nhỮng anh hÙng lỰc lƯỢng vŨ trang nhÂn dÂn viỆt...

14
NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIỮ GÌN NỀN ĐỘC LẬP CỦA TỔ QUỐC TRONG THẾ KỶ XX LÀ NGƯỜI TÀY, NÙNG Ở CAO BẰNG Hoàng Triều Nam (Dân tộc Tày Cao Bằng) Ngày 28 tháng 1 năm 1941, sau 30 năm đi nhiều nước trên thế giới tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã trở về Pác Bó (Cao Bằng). Tại đây, Người đã dạy bảo nhân dân các dân tộc ở Cao Bằng giác ngộ cách mạng theo Đảng Cộng Sản cứu nguy cho Tổ quốc, tự cứu lấy mình thoát khỏi ách nô lệ. Người đã trực tiếp xây dựng tỉnh Cao Bằng trở thành một trong những căn cứ địa cách mạng trước năm 1945. Người đã chỉ thị cho đồng chí Văn trực tiếp hoạt động trên đất Cao Bằng sau đó thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Đồng chí Văn là đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đội quân này có 34 chiến sỹ, trong đó có 16 người Tày, 5 người Nùng đều quê ở Cao Bằng 1 1 16 chiến slà người Tà y Cao Bng trong 34 chiến sĐội Vi t Nam Tuyên truyn Gi i phóng quân gm: 1. Dương Mc Thch, xã Minh Tâm, huyn Nguyên Bình 2. Nguyn Văn Cà ng, xã Hng Vit, huyn Hoà An 3. Đà m Quc Chng, xã Bình Long, huyn Hoà An 4. Hà Hưng Long, xã Nam Tun, huyn Hoà An 5. Hoà ng Thế An, xã Đà o Ngn, huyn Hà Qung 6. Bế Bng, xã Hng Vit, huyn Hoà An 7. Bế Văn St, xã Bình Long, huyn Hoà An 8. Tô Văn Cm, xã Tam Kim, huyn Nguyên Bình 9. Trương Văn Cù, xã Minh Tâm, huyn Nguyên Bình 10. Tô Vũ Dâu, xã Vinh Quang, huyn Hoà An 11. Chu Văn Đế, xã Minh Tâm, huyn Nguyên Bình 12. Nông Văn Kiếm, xã Tam Kim, huyn Nguyên Bình 13. Đinh Văn Kinh, xã Lê Li, huyn Thch An 14. Hoà ng Văn Nhùng, xã Sóc Hà , huyn Hà Qung 15. Nguyn Văn Phán, xã Hng Vit, huyn Hoà An 16. Mc Văn Phiêu, xã Minh Tâm, huyn Nguyên Bình 5 Chiến sĩ là người Nùng Cao Bng trong 34 chiến sĐội Vit Nam Tuyên truyn Gii phóng quân gm: 1. La Thanh, xã Trường Hà, huyn Hà Qung 2. Lương Quý Sâm, xã Nà Sác, huyn Hà Qung

Upload: others

Post on 11-Sep-2019

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP ĐẤU TRANH GIỮ GÌN

NỀN ĐỘC LẬP CỦA TỔ QUỐC TRONG THẾ KỶ XX

LÀ NGƯỜI TÀY, NÙNG Ở CAO BẰNG

Hoàng Triều Nam

(Dân tộc Tày Cao Bằng)

Ngày 28 tháng 1 năm 1941, sau 30 năm đi nhiều nước trên thế giới tìm đường cứu

nước, Bác Hồ đã trở về Pác Bó (Cao Bằng).

Tại đây, Người đã dạy bảo nhân dân các dân tộc ở Cao Bằng giác ngộ cách mạng

theo Đảng Cộng Sản cứu nguy cho Tổ quốc, tự cứu lấy mình thoát khỏi ách nô lệ. Người

đã trực tiếp xây dựng tỉnh Cao Bằng trở thành một trong những căn cứ địa cách mạng

trước năm 1945. Người đã chỉ thị cho đồng chí Văn trực tiếp hoạt động trên đất Cao

Bằng sau đó thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Đồng chí Văn là đại

tướng Võ Nguyên Giáp. Đội quân này có 34 chiến sỹ, trong đó có 16 người Tày, 5 người

Nùng đều quê ở Cao Bằng1

1 16 chiến sỹ là người Tà y Cao Bằng trong 34 chiến sỹ Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải

phóng quân gồm: 1. Dương Mạc Thạch, xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình

2. Nguyễn Văn Cà ng, xã Hồng Việt, huyện Hoà An

3. Đà m Quốc Chủng, xã Bình Long, huyện Hoà An

4. Hà Hưng Long, xã Nam Tuấn, huyện Hoà An

5. Hoà ng Thế An, xã Đà o Ngạn, huyện Hà Quảng

6. Bế Bằng, xã Hồng Việt, huyện Hoà An

7. Bế Văn Sắt, xã Bình Long, huyện Hoà An

8. Tô Văn Cắm, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình

9. Trương Văn Cù, xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình

10. Tô Vũ Dâu, xã Vinh Quang, huyện Hoà An

11. Chu Văn Đế, xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình

12. Nông Văn Kiếm, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình

13. Đinh Văn Kinh, xã Lê Lợi, huyện Thạch An

14. Hoà ng Văn Nhùng, xã Sóc Hà , huyện Hà Quảng

15. Nguyễn Văn Phán, xã Hồng Việt, huyện Hoà An

16. Mạc Văn Phiêu, xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình

5 Chiến sĩ là người Nùng Cao Bằng trong 34 chiến sỹ Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải

phóng quân gồm: 1. La Thanh, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng

2. Lương Quý Sâm, xã Nà Sác, huyện Hà Quảng

Page 2: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Ngay sau ngày thành lập, đội quân này đã đánh thắng trọn vẹn hai đồn Phai Khắt, Nà

Ngần (đồn của giặc Pháp thuộc huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng). Đó là tiếng trống trận

đầu tiên của sự nghiệp giải phóng dân tộc làm nức lòng cả nước.

Cùng với đồng đội, các chiến sĩ người Tày, người Nùng chiến đấu thông minh, quả

cảm là tấm gương thôi thúc những thế hệ tiếp theo tiếp tục xông trận. Các đồng chí đã

góp phần giành thắng lợi trong việc giải phóng tỉnh nhà ngày 22 tháng 8 năm 1945, giải

phóng biên giới Cao Lạng tháng 10 năm 1950, giải phóng Điện Biên Phủ lẫy lừng năm

châu bốn biển năm 1954,…

Hàng ngàn trai tráng người Tày, người Nùng ở Cao Bằng lại tiếp tục tham gia các

đội quân Nam Tiến, các tiểu đoàn quân mang tên Phai Khắt, Nà Ngần,… Nhiều đồng chí

đã xông trận đánh Mỹ cứu nước đến trận cuối cùng ngày 30 tháng 4 năm 1975, hoàn

thành sự nghiệp thống nhất đất nước, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Nhiều chiến sỹ đã chiến đấu, đạt được những thành tích vẻ vang, được Đảng, Chính

phủ, Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, là những tấm

gương sáng chói muôn đời mai sau ghi tạc.

Trong khuôn khổ hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ IV với chủ đề "Sự đóng góp

của các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Tày - Thái vào tiến trình lịch sử Việt Nam" chúng

tôi chưa đủ điều kiện biên soạn đầy đủ và liệt kê hết các anh hùng lực lượng vũ trang

nhân dân Việt Nam. Chúng tôi mới chỉ sưu tầm được 20 vị anh hùng sau đây:

1. Anh hùng La Văn Cầu

Trong trận đánh biên giới ở đồn Đông Khê, quân thù bắn cánh tay anh gẫy nát. Anh

đã yêu cầu đồng đội cắt cánh tay, rồi ôm bộc phá lên đánh tan lô cốt giặc.

Anh La Văn Cầu sinh năm 1932, dân tộc Nùng, quê xã Quang Thành, huyện Trùng

Khánh, tỉnh Cao Bằng.

Cha anh Cầu bị giặc Pháp bắt, đánh đập dã man rồi chết.

3. Giáp Ngọc Pàng, xã Hoàng Tung, huyện Hoà An

4. Long Văn Mần, xã Bình Long, huyện Hoà An

5. Dương văn Dấu, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng

(Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam Nxb QĐND trang 342-343)

Page 3: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Anh căm thù giặc, năm 16 tuổi, anh khai tăng lên 18 tuổi tình nguyện xin vào bộ

đội. Anh nhanh nhẹn, hoạt bát, quyết chí đi đánh giặc nên được chấp nhận tòng quân.

Anh phấn khởi ra sức học tập và rèn luyện. Anh còn tích cực giúp đỡ đồng đội nên

được nhiều người quý mến.

Anh đã chiến đấu 29 trận. Trận nào anh cũng gương mẫu, chấp hành nghiêm mệnh

lệnh. Trận nào anh cũng đánh thắng.

