nhẬp mÔn phong thỦy trong xÂy dỰng

28
NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG I. PHONG THỦY ĐẠI CƯƠNG Có nhiều định nghĩa, giải thích khác nhau về phong thủy. Theo chúng tôi, phong thủy là tác động của môi trường đến phần tâm linh của con người. Khi tác động đó là phù hợp sẽ giúp cho con người phát triển thuận lợi tốt đẹp. Nếu tác động đó không phù hợp sẽ góp phần gây nên một số ảnh hưởng xấu. Như vậy, để nghiên cứu về phong thủy, trước hết nên có hiểu biết một phần về tâm linh. 1. Học thuyết tam tài, tự nhiên và tâm linh Học thuyết tam tài trình bày quan hệ giữa ba bản thể : THIÊN- ĐỊA – NHÂN. Nguyên lý là thiên địa nhân hợp nhất, nhân sinh tiểu vũ trụ. Mỗi bản thể là một hệ thống nhất và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy vậy vì nhận thức của loài người còn bị hạn chế nên tạm chia mỗi bản thể thành hai phần: tự nhiên và tâm linh. Tự nhiên là đối tượng của các môn khoa học. Tâm linh là đối tượng của tôn giáo và một số môn huyền bí, siêu hình. Cả khoa học và tâm linh đều nhằm tìm hiểu nhận thức, cải tạo thế giới và con người. Khoa học dùng các phương pháp phân tích, chứng minh ( khoa học thực chứng). Tâm linh dựa trên sự cảm nhận và lòng tin. Nhà khoa học thiên văn lỗi lạc Trinh Xuân Thuận ( Việt kiều ở Pháp) có phát biểu: “ Để phát triển khoa học không cần đến tâm linh cũng như tâm linh không cần đến khoa học. Nhưng một con người để phát triển toàn diện cần hiểu biết cả tâm linh và khoa học”. 2. Sự tác động của môi trường đến con người Sự tác động này được chia làm 2 dạng: tự nhiên và tâm linh Tác động tự nhiên là tác động của khí hậu, thời tiết, tiếng động, các hóa chất, các sinh vật, của từ trường, điện trường, các tia , gama, các tia vũ trụ… Các yếu tố tự nhiên này tác độnhg vào sinh lý và tâm lý của con người. Đó là đối tượng của khoa học. 1

Upload: tran-ngocminh

Post on 04-Jul-2015

967 views

Category:

Documents


3 download

TRANSCRIPT

Page 1: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

I. PHONG THỦY ĐẠI CƯƠNG

Có nhiều định nghĩa, giải thích khác nhau về phong thủy. Theo chúng tôi, phong

thủy là tác động của môi trường đến phần tâm linh của con người. Khi tác động đó là

phù hợp sẽ giúp cho con người phát triển thuận lợi tốt đẹp. Nếu tác động đó không phù

hợp sẽ góp phần gây nên một số ảnh hưởng xấu. Như vậy, để nghiên cứu về phong

thủy, trước hết nên có hiểu biết một phần về tâm linh.

1. Học thuyết tam tài, tự nhiên và tâm linh

Học thuyết tam tài trình bày quan hệ giữa ba bản thể : THIÊN- ĐỊA – NHÂN.

Nguyên lý là thiên địa nhân hợp nhất, nhân sinh tiểu vũ trụ.

Mỗi bản thể là một hệ thống nhất và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Tuy vậy vì nhận

thức của loài người còn bị hạn chế nên tạm chia mỗi bản thể thành hai phần: tự nhiên

và tâm linh. Tự nhiên là đối tượng của các môn khoa học. Tâm linh là đối tượng của tôn

giáo và một số môn huyền bí, siêu hình. Cả khoa học và tâm linh đều nhằm tìm hiểu

nhận thức, cải tạo thế giới và con người. Khoa học dùng các phương pháp phân tích,

chứng minh ( khoa học thực chứng). Tâm linh dựa trên sự cảm nhận và lòng tin.

Nhà khoa học thiên văn lỗi lạc Trinh Xuân Thuận ( Việt kiều ở Pháp) có phát biểu: “

Để phát triển khoa học không cần đến tâm linh cũng như tâm linh không cần đến khoa

học. Nhưng một con người để phát triển toàn diện cần hiểu biết cả tâm linh và khoa

học”.

2. Sự tác động của môi trường đến con người

Sự tác động này được chia làm 2 dạng: tự nhiên và tâm linh

Tác động tự nhiên là tác động của khí hậu, thời tiết, tiếng động, các hóa chất, các

sinh vật, của từ trường, điện trường, các tia , gama, các tia vũ trụ…

Các yếu tố tự nhiên này tác độnhg vào sinh lý và tâm lý của con người. Đó là đối

tượng của khoa học.

Tác động tâm linh: là tác động của năng lượng siêu hình trong trời đất đến phần

tâm linh của con người, và gây ra những ảnh hưởng đến đời sống phát triển . Tác động

này đến từ 2 nguồn dương trạch ( hoặc dương cơ- là nơi ở và hoạt động) và âm trạch

( mồ mả tổ phụ) thông qua ba hình thái là hình thể, lý số, và trạch vận.

Động lực của sự tác động là các dạng năng lượng nào đó, có người gọi là năng

lượng vũ trụ, có người gọi là năng lượng tâm linh, năng lượng sinh học… tạm gọi là

năng lượng siêu hình. Người xưa gọi là “ khí”, ngày nay có người lại xem đó là các

sóng. Có lẽ các năng lượng này vùa là khí vừa là sóng cũng như bản chất của ánh sáng

là sóng và hạt.

3. Tâm linh của con người

Nhân sinh tiểu vũ trụ. Con người là vũ trụ thu nhỏ. Tạm chỉ xem xét quả đất. Quả

đất gồm một phần đặc và nhiều phần rỗng bao quanh. Khi quả đất chuyển động trong

1

Page 2: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

vũ trụ, nó kéo theo tất cả các phần rỗng đó. Giữa phần đặc và phần rỗng có mối quan

hệ qua lại, ảnh hưởng mật thiết.

2

Page 3: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

3

Page 4: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Con người cũng được cấu tạo gồm thân thể là phần đặc và phần rỗng. cho đến nay

người ta đã biết được 7 tầng của phần rỗng đó, đó là các tầng hào quang hoặc các tầng

vía ( ba hồn bảy vía! ). Các tầng này bao bọc xung quanh thân thể và thâm nhập vào cơ

thể. Tạm xem các phần này thuộc về tâm linh của con người. trong các tầng đều có

chứa năng lượng và thông tin. Có người cho rằng lượng thông tin được chứa trong tầng

hào quang có thể là rất lớn, gấp hằng vạn lần so với thông tin chứa trong bộ não.

