những bài làm văn mẫu lớp 6 - tập 1...
TRANSCRIPT
NHỮNG BÀI LÀM VĂN MẪU LỚP 6 – TẬP INHỮNG BÀI LÀM VĂN MẪU
LỚP 6 – TẬP I
(Tái bản có sửa chữa, bổ sung)
(Dùng cho Phụ huynh, giáo viên tham khảo,
Bồi dưỡng học sinh giỏi)
Tác giả: TRẦN THỊ THÌN
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu cuốn
sách Những bài làm văn mẫu 6 (tập một).
Cuốn sách này nhằm giúp các em học sinh học tốt môn Làm văn ở lớp và
ở nhà, đồng thời cũng là tài liệu tham khảo cho giáo viên và phụ huynh.
Dựa trên chương trình Làm văn lớp 6, tác giả nêu rõ cách làm cụ thể từng
bài thuộc các thể loại văn miêu tả (tả cảnh, tả người) và văn miêu tả sáng tạo.
Các bài văn mẫu chỉ có tính chất gợi ý, hướng dẫn để các em làm bài đạt kết
quả cao hơn.
Các em cố gắng nắm vững lí thuyết, tìm hiểu yêu cầu của từng đề, đọc kĩ
từng bài văn, để từ đó viết thành bài làm riêng của mình. Mỗi bài văn sẽ là một
tác phẩm nhỏ do chính các em sáng tạo.
Mong rằng cuốn sách này sẽ đem lại cho các em những điều thiết thực và
bổ ích.
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP TP.HCM
Phần 1. KỂ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNGĐỀ 1: Kể diễn cảm truyện Con Rồng, cháu Tiên.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra từ ngày xưa, ở đất Lạc Việt (bây giờ là miền Bắc nước ta.)
- Nhân vật chính: Lạc Long Quân và Âu Cơ đều là dòng dõi thần tiên. Hai
người tình cờ gặp nhau, kết duyên thành vợ chồng.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
a/ Việc sinh nở kì lạ của Âu Cơ:
- Âu Cơ sinh ra cái bọc một trăm trứng, nở thành trăm người con khôi ngô,
lớn nhanh như thổi.
b/ Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay:
- Lạc Long Quân là nòi Rồng nên không thể ở trên cạn lâu được, đành tạm
biệt Âu Cơ để trở về thuỷ cung.
- Âu Cơ một mình nuôi đàn con đông đúc.
c/ Việc chia đôi đàn con, lời giao ước giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ:
- Âu Cơ mời chồng về để chia đôi đàn con. Lạc Long Quân mang theo
năm mươi con xuống biển. Âu Cơ mang năm mươi con lên núi.
- Lạc Long Quân dặn Âu Cơ chia đàn con cai quản các phương, khi cần
phải giúp đỡ nhau.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Vị vua đầu tiên của nước ta là Hùng vương, con trưởng của Lạc Long
Quân và Âu Cơ.
- Hình thành nhà nước đầu tiên đặt tên là Văn Lang, kinh đô đóng ở
Phong Châu. Triều đình có quan văn, quan võ. Vua cha chết truyền ngôi cho con
trưởng, mười tám đời đều lấy hiệu Hùng vương.
- Nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt Nam là con Rồng, cháu Tiên.
II. BÀI LÀM
Thuở xưa, ở vùng đất Lạc Việt có vị thần tên là Lạc Long Quân, con trai
của thần Long Nữ sống dưới biển Đông. Thần thân hình rồng, sức khoẻ phi
thường và có nhiều phép lạ. Thỉnh thoảng, thần lên sống trên cạn, giúp dân diệt
trừ các loài yêu quái như Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh. Thần còn dạy dân cách
trồng trọt và sinh sống.
Âu Cơ là một tiên nữ, dòng dõi Thần Nông ở vùng núi cao phương Bắc.
Nàng thích ngao du đây đó, những nơi có phong cảnh đẹp. Một hôm, nghe nói
vùng đất Lạc Việt có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng đã tìm đến thăm. Tình cờ, Âu
Cơ gặp Lạc Long Quân. Bên trai tài, bên gái sắc, họ yêu nhau rồi kết thành vợ
chồng.
Ít lâu sau, Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con
khôi ngô tuấn tú lạ thường. Chẳng cần bú mớm mà đàn con vẫn lớn nhanh như
thổi, khoẻ mạnh như thần.
Một hôm, nhớ biển cả và cảm thấy mình không thể sống lâu trên cạn
được, Lạc Long Quân đành từ biệt Âu Cơ để trở về chốn thuỷ cung. Âu Cơ một
mình nuôi con. Ngày lại ngày qua, nàng sốt ruột trông ngóng chồng với tâm
trạng buồn tủi. Cuối cùng, nàng gọi Lạc Long Quân về và than thở:
- Sao chàng nỡ bỏ thiếp mà đi, không cùng thiếp nuôi đàn con nhỏ?!
Lạc Long Quân ân cần giải thích:
- Ta vốn nòi Rồng ở miền nước thẳm, nàng là dòng Tiên ở chốn non cao.
Kẻ trên cạn, người dưới nước, tính tình tập quán khác nhau, khó lòng mà ăn ở
cùng nhau một nơi lâu dài được. Nay ta dẫn năm mươi con xuống biển, nàng
đưa năm mươi con lên núi, chia nhau cai quản các phương. Kẻ miền núi, người
miền biển, khi có việc gì khó khăn thì giúp đỡ nhau, đừng quên lời hẹn.
Âu Cơ nghe theo đưa năm mươi người con lên đất Phong Châu. Người
con trưởng được tôn làm vua, lấy hiệu Hùng Vương, lập ra nước Văn Lang,
đóng đô ở Phong Châu (vùng Bạch Hạc, Lâm Thao, Phú Thọ ngày nay). Triều
đình có quan văn, quan võ (Lạc hầu, Lạc tướng). Con trai vua gọi là lang, con
gái vua gọi là mệ nàng (mị nương). Vua cha chết, con trai trưởng sẽ nối ngôi.
Mười tám đời vua kế tiếp nhau đều lấy hiệu Hùng Vương.
Từ sự tích này mà dân tộc Việt Nam thường nhắc đến nguồn gốc cao quý
của mình là con Rồng, cháu Tiên. Tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt
Nam đều là anh em cùng chung một bọc sinh ra (đồng bào). Các dân tộc đoàn
kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.
ĐỀ 2: Kể diễn cảm truyện Bánh chưng, bánh giầy.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Đời Hùng vương thứ sáu ở nước ta.
- Vua Hùng chọn người kế vị.
- Lang Liêu được trao ngôi báu.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ Ý định của vua Hùng:
- Muốn truyền ngôi cho một người con có đức, có tài.
- Nghĩ ra cách chọn người xứng đáng. (Mở cuộc thi làm cỗ dâng vua cha
và Tiên vương.)
+ Cuộc thi làm cỗ:
- Các lang (con trai vua) đua nhau làm cỗ thật to, thật ngon...
- Lang Liêu được thần báo mộng, làm ra hai thứ bánh bằng gạo nếp dâng
lên vua cha.
- Hùng vương chọn hai thứ bánh đó để tế Trời Đất cùng Tiên vương và
đặt tên là bánh chưng, bánh giầy.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Lang Liêu được vua cha trao cho ngôi báu.
- Tục ngày Tết người Việt thường làm bánh chưng, bánh giầy để cúng
xuất hiện từ đó.
II. BÀI LÀM
Ngày xửa ngày xưa, Hùng Vương thứ sáu đã già yếu nên muốn truyền
ngôi nhưng cứ phân vân mãi không biết chọn ai trong số hai mươi người con trai
của mình. Lúc ấy, nạn ngoại xâm tuy đã dẹp yên nhưng đời sống của dân chúng
vẫn còn nghèo khó. Nhà vua hiểu rằng dân có ấm no thì ngai vàng mới vững
nên có ý chọn người nối nghiệp thật xứng đáng, có đủ tài đức để chăm lo cho
muôn dân. Nhân dịp Tết đến, nhà vua bèn gọi các con lại và phán rằng:
- Tổ tiên ta từ khi dựng nước đến nay đã truyền được sáu đời. Nhiều lần
giặc Ân xâm lấn bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên vương, ta đều đánh đuổi được chúng,
thiên hạ được hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không thể sống mãi ở đời.
Người nối ngôi ta phải hiểu được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng.
Năm nay, nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên
Vương chứng giám.
Ý vua cha như thế nào thì khó mà đoán được, nhưng ai cũng muốn ngôi
báu thuộc về mình. Các lang thi nhau cho gia nhân lên rừng, xuống biển, tìm
kiếm của ngon vật lạ về dâng vua cha. Riêng Lang Liêu, con thứ mười tám, tuy
là dòng dõi Hùng Vương nhưng lại phải sống cuộc đời của một nông phu nghèo
khó. So với anh em, nhà chàng chẳng có gì đáng giá, quanh quẩn chỉ lúa và
khoai, những thứ tầm thường. Lang Liêu buồn và lo lắm!
Một đêm, chàng trằn trọc mãi đến sáng mới ngủ thiếp đi. Chợt chàng nằm
mộng thấy một vị thần hiện ra bảo rằng:
- Trong trời đất, không có gì quý bằng hạt gạo. Chỉ có gạo mới nuôi sống
con người và ăn không bao giờ chán. Các thứ khác tuy ngon, nhưng hiếm, mà
người không làm ra được. Còn lúa gạo thì tự tay mình trồng, trồng nhiều được
nhiều. Hãy lấy gạo làm bánh mà tế Tiên vương.
Tỉnh dậy, Lang Liêu mừng thầm. Càng suy ngẫm, chàng càng thấy lời
mách bảo của thần là đúng, vốn thông minh, chàng chọn thứ gạo nếp trắng tinh,
thơm ngát đem vo sạch rồi lấy đậu xanh, thịt lợn làm nhân, dùng lá dong trong
vườn gói thành hình vuông, nấu một ngày một đêm cho chín. Cũng gạo nếp ấy,
đậu xanh ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành một loại bánh khác có hình
tròn trông rất đẹp.
Ngày lễ Tiên Vương, các lang mang sơn hào hải vị, nem công chả
phượng đến. Của ngon vật lạ chẳng thiếu thứ gì. Lang Liêu cũng đội tới một
mâm bánh. Hùng Vương xem qua một lượt rồi dừng lại trước mâm bánh của
Lang Liêu, ngắm nghía và tỏ vẻ hài lòng. Vua cho gọi chàng tới hỏi. Lang Liêu
thật thà kể lại giấc mộng gặp thần cho vua cha nghe. Nghe xong, nhà vua ngẫm
nghĩ hồi lâu rồi ra lệnh chọn hai thứ bánh ấy tế Trời Đất và Tiên Vương.
Tế lễ xong, nhà vua truyền đem bánh ra ăn thử cùng các quần thần. Ai
cũng tấm tắc khen ngon. Nhà vua giải thích cho mọi người hiểu ý nghĩa của hai
thứ bánh này:
- Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là
tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn
loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc lẫn
nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên
Vương chứng giám.
Lang Liêu trở thành một vị vua anh minh, nhân đức. Dưới triều đại của
chàng, muôn dân no ấm và vui sống trong cảnh thanh bình.
Từ đấy về sau, nước ta có tục ngày Tết Nguyên Đán làm bánh chưng,
bánh giầy để cúng Trời Đất, tổ tiên. Nếu thiếu hai thứ bánh này là thiếu hẳn
hương vị Tết cổ truyền của dân tộc.
ĐỀ 3: Kể diễn cảm truyện Thánh Gióng
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra vào đời Hùng vương thứ sáu, ở làng Gióng, tỉnh Bắc Ninh
(cũ), nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
- Cậu bé làng Gióng có công đánh đuổi giặc Ân, được nhân dân suy tôn là
Thánh Gióng.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Hai vợ chồng già không có con.
- Một hôm bà vợ ra đồng, thấy vết chân lạ rất to, liền đặt bàn chân vào
ướm thử.
- Bà thụ thai, sinh ra một đứa con trai.
- Lên ba tuổi, đứa bé không biết đi, không biết nói.
- Giặc Ân xâm phạm bờ cõi nước ta.
- Vua sai sứ giả tìm người tài giỏi cứu nước.
- Cậu bé chợt cất tiếng nói, bảo mẹ gọi sứ giả vào, nhờ sứ giả tâu với vua
cấp cho mình giáp sắt, roi sắt, ngựa sắt để đi đánh giặc.
- Cậu bé lớn nhanh như thổi, cả làng góp gạo nuôi cậu.
- Sứ giả mang các thứ đến. Cậu bé vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa sắt
xông lên đánh đuổi quân thù. Roi sắt gãy, cậu nhổ tre đánh tiếp.
- Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ cởi giáp sắt bỏ lại, cưỡi ngựa bay
lên trời.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Vua ghi nhớ công lao cứu nước của Gióng, phong cho là Phù Đổng
Thiên Vương và lập đền thờ.
- Tháng tư hằng năm, làng mở hội lớn.
- Tre ở làng Gióng có màu vàng óng là vì ngựa sắt phun lửa.
- Ao hồ liên tiếp là do vết chân ngựa phi để lại.
- Một làng có tên là làng Cháy do lửa từ miệng ngựa phun ra.
II. BÀI LÀM
Chuyện xưa kể rằng, vào đời Hùng Vương thứ sáu, ở làng Gióng thuộc
huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, có hai vợ chồng ông lão chăm chỉ làm ăn và nổi
tiếng là nhân hậu, phúc đức, nhưng họ buồn vì tuổi đã cao mà chưa có được
mụn con nối dõi tông đường.
Một hôm, bà vợ ra đồng, bỗng nhìn thấy một vết chân to lạ thường. Tò mò,
bà đặt chân mình vào ướm thử. Không ngờ bà thụ thai và sau mười hai tháng
sinh hạ được một cậu con trai bụ bẫm, khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm, thầm
cảm ơn Trời Phật đã ban phúc cho gia đình họ. Nhưng khổ thay! Đứa bé đã lên
ba mà vẫn không biết đi, không biết nói, không biết cười, cứ đặt đâu nằm đấy.
Lúc bấy giờ, giặc Ân lăm le xâm chiếm nước ta. Thế giặc rất mạnh. Nhà
vua lo sợ bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm người tài giỏi cứu nước. Nghe tiếng rao
của sứ giả, cậu bé đang nằm ngửa trên chiếc chõng tre chợt cất tiếng nói: “Mẹ
ra mời sứ giả vào đây!”. Bà mẹ ngạc nhiên và vui mừng khôn xiết. Sứ giả vào,
cậu bé bảo: “ông về tâu với vua cấp cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và
một áo giáp sắt, ta sẽ phá tan lũ giặc này”.
Sứ giả vô cùng kinh ngạc và mừng rỡ vội về tâu vua. Nhà vua ra lệnh triệu
tập những thợ rèn giỏi trong cả nước, ngày đêm làm gấp những thứ chú bé dặn.
Điều kì lạ nữa là sau khi gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như thổi. Cơm ăn
mấy cũng không đủ no, áo vừa mặc xong đã căng đứt chỉ. Cha mẹ cậu làm lụng
quần quật vẫn không kiếm đủ gạo để nuôi con. Thấy vậy, dân làng vui lòng xúm
vào góp gạo nuôi cậu bé. Ai cũng mong cậu giết giặc, cứu nước.
Giặc Ân đã tràn đến núi Trâu. Thế nước rất nguy, người người lo lắng.
Vừa lúc đó sứ giả mang giáp sắt, roi sắt và ngựa sắt tới. Cậu bé bỗng vùng dậy,
vươn vai một cái biến thành tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Tráng sĩ mặc giáp sắt,
tay cầm roi sắt, cưỡi lên mình ngựa sắt. Chàng thúc vào mông ngựa, ngựa sắt
hí vang, phun lửa và phi nhanh ra chiến trường. Với chiếc roi sắt trong tay, tráng
sĩ vung lên, quật tơi bời vào quân giặc. Bỗng roi sắt gãy, tráng sĩ nhổ cụm tre
bên đường đánh tiếp. Giặc hoảng loạn giẫm đạp lên nhau mà chay, chết như
ngả rạ.
Đuổi giặc đến chân núi Sóc, tráng sĩ phi ngựa lên đỉnh núi, cởi giáp sắt bỏ
lại rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Giặc tan, muôn dân được sống yên
bình. Nhà vua ghi nhớ công lao của tráng sĩ, phong cho tước hiệu Phù Đổng
Thiên Vương Mà lập đền thờ.
Từ bấy đến nay, hằng năm cứ đến tháng tư là làng mở hội Gióng. Dân
chúng khắp nơi nô nức kéo đến dự hội và tưởng niệm, tri ơn người anh hùng
cứu nước. Dấu ấn trận đánh ác liệt năm xưa còn để lại trong màu vàng óng của
những bụi tre đằng ngà, tục truyền là bị cháy do ngựa sắt phun lửa. Những dãy
hồ ao liên tiếp chính là vết chân ngựa chiến thuở nào và tương truyền rằng, khi
ngựa thét ra lửa đã thiêu rụi cả một làng, đó là làng Cháy.
ĐỀ 4: Hãy kể diễn cảm truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Hùng Vương thứ mười tám muốn kén rể cho con gái yêu là Mị Nương.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Sơn Tinh (thần núi Tản Viên) và Thuỷ Tinh (thần biển) cùng đến cầu hôn.
- Tài nghệ phi thường của Sơn Tinh và Thủy Tinh, cả hai đều xứng đáng
làm rể vua Hùng.
- Nỗi băn khoăn của nhà vua và yêu cầu sính lễ trong đám cưới Mị
Nương.
- Sơn Tinh đến trước cưới được Mị Nương, đưa nàng về núi.
- Cuộc giao tranh quyết liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh. Sự thất bại của
Thủy Tinh.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Mất Mị Nương, Thủy Tinh ôm hận, năm nào cũng dâng nước đánh Sơn
Tinh, gây ra lũ lụt.
II. BÀI LÀM
Chuyện xưa kể rằng Hùng Vương thứ mười tám sinh được một cô công
chúa đẹp người đẹp nết tên là Mị Nương. Nàng được vua cha hết mực yêu
thương, chiều chuộng. Khi Mị Nương đã đến tuổi trưởng thành, Hùng Vương có
ý kén chọn cho con gái một người chồng xứng đáng.
Tin Hùng Vương muốn kén rể hiền loan truyền khắp trong thiên hạ. Một
hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Chàng thứ nhất người vùng núi Tản Viên,
vẻ mặt khôi ngô tuấn tú, sức khoẻ phi thường. Đó là Sơn Tinh. Sơn Tinh có tài
lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc
lên từng dãy núi đồi. Ở hàng thứ hai sống ở miền biển, hình dạng cổ quái, tên là
Thủy Tinh. Thủy Tinh có phép gọi gió, gió đến, hô mưa, mưa về. Cả hai đều
xứng đáng làm rể vua Hùng. Điều đó làm cho nhà vua phân vân khó xử, không
biết chọn ai.
Sau khi bàn bạc và hỏi ý kiến các Lạc hầu, Lạc tướng, Hùng Vương bèn
phán rằng:
- Hai người đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một cô con gái. Thôi thì ngày
mai, ai đem sính lễ đến trước, ta sẽ cho cưới Mị Nương.
Sơn Tinh, Thủy Tinh tâu hỏi đồ sính lễ gồm những gì, vua phán:
- Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín
cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Hôm sau, Sơn Tinh đem đầy đủ lễ vật đến từ lúc mặt trời chưa mọc. Hùng
Vương vui lòng gả con gái cho chàng. Sơn Tinh rước Mị Nương về núi Tản Viên.
Hai người thật xứng đôi vừa lứa.
Thủy Tinh đến trễ, không cưới được Mị Nương liền đùng đùng nổi giận
đuổi theo. Thủy Tinh làm mưa to gió lớn, sấm chớp đùng đùng, dâng nước sông
lên cuồn cuộn ngập đồi ngập núi để đánh Sơn Tinh.
Với bản lĩnh cao cường, Sơn Tinh không hề nao núng. Chàng dùng phép
lạ và tài năng của mình nâng cao đồi núi. Nước dâng tới đâu, núi cao lên tới đó.
Suốt mấy tháng ròng, cuộc chiến xảy ra ác liệt. Quân lính của Sơn Tinh từ trên
cao lao cây, ném đá xuống sông, tiêu diệt quân của Thủy Tinh. Cuối cùng, Thủy
Tinh thua trận đành rút chạy.
Từ đó trở đi, năm nào cũng vậy, cứ vào khoảng tháng bảy, tháng tám là
Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh hòng cướp lại Mị Nương. Nhưng chưa
bao giờ Thủy Tinh thắng nổi Sơn Tinh. Cho đến nay, vợ chồng Sơn Tinh - Mị
Nương vẫn sống vui vẻ, hạnh phúc bên nhau trên đỉnh núi Tản Viên hùng vĩ.
ĐỀ 5: Hãy kể diễn cảm truyền thuyết Sự tích Hồ GươmI. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Tình hình nước ta thời giặc Minh đô hộ.
- Long Quân cho Lê Lợi mượn gươm thần để giết giặc.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Lê Thận đánh cá và kéo được lưỡi gươm lạ.
- Lê Thận dâng gươm báu cho Lê Lợi.
- Lê Lợi dùng gươm thần đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Việc hoàn lại gươm cho Long Quân và sự tích cái tên Hồ Gươm.
II. BÀI LÀM
Vào thế kỉ XV, dưới ách đô hộ của giặc Minh, nhân dân ta phải chịu bao
điều cơ cực. Mọi người căm giận quân xâm lược tới tận xương tủy. Nghĩa binh
Lam Sơn buổi đầu nổi dậy lực lượng còn yếu. Long Quân quyết định cho nghĩa
quân mượn thanh gươm thần dẹp giặc.
Một đêm nọ, ở Thanh Hoá có người dân chài tên là Lê Thận đi đánh cá.
Sau hai lần quăng chài, Thận đều kéo được một thanh sắt. Lần thứ ba cũng vậy.
Xem kĩ, Thận mới biết đó là lưỡi gươm bèn đem về nhà.
Sau đó, Thận gia nhập nghĩa quân Lam Sơn. Một lần, Lê Lợi vào thăm
nhà Thận, đột nhiên lưỡi gươm loé sáng. Lê Lợi cầm xem, thấy hai chữ Thuận
Thiên, nhưng không biết đó là gươm quý.
Một lần bị giặc đuổi, lúc chạy qua khu rừng, Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ
phát ra trên ngọn cây cao. Ông trèo lên thì phát hiện đó là một chiếc chuôi gươm
nạm ngọc. Lê Lợi giắt chuôi gươm vào thắt lưng và giữ gìn cẩn thận. Ba ngày
sau, Lê Lợi kể cho mọi người nghe chuyện này. Lê Thận đem lưỡi gươm của
mình ra xin tra vào chuôi gươm thì vừa như in. Mừng rỡ, Lê Thận kính dâng
thanh gươm báu cho chủ tướng Lê Lợi.
Từ ngày có gươm thần, khí thế nghĩa quân tăng lên rất mạnh, xông xáo
tung hoành tìm giặc, đánh đâu thắng đó. Quân Minh bạt vía kinh hồn phải rút
chạy. Đất nước ta sạch bóng quân xâm lược.
Một năm sau ngày chiến thắng, vua Lê dạo chơi bằng thuyền trên hồ Tả
Vọng. Bỗng một con Rùa Vàng rất lớn nhô mình lên khỏi làn nước xanh. Thuyền
đi chậm lại. Tự nhiên nhà vua thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy. Rùa
Vàng nổi hẳn lên mặt nước và nói: Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!
Vua Lê rút gươm thả về phía Rùa Vàng. Rùa đớp lấy và lặn nhanh xuống nước.
Một vệt sáng vẫn còn le lói dưới hồ sâu.
Từ đó, hồ Tả Vọng được gọi là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm.
ĐỀ 6: Hãy kể diễn cảm truyện Sọ Dừa.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra từ ngày xưa, ở một làng nọ, có hai vợ chồng đã già mà
chưa có con.
- Người vợ có thai sau khi uống nước mưa đọng trong chiếc sọ dừa dưới
một gốc cây rừng và sinh ra đứa con chỉ có đầu mà không có chân tay, bèn đặt
tên là Sọ Dừa.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Bà mẹ than phiền rằng đứa con dị dạng, không giúp gì được cho gia
đình.
- Sọ Dừa an ủi mẹ, xin mẹ nói với phú ông cho nhận việc chăn bò.
- Sọ Dừa chăn bò rất giỏi, con nào con nấy ăn no chóng lớn.
- Ba cô con gái phú ông thay phiên mang cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị hắt
hủi, xa lánh. Cô Út đối xử với Sọ Dừa rất tử tế.
- Sọ Dừa hóa thân thành chàng trai tuấn tú, ngồi trên võng đào thổi sáo
cho đàn bò gặm cỏ. Nghe tiếng động, chàng trở lại lốt Sọ Dừa. Cô út đã vô tình
chứng kiến điều kì lạ ấy và đem lòng yêu Sọ Dừa.
- Sọ Dừa giục mẹ đến hỏi con gái phú ông làm vợ. Phú ông thách cưới rất
nhiều thứ.
- Sọ Dừa hóa phép ra đầy đủ lễ vật và cưới được cô út.
- Sọ Dừa thi đỗ Trạng nguyên, được nhà vua cử đi sứ. Khi chia tay, chàng
trao cho vợ mấy vật dụng cần thiết.
- Hai cô chị ganh ghét, tìm cách làm hại em gái. Cô út bị đẩy xuống biển,
cá kình nuốt cô vào bụng. Cô dùng dao giết chết cá rồi sống tạm ở một hoang
đảo, chờ người cứu.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Trạng ngụyên đi sứ trở về ngang qua đảo, nghe tiếng gà gáy vội tìm vào.
Hai vợ chồng đoàn tụ, mở tiệc ra mắt mọi người.
- Hai người chị độc ác xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
II. BÀI LÀM
Ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ có hai vợ chồng nông dân nghèo đi ở
cho một phú ông. Họ đã ngoài năm mươi tuổi mà chưa có được một mụn con
cho vui cửa vui nhà.
Một hôm, hai vợ chồng vào rừng kiếm củi cho chủ. Trời nắng to, người vợ
khát nước mà không tìm thấy suối, đành uống nước đọng trong một chiếc sọ
dừa ở dưới gốc cổ thụ. Thế rồi bà có thai.
Sau khi chồng mất, bà sinh ra một đứa bé dị dạng, chỉ có cái đầu tròn như
một quả dừa mà không có chân tay. Buồn rầu và sợ hãi, bà toan đem vứt đi thì
đứa bé bỗng cất tiếng van xin:
- Mẹ ơi, con là người đấy! Mẹ đừng vứt con đi mà tội nghiệp!
Thấy thương, bà đành để lại nuôi và đặt tên là Sọ Dừa. Từ đó, hai mẹ con
sớm tối có nhau.
Ngày qua tháng lại, Sọ Dừa vẫn thế, chẳng lớn hơn được chút nào. Một
hôm, bà mẹ than rằng:
- Con nhà người ta bảy tám tuổi đã biết chăn bò. Còn mày thì chẳng giúp
mẹ được việc gì!
Sọ Dừa nói:
- Việc gì chứ chăn bò thì con cũng làm được. Mẹ cứ xin với phú ông cho
con đến ở chăn bò.
Bà mẹ ngạc nhiên không tin nhưng vì Sọ Dừa giục mãi nên bà đành đến
nhà phú ông. Nghe bà nói, phú ông ngần ngại, băn khoăn. Thằng bé người
không ra người, ngợm không ra ngợm ấy thì làm thế nào mà chăn dắt cả đàn bò
đông như vậy? Nhưng lòng tham lại khiến ông ta nghĩ: “Nó bé thế chắc là ăn ít,
khỏi tốn cơm, công sá lại chẳng là bao. Thôi, cứ thử xem sao!”.
Thế là Sọ Dừa đến ở cho nhà phú ông. Ngày nào cũng thế, nắng cũng
như mưa, sáng sáng, Sọ Dừa lăn theo đàn bò ra đồng, tối tối, lại lăn sau đàn bò
về chuồng. Cậu chăn bò rất giỏi, con nào con nấy bụng no căng, lông bóng
mượt. Nhìn đàn bò béo tốt, phú ông mừng lắm.
Ngày mùa, lúa đã chín vàng. Tôi tớ trong nhà ra đồng gặt lúa hết cả. Phú
ông đành sai ba cô con gái thay nhau đem cơm cho Sọ Dừa. Hai cô chị thấy Sọ
Dừa xấu xí thì cười chê, hắt hủi. Riêng cô út hiền lành tốt bụng, đối xử với Sọ
Dừa rất tử tế.
Một hôm, đến lượt cô út mang cơm cho Sọ Dừa. Vừa tới chân đồi, cô
bỗng nghe thấy tiếng sáo véo von, trầm bổng. Cô nhẹ nhàng nấp sau bụi cây
rình xem thì thấy trước mắt hiện ra cảnh tượng lạ lùng: một chàng trai vẻ mặt
khôi ngô tuấn tú ngồi trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân cây đang say mê
thổi sáo. Xung quanh chàng, đàn bò ung dung gặm cỏ.
Chợt một cành khô gãy dưới chân. Nghe tiếng động, chàng trai giật mình
biến mất, chỉ còn Sọ Dừa lăn lóc ở đấy. Mấy lần đều như thế, cô út biết Sọ Dừa
không phải người thường. Từ đó cô đem lòng yêu Sọ Dừa, có của ngon vật lạ
đều giấu đem cho chàng.
Hết hạn chăn bò, Sọ Dừa trở về nhà. Chàng giục mẹ đến hỏi con gái phú
ông cho chàng. Bà mẹ sửng sốt tưởng mình nghe nhầm. Sau thấy con năn nỉ
mãi, bà đành chiều ý, kiếm buồng cau mang tới nhà phú ông. Phú ông vuốt râu
cười khẩy:
- Ừ, được! Bà hãy bảo con trai bà rằng muốn cưới được con gái ta thì phải
sắm cho đủ một Chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò
rượu tăm đem sang đây!
Ngẫm thân phận nghèo hèn, bà mẹ tủi thân lủi thủi ra về. Bà kể lại lời phú
ông cho Sọ Dừa nghe, nghĩ rằng chàng sẽ thôi không đòi lấy vợ nữa. Ai ngờ
chàng bảo chàng sẽ lo đủ những lễ vật trên.
Đúng ngày hẹn, bà mẹ vô cùng ngạc nhiên trước những lễ vật quý giá
bỗng dưng xuất hiện cùng với mười gia nhân đang chuẩn bị khiêng lễ vật sang
nhà phú ông.
Không thể nuốt lời hứa, phú ông bèn nói với bà cụ:
- Để ta hỏi xem trong ba đứa con gái của ta, có đứa nào ưng lấy thằng Sọ
Dừa không đã.
Hai cô chị bĩu môi chê bai, khinh bỉ Sọ Dừa. Riêng cô út cúi đầu e thẹn, tỏ
ý bằng lòng làm vợ chàng.
Ngày cưới được tổ chức thật linh đình nhưng lúc rước dâu, không ai thấy
Sọ Dừa đâu cả. Bỗng nhiên, từ buồng cô dâu, cô út sánh vai với một chàng trai
khôi ngô tuấn tú cùng bước ra tươi cười chào mọi người. Ai nấy đều sửng sốt và
mừng rỡ. Còn hai cô chị vợ thì vừa tiếc rẻ vừa ghen tức.
Vợ chồng Sọ Dừa sống hạnh phúc bên nhau. Cô út chăm chỉ, siêng năng
lo việc nhà; còn Sọ Dừa miệt mài đèn sách chờ khoa thi và chàng đã đỗ Trạng
nguyên. Mẹ chàng và vợ chàng mừng vui khôn xiết.
Ít lâu sau, vua sai chàng đi sứ. Khi chia tay, chàng trao cho vợ hai hòn đá
lửa, một con dao và hai quả trứng gà; lại dặn nàng luôn mang theo các thứ đó
bên mình, phòng khi cần dùng đến.
Sau khi cô út thành vợ Trạng nguyên, hai cô chị đem lòng ganh ghét, rắp
tâm ám hại để thay em làm bà Trạng. Nhân lúc quan Trạng đi sứ vắng nhà, hai
cô chị rủ em chèo thuyền ra biển rồi đẩy em ngã xuống nước. Một con cá kình
lớn nuốt cô Út vào bụng, sẵn có con dao, cô đâm chết cá. Xác cá dạt vào một
đảo hoang. Cô út khoét bụng cá chui ra, lấy dao chặt cây, cắt tranh dựng một túp
lều nhỏ trú thân. Cô lấy hai hòn đá cọ mạnh vào nhau cho bật lửa rồi xẻ thịt cá
nướng ăn qua ngày, chờ hễ có thuyền nào đi qua thì kêu cứu. Hai quả trứng nở
thành đôi gà trống mái quấn quýt làm bạn với cô.
Một hôm, có chiếc thuyền cắm cờ đuôi nheo chạy ngang qua đảo. Bỗng
nhiên, chú gà trống vươn cao cổ gáy to ba lần: Ò ó o... Phải thuyền quan Trạng
rước cô tôi về!Thấy sự lạ lùng, quan Trạng ra lệnh ghé thuyền vào đảo. Hai vợ
chồng gặp nhau, mừng mừng tủi tủi. Quan Trạng đưa vợ về nhà và giấu kín
trong buồng.
Chàng mở tiệc đãi dân làng. Hai cô chị vợ cũng được mời dự. Hai ả thi
nhau khóc lóc, ra vẻ thương tiếc cô em bạc phận. Quan Trạng không nói gì,
bước vào buồng dắt tay vợ ra chào hỏi mọi người. Hai cô chị sợ hãi và xấu hổ,
không thốt nên lời. Chúng bỏ quê trốn đi biệt xứ. Từ đó trở đi, vợ chồng Sọ Dừa
và dân làng sống hạnh phúc, yên vui.
ĐỀ 7: Hãy kể diễn cảm truyện Thạch Sanh
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Ngày xưa, ở quận Cao Bình...
- Thạch Sanh là thái tử của Ngọc Hoàng được sai xuống trần đầu thai làm
con hai vợ chồng già hiếm muộn.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Người vợ có mang đến mấy năm mà chưa sinh nở.
- Người chồng qua đời. Mãi sau người vợ mới sinh được một cậu con trai
khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Thạch Sanh.
- Cậu bé vừa khôn lớn thì mẹ chết. Cậu sống một mình trong túp lều dưới
gốc đa, kiếm ăn qua ngày bằng nghề đốn củi. Cậu được các vị thần dạy cho võ
nghệ và mọi phép thần thông.
- Nghe lời dụ dỗ của Lí Thông, Thạch Sanh về ở với mẹ con hắn.
- Lí Thông lừa Thạch Sanh đi nộp mạng thay cho hắn. Thạch Sanh chém
chết chằn tinh.
- Lí Thông cướp công Thạch Sanh. Hắn được vua phong cho tước Quận
công.
- Thạch Sanh bắn đại bàng bị thương, cứu công chúa. Trong hang sâu,
chàng giải thoát cho con vua Thủy Tề, được Thủy Tề tặng cho cây đàn thần. Một
lần nữa, chàng bị Lí Thông cướp công và hãm hại.
- Hồn chằn tinh và đại bàng lập mưu báo thù Thạch Sanh. Chàng bị bắt
giam trong ngục tối.
- Công chúa từ khi được cứu thoát bỗng nhiên bị câm. Vua sai Lí Thông
tìm thầy chữa bệnh cho nàng nhưng không ai chữa được.
- Nghe tiếng đàn Thạch Sanh, công chúa hết bệnh, nói cười vui vẻ. Vua
truyền gọi người gảy đàn vào cung.
- Thạch Sanh tâu bày đầu đuôi mọi chuyện. Mẹ con Lí Thông bị sét đánh
chết, hoá thành bọ hung.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Nhà vua gả công chúa cho Thạch Sanh. Bằng tiếng đàn thần, chàng dẹp
yên quân của mười tám nước kéo sang gây hấn.
- Thạch Sanh dọn cơm thết đãi kẻ thua trận. Niêu cơm thần của chàng ăn
mãi không hết.
- Nhà vua nhường ngôi cho Thạch Sanh.
II. BÀI LÀM
Ngày xửa, ngày xưa, ở quận Cao Bình có hai vợ chồng tiều phu đã già mà
vẫn chưa có con. Ngày ngày, họ phải lên rừng đốn củi về đổi lấy gạo nuôi thân.
Tuy nghèo nhưng họ lại hay làm việc nghĩa giúp đỡ mọi người. Thấy thế, Ngọc
Hoàng bèn sai thái tử xuống đầu thai làm con của họ.
Rồi bà vợ có mang, nhưng kì lạ thay, đã qua mấy năm mà không sinh nở.
Người chồng lâm bệnh qua đời. Mãi sau, bà vợ mới sinh được một cậu con trai,
đặt tên là Thạch Sanh.
Khổ thay, khi cậu bé vừa lớn khôn thì mẹ lại chết. Một mình cậu lủi thủi ra
vào túp lều rách nát dưới gốc cây đa cổ thụ. Gia tài chẳng có gì đáng giá ngoài
lưỡi búa của cha để lại. Cậu tiếp tục kiếm sống bằng nghề đốn củi. Ngọc Hoàng
sai các thiên thần xuống dạy Thạch Sanh võ nghệ và các phép thần thông.
Một hôm, Lí Thông làm nghề bán rượu đi ngang qua gốc đa. Thấy chàng
trai vạm vỡ khoẻ mạnh gánh hai bó củi rất lớn, hắn liền nghĩ bụng: “Chà! Người
này khoẻ như voi. Nó mà về ở cùng ta thì lợi biết bao nhiêu!”. Lí Thông lân la gợi
chuyện làm quen. Thạch Sanh thật thà kể cho hắn nghe gia cảnh của mình. Lí
Thông gạ Thạch Sanh kết nghĩa làm anh em. Đang cô đơn, nay có người quan
tâm săn sóc đến mình, Thạch Sanh vui vẻ nhận lời rồi từ giã gốc đa, về sống
chung với mẹ con Lí Thông.
Bấy giờ, trong vùng có con chằn tinh hung dữ hay ăn thịt người. Nó có
phép biến hoá khôn lường. Dân phải lập miếu thờ và mỗi năm phải nộp cho
chằn tinh một mạng người để nó đỡ phá phách.
Năm ấy, đến lượt Lí Thông nộp mình. Mẹ con hắn sợ lắm, bày mưu tính
kế lừa để Thạch Sanh chết thay. Lí Thông sắp sẵn một mâm rượu thịt. Chiều tối,
Thạch Sanh đi kiếm củi về, Lí Thông mời chàng ăn rồi bảo:
- Đêm nay đến lượt anh canh miếu thờ, ngặt vì anh đang cất dở mẻ rượu,
em chịu khó thay anh, đến sáng thì về.
Tin lời, Thạch Sanh đi ngay.
Nửa đêm, Thạch Sanh đang thiu thiu ngủ thì chằn tinh sau miếu hiện ra,
giơ nanh múa vuốt định vồ lấy chàng. Thạch Sanh lấy búa đánh lại. Chằn tinh
thoắt ẩn thoắt hiện. Không hề sợ hãi, Thạch Sanh trổ hết tài nghệ để đánh quái
vật. Lát sau, lưỡi búa của chàng đã chém xả nó làm hai mảnh. Chằn tinh hiện
nguyên hình là một con trăn khổng lồ. Cạnh xác nó là bộ cung tên bằng vàng.
Thạch Sanh chặt đầu quái vật rồi nhặt bộ cung tên xách về nhà.
Tưởng oan hồn Thạch Sanh hiện về đòi mạng, mẹ con Lí Thông kinh hãi,
rối rít lạy van. Nghe Thạch Sanh kể chuyện giết chằn tinh, chúng mới hoàn hồn.
Vốn là kẻ độc ác, tham lam và thâm hiểm, Lí Thông nảy ra kế khác, tiếp tục lừa
Thạch Sanh. Hắn vờ tỏ vẻ lo iắng:
- Con trăn ấy là của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó, ắt phải tội chết. Thôi
em hãy mau mau trốn đi! Mọi việc ở nhà anh sẽ lo liệu.
Thạch Sanh thật thà tin lời hắn. Chàng vội vàng từ biệt mẹ con Lí Thông
rồi trở về túp lều cũ dưới gốc cây đa, ngày ngày kiếm củi nuôi thân. Còn Lí
Thông, vội vàng mang đầu chằn tinh vào cung nộp cho nhà vua, được vua ban
thưởng hậu hĩ và phong cho chức Quận công.
Công chúa con vua đến tuổi lấy chồng. Hoàng tử nhiều nước sai sứ đến
cầu hôn nhưng nàng chưa ưng ý một ai. Vua đành mở hội gieo cầu để công
chúa trên lầu cao ném quả cầu trúng vào ai thì sẽ lấy người đó làm chồng.
Không may, lúc nàng sắp gieo cầu thì một con đại bàng khổng lồ sà xuống quắp
nàng đi.
Đại bàng bay qua nơi Thạch Sanh ở. Trông thấy nó, chàng liền lấy cung
tên vàng ra bắn. Đại bàng trúng thương vào cánh, lảo đảo bay về núi. Lần theo
dấu máu, Thạch Sanh tìm được hang sâu, chỗ nó giấu công chúa.
Từ ngày công chúa mất tích, nhà vua vô cùng đau khổ. Ngài ra lệnh cho Lí
Thông phải đi tìm và hứa sẽ gả công chúa và truyền ngôi cho. Lí Thông trong
lòng vừa mừng vừa sợ. Cuối cùng, hắn lại nghĩ ra được một kế hay.
Hắn truyền lệnh mở hội thi hát mười ngày để nghe ngóng tin tức Thạch
Sanh. Đến ngày thứ mười thì hắn gặp Thạch Sanh đi xem hội. Nghe Lí Thông
nói phải đi tìm công chúa mất tích, Thạch Sanh kể lại mọi chuyện. Lí Thông
mừng rỡ nhờ chàng dẫn đường đến hang của đại bàng.
Đến nơi, Thạch Sanh vội vã xuống cứu công chúa. Quân lính của nhà vua
cột dây vào lưng chàng rồi thả xuống hang sâu.
Vốn là một chằn tinh có nhiều phép lạ, đại bàng tuy bị thương nặng nhưng
vừa thấy chàng nó liền chồm dậy, tung cánh, chĩa vuốt lao đến. Thạch Sanh
giương cung bắn mù mắt nó, lấy búa bổ vỡ đầu nó. Chàng lấy dây buộc ngang
mình công chúa rồi ra hiệu cho quân lính ở trên kéo nàng lên. Công chúa vừa
được đưa lên mặt đất thì Lí Thông sai quân lính đưa nàng về cung. Hắn ở lại
vần đá lấp cửa hang hòng giết chết Thạch Sanh để cướp công chàng.
Biết mình bị hại, Thạch Sanh cố tìm lối thoát. Đến cuối hang sâu, chàng
chợt thấy một chàng trai bị nhốt trong cũi sắt. Thạch Sanh lấy bộ cung tên vàng
bắn tan cũi sắt, cứu được thái tử con vua Thủy Tề bị đại bàng bắt nhốt ở đây.
Thái tử hết lời cảm tạ và mời ân nhân xuống thăm thủy cung. Gặp lại con, Thủy
Tề vô cùng sung sướng và đối đãi với Thạch Sanh rất hậu. Thạch Sanh từ chối
nhận bạc vàng châu báu, chỉ xin một cây đàn. Thái tử rẽ nước đưa chàng lên
bờ. Chàng lại trở về túp lều dưới gốc đa xưa.
Lại kể đến chuyện của chằn tinh và đại bàng. Sau khi bị Thạch Sanh giết
chết, hồn chúng lang thang khắp nơi. Tình cờ gặp nhau, chúng bàn cách trả thù
chàng. Chúng ăn trộm một số đồ vật quý giá trong cung vua, lén bỏ vào túp lều
của Thạch Sanh. Thạch Sanh bị bắt giam vào ngục tối. Chàng chẳng thể nào
giãi bày nỗi oan khuất của mình.
Từ hôm được cứu thoát, công chúa tự nhiên sinh bệnh, suốt ngày buồn
rầu, ủ rũ, chẳng nói chẳng cười. Lễ cưới của nàng với Lí Thông phải hoãn lại.
Vua sai hắn đi mời thầy thuốc về chữa cho công chúa nhưng các danh y dù giỏi
đến mấy cũng đành bó tay.
Một hôm, Thạch Sanh ngồi trong ngục tối, buồn quá bèn đem đàn ra gảy.
Tiếng đàn nỉ non, ai oán, trách móc... vọng vào tận hoàng cung. Nghe tiếng đàn,
bỗng nhiên công chúa nói cười vui vẻ. Nàng xin vua cha cho gọi người gảy đàn.
Nhà vua vừa mừng vừa lấy làm lạ. Khi được đưa vào cung, Thạch Sanh
đã kể hết đầu đuôi mọi chuyện. Sự thật được phơi bày. Nhà vua giận dữ sai bắt
giam hai mẹ con tên Lí Thông độc ác rồi giao cho Thạch Sanh xét xử. Vốn tính
nhân hậu, thương người, Thạch Sanh tha cho chúng nhưng trên đường về nhà,
hai mẹ con hắn đã bị sét đánh chết và hóa kiếp thành bọ hung.
Lễ cưới của công chúa và Thạch Sanh được tổ chức linh đình suốt mấy
ngày liền. Ai cũng mừng cho chàng trai thật thà tài giỏi.
Nghe tin vua gả công chúa cho một kẻ đốn củi nghèo khổ, hoàng tử của
mười tám nước liền kéo quân sang đánh. Thạch Sanh xin vua được đi trừ giặc.
Chàng chỉ mang theo cây đàn thần. Tiếng đàn của chàng vừa réo rắt cất lên thì
quân giặc bủn rủn hết tay chân, vội vã xin hàng. Thạch Sanh sai dọn một bữa
cơm thết đãi những kẻ thua trận. Mấy vạn tướng sĩ thấy chỉ có một niêu cơm bé
tí được mang ra thì bĩu môi, không thèm cầm đũa. Thạch Sanh tươi cười đố họ
ăn hết niêu cơm ấy, chàng sẽ trọng thưởng. Nhưng kì lạ thay, cơm xới đến đâu
lại đầy lên đến đấy. Quân sĩ mười tám nước vô cùng kinh ngạc, vội lạy tạ Thạch
Sanh rồi rút về nước.
Nhà vua truyền ngôi cho Thạch Sanh. Hai vợ chồng chàng sống êm đềm,
hạnh phúc bên nhau.
ĐỀ 8: Hãy kể diễn cảm Em bé thông minh
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra từ ngày xửa, ngày xưa.
- Nhà vua sai một viên quan đi tìm người tài giỏi để giúp vua cai trị đất
nước.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Viên quan đi tìm khắp nơi mà chưa thấy ai lỗi lạc.
- Đến làng nọ, viên quan gặp hai cha con người nông dân đang cày ruộng.
- Cuộc đối đáp giữa viên quan và chú bé thông minh.
- Viên quan tin chắc chú bé đúng là người tài, vội phi ngựa về tâu vua.
- Nhà vua kín đáo thử tài chú bé bằng cái lệnh bắt dân làng chú nuôi trâu
đực đẻ.
- Hai cha con chú bé tìm đường vào kinh đô. Chú bé gặp được nhà vua.
Cuộc đối đáp giữa nhà vua và chú bé.
- Chú bé vượt qua mấy lần thử thách một cách dễ dàng.
- Chú bé giúp nhà vua và triều đình làm được công việc oái oăm mà sứ
thần nước láng giềng thách đố (xỏ sợi chỉ qua đường ruột một chiếc vỏ ốc vặn.)
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Nhà vua và cả triều đình khâm phục trí thông minh kì lạ của chú bé.
- Chú được nhà vua phong chức Trạng nguyên và ban cho một dinh thự
trong cung. Chú trở thành người giúp đỡ nhà vua rất đắc lực trong việc cai trị đất
nước.
II. BÀI LÀM
Ngày xưa, một vị vua anh minh muốn có được những người tài giỏi giúp
mình cai trị đất nước. Ngài sai viên cận thần đi dò la khắp nơi. Viên quan ấy đã
mất nhiều công tìm kiếm nhưng chưa thấy có người nào thật lỗi lạc.
Một hôm, ông ta đi qua cánh đồng làng nọ, thấy hai cha con nông phu
đang làm ruộng. Người cha đánh trâu cày, đứa con đập đất. Tuy trong bụng đã
có phần chán nản, song viên quan tự nhủ: “Hay là mình cứ thử lần cuối xem
sao!”.
Ông ta xuống ngựa rồi cao giọng hỏi:
- Này lão kia! Trâu của lão một ngày cày được mấy đường?
Bị bất ngờ, người cha ngạc nhiên đứng ngẩn ra chưa biết trả lời thế nào
thì đứa con trai khoảng bảy, tám tuổi, tóc để trái đào, cởi trần đóng khố, đã
nhanh nhảu hỏi vặn lại quan rằng:
- Thế xin hỏi ông câu này đã: Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một
ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi một ngày cày được
mấy đường.
Nghe cậu bé hỏi lại như thế, viên quan ngạc nhiên sửng sốt, chẳng biết
đáp sao cho ổn. Viên quan nghĩ thầm: “Nhất định nhân tài là đây, khỏi phải mất
công tìm đâu nữa”. Ông ta bèn hỏi tên họ, làng xã của hai cha con rồi vội vã phi
ngựa về tâu vua.
Nghe viên quan kể, nhà vua mừng lắm nhưng chưa tin ngay. Để biết đích
xác hơn, vua làm phép thử. Ngài sai ban cho làng ấy ba thúng gạo nếp, ba con
trâu đực, ra lệnh phải nuôi sao cho ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn một
năm sau nộp đủ, nếu không cả làng phải tội.
Nhận được quà và lệnh vua ban, cả làng bối rối và lo lắng, không hiểu thế
nào. Các cụ bô lão trong làng mở đến mấy cuộc họp ngoài đình, bàn đi tính lại
vẫn chẳng tìm ra cách giải quyết. Việc ấy đến tai chú bé, chú liền nói với cha
rằng:
- Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với làng thịt hai con trâu và
đồ hai thúng gạo nếp thành xôi để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn
một một trâu và một thúng gạo, cha con ta sẽ xin làng làm phí tổn để trẩy kinh, lo
liệu việc đó.
Nghe con nói, người cha sợ hãi khuyên can:
- Đã giết trâu ăn thịt thì còn lo liệu thế nào? Đừng có dại dột mà bay mất
đầu đấy con ạ!
Nhưng chú bé vẫn khăng khăng một mực:
- Cha cứ mặc con, thế nào con cũng lo xong xuôi mọi việc!
Khoác vội chiếc áo, người cha lật đật ra đình trình bày câu chuyện với các
cụ trong làng. Mọi người ngờ vực, bắt hai cha con phải làm giấy cam đoan rồi
mới dám ngả trâu đánh chén.
Mấy ngày sau, hai cha con khăn gói vào kinh. Đến hoàng cung, chú bé
bảo cha đứng đợi ở ngoài, còn mình thì rình lúc lính canh vô ý, lẻn vào sân rồng,
khóc ầm lên.
Lấy làm lạ, vua sai lính điệu em bé vào, phán hỏi:
- Thằng bé kia, mày vào đây có việc gì? Tại sao lại khóc?
Chú bé dụi mắt, vờ vĩnh đáp:
- Tâu đức vua! Mẹ con không may chết sớm, mà cha con thì không chịu
đẻ em bé để chơi với con cho có bạn nên con khóc. Dám mong đức vua phán
bảo cha con cho con được nhờ.
Nghe chú bé nói, nhà vua và cả triều đình đều bật cười. Vua phán:
- Này thằng bé kia! Mày muốn có em bé thì phải kiếm vợ khác cho cha
mày, chứ cha mày là giống đực thì làm sao đẻ được?
Chỉ chờ có thế, cậu bé bỗng tươi tỉnh hẳn:
- Thế sao lệnh trên lại bắt làng chúng con nuôi ba con trâu đực, sau một
năm phải đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được
ạ?
Nhà vua mỉm cười, xoa đầu chú bé:
- Ta thử đấy mà! Thế dân làng mày không biết đem trâu ra thịt mà ăn với
nhau à?
Chú bé nhanh nhảu đáp:
- Tâu đức vua! Làng con sau khi nhận được ba thúng nếp và ba con trâu,
biết là đức vua thương ban lộc cho nên đã làm cỗ ăn mừng với nhau cả rồi ạ!
Vua và các quan nhìn nhau, chịu là chú bé thông minh. Tuy nhiên, vua
muốn thử một lần nữa.
Hôm sau, hai cha con chú bé đang ăn cơm ở ngoài công quán thì sứ giả
của nhà vua mang tới một con chim sẻ, với lệnh bắt họ phải nấu thành ba mâm
cỗ. Chú bé bảo cha cho mượn cây kim may nhỏ xíu rồi nói với sứ giả:
- Ông cầm cái kim này về tâu với đức vua cho người rèn thành một con
dao thật sắc để tôi xẻ thịt chim.
Nghe sứ giả kể lại, nhà vua phục lắm. Lập tức, vua cho gọi hai cha con
chú bé vào cung và ban thưởng rất hậu.
Hồi đó, nước láng giềng cậy lớn lăm le muốn cướp nước ta. Để dò xem
nước ta có người tài hay không, sứ giả nước ấy mang sang một chiếc vỏ ốc vặn
rất dài và rỗng hai đầu, đố làm sao xâu được sợi chỉ qua đường ruột ốc.
Nhà vua lập tức triệu các đại thần vào cung để hỏi ý kiến. Mỗi người bàn
một cách. Các ông trạng, các nhà thông thái nghĩ nát óc nhưng cũng đành bó
tay. Mà không giải được câu đố hiểm hóc ấy thì mất thể diện quốc gia. Cuối
cùng, nhà vua đành mời sứ thần ra nghỉ ở công quán để có thời gian đi hỏi chú
bé.
Từ hôm lãnh thưởng ở kinh đô về, chú bé vẫn hồn nhiên vui đùa, chạy
nhảy, đùa nghịch cùng bạn bè trong làng. Khi nghe viên quan mang dụ chỉ của
nhà vua đến và trình bày câu chuyện, chú bé liền hát rằng:
Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang...
Rồi chú nói với viên quan nọ:
- Cứ làm theo cách ấy là xâu qua được ngay!
Viên quan mừng lắm, vội về tâu vua. Nhà vua và cả triều đình hân hoan,
sung sướng khi thấy con kiến đã kéo được sợi chỉ qua đường xoắn ruột ốc trước
con mắt ngạc nhiên, thán phục của sứ thần nước láng giềng.
Sau đó, nhà vua phong tặng chú bé chức Trạng nguyên, lại truyền xây cho
chú một dinh thự nguy nga trong cung để khi có việc cần, vua gặp gỡ hỏi ý kiến
chú cho tiện. Với trí thông minh lạ thường, chú bé đã giúp nhà vua rất nhiều việc
có ích cho đất nước.
ĐỀ 9: Hãy kể diễn cảm truyện Cây bút thần.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Ngày xưa, ở bên Trung Quốc, có cậu bé mồ côi tên là Mã Lương vẽ rất
giỏi.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ Mã Lương say mê học vẽ:
- Cậu vẽ bằng que củi, bằng than lên mặt đất, bằng cách nhúng tay vào
nước rồi vẽ lên đá.
- Cậu vẽ chim, cá giống như thật.
- Cậu ao ước có được một cây bút vẽ.
+ Mã Lương được Tiên ông cho cây bút thần:
- Trong giấc ngủ, cậu mơ gặp cụ già râu tóc bạc phơ.
- Được cụ già cho một cây bút thần.
- Mã Lương dùng bút vẽ các đồ dùng cần thiết cho dân làng.
+ Cuộc đấu tranh giữa Mã Lương và tên địa chủ tham lam:
- Tên địa chủ bắt Mã Lương vẽ theo ý hắn.
- Mã Lương không làm theo lệnh tên địa chủ nên bị hắn giam vào chuồng
ngựa.
- Mã Lương dùng bút thần vẽ bánh, vẽ lò sưởi.
- Tên địa chủ sai đầy tớ giết Mã Lương để cướp bút thần.
- Mã Lương vẽ chiếc thang và trốn khỏi nơi giam giữ.
- Tên địa chủ sai đầy tớ đuổi theo.
- Mã Lương vẽ cung tên, giết chết tên địa chủ.
- Cậu dừng chân ở một thị trấn xa xôi, sống bằng nghề vẽ tranh, cố giữ kín
tung tích của mình.
+ Cuộc đấu tranh giữa Mã Lương và tên vua độc ác:
- Sơ ý, Mã Lương để lộ chuyện có cây bút thần.
- Chuyện đến tai tên vua gian ác, hắn bắt Mã Lương về hoàng cung.
- Mã Lương căm ghét và làm ngược lại ý muốn của tên vua. Vua sai lính
cướp bút thần rồi giam Mã Lương vào ngục.
- Vua tự vẽ nhiều trái núi vàng. Núi vàng biến thành những tảng đá lớn
suýt đè gãy chân hắn.
- Vua vẽ thỏi vàng, trước nhỏ sau lớn. Thỏi vàng biến thành con mãng xà
khổng lồ hung dữ định ăn thịt hắn.
- Vua hoảng sợ buộc phải thả Mã Lương và dụ dỗ cậu.
- Mã Lương vờ đồng ý. Cậu vẽ biển cả và bão tố, dìm chết tên vua độc ác,
tham lam.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Câu chuyện về cây bút thần được truyền tụng khắp nước.
- Mã Lương đi khắp đó đây, dùng cây bút thần để vẽ cho những người
nghèo khổ.
II. BÀI LÀM
Chuyện kể rằng ngày xửa ngày xưa, ở một làng nọ bên Trung Quốc, có
cậu bé mồ côi tên là Mã Lương vừa thông minh vừa vẽ rất giỏi. Cha mẹ mất
sớm, Mã Lương ngày ngày lên núi chặt củi, ra đồng cắt cỏ đổi gạo nuôi thân.
Nhà nghèo đến nỗi không có đủ tiền mua một cây bút lông nhưng Mã Lương vẫn
say mê học vẽ.
Một đêm, trong giấc ngủ, Mã Lương mơ thấy cụ già râu tóc bạc phơ hiện
ra trước mặt, trong vầng hào quang. Cụ già mỉm cười hiền từ, đưa cho em một
cây bút và nói:
- Ta tặng con cây bút thần. Nó sẽ giúp con nhiều trong cuộc sống.
Mã Lương nhìn cây bút bằng vàng sáng lấp lánh, sung sướng reo lên:
- Ôi! Cây bút đẹp quá! Cháu cảm ơn ông! Cảm ơn ông ạ!
Cậu bé chưa dứt lời thì cụ già đã biến mất. Tỉnh dậy, hoá ra đó là một giấc
mơ, nhưng cây bút thần vẫn nằm trong tay khiến Mã Lương lấy làm lạ lắm.
Mã Lương lấy bút ra vẽ thử một con chim. Nét cuối cùng vừa xong thì
chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Cậu bé vẽ tiếp một con cá, cá
quẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mắt. Mã Lương sung sướng vô
cùng!
Từ đấy, Mã Lương dùng cây bút thần vẽ cho tất cả những người nghèo
khổ trong làng. Ai thiếu cuốc, cậu vẽ cuốc. Ai thiếu đèn, cậu vẽ đèn. Nhà nào
chưa có thùng múc nước, cậu vẽ thùng múc nước. Một đồn mười, mười đồn
trăm, việc làm kỳ lạ của Mã Lương ai ai cũng biết.
Trong vùng, có tên địa chủ tham lam. Nghe chuyện Mã Lương có cây bút
thần, hắn sai đầy tớ đến bắt cậu về nhà vẽ theo ý hắn.
Tuy còn nhỏ nhưng Mã Lương tính tình khảng khái và rất ghét thói tham
lam của bọn nhà giàu. Mặc cho hắn dụ dỗ, đe doạ, Mã Lương dứt khoát không
vẽ bất cứ thứ gì cho hắn. Tên địa chủ giậm chân tức tối, nhốt cậu bé vào chuồng
ngựa và bỏ cậu đói.
Ba ngày sau, giữa đêm mùa đông, tuyết xuống nhiều phủ trắng sân. Tên
địa chủ nghĩ thầm: “Thằng nhóc kia không chết đói thì cũng chết rét. Ta thử
xuống chuồng ngựa xem sao!”. Gần đến nơi, hắn thấy những tia sáng lọt qua
khe cửa. Tò mò, hắn ghé mắt nhìn vào thì thấy Mã Lương ngồi bên lò lửa rực
hồng và đang ăn bánh nướng. Mùi thơm bốc lên ngào ngạt. Hắn không tin ở mắt
mình. Lò sưởi ở đâu ra? Bánh nướng ở đâu ra? À! Phải rồi! Tất cả từ cây bút
thần mà có. Lòng tham sôi sục, hắn sai bọn đầy tớ xông vào giết Mã Lương,
cướp cây bút thần. Nhưng Mã Lương đã vượt qua tường bằng chiếc thang vừa
vẽ. Tên địa chủ tức tối trèo lên thang định đuổi theo. Mới leo lên ba bước, chiếc
thang biến mất, hắn ngã lộn cổ xuống đất. Mã Lương vẽ con ngựa và cưỡi lên
lưng ngựa, ra roi phi thật nhanh. Chưa được bao xa, cậu nghe tiếng hò hét
huyên náo sau lưng. Quay lại nhìn, cậu thấy tên địa chủ cưỡi trên lưng con tuấn
mã, tay vung đao sáng loáng dẫn đầu đám đầy tớ khoảng hai chục tên, đốt đuốc
đuổi theo. Cậu bình tĩnh lấy bút ra vẽ một chiếc cung tên. Lúc tên địa chủ tới
gần, cậu giương cung nhằm tên địa chủ mà bắn. “Vút”. Mũi tên cắm đúng họng
hắn. Hắn ngã vật xuống đường. Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa phóng như
bay.
Suốt mấy ngày đêm phi ngựa ròng rã không nghỉ, cuối cùng, Mã Lương
dừng chân ở một thị trấn nhỏ bé, xa xôi. Ngày ngày, cậu vẽ tranh đem bán ngoài
phố. Sợ lộ tung tích, cậu thường vẽ dở dang như chim thì thiếu mỏ hoặc thiếu
một chân. Tuy thế, những bức tranh cậu vẽ đều rất đẹp khiến mọi người trầm trồ
thán phục.
Một hôm, Mã Lương vẽ con cò trắng. Vì sơ ý, một giọt mực rơi đúng vào
chỗ mắt cò. Thế là cò mở mắt, xoè cánh bay đi trước sự kinh ngạc của bao
người trong thị trấn. Có mấy kẻ mách lẻo đem tin này tố giác với nhà vua. Vốn là
kẻ có lòng tham không đáy, tên vua ra lệnh bắt cậu bé về kinh đô.
Tên vua này nổi tiếng tham lam, tàn ác nên bị muôn dân oán hận. Mã
Lương ghét hắn nên không muốn vẽ. Hắn bắt cậu vẽ con rồng, cậu vẽ con cóc
ghẻ. Hắn bắt vẽ phượng hoàng, cậu vẽ con gà trụi lông. Hai con vật xấu xí, bẩn
thỉu cứ nhảy nhót quanh tên vua. Hắn nổi trận lôi đình, ra lệnh cho quân lính
cướp cây bút thần rồi tống Mã Lương vào ngục tối.
Hắn cầm bút thần tự vẽ. Đầu tiên, hắn vẽ một núi vàng. Không thỏa mãn
lòng tham, hắn vẽ hết núi này đến núi khác. Vẽ xong, hắn nhìn kĩ thì hoá ra là
những tảng đá lớn. Những tảng đá ấy lăn xuống, suýt đè hắn gãy chân.
Không từ bỏ lòng tham, hắn vẽ thỏi vàng, càng vẽ càng lớn, càng dài. Vẽ
xong, hắn nhìn lại thì thấy trước mắt không phải là thỏi vàng mà là một con
mãng xà khổng lồ, miệng đỏ lòm, há hoác, đang lao bổ đến định nuốt chửng
hắn. May mà có đám quan quân xô tới cứu.
Biết không có Mã Lương thì hỏng hết việc, hắn đành thả cậu ra, dùng
vàng bạc dụ dỗ và hứa gả công chúa cho. Mã Lương hiểu rõ tâm địa xấu xa của
hắn nhưng vẫn vờ đồng ý. Tên vua mừng rỡ, trả lại bút thần cho cậu.
Sợ vẽ núi có nhiều thú dữ, tên vua ra lệnh cho Mã Lương vẽ biển. Chỉ hai
nét bút, biển đã hiện ra trước mặt, xanh thẳm và trong suốt như mặt gương soi.
Tên vua ngắm biển rồi hỏi:
- Tại sao biển mà lại không có cá?
Mã Lương chấm nhanh vài chấm. Bao nhiêu là cá xuất hiện, đủ hình dáng,
màu sắc đang bơi lội tung tăng. Tên vua thích thú lắm, vội ra lệnh:
- Vẽ cho ta một chiếc thuyền! Ta muốn ra khơi xem cá!
Trong nháy mắt, Mã Lương đã vẽ xong một chiếc thuyền buồm lớn. Nhà
vua, noàng hậu, hoàng tử, công chúa và các quan đại thần tranh nhau xuống
thuyền. Mã Lương đưa thêm vài nét bút. Gió thổi nhè nhẹ, sóng gợn lăn tăn,
thuyền từ từ rời bến.
Thấy thuyền đi quá chậm, tên vua đứng trên mũi thuyền kêu lớn:
- Cho gió to thêm một tí! Cho gió to thêm một tí!
Mã Lương vung tay vẽ thêm vài nét bút đậm. Sóng biển nổi lên, gió mạnh
hơn. Những cánh buồm căng phồng, chiếc thuyền lao nhanh vun vút. Cậu bé tô
thêm nhiều nét nữa. Biển động ầm ầm, chiếc thuyền lắc lư, nghiêng ngả. Tên
vua sợ hãi, cuống quýt kêu lên:
- Đừng cho gió thổi nữa! Đừng cho gió thổi nữa!
Mã Lương không thèm đếm xỉa đến những lời nói đó. Cậu tiếp tục vẽ
những đường cong lớn. Sóng biển dâng cao, xô vào thuyền hết đợt này đến đợt
khác. Tên vua ướt hết quần áo, một tay ôm lấy cột buồm, một tay ra hiệu, gào to
bảo Mã Lương dừng bút.
Vờ như không nghe thấy, Mã Lương vẫn tiếp tục vẽ. Gió bão càng to, mây
đen kéo đến mù mịt, trời tối đen. Những lớp sóng hung dữ đã nhấn chìm chiếc
thuyền xuống biển sâu.
Thế là hết đời tên vua tham lam, hung ác. Việc làm của Mã Lương được
ngợi ca và truyền tụng khắp nước. Sau đó, Mã Lương đi đó đi đây, dùng bút
thần phục vụ những người nghèo khổ. Cậu bé hoạ sĩ tài ba, đức độ được mọi
người yêu mến và cảm phục.
ĐỀ 10: Hãy kể diễn cảm truyện dân gian Nga ông lão đánh cá và con cá vàng.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Ngày xưa, ở nước Nga, có hai vợ chồng ông lão đánh cá nghèo khổ.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ Ông lão đánh cá thả cá vàng:
- Ông lão kéo lưới ngoài biển, bắt được cá vàng.
- Cá vàng van xin ông thả ra và hứa sẽ đền ơn.
+ Ông lão bị mụ vợ bắt buộc phải tìm cá vàng đòi đền ơn:
- Lần thứ nhất: đòi một cái máng cho lợn ăn.
- Lần thứ hai: đòi một toà nhà đẹp.
- Lần thứ ba: đòi làm nhất phẩm phu nhân.
- Lần thứ tư: đòi làm nữ hoàng.
- Lần thứ năm: đòi làm Long Vương ngự trên mặt biển, bắt cá hầu hạ.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
+ Cá vàng trừng trị thói tham lam bội bạc của mụ vợ ông lão:
- Lâu đài, cung điện biến mất.
- Trở lại túp lều nát ngày xưa.
- Mụ vợ ngồi trước cái máng lợn sứt mẻ.
II. BÀI LÀM
Ngày xửa ngày xưa, ở tận bên nước Nga xa xôi, có hai vợ chồng ông lão
đánh cá nghèo khổ sống trong một túp lều nát ven biển. Hôm nào cũng vậy, ông
lão chèo thuyền ra khơi đánh cá; còn bà vợ ở nhà kéo sợi, nuôi lợn và lo cơm
nước.
Một buổi sáng đẹp trời, ông lão quăng lưới. Lần đầu kéo lên chỉ có bùn.
Lần thứ hai chỉ thấy mấy cây rong biển. Lần thứ ba kéo lên thì bắt được một con
cá vàng.
Chợt con cá cất tiếng kêu van:
- Ông lão ơi! ông sinh phúc thả tôi trở về biển. Tôi xin đền ơn ông. Ông
muốn gì cũng được.
Thấy cá vàng nói được tiếng người, ông lão ngạc nhiên lắm. Ông thả cá
vàng xuống biển và bảo:
- Trời phù hộ cho ngươi! Ngươi trở về biển khơi mà vùng vẫy. Ta không
đòi gì cả và ta cũng chẳng cần gì.
Về nhà, ông kể chuyện thả cá vàng cho vợ nghe. Mụ vợ cau mày mắng:
- Đồ ngốc! Sao không bắt cá vàng đền ơn? Đòi một cái máng mới cho lợn
ăn không được à? Cái máng cũ đã gần vỡ rồi!
Thế là ông lão đi ra biển. Biển trong xanh, gợn sóng êm ả. Ông cất tiếng
gọi cá vàng. Con cá bơi lên hỏi:
- Ông lão ơi! ông cần gì thế?
Ông lão chào con cá và đáp:
- Cá ơi! Giúp tôi với! Mụ vợ tôi cứ càu nhàu mãi. Mụ đòi một cái máng lợn
mới.
Cái máng cũ sứt mẻ cả rồi.
Cá vàng trả lời:
- Ông lão đừng băn khoăn nữa! ông cứ về nhà đi! Tôi sẽ giúp ông có được
cái máng mới.
Về đến nhà, ông lão thấy trước cửa có một cái máng mới tinh. Nhưng mụ
vợ lại trợn mắt quát to hơn:
- Đồ ngu! Chỉ đòi một cái máng thật à? Một cái máng lợn thì thấm vào đâu!
Đi tìm con cá vàng và đòi một cái nhà rộng!
Thế là ông lão lại đi ra biển. Biển xanh nổi sóng, ông lão cất tiếng gọi cá
vàng. Cá vàng bơi lên hỏi:
- Ông lão ơi! ông cần gì thế?
Ông lão chào con cá và nói:
- Giúp tôi với cá vàng ơi! Mụ vợ tôi mắng tôi là đồ ngu. Mụ đòi cá vàng
phải cho mụ cái nhà thật to, thật đẹp!
Cá vàng khuyên:
- Đừng băn khoăn nữa ông lão ạ! Tôi sẽ cầu trời phù hộ cho ông. Ông sẽ
có cái nhà vừa to vừa đẹp.
Tin lời cá vàng, ông lão trở về nhà. Ô! Lạ thay! Túp lều rách nát quen
thuộc đã biến đâu mất. Thay thế vào đó là một ngôi nhà lớn, có cổng bằng gỗ
lim, bên trong đẹp đẽ, sáng sủa, có cả lò sưởi quét vôi trắng xoá. Mụ vợ đang
ngồi hóng gió bên cửa sổ. Thấy ông lão về, mụ mắng xơi xơi:
- Ông đúng là đồ ngu! Ngốc sao ngốc thế cơ chứ! Chỉ đòi một cái nhà thôi
ư? Lão đi ngay ra biển, bảo cá vàng rằng tôi không muốn làm một mụ nông dân
quèn nữa mà tôi muốn trở thành nhất phẩm phu nhân!
Ông lão nghe mụ vợ nói mà hoảng cả hồn. Trời đất ơi! Mụ mà đòi làm
nhất phẩm phu nhân?! Đang chần chừ suy nghĩ thì ông lão lại thấy mụ quát to
hơn nên đành lật đật đi ra biển.
Biển xanh nổi sóng dữ dội. Ông lão khẩn khoản gọi cá vàng. Cá vàng bơi
lên hỏi:
- Ông lão ơi! ông cần gì thế?
Ông lão đáp giọng buồn rầu:
- Cá vàng ơi, hãy giúp tôi! Mụ vợ tôi phát khùng lên, đòi làm nhất phẩm
phu nhân. Mụ ta làm cho tôi không thể sống yên được nữa!
Cá vàng trả lời:
- Ông lão đừng lo lắng quá! Tôi sẽ cầu trời phù hộ cho ông!
Về đến nhà, ông lão thấy trước mắt mình là một lâu đài nguy nga, tráng lệ.
Mụ vợ khoác áo lông sang trọng, đầu đội mũ nhiễu hoa, cổ đeo chuỗi ngọc và
hai bàn tay đeo đầy nhẫn. Xung quanh mụ, kẻ hầu người hạ lăng xăng, tíu tít,
còn mụ thì luôn mồm quở mắng gia nhân, ông lão cúi đầu chào:
- Xin kính chào phu nhân! Chắc bây giờ bà thỏa nguyện rồi chứ?
Mụ trợn mắt quát ông lão một thôi một hồi và bắt ông xuống quét dọn
chuồng ngựa.
Chỉ được vài tuần, mụ lại gọi ông đến, giận dữ sai ông đi tìm cá vàng:
- Này lão già! Ta không muốn làm nhất phẩm phu nhân nữa! Ta muốn làm
nữ hoàng kia!
Ông lão thất kinh hồn vía, vội van xin:
- Trời đất ơi! Mụ nói gì vậy? Mụ có lú lẫn không đấy? Mụ đi chẳng biết
đường đi, nói chẳng biết đường nói mà lại đòi làm nữ hoàng?! Mụ không sợ
thiên hạ cười vào mặt ư?
Mụ vợ nổi cơn lôi đình, dang thẳng cánh tay tát vào mặt ông lão:
- A! Lão già hỗn láo! Dám cãi lại ta ư? Lão phải đi ngay ra biển tìm gặp cá
vàng! Nếu không, ta sẽ cho người lôi đi đấy!
Không còn cách nào khác, ông lão đành lủi thủi đi ra biển. Biển nổi sóng
mù mịt thật đáng sợ. Ông già gọi hồi lâu, cá vàng mới bơi lên hỏi:
- Ông lão ơi! ông cần gì thế?
Ông lão than thở:
- Cá vàng ơi, thương tôi với! Mụ vợ lẩm cẩm của tôi lại nổi cơn điên! Mụ
chán làm nhất phẩm phu nhân rồi! Mụ đòi làm nữ hoàng! Thế có khổ tôi không
cơ chứ!
Cá vàng an ủi:
- Ông yên tâm, đừng lo lắng nữa! Cứ về đi! Trời sẽ phù hộ cho ông. Mụ vợ
ông sẽ là nữ hoàng.
Ông lão về đến nhà thì thấy trước mắt là một cung điện vàng son lộng lẫy.
Mụ vợ đã trở thành nữ hoàng đang ngồi bên bàn tiệc. Đám thị vệ cung kính dâng
cho mụ những ly rượu quý. Ông lão cất tiếng:
- Xin kính chào nữ hoàng! Chắc nữ hoàng đã thỏa nguyện rồi chứ!
Mụ kênh kiệu vác mặt lên không thèm nhìn và ra lệnh đuổi ông lão đi. Đám
vệ binh còn rút gươm doạ chém. Mọi người chế giễu ông lão thấy người sang
bắt quàng làm họ.
Vài tuần sau, mụ vợ lại nổi cơn thịnh nộ, sai lính đi tìm ông lão về và ra
lệnh:
- Này lão kia! Ta chán làm nữ hoàng rồi! Ta muốn làm Long Vương ngự
trên mặt biển để bắt con cá vàng hầu hạ và làm theo mọi ý muốn của ta!
Không dám trái lời mụ, ông lão lại đi ra biển. Giông tố ầm ầm, biển nổi
sóng dữ dội. Ông lão cất tiếng van xin:
- Cá vàng ơi! Tôi chết mất! Mụ vợ tai ác của tôi lại đòi làm Long Vương
ngự trên mặt biển để bắt cá vàng hầu hạ và làm theo ý mụ!
Cá vàng không nói gì, quẫy đuôi lặn xuống biển sâu. Ông lão chờ mãi, đợi
mãi không thấy cá nổi lên trả lời, đành lủi thủi trở về. Ông kinh ngạc khi thấy
chẳng còn lâu đài, cung điện gì cả. Mụ vợ ông lại ăn mặc rách rưới, ngồi trên
bậc cửa túp lều nát ngày nào, trước mặt là cái máng lợn sứt mẻ. Ông thầm nghĩ
mọi chuyện xảy ra vừa rồi cứ như là trong một cơn ác mộng.
ĐỀ 11: Hãy kể diễn cảm truyện Ếch ngồi đáy giếng
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Dưới đáy giếng, có một con ếch tự coi mình là chúa tể.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ ở dưới giếng:
- Ếch sống đã lâu ngày dưới giếng.
- Xung quanh nó là các con vật bé nhỏ như cua, ốc, nhái,...
- Ếch tự cho mình là chúa tể vì những con vật kia đều sợ nó.
- Từ đáy giếng nhìn lên, ếch thấy bầu trời chỉ bé bằng cái vung.
+ ở trên mặt đất:
- Trời mưa to, nước giếng đầy, đẩy ếch ra ngoài.
- Ếch quen thói cũ, nghênh ngang đi lại, nhâng nháo nhìn ngó, chẳng thèm
để ý đến xung quanh.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Nó bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
II. BÀI LÀM
Trong khu vườn nọ có một cái giếng. Dưới ấy, một con ếch sống đã lâu
ngày. Vì xung quanh nó chỉ là những con vật nhỏ bé, yếu ớt như nhái bén, cua
và ốc,... nên nó thấy mình oai phong lẫm liệt làm sao, xứng đáng là chúa tể một
vùng. Mỗi lúc ếch cất tiếng kêu Ồm ộp vang động cả giếng là các con vật kia lại
vô cùng hoảng sợ. Ếch ta lại càng vênh váo ra oai. Từ đáy giếng nhìn lên, thấy
bầu trời chỉ bé bằng cái vung, ếch cười khẩy tỏ vẻ coi thường.
Ngày tháng cứ thế trôi qua. Một năm nọ, trời mưa to suốt mấy ngày liền,
nước giếng dềnh lên tràn bờ, đẩy ếch ra ngoài.
Quen thói cũ tự cho mình là chúa tể, ếch nhảy chồm chồm, nghênh ngang
đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu Ồm ộp ra oai nhưng chẳng ai coi nó ra gì. Nó
nhâng nháo đưa cặp mắt lồi nhìn lên bầu trời bao la trên đầu và ngạc nhiên thầm
nghĩ: “Quái lạ! Mọi khi bầu trời bé tí như cái vung mà sao hôm nay to thế?!”. Vì
chẳng để ý đến xung quanh nên nó đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
Thế là hết đời con ếch thiển cận mà kiêu căng, ngạo mạn!
ĐỀ 12: Hãy kể diễn cảm truyện Thầy bói xem voi.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra từ ngày xửa ngày xưa.
- Có năm ông thầy bói mù hành nghề trước cửa chợ.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ Trước khi xem voi:
- Năm thầy bói mù ế khách ngồi tán gẫu.
- Thầy nào cũng phàn nàn là chưa biết hình thù con voi ra sao.
- Chợt có người nói voi sắp đi qua, năm thầy chung tiền biếu quản tượng,
xin được xem voi.
+ Khi xem voi:
- Thầy thứ nhất sờ vòi.
- Thầy thứ hai sờ ngà.
- Thầy thứ ba sờ tai.
- Thầy thứ tư sờ chân.
- Thầy thứ năm sờ đuôi.
+ Sau khi xem voi:
- Các thầy ngồi bàn tán sôi nổi về voi.
- Thầy sờ vòi bảo voi sun sun như con đĩa.
- Thầy sờ ngà bảo voi chần chẫn giống cái đòn càn.
- Thầy sờ tai bảo voi bè bè giống cái quạt thóc.
- Thầy sờ chân bảo voi sừng sững giống cái cột đình.
- Thầy sờ đuôi bảo voi tun tủn giống cái chổi sể cùn.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Năm thầy cãi nhau, chẳng ai chịu ai, người nào cũng cho rằng mình
đúng.
- Năm thầy lao vào đánh nhau toác đầu, chảy máu.
II. BÀI LÀM
Ngày xửa ngày xưa, ở một vùng nọ có năm ông thầy bói mù hành nghề
trước cửa chợ. Buổi sáng hôm ấy ế khách quá, năm thầy ngồi buồn đành tán
gẫu với nhau. Ai cũng phàn nàn rằng mình chưa được biết hình thù con voi ra
sao. Bỗng nhiên, nghe người ta nói có voi đi qua, các thầy bèn chung tiền biếu
quản tượng, xin cho voi dừng lại để xem.
Các thầy xem voi bằng... tay. Thầy thứ nhất sờ đúng cái vòi. Thầy thứ hai
sờ vào cặp ngà. Thầy thứ ba sờ vào tai. Thầy thứ tư sờ vào chân. Còn thầy thứ
năm sờ vào đuôi.
Người quản tượng dẫn voi đi rồi, năm thầy ngồi bàn tán sôi nổi về voi.
Thầy sờ vòi bảo: Tưởng gì, hoá ra voi sun sun như con đỉa!Thầy sờ ngà gân cổ
cãi: Ai dám bảo voi giống như con đỉa? Nó chần chẫn giống cái đòn càn! Thầy
sờ tai khẳng định: Nó bè bè như cái quạt thóc!Thầy sờ chân không chịu: Sao lại
giống cái quạt thóc được? Nó sừng sững như cái cột đình! Thầy sờ đuôi cứ
hếch mặt ngồi nghe, bấy giờ mới ung dung lên tiếng:
- Các thầy nói sai cả rồi! Đích thị là nó tun tủn giống cái chổi sể cùn!
Năm thầy cãi nhau mỗi lúc một hăng, chẳng ai chịu ai, người nào cũng
cho rằng lời phán của mình là đúng nhất. Cuối cùng, các thầy xô xát, đánh nhau
đến toác đầu, chảy máu. Mọi người chứng kiến cảnh ấy được một trận cười vỡ
bụng.
ĐỀ 13: Kể diễn cảm truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Xưa nay, họ nhà chuột vốn rất sợ mèo.
- Làng chuột tổ chức một cuộc họp bàn cách chống lại mèo. Có đủ mặt
các loại chuột tham dự.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ Nội dung cuộc họp thứ nhất:
- Chuột Cống nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo.
- Cả làng chuột đồng tình với sáng kiến của chuột Cống.
+ Nội dung cuộc họp thứ hai:
- Nhạc đã kiếm được, hội đồng chuột phân công người đi đeo nhạc cho
mèo.
- Không ai dám nhận công việc nguy hiểm ấy. Làng chuột cắt cử chuột
cống; chuột Cống từ chối, đẩy cho chuột Nhắt; chuột Nhắt đẩy cho chuột Chù.
- Chuột Chù không cãi được đành phải đi.
+ Chuột Chù đi đeo nhạc cho mèo:
- Chỉ vừa nghe tiếng mèo kêu, chuột Chù đã sợ run.
- Nghĩ đến trách nhiệm làng giao, chuột Chù đành đánh bạo tiến đến gần
mèo.
- Mèo không thèm ăn thịt chuột Chù nhưng hù doạ làm cho chuột Chù
phát hoảng, chạy về báo làng.
- Cả làng chuột bỏ chạy tán loạn, chẳng ai nghĩ đến cái nhạc...
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Thế là chuột vẫn sợ mèo như trước.
II. BÀI LÀM
Từ xửa từ xưa, mèo đã có cái thú là ăn thịt chuột. Cũng vì thế mà chuột
mới đẻ ra là đã sợ mèo rồi.
Họ hàng nhà chuột giận lắm nhưng nghĩ mãi mà không ra cách để trị mèo.
Một hôm, làng chuột họp nhau lại để bàn. Thôi thì đủ mặt chuột già, chuột trẻ,
chuột lớn, chuột bé... Từ ông chuột Cống rung rinh béo tốt, bệ vệ sang trọng,
đến anh chuột Nhắt láu lỉnh, tinh ranh và cả anh chuột Chù chậm chạp, lù đù.
Khi mọi người đều đã có mặt, ông Cống mới lên giọng dạy rằng:
- Cái giống mèo quái quỷ kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời
phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi! Tôi đã nghĩ ra cách này tuyệt
hay: Bây giờ, bà con ta nên mua một cái lục lạc, buộc vào cổ nó. Như thế thì nó
đi đến đâu, tiếng nhạc vang lên đến đấy, chúng ta biết đường mà ẩn náu cho kĩ.
Đố nó còn làm gì nổi ta nữa! Tôi nói có phải không nào?
Nghe ông Cống nói xong, tưởng tượng ra cái vẻ mặt tiu nghỉu, thất vọng
của mèo, cả làng chuột thích thú dẩu mõm, quật đuôi lấy làm bái phục cái mưu
kế chí lí ấy và đồng thanh ưng thuận, ông Cống sướng phổng cả mũi!
Mấy ngày sau, lục lạc đã kiếm được, làng chuột lại họp để cử người đi đeo
nhạc cho mèo. Trước khi vào cuộc họp, ai nấy hớn hở, lao xao, bảo nhau là sắp
thoát ách của lão Miu tai ác rồi.
Nhưng đến khi mấy vị trong hội đồng chuột hỏi rằng ai dám đem lục lạc
đeo vào cổ mèo thì lạ thay, tất cả im phăng phắc. Chẳng có một cái tai nào nhúc
nhích, một cái răng nào nhe ra cả.
Không khí cuộc họp thật là căng thẳng, ngột ngạt.
Biết cử ai làm cái việc “đại sự” ấy bây giờ? Khó quá! Bất đắc dĩ, làng chuột
đành cắt ông Cống phải đi, vì chính ông ta đã xướng lên cái việc đeo nhạc cơ
mà!
Ấy mới khốn cho chuột cống! Cống ta trong lòng tuy nao núng, lo sợ
nhưng ngoài mặt vẫn làm ra bộ bệ vệ, kẻ cả, nói rằng:
- Tôi đây, chẳng gì nhờ phúc ấm của tổ tiên để lại, cũng được xếp vào bậc
ông Cống, ông Nghè, ăn trên ngồi trước trong làng, có lẽ nào làng lại cắt tôi đi
làm cái việc tầm thường ấy được? Trong họ ta nào có thiếu chi người tài giỏi. Tôi
xin cử anh Nhắt. Anh ấy nhanh nhảu, thông minh, chắc là được việc.
Tưởng là kế hay, nhưng Nhắt vốn tinh ranh, láu lỉnh nên cãi lí rằng:
- Nếu làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, chẳng dám chối từ. Tôi tuy bé
nhưng ngẫm ra vẫn còn được ở chiếu trên, không đến nỗi nào. ông Cống không
đi là phải; nhưng tôi đây không đi, cũng phải. Tôi xin tiến cử với làng anh Chù.
Anh ấy tuy chậm chạp nhưng chắc chắn, cẩn thận, làng không lo hỏng việc.
Thật là tội nghiệp! Chù ta vốn thật thà, chất phác, không biết cãi làm sao
bèn ụt ịt nói rằng:
- Tôi là đầy tớ của làng, làng cắt tôi đi là phải lắm. Tôi chỉ sợ rằng nếu đến
gần mèo mà mèo ăn thịt tôi thì lấy ai thay tôi mà buộc nhạc được nữa? Lấy ai
thay tôi mà hầu hạ cho làng?
Chuột Chù chưa dứt lời thì ông Cống đã nhanh miệng bảo:
- Gớm! Mày cứ lo xa! Mèo có vờn là vờn chúng tao với anh Nhắt kia kìa.
Chứ chú mày hôi như cú thế thì nó bắt mà thèm vào! Thôi, cứ nhận ngay đi,
không lôi thôi gì nữa!
Chuột Chù tức lắm nhưng cũng đành phải nhận. Chú ì ạch vác cái lục lạc
ra đi tìm mèo. Được một đoạn đường, chưa thấy mèo đâu, mới nghe thấy tiếng
meo meo, Chù đã run lẩy bẩy, bốn chân cứ nhũn cả ra, không dám tiến. Nhưng
nghĩ đến lệ làng, chú thở dài, đánh bạo tiến lại gần thì quả nhiên, mèo không
thèm vồ chú thật. Song mèo vẫn ra oai, nhe nanh, giương vuốt, làm cho Chù
cắm đầu cắm cổ, vác cái thân ì ạch chạy khốn chạy khổ về báo cho làng hay. Cả
làng nháo nhác, hoảng hồn, bỏ chạy tán loạn, chẳng ai để ý đến cái lục lạc nó
lăn đi đâu và lăn tự bao giờ không biết.
Thế là tan cái mộng đeo nhạc cho mèo. Rốt cuộc, họ nhà chuột vẫn sợ
mèo cho tới bây giờ.
ĐỀ 14: Kể diễn cảm truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ xưa vẫn chung sống
hoà thuận với nhau.
- Một hôm, bốn người bàn nhau dứt khoát không làm việc nữa, để cho lão
Miệng chết đói.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
+ Cuộc họp bàn giữa Mắt, Chân, Tay và Tai:
- Mắt nói với Chân và Tay rằng mọi người phải làm việc vất vả, còn lão
Miệng thì chẳng làm gì cả.
- Chân, Tay cho là có lí, bàn rằng nên nói cho lão Miệng biết để lão tự lo
thân.
- Mắt, Chân, Tay rủ bác Tai cùng đến gặp lão Miệng.
+ Cuộc gặp gỡ với lão Miệng:
- Bốn người hăm hở tới nhà lão Miệng.
- Nói thẳng là từ nay không làm việc nuôi lão nữa.
- Lão Miệng ngạc nhiên, muốn bàn cho ra lẽ, bốn người kia không nghe,
kéo nhau về.
+ Hậu quả của những việc làm dại dột:
- Sau ba ngày không làm việc, cả bọn mệt mỏi, rã rời.
- Đến ngày thứ bảy thì đành họp lại để bàn bạc.
- Bác Tai phân tích tác hại của việc làm trên.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Bốn người đến gặp lão Miệng.
- Lão Miệng cũng đói lả, gần chết.
- Mọi người lại làm việc, đi tìm kiếm thức ăn cho lão Miệng.
- Lão Miệng ăn xong, cả Tai, Mắt, Tay, Chân đều thấy đỡ mệt và khoan
khoái như trước.
- Năm người lại sống vui vẻ, hoà thuận với nhau.
II. BÀI LÀM
Chuyện kể rằng, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai và lão Miệng từ xưa
vẫn chung sống với nhau thân thiết. Chẳng biết nghĩ thế nào mà một hôm, cô
Mắt than thở với cậu Chân, cậu Tay rằng:
- Các anh ạ! Càng nghĩ tôi càng tức. Bác Tai với hai anh và tôi quần quật
làm việc, mệt nhọc quanh năm. Trong khi đó, lão Miệng lại chẳng làm gì cả. Từ
nay, chúng ta đừng làm gì nữa, thử xem lão ấy có sống được không!
Cậu Chân, cậu Tay gật gù đồng tình:
- Cô Mắt nói chí phải! Chúng ta đi gặp lão Miệng, nói cho lão biết hãy tự lo
thân. Nay đã đến lúc lão phải tự đi kiếm thức ăn, xem lão có làm nổi không nào?
Cả ba kéo nhau đến nhà lão Miệng. Ngang qua nhà bác Tai, thấy bác ngồi
im lặng như đang nghe ngóng, suy nghĩ điều gì, họ chạy vào nói:
- Bác Tai ơi, bác có đi cùng chúng cháu đến nhà lão Miệng không? Chúng
cháu định nói cho lão biết là từ nay mọi người sẽ không làm để nuôi lão nữa.
Bác cháu mình vất vả nhiều rồi, tới lúc phải nghỉ ngơi thôi!
Bác Tai nghe xong gật đầu lia lịa:
- Phải đấy! Phải đấy! Bác sẽ đi cùng các cháu!
Bốn người hăm hở đến nhà lão Miệng. Chẳng chào chẳng hỏi gì cả, cậu
Chân, cậu Tay nói thẳng:
- Chúng tôi hôm nay đến đây không phải để thăm hỏi, trò chuyện gì với
ông đâu mà nói thẳng cho ông biết: Từ nay, chúng tôi không làm để nuôi ông
nữa. Bấy lâu nay, chúng tôi cực khổ, vất vả vì ông nhiều rồi!
Chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, lão Miệng ngạc nhiên lắm. Lão bảo:
- Ấy, có chuyện chi thì mọi người hãy vào nhà đã, làm gì mà nóng nảy
thế?
Bốn người kia lắc đầu cả quyết:
- Không, không bàn bạc gì nữa! Từ nay trở đi, ông phải tự lo lấy mà sống.
Còn chúng tôi có biết cái gì là ngọt bùi ngon lành đâu, làm chi cho cực!
Nói rồi, họ kéo nhau về và hả hê nghĩ rằng phen này thì lão Miệng cứ là
chết đói!
Một ngày, hai ngày trôi qua, Chân, Tay, Tai, Mắt chẳng làm gì cả. Nhưng
lạ thay, họ không thấy vui tươi, nhàn nhã mà lại thấy mệt mỏi, rã rời. Cậu Chân,
cậu Tay chẳng cất nổi mình để chạy nhảy, nô đùa như trước nữa. Cô Mắt thì
suốt ngày lờ đờ, hai mí nặng trĩu. Bác Tai mọi ngày nghe gì cũng rõ, nay lúc nào
cũng cảm thấy như có cái cối xay lúa quay ù ù ở bên trong. Họ cứ sống trong
tình trạng như thế cho tới ngày thứ bảy thì không thể chịu đựng được nữa, đành
họp nhau lại để bàn. Bác Tai cố cất tiếng:
- Chúng ta suy nghĩ và hành động sai lầm rồi các cháu ạ! Chúng ta không
làm để kiếm thức ăn nuôi lão Miệng thì chúng ta cũng tê liệt cả. Lão Miệng tuy
không làm nhưng lão có công việc là nhai. Như thế cũng là làm việc chứ không
phải ăn không ngồi rồi. Từ trước đến nay, chúng ta sống gắn bó thân thiết với
nhau, nay tự dưng lại gây nên chuyện. Lão Miệng có cái ăn thì chúng ta mới
khoẻ khoắn lên được. Theo ý bác, chúng ta nên đến nói lại với lão Miệng, các
cháu có đi không?
Cậu Chân, cậu Tay, cô Mắt cố gượng dậy theo bác Tai đến nhà lão
Miệng. Khốn khổ cho lão, lão cũng sống dở chết dở. Môi thì nhợt nhạt, hai hàm
khô cứng, không buồn nhếch mép. Bốn người kia thành thật xin lỗi lão về sự
hiểu lầm vừa qua. Thế rồi bác Tai, cô Mắt vực lão Miệng dậy. Còn cậu Chân,
cậu Tay vội vã đi kiếm thức ăn. Lão Miệng ăn xong, dần dần tỉnh lại. Lạ thay!
Bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay cũng thấy đỡ mệt và tinh thần sảng khoái
hẳn ra. Họ nhận thấy là mình đã nghĩ sai cho lão Miệng. Từ đấy, năm người lại
chung sống thuận hoà, thân thiết như xưa.
ĐỀ 15: Kể diễn cảm truyện Treo biển.I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Ông chủ cửa hàng bán cá treo tấm biển trước cửa hàng.
- Tấm biển đề dòng chữ: Ở đây có bán cá tươi.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Người thứ nhất góp ý bỏ chữ tươi.
- Người thứ hai góp ý bỏ chữ Ở đây.
- Người thứ ba góp ý bỏ chữ có bán.
- Người thứ tư góp ý bỏ chữ cá.
- Ai góp ý ông chủ cũng nghe theo.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Ông chủ cất nốt cái biển.
II. BÀI LÀM
Trước cửa nhà em có cửa hàng bán cá đã được mấy năm. Một hôm, ông
chủ cho treo trước cửa tấm biển to tướng đề mấy chữ: Ở đây có bán cá tươi.
Ngắm tấm biển, ông gật gù ra vẻ đắc ý lắm.
Biển vừa treo lên, có người qua đường đứng xem, cười bảo:
- Nhà này xưa nay quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ phải đề biển là
cá tươi?
Nghe nói, ông chủ vội xoá ngay chữ tươi đi.
Hôm sau, có người khách quen đến mua cá, nhìn tấm biển rồi bảo:
- Chẳng nhẽ người ta lại ra hàng hoa để mua cá hay sao mà ông lại phải
đề là ở đây?
Thấy cũng có lí, ông chủ xóa bỏ hai chữ Ở đây.
Lại có người khách khác nói với ông ta:
- Thế bác bày cá ra để khoe chứ không phải để bán hay sao mà lại đề là
có bán?
Ông chủ lại xoá vội hai chữ có bán. Cuối cùng, trên biển còn độc một chữ
cá. Ông nghĩ bụng chắc từ nay sẽ không còn ai chê bai gì nữa.
Vài hôm sau, người láng giềng sang chơi, nhìn cái biển và nói:
- Chưa đến đầu phố đã ngửi mùi tanh, đến gần cửa hàng thấy bày đầy
những cá, ai chẳng biết là ở đây bán cá, vậy thì ông treo biển làm gì nữa?
Ngẫm nghĩ hồi lâu, chủ nhà cất nốt cái biển.
ĐỀ 16: Kể diễn cảm truyện Lợn cưới, áo mới
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Ngày xưa, ở làng nọ có hai anh tính hay khoe của.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Một anh có áo mới liền mặc vào rồi đứng ở cửa, chờ người đi qua để
khoe.
- Một anh đi tìm con lợn sổng chuồng.
3. Kết bài:
- Hai anh gặp nhau, anh khoe áo mới, anh khoe lợn cưới.
II. BÀI LÀM
Ở làng nọ, có anh tính hay khoe của. Một hôm, anh ta may được chiếc áo
mới, liền đem ra mặc rồi cứ đứng hóng ở cửa, đợi xem có ai khen không. Đứng
mãi từ sáng đến chiều mà chẳng thấy có ma nào thèm để ý, anh ta tức lắm, nghĩ
bụng: “Mình có cái áo mới thế này, đẹp thế này mà chẳng ai khen cả. Thế có phí
không chứ!”.
Chán nản, anh ta định quay vào nhà thì chợt thấy từ xa, một anh chàng tất
tưởi chạy đến hỏi:
- Bác ơi! Làm ơn cho tôi hỏi thăm, bác có thấy con lợn cưới của tôi chạy
qua đây không?
Mừng rỡ, anh có áo mới vội giơ ngay vạt áo ra và bảo:
- Từ lúc tôi mặc cái áo mới này đến giờ, tôi chẳng thấy có con lợn nào
chạy qua đây cả!
ĐỀ 17: Kể diễn cảm truyện Con hổ có nghĩa
I. DÀN BÀI
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra cách đây đã mấy trăm năm.
- Bà đỡ Trần, người huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đỡ đẻ cho hổ cái.
Bác tiều phu ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang cứu hổ trán trắng khỏi hóc
xương.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
a/ Câu chuyện giữa bà đỡ Trần và hổ đực:
- Đêm khuya, có tiếng gõ cửa. Bà đỡ Trần ra mở, hổ đực lao vào cõng bà
đi.
- Vào đến rừng sâu, bà thấy một con hổ cái đang trở dạ, lăn lộn đau đớn
trên mặt đất.
- Hổ đực cầm tay bà, rơi nước mắt, vẻ van lơn, cầu khẩn.
- Bà Trần đỡ đẻ cho hổ cái.
- Hổ đực mừng rỡ tạ ơn bà bằng một cục bạc lớn và tiễn bà ra khỏi rừng.
- Nhờ cục bạc, bà đỡ Trần sống qua nạn đói.
b/ Câu chuyện giữa hổ trán trắng và bác tiều phu:
- Bác tiều phu ở huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang làm nghề kiếm củi.
- Một hôm, đang chặt củi ở sườn núi thì bác thấy dưới thung lũng cỏ cây
lay động không ngớt.
- Bác tò mò vác búa đến xem, thấy một con hổ trán trắng đang vật vã, lấy
tay móc họng.
- Bác tiểu phu gỡ khúc xương giúp hổ.
- Hổ liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi.
- Bác tiều dặn hổ có gì ngon hãy nhớ đến bác.
- Hổ tha nai đến đặt trước cửa nhà bác để đền ơn.
- Mười năm sau, bác tiều chết, hổ tìm đến mộ để vĩnh biệt.
- Mỗi năm, cứ đến ngày giỗ bác tiều phu, hổ lại mang dê, lợn đến để ngoài
cửa...
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Hổ tuy là loài vật hung dữ nhưng lại rất có nghĩa, có tình.
II. BÀI LÀM
Cách đây mấy trăm năm, ở huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh, vùng
Đông Bắc nước ta có một người đàn bà họ Trần, làm nghề đỡ đẻ và nổi tiếng
mát tay. Bà sống trong ngôi nhà nhỏ ven đường, cách rừng vài dặm.
Một đêm trăng sáng, bà đã đi nghỉ từ lâu, chợt có tiếng gõ cửa dồn dập,
thôi thúc. Bà vội ra mở và nhìn quanh nhưng chẳng thấy ai. Vừa định quay vào
thì bất thần có một con hổ lao tới cõng bà đi. Bà sợ chết khiếp. Lúc tỉnh dậy, bà
thấy mình đã ở trong rừng sâu, xung quanh cây cối um tùm, rậm rạp.
Trước mặt bà, một con hổ cái đang lăn lộn. Móng vuốt của nó cào tung
đất. Bà nghĩ bụng chắc là hổ muốn ăn thịt mình nên sợ hãi đứng im không dám
nhúc nhích. Lúc sau, hổ đực cầm tay bà rồi đưa mắt nhìn hổ cái, tỏ ý xót thương
và cần giúp đỡ. Bà Trần nhìn kĩ bụng hổ cái thì nhận ra rằng nó đang chuyển dạ.
Sẵn có thuốc mang theo bên mình, bà hòa với nước suối cho hổ cái uống rồi xoa
bóp bụng cho nó. Lát sau, hổ cái sinh được một chú hổ con thật xinh xắn. Hổ
đực mừng rỡ đùa giỡn với con. Còn hổ cái mệt mỏi nằm phủ phục bên cạnh.
Hổ đực đến bên một gốc cây, lấy chân đào lên một cục bạc lớn rồi đưa
cho bà đỡ. Biết hổ tạ ơn, bà Trần vui lòng nhận. Hổ đực lưu luyến tiễn bà ra tới
bìa rừng. Bà đi đã khá xa, hổ đực còn gầm lên một tiếng lớn rồi mới trở về với
vợ con. Năm ấy, trời làm mất mùa, nhiều người chết đói. Nhờ cục bạc của hổ
tặng, bà Trần sống qua được kì đói kém.
Cũng vào dạo ấy, ở bên huyện Lạng Giang tỉnh Bắc Giang có bác tiều phu
ngày ngày vào rừng kiếm củi đổi gạo nuôi thân. Một hôm, đang chặt củi trên
sườn núi cao, bác chợt nhìn xuống thung lũng, thấy cỏ cây lay động không
ngừng. Lấy làm lạ, bác vác búa xuống xem có chuyện gì đang xảy ra ở đấy.
Từ chỗ nấp, bác tiều phu kinh hoàng khi chứng kiến cảnh một con hổ trán
trắng đang vật vã nhảy lên, nhảy xuống, cúi đầu cào bới đất và thỉnh thoảng lại
thò tay móc họng. Từ miệng nó, máu me, dãi nhớt trào ra trông phát sợ. Bác tiều
nhìn kĩ thì thấy trong họng nó mắc một khúc xương khá lớn. Hổ càng móc, khúc
xương càng vào sâu.
Mở bình rượu đeo bên thắt lưng, bác tiều uống mấy hớp để lấy can đảm
rồi trèo lên cây, kêu to: cổ họng ngươi đau phải không? Đừng cắn ta, ta sẽ lấy
xương ra cho! Hổ liền nằm phục xuống, há miệng nhìn bác cầu cứu. Bác tiều thò
tay vào họng nó, lấy ra một khúc xương bò to như cánh tay. Hổ thoát nạn. Nó
liếm mép, nhìn bác tiều rồi bỏ đi. Bác nói với theo: Hổ ơi! Nhà ta ở thôn mỗ... Hổ
kiếm được miếng gì ngon thì nhớ ta nhé!
Mấy hôm sau, đang đêm, bác tiều nghe ngoài cửa có tiếng gầm dài và
sắc. Sáng ra, bác thấy có một con nai chết nằm ở đó. Hổ trán trắng đã đem nai
đến để tạ ơn cứu mạng.
Ngày tháng qua đi, mười năm sau, bác tiều phu già rồi chết. Hàng xóm
làm đám tang cho bác khá chu đáo. Lúc sắp hạ huyệt, bỗng nhiên có một con hổ
trán trắng đến trước mộ nhảy nhót, dụi đầu vào quan tài, gầm lên mấy tiếng rồi
bỏ đi. Mọi người sợ hãi chạy tán loạn. Từ đó về sau, năm nào cũng vậy, cứ đến
ngày giỗ bác tiều phu là dân làng lại thấy trước cửa nhà bác có một con dê hay
một con lợn do hổ tha đến. Ai cũng tấm tắc khen hổ tuy là loài vật mà biết trọng
tình trọng nghĩa.
ĐỀ 18: Kể diễn cảm truyện Mẹ hiền dạy con
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Thầy Mạnh Tử lúc còn nhỏ rất ham chơi và hay bắt chước.
- Bà mẹ nghĩ ra mọi cách để dạy con nên người.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Lần chuyển nhà thứ nhất (từ chỗ gần nghĩa địa về gần chợ).
- Lần chuyển nhà thứ hai (từ chợ về gần trường học).
- Mạnh Tử hỏi mẹ về chuyện giết lợn của hàng xóm. Vì lỡ lời nói đùa, bà
mẹ đành mua thịt lợn cho con ăn.
- Mạnh Tử bỏ học về nhà chơi, bà mẹ cắt đứt tấm vải đang dệt để dạy
con.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Mạnh Tử hiểu ý mẹ, chuyên cần học tập, về sau trở thành người nổi
tiếng.
II. BÀI LÀM
Chuyện kể rằng thầy Mạnh Tử thuở nhỏ tên là Mạnh Kha, nhà ở gần
nghĩa địa, thấy người ta đào, chôn, lăn, khóc, về nhà cũng bắt chước làm theo.
Bà mẹ thấy thế nói: “Chỗ này không phải chỗ con ta ở được”, rồi dọn nhà ra gần
chợ.
Ít lâu sau, thầy Mạnh Tử cũng học theo thói bán buôn điên đảo, gian
ngoan của người kẻ chợ. Bà mẹ lo lắng nghĩ: “Chỗ này cũng không phải là chỗ
con ta ở được”, bèn dọn nhà đến cạnh trường học.
Ngày ngày, thầy Mạnh Tử thấy trẻ con ngoan ngoãn, lễ phép, đua nhau
chăm chỉ học hành, về nhà cũng bắt chước lễ phép, chăm chỉ học hành. Lúc ấy
bà mẹ mới yên tâm. Bà tự nhủ: “Chỗ này lấ chỗ con ta ở được lâu dài”.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, liền về hỏi mẹ:
- Mẹ ơi! Người ta giết lợn làm gì đấy?
Bà mẹ nói đùa:
- À, người ta giết lợn để cho con ăn đấy mà!
Nói xong, biết mình lỡ lời, bà phân vân nghĩ ngợi: “Ta nói lỡ mồm rồi! Con
ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng hoá ra ta dạy nó nói
dối sao?”.
Rồi bà đi chợ, mua thịt lợn về cho con ăn thật.
Thời gian sau, thầy Mạnh Tử đang giờ học lại bỏ về nhà chơi, bà mẹ bực
lắm. Đang dệt vải, bà liền cầm dao cắt đứt tấm vải trên khung cửi và nói với con
trai rằng:
- Con đang đi học mà bỏ học, thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt
đứt đi vậy!
Hiểu ý mẹ, từ hôm ấy thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần. Sau này, thầy
trở thành một bậc đại hiền triết nổi tiếng trong thiên hạ. Được vậy là nhờ phần
lớn ở công lao giáo dục của bà mẹ vừa hiền từ vừa nghiêm khắc.
ĐỀ 19: Hãy kể diễn cảm truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Truyện xảy ra vào thời vua Trần Anh Tông (1293 - 1314).
- Phạm Bân là một thầy thuốc giỏi, được vua tin cậy, ban cho chức Thái y
lệnh (chức quan trông coi việc chữa bệnh trong cung).
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
- Quan thái y thường đem của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và
tích trữ thóc gạo để cứu giúp người bệnh tật, nghèo đói.
- Gặp năm đói kém, dịch bệnh, ông dựng thêm nhà, chăm sóc và chữa
bệnh, cứu sống hàng ngàn người.
- Tài năng và đức độ của ông khiến mọi người trọng vọng.
- Gặp tình huống khó xử, một bên là chữa bệnh cho quý nhân trong cung
vua, một bên là cứu tính mạng cho người đàn bà nghèo, lương y chấp nhận đắc
tội với vua, cứu người đàn bà nghèo trước.
3. Kết bài:
* Kết thúc truyện:
- Lòng nhân đức của Phạm Bân khiến vua cảm động và ban khen. Thầy
thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.
- Con cháu của lương y nối nghiệp ông một cách xứng đáng.
II. BÀI LÀM
Vào thời vua Trần Anh Tông (1293 - 1314), có một vị lương y nổi tiếng tài
năng, đức độ tên là Phạm Bân. Nhà vua phong cho ông chức Thái y lệnh, trông
coi về việc chăm sóc và chữa bệnh cho những người sống trong cung.
Phạm Bân thường đem tiền bạc, của cải trong nhà ra mua các loại thuốc
quý nhất và tích trữ lúa gạo để giúp đỡ người nghèo. Ai đói ông cho ăn, ai rét
ông cho mặc, ai bệnh tật ông chữa bệnh cho. Dầu bệnh có nặng đến đâu ông
cũng không hề né tránh. Bệnh nhân tới nhà ông đông lắm, cứ chữa khỏi bệnh rồi
đi, chẳng tốn kém gì.
Bỗng mấy năm liền, trời làm mất mùa, đói kém, dịch bệnh xảy ra khắp nơi.
Phạm Bân cất thêm nhà cho những kẻ khốn cùng, đói khát và bệnh tật đến ở.
Ông cứu sống được cả ngàn người. Tài năng và y đức của ông khiến cho người
đời trọng vọng.
Lương y Phạm Bân rất thương người nghèo. Một hôm, có người gõ cửa
mời gấp:
- Nhà tôi có người đàn bà bỗng nhiên nguy kịch, máu chảy như xối, mặt
mày xanh lét, mời ngài đến xem cho!
Nghe vậy, lương y tức tốc đi theo nhưng vừa ra tới cửa thì gặp sứ giả của
vua sai tới, bảo rằng:
- Trong cung có bậc quý nhân bị sốt, nhà vua triệu ông tới khám.
Phạm Bân trả lời:
- Bệnh đó không gấp. Nay mạng sống của người nhà người này chỉ ở
trong khoảnh khắc. Để tôi cứu họ trước đã, lát nữa sẽ vào vương phủ.
Sứ giả tức giận mắng rằng:
- Phận làm tôi, sao ông dám nói như vậy? ông định cứu tính mạng người
ta mà không nghĩ đến việc cứu mạng mình chăng?
Lương y Phạm Bân vẫn bình tĩnh phân trần:
- Tôi có mắc tội cũng không biết làm thế nào. Nếu người đàn bà kia không
được cứu kịp thời sẽ chết, chẳng biết trông cậy vào đâu. Tính mạng của tôi còn
trông cậy được vào chúa thượng, nếu ngài rộng lòng, may ra tôi thoát. Tội tôi, tôi
xin chịu!
Nói rồi, để mặc sứ giả đứng đấy, ông vội vàng đi cứu người đàn bà nghèo.
Quả nhiên, bà ta được cứu sống.
Xong xuôi, lương y vào triều yết kiến nhà vua. Vua quở trách, ông bỏ mũ,
cúi đầu tạ tội và bày tỏ lòng thành của mình. Nghe xong, nhà vua mừng rỡ phán:
- Ngươi thật là bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng
nhân đức, biết thương xót đám dân đen con đỏ của ta. Ngươi thật xứng đáng
với lòng ta mong mỏi. Từ tấm gương của ngươi, ta suy ra rằng thầy thuốc giỏi
cốt nhất ở tấm lòng.
Về sau, con cháu của Phạm Bân cũng nối nghiệp cha ông, làm quan
lương y đến hàng ngũ phẩm, tứ phẩm trong triều đình. Tuy vậy, họ vẫn để tâm
chữa bệnh cứu giúp người nghèo. Họ đã xứng đáng với tên tuổi của Thái y
Phạm Bân để lại cho đời.
ĐỀ 20: Ca dao có câu:Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Theo em, câu ca dao trên có ý nghĩa như thế nào?
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Câu ca dao: Bầu ơi… chung một giàn khuyên nhủ mọi người phải
thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong cuộc sống.
2. Thân bài:
a/Giải thích:
- Bầu và bí là hai giống cây khác nhau nhưng leo chung một giàn (cùng
một hoàn cảnh sống).
- Cùng chung cảnh ngộ, chung số phận.
- Thuận lợi cùng hưởng, khó khăn cùng chịu,
b/ Mượn chuyện bầu, bí để nói chuyện con người:
- Tuy nguồn gốc, hoàn cảnh, điều kiện sống khác nhau nhưng cùng chung
quê hương, đất nước.
- Muốn tồn tại phải giúp đỡ nhau trong cuộc sống, làm tốt nghĩa vụ xã hội
phân công.
- Khi có quân xâm lược, mọi người phải đoàn kết một lòng, tạo thành một
khối thống nhất để chống giặc.
- Khi gặp thiên tai, mọi người cùng chung sức giải quyết, khắc phục hậu
quả.
3. Kết bài:
- Câu ca dao khuyên mọi người nên sống thương yêu đoàn kết.
- Ý nghĩa sâu sắc của câu ca dao có giá trị muôn đời.
II. BÀI LÀM
Trái bầu xanh, trái bí xanh, theo gió trong lành cất tiếng hát vui chung. Bầu
ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn... Câu ca dao
xưa đã thành bài hát ngân nga khắp nơi nơi như một lời nhắn nhủ những người
dân nước Việt hãy giữ vững truyền thống thương yêu đùm bọc lẫn nhau trong
cuộc sống.
Bầu và bí là hai giống cây khác nhau nhưng thường được người nông dân
trồng chung trên một rẻo đất ở bờ ao, góc vườn; thường leo chung trên một
giàn. Vì thế bầu và bí trở nên gần gũi, thân thiết. Cùng chung một điều kiện
sống, cùng chung số phận, cho nên bầu và bí đừng vì lí do nào đó mà xa rời
nhau. Bầu chớ chê bí xấu hơn bầu, bí cũng chớ vì hoa bí thì vàng còn hoa bầu
thì trắng, quả bí thì dài, quả bầu thì tròn để rồi ganh ghét, xa lánh nhau.
Vì sao vậy? bầu và bí tuy hai giống khác nhau nhưng cùng chung một họ.
Mưa thuận gió hoà, bầu bí chung hưởng. Gặp khi nắng hạn, bầu bí cùng chịu
đựng. Nếu chẳng may gặp cơn gió bão, thân bí giập, quả bí rụng, có lẽ nào bầu
một mình tươi tốt như xưa?
Câu ca dao mượn chuyện bầu bí để nói chuyện con người, chuyện cuộc
đời. Ông cha ta đã cho con cháu một lời khuyên chân thành, kín đáo mà thiết
tha, tế nhị.
Sống ở trên đời, không ai giống ai. Mỗi người có một nguồn gốc, hoàn
cảnh, điều kiện sống riêng. Tuy vậy, mọi người vẫn có những chỗ giống nhau.
Anh em ruột thịt có chung cha mẹ. Bạn bè cùng lứa chung trường, chung lớp,
chung thầy cô, chung sách vở. Hàng xóm láng giềng chung đường đi lối lại. Dù
có khác nhau về điều kiện làm ăn, về lứa tuổi, ngành nghề, nhưng tất cả đều
chung quê hương, đất nước.
Những cảnh ngộ chung, những nét giống nhau đã làm nên mối quan hệ
ràng buộc, gắn bó, là cơ sở để gần gũi, cảm thông. Và chính vì cái chung ấy mà
mỗi người phải biết thương yêu đùm bọc, nhường nhịn sẻ chia để công việc
chung được tốt đẹp, cảnh ngộ chung được cải thiện, hạnh phúc chung được giữ
vững. Không ai có thể sống riêng lẻ, tách biệt vì tình thương làm cho con người
gắn bó với nhau hơn và cuộc sống của mỗi người sẽ tốt đẹp hơn.
Trong những thời kì nước ta bị ngoại bang xâm lược, nhân dân Việt Nam
dẫu có người sang, kẻ hèn; người giàu, kẻ nghèo; người hạnh phúc, kẻ bất
hạnh... nhưng tất cả đều chung nỗi khổ mất nước, nỗi nhục nô lệ, chung một
mong ước độc lập, tự do. Chính vì vậy mà mọi người đã thương yêu, đoàn kết
lại thành một khối để chống quân cướp nước. Đó là nhu cầu tình cảm tự nhiên
và cũng là điều kiện sống còn trước những hiểm hoạ đe doạ vận mệnh của đất
nước, dân tộc.
Dân tộc ta chủ yếu sống bằng nghề nông. Trong sản xuất, thời tiết và điều
kiện tự nhiên ảnh hưởng rất nhiều đến kết quả thu hoạch. Nếu mọi người không
chung sức đắp đê chống lụt, trồng rừng ngăn lũ thì khó có thể bảo vệ được mùa
màng và thành quả lao động phải vất vả một nắng hai sương mới làm ra được.
Trong điều kiện sống khắc nghiệt, nếu không biết nương tựa vào nhau thì làm
sao tồn tại nổi? Mối quan hệ chặt chẽ đã làm cho tình thương nảy nở và người
Việt Nam đã coi đó là truyền thống quý báu tự bao đời.
Ca dao Việt Nam còn có câu:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương,
Người trong một nước thì thương nhau cùng.
Cho dù cuộc sống ngày càng thay đổi, con người hiện đại chú ý nhiều đến
quyền lợi cá nhân nhưng truyền thống đoàn kết và lòng nhân ái của dân tộc ta
vẫn có giá trị trường tồn.
ĐỀ 21: Hãy nêu ý nghĩa đoạn thơ sau đây trích trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm:
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Xuất xứ đoạn thơ: Trích trong trường ca Mặt đường khát vọng...
- Ý nghĩa đoạn trích: Khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc và trách
nhiệm công dân đối với đất nước trong mỗi chúng ta.
2. Thân bài:
- Khái niệm đất nước gắn liền với truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục
tập quán lâu đời và cuộc sống hằng ngày của nhân dân.
- Nhà thơ tự hào về nguồn gốc dân tộc Việt là con Rồng, cháu Tiên. Tất cả
cùng chung một mẹ sinh ra.
- Trách nhiệm công dân với đất nước, dân tộc. Sự sống của mỗi cá nhân
gắn liền với sự hưng vong của đất nước, quyền lợi cá nhân gắn liền với quyền
lợi quốc gia, dân tộc.
- Lòng biết ơn tổ tiên, ông bà.
- Ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm là ngày giỗ Tổ Hùng vương.
Con cháu tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước.
3. Kết bài:
- Ý nghĩa cốt lõi của đoạn thơ: Đất nước là của nhân dân.
II. BÀI LÀM
Trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm được viết trong
những năm tháng chiến tranh ác liệt chống xâm lược Mĩ của nhân dân ta.
Đoạn thơ trích dưới đây thể hiện lòng yêu nước, tự hào dân tộc và trách
nhiệm công dân đối với đất nước trong mỗi chúng ta:
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Ở những đoạn thơ trước, khái niệm đất nước được nhà thơ gắn liền với
truyền thống lịch sử văn hoá, phong tục tập quán và đời sống hằng ngày của
dân tộc ta. Đến đây tác giả nhấn mạnh:
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Khái niệm về đất nước hết sức cụ thể, rõ ràng. Đó là làng trên, xóm dưới,
là gốc đa, bến nước, sân đình... Nơi đó, chúng ta được sinh ra và lớn lên qua lời
ru à ơi của bà, qua những câu chuyện ngày xửa ngày xưa mẹ kể.
Nhà thơ tự hào về nguồn gốc dân tộc ta là con Rồng, cháu Tiên:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng.
Câu thơ lấy chất liệu từ nguồn văn hoá dân gian nên hình tượng thơ trở
nên trữ tình bay bổng. Dân tộc Việt Nam là sự kết hợp của cái đẹp vĩnh hằng
(Tiên) và sức mạnh vạn năng (Rồng) tạo nên.
Đất nước hiện lên qua hình tượng mẹ Âu Cơ sinh bọc trứng trăm con. Đây
là một truyền thuyết đẹp, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam khi nhắc tới
nguồn gốc của mình.
Đất nước hình thành và tồn tại được là do suy nghĩ, cảm xúc và hành
động - tức sự sống của từng con người trong cộng đồng dân tộc từ đời này tới
đời khác:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Nhà thơ nhắc nhở trách nhiệm công dân đối với đất nước, dân tộc của mỗi
người Việt Nam. Ông cha ta suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã để
lại cho con cháu non sông gấm vóc hôm nay. Chúng ta không chỉ hưởng thụ mà
còn có nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng để đất nước ngày càng tươi đẹp.
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày mùng 10 tháng 3 Âm lịch hằng năm. Mọi
người tưởng nhớ tới các vị vua đã có công dựng nước. Ý nghĩa của câu thơ
không dừng lại ở đó mà cao hơn, sâu hơn, nó nhắc nhở chúng ta phải trân
trọng, biết ơn những người đi trước đã đổ mồ hôi, nước mắt và cả máu xương
để đem lại thành quả tốt đẹp mà chúng ta đang được hưởng thụ hôm nay. Lòng
biết ơn là cơ sở của đạo làm người. Chính sự kế thừa và phát huy truyền thống
dân tộc của các thế hệ hôm nay đã tạo nên sức sống muôn đời của non sông
Việt Nam.
Ý nghĩa cốt lõi của đoạn thơ thể hiện ở chỗ tác giả khẳng định đất nước là
của nhân dân. Đất nước Việt Nam có chiều sâu của lịch sử bốn ngàn năm dựng
nước và giữ nước rất đáng tự hào.
ĐỀ 22: Em hiểu gì về đoạn thơ sau:
Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân
Cưỡi lưng ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng, đuổi giặc Ân!
(Trích trong bài thơ Theo chân Bác của Tố Hữu.)
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Nêu ý nghĩa chung của bốn câu thơ:
- Nhắc đến truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc cứu nước.
2. Thân bài:
* Kể lại nội dung truyền thuyết:
- Sự ra đời kì lạ và những yếu tố khác thường của cậu bé làng Gióng.
- Giặc Ân xâm lược nước ta.
- Gióng gặp sứ giả của vua, xin được đánh giặc cứu nước.
- Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ, cưỡi ngựa xông
thẳng vào quân thù. Gậy sắt gãy, Gióng nhổ tre tiếp tục đánh giặc.
- Giặc tan, Gióng bay về trời.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em về hình tượng Thánh Gióng:
- Là hình tượng đẹp tuyệt vời, tượng trưng cho lòng yêu nước và sức
mạnh chống ngoại xâm của nhân dân ta.
- Trong cuộc chiến tranh chống Mĩ cứu nước, thế hệ trẻ Việt Nam xứng
đáng là con cháu Thánh Gióng, làm vẻ vang cho lịch sử nước nhà.
II. BÀI LÀM
Bốn câu thơ trên nhắc đến sự tích kì lạ về cậu bé làng Gióng hoá thành
tráng sĩ, nhổ tre đánh tan giặc Ân, bảo vệ bờ cõi nước ta. Giặc tan, tráng sĩ cưỡi
ngựa bay về trời. Nhà vua ghi nhớ công ơn, truyền lập miếu thờ và phong tặng
danh hiệu cao quý: Phù Đổng Thiên Vương.
Truyền thuyết Thánh Gióng kể rằng, vào thời Hùng Vương thứ sáu, ở làng
Gióng thuộc vùng Tiên Du, Bắc Ninh có hai vợ chồng ông lão hiền lành phúc
đức, chăm chỉ làm ăn. Khổ một nỗi là họ đã già mà chưa có một mụn con nối
dõi.
Hai ông bà ngày đêm ao ước. Một hôm, bà ra đồng, thấy vết chân to kì lạ
bèn ướm thử. Không ngờ bà thụ thai và sau mười hai tháng, sinh ra một cậu con
trai mặt mũi khôi ngô. Hai vợ chồng mừng lắm, ra sức nâng niu chăm bẵm.
Nhưng đến khi đã lên ba tuổi mà cậu bé vẫn đặt đâu nằm đấy, chẳng biết đi,
chẳng biết nói, chẳng biết cười.
Bấy giờ giặc Ân ở phương Bắc cậy đông cậy mạnh, ồ ạt kéo sang xâm
chiếm nước ta. Tình thế rất nguy. Nhà vua lo lắng bèn sai sứ giả đi khắp nơi tìm
người tài giỏi cứu nước. Nghe tiếng loa rao, cậu bé bỗng dưng cất tiếng nói rành
rọt từng câu: “Mẹ ra mời sứ giả vào đây cho con!”. Sứ giả vào, cậu bé bảo: “ông
về tâu với vua cấp cho ta một con ngựa sắt, một cái roi sắt và tấm áo giáp sắt, ta
sẽ phá tan lũ giặc này”.
Nghe xong, sứ giả vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, vội về tâu vua. Nhà vua
truyền cho thợ rèn ngày đêm làm gấp những thứ cậu bé dặn.
Sau khi gặp sứ giả, hàng loạt chuyện thần kì đã xảy ra với cậu bé làng
Gióng. Cậu lớn nhanh như thổi. Cơm ăn bao nhiêu cũng chẳng no, quần áo vừa
mặc xong đã căng đứt chỉ. Cả làng góp gạo nấu cơm nuôi cậu bé vì ai cũng
mong cậu giết giặc cứu nước.
Giặc đã tràn đến chân núi gần làng. Thế nước rất nguy, người người lo
lắng. Vừa lúc ấy, sứ giả đem mọi thứ tới. Cậu bé chợt vùng dậy, vươn vai biến
thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Cậu mặc áo giáp sắt, cầm roi sắt, nhảy lên
mình ngựa sắt. Ngựa hí vang, miệng phun ra lửa, chở tráng sĩ lao thẳng về phía
quân thù. Với cây gậy sắt trong tay, tráng sĩ đón đầu giặc, giết chúng chết như
ngả rạ. Bỗng gậy sắt gãy, tráng sĩ nhổ cả bụi tre ven đường quật tơi bời vào
giặc. Đuổi đánh tàn quân đến tận chân núi Sóc, tráng sĩ phi ngựa lên đỉnh núi,
cởi giáp sắt bỏ lại rồi cưỡi ngựa bay lên trời.
Trong suốt mấy ngàn năm liên tiếp bị nạn ngoại xâm, dân tộc Việt Nam
muốn có được một sức mạnh to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù. Vì vậy, hình ảnh
thần kì về cậu bé làng Gióng chính là mơ ước của nhân dân ta.
Hình tượng Thánh Gióng chính là hiện thân của lòng yêu nước, tinh thần
đoàn kết, ý chí dũng cảm kiên cường đã trở thành truyền thống quý báu của dân
tộc Việt Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, thế hệ trẻ hăng hái xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước và đã lập nên bao chiến công lừng lẫy, mở đường đến
chiến thắng vẻ vang 30 tháng 4 năm 1975, quét sạch quân thù, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Họ chính là những chàng trai Phù Đổng của thời đại
mới, làm rạng danh cho lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước của ông
cha.
ĐỀ 23: Hãy kể lại bằng văn xuôi bài thơ sau:
SA BẪY
Bé Mây rủ mèo con
Đánh bẫy bầy chuột nhắt
Mồi thơm: cá nướng ngon
Lửng lơ trong cạm sắt.
Sáng mai vùng xuống bếp:
Bẩy sập tự bao giờ
Chuột không, cá cũng hết
Giữa lồng mèo nằm... mơ!
(Nguyễn Hoàng Sơn – DẮT MÙA THU VÀO PHỐ).
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Lũ chuột nhắt thi nhau phá phách đồ đạc trong nhà.
- Bé Mây và Mèo con bàn nhau cách trừng trị chúng.
2. Thân bài:
- Bé Mây nằm mơ chuột sa đầy bẫy, khóc lóc xin tha tội chết.
- Mèo con rình chuột, ngửi mùi cá nướng thơm, không nhịn được thèm,
chui luôn vào bẫy.
3. Kết bài:
* Kết thúc chuyện:
- Bé Mây thức giấc, chạy đến xem bẫy.
- Bẫy sập, trong bẫy mồi không còn và Mèo con thì đang... nằm mơ.
II. BÀI LÀM
Mấy bữa nay, lũ chuột nhắt thi nhau phá phách. Chúng ăn vụng thức ăn,
gặm sách, thậm chí cắn rách cả chiếc áo bằng satanh hồng của cô búp bê xinh
đẹp. Bé Mây giận lắm, nghĩ cách trừng trị chúng. Bé thì thầm bàn bạc hồi lâu với
Mèo con. Mèo con thích chí gật gù rồi rung râu cười tít.
Xẩm tối, một chiếc bẫy lồng bằng lưới sắt được đặt dưới gầm trạn đựng
thức ăn, ngay trên đường lũ chuột thường đi. Miệng bẫy mở rộng. Trong bẫy,
một con cá nướng thơm phức được móc vào đoạn dây kẽm uốn cong như chiếc
móc câu. Đêm nay, lũ chuột nhắt tham ăn thế nào cũng bị mắc bẫy.
Mọi việc sắp đặt xong xuôi, bé Mây ngồi vào bàn học bài. Gió hây hẩy thổi
qua khung cửa sổ. Ngoài kia, bầu trời đầy sao nhấp nháy như những cặp mắt
tinh nghịch. Bé Mây ra sân vươn vai hít thở không khí trong lành rồi sửa soạn đi
ngủ. Nằm bên cạnh mẹ một lúc là bé đã ngủ ngon lành.
Bé mơ thấy lũ chuột sa đầy trong bẫy. Chúng cuống quýt chạy quanh
trong chiếc lồng chật hẹp, khóc lóc xin tha. Bé Mây cùng Mèo con thay nhau hỏi
tội chúng. Tội lũ chuột này nhiều lắm! Làm sao tha được!
Trong lúc bé Mây ngủ, Mèo con thu mình nằm ở góc bếp. Chú giỏng tai
lên nghe ngóng, rình từng bước chân rón rén của lũ chuột. Chiếc mũi rất thính
của Mèo con có thể ngửi thấy mùi hôi của lũ chuột từ xa.
Nhưng... ôi! Mùi gì mà thơm thế nhỉ! Mèo con hít hít dò tìm. Mùi cá nướng
thơm lừng cả mũi. Thèm quá, không thể nhịn được nữa, Mèo con chui tọt vào
bẫy. Tách! Bẫy sập, Mèo con bị nhốt ở trong. Chẳng hề sợ hãi, Mèo con ung
dung xơi hết miếng mồi ngon lành. Ăn xong, chú lăn ra ngủ.
Ò... ó... o! Tiếng gáy của anh Gà Trống Tía vang lên giòn giã, gọi ông Mặt
trời. Một ngày mới bắt đầu. Bé Mây cũng đã thức giấc. Chợt nhớ đến giấc mơ
đêm qua, bé tung tăng chạy xuống bếp. Ô! Sao lại thế này? Chuột đâu chẳng
thấy, chĩ thấy giữa lồng, Mèo con đang ngủ ngon lành. Bé Mây bật cười tự hỏi:
“Liệu nó có mơ giống giấc mơ của mình đêm qua không nhỉ?”.
ĐỀ 24: Hãy kể về một người bạn tốt mà em yêu mến
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật:
- Tên bạn, mối quan hệ với em (bạn học, bạn hàng xóm...).
- Nêu lí do khiến em yêu mến bạn.
2. Thân bài:
* Những phẩm chất của bạn:
- Chăm chỉ.
- Học giỏi.
- Tận tình giúp đỡ bạn bè.
- Chịu khó học hỏi, thích tìm hiểu, quan sát.
- Tự giác giúp đỡ bố mẹ.
3. Kết bài:
* Ảnh hưởng của bạn đối với em và mọi người:
- Là tấm gương tốt cho em noi theo.
- Bạn được mọi người yêu mến, tin cậy.
II. BÀI LÀM
Tôi buồn đến thẫn thờ khi chiếc xe chở các gia đình công nhân vào Yaly
chuyển bánh. Tâm, người bạn thân nhất của tôi đã theo bố mẹ vào công trường
mới. Thế là từ mai, tôi phải đi học một mình, làm bài một mình và chơi một mình.
Trời ơi, tôi không thể tưởng tượng được nếu thiếu vắng Tâm, tôi sẽ như thế
nào?
Chúng tôi cùng lớn lên trên công trường thủy điện Sông Đà. Cảnh nhà hai
đứa khác nhau. Là con út nên tôi được nuông chiều. Còn Tâm là anh của hai
đứa em nhỏ nên vất vả hơn tôi nhiều.
Sáng sớm, khi tôi còn cuộn tròn trong chăn thì Tâm đã thức dậy. Bạn ấy
quét nhà, cho gà ăn rồi cùng bố tưới rau. Bao nhiêu là việc, thế mà Tâm chưa
bao giờ đi học muộn. Còn tôi, nhiều hôm nghe Tâm gọi đi học là vơ vội cặp sách
rồi chạy theo, không kịp ăn sáng.
Bận như thế mà Tâm vẫn học giỏi hơn tôi. Từ khi cùng học với nhau, năm
nào Tâm cũng đạt học sinh giỏi, còn tôi cố gắng lắm cũng chỉ được loại khá. Đấy
là tối nào hai đứa cũng học bài với nhau, nếu không, tôi chẳng được thế đâu.
Nhiều tiết Toán, thầy giảng tôi chẳng hiểu gì cả vì cứ mải nhìn vẩn vơ ra ngoài
cửa sổ. Tâm kiên nhẫn giải thích cho tới lúc tôi thật hiểu lí thuyết và biết vận
dụng vào làm bài tập mới thôi. Nhìn Tâm say sưa nói, tôi nghĩ lớn lên bạn ấy làm
nghề dạy học là hợp nhất.
Môn Văn, Tâm cũng giỏi hơn tôi. Mỗi lần làm bài ở lớp, Tâm đọc đề rất kĩ,
làm dàn bài cẩn thận rồi mới cắm cúi viết. Còn tôi cứ loay hoay mãi. Tôi có để ý
quan sát với suy nghĩ, nhận xét gì đâu cơ chứ! Cùng đi theo xe của bố Tâm lên
đập chơi, tôi chỉ thích chạy lăng quăng đây đó rồi lấy đá ném thia lia xuống mặt
nước. Tôi chẳng biết Tâm nhìn gì, nghĩ gì. Chỉ đến khi làm bài thi cuối học kì tôi
mới rõ. Bài văn tả cảnh công trường của Tâm được điểm cao nhất lớp. Tâm so
sánh hàng cột điện 500 ki-lô-vôn như những chàng lực sĩ khổng lồ, từng đoàn xe
Benla bên sườn đồi trông như đàn trâu mộng và dãy cần cẩu giống những chú
hươu cao cổ châu Phi.
Sau khi làm xong nhiệm vụ ở nhà máy thủy điện Hòa Bình, bố Tâm cùng
gia đình được lệnh lên đường đến công trường mới.
Hôm nay, Tâm đã đi xa thật rồi. Cầm cuốn sổ nhỏ của Tâm tặng tôi trước
lúc chia tay, tôi cảm thấy cay cay nơi khóe mắt. Có lẽ tôi phải viết thư ngay cho
Tâm để Tâm dù ở xa vẫn cảm thấy có bạn bè thân yêu bên cạnh và biết rằng tôi
luôn nhớ đến Tâm.
ĐỀ 25: Kể về một người bạn thân thiết của em
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật:
- Tên tuổi, nơi ở của bạn.
2. Thân bài:
* Những đức tính tốt của bạn:
- Kể lại một số chi tiết trong hình dáng, tính cách của bạn.
- Kể lại một số kỉ niệm giữa em với người bạn đó.
3. Kết bài:
* Nêu lên những suy nghĩ, cảm xúc của em về bạn:
- Cố gắng giữ mãi tình bạn chân thành và gắn bó.
II. BÀI LÀM
Nếu có ai hỏi rằng tôi có người bạn nào thân nhất, tôi sẽ không ngần ngại
trả lời rằng: người bạn thân nhất của tôi là Diệu.
Tôi vẫn còn nhớ như in lần đầu gặp Diệu. Hôm ấy là buổi học đầu tiên của
tôi ở trường mới. Trống đánh tùng tùng một hồi dài, học sinh hối hả xếp hàng
vào lớp. Còn tôi, vì vừa chuyển trường về nên chẳng biết lớp mình ở đâu. Tôi
đang ngơ ngác thì bỗng nghe tiếng hỏi:
- Này, bạn học lớp nào mà còn đứng đây?
Tôi quay lại. Một cô bé tóc màu nâu, người khẳng khiu, khuôn mặt thon
nhỏ và cặp mắt sáng long lanh đang chăm chú nhìn tôi. Tôi trả lời rằng tôi tìm
lớp 6A. Nghe xong, bạn ấy reo lên vui vẻ:
- Nào! Bạn hãy theo mình. Tên bạn là gì? Còn tên mình là Diệu.
Nói rồi Diệu kéo tay tôi đi. Vào lớp, Diệu giới thiệu tôi với các bạn. Các bạn
nhìn tôi với ánh mắt làm quen đầy thiện cảm. Trong khi đó, tôi lúng túng đỏ mặt
lên vì xấu hổ.
Qua hai tháng học cùng nhau, tôi nhận ra Diệu học rất giỏi. Những điểm 9,
điểm 10 của Diệu làm cho cả lớp càng yêu mến Diệu. Với tôi, Diệu trở nên thân
thiết tự khi nào không biết nữa.
Một hôm, trời mưa rất to. Những ngả đường vào khu nhà tôi ở bị ngập hết
nên tôi không thể đến lớp. Tôi bồn chồn, lòng dạ chẳng yên. Mẹ tôi an ủi:
- Nghỉ một buổi học chẳng sao đâu con ạ! Chỉ ngày mai là nước rút thôi.
- Nhưng hôm nay học toàn môn khó mẹ ạ!
Tôi băn khoăn trả lời mẹ nhưng nỗi băn khoăn ấy cũng chẳng giúp gì
được cho tôi.
Khi sắp lên đèn ăn cơm tối thì Diệu xuất hiện, quần xắn cao quá gối, đầu
tóc ướt rượt, tay cầm một bọc ni lông. Mẹ tôi đưa cho Diệu cái khăn. Diệu vừa
lau mặt vừa nói với tôi:
- Nước ngập cao ghê! Biết bạn sốt ruột nên mình sang ngay, đem theo cả
vở nữa đây. Bạn chép bài đi, chỗ nào không hiểu mình giải thích cho!
Thì ra, thấy tôi nghỉ học, Diệu đã đến giúp. Tôi cảm động thực sự. Diệu đối
với tôi chân thành và tận tâm quá!
Sau đó khoảng một tuần, hai hôm liền Diệu không đến lớp. Tôi lấy xe đạp
chạy qua mấy con đường để tới nhà Diệu. Nhà cửa trống tuềnh trống toàng. Mẹ
Diệu ốm nằm thiêm thiếp trên giường. Bác cố ngồi dậy trò chuyện với tôi. Bác
cho biết là Diệu đi mua thuốc. Hôm nay, tôi mới biết nhà Diệu chỉ có hai mẹ con.
Bố Diệu mất đã lâu. Mẹ ốm, Diệu phải ở nhà chăm sóc mẹ. Mẹ Diệu kể rằng
ngoài việc đi học, chiều nào Diệu cũng đi làm phụ mẹ, vất vả thế mà Diệu vẫn
học giỏi nhất lớp. Tôi thầm phục cô bạn bé nhỏ của tôi.
Nhìn đồ đạc đơn sơ trong nhà, tôi biết là mẹ con Diệu chẳng sung túc gì.
Tôi chợt nhớ một hôm đi học về, gặp chú bé bán báo chỉ khoảng độ 7, 8 tuổi,
Diệu gọi em lại rồi lục cặp lấy ra hai nghìn đồng mua tờ báo. Diệu thì thầm vào
tai tôi:
- Em bé này mồ côi cả cha lẫn mẹ, khổ lắm! Mình mua giúp nó.
Diệu ơi! Tôi không ngờ bạn lại biết suy nghĩ sâu xa đến vậy. Trong khi tôi
dùng tiền bố mẹ cho để mua quà vặt thì Diệu lại dùng những đồng tiền mồ hôi
nước mắt của mình vào những việc có ích như thế. Diệu đã giúp tôi thấm thía
thêm nhiều điều lắm. Đi với Diệu, bao giờ tôi cũng thấy mình nhỏ bé, dù tôi cao
hơn bạn ấy nửa cái đầu.
Mùa hè đã đến, tôi theo bố mẹ lên thành phố. Chia tay Diệu, tôi thấy mắt
cay cay. Xa nhau ba tháng, tôi sẽ nhớ Diệu lắm đấy. Lúc chia tay, Diệu đưa cho
tôi một bọc ổi to tướng và dặn:
- Nga cầm lên làm quà cho các bạn trên ấy. Nhớ viết thư cho mình nhé!
Chúng tôi cầm tay nhau mãi không muốn rời.
Tôi nhìn theo cái bóng gầy gầy, mảnh khảnh của Diệu khuất dần sau triền
dốc mà lòng thấy nao nao. Tạm biệt cô bạn thân nhất của tôi! Hết hè, chúng
mình lại gặp nhau, Diệu nhé!
ĐỀ 26: Sinh nhật của em được tổ chức rất vui. Em hãy kể lại buổi tiệc sinh nhật ấy
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Năm nay em 11 tuổi. Ngày 20 tháng 4 vừa qua là sinh nhật của em.
- Ba mẹ và các bạn đã tổ chức tiệc mừng sinh nhật em thật vui tươi và
nhiều ý nghĩa.
2. Thân bài:
* Kể lại buổi sinh nhật:
a/ Công việc chuẩn bị:
- Em viết thiệp mời những bạn thân.
- Em dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp bàn ghế, cắm hoa,...
- Mẹ đặt làm một ổ bánh kem có dòng chữ Chúc mừng sinh nhật...
b/ Diễn biến buổi tiệc:
- Bạn bè đến chia vui.
- Em mặc bộ đồ mới ra đón các bạn.
- Ba mẹ dặn dò, tặng quà...
- Mọi người ngồi vào bàn tiệc, cùng hát bài mừng sinh nhật và chuyện trò
vui vẻ.
- Em nói lời cảm ơn chân tình với ba mẹ và các bạn.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Em rất vui và cảm động vì được sống trong tình yêu thương của mọi
người.
- Em thấy rằng mình đã lớn.
- Em hứa sẽ chăm ngoan hơn nữa.
II. BÀI LÀM
Em tên là Hồng Nhung, năm nay 11 tuổi. Ngày 20 tháng 4 vừa qua, ba mẹ
đã tổ chức sinh nhật cho em thật vui và ý nghĩa.
Trước đó vài hôm, trong bữa cơm tối, mẹ ân cần bảo:
- Sắp đến sinh nhật Hồng Nhung rồi đấy! Năm nay, con gái thích mẹ tặng
quà gì nào?
Em đang bẽn lẽn chưa biết trả lời ra sao thì ba nói:
- Lần này, ba sẽ dành cho con một bất ngờ! Một món quà không nằm
trong tưởng tượng của con.
Suốt bữa cơm, em băn khoăn suy đoán nhưng đành chịu.
- Thôi, con hãy vui lòng chờ nhé!
Ba vuốt tóc em rồi cười. Tiếng cười của ba mới sảng khoái và ấm áp làm
sao!
Điều thú vị nữa là sinh nhật của em năm nay lại đúng vào ngày nghỉ. Em
đã trao thiệp mời tận tay mấy bạn thân trong lớp. Chắc thế nào các bạn ấy cũng
tới chia vui với em.
Sáng chủ nhật, mẹ dậy rất sớm, để dọn dẹp nhà cửa. Em và bé Khoa
cũng làm giúp mẹ. Hai chị em lau bàn ghế và nền nhà thật sạch. Mọi việc xong
xuôi, ba chở mẹ đi chợ. Em nghe thấy mẹ nói với ba rằng: “Chúng ta sẽ mua
tặng con gái một bó hồng anh nhé!”.
Lát sau, ba mẹ về. Em hớn hở đón từ tay mẹ một bó hồng nhung tươi
thắm. Mẹ bảo:
- Con hãy tự cắm hoa để xem con gái mẹ có khéