nhị Độ mai

84
NHỊ ĐỘ MAI - Khuyết danh - NỘI DUNG I Hoá nhi thăm thẳm nghìn trùng, Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xoay. Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay, Xem cơ báo ứng biết tay trời già. Tuần hoàn lẽ ấy chẳng xa, Chớ đem nông nỗi mà ngờ cao xanh. Trời nào phụ kẻ trung trinh, Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia. Danh thơm muôn kiếp còn ghi, Để gương trong sách, tạc bia dưới đời. Gian tà đắc chí mấy hơi, Mắt thần khôn giấu, lưới trời khôn dung. Uy quyền một phút như không, Xem bằng lửa đá, ví cùng đám mây. Thanh nhàn khi tựa hiên tây, Vui lòng đèn sách nghỉ tay văn bài. Truyện ngoài xem "Nhị độ mai", Nhà Đường truyền vị đến đời Đức Tông. Thường-châu có kẻ thanh trung, Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai. Điềm hùng sớm đã sinh trai Trời cho văn tướng kén tài trạng nguyên Đặt cho Lương Ngọc là tên Tài hoa đáng bực trích tiên dưới đời Tơ kia đã phải duyên trời, Hôn nhân đã định về nơi họ Hầu. Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu, Chưa trao lễ nhạn, mới đầu thiếp canh. Mai công tri huyện Lịch-thành, Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng. Cầm đường ngày tháng thung dung, Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng. Bấy lâu Lư Kỷ tướng công, Tuy quyền tước lớn, mà phong độ hèn. Túi tham của đút chật lèn, Dung bên gian đảng, ghét bên hiền tài. Mai công mấy độ quan ngoài,

Upload: long-nguyen

Post on 17-Jul-2015

58 views

Category:

Documents


7 download

TRANSCRIPT

NHỊ ĐỘ MAI- Khuyết danh -

NỘI DUNGIHoá nhi thăm thẳm nghìn trùng,Nhắc cân phúc tội, rút vòng vần xoay.Ngàn xưa mấy kẻ gian ngay,Xem cơ báo ứng biết tay trời già.Tuần hoàn lẽ ấy chẳng xa,Chớ đem nông nỗi mà ngờ cao xanh.Trời nào phụ kẻ trung trinh,Dù vương nạn ấy, ắt dành phúc kia.Danh thơm muôn kiếp còn ghi,Để gương trong sách, tạc bia dưới đời.Gian tà đắc chí mấy hơi,Mắt thần khôn giấu, lưới trời khôn dung. Uy quyền một phút như không,Xem bằng lửa đá, ví cùng đám mây.Thanh nhàn khi tựa hiên tây,Vui lòng đèn sách nghỉ tay văn bài. Truyện ngoài xem "Nhị độ mai",Nhà Đường truyền vị đến đời Đức Tông.Thường-châu có kẻ thanh trung,Bá Cao là chữ, vốn dòng họ Mai.Điềm hùng sớm đã sinh trai Trời cho văn tướng kén tài trạng nguyên Đặt cho Lương Ngọc là tên Tài hoa đáng bực trích tiên dưới đời Tơ kia đã phải duyên trời,Hôn nhân đã định về nơi họ Hầu.Chỉ vì ngoại lỵ bấy lâu,Chưa trao lễ nhạn, mới đầu thiếp canh.Mai công tri huyện Lịch-thành,Gương trung sáng vặc, túi thanh nhẹ bồng.Cầm đường ngày tháng thung dung,Tên ngay là tiết, nước trong ấy lòng.Bấy lâu Lư Kỷ tướng công,Tuy quyền tước lớn, mà phong độ hèn.Túi tham của đút chật lèn,Dung bên gian đảng, ghét bên hiền tài.Mai công mấy độ quan ngoài,

Bạn bè nhờ có mấy người đồng niên,Trong triều hết sức giữ gìn,Kẻ ngôi thiêm sự, người quyền thượng thưKìa Đảng Tiến, nọ Đông Sơ,Kẻ toà Đô sát, người toà Hàn lâm.Chu toàn trong ngoại mười năm,Bè trung chốn vững, mưu thâm chớ hòng.Một ngày huyện vụ vừa xong,Vào trong ông mới ngỏ cùng phu nhân.Rằng: "Ta vốn kẻ trung thần,"Trên vì nước, dưới vì dân mới là!"Ví bằng theo thói người ta,"Uốn lưng co gối cũng nhơ một đời."Lọ là cầu cạnh chi ai,"Chẳng trong lang miếu cũng ngoài điền viên."Con ta trạc tuổi thanh niên,"Có gương khoa giáp, có nền đỉnh chung."Sao cho giữ được chữ trung,"Mới là hiếu tử nối dòng thư hương.Những là vui truyện nội đường,Sảnh ngoài bỗng có hai chàng báo tin:Mai công phụng chỉ thăng thuyên,Chiếu trời mây vỗ, ân trên mưa nhuần.Triều ban, dự bậc quan thân,Lại khoa cấp sự giữ phần gián quan.Tin đâu khêu tấm trung can,Một hai quyết hẳn trừ gian phen này.Truyền làm tiệc rượu vui vầy,Dặn dò gia sự định ngày khởi thân.Tàng tàng chén cúc ba tuần,Đòi công tử với phu nhân dạy lời.Rằng: "Bấy lâu những ở ngoài,"Dạ này tấm tức với người quyền gian."Rày vâng đài gián thăng quan,"Phen này ta quyết cả gan phen này."Bấy giờ một dở một hay,"Hợp nhau nào biết có ngày nữa thôi."Cũng đừng bịn rịn lôi thôi,"Mẹ con sớm liệu về nơi quê nhà.Điền viên vui thú nông gia,"Tiện con đèn sách ấy là lẽ nên!"Ví dù giải kết có tin,"Bảo nhau sớm liệu tìm miền ẩn thân.

"Chờ cho thiên đại xoay vần,"Sẽ toan tính với thù nhân sau này."May mà vua chứng lòng ngay,"Đàn hồ, lũ thỏ, một ngày quét thanh."Bấy giờ phu quí, phụ vinh,"Đưa tin sẽ đón thăng kinh cũng vừa".Tân bằng mừng rỡ chật nhà,Tiếp thù, ông bận những là hàn ôn.Phu nhân nửa lệ nửa buồn,Đòi công tử lại mẹ con bàn hoàn.Rằng: "Nghe như bố con bàn,"Phen này quyết với quyền gian đối đầu."Sẽ đàn, phượng độc , chắc đâu,"Cái lo này để về sau tày trời".Nghe thôi công tử thưa lời:"Thế rằng cái đạo làm tôi mới là."Nhà huyên xin chớ lo xa,"Hễ trời có mắt thì ta lệ gì?"Hãy cho vẹn tấm trung nghì."Vinh, khô, đắc, táng, sá chi cuộc đời"Ông vừa xong việc khách ngoài,Bước vào trong, bỗng nghe lời con thưa.Vuốt râu cười nói lôi la Khen rằng: "ấy thực đại gia con nòi!"Trẻ thơ biết đạo làm tôi,"Gương trung hiếu lấy một lời mà suy."Mới hay hổ phụ, lân nhi,"Khéo thay tính trẻ cũng y tính già".Nói rồi truyền gọi lại nha,Đương đường nhủ hết nỗi xa nỗi gần:"Làm người biết đạo tu thân,"Việc quan phải giữ lấy nhân làm đầu."Tiếng thanh bạch để về sau,"Dẫu rằng uống nước, ăn rau, chớ nài."Việc văn án phải quan hoài,"Một câu nặng nhẹ, mấy người oan khiên."Khuyên đừng đổi trắng thay đen."Ngược dân dưới, dối quan trên, khó lòng."Giữ gìn đôi chữ hiếu trung,"Sao cho không hổ với trong cao dày."Ta đây vả tiếng quan thầy,"Giã nhau một chút niềm tây gọi là."Rồi đây một bước một xa,

"Nghe ta hay chẳng nghe ta, mặc dầu!"Dạy rồi ai nấy cúi đầu,Rằng: "Vâng khuyên nhủ từ sau ghi lòng".Trù phòng dọn rượu vừa xong,Một công tử với hai ông bà ngồi.Dặt dìu sẽ rót chén mồi,Nghìn câu trân trọng, trăm lời biệt ly.Người trằn trọc nỗi về quê,Kẻ năn nỉ nỗi đường đi giữ gìn.Người khuyên cẩn thận sớ tiên,Kẻ răn nhắc nhỏm sách đèn sớm khuya. Lôi thôi giở nỗi lâm kỳ,Ngoài đầy vơi chén, trong mê mẩn tình.Phu nhân rằng: "Buổi lên kinh, "Phỏng cho mấy đứa tuỳ hành hầu ông?Mai công rằng: "Lọ chi đông,"Một chàng Mai Bạch vốn trong họ nhà."Gọi là làm bạn đường xa."Gọi là ngày gió ngày mưa đi hầu". Còn đương trò chuyện trước sau, Xôn xao nghe bỗng tiếng đâu gần gần.Đầu hiên ông mới động thân, Trông ra đã chật một sân những người.Bẩm rằng: "Dân dã chúng tôi,"Tấm lòng xin ngỏ, chút lời xin thưa."Từ ngày trọng lỵ đến giờ,"Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh."Bao nhiêu lại tệ dân tình,"Đốc soi chẳng chút đỉnh đinh dám loà."Tấc lòng xem tựa mẹ cha,"Đọc ca mạch tuệ ngâm thơ cam đường."Bấm tay mười mấy năm trường,"Mưa xuân tưới khắp một phương Lịch-thành."Rày vâng thăng điệu lai kinh,"Thoả lòng hồ thỉ phỉ tình đai cân."Thênh thênh nhẹ bước thanh vân,"Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng."Nghĩ cho chút phận tầm thường,"Đạo con cái được tựa, nương bấy chầy."Chỉn e tiếp lỵ sau này,"Lòng thương cân được như rày mấy phân?"Bấy giờ lễ cách quan dân,

"Tưởng công đức trước, lại năn nỉ nhiều."Lòng thành nay quyết xin theo,"Làm đơn ái mộ dâng liều một chương. "Hoạ là vua nặng lòng thương,"Thấy tình Trường-xã, lưu chàng Khấu quân".Ông rằng: "Vâng biết lòng dân,"Lời trung hậu ấy, tình thân ái này."Ta làm huyện tể bấy nay,"Có chi công đức đáng rày truy tư?"Phương chi thế lộ bây giờ,"Dễ dò bụng hiểm, khôn lừa mưu gian."Họ Lư cưu dạ tham tàn,"Rình như miếng mộc, những toan hại người"Phỏng mà nghe hẳn như lời,"Ắt là mua chuộc lòng người tại ta."Miệng sàm dệt gấm thêu hoa, "Công nào chưa thấy tội đà đến ngay."Lại càng mang tiếng chẳng hay,"Yêu đây, để xấu cho đây, kẻo gì?"Dân nghe biết ý quyết đi, Lui ra còn dám nằn nì nữa đâu.Một đoàn kẻ trước người sau,Khen cho rằng khéo bảo nhau một bề.Lễ đâu đưa đến tức thì,Vạn dân tản, vạn dân y sẵn sàng.Thưa rằng: "Gọi chút lễ thường,"Mà lòng tạc đá ghi vàng không sai" Ông nghe thấy ý vật nài,Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn.Phu nhân, công tử xuống thoàn (thuyền),Mai công ở lại đợi còn bàn giao.Ngại ngùng thay lúc phân bào,Kẻ về tử lý người vào ngọc kinh.Cho hay là kẻ trung trinh,Nặng lòng vương sự, nhẹ tình gia mang.Mặc ai châu lệ hai hàng,Gác tình nhi nữ xem thường như không.Vài ngày huyện vụ giao xong,Ra thành lên kiệu thẳng dong nhật trình.Huyện dân chực sẵn tiễn hành,Hương đăng bày án, tràng đình dựng bia .Đón đưa khắp mặt thiếu ai,Mấy toà quan tỉnh, mấy người hương thân.

Người dường ra ý ân cần,Ông thì thủng thẳng có phần xem khinh. Giã nhau mười dặm tràng đình,Trông theo đã khuất mây xanh mấy trùng.Nước non đưa đón người trung, Suối tuôn dòng chảy, núi chồng lớp cao.Xăm xăm cỏ đón hoa chào,Hang men móc vượn, cây xào xạc chim.Tấc gang kinh quốc chờ xem,Đường ngày giục kiệu, điếm đêm đỗ cờ.Kìa chài sớm, nọ cày trưa,Gió gần giọng mục, mây xa tiếng tiều,Quê người phong cảnh đìu hiu,Trăng thanh, gió mát dường chiều chuộng ai!Những màng dong ruổi dặm dài, Trông ra bỗng thấy bốn người xa xa.Hỏi ra mới biết rằng là:Trong kinh, lại bộ sai nha đón mình.Hoàng hôn gác bóng chênh chênh,Truyền tìm quán khách tạm đình nghỉ ngơi.Bốn người tức khắc vâng lời,Trước đi tìm chốn thảnh thơi đón mời.Tuy rằng quán khách hẹp hòi,Chốn nằm cũng tĩnh, chốn ngồi cũng thanh.Thung dung hỏi chuyện trong kinh:"Lư, Hoàng lũ ấy tung hoành ra sao?"Thưa rằng: "Chức trọng quyền cao,"Triều quan quá nửa ra vào làm tôi."Ai ai khoá miệng bịt hơi,"Ngang vua phú quí, nghiêng trời uy linh."Đại gia rày ở quan kinh,"Theo đòi nhiều ít thế tình là xong".Mai công nổi giận đùng đùng,Rằng: "Phen này quyết chẳng dung loài hồ."Vào đây ta sẽ hay cho,"Đừng Tung, đừng Kỷ, hết Lư, hết Hoàng!"Mặt nào bắt chước thế thường,"Thiết tha ban tối, khoe khoang giữa ngày".Gan càng tức, ruột càng đầy,Truyền thôi cuộc rượu, vào ngay trong bình.Sáng mai thức dậy trông quanh,Treo trên thấy có bức tranh Di, Tề.

Như khêu tấm dạ trung nghì,Dạy đem nghiên bút tay đề bốn câu .Than rằng: "thanh ứng khí cầu",Người kim cổ, dạ trước sau một đường. Lại truyền giục kiệu lên đường,Trông kinh quốc đã tấc gang đó rồi.Một vùng riêng đặt phủ trời,Hoàng thành chăm chắm, kỳ đài cao cao.Cõi người nước Nhược, nguồn Đào,Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm toà.Chập chồng vách gấm, tường hoa,Cửa lầu ngũ phượng, thềm nhà lưỡng long.Bách quân đóng chặt sân phong,Tiếng chen xe ngựa, vẻ lồng cân đai.Tìm vào Lại bộ tới nơi,Truyền nha môn, định ngày mai tiến chầu.Ngắm xiêm, sửa mũ giờ lâu,Uốn lưng năm lạy, khấu đầu ba phen.Lạy rồi ren rén tâu lên,Chúc câu vạn tuế, dâng trên cửu trùng.Tiếng trời đưa lại bệ rồng:"Đặt toà gián viện", kén dùng kẻ trung."Sao cho sắt đá một lòng,"Miệng hùm chớ sợ, vẩy rồng chớ ghê".Tâu rằng: "Hổ phận ty vi "Đem lòng khuyển mã đền nghì cao sâu "Thềm đan vừa buổi tan trào,Bách quan làm lễ khấu đầu lui ra,Mai công toan trở lại nhà,Tiện gần tướng phủ sang qua vào liền.Nghiêm trang cửa thế sân quyền,Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.Ông bèn giả cách vô tri,Ngồi chăm chắm kiệu, vào kề nghi môn.Môn quan trông thấy thét dồn,Xôn xao bẻ bót, ồn ồn hỏi tra.Ông rằng: "Đâu chẳng biết ta,"Huyện quan về bộ lại khoa ngày rày."Buổi chầu nhân tiện sang đây,"Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường".Môn quan rằng: "Lệ phủ đường,"Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao.

"Có thì sẽ bẩm cho vào,"Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa".Ông rằng: "Lệ đặt bao giờ,"Ấy là quốc pháp hay là phủ quy?"Ta đây vốn chẳng cần chi,"Vào thì cũng được, ra thì cũng nên!"Không xuống kiệu, vẫn ngồi trên,Tay cầm thủ bản ném bên thềm ngoài.Kíp truyền quân kiệu tháo lui,Sang toà đô sát, họp người đồng niên,Phùng công ra đón rước liền,Chủ tân một hội, hàn huyên mấy lời.Sự tình kể lể lôi thôi,Ngoài muôn ngàn dặm, trong mười mấy năm.Xiết bao trò chuyện tri âm,Khói hương cao thấp, chén trầm đầy vơiMai công rằng: Lúc mới rồi,"Tức gan mà lại nực cười lắm sao".Kể từ tướng phủ mới vào,Thế nào khinh dể, thế nào hỏi han.Miệng đường lại, mặt môn quan,Kẻ xin đòi lễ, mình toan ném tờ.Đinh ninh kẽ tóc, chân tơ,Từ đầu đến cuối kể qua một hồi.Chư công rằng: "hãy kín hơi,"Nghĩ cho chín, mới là người tri cơ."Rồi đây trời cũng có ta,"Làm bao giờ, biết bấy giờ mới cao".Ông rằng: "Những sợ thảo nào,"Bè gian trách chẳng quyền hào lắm ru!" Như bây giờ việc nên lo,"Quấy hôi đặt miệng, bày trò Trào-châu."Tôi đà tính trước nghĩ sau,"Muốn yên chi khỏi lấy đầu họ Lư?"Thôi đừng sợ oán sợ thù,"Rày lần mai lữa, nhập nhù khó coi." Việc này giao một mình tôi,"Để mà xem kỷ với Mai thế nào!"Ví bằng giải kết làm sao,"Giữ gìn Mai thị gỡ vào lối sinh."Già này dù thác cũng vinh,"Suối vàng khuất mặt cũng khinh khích cười".Thoắt thôi từ tạ mấy người,

Tấc lòng thề chẳng đội trời với ai. Ngày xuân thấm thoắt đưa thoi,Lư công tuổi thọ sáu mươi vừa tuần.Định ngày vui mở tiệc xuân,Vua cho lễ vật, nội thần đem ban.Lại truyền văn võ bá quan,Cứ ngày cùng đến tướng môn lễ mừng.Phủ đường, dọn dẹp tưng bừng,Rỡ ràng kết thái trương đăng trong ngoài.Vóc đề chữ, gấm thêu bài,Vịnh ca Thiên bảo, chúc lời Nghiêu Hoa.Dập dìu chốn múa nơi ca,Trò bày bách hí, nhịp hoà bát âm.Chong giá nến, quạt lò trầm,Rót bình rượu ngọc, dâng mâm đào vàng.Võng đầy cửa, ngựa chen đàng,Khắp triều quan đến, khắp hoàng thân ra.Bày phô chén ngọc, đũa ngà,Gia hào mấy bức , trân la mọi mùiTướng công thăm thẳm xa ngồi,Tiếp tân phó mặc con nuôi họ Hoàng.Mai công lễ vật tầm thường,Miến vài cân với lạp hoàng vài đôi.Hoàng Tung trông thấy mỉm cười,Tìm Lư công đến tận nơi tiến trình.Tướng công ngồi trước thọ bình,Chói vàng buông mũ, ngắt xanh hoa bào.Tư bề trướng gấm màn đào,Mùi hương xạ ngát, tiếng thiều nhạc rung.Trông xa nhác thấy Hoàng Tung,Xem đơn lễ mới thung dung dạy lời:"Ít nhiều có lễ thì thôi,"Hãy thu lấy đấy, khuyên mời hẳn hoi."Tay này là bậc đại tài,"Để ta mua chuộc làm tôi tớ nhà".Cứ lời, Tung mới bước ra,Chào rằng: "Vâng mệnh ân gia mời ngồi."Lễ đơn đây đã thu rồi,"Dám khuyên vài chén tiệc vui gọi là!"Mai công rằng: "Những ở xa","Chẳng hay qui chức tuổi đà bao nhiêu?"Tung rằng: "Tuổi cũng chưa nhiều,

"Năm mươi tư tuổi gần theo cõi già".Ông rằng: "Thực cũng khéo là,"Thế mà nghĩa phụ thế mà ân nhi."Sống lâu thấy lắm chuyện kỳ,"Sao xưa nay vẫn không nghe tiếng đồn?"Mới hay vượng khí tướng môn,"Năm lên sáu tuổi sinh con đầu lòng"Tung nghe ra giọng đâm hông,Mặt ngăn ngắt tím, mắt sòng sọc trông.Các quan biết ý Hoàng Tung,Giả điều mời rượu Mai công ép nài.Ông rằng: "Lượng rượu kém ai,"Tiệc vui dù chẳng đợi mời cũng say."Nghe hơi tử khí đâu đây,"Dẫu rằng nửa chén đưa cay chẳng màng."Đến đây vâng mệnh Thánh hoàng,"Sá vui kèo rót với tuồng quyền gian".Hoàng Tung đỏ mặt sốt gan,Bất thình lình bỗng trong bàn mất vui.Như mèo tiu nguỷu mất tai,Chẳng thu một lễ, chẳng mời một ai.Vào trong tức tốc một hơi,Bên màn Lư Kỷ, kề ngồi nỉ non.Nhỏ to chua cái, chua con:"Hôm xưa kiệu đến nghi môn còn ngồi."Mới rồi đưa lễ giễu chơi."Đã câu rủa mát, lại lời đưa chênh."Gần chùa gọi Bụt là anh,"Không văn pháp nữa, còn danh giá gì".Lư rằng: "con chớ lo chi,"Ra tay, rồi sẽ liệu kỳ bẻ mai."Cho vào bạn đảng thì thôi,"Bấy giờ dẫu nghĩ kêu trời cũng xa!" Bè gian đương sắp mưu lừa,Bỗng đâu nội giám đã ra truyền đòi.Liền tay thảo sớ một bài,Theo chân nội giám vào nơi đền rồng.Vua Đường rằng: "Buổi thong dong,"Hứng vui nên triệu tướng công hầu cờ".Bàn son bày sẵn quân ngà, Lư công có ý chịu thua hai bàn.Đứng tâu trước mặt long nhan:

"Lòng lo việc nước, nào toan đến cờ."Ai hay những kẻ chẳng ngờ," Lời biên quan báo, thực là không sai."Ong trong tay áo có người,"Giao thông giặc Thát toan bài nọ kia"Tâu lời nghe những ngô nghê..."Một tờ đoản biểu tức thì giở ra.Vua Đường cất lấy xem qua,Mới hay bạn nghịch ấy là Bá Cao.Truyền đem chính pháp thị tào,Lư công xin để buộc vào có tang.Ghé tai tâu mật mọi đường:"Xin làm như thế mới tường đầu đuôi".Buổi chầu vừa rạng ngày mai,Đường hoàng rằng: "Mới tin ngoài lại tâu:"ải quan rợ Thát khuấy rầu,"Định ngày tiến thảo ngõ hầu an biên."Cho Đông Sơ với Lạc Thiên,"Kẻ quyền tham tán, người quyền đổng binh."Văn thần ra sức đãng bình,"Dẹp yên khói giặc, quét thanh bụi Hồ". Hai người nghe nói căn do,Trước thềm phủ phục, mướt mồ hôi lưng.Mai công ra trước tâu rằng:"Dám bày lòng kiến xin dâng bệ rồng."Phen này động việc binh nhung,"Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung hai người."Khéo là bày việc trêu ngươi," Cấm cơ chẩn mễ, cướp mồi tiểu di,"Thóc kho, của nước thiếu chi,"Xin cho chẩn thải theo y lệ thường."Lấy đầu hai gã Lư, Hoàng,"ắt là Thát trở về hàng chẳng sai."Can chi gây việc cõi ngoài,"Đem tài qua giáp ép người văn chương".Vua Đường nổi giận vội vàng,Rằng: "Vì giặc Thát tìm đường hoàn binh".Kíp truyền đao phủ chính hình,mới hay tấm dạ trung trinh khác thường.Hãy còn ngảnh lại triều đường,Miệng còn sỉ nhục Lư, Hoàng chưa thôi,Thương thay trung nghĩa như ai,

Sa cơ một phút ra người cửu nguyênTrần Đông Sơ với Lạc Thiên,Vạ lây cũng phải cách quyền hồi dân Hai người thương kẻ trung thần,Nghĩ tình bè bạn ân cần thở than.Cùng Mai Bạch mới lo toan,Vào chùa Tướng quốc bàn hoàn với sư,Xin đem linh cữu để nhờ.Giục chàng Mai Bạch về nhà đưa tin.Mới hay tục ngữ thế truyền,Lời rằng "hoạ chí vô đơn" cũng thường.Lòng chua xót, bước phong sương,Nửa đường Bạch cũng suối vàng chơi xa. IILư công giả chỉ sai ra,Đến Thường-châu nã một nhà họ Mai.Ruổi mau lệnh tiễn hoả bàiMấy ngày thoắt đã tới nơi châu Thường.Còn đương trách cứ phủ đường,Biết tình may có một chàng Đồ Thân.Đêm khuya kíp vội dời chân,Mách công tử với phu nhân liệu đường.Mẹ con xiết nỗi kinh hoàng,Cùng xuôi nỗi thảm, vội vàng trốn đi.Chia đường tìm chốn trợ thì,Đỡ khi gấp khúc , đỡ khi vận cùng.Phu nhân sang đất Sơn-đông,Có em lỵ đó cũng trong đồng bào.Đồ Thân lòng xiết nghĩa sao,Tưởng ân nghĩa trước xin theo đi cùng.Sửa sang hành lý vừa xong,Một công tử với Hỉ đồng bước ra.Nghi-trưng huyện ấy chẳng xa,Nhạc thân lỵ đó tên là Hầu loan.Ngại ngần gặp bước gian nan,người bâng khuâng mẹ, kẻ bàn hoàn con.Trời đà mở lối sinh môn,Rồng về biển, cọp về non bao giờ?Phủ binh khen khéo hững hờ,Canh năm vừa kéo đến nhà họ Mai.Trước sau nào thấy một ai,Khói nhà lạnh ngắt, tiếng người vắng tanh.