Về các tầng hào quang, có thể tìm đọc trong các tài liệu sau: “ Bàn tay ánh sáng”

của Barbara Ann Brennan ( người Mỹ) do Lê Trọng Bổng dịch, nhà xuất bản Văn hóa

thông tin xuất bản. Từ nguồn tài liệu do GS. Nguyễn Hoàng Phương đã thuật lại trong

sách “ Tích hợp đa văn hóa Đông Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai”. Nhà xuất

bản Giáo dục, 1995 hay như GS. Nguyễn ĐÌnh Phư thuật lại trong “ Năng lượng sinh

học”.

Riêng sự hoạt động của thân thể con người ( phần đặc ) lại có 2 hệ thống: ý thức

và vô thức. mà chính phần vô thức quyết định phần lớn sự sống của con người. ( vô

thức: các hoạt động của bộ máy tuần hoàn, tiêu hóa, thần kinh không bị ý thức chỉ đạo,

chi phối).

Liên hệ giữa các tầng hào quang và thân thể thông qua hệ thống 7 luân xa. Mỗi

hoạt động hoặc biến đổi của một bộ phận nào đó của cơ thể ( bị thương, bệnh tất…)

đều được phản ánh vào các tầng hào quang. Ngược lại các hoạt động và biến đổi các

vùng của tầng hào quang đều gây ảnh hưởng cho các hoạt động vô thức và ý thức.

Tác động của phong thủy chính là tác động của năng lượng siêu hình ( khí/ sóng)

lên các tầng hào quang của con người và từ đó ảnh hưởng tới các hoạt động vô thức và

ý thức.

4. Các trường phái phong thủy

Lĩnh vực phong thủy vô cùng rộng lớn bao gồm rất nhiều vấn đề và có nhiều

trường phái khác nhau. Không biết đã có ai nắm được hết toàn bộ các kiến thức về

phong thủy hay chưa, nhưng riêng tôi càng tìm hiểu, càng như chim chích vào rừng.

Tuy vậy, với sự hiểu biết có hạn tôi tạm xếp thành ba trường phái chính là : phong thủy

hình thể, phong thủy lý số và phong thủy trạch vận. Trong mỗi trường phái lại có nhiều

nhánh, nhiều quan điểm khác nhau. Các sách về phương thủy thường chỉ tập trung vào

một vài nhánh. Tuy có nhiều trường phái, nhiều nhánh nhưng có một điều chung là đều

xem xét tác động của khí sóng. Ngoài ra còn có trường phái dịch học trong phong thủy,

dựa vào các kết quả của kinh dịch để xem xét.

5. Tác dụng của phong thủy.

Có một số người quá đề cao phong thủy, cho rằng nó có tác dụng to lớn, có tính

quyết định với vận mệnh và hoạt động của mình. Họ nêu ra những dẫn chứng cho rằng

nhờ phong thủy mà nhiều người phát tài, thăng quan tiến chức, khỏi bệnh tật… và vi

phạm sai lầm trong phong thủy và gặp tai nạn, sạt nghiệp, chết người. Có người cho

rằng phong thủy có một tác động nào đấy nhưng chỉ do phần dương trạch mà bác bỏ

phần âm trạch, cho rằng âm trạch là mê tín, dị đoan. Những người theo thuyết duy vật

triệt để lại hoàn toàn phủ nhận.

4

Page 5: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Theo tôi, phong thủy( kể cả dương trạch và âm trạch) đều có một tác dụng nào đấy

nhưng không đóng vai trò quyết định mà là bổ trợ. Để quyết định sự thành bại của một

con người còn có số mệnh, vận hạn, đạo đức, năng lực, ý chí… Phong thủy là một tác

nhân góp vào để làm cho sự việc được tốt lên hay xấu đi.

Số mệnh, vận hạn cũng thuộc về lĩnh vực tâm linh. Đó là đối tượng của các môn dự

đoán ( tử vi, tứ trụ, hà lạc, đôn giáp…)

Đạo đức, năng lực, ý chí thuộc về các hoạt động ý thức, có sự tham gia nào đó của

vo thứuc, nó cso ảnh hưởng trở lại tâm linh ( tướng bất cập số, số bất cập đức, tường

tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt, tiên tích đức hậu tầm long, xưa nay nhân định thắng

thiên cũng nhiều..)

Như vậy, đối với phong thủy không nên phản bác và cũng không nên quá đề cao.

II. PHONG THỦY HÌNH THỂTạm gọi là “ thể trạch” là từ chỉ chung dương trạch và âm trạch, là nơi trực tiếp

nhận các sự tác động của phong thủy và từ đó sẽ có tác động đến con người.

Âm trạch là nơi chôn mồ mả của tổ tiên, có khi còn được gọi là huyệt mộ.

Dương trạch là nơi sinh sống, hoạt động. Bé là một ngôi nhà, một cửa hàng, lớn là

một khu vực sản xuất, kinh doanh dân cư, lớn nữa là cả thành phố hoặc vùng lãnh thổ.

Phong thủy hình thể xem xét vị trí của thế trạch trên bề mặt quả đất, ảnh hưởng

của các đối tượng khác nhau đến thế trạch. Do vị trí tương quan với đất, thế núi, thế

nước mà thế trạch nhận được năng lượng vũ trụ nhiều hay ít. Do tương quan với các

đối tượng trên mà thế trạch tiếp nhận sóng/ khí từ chúng. Trong phong thủy hình thể có

những vấn đề như long mạch, sơn pháp, thủy pháp, hình pháp, địa lý…

1. Long mạch huyệt

Năng lượng vũ trụ truyền xuống quả đất. Do vỏ quả đất có cấu tạo khác nhau mà

có nơi nhận được những nguồn mạnh, tập trung là các núi cao gọi là tổ sơn, các nơi

nhận được nhiều trở thành vùng địa linh, có nơi nhận được, hoặc không nhận được.

