỉ chứa một lượng rất nhỏ
các thành phần đường như galactose, glucose và xylose, do đó không thể phát hiện
được các đường này trên phổ NMR.
Hình 3.12. Phổ 1H-NMR của UR-N
70
Hình 3.13. Phổ 13C-NMR của UR-N
Tương tác của các proton được kiểm tra trên phổ COSY (Hình 3.14), từ đây
các proton từ H-1 đến H-6 của A lần lượt được gán. Proton anomer H-1(A) với độ
chuyển dịch hóa học ä4,82 ppm có tương tác với H-2(A) với δ4,2 ppm, thể hiện rõ
thông qua peak đường chéo; tương tác giữa proton H-2 với proton H-3 có độ
chuyển dịch hóa học δ4,59 ppm; tương tác giữa H-3 và H-4, H-4 và H-5 cũng được
thể hiện qua peak đường chéo như trên Hình 3.14. Dựa vào các proton đã xác định
được ở trên cùng với những thông tin thu được từ phổ HSQC (Hình 3.15), các
carbon từ C-1 đến C-6 được xác định. Những thông tin thu được về độ chuyển dịch
hóa học của proton và carbon (Bảng 3.9) chỉ ra rằng A là dạng đặc trưng của 6-
deoxyhexopyranose, chính là rhamnose. Độ dịch chuyển hóa học của proton anomer
H-1 của A ở δ4,82 ppm chỉ ra rằng, dạng liên kết của A có thể là α hoặc . Tuy
71
nhiên, các nghiên cứu trước cho thấy ulvan tự nhiên chứa α-rhamnose, vì vậy có thể
kết luận rằng A ở đây là α-rhamnose. Trên phổ 13C-NMR, chúng tôi thấy các tín
hiệu cộng hưởng của carbon C-3 và C-4 của A bị đẩy về vùng trường thấp tương
ứng với độ dịch chuyển hóa học δ78,91 ppm và δ78,86 ppm, chứng tỏ A tham gia
liên kết glycoside qua liên kết (13,4) và/hoặc bị sulfate hóa ở vị trí C-3 và C-4.
Hình 3.14. Phổ COSY của UR-N
Đối với B, từ tín hiệu của proton anomer H-1 ở δ4,63 ppm trên phổ COSY,
chúng tôi gán được các proton H-2, H-3, H-4 và H-5 với độ dịch chuyển hóa học
tương ứng là δ3,35; δ3,64; δ3,65 và δ3,82 ppm, và bằng phổ HSQC xác định được
các carbon C-2, C-3, C-4 và C-5 ở δ74,58; δ74,83; δ79,48 và δ76,70 ppm tương
ứng. Carbon C-6 của nhóm carboxyl nằm ở vùng trường thấp do mật độ điện tử lệch
về phía các nguyên tử oxy có độ âm điện lớn trong nhóm, nên có độ dịch chuyển
72
hóa học lớn nhất trong phổ tương ứng ở δ177,6 ppm. Ta thấy, tín hiệu cộng hưởng
của carbon C-2 và C-4 bị đẩy về vùng trường thấp chứng tỏ B tham gia liên kết
glycoside ở cả 2 vị trí (12) và (14). Độ dịch chuyển hóa học của proton H-1
của B tại δ4,63 ppm là đặc trưng cho kiểu liên kết -linked. Tham khảo các nghiên
cứu trên thế giới [97, 105] cho thấy, ulvan từ rong lục Ulva chứa thành phần chủ
yếu là -rhamnose, -acid glucuronic và -acid iduronic, cùng với căn cứ vào
những thông tin thu được qua phân tích phổ ở trên, đưa đến kết luận rằng B là -
acid glucuronic.
Hình 3.15. Phổ HSQC của UR-N
Liên kết glycoside trong mạch phân tử UR-N được xác định từ phổ HMBC
(Hình 3.16), trên phổ HMBC cho thấy có tương tác giữa proton H-1(A) và carbon
C-4(B), proton H-1(B) và carbon C-4(A), H-4(A) và C-1(B). Điều này một lần nữa
khẳng định trong phân tử ulvan mà chúng tôi chiết tách được chứa cả 2 dạng liên
73
kết glycoside: Rha-(14)-GlcA và GlcA-(14)-Rha. Kết hợp với các thông tin thu
được từ phổ COSY và HSQC, chúng tôi có được kết luận là rhamnose tham gia liên
kết theo kiểu glycoside 14 và bị sulfate hóa ở vị trí C-3, acid glucuronic có 2 kiểu
liên kết là glycoside 12 và 14. Các kết quả này cho dự đoán rằng acid
glucuronic nối với rhamnose qua liên kết glycoside 14 ở mạch chính, trùng với
các nghiên cứu [95, 107]. Trong các nghiên cứu này, tác giả Lahaye đã chứng minh
rằng cấu trúc của ulvan từ rong lục Ulva rigida có dạng A3s [→ 4)-β -D-GlcA-(1→
4)-α-L-Rha3S-(1→] và bị phân nhánh ở C-2 của β-D-GlcA.
Hình 3.16. Phổ HMBC của UR-N
Từ những kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ ở trên, có thể kết luận rằng,
phân tử ulvan UR-N được cấu thành bởi disaccharide tạo thành chuỗi [→4-β-D-
GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S-(1→] và bị phân nhánh ở vị trí carbon C-2 của acid
glucuronic. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C được đưa ra ở Bảng 3.9.
74
Bảng 3.9. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UR-N
Monosaccharide C-1/H-1 C-2/H-2 C-3/H-3 C-4/H-4 C-5/H-5 C-6/H-6
A
4)--L-Rha3S-(1
100,51/
4,82
69,71/
4,20
78,91/
4,59
78,86/
3,79
68,89/
4,13
17,60/
1,30
B
2,4)--D-GlcA-(1
103,83/
4,63
74,58/
3,35
74,83/
3,64
79,48/
3,65
76,70/
3,82 177,60
Hình 3.17. Phổ ESI-MS của UR-N
Phổ ESI-MS của UR-N được đưa ra trên Hình 3.17. Trên phổ xuất hiện peak
ion mảnh [M-H]- tại m/z 419 biểu hiện sự có mặt của disaccharide dạng
75
[RhaUroASO3]-. Monosulfate rhamnose [RhaSO3]- và acid uronic [UroA]- cho các
peak tại m/z 243 và m/z 195 tương ứng, mảnh khối ở m/z 503 là của ion monosulfate
trirhamnose [Rha3SO3]-. Mảnh khối tại m/z 339 được gán cho ion [RhaUroA]- còn
peak với m/z 401 là của ion mảnh [RhaUroASO3-H2O]-. Phổ ESI-MS/MS của ion
mảnh với m/z 243 được đưa ra ở Hình 3.18, trên phổ, chúng tôi thấy có peak với
cường độ mạnh tại m/z 169 chỉ ra sự có mặt của nhóm sulfate ở vị trí C-3 của
Rha. Điều này cũng phù hợp với các thông tin thu được qua phân tích phổ IR và
NMR ở trên. Theo như các nghiên cứu về ulvan đã công bố thì hầu hết nhóm
sulfate thường ở vị trí số 3 của rhamnose. Do vậy, ulvan mà chúng tôi nghiên cứu
có cấu trúc dạng A3s, là dạng cấu trúc phổ biến của nhiều ulvan đã được nghiên
cứu trước đó.
Hình 3.18. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243
76
Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh tại m/z 419 được đưa ra ở Hình 3.19, ion
mảnh với m/z 243 hình thành do sự cắt liên kết glycoside (dạng Y) có cường độ
mạnh, các mảnh khác có cường độ nhỏ tại m/z 225 (Z1) và một mảnh với m/z 193
(C1). Các kết quả này chứng tỏ rằng ulvan đang nghiên cứu bị sulfate hóa tại vị trí
C-2 của rhamnose. Ngoài ra trên phổ còn có các mảnh tại m/z 339 là do mảnh m/z
419 mất nhóm SO3 và mảnh tại m/z 401 là do mảnh 419 bị loại nước. Sơ đồ phá
mảnh của UR-N được đưa ra ở Hình 3.20.
Hình 3.19. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaUroASO3]- tại m/z 419
77
O
OH
OH
OSO3-
OH
O,3 X, m/z=169
3
4
O
OH
OH
OH
OSO 3-
O,2A, m/z=183
O
OSO3-
OH
OH OH
O,2X, m/z=139
2
243
Y1
O,2X1
139
O OH
O
O
OHOH
OOH
CH3
OH O
OH
H H
H
H HH H
SO
OOH
Z1
225
C1
193
243
Y1
225
Z1
C1
193
O OH
O
O
OHOH
OOH
CH3
O OH
OH
HH
H
H HH H
SO
O
OH
O,3X0
169
2550,1X1
O
O
O
OH
OH
O OH
OH
H
H
H H
H
H
SO
O
OH
OHCH3
119
0,1A1
225
Z1
0,1X1
255
Hình 3.20. Sơ đồ phá mảnh của UR-N
78
Kết hợp với việc phân tích phổ NMR ở trên, có thể kết luận rằng cấu trúc
mạch chính của ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata Việt Nam có dạng
A3s: [--D-GlcA-(14)--L-Rha3S-(1] và phân nhánh ở vị trí carbon C-2
của acid glucuronic với nhóm sulfate ở vị trí C-3 của Rha (Hình 3.21).
Hình 3.21. Cấu trúc ulvan UR-N từ rong lục Ulva reticulata
Hiện nay, các phép đo tán xạ là phương pháp hiện đại để xác định cấu trúc
không gian của phân tử polymer. Kết quả đo SAXS của dung dịch 1% ulvan UR-N
trong nước và trong NaCl 0,5M biểu diễn dưới dạng đường cong tán xạ trên biểu đồ
Kratky [Hình 3.22] và Guinier [Hình 3.23].
7x10-3
6
5
4
3
2
1
0
q2I(
q)
543210
q, nm-1
Ulva reticulata Forsskål 1% in water in 0.5 M NaCl aq
Hình 3.22. Biểu đồ Kratky của dung dịch UR-N 1% trong nước
và trong NaCl 0,5 M
79
Biểu đồ Kratky thể hiện sự biến thiên của cường độ tán xạ (q2I(q), với I(q) là
cường độ tán xạ tại q) theo góc tán xạ q. Qua biểu đồ Kratky của mẫu UR-N trên
hình 3.22, mẫu đo trong dung dịch nước, tại góc tán xạ nhỏ có peak tạo thành do
tương tác tĩnh điện và peak này bị mất khi dung dịch được thêm NaCl do các nhóm
mang điện bị che phủ (screening). Ulvan là một sulfate polysaccharide với hàm
lượng sulfate cao, do vậy sự xuất hiện của peak này là một minh chứng về sự có
mặt của các nhóm mang điện (nhóm sulfate) trong phân tử ulvan.
-8
-7
-6
-5
-4
-3
ln(q
I(q
))
6543210
q2
Ulva reticulata Forsskål 1% in water, Rgc=1.35nm in 0.5 M NaCl aq, Rgc=1.37nm
Hình 3.23. Biểu đồ Guinier của dung dịch UR-N 1% trong nước
và trong NaCl 0,5 M
Áp dụng công thức gần đúng của Guinier cho hình dáng phân tử kiểu que
(rod-like) tương tự các sulfate polysacchrie chiết tách từ các loài rong biển khác như
carrageennan từ rong đỏ hay fucoidan từ rong nâu [33, 112, 113], biểu đồ mặt cắt
ngang Guinier (cross-sectional Guinier plot) của UR-N biểu diễn trên hình 3.23 với
trục tung là ln(qI(q)) và trục hoành là q2. Độ dốc của phần tuyến tính của biểu đồ
cho phép xác định giá trị của bán kính hồi chuyển của UR-N là Rgc=1,35nm (trong
nước) và 1,37 nm (trong dung dịch NaCl 0,5M). Đối với các polysaccharide
80
mạch thẳng không phân nhánh như carrageenan hay heparin thì giá trị Rgc
khoảng 0,4-0,5 nm, điều này cho thấy UR-N có mạch nhánh tương đối dài, giống
như fucoidan chiết tách từ các loài rong nâu. Kết quả nghiên cứu về cấu trúc
không gian cũng phù hợp với cấu trúc hóa học xác định được theo các phương
pháp phổ IR, NMR và ESI-MS ở trên là ulvan có cấu trúc mạch nhánh.
Ngoài ra, trên các biểu đồ Kratky và Guinier có đoạn tăng lên đột ngột (up-
turn behavior) khi tiến đến góc tán xạ nhỏ có thể được cho là do có sự tập hợp
(aggregation) của các phân tử ulvan trong dung dịch. Điều này cũng có thể xảy ra vì
một tính chất vật lý đặc trưng của ulvan được biết đến là rât dễ tạo gel trong môi
trường nước [46, 51].
Phương pháp SAXS không những cung cấp thông tin về cấu trúc không gian
của phân tử mà còn giúp đưa ra các thông tin chi tiết hơn về cấu trúc hóa học như
độ dài mạch nhánh và sự phân bố của mạch nhánh trên mạch chính. Để làm được
điều này, một mô hình phân tử của UR-N được xây dựng dựa trên cấu trúc hóa học
đã xác định bằng các phương pháp phổ (Hình 3.21), sau đó, đường tán xạ tính toàn
từ mô hình phân tử được so sánh (fitting) với đường tán xạ thực nghiệm nhận được
từ phép đo SAXS. Ở đây, phương trình Debye [164] được sử dụng để tính toán
đường tán xạ từ mô hình phân tử.
n
j
n
j
n
jk jk
jk
kjkjjiqd
qdqgqgffqgfqI
1
1
1 1
22 sin)()(2)()(
trong đó, fi và djk là khối lượng của nguyên tử tán xạ j và khoảng cách giữa nguyên
tử j và k. Yếu tố hình dạng gj (q) đối với một nguyên tử được biểu diễn bằng hình
cầu với bán kính bằng bán kính Van der Waals, Rj, của nguyên tử j.
3)(
)cos()()sin(3
qR
qRqRqRg
j
jjj
j
Giá trị Rgc có thể biểu hiện cho mức độ phân nhánh và độ dài mạch nhánh
của cấu trúc phân nhánh của phân tử polymer. Với UR-N, kết quả cho thấy mô hình
cấu trúc phân tử xây dựng với n = 5 và m =4 (Hình 3.24) thì biểu đồ tán xạ Kratky
thu được từ thực nghiệm SAXS và tính toán dựa trên mô hình cấu trúc phân tử có
độ trùng nhau (fitting) khá tốt (Hình 3.25).
81
a)
Chú thích: G: Glucuronic acid, R– Rhamnose, liên kết ở mạch chính (1→ 4), liên kết ở mạch nhánh (1 → 2).
b)
Hình 3.24. a) Đơn vị cấu trúc để xây dựng mô hình cấu trúc phân tử, b) Mô hình cấu trúc phân tử của UR-N xây dựng dựa trên cấu trúc hóa học
Hình 3.25. Biểu đồ Kratky với các đường tán xạ từ thực nghiệm và từ mô hình cấu
trúc phân tử.
82
Trên thế giới ulvan từ rong lục Ulva lactuca đã được nghiên cứu nhiều do
chúng có cấu trúc phức tạp và có nhiều hoạt tính sinh học quý. Yaich và CS [158]
đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của điều kiện chiết tách đến hiệu suất chiết tách, thành
phần hóa học, khối lượng phân tử, các tính chất lưu biến và cấu tạo ulvan từ rong
lục Ulva lactuca. Nghiên cứu của Hanaa và CS [136] đã chỉ ra rằng ulvan từ rong
lục Ulva lactuca thể hiện hoạt tính chống oxy hóa, chống đông tụ tốt; có khả năng
ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, có khả năng kháng virus cúm HSV-1 cao.
Chiu và CS [17] đã chứng minh rằng ulvan từ rong lục Ulva lactuca còn có khả
năng ức chế virus viêm não Nhật Bản. Thêm nữa, các kết quả nghiên cứu [97, 106]
chỉ ra rằng cấu trúc của ulvan từ Ulva lactuca rất đa dạng và phức tạp, được cấu
thành bởi (1→4)- và (1→2,4)-Rha3S và (1→4)-GlcA và (1→4)-Xyl2S, phụ thuộc
nhiều vào phương pháp chiết tách, vị trí địa lý nơi rong sinh trưởng và thời điểm thu
hái. Costa và CS [127] đã nghiên cứu cấu trúc hóa học của ulvan từ loài rong lục
giống với loài rong mà chúng tôi đang nghiên cứu nhưng thu thập ở vùng biển của
Bồ Đào Nha, kết quả chỉ ra rằng polysaccharide được tạo thành bởi phần lớn là
chuỗi liên kết glycoside ở Rha dạng (1→4) và (1→2,4) và Rha bị sulfate hóa ở vị trí
C-3, liên kết glycoside ở GlcA là β-(1→4)-, liên kết glycoside ở Xyl là (1→4)- và
(1→3)- và xylose bị sulfate hóa ở vị trí C-2. Gần đây, những số liệu nghiên cứu
khẳng định lại sự có mặt của 2-sulfate Xyl trong phân tử ulvan và chứng minh là
hầu hết các nhóm sulfate trong phân tử ulvan từ rong lục Ulva đều ở vị trí C-3 hoặc
C-2 của Rha (1→4)-.
Do vậy, nhằm đóng góp và chứng minh về sự đa dạng, phức tạp trong cấu
trúc và nhằm góp phần khẳng định sự phụ thuộc cấu trúc của ulvan từ loài rong lục
này vào phương pháp chiết tách và vị trí địa lý nơi rong sinh trưởng, chúng tôi đã
chọn ulvan từ rong lục Ulva lactuca thu thập ở vùng biển Nha Trang của Việt Nam
để nghiên cứu cấu trúc.
3.2.3. Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca (UL-N)
Phổ IR của ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca được đưa ra ở Hình
3.26. Trên phổ, ta thấy có các dao động đặc trưng của nhóm sulfate ester và acid
uronic. Băng sóng hấp thụ tại 845 cm 1 là đặc trưng cho dao động của liên kết C-O-
S. Thêm nữa, dải hấp thụ ở 789 cm-1 được cho là dao động điển hình cho liên kết C-
O-S của nhóm sulfate ở vị trí equatorial, băng sóng hấp thụ trong vùng 1599 cm 1 là
83
do dao động của nhóm COO-, xác nhận cho sự có mặt của acid uronic trong phân tử
ulvan. Hơn nữa, dải phổ rộng tại 3361 cm 1 là dao động của nhóm OH hóa trị có
liên kết hydro trong phân tử, ở 2920 cm 1 là dao động của nhóm CH và dải hấp thụ
ở 1026 cm 1 là đặc trưng cho liên kết glycoside C-O-C.
Hình 3.26. Phổ IR của UL-N
Phân tích phổ cộng hưởng từ hạt nhân của ulvan UL-N cho thấy, trên vùng
anomeric của phổ 1H-NMR (Hình 3.27) xuất hiện 4 tín hiệu ứng với độ chuyển dịch
hóa học ở δ5,36; δ4,90; δ4,82 và δ4,64 ppm, được kí hiệu cho 4 gốc A, B, C, và D,
tương ứng. Trên phổ xuất hiện một tín hiệu ở vùng trường cao ứng với độ chuyển
dịch hóa học δ1,3 ppm được cho là proton gắn với C-6 của nhóm methyl của
rhamnose, các tín hiệu cộng hưởng trong vùng δ3,35-4,61 ppm là đặc trưng cho các
proton vòng pyranose (Bảng 3.10). Kết quả phân tích phổ 13C-NMR của mẫu
polysaccharide chiết nước từ rong lục Ulva lactuca cũng cho thấy, trong vùng
anomeric xuất hiện các tín hiệu carbon anomer ứng với độ chuyển dịch hóa học
δ89,65–103,65 ppm và các tín hiệu ở vùng δ69–80 ppm là của các carbon vòng
pyranose. Tín hiệu cộng hưởng ở độ chuyển dịch hóa học δ17 ppm là đặc trưng cho
carbon của nhóm methyl C-CH3 và tín hiệu ở vùng trường thấp ứng với δ177,76
84
ppm được gán cho carbon của nhóm carboxyl (Bảng 3.10). Trên phổ 13C-NMR
(Hình 3.28), còn xuất hiện tín hiệu cộng hưởng ở δ61,2 ppm đặc trưng cho carbon
C-5 của nhóm CH2 của xylose và/hoặc carbon C-6 của nhóm CH2 của glucose
và/hoặc galactose.
Hình 3.27. Phổ 1H-NMR của UL-N
Tín hiệu cộng hưởng của năm proton từ H-1 đến H-5 của A lần lượt được
gán thông qua tương tác của các proton thể hiện trên peak đường chéo ở phổ COSY
(Hình 3.29). Proton H-1 (δ5,36 ppm) có tương tác với H-2 (δ3,65 ppm), thể hiện rất
rõ thông qua peak đường chéo; tương tác giữa proton H-2 với proton H-3 có độ
chuyển dịch hóa học δ3,95 ppm; tương tác giữa H-3 và H-4, H-4 và H-5 cũng được
tìm thấy trên phổ COSY. Dựa vào các proton đã xác định được ở trên cùng với
những thông tin thu được từ phổ HSQC (Hình 3.27), các carbon từ C-1 đến C-5
được xác định; carbon C-5 (A) với độ chuyển dịch hóa học 61,2 ppm (Bảng 3.10)
chỉ ra rằng A là xylose. Tín hiệu cộng hưởng proton H-1(A) dịch về phía trường
85
thấp với độ chuyển dịch hóa học δ5,36 ppm cho chúng tôi có thể kết luận rằng A là
xylose, thêm nữa, tín hiệu cộng hưởng của carbon C-2 nằm ở vùng trường thấp
tương ứng với độ dịch chuyển hóa học δ77,92 ppm chứng tỏ A tham gia liên kết
glycoside qua liên kết (12) và/hoặc bị sulfate hóa ở vị trí C-2.
Hình 3.28. Phổ 13C-NMR của UL-N
Đối với B và C, từ tín hiệu của proton anomer H-1(B) và H-1(C) ở độ
chuyển dịch hóa học δ4,90 ppm và δ4,82 ppm, tương ứng, lần lượt các proton còn
lại từ H-2 đến H-6 của B và C được gán thông qua các peak đường chéo trên phổ
86
COSY (Hình 3.29). Dựa vào thông tin về độ chuyển dịch hóa học của các proton đã
tìm được ở trên, chúng tôi cũng tìm được các carbon từ C-1 đến C-6 tương ứng từ
phổ HSQC (Hình 3.30). Độ chuyển dịch hóa học của các proton và carbon được
tóm tắt ở Bảng 4.10, kết quả gán phổ trên Bảng 3.10 cho thấy B và C là dạng 6-
deoxyhexopyranose điển hình, độ chuyển dịch hóa học của proton anomer H-1(B)
và H-1(C) ở δ4,90 ppm và δ4,82 ppm chỉ ra rằng liên kết glycoside của B và C có
thể là dạng hoặc α-linked. Tuy nhiên, các kết quả nghiên cứu trước cho thấy ulvan
tự nhiên có thành phần chính là α-rhamnose [120, 122], do đó, chúng tôi có thể kết
luận rằng B và C là α-rhamnose. Hơn nữa, tín hiệu cộng hưởng của carbon C-2 và
C-4 của B bị đẩy về vùng trường thấp ứng với độ chuyển dịch hóa học δ79,21 ppm
và δ76,88 ppm, gợi ý rằng rhamnose B có liên kết glycoside kiểu (12,4) và/hoặc
bị sulfate hóa ở vị trí carbon C-2 và C-4. Đối với C, các tín hiệu cộng hưởng của
carbon C-3 (δ78,68 ppm) và C-4 (δ78,68 ppm) cũng bị đẩy về vùng trường thấp,
chứng tỏ C tham gia liên kết glycoside kiểu (13,4) và/hoặc bị sulfate hóa ở các vị
trí carbon C-3 và C-4.
Hình 3.29. Phổ COSY của UL-N
87
Hình 3.30. Phổ HSQC của UL-N
88
Hình 3.31. Phổ HMBC của UL-N
89
Đối với D, từ tín hiệu cộng hưởng của proton anomer H-1(D) ở δ4,64 ppm,
dựa vào phổ COSY và HSQC, chúng tôi gán được các proton H-2(D), H-3(D), H-
4(D) và H-5(D) với độ chuyển dịch hóa học tương ứng là δ3,35; δ3,65; δ3,68 và
δ3,81 ppm, cũng như các carbon C-2(D), C-3(D), C-4(D) vΰ C-5(D) ở δ74,40;
74,58; 79,40 và 76,88 ppm, tương ứng. Trên phổ 13C-NMR, xuất hiện một peak ứng
với độ chuyển dịch hóa học δ177,76 ppm cho thấy sự có mặt của acid uronic trong
phân tử ulvan chiết nước từ rong Ulva lactuca, tín hiệu cộng hưởng của carbon C-2
và C-4 bị đẩy về phía trường thấp cho thấy kiểu liên kết glycoside ở acid uronic D
có thể là dạng (12) và (14). Proton anomer H-1(D) có độ chuyển dịch hóa học
ở 4,64 ppm, vậy D có thể là - acid glucuronic.
Liên kết glycoside trong mạch phân tử polysaccharide UL-N được xác định
dựa vào phổ HMBC (Hình 3.31), trên phổ HMBC, chúng tôi thấy có sự tương tác
giữa proton H-1(C) và carbon C-4(D), proton H-1(D) và carbon C-4(C). Điều này
chỉ ra rằng trong phân tử ulvan mà chúng tôi đang nghiên cứu chứa cả hai dạng liên
kết Rha-(14)-GlcA và GlcA-(14)-Rha. Bên cạnh đó, phân tích phổ HMBC,
chúng tôi còn thấy có mối tương quan giữa carbon C-2(A) và proton H-1(D), carbon
C-2(B) và proton H-1(C), carbon C-2(B) và proton H-1(D), điều này chứng tỏ rằng,
trong phân tử UL-N còn tồn tại 3 dạng liên kết glycoside nữa là GlcA-(12)-Xyl,
Rha-(12)-Rha và GlcA-(12)-Rha.
Bảng 3.10. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UL-N
Monosaccharide C-1/H-1 C-2/H-2 C-3/H-3 C-4/H-4 C-5/H-5 C-6/H-6
A
→2)-α-D-Xyl-(1→
100,27/
5,36
77,92
3,65
73,82/
3,95
71,87/
3,82
61,20/
3,80;
3,88
B
→2,4)-α-L-Rha-(1→
89,65;
101,50/
4,90
79,21/
4,06
71,74/
3,71
76,88/
3,82
68,40/
4,0
17,12/
1,31
C
→4)-α-L-Rha3S-(1→
100,40/
4,82
69,46/
4,23
78,68/
4,61
78,68/
3,80
68,65/
4,13
17,35/
1,31
D
→4)-β-D-GlcA-(1→
103,65/
4,64
74,40/
3,35
74,58/
3,65
79,40/
3,68
76,88/
3,81
177,76
90
Phổ ESI-MS của ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca được đưa ra ở
Hình 3.32, trên phổ, ta thấy xuất hiện tín hiệu ứng với m/z 193 được cho là của acid
uronic, ion mảnh ở m/z 243 là của monosulfate rhamnose [RhaSO3]-. Các ion mảnh
với m/z 325, 339 và 375 được gán cho là của [XylUroA]-, [RhaUroA]- và
[XylRhaSO3]-, tương ứng. Hơn nữa, ta còn thấy tín hiệu với m/z 419 chính là của
disaccharide dạng [UroARhaSO3]- và mảnh ứng với m/z 535 là của monosulfate
trirhamnose [Rha3SO3]-.
[UroA]-
[XylUroA]-
[RhaUroA]-
[RhaSO3]-
[XylRhaSO3]-
[UroARhaSO3]-
[Rha3SO3]-
Hình 3.32. Phổ ESI-MS của ulvan UL-N
Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh với m/z 243 được đưa ra trên Hình 3.33, theo
tác giả của nghiên cứu [99, 113] chỉ ra rằng vị trí nhóm sulfate trong phân tử ulvan
có ảnh hưởng đến phổ MS. Trên phổ MS2 của ion mảnh m/z 243, chúng tôi thấy có
hai peak ion mảnh ứng với m/z 183 và m/z 169 là đặc trưng cho sự có mặt của nhóm
91
sulfate ở vị trí carbon C-4 và C-3 của Rha tương ứng. Như vậy, kết hợp kết quả
phân tích phổ NMR với phổ ESI-MS ở trên, chúng tôi kết luận rằng Rha (B) có thể
bị sulfate ở cả 2 vị trí C-3 và C-4.
Hình 3.33. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243
Từ các thông tin thu được qua việc phân tích phổ IR, NMR và MS, chúng tôi
có thể khẳng định rằng, ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca có cấu trúc mạch
chính chủ yếu là disaccharide dạng [→4)-β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S-(1→] và
phân nhánh ở vị trí carbon C-2 của rhamnose. Ngoài ra, trong phân tử ulvan còn có
lượng nhỏ disaccharide ở dạng liên kết GlcA-(12)-Xyl, GlcA-(12)-Rha.
Như vậy, cấu trúc hóa học của phân tử ulvan từ rong lục Ulva lactuca mà
chúng tôi đưa ra giống với các kết quả nghiên cứu trước đó ở mạch chính nhưng
khác nhau ở mạch nhánh và những mạch phụ. Điều này cho phép khẳng định lại
rằng, cấu trúc của ulvan từ rong lục rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào nhiều
vào vị trí địa lý nơi rong sinh trưởng.
92
3.2.4. Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca (UL-H)
Trên phổ IR của UL-H, ta thấy, có dải hấp thụ với cường độ nhỏ ở 850 cm 1
được gán cho dao động của liên kết C-O-S. Ngoài ra còn có dải hấp thụ tại vùng
786cm-1 được cho là dao động đặc trưng cho liên kết C-O-S của nhóm sulfate ở vị
trí equatorial, dải hấp thụ ở 1014 cm 1 đặc trưng cho liên kết glycoside C-O-C. Dải
hấp thụ ở 1599 cm 1 là do dao động của liên kết COO của acid uronic.
Hình 3.34. Phổ 1H-NMR của UL-H
Trên vùng anomeric của phổ 1H-NMR (Hình 3.34) xuất hiện 3 cụm tín hiệu
ứng với độ chuyển dịch hóa học ở δ4,823; 4,891 và 4,652 ppm, được kí hiệu là D,
D’ và E, tương ứng. Trên phổ có một tín hiệu ở vùng trường cao ứng với độ chuyển
93
dịch hóa học khoảng δ1,3 ppm đặc trưng cho proton gắn với C-6 của nhóm methyl
của rhamnose và các tín hiệu cộng hưởng trong vùng δ3,35-4,58 ppm là đặc trưng
của các proton vòng pyranose (Bảng 3.11).
Hình 3.35. Phổ 13C-NMR của UL-H
Các kết quả phân tích phổ 13C-NMR (Hình 3.35) của mẫu ulvan chiết acid từ
rong lục Ulva lactuca cũng cho thấy trong vùng anomeric xuất hiện các tín hiệu
carbon anomer ứng với độ chuyển dịch hóa học δ102–105 ppm và các tín hiệu ở
vùng δ70–81 ppm là của carbon vòng pyranose, carbon của nhóm methyl C-CH3 có
tín hiệu ở vùng khoảng δ19 ppm. Trên phổ 13C-NMR không thấy xuất hiện tín hiệu
94
ở δ63 ppm đặc trưng cho sự có mặt của carbon C-6 của nhóm CH2 của galactose và
glucose hoặc carbon C-5 của nhóm CH2 của xylose. Điều này cung cấp cho chúng
ta thông tin rằng trong mẫu ulvan chiết acid từ rong Ulva lactuca chỉ chứa một
lượng rất nhỏ các thành phần đường như galactose, glucose và xylose so với
rhamnose, do đó không thể phát hiện được các đường này trên phổ NMR. Kết quả
này phù hợp với kết quả phân tích hàm lượng đường ở trên.
Hình 3.36. Phổ COSY của UL-H
Tương tác của các proton của D được kiểm tra trên phổ COSY (Hình 3.36),
từ đây các proton từ H-1 đến H-6 của D lần lượt được gán. Proton H-1 (δ4,82 ppm)
có tương tác với H-2 (δ4,22 ppm), thể hiện rõ thông qua peak đường chéo; tương
95
tác giữa proton H-2 với proton H-3 có độ chuyển dịch hóa học δ4,58 ppm; tương tác
giữa H-3 và H-4 ở độ dịch chuyển hóa học δ3,78 ppm, H-4 và H-5 ở δ4,11 ppm
cũng được thể hiện qua peak đường chéo như trên Hình 3.33. Dựa vào các proton
đã xác định được ở trên cùng với những thông tin thu được từ phổ HSQC (Hình
3.37), các carbon từ C-1 đến C-6 được xác định lần lượt tương ứng với độ chuyển
dịch hóa học ở δ102,45 ppm, δ71,62 ppm, δ80,80 ppm, δ80,70 ppm, δ70,79 ppm và
ở khoảng δ19,56 ppm. Trên phổ 1H-NMR, độ dịch chuyển hóa học của proton H-1
của D ở δ4,82 ppm là giá trị liên kết dạng Hα hoặc H anomer.
Hình 3.37. Phổ HSQC của UL-H
Tuy nhiên, các nghiên cứu trước đó đã chỉ ra rằng ulvan tự nhiên chứa thành
phần là α-rhamnose [96, 97, 107], do đó, chúng tôi có thể kết luận rằng D là α-
96
rhamnose. Trên phổ 13C-NMR, chúng tôi thấy các tín hiệu cộng hưởng của carbon
C-3 và C-4 của D nằm ở vùng trường thấp tương ứng với độ dịch chuyển hóa học
δ80,80 ppm và δ80,70 ppm, chứng tỏ D tham gia liên kết glycoside qua liên kết
(13,4) và/hoặc bị sulfate hóa ở vị trí carbon C-3 và C-4.
Đối với E, từ tín hiệu của proton anomer H-1 ở δ4,65 ppm trên phổ COSY và
HSQC, chúng tôi gán được các proton H-2, H-3, H-4 và H-5 với độ dịch chuyển
hóa học tương ứng là δ3,35; δ3,60; δ3,65 và δ3,86 ppm, xác định được carbon C-1,
C-2, C-3, C-4 và C-5 ở δ105,69; δ76,44; δ76,72; δ81,52 và δ78,49 ppm, tương ứng.
Độ dịch chuyển hóa học proton H-1 của E tại δ4,652 ppm là đặc trưng cho kiểu liên
kết -linked, kết hợp với kết quả phân tích thành phần hóa học và các nghiên cứu
trước [11, 97, 107] có thể gán E là - acid glucuronic. Trên phổ 13C-NMR của UL-
H, tín hiệu cộng hưởng của carbon C-4 bị đẩy về phía vùng trường thấp, chứng tỏ, E
tham gia liên kết glycoside (14).
Đối với rhamnose D’, từ tín hiệu proton H-1 ở δ4,89 ppm, thông qua các
peak đường chéo trên phổ COSY, các proton còn lại từ H-2 đến H-5 được xác định
tương ứng với độ chuyển dịch hóa học là δ4,22; δ4,05; δ3,86 và δ3,71 ppm. Bằng
phổ HSQC, các carbon từ C-1 đến C-5 của D’ cũng lần lượt được gán ở các độ
chuyển dịch hóa học tương ứng là δ103,6; δ71,62; δ81,34; δ74,10 và δ73,20 ppm.
Các tín hiệu của carbon C-3 và C-4 bị đẩy về phía trường thấp chứng tỏ D’ tham gia
liên kết glycoside qua liên kết (13,4) và/hoặc bị sulfate hóa ở vị trí carbon C-3 và
C-4.
Chuỗi liên kết glycoside được xác định từ phổ HMBC (Hình 3.38), trên phổ
HMBC cho thấy có sự tương tác giữa proton H-1(D) và carbon C-4(E), proton
H-4(D) và carbon C-1(E), điều này một lần nữa khẳng định trong phân tử ulvan mà
chúng tôi chiết tách được chứa cả 2 dạng liên kết glycoside Rha-(14)-GlcA và
GlcA-(14)-Rha. Kết hợp với các thông tin thu được từ phổ COSY, chúng tôi có
được kết luận là rhamnose ở mạch chính tham gia liên kết glycoside (14) và bị
sulfate hóa ở vị trí carbon C-3. Trên phổ HMBC còn xuất hiện tương tác giữa
proton anomer H-1 (D’) với carbon C-3(D ) và C-4(D), chứng tỏ D’ và D liên kết
với nhau qua liên kết glycoside (13, 4). Các kết quả này cho thấy rằng, cấu trúc
của ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca gồm disaccharide [→4)-β-D-GlcA-
97
(1→4)-α-L-Rha3S-(1→] và phân nhánh tại vị trí carbon C-3 của rhamnose, trùng
với các nghiên cứu [96, 97].
Hình 3.38. Phổ HMBC của UL-H
Từ những kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ NMR ở trên, chúng tôi có thể
kết luận rằng ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca có cấu trúc tạo thành từ
disaccharide [→4)-β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S-(1→] và phân nhánh tại vị trí
carbon C-3 của rhamnose. So sánh với các nghiên cứu trước đây về ulvan từ rong
98
lục Ulva lactuca [97, 125, 131, 158] cho thấy rằng ulvan được chiết tách bằng các
phương pháp khác nhau, đều có cấu trúc với thành phần mạch chính giống nhau,
chúng chỉ khác nhau ở mạch nhánh. Kết quả phân tích phổ cộng hưởng từ được đưa
ra ở Bảng 3.11.
Bảng 3.11. Kết quả phân tích phổ 1H và 13C-NMR của UL-H
Monosaccharide C-1/H-1 C-2/H-2 C-3/H-3 C-4/H-4 C-5/H-5 C-6/H-6
D
4)--L-Rha3S-(1
102,45/
4,82
71,62/
4,22
80,80/
4,58
80,70/
3,78
70,79/
4,11
~19,56/
~1,3
E
1)--D-GlcA-(4
105,69/
4,65
76,44/
3,35
76,72/
3,60
81,52/
3,65
78,49/
3,86
D’
1)--L-Rha-(3,4)
~103,6/
4,89
71,62/
4,22
81,34/
4,05
~74,10/
3,86
~73,2/
3,71
~19,48/
~1,29
Trên phổ ESI-MS của ulvan có các peak ion mảnh của disaccharide
[RhaUroASO3]- tại m/z 419. Các monosaccharide là monosulfate rhamnose
[RhaSO3]- và acid uronic [UroA] cho các peak m/z 243 và m/z 195, tương ứng. Phổ
ESI-MS/MS của disaccharide với m/z 243 được đưa ra ở Hình 3.39. Các công trình
nghiên cứu [100, 113] chỉ ra rằng, vị trí nhóm sulfate trong phân tử sulfate
polysaccharide có ảnh hưởng đáng kể đến phổ MS. Trên phổ, chúng tôi thấy có
peak ion mảnh với cường độ mạnh tại m/z 169 chỉ ra sự có mặt của nhóm sulfate ở
vị trí carbon C-3 của Rha. Một peak ion mảnh có cường độ yếu tại tại m/z 139 là
minh chứng rằng ulvan bị sulfate hóa một phần tại vị trí số 2 của rhamnose. Như
vậy, ulvan UL-H mà chúng tôi nghiên cứu có rhamnose bị sulfate ở cả 2 vị trí: chủ
yếu ở vị trí carbon C-3 và một phần nhỏ ở vị trí carbon C-2. Điều này cũng phù hợp
với các thông tin thu được qua phân tích phổ IR và NMR ở trên.
99
Hình 3.39. Phổ ESI-MS/MS của ion mảnh [RhaSO3]- tại m/z 243
Từ các thông tin thu được ở trên, chúng tôi có thể kết luận rằng ulvan phân
lập được từ rong lục Ulva lactuca thu thập từ biển Nha Trang theo phương pháp
chiết acid có cấu trúc chuỗi disaccharide chủ yếu dạng [→4)β-D-GlcA-(1→4)α-L-
Rha3S-(1→] và phân nhánh tại vị trí C-3 của rhamnose.
Kết luận:
Cấu trúc của các ulvan có hoạt tính sinh học được chiết tách từ 2 loài rong
lục phổ biến ở vùng biển Nha Trang của Việt nam, được tóm tắt lại như sau:
100
- Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva reticulata
Nhóm sulfate ở vị trí carbon C-2, C-3 và C-4 của Rha.
Đây là một ulvan có cấu trúc mới, vì đa số các ulvan chỉ có liên kết 1→4 ở
mạch chính, trong khi ulvan này tồn tại liên kết 1→2 ở mạch chính.
- Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata
Nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3 của Rha.
- Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca
Nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3 của Rha.
- Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca
Nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3 và C-4 của Rha.
101
Qua kết quả nghiên cứu cấu trúc của các ulvan có hoạt tính sinh học ở trên,
có thể khẳng định được rằng thành phần và cấu trúc của ulvan không những phụ
thuộc vào loài rong nghiên cứu mà còn phụ thuộc vào phương pháp chiết tách
chúng từ rong. Tổng hợp các kết quả nghiên cứu trên, cho thấy rằng có mối liên hệ
giữa phương pháp chiết tách với thành phần hóa học và hoạt tính sinh học của
ulvan, cụ thể các mẫu ulvan chiết nước với lượng Rha và sulfate cao hơn thể hiện
các hoạt tính nghiên cứu tốt hơn, tiếp đến là ulvan chiết acid và thấp nhất là ulvan
chiết kiềm. Kết quả này có thể được lý giải rằng, khối lượng phân tử là một yếu tố
quan trọng ảnh hưởng đến hoạt tính sinh học của ulvan.
3.3. Khảo sát ảnh hưởng của sự sulfate hóa và acetyl hóa đến hoạt tính
sinh học của ulvan
Các nghiên cứu trước đây cho thấy nhóm sulfate là yếu tố cấu trúc có ảnh
hưởng lớn đến hoạt tính sinh học của sulfate polysaccharide, nhất là hoạt tính chống
đông tụ máu [159-163]. Mặt khác, sự acetyl hóa có thể làm tăng hoạt tính chống
oxy hóa hoặc kháng vi sinh vật kiểm định của chúng [154-156]. Nhằm mục đích tìm
hiểu sự thay đổi cấu trúc cũng như hoạt tính sinh học của ulvan khi chúng bị sulfate
hóa hoặc acetyl hóa chúng tôi đã điều chế các dẫn xuất sulfate hóa và acetyl hóa của
mẫu ulvan tự nhiên UR-N.
3.3.1. Ảnh hưởng của sự sulfate hóa
Theo kết quả phân tích cấu trúc ở trên, ulvan chiết nước từ rong lục Ulva
reticulata (UR-N) có cấu trúc mạch chính là disaccharide [→4)-β-D-GlcA(1→4)-α-
L-Rha3S-(1→] và bị phân nhánh ở vị trí carbon C-2 của acid glucuronic với Rha bị
sulfate hóa ở vị trí carbon C-3.
Từ cấu trúc của UR-N, chúng tôi thấy rằng có 3 vị trí có thể bị sulfate hóa là
carbon C-2 của rhamnose, carbon C-2 và C-3 của acid glucuronic. Để kiểm tra sự
thay đổi trong cấu trúc của mẫu sulfate hóa UR-S, các phép đo và phân tích phổ IR,
13C-NMR và HSQC đã được sử dụng.
Phổ IR của UR-N và UR-S được đưa ra ở Hình 3.40. So sánh hai phổ này,
cho thấy phổ của UR-S thể hiện sự tăng mạnh cường độ hấp thụ của tín hiệu tại
845-880 cm-1 đặc trưng cho nhóm sulfate ở vị trí axial, đồng thời có sự giảm cường
102
độ hấp thụ của tín hiệu tại ~3261-3370 cm-1 là đặc trưng cho dao động của nhóm
OH.
Hình 3.40. Phổ IR của UR-N (a) và UR-S (b)
Trên phổ 13C-NMR của UR-S (Hình 3.41), xuất hiện tín hiệu mới ứng với độ
chuyển dịch hóa học ở δ77,2 ppm, được gán cho carbon ở vị trí C-2 của rhamnose,
có sự dịch về phía trường thấp hơn so với tín hiệu C-2 của vị trí carbon không thế,
điều đó chứng tỏ mẫu UR-S bị sulfate hóa tại vị trí C-2 của rhamnose.
103
Hình 3.41. Phổ 13C-NMR của UR-N (a) và UR-S (b)
Hình 3.42. Phổ HSQC của UR-N (a) và UR-S (b)
104
Trên phổ HSQC của UR-S xuất hiện một số tín hiệu mới và dịch chuyển về
phía trường thấp hơn so với phổ HSQC của UR-N (Hình 3.42), điều này được lý
giải là do có sự tăng thành phần nhóm sulfate trong phân tử ulvan. Quan sát phổ
HSQC của UR-S còn cho thấy, tín hiệu thể hiện sự tương tác giữa C-1/H-1 của
rhamnose bị tách ra; đồng thời có hai tín hiệu mới xuất hiện trên phổ, thể hiện sự
tương tác giữa C-2/H-2 với độ dịch chuyển hóa học δ80,0/3,38 ppm và C-3/H-3 ở
δ76,5/3,67 ppm của acid glucuronic, hơn nữa, cường độ tín hiệu C-2 của rhamnose
tăng lên. Kết hợp với phổ 13C-NMR, chúng tôi có thể kết luận rằng cả 3 vị trí
carbon gồm C-2 của rhamnose và C-2, C-3 của acid glucuronic đã bị sulfate hóa
một phần. Như vậy, kết quả phân tích phổ NMR cũng phù hợp với kết quả phổ IR ở
trên và các nghiên cứu trước [159].
Hình 3.43. Ảnh SEM của UR-N (a) và UR-S (b)
Dưới kính hiển vi điện tử quét (SEM), có sự khác nhau rất rõ ràng ở cấu trúc
bề mặt giữa mẫu UR-N và UR-S (Hình 3.43). Các phân tử UR-N tạo thành khối có
cấu trúc bề mặt phẳng trong khi UR-S dường như tạo thành các khối tinh thể nhỏ có
hình dạng xác định.
105
Theo kết quả nghiên cứu mà chúng tôi thu được, nhóm sulfate đóng vai trò
quan trọng quyết định dạng cấu trúc của phân tử ulvan. Trong phân tử UR-S, việc
thay thế các nhóm hydroxyl của các đơn vị đường bằng nhóm sulfate có thể dẫn đến
làm thay đổi cấu hình của chuỗi đường do lực đẩy giữa các nhóm sulfate có thể làm
cho cấu trúc phân tử ulvan bị dãn rộng hơn (extended structure) hoặc kém linh động
hơn (rigid structure).
Đánh giá ảnh hưởng của sự sulfate hóa đến hoạt tính sinh học của ulvan
Chúng tôi thử 4 hoạt tính gây độc tế bào, chống oxy hóa, kháng vi sinh vật
kiểm định và chống đông tụ máu của mẫu UR-S giống như đã thử với mẫu UR-N.
Kết quả cho thấy không có sự thay đổi đáng kể của 3 hoạt tính gây độc tế bào,
chống oxy hóa, kháng vi sinh vật kiểm định. Trong khi đó hoạt tính chống đông tụ
máu thì tăng đáng kể.
Với mục đích tìm hiểu ảnh hưởng của mức độ sulfate hóa đến hoạt tính
chống đông tụ máu, các dẫn xuất UR-S với hàm lượng sulfate khác nhau đã được
điều chế và được tiến hành đánh giá hoạt tính chống đông tụ máu như được chỉ ra
trong phần Thực nghiệm. Kết quả thử hoạt tính chống đông tụ máu của UR-N và
UR-S với hàm lượng sulfate khác nhau được đưa ra trên Bảng 3.12, thuốc được
dùng làm chất đối chứng là Aspirin.
Bảng 3.12. Kết quả thử hoạt tính chống đông tụ máu của UR-N và UR-S
Tên mẫu DS (%) Thời gian đông tụ
máu (phút)
UR-N 17,60 10
UR-S1 21,25 25
UR-S2 25,68 40
UR-S3 30,42 45
UR-S4 33,21 30
UR-S5 35,96 37
Aspirin (đối chứng) 48
106
Kết quả ở bảng trên cho thấy, sự biến tính hóa học bằng cách sulfate hóa mẫu
UR-N đã làm tăng hàm lượng sulfate trong mẫu UR-S đồng thời khả năng chống
đông tụ máu của mẫu ulvan sulfate tăng lên đáng kể so với ulvan tự nhiên, tuy nhiên
chúng tôi không thấy sự phụ thuộc có quy luật của khả năng chống đông tụ máu vào
hàm lượng sulfate. Kết quả này có thể giải thích rằng, còn có những yếu tố khác liên
quan đến khả năng chống đông tụ máu của ulvan như khối lượng phân tử, vị trí
nhóm sulfate… Nghiên cứu [148, 161, 162] đã chỉ ra rằng hoạt tính chống đông tụ
máu của polysaccharide tăng lên khi sulfate hóa là do có sự tăng nhóm mang điện
tích âm và nhóm này có thể liên kết với nhóm mang điện tích dương của chất ức chế
đông tụ máu và do đó làm tăng hoạt tính chống đông tụ máu.
3.3.2. Ảnh hưởng của sự acetyl hóa
Sự thay đổi cấu trúc của UR-N sau khi acetyl hóa thành UR-Ac được kiểm
tra bằng phổ 1H-NMR và 13C-NMR.
Hình 3.44. Phổ 1H-NMR a) và 13C-NMR b) của UR-Ac
107
Phổ 1H- NMR và 13C-NMR của UR-Ac được đưa ra ở Hình 3.44, ta thấy trên
phổ 1H-NMR của UR-Ac xuất hiện píc mới ở độ chuyển dịch hóa học δ2,007 ppm
và phổ 13C-NMR có píc tại δ22,5 ppm, thể hiện sự có mặt của nhóm acetyl CH3-
CO. Như vậy, bằng phổ NMR, chúng tôi khẳng định mẫu UR-N đã bị acetyl hóa.
Hình 3.45. Ảnh SEM của UR-N (a) và UR-Ac (b)
Ảnh SEM (Hình 3.45) cũng thể hiện sự khác nhau rất rõ ràng ở cấu trúc bề
mặt giữa mẫu UR-N và UR-Ac. Cấu trúc bề mặt như các tấm phẳng của UR-N trở
nên xốp hơn với nhiều các lỗ và hốc rỗng lớn.
Đánh giá ảnh hưởng của sự acetyl hóa đến hoạt tính sinh học của ulvan
Chúng tôi thử 4 hoạt tính gây độc tế bào, chống oxy hóa, kháng vi sinh vật
kiểm định và chống đông tụ máu của mẫu UR-Ac giống như đã thử với mẫu UR-N.
Kết quả cho thấy không có sự thay đổi đáng kể của cả 4 hoạt tính này. Điều này có
thể được lý giải rằng khi bị acetyl hóa, ulvan được gắn thêm nhóm acetyl là nhóm
không ưa nước, làm phân tử ulvan khó tan trong nước hơn và do vậy không thuận
lợi cho các phản ứng sinh hóa xảy ra.
108
KẾT LUẬN CHUNG
Qua thời gian nghiên cứu chúng tôi đã thu được các kết quả như sau:
1. Đã chiết tách 6 mẫu ulvan từ 2 loài rong lục Ulva lactuca và Ulva
reticulata thu thập ở vùng biển Nha Trang - Khánh Hòa bằng 3 quy trình
khác nhau; Đã xác định thành phần hóa học và đánh giá hoạt tính sinh học
của chúng. Kết quả cho thấy, 2 mẫu ulvan có hàm lượng sulfate, acid
uronic và rhamnose cao nhất, có hoạt tính sinh học tốt nhất.
2. Bằng cách kết hợp các phương pháp vật lý GPC, IR, NMR và MS đã
nghiên cứu thành công cấu trúc hóa học của 4 mẫu ulvan được chiết
tách từ 2 loài rong trên, cụ thể như sau:
Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva reticulata: có cấu trúc mạch chính dạng
[→2)--D-GlcA-(1→2)--L-Rha-(1→] và [→2)--L-IdoA-(1→4)--L-
Rha-(1→], phân nhánh ở vị trí C-2 của acid uronic với Rha bị sulfate hóa ở
cả 3 vị trí carbon C-2, C-3 và C-4.
Đây là một ulvan có cấu trúc mới, vì đa số các ulvan chỉ có liên kết 1→4
ở mạch chính, trong khi ulvan này tồn tại liên kết 1→2 ở mạch chính.
Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata: có cấu trúc mạch chính
được cấu thành bởi chuỗi disaccharide dạng A3s [ --D-GlcA-(14)-
-L-Rha3S-(1→] và bị phân nhánh ở vị trí carbon C-2 của acid glucuronic
với nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3 của Rha.
Ulvan chiết acid từ rong lục Ulva lactuca: có cấu trúc chuỗi disaccharide
chủ yếu dạng A3s [→4)β-D-GlcA-(1→4)α-L-Rha3S-(1→] và phân nhánh
tại vị trí C-3 của rhamnose. Nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3 của Rha.
Ulvan chiết nước từ rong lục Ulva lactuca: có cấu trúc mạch chính chủ
yếu là disaccharide dạng [→4)-β-D-GlcA-(1→4)-α-L-Rha3S-(1→] và phân
nhánh ở vị trí carbon C-2 của Rha. Ngoài ra, trong phân tử ulvan còn có
lượng nhỏ disaccharide ở dạng liên kết [→4)-β-D-GlcA-(12)-Xyl-(1→],
[→4)-β-D-GlcA-(12)- α-L-Rha-(1→]. Nhóm sulfate ở vị trí carbon C-3
và C-4 của Rha.
109
Các kết quả nghiên cứu một lần nữa góp phần khẳng định sự phụ thuộc cấu
trúc của ulvan vào vị trí địa lý nơi rong sinh trưởng và phương pháp chiết tách
chúng từ rong.
3. Bằng phương pháp vật lý hiện đại - tán xạ tia X góc nhỏ SAXS, luận
án đã thành công trong việc nghiên cứu cấu trúc không gian của mẫu
ulvan chiết nước từ rong lục Ulva reticulata UR-N. Kết quả cho thấy
UR-N có cấu trúc không gian dạng hình que với mạch nhánh dài.
4. Đã xây dựng được mô hình cấu trúc phân tử của UR-N dựa trên cấu
trúc hóa học bằng phương pháp mô phỏng.
5. Đã khảo sát ảnh hưởng của sự sulfate hóa và acetyl hóa đến cấu trúc
bề mặt và hoạt tính sinh học của ulvan chiết nước từ rong lục Ulva
reticulata. Kết quả cho thấy:
Sự sulfate hóa làm thay đổi cấu trúc bề mặt của ulvan và không làm tăng
hoạt tính gây độc tế bào, hoạt tính chống oxy hóa và kháng vi sinh vật kiểm
định nhưng làm tăng đáng kể hoạt tính chống đông tụ máu và sự tăng này
không tỷ lệ với mức độ sulfate hóa.
Sự acetyl hóa làm ảnh hưởng nhiều đến cấu trúc bề mặt nhưng không làm
tăng các hoạt tính sinh học đã thử nghiệm của ulvan.
110
KIẾN NGHỊ
1. Cấu trúc hóa học của ulvan nói riêng và polysaccharide nói chung là rất phức
tạp, hơn nữa rõ ràng là có mối liên hệ giữa cấu trúc của ulvan và hoạt tính
sinh học của chúng, nhưng cho đến nay mối quan hệ này vẫn chưa được làm
sáng tỏ. Đây là những vấn đề nghiên cứu rất cơ bản, hấp dẫn không chỉ đối với
Việt Nam mà còn ở cả trên thế giới nên cần được tiếp tục nghiên cứu trong thời
gian tới.
2. Ngoài chi Ulva, ở Việt Nam còn có các chi rong lục khác có các đặc điểm cấu
trúc riêng biệt với các hoạt tính sinh học phong phú khác cần tiếp tục được
nghiên cứu để có thể sử dụng nguồn rong biển một cách hiệu quả nhất.
111
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Quách Thị Minh Thu, Đặng Vũ Lương, Trần Thị Thanh Vân, Bùi Minh Lý và
Thành Thị Thu Thủy (2014). Ulvan từ rong lục ulva reticulata: chiết tách,
thành phần hóa học và hoạt tính sinh học. Tạp chí Hóa học, 52 (6A), 158-162.
2. Quach Thi Minh Thu, Nguyen Thi Nu, Đang Vu Luong, Bui Minh Ly, Tran
Thi Thanh Van and Thanh Thi Thu Thuy (2015). Structural characterization of
ulvan from green seaweed Ulva reticulata. Vietnam Journal of Chemistry, 53
(6e1,2), 386-390.
3. Quach Thi Minh Thu, Truong Hai Bang, Nguyen Thi Nu, Đang Vu Luong,
Bui Minh Ly, Tran Thi Thanh Van and Thanh Thi Thu Thuy (2015). Structural
Determination of Ulvan from Green Seaweed Ulva reticulata Collected at
Central Coast of Vietnam. Chemistry Letters, 44 (6), 788-790.
4. Thanh Thi Thu Thuy, Quach Thi Minh Thu, Tran Thi Thanh Van, Dang Vu
Luong, and Nguyen Tien Tai (2015). Ulvan from green seaweed Ulva
reticulata: Extraction and structure. The 13th Japan – Vietnam Joint Seminar,
29-30 October 2015 Kyoto, Japan, 23.
5. Thi Thu Thuy Thanh, Thi Minh Thu Quach, Thi Nu Nguyen, Dang Vu
Luong, Minh Ly Bui and Thi Thanh Van Tran (2016). Structure and cytotoxic
activity of ulvan extracted from green seaweed Ulva lactuca. International
Journal of Biological Macromolecules 93, 695-703.
6. Thanh Thi Thu Thuy, Quach Thi Minh Thu, Nguyen Thi Nu, Dang Vu
Luong, Nguyen Tien Tai, Tran Thi Thanh Van (2016). Structure and biological
activity of sulfated polysaccharide extracted from green seaweed Ulva lactuca.
The 14th Japan-Vietnam Joint Seminar, Hanoi 22th September 2016, 21.
7. Quách Thị Minh Thu, Nguyễn Thị Nụ, Đặng Vũ Lương, Nguyễn Tiến Tài,
Trương Hải Bằng, Trần Thị Thanh Vân, Hồ Đức Cường, Thành Thị Thu Thủy
(2016). Nghiên cứu cấu trúc và hoạt tính chống oxy hóa của ulvan chiết tách từ
rong lục Ulva lactuca. Tạp chí Hóa học, 54 (6e2), 75-78.
112
8. Quach Thi Minh Thu, Đang Vu Luong, Nguyen Thi Nu, Tran Thi Thanh Van,
Bui Minh Ly and Thanh Thi Thu Thuy (2016). Effect of sulfation on the
structure and anticoagulant activity of ulvan extracted from green seaweed
Ulva reticulata. Vietnam Journal of Science and Technology, 54 (2C), 373-
379.
9. Thanh T T T, Quach T M T, Nguyen T N, Dang V L, Tran T T V, Bui M L
(2017). Structure and cytotoxicity of the green seaweed originated ulvan. The
17th Asian Chemical Congress, 23-28 July 2017 Melbourne Australia, 332.
10. Thi Thanh Van Tran, Hai Bang Truong, Nguyen Ha Vy Tran, Thi Minh Thu
Quach, Thi Nu Nguyen, Minh Ly Bui, Yoshiaki Yuguchi & Thi Thu Thuy
Thanh (2017). Structure, conformation in aqueous solution and antimicrobial
activity of ulvan extracted from green seaweed Ulva reticulata. Natural Product
Research, DOI: 10.1080/14786419.2017.1408098.
113
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Alves, A.; Sousa, R.A. and Reis, R.L (2013). A practical perspective on ulvan
extracted from green algae. Journal of Applied Phycology, 25 (2), 407-424.
2. Berna Kılınç, Semra Cirik, Gamze Turan, Hatice Tekogul and Edis Koru
(2013). Food Industry, Chapter 31: Seaweeds for Food and Industrial
Applications. Edited by Innocenzo Muzzalupo, published: January 16, 2013
under CC BY 3.0 license.
3. Dennis J. McHugh (2003). A guide to the seaweed industry. Food and
agriculture organization of the united nations. Rome
4. Delattre, C.; Michaud, P.; Keller, C.; Elboutachfaiti, R.; Beven, L.; Courtois,
B.; Courtois, J. (2006). Purification and characterization of a novel
glucuronan lyase from Trichoderma sp. Appl.Microbiol. Biotech., 70, 437–
443.
5. Costa, L.S.; Fidelis, G.P.; Cordeiro, S.L.; Oliveira, R.M.; Sabry, D.A.;
Camara, R.B.G.; Nobre, L.T.D.B.; Costa, M.S.S.P.; Almeida-Lima, J.; Farias,
E.H.C. (2010). Biological activities of sulfated polysaccharides from tropical
seaweeds. Biomed. Pharmacother., 64, 21–28.
6. Đàm Đức Tiến (2003). Thành phần loài và phân bố của rong biển miền Bắc
Việt Nam. Hội thảo khoa học Đề tài hợp tác Việt Nam-Italia “Bảo tồn đa dạng
sinh học dải ven biển Việt Nam”
7. Trần Đình Toại, Châu Văn Minh (2004). Tiềm năng rong biển Việt Nam. Nhà
xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
8. Gollerbakh, M.M. (1977). Life of Plants in Six Volumes. V.3: Algae. Lichens.
Prosveshchenie, Moscow.
9. Nguyễn Hữu Đại, Nguyễn Thị Đỏ (2007). Thực vật chí Việt Nam. Nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật.
10. Ibñez, E.; Cifuentes, A. (2013). Benefits of using algae as natural sources of
functional ingredients. J. Sci.Food Agric., 93, 703–709.
11. Ruperes, P. (2002). Mineral content of edible marine seaweeds. Food
Chemistry, 79, 23-26.
114
12. Hela Yaich, Haikel Garna, Souhail Besbes, Michel Paquot, Christophe
Blecker, Hamadi Attia (2011). Chemical composition and functional
properties of Ulva lactuca seaweed collected in Tunisia. Food Chemistry, 128,
895–901.
13. Lahaye, M.; Robic, A. (2007). Structure and Functional Properties of Ulvan,
a Polysaccharide from Green Seaweeds. Biomacromolecules, 8(6), 1765-
1774.
14. Alves, A.; Caridade, S.G.; Mano, J.F.; Sousa, R.A.; Reis, R.L. (2010).
Extraction and physico-chemical characterization of a versatile
biodegradable polysaccharide obtained from green algae. Carbohydr. Res.,
345, 2194–2200.
15. Harvey, D. J. (2003). Matrix-assisted laser desorption/ionization mass
spectrometry of carbohydrates and glycoconjugates. International Journal of
Mass Spectrometry, 226, 1–35.
16. Alves, A.; Sousa, R.A. and Reis, R.L. (2013). In vitro cytotoxicity assessment
of ulvan, a polysaccharide extracted from green algae. Phytother. Res., 27,
1143–1148.
17. Chiu, Y.H.; Chan, Y.L.; Li, T.L.; Wu, C.J. (2012). Inhibition of Japanese
encephalitis virus infection by the sulfated polysaccharide extracts from Ulva
lactuca. Mar. Biotechnol., 14, 468–478.
18. Nguyễn Duy Nhứt, Bùi Minh Lý, Nguyễn Mạnh Cường, Trần Văn Sung
(2008). Fucoidan từ rong nâu Sargassum swartzii: phương pháp tách, hoạt
tính gây độc tế bào ung thư và nghiên cứu cấu trúc. Tạp chí Hóa học, 46(1),
52-56.
19. Holtkamp A.D.; Kelly S.; Ulber R. and Lang S. (2009). Fucoidan and
fucoidanases-focus on techniques for molecular structure elucidation and
modification of marine polysaccharides. Appl Microbiol Biotechnol, 82, 1-11.
20. Jin W.; Wang J.; Ren S.; Song N. and Zhang Q. (2012). Structural Analysis
of a Heteropolysaccharide from Saccharina japonica by Electrospray Mass
Spectrometry in Tandem with Collision-Induced Dissociation Tandem Mass
Spectrometry (ESI-CID-MS/MS). Mar Drugs., 10(10), 2138-2152.
115
21. Bilan Maria I.; Grachev Alexey A.; Ustuzhanina Nadezhda E. et al (2004). A
highly regular fraction of a fucoidan from the brown seaweed Fucus distichus
L. Carbonhydr. Res., 339, 511-517.
22. Bilan M.I.; Grachev A.A.; Shashkov A.S.; Kelly M.; Sanderson C.J.;
Nifantiev N.E. and Usov A.I. (2010). Further studies on the composition and
structure of a fucoidan preparation from the brown alga Saccharina
latissima. Carbohydr. Res.,345, 2038–2047.
23. Anastyuk S.D.; Imbs T.I.; Shevchenko N.M.; Dmitrenok P.S. and
Zvyagintseva T.N. (2012). ESI-MS analysis of fucoidan preparations
from Costaria costata, extracted from alga at different life-stages. Carbohydr.
Polym., 90, 993–1002.
24. Anastyuk S.D.; Shevchenko N.M.; Nazarenko E.L.; Imbs T.I.; Dmitrenok P.S.
and Zvyagintseva T.N. (2010). Structural analysis of a highly sulfated fucan
from the brown alga Laminaria cichorioides by tandem MALDI and ESI mass
spectrometry. Carbohydr. Res., 345, 2206–2212.
25. Anastyuk S.D.; Shevchenko N.M.; Nazarenko E.L.; Dmitrenok P.S. and
Zvyagintseva T.N. (2009). Structural analysis of a fucoidan from the brown
alga Fucus evanescens by MALDI-TOF and tandem ESI mass spectrometry.
Carbohydr. Res., 344, 779–787.
26. Baba M.; Snoeck R.; Pauwels R. and De Clercq E. (1988). Sulfated
polysaccharides are potent and selective inhibitors of various enveloped
viruses, including herpes simplex virus, cytomegalovirus, vesicular stomatitis
virus, and human immunodeficiency virus. Antimicrob Agents Chemother.,
32, 1742- 1745
27. Trần Đình Toại, Nguyễn Văn Năm (2007). Fucoidan – polysaccharide chiết từ
rong nâu, sản phẩm có hoạt tính sinh học cao, ứng dụng trong y học và nuôi
trồng thủy sản. Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 45(1), 39-46.
28. Irhimeh M.R.; Fitton J.H. and Lowenthal R.M. (2009). Pilot clinical study to
evaluate the anticoagulant activity of fucoidan. Blood Coagul Fibrinolysis,
20(7), 607-610.
116
29. Maruyama H.; Tamauchi H.; Hashimoto M. and Nakano T. (2003). Antitumor
activity and immune response of Mekabu fucoidan extracted from Sporophyll
of Undaria pinnatifida. In vivo, 17(3), 245-249.
30. Aisa Y.; Miyakawa Y.; Nakazato T.; Shibata H.; Saito K.; Ykeda Y. and
Kizaki M. (2005). Fucoidan induces apoptosis of human HS-sultan cells
accompanied by activation of caspase-3 and down-regulation of ERK
pathways. Am J. Hematol., 78, 7-14.
31. Nguyễn Xuân Nguyên, Phạm Hồng Hải, Nguyễn Bích Thuỷ, Trần Thị Hồng
và Trần Đình Toại (2003). Nghiên cứu công nghệ chiết tách carrageenan từ
rong đỏ Việt Nam. Tạp chí Khoa học - Công nghệ, 41(5), 6-11.
32. Thanh T.T.T.; Yuguchi Y.; Mimura M.; Yasunaga H.; Takano R.; Urakawa H.
and Kajiwara K. (2002). Molecular characteristics and Gelling Properties of
Carrageenan Family. 1: Preparation of novel carrageenan and dilute solution
properties. Macromolecular Chemistry and Physic, 203, 15-23, ISSN: 0122-
1352.
33. Thanh T.T.T.; Yuguchi Y.; Mimura M.; Yasunaga H.; Takano R.; Urakawa H. and
Kajiwara K. (2010). Structure and Gelling Properties of Carrageenan Family as
Studied by Scattering Techniques. Asian Journal of Chemistry, 22(5), 3989-4002.
34. Tran T.T.V.; Bui M.L. and Ngo Q.B (2002). Infrared spectroscopy of
polysacchrides extracted from some red seaweed species growing in the
central of Viet nam. The 3rd national conference on optics and spectroscopy,
Nhatrang 8.2002.
35. Võ Thị Mai Hương (2003). Nghiên cứu một số đặc điểm sinh lý, hóa sinh của
một số loại rong đỏ (Rhodophyta) và rong nâu (Phaeophyta) ở vùng đầm phá
và ven biển Thừa Thiên Huế. Luận án tiến sĩ Sinh học
36. Tran T.T.V.; Bui M.L.; Ngo Q.B. and Chu D.K. (2008). Structural
characterization of agar extracted from six red seaweed species growing in
the coast of Viet Nam. Asean J. on Science and Technology for Development,
25(2), 395-403.
37. Mou H.; Jiang X. and Guan H. (2003). A k-carrageenan derived
oligosaccharide prepared by enzymatic degradation containing anti-tumor
activity. J. Appl. Phycol., 15, 297-303.
117
38. Lingchong Wang, Xiangyu Wang, Hao Wu and Rui Liu (2014). Overview on
Biological Activities and Molecular Characteristics of Sulfated
Polysaccharides from Marine Green Algae in Recent Years. Mar. Drugs., 12,
4984-5020.
39. Tabarsa, M.; Lee, S.J.; You, S.; (2012). Structural analysis of
immunostimulating sulfated polysaccharides from Ulva pertusa. Carbohydr.
Res., 361, 141–147.
40. Quemener, B.; Lahaye, M.; Bobin Dubigeon, C. (1997). Sugar determination
in ulvans by a chemical-enzymatic method coupled to high performance anion
exchange chromatography. J. Appl. Phycol., 9, 179-188.
41. Chattopadhyay, K.; Mandal, P.; Lerouge, P.; Driouich, A.; Ghosal, P.; Ray,
B.; (2007). Sulphated polysaccharides from Indian samples of Enteromorpha
compressa (Ulvales, Chlorophyta): Isolation and structural features. Food
Chem., 104, 928–935.
42. Ray, B. (2006). Polysaccharides from Enteromorpha compressa: Isolation,
purification and structural features. Carbohydr. Polym., 66, 408–416.
43. Lahaye M.; Jegou J.; and Buleon A. (1994). Chemical characteristics of
insoluble glucans from the cell-wall of the marine green alga Ulva lactuca (L)
Thuret. Carbohydr. Res., 262, 115-125.
44. Ray, B.; Lahaye, M. (1995). Cell-wall polysaccharides from the marine green
alga Ulva rigida (Ulvales, Chlorophyta): Extraction and chemical
composition. Carbohydr. Res., 274, 251–261.
45. Paradossi, G.; Cavalieri, F.; Pissoferrato, L.; Liquori, A.M.A. (1999). Physico-
chemical study on the polysaccharide ulvan from hot water extraction of the
macroalga Ulva. Int. J. Biol. Macromol., 25, 309–315.
46. Paradossi, G.; Cavalieri, F.; Chiessi, E.A. (2002). Conformational study on the
algal polysaccharide ulvan. Macromolecules, 35, 6404–6411.
47. Robic, A.; Gaillard, C.; Sassi, J.F.; Lerat, Y.; Lahaye, M. (2009).
Ultrastructure of ulvan: A polysaccharide from green seaweeds. Biopolymers,
91, 652–664.
118
48. Dobrynin A.V. (2008). Theory and simulations of charged polymers: From
solution properties to polymeric nanomaterials. Current Opinion in Colloid &
Interface Science, 13, 376–388.
49. Robic A.; Sassi J.-F.; Lahaye M. (2008). Impact of stabilization treatments of
the green seaweed Ulva rotundata (Chlorophyta) on the extraction yield, the
physico-chemical and rheological properties of ulvan. Carbohydrate
Polymers, 74, 344–352
50. Sun, H.H.; Mao, W.J.; Fang, F.; Li, H.Y. (2007). Polysaccharides from
marine green seaweed Ulva species and their characteristics. Agro Food Ind.
Hi-Tech., 18, 28–29.
51. Haug, A., Nilsson, N. H., Romming, C., Schaumburg, K., Vialle, J. &
Anthonsen, T. (1976). The influence of borate and calcium on the gel
formation of a sulfated polysaccharide from Ulva lactuca. Acta Chem
Scand B., 30, 562–566.
52. Wijesekara, I.; Pangestuti, R.; Kim, S.K. (2011). Biological activities and
potential health benefits of sulfated polysaccharides derived from marine
algae. Carbohydr. Polym., 84, 14–21.
53. Qi, H.M.; Zhang, Q.B.; Zhao, T.T.; Hu, R.G.; Zhang, K.; Li, Z. (2006). In
vitro antioxidant activity of acetylated and benzoylated derivatives of
polysaccharide extracted from Ulva pertusa (Chlorophyta). Bioorg. Med.
Chem. Lett., 16, 2441–2445.
54. Godard, M.; Decorde, K.; Ventura, E.; Soteras, G.; Baccou, J.C.; Cristol, J.P.;
Rouanet, J.M. (2009). Polysaccharides from the green alga Ulva rigida
improve the antioxidant status and prevent fatty streak lesions in the high
cholesterol fed hamster, an animal model of nutritionally-induced
atherosclerosis. Food Chem., 115, 176–180.
55. Zhang, H.J.; Mao, W.J.; Fang, F.; Li, H.Y.; Sun, H.H.; Chen, Y.; Qi, X.H.
(2008). Chemical characteristics and anticoagulant activities of a sulfated
polysaccharide and its fragments from Monostroma latissimum. Carbohydrate
Polymers, 71, 428–434.
56. Kaeffer B.; Benard C.; Lahaye M.; Blottiere H. M. and Cherbut C (1999).
Biological Properties of Ulvan, a New Source of Green Seaweed Sulfated
119
Polysaccharides, on Cultured Normal and Cancerous Colonic Epithelial
Cells. Planta Med., 65, 527-531.
57. Leiro, J.M.; Castro, R.; Arranz, J.A.; Lamas, J. (2007). Immunomodulating
activities of acidic sulphated polysaccharides obtained from the seaweed Ulva
rigida C. Agardh. Int. Immunopharmacol., 7, 879–888.
58. Pengzhan, Y.; Ning, L.; Xiguang, L.; Gefei, Z.; Quanbin, Z.; Pengcheng, L.
(2003). Antihyperlipidemic effects of different molecular weight sulfated
polysaccharides from Ulva pertusa (Chlorophyta). Pharmacol. Res. Offic. J.
Ital. Pharmacol. Soc., 48, 543–549.
59. Yu, P.Z.; Zhang, Q.B.; Li, N.; Xu, Z.H.; Wang, Y.M.; Li, Z.E. (2003).
Polysaccharides from Ulva pertusa (Chlorophyta) and preliminary studies on
their antihyperlipidemia activity. J. Appl. Phycol., 15, 21–27.
60. Yu, P.Z.; Li, N.; Liu, X.G.; Zhou, G.F.; Zhang, Q.B.; Li, P.C. (2003).
Antihyperlipidemic effects of different molecular weight sulfated
polysaccharides from Ulva pertusa (Chlorophyta). Pharmacol.Res., 48, 543–
549.
61. Song, H.; Zhang, Q.; Zhang, Z.; Wang, J. (2010). In vitro antioxidant activity
of polysaccharides extracted from Bryopsis plumosa. Carbohydrate Polymers,
80, 1057–1061.
62. Zhang, Z.; Wang, F.; Wang, X.; Liu, X.; Hou, Y.; Zhang, Q. (2010).
Extraction of the polysaccharides from five algae and their potential
antioxidant activity in vitro. Carbohydrate Polymers, 82, 118–121.
63. Qi, H.M.; Zhang, Q.B.; Zhao, T.T.; Chen, R.; Zhang, H.; Niu, X.Z.; Li, Z.
(2005). Antioxidant activity of different sulfate content derivatives of
polysaccharide extracted from Ulva pertusa (Chlorophyta) in vitro. Int. J.
Biol. Macromol., 37, 195–199.
64. Qi, H.M.; Zhang, Q.B.; Zhao, T.T.; Hu, R.G.; Zhang, K.; Li, Z. (2006). In
vitro antioxidant activity of acetylated and benzoylated derivatives of
polysaccharide extracted from Ulva pertusa (Chlorophyta). Bioorg. Med.
Chem. Lett., 16, 2441–2445.
120
65. Qi, H.M.; Zhao, T.T.; Zhang, Q.B.; Li, Z.; Zhao, Z.Q.; Xing, R. (2005).
Antioxidant activity of different molecular weight sulfated polysaccharides
from Ulva pertusa Kjellm (Chlorophyta). J. Appl.Phycol., 17, 527–534.
66. Shao, P.; Chen, M.; Pei, Y.; Sun, P. (2013). In intro antioxidant activities of
different sulfated polysaccharides from chlorophytan seaweeds Ulva fasciata.
Int. J. Biol. Macromol., 59, 295–300.
67. Shonima Govindan M, JiJi Thomas and G Muraleedhara Kurup (2012). In
vitro antioxidant and antitumor activity of Polysaccharide isolated from Ulva
fasciata. Int J Pharm Bio Sci July., 3(3), 238 – 246.
68. Mezghani, S.; Bourguiba, I.; Hfaiedh, I.; Amri, M. (2013). Antioxidant
potential of Ulva rigida extracts: protection of heLa cells against H2O2
cytotoxicity. Biol. Bull., 225, 1–7.
69. Matsubara, K.; Matsuura, Y.; Bacic, A.; Liao, M.L.; Hori, K.; Miyazawa, K.
(2001). Anticoagulant properties of a sulfated galactan preparation from a
marine green alga, Codium cylindricum. Int. J.Biol. Macromol., 28, 395–399.
70. Shanmugam, M.; Mody, K.H.; Siddhanta, A.K. (2001). Blood anticoagulant
sulphated polysaccharides of the marine green algae Codium dwarkense
(Boergs.) and C. tomentosum (Huds.) Stackh. Indian J. Exp. Biol., 39, 365–
370.
71. Robic, A.; Rondeau-Mouro, C.; Sassi, J.F.; Lerat, Y.; Lahaye, M. (2009).
Structure and interactions of ulvan in the cell wall of the marine green algae
Ulva rotundata (Ulvales, Chlorophyceae). Carbohydr. Polym., 77, 206–216.
72. Gurgel Rodrigues, J.A.; Lino de Queiroz, I.N.; Gomes Quindere, A.L.; Vairo,
B.C.; Souza Mourao, P.A.; Barros Benevides, N.M. (2011). An antithrombin-
dependent sulfated polysaccharide isolated from the green alga Caulerpa
cupressoides has in vivo anti- and prothrombotic effects. Cienc. Rural., 41,
634–639.
73. Qi, X.; Mao, W.; Chen, Y.; Chen, Y.; Zhao, C.; Li, N.; Wang, C. (2013).
Chemical characteristics and anticoagulant activities of two sulfated
polysaccharides from Enteromorpha linza (Chlorophyta). J. Ocean Univ.
China., 12, 175–182.
121
74. Qi, X.; Mao, W.; Gao, Y.; Chen, Y.; Chen, Y.; Zhao, C.; Li, N.; Wang, C.;
Yan, M.; Lin, C.; et al (2012). Chemical characteristic of an anticoagulant-
active sulfated polysaccharide from Enteromorpha clathrata. Carbohydrate
Polymers, 90, 1804–1810.
75. Gurgel Rodrigues, J.A.; Oliveira Vanderlei, E.D.S.; Bessa, E.F.; Magalhaes,
F.D.A.; Monteiro de Paula, R.C.; Lima, V.; Barros Benevides, N.M. (2011).
Anticoagulant activity of a sulfated polysaccharide isolated from the green
seaweed Caulerpa cupressoides. Braz. Arch. Biol. Technol., 54, 691–700.
76. Mao, W.J.; Fang, F.; Li, H.Y.; Qi, X.H.; Sun, H.H.; Chen, Y.; Guo, S.D.
(2008). Heparinoid-active two sulfated polysaccharides isolated from marine
green algae Monostroma nitidum. Carbohydrate Polymers, 74, 834–839.
77. Maeda, R.; Ida, T.; Inara, H.; Sakamoto, T. (2012). Immunostimulatory
activity of polysaccharides isolated from Caulerpa lentillifera on macrophage
cells. Biosci. Biotechnol. Biochem., 76, 501–505.
78. Shao, P.; Chen, X.; Sun, P. (2013). In vitro antioxidant and antitumor
activities of different sulfated polysaccharides isolated from three algae. Int. J.
Biol. Macromol., 62, 155–161.
79. Ahmed, O.M. and Ahmed, R.R. (2014). Anti-proliferative and apoptotic
efficacies of ulvan polysaccharides against different types of carcinoma cells
In Vitro and In Vivo. Cancer Science & Therapy, 6(6), 202-208.
80. Gurgel Rodrigues, J.A.; Oliveira Vanderlei, E.D.S.; Silva, L.M.; de Araujo,
I.W.; de Queiroz, I.N.; de Paula, G.A.; Abreu, T.M.; Ribeiro, N.A.; Bezerra,
M.M.; Chaves, H.V.; et al (2012). Antinociceptive and anti-inflammatory
activities of a sulfated polysaccharide isolated from the green seaweed
Caulerpa cupressoides. Pharmacol. Rep., 64, 282–292.
81. Kim, J.K.; Cho, M.L.; Karnjanapratum, S.; Shin, I.S.; You, S.G. (2011). In
vitro and in vivo immunomodulatory activity of sulfated polysaccharides from
Enteromorpha prolifera. Int. J. Biol.Macromol., 49, 1051–1058.
82. Hassan, S.; Abd El-Twab, S.; Hetta, M.; Mahmoud, B. (2011). Improvement of
lipid profile and antioxidant of hypercholesterolemic albino rats by
polysaccharides extracted from the green alga Ulva lactuca Linnaeus. Saudi J.
Biologic. Sci., 18, 333–340.
122
83. Qi, H.; Huang, L.; Liu, X.; Liu, D.; Zhang, Q.; Liu, S. (2012).
Antihyperlipidemic activity of high sulfate content derivative of
polysaccharide extracted from Ulva pertusa (Chlorophyta).
Carbohydr.Polym., 87, 1637–1640.
84. Qi, H.; Liu, X.; Zhang, J.; Duan, Y.; Wang, X.; Zhang, Q. (2012). Synthesis
and antihyperlipidemic activity of acetylated derivative of ulvan from Ulva
pertusa. Int. J. Biol. Macromol., 50, 270–272.
85. Sathivel, A.; Raghavendran, H.R.B.; Srinivasan, P.; Devaki, T. (2008). Anti-
peroxidative and anti-hyperlipidemic nature of Ulva lactuca crude
polysaccharide on D-Galactosamine induced hepatitis in rats. Food Chem.
Toxicol., 46, 3262–3267.
86. Komatsu, T.; Kido, N.; Sugiyama, T.; Yokochi, T. (2013). Antiviral activity of
acidic polysaccharides from Coccomyxa gloeobotrydiformi, a green alga,
against an in vitro human influenza A virus infection. Immunopharmacol.
Immunotoxicol, 35, 1–7.
87. Lee, J.B.; Hayashi, K.; Hayashi, T.; Sankawa, U.; Maeda, M. (1999). Antiviral
activities against HSV-1, HCMV, and HIV-1 of rhamnan sulfate from
Monostroma latissimum. Planta Med., 65, 439–441.
88. Lee, J.B.; Hayashi, K.; Maeda, M.; Hayashi, T. (2004). Antiherpetic activities
of sulfated polysaccharides from green algae. Planta Med., 70, 813–817.
89. Lee, J.B.; Koizumi, S.; Hayashi, K.; Hayashi, T. (2010). Structure of rhamnan
sulfate from the green alga Monostroma nitidum and its anti-herpetic effect.
Carbohydrate Polymers, 81, 572–577.
90. Ghosh, P.; Adhikari, U.; Ghosal, P.K.; Pujol, C.A.; Carlucci, M.J.; Damonte,
E.B.; Ray, B. (2004). In vitro anti-herpetic activity of sulfated polysaccharide
fractions from Caulerpa racemosa. Phytochemistry, 65, 3151–3157.
91. Pujol, C.A.; Ray, S.; Ray, B.; Damonte, E.B. (2012). Antiviral activity against
dengue virus of diverse classes of algal sulfated polysaccharides. Int. J. Biol.
Macromol., 51, 412–416.
92. Margret, R.J.; Kumaresan, S.; Ravikumar, S. (2009). A preliminary study on
the anti-inflammatory activity of methanol extract of Ulva lactuca in rat. J.
Environ. Biol., 30, 899–902.
123
93. Pires, C.L.; Rodrigues, S.D.; Bristot, D.; Gaeta, H.H.; Toyama, D.d.O.; Lobo
Farias, W.R.; Toyama, M.H. (2013). Sulfated polysaccharide extracted of the
green algae Caulerpa racemosa increase the enzymatic activity and paw
edema induced by sPLA2 from Crotalus durissus terrificus venom. Rev. Bra.
Farm. Braz. J. Pharm., 23, 635–643.
94. Pusey P. N. (1974). In Photon Correlation and Light Beating Spectroscopy,
(H. Z. Cummings and E. R. Pike, eds.). Plenum Press, New York, 387-428.
95. Robic A.D.; Bertrand J.F.; Sassi Y.; Lerat M.; Lahaye J. (2009).
Determination of the chemical composition of ulvan, a cell wall
polysaccharide from Ulva spp. (Ulvales, Chlorophyta) by FT-IR and
chemometrics. J. Appl. Phycol., 21, 451-456.
96. Masakuni Tako, Makie Tamanaha, Yoshiyuki Tamashiro, Shuntoku Uechi
(2015). Structure of Ulvan Isolated from the Edible Green Seaweed, Ulva
pertusa. Advances in Bioscience and Biotechnology, 6, 645-655
97. Lahaye Marc, Brunel Magali, Bonnin Estelle (1997). Fine chemical structure
analysis of oligosaccharides produced by an ulvan-lyase degradation of the
water-soluble cell-wall polysaccharides from Ulva sp. (Ulvales,
Chlorophyta). Carbohydrate Research, 304, 325-333.
98. Nguyễn Duy Nhứt (2008). Nghiên cứu thành phần hóa học và hoạt tính sinh
học của polysacharide từ một số loài rong nâu ở tỉnh Khánh Hòa. Luận án
tiến sĩ Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
99. Bùi Minh Lý, Thành Thị Thu Thủy, Trần Thị Thanh Vân, Bilan M.I. và Usov
A.I. (2012). Nghiên cứu cấu trúc của Fucoidan tách chiết từ tảo nâu
Sargassum Polycystumn. Tạp chí hóa học, 50(4A), 215 – 218.
100. Hồ Đức Cường (2014). Nghiên cứu cấu trúc và khảo sát hoạt tính sinh học
của fucoidan và alginate từ hai loài rong nâu Sargassum henslowianum và
Sargassum swartzii của Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Hóa học – Trường Đại học
Bách khoa Hà Nội.
101. Nguyễn Đình Triệu (2001). Các phương pháp phân tích Vật lý và Hóa lý. Nhà
xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
102. Steve W . Cui (2005). Food Carbohydrate: Chemistry, Physical Properties and
Applications, CRC Press.
124
103. Edwin D. Becker (1969). High Resolution NMR. Theory and Chemical
Applications. Academic press, INC.
104. Sanders J.K.M.; Constable E.C.; Hunter B.K. and Pearce C.M (1995). Modern
NMR spectroscopy. Oxford University Press, 78-79.
105. Lahaye M. and Ray B. (1996). Cell-wall polysaccharides from the marine
green alga Ulva rigida (Ulvales, Chlorophyta) - NMR analysis of ulvan
oligosaccharides. Carbohydrate Research, 283, 161-173.
106. Lahaye M.; Inizan F.; Vigouroux J. (1998). NMR analysis of the chemical
structure of ulvan and of ulvan-boron complex formation. Carbohydrate
Polymers, 36, 239-249.
107. Lahaye Marc (1998). NMR spectroscopic characterisation of oligosaccharides
from two Ulva rigida ulvan samples (Ulvales, Chlorophyta) degraded by a
lyase. Carbohydrate Research, 314, 1–12.
108. Dell, A.; Reason, A. J.; Khoo, K.; Panico, M.; McDowell, R. A.; and Morris,
H.R. (1994). Mass spectrometry of carbohydrate-containing biopolymers.
Methods in Enzymology, 230, 108–132.
109. Tissot B.; Salpin J.-Y.; Martinez M.; Gaigeot M.P. and Daniel R. (2006).
Differentiation of the fucoidan sulfated L-fucose isomers constituents by CE-
ESIMS and molecular modeling. Carbohydrate Research, 341(5), 598– 609.
110. Nanditha Billa, Dylan Hubin-Barrows, Tylor Lahren, Lawrence P. Burkhard,
(2014). Evaluation of micro-colorimetric lipid determination method with
samples prepared using sonication and accelerated solvent extraction
methods. Talanta, 119, 620–622.
111. Domon, B.; & Costello, C. E. (1988). A systematic nomenclature for
carbohydrate fragmentations in FAB-MS/MS spectra of glycoconjugates.
Glycoconjugate Journal, 5(4), 397–409
112. Yoshi aki Yuguchi, Bui Minh Ly, Bui Van Nguyen, Tran Thi Thanh Van and
Thanh Thi Thu Thuy (2016). Study on Branched Structure Physiological
Activity Relationship of Fucoidan. Chemistry Letter, 45(7), 840–842.
113. Thanh T.T.T.; Tran T.T.V.; Yuguchi Y.; Bui M.L. and Nguyen T.T. (2013).
Structure of Fucoidan from Brown Seaweed Turbinaria ornata as Studied by
125
Electrospray Ionization Mass Spectrometry (ESIMS) and Small Angle X-ray
Scattering (SAXS) Techniques. Mar. Drugs., 11, 2431-2443.
114. Ngô Đăng Nghĩa (1999). Nghiên cứu tối ưu hóa quy trình công nghệ sản xuất
alginate từ rong mơ Việt Nam và ứng dụng vào một số lĩnh vực sản xuất.
Luận án tiến sĩ - Đại học Thủy Sản Nha Trang.
115. Nguyễn Kim Đức (1991). Biến động hàm lượng acid alginic và chất lượng
natri alginate của loài rong mơ (Sargassum) vùng biển Hn Chồng-Nha Trang.
Tuyển tập Nghiên cứu biển, Viện Nghiên cứu biển, VII, 208-216
116. Nguyễn Duy Nhứt, Bùi Minh Lý, Nguyễn Mạnh Cường, Trần Văn Sung
(2007). Phân lập và đặc điểm của fucoidan từ 5 loài rong mơ Miền Trung.
Tạp chí Hóa học, 45(3), 339-345.
117. Thành Thị Thu Thủy, Trần Thị Thanh Thủy, Trần Thị Thanh Vân, Nguyễn
Tiến Tài, Đặng Vũ Lương, Chu Đình Kính (2011). Isolation and structure of
alginate extracted from brown seaweed Sargassum swartzii collected at Nha
Trang. Hội nghị khoa học và công nghệ biển toàn quốc lần thứ 5, 142-143.
118. Phạm Đức Thịnh (2015). Nghiên cứu phân tích thành phần, cấu trúc hóa học
của fucoidan có hoạt tính sinh học từ một số loài rong nâu ở Vịnh Nha Trang.
Luận án Tiến sĩ Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam.
119. Yoshiaki Yuguchi, Van Thi Thanh Tran, Ly Minh Bui, Shizuka Takebe, Shiho
Suzuki, Nobukazu Nakajima, Shinichi Kitamura, Thuy Thi Thu Thanh
(2016). Primary structure, conformation in aqueous solution, and intestinal
immunomodulating activity of fucoidan from two brown seaweed
species Sargassum crassifolium and Padina australis. Carbohydrate Polymers,
147, 69–78.
120. Thanh T.T.T.; Bui M.L.; Tran T.T.V.; Ngo V.Q.; Ho C.T.; Yue Z.; Carole
S.D.; Bilan M.I.; Usov A.I. (2015). Anti-HIV activity of fucoidans from three
brown seaweed species. Carbohydrate Polymers, 115, 122–128.
121. Trần Vĩnh Thiện (2009). Điều chế khảo sát cấu trúc và tính chất của alginate
và oligosaccharide tách từ rong biển khu vực Bắc Hải Vân và ứng dụng của
chúng. Luận án Tiến sĩ Hóa học – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam.
126
122. Đặng Ngọc Thanh (chủ biên) và nhiều tác giả (2003). Biển Đông Sinh vật và
sinh thái Biển, Tập IV. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội.
123. Dang Diem Hong, Hoang Minh Hien, Pham Ngoc Son (2007). Use of
Vietnamese seaweed for functional food, medicine and biofertilizer. Journal
Applied Phycology, 19(6), 817-826.
124. Dang Diem Hong, Hoang Minh Hien, Hoang Thi Lan Anh (2011). Studies on
the Analgesic and Anti-inflammatory Activities of Sargassum swartzii (Turner)
C. Agardh (Phaeophyta) and Ulva reticulata Forsskal (Chlorophyta) in
Experiment Animal Models. African Journal of Biotechnology, 10(12), 2308-
2313.
125. Brading, J. E.; Georg-Plant, M.T; Hardy, D. (1954). The polysaccharide from
the alga Ulva lactuca. Purification, hydrolysis, and methylation of the
polysaccharide. J. Chem. Soc., 319-324.
126. Percival, E.; Wold, J. K. (1963). The acid polysaccharide from the green
seaweed Ulva lactuca. Part II. The site of the ester sulphate. J. Chem. Soc.,
5459-5468.
127. Costa C.; Alves A.; Pinto P.R.; Sousa R.A.; Silva E.A.; Reis, R.L.; Rodrigues
A.E. (2012). Characterization of ulvan extracts to assess the effect of different
steps in the extraction procedure. Carbohydrate Polymers, 88, 537–546.
128. Wenjun Mao, Xiaoxue Zang, Yi Li, Huijuan Zhang (2006). Sulfated
polysaccharides from marine green algae Ulva conglobata and their
anticoagulant activity. Journal of Applied Phycology, 18(1), 9-14.
129. Dalia F. Abd Elmegeed, Doa A. Gharee, Muhammed Elsayed and Muhammad
El-Saadani (2014). Phytochemical constituents and bioscreening activities of
green algae (Ulva lactuca). International Journal of Agricultural Policy and
Research, 2(11), 373-378.
130. Quanbin Zhang, Zhongshan Zhang, FengWang, Xiaomei Wanga, Xiaolei
Liud, Yun Houb, (2010). Extraction of the polysaccharides from ve algae
and their potential antioxidant activity in vitro. Carbohydrate Polymers, 82,
118–121.
131. Hela Yaich, Haikel Garna, Souhail Besbes, Jean-Paul Barthélemy, Michel
Paquot, Christophe Blecker, Hamadi Attia (2014). Impact of extraction
127
procedures on the chemical, rheological and textural properties of ulvan from
Ulva lactuca of Tunisia coast. Food Hydrocolloids, 40, 53-63.
132. Mao, W.; Zang, X.; Li, Y.; Zhang, H. (2006). Sulfated polysaccharides from
marine green algae Ulva conglobata and their anticoagulant activity. J. Appl.
Phycol., 18, 9–14.
133. Qi, H.; Liu, X.; Ma, J.; Zhang, Q.; Li, Z. (2010). In intro antioxidant activity
of acetylated derivatives of polysaccharide extracted from Ulva pertusa
(Cholorophta). J. Med. Plants Res., 4, 2445–2451.
134. Qi, H.; Liu, X.; Wang, K.; Liu, D.; Huang, L.; Liu, S.; Zhang, Q. (2013).
Subchronic toxicity study of ulvan from Ulva pertusa (Chlorophyta) in Wistar
rats. Food Chem Toxicol., 62, 573–578.
135. You, S.G.; Tabarsa, M.; Han, J.H.; Kim, C.Y. (2012). Molecular
characteristics and immunomodulatory activities of water-soluble sulfated
polysaccharides from Ulva pertusa. Journal of Medicinal Food, 15(2), 135–
144.
136. Hanaa H.; Baky A.El.; Baz K.F.El and Batory G. S.El. (2009). Potential
biological properties of sulfated polysaccharides extracted from macroalgae
Ulva lactuca L. Academic Journal of Cancer Research, 2(1), 1-11.
137. AOAC International (1996). Official Methods of Analysis of the Association of
Official Analytical Chemists. 16th edition, Gaithersburg, USA.
138. Blig, EB.; Dyer, W.J. (1959). A rapid method of total lipid extraction and
purification. Can. J. Biochem., 37, 911-917.
139. Michel Dubois, Gilles K.A, Hamilton J.K, Rebers P.A, and Fred Smith,
(1956). Colorimetric Method for Determination of Sugars and Related
Substances. Anal. Chem., 28, 350-356.
140. Fujiwara-Arasaki T.; Mino N.; Kuroda M. (1984). The protein value in human
nutrition of edible marine algae in Japan. Hydrobiologia, 116-117(1), 513-
516
141. Tang Yu-Qing, Kaiser Mahmood, Ruqyia Shehzadi, Muhammad Furqan
Ashraf (2016). Ulva Lactuca and Its Polysaccharides: Food and Biomedical
Aspects. Journal of Biology, Agriculture and Healthcare, 6(1), 140-151.
128
142. Monks A.; Scudiero D.; Skehan P.; Shoemake R.; Paull K.; Vistica D.; Hose
C.; Langley J.; Cronise P.; Campbell H.; Mayo J.; Boyd M. (1991). Feasibility
of a high-flux anticancer drug screen using a diverse panel of cultured human
tumor cell lines. Journal of National Cancer Institute, 83(11), 757-766.
143. Anderson, L.O.; Barrowcliffe, T.W.; Holmer, E.; Johnson, E.A.; and Sims,
G.E.C. (1976). Anticoagulant properties of heparin fractionated by affinity
chromatography on matrix-bound antithrombin-3 and by gel-filtration.
Thromb. Res., 9, 575–580.
144. Vanden B.D.A. and Vlietinck A.J. (1991). Methods in plant Biochemistry:
Screening Methods for Antibacterial and Antiviral Agents from Higher Plants.
Academic Press, London., 6, 47-69.
145. Prieto, P.; Pineda, M.; Anguilar, M. (1999). Spectrophotometric quantitation
of antioxidant capacity through the formation of a Phosphomolybdenum
Complex: Specific application to the determination of Vitamin E. Anal.
Biochem., 269, 337-341
146. Zhu, Q.Y.; Hackman, R.M.; Ensunsa, J.L.; Holt, R.R.; Keen, C.L. (2002).
Antioxidative activities of oolong tea. J. Agric Food Chem., 50, 6929–6934.
147. Phạm Thành Hổ (2006). Di truyền học, NXB Giáo dục.
148. Dodgson K.S. (1961). Determination of inorganic sulphate in studies on the
enzymic and non-enzymic hydrolysis of carbohydrate and other sulphate
esters. Biochem J., 78, 312-319.
149. Bitter, T.; Muir H.M. (1962). A Modified Uronic Acid Carbazole Reaction.
Anal Biochem., 4, 330-334.
150. Bilan, M.I.; Vinogradova, E.V.; Shashkov, A.S.; Usov, A.I. (2007). Structure
of a highly pyruvylated galactan sulfate from the pacific green alga Codium
yezoense (Bryopsidales, Chlorophyta). Carbohydrate Research, 342, 586–596.
151. Thanh Thi Thu Thuy (2002). Structure of sulfated polysaccharide in aquarius
solution. Doctoral Thesis.
152. Lihong Fan, Lan Jiang, Yongmei Xu, Yue Zhou, Yuan Shen, Weiguo Xie,
Zhongheng Long, Jinping Zhou (2011). Synthesis and anticoagulant activity
of sodium alginate sulfates. Carbohydrate Polymers, 83(4), 1797–1803.
129
153. Xiao-xiao Liu, Zhen-jiang Wan, Lin Shi, Xiao-xia Lu (2011). Preparation and
antiherpetic activities of chemically modified polysaccharides from
Polygonatum cyrtonema Hua. Carbohydrate Polymers, 83, 737–742.
154. Zhang Zhongshan, Wang Xiaomei, Yu Shuchi, Yin Li, Zhao Mingxing, Han
Zhiping (2011). Synthesized oversulfated and acetylated derivatives of
polysaccharide extractedfrom Enteromorpha linza and their potential
antioxidant activity. International Journal of Biological Macromolecules, 49,
1012– 1015.
155. Luis A. Bello-Pérez, Edith Agama-Acevedo, Paul B. Zamudio-Flores,
Guadalupe Mendez-Montealvo, Sandra L. Rodriguez-Ambriz (2010). Effect of
low and high acetylation degree in the morphological, physicochemical and
structural characteristics of barley starch. Food Science and Technology, 43,
1434-1440.
156. Ciancia, M.; Alberghina, J.; Ximena Arata, P.; Benavides, H.; Leliaert, F.;
Verbruggen, H.; Manuel Estevez, J. (2012). Characterization of cell wall
polysaccharides of the coencocytic green seaweed Byropsis plumose
(Bropsidaceae, Chlorophyta) from the Argentine cost. J. Phycol., 48, 326–335.
157. Ciancia, M; Quintana, I; Vizcarguenaga, M.I.; Kasulin, L.; de Dios, A.;
Estevez, J.M.; Cerezo, A.S. (2007). Polysaccharides from the green seaweeds
Codium fragile and C. vermilara with controversial effects on hemostasis. Int.
J. Biol. Macromol., 41, 641–649.
158. Yaich H, Garna H, Besbes S, Barthélemy J P, Paquot M, Blecker C, Attia H.
(2014). Impact of extraction procedures on the chemical, rheological and
textural properties of ulvan from Ulva lactuca of Tunisia coast. Food
Hydrocolloids, 40, 53-63.
159. Wang, X.; Zhang, Z.; Yao, Z.; Zhao, M.; Qi, H. (2013). Sulfation,
anticoagulant and antioxidant activities of polysaccharide from green algae
Enteromorpha linza. Int. J. Biol. Macromol., 58, 225–230.
160. Camila F. B., Jorge A. G., Paulo A. S. M., Hugo V. (2007). Conformation of
sulfated galactan and sulfated fucan in aqueous solutions. Implications to
their anticoagulant activities. Journal of Molecular Graphics and Modelling,
6, 391-399.
130
161. Melo F.R, Pereira M.S, Foguel D, Mour P.A. (2004). Antithrombin-mediated
anticoagulant activity of sulfated polysaccharides different mechanisms for
heparin and sulfated galactans. J Biol Chem., 279, 20824–20835.
162. Santos Pereira Costa, M.S.; Costa, L.S.; Cordeiro, S.L.; Almeida-Lima, J.;
Dantas-Santos, N.; Magalhaes, K.D.; Sabry, D.A.; Lopes Albuquerque, I.R.;
Pereira, M.R.; et al (2012). Evaluating the possible anticoagulant and
antioxidant effects of sulfated polysaccharides from the tropical green alga
Caulerpa cupressoides var. flabellata. J. Appl. Phycol., 24, 1159–1167.
163. Mao, W.; Li, H.; Li, Y.; Zhang, H.; Qi, X.; Sun, H.; Chen, Y.; Guo, S. (2009).
Chemical characteristic and anticoagulant activity of the sulfated
polysaccharide isolated from Monostroma latissimum (Chlorophyta). Int. J.
Biol. Macromol., 44, 70–74.
164. Debye, P. (1915). Scattering from non-crystalline substances. Annalen der
Physik, 46, 809-823.
131
PHỤ LỤC
Phụ lục 1. Sắc ký đồ GC-FID phân tích thành phần đường của UR-N
Phụ lục 2. Sắc ký đồ GC-FID phân tích thành phần đường của UL-H
Phụ lục 3. Sắc ký đồ GC-FID phân tích thành phần đường của UL-N
Phụ lục 4. Sắc ký đồ GC-FID phân tích thành phần đường của UL-K
Phụ lục 5. Phổ 1H-NMR của UR-H
Phụ lục 6. Phổ 13C-NMR của UR-H
Phụ lục 7. Phổ COSY-NMR của UR-H
Phụ lục 8. Phổ HMBC-NMR của UR-H
Phụ lục 9. Phổ HSQC-NMR của UR-H
Phụ lục 10. Phổ ESI-MS của UR-H
Phụ lục 11. Phổ ESI-MS/MS ion mảnh [RhaSO3]- với m/z 243 của UR-H
Phụ lục 12. Phổ COSY-NMR của UR-N
Phụ lục 13. Phổ HSQC-NMR của UR-H
Phụ lục 14. Phổ HMBC-NMR của UR-N
Phụ lục 15. Phổ ESI-MS của UR-N
Phụ lục 16. Phổ ESI-MS/MS ion mảnh [RhaSO3]- với m/z 243 của UR-N
Phụ lục 17. Phổ 1H-NMR của UL-N
Phụ lục 18. Phổ 13C-NMR của UL-N
Phụ lục 19. Phổ COSY-NMR của UL-N
Phụ lục 20. Phổ HSQC-NMR của UL-N
Phụ lục 21. Phổ HMBC-NMR của UL-N
Phụ lục 22. Phổ ESI-MS của UL-N
Phụ lục 23. Phổ ESI-MS/MS ion mảnh [RhaSO3]- với m/z 243 của UL-N
Phụ lục 24. Sắc ký đồ GPC của UL-H
Phụ lục 25. Phổ COSY-NMR của UL-H
Phụ lục 26. Phổ HSQC-NMR của UL-H
Phụ lục 27. Phổ HMBC-NMR của UL-H
Phụ lục 28. Phổ 13C-NMR của UR-S3
Phụ lục 29. Phổ COSY-NMR của UR-S
Phụ lục 30. Phổ 1H-NMR của UR-Ac
Phụ lục 31. Phổ 13C-NMR của UR-Ac
Phụ lục 32. Hình ảnh thể hiện sự ức chế các dòng tế bào ung thư a) HepG2, b)
MCF7 và c) Hela của ulvan UL-N với các nồng độ khác nhau.