Sai nha nó những nghi tình,Bảo nhau tầm nã chung quanh trong làng. Phu nhân phận ấy đã an ,Cũng may được chốn nhà em nương mình.Thương thay công tử tuổi xanh,Long đong mấy hội, gập ghềnh mấy phen.Từ khi thầy tớ xuống thuyền,Thuận dòng thuỷ đạo tới miền Nghi-trưng.Tới nơi lên bộ dùng dằng,Vào nơi phạn điếm hỏi chừng trước sau:"Lạ lùng xin tỏ cho nhau,"Huyện quan có phải họ Hầu tên Loan?"Nhà hàng thấy khách hỏi han,Trình rằng: "Thôi chớ hỏi bàn làm chi."Lòng người ăn xổi ở thì,"Nặng bên danh lợi, nhẹ bề thân hơi."Cho hay giàu điếc, sang đui,"Tìm vào trước đã lắm người ra không".Nghe thôi công tử ngại ngùng,Ngồi bên khen chú Hỉ đồng mỏng tai.Đêm khuya ghé lại rỉ lời:"Lòng người nham hiểm, thói đời viêm lương."Mới rồi nghe chuyện nhà hàng,"Họ Hầu đây cũng là phường lăng nhăng."Mà ta lánh nạn băng chừng,"Chúng tôi dại dạ nghĩ đừng vội tin."Chấp kinh nếu chẳng tòng quyền,"Sợ khi muôn một chu tuyền làm sao?"Tôi xin thay mặt trước vào,"Nghe binh tình ở thế nào thử xem."Bằng ra lòng cá dạ chim,"Tôi đương nạn ấy, người tìm nẻo xa".Túi hành lý gửi vào nhà, Tớ thầy đổi áo bước ra lên đường.Lạ lùng lẫn lộn hèn sang,Hỉ đồng đi trước, để chàng theo sau.Đồng đà liệu trước mưu sâu,Mua tì sương đã buộc đầu giải lưng.Bước vào cửa huyện Nghi-trưng,Để công tử chực nghe chừng một nơi.Cậy người môn lại thưa lời,Đưa tin bán tử họ Mai sang hầu.

Truyền cho vào tận trong lầu,Hầu Loan hỏi hết gót đầu vân vân.Hỉ đồng thưa chuyện xa gần,Nỗi nhà oan khốc, nỗi thân lạc loài.Nói thôi giả cách sụt sùi,Nào hay Hầu thị là người bạc đen.Dứt lời trở mặt quở liền:"Tội nhân ai dễ có quyền dám dong?"Con ta yểu điệu khuê phòng,"Có Tây tử đó, thiếu đông sàng nào!"Ở đây mười mắt trông vào,"Rõ ràng án ấy, tha cho sao đành".kíp truyền ngục tốt giao canh:"Rồi đây ta sẽ tiến kinh cho rồi".Bấy giờ công tử đứng ngoài.Trông vào đã thấy tơi bời điệu ra.Quá thương nhường muốn hỏi qua,Hỉ đồng liếc mắt xa đưa ý chàng.Trong mình sẵn gói tì sương,Giở ra nuốt ực quyết đường quyên sinh.Nghĩ người con trẻ thương tình,Nghĩa thầy tớ nặng, thân mình xem không.Những rằng Mai thị thân vong,Giả hình, ai biết Hỉ đồng là ai.Một đoàn ngục tốt tơi bời,Khiêng ra cửa bắc, táng ngoài đồng không.Mai sinh theo hút xa trông,Viếng thăm, làm dấu, mới phong nên phần.Nghĩ đi nghĩ lại tần ngần,Tay không đất khách, một thân quê người.Biết cùng ai tỏ khúc nôi,Dở dang hai lẽ, tới lui khó lòng.Bước lần bỗng thấy gần sông,Xuống thuyền nhờ để tìm vùng lánh xa.Trọn ngày đến bến, lên bờTrời hôm vào đấy là chùa Thọ-am.Than rằng: "Tội báo cho cam,"Thế này trời hãy còn làm đến đâu."Họ Lư tầm nã còn lâu,"Tấm thân đã biết về sau thế nào?"Trong lưng sẵn giải lụa đào,Cởi ra, sinh đã buộc vào cành cây.Thương ôi! sao khéo đang tay!

Thân này đã quyết với dây ấy rồi.Trời còn cứu kẻ anh tài,Trong chùa bỗng có một người bước ra.Lòng lành thấy sự oan gia,Trở vào bạch với sư già trước sau.Sư ra dạy cởi xuống mau,Khương thang kíp đổ, giờ lâu tỉnh dần.Thấy người trạng mạo văn nhân,Quá thương sư mới hỏi gần hỏi xa.Nỗi mình đâu dám giở ra,Sinh bèn chống chế, kêu ca liệu lời.Rằng: "Con chút phận tôi đòi,"Giữ đồ thầy để mất vài bốn bao.Trở về nghĩ chẳng tha nào,"Bực mình nên phải quyết liều quyên sinh".Sư rằng: "Cửa Bụt thênh thênh,Tòng quyền hãy tạm gửi mình ở đây."Nhà chùa công việc cũng đầy,"Dẫu rằng lau án, tưới cây cũng là."Vả trông ra dáng con nhà,"Sẵn nghiên bút viết một và chữ xem.Vâng lời cất bút Giang Yêm Tay đề bốn chữ "Thọ-am tự thuyền".Sư rằng: "này bút thiên nhiên"Lọ tìm Vũ kiếm, lọ khen Lan đình".Phòng văn giao mặc viết kinhVườn hoa lại phó một mình sửa sang.Sức người như giúp hơi dương,Một vườn tươi tốt bằng nhường thêm xuân.Những mong bóng Phật nương thân,Hay đâu bỗng chốc lương nhân dắt vào.Nỗi sư nào biết đâu nào,Chẳng là tên gọi Nhật Cao họ Trần.Thám hoa võ cử xuất thân,Ba nơi toạ trấn mấy lần đổng binh.Thờ ơ áng lợi nền danh,Vui lòng tuyền thạch, gửi mình thuyền am.Trần Đông Sơ ấy là em,Một ngày thong thả mới tìm sang chơi.Anh nghe kể lể lôi thôi,Có khi nhắc chuyện họ Mai khóc thầm.Mai sinh riêng dạ nghĩ ngầm,Xem trò chuyện ấy biết tâm tích rồi.

Hai ông tìm hứng mua vui,Dắt tay, sánh bước, chân dời vườn sau.Xem hoa vừa ý, gật đầu,Trình anh mới kể mấy câu nằn nì:"Mười năm theo việc vương kỳ,"Sân đào mấy lớp, đông ly bỏ rèm."Gốc cằn, cỗi rậm, khó xem,"Cỏ cây ví với am thuyền kém xa."Tiểu đây kể khéo có thừa,"Nhà em bên ấy xin nhờ một tay".Sư rằng: "Anh cũng là may,"Ngày xưa được chú tiểu này bỗng không."Họ Vương tên gọi Hỉ đồng,"Bút nghiên tay giỏi, nghi dung con nhà."Việc quen sửa cảnh, vun hoa,"Cho về bên ấy nương nhờ cũng hay!"Mai sinh bèn lạy tạ thầy,Theo về Trần phủ một giây đến nhà.Trần công cười nói lôi la,Đòi công tử với cùng là phu nhân.Tiểu thư cũng gọi đến gần,Rằng: "Hôm nay buổi dời chân tham thuyền"Xin anh được gã thiếu niên,"Cảnh hoa việc biết, bút nghiên nghề nòi".Những xem phong dạng con người,Một nhà ai cũng một lời khen lao.Mai sinh đành phận biết sao,Khi ra viết thiếp, khi vào sửa hoa.Cửa người ngày tháng lân la,Một mình riêng những xót xa sự mình.Sinh ly xa cách huyên đình,Một cây bóng ngả mấy cành tang du.Sơn-đông non nước mịt mù,Niềm thương nỗi nhớ biết hồ có nguôi.Nghi-trưng một nắm cát vùi,Vì ai nên nỗi thiệt thòi đến ai.Sau này dù nhẫn có trời ,Nghĩa kia biết có đền bồi được chăng?Thành sầu cao ngất tầng tầng,Một vườn ngày gió đêm trăng thẫn thờ.Hay đâu con tạo lọc lừa,Chen vòng hắc vận, trao tơ xích thằng.Có phen bên gió, dưới trăng,

Buổi man mác bóng, cơn văng vắng người.Trong vườn tha thướt dường ai,Xem hoàn đổ lá, giục đòi hái hoa.Người đâu trong ngọc trắng ngà,Mặt vành vạnh nguyệt, tóc ngà ngà mây.Lập loà mớ đính mớ thay,Sắc xiêm hoa dệt, nét giầy phượng thêu.A hoàn một lũ nối theo,Quạt tha thướt phẩy, lò dìu dặt mang.Xa xa thoang thoảng mùi hương,Mai sinh trông liếc, rõ ràng tiểu thư.Mối tình buộc lấy khư khư,Hồn bâng khuâng quế, phách thờ thẫn mai.Của đâu trêu ghẹo chi ai,Ấy người cung Quảng, hay người đài Dương.Tấc riêng riêng những mơ màng, Chữ tư đề dưới chữ tương ngày ngày.Nghĩ mình lưu lạc đã dày,Chút niềm tâm sự dám bày cùng ai.Lại mang cái tiếng tôi đòi,Nhân duyên trời có chiều người cho chăng.Thu đông trải mấy gió trăng,bông đào chợt đã báo chừng nửa xuân.một vườn cảnh vật tiên tân,Mõ xa cánh bướm , kệ gần lưỡi oanh! Trần công nhân buổi dạo quanh,Đầy vườn thấy nở chật cành hoa mai.Tính ngày mai, tối mười hai,Truyền làm tiệc rượu đặt nơi hoa đình.Vào trong khi bất thình lình,Phu nhân xem thấy ra tình không vui.Rằng: " vườn ta cảnh ưa người,"Sắc ông sao bỗng kém tươi, thêm sầu?"Ông rằng: "Há phải vì đâu ,"Ngày mai sực nhớ giỗ đầu Mai huynh."Nghĩa bằng hữu, bậc trung trinh,"Thấy hoa mai, bỗng động tình xót ai"Sáng ngày mượn tiếng thưởng mai,Đem lòng thành kính, viếng người tinh anh:"Có thiêng chăng nhẽ, Mai huynh!"Chớ nề u hiển thấu tình anh em."Bây giờ kẻ khuất đã cam,"Kẻ còn run rủi cho tìm thấy tôi".

Trông hoa lại nhớ mấy lời:"Họ Mai còn chút lạc loài nên thương."Phỏng ngày sau có ra tuồng,"Thì hoa lại nở bội thường hơn xưa".Hoá nhi khen khéo thờ ơ,Bởi đâu một trận gió mưa đêm trường.Sáng mai trông lọt bốn tường,Cánh hoa dưới đất, mùi hương trên trời.Trần công thấy chẳng như lời,Thương tình bạn, giận sự đời, ngổn ngang.Gác ngoài phú quí một tràng,Mũ ni, tràng hạt, quyết đàng xuất gia.phu nhân, công tử vào thưa:"Xưa nay mưa gió rụng hoa đã thường"Làm chi nhọc bụng lo lường,"Tuổi già, nhà vắng, thêm đường dở dang".Ông rằng: "Thôi chớ bàn ngang,"Một lời nói, dẫu nghìn vàng đổi sao!" Cả nhà xiết nỗi thảm sầu,Tiểu thư lạy trước thưa sau giãi bày.Rằng: "Xin đợi lại mấy ngày,"Cầu trời, khấn Phật hoa này lại tươi".Ông rằng: "Thực có như lời. "Mai hai độ nở mới dời lòng ta". Tiểu thư ra trước vườn hoa,Khấn năm bảy lượt, lạy và bốn phen.Lòng thành khấu cửu trùng thiên,Cành phàm đã chắp hoa tiên bao giờ.May đâu đến bữa thứ ba,Mai sinh thức dậy, bấy giờ còn khuya.Hương đâu phưng phức tứ bềHoa đâu san sát đầy khê một vườn.Tấm lòng mừng rỡ như son,Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài. Đề rồi bẻ một cành mai,Trao con đòi, cậy đưa lời đến ông .Một nhà thấy sự lạ lùng,Trước sau một lũ đều cùng ra coi.Trần công rằng: "sự tỏ mười","Chắc rằng Mai thị còn người làm nên!"Nỗi tu gác để một bên,Truyền đem tửu quả đặt lên hoa đình.Trên bày bài vị Mai huynh.

Bấy giờ tình cảnh Mai sinh thực là...Tìm nơi đình tử xa xa,Trông ngay trước mộc vị cha, thở dài.Vô tình ai biết sự ai,Tiểu thư liếc mắt đưa chơi biết tình.Sinh xem biết ý chân thành,Nỗi nghi dường đã bớt canh cánh lòng.Nhớ tên hiệu chữ Mai công,Viết vào mảnh giấy dán trong nắp hòm.Ra vào giấu giếm, nom dòm.Gọi là tiện chút sớm hôm phụng thờ.Trần công đi lại xem hoa,Truyền đòi công tử tên là Xuân sinh.Rằng: "Ta xưa những ở kinh,"Chẳng hay con đã học hành tiến chưa."Rày nhân nhị độ mai hoa,"Con đề tức cảnh một thơ tiến trình".Còn đương khuyên bảo Xuân sinh,Trông lên đã thấy bên bình có thơ.Trần công đòi hỏi bấy giờ,Mới hay đề đó là thơ Hỉ đồng.Khen câu ngọc đúc vàng ung,Vóc trong miệng, gấm trong lòng vẽ nên.☺Xuân sinh thấy sẵn thơ trên,Cũng theo vận ấy đề liền bốn câu.☺Trần công vừa ý gật đầu,Tiểu thư lại thấy ở đâu đến gần.Dạy rằng: "Nữ tử năng văn ,"Theo đòi con cũng hoạ vần thử coi".Tiểu thư cất bút vâng lời,Bên tường cũng vịnh một bài nối sau. ☺Khen tài nhả ngọc phun châu,Ba vần già dặn, bốn câu thanh kỳ.Yên xong, ông trở gót về,Cùng phu nhân mới nằn nì một hai:"Hỉ đồng là bậc thiên tài ,"Ở đây chớ để tôi đòi xem khinh". Mai sinh thui thủi bên đình,Một mình tính quẩn lo quanh việc nhà.Xưa nay nghe tiếng đồn xa,Phồn hoa thứ nhất ấy là châu Dương.Hôm nay nhân buổi thanh lương,Dời chân xem thử phố phường những sao.

Chập chùng quán thấp lầu cau,Tạ, Vương mấy chốn, Nguyễn, Đào mấy nơi. Ngựa xe, dù lọng chen vai ,Kìa người đại cổ, nọ người phú thương.Màn che mái, gạch ken đường,Bầu nhà vàng nuột, rèm hàng lưu ly.Khắp người viễn khách cư kỳ,Tây dương chung cảng, Cao-ly riêng hàng.Bên ngoài một giải trường giang ,Tàu chen mũi đổ, thuyền giương buồm về.Chài lan san sát lá tre,Chiếc đua mái đẩy, chiếc kề bến neo.Những là mến cảnh noi theo, Khi về vừa bóng xế chiều tới nơi.Phòng riêng đã vắng tăm hơi,Nắp hòm bỏ ngỏ, vị bài thấy không.Tìm sau tìm trước lung tung.Nghĩ thầm lòng những giận lòng đòi cơn.Chẳng hay trong lúc du quan,Tiểu thư cùng với thuý hoàn ra chơi.Mở hòm nhác thấy mộc bài,Ngạc nhiên cất lấy thưa lời đến ông.Trần công rằng: " Sự lạ lùng","Hỉ đồng này thực Mai công tử rồi!"Đòi hoàn ra mới dạy lời ,Dặn dò hãy thử ướm chơi thăm tình,Hoàn rằng: "Hời hỡi Mai sinh,"Toan gieo cái vạ tày đình cho ai?"Bây giờ Lư tướng nghe hơi,"Sai về trách cứ một hai lấy người."Kẻo còn quanh quẩn những lời,"Còn nay Vương thị, còn mai Hỉ đồng?"Mai sinh nghe tỏ sự lòng,Uốn lời thú thực phô sòng van lơn:"Mai nay muôn đội ơn hoàn,"Mưu gì cứu được khỏi con đường cùng".Thuý hoàn mới ngỏ thực lòng:"Vâng lời trước thử ướm lòng đấy thôi."Mới rồi nhân thấy vị bài,"Rõ tình ông dậy cho lời không sao!"Mai sinh ren rén bước vào,Nửa mừng nửa sợ biết bao là tình .Ông rằng: "Sao những giấu quanh,

"Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư?"Thế mà bác những hững hờ ,"Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày".Lại thôi, sinh mới giãi bày:Từ ngày về quán, từ ngày nghe oan.Bao nhiêu tình tự nguồn cơn,Sơn-đông chia bước, Hầu Loan trở lòng.Ơn Đồ Thân, nghĩa Hỉ đồng,Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ.Bước đường xa, cái sống thừa,Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay!Ông rằng: "nương náu ở đây,"Thù kia ắt cũng có ngày trả xong."Niệm cùng công tử một phòng,"Anh em liệu đấy dốc lòng nghiệp nho".Tình thế nghị nghĩa ngao du,Văn chương tri kỷ, chuyện trò chiếu tâm.Mặc ai gặp bạn tri âm,Ông bà riêng những bàn thầm rỉ tai:"Mai sinh là bậc thiên tài,"Câu văn cẩm tú, vẻ người y quan."Lòng ta muốn gả Hạnh Nguyên,"Thiên tài, quốc sắc hai bên cũng vừa."Chẳng lâu thấy đó bây giờ,"Bảng vàng rõ mặt đuốc hoa định ngày". Bà rằng: "Được thế là may,"Thế thì tuổi tác lòng này cũng an!"Thà la có một thuý hoàn,Ra vào nghe tỏ chuyện bàn đinh ninh.Lòng riêng, riêng cũng hậu tình,Khi ra đon đả với sinh thì thầm.Người khuê các khách thư cầm,Ngoài đành đã ngọc, trong ngầm tựa mai. IIIÔng tơ khen khéo cợt người,Đã xe vào, lại thử rời bắc nam.Làm cho chí tái chí tam,Rồi ra đố lại vào ngoàm mới thôi.Phủ Trần chưa hết chuyện vui,Bỗng đâu có chỉ đến nơi quan hoài.Đảng công, Lư Kỷ ngồi ngoài,

Truyền rằng có chỉ dạy đòi Trần gia.Đọc rồi mới biết rằng là:Biên quan có nước Sa-đà động binh.Khói lang, bụi ngựa tung hoành,Khuấy hôi cõi Hán, chọc tanh ải Tần.Lư công dâng chước hoà thân,Truyền đòi con gái họ Trần kết thân.Ban cho áo mũ Chiêu Quân,Đảng công vâng mệnh đưa chân cõi ngoàiNghe ra xiết nỗi bồi hồi,ấy ai mưu hiểm, giục người sinh ly?Khởi hành đã định nhật kỳ,Lư công giục giã ngận tuỳ quan sai .Hạnh Nguyên ra yết nhà ngoài,Ngứa gan tấm tức mấy lời vân vân:"Vẻ chi một chút Hồ trần,"Những tài thao lược, kinh luân đâu nào?"Dẹp yên mượn sức má đào,"Khen ai đặt để cái mưu cũng già!" Kiếp này không xé được da,"Kiếp sau quả báo, oan gia kẻo gì."Gớm tuồng mộc vị thần vì,"Mãng thêu hoài chỉ, đai xuy uổng vàng".Lư công nghe nói ngang tàng,Mắt sòng sọc khoé, mắt sường sượng gân.Tiền đường dọn tiệc chủ, tân,Đảng công cất lẻn vào dần nhà trong.Trần công rỉ bảo Đảng công,Trỏ Mai sinh mới giãi lòng một hai.Rằng: "Này công tử họ Mai,"Trong khi hoạn nạn lạc loài đến đây."Em cho nương náu những ngày,"Rắp đem tiểu nữ sum vầy kết duyên. "Mưu kia ai vẽ cho nên,"Để loan chếch hóng, để uyên chia hàng."Việc nhà nhờ bác sửa sang,"Cho cùng Trần điệt lên đường xuất quan".Thoắt thôi nghe có lệnh troàn (truyền):Bốn mươi thị nữ dân gian kén rồi.Trong danh sách bấy nhiêu người,Cùng ra Phiên quốc theo đòi Hạnh Nguyên.Lại truyền không được trì diên,

Trong hai ngày hạn xe tiên lên đường.Áo Hồ đưa lại một rương.Dạy cho nương tử cải trang xuất hành.Nàng rằng: "Quân mệnh đã đành."Tủi mình khuê khổn, liều mình tinh chiên."Bao giờ khỏi đất Trung nguyên"Bấy giờ thay áo Hồ phiên vội gì."Chịu trời chăng! một chữ thì,"Áo này khôn đổi, lòng kia khôn dời!"Đảng công khen đã nên lời,Cứng lòng thiết thạch, hổ người tu mi.Thẹn thay cho kẻ vô nghì,Khi này dạ Sở, lúc kia bụng Tần.Lời trung khêu ruột gian thần,Bưng tai giả điếc, nổi gân bất bình.Ngoài thì quan khách linh đình,Trong thì nàng những đau tình biệt ly. Lạy hai thân, kể mọi bề,Châu chan nét liễu, dầm dề giọt mai.Rằng: "Con chút phận nữ hài,"Công cha nghĩa mẹ chốc mười mấy niên. "Môn mi mong những nhờ duyên,"Ngỡ đem tấc cỏ báo đền ba xuân. "Hiểm thay chước kẻ gian thần,"Xui nên kẻ Tấn, người Tần như không."Có ra chi phận má hồng,"Khôn đem chữ hiếu, đền công chữ cù."Rồi đây muôn dặm đất Hồ,"Biết câu thập nữ viết vô từ rày."Xin đừng nhớ đổi, sầu thay,"Liều bằng muôn một những ngày một hai".Thoắt thôi sùi sụt ngắn dài,Gặp ghềnh mới ngụ một bài biệt thi."Giờ lâu lưỡng lự vân vi,Gọi xuân sinh lại nằn nì rỉ tai:"Nặng vì chút nghĩa họ Mai,"Ngẫm ra âu cũng có trời ở trong."Lời cha mẹ, nghĩa vợ chồng,"Nhân duyên chưa ghép, chữ đồng đã in."Vả xem bậc ấy không hèn,"Rõ gương khoa giáp, rõ nền tướng khanh."Nhờ em đãi lấy lòng thành,"Ngoài tình bầu bạn, trong tình anh em.

"Mọi bề trong ấm ngoài êm,"Chị dù chín suối cũng cam tấc lòng."Chị nhờ em gánh hiếu trung,"Chồi huyên gần cỗi, gối thung gần già."Công danh tuổi ấy đang vừa,"Trâm anh chung đỉnh dấu nhà sẵn đây."Dù thương đến chị sau này,"Hoặc tuần hàn thực, hoặc ngày thanh minh."Suối vàng rưới một giọt tình,"Nén hương, tờ giấy, chén canh cũng là!"Lôi thôi xiết nỗi gần xa,Trông Mai công tử nhường đưa mối sầu.Thẹn thùng khôn nói năng đâu,Sóng thu một lét, hạt châu đôi hàng. Cửa ngoài chực sẵn xe hương,Lư công giục giã lên đường xuất quan.Kiệu phu bước nhặt, bước khoan,Đảng công một ngựa điệu đoàn vệ binh.Đoản đình thôi lại tràng đình,Bên xe Mai Bích, Xuân sinh hai chàng. Bắc, Nam một lối đôi hàng,ải quan đâu đã chia đường biệt ly.Khi sao cửa các phòng khuê,Giờ sao thui thủi một xe đất này.Hồn mai tỉnh tỉnh say say,Mới trong vài bữa xem tày mấy niên.Trông xa khi khoác rèm lên,Vòng thành chất ngất, toà đền trai lơ .Kiệu phu quỳ bẩm mấy lời:Hàm-đan huyện ấy có nơi Trùng-đài.Nàng truyền đóng lại nghỉ ngơi,Lên đền dạo cảnh xem chơi gọi là.Huyện thành sắm sửa gần xa,Đài vừa dọn sạch, nàng vừa xuống xe.Hương đăng vừa đủ lễ nghi,Tiện, nàng lên đấy lạy về gia hương.Quan quân đóng chật huyện đường,Một nàng Hạnh với hai chàng cùng lên.Từng từng đợt dưới, đợt trên,Ngắm xem phong cảnh bốn bên chập chùng.Cao cao thôi lại tầng tầng,Trời như khổ thấp, đất bằng dường xa.

Bảo nhau rồi mới nhận ra,Đông nam phương ấy, ấy là cố hương.Xuân sinh đoán biết ý nàng,Muốn điều từ biệt với chàng Mai sinh.Một mình bước xuống làm thinh,Mặc ai trên ấy tự tình với ai.Trông chàng, nàng mới rỉ tai:"Trăm năm ghi tạc một lời từ đây."Bao nhiêu tình tự xưa nay,"Tóc tơ giãi một chốn này là thôi!"Mai sinh nhân lúc vắng người,Gạt ngang nước mắt, bày lời trước sau:"Nói càng như gợi cơn sầu,"Trách vì phúc bạc sánh đâu má đào."Tấc lòng thề với trời cao,"Quản chi trắng tóc, nỡ nào nối dây."Phiên bang đến đấy phen này,"Sẵn ngôi phi hậu dành ngày vinh hoa."Riêng ai trách lẫn trời già,"Xe tơ sao khéo hững hờ cợt ai".Nàng rằng: "Lời dạy dường sai,"Tấm thân đã phó cửa Mai những ngày."Sông dù cạn, núi dù lay,"Đã liều xương trắng dám thay lòng vàng."Đem thân đối với cương thường,"Tạ lòng người cũ treo gương dưới đời."Mình nào sánh với tanh hôi?"Mặt nào còn đứng cõi đời được ru!"Khuyên chàng ghi nghĩa xuân thu,"Mối tình hãy gác, mối thù chớ quên."Cùng em cho tiện sách đèn,"Công danh gặp hội thanh niên đang vừa."Một mai lộc nước, phấn vua,"Danh mình cũng rạng, thù nhà cũng xong."Riêng ai đành trọn chữ tòng,"Suối vàng tưới mát, má hồng lây thơm."Rồi đây kẻ bắc, người nam,"Cành thoa xin tặng để làm của tin."Vật thường gọi chút làm duyên!"Tự tình mới lại tả thiên luật đường .Trùng đài ghi để một chươngGiã nhau còn nhớ đôi đường biệt ly.Mai sinh đôi giọt dầm dề,

Thoa thì chịu lấy, thơ thì hoạ theo. ☺Bâng khuâng lời ít tình nhiều,Thị tì đâu đã dập dìu kéo lên.Cùng nhau lạy trước đài tiền,Lần thang bước xuống, giục liền gióng xe.Gia hương tình nặng bề bề,ải quan đâu đã gần kề tới nơi.Tổng binh sửa chốn nghỉ ngơi,Đảng công đã dạy cho mời cải trang.Ngắm mình ra vẻ Man phương,Xiêm tơi tả bức, áo lang lổ mùi.Lông cài trên mũ một đôi,Đổi hình khuê nữ ra người Yên chi.Ngựa đâu kéo đến tức thì,Mai sinh gần đấy phù trì lên yên.Hình dung ai vẽ cho nên,Hương xa đã đổi mã yên bao giờ.Hai chàng cảm nỗi gần xa,Đều cùng đọc một câu thơ tiễn hành. Lên yên nàng cũng gửi tình, Đọc rồi mới giục hai sinh trở về.Ngại ngùng thay, lúc phân kỳ,Người về cố quốc, kẻ đi sa trường.Người đồng thất, kẻ tha phương,Hàng châu sùi sụt, bước đường chia đôi.Nàng còn dặn với mấy lời"Thù kia chớ để đội trời ở chung."Sao cho tâm lực hiệp đồng,"Mổ gan nghịch tặc, thoả lòng nữ nhi".Xót người tú các hương khuê,Mối tình ly biệt, đường đi phong trần.Lạ tai mấy tiếng man nhân,Giọng xa ríu rít, giọng gần ét eo.Bên trời phong cảnh đìu hiu,Sương soi cỏ áy, gió reo cây già.Sắc quân hiệu lệnh càng già,Tiếng còi lư diệp, lá cờ ngô công.Bước đường ngày một lạ lùng,Tiểu thư ngày một đau lòng biệt ly.Quen tài tức cảnh vịnh đề,Trên yên mới vịnh cổ thi một bài. ☺Ngựa dong mấy khoảng dặm khơi,

Núi đâu đã thấy gần nơi diện tiền.Man binh quì trước thưa lên:Núi Hà-lan ấy có đề Tô quân.Bước vào xem tượng truyền thần,Mặt tròn khuôn nguyệt, môi nhuần vẻ đan.Tấc lòng kính kẻ trung can,Liền tay vịnh miếu, vịnh sơn hai bài. ☺Lần lần gió tối sương mai,Đường đi thoắt đã tới nơi đại hà.Hỏi ra mới biết rằng là,ấy sông hắc thuỷ, một bà Chiêu Quân.nàng bèn truyền gọi thổ nhân,Đem hòm áo, phó doành ngân tức thì.Yên xong mới bảo thị tì,Đã thay Hồ phục để chi áo này.Ném theo một khúc sông đầy,Hoa trôi mặt nước, bướm bay giữa dòng.Vì đâu y phục bất đồng,Bỗng đem nữ sức phó cùng thuỷ hương.Trông theo tấc dạ thêm càng,Tả lòng lại ngụ luật Đường bốn câu. ☺Đường trường dặm ngựa ruổi mau,Trông lên đã thấy miếu đâu gần gần.Trên yên dạy hỏi thổ quân,Thưa rằng: "Miếu ấy Chiêu Quân một toà."Xuất quan từ thuở Hán gia,"Quyết liều đến Hoắc thuỷ hà trầm châu."Tiết trinh khôn đổi được đâu,"Tấm thiêng ngược nước trở đầu về nam."Cõi này mến chút danh thơm,"Dựng làm miếu vũ sớm hôm phụng thờ."Một phương bậc tối linh từ,"Kể năm, ba bốn trăm thừa đã lâu."Oai linh đã khắp đâu đâu,"Kẻ xin cứu bệnh, người cầu chiêm bao",Tiểu thư nghe nói mừng sao,Trước đền xuống ngựa bước vào thử coi.Nguy nga miếu mạo hẳn hoi,Một toà thần tượng trên ngồi nghiễm nhiên.Oai linh mình thánh, dáng tiên,Lồng màn vẻ trắng, ánh đèn sắc tươi.Son vàng mặt khảm tay ngai,Lò trong ngát xạ, đỉnh ngoài bay hương.

Lạnh lùng bát ngát hơi dương,Nhìn qua rợn tóc, trông tường sởn gai.Nữ đồng võ sĩ đủ người,Hầu trong hai ả, chầu ngoài tám viên.Đồ thờ cắm giá án tiền,Một bên bảo kiếm, một bên tỳ bà.Tiểu thư lưỡng lự một giờ,Sụp ngồi bốn lạy xa xa tự tình.Khấn thầm, thở ngọn, than ngành:Nỗi chồng oan uổng, nỗi mình truân chiên.Lầm người vì trước hào Phiên,Đem thân yểu điệu tới miền hôi tanh.Cũng liều bao quản tử sinh,Thề rằng quyết chẳng nhơ mình tiểu man.Thiêng chăng thu lấy hồn oan,Rộng cho chầu chực trước ban là nhờ!Khấn rồi nghỉ lại miếu thờ,Đêm trường cho tiện đợi chờ chiêm bao.Hay đâu mấy bộ Công tào,Đã đem lời khấn tâu vào Chiêu Quân.Phán rằng: "Mới thực hiền nhân,"Nặng bề sơn hải, nhẹ thân yêu kiều. Bảng trời hôm nọ mới treo,"Mai sinh tên đã giật lèo trạng nguyên.Ngày sau phu phụ đoàn viên,"Nay ta hãy cứu một phen mới là".Bèn ban nữ sứ bước ra,Đòi hồn nàng lại, nhủ qua ân cần.Rằng: "Ta là Hán Chiêu Quân,"Cứu cho cũng dự phu nhân trinh thành."Rồi ra về đến quê mình,"Sau đây phu quý phụ vinh vẹn tròn."Dạy rồi phó trả thần hồn,Lại đòi lực sĩ ôn tồn chủ qua:"Đón nàng khi sắp đầu hà,"Đem về đại quốc vườn hoa Bá Phù."Người Trung châu, trả Trung châu,"Mặc ai chọn nghĩa báo thù mặc ai".Gió đâu lọt cánh cửa ngoài,Tỉnh ra còn nhớ mấy lời chiêm bao.Nghĩ ra nào biết đâu nào,Vững lòng khi dám chắc vào những đâu...

án tiền ren rén cúi đầu,Bước ra lại vịnh bốn câu lưu đề. ☺Lên yên gióng ngựa ra đi,Núi cao đã thấy gần kề tới nơi.Hỏi tên là Lạc-nhạn đài,Trùm mây mờ mịt, ngất trời chon von.Nàng rằng: "Tích trước ghi lòng,"Chiêu Quân gửi nhạn thư phong chốn này."Đường đi nhân tiện qua đây,"Nhắn nhàn bắt chước chuyện ngày ấy chơi".Kíp truyền man tốt mấy lời,Dọn đường núi Nhạn, kíp dời gót loan.Phò nàng ngồi kiệu đăng san,Hai hàng thị nữ, một đoàn phiên binh.Bước cao bước thấp gập ghềnh,Quăn queo lối chuột, chênh vênh tai mèo.Nương đá quạnh, vịn cành oeo,Chim xào xạc lá, vượn leo lắt cành.Sẵn sàng cảnh vật chung quanh,Phong đồn mở quạt, mây xanh buông màn.Bước lên tuyệt đỉnh làn làn ,Trông nhường chật đất (?), với toan đến trời.Mặt sau lần bước lên chơi,Nhìn đâu bỗng thấy một nơi có đầm.Mắt mèo trong vắt, nổi tăm,Rắn quằn quại khúc, mãng nhăm nhép hàm.Cheo leo sườn núi trông sang,Khe kia suối nọ ngổn ngang mấy trùng.Nửa ngày nổi trận âm phong,Phất phơ lật lá, lạnh lùng thấu xương.Đất đâu sơn thuỷ lạ dường?Ngẩn ngơ mình những cảm thương nỗi mình:"Xót thay đôi đức sinh thành,"Bao giờ nguôi được chút tình nhớ thương."Một ngày một ngả bóng tang,"Da mồi sạm mặt, tóc sương điềm đầu." Biết nhau thêm dở dang nhau,"Quen hơi bén tiếng bao lâu mà rằng!"Ấy ai chắp mối xích thằng,"Biết mà dứt chỉ, thà đừng vương tơ."Như lời thần mộng hoạ là,"Còn duyên chăng nữa, cũng chờ lai sinh."Đường cùng giữ lấy thơm danh,

"Thôi thì gác hiếu với tình một bên."Chấp kinh, nếu chẳng tòng quyền"Nữa khi nước đến e nên cát lầm".Tấc lòng cả quyết khôn cầm, Tấm thân phó mặc dưới đầm sâu sâu.Thị tỳ trông trước nhìn sau,Nàng đá gieo ngọc trầm châu bao giờ.Ai hay ra sự chẳng ngờ.Phiên binh nhớn nhác, nhớn nhơ một đoàn.Bảo nhau sắp sẵn mưu gian,Cải trang bắt lấy thuý hoàn để thay.Miệng bình bưng kín ai hayChăm chăm giục ngựa mấy ngày trẩy sang.Hấp him thay nhẽ Man vương!Hững hờ nào biết rằng nường hay ai.Thuý hoàn riêng được hẳn hoi,Đổi hình tỳ thiếp thay ngôi phi tần. Mới hay trời với giai nhân,Được riêng chữ nghĩa , nắm phần chữ danh.Làm cho chán nỗi thử thanh,Trải bao nạn trước, mới dành phúc sau.Tiểu thư từ xuống đầm sâuHồng vân một đoá đón đâu nửa chừng.Ào ào tiếng gió lay rừng,Giữa trời vũ giá vân đằng đem đi.Mấy lời thần mộng xa nghe:"Ta đây vâng mệnh đưa về Trung-hoa!"Giờ lâu bỗng thấy chân sa,Nhìn thôi mới thấy một toà danh viênCanh khuya văng vẳng bốn bên,Thôi năn nỉ khóc, lại rền rĩ than.Tỉnh mê riêng những bàng hoàng,Nào non nước tá? uỷ vườn tược đâu?Chẳng hay là đất Trung châu,Nhà quan ngự sử là Châu Bá Phù.Ông đang thượng lỵ đông đô.Để lưu con gái với phu nhân nhà.Tiểu thư vả bậc tài hoa,Khuê phòng tiểu tự gọi là Vân Anh.Đốt hương vừa buổi đêm thanh,Nghe đâu ti tỉ như hình tiếng ai.Giờ lâu truyền gọi con đòi,

Soi đèn xem thử có người đâu đây.Tiểu hoàn vâng lệnh ra ngay, Soi xem bỗng rụng rời tay, trở về.Rằng: "Người đâu của dị kỳ?"Lông chim đuôi hổ vằn vè áo khăn ."Ở đâu về đấy nhưng nhưng,"Ấy rằng quỷ sứ, hay rằng hồ tinh!"Một nhà sào gậy xúm quanh.Hạnh Nguyên mới bạch thực tình trước sau.Thấy người phong điệu cửa hầuDạy cho vào đến trước lầu hỏi han.Hạnh Nguyên mới kể nguồn cơn:Nỗi nhà tách bạch, nỗi oan rạch ròi.Hoà Phiên khi đến nước ngoài.Miếu thần ứng mộng, Nhạn nhai gieo mình.Phép thiêng cải tử hoàn sinh. Ở hiền may lại gặp lành đến đây.Phu nhân rằng: "ấy mới hay,"Thế gian cũng có sự này lạ ghê.Thần còn cứu kẻ nhân nghì,"Dễ hầu người chẳng liệu bề xót nhau?"Ở đây chẳng ngại chi đâu,"Cho làm nghĩa nữ bạn bầu tiểu thư."Rồi sau nhắn bảo mẹ cha,"Trời cho khí dễ, hoạ là gặp nhau"Hạnh Nguyên vâng mệnh trước sau,Sụp ngồi nàng mới gật đầu mấy phen.Vân Anh từ được bạn hiền,Yêu bên chữ sắc, trọng bên chữ tài.Hai người như thể một người,Ngang tay tú các, sánh vai lan phòngDệt thêu, học lẫn nữ công, Lúc chia hoa ướp, khi chung phấn giồi.Hạnh Nguyên khi đứng, khi ngồi,Khóc thầm trong vắng, gượng cười ngoài sân.Nàng đà được chốn an thân,Xót thay chàng Bích, chàng Xuân hai người.Ải quan chân chửa kịp dời,Mã bài đã có chỉ đòi Đảng công.Chẳng ngờ Lư Kỷ tấu trong,Thiên lao đã bắt vợ chồng Đông Sơ.Hai chàng còn tiễn tiểu thư,Cũng ban mật chỉ truyền cho bắt về.

Đảng công chống chế mọi bề,Cấp thêm hành lý giục đi lánh mình. Cùng nhau hai gã thư sinh,Ngẩn ngơ đất khách gập ghềnh quê xa.Trời hôm xế bóng tà tà,Côn quang, đâu bỗng gặp ba bốn người.Lòng tham còn biết thương ai,Cướp hành lý hết, áo ngoài sạch không.Tạm ngồi trước miếu bên sông,Thuyền quan nghe có thùng thùng trống canh.Nghi cho là kẻ gian tình,Nghe hơi kéo một đạo binh lên bờ.Xuân sinh kịp lánh đường xa,Bắt liền Mai Bích mới đưa xuống thuyền.Chàng bèn cất mặt trông lên,Thấy trong khoang giữa, ngồi nền một ông.Mấy lời sang sảng tiếng đồng:"Tên kia sao dám cả lòng mưu gian?"Sinh rằng: "Đâu dám to gan,"Đèn trời xin thấu nỗi oan cho người."Tôi cùng người bạn anh tôi,"Tìm người thân thích lạc loài đến đây."Nào ngờ gặp sự chẳng may,"Dám xin xét tấm lòng ngay được nhờ".Ông xem ra dáng con nhà,Truyền đem nghiên bút thử và câu chơi.Chàng vâng lĩnh bút đề bài,Viết xong chế nghệ một bài nộp đi.Ông rằng: "Nhục nhỡn nan tri,"Thứ cho thì chớ, dù chê dám nài."Bước lên xin hãy tạm ngồi,"Áo đưa một cặp, ngắn dài quản chi."Gặp nhau dễ giấu nhau chi,"Họ tên sao đấy? ở quê xa gần?"Sợ lòng, sinh những ngại ngần,Giả danh rồi sẽ nghe dần về sau.Thưa rằng: "Xin kể gót đầu,"Tên vinh họ Mục, Thường-châu là nhà".Ông rằng: "Quê đấy chẳng xa,"Có quen Mai thị cùng là ai không?Sinh rằng: "Cùng ở một vùng,"Bạn bè cũng biết có công tử chàng.

"Từ khi gặp biến phi thường,"Chẳng hay đâu đấy tìm phương lánh mình."Tôi nay vâng đẹp duyên bình,"Xin tường quí tính, đại danh được nhờ".Ông rằng: "Cũng chẳng đâu xa,"Ở Giang-nam tỉnh, tên là Lạc Thiên."Cách quan về việc bình Phiên,"Rày vâng khai phục ra miền ngọc kinh".Đêm khuya trống đã sang canh,Truyền đem gối đệm, nghỉ mình khoang trong.Mấy tuần thuận bến xuôi dòng,Mai bồng trăng tối, buồm dòng gió trưa.Quan lão luyện, khách tài hoa,Cuộc cờ trên lái, đường tơ dưới lèo.Mây buổi sớm, nước ban chiều,Thơ ngâm ngoài mạn, rượu kèo trong khoangKinh thành mong mỏi tấc gang,Chiều lòng, nước cũng bằng dường như tên.Bỗng đâu một chiếc kề bên,Hỏi ra mới biết là thuyền Châu công.Gặp nhau kể hết sự lòng,Họ Châu môn đệ, họ Phùng ân sư.Châu công rằng: "Lẽ gọi là,"Kính dâng một lễ gọi đưa tấc thành.Hà-nam vâng lệnh tuần hành,"Một phương xích tử triều đình trong tay."Những là lo lắng đêm ngày,"Dưới màn ai kẻ đỡ thay tờ bồi."Ân sư liêu hữu có ai,"Môn sinh xin được một người là may!"Phùng công rằng: "Đã sẵn đây!"Mục Vinh gặp mấy buổi nay cũng kỳ."Văn chương tài mạo ai bì."Có chăng là một chữ "thì" kém ta."Cánh bằng khi gặp gió xa,"Tung mây chưa biết lên đà đến đâu."Nhân duyên may gặp được nhau,"Việc nha xem đỡ, ta sau sá gì".Hai ông trò chuyện dã dề,Mới đem họ Mục đưa về Châu công.Của đưa gọi chút lấy lòng,Một hòm tân phục, hai phong nhật trình.Tiễn rồi lại dặn Mục Vinh:

"Trượng phu xin chớ quản tình biệt ly".Yên xong trở mũi thuyền đi,Kẻ thì phó lỵ, người thì tiến kinh. Thương thay còn một Xuân sinh,Liền đêm hôm ấy lánh mình xa xa.Sáng ngày thức dậy nhớ ra,Sơn-đông quen một người là Thái Câu.Xưa từng lỵ phủ Nhiêu-châu,Cách quan nghe mấy năm sau ở nhà.Hỏi thăm tìm đến hỏi qua, Cửa ngoài đã thấy có tờ biên phong.Cũng vì Lư Kỷ, Hoàng Tung,Chứng cho một án giao thông giặc ngoài.Xuân sinh thấy sự kíp dời,Một mình mặt đất, chân trời bơ vơ.Than rằng: "Thung cỗi huyên già,"Thiên lao biết có bao giờ biện oan."Người tuổi tác, khách cô đan,"Để ai tan nghé, rẽ đàn vì ai?"Xót ai thui thủi phương trời,"Hồng nhan khi đã ra người cửu nguyên."Hiếu tình đeo nặng hai bên,"Dặn dò những chắc chu tuyền có ta."Mai kha ơi! hỡi Mai kha!"Rời nhau một bước, nên xa mấy trùng!"Mỗi đêm sương tuyết lạnh lùng."Khỏi chăng? hay đã mắc vòng trần ai?"Thương thay trung nghĩa mấy người,"Kẻ thì oan thác người nơi ngục hình."Trách vua Đường ở bất minh,"Dung bên gian đảng mà khinh hiền tài".Bên lòng trăm mối bời bời,Trông ra một nước một trời mênh mông.Tử sinh xem nhẹ lông hồng,Quyết liều, sinh đã gieo sông bao giờ.Hay đâu khéo cũng may mà,Gần đâu đấy, có ngư gia đóng thuyền.Giăng chài vớt được chàng lên,Tỉnh dần, trông rõ hai bên ngồi nhìn.Trẻ già một lũ cạn khan,Đầu cành cạch tóc, mình nhờn nhợt da.Ngồi bên thuyền chủ một bà,

Ngồi bên một ả mặt hoa tột vời.Ngồi trông ra rõ mặt người,Thương ôi! sao nỡ bỏ hoài tuổi xanh!Ở đâu mà đến chài mình,Hãy còn im ỉm khí sinh lạ đời.Thay quần đổi áo tơi bời,Ngư bà mới hỏi mấy lời trước sau:"Chẳng hay quê, họ nơi đâu?"Gặp nhau xin tỏ cho nhau biết cùng."Làm sao mà phải gieo sông?"Hay là tội lệ, cát hung thế nào?"Xuân sinh mới kể gót đầu:"Quê tôi ở huyện Thường-châu cũng gần."Cha làm quan, họ là Trần,"Chẳng may mắc phải gian thần vu oan."Tàu vua bắt chị hoà Man,"Thiên lao lại bắt thung đường phó giam."Tôi tiễn chị tôi xuất quan,"Bỗng nghe mật chỉ sai quan nã về."Vậy nên tôi phải lánh đi,"Chẳng may gặp lũ gian phi giữa đường."Than ôi! đương hợp mà tan,"Một mình tránh khỏi nguy nàn tới đây."Cả liều nào quản vơi đầy,"Phúc sao, may khéo là may, gặp người".Ngư bà nghe bấy nhiêu lời,Nhủ rằng: "Thôi cũng có trời chẳng không!"Năm xưa vớt được giữa dòng,"Một vòng ăm ắp những vòng với thoa."Khen thầy nó dặn lão bà,"Để cho con gái tên là Ngọc thư."Gặp ông thầy số năm xưa,"Đoán cung mệnh cháu khen bà phu nhân.Gạo công đòi đủ trăm cân,"Khen đi, khen lại phu nhân khác thường."Bây giờ may vớt được chường, (chàng)"Mà xem tướng mạo đường đường đáng quan."Hẳn rằng thiên địa tuần hoàn,"Mà cho chàng lại trôi ngang vào chài."Nên nay lại vớt được người,"Hai phen vớt được một đôi rõ ràng."Thôi đừng quản thiệt tham hơn,"Băn khoăn kén cá, phàn nàn chọn canh.

"Ngọc thư cho kết duyên lành,"Hoạ là phu quí phụ vinh kịp ngày."Được như số đoán là may,"Vong hồn cũng thoả đến thầy nó xưa".Xuân sinh nghĩ đã trót nhờ,Vả xem phong dạng Ngọc thư ra tuồng.Thưa rằng: "Chút phận tha hương,"Đã thương yêu đến, dám ruồng rẫy ru!"Xin vâng, nhưng hãy xin chờ,"Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa cũng vừa"Bà mừng kíp gọi Ngọc thư,Một lời đã định phải ra chào mời.Thẹn thùng lững thững chân dời,Nàng e còn đứng, chàng coi đã tường.Quả nhiên nhan sắc dị thường,Mai hình tú bộ khác phường ngư gia.Khi vui nảy phút hứng thừa,Khen thầm trong bụng nên thơ một bài. ☺Thấy chàng, nàng cũng mừng vui,Dáng người thanh tú, vẻ người văn chương.Chắc rằng có phận giàu sang,Hứng lòng cũng ngụ luật Đường bốn câu. ☺Dần dà quen thuộc bấy lâu,Mới hay nương tử họ Châu ấy là.Nực cười thay! thú ngư gia,Sớm qua Tầm thuỷ, tối về Hàn san.Ca chèo, nhịp nhặt, nhịp khoan,Trăng lòn sau lái, gió đàn trước mai .Bốn mùa mặt nước sinh nhai,Lưỡi câu, sợi chỉ, tay chài mặt sông.Mặc ai danh lợi trong vòng,Xiêm vằn vặn lưới, đai long lỏng thằng Thoi đưa nấn ná ba trăng ,Trải phần đông quí, sang chừa xuân qua.Tết lành náo nức gần xa,Neo thuyền giặt lưới, giăng bè dựng nêu.Ngư bà mới bảo Ngọc Kiều,Mượn điềm bói cá thay gieo tú cầu."Lưới này như được cá đầu, "Duyên con thì định xuân sau kén ngày."Ví bằng ba lưới không tay,"Thành thân thong thả sau này sẽ hay".Bàn rồi chia việc làm ngay,

Kẻ buông tay lưới, người gay cột chèo.Cầm sào chàng cũng đẩy theo,Ngọc thư đỡ lấy có chiều lần khân.Lạ gì đôi lứa vừa xuân,Ai hay rơm bén lửa gần với ai? Ngư bà liếc thấy vừa hai,Nghĩ thầm truyện ấy có người, có ta!Người yểu điệu, kẻ tài hoa,Một thuyền trăng gió vào ra dễ gần.Hai tay kéo lưới dần dần, Lý ngư đâu đấy trần trần một đôi,Sinh rằng: "Ăn những ngồi rồi,"Rày xin đem bán chợ chơi một lần".Cũng liều nhắm mắt đưa chân,Mà cho trải với thế nhân đủ điều.Chàng vừa đi khỏi chợ chiều,Thuyền ai đâu đã ghé chèo tới nơi.Trên mui ngồi tót một người,Nghênh ngang dáng cậu, nói cười giọng quan.Một thuyền vâng dạ đã ran,Tiểu hầu, đầy tớ, một đoàn như rươi.Khoe khoang nửa tấc đến trời.Quần hồ sột soạt, áo mồi trai lơ.Trông sang nhác thấy Ngọc thư,Khác nào như ếch thấy hoa động lòng .Đặt nêu một mẹo hư không,Bạc năm mươi lạng một phong sẵn sàng.Giao cho đầy tớ đưa sang,Mua làm tiểu thiếp, toan đường ép duyên.Thuận lòng bao quản sang hèn.Tam bành bà đã nổi lên một hồi.Ngọc thư ngấm nguýt một hai,Trong khi quá giận lắm lời sam sưa.Khuyển, ưng một lũ mắt đưa,Để phong bạc, bắt Ngọc thư đem về.Tiếng nàng kêu dậy giang khê,Một đoàn thuyền hộ kéo bè la om.Vác sào, quơ gậy ỳ om,Lao xao nổi tép nổi tôm một vùng.Lời thô tiếng tục như ong,Kẻ toan cướp lại, người hòng đánh nhau.Bàn dày bàn mỏng giờ lâu,Xuân sinh trong chợ may đâu vừa về,

Can rằng: " Xin hãy im đi,"Khôn không qua lẽ, phép thì có quan".Bảo nhau tìm chốn kêu oan,Dắt theo chứng tá, một đoàn ngư nhân.Bước đi bóng đã xế thân ,Nửa đường gặp lũ quan quân dài dài.Đèn lồng trước kiệu hàng hai,Hiệu đèn đề đốc chữ nhồi nét son.Giữa đường quì xuống kêu dồn,Nghe, truyền dừng kiệu, ôn tồn hỏi tra.Thưa rằng: "chút phận ngư gia,"Gặp chàng công tử, họ là họ Giang."Khinh người hèn, cậy mình sang,"Lấy điều thần thế, toan đường hiếp ai."Kề thuyền cướp lấy vợ người,"Oan này, muôn đợi đèn trời xét cho."Cao minh xin thứ dân ngu, "Vội vàng kêu miệng, nào lo kịp tờ".Lệnh quan một tiếng truyền ra:"Con quan quen ỷ thế cha, cũng thường."Tên này phong dạng ra tuồng,"Nhìn xem chưa hẳn là phường ngư gia!"Kíp truyền tới bến đại hà,Bắt Giang công tử về nha tức thì.Nguyên đơn cũng bắt đem về.Kiệu đi một lúc đã kề đại doanh.Hiên môn vẽ hổ trước bình,Giáo thăm thẳm dóng, quân sình sịch hơi.Thung dung xuống kiệu sảnh ngoài.Tiếng loa thị sự, hồi còi thu quân.Hầu bên hai dãy biền thân,Nệm chăm chắm trải, nến rần rật giong (chong).Ngậm tăm lặng ngắt như không, Trại ngoài điểm trống, dinh trong dóng kèn.Một vòng quân khảo như nêm,Hàng giăng giá nọc, chật lèn túi roi.Giao canh trống mới sang hai,Phạm tù đã thấy lôi thôi điệu về.Giang Khôi nhường cũng khiếp uy,Liếc trông mặt sắt lặng nghe tiếng đồng.Quở rằng: "Cậy thế thị hùng,"Ra ngoài văn pháp, vào trong dâm tà."án này cứ miệng ngư gia,

"Phỏng như tội ấy, nghĩ đà đáng chưa?Kiên gan Khôi cũng lôi la:Rằng mua, rằng bán, rằng lừa trăm khoanh.Rồi ra chứng tá phân minh,Nhường cưng cứng lưỡi, nhường quanh quẩn lời.Quan môn biết sự chẳng sai,Lấy điều nhỏ nhặt truyền đòi Ngọc thư.Hỏi ra mới biết rằng là:Liễu dù gặp gió, sen chưa nhuốm bùn.Đòi Giang tri huyện quở dồn:"Cha làm dân mục dung con bất tài."Mắt trông, tay trỏ đủ mười,"Phép vua khôn thứ, miệng người khôn che."Tội con phạt bốn mươi bê"Cha đà biết tội tha về lượng cho."Nguyên đơn một lũ họ Châu,"Chờ mai thẩm lại mới hồ tha xong".Truyền cho ở lại nha phòng,Sáng mai sẽ hỏi xem trong tình đầu Ai hay sự bởi vì đâu,Quan đề đốc ấy, họ Khâu gọi là.Hiếm hoi mới được mộng xà,Vân Tiên một gái mặt hoa khuynh thành.Cũng trong họ mạc chung quanh,Vốn là cậu ruột Mai sinh đấy mà!Từ khi khởi nạn Mai gia,Phu nhân sang đó nương nhờ bấy lâu.Cách đêm vừa sáng hôm sau,Buông rèm hỏi lũ họ Châu xem tình.Ngư bà đâu dám giấu quanh,Mới đem sự tích Xuân sinh kể bày.Xót lòng ông mới dạy ngay,Hãy đem tên rể vào đây hỏi tường.Xuân sinh thấy sự rõ ràngBấy giờ chàng kể nỗi chàng đầu đuôi:Từ khi gặp gỡ họ Mai,Khi toan xe chỉ, khi đòi xuất quan.Khi lánh nạn, lúc nghe oan,Cùng Mai sinh, nỗi hợp tan mấy lần.Chàng vừa kể hết xa gần,Mai phu nhân bỗng khóc lăn trong rèm.Khóc rồi mới bước ra thềm,

Cầm tay chàng mới nhìn xem một giờ.Dạy rằng: "Gang tấc nên xa,"Thế mà già vẫn còn ngờ là ai!"Khâu công rằng: "Hãy khoan thai,"Dám xin mời cả vào ngồi nhà trong."Thay quần đổi áo yên xong,"Rồi ra sẽ kể sự lòng với nhau".Ngư bà chưa tỏ gót đầu,Thôi bâng khuâng nghĩ, lại chầu hầu trông:"Uỷ, sao nhà kiện, cửa công,"Ra tình nhìn nhận, ra lòng yên thân?"Thư phòng rót chén tẩy trần,Một ông với một chàng Xuân bàn hoàn.Kể lòng mấy chuyện hợp tan,Nhà trong cũng mở một bàn tiệc hoa.Ngồi trên nhường tuổi Ngư bà,Hai phu nhân với tiểu thư hai người. Nhìn lâu ngợp mắt làng chài,Mâm vàng chồng chất, chén mồi đầy vơi.Hải vị tốt, yến sào tươi,Khác màu nấu chuội, khác mùi hơ qua.Vả trong bồi tiếp tiệc hoa,Hai nàng tiên nữ, hai bà phu nhân.Mừng thầm con đã yên thân,Gẫm lời thầy số mười phần chẳng sai.Khâu công xong tiệc rượu ngoài,Mai phu nhân mới rỉ tai vài lời:"Nghĩ rằng cậu mợ hiếm hoi,"Điềm hùng chưa ứng, chút trai muộn mằn."Nay xem công tử họ Trần,"Khôi ngô vẻ mặt, đai cân dấu nhà."Tòng quyền cho nghỉ nương nhờ,"Minh linh rồi sẽ đổi ra đông sàng".Bàn rồi bèn giục giã chàng,Thung dung trước mặt gia nương khấu đầu. Vâng lời theo họ là Khâu,Tên là Khôi, để từ sau gọi thường.Còn Ngư bà với Ngọc nương,Cũng cho nhìn nhận trong đường thân hơi.Ngư bà xin tới bến ngoài,Tìm người phường bạn, giã lời với nhau.Ông truyền sắp kiệu theo hầu,

Rập rình gươm trước, ngựa sau ra tuồng.Ngồi trong nghé ngửa nom ngang,Phút đâu kiệu đã tới phường bến xưa.Vội vàng bước xuống thuyền nhà,Kẻ quen người thuộc còn ngờ rằng ai.Giờ lâu nhìn mặt tỏ mười, Nọ người khoác nách, nọ người vỗ tay.Hỏi săn hỏi đón đã đầy,Kiện làm sao đấy? kiệu này của ai?Bà rằng: "Kiện cáo gì tôi,"Này này! anh nó vào ngồi với quan!"Từ rày phường bạn đừng nhờn,"Đủ trăm văn lý, đủ muôn thế thần! "Giang Khôi rày hẳn biết thân,"Hôm xưa thầy tớ một sân chịu đòn."Kẻo còn bắt những hầu non,"Kẻo còn hống hách, kẻo còn doạ hơi".Cùng nhau từ giã mấy lời,Lại lên ngồi kiệu, kíp dời về dinh. Khâu Khôi yên phận đã dành,Đường xa này chuyện Mục Vinh còn dài.Phủ Châu nương náu cửa người,Án tờ xem đỡ, văn bài tập riêng.Tài mẫn tiệp, tính thông miêng (minh),Phần chăm việc khách, phần siêng việc mình.Hà-nam một tỉnh chính thanh,Châu công hết sức, thêm tình yêu đương.Nghĩ mình có gái Vân nương,Quyết lòng đành rắp đông sàng đợi ai.Xa nhà chưa dám ngỏ lời,Tin đâu đã có chỉ đòi lai kinh.Tỏ tin, bàn với Mục Vinh,Khuyên chàng về phủ Đại-danh quê nhà.Băn khoăn muôn dặm đường xa,Tu thư mới gửi cho bà phu nhân.Trong thư mọi nỗi xa gần,Dặn dò lấy lễ sư tân đãi chàng.Đinh ninh một việc đông sàng,Chuyện riêng lai phụ mấy hàng dặn sau.Mục Vinh sắm sửa quân hầu,Trỏ đường tư thất họ Châu trở về.Tay cung, thanh quất, cây tỳ,

Ngao du sơn thuỷ, đề huề gió trăng.Hề đồng theo bốn năm thằng.Thơ ninh ních túi, rượu lưng lửng bầu.Đường xa dong ruổi vó câu,Thoắt đà tới phủ họ Châu bao giờ.Phu nhân biết ý trong tờ,Tình riêng đâu dám hững hờ như ai.Riêng mình chàng, một thư trai,Đồ cung cấp hậu, vẻ bài trí thanh.Cổ thư, cổ hoạ buông tranh,Bên giường triện bách, trước bình phong lan.Giá bày túi sách cặp đàn,Sẫn hiên ngoạn nguyệt, sẵn vườn thưởng hoa.Phòng riêng ngày tháng lân la,Khi buồn mới giở chiếc thoa ra nhìn.Càng đau đớn nỗi Hạnh Nguyên,Nhớ câu thơ biệt ở trên Trùng-đài.Sẵn nghiên bút, vẽ ra chơi,Vừa buông tay viết, chẳng rời miệng ngâm.Càng như khêu mối khổ tâm,Giấy nhoè nét tủi, nghiên dầm giọt thương.Hay đâu đầy tớ Vân nương,Liễu hoàn một ả Xuân Hương tinh đời.Thói thường dòm liếc thư trai,Gặp chàng vừa lúc nhớ người, xem thoa.Trở về tấp tểnh, tấp ta,Thày lay mách với Vân ta mấy lời.Rằng: "Tướng công ở nhà ngoài,"Thình lình lắm lúc tôi coi cũng kỳ."Tay cầm chẳng biết vật gì,"Mắt thì nhìn kỹ, mặt thì buồn tênh."Kỳ này ra khổ thất tình,"Kém nhan sắc trước, khác hình thù xưa."Tôi lừa khi vắng lẻn ra,"Chỗ ngồi bắt được chiếc thoa lạ đời".Vân Anh xem của nghe lời,Gẫm tay này hẳn có người tình chung.Thoa này ai dễ cho không,Dễ hầu biết mặt tin lòng mà chơi .Mục Vinh phải buổi ra ngoài,Về xem hòm sách tơi bời giở tung.Thấy khác dấu, đã chột lòng,Xem cành hoa ấy lại không thấy rồi.

Khóc than vật vã một hồi,Trách mình lờ đễnh, giận người tham lam.Nghĩ rằng kẻ bắc người nam,Chắc còn thoa ấy, để làm duyên sau.Gẫm duyên mỏng mảnh vì đâuTỉ tê vật mọn cũng hầu tìm đi.Bệnh đâu dắt đến tức thì,Cơm hoa biếng nhắp, giấc hoà kém yên.Chiêm bao mê mẩn liền liền,Trùng-đài trước mặt, Hạnh Nguyên bên mình.phu nhân những hận vì tình,Mời thầy thuốc, cắt đồng sinh giữ gìn.Nỗi ngoài họ Mục , chưa yên,Não người còn nỗi Hạnh Nguyên trong nhà.Phải khi ngồi với Vân thư,Thấy cành hoa ấy chân hư rành rành...Giờ lâu nhìn dấu của mình,Trùng-đài lưu lặng Mai sinh những ngày.Người đâu mà của thấy đây?Hẳn rằng bóng hạc, xe mây đã đành.Duyên này đã hẳn ba sinh,Gặp nhau đành giữ chung tình kiếp sau.Lòng thương chẳng đánh mà đau,Lan sương biếng kẻ, mai câu biếng giồi.Tấc riêng riêng những ngậm ngùi,Bữa thường miệng đắng, đêm dài bóng chung.Phu nhân rối tợ bòng bong,Khuê phòng ép thuốc, thư phòng nài thang.Dạy mua hai cỗ thọ đường,Phòng khi nhất đán phi thường cho ai!Bỗng đâu một lúc tơi bời,Nỗi trong nhộn nhịp, nỗi ngoài dở dang.A hoàn nối gót thư đường;Thấy hai phương cũng hung phương một giờ.phu nhân ghé hỏi sau xưa,Gọi lên đã thấy tiểu thư tỉnh dần.Thưa rằng: "Lưu lạc chút thân,"Bao dong kể đã đội ân nghìn trùng."Hay đâu số phận mỏng manh,"Xưa nay mệnh bạc chữ trung má đào"Phòng khi muôn một thế nào,"Xin ba tấc đất để vào hướng nam."Con dù chín suối cũng thơm,

"Bấy lâu công đức đã cam phụ người".phu nhân khuyên giải mấy lời,Cùng Vân thư tới nhà ngoài thăm lênh.Kề tai mấy tiếng gọi sinh,Vừa lim lỉm giấc, thoắt tinh tỉnh dần.Xuân Hương trình bước phòng văn:"Tiểu thư vâng mệnh phu nhân trong phòng."Ra đây thăm bệnh tướng công,"Dám xin gượng chút bõ lòng phu nhân".Sinh rằng: "Hổ phận gia thần,"Ân lòng đãi lễ sư tân bấy chầy."Những mong báo đáp có ngày,"Ai ngờ nên nỗi nước này như không?"Vẻ chi thân nhẹ lông hồng,"Thăm lênh để nặng tấm lòng tiểu thư."Dù khi giải kết bao giờ,"Phong thần chính bắc xin nhờ ghi cho".Bên giường mấy nỗi dặn dò,phu nhân nghĩ ngợi thêm hồ nghi ra.Cùng nhau bàn mảnh trong nhà,Xuân Hương mách lẻo trình bà phu nhân:"Chuyện này xin chớ ngại ngần,"Tôi đà tỏ hết nỗi gần nỗi xa."Cũng vì có một chiếc thoa,"Kẻ bâng khuâng nhớ, người ngờ ngẩn thương."Hai phòng bệnh cũng một đường"Mê rồi lại tỉnh, mơ màng lăng nhăng."Vả xem những tiếng trối trăng,"Kẻ rằng chính bắc, người rằng chính nam."Chuyện này để vậy chưa cam,"Xin dò chắc lại xem làm sao đây".Theo Vân thư mới đi ngay,Phen này quyết tỏ lòng này cho ai.Lửng lơ đứng trước thư trai,Đem thơ tiễn biệt Trùng-đài đọc chơi.Mục Vinh nghe vẳng bên tai,Bằng dường sét đánh lưng trời bỗng đâu.Gọi vào, hỏi trước, hỏi sau,Mỉm cười, Hương mới kể đầu, kể đuôi.Nỗi nàng mách hết rạch ròi:"Khi thần đưa đến, khi người bắt nuôi."Trộm thoa, tội ấy về tôi,"Khiến trong nhìn nhận, để ngoài xót xa.

"Mấy câu tôi đọc bây giờ,"Thơ này bắt được với thoa một lần."Làm khuây, xin hãy tỉnh dần,"Đã đành tài tử, giai nhân một nhà."Vả ông tôi dặn trong tờ,"Đinh ninh dành gả tiểu thư cho chàng."Bây giờ gặp nghĩa cũ càng,"Chẳng hay duyên mới có mang mẻ cùng?"Sinh rằng: "Muôn đội ơn lòng."Nỗi bà trân trọng, nỗi ông yêu vì."Ví bằng được hẳn thế thì,"Duyên sau nghĩa trước, hai bề vẹn hai".Bỗng dưng nói nói, cười cười,Mười phần bệnh, phỏng còn hai ba phần .Xuân Hương tức tốc dời chân,Tìm đầu bạch với phu nhân bấy giờ.Lại bảo thực Hạnh thưMục Vinh ngoài ấy, ấy là Mai sinh.Hạnh Nguyên nghe rõ thực tình,Cất quang quảng bệnh, nhẹ thênh thểnh người. Cho hay những bậc sắc tài,Thảm vì tình lắm, lại vui vì tình.phu nhân chọn được ngày lành,Mới truyền dọn dẹp, mời sinh vội vàng.Sửa sang cuộc rượu hai bàn,Cánh rèm làm lễ truy hoan một nhà.Hạnh Nguyên quốc phục như xưa,Thác mành mành mới bước ra hỏi chàng.Rõ mười còn tưởng mơ màng,Mừng mừng, tủi tủi, khóc than một hồi.Khóc rồi kể lể đầu đuôi:Nỗi trên núi Nhạn chuyện ngoài ải mây.Chết thừa sống thiếu là may,Bên kia quan gặp, bên này thần đưa.Bèo trôi, sóng vỗ đến giờ, ☺Kẻ sang Châu phủ, người nhờ Phùng công.Biết bao nhiêu chuyện đau lòng,Xuân sinh lưu lạc, Sơn-đông cách vời.Một phen nói, một bồi hồi,Bâng khuâng cố quận, ngậm ngùi thiên lao.Phu nhân khuyên giải thấp cao.Cùng thôi nước mắt, lại vào tiệc hoa.

Tin kinh bỗng thấy đưa ra:Châu công thăng chức hiệu là thị lang.Chỉ ban về lễ từ đường,Chàng ra mười dặm, đình trường đón xa.Ngó trông rợp bóng quan hà,Thẻ bài phụng chỉ ngọn cờ vinh hương.Giáp nhau ông đã gặp chường,Song song đôi ngựa, trỏ đường cố gia.Thu quân hồi trống vào nhà,Treo yên vách phấn, cắm cờ giá son.Vào trong thong thả ôn tồn,Một nhà thầy, tớ, vợ con laỵ mừng.Trong nhà nhộn nhịp tưng bừng, ầm ầm thiều nhạc, lẫy lừng tiệc hoa.phu nhân giả cách lơ mơ,Truyền đòi đệ nhất tiểu thư ra hầu.Ông rằng: "Khéo lẽ giấu nhau,"Hiếm hoi một gái lấy đâu nhất nhì?"Hạnh Nguyên ra trước lạy quỳ,Nỗi nàng, bà kể mọi bề gian truân:"Nghĩ rằng xa, chẳng là gần,"Ai hay con gái bác Trần Đông Sơ!"Tơ đào nghĩ những bao giờ,"Nhân duyên sớm định về nhà họ Mai."Hôm xưa lắm chuyện nực cười,"Kẻ trong nhận của, người ngoài mất thoa."Hai buồng gang tấc nên xa,"Thất tình bệnh đã hoá ra mấy ngày."Tỏ ra mười mấy hôm nay,"Bên kia nhận vợ, bên nay nhận chồng".Ông nghe thấu hết sự lòng,Cả cười, mới dạy rằng: "Trong đạo trời,"May ta gặp cả hoà hai,"Trọn tình bè bạn, được người thi thư."Nghĩ chăng, dở một nỗi nhà,"Tính vào thế ấy, hoá ra thế này!"Bà rằng: "Tôi cũng nghĩ đây,"Xưa nay đôi quả một tay cũng nhiều."Vả trong hai ả tiểu kiều,"Mười phần xem đã tính yêu cả mười." Bấy nay hình ảnh chẳng rời,"Thờ chung quân tử một người cũng nên."Mai sinh nghĩa cả chưa đền,

"Phỏng chừng ép uổng cũng nên một lòng".Châu công nghe nói thuỷ chung,Liền ra tiệc ngọc thư phòng với sinh.Lòng chàng nghe đã tỏ tình,Lẽ nào giấu quẩn giấu quanh được rày!Thưa rằng: "Chút phận hèn ngây,"Bấy nay giả dối tội rày đã cam".Ông rằng: "Việc tỉnh Hà-nam,"Bấy nay cậy một tay làm biết bao?"Kinh luân đã tỏ tài cao,"Thớ cong, rễ quánh, thủ dao long tuyền."Hiếm hoi chút gái vụng hèn,"Nâng khăn, sửa túi, xin yên phận nhờ".Sinh rằng: "Nguyệt lão xe tơ,"Nhân duyên đã định Trần gia những ngày."Làm chi bể ái vơi đầy,"Hạ đường dám luỵ, tiếng này đến ai?"Vả con hổ phận bất tài,"Tấc lòng e chửa xứng ngôi đông sàng".Ông rằng: "Thôi chớ rẫy ruồng,"Nhà ngu xưa có Nga Hoàng, Nữ Anh."Trượng phu dù quyết hẹp tình,"Thẹn thay phụ tấm lòng thành lão nô".Chàng nghe lạy trước thềm hoa,Xưa còn gia khách nay ra thân tình, IVNăm mây nghe chiếu rành rành.Thi hương, thi hội, thi đình một phen.Bàn rồi dường lẽ chưa yên,Chấp kinh cứ thực họ tên sao đành.Sổ dâng quán chỉ Đại-danh,Quyển đề họ Mục, tên Vinh vào trường.Đua tài tỉnh thí, khoa hương,Bảng đầu đã rõ tên chàng Mục Vinh.Phủ Châu mừng rỡ linh đình,Hết lòng sắm sửa tiến kinh cho chàng.Chân hề, dong ruổi dặm tràng,Đứa đeo thơ túi, đứa mang rượu bầu.Mấy tuần gióng giả vó câu,Tràng-an trông đã thoắt đâu tới gần.Tớ thầy tìm chốn chứa chân,Chờ ngày nhảy sóng, đợi tuần hoá long.

Chen vai tài tử, danh công,Kẻ toan bẻ quế, người hòng tung mây.Qui mô, trường ốc ai xây?Chia khu thập đạo, rào vây bốn thành.Ba bề chín cửa thênh thênh,Cột huyền bảng thẳng, cây đình liệu cao.Cậy tài sinh cũng xem sao,Vũ-môn ba đợt sóng đào xem kinh.Lại còn một nỗi Xuân sinh,Khâu Khôi đã đổi tính danh những ngày.Hà-nam nhập bạ phen này, Đỗ hương cũng định ngày rày tiến kinh.Mấy tuần vừa tới đô thành,Trời kia xui khiến hai sinh đỗ đầu.Cửa Phùng đô sát gặp nhau, Người tầm mẫu cữu, kẻ cầu ân sư.Quân hầu vâng dặn vào thưa,Mời hai sinh hãy ngồi nhà nghênh tân.Kìa thì Mai, nọ thì Trần,Buâng khuâng suốt buổi, tần ngần giờ lâu.Khóc than kể hết chuyện nhau,Hợp tan mấy độ, trước sau mấy từng.Tỏ tường chân tóc, kẽ răng,Kẻ mừng chị sống, người mừng mẹ yên.Hay đâu đô sát Lạc Thiên,Chiếu ra chủ khảo cầm quyền chưởng văn,Biết đâu truyền gọi gia nhân,Vâng lời ra quán nghênh tân đón vào.Phùng công mừng rỡ xiết bao,Hai sinh kể hết tiêu hao chuyện mình.Ông rằng: "Gác chuyện gia tình,"Trường quan, cống sĩ có hình hiềm nghi."Ra ngoài hãy đợi trường kỳ,"Nhờ trời khi dễ việc gì cũng xong".Hai chàng bái tạ Phùng công,Ra chùa Tướng quốc, trú chung một phường.Nhân khi vắng vẻ đêm trường,Tỏ nguồn cơn trước, kể đường đất xưa. Mới hay những kẻ tài hoa,Bảng vàng trời đã đợi chờ cho ai.Một phen hội thí đua tài,Giọng văn tú khẩu, hơi bài cẩm tâm.

Quan trường công chính không lầm,Khéo thay mực nẩy, cân cầm chẳng sai.Bảng treo trên đã rõ mười,Mục Vinh thứ nhất, Khâu Khôi thứ nhì.Văn trường đã định nhật kỳ,Vừa xong thi hội, lại thi đình liền.Thoả lòng văn nhẹ như tên,Tài hay có tám, sức lên đến mười.Ưu phân đáng giá tam khôi,Mới hay trời có chiều người khi nên.Phán truyền họ Mục, trạng nguyên,Họ Khâu, bảng nhãn, hai tên rành rành.Thiên ân ban trước phong đình,Ba tuần ngự tửu, hai cành cung hoa.Hương trời, lộc nước phấn vua,Rỡ ràng bông mãng, lập loà vàng đai.Ba ngày thượng mã du nhai,Lòng vua ưu hậu, mắt người quan chiêm.Vẻ vang gấm lại hoa thêm,Thoả lòng bẻ quế cung thiềm bấy lâu. Tân khoa một lũ trước sau,Cùng sang tướng phủ vào hầu Lư công.Tạ từ ai nấy ra xong,Mời riêng Bảng nhãn vào trong gác ngồi.Khoản trà lễ mạo hẳn hoi,Dập dìu sớm đã cho mời Hoàng Tung.Giả điều vua triệu tướng công,Khâu, Hoàng ngồi lại vui trong chén quỳnh.Tung rằng: "Hai chữ khoa danh,"Tướng công đây những hậu tình quá yêu."Buồng hương có ả tiểu kiều,"Sàng đông cũng rắp toan điều cầu thân."Thôi thì dư thế, dư thần,"Quan sang, chức trọng mười phân đến chàng."Khâu sinh cười nói, thưa rằng:"Tình người quyến cố xem bằng bể non."Duyên này đã định tao khang,"Có đâu phụ nghĩa, tham sang lẽ nào!"Tung rằng: Khéo chấp nê sao,"Xưa nay đổi vợ biết bao nhiêu người?"Con người sắc nước hương trời,"Quá thương khi đã ngỏ lời dễ đâu.