Tùy theo vị thế mà Tổ sơn còn được phân thành: thái tổ sơn, thiếu tổ sơn, phụ mẫu

sơn. Từ các tổ sơn, nguồn năng lượng ( khí) được truyền dẫn theo thế núi, xuống đồng

bằngm hình dáng uốn lượn như con rồng nên được gọi là LONG. Có tài liệu phân biệt

MẠCH và LONG. Chúng tôi chưa tìm thấy định nghĩa thật rõ ràng, chỉ căn cứ vào cách

trình bày mà đoán như sau: MẠCH là nguồn năng lượng từ các tổ sơn phát đi hoặc là

trường, thế của nó. LONG là các dòng năng lượng từ núi trở đi( tiêu tầm mạch, hậu tầm

long) Có tài liệu ghép LONG MẠCH thành một từ chung chỉ khái niệm chung là dòng khí

hoặc hình thế của các triền núi. LONG MẠCH thường đi kèm, song hành với các dòng

nước.

Theo hướng của mạch chia ra thành long dương, long âm. Theo thế chia ra thành

hồi long, xuất dương long, giáng long, sinh long, phi long, trâm long, ẩn long, đằng long,

quần long. Long không phải là duy nhất mà có thể phân nhánh, vì vậy mà còn chia ra

cán long, chi long. Cán long là dòng lớn, lại chia ra đại cán, tiểu cán. Chi long là dòng

bé, lại chia ra thành đại chi, tiểu chi.

5

Page 6: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Huyệt là những nơi tụ khí, là trung tâm sinh khí. Huyệt thường có các hình oa,

kiểm, nhũ đột, thường xuất hiện ở những vùng đất có dạng thắt cổ bồng, khung gọng

vó, thè lè lưỡi trai… đất có huyệt là đất tốt cho thế trạch.

Tầm long, điểm huyệt ( án huyệt) là việc làm của các thầy địa lý cao tay, có khả

năng và cảm nhận đặc biệt. người ta tránh đào bới lung tung, đặc biệt là trước các ngôi

mộ vì sợ làm đứt long mạch.

Yếm long mạch là cách dùng một số thủ đoạn ( đào rãnh cắt ngang long mạch,

chôn vật cản trên long mạch) làm cắt đứt dòng năng lượng dẫn vào nơi địa linh.

Hàn long mạch là việc làm khôi phục lại long mạch bị đứt.

2. Sơn pháp

Sơn pháp là phép xem xét thế đất, thế núi, ảnh hưởng đến thế trạch. Gọi 4 phía

như nhau: trước mặt là chu tước ( phượng đỏ) sau lưng là huyền vũ ( rùa đen) bên trái

là thanh long ( rồng xanh) bên phải là bạch hổ ( hổ trắng).

Sơn là từ chỉ chung, có thể là núi đồi hoặc ở đồng bằng là vùng đất cao hơn. Để chỉ

núi người ta còn dùng chữ Loan ( Loan thế, loan đầu…)

Một kiểu đất tốt cần có thế phù hợp, tiền án, hậu chẩm, có thanh long bạch hổ

nghiêm chỉnh. Phía chu tước nên có khoảng rộng, bằng phẳng, có thêm hồ nước thì

tốt, đó là minh đường thủy tụ. sơn phía trước, gần mà thấp là án sơn, xa mà cao là triều

sơn. Hình dán của sơn được phân theo ngũ hành : kim mộc thủy hỏa thổ. Kim là dạng

có đỉnh tròn, thủy là nhấp nhô lượn sóng, hỏa đỉnh nhọn vươn cao, mộc cao và thuôn,

thổ đỉnh bằng phẳng. triều sơn án sơn thuộc dạng hỏa là không tốt.

Sơn pháp tầm long là dựa vào thế núi của sơn để tìm long mạch và huyệt.

Sa là các núi nhỏ ở xung quanh. Thích thiện sa là núi núi có nhiều đá nhọn lởm

chởm như gai là xấu.

Người ta đã tổng kết, trình bày các thế núi, thế long tạo, đất phát. Long trùng điệp,

sinh thế bát là đất phát trạng nguyên. Thanh long bạch hổ tương đương mạnh mẽ là đất

phát cự phú… thế hữu long vô hổ là một trong các thế đất dữ ( tham khảo 37) sơn pháp

thường được kết hợp cùng thủy phát.

3. Thủy pháp

Thủy pháp là cách xem xét về nguồn nước, dòng nước. Trước hết cần xác định khu

vực đất liên quan, ảnh hưởng đến thế trạch trong đó cso nguồn nước. Đặt thế trạch ở

trung tâm, chia mặt đất ( trên thực địa hay trân bản đồ) thành 24 hướng ( nhị thập tứ

sơn- sẽ trinh bày kĩ hơn ở phần sau) Đặt tên các hướng như sau:

Chính bắc có ba hướng là Nhâm, Tý , Quý

Đông bắc có Sửu, cấn, dần

Chính đông : giáp, mão, ất

Đông nam: thìn, tốn, tỵ

Chính nam: bính ngọ đinh

Tây nam: mùi khôn thân

Chính tây: canh dậu tân

Tây bắc : tuất, càn, hợi

6

Page 7: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Xem dòng nước chảy qua khu vực bắt đầu tư phương nào ( thủy phát) và chảy ra theo

phương nào( thủy tiêu). Tùy theo tương quan giữa phương hướng của thế trạch và của

dòng ngước người ta tổng kết ra các thủy thế. Trên hình vẽ nhà có hướng Ất, dòng

ngước chảy vào ở Bính, thoát ra ở Tý.

Để đánh giá, người ta dùng vòng “ tràng sinh” gồm 12 cung thứ tự: tráng sinh, mộc

dục, quan đới, lâm quan, đế vương, suy, bệnh, tử, mộ, tuyệt, thai, dưỡng. (tham khảo

trang 49/48)

7

Page 8: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Ghép vòng tràng sinh với nhị thập tứ sơn. Vị trí của tràng sinh được quyết định bởi

bản mệnh của chủ nhà. Dựa vào thủy phát và thủy tiêu ( đều gọi là thủy đầu) ở cung

nào của vòng tràng sinh mà đoán nhận tốt xấu.

Xét dòng nước còn cần xem trạng thái nước chảy và hình thế uốn lượn của nó.

Trạng thái tốt là nước chảy hòa hoãn, không nhanh, không quá mạnh nhưng cũng

không tù đọng. thình thé tốt là hình thé uốn lượn bao quanh thế trạch, không chĩa thẳng

vào phía trước… ( tham khảo trang 9)

Thủy pháp thường được kết hợp với sơn pháp thành SƠN THỦY PHÁP liên quan

mật thiết đến với LONG MẠCH, HUYỆT.

Địa lý tả ao chủ yếu nghiên cứu long mạch, huyệt dựa vào sơn thủy pháp để tìm

huyệt mộ kết và phát. ( tham khảo trang 25)

4. Hình pháp

Hình pháp là cách xem xét tác động của các vật thể khác nhau đến khi khí của ngôi

nhà và cũng như tác động cảu hình dáng, vị trí của các bộ phận trong ngôi nhà. Các vật

thể như con đường, cầu vượt, các công trình kiến trúc lân cận, các đồ vật dùng hoặc

trang trí trong nhà… Các bộ phận trong nhà như cầu thang, nhà bếp, khu vệ sinh, cửa

đi, cửa sổ…

Các vật thể, do cấu tạo, hình dáng, sự hoạt động mà phát ra các sóng khí ảnh

hưởng đến trường năng lượng của con người.

Nên tránh làm nhà rất gần ( đặc biệt là trước mặt) đình chùa , đền, miếu và trong

một số tình huốn như bị con đường hướng thẳng mặt vào mặt trước của nhà ( chỗ ngã

ba) bị kẹp giữa hai con đường lớn, gần trước nhà có cột trụ hoặc cây to, có vật thể nhọn

chĩa thẳng vào nhà ( đòn đông, nóc nhà phía đối diện) tránh làm nhà mà lại thấp hơn

mặt đường.

Vật dụng, đồ trang trí nên tránh dùng các loại có hình dáng kỳ quái, có nhiều đỉnh

nhọn. sóng phát ra từ các đồ vật ấy thường không thích hợp.

Mặt bằng của các ngôi nhà nên cân xứng, tránh làm nhà hình tam giác, nhà bị

khuyết một góc, nhà có hình dạng khúc khủy.

Cửa chính vào căn hộ không nên đối diện trực tiếp với hành lang, với lối đi xuống

của cầu thang, cửa thang máy. Đi vào nhà qua cửa chính không nên thấy bếp, phòng vệ

sinh, cửa sổ, gương.

Huyền quan nằm giữa cửa chính và phòng khách. Khu vực huyền quan thường

được thông thoáng, sáng sủa, không nên cao hơn phòng khách.

Phòng ngủ không nên quá lớn hơn hoặc quá nhỏ, không nên đối diện với phòng vệ

sinh hoặc nhà bếp, không bị xà ngang đè bên trên đầu giường, phòng ngủ không nên

gần với huyền quan.

Gian bếp nên có hình dạng vuông văn, không nên gần sát phòng ngủ chủ nhà. Kỵ

cửa bếp đối diện với cửa chính, cửa phòng ngủ, cửa phòng vệ sinh. Kỵ gian bếp và gian

vệ sinh chung cửa.

Phòng vệ sinh không nên đặt giữa nhà, khong trông thẳng ra cửa lớn, cửa phòng

ngủ chủ nhà, cửa gian bếp.

8

Page 9: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Cửa sổ nên có kích thước vừa phải, không làm hai cửa sổ trực diện nhau, không

làm cửa sổ thụt vào bên trong tường, không hướng cửa sổ vào mồ mả gần bên ngoài,

vào cột đèn, ngã tư đường phố.

Hình pháp được nhiều nhà phong thủy quan tâm trong bài trí nội thất, trong biệc

trang trí như dùng dòng nước phun, bể cá, chậu cảnh, gương, chuông gió, đèn …

Khi không thể tránh được một số điều kiêng kỵ, nên tránh thì tìm cách hóa giải

bằng một số biện pháp như trồng cây, làm vật chắn, dùng các vật trang trí đặt vào

những chỗ thích hợp nhất ( rất đa dạng, thường được trình bày trong các sách về trang

trí nội thất theo phong thủy.

5. Khí đất và tia đất

Khí đất thể hiện nguồn năng lượng vũ trụ được tích tụ. một số người còn nói họ có

khả năng nhình tháy hoặc cằm nhận được. đất có năng lượng tốt có khí màu sáng đẹp,

đất xấu có khí màu tối sẫm.

Nên tránh làm nhà ở trên những đất khô cằn, đất có nhiều phế thải, rác rưởi, tránh

cắm cọc làm nhà trên vùng đất bùn, tránh xây dựng nhà trên nền cũ của đình chùa.

Tia đất là tia phát ra từ nguồn nào đó trong lòng đất. nguồn đó có thể là những khối

lớn kim loại, chất lỏng, hóa chất hoặc hài cốt. Tia đất theo phương thẳng đứng, trong

một phạm vi khá đẹp có khả năng xuyên qua các tầng nhà. Nếu tia đất không hợp, có

tác dụng xấu gọi là ác xạ.

Để phát hiện tia đất, khí đất thì cần có khả năng ngoại cảm đặc biệt hoặc được

luyện tập chuyên môn “ cảm xạ học”. Ở Hà Nội có công ty chuyên phát hiện tia đất của

TS. Vũ Văn Bằng.

6. Đại cương về cảm xạ học

Đó là môn học được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, trong đó có phong thủy.

môn cảm xạ dựa trên nguyên lý là mọi vật thể đều phát sóng ( xạ). Trường hào quang

của con người có thể tiếp nhận những sóng đó ( cảm) và biến nó thành một số chỉ thị

theo quy ước để có thể tiếp nhận bằng thị giác thông qua các dụng cụ như con lắc, đũa

thần, các bảng kí hiệu… Ở Việt Nam đang có một số lớp dạy cảm xạ được sự bảo trợ

của “ trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người”.

III. PHONG THỦY LÝ SỐPhong thủy lý số chủ yếu xem xét ảnh hưởng của các phương hướng, phụ thuộc

và vận mệnh, tuổi tác của từng con người. Nó dưa vào các cơ sở chính như âm dương,

ngũ hành, bát quái. Ngoài ra còn xét thêm ảnh hưởng của nhị thập bát tú và một số ngôi

sao.

1. Âm dương ngũ hành

Âm dương là hai đặc tính cơ bản của vạn vật. Trong đó trong âm có dương, trong

dương có âm. Dương phát triển thì âm thụt lùi và ngược lại. Dương phát triển đến cùng

cực thì âm sinh và ngược lại.

Để vạn vật phát triển điều hòa thì âm dương phải ở thể quân bình động. Ngũ hành

là 5 tính chất kim thủy mộc hỏa thổ. Các tính chất này có quan hệ sinh khắc :

Sinh: kim-> thủy-> mộc -> hỏa-> thổ-> kim

9

Page 10: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Khắc : kim-> mộc->thổ-> thủy-> hỏa-> kim

Mỗi hành có thể là âm hoặc dương : kim âm, kim dương..

Mỗi hành chia làm 6 loại:

Kim: hải trung, bạch lạp, kim bạc, sa trung, kiếm phong, thoa xuyến

Thủy: giang hạ, trường lưu, đại khê, thiên hà, tuyền trung, đại hải

Mộc: tang đồ, lâm đại, tùng bá, dương liễu, thạch lựu , bình địa

Hỏa: tích lịch, phúc lăng, lô trung, thiên thượng, sơn hạ, sơn đầu

Thổ: bích thượng, sa trung, thành đầu, lộ bàng, đại trạch, ốc thượng

Khi nói thành A khắc hành B thì không phải tất cả các hành A đều khắc B như nhau

mà có một hành nào đó khắc chính. Thí dụ: Kim khắc Mộc nhưng Hải trung kim kahwsc

chủ yếu là bình địa mộc, thoa xuyến kim khắc chủ yếu là lâm đại Mộc. đại hải thủy khắc

thiên thượng hỏa, đại khê thủy khắc sơn hạ hỏa, thiên thượng hỏa khắc sa trung kim, lô

trung hỏa khắc kiếm phong kim…

2. Can chi

Có 10 can xếp theo thứ tự: 1-Giáp; 2- Ất; 3-Bính; 4-Đinh; 5-Mậu; 6-Kỷ; 7-Canh; 8-

Tân; 9-Nhâm; 10Quý. Các can số lẻ là dương, can chẵn là âm. Giáp ất – hành mộc

(giáp mộc dương, ất mộc âm) bính đinh – hành hỏa; mậu kỉ - hành thổ; canh tân – hành

kim; nhâm quý – hành thủy.

10

Page 11: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Có 12 chi: tí-1; sửu-2; dần-3; mão-4; thìn-5 ;tị-6; ngọ-7; mùi -8; thân-9; dậu-10; tuất-

11; hợi-12. Các chi số lẻ là dương, số chẵn là âm. Dần mão thuộc hành mộc, tỵ ngọ-

hỏa; thân dậu- kim; hợi tý – thủy; thìn tuất sửu mùi- thổ.

Ghép mỗi can với chi theo thứ tự được 60 năm can chi, bắt đầu là giáp tý, ất sửu,

bính dần… đến cuối cùng là nhâm tuất, quý hợi.

Dùng 60 cặp can chi để kí hiệu thời gian: năm tháng ngày giờ. Thí dụ: năm canh

dần; tháng kỷ mão; ngày định dậu; giờ tân sửu. bốn cặp can chi của năm tháng, ngày

giờ sinh của một người được gọi là tứ trụ. Đưojc dùng nhiều trong dự đoán theo tử bình

và hà lạc.

Mỗi cặp can chi, ngoài hành của can, hành của chi còn có một hành chung thương

được cho trong các lịch hoặc sách. Thí dụ là cặp Canh dần ( canh: kim- dần: mộc) có

hành chung là tùng bá mộc. Cặp Kỉ Mão ( kỷ: thổ; mão : mộc) có ngũ hành là thích lịch

hỏa…

Có thể xác định hành ( kim, thủy, mộc, hỏa, thổ) của cặp can chi trên bàn tay.

Chúng tôi có đặt ra ra một bài khẩu quyết, có thể tìm hành chung cho đủ các cặp

can chi như sau:

Giáp ất Bính đinh Mậu kỉ Canh tân Nhâm quý

Tí sửuHẢI

* trung kim

GIANG

*hạ thủy

TÍCH

*lịch hỏa

BÍCH

*thượng hỏa

TANG

*đồ mộc

Thìn tịPHÚC

*đăng hỏa

TRUNG

Sa * thổ

LÂM

* đại mộc

LẠP

Bạch*kim

TRƯỜNG

*lưu thủy

Dần mãoKHÊ

Đại* thủy

* trung hỏa

THÀNH

* đầu hỏa

TÙNG

*bá mộc

BẠC

Kim*bạc

Ngọ mùiSA

*trung kim

Thiên* thủy

THIÊN

*thượng hỏa

LỘ

* bàng thổ

DƯƠNG

*liễu mộc

Thân dậuTUYỀN

*trung thủy

HẠ

Sơn * hỏa

TRẠCH

Đại* thổ

THẠCH

*lựu mộc

KIẾM

*phong kim

Tuẩt hợiSƠN

* đầu hỏa

ỐC

* thượng thổ

BÌNH

*địa mộc

XUYẾN

Thoa*kim

ĐƯỜNG

Đại hải thủy

Dấu * thay cho những chữ ở trong ô: đại * thủy = đại KHÊ thủy

Mỗi chữ trong bài ứng với một hành, thí dụ giáp tý, ất sử ứng với chữ HẢI là hải

trung kim, bính dần đinh mão ứng với LÔ là lô trung hỏa. Học thuộc bài khẩu quyết dễ

dàng tìm được ngũ hành trên bàn tay. Thực ra là trong phong thủy ít dùng đến ngũ hành

của cặp can chi. Những giới thiệu trên đây chỉ là nhân dịp mà đề cập đến, nhằm cung

cấp thêm cho bạn đọc một vài khái niệm…

Tìm ngũ hành của một cặp can chi trên bàn tay:

1. Lấy 5 vị trí được đánh dấu trên bàn tay

Quy định chiều thuận kim đồng hồ

2. án ngũ hành theo thứ tự kim thủy hỏa thổ mộc vào 5 vị trí

11

Page 12: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

3. án các chi theo từng cặp ở 3 vị trí ứng với kim thủy hỏa lần lượt : tý sửu; dần

mão; thìn tỵ; ngọ mùi; thân dậu; tuất hợi.

4. cách tính: với mỗi cặp can chi khởi đếm từ vị trí có chi đếm theo can theo từng

cặp: giáp ất, bính đinh, mậu kỷ canh tân, nhâm quý. Bắt đầu từ giáp ất, dừng lại ở can

của tuổi đó là tìm được ngũ hành. Thí dụ: tân mão: khởi từ vị trí mão, đếm dần theo

thuận kim đồng hồ, bắt đầu bằng giáp ất, đến canh ứng với hành mộc .

3. Bát quái

Bát quái là 8 biểu tượng. Trong phong thủy dùng bát quái chủ yếu là để chỉ phương

hướng không gian. Lập bát quái theo nguyên tắc sau: thái cự sinh lưỡng nghi, lưỡng

nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái:

KIM

Tý sửu

Ngọ mùi

Dần mão

Thân dậu

THỦY

Thìn tỵ

Tuất hợi

HỎA

MỘC THỔ

12

Page 13: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Số sinh

tiên thiên

1 2 3 4 5 6 7 8

Hậu thiên 6

kim

7

kim

9

Hỏa

3

Mộc

4

Mộc

1

Thủy

8

Thổ

2

Thổ

Thứ bậc

Trong gd

cha Thiếu

nữ

Trung

nữ

Trưởng

nam

Trưởng

nữ

Trung

nam

Thiếu

nam

Mẹ

Nguyên tắc: nhất sinh nhị, tả vi dương, hữu vi âm.