Năm 1949, trong trận phục kích đánh giặc ở đèo Bông Lau (đèo giáp ranh giữa hai

tỉnh Lạng Sơn - Cao Bằng). Anh ở tổ xung kích. Khi nổ súng, xung phong, anh phát hiện

một tên giặc ngồi trong xe tăng. Anh nổ súng, tên giặc chết ngay, anh liền nhảy lên xe

cướp súng. Vừa lúc đó, ngoảnh lại phía sau, có 3 tên giặc xông đến, anh dùng súng vừa

cướp được bắn gục 3 tên giặc. Anh nhảy ra khỏi xe, truy lùng tiếp và bắn giết thêm 6 tên

giặc nữa.

Năm 1950, quân ta đánh vào đồn Đông Khê (huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng). Lần

đánh thứ nhất, anh đau chân nhưng kiên quyết xin đi chiến đấu. Trận đánh gặp khó khăn,

đơn vị bạn bị thương nhiều. Anh Cầu đã động viên đồng đội, trong đó có nhiều chiến sỹ

mới nhập ngũ băng bó và cõng hết số thương binh này về nơi an toàn. Riêng anh Cầu,

trên đường rút về, quân địch phản kích dữ dội, anh đau chân, rất mệt vẫn vác được khẩu

12 ly 7 vừa cướp được từ tay giặc an toàn về tới đơn vị.

Lần đánh thứ hai (cùng năm 1950), anh Cầu được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm

nhiệm vụ phá hàng rào đồn địch và đánh lô cốt ở đầu cầu.

Phá được hai hàng rào thì hai đồng chí trong tổ bị thương. Địch tập trung hoả lực

bắn dữ dội vào cửa mở, phá huỷ mất một số bộc phá ống. Để dành bộc phá đánh lô cốt,

anh Cầu đã động viên đồng đội tháo gỡ mìn của giặc cài trong hàng rào đồn, bản thân anh

anh dũng xông lên dùng mìn phá nốt hai hàng rào cuối cùng. Khi tiến đánh lô cốt, trong

tổ có nhiều người bị thương, anh Cầu hăng hái xông lên làm nhiệm vụ. Vượt được hàng

rào đến hào giao thông thứ ba thì anh Cầu bị thương, ngất đi. Khi tỉnh dậy, thấy cánh tay

bị đạn giặc bắn gãy nát, anh Cầu gặp đồng đội liền khẩn thiết “yêu cầu đồng chí của mình

chặt hộ cánh tay nát để khỏi vướng”, rồi tiếp tục ôm bộc phá xông lên, phá tan lô cốt giặc

ở đầu cầu, mở đường cho đơn vị xông lên diệt gọn đồn giặc.

Page 4: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Tấm gương quả cảm đánh giặc của anh La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua diệt

giặc lập công trong đơn vị. Anh là lá cờ đầu của phong trào thi đua sử dụng bộc phá công

đồn, một chiến thuật mới của quân đội ta từ chiến dịch biên giới năm 1950.

Anh La Văn Cầu được tặng thưởng một Huân chương Quân công hạng 3. Tháng 5

năm 1952, trong đại hội Anh hùng và Chiến sỹ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, anh Cầu

được Chính phủ và Hồ Chủ Tịch tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

Ngày 19 tháng 5 năm 1952, anh La Văn Cầu được Chính Phủ và Hồ Chủ Tịch tặng

danh hiệu Anh hùng lực lưỡng vũ trang nhân dân.

Lúc đó, anh là tiểu đội trưởng bộ binh thuộc C671, E73, đại đoàn 316. Anh Cầu là

đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Anh hùng liệt sỹ Bế Văn Đàn

Trong trận đánh năm 1954 ở Mường Pồn, anh lấy thân mình làm giá súng, đã hy sinh

anh dũng.

Anh Bế Văn Đàn, sinh năm 1931, dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh, huyện Phục Hoà,

tỉnh Cao Bằng. Khi hy sinh, anh là tiểu đội phó tiểu đội bộ binh thuộc Đại đoàn 316. Anh là

đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Mẹ anh Đàn mất sớm. Cha làm thợ mỏ, chú của anh

hoạt động cách mạng bị giặc Pháp giết. Anh căm thù giặc. Tháng 1 năm 1949, anh xung

phong vào bộ đội. Anh tham gia đánh giặc nhiều trận. Anh dũng cảm, chấp hành nghiêm

mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Anh Bế Văn Đàn nổi tiếng là người anh hùng trong trận đánh ở Mường Pồn. Anh

được thưởng huân chương Quân công hạng nhì.

Đó là trận đánh của quân đội ta đầu năm 1954. Quân địch rút chạy từ thị xã Lai Châu

(tỉnh Điện Biên hiện nay) về co cụm và củng cố thêm cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Khi chúng đóng quân ở Mường Pồn thì bị bộ đội ta bao vây.

Lần đó, anh Đàn làm liên lạc tiểu đoàn đưa đơn vị hành quân đi chiến dịch. Một đại

đội của tiểu đoàn quân ta được giao nhiệm vụ đánh địch ở Mường Pồn. Quân địch quan

sát thấy lực lượng ta ít, chúng huy động hai đại đội có phi pháo yểm hộ liên tiếp phản

kích. Nhưng cả hai lần, chúng đều bị quân ta đánh bại. Tình hình chiến đấu rất căng

thẳng. Địch liều chết nống ra. Ta kiên quyết ngăn chặn. Có lệnh cho đại đội giữ vững trận

Page 5: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

địa để đơn vị lớn triển khai lực lượng của chiến dịch. Anh Bế Văn Đàn vừa đi công tác

về, anh xung phong nhận nhiệm vụ vượt qua lửa đạn truyền đạt lệnh này cho đại đội.

Tình hình chiến đấu thêm ác liệt, quân địch phản công lần thứ ba. Đại đội bị thương vong

chỉ còn 17 người. Anh Bế Văn Đàn cũng bị thương. Một khẩu trung liên của đơn vị

không bắn được vì xạ thủ đã hy sinh. Khẩu trung liên của anh Chu Văn Pù cũng chưa bắn

được vì không có chỗ đặt súng. Anh Bế Văn Đàn căm thù quân địch đến tột độ trước sự

hy sinh của đồng đội. Anh không còn ngần ngại gì, chạy lại cầm hai chân khẩu trung liên

và hô bắn. Anh nói: "Pù, kẻ thù trước mặt, anh có thương tôi và đồng đội, thì bắn! Bắn

chết chúng nó đi!".

Anh Pù nghiến răng nhả đạn. Quân địch ngã liên tiếp hàng chục tên, hoảng loạn bỏ

chạy.

Anh Bế Văn Đàn khi đứng làm giá súng, bị thêm hai vết thương nữa, anh đã anh

dũng hy sinh "hai tay còn ghì chặt chân súng trên vai". Tấm gương của anh Đàn truyền

khắp đơn vị, cán bộ, chiến sỹ quyết tâm xông lên tiêu diệt quân thù, đem lại toàn thắng

cho chiến dịch.

Trong đại hội mừng công của đơn vị, anh Bế Văn Đàn được truy bầu là chiến sỹ thi

đua số một của đại đoàn, được truy tặng Huân chương chiến công hạng nhất.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, Chủ tịch nước truy tặng Huân chương Quân công hạng

nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho anh Bế Văn Đàn.

Khi kết thúc chiến dịch, 17 đồng chí của đại đội còn sống sót, thương khóc anh Đàn.

Nhà thơ lớn Xuân Diệu đã có bài cảm niệm:

Mộ Bế Văn Đàn

Thời gian ngừng bước, lặng im

Bên mồ liệt sĩ, trái tim ta dừng

Trái tim ta - cũng ngập ngừng

Nửa chừng giọt lệ, nửa chừng lời ca.

Và giới nhạc sĩ đã sáng tác bài hát “Bế Văn Đàn một tâm hồn vĩ đại”.

Nhân dân Hà Nội đã đặt tên anh Bế Văn Đàn cho một trường học ở quận Đống Đa.

Page 6: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Thị xã Cao Bằng đã đặt tên anh Bế Văn Đàn cho một đường phố dài nhất, có đông

dân cư cư trú nhất.

Thành phố Điện Biên Biên có đại lộ Bế Văn Đàn.

Anh Bế Văn Đàn được chọn ghi trong cuốn sách “Từ điển nhân vật lịch sử Việt

Nam” do Nhà xuất bản khoa học xã hội ấn hành năm 1992.

3. Anh hùng liệt sỹ Bế Văn Thành

Hoạt động trên chiến trường Trị Thiên và Tây Nguyên, khi làm chiến sỹ vận tải, anh

đã chuyển được 60 tấn hàng an toàn ra mặt trận.

Anh Bế Văn Thành sinh năm 1946, dân tộc Tày, quê ở xã Hồng Quang, huyện

Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng. Khi anh hy sinh là thượng sĩ, trung đội phó thuộc C3 bộ

binh, D1, E48, sư đoàn 320, Quân đoàn 3. Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam .

Anh vào bộ đội tháng 5/1966. Anh hoạt động trên chiến trường Trị Thiên và Tây

Nguyên.

Thoạt đầu, anh là chiến sỹ vận tải. Anh Thành thông minh, sáng tạo, vượt mọi nguy

hiểm, chuyển được 60 tấn hàng ra mặt trận, đảm bảo số lượng, chất lượng, đúng thời gian

quy định, an toàn.

Ngày 3 tháng 4 năm 1973, trong trận đánh địch ở Trị Thiên, quân địch đông lại có

xe tăng, pháo binh, máy bay yểm hộ, phản kích vào trận địa chốt của ta. Anh Bế Văn

Thành bình tĩnh, động viên anh em chiến đấu. Lúc hết đạn, anh Thành cướp được súng

cối của địch. Súng không còn bàn đế, anh tì súng vào mũ sắt bắn trúng đội hình của địch,

tiêu diệt nhiều tên, giữ vững chốt.

Trận này anh Bế Văn Thành diệt 10 tên địch, bắt sống 3 tên, thu 6 súng.

Năm 1974, trong trận tiêu diệt căn cứ Làng Siêu, anh Bế Văn Thành chỉ huy một

đơn vị đã nhanh chóng dũng cảm đánh chiếm lô cốt địch ở đầu cầu, tạo điều kiện cho

toàn đơn vị xông lên tiêu diệt căn cứ của địch.

Sau khi đã diệt xong xe bọc thép và một số hoả điểm của địch ở hướng cửa mở, anh

Bế Văn Thành tiếp tục dẫn đầu đơn vị xông lên chiếm đỉnh cao. Anh hướng dẫn đồng đội

tiêu diệt từng mục tiêu của địch.

Page 7: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Trận đánh sắp kết thúc thì anh Bế Văn Thành bị thương nặng. Anh trao súng cho

đồng đội và động viên mọi người tiếp tục truy quét địch. Anh đã hy sinh. Đồng đội khâm

phục anh là tấm gương thông minh, quả cảm, bình tĩnh, gan dạ diệt giặc thôi thúc đơn vị

hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Anh Bế Văn Thành được tặng:

1 Huân chương chiến công giải phóng hạng nhất.

2 Huân chương chiến công giải phóng hạng ba

4 lần được tặng danh hiệu Dũng sĩ và được tặng 8 bằng khen.

Ngày 06 tháng 11 năm 1978, Chủ tịch nước truy tặng anh Bế Văn Thành danh hiệu

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

4. Anh hùng Triệu Xuân Tâng

Làm tròn nhiệm vụ quốc tế của Đảng giao cho.

Anh Triệu Xuân Tâng sinh năm 1946, dân tộc Nùng, quê xã Quốc Dân, huyện

Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.

Anh vào bộ đội tháng 5 năm 1966. Khi được tuyên dương Anh hùng, anh là Trung

đội trưởng Bộ binh, thuộc đoàn 28 khu Tây Bắc. Anh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt

Nam.

Từ năm 1967 đến năm 1973, anh Tâng làm nhiệm vụ giúp Lào xây dựng cơ sở cách

mạng ở tỉnh Luông Pha - Bang.

Điều kiện hoạt động có nhiều khó khăn, gian khổ, ác liệt, anh Tâng kiên trì bám đất,

bám dân, tuyên truyền vận động nhân dân tham gia cách mạng. Anh kiên trì học thành

thạo tiếng Lào, tạo điều kiện gần gũi nhân dân để tuyên truyền giáo dục quần chúng có

hiệu quả. Sống với nhân dân, anh Tâng giúp đỡ người già, trẻ em, nên anh được nhân dân

tin yêu. Kết quả, anh Tâng đã cùng cán bộ địa phương xây dựng được cơ sở cách mạng ở

10 xã, bồi dưỡng 7 cán bộ trong huyện.

Trong chiến đấu, anh Tâng dũng cảm, mưu trí, chấp hành nghiêm mệnh lệnh. Anh đã

chỉ huy trung đội diệt trên 100 tên địch, riêng anh diệt được 26 tên.

Tháng 2 năm 1968, anh Tâng cùng một chiến sĩ đi xây dựng cơ sở cách mạng ở Bắc

Huội Nhang. Tổ đang làm nhiệm vụ thì lộ, địch bao vây, đánh úp, đồng đội bị hy sinh.

Page 8: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Anh Tâng kiên trì diệt địch, giết được 8 tên. Khi rút lui, anh Tâng cõng được tử sĩ về mai

táng chu đáo.

Ngày 14 tháng 4 năm 1972, trong trận đánh Phu Đăm, anh Triệu Xuân Tâng chỉ huy

tổ mũi nhọn, đã nhanh chóng chọc thẳng vào vị trí địch, diệt sở chỉ huy, tạo điều kiện cho

đơn vị xông lên diệt gọn một đại đội của địch. Riêng anh Tâng diệt 20 tên.

Anh Tâng hết lòng giúp bạn xây dựng cơ sở cách mạng, yêu thương đồng đội, chấp

hành tốt kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh, anh đã làm tròn nhiệm vụ quốc tế

của Đảng giao.

Anh được thưởng: 3 Huân chương chiến công hạng nhì, 1 Huân chương chiến công

hạng ba, 6 bằng khen và giấy khen.

Ngày 31 tháng 12 năm 1973, Chủ tịch nước tặng anh Triệu Xuân Tâng danh hiệu

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

5. Anh hùng Dương Đức Thùng

Nêu cao tinh thần quốc tế vô sản, dũng cảm, mưu trí, gương mẫu đi đầu trong mọi

việc giúp đỡ nhân dân Bạn làm cách mạng.

Anh Dương Đức Thùng, sinh năm 1954, dân tộc Nùng, quê ở xã Quốc Toản, huyện

Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng.

Anh vào bộ đội tháng 8 năm 1974.

Khi được tuyên dương Anh hùng, anh Thùng là chuẩn uý, đại đội trưởng đại đội

Công binh, E4, Lữ đoàn 25, Quân đoàn 4. Anh là đoàn viên Đoàn Thanh niên Cộng sản

Hồ Chí Minh.

Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, tháng 4 năm 1975, anh Thùng làm nhiệm vụ ở

nhiều xã thuộc huyện Kiêng Vay, tỉnh Kăng Đan, trên đất bạn Cămpuchia.

Anh Thùng tự xác định muốn làm tốt công tác vận động quần chúng thì phải học tiếng

Cămpuchia nên chỉ sau một thời gian ngắn, anh nói được tiếng Cămpuchia.

Tháng 2 năm 1979, anh Thùng là đội trưởng công tác phát động quần chúng ở xã

Đông. Nhân dân trong xã đói khổ, bệnh tật. Địch ra sức tuyên truyền xuyên tạc chủ trương,

chính sách của Đảng và Mặt trận Campuchia. Anh Thùng đã đi sâu vào quần chúng vạch

trần những luận điệu sai trái của địch cho quần chúng. Thấy dân đói rách, anh Thùng có

Page 9: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

hai bộ quần áo, anh biếu một bộ cho một cụ già. Thấy nhiều em bé ghẻ bẩn, anh đã tắm

rửa cho các em. Thấy nhà dân bẩn, anh quét dọn vệ sinh sạch sẽ. Có lần thấy một người

bị rắn độc cắn, mê man, anh Thùng nhanh chóng tìm cây lá chữa chạy, giải độc cho nạn

nhân. Có người có ý đồ xấu đòi tiêm thuốc độc hại nạn nhân, anh biết và kiên quyết

không cho tiêm. Sau chừng 20 phút, nạn nhân này tỉnh, sau một giờ đồng hồ thì hồi phục

sức khoẻ. Một lần gặp một chị đến cơn đẻ, nhưng đẻ rất khó, anh tìm thứ lá thuốc gia

truyền cho uống, giúp chị đẻ an toàn. Nhân dân trong xã tin yêu anh. Nhân dân trong xã bị

đói, anh giúp đỡ nhân dân lao động sản xuất bằng những việc làm cụ thể, kết quả nhân dân

đã giảm bớt khó khăn trong đời sống. Nhân dân tin tưởng ở người bộ đội Việt Nam, đã chỉ

những tên địch, kẻ xấu lọt vào hàng ngũ chính quyền cách mạng để đưa đi cải tạo.

Kẻ địch dụ dỗ, mua chuộc những kẻ xấu tìm cách hại anh Dương Đức Thùng.

Chúng treo giải: ai giết được anh Thùng thì chúng thưởng 10 lạng vàng, nếu bắt sống

được thì thưởng nhiều hơn.