"Cạn lòng dễ chẳng nghĩ sâu,"Ăn năn e nữa đến sau lạy mình".Sinh nghe mấy tiếng dỗ dành,Đùng đùng nổi giận, bất bình khêu gan.Mắng rằng: "Một lũ quyền gian,"Nhơ mình chưa chán, lại toan hại người!"Mình đà là phận con nuôi,"Nửa con hòng lại dắt ai vào tròng ."Ta đây một tấm lòng trung,"Quyết đem giãi trước mặt rồng có phen."Thề không dung kẻ quyền gian ,"Vì dân trừ hại mới nên anh tài."Khéo thay mối lái cũng đòi,"Vo ve tiếng Trịnh nhàm tai phượng hoàng".Nói rồi lên kiệu vội vàng,Trở về vừa đến nửa đường nghĩ ra:"Ăn năn chút chửa xem cơ, "Thôi thôi! nóng giận đến ta là cùng."Lánh đi nếu chẳng quyết lòng,"Chân loan chưa dễ lọt vòng lưới gian".Bàn riêng hai lẽ vừa an,Thoắt đà đổi áo thay quan lánh mình.Chuyện chàng đồn dậy kinh thành,Gần xa ai cũng biết tình từ hôn.Lư công nổi giận ồn ồn,Kíp sai binh mã đổ dồn tìm quanh.Cách xa mười dặm ngoài thành,Thấy chàng thoắt đã giao binh điệu về.Kể khoan, kể nhặt mọi bề,Rằng khinh phép nước, rằng chê lộc trời.Truyền đem giam cấm một nơi,Luận xong tội ấy, ngày mai tiến trình. Trường quan nghe tỏ phong thanh,Hòng làm sớ tấu giãi tình Khâu Khôi.Lòng người vốn sẵn lẽ trời,Mới hay trọng đạo ai ai cũng lòng.Bấy giờ hội thí vừa xong,Các phương sĩ tử còn đông kinh thành.Bực mình hai chữ công danh,Về nhà thẹn mặt, xuất hành ngại chân.Tam khôi mừng những đắc nhân,Nghe tin nhủ bảo xa gần thiếu ai.

Họp hành bàn bạc mấy lời,Giận ai ép uổng, thương người oan khiên.Việc này nhẫn nhục sao yên,Bè gian rồi nữa lộng quyền đến đâu?Lấn cành tầm gửi chẳng lâu,Người kia trước, chúng ta sau cũng vừa.Thôi thì ta lại vì ta,Nhẹ mình nặng nghĩa mới là trượng phu.Kẻ rằng xin chớ hồ đồ,Đón đường ta hãy sửa cho một hồi.Làm cho gian đảng đi đời,Hãy khoan văn bút, thử chơi vũ bài.Ở đâu thấy một người quen.Thưa rằng: "Việc ấy vẹn tuyền chớ nghi ."Phỏng mà có đến lẽ gì,"Đầu đoàn chuyện ấy, em thì xin đương."Vả em chút phận lỡ làng,"Tên thi vừa hỏng tư lương cạn rồi."Về nhà thân thích không ai,"Xin liều thân ấy, cứu người khôi khoa"Được lời như mở lòng ra,Kéo nhau một lũ vào toà Phùng công.Lạy rồi thưa hết thuỷ chung.Ông vừa thảo sớ để hòng vào tâu.Khen rằng: "Sao khéo bảo nhau,"Việc là việc nghĩa lẽ đâu bảo đừng."Chỉ e tai vách mạch rừng ,"Làm cho kín mít như bưng mới là".Vâng lời ai nấy trở ra,Hẹn nhau chừng nửa canh ba đón đường,Xin cho bắt được Lư, Hoàng,Đừng phân trái phải hãy toan đánh đòn.Rày đừng vây cánh cha con,Gian mưu đứt nọc, xảo ngôn hết nghề.Đã đành tội hữu sở qui,Rồi ra, ra đến chữ gì thì ra.Kẻ rằng: "E lũ chúng ta,"Người gần, còn có người xa, ngại ngần."Xin về một chốn trú chân,"Nhà tôi trọ đấy cũng gần Ngọ môn."Buổi chiều xe ngựa ồn ồn."Tiện đường đón đấy, nghỉ khôn lên trời".Cùng nhau miệng nói chân dời.

Sẵn nhà cùng ở một nơi đợi chờ.Lặng nghe canh đã sang ba,Kiệu đâu một lũ trông ra ngoài trường.Phùng công kiệu trước thét đường,Kiệu sau Đảng, Lục với chàng tân khoa.bảo nhau hai dãy dẹp ra,Kiệu đâu sau thấy xa xa đến liền.Tiền hô hậu ủng chật lèn,Phủ Lư mới tỏ hiệu đèn là đây.Hai bên chực sẵn đã đầy,Kẻ săn tay áo, người day cánh đoàiNgười bẻ lọng, kẻ giằng roi,ầm ầm hơi giận, hồi hồi tiếng la.Xúm quanh trước kiệu hỏi qua:Khâu Khôi, bảng nhãn tân khoa tội gì?Quyền như chú, chắc mạnh bè,Vu oan cho kẻ trung nghì được chưa?Bốn bên trận đánh như mưa,Xé tan xương nịnh, ngay đờ mặt gian.Trận đòn hội chợ ai can?Bướm bay giấy lọng, kiến tan lũ hầu.Hoàng Tung kiệu đã đến sau,Người kéo tóc, kẻ giằng đầu, xúm quanh.Mảnh xiêm, mảnh mãng tan tành,Tối tăm mắt nịnh, thất kinh hồn tà.Mới hay nhất quỷ nhì ma,Học trò đến bậc thứ ba thật là.Người kêu dưỡng tử cứu cha,Kẻ kêu nghĩa phụ, ân gia cứu mình.Tưng tưng trời mới bình minh,Đường hoàng ngự trước phong đình phân ban.Lư, Hoàng thoát khỏi vòng oan,Bưng đầu theo lũ bách quan vào quì.Gượng đau, lạy trước đan trì,Áo tươm tướp rách, mặt bì bì sưng.Khóc than rền rĩ tâu rằng:"Khâu Khôi hôm nọ tự dưng bôn đào,"Bắt về chưa kịp tâu vào,"Hai quan chủ khảo sắp mưu hại người."Họp hàng sĩ tử một nơi,"Đón đường, đánh đánh, lôi lôi một hồi."Cao minh xin tỏ đèn trời,"Tra người trái phép, hỏi người mưu gian".

Phán rằng: "Người hãy ngồi an,"Còn tra dù thực, dù gian rạch ròi".Chỉ đòi Phùng, Đảng hai người:"Làm sao tâu thực mấy lời được hayTâu rằng: "Chút phận hèn ngây,"Dám cho được dự khoa này chưởng văn."Đêm ngày lo lắng muôn phần,"Di tài những sợ đắc nhân là mừng."Gieo cho những tiếng hay chăng,"Xét soi nhật nguyệt đôi vầng xin thương."Phường thi hỏng với quan trường,"Con chi tình diện toan đường giao thông."Chực ngoài lũ ấy còn đông,"Dám xin tra thấu thuỷ chung được nhờ".Tiếng vàng sang sảng ban ra,Đòi vào sĩ tử hỏi qua tình đầu.Bước vào một lũ theo nhau,Dưới sân kẻ trước, người sau, lạy quì.Phán rằng: "Trong chốn trường qui,"Làm điều bất pháp tội thì tại ai?"Muôn tâu: "Hổ phận bất tài,"Tranh lèo, giật giải, nhường người quyết khoa."Nghĩ trong tảo vãn cũng là,"Bằng bay, côn nhảy còn chờ hội sau."Phép vua, lời thánh để đâu?"Tay cầm bìa sách, dám hầu phi vi?"Việc này lắm mối gian khi,"Dám xin tâu dưới đan trì đầu đuôi:"Khoa này bảng nhãn Khâu Khôi,"Bậc người khoa giáp, vẻ người phong lưu."Hôm xưa tướng phủ mới vào,"Khoe con má phấn, ướm trao chỉ hồng."Tân khoa một mực rằng không,"Dám tham phú quí, phụ lòng tao khang."Tâng công bởi tại họ Hoàng,"Quyết đường ép uổng, xui đường phân chia."Sợ vì phép, khiếp vì uy."Tân khoa mới phải tìm đi lánh mình."Nào còn dám tưởng công danh,"Lư công biết thóp sai binh nã về."Làm cho bõ lúc từ qui,"Vu cho phi pháp toan bề tâu gian."Chúng tôi cả quyết làm đơn,

"Muốn vì bảng nhãn lo toan giãi bày."Nào ngờ tướng phủ đã hay,"Canh khuya đuổi đánh, toan bày mưu gian,"Làm ra vứt mũ, xé tàn,"Cào mình, rạch mặt, vu oan cho người","Ngự nghe thấu hết đầu đuôi,"Lư, Hoàng khi ấy những lời tâu sai."Phán rằng: "Những chúng vô loài,"Thương con, kén rể, bức người ép duyên"."Lư tâu rằng: "Việc nhỏ nhen,"Tình riêng nhi nữ lọ phiền hỏi han?"Chàng kia vô phép khi quan"Lũ kia đấu ẩu xin ban nghị hình".Ngự nghe thấu hết mọi tình.Tức thì nổi giận lôi đình bởi đâu.Phán rằng: "Gian đảng hợp nhau,"Dối trên hại dưới bấy lâu thông đồng."Thử xem lòng lại hỏi lòng,"Thẹn chưng mũ áo, hổ cùng cân đai."Nhàm tai, chẳng nói chi dài,"Giao Tam pháp nghị, rạch ròi sẽ tâu."Phùng công đô sát làm đầu,Thứ nhì Đại lý, đến sau bộ Hình.Ba toà ngồi trước cung đình,Nha môn chực dưới, long đình đặt trên.Kia thì bị, nọ thì nguyên,Một bên sĩ tử, một bên Lư, Hoàng.Nọc roi, sắp sẵn hai hàng,Sai vào ngục viện đòi chàng Khâu Khôi.Phùng công dạy trước mấy lời:"Chào Lư thái phó, đầu đuôi đồng từ!"Lư công nói hãy lờ đờ:"Tôi cùng ba bác có là người đâu?"Tờ bồi ráo riết chi nhau,"Rồi ra, tình diện về sau còn dài."Quan rằng: "Nói cũng lạ đời,"Tình trong đã vậy, lý ngoài làm sao."Ép duyên sai bắt thế nào?"Việc rành rành, phải đem vào lời cung".Lư rằng: "Việc ép thì không,"Con đây chưa dễ sàng đông thiếu người?"Còn như chuyện bắt Khâu Khôi,"Xưa nay quen vẫn làm rồi mới tâu"

Ông rằng: "Binh sự là đầu,"Đạo làm thần tử dám hầu tự chuyên?"Khi quân tội ấy đã nên,"Lại còn nhắc chuyện lộng quyền phi vi."Bá Cao chết tại tội gì?"Đông Sơ bỏ ngục, tội thì tại ai?"Lư rằng: "Sao kể đường dài,"Hãy cho xong án Khâu Khôi đã mà!"Bá Cao với lại Đông Sơ,"Tội làm trở đậu quân cơ bấy giờ."Trọng khinh là bởi lượng vua,"Như đây có dự chi mà can liên".Ông rằng: "Liệu đấy mà xem,"Nếu còn già miệng thì nên mất lòng!"Còn đương tra hỏi chưa xong,Trông ra đã thấy quan trong, họ Hoàng.Đem vào đặt trước sảnh đường.Long côn một chiếc, niêm hoàng một chương.Ba toà tiếp chỉ vội vàng,Mấy lời ỏn ẻn họ Hoàng đã thưa:"Này đồ phụng chỉ ban ra,"Sao cho tận pháp mới là công minh."Già tay xin chớ ngại tình,"Phen này hai mạng súc sinh đi đời".Phùng công hỏi thử mấy lời,Rỉ tai Hoàng mới khúc nôi kể bày.Thưa rằng: "Tôi đã tỏ đây,"Đông cung nghĩ chút đạo thầy, toan bênh."Mặt rồng nổi giận lôi đình,"Buộc công pháp lại, gác tình riêng ra."Thôi thì trời cũng chẳng xa,"Xưa nay hãm hại người ta đã đầy".Nói rồi nắm miệng, day tay,Trông Lư Kỷ, lại rút giầy ném theo. Hung hăng mắng ít nhiếc nhiều.Còn the thé giọng, toan điều nọ kia.Phùng công, khêu gợi tỉ tê:"Bõ kia dường có thù gì với ai."Tội đâu có phép đấy rồi,"Can chi mà cứ xơi xơi nhọc mình".Mặt còn men mét xám xanh,Được lời, Hoàng mới kể tình xa xưa:

"Rằng tôi có chút cháu nhà,"Lỵ Giang-tây đạo, tên là Thái Câu."Chứng oan mắc phải mưu sâu,"Cũng vì thanh giản lấy đâu nhân tình?"Giặc Hoàng Thổ trấn dấy binh,"Án thông phỉ ấy, đã dành cho ngay."Kiến bò miệng chén mau thay"Mưu kia đã lắm, vạ này cũng thâm".Họ Hoàng quen nói thâm trầm,Ngoài thơn thớt miệng, trong tâm ngẩm lòng.Cắm gần sẵn chiếc roi đồng,Dang tay đã diệt Hoàng Tung một hồi.Bước ra còn nói mấy lời:"Thiên vàn khảo đến một hai cho cùng Ông rằng: "phải việc nói không,"Lòng người là sắt, phép công là lò."Bây giờ còn dám quanh co."Truyền đòi Hình bộ, hãy cho giở nghề".Dạ rân sát sạt xa nghe,Kẻ giăng thẳng nọc, người vì vụt roi ,Một sân thịt nát, xương rơiNgất đi một lúc, lại hồi mấy phen.Lư, Hoàng biết thế khôn. kiên ,Xin khoan roi, để việc liền chiêu ra.Mai, Trần hai án ngày xưa,Khâu Khôi một án bây giờ, chịu oan .Ba toà một mực truyền ban,Sai nghiên bút, lấy cung đoan mấy tờ.Phùng công truyền phó canh giờ,Rồi đem án tấu, đợi chờ xử phân.Kíp về tư thất dời chân,Mời chàng Mai với chàng Xuân dặn dò.Trời đà chứng kẻ oan vu,Trừ gian may lại phục thù sẵn cơ .Mặt rồng gang tấc không xa,Giãi tình oan khuất, hoạ nhờ thiên ân.Vâng lời dặn dỗ ân cần,Hai chàng thảo sẵn sớ văn hai bài. Buổi chiều vừa rạng ngày ma,Hơn trăm sĩ tử chực ngoài hành lang.Phùng công tâu án Lư, Hoàng.Phân minh trạng cáo , rõ ràng tờ cung

Vua Đường xem hết thuỷ chung,Phán rằng: "Gian tặc thông đồng bấy nay,"Bá Cao oan uổng thương thay!"Đông Sơ bỏ ngục, nào hay tội gì?"Cửu trùng hạ chỉ tức thì:Họ Trần tha tội, lại về chức xưa.Mai công oan khuất xót xa,Chẳng hay con cái bây giờ còn ai?Phùng công tâu trước mấy lời:"Truyện nhi chân, giả đèn trời xin soi."Trạng nguyên ấy thực họ Mai."Mà khâu bảng nhãn hẳn hoi họ Trần".Phán rằng: "Một cửa trung thần,"Truyền cho hai gã vào trong đan trì".Lễ rồi, trước điện đều quì,Bạch oan sẵn sớ tức thì dâng lên.Vua Đường xem hết sự duyên,Phán rằng: "Tung, Kỷ hại hiền bấy lâu,Thời đem chính pháp bêu đầu".Trạng nguyên, bảng nhãn đứng chầu đôi bênBan cho phục họ, phục tên,Cao minh muôn đội ơn trên chín lần.Suy ra mới biết trời gần,chính tà một bụng, quỉ thần hai vai.Gian thần chưa chắc nẩy chồi,Núi băng khi thấy mặt trời hẳn tan.Trung trinh dẫu có mắc oan,Vẫn trơ cây cứng, không chồn gió lay.Về sau ngay lại ra ngay,Khỏi tuần hoạn nạn, đến ngày hiển vinh.Lư, Hoàng tội đã đáng tình,Đem ra chính pháp, hành hình một dây.Tan tành thịt nát xương bay,Nắng bêu mặt nịnh, đất rây máu tà.Chán lời kẻ lại người qua:Bây giờ thế ấy, thuở xưa thế nào?Trần công ra khỏi thiên lao,Ngọ môn chực sẵn đã vào tạ ân.Phùng công mừng rỡ cố nhân,Mời về tư thất ân cần thở than.Rể con sum họp một đoàn,Người than chuyện trước, kẻ bàn nỗi xưa.Nhớ nhung kẽ tóc chân tơ,

Gian nan là mấy, nương nhờ những đâu?Bao nhiêu tân khổ bấy lâu,Giật mình đòi lúc, lắc đầu đòi phen.Khi nên mọi việc mọi nên,Chiếu trời đâu đã tốc truyền tới nơi.Định ngày tứ tế họ Mai,Phong làm Thái bảo, dựng bài liệt trungTrạng nguyên với lại Trần, Phùng,Ban quyền học sĩ dự vòng yếu thanh.Còn như bảng nhãn Xuân sinh,Làm đô ngự sử, quyền hành hạch tâu.Họ Trần, họ Đảng, họ Khâu,Trật gia tam cấp đợi sau kén dùng.Vợ Mai công, vợ Trần công,Lại cùng Trần Hạnh lại cùng Vân Anh.Phu nhân nhất phẩm là vinh,Khen cho chữ nghĩa, chữ trinh một nhà.Vân Tiên với lại Ngọc thư,Phẩm đề đệ nhị, cũng là phu nhân.Mai công khai táng đến tuần,Hoàng thân tế điện, triều thần trợ nghi.Trạng nguyên nhân tiện đường đi,Duyên đồ hộ tống về quê châu thường.Lại ban tuần thú bốn phương,Ấn vàng một quả, kiếm vàng một thanh.Một mình quyền được tiện hành,Thẳng tay tẩy mực, công bình cầm cân.Lại cho về việc đại tuần,Hoàn hôn ngự tứ nghênh thân một ngày.Lắng nghe rõ chiếu năm mây,Hai chàng vào trước, lạy bày tạ ân.Xem ngày tứ tế đã gần,Cho tin báo trước tăng nhân dọn chùa.Trạng nguyên mặc áo thôi ma,Trước vào lễ phật, sau ra tảo phần.Điển nghi khắp mặt triều thần,Một tờ dụ chỉ, ba tuần rượu hoa,Cột kết thái, trướng rủ là,Đèn gần chong sáng, đỉnh xa bay trầm.Trống trang nghiêm, nhạc bát âm,Mấy mâm sinh lế mấy mâm tư thình.Sống trung liệt, thác anh linh,Suối vàng thơm phách, mây xanh thoả hồn.

Đã đành trung hiếu nhất môn,Ơn vua nhuần gội, tiếng con rỡ ràng.Tế rồi linh cữu lên đường,Lĩnh gươm vàng với ấn vàng ra đi .Tạ ân vào trước tâu quì:"Việc công đâu dám bận chi tư tình ,"Tưởng khi lánh nạn băng miền,"Theo chân cậy có một tên Hỉ đồng."Nghĩ trong thầy tớ xét công,"Mấy cơn nguy hiểm, mấy vòng gian nan."Tìm vào nhạc phụ Hầu Loan,"Hay đâu cũng với quyền gian một lòng."Cũng toan bắt nộp lấy công,"Giả hình khi ấy Hỉ đồng đỡ thay." Rày nhờ rộng bước đường mây,"Ngậm ngùi đạo tớ, nghĩa thầy chưa yên ."Móc mưa xin tưới cửu tuyền,"Gọi là tinh biểu để đền chút công".Vua Đường nghe hết thuỷ chung,Khen rằng tiết nghĩa, hiếu trung một nhà.Của kho ban dựng miếu thờ,Chức ban thất phẩm gọi là tặng phong.Tạ từ năm lạy đền rồngTrở ra rước cữu Mai công xuống thuyền.Tiễn đưa xe ngựa như nêm,Trống ran mặt đất, cờ liền bóng sông.Đồ hiếu sự, vẻ quân dung,Sông lồng giới trượng, gió tung biển kỳ.Đến đâu quyền được tiện nghi,Một tay thưởng phạt, hai bề công minh. Lần lần gió mát trăng thanhThuyền đà tới phủ Đại-danh bao giờ.Một vài thầy tớ lên bờ,Dân tình lại tệ, giả mà , hỏi chơi.Khác hình ai biết là ai,Đi lần bỗng thấy một nơi có chùa.Cửa ngoài thấy có niêm tờ,Phủ nha nghiêm cấm kẻ ra người vào.Nghĩ riêng chưa biết làm sao,Xưa nay cửa bụt dễ nào hẹp ai?May sao gặp lúc vắng người,Dời chân sẽ lẻn vào nơi hậu đường.

Thấy trong thờ phụng một giường.Trông lên bài vị rõ ràng Lư công.Thái sư chức tước đề trong,Chữ "Hầu Loan Phụng" một giòng đề bênCầm tay cất lấy về liền,Cười rằng cấm cách nhân duyên thế này!Về thuyền, quân đã sắp bày,Vào toà sát viện sai ngay đi đòi.Nghe quan tuần phủ đến nơi,Hầu Loan mình đã bồ hôi ướt nhoè.Mấy lời truyền hỏi xa nghe:"Viên kia có mất của gì biết chưa?"Đồn rằng có ả tiểu thư,"Đông sàng ngôi ấy bây giờ là ai?"Loan nghe chưa hết đầu đuôi,Run run, sợ sợ, mở lời không ra.Thưa rằng: "Có chút gái thơ,"Mấy năm trước đã chơi xa suối vàng."Chức ti phận tiểu tầm thường,"Chẳng hay thượng hiến sao tường duyên do."Lên mừng chậm chạp già nô (nua),"Dám xin thượng hiến thứ cho được nhờ".Quở rằng: Lộc nước cơm vua,"Còn lo thất hiếu mà thờ họ Lư!"Cả gan còn dám quanh co,"Chứ thì bài vị sau chùa tên ai?"Nghi-trưng những chuyện mới rồi,"Bấy giờ bắt nộp họ Mai công gì?"A dua chắc những mạnh bè,"Ai hay quyền ấy lại về tay ai?"Ruổi mau lệnh tiễn kỳ bài,"Đem ra chính pháp, răn người vô lương"Oai trời một lưới tứ phương,Rung gan đảng nịnh, ghê xương lũ tà.Gần gần đã thấu tin nhà,Châu công đã khiến người ra đón mời.Quan quân sắm sửa tơi bời,Cờ giăng nhất tự, trống hồi tam liên.Biển vàng "Tuần thú đại thiên",Một bên bảo kiếm, một bên lệnh bài.Phủ châu thoắt đã tới nơi,Châu công ra đón cửa ngoài mừng vui.Phấn vua vẻ rạng cân đai,

Hà-nam gia khách vẫn người ngày xưa.Quan cựu lại, bậc tân khoa,Tình nhạc phụ, nghĩa ân gia vuông tròn.Tiệc rồi giãi chuyện hàn ôn,Gấm chen vẻ quý, rượu ngon giọng tình.Sinh rằng: "Nhờ phận khoa danh,"Quốc gia ơn rộng, môn đình thơm lây."Chiếu trời đã tỏ năm mây,"Xong tuần đại thú, đến ngày nghênh thân."Khâm kỳ nghe đã gần gần"Một nhà xin liệu, định tuần lai kinh"Bước vào làm lễ gia đình,Tạ từ sinh đã khởi trình trẩy ra.Tình cố hữu, nghĩa thông gia,Ông đà sửa lễ, cho đưa theo thuyền.Xuôi dòng nước chảy như tên,Buồm dong thoắt đã tới miền Thường-châu.Gieo neo kề bến mã đầu,Sửa sang nhà trước, vườn sau mấy tuần.Cho tin đi đón mẫu thân,Sơn-đông nhà cậu cũng gần chẳng xa.Mấy ngày bà đã tới nhà,Ruột vò chín khúc, lệ sa đôi hàng.Vật mình lăn trước linh sàng,Khúc oan kể lể, nỗi thương ngậm ngùi.Nhìn chàng, than thở mấy lời,Nghĩa sâu mẫu tử, tình dài biệt ly.Ôm quan khóc lóc nằn nì,Nghĩa phu phụ những nặng vì nước non.Thảm chồng thôi lại mừng con,Thức cười nước mắt, ngủ hồn chiêm bao.Sinh rằng: "Chín chữ cù lao,"Bể sâu mấy trượng, trời cao mấy trùng."Bấy lâu nam bắc tây đông."Bước chân xa cách, tấc lòng quặn đau."Trời cho rày được tụ đầu,"Nợ xưa nhẹ gánh, phúc sau đền phần."Con vâng vương mệnh tại thân,"Vinh qui, hồi táng, đại tuần, một phen."Rồi đây táng tế cho yên,"Mẫu thân xin rước xuống thuyền lai kinh."Chẳng lâu con cũng khởi trình "Trước lầu ngũ phượng đại thành lễ thân".

Mấy ngày táng sự đến tuần,Đã tìm đất tốt phong phần một nơi,Chiếc bia "trung liệt" dựng ngoài,Đá xanh tạc lấy được ngày treo trên.Thành phần nóc rạp kéo lên,Ba vòng dáo đóng, hai bên thái kỳ.Tầng trong bày đặt uy nghi,Ngậm tăm hơi miệng, kéo rề bước chân.Tiêu thiều nhã nhạc xa gần,Tam huyền nhịp nhặt, song vần tiếng khoan.Đồ điếu phúng, lễ ngự ban,Mấy mâm ngũ thục , mấy bàn tam sinhChữ vàng đề trước minh tinh,Đường triều thái bảo chính danh rõ ràng.Quan quân tiễn kiệu kéo hàng,Hạ liêu mấy lũ, bộ đường mấy ban.Trạng nguyên đi trước phù quan,Phu nhân nối kiệu buông màn phương du.Lập lăng mấy gốc tùng thu.Một vùng sảng khải đắp mồ ngưu miên.Bấy lâu táng lễ vừa yên,Phu nhân đã giục xuống thuyền đi kinh.Trạng nguyên cứ việc tuần hành,Nghi-trưng vừa mới nhật trình tới ngay.Lạ quen cũng một miền này,Sao xưa trốn tránh mà rày hiển dương?Thoảng qua sực nhớ mọi đường,Chợt lòng lại động tấm thương Hỉ đồng.Tra ra tri huyện Sử công,Môn sinh Lư Kỷ cũng vòng quyền gian.Sá chi mọn mạy sẻ đàn,Nhiêu cho tính mệnh lại hoàn thứ nhân.Công lênh nhớ đến Đồ Thân,Cho làm huyện lệnh đền ân tấm lòng.Bắc môn ghi mả Hỉ đồng,Dựng bia đá, lấy sắc phong tạc liền.Lại truyền sửa rạp một bên,Trước mồ tế điện một phen thân hành. Khóc than kể hết mọi tình:"Có công danh ấy vì mình nhớ ai."Vì ta trót đã thiệt rồi ,"Đền công ta cũng nhớ lời khấn xưa".

Băn khoăn đường đất cách xa,Giao Đồ Thân tự bấy giờ giữ coi.Mai sau kế tự còn dài,Họ Đồ nhường lại một người họ Vương.Gọi là phụng sự khói hương,ấy là trọn hết mọi đường thuỷ chung,Đồ Thân vâng dạy ghi lòng,Đem con để nạp Hỉ đồng họ Vương.Lại tìm đến chốn phật đường,Truyền đem áo tía, xe vàng đón sư.Tái sinh may có ơn xưa,Khấu đầu bách bái tạ thưa mấy lời.Chàng từ ân oán rạch ròi,Cất không gánh nặng, tát vơi bể sầu.Tuần hành mọi chốn đâu đâu,Trong lòng phép nước, trên đầu ơn vua.Công không sót, tội không tha,Phân hào chẳng lẫn, tóc tơ nào lầm.Mấy phen mực nẩy, cân cầm,Trong veo lại tệ, nổi bồng dân ca. Lần lần đông lại xuân qua,Một vòng tuần thú tính đà khắp quanh.Định ngày phụng mệnh lai kinh,Sớ văn một tập hiện thành tâu lên.Chín lần đã động tiếng khen,Tấc lòng công chính, mấy phen nhọc nhằn.Trên vì nước, dưới vì dân,Ban cho cực phẩm tể thần đền công.Truyền Khâm thiên giám hội đồng,Chọn ngày đại cát động phòng nghênh thân.Trạng nguyên thay áo tể thần,Dưới thềm năm lạy tạ ân khấu đầu.Nhàn chơi lui tới thiếu đâu,Phủ Trần đi lại, phủ Khâu ra vào.Trời xuân minh mị thế nào,Lưỡi oanh ríu rít, bông đào so le,Phượng lâu sắp sẵn lễ nghi,Khâm thiên đã định nhật kỳ tư ra.Tháng ba vừa bữa mồng ba,Là ngày hoàng đạo, là giờ thiên ân.Xiết bao khí ngoạn kim ngân,Phủ Mai lĩnh trước, phủ trần lĩnh sau.

Bạc, vàng, ngà, ngọc thiếu đâu,Cung hương, mã não, minh châu, mấy bàn.Rỡ ràng phẩm phục mới ban,Mãng bào hai bộ, hoa quan bốn toà.Hôm sau vừa rạng mồng ba, Cao cao lầu phượng, xa xa mặt rồng.Ngai vàng thăm thẳm bên trong,Bách quan văn võ hội đồng bấy lâu.Trạng nguyên trước, Bảng nhãn sau.Yết câu vạn tuế, khấu đầu lạy xa.Ban cho ngự tửu, cung hoa,Hai yên ngựa trước, bốn toà kiệu sau.Trước sau phân đạo ruổi mau,Phủ Trần nhộn nhịp, phủ Trâu linh đình.Thiếu gì vẻ quý màu thanh,Rỡ ràng kết thái, rập rình trương đăng.Hai bên tiếp đãi tưng bừng,Nhạc râm rỉ vỗ, hương lừng lẫy xông. Việc riêng thu xếp cũng xong ,Châu công đã hợp Trần công một nhà.Mai sinh lạy bốn ông bà,Bên là công đẻ, bên là công nuôi.Vân Anh, Trần Hạnh hai người,Cung trang sắm sửa cùng ngồi kiệu hoa.Bên kia Khâu phủ xa xa,Xuân sinh dóng ngựa cũng vừa tới nơi.Ông bà Khâu thị cùng ngồi,Chàng vào tám lễ, lễ rồi bước ra,Giường bên bốn lậy Ngư bà,Tình là bán tử, nghĩa là tái sinh.Vân Tiên, Châu Ngọc sắm sanh,Kiệu đà ghé bến trước bình cùng lên,Vừa xong lễ sính đôi bên,Trước sau một lũ kéo liền thẳng dong.Trạng nguyên ngựa trước song song,Khác nào như thể cưỡi rồng lên tiên.Ngựa sau bảng nhãn theo liền,Giải đào chân để, niệm sen mình ngồi.Rườm rà chân chỉ hạt trai,Vàng xuy miệng hậu, châu nhồi thắng yên . Nối sau bốn kiệu kéo liền,Tám đòn nhận ngọc, bốn bên buông rèm.

Liễu hoàn chị chị, em em,Chạy gần che quạt, theo chen ôm lò.Kiệu hoa nhẹ bước từ từ,Kiệu theo ngựa trước, ngựa chờ kiệu sau.Vòng ngoài nhộn nhịp quân hầu,Ngẩng lên đã thấy phượng lâu dưới thềm.Khen rằng sáu gã thanh niên,Trai tài gái sắc, hai bên kịp thì.Thơ đào, ngợi chữ vu qui,Ban thêm châu ngọc cho về thành thân.Đôi tài tử, bốn giai nhân,Phủ Mai bài trí, phủ Trần sửa sang.Đuốc hoa, màn gấm, sẵn sàng,Bạn loan sính phượng , chia buồng đông tây.Rượu mừng mặt, lễ bắt tay,Nơi vui bàn ngọc, nơi vầy cuộc tiên.Rạng mai vào lễ thánh tiền,Ban cho bồi yến ngự diên hai chàng.Thiên nhan gần gũi tấc gang,Nến hoa đối mặt, chén vàng trao tay.Tiệc vui chầu chực tối ngày,Lại ban ngự chúc đưa ngay đến lầu.Dần dà cách mấy đêm sau,Ban đòi tân phụ vào chầu từ cung.Bốn nàng dự yến đền trong,Ân vua gội thấm, tiếng chồng thơm lâyRồi ra yến ẩm mấy ngày,Khi vui Mai phủ, khi vầy Trần gia,Mời nhau lần lượt tiệc hoa,Thôi bên Trần thị, lại toà Khâu công.Phong lưu, phú quý cùng chung,Bõ ngày truân hiểm, bõ công sách đèn.Hai tài tử, bốn thuyền quyên,Tiếng người mới, vẫn người quen bao giờ,Đàn trước gió, rượu bên hoa,Câu thơ trong tuyết, cuộc cờ dưới trăng.Xướng tuỳ đều giữ đạo hằng,Một nhà hão hợp dễ chăng mấy người!Có phen ôn chuyện Trùng-đài,Có phen nhắc chuyện thoa rơi nực cười.Có phen nhắc chuyện lôi thôi,Đến Chiêu Quân điện thuở đời Hán gia.Bèn đem tâm sự tâu qua,

Lại xin ở đấy đợi chờ chiêm bao.Canh khuya thấy sứ đòi vào,Bảo qua mấy tiếng tiêu hao sự nhà.Hôm sau đến Hắc-thuỷ-hà,Gieo châu, bỗng thấy thần đưa đem về.Đằng vân giá vũ, cũng ghê,Một giây bỗng thấy đưa về Trung-hoa.Xin làm ngọc xuyến, kim hoa,Mượn người thương khách đem đưa sang Hồ.Hỏi thăm đến tới linh từ,Chiêu Quân là hiệu, bấy giờ tiến lên.Khấn rằng là của Hạnh Nguyên,Cho sai đưa đến án tiền tạ ân.Lại ra các bộ sứ thần,Tạ từ có thiếp, vân vân mấy lời.Có phen kể tích Giang Khôi,Có phen nhớ nỗi vớt chài cầu vui.Hai nhà phúc hậu vẹn mười,Thung thăng cõi thọ, đứng ngồi đền xuân.Đông hàng lông phượng gót lân,Kìa nhà ngũ quế, nọ sân bát đồng.Đời đời khoa mục đỉnh chung,Rõ nền thi lễ, nối dòng thư hương.Hiếu, trung, tiết, nghĩa đủ đường,Dựng bia muôn kiếp, để gương nghìn đời. Cho hay trời cũng ngồi rồi,Tuần hoàn đem lại vòng dài rút chơi.Dữ, lành bỏ lửng mà coi,Sắp đâu vào đấy, chẳng sai phân nào!Gian tà chớ vội bảnh bao,Tung lên cho bổng , buộc vào tự nhiên.Trước dù lỏng lẻo dường thiên,Sau càng ráo riết, mới tin tay già.Người trung còn bỏ lửng lơ,Xoay trăm nghìn cấp, thử ba bốn lần.Hãy cho đeo đẳng đủ phần,Rõ lòng sắt đá liệu dần gỡ cho.Vàng son thêm nét điểm tô ,Bấy giờ mới rõ thực lò Hoá công.Truyện này xem thấu thuỷ chung,Suy ra mới biết trời không có lầm.Dữ, lành trong một chữ tâm,

Cơ thâm thì hoạ cũng thâm là thường.Ví hay tu tỉnh mọi đường,Trước dù chịu thiệt, sau càng thấy hơn.Bàn riêng mấy bạn kim lan,Phường ta bất quá sàn sàn bậc trung.Dở đâu như Kỷ như Tung,Hay đâu ví với Mai công mà rằng.Bình cư giữ lấy đạo hằng,Hễ người trung chính xin đừng tự khi.Đã là nam tử tu mi,Vào vòng công nghiệp, ấy thì có vua.Mới hay từ tóc đến tơ,Miếng cơm, tấm áo, cũng nhờ quân ânSao cho được chữ trung thần,Thờ vua chớ có vị thân mới đành.Thế thời trời cũng có mình,Lo gì phúc trạch , công danh kém người.Phòng văn nhân buổi ngồi rồi,Học đòi tấp tểnh mấy lời nôm na.Trước là rõ kẻ trung, tà,Sau là ta dặn lấy ta mọi bề.Biết bao lời kệch tiếng quê,Thôi thôi bất quá là nghề mua vui!

CHÚ THÍCHhoá nhi: trẻ tạo. Gọi tạo hoá (ông trời) là trẻ con vì bày đặt việc đời như trò trẻ, khóc đó rồi lại cười đó, sướng đó rồi khổ đó ngay, oái ăm, chất chưởng, khó lường trước được. "Trẻ tạo hoá đành hanh quá ngán, Dắt díu người lên cạn mà chơi" (Cung oán).

báo ứng: ở hiền gặp lành, ở ác gặp dữ, đó là "báo ứng" theo quan niệm người xưa.

Đức Tông: vua thứ chín nhà Đường, - sau Công nguyên.

Thường-châu: nay là Huyện Vũ-tiến, tỉnh giang-tô (Trung-quốc).

thanh trung: trong sạch và ngay thẳng.

điềm hùng: điềm gấu, điềm sinh con trai.

trích tiên: vị tiên có tội phải đày xuống trần gian, có nghĩa là người trời.

ngoại lỵ: làm quan ở địa phương, không phải ở kinh đô.

lễ nhạn: lễ cưới.

thiếp canh: cái thiếp biên tên tuổi người con gái để trao cho nhà trai. Câu thơ ý nói bước đầu của việc hỏi vợ, mới hỏi tên tuổi, chưa đưa lễ vật.

Lịch-thành: một huyện thuộc tỉnh Sơn-đông, cách xa Giang-tô.

cầm đường: nhà ngồi gẩy đàn. Nhắc tích Bật Tử Tiện làm quan huyện Đan-phủ, gẩy đàn mà công việc đều xong. Về sau danh từ cầm đường chỉ nhà quan huyện làm việc.

đồng niên: cùng đỗ một khoa.

thiêm sự: một chức quan văn cũng gần như thượng thư.

huyện vụ: việc quan trong huyện.

lang miếu: triều đình, nơi làm quan.

điền viên: ruộng vườn, nơi nghỉ ngơi vui thú.

đỉnh chung: cái vạc và cái chuông. Danh từ này có hai ba chú thích khác nhau. Đa số thì nói: ngày xưa nhà phú quí đông người ăn, phải thổi cơm bằng vạc, gọi người tôi tớ bằng chuông. Có nơi nói: thức ăn đựng bằng vạc, gọi người hầu tiệc bằng chuông v.v... Nhưng các chú thích đều thống nhất ở chỗ: đỉnh chung là cảnh đại phú quí.

thư hương: mùi thơm của sách, ý nói nhà nho.

nội đường: nhà trong, tư thất, đối với công đường nơi làm việc quan.

thăng thuyên: được thăng chức và đổi đi nơi khác.

triều ban: cấp bậc trong triều.

lại khoa cấp sự: một chức giám quan, nghĩa là một chức quan có nhiệm vụ can ngăn vua, khi vua làm điều trái.

trung can: gan của người trung trực. Câu thơ ý nói: Mai Bá Cao được tin thăng chức gián quan mà trong triều đang có bọn gian thần Lư Kỷ, Hoàng Tung lộng quyền, nên tin ấy càng khêu tấm lòng trung nghĩa của ông.

khởi thân: cất mình ra đi.

đài gián: chức gián quan nói trên.

giải kết: nghĩa đen là cởi mở, mở chỗ thắt lại; có khi là đưa đến chỗ cuối cùng, chỗ cởi nút. Nhưng từ nghĩa đó đến nghĩa thường dùng thì xa nhau, nên có nhà chú thích không nắm được liên hệ của hai nghĩa, cho là chữ dùng cho đạo Phật: "Giải kết, giải kết, giải oan kết". Nói như vậy không giải nghĩa được danh từ dùng trong câu thơ. Theo ý chúng tôi, danh từ này có nghĩa là: kết cục công việc xảy ra không được tốt. Hiểu như vậy mới giải nghĩa được câu Kiều "Ví dù giải kết đến điều. Thì đem vàng đá mà liều với thân" và câu "Ví dù giải kết có tin". ở đây, nó là danh từ chữ Hán thường dùng, không phải là chữ nhà Phật.

tân bằng: khách và bạn.

hàn ôn: rét và ấm. Chuyện hàn ôn là chuyện lúc gặp nhau kể lể tin tức thân mật.

lệ: e ngại "Lệ khi bướm chẳng chiều ong" (Phan Trần).

bàn hoàn: chính nghĩa là băn khoăn quanh quẩn, vương vấn không rời được. "Nỗi riêng riêng những bàn hoàn" (Truyện Kiều). ở đây ý nói: bàn đi bàn lại.

nhà huyên: mẹ. Huyên là một thứ cỏ dịu dàng, ví với người mẹ, cũng như thung (hoặc xuân), một thứ cây rắn rỏi, thường ví với người cha.

thung huyên: cha mẹ.

trung nghì: trung nghĩa, nghì là biến âm của nghĩa. "Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì" (Lục Vân Tiên).

vinh, khô, đắc, táng: tươi, héo, được, mất, ý nói: những sự thay đổi tất nhiên ở đời, người thức giả không sá kể.

lôi la: (tiếng cổ) chuyện tròn vồn vã, thân mật.

hổ phụ, lân nhi: cha như hổ, con như kỳ lân (một giống thú quí người ta tưởng tượng ra, không có trong thực tế) ý nói: cha con cùng là người quí cả.

quan hoài: để tâm lo lắng. Câu thơ ý nói: phải xét xử cho công bằng để tránh sự oan ức (oan khiên) cho dân.

ngược dân: xử tàn ác với dân.

cao dày: trời đất, trời cao đất dày.

trù phòng: nhà bếp, người làm bếp.

chén mồi: chén bằng đồi mồi.

sở tiên: tờ tâu vua. ý câu thơ nói: nên cẩn thận lúc làm sớ tâu vua, không nên nóng nảy vội vàng sợ có điều sơ xuất.

lâm kỳ: đến chỗ rẽ, đến ngả đường quặt.

dân dã: dân quê.

trọng lỵ: tiếng nói tôn kính, cũng như trọng nhậm nghĩa là cai trị một nơi.

một đường sao phúc: do chữ hán "nhất lộ phúc tinh". Ngôi sao giáng phúc tượng trưng người làm ơn nhiều cho nhân dân. Muôn nhà Phật sinh: do chữ Hán "vạn gia sinh Phật" Phật sinh: ông Phật sống, thường đi làm phúc cho muôn nhà. Câu thơ ý nói: nhân dân tôn trọng Mai công như tiên, phật.

lại tệ, dân tình: cái tệ của nha lại, và tình cảnh nhân dân.

mạch tuệ: bông lúa mạch. Nhắc tích Trương Kham đời Hán, làm quan biết khuyên dân chăm việc cấy lúa, trồng dâu. Lúa tốt dâu xanh. Nhân dân làm bài ca khen ông quan tốt.

cam đường: tên một bài thơ trong Kinh Thi, nhắc lại công đức của Thiệu Bá đời Chu, một ông quan tốt, thường ngồi xử kiện ở gốc cây cam đường. Nhân dân nhớ ơn bảo nhau đừng chặt cây cam giữ làm kỷ niệm.

thăng điệu lai kinh: được thăng chức đến kinh thành nhận việc.

hồ thỉ: do chữ: "tang bồng hồ thỉ" nghĩa là cái cung bằng gỗ dâu, cái tên bằng cỏ bồng, tiêu biểu chí khí người con trai, đem cung tên mà giúp đời giúp nước.

đai cân: giải buộc và khăn. Chỉ người làm quan, việc làm quan.

thanh vân: mây xanh, bước thanh vân là con đường bay nhảy.

tiếp lỵ: người nhậm chức thay chân Bá Cao.

huyện tể: quan cai trị đứng đầu một huyện tức là tri huyện.

truy tư: thương nhớ sau khi người ấy đã đi rồi.

cưu dạ: mang dạ, có bụng. cưu dạ tham tàn: có bụng tham tàn.

vạn dân tản, vạn dân y: áo và dù của muôn dân, nghĩa là lễ vật của chung nhân dân đem tiễn Mai Bá Cao để tỏ lòng ái mộ.

phân bào: chia vạt áo, cầm vạt áo mà từ giã nhau, cũng như chia tay.

Tử lý: làng có trồng cây tử, nơi cha mẹ ở, tức quê hương.

ngọc kinh: kinh đô nhà vua.

vương sự: việc vua, việc công.

gia mang: việc nhà bận rộn, việc tư. Câu thơ ý nói: coi việc nước nặng hơn việc nhà.

hương đăng bày án: theo lễ nghi ngày xưa, dân đón đưa quan to phải bày hương án có đèn có đỉnh trầm để tỏ lòng tôn kính.

tràng đình: ngày xưa đường đi chia ra từng trạm nghỉ chân (đình). Trạm ngắn gọi là đoản đình, trạm dài gọi là trường (tràng) đình.

hương thân: những người văn thân trong làng, trong huyện.

xem khinh: ý nói: ung dung, thư thái, không coi là quan trọng lắm. (Không phải là coi thường, khinh dể, vì Mai công không coi khinh nhân dân).

kinh quốc: kinh đô, thủ đô của một nước.

đại gia: chính nghĩa là người cha, về sau thành tiếng xưng hô tôn trọng người làm quan, cũng như "đại nhân", "tướng công".

bình: bức bình phong ngăn phòng khách với phòng ngủ.

Di, Tề: Bá Di, Thúc Tề, hai con vua nước Cô-trúc cùng nhường ngôi lại cho em thứ ba, rủ nhau ở ẩn trên núi Thủ-dương. Lúc Vũ Vương nhà Chu đánh Trụ (vua nhà Thương), hai ông Di, Tề ra đón xe mà can ngăn không được, quay về núi Thủ, không chịu dùng thóc gạo nhà Chu, hái rau vi ăn cho đỡ đói. Có người bảo: đất nước thuộc nhà Chu thì rau vi cũng của nhà Chu. Hai ông nhịn đói mà chết. Người đời xưa cho hai ông là bậc hiền sĩ. Bá cao cảm động trước tranh Di, Tề cũng là quí cái đức trung trinh của người hiền sĩ.

thanh ứng khí cầu: do câu "đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" nghĩa là cùng tiếng thì hưởng ứng với nhau, cùng chí khí thì tìm nhau. ý nói: Mai Bá Cao cũng trung nghĩa như Bá Di, Thúc Tề nên thông cảm chóng.

phủ trời: chỗ vua đóng đô.

chăm chắm: rất thẳng.

nước nhược: bởi chữ "Nhược thuỷ", một con sông nước chảy lờ đờ ở phía cực tây Trung-quốc. Nguồn Đào: bởi chữ "Đào nguyên", suối có hoa đào. Hai nơi tục truyền có tiên ở. Câu thơ ý nói: kinh thành đẹp như cảnh tiên.

sân phong: sân có trồng cây phong (loại cây bàng). Ngày xưa cung điện nhà Hán hay trồng cây phong, nên người ta thường gọi sân cung điện là sân phong.

gián viện: cơ quan của gián quan làm việc, cơ quan có nhiệm vụ can vua.

ty vi: thấp bé.

bia hạ mã: bia đề chữ "hạ mã" để trước dinh thự những quan to hoặc miếu đền linh thiêng cho người qua đường biết mà xuống ngựa, tỏ ý kính sợ.

nghi môn: cửa chính của nhà quan to.

môn quan: quan coi cửa.

quốc pháp: phép của nước.

phủ quy: thể lệ riêng của tướng phủ.

thủ bản: bản giấy viết tay.

chủ tân: chủ nhà và khách khứa.

đường lại: nha lại, những người tuỳ thuộc làm việc trong một quan thự.

chư công: các ông. ở đây là mấy ông quan bạn thân với Bá Cao.

tri cơ: biết cơ hội, biết thời cơ một việc nên làm hay chưa nên làm.

Trào-châu: một địa điểm thuộc tỉnh Quảng-đông, nơi Hàn Dũ bị giáng chức ra làm thứ sử vì đã dâng biểu xin vua chém quyền thần. Tác giả nhắc việc này có ý nói: việc Bá Cao sẽ giống như thế. Nhưng việc Hàn Dũ lại xảy ra ở đời Đường Hiến Tông sau Đức Tông. Chắc tác giả nêu tích này ra, không để ý đến thứ tự thời gian của sự kiện lịch sử.

gỡ vào lối sinh: gỡ cho khỏi bị tiêu diệt.

nội thần: quan hầu trong nội cung nhà vua như thị vệ, nội giám, hoạn quan...

kết thái, trương đăng: kết hoa, treo đèn.

Thiên bảo: một bài thơ trong Kinh Thi có chín chữ như để chúc tụng nhà vua: bền như núi, dài như sông, đẹp như mặt trăng, đỏ như mặt trời mọc v.v... nghĩa là điều gì cũng tuyệt.

Nghiêu hoa: lời của người coi ấp Hoa chúc vua Nghiêu khi đến thăm ấp: chúc giàu có, sống lâu, đông con trai.

bách hí: một trăm trò vui.

gia hào: đồ nhắm ngon.

trân la: thứ rau thơm và quí.

lạp hoàng: nến vàng, sáp ong.

thọ bình: bình phong có chữ thọ.

hoa bào: áo thêu (hoặc vẽ ho(a) hoa,

thiều nhạc: khúc nhạc đời vua Thuấn có tiếng hay nhất đời xưa. Đây ý nói: âm nhạc rất hay.

ân gia: cha nuôi, ở đây tức là Lưu Kỷ, bố nuôi Hoàng Tung.

lễ đơn: đơn kê các lễ vật đưa đến.

nghĩa phụ: cha nuôi (cũng như tiếng ân gi(a).

ân nhi: con nuôi.

vượng khí tướng môn: khí thịnh vượng ở nhà quan tể tướng.

hơi tử khí: hơi người chết. Ngày sinh nhật, tiệc thọ linh đình mà nói là có tử khí là một cách rủa mát bố con Lư Kỷ.

chua cái, chua con: danh từ chua có nghĩa là chú dẫn, dẫn giải (chua nghĩa sách); ở đây là kể lể tỉ mỉ việc lớn việc bé.

bạn đảng: đảng làm phản, bọn chống lại triều đình.

biên quan: quan coi biên giới.

giặc Thát: Thát-đát, một bộ phận của Hung-nô, về sau là Mông-cổ.

đoản biểu: tờ biểu ngắn (báo cáo để tâu vu(a).

chính pháp thị tào: xử theo pháp chính (xử tử) và đem chém ở pháp trường.

rợ Thát: phong kiến Trung-quốc ngày xưa coi các dân tộc chung quanh Trung-quốc là mọi rợ. Rợ Thát, rợ Hồ v.v...

tiến thảo: đem quân dẹp giặc.

an biên: làm cho biên giới được yên ổn.

tham tán, đổng binh: hai chức quan coi việc đem quân đi đánh giặc.

đãng bình: dẹp giặc cho yên dân.

chẩn mễ: gạo phát chẩn, phát không cho dân nghèo đói.

tiểu di: dân mọi rợ nhỏ. ý câu thơ nói: bọn gian thần Lư Kỷ, Hoàng Tung đã cướp thóc gạo mà vua định đem phát chẩn cho dân tiểu di, nên dân nổi loạn.

chẩn thải: phát chẩn và cho vay.

qua giáp: giáo mác và áo giáp. Cả câu ý nói: bắt ép những quan văn đi đánh giặc.

cửu nguyên: chín suối, cõi chết.

hoạ chí vô đơn: bởi câu "hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai" nghĩa là tai hoạ không đến một mình, phúc lộc không lại hai lượt.

lệnh tiễn: lá cờ nhỏ có chữ lệnh, ngọn cờ (nhọn như mũi tên) của các quan võ dùng để ra hiệu lệnh.

hoả bài: mảnh gỗ có viết chữ dùng làm hiệu lệnh của các quan, có phê chữ hoả nghĩa là cần kíp như lửa nóng, cũng như ta dùng tiếng hoả tốc ngày nay.

cùng xuôi nỗi thảm: cùng nén nỗi thảm xuống.

đồng bào: danh từ đồng bào dùng đây theo nghĩa hẹp của nó là anh em ruột.

nhạc thân: ông nhạc (chỉ bố vợ Mai sinh).

sinh môn: cửa sống, nghĩa là con đường sống.

phủ binh: lính phủ ở Thường-châu, quê Mai công.

thuỷ đạo: đường thuỷ.

phạn điếm: hàng cơm.

viên lương: nóng, mát. ý nói: sự ăn ở thay đổi của thói đời, tuỳ theo sang hèn mà nóng hay mát, hậu hay bạc.

chấp kính: giữ lễ thường (gần như nay ta nói: giữ đúng nguyên tắ(c).

tòng quyền: theo lúc biến (bất thường) mà làm (gần như nay ta nói: linh động).

muôn một: muôn phần chỉ chắc được một phần, nghĩa là không may, nguy hiểm.

chu tuyền: lo liệu cho trọn vẹn. Hai câu thơ ý nói: nếu cứ khư khư giữ nguyên tắc cứng rắn không biết tuỳ cơ mà hành động thì sợ khi xảy ra tai biến không thể trọn vẹn được.

tì sương: một thứ thuốc độc.

bán tử: con rể.

Tây tử: Tây Thi, một cô gái tuyệt đẹp, người nước Việt (đời Xuân thu bên Trung-quố(c). Vua nước Việt là Câu Tiễn muốn báo thù nước Ngô, đem Tây Thi dâng cho vua Ngô Phù Sai. Phù Sai say mê Tây thi quên việc nước, bị Câu Tiễn tiêu diệt.

đông sàng: giường bên đông, ý nói: rể tốt. Do tích Vương Hy Chi là một người tốt, lúc đến làm rể Hy Giám thường nằm giường ở phòng bên đông. ý câu thơ nói: nếu có con gái đẹp thì thiếu gì người đến xin làm rể.

thân vong: chết.

phần: nấm mả, ngôi mộ. Phong nên phần: đắp thành mộ.

bạch: thưa. Tiếng dùng trong nhà chùa.

khương thang: nước gừng nóng.

Giang Yêm: một danh sĩ nước Lương đời xưa, ở bên Trung-quốc, văn hay chữ tốt.

Thọ-am tự thuyền: chùa Thọ-am.

bút thiên nhiên: bút tự nhiên viết tốt như trời phú tính cho.

vũ kiếm: nét bút hùng như gươm múa.

lan đình: lối chữ của Vương Hy Chi, tươi đẹp như hoa nở, lưu truyền về sau gọi là thiếp Lan đình.

lương nhân: người tốt, người đem duyên tốt lại.

thám hoa võ cử: đỗ thám hoa võ.

toạ trấn: ngồi làm quan ở một nơi.

đổng binh: coi sóc việc binh, đem quân đi đánh.

tuyền thạch: suối và đá tức là cảnh sơn lâm.

thuyền am: nhà chùa.

tâm tích: việc giấu kín trong lòng.

vương kỳ: kinh đô nhà vua, cũng như tiếng đế đô, kinh kỳ.

sân đào: sân họ Đào tức là Đào Tiềm, đời nhà Tấn, một nhà thơ làm tri huyện treo ấn từ quan về nơi vườn ruộng, có làm bài thơ "Qui khứ lai từ" (Đi về) nổi tiếng.

đông ly: giậu bên đông, nơi trồng các thứ hoa đẹp.

bỏ rèm: buông rèm xuống, ý nói sống nhàn tản ẩn náu.

Trần phủ: dinh của Trần Đông Sơ.

tham thuyền: thăm cảnh chùa.

huyên đình: sân có trồng cỏ huyên, chỉ chỗ mẹ ở.

tang du: cây dâu, cây bưởi. Bóng ngả cành tang du: bóng chiều tức là cảnh già. Do chữ "tang du mộ cảnh" nghĩa là cảnh bóng nắng buổi chiều trên cây dâu cây bưởi.

Sơn-đông: nơi Mai phu nhân lánh nạn, chỗ người em làm quan.

Nghi-trưng: nơi Hầu Loan làm tri huyện. Nhắc lại việc Hỉ đồng hy sinh cứu Mai sinh.

hắc vận: vận đen, lúc không may.

xích thằng: chỉ thắm tơ hồng, chỉ buộc duyên vợ chồng (theo tích trong truyện đời xưa: ông Tơ, bà Nguyệt xe duyên vợ chồng).

hoàn, a hoàn, đòi: đầy tớ gái.

hồn quế, phách mai: hồn như cây quế, phách như cây mai (Hồn phách thơm tho nhẹ nhàng) một cách tả giấc ngủ cho bóng bảy, đẹp lời văn.

cung Quảng: cung Quảng-hàn, tức cung trăng.

Đài dương: Dương-đài nơi vua Tương Dương nước Sở nằm mơ thấy hội ngộ với thần nữ ở núi Vu-sơn.

tiên tân: tươi tốt, mát mẻ.

hoa đình: nhà chòi xây ở vườn hoa để thưởng hoa.

Mai huynh: ông anh họ Mai tức Mai Bá Cao.

u hiển: âm phủ và dương gian (ý nói: kẻ khuất người còn). "Chớ nề u hiển mới là chị em" (Truyện Kiều).

cửu trùng thiên: chín lần trời, tức trời cao thăm thẳm.

tửu quả: rượu và các thứ quả.

bài vị: cái bài bằng gỗ (có khi bằng đồng) để đề (hoặc dán) danh hiệu người chết vào mà thờ.

đình tử: nhà chơi mát xây ở vườn hoa, Mai sinh đứng ở nhà này xa trông bài vị.

mộc vị: bài vị làm bằng gỗ.

nhị độ mai hoa: hoa mai nở lần thứ hai

năng văn: có tài làm văn (có khả năng về văn).

Châu Dương: Dương-châu, tên một thị xã lớn ở tỉnh Giang-tô (xem thêm ở phần khảo luận).

thanh lương: khí trời trong sạch, mát mẻ.

đại cổ, phú thương: những nhà buôn bán lớn và giàu.

viễn khách cư kỳ: người khách xa đến, buôn bán những thứ lạ.

Tây dương: các nước ở Tây Âu. Cao-ly tức là Triều-tiên. Câu thơ tả cảnh tàu bè Âu á qua lại ở cảng Dương-châu.

du quan: đi xem chơi. ở đây, Mai sinh đi xem cảnh châu Dương.

vị bài: do tiếng bài vị đảo ngược lại.

cửa không: cửa Phật, do chữ "sắc sắc không không" của đạo Phật, nghĩa là "sắc mà không, không mà sắc", ý nói: những điều ta nom thấy đó (sắ(c) chưa hẳn là có, những điều ta không trông thấy được (không) chưa hẳn là không.

thế nghị: tình nghĩa bạn bè, đời này sang đời khác (thế).

chiếu tâm: soi lòng, xét thấu tận lòng.

y quan: áo mũ. ý nói: có thể làm quan to.

thiên tài: tài trời cho. Quốc sắc: người con gái đẹp nhất trong nước. người con gái đẹp đến làm cho nghiêng nước nghiênh thành. Do một câu thơ chữ Hán tả người đẹp: "Nhất cố khuynh nhân thành, Tái cố khuynh nhân quốc" nghĩa là quay lại nhìn một cái, làm cho thành người ta nghiêng, nhìn cái nữa làm cho nước người ta đổ. ý nói: Cái đẹp làm cho vua chúa say mê đến nỗi đổ thành, mất nước. Nguyễn Du đã dịch: "Một hai nghiêng nước, nghiêng thành". ở đây, ý nói tài và sắc cùng tuyệt vời.

bảng vàng: bảng ghi tên người thi đỗ. Đuốc hoa: đuốc thắp trong phòng vợ chồng đêm mới cưới. ý nói: thi đỗ sẽ cưới vợ.

người khuê các: người ở phòng khuê, ở nhà gác tức là con gái nhà sang trọng.

thư cầm: sách và đàn, tiêu biểu cho người văn nhân, tài tử "Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang" (Truyện Kiều).

đãi ngọc: ngọc đợi giá cao. Tựa mai: tựa vào họ Mai. ý nói: hai bên Hạnh Nguyên và Mai sinh chờ đợi nương tựa nhau.

chí tái, chí tam: đến hai ba lần.

chỉ: chiếu của vua ban ra.

quan hoài: quan tâm, để ý.

biên quan: Cửa ải, nơi biên giới.

Sa-đà: một bộ lạc thuộc nước Đột-quyết ở phía Tây Trung-quốc, nay thuộc vùng sa mạc Tân-cương.

lang: sói. Khói lang: khói lửa do bọn lang sói gây ra.

Hán và Tần nói đây là tiêu biểu cho đất Trung-quốc.

hoà thân: giảng hoà và kết thân gia (gả con cho nhau).

Chiêu Quân: tức là Vương Tường, một cung nhân của Nguyên đế nhà Hán, rất đẹp và có đức có tài. Nàng bị bọn quyền thần âm mưu tâu vua bắt đi cống Hồ. Chiêu Quân ra khỏi biên giới Trung-quốc, nhớ nhà nhớ nước, nhảy xuống sông Hắc-hà tự tử. Nhân dân thương xót lập miếu thờ. Hạnh Nguyên và Nguyệt Nga về sau cũng làm giống như Chiêu Quân.

ngận tuỳ: bước theo (đi theo).

Hồ trần: bụi Hồ (coi người Hồ như cát bụi).

mộc vị, thần vì: chính nghĩa là bài vị, tượng thần bằng gỗ. ở đây nói bọn bù nhìn, hạng người không ra gì, uổng cơm áo.

mãng: thứ rắn to có hoa. ở đây là áo mãng tức áo chầu thêu con mãng. Đai: cái vòng đeo ngang lưng ngoài áo chầu.

xuy: mạ, xuy vàng: mạ vàng. Câu thơ ý nói: hoài chỉ thêu áo, hoài vàng mạ đai cho bọn bù nhìn.

tiền đường: nhà đằng trước, nhà khách.

loan phượng, uyên ương: là loài chim đi đôi, ở đây chỉ có mình loan và mình uyên, ý nói vợ chồng chia cách.

Trần điệt: cháu gái họ Trần, tức là Hạnh Nguyên.

xuất quan: ra cửa ải.

trì diên: chậm trễ.

khuê bổn: buồng the, ý nói: người con gái có nền nếp.

tinh chiên: tanh hôi. Câu thơ ý nói: tủi thân mình nề nếp mà phải đem dâng cho bọn giặc tanh hôi.

Trung nguyên: phong kiến Trung-quốc ngày xưa cho nước mình là Trung nguyên, còn những nước chung quanh là mọi rợ.

thì: thời vận. Câu thơ ý nói: chưa gặp cơ hội, phải thua trời.

thiết thạch: sắt đá.

tu mi: râu mày, chỉ đàn ông. ý câu thơ nói: lòng sắt đá của Hạnh Nguyên làm cho người râu mày phải thẹn.

dạ Sở, bụng Tần: lòng thay đổi bất thường, khi theo Tần, khi theo Sở, hai nước đối địch.

môn mi: cái cửa võng, trang trí làm cho cửa đẹp. Tiếng dùng trong một bài thơ chữ Hán an ủi người sinh con gái. Có ý nói: Người con gái làm nên (Hoàng hậu, cung phi, phu nhân v.v...) làm cho nhà vẻ vang cũng như cái cửa võng đẹp.

chữ cù: chữ cù lao, nghĩa là khó nhọc. Do thơ Lục nga có câu: "Ai tai phụ mẫu, sinh ngã cù lao: thương thay cha mẹ, sinh ta khó nhọc".

thập nữ viết vô: mười con gái cũng coi bằng không. Quan niệm phong kiến cho rằng con gái không nối dõi được nên khinh thường phụ nữ.

chữ đồng: chữ đồng tâm. ý nói: hai bên vợ chồng (trai, gái) đã bằng lòng nhau.

thung, huyên: cha mẹ. Câu thơ ý nói: cha mẹ đã đến cõi già.

trâm anh: cái trâm cài mái tóc và cái giải mũ, hai thứ trang sức tiêu biểu cho hạng người quyền quí. Câu thơ ý nói: nhã sẵn có nền nếp, dòng dõi làm quan to.

hàn thực: ăn đồ lạnh (đồ nguội). Tết mồng ba tháng ba âm lịch, ở Trung-quốc kỷ niệm giới Tử Thôi chết cháy ở trong rừng, người ta ăn đồ nguội, không nấu nướng. Tử Thôi giúp Tấn Trùng Nhĩ (đời Xuân thu) phục quốc. Xong cuộc, Tử Thôi không chịu làm quan, vào ở ẩn trong rừng. Trùng Nhĩ đốt rừng để Tử Thôi phải ra, nhưng Tử Thôi không ra, chịu chết cháy.

lét: tiếng cổ, liếc, hay dùng trong các truyện cũ "Sóng thu một lét hữu tình (Hoàng Trừu). Lét chừng, sinh đã dần dà đến ngay (Hoa Tiên).

trai lơ: nghĩa ngày nay là lẳng lơ, không đúng đắn. Nghĩa cũ là cheo leo, chênh vênh, không vững vàng.

Hàm-đan: một huyện thuộc tỉnh Trực-lệ.

trùng-đài: đài xây chồng chất mấy đọt.

phúc bạc: phúc mỏng, ít phúc (không phải bạc là trắng, dù tác giả có ý đối với chữ má đào).

nối dây: dây đàn đã dứt, đem nối lại, nghĩa là lấy vợ kế, lấy người khác. ở đây Mai sinh định nói: Hạnh Nguyên đi rồi thì Sinh ở vậy đến già không lấy ai nữa.

phi hậu: vợ vua.

cương thường: bởi chữ tam cương (nghĩa vua tôi, cha con, vợ chồng) ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín), đạo làm người theo quan niệm Nho giáo.

nghĩa Xuân thu: nghĩa phục thù, do câu chữ Hán "Xuân thu nghĩa tại phục thù" ý nói nghĩa Xuân thu cốt ở phục thù. Sách Xuân thu được viết ra là để thanh trừ những bọn "loạn thần tặc tử", bọn tôi xấu, con hư làm hại nhà, hại nước. ở đây Hạnh Nguyên dặn Mai sinh quyết nuôi chí phục thù.

luật Đường: thể thơ đời Đường.

man phương: phương người mọi rợ, tức người mọi rợ (quan niệm của Trung-quốc phong kiến).

Yên chi: danh hiệu vợ vua ở nước man di, như hoàng hậu, phi hậu ở Trung-nguyên.

sa trường: bãi cát lớn. Câu thơ tả cảnh biệt ly.

đồng thất: cùng ở một nhà.

tâm lực hiệp đồng: lòng và sức cùng hợp lại.

tú các hương khuê: gác gấm, buồng hương, chỉ người con gái sang trọng.

man nhân: người mọi rợ, người nước Sa-đà.

lư diệp: lá lau. ngô công: con rết. Còi làm bằng lá lau. Cờ quăn queo, có rìa như con rết.

Tô quân: Tô Vũ đời Vũ đế nhà Hán, sang sứ nước Hung-nô bị vua Hung-nô bắt đi chăn dê mười chín năm. Lúc được tha về, nhân dân địa phương cảm lòng trung trực của Tô, lập đền thờ ở núi Hà-lan, nơi Tô đã chăn dê.

vẻ đan: vẻ son, màu đỏ.

sông Hắc thuỷ: sông nước đen (Hắc-long-giang).

thổ nhân: người địa phương.

doành ngân: dòng nước bạc.

Hồ phục: quần áo người Hồ.

nữ sức: đồ trang sức của phụ nữ.

thuỷ hương: xóm làng ở dưới nước, tức là nơi thuỷ phủ.

trầm châu: gieo mình xuống nước.

tối linh từ: đền rất thiêng.

nữ đồng võ sĩ: Trong đền có những tượng con gái nhỏ (nữ đồng) và võ sĩ đứng hầu.

tỳ bà: tên một loại đàn của phụ nữ dùng. Đây là chiếc đàn mà Chiêu Quân thường gảy rất hay.

tiểu man: rợ nhỏ mọn. Tiếng phong kiến Trung-quốc ngày xưa gọi người các nước Phiên.

công tào: quan hầu, bộ hạ.

sơn hải: lời thề vững như núi, sâu như bể.

yêu kiều: thân thể phụ nữ mềm mại tươi đẹp. Câu thơ ý nói: Trọng lời thề hơn thân mình, nên liều bỏ thân để giữ được lời thề với Mai sinh.

bảng trời: bảng của nhà vua, bảng trường thi.

lèo: giải treo. Giật lèo trạng nguyên: giật giải đỗ đầu (đỗ trạng).

đầu hà: gieo mình xuống sông.

lạc-nhạn đài: đài nhạn sa.

đăng san: lên núi. Tên một thứ kiệu nhỏ và nhẹ để trèo núi có khi ta gọi là cái đăng sơn.

tai mèo: đá tai mèo, thứ đá nhỏ tròn và nhọn như tai mèo. Câu thơ tả đường đi khó khăn vất vả.

phong: thứ cây giống cây bàng của ta, có tán xoè ra như nan quạt. Phong đồn: đồn có giồng nhiều cây phong.

âm phong: gió lạnh, hình như từ cõi âm (cõi chết) đưa đến.

đôi đức sinh thành: công ơn cha mẹ: sinh ra và nuôi lớn lên.

bóng tang: bóng cây dâu, ý nói: cha mẹ đã già.

lai sinh: kiếp sau.

phi tần: cũng như cung tần, cung nhân.

hồng vân: mây hồng.

vũ giá vân đằng: cưỡi mưa, đè mây. ý nói: sự biến hoá đi lại của quỉ thần, cũng như thành ngữ "Đi mây về gió".

danh viên: khu vườn nổi tiếng.

ngự sử: chức quan coi việc giám sát chính trị.

thượng lỵ Đông đô: đương làm quan ở Đông đô.

tiểu tự: tên nhỏ, ở đây ý nói: tiểu thư này lúc còn bé ở khuê phòng gọi là Vân Anh.

phong điệu cửa hầu: tính cách và dáng điệu con nhà phú quí.

Nhạn nhai: núi Nhạn, nơi Hạnh Nguyên gieo mình xuống cái đầm sâu ở chân núi.

nghĩa nữ: con gái nuôi.

tú các, lan phòng: gác thêu, phòng lan. ý nói: nơi ở sang trọng, đẹp như gấm thêu, thơm như hoa lan nở.

mã bài: lúc có việc báo khẩn cấp, người ta cho cầm thẻ bài cưỡi ngựa đi rất nhanh, gọi là mã bài. Cũng như tin hoả tốc.

thiên lao: nhà lao của vua chúa để giam người phạm tội.

mật chỉ: chỉ dụ bí mật của vua, quan. Lệnh kín.

côn quang: gậy gộc. Chỉ bọn dùng gậy gộc đi cướp phá, hành hung. Nói chung là bọn lưu manh trộm cướp.

nền: nhã nhặn, đứng đắn, có phong thể. Ăn mặc nền: ăn mặc đúng lề lối, phong thể. Ngồi nền một ông: một ông ngồi có vẻ đứng đắn, đúng phong thể, nền nếp.

chế nghệ: lối văn tám vế (bát cổ) như lối kinh nghĩa ngày xưa dùng trong việc thi cử.

nhục nhãn nan tri: mắt thịt khó biết. Mắt thịt là mắt không sáng suốt, trái với mắt thần, thánh. Quan niệm xưa: "Người trần mắt thịt", có người giỏi, điều hay trước mắt mà không trông thấy.

duyên bình: duyên được ngồi sau bình phong, nghĩa là được làm thư ký. Danh từ do tích Mạnh Thường Quân, một người có tiếng là giao thiệp rộng, rất đông khách, lúc tiếp khách, có thư ký ngồi sau bình phong để ghi chép.

bình Phiên: dẹp giặc Phiên. Câu này nhắc lại mưu gian của Lư Kỷ bịa ra chuyện giặc Thát để hại Mai công.

khai phục: được phục lại chức cũ. Nhắc lại việc Lạc Thiên bị cách chức hồi xưa.

mai bồng: mui thuyền.

kèo (tiếng cổ): rót rượu mời (kèo rượu).

môn đệ: học trò hoặc người chịu ơn. ân sư: thầy học, hoặc người làm ơn.

tuần hành: đi xem xét tình hình địa phương.

xích tử: con đỏ (con mới đẻ ra còn đỏ) tức là nhân dân. Vua chúa ngày xưa nói: coi nhân dân như con thơ mới đẻ.

tờ bồi: giấy tờ, ở đây là giấy tờ việc quan.

liêu hữu: bạn làm quan với nhau, có khi gọi là bạn đồng liêu.

chữ thì: thời gian, thời vận, ý nói chưa gặp thời, gặp nên chưa hiển đạt.

cánh bằng: cánh chim bằng, một giống chim tương truyền là to nhất và bay cao nhất thế gian. Cánh bằng tiêu biểu cho người có tài bay nhảy cao, chóng.

tân phục: quần áo mới. nhật trình: sổ để ghi chương trình đi đường hàng ngày.

phó lỵ: đế chỗ làm quan.

Nhiêu-châu: tên một huyện nay thuộc tỉnh Giang-tây.

biên phong: tịch biên và niêm phong. Ngày xưa nhà có tội nặng, người bị bắt, của cải bị tịch thu, nhà cửa bị niêm phong.

biện oan: trình bày cho rõ sự oan ức.

Mai kha: anh họ Mai (tức Mai sinh).

cạn khan: nghĩa chính là khô, phơi ra, bày ra. Nghĩa rộng: nhiều, đông. Một lũ cạn khan: một lũ đông người.

khí sinh: do chữ Hán "sinh khí" nghĩa là hơi sống.

tội lệ: tội lỗi, tội tình.

hoà Man: hoà với người Man tức là nước Sa-đà nói trên.

phó giam: bắt đem bỏ ngục.

cung mệnh: cung bản thân trong số tử vi, đứng đầu mười hai cung: cha mẹ, vợ, con, anh em, tài sản...

thiên địa tuần hoàn: trời đất xoay vần.

mai hình tú bộ: thân hình manh mảnh như cây mai, gót đẹp như thêu gấm, ý tả người con gái tuyệt đẹp.

Tầm thuỷ: sông Tầm-dương ở tỉnh Giang-tây. Hàn-san: núi Hàn có ngôi chùa cổ, ở ngoài thành cô-tô thuộc tỉnh Giang-tô. Hai địa danh này được nêu ra để chỉ cảnh sông nước của ngư gia. Hai nơi này không liên lạc gì với nhau cả.

thằng: dây thừng. ý câu thơ: xiêm đai chỉ là lưới và dây kéo lưới.

tú cầu: quả cầu bằng vóc. Tục xưa vua chúa kén rể, cho con gái ngồi trên lầu cao, ném quả cầu xuống. Trai tân ai nhặt được là được làm rể.

thành thân: nên vợ nên chồng.

lý ngư: cá chép.

sam sưa: lẫn lộn. Lời sam sưa: nói quá lời, không lễ phép.

khuyển, ưng: chó săn và chim cắt, hai thứ cầm thú hay hại đồng loại để đắc lực với chủ nuôi.

xế thân: quá giờ thân. Ngày xưa chia ngày ra mười hai giờ: Tý, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi. Giờ thân vào khoảng bốn năm giờ chiều.

nguyên đơn: người đưa đơn kiện.

hiên môn (hoặc viên môn): cổng chất bằng xe, nơi quan tướng đóng.

thị sự: xét xử việc quan. ở đây nói tiếng loa báo giờ làm việc quan.

biền thân: những người thuộc viên làm việc trong nha môn.

quân khảo: những lính làm việc tra khảo.

giao canh: lúc tiếp canh nọ sang canh kia.

dân mục: người chăn nuôi dân, tức là quan đầu hạt (cha mẹ dân).

bê: (tiếng cổ), thứ đồ làm bằng gỗ để đánh: gậy, trượng.

thẩm: xét kỹ càng. Thẩm án là xét án, thẩm định là xét và định, thẩm phán là xét xử (một chức quan toà).

nha phòng: phòng làm việc của nha lại ở công đường.

mộng xà: mơ thấy rắn, tức điềm sinh con gái, cũng như mộng hùng (gấu) là điềm sinh con trai.

khởi nạn Mai gia: khi họ Mai bắt đầu mắc nạn.

tẩy trần: rửa bụi. Chén tẩy trần: tiệc đãi người ở xa mới đến hoặc mới về.

yến sào: tổ con én bể làm bằng các thứ rêu bể trộn với nước bọt én. Có tiếng là thứ ăn rất bổ.

nấu chuội: luộc qua, nấu không cẩn thận. Dúng vào nước sôi: chuội tơ, chuội lụa.

minh linh: một loài sâu giống như con nhện. Tục truyền con tò vò bắt thứ nhện này về nuôi trong tổ, khi lớn nó bay đi. Vì thế có câu "tò vò mà nuôi con nhện, đến khi nó lớn nó quện nhau đi". Danh từ minh linh đây chỉ con nuôi.

gia, nương: cha mẹ. Tiếng xưng hô có ý tôn kính.

thân hơi: thân thiết, gần gụi.

mẫn tiệp: nhanh nhẹn, sáng suốt.

thông miêng: thông minh. Đọc là miêng để vần với câu trên: văn bài tập riêng.

chính thanh: chính sự trong sạch tức là cai trị giỏi, dân được nhờ, vì có Mục Vinh giúp việc.

Đại-danh: tên một phủ thuộc tỉnh Trực-lệ.

tu thư: làm thư tức viết thư.

sư tân: thầy và khách. ý nói: phải đối đãi như vừa là thầy vừa là khách.

cây tỳ: đàn tỳ bà.

thư trai: phòng đọc sách.

cổ thư, cổ hoạ: bức chữ viết và bức tranh vẽ đời xưa (làm tranh treo tường).

triện bách: triện làm bằng gỗ cây bách.

ngoạn nguyệt: xem trăng. Thưởng hoa: xem hoa. Bốn câu thơ tả cảnh thanh tao lịch sự nơi Mục Vinh ở.

thày lay: mua chuốc lấy việc không phải phận sự của mình: "thày lay hớt lẻo", "thày lay chày cấu cổ" (tục ngữ).

giấc hoè: giấc mộng ở Hoè-an, do tích Thuần Vu Phần nằm mơ thấy đến nước Hoè-an được vua nước này cho làm Thái thú đất Nam-kha, gả công chúa, cử đi đánh giặc thắng trận, được vinh hoa phú quý, chợt tỉnh dậy thấy mình đương nằm ở gốc cây hoè, bên mình chỉ có một tổ kiến. Giấc mộng này thường cũng gọi là giấc Nam-kha. Các nhà thơ thường dùng tích này để nói cuộc phú quí ở đời như một giấc mộng: "Giấc Nam-kha khéo bất bình, Bừng con mắt dậy thấy mình tay không" (Cung oán).

đồng sinh: trẻ trai, trẻ nhỏ, người hầu.

chân hư: thực hư. ý nói: trông thấy rõ là của mình thật, chứ không phải nghi ngờ gì nữa.

bóng hạc xe mây: đi theo hạc, theo mây, tức là đã đi theo Phật theo tiên, nghĩa là đã chết.

ba sinh: ba lần luân chuyển kiếp này sang kiếp khác. Duyên nợ ba sinh: duyên nợ gắn bó với nhau nhiều lần.

lan sương: giọt sương đọng lại trên hoa lan. mai câu: vòng hoa mai. ở đây, ý nói việc điểm tô của phụ nữ. Hạnh Nguyên biếng tô điểm, buồn về chuyện tình duyên cũ: không biết Mai sinh ở đâu mà thoa lại hiện ra đó.

thọ đường: áo quan, quan tài.

nhất đán phi thường: một buổi sáng xẩy ra việc bất ngờ, ý nói là chết.

hung phương: phương hướng xấu, không lành. ý nói: bệnh của hai người cùng nặng cả.

gia thần: người tôi trong nhà, tức là người giúp việc.

mang mẻ: mang vào mình thành bận bịu, phải chịu khó khăn, vất vả. "Nỗi quan hoài mang mẻ xiết bao" (Chinh phụ ngâm). ở đây ý nói: có chịu khó mang thêm được một vợ nữa không?

truy hoan: theo đuổi cuộc vui. ở đây gọi là hợp hoan thì phải hơn. Truy hoan có nghĩa không tốt. Tả Thúc sinh vui thú miên man với Thuý Kiều trong nhà Tú bà, Nguyễn Du viết: "Miệt mài trong cuộc truy hoan", như thế đúng hơn.

quốc phục: quần áo của nước nhà. Lúc đi cống Phiên, Hạnh Nguyên mặc quần áo Phiên.

thác (tiếng cổ): cuốn lên, giương lên. "Bức rèm thưa rủ, thác đòi phen" (Chinh phụ ngâm).

thị lang: một chức quan bực trung trong triều.

từ đường: nhà thờ.

quan hà: cửa quan và sông lớn. ý nói: đường đất đi lại.

cố gia: nhà cũ.

đệ nhất tiểu thư: tiểu thư thứ nhất, con gái cả. Đây là Hạnh Nguyên, nhiều tuổi hơn được làm chị.

Thi thư: kinh Thi, kinh Thư, hai sách chính trong nho giáo. Người thi thư: người có học nhiều.

đôi quả một tay: ý nói: một người có thể lấy hai vợ.

bấy nay giả dối: giấu tên họ không nói thực việc mình.

kinh luân: sửa sang việc chính trị. Tài trị nước.

Long tuyền: tên một thanh gươm quí ngày xưa. Câu thơ ý nói: con người rắn rỏi (thớ cong, rễ quánh), sắc sảo (long tuyền), có tài trị nước an dân.

hạ đường: xuống thềm. Chữ trích trong câu nói của Tống Hoằng trả lời vua Hán Quang vũ. Tống Hoằng đỗ sớm, làm quan to trong triều. Quang vũ có người chị gái muốn lấy Tống Hoằng, vua ướm hỏi Hoằng việc này. Hoằng thưa: "Tao khang chi thê bất hạ đường" nghĩa là người vợ lúc nghèo ăn tấm ăn cám với mình thì không bao giờ truất xuống dưới thềm. Vua biết ý không nói đến việc ấy nữa.

Nga Hoàng, Nữ anh: hai con gái của vua Nghiêu đem gả cả cho ông Thuấn, và truyền ngôi cho ông này, lập nên nhà Ngu.

lão nô: người tớ già. Lời nói nhún mình của Châu công.

năm mây: năm sắc mây, chỉ nhà vua.

thi hương: là kỳ thi ở địa phương liên tỉnh tuyển tú tài cử nhân.

thi hội: là thi ở kinh đô.

thi đình: là thi ở sân vua, đều tuyển tiến sĩ.

quán chỉ: quê quán. Mai sinh khai mạo danh là Mục Vinh, quê ở Đại-danh, nơi sinh đang trú ngụ.

tỉnh thí: kỳ thi ở tỉnh. Mục Vinh đỗ thủ khoa (đỗ đầu).

chân hề: chỉ người hề đồng.

nhảy sóng, hoá long: đi thi trúng tuyển. Ví như chuyện cá vượt Vũ-môn hoá rồng. Ngày xưa, cho rằng rồng là cá chép hoá ra. Cá muốn hoá rồng phải lặn lội ngược dòng sông lên đến cái thác chảy mạnh gọi là Vũ-môn, vượt lên đến cái hồ trên thác mới hoá thành rồng.

tài tử, danh công: người có tài, kẻ có tiếng.

thập đạo: đường cắt nhau hình chữ thập.

cột huyền bảng: cột treo bảng.

đình liệu: cây đuốc dựng trong sân.

vũ môn ba đợt: ý nói: đi thi. Coi việc đi thi như việc cá gáy vợt Vũ-môn để thành rồng.

nhập bạ: vào sổ. Xuân sinh đi thi đội tên là Khâu Khôi, khai quê quán ở Hà-nam.

mẫu cữu: cậu (em mẹ).

nhà nghênh tân: nhà đón khách.

tiêu hao: tin tức.

trường quan, cống sĩ: quan trường và những người đã đỗ ông cống ở các kỳ thi hương, nay vào thi hội.

trường kỳ: kỳ hạn vào thi.

tú khẩu, cẩm tâm: miệng thêu, lòng gấm. ý nói: văn hay.

công chính: công bằng chính trực, không thiên vị.

ưu phân: phân điểm được ưu nghĩa là bậc tốt nhất, cao nhất.

tam khôi: ba lần đỗ đầu: giải nguyên, hội nguyên và đình nguyên, nên cũng gọi là tam nguyên.

thiên ân: ơn trời, tức ơn vua.

ngự tửu: rượu vua ban (có khi là vua dùng). Danh từ ngự nguyên chữ Hán nghĩa là đánh xe, cầm cương ngựa kéo xe. Dùng rộng ra là điều khiển, cai trị, công việc của ông vua: ngự thiện (vua ăn cơm), ngự lãm (vua xem), về sau chỉ cả con người làm việc đó: Ngài ngự (vu(a) "Chẳng đem việc ấy mà tâu ngự cùng" (Cung oán). Rồi thành tích từ: ngự tửu, ngự y (thầy thuố(c) v.v...

cung hoa: hoa trồng trong ngự uyển (vườn nhà vu(a). Chuyện cưỡi ngựa xem hoa là chuyện của các ông trạng, ông thám, sau khi đỗ, được cưỡi ngựa đi xem vườn thượng uyển, và dạo chơi phố phường (du nhai).

ưu hậu: đối đãi đặc biệt (cũng như ưu đãi).

quan chiêm: trông nhìn. ý nói: "người ta trông vào".

bẻ quế cung thiềm: bẻ quế cung trăng, nghĩa là thi đỗ. ý nói: bấy lâu nay mong thi đỗ thì nay được thoả lòng.

khoản trà: mời uống trà.

quyến cố: đoái thương đến.

tiếng Trịnh: tiếng nước Trịnh, tiếng dâm ô. Do con gái nước Trịnh mang tiếng là không đứng đắn.

từ hôn: từ chối không nhận kết hôn. ở đây là không chịu lấy con gái Lư Kỷ.

đắc nhân: được người xứng đáng.

vũ bài: món võ. ý nói: khoan dùng văn (văn bút) hãy đánh một trận đã (vũ bài).

tư lương: lương riêng của mình, ở đây là tiền ăn đường.

tai vách mạch rừng: do câu tục ngữ cổ: "rừng có mạch, vách có tai" nghĩa là kín như rừng cũng có những lối đi nhỏ (mạch) người ta có thể biết được, kín như vách, người ta cũng có thể nghe được. ít lâu nay có một số sách chữa rừng ra dừng. Theo ý người chữa thì dừng là cái dừng của những bức vách trát bằng đất hay bằng vôi, mạch là những cái khe của dừng. Việc chữa này chưa phổ biến và chưa được công nhận.

tội hữu sở qui: tội đã có người chịu.

ngọ môn: cửa chính của hoàng thành.

tiền hô hậu ủng: trước hô sau ủng. Ngày trước, vua chúa hoặc các quan to đi ra, có đông quân lính đi hầu. Đằng trước có lính hô dẹp đường, đằng sau có lính ủng hộ.

người day cánh đoài: tất cả các bản mà chúng tôi đã đọc đều chép cánh đoài. Bản nôm viết chữ đoài là phương tây. không thấy bản nào chú thích chữ cánh đoài và chúng tôi cũng chưa nghiên cứu được nghĩa. Chúng tôi đoán chữ đoài đây là một tiếng cổ hoặc một tiếng địa phương mà bây giờ ta không biết nghĩa nữa. Có thể là một chữ chép sai.

dưỡng tử: con nuôi, ở đây tức là Hoàng Tung

nghĩa phụ: cha nuôi, tức Lư Kỷ.

phân ban: chia hàng bên văn và bên võ, lúc các quan chầu vua.

đan trì: thềm đỏ, thềm nhà vua.

bôn đào: đi trốn.

di tài: bỏ sót người có tài. - Đắc nhân: chọn được người giỏi. Câu thơ ý nói: trong việc chấm thi này, chỉ lo bỏ sót người tài và rất mừng khi chọn được người giỏi.

tình diện: tình ngoài mặt, nể mặt.

trường qui: phép tắc của trường thi.

quyết khoa: đi thi quyết đỗ trong khoa ấy.

tảo vãn: sớm, muộn. ý nói chẳng sớm thì muộn rồi cũng đỗ.

bằng bay, côn nhảy: chim bằng bay, cá côn (thứ cá lớn nhất ngoài bể) nhảy, tiêu biểu cho sự tiến đạt lớn của sĩ tử.

phi vi: ngang trái. Câu thơ nói: đã cắp sách đi học, không dám làm điều ngang trái.

từ qui: từ chối bỏ về, tức là việc Khâu Khôi từ hôn mấy hôm trước.

ngự: nhà vua.

khi quan: khinh quan chức của nhà vua.

nghị hình: xét xử theo luật nước để trị tội bọn hành hung.

tam pháp: ba toà: đô sát, đại lý, hình bộ họp lại thành một toà án đặc biệt để xử những việc quan trọng.

long đình: cái án có chạm rồng, có mui che để chiếu chỉ, sắc lệnh của vua ban ra.

ngục viện: nhà giam.

đồng từ: cùng khai một lời.

khi quân: dối vua, một tội rất lớn.

lộng quyền phi vi: lộng quyền làm xằng.

trở đậu quân cơ: làm ngăn trở chậm trễ việc quân. Nhắc việc Bá Cao can vua đừng đánh Phiên.

can liên (liên can): dính dáng đến, liên luỵ vào.

quan trong: chức quan hầu trong cung, như thị vệ, nội giám v.v...

họ Hoàng: quan hoàng môn thị vệ, hoạn quan. Vì có tiếng họ nên có nơi chú thích lầm là Hoàng Tung.

long côn: roi của vua.

niêm phong: chiếu chỉ của vua viết vào giấy vàng niêm lại.

tận pháp: hết phép nghĩa là dùng hết phép công mà trị tội, không nhân nhượng.

đông cung: cung bên đông, nơi con cả nhà vua (thái tử) ở.

bõ: tiếng gọi những người tôi tớ già ở các nhà vua quan (thị vệ, hoạn quan) ngày xưa. "Bõ già hiểu nỗi xưa sau, Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng" (Cung oán ngâm khú(c). Nhiều bản chép là bố mày và chú giải là do chữ "công công" hoặc "lão công" mà ra. Chúng tôi chưa thấy tiếng Việt phiên âm hoặc dịch nghĩa chữ hán lối ấy. Trong một bản nôm cũ mà chúng tôi đã đọc chép là bõ này. Bản Quan văn đường chép bõ kia. Chúng tôi cho chữ bõ là đúng. ở đây cũng có thể là chữ bô nhưng bô là tiếng tôn trọng không thể đi với này, kia hoặc mày được. Còn danh từ bố mày trong tiếng Việt chỉ có hai nghĩa: ) Tiếng gọi thân mật những người hàng dưới đứng tuổi đã có con cái như tiếng chú mày, dì nó, cô mình. ) Tiếng chửi.

xơi xơi: sa sả (nói sa sả, mắng sa sả).

thanh giản: thanh bạch và giản dị.

nhân tình: do chữ "tố cá nhân tình" nghĩa là thù phụng người đời cho được việc, cho xong chuyện.

án thông phỉ: án thông đồng với giặc.

thiên vàn: bởi chữ "thiên vạn", lời thỉnh cầu tha thiết. ý nói: xin ngài hết sức tra xét việc này.

chiêu: khai ra.

hành lang: dãy nhà chạy dài ở các cung điện để đi lại.

truyện nhi chân, giả: chuyện là thực hay dối, xin vua (đèn trời) xét soi.

bạch oan: tỏ rõ nỗi oan ức.

núi băng: núi nước đá. Câu thơ nhắc lại lời nói của Trương Triện thời Đường, thấy nhiều triều thần coi thừa tướng Dương Quốc Trung như núi Thái-sơn, Trương nói: "Quốc Trung không phải là núi Thái-sơn, chỉ là núi băng, hễ mặt trời mọc là tan". ý nói: gian thần không thể bền vững, khi bị đưa ra ánh sáng chân lý là mặt nạ rơi ngay.

tứ: người trên cho người dưới. Vua ban cho quần thần.

tứ tế: vua ban việc tế, không phải vua ra chủ tế, triều thần làm việc này.

thái bảo: một chức quan cao bậc nhất trong triều.

học sĩ: một chức quan văn học vào bậc cao.

yếu thanh: trọng yếu và thanh cao.

đô ngự sử: chức quan làm nhiệm vụ hạch những tội lỗi và tâu lên vua (hạch tấu).

trật gia tam cấp: được thăng ba bậc.

khai táng: mở huyệt ra táng lần nữa tức là cải táng (bốc mộ).

duyên đồ hộ tống: đi đưa đám về đến quê nhà.

tuần thú: đi xem xét trong nước thay vua.

tiện hành: tiện nghi hành sự nghĩa là tuỳ ý mình nên làm thế nào thì làm thế ấy (một quyền hành rất to cũng như quyền "chém trước tâu sau".).

đại tuần: thay vua đi tuần thú.

hoàn hôn ngự tứ nghênh thân: vua cho (ngự tứ) đón dâu về (hoàn hôn) làm lễ thành hôn (nghênh thân).

áo thôi ma: áo sô gai, áo để tang cha mẹ.

tảo phần: quét dọn mồ mả (cũng như danh từ tảo mộ thường dùng).

điển nghi: điển chương và nghi thức nghĩa là theo phép nước, thể lệ triều đình, các quan trong triều (triều thần) cùng có mặt trong buổi lễ.

sinh lễ: đồ lễ bằng súc vật: trâu, bò, dê, lợn.

tam sinh: trâu, dê, lợn.

tư thình: cỗ xôi.

trung hiếu nhất môn: trung và hiếu ở một cửa, nghĩa là một nhà có cả trung, hiếu. Mai Bá Cao can vua đừng nghe gian thần là trung, Mai lương Ngọc đỗ trạng làm cho cha mẹ hiển vinh là hiếu.

linh cữu: quan tài đựng xác chết có tính cách thiêng liêng.

tính biểu: lá cờ nêu việc tốt. Những người có tài cao đức trọng thường được biểu dương bằng cờ, biển, bằng bia đá, tượng đồng. ở đây nói Hỉ đồng chết vì nghĩa đáng được ghi ơn.

hiếu sự: việc hiếu, việc tang.

quân dung: nghị vệ của quân đội.

giới trượng: khí giới của quân lính.

biển kỳ: biển và cờ biểu hiện của quân đội, dùng lúc hành quân hoặc lúc hạ trại.

hậu đường: nhà sau, nhà trong.

Hầu Loan phụng: Hầu Loan thờ cúng. Chữ đề trên bài vị Lư Kỷ do Hầu Loan lập lên.

tuần phủ: ở đây là chức thay vua đi tuần thú, không phải chức quan đầu tỉnh sau này.

ti tiểu: thấp, bé, một cách nói khiêm tốn có phần hèn nhát trong trường hợp này.

thượng hiến: quan trên.

nhất tự: hàng chữ nhất.

tam liên: ba hồi trống liền.

tuần thú đại thiên: đi tuần thú thay trời (tức thay vua đã nói trên).

khâm kỳ: kỳ hạn đi khâm mạng tức thay vua đi tuần thú.

mã đầu: bến tàu đỗ.

linh sàng: giường thiêng tức giường thờ người chết.

tụ đầu: sum họp với nhau.

vương mệnh tại thân: đương mang mệnh vua ở mình. ở đây ý nói: đang thay vua đi tuần thú.

táng sự: việc chôn cất.

thái kỳ: cờ có nhiều vẻ (màu sắc).

tam huyền: đàn ba dây.

song vần: đàn nhị hai dây.

ngũ thục: năm thức ăn nấu chín, cỗ chín.

minh tinh: mảnh lụa đỏ hay vải đỏ dài, có viết tên họ và chức phẩm người chết, treo lên một cành nêu hoặc dán vào một cái khung, dẫn đi trước linh cữu lúc đưa ma.

đường triều thái bảo: chức thái bảo của vua Đường tặng Mai công.

hạ liêu: quan cấp dưới, thuộc viên.

phù quan: nâng đỡ quan tài, đi theo quan tài.

phương du: màn vuông che cho tang gia đi sau áo quan

tùng thu: cây thông và các loại tùng bách bốn mùa lá xanh người ta hay trồng ở mộ địa.

sảng khải: sáng sủa, cao ráo.

ngưu miên: đất trâu ngủ nghĩa là nơi đất để mồ mả tốt theo thuật phong thuỷ ngày xưa.

nhiêu: tha.

thứ nhân: dân thường.

tế điện: tế theo lễ đám tang.

khấu đầu bách bái: cúi đầu trăm lạy.

phân hào: mảy lông. ý câu thơ nói: mảy lông, sợi tóc cũng không lầm lẫn.

cực phẩm tể thần: chức tể tướng đứng đầu triều.

khâm thiên giám: toà thiên văn coi việc làm lịch, xem ngày tốt xấu, thời tiết thay đổi.

đại cát: tốt lắm, rất tốt, ý câu thơ nói chọn ngày tốt để làm lễ cưới (động phòng nghênh thân).

minh mị: tươi sáng đẹp đẽ.

ngày hoàng đạo: ngày tốt nhất trong một tháng.

giờ thiên ân: một giờ thuộc vì sao tốt trong số tử vi.

khí ngoạn kim ngân: đồ dùng và đồ chơi bằng vàng bạc.

hoa quan: mũ giáp hoa.

phân đạo: chia đường.

cung trang: mặc theo lối phi tần trong cung nhà vua.

lễ sính: lễ cưới.

chân chỉ hạt trai: những cái tua ở chân xiêm, áo, màn... làm bằng chỉ có đính hạt cườm, nom như ngọc trai. Đây là diềm bành ngựa có cườm.

thơ đào: thơ "đào yêu" (đào non) trong Kinh Thi có câu: "Đào chi yêu yêu, kỳ diệp trăn trăn, chi tử vu qui, nghi kỳ gia nhân" nghĩa là cây đào mơn mởn, cành lá rườm rà, gái về nhà chồng, hoà thuận trong nhà.

thánh tiền: trước mặt nhà vua.

bồi yến: hầu tiệc. Ngự diên: tiệc rượu nhà vua, tức là được ngồi dự tiệc với vua.

ngự chúc: nến của vua ban.

tân phụ: con gái mới lấy chồng. ở đây là vợ Mai sinh và vợ Trần sinh.

từ cung: mẹ vua, hoàng thái hậu.

truân hiểm: gian truân, nguy hiểm.

xướng tuỳ: do chữ "phu xướng phụ tuỳ" nghĩa là chồng nói vợ nghe (theo quan niệm vợ chồng thời phong kiến).

ngọc xuyến, kim hoa: xuyến ngọc, hoa vàng.

lông phượng gót lân: ý nói con cháu như lông chim phượng, như gót kỳ lân, nghĩa là nhiều và giỏi.

ngũ quế: năm cành quế, nhắc việc họ Đậu ở đất Yên-sơn (Đậu Vũ Quân) khéo dạy năm con trai đều hiển đạt.

bát đồng: tám cây ngô đồng, nhắc việc họ Hàn có tám con trai đều thành đạt.

lò hoá công: do câu "Thiên địa vi lô, tạo hoá vi công", nghĩa là trời đất là cái lò, tạo hoá là người thợ. Quan niệm xưa cho mọi việc trên đời là phải qua tay thợ nặn ra, cho tròn thì được tròn, bóp méo thì phải méo.

bạn kim lan: bạn bè thân mật, tình nghĩa bền thắm như vàng, khí vị thơm như hoa lan.

bình cư: ở bằng phẳng. ý nói: đời sống bình thường.

đạo hằng: đạo thường. ý nói ăn ở bình thường, ngay thẳng, có đạo đức.

tự khi: tự đốt mình.

nam tử tu mi: con trai râu mày (râu mày tiêu biểu cho con trai).

quân ân: ơn vua.

vị thân: vì mình, cũng như tiếng ích kỷ.

phúc trạch: phúc của tổ tiên để lại cho con cháu (cũng như phúc ấm).

Đảng Tiến, Đông Sơ: hai bạn thân của Mai Bá Cao đương làm quan to tại triều.

loan hoàng: chim phượng hoàng thường đỗ cây cao, những cành thấp bụi gai không xứng với loài chim quí ấy. Ngụ ý: chức tri huyện Lịch-thành không xứng với tài Bá Cao, nên dân không dám giữ lại.

Khấu quân: tức Khấu Tuân đời Đông Hán, làm quan thái thú ở Trường-xã được nhân dân rất quí mến. Lúc Khấu đi đánh giặc có công, được thăng chức và đổi đi nơi khác nhân dân làm đơn ái mộ, (yêu mến), vua Quang Vũ nghĩ đến tình dân cho Khấu ở lại một năm.

Miệng sàm: những kẻ gièm pha (sàm) hay bịa đặt ra nhiều điều (thêu dệt).

theo đòi: ý câu thơ nói: cứ thù phụng, đút lót ít nhiều như người đời vẫn thường làm là được.

Đề thơ tứ tuyệt thất ngôn một bài:

"Mấy dãy hoàng mai ngất bóng gần

Móc mưa một trận giục tin xuân

Hoa đêm xưa thế, đêm này thế

Rụng lại thêm tươi, dễ mấy lần!"

Tạ, Vương, Nguyễn, Đào: là những nhà phong lưu phú quí ở đất Giang-tả đời Tấn. ở đây, định tả cảnh phồn hoa bậc nhất ở Dương-châu.

hiếu trung: trung hiếu tiết nghĩa là bốn đức rất quí thời phong kiến. Truyện Nhị độ mai có trung như Mai Bá Cao, hiếu như Lương Ngọc, Xuân sinh, tiết như Hạnh Nguyên, nghĩa như Trần Đông Sơ, Hỉ đồng nên gọi là truyện trung hiếu tiết nghĩa.

Bởi câu chữ Hán "tú khẩu cẩm tâm", nghĩa là miệng thêu, lòng gấm. Ý nói văn hay (ý nghĩ và lời nói cùng đẹp).

Bốn câu thơ của Xuân sinh:

"Mấy sắc mai hoa bóng dễ gần,

Khác chi hớn hở một nhà xuân,

Chứng cho trời khiến hoa kia nở,

Xưa một lần, nay lại một lần."

Bài thơ của Hạnh Nguyên:

"Phẩm mai quí cách bấy hoa gần

Lũ trẻ lòng thành hoá lại xuân

Trời chớ dứt lòng trung nghĩa ấy

Nên cho hoa lại nở hai lần."

Thơ hoạ của Mai sinh:

"Não người chi bấy, hỡi chung tình!,

Nông nỗi nào ai tỏ với mình?

Dễ vạch tơ sầu tìm lấy mối

Khôn đem nét thảm vễ nên tranh

Gieo lầu dám ép tình Trương phụ

Ôm cột thêm buồn phận Vĩ sinh

Rắp những vạch trời kêu một tiếng

Não người chi bấy, hỡi chung tình!."

Bài thơ của Hạnh Nguyên:

"Thổi lá ngô đồng trận gió thu,

Nhàm tai tiếng lạ khiến người sầu.

Chớ rằng: riêng một lòng ta thảm,

Trăm vạn người theo cũng cúi đầu."

Thơ vịnh miếu:

"Nước tuyết, cơm chiên, vững thước cầm,

Truyền thơ cậy đã nhạn về thăm.

Trong tay cờ tiết nên trung hiếu,

Giận phải chăn dê mười chín năm".

Bài thơ của Hạnh Nguyên:

"Hòm áo Trung-nguyên phó giữa dòng,

Kêu xin Hà Bá giữ cho cùng,

Rắp đem mạng bạc theo dòng bích,

Trung thổ còn gần chửa quyết xong".

Bài thơ để lại:

"Đem thân nhi nữ trả ơn vua,

Khiếp ngọn kim phong giục vó lừa.

Cung Hán đến nay tang hải bấy!

Nhạn môn còn vẳng tiếng tỳ bà".

Thơ của Xuân sinh:

"Tốt đẹp, ưa nhìn, lọ điểm trang,

Nâu gai ăn đứt vẻ nghê thường.

Ví dù sắm sửa xênh xoang gió,

Ngờ những Hằng Nga xuống một phương"

Thơ của Ngọc thư:

"Chiều thanh vẻ quý, có nhường ai?

Bỗng chốc đem thân vướng áo chài.

Tiếng sấm đất bằng đành có lúc,

Cành hoa thượng uyển há nhường ai".

So với câu:

"Từ con lưu lạc quê người,

Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm" trong Truyện Kiều.