nguỒn nhÂn lỰc -...

24
6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ ngành Xây dựng đã được bổ sung cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển và góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, để thực hiện phát triển nguồn nhân lực của ngành Xây dựng, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành cần đánh giá và xác định một cách đúng đắn thực trạng năng lực và chất lượng nguồn nhân lực của ngành Xây dựng. Vừa qua, Hội thảo khoa học “Nhân lực ngành Xây dựng trong Hội nhập quốc tế - thực trạng và giải pháp ”đã được Tổng hội Xây dựng Việt Nam phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Lao động thương binh và xã hội tổ chức. Hội thảo thu hút nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, các địa phương,… cùng trao đổi, tìm ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho Ngành. Sau đây, Tạp chí Xây dựng và Đô thị xin trích đăng một số tham luận thiết thực về chủ đề này. NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ NGUỒN NHÂN LỰC Nguyên Hương (thực hiện) Hội thảo Nguồn nhân lực ngành Xây dựng trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Upload: others

Post on 01-Sep-2019

4 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Trong những năm qua, đội ngũ cán bộ ngành Xây dựng đã được bổ sung cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển và góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, để thực hiện phát triển nguồn nhân lực của ngành Xây dựng, gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của ngành cần đánh giá và xác định một cách đúng đắn thực trạng năng lực và chất lượng nguồn nhân lực của ngành Xây dựng.Vừa qua, Hội thảo khoa học “Nhân lực ngành Xây dựng trong Hội nhập quốc tế - thực trạng và giải pháp ”đã được Tổng hội Xây dựng Việt Nam phối hợp với Bộ Xây dựng, Bộ Lao động thương binh và xã hội tổ chức. Hội thảo thu hút nhiều nhà lãnh đạo, quản lý, nhà khoa học, chuyên gia, các địa phương,… cùng trao đổi, tìm ra những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực cho Ngành. Sau đây, Tạp chí Xây dựng và Đô thị xin trích đăng một số tham luận thiết thực về chủ đề này.

NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

NGUỒN NHÂN LỰC

Nguyên Hương (thực hiện)

Hội thảo Nguồn nhân lực ngành Xây dựng trong thời kỳ hội nhập quốc tế

Page 2: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

7 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

ÔNG ĐỖ ĐỨC DUY Thứ trưởng Bộ Xây dựng

sơ cấp nghề, đào tạo nghề ngắn hạn) có đăng ký đào tạo chuyên ngành Xây dựng. Nhiều cơ sở đào tạo đã triển khai đào tạo theo các chương trình tiên tiến, đặc biệt đã có những cơ sở đào tạo nghề xây dựng đạt chuẩn quốc tế.

Nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật trên một số lĩnh vực tư vấn, thi công xây lắp, vật liệu xây dựng đã được nâng lên một bước; các doanh nghiệp trong nước đã có thể sản xuất các vật liệu xây dựng cao cấp theo tiêu chuẩn quốc tế, xuất khẩu đến nhiều nước, hoặc tự thiết kế, thi công xây dựng, quản lý vận hành nhiều công trình quy mô lớn, phức tạp ngang tầm khu vực và quốc tế.

Ngành Xây dựng đang nỗ lực triển khai Chương trình hành động của Ngành thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2016-2020, với mục tiêu là: (i) Phát triển ngành Xây dựng đạt trình độ tiên tiến ngang tầm với các nước trong khu vực; tiếp cận và làm chủ các công nghệ tiên tiến, hiện đại; (ii) Phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng, nhất là vật liệu mới, vật liệu chất lượng cao, vật liệu thân thiện với môi trường; (iii) Kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; (iv) Tăng cường kiểm soát, thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển ổn định, hiệu quả, lành mạnh; phát triển đa dạng các loại hình nhà ở, đặc biệt là nhà ở xã hội...

Mục tiêu trong giai đoạn 2016-2020, giá trị sản xuất của toàn Ngành tăng trưởng bình quân từ 9%-14%/năm; đến năm 2020 tỷ lệ đô thị hóa cả nước đạt khoảng 38-40%, tỷ lệ quy hoạch vùng tỉnh, quy hoạch chung các đô thị đạt 100%, tỷ lệ dân cư đô thị được sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh đạt khoảng 95%, tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh được thu gom và xử lý đạt khoảng 90%, diện tích nhà ở bình quân toàn quốc đạt khoảng 25m2 sàn/người, đầu tư xây dựng mới khoảng 12,5 triệu m2 nhà ở xã hội tại khu vực đô thị… cùng với các mục tiêu cụ thể khác đã đặt ra trong các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án quan trọng trên các lĩnh vực của Ngành.

Để đạt được các mục tiêu trên đây, thì một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là phải đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ngành; tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020, trọng tâm là nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn và công nhân kỹ thuật; khắc phục sự mất cân đối về cơ cấu trình độ nhân lực; phát triển đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, chuyên gia kỹ thuật, công nhân lành nghề, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI.

Cần đổi mới, phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Ngành

Ngành Xây dựng là ngành kinh tế - kỹ thuật, có vai trò rất quan trọng: Tạo ra tài sản cố định và hệ thống cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ sự phát triển của nền kinh tế. Những năm vừa qua, tổng đầu tư xã hội của Việt Nam thường xuyên chiếm trên 30% GDP, trong đó có khoảng gần 80% giành cho đầu tư xây dựng cơ bản. Tỷ lệ tăng trưởng trong lĩnh vực xây dựng thường xuyên duy trì ở mức khá, cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, đóng góp tích cực vào GDP cả nước. Để đạt được kết quả này, cùng với các yếu tố như: Sự ổn định kinh tế vĩ mô; sự nỗ lực của Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cấp trong việc hoàn thiện hệ thống thể chế, đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường quản lý Nhà nước, thực hiện tái cơ cấu các lĩnh vực, các doanh nghiệp thuộc Ngành; sự phát triển và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến; còn có vai trò đóng góp rất quan trọng của đội ngũ nhân lực ngành Xây dựng.

Theo số liệu thống kê, đến năm 2015 cả nước có khoảng trên 3,43 triệu lao động trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia trong các hoạt động của ngành Xây dựng, bao gồm các khu vực: Quản lý Nhà nước, hoạt động sự nghiệp (đào tạo, nghiên cứu khoa học) và doanh nghiệp (xây dựng, vật liệu xây dựng, kinh doanh bất động sản), chiếm 6,5% tổng số lao động của cả nước. Tính riêng trong các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh bất động sản, đến tháng 12/2014 có khoảng 1,83 triệu lao động đang làm việc, chiếm 15,1% tổng số lao động trong các doanh nghiệp thuộc mọi ngành kinh tế.

Mạng lưới các cơ sở đào tạo chuyên ngành xây dựng đã phát triển rộng khắp tại các vùng miền, địa phương. Trên cả nước có khoảng 80 trường Đại học, Cao đẳng và trên 300 cơ sở đào tạo nghề (gồm Cao đẳng nghề, Trung cấp nghề,

Page 3: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

8 8 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Có cơ chế chính sách thu hút nguồn nhân lực giỏi tham gia vào hoạt động xây dựng

Phát triển nguồn nhân lực hoạt động xây dựng đáp ứng yêu cầu của thị trường là nhu cầu cấp bách. Trên cơ sở “Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020”. Cần sớm tổ chức đánh giá kết quả sau 5 năm thực hiện 2011-2016. Muốn vậy cần tổ chức tổng điều tra toàn bộ các chỉ tiêu mà Quy hoạch đã đề ra tổng điều tra toàn bộ nguồn nhân lực ngành Xây dựng và dự báo yêu cầu của thị trường để có các giải pháp kịp thời, tổ chức triển khai thực hiện đảm bảo “Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2020” là “Phát triển ngành Xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng yêu cầu xây dựng trong nước và có năng lực đấu thầu công trình nước ngoài. Ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và hiệu quả quy hoạch, năng lực thiết kế, xây dựng và thẩm mỹ kiến trúc”.

Tôi xin đưa ra một số kiến nghị giải pháp cụ thể như sau: Với công tác Đào tạo, cần đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng đáp ứng yêu cầu của thị trường đáp ứng yêu cầu hội nhập, tăng cường giải pháp đào tạo nội dung yêu cầu theo địa chỉ, theo cơ chế đặt hàng để ra trường (cả cán bộ và công nhân) có việc làm ngay không phải đào tạo lại. Tăng cường các khóa học đào tạo lại để cập nhật kiến thức mới đặc biệt là kiến thức quản trị doanh ng-hiệp đây là khâu yếu nhất của cán bộ quản lý.

Ngành Xây dựng là một ngành công nghiệp dịch vụ đặc biệt sản phẩm đơn chiếc, thời gian dài, phải làm việc ngoài trời, phụ thuộc vào thời tiết, địa điểm làm việc biến động nhiều khi phải xa nhà, xa gia đình. Việc làm không ổn định, lúc làm việc ngày đêm, lúc nhàn rỗi… Nhà nước cần có cơ chế, chính sách trong đào tạo, chế độ đãi ngộ thông qua các cơ chế chính sách theo cơ chế thị trường, giao quyền cho các nhà thầu trả lương theo yêu cầu của công việc nhằm thu hút nguồn nhân lực giỏi vào hoạt động xây dựng (như ở Mỹ lương công nhân xây dựng được xếp hạng I so sới các ngành nghề khác).

Cần ban hành quy định chức danh cũng như bổ sung các chức danh nhằm phân loại, khuyến khích đào tạo cán

bộ quản lý, công nhân giỏi ngành xây dựng như: Giám đốc Công ty, Tổng Giám đốc Tổng Công ty, chỉ huy trưởng dự án đặc biệt, nhóm A,B, chức danh Tổng Công trình sư, kỹ sư trưởng,kỹ sư chính… Đối với công nhân là nghệ nhân, thợ cả, thợ chính.

Thực hiện sớm việc cổ phần hóa 100% vốn của tất cả các doanh nghiệp hoạt động xây dựng, để cổ đông lựa chọn các nhà quản lý giỏi phù hợp, quyết định chế độ đãi ngộ theo hiệu quả công việc từ đó phát triển nguồn nhân lực phù hợp với chiến lược phát triển doanh nghiệp tránh tình trạng “bao cấp” trong đào tạo, bổ nhiệm cán bộ quản lý cũng như chế độ đãi ngộ thiếu công bằng, công khai, minh bạch.

Cần bổ sung và khuyến khích phát triển loại hình Công ty cung ứng nguồn nhân lực. Do đặc điểm của thi công công trình xây dựng làm biến động về nhân lực, loại nghề trong từng giai đoạn một nhà thầu không thể khép kín đầy đủ nguồn nhân lực (hoặc có khép kín toàn bộ thì lại bị mất cân đối dư thừa từng loại cán bộ theo từng thời gian gây lãng phí công nhân). Vì vậy, nếu áp dụng cơ chế cung cấp nguồn nhân lực theo hợp đồng ở từng giai đoạn sẽ chuyên môn hóa công việc, luân chuyển bổ sung cho các công trường xây dựng theo tiến độ và công việc từ đó sẽ tiết kiệm chi phí, giảm thời gian chờ việc hoặc làm công việc không đúng chuyên môn.

ÔNG TRẦN NGỌC HÙNG Chủ tịch Tổng Hội XDVN

Cần chấm dứt tình trạng đưa lao động nông nhàn vào làm việc trong các doanh nghiệp xây dựng

Thị trường nhân lực hiện nay thiếu tính cạnh tranh. Doanh nghiệp xây dựng chủ yếu thuê lao động nông nhàn chưa qua đào tạo bồi dưỡng nên rất kém về chất lượng. Điều này gây ảnh hưởng đến công trình, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư, thị trường lao động chưa được cạnh tranh thực sự. Do vậy, cần có chính sách quy định lao động phải qua đào tạo mới được tham gia vào thị trường xây dựng, cần chấm dứt tình trạng

đưa lao động nông nhàn vào làm việc trong các doanh nghiệp xây dựng.

Như chúng ta thấy, thị trường lao động hiện nay ở nước ta có hình chóp ngược: Thừa thầy, thiếu thợ. Các lãnh đạo đơn vị có kinh nghiệm công tác được bổ nhiệm, không qua đào tạo chức danh. Do vậy, cần xây dựng hệ thống chức danh và yêu cầu đào tạo theo vị trí chức danh. Trong công tác quản lý Nhà nước, cần tăng cường đào tạo ngoại ngữ, đào tạo lại kiến thức, kỹ năng để tạo ra xã hội học tập trong ngành Xây dựng.

GS,TS. NGUYỄN VĂN LIÊNPhó Chủ tịch Hội đồng nghiệm thu Nhà nước các công trình xây dựng

Page 4: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

9 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Nguồn nhân lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta – Những yêu cầu đặt ra

Nguồn nhân lực, theo nghĩa rộng, là nguồn lực con người; còn theo nghĩa hẹp, có thể hiểu là nguồn lao động, bao gồm những người đang làm việc, những người thất nghiệp và số lao động dự phòng. Theo Ngân hàng thế giới, nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là kiến thức, kỹ năng của toàn bộ con người hiện có hoặc tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội của một cộng đồng.

Như vậy, nguồn nhân lực phải được hiểu là số lượng và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất của người lao động. Nó là tổng thể cả nguồn nhân lực hiện có và lực lượng tiềm năng được chuẩn bị sẵn sàng để tham gia vào phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, hay một địa phương, một cộng đồng.

Khác với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu bao cấp, khép kín trước đây, bối cảnh hội nhập quốc tế đặt ra những yêu cầu mới đối với việc phát triển nguồn nhân lực, đó là:

- Phải chuẩn bị nguồn nhân lực cần thiết, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cả trước mắt và lâu dài, cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng nhân lực, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển.

- Chất lượng nguồn nhân lực phải tiếp cận được mặt bằng trình độ chung của khu vực và thế giới, phải có độ linh hoạt và thích ứng cao với sự phát triển nhanh chóng trong

các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Điều đó đòi hỏi phải tích cực, khẩn trương đào tạo, bồi

dưỡng để nhanh chóng bổ sung những thiếu hụt, những yếu kém so với thế giới về kiến thức, kỹ năng, thái độ, phẩm chất của lực lượng lao động hiện có và lực lượng tiềm năng sẽ được huy động trong tương lai.

- Phải phát triển nguồn nhân lực của đất nước như là một bộ phận hữu cơ của nguồn nhân lực trong khu vực và quốc tế, phù hợp với những thông lệ chung của thế giới hiện đại; có thể đáp ứng nhu cầu lao động ở cả trong nước và nước ngoài.

Bối cảnh hội nhập quốc tế, tạo ra những thuận lợi, cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những khó khăn, thách thức không nhỏ đối với phát triển nguồn nhân lực, nhất là

TS. DƯƠNG QUANG TUNGNguyên phó Viện trưởng Viện khoa học Tổ chức Nhà nước, Bộ Nội Vụ

Thực hiện phương châm đa dạng hóa các loại hình đào tạo bồi dưỡng, hướng về địa phương, doanh nghiệp

Đối với ngành Xây dựng, để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhân lực ngành Xây dựng phải được nâng cao cả về số lượng và chất lượng. Chúng ta đang gặp nhiều thách thức trong thời kỳ mới, nhất là mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, vận hành nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế, Bộ Xây dựng đã có những định hướng, chiến lược chỉ đạo và đã xây dựng, ban hành “Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011 - 2020”. Muốn đạt được các mục tiêu, định hướng đã được nêu ra trong Quy hoạch, điều quan trọng là phải nâng cao chất lượng ĐTBD nguồn nhân lực ngành Xây dựng.

Để đáp ứng nhu cầu đào tạo, ngành Xây dựng đã và đang tiếp tục thực hiện phương châm đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng hướng về địa phương, hướng vào doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của các tổ chức và cá nhân trong hoạt động xây dựng. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp về chương trình, tài liệu đào tạo và bồi dưỡng; quản lý đào tạo và bồi dưỡng; nâng cao trình độ giảng viên; tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy; gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch và bố trí, sử dụng, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập và củng cố, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu ĐTBD cán bộ ngày càng tăng, theo chuẩn khu vực và quốc tế.

TS. TRẦN HỮU HÀ Giám đốc Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

Page 5: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

10 10 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Cần tiếp tục hoàn thiện thể chế thị trường nhân lực xây dựng

Để hoàn thiện thể chế chính sách và thể chế thị trường nhân lực xây dựng, xin đề xuất một số cơ chế, chính sách sau:

1. Về chính sách, nên coi trọng xuất khẩu lao động thông qua nhận thầu xây dựng ở nước ngoài. Đây là kinh nghiệm của Hàn Quốc thuở phát triển ban đầu, họ

kiếm ngoại tệ không phải bằng trực tiếp xuất khẩu lao động như nước ta đang làm mà là thông qua nhận thầu xây dựng trên khắp thế giới. Sau này khi đã phát triển, họ vẫn nhận thầu ở nước ngoài nhưng chuyển sang dùng lao động nước sở tại vì lao động Hàn Quốc đắt đỏ hơn. Nếu làm theo phương thức này thì nước ta vừa kiếm được nhiều ngoại tệ hơn, ngành Xây dựng tiến bộ nhanh hơn, nhưng lại không có tình trạng lao động trốn ở lại do sợ bị thất nghiệp khi trở về.

2. Về thể chế, cần ban hành các quy định pháp luật về cung ứng nhân lực, trên cơ sở bảo đảm quyền lợi người lao động, thu hẹp rồi xóa bỏ thị trường nhân lực không chính thức;

3. Xem xét việc cho các trường đào tạo nghề xây dựng kiêm nhiệm chức năng cung ứng nhân lực hoặc sát nhập vào công ty cung ứng nhân lực;

4. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, các Tổng công ty xây dựng Nhà nước lớn nên dồn phần lớn lao động lại và giao cho một công ty cung ứng nhân lực quản lý và cung ứng cho toàn bộ các công trường của Tổng công ty;

5. Một số địa phương dồi dào lao động nên được xây dựng thành “căn cứ địa” cung ứng nhân lực xây dựng, bằng cách khuyến khích thành lập các công ty cung ứng nhân lực và mở các trường đào tạo công nhân xây dựng.

TS. PHẠM SỸ LIÊMViện Nghiên cứu Kinh tế Xây dựng và Đô thị (ICUE)

Cần Phải đổi mới mạnh me hệ thống giáo dục- đào tạo, trong đó có giáo dục nghề nghiệp (GDNN)

Trong bối cảnh trong nước và quốc tế, để góp phần nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nhân lực Việt nam trên thị trường lao động trong nước và quốc tế, nhất là khi Việt Nam trở thành thành viên của AEC, cần phải đổi mới mạnh mẽ hệ thống giáo dục- đào tạo, trong đó có giáo dục nghề nghiệp. Nghị quyết, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI), đã đề ra 9 nhóm giải pháp để đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục- đào tạo. Trong lĩnh lực giáo dục nghề nghiệp, theo chúng tôi, những giải pháp để đổi mới, căn bản toàn diện, cần tập trung vào một số giải pháp sau:

-Thứ nhất, nâng cao nhận thức về giáo dục nghề nghiệp. Phải thực sự coi đầu tư GDNN là đầu tư cho phát triển, cần được ưu tiên đầu tư trong từng chương trình, dự án phát triển kinh tế- xã hội của từng địa phương, vùng, ngành. Bên cạnh đó, cần phải hình thành thang giá trị nghề nghiệp trong xã hội.

PGS. TS. MẠC VĂN TIẾNViện Nghiên cứu Khoa học dạy nghề

nguồn nhân lực chất lượng cao, mà ở nước ta hiện nay đang rất thiếu và yếu. Hiện nay, dân số nước ta đang nằm trong ngưỡng “dân số vàng” với lực lượng lao động rất dồi dào về số lượng, nhưng nếu không biết nắm lấy thời cơ trong

khoảng 10 năm này để tập trung phát triển về mặt chất lượng nguồn nhân lực hiện có, thì có thể sẽ là một nguy cơ, một lực cản quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong hiện tại và tương lai.

Page 6: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

11 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam

Công tác hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng cần đặc biệt chú trọng. Chúng ta học tập kinh nghiệm của các nước về phát triển nguồn nhân lực đi vào thực chất, có hiệu quả thiết thực để đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

Cần tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới.

Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người

Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực Đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục Đại học Việt Nam.

Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.

Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân, các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.

PGS,TS. LƯU ĐỨC HẢIViện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tầng

-Thứ hai, đổi mới mạnh mẽ về thể chế, chính sách. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về GDNN. Hoàn thiện cơ chế, chính sách về dạy nghề, học nghề. Có chính sách đãi ngộ, thu hút giáo viên GDNN; chính sách đối với người lao động qua đào tạo nghề nghiệp; chính sách đào tạo liên thông, hỗ trợ người học nghề.

-Thứ ba, đổi mới cơ cấu GDNN trong hệ thống GDQD. Chuyển hệ thống GDNN khép kín thành hệ thống đào tạo mở, linh hoạt, liên thông giữa các thành tố của hệ thống và liên thông với các bậc học khác của hệ thống GDQD. Đổi mới cơ cấu hệ thống GDNN trên cơ sở khung trình độ quốc gia, tiêu chuẩn kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với bối cảnh đất nước và xu thế các nước trong khu vực và trên thế giới.

- Thứ tư, tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo nghề nghiệp, bao gồm phát triển đội ngũ giáo viên/giảng viên GDNN; chuẩn hóa về trình độ đào tạo, kỹ năng và sư phạm nghề theo các cấp độ (quốc gia, khu vực và Quốc tế) và theo trình độ đào tạo.

- Thứ năm, đổi mới hoạt động đào tạo. Chuyển chương trình đào tạo từ chủ yếu nhằm trang bị kiến thức sang mục tiêu phát triển kỹ năng và năng lực hành nghề cho người học.

- Thứ sáu, gắn kết giữa đào tạo với thị trường lao động và sự tham gia của doanh nghiệp.

- Thứ bảy, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về GDNN. Tăng cường hợp tác quốc tế về GDNN giữa các nước trong khu vực ASEAN và thế giới.

- Thứ tám, đổi mới mạnh mẽ vấn đề sử dụng lao động. Cần thay đổi cách tuyển dụng lao động, tuyển dụng công chức, viên chức theo năng lực thực tế, khả năng hoàn thành nhiệm vụ hơn là chỉ dựa vào bằng cấp. Cải cách hệ thống trả lương, trả công lao động, trên cơ sở kỹ năng nghề nghiệp và hiệu quả của công việc, nhằm tạo động lực cho người lao động làm việc với năng suất và chất lượng cao hơn.