Bát quái thường được sắp xếp thành đồ hình. Phục Hy sắp thành đồ hình tiên

thiên, Văn Vương xếp thành hậu thiên.

Càn đoài ly chấn tốn khảm Cấn khôn

dương âm

Thái

dương

thái

âm

Thiếu

dương

Thiếu

âm

Thái cực sinh

lưỡng nghi

Lưỡng nghi

sinh tứ tượng

Tứ tượng sinh bát quái

Càn Đoài Ly Chấn Tốn Khảm Cấn khôn

thiên Trạch Hỏa lôi phong Thủy sơn Địa

13

Page 14: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Số của hậu thiên dựa vào số cửu cung

4 9 2

3 5 7

8 1 6

Đặc điểm của cửu cung là: ba số 4, 5 , 6 trên đường chéo, tổng các số trên các

hàng các cột chéo đều bằng 15.

Hậu thiên bát quái và ngũ hành: đoài càn- kim; khảm- thủy; chấn tốn- mộc; ly – hỏa;

cần khôn- thổ. Trung cung thuộc thổ.

4. Mệnh quái của mỗi người

Mỗi người, dựa vào năm sinh mà được gắn 3 mệnh quái, có tên là sinh cung, phi

cung, lữ tài.

Sinh cung mệnh quái dùng để đoán vận mệnh; phi cung mệnh quái dùng trong

phong thủy ( bát trạch); là tài mệnh quái dùng trong hôn nhân.

Thí dụ ông K sinh năm 1973 có sinh cung là tốn; phi cung là ly, lữ tài là càn.

Phi cung của mỗi người thường được cho trong cẩm nang. Cách tính toán như sau:

dựa vào con số của năm sinh theo dương lịch trùng với năm dịch học ( năm dịch học

bắt đầu từ LẬP XUÂN đến ĐẠI HÀN) đặt A= tổng các con số của năm sinh. Tính số B

như sau với các điều kiện: 1< B<9

Với nữ giới: B=A+4- 9n

Với nam giới: B= 9n+2-A

Chọn hệ số n để cho B nằm giữa 1 và 9.

B là số của hậu thiên bát quái. Dựa vào B để tìm quái. Thí dụ bà B sinh năm 1953:

A= 1+9+5-3= 18. B= A+ 4 -9n chọn n=2 ta có B=4 Đây là số của quái tốn. vậy phi cung

của bà B là tốn. tương tự ông A sinh năm 1953 có phi cung =2 hay là cung khôn.

Càn 1Đoài 2

Ly 3

Chấn4

Tốn 5

Khảm6

Cấn 7Khôn8 Càn 6

Đoài 7

Ly 9

Chấn 3

Tốn 4

Khảm 1Cấn 8

Khôn 2

BẮC

NAM

ĐÔNG TÂY

ĐÔNG

NAM

TÂY

NAM

ĐÔNG

BẮC

TÂY

BẮCTiên thiên bát quái

Hậu thiên bát quái

14

Page 15: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Tính được B= 5 thì nam lấy theo thổ âm là khôn, nữ theo thổ dương là cấn.

5. Tương quan giữa các quái

Mỗi quái gồm ba hào : trên, giữa, dưới. mỗi hào có thể là dương hoặc âm. Thí dụ

quái càn có ba hào đều dương, quái khôn ba hào đều âm, quái ly có hai hào dương,

hào giữa âm. Quái chấn có hai hào âm, hào dưới dương.

Kết hợp giữa các quái xem xét theo các hào, tùy sự khác nhau mà có các quan hệ

như sau:

Hào khác Thí dụ 1 Thí dụ 2 Quan hệ

1 hào trên Sinh khí

1 hào giữa Tuyệt mệnh

1 hào dưới Họa hại

2 hào trên Ngũ quỷ

2 hào dưới Thiên y

Hào trên và

dưới

Lục sát

Cả ba hào Phúc đức

Không khác Phục vị

Sinh nguyệt hoa, ngũ thiên lục: khẩu quyết để nhớ!

Có 4 quan hệ tốt là phục, sinh, thiên, phúc

Có 4 quan hệ xấu là: ngũ quỷ; tuyệt mệnh; họa; lục sát

6. Con người và các phương hướng

Chia mặt đất theo 8 phương: mỗi phương biểu thị bằng một quái như trên bản đồ

hậu thiên. Mỗi người sẽ cso một phi cung mệnh quái, so sánh phi cung với các phương

quái sẽ biết các quan hệ tốt xấu. thí dụ, người có phi cung là càn thì sẽ có các tương

quan như sau:

15

Page 16: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

7. Động tứ trạch, tây tứ trạch ( bát trạch)

Theo các tương quan đã xét, người ta có thể chia làm 2 nhóm đặt tên là dông tứ

trạch, tây tứ trạch.

Đông tứ trạch bao gồm: chấn, tốn, ly khảm

Tây tứ trạch bao gồm: đoài càn cấn không

Tương quan trong nội bộ mỗi nhóm là tốt và ngoài nhóm là xấu.

Vd người có phi cung là càn, thuộc tây tứ trạch thì các phương đoài càn cấn khôn

là tốt, còn các phương chấn, tốn, ly khảm là xấu. người có phi cung là khảm, thuộc đông

tứ trạch thì ngược lại.

Đông và tây tứ trạch hợp chung thành bát trạch.

8. Chọn hướng theo bát trạch

Theo các tương quan trên để chọn vị trí cho các phòng trong nhà và hướng cửa,

hướng bếp, và bàn thờ, hướng ngồi học- làm việc.

Bàn thờ và phòng ngủ đặt trên phương tốt, nhà vệ sinh đặt ở phương xấu ( nhưng

cửa quay lại phương tốt)

Với bếp cần phân biệt vị trí của phòng bếp, phương của bếp. ( chú ý: phân biệt

phương: vị trí cung; hướng: hướng về, chiều ->)

Gặp trường hợp bất khả kháng, không thể tránh được thì người ta dùng các biện

pháp khắc chế hoặc hóa giải.