Anh Thùng vững vàng, tích cực, lăn lộn hoạt động và được quần chúng tin yêu, bảo

vệ. Có lần, anh Thùng cải trang thành dân thường vượt qua trước mặt hai tên gác của địch

đến gần cuộc họp do địch tổ chức. Anh đã tổ chức lực lượng bắt được 2 tên gian từ Thái

Lan về, bắt 3 tên khác ra trình diện chính quyền và nhân dân, thu được 21 khẩu súng và

300 viên đạn. Sau trận này, anh Thùng càng được quần chúng tin yêu, chính quyền càng

được củng cố trong sạch, vững mạnh.

Lần khác, vào một chập tối có 3 tên địch phục kích, dùng gậy xông vào đánh anh

Thùng. Anh đã bình tĩnh chống trả, cả 3 tên thua chạy, bỏ trốn. Về sau, chúng hối cải, ra

trình diện và nói: "chúng tôi lầm đường theo địch định giết anh nay ân hận, xin được tha

tội".

Anh Dương Đức Thùng được thưởng 1 Huân chương chiến công hạng 3, 18 bằng

khen và giấy khen, 2 lần được tặng danh hiệu chiến sỹ thi đua.

Chính phủ nước Cămpuchia tặng anh Thùng nhiều Huân chương

Ngày 25 tháng 1 năm 1983, Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ

trang nhân dân cho anh Dương Đức Thùng.

Page 10: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Những anh hùng sau đây tôi chưa có điều kiện viết tiểu sử và thành tích, chỉ xin

phép được liệt kê danh sách như sau:

6. Anh hùng Đàm Văn Ngụy

Sinh năm 1928, dân tộc Tày, quê ở xã Minh Khai, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, đồng chí Đàm Văn Ngụy được Chủ tịch nước tặng

thưởng Huân chương quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân

dân Việt Nam.

Khi được tuyên dương anh hùng, đồng chí là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 11, Sư đoàn

316. Trải qua nhiều năm tháng chiến đấu trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng chí đã

được phong hàm Trung tướng năm 1984, là Tư lệnh Quân khu I năm 1987. Hịện nay

đồng chí đã nghỉ hưu.

7. Anh hùng Phùng Văn Khầu

Sinh năm 1930, dân tộc Nùng, quê ở xã Đức Hồng, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, đồng chí Phùng Văn Khầu được Chủ tịch nước tặng

Huân chương Quân công hạng 3 và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Việt Nam.

8. Anh hùng Lộc Văn Trọng

Sinh năm 1905, dân tộc Tày, quê ở xã Chí Thảo, huyện Quảng Yên, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 31 tháng 8 năm 1955, đồng chí Lộc Văn Trọng được Chủ tịch nước tặng

Huân chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

Việt Nam.

9. Anh hùng Triệu Văn Báo

Sinh năm 1932, dân tộc Tày, quê ở xã Trí Viễn, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Chủ tịch nước tặng đồng chí Triệu Văn Báo huân

chương Quân công hạng ba và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt

Nam.

Page 11: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

Đồng chí là chiến sĩ thông tin Đại đoàn 316, mưu trí, dũng cảm, đã lấy thân mình

nối đường dây để đưa thông tin dưới làn mưa đạn. Đồng chí được phong hàm Đại tá năm

1982, mất năm 1994.

10. Anh hùng liệt sĩ Lý Văn Mưu

Sinh năm 1934, dân tộc Tày, quê ở xã Độc Lập, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 7 tháng 5 năm 1956, Chủ tịch nước truy tặng đồng chí Lý Văn Mưu huân

chương Quân công hạng nhì và danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt

Nam.

11. Anh hùng Hoàng Văn Nghiên

Sinh năm 1930, dân tộc Nùng, xã Ngũ Lão, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 1 tháng 1 năm 1964, Chủ tịch nước tặng đồng chí Hoàng Văn Nghiên danh

hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

12. Anh hùng Nông Văn Việt

Sinh năm 1938, dân tộc Tày, quê ở xã Phong Châu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 1 tháng 1 năm 1967, chủ tịch nước tặng đồng chí Nông Văn Việt danh hiệu

Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

13. Anh hùng liệt sĩ Bế Văn Cắm

Sinh năm 1945, dân tộc Nùng, quê ở xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 20 tháng 12 năm 1969, chủ tịch Chính phủ lâm thời Cộng hoà miền nam Việt

Nam truy tặng đồng chí Bế Văn Cắm danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

giải phóng.

14. Anh hùng Hoàng Văn Cón

Sinh năm 1940, dân tộc Nùng, xã Thượng Thôn, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 25 tháng 8 năm 1970, Chủ tịch nước đã tặng đồng chí Hoàng Văn Cón danh

hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Page 12: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

15. Anh hùng Phạm Thanh Quyết

Sinh năm 1950, dân tộc Tày, quê ở xã Hồng Định, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 23 tháng 9 năm 1973, Chủ tịch Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền

Nam Việt Nam tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng cho

đồng chí Phạm Thanh Quyết.

16. Anh hùng Hoàng Văn Thượng

Sinh năm 1948, dân tộc Tày, quê ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Chủ tịch nước đã tặng đồng chí Hoàng Văn Thượng

danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

17. Anh hùng Trịnh Trọng Thập

Sinh năm 1951, dân tộc Nùng, quê ở xã Cai Bộ, huyện Quảng Uyên, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 6 tháng 11 năm 1978, Chủ tịch nước tặng đồng chí Trịnh Trọng Thập danh

hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

18. Anh hùng Trương Hữu Dem

Sinh năm 1932, dân tộc Tày, xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng.

Ngày 20 tháng 12 năm 1979, Chủ tịch nước tặng đồng chí Trương Hữu Dem danh

hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

19. Anh hùng Hoàng Văn Khoáy

Sinh năm 1945, dân tộc Nùng, xã Thuỵ Hùng, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng

Ngày 19 tháng 12 năm 1979, Chủ tịch nước tặng đồng chí Hoàng Văn Khoáy danh

hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

20. Anh hùng liệt sĩ Hoàng Đình Hợp

Sinh năm 1930, dân tộc Tày, quê ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao

Bằng.

Ngày 28 tháng 8 năm 1981, đồng chí Hoàng Đình Hợp được Chủ tịch nước truy

tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Kể từ buổi sơ khai đến nay nhân dân các dân tộc Việt Nam đã đoàn kết chung lưng

đấu cật để dựng nước và giữ nước. Quá trình hàng ngàn năm ấy đã có biết bao nhiêu tấm

gương anh hùng liệt sĩ được ghi trong sử xanh của nước nhà. Riêng trong thế kỷ XX vừa

qua, dân tộc ta đã trải qua cuộc chiến đấu lâu dài và vô cùng gian khổ, hy sinh anh dũng

Page 13: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền

chống lại những thế lực xâm lược có sức mạnh lớn vào bậc nhất thế giới và đã giành

được thắng lợi trọn vẹn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, đưa đất nước ta vào kỷ nguyên

mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Người Tày, người Nùng nằm trong các dân tộc thuộc nhóm ngôn ngữ Tày, Thái. Thành

tích chiến đấu của hai dân tộc Tày, Nùng đã góp phần vào thành tích chung của các dân tộc

anh em trên đất nướcViệt Nam.

Việc ghi tạc những tấm gương anh hùng của người Tày, Nùng ở Cao Bằng trong

cuộc chiến đấu của thế kỷ vừa qua luôn luôn gắn chặt với những tấm gương anh hùng của

người Kinh (Việt), của người Mường, Dao, Thái, Mông, Cao Lan, Sán Chí,… ở miền

Bắc, của người Tà Ôi, Hrê, Bru, Bana, Gia rai, Xơ đăng, X'Tiêng, Mơ nông, Chăm,… ở

miền Trung và Tây Nguyên, của người Hoa, Khơ me,… ở Nam Bộ.

Tất cả những thành tích đó đã góp phần vào sự nghiệp to lớn của cả dân tộc, dưới sự

lãnh đạo sáng suốt tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.

Với nhận thức đó, việc giới thiệu thành tích chiến đấu của các Anh hùng trong lực

lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có ý nghĩa sâu sắc và thiêng liêng.

Tài liệu tham khảo

1. Địa chí Cao Bằng, Nxb Chính trị Quốc gia

2. Non nước Cao Bằng, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam xuất bản

3. Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Nxb Quân đội nhân dân Việt Nam,

tr.342-343

4. Anh hùng lực lượng vũ trang, Nxb Văn hoá dân tộc

5. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội

6. Tài liệu tổng kết của Bộ chỉ huy quân sự Cao Bằng

7. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Cao Bằng

8. Về cách mạng tháng tám năm 1945 ở Cao Bằng

9. Các báo: Cao Bằng, Tạp chí Văn hoá Thông tin Cao Bằng, Non nước Cao Bằng.

Cao Bằng, ngày 10 tháng 1 năm 2006

HTN.

Page 14: NHỮNG ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN VIỆT …repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/251/1/Hoang Trieu Nam.pdf · (Theo sách Đội Việt Nam Tuyên truyền