Phải phát triển nguồn nhân lực của đất nước như là một bộ phận hữu cơ của nguồn nhân lực trong khu vực và quốc tế

Page 7: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

12 12 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

I. MỤC TIÊU ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG ĐẾN NĂM 2020

Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020 là bước đầu tiên thực hiện chiến lược phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020, làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển nhân lực ngành Xây dựng nói chung và của từng đơn vị trong Ngành nói riêng. Đồng thời triển khai xây dựng cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện phát triển nhân lực của toàn ngành Xây dựng. Do tính chất và đặc điểm của Ngành, nhân lực ngành

TS. Trần Hữu Hà*

Trong thời gian qua, phát triển nguồn nhân lực là nội dung được đề cập khá nhiều. Đã có không ít cách tiếp cận, đi sâu phân tích vai trò tích cực, trọng yếu của vấn đề này trong sự phát triển của các quốc gia. Đặc biệt, đối với nền hành chính, việc xây dựng nguồn nhân lực được thể hiện trong nhiệm vụ “xây dựng đội ngũ cán bộ công chức chuyên nghiệp”. Những câu chuyện đào tạo nguồn nhân lực ở Mỹ, Ấn Độ, Trung Quốc hay Singapore đều cho thấy tầm quan trọng của vấn đề đào tạo bồi dưỡng (ĐTBD) nguồn nhân lực chuyên nghiệp nhằm phát huy tối đa tiềm lực con người trong mục tiêu đạt được tăng trưởng kinh tế xã hội bền vững.

Nhân lực ngành Xây dựng phải được nâng cao cả về số lượng và chất lượng để đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng

Xây dựng có yêu cầu cao về tính chuyên nghiệp, đa dạng về ngành nghề và cấp độ đào tạo.

Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu: “Phát triển ngành Xây dựng đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đáp ứng nhu cầu xây dựng trong nước và có năng lực đấu thầu công trình xây dựng nước ngoài. Ứng dụng công nghệ hiện đại, nâng cao chất lượng và hiệu lực quy hoạch, năng lực thiết kế, xây dựng và thẩm mỹ kiến trúc. Phát triển các hoạt động tư vấn và các doanh nghiệp xây dựng, trong đó chú trọng những doanh nghiệp mạnh

ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP

* Giám đốc Học viện CBQL xây dựng & đô thị

Page 8: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

13 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

theo từng lĩnh vực.” (Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2020), việc tăng cường đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động chuyên nghiệp là vấn đề cần phải tính đến trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực nói chung cũng như việc thực hiện, đẩy nhanh quá trình cải cách chế độ công vụ, công chức nói riêng.

Đối với công tác ĐTBD cán bộ, mục tiêu đề ra đến năm 2020 toàn Ngành có từ 50,0 – 60,0% số cán bộ, công chức, viên chức, lao động đã qua đào tạo, được bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng làm việc; có đội ngũ lãnh đạo, quản lý ngành Xây dựng được đào tạo cơ bản, năng lực chuyên môn vững, có kỹ năng chuyên ngành và đạo đức nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế; Cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ ngoại ngữ để có thể làm việc với người nước ngoài; Phát triển đội ngũ chuyên gia, nhà quản lý giỏi, đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành, đầu đàn

trong tất cả các lĩnh vực của ngành Xây dựng.

Theo định hướng của Chính phủ Việt Nam và Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Xây dựng, đến năm 2020 bảo đảm 100% công chức lãnh đạo đương nhiệm, công chức trong diện quy hoạch lãnh đạo đô thị từ loại V trở lên, công chức lãnh đạo, chuyên môn các cơ quan tham mưu giúp UBND các cấp quản lý xây dựng và phát triển đô thị được ĐTBD, bổ sung, cập nhật kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý xây dựng và phát triển đô thị. Việc tổ chức các khóa ĐTBD nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý xây dựng và đô thị cho cán bộ, công chức các cơ quan chính quyền đô thị là vô cùng cần thiết và có tính chất quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị.

II. THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG

Về mạng lưới các cơ sở đào tạo:Theo khảo sát tại báo cáo “Quy

hoạch phát triển nguồn nhân lực

ngành Xây dựng giai đoạn 2011 - 2020”, ngành Xây dựng có 33 cơ sở đào tạo nhưng nhìn chung, mạng lưới các cơ sở đào tạo của Ngành phân bố chưa hợp lý về mặt lãnh thổ. Hầu hết các cơ sở đào tạo tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam.

Mạng lưới các cơ sở ngoài Ngành có đào tạo các chuyên ngành Xây dựng gồm 162 đơn vị, trong đó có 41 trường Đại học, 47 trường Cao đẳng, 34 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 23 trường Cao đẳng nghề, 17 trường Trung cấp nghề.

Về đội ngũ giảng viên:Đội ngũ giảng viên các cơ sở

đào tạo của Bộ Xây dựng có 15,65% tiến sỹ (212 người), trong đó 40 giáo sư, phó giáo sư; có 46,97 % trình độ thạc sỹ, tỷ lệ giảng viên có trình độ trên Đại học đạt gần 66%. Tuy nhiên, tỷ lệ này phân bố không đều, đội ngũ giảng viên thỉnh giảng cũng đạt 62,62 % trình độ trên Đại học.

Về cơ sở vật chất:Thực trạng nhiều cơ sở đào tạo

ĐTBD nâng cao trình độ, kỹ năng quản lý xây dựng và đô thị cho cán bộ, công chức các cơ quan chính quyền đô thị là vô cùng cần thiết và có tính chất quyết định trong việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý đô thị

Page 9: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

14 14 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

của Ngành còn rất chật hẹp, chưa đủ diện tích theo tiêu chuẩn, làm hạn chế quy mô đào tạo và ảnh hưởng đến điều kiện đảm bảo chất lượng giảng dạy, học tập.

Về tổ chức đào tạo:Hiện nay, do công tác quản lý, dự báo nguồn nhân lực

của nước ta còn hạn chế, chưa có con số thống kê đầy đủ và chính xác về nhu cầu của thị trường lao động nói chung và thị trường lao động ngành Xây dựng nói riêng, nên việc xác định và điều tiết cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành đào tạo cũng như công tác quản lý, điều hành, phối hợp đào tạo chưa đồng bộ, chưa hợp lý; thiếu gắn kết giữa đào tạo với sử dụng.

Về cơ cấu ngành đào tạo:Trong thời gian qua, các cơ sở đào tạo đã có nhiều

cố gắng hoàn thiện cơ cấu ngành nghề đào tạo sát với nhu cầu sử dụng, thực tế đã điều chỉnh, thêm - bớt một số ngành nghề, như:

Đào tạo Đại học: Hiện nay nhiều ngành nghề đã hình thành nhưng vẫn còn thiếu các chuyên ngành mới hoặc đào tạo ít như: Công trình ngầm, công trình có yêu cầu đặc biệt, quản lý dự án xây dựng, quản lý xây dựng và đô thị, kinh tế đô thị, kinh tế bất động sản...

Đào tạo Trung học chuyên nghiệp, chủ yếu vẫn đào tạo được cán bộ kỹ thuật của các ngành - nghề có tính chất cổ điển chung như xây dựng dân dụng và công nghiệp, thi công cơ giới, cấp - thoát nước, cơ khí xây dựng; bỏ hẳn việc đào tạo cao đẳng, trung cấp kiến trúc, kinh tế xây dựng là bậc học trước đây phát triển mạnh, đáp ứng nhu cầu hành nghề tại các đơn vị cơ sở, các khâu trực tiếp công trường, tổ đội xây dựng.

Đào tạo công nhân, mặc dù đã chuyển sang đào tạo theo hệ Cao đẳng nghề và Trung cấp nghề theo Quy định của Luật Dạy nghề 2006 nhưng nhận thức của người học vẫn chưa được đầy đủ, chương trình đào tạo chưa phù hợp dẫn đến việc tuyển sinh đào tạo còn gặp nhiều khó

khăn, học viên ra trường chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế. Công tác đào tạo các nghề chuyên biệt, thợ bậc cao, kiểm tra sát hạch nghề còn hạn chế.

Về chương trình đào tạo:Đã thường xuyên đổi mới cải tiến theo hướng đa

dạng hoá, hiện đại hoá, mềm hoá, tuy nhiên vẫn còn nặng về lý thuyết, ít thời gian thực hành, chưa thực sự gắn với nhu cầu sử dụng; chậm cập nhật kiến thức mới, công nghệ mới và những vấn đề phát sinh từ thực tiễn mà người học khi ra trường phải tiếp cận, đảm nhiệm.

Về công tác đào tạo bồi dưỡng: Những năm qua, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng

và đô thị - trực thuộc Bộ Xây dựng đã xúc tiến mạnh hoạt động ĐTBD thường xuyên nhằm cập nhật kiến thức và kỹ năng cho cán bộ công chức viên chức, cán bộ lãnh đạo chuyên môn quản lý xây dựng và đô thị ở địa phương, cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ kỹ thuật của các doanh nghiệp xây dựng ở mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học, quản lý đô thị, quản lý kinh tế hội nhập quốc tế chưa được nhiều và vì chưa có cơ chế ràng buộc nên việc đào tạo bồi dưỡng thường xuyên chưa được người lao động và người sử dụng lao động quan tâm nhiều.

Để thực hiện tốt vai trò quản lý Nhà nước hiện nay đối với khoảng 300 nghìn doanh nghiệp và gần 800 đô thị từ Trung ương đến địa phương, Quyết định số 874/QĐ-TTg ngày 20/11/1996 về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức Nhà nước, Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 về đào tạo bồi dưỡng công chức và hàng chục các văn bản pháp quy khác được xây dựng và ban hành, bước đầu tạo một hành lang pháp lý cho hoạt động ĐTBD cán bộ quản lý xây dựng và đô thị được hình thành. Tuy nhiên, hệ thống các văn bản QPPL còn thiếu và chưa đồng bộ. Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 05/3/2010 đã quy định thời gian tối thiểu hàng năm mà mỗi công chức phải giành để tham gia các khoá ĐTBD, nhưng về phía các Bộ - Ngành, chủ trương này chưa cụ thể hoá và gắn với việc chuyển ngạch - nâng ngạch, nâng lương, đề bạt cán bộ. Công tác kiểm định chất lượng đào tạo tiến hành chậm, tiêu chí đánh giá chất lượng còn nặng tính hình thức, chưa chú trọng đến đánh giá từ phía người học, cơ quan/đơn vị cử người đi học.

III. MỘT SỐ KẾT QUẢ CỦA CÔNG TÁC ĐTBD CÁN BỘ NGÀNH XÂY DỰNG

Để đáp ứng nhu cầu đào tạo, ngành Xây dựng đã và đang tiếp tục thực hiện phương châm đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng hướng về địa phương, hướng vào doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của các tổ chức và cá nhân trong hoạt động xây dựng.

Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị là một đơn vị sự nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Xây dựng, hoạt động trên phạm vi cả nước trong lĩnh vực đào tạo, bồi

Thực trạng nguồn nhân lực ngành Xây dựng còn nhiền hạn chế cần “xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp” nhằm phát huy tối đa tiềm lực con người trong mục tiêu đạt được tăng trưởng

kinh tế xã hội bền vững

Page 10: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

15 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

dưỡng cán bộ, nghiên cứu, tư vấn về tổ chức và quản lý của ngành Xây dựng. Học viện đã có truyền thống hơn 40 năm hoạt động, hàng năm thực hiện trên 40 chương trình đào tạo với khoảng 250 lớp và 15.000 lượt học viên.

Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị đã được Bộ Xây dựng, Bộ Nội vụ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giao triển khai Chương trình đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý Nhà nước về lĩnh vực xây dựng cho công chức cấp xã, theo Đề án 1956 về “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”. Đặc biệt, là đầu mối chủ trì thực hiện Đề án 1961 về “Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp”. Đây là một Đề án lớn, có ý nghĩa thiết thực đối với quá trình đô thị hóa rất nhanh và mạnh như hiện nay ở nước ta. Tính đến nay, Đề án đã tổ chức được gần 200 khóa học với khoảng 6.000 lượt học viên là cán bộ từ cấp Chủ tịch, Phó Chủ tịch thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh đến các cán bộ địa chính, xây dựng và môi trường cấp xã. Kết quả này khẳng định uy tín, vai trò của Học viện trong công tác đào tạo, bồi dưỡng về quản lý đô thị cho cán bộ chính quyền đô thị các cấp.

Thực hiện Kế hoạch ĐTBD cán bộ, công chức của Bộ Xây dựng, theo hướng dẫn của Bộ Nội vụ về đào tạo bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị, Học viện đã và đang phối hợp chặt chẽ với Vụ Tổ chức cán bộ thực hiện công tác ĐTBD cán bộ, công chức trong ngành Xây dựng có hiệu quả và chất lượng cao như các chương trình: ĐTBD cho cán bộ, công chức, viên chức ngành Xây dựng; ĐTBD về kỹ năng lãnh đạo, quản lý và kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và viên chức chuyên môn của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ; Tổ chức phổ biến, tập huấn, hướng dẫn

các văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước của Bộ. Những khóa ĐTBD do Học viện tổ chức và các khóa học phối hợp với Cục, Vụ Viện trong Bộ, các Sở Xây dựng, Sở Nội Vụ, Tập đoàn, doanh nghiệp cũng luôn nhận được sự đánh giá cao từ phía người học, từ lãnh đạo các đơn vị. Học viên sau khi hoàn thành khóa học có đánh giá tốt, tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích, có những thay đổi tích cực trong tư duy, từ đó áp dụng vào thực tế công việc của đơn vị đem lại hiệu quả cao.

Hàng năm, để đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực hội nhập quốc tế, Học viện đã phối hợp với các Tổ chức quốc tế tại Việt Nam như WB, ADB, KOICA, UN-Habitat, JICA, Citis Alliance, PSU, Fundacion Metropoli, AiCM; các cơ sở đào tạo của các nước như Mỹ, Đức, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Philippines,… tổ chức các khóa đào tạo về lĩnh vực quản lý xây dựng và đô thị cho cán bộ ngành Xây dựng và cán bộ chính quyền các địa phương trên cả nước.

IV. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG

Quan điểm chung về đào tạo và bồi dưỡng- Hoạt động ĐTBD nguồn nhân lực ngành Xây dựng

phải gắn với chiến lược phát triển ngành Xây dựng nói chung và Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Xây dựng nói riêng, đồng thời chú trọng phát triển nhân lực các lĩnh vực mũi nhọn, lĩnh vực quản lý xây dựng và phát triển đô thị của Ngành.

- Hoạt động ĐTBD nguồn nhân lực ngành Xây dựng phải đảm bảo đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, phù hợp với bối cảnh toàn cầu hoá, với chiến lược phát triển của Ngành và chiến lược phát triển đô thị Việt Nam.

- Hoạt động ĐTBD nguồn nhân lực ngành Xây dựng phải gắn kết chặt chẽ với tiến bộ khoa học công nghệ, với đổi mới giáo dục - đào tạo, bao gồm đào tạo mới và đào tạo lại theo hướng hội nhập, tiến tới đạt được chất lượng khu vực và quốc tế.

- Đẩy mạnh xã hội hoá và hợp tác quốc tế về ĐTBD, phát huy mọi nguồn lực trong nước cũng như thu hút các nguồn đầu tư nước ngoài.

- ĐTBD nguồn nhân lực ngành Xây dựng là trách nhiệm chung của toàn xã hội và của cả ngành Xây dựng từ các cơ quan quản lý trực thuộc Bộ, các cơ sở đào tạo, các doanh nghiệp và bản thân từng cán bộ công chức. Đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, tăng cường gắn kết giữa đào tạo với sử dụng, gắn đào tạo với thực tế các mặt công tác trong Ngành.

Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng hướng về địa phương, doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của các tổ chức

và cá nhân trong hoạt động xây dựng

Page 11: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

16 16 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Chương trình, tài liệu đào tạo và bồi dưỡngChương trình – tài liệu là một trong các nhân tố quyết

định chất lượng, hiệu quả của toàn bộ quá trình ĐTBD. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác ĐTBD cần quán triệt phương châm gắn nội dung chương trình - tài liệu với tình hình thực tiễn, đảm bảo học đi đôi với hành, thiết thực và hiệu quả. ĐTBD theo nhu cầu công việc; đào tạo theo chức nghiệp, giảm bớt lý luận, lý thuyết, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ. Tập trung xây dựng chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng hướng tới theo chuẩn hóa quy định cho vị trí công tác, bao gồm lý luận chính trị – hành chính, chuyên môn, tin học, ngoại ngữ và kỹ năng xử lý công việc cho từng lĩnh vực thuộc chức năng quản lý của Bộ Xây dựng.

Xây dựng chương trình và biên soạn tài liệu cần quán triệt nguyên tắc: Dạy những gì học viên cần chứ không phải những cái mà cơ sở đào tạo có. Nội dung chương trình mỗi loại hình ĐTBD phải xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của từng lĩnh vực công tác, đáp ứng yêu cầu quản lý và phù hợp với các văn bản QPPL, các chế độ chính sách trong từng thời kỳ. Với từng nhóm đối tượng cán bộ, cần tập trung nghiên cứu xây dựng chương trình khung, chương trình chuẩn. Trên cơ sở đó, tuỳ thuộc vào thời gian và hình thức ĐTBD cụ thể để bổ sung, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn của từng đối tượng. Kết hợp việc triển khai nghiên cứu đề tài khoa học với xây dựng các chương trình ĐTBD. Lấy nội dung các chương trình được phê duyệt là cơ sở pháp lý khi triển khai.

Công tác quản lý đào tạo và bồi dưỡngĐể tạo hành lang pháp lý, đảm bảo tính thống nhất,

ổn định, lâu dài cho hệ thống các cơ sở ĐTBD cán bộ, đề nghị Chính phủ sớm ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn cụ thể về việc thành lập, tổ chức và hoạt động của loại hình này. Bộ Xây dựng cần chú trọng thẩm tra điều kiện năng lực của các cơ sở ĐTBD trước khi cho phép tham gia ĐTBD theo quy định pháp luật; hạn chế và tiến tới xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực như cắt xén chương trình, cấp chứng chỉ/giấy chứng nhận không đúng quy định. Các Sở Xây dựng địa phương cần kiểm tra việc tuân thủ quy định pháp luật về trình tự mở và quản lý các khoá học, bảo đảm chương trình, chất lượng dạy và học của những cơ sở đào tạo cũng như của các khoá học tổ chức trên địa bàn. Cơ quan chức năng cấp Tỉnh, cấp Huyện cần chỉ đạo, quản lý, kiểm tra chặt chẽ những cơ sở làm nhiệm vụ ĐTBD thông qua việc duyệt kế hoạch mở lớp hàng năm, thi cử, tuyển chọn đầu vào, thi hết môn, cấp chứng chỉ... Thực hiện nghiêm túc quy chế, quy định của Đảng và Nhà nước trong ĐTBD cán bộ công chức, bảo đảm đúng đối tượng, nâng cao chất lượng dạy và học để cán bộ có trình độ tương xứng với bằng cấp đã được đào tạo.

Thực hiện đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo các chế độ: Hướng dẫn tập sự đối với công chức trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo quản lý; bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu các kiến thức, kỹ năng chuyên ngành hàng năm; theo các hình thức học:

Đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành Xây dựng cần đẩy mạnh đào tạo theo nhu cầu xã hội, tăng cường gắn kết giữa đào tạo với sử dụng, gắn đào tạo với thực tế các mặt công tác trong Ngành

Page 12: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

17 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Thực hiện tốt phương châm “gắn lý luận với thực tiễn”, chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển từ “dạy cái giảng viên có sang dạy cái học viên cần”

tập trung, bán tập trung, vừa làm vừa học, từ xa.Cần đổi mới cơ chế, chính sách ĐTBD. So với các hình

thức ĐTBD theo tiêu chuẩn ngạch, tiêu chuẩn cán bộ quản lý, việc tổ chức ĐTBD theo nhu cầu công việc tốn kém hơn rất nhiều. Do đó, chính sách ĐTBD áp dụng với hình thức này cũng phải thay đổi cho phù hợp, nhất là các định mức chi phí vốn chỉ phù hợp cho việc tổ chức các khóa học đông học viên và mục tiêu trang bị kỹ năng không được đặt lên hàng đầu.

Nâng cao trình độ giảng viên Bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên

vì tính chất của việc ĐTBD theo nhu cầu công việc đòi hỏi giảng viên phải có kiến thức sâu rộng, cập nhật và thực tiễn, đặc biệt là phải có kỹ năng phân tích, tổng hợp và xử lý vấn đề nhanh.

Ưu tiên xây dựng đội ngũ giáo viên, giảng viên có chất lượng cao, đây là yếu tố quyết định cho sự thành công của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Ngành.

Trong nền kinh tế tri thức, toàn cầu hóa thông tin và yêu cầu ngày càng cao của việc cập nhật các kiến thức mới.Vấn đề năng lực của giảng viên đòi hỏi cần phải nâng cao hơn nữa. Người giảng viên ngoài những kiến thức chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm thực tế còn phải là những người làm chủ công nghệ hiện đại phục vụ quá trình truyền tải thông tin tới người học, từ các hệ thống thư viện điện tử, giáo trình điện tử, phương pháp giảng dạy hiện đại, cách khai thác, tìm kiếm thông tin toàn cầu… cần phải nắm vững để chia sẻ với học viên.

Tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy Một phương pháp giảng dạy khoa học, phù hợp sẽ

làm thay đổi vai trò của người thầy đồng thời tạo nên sự say mê cho người học. Các thông tin được tiếp nhận hiệu quả khi được truyền đạt một cách dễ hiểu, dễ nhớ, trở thành nền tảng trí thức cho học viên và là cơ sở hình thành trong họ những kỹ năng khi hoạt động thực tế. Đào tạo không phải chỉ đem lại kiến thức cụ thể nhất định cho học viên mà quan trọng hơn là cung cấp phương pháp luận, cách thức để học viên có khả năng không ngừng tự nghiên cứu, tiếp thu kiến thức một cách chủ động, sáng tạo, phù hợp với nhu cầu thực tế.

Tạo cơ chế khuyến khích giảng viên áp dụng phương pháp giảng dạy tích cực, lấy học viên làm trung tâm: Phân tổ, nhóm trao đổi, thảo luận phát huy tính năng động, sáng tạo của học viên. Trong giảng dạy, thực hiện tốt phương châm “gắn lý luận với thực tiễn”, chú trọng đổi mới phương pháp giảng dạy theo hướng chuyển từ “dạy cái giảng viên có sang dạy cái học viên cần”, tránh thuyết trình theo hình thức thụ động… Các phương pháp này đóng vai trò quyết định trong việc đào tạo những cán bộ có năng lực thực sự, những người có thể giải quyết một cách sáng tạo các vấn đề đặt ra trong thực tiễn hết sức đa dạng và luôn thay đổi của ngành Xây dựng.

Gắn đào tạo, bồi dưỡng với quy hoạch và bố trí, sử dụng

Phải có quy hoạch đào tạo, không đào tạo tràn lan, đào tạo không có địa chỉ. Cán bộ được quy hoạch vào chức

Page 13: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

18 18 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

danh nào, ngạch nào thì ĐTBD theo chuyên môn của chức danh đó, ngạch đó và sau khi ĐTBD chỉ bố trí vào những công việc phù hợp với chuyên môn được ĐTBD. Đồng thời, rà soát lại đội ngũ cán bộ hiện có, điều chuyển, bố trí lại những cán bộ đang làm việc không đúng chuyên ngành chuyển sang các ngành nghề, chức danh phù hợp với chuyên môn được đào tạo.

Chú trọng công tác ĐTBD nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập

Trước những khó khăn, thách thức của Ngành trong quá trình hội nhập quốc tế, trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 31/NQ-CP ngày 13/5/2014 của Chính phủ về Chương trình hành động về hội nhập quốc tế, Bộ Xây dựng ban hành Chương trình hành động hội nhập quốc tế của ngành Xây dựng với mục tiêu “Chủ động hội nhập vào nền kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực của Ngành. Tham gia tích cực vào các quá trình hợp tác song phương và đa phương, hợp tác khu vực và quốc tế để phát huy lợi thế của đất nước, thu hút được những nguồn lực dồi dào về vốn, công nghệ, tri thức, kỹ năng... của thế giới cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành Xây dựng”.

Để đạt được mục tiêu trên thì một trong những nhiệm vụ then chốt là đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Cần nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ và công nhân kỹ thuật ở các trường thuộc Ngành phấn đấu tiếp cận với trình độ các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Ngành, đặc biệt là những chuyên ngành mũi nhọn trong lĩnh vực Xây dựng.

Tích cực xây dựng và triển khai chương trình nâng cao kỹ năng sử dụng tiếng Anh và các ngoại ngữ thông dụng khác cho cán bộ công chức, viên chức ngành Xây dựng, trong đó có chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên, giáo viên đạt chuẩn theo quy định. Xây dựng chương trình đào tạo nâng cao năng lực quản lý đô thị phù hợp với quá trình hội nhập cho cán bộ chính quyền đô thị các cấp.

Củng cố, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu ĐTBD cán bộ ngày càng tăng, theo chuẩn khu vực và quốc tế.

Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm (xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; Thái Lan là 4,94... Khi Việt Nam nói chung, ngành Xây dựng nói riêng có thể làm tốt nhiệm vụ ĐTBD nguồn nhân lực chuyên nghiệp, chắc chắn sẽ góp phần xóa đi số điểm thấp kém này trong sân chơi quốc tế.

Nhận thức sâu sắc việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, công chức, viên chức, người lao động của toàn ngành Xây dựng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành Xây dựng và là sự nghiệp chung của toàn Ngành. Vì vậy, ĐTBD chuẩn hóa nguồn nhân lực theo Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020 sẽ góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của ngành Xây dựng Việt Nam.

Page 14: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

19 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

GS,TS. NGUYỄN TỐ LĂNGVụ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng thường trực Ban chỉ đạo Quy hoạch và Đầu tư xây dựng vùng Thủ đô Hà Nội, Phó hiệu trưởng trường Đại học Kiến trúc Hà Nội

Các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực bởi nhân lực luôn là nhân tố quyết định sự phát triển. Trình độ phát triển của nhân lực cũng chính là thước đo sự phát triển của quốc gia. Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là trung tâm của sự phát triển trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Tại Đại hội Đảng bộ toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta cũng xác định nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm để phát triển đất nước.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta,

ngành Xây dựng giữ vị trí là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, có vai trò là lực lượng chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng và phát triển hệ thống đô thị Việt Nam văn minh, hiện đại. Đặc biệt, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng đòi hỏi ngành Xây dựng cần đề ra nhiệm vụ và những giải pháp chuẩn bị nguồn nhân lực trong giai đoạn mới đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước.

Ngày 20 -11 hàng năm luôn là ngày cả xã hội gửi lời tri ân tới những người Thầy, người Cô đã, đang và sẽ tiếp tục sự nghiệp “trồng người”. Nhân kỷ niệm 34 năm ngày nhà giáo Việt Nam, Tạp chí Xây dựng và Đô thị có bài phỏng vấn các nhà giáo trong ngành Xây dựng với chủ đề “Nhà giáo ngành Xây dựng với công tác phát triển nguồn nhân lực” để hiểu thêm về niềm vui, sự đóng góp cũng như những băn khoăn, trăn trở của thầy cô trong công tác phát triển nguồn nhân lực cho Ngành!

Lê Hảo

VỚI CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG CẦN CÓ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỒNG BỘ

Trong thời kỳ hội nhập quốc tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, xây dựng đất nước theo xu hướng phát triển bền vững là hướng đi đúng đắn, phù hợp với xu thế của thời đại. Để đào tạo nguồn nhân lực ngành Xây dựng, một số hướng chính cần tập trung thời gian tới:

- Nghiên cứu phát triển đất nước một cách đồng bộ, kết hợp giữa các ngành, các lĩnh vực, giữa hạ tầng xã hội, nhà ở với hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ môi trường; Kết hợp hài hòa giữa phát triển đô thị và nông thôn, đầu tư cho phát triển nông thôn cũng là một cách để phát triển đô thị, nhằm đảm

NHÀ GIÁO NGÀNH XÂY DỰNG

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

* Học viện CBQL Xây dựng & Đô thị

Page 15: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

20 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

bảo an ninh lương thực, thực phẩm và tránh được tình trạng di dân tự do thiếu kiểm soát từ nông thôn vào đô thị;

- Xây dựng phải quan tâm đến thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đặc biệt là các vùng duyên hải; tăng trưởng xanh cũng là phương châm của xây dựng hiện nay, tại đó cần sử dụng hiệu quả, tiết kiệm năng lượng, giảm phát thải khí nhà kính; giảm thiểu việc tiêu hao nguồn tài nguyên thiên nhiên, sử dụng tối đa vật liệu xây dựng thân thiện với môi trường, vật liệu có thể tái tạo được;

- Phát triển kết cấu hạ tầng bền vững, phát triển hệ thống giao thông công cộng, giao thông xanh, đặc biệt đối với khu vực đô thị, tăng cường việc xây dựng đô thị theo mô hình sinh thái, đô thị xanh;

- Ứng dụng công nghệ xây dựng tiên tiến, hiện đại. Từng bước xây dựng các khu vực định cư theo hình thức Đô thị thông minh.

Lâu nay, công tác đào tạo của ngành Xây dựng cũng như nhiều ngành khác đang đi theo hướng tăng số lượng, chủ yếu ở trình độ đại học, đôi khi chất lượng chưa được như mong muốn. Số lượng nhân lực có tay nghề cao trong mỗi

chuyên ngành chưa nhiều cũng do tính chất đại trà đó. Để đào tạo được nguồn nhân lực có tay nghề cao ở mọi trình độ, cần phải có những giải pháp nhất định, có thể là:

- Xác định nguồn nhân lực cần đào tạo theo nhu cầu của xã hội (lâu nay xác định theo khả năng của các trường), có như vậy người học mới nỗ lực phấn đấu trong quá trình đào tạo;

- Phân luồng các bậc đào tạo, cần tăng cường nguồn nhân lực sử dụng trực tiếp cho thực tiễn (ví dụ cán bộ kỹ thuật triển khai hồ sơ thiết kế, cán bộ kỹ thuật trực tiếp thi công trên công trường);

- Nâng cao kiến thức thực tiễn cho người học, giảm bớt những lý thuyết chưa thật sự cần thiết mà người học có thể tự nghiên cứu được, tăng cường thực hành; đổi mới phương pháp đào tạo (ví dụ theo hình thức tương tác); Nâng cao trình độ ngoại ngữ, có như vậy mới mong muốn hội nhập quốc tế và học hỏi kinh nghiệm, công nghệ tiên tiến của thế giới; Nâng cao điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo và thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên.

TĂNG CƯỜNG BỒI DƯỠNG CHO CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ LÀ MỘT KHÂU ĐỘT PHÁ

Tôi ra trường năm 1969 cho đến lúc nghỉ chế độ năm 2002 luôn gắn bó với công tác giảng dạy của trường Đại học Kiến trúc Hà Nội thuộc Bộ Xây dựng và năm 2003 tham gia công tác ở Hiệp hội các đô thị Việt Nam cho đến 2015 là dịp tôi được gắn bó nhiều hơn với các đô thị thành viên của Hiệp hội mà theo điều lệ Hiệp hội lại dưới sự quản lý chuyên môn của Bộ Xây dựng. Vì vậy, tôi cũng có điều kiện tham gia giảng dạy các lớp bồi dưỡng chuyên môn cho lãnh đạo các đô thị do Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị tổ chức.

Theo Nghị định số 52 /2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 của Chính phủ quy định nhiệm vụ chức năng quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng thì Bộ Xây dựng quản lý 10 lĩnh vực bao gồm: Quy hoạch xây dựng, kiến trúc; Hoạt động đầu tư, Phát triển đô thị, Hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công

PGS, TS. VŨ THỊ VINH Nguyên Tổng Thư ký Hiệp hội các đô thị Việt Nam

Nguồn nhân lực ngành Xây dựng có vai trò là lực lượng chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Page 16: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

21 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

nghiệp, khu kinh tế và khu công nghệ cao; về nhà ở; về công sở, về thị trường bất động sản, vật liệu xây dựng, an toàn kỹ thuật xây dựng và Bảo vệ môi trường. Với nhiệm vụ đó có tác động to lớn tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực cũng là nhiệm vụ quan trọng của ngành Xây dựng.

Đối với các đô thị hiện chiếm trên 35% dân số trong cả nước nhưng đóng góp trên 60% GDP quốc gia. Do đó, tăng cường bồi dưỡng cho chính quyền đô thị cũng là một khâu đột phá để mỗi đô thị đều có thể trở thành các đô thị có lợi thế cạnh tranh cao hơn và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của đất nước. Với Đề án 1961 được triển khai theo Quyết định số 1961/QĐ-TTg về Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức lãnh đạo, chuyên môn đô thị các cấp mà Học viện đang triển khai đã phần nào góp phần nâng cao nhận thức, năng lực quản lý, điều hành cho đội ngũ công chức lãnh đạo và chuyên môn đô thị các cấp, đáp ứng yêu cầu quản lý xây dựng và phát triển đô thị trong bối cảnh tốc độ tăng trưởng đô thị hóa ngày càng nhanh tại Việt Nam. Vì vậy, trong xu thế hội nhập đòi hỏi nội dung giảng dạy cho các lớp cần được bổ sung về những định hướng cho sự phát triển chung của thế giới và về cách điều hành quản lý hiệu quả của các nước tiên tiến để áp dụng một cách sáng tạo đối với đô thị Việt Nam.

Nguồn nhân lực của ngành Xây dựng phải có năng lực thích ứng với cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi

nhanh chóng của các thế hệ công nghệ thể hiện tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước. Đồng thời phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở nước ngoài do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng của chúng ta. Muốn vậy, chúng ta phải nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và công nghệ thông tin cho cán bộ kỹ thuật, công nhân trẻ của các lĩnh vực trong Ngành. Trong nhiều lần thi tay nghề ASEAN hàng năm, ngành Xây dựng chúng ta cũng đã có những công nhân đạt thứ bậc cao trong khu vực. Năm 2016 ngành Xây dựng đạt 2 huy chương vàng của nghề truyền thống: “nghề xây gạch”. Tuy nhiên, những năm tới phải tiến xa hơn trên các lĩnh vực mới mà các nước đã dành được như: tự động hóa công nghiệp, điện tử v.v.

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CÔNG CHỨC VIÊN CHỨC NGÀNH XÂY DỰNG CÓ TRÌNH ĐỘ NĂNG LỰC PHỤC VỤ TỐT HƠN SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC

Trong những năm qua, được tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành Xây dựng đối với tôi là niềm vinh dự và tự hào. Thời gian công tác tại Vụ Pháp chế - Bộ Xây dựng, tôi được tham gia các tổ biên tập soạn thảo một số văn bản pháp luật như Luật Xây dựng 2003, Luật Kinh doanh bất động sản 2006, các nghị định và thông tư hướng dẫn. Đây là nền tảng quan trọng đưa tôi đến với công tác tuyên truyền, phổ biến các văn bản pháp luật về xây dựng một cách thuận lợi, truyền tải những vấn đề cơ bản của pháp luật

vào cuộc sống và hơn hết, giúp các cán bộ quản lý Nhà nước ở địa phương phần nào hiểu rõ để vận dụng vào công việc của mình một cách đúng đắn nhất.

Trong xu thế hội nhập và phát triển, công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức nói chung, công chức, viên chức là cán bộ lãnh đạo, quản lý ngành Xây dựng nói riêng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ, năng lực thực thi công vụ, đáp ứng ngày càng cao yêu cầu của công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện, góp phần xây dựng các đô thị Việt Nam ngày một hiện đại hơn.

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ngành Xây dựng không đơn thuần chỉ là truyền đạt kiến thức. Những học viên tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng đa phần là những người đang công tác trong ngành Xây dựng. Muốn làm người giảng viên tốt phải thật sự có tâm, có chuyên môn và phương pháp sư phạm để truyền đạt cho học viên, những người có trình độ và thâm niên công tác. Để triển khai công việc, giảng viên ngành Xây dựng phải thường xuyên xa nhà, xa cơ quan để đi đến mọi miền của Tổ quốc, bất cứ địa phương nào có nhu cầu đào tạo bồi dưỡng. Bên cạnh đó, phải liên tục cập nhật tinh thần các văn bản mới, cách xử lý tình huống nếu xảy ra hoặc đã xảy ra. Để đạt hiệu quả cao hơn, giảng viên luôn suy nghĩ nghiên cứu các chương trình mới phù hợp với tình hình quản lý của các địa phương, trăn trở với thực tế khó khăn, vướng mắc, các kỹ năng còn thiếu và yếu trong công tác quản lý của

ThS. ĐỖ THỊ HỒNG MAI Trưởng khoa Hành chính và pháp luật - Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

Page 17: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

22 22 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

ngành như vấn đề quản lý trật tự xây dựng, thanh tra, kiểm tra, giám sát trong hoạt động xây dựng… để đề xuất thực hiện. Trong hai năm qua, Chương trình bồi dưỡng nâng cao kỹ năng xử lý vi phạm trật tự xây dựng đã được nhiều địa phương hưởng ứng, đón nhận, đặc biệt là ở các đô thị như: Hà Nội, Lạng Sơn, Quảng Ngãi, Tam Kỳ, Hội An (Quảng Nam), Cam Ranh, Ninh Hòa (Khánh Hòa), Hòa Bình, Phan Thiết (Bình Thuận), Tây Ninh, Biên Hòa (Đồng Nai), Rạch Giá (Kiên Giang)… Điều này giúp giảng viên luôn tự tin hơn trong công tác giảng dạy và nghiên cứu, tiếp tục công việc truyền đạt chính sách, pháp luật về xây dựng tới các học viên ở khắp mọi nơi, góp một phần công sức nhỏ bé vào công cuộc nâng cao chất lượng đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và công tác cải cách hành chính ngành Xây dựng trong thời gian tới.

Nhân ngày 20 -11, tôi xin chúc các đồng chí, đồng nghiệp đang đồng hành cùng chúng tôi sức khỏe dồi dào, hạnh phúc và thành công!

ĐÀO TẠO CÁN BỘ NGÀNH XÂY DỰNG THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO

Việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng có tính chất quyết định để thực hiện mục tiêu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Bộ Xây dựng đã phê duyệt Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020: “Nhằm phát triển toàn diện về đào tạo, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng nhân lực, hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành Xây dựng”. (Quyết định

số 838/QĐ-BXD ngày 13/9/2012).Kiểm soát chất lượng công tác đào tạo: Song song với

công tác đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, huy động tiềm năng xã hội cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo là hoàn thiện cơ chế chính sách kiểm soát và quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo. Đảm bảo minh bạch và thực chất trong đào tạo.

Hoàn thiện sản phẩm đào tạo đáp ứng vị trí việc làm: Cơ sở đào tạo cần phối hợp doanh nghiệp, tổ chức kinh tế - xã hội nơi sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao để xây dựng mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, lắng nghe, tiếp nhận sự đánh giá, góp ý từ các nhà sử dụng lao động về sản phẩm đào tạo của mình, thông qua đó điều chỉnh nội dung, đào tạo gắn với việc làm và theo nhu cầu xã hội.

Nâng cao chất lượng đào tạo: Chú trọng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên và cán bộ nghiên cứu có trình độ cao; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng đào tạo; Điều chỉnh, vận dụng cơ chế chính sách đảm bảo chế độ đãi ngộ cho đội ngũ giảng viên và cán bộ nghiên cứu.

Đổi mới chương trình, giáo trình đào tạo theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần. Đổi mới phương pháp dạy và học, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo.

ThS. VŨ HOÀNG NGỌC Trưởng khoa Quản lý xây dựng, Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

Khóa đào tạo thí điểm Nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị cho Chủ tịch, Phó chủ tịch tỉnh, thành phố, thị xã

theo Đề án 1961

ThS. VŨ THỊ THANH HƯƠNG Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ – Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

TĂNG CƯỜNG GIẢNG DẠY TIẾNG ANH ĐÁP ỨNG XU THẾ HỘI NHẬP VÀ TOÀN CẦU HÓA

Trong ‘thế giới phẳng’, đặc biệt là xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội, để hiểu biết lẫn nhau và xích lại gần nhau, ngôn ngữ đóng vai

trò rất quan trọng, nhất là tiếng Anh. Hiện nay, nhiều người không còn quan niệm tiếng Anh là ngoại ngữ mà nó từng bước phải được coi như ngôn ngữ chính thức thứ hai cho bất kì ai muốn làm việc với đối tác nước ngoài, hay ít nhất, muốn tìm hiểu, giao lưu, khám phá thế giới xung quanh. Vì

Page 18: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

23 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Nâng cao năng lực ngôn ngữ: Giáo viên phải ý thức được là người học suốt đời để phát triển sự nghiệp bền vững vì mọi thứ đang thay đổi và tiến bộ không ngừng, sẽ luôn có những xu hướng mới, nghiên cứu mới và phát hiện mới trong mọi lĩnh vực. Nếu chúng ta ngừng học tập, điều đó có nghĩa chúng ta sẽ bị bỏ lại phía sau.

Tự trang bị kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin: Đây là những kỹ năng không thể thiếu trong thời đại ngày nay. Trên mọi phương diện của cuộc sống, mạng internet và các thiết bị công nghệ đã được sử dụng. Việc dạy và học cũng không là ngoại lệ và kỹ năng này đã trở thành một phần không thể tách rời trong năng lực của giảng viên.

Cập nhật và ứng dụng các xu hướng mới trong giảng dạy tiếng Anh: Giáo viên tiếng Anh cần theo dõi, cập nhật và đổi mới xu hướng mới trong giảng dạy ngoại ngữ tiếng Anh. Tích cực tham dự các hội nghị, hội thảo chuyên môn cũng như phương pháp giảng dạy. Tham dự các buổi hội thảo trực tuyến, các khóa học, trao đổi với chuyên gia hoặc tham gia vào một cộng đồng giảng dạy trên mạng.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực dạy và học ngoại ngữ: Tăng cường và mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế đa dạng về dạy và học ngoại ngữ. Mời các giảng viên người bản ngữ giảng dạy cho các lớp ngoại ngữ. Mời các chuyên gia chuyên ngành tập huấn cho các giảng viên ngoại ngữ dạy ngoại ngữ chuyên ngành. Tạo điều kiện và hỗ trợ tài chính cho giảng viên đi học tại các nước nói tiếng Anh.

Tự hoàn thiện bản thân: Giáo viên tâm huyết với nghề luôn suy nghĩ về cách dạy của mình để tìm được phương pháp hiệu quả nhất làm cho giờ giảng luôn hấp dẫn, sinh động để thu hút người học. Cả thầy và trò đều tìm được niềm vui trong mỗi buổi học.

Đúng như William Arthur Ward đã nói:The mediocre teacher tells. Người thầy bình thường nói. The good teacher explains. Người thầy tốt giải thích. The superior teacher demonstrates. Người thầy giỏi diễn tả. The great teacher inspires. Người thầy vĩ đại truyền cảm hứng.

vậy, vai trò của những giáo viên dạy tiếng Anh càng trở nên quan trọng. Nói đến đội ngũ giáo viên giảng dạy tiếng Anh, không thể chỉ đề cập tới những giáo viên bản xứ. Thực tế tại thời điểm này, những giáo viên dạy tiếng Anh phi bản xứ mới là đội ngũ đông đảo và hùng hậu nhất có trách nhiệm giảng dạy ngôn ngữ và văn hóa cho các học viên. Tuy nhiên để trở thành một thành viên trong hệ thống giảng dạy tiếng Anh cho người nước ngoài (Teachers of English for Speakers of Other Languages- TESOL), mỗi giáo viên phải trải qua những khóa học riêng biệt. Với những trải nghiệm phong phú, sự khác biệt, những khó khăn và cả niềm vui của đặc thù công việc, đội ngũ giảng viên đang thực hiện một khối lượng công việc khổng lồ và nhiều thách thức.

Với nỗ lực không ngừng trong công tác giảng dạy tiếng Anh cho học viên trong ngành Xây dựng, các giảng viên của Trung tâm ngoại ngữ Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và phát triển đô thị đã cố gắng hết sức mình trong công tác giảng dạy tiếng Anh tổng quát và tiếng Anh chuyên ngành xây dựng để đáp ứng được nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.

Trước thách thức và cạnh tranh ngày càng gay gắt, Trung tâm Ngoại ngữ - Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị với đội ngũ giảng viên được đào tạo chính quy, có phương pháp sư phạm hiện đại, có lòng nhiệt tình và đã tham gia nhiều khóa đào tạo về phương pháp dạy học tích cực của các nước tiên tiến như Úc, Singapore, Vương Quốc Anh... rất tích cực tham gia nâng cao năng lực ngoại ngữ cho cán bộ ngành Xây dựng.

Để hoàn thành được mục tiêu nâng cao năng lực ngoại ngữ theo Đề án dạy và học ngoại ngữ 2020 (số 1400/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 30/9/2008) trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020, Học viện đã tập trung đào tạo cán bộ, công chức, viên chức của ngành Xây dựng theo Khung Tham chiếu Châu Âu và tiếng Anh chuyên ngành Xây dựng. Giai đoạn từ 2010 đến nay, được sự quan tâm của lãnh đạo các cấp và sự nhiệt tình chăm chỉ của học viên, số học viên được đào tạo bài bản theo Khung Tham chiếu và tiếng Anh chuyên ngành tăng cả về số lượng và chất lượng. Điều này đã khích lệ và động viên rất nhiều đối với đội ngũ giảng dạy tiếng Anh. Trong giai đoạn tiếp theo từ 2017- 2020 cần phải đẩy mạnh hơn nữa trong công tác giảng dạy Tiếng Anh tổng quát và Tiếng Anh chuyên ngành. Để hoàn thành được mục tiêu quan trọng này, các giảng viên cần:

Cán bộ, công chức, viên chức ngành Xây dựng được đào tạo theo Khung Tham chiếu Châu Âu và tiếng Anh chuyên ngành

Page 19: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

24 24 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

Kế thừa những thành tựu và kinh nghiệm từ hai nhiệm kỳ hoạt động, sau 5 năm triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội III (nhiệm kỳ 2011-2016) với sự tham gia tích cực của các đô thị hội viên, sự quan tâm hỗ trợ của các Bộ, ngành và bạn bè quốc tế, Hiệp hội các đô thị Việt Nam trong nhiệm kỳ III đã có những bước phát triển mới và đạt được nhiều kết quả đáng được ghi nhận

Phát triển và mở rộng mạng lưới đô thị hội viên

Hàng năm, Hiệp hội các đô thị Việt Nam đều tổ chức Hội nghị thường niên kết hợp với Hội thảo chuyên đề và Hội nghị Ban Chấp hành giữa kỳ nhằm củng cố, kiện toàn và duy trì nề nếp hoạt động của bộ máy Hiệp hội.

Qua Hội nghị thường niên và các Hội thảo chuyên đề được lựa chọn dựa trên những bài học kinh nghiệm từ các dự án mà các thành phố, thị xã trực tiếp triển khai cũng như những vấn đề mà các đô thị đang gặp phải rất cần trao đổi chia sẻ để giải quyết những khó khăn trong công tác quản lý đô thị, Hiệp hội đã thu nhiều kết quả chia sẻ thực tiễn tốt, kinh nghiệm hay. Hiệp hội đã tiếp tục phát triển và mở rộng mạng lưới đô thị hội viên đến nay đã có 113 đô thị hội viên.

Thực hiện tốt vai trò phản biện chính sách, tư vấn trợ giúp các đô thị hội viên

Để thực hiện nhiệm vụ, thông qua các cuộc hội nghị, hội thảo với các Bộ, ngành Trung ương, Hiệp hội đã nêu lên

những khó khăn, vướng mắc, kiến nghị những giải pháp về cơ chế, chính sách và luật pháp tạo điều kiện để các đô thị phát triển như: Đổi mới tổ chức bộ máy chính quyền đô thị; chế độ, chính sách đối với các đô thị loại I thuộc tỉnh; vai trò và thẩm quyền các thành phố thuộc tỉnh, thị xã trong việc lập và quản lý quy hoạch xây dựng đô thị... Bên cạnh đó, Hiệp hội còn tham gia các hoạt động liên quan đến xây dựng các cơ chế, chính sách, luật pháp và những công việc quản lý Nhà nước ở đô thị như tham gia là thành viên ban soạn thảo Luật quy hoạch đô thị; tham gia góp ý trực tiếp tại các cuộc họp hoặc bằng văn bản về nghị định phân loại đô thị; dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và

Ngày 6-11, tại Hà Nội, Hiệp hội các đô thị Việt Nam (ACVN) đã tổ chức Đại hội lần thứ IV, nhiệm kỳ 2016-2021. Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng cùng nhiều lãnh đạo các Bộ, Ngành, Hiệp hội và đại diện các tỉnh, thành phố tới dự.

Thanh Hương

Toàn cảnh Đại hội Hiệp hội các đô thị Việt Nam lần thứ IV

HIỆP HỘI CÁC ĐÔ THỊ NGÔI NHÀ CHUNG CỦA ĐÔ THỊ VIỆT NAM

Page 20: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

25 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

hiệu quả; Luật Đầu tư xây dựng cơ bản, Luật Thuế nhà đất, Nghị định về quản lý các dự án phát triển đô thị; chính sách nhà ở cho người có thu nhập thấp, góp ý đề án Mô hình tổ chức chính quyền đô thị và các dự thảo Luật tổ chức chính quyền địa phương... Từ các hoạt động cụ thể nêu trên cho thấy những năm qua Hiệp hội đã có những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện vai trò là tổ chức phản biện xã hội, đại diện cho quyền lợi chính đáng và hợp pháp của các đô thị.

Mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường liên kết đô thị hỗ trợ hội viên phát triển

Được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Ban Đối ngoại Trung ương Đảng, thực hiện đường lối đối ngoại nhân dân, trong nhiệm kỳ qua, quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Hiệp hội các đô thị Việt Nam với các tổ chức quốc tế và Hiệp hội đô thị các nước ngày càng mở rộng và phát triển. Đến nay, Hiệp hội là thành viên của 3 tổ chức quốc tế lớn: Ủy viên thường trực Ban chấp hành của Hiệp hội đô thị và chính quyền địa phương khu vực Châu Á Thái Bình Dương (UCLG - ASPAC); Thành viên của Mạng lưới các thành phố quốc tế (Citynet); Thành viên của Liên Minh Quyền nhà ở Châu Á (ACHR).

Trong nhiệm kỳ 2011-2016, Hiệp hội đã có bước phát triển nhanh và mạnh, khẳng định vị thế là ngôi nhà chung của các đô thị Việt Nam. Uy tín và vị thế của Hiệp hội ngày càng được nâng cao ở trong nước và trên trường quốc tế. Hiệp hội đã tổ chức rất nhiều

hoạt động đối nội và đối ngoại có chất lượng cao, góp phần tích cực vào quá trình đô thị hóa, mang lại hiệu quả thiết thực cho các Thành phố, Thị xã trong quản lý, xây dựng và phát triển đô thị. Tập hợp, đoàn kết các đô thị để thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước nên năm 2011, Hiệp hội được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương lao động hạng 3 vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2006 đến năm 2010, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; năm 2015 được Bộ trưởng Bộ Xây dựng tặng Bằng khen đã có thành tích xuất sắc trong hoạt động giai đoạn 2011-2015; và 2 năm liền 2014, 2015 được trao Cờ thi đua của Bộ Xây dựng.

Năm 2015, Hiệp hội cũng đề nghị Bộ Xây dựng tặng Bằng khen cho 16 đô thị trong phong trào Xanh - Sạch - Đẹp gắn với Tăng trưởng Xanh.

Thông qua việc tham gia hoạt động của Hiệp hội (như phong trào Xanh – Sạch – Đẹp gắn với Tăng trưởng Xanh; các dự án hỗ trợ hợp tác quốc tế...), nhiệm kỳ vừa qua đã góp phần mang lại bước phát triển đối với các đô thị hội viên. Hiệp hội đã có 38 đô thị được Thủ tướng Chính phủ và Bộ Xây dựng thông qua quyết định nâng loại đô thị.

Tại Đại hội, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng ghi nhận, đánh giá cao những đóng góp của ACVN trong quá trình phát triển của các đô thị nói riêng, phát triển kinh tế-xã hội của đất nước nói chung.

Thời gian qua, bên cạnh những kết quả quan trọng trong công tác quản lý phát triển đô thị, các đô thị Việt Nam còn đối mặt với nhiều thách thức. Trong đó, nổi bật nhất là xu hướng tập trung hoá đô thị, xu hướng phát triển thiếu cân bằng, chênh lệch giữa các vùng, miền. Chính tình trạng này đã tạo ra các dòng dịch chuyển dân cư, từ đó gây áp lực lên hệ thống hạ tầng đô thị, các dịch vụ thiết yếu như nhà ở, y tế, giao thông, giáo dục…, dẫn đến tình trạng ô nhiễm, ngập úng…

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng cho rằng các đô thị Việt Nam chưa quan tâm đúng mức đến phát triển nhà ở xã hội phù hợp với

Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng phát biểu tại Đại hội

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phan Thị Mỹ Linh thay mặt Bộ Xây dựng tặng Bằng khen cho 18 đô thị trong phong trào Xanh - Sạch - Đẹp gắn với Tăng trưởng xanh

Page 21: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

26 26 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

nhu cầu, khả năng của người dân. “Đô thị phát triển mục tiêu đầu tiên phải là vì con người, vì người dân. Trong khi người dân đại đa số còn thiếu nhà ở, có khả năng chi trả thấp nhưng lại rất thiếu những sản phẩm phù hợp. Tình trạng này chắc chắn sẽ dẫn đến những đô thị phát triển không cân bằng”.

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng nhấn mạnh thêm: “Nếu không có giải pháp phù hợp, ngay bên cạnh các khu nhà chọc trời sẽ xuất hiện những khu “ổ chuột”, và như thế sẽ không thể có văn minh đô thị”,

Nhà nước phải có chính sách hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp để phát triển nhà ở xã hội. Cùng với đó, công tác kiểm soát phát triển đô thị còn nhiều bất cập, tình trạng quản lý thiếu quy hoạch, không có kế hoạch diễn ra ở nhiều nơi. Công tác phòng chống cháy nổ còn nhiều hạn chế; quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng không được thực hiện nghiêm, thất thoát, lãng phí trong đầu tư xây dựng đô thị còn lớn.

Đánh giá về hiệu quả hoạt động của Hiệp hội nhiệm kỳ vừa qua, ông Lê Hồng Sơn, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội cho rằng, thời gian qua, hệ thống đô thị cả nước phát triển mạnh cả về quy mô, chất lượng. Mỗi đô thị đã đóng vai trò như một hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế. Với vai trò của mình, Hiệp hội các đô thị đã có những đóng góp tích cực trong lĩnh vực xây dựng, quản lý xây dựng, qua đó kiểm soát tốt quá trình đô thị hóa và hướng tới phát triển

bền vững.Chủ tịch Hiệp hội các đô thị Việt

Nam nhiệm kỳ III (2011-2016), đồng chí Nguyễn Văn Khôi khẳng định sẽ tiếp thu những ý kiến đóng góp của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng như nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ mới. Trải qua 15 năm hình thành và phát triển, ba nhiệm kỳ đã đi qua là một chặng đường với nhiều thay đổi của nền kinh tế. Tại nhiệm kỳ III, Hiệp hội các đô thị Việt Nam đã có bước phát triển nhanh, khẳng định vị thế là ngôi nhà chung của các đô thị Việt Nam, uy tín ngày một nâng cao ở trong nước và trên trường quốc tế, góp phần tích cực vào quá trình đô thị hóa, mang lại hiệu quả thiết thực cho các thành phố, thị xã trong xây dựng và quản lý phát triển đô thị. Bên cạnh những kết quả đã đạt được còn có những khó khăn thách thức mà các đô thị phải đối mặt, đó là tình trạng ách tắc giao thông, ngập úng khi mưa, lấn chiếm đất công, xây dựng không phép, sai phép, ô nhiễm môi trường…

Trong thời gian tới, theo Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng, trước hết ACVN phải tập trung thực hiện có hiệu quả chức năng phản biện, tham gia vào quá trình xây dựng chính sách đô thị; tập hợp, liên kết giữa các đô thị; tham gia có chất lượng vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách để phát triển và quản lý đô thị; góp phần giải quyết tốt các vấn đề bức xúc đang đặt ra với các đô thị.

Với đặc thù của tổ chức và hoạt động của mình, qua thời gian hoạt động thực tế từ khi thành lập đến nay và trên cơ sở tiếp thu ý kiến chỉ đạo tại Đại hội Hiệp hội các đô thị Việt Nam của Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng và các đồng chí lãnh đạo, bà Ngô Thị Tám – Tổng Thư ký ACVN thay mặt Ban Thư ký Hiệp hội cho rằng: Để có thể làm tốt hơn các nhiệm vụ cơ bản trong thời gian tới là tăng cường chức năng phản biện, tham gia vào quá trình xây dựng chính sách, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành có liên quan với Hiệp hội, đặc biệt phải có sự chủ động, tích cực tham gia từ các đô thị hội viên trong các khâu từ đề xuất phát hiện vấn đề, rà soát nội dung các văn bản, thông tin cho đến mạnh dạn kiến nghị không chỉ là những văn bản được mời tham gia góp ý mà chủ động có văn bản đề xuất, kiến nghị để Hiệp hội có thể tổng hợp, liên kết ý kiến giữa các đô thị, tạo sự thống nhất trong việc trình các cơ quan cấp trên.

Trong quá trình quản lý phát triển đô thị, phải có sự đồng bộ, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan để tạo ra tổng lực quản lý hiệu quả, thông qua các hoạt động, Hiệp hội sẽ là cầu nối giữa các cấp chính quyền địa phương, đô thị tới cộng đồng người dân, doanh nghiệp để chính quyền đô thị có thể thực hiện được việc phục vụ người dân, doanh nghiệp, cộng đồng một cách tốt nhất qua việc luôn luôn lắng nghe, cùng nhau chia sẻ, cùng nhau giải quyết những vấn đề khó khăn, tồn tại ở các đô thị liên quan đến vấn đề nhà ở, sử dụng đất, nâng cấp hạ tầng cơ sở, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ môi trường cũng như tận dụng hiệu quả các nguồn thu ngân sách. Đồng thời tham gia tích cực, có trách nhiệm các dự án quốc tế, liên kết chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và chủ động nhân rộng mô hình hay, thực tiễn tốt.

Trong xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, ACVN cần tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế nhằm tìm ra những mô hình, giải pháp, kinh nghiệm, nguồn lực… nhằm quản lý, phát triển đô thị phù hợp với nhu cầu, đặc điểm của Việt Nam, tiếp cận các xu hướng phát triển đô thị hiện đại.

Chủ tịch Hiệp hội các đô thị Việt Nam nhiệm kỳ III Nguyễn Văn Khôi khẳng định sẽ tiếp thu những ý kiến đóng góp của Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cũng như

nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ mới

Page 22: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

27 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

Những năm gần đây, tỉnh Bạc Liêu đang chú trọng và đẩy mạnh đầu tư phát triển ngành “công nghiệp không khói” - phát triển du lịch. Du lịch Bạc Liêu đã và đang có những bước đột phá với sự độc đáo rất riêng của vùng đất Nam Bộ hữu tình.

du lịch tâm linh, bao gồm: Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu, Khu du lịch sinh thái Hồ Nam, Quảng trường Hùng Vương, Khu nhà Công tử Bạc Liêu, Khu biển nhân tạo – khu du lịch Nhà Mát, Khu quán Âm Phật Đài, Nhà hàng - Khách sạn Bạc Liêu, đó cũng chính là những điểm du lịch hấp dẫn mà du khách chỉ có thể chiêm ngưỡng, khám phá tại thành phố Bạc Liêu mà thôi. Ngoài ra, còn có các điểm du

Có thể thấy, chỉ trong thời gian ngắn tập trung cho phát triển du lịch, thành phố Bạc Liêu đang từng bước khẳng định thương hiệu riêng. Hiện toàn tỉnh Bạc Liêu có 8 điểm du lịch được Hiệp hội Du lịch Đồng bằng Sông Cửu Long công nhận là điểm du lịch tiêu biểu của Đồng bằng Sông Cửu Long (nhiều nhất trong khu vực) thì thành phố Bạc Liêu đã có 7 điểm, với đầy đủ các loại hình du lịch từ du lịch tham quan - văn hóa - sinh thái đến

lịch khác cũng cuốn hút nhiều du khách đến với thành phố như: Khu Điện Gió, khu du lịch Vườn Chim, khu du lịch Vườn Nhãn…

Sự độc đáo và hấp dẫn của du lịch tỉnh Bạc Liêu nói chung và thành phố nói riêng không chỉ được phát huy ở những tiềm năng của thiên nhiên, tiềm năng lịch sử, nét văn hóa truyền thống mà còn được phát huy từ chính nội lực của địa phương với quyết tâm tạo sức bật cho du lịch. Tất cả đều là những

Lưu Hoàng Ly*

Du lịch

Hấp dẫn với sự độc đáo riêng của một thành phố trẻ

thành phố Bạc Liêu

*Chủ tịch UBND TP. Bạc Liêu

Page 23: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

28 28 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ

công trình phục vụ du lịch được thiết kế ấn tượng thu hút được nhiều du khách đến tham quan, thưởng thức.

Các công trình phục vụ du lịch trên địa bàn thành phố luôn được quy hoạch phù hợp, xây dựng với vị trí thuận tiện phục vụ du khách. Quảng trường Hùng Vương không chỉ được

người dân trong tỉnh và đông đảo du khách yêu thích vì có kiến trúc đẹp rộng, lớn nhất khu vực Miền Nam, mà khi đến với Quảng trường, mọi người đều cảm thấy thỏa mãn với điểm du lịch mang nhiều ý nghĩa: Chính trị, văn hóa và giải trí. Bởi, rất nhiều sự kiện chính trị, văn hóa được tổ chức tại

Quảng trường mà hàng ngàn người dân, du khách đều có thể tham gia. Không phải ngẫu nhiên, mỗi ngày Quảng trường đều đón hàng ngàn lượt khách, người dân trong thành phố, bởi đến đây, mọi người còn có dịp chiêm ngưỡng 2 kỷ lục Quốc gia: Trung tâm Triển lãm Văn hóa Nghệ thuật và nhà hát Cao Văn Lầu (mô hình ba nón lá), mô hình Cây Đờn Kìm cách điệu lớn nhất Việt Nam. Và cách đó không xa, du khách cũng như người dân trong tỉnh cũng dễ dàng đến để tỏ lòng thành kính với các anh hùng liệt sĩ tại Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, Bia tưởng niệm sự kiện Mậu Thân 1968.

Tâm điểm thu hút nhiều du khách đến với thành phố là khu du lịch liên hoàn nằm trên địa bàn phường Nhà Mát - xã Hiệp Thành. Nổi tiếng về du lịch tâm linh và sinh thái vườn. Hàng năm, rất nhiều du khách, phật tử, giáo dân gần xa vẫn luôn hành hương về Lễ hội vía Bà Nam Hải tổ chức vào ngày Khu lưu niệm Đờn ca tài tử Nam Bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu

Đờn ca tài tử Nam Bộ

Page 24: NGUỒN NHÂN LỰC - amc.edu.vnamc.edu.vn/images/baiviet/2017/03/AMC50-diendanxaydungvadothi.pdf · Nhà nước giao cho toàn Ngành. Tuy vậy, trong bối cảnh toàn cầu

29 Số 50.2016 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ

22, 23 và 24 tháng 3 âm lịch tại khu du lịch Quán Âm Phật Đài, gần đó là Khu du lịch Nhà Mát được đầu tư, xây dựng nằm kề cửa biển, du khách có thể ngắm cảnh tàu thuyền tấp nập bên ngoài cửa biển, bên trong khu du lịch là Biển Nhân tạo, khu vui chơi, đang hoàn thành khu vườn thú, rạp chiếu phim 6D, tháp trượt nước 600m và các trò chơi khác để phục vụ nhu cầu giải trí của du khách… Đồng thời, thành phố đang chỉnh trang, xây dựng khu ẩm thực biển, khu thương mại - dịch vụ tổng hợp, nâng cấp đường, vỉa hè… Chi phí xây dựng các công trình này khoảng 150 tỷ đồng. Dự kiến những dự án này sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động vào cuối năm 2016. Song song theo đó, thành phố Bạc Liêu cũng chú trọng phát triển về du lịch sinh thái vườn, với khu du lịch Vườn Nhãn, đã được đầu tư bảo tồn các gốc nhãn cổ có trên trăm năm tuổi, tại đây, du khách vừa tham quan nhãn cổ, vừa thưởng thức các món

ẩm thực nổi tiếng của xử sở Bạc Liêu, nghe đờn ca tài tử Nam Bộ dưới tán nhãn cổ sum suê, mát rượi, tạo cho du khách cảm giác được sống hòa mình vào thiên nhiên tại một vùng đất phương Nam.

Thành công lớn nhất của ngành “kinh tế không khói” này là doanh thu du lịch, dịch vụ hàng năm của thành phố đều tăng, tiến đến mục tiêu ngành Du lịch thành phố trở thành kinh tế mũi nhọn. Để có được kết quả trên, ngoài sự đầu tư, xúc tiến đầu tư cho nhiều dự án trọng điểm, thì thành phố đã có những giải pháp khẳng định thương hiệu, mời gọi và giữ chân du khách. Mới đây nhất, thành phố Bạc Liêu đã tham mưu tỉnh xây dựng và triển khai thành công Bộ Quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch đến các doanh nghiệp kinh doanh phục vụ du lịch trên địa bàn thành phố, nhằm xây dựng phong cách người Bạc Liêu “Hiếu khách, văn minh, lịch thiệp” tạo ấn tượng đẹp về cốt cách, tâm

hồn của “Tình người, tình đất Phương Nam”. Ngoài ra, trước đó, thành phố còn mạnh dạn phát động phong trào “Người người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch”, ngay sau khi phát động, phong trào đã được nhiều tầng lớp nhân dân đồng tình, ủng hộ, phong trào đã thấm sâu vào tâm tưởng của từng người dân thành phố. Nhân dân trong thành phố đã thay đổi phong cách phục vụ, giao tiếp theo hướng văn minh, hiện đại hơn, để xứng tầm là công dân của một đô thị loại II.

Thành phố Bạc Liêu, tuy trẻ nhưng rất năng động, thân thiện, hiếu khách, hấp dẫn khách du lịch gần xa “Một lần đến – một lần thương”.

Chính sự tươi trẻ, lịch lãm của du lịch thành phố Bạc Liêu như một làn gió mới mời gọi du khách đang thích khám phá, thư giãn. Để luôn luôn mới mẻ và có thể níu bước chân khách du lịch trở lại với Bạc Liêu, thành phố Bạc Liêu đã, đang và luôn đi tìm những giải pháp phát triển du lịch bền vững.

Công trình điện gió Bạc Liêu