Một trong những cách khắc chế là dùng gương bát quái treo trên cửa, nhưng để

gương có tác dụng thì phải treo đúng cách, phục vị chế đại họa, sinh khí chế ngũ quỉ,

thiên y chế tuyệt mệnh, phúc đức chế lục sát.

Trong nhà thường dùng các vật trang trí để chế hóa như đã trình bày trong phần

hình pháp ( nội thất phong thủy)

9. Nhị thập tứ sơn

Trong bát trạch mới chỉ chia không gian thành 8 phương. Để xem xét kĩ hơn người

ta lại chia mỗi phưuong thành 3 để thành 24 hướng gọi là 24 sơn hướng. để đặt tên

Tuyệt mệnhHọa hại

Ngũ quỷ

Thiên y

Phúc đức

Sinh khí

Phục vịLục sát

16

Page 17: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

dùng 12 chi 4 quái và 4 phương. ( đông nam: tốn, tây nam: khôn, tây bắc: càn; đông

bắc: cấn) và 8 can ( giáp ất bính đinh canh tân nhâm quý)

Nhị thập tứ sơn được dùng phổ biến trong việc xem xét phương hướng và nhiều

vấn đè liên quan đến ngôi nhà.

Đặt mặt bằng ngôi nhà vào trung tâm xét tọa và hướng. tọa là phương chính của

lưng nhà. Hướng là phương chính của phía trước. ( mặt tiền)

Ngôi nhà trong hình vẽ có tọa ở thân, mặt tiền ở dần

ẤT

MÃO

GIÁP

TỴ

TỐN

THÌN

BÍNH NGỌ ĐINH MÙI

KHÔN

THÂN

CANH

DẬU

TÂN

TUẤT

CÀN

HỢI

QUÝ TỶ NHÂM

DẦN

CẤN

SỬU

17

Page 18: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Dựa vào tọa mà người ta phân ra các kiểu nhà, gọi là trạch. Trạch nhâm, trạch tý,

trạch quí, trạch càn..)

Nhà trạch càn tọa càn, trạch càn…

Mỗi trạch có một ưu nhược điểm.

Trạch nhâm là hướng quyền thế phú quý

Trạch tí là phươngvji cao quý thường không bỏ lỡ cơ hội tốt trong cuộc đời

Trạch quí là dũng cảm, táo bạo, doanh nghiệp thành công

Trạch sửu là giàu tín ngưỡng, thường thành công

Trạch cấn là thích hợp cho người làm nghề tự do

Trạch dần xấu khó sử dụng. muốn làm nhà hướng này phải xem xét cẩn thận.

Trạch giáp hướng bệnh tật tuy vậy có thể giàu có

Trạch mão thành công phồn vinh

Trạch ất thích hợp cho người làm kỹ thuật

Trạch thìn có cố gắng nỗ lực sẽ giàu có

Trạch tốn hướng văn chương khoa cử

Trạch tỵ thích hợp với ngưoif làm đầu bếp

Trach bính đauw lại tiếng tăm tên tuổi

Trạch ngọ biến động nếu không tốt nhất thì xấu nhất

Trạch định được nhiều người ủng hộ.

Người ta thường kết hợp nhị thập tứ sơn với vòng phúc đức. đó là vòng gồm 24

quan cung: phúc đức; ôn hoàng; tấn tài; trươgnf bệnh; tố tụng; quan tước; quan quý; tự

ải;vượng trang; hưng phúc; pháp trường; điên cuồng; khẩu thiệt; vượng tâm; tấn điền;

khốc khấp; cô quả; vinh phúc; thiếu vong; xương dâm; thần hôn; hoan lạc; tuyệt bại;

vượng tài.

ẤT

MÃO

GIÁP

TỴ

TỐN

THÌN

BÍNH NGỌ ĐINH MÙI

KHÔN

THÂN

CANH

DẬU

TÂN

TUẤT

CÀN

HỢI

QUÝ TỶ NHÂM

DẦN

CẤN

SỬU

18

Page 19: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Tùy theo phi cung mệnh quái hoặc trạch mà đặt cung phúc đức vào một sơn hướng

theo đó các cung khác ứng với các sơn hướng khác. Mệnh tốn và chấn phúc đức ở tỵ.

Trạch hoặc mệnh Tốn chấn Khảm Cấn Càn ly Khôn đoài

Phúc đức ở tại cung Tỵ Dần giáp Thân Hợi

Dưới đây là sơ đồ nhị thập tứ sơn kết hợp vòng phúc đức, mệnh ly phúc đức ở

thân.

Cung ly phúc đức ở thân ôn hoàng tại canh, tấn tài tại dậu.

10. Kích thước số đo

Các kích thước của cửa hoặc đồ vật có ảnh hưởng đến trường khí của ngôi nhà.

Để tìm các kích thước thích hợp, lỗ ban đã đưa ra các cung trong vòng tràng sinh, phúc

đức. trên thước lỗ ban các cung tốt có màu đỏ, cung xấu có màu đen. Khi thiết kế cửa

và các đồ vật người ta thường tham khảo thước lỗ ban.

11. Màu sắc

Màu sắc nên chọn phù hợp với ngũ hành, tránh dùng các màu xung khắc. các màu

của ngũ hành như sau: kim màu trắng, thủy đen, mộc xanh, hỏa đỏ, thổ vàng.

Người có ngũ hành là mộc sẽ phù phợp với màu xanh hoặc màu đen ( thủy đen

sinh mộc xanh và không hợp với màu trắng vì kim ( trắng) khắc mộc.

ẤT

MÃO

GIÁP

TỴ

TỐN

THÌN

BÍNH NGỌ ĐINH MÙI

KHÔN

THÂN

CANH

DẬU

TÂN

TUẤT

CÀN

HỢI

QUÝ TỶ NHÂM

DẦN

CẤN

SỬU

Vượng tài

Cô quả

Vinh phú

Xương dâm

Tấn điền

Khẩu thiệt

Thiều vong

Thần hồn

Vượng tài

Tuyệt bại

Ôn hoàng

Hoan lạc

Pháp trường

Trường bệnh

Tấn tài

Phúc đức

Vương trang

Quan quý

Tố tụng

Điên cuồng

Hưng phúc Tự ải

Quan tước

Khốc khấp

19

Page 20: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

IV. PHONG THỦY TRẠCH VẬNTrạch vận là vận của đất, của thế trạch thay đổi theo thời gian, còn được gọi là “

thông thiên học”

1. Tam nguyên cửu vận

Chia thời gian thành các kỷ ( chính nguyên) mỗi kỷ 180 năm được chia thành tam

nguyên, mỗi nguyên 60 năm lại được chia thành t am vận, mỗi vận 20 năm. Mỗi kĩ có 9

vận. mỗi vận 20 năm.

Các nguyên vận cảu thời gian gần đây như sau:

Thượng nguyên từ 1864 đến 1923 gồm các vận 123

Trung nguyên từ 1924 đến 1983 gồm các vận 456

Hạ nguyên từ 1984 đến 2043 các vận 789

2. Cửu tinh thất sắc

Cso 9 tinh ( sao) thay đổi theo thời gian gọi là phi tinh, được đánh số nhất nhị tam

tứ đén cửu.

Có 7 màu sắc gắn vào các tinh: nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục

bạch, thát xích, bát bạch, cửu tử.

Các tinh này lần lượt chuyển đổi vị trí ở trung cung và 8 phương vị.

Nhất

bạch

1

Nhị

hắc

2

Tam

bích

3

Thượng nguyên trung nguyên hạ nguyên

1864-1923 1924- 1983 1984- 2043

Trong các tam nguyên của kỷ tiếp theo thì trung cung lại được tiếp tục tứ ngũ lục

thất bát cửu.

Mỗi năm có 1 tinh. Từ nhất đến cửu đóng ở trung cung.

ở các vận 789 của hạ nguyên, có phi tinh trị niên như sau: ( tăng 1 năm lùi 1 số)

Năm tinh Năm tinh Năm tinh Năm tinh

1984 7 91 9 2000 9 2030 6

85 6 92 8 2001 8 2031 5

86 5 93 7 …

87 4 94 6 2009 9 2040 5

88 3 95 5 2010 8 2041 4

89 2 96 4 2011 7 2042 3

90 1 97 3 2020 7 2043 2

3. Lường thiên xích

20

Page 21: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

Lường thiên xích là đường dịch chuyển của phi tinh từ trung cung ra 8 phương.

Đường này lấy theo thứ tụ cửu cung ( xem mục bát quái)

4 9 2

3 5 7

8

1 6

K=h+1=a-1 E= d+1 G=f+1

H=g+1 a C=b+1

D=c+1 F=e+1 B=a+1

4. Ảnh hưởng của phi tinh

Các sao nhất bạch, lục bạch, cửu tử là sao tốt, tứ lục là bình thường còn lại là xấu.

Xét năm 1990 nhất bạch nhập trung cung ( trạch vận năm đó tốt) csac hướng với

lục bạch 6; bát bạch 8 và cửu tử 9 là hướng tốt.

Năm 1988 tam bích nhập trung cung nên các hướng ứng với nhất bạch, lục bạch,

bát bạch và cửu tử là tốt.

Thường mỗi ô biểu thị một trong các phương, người ta đưa vào các phi tinh cảu

vận năm tháng ngày để có một nhóm các con số. xét sự tương quan giữa các con số

theo sinh khắc của ngũ hành để biết mức độ tốt xấu.

Nhất bạch thủy; 2 thổ; 3 môc; 4 mộc; 5 thổ; 6 kim; 7 kim; 8 thổ; 9 hỏa.

V. ĐẶC ĐIỂM CỦA VIỆC HỌC VÀ THỰC HÀNH PHONG THỦY

Phong thủy rất mênh mông,rất nhiều vấn đề khó mà biết cho hết được. sách viết về

phong thủy rất đa dạng. lại có sách chỉ trình bày một lĩnh vực nào đó, có sách lẫn lộn

giữa vài lĩnh vực. lại có những trươgnf phái, ý kiến mâu thuẫn nhau.

Kiến thức về phong thủy một phần dựa vào tính toán môjt phần dựa vào sự cảm

nhận. mà cơ sở của việc tính toán dựa vào sự công nhận của các tiên đề do ai đó đã

tìm ra trong quá khứ. Không hiểu rõ từ đâu. Khái niệm khí trong phong thủy cũng rất khó

hình dung.

Học phong thủy trước hết phải học tìm hiểu để biết các trường phái, các khái niệm

cơ bản, sau mới đi sâu, tránh việc thấy cây mà không thấy rừng.

2. Một số vấn đề khác

Tài liệu này mới chỉ trình bày ngắn gọn một số vấn đề cơ bản ngoài ra còn có các

vấn đề khác được đề cập đến trogn một số sách khác như:

- ảnh hưởng của nhị thập bát tú

- tương quan quan với các sao

- hướng bát quái

- các vấn đề liên quan đến nhà nhiều tầng: tĩnh trạch, động trạch, biến trạch…

- dịch học với phong thủy

21

Page 22: NHẬP MÔN PHONG THỦY TRONG XÂY DỰNG

- và một vài vấn đề khác…

3. Thực hành phong thủy

Ngày nay phong thủy đã khá phổ biến, nhiều người quan tâm. Việc thực hành

phong thủy ở các cấp độ khác nhau đòi hỏi năng lực khác nhau.

Cấp độ sơ đẳng là biết tính toán về bát trạch, biết nhị thập tứ sơn, biết 1 số ảnh

hưởng chính trong phong thủy hình thế.

Cấp độ trung bình là biết sâu hơn về các tình huống trong phong thủy, biết cách

khắc chế, hóa giải trong các trươgnf hợp xấu. biết vạn dụng linh hoạt một số trường

pahis. Cấp đọ này đòi hỏi có kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm…

Cấp độ cao hơn là chuyên gia trong lĩnh vực cso khẳ năng đặc biệt: tầm long điểm

huyệt, xem khí sắc… những người này cần có năng khiếu kết hợp quá trình khổ học lâu

dài./

Rất đáng đề phòng cảnh hỗn lộn thật giả. Có những kẻ chỉ mới biết qua loa mà đã

dám hành nghề, chủ yếu là lừa bịp.

Có kiến thức về phong thủy chưa chắc đã thực hành tốt, muốn thực hành tốt cần có

sự chuyên chú, sự say mê và đặc biệt là có năng khiếu.

5. La kinh

La kinh là dukg cụ chủ yếu để thực hành phong thủy trong việc tầm long định

hướng. la kinh thướng là một đĩa tròn( hoặc vuông) bằng gỗ đường kính hơn 20-30 cm

ở giữa gắn la bàn với kim nam châm chỉ hướng Bắc Nam. Trên đĩa có nhiều vòng từ

16-32 vòng ghi nhiều kí hiệu khác nhau như bát quái, nhị thập tứ sơn, can chi , nhị thập

bát tú…

Học và dùng đượo la kinh là một vấn đề khó.

Người biên soạn

GS. Nguyễn Đình Cống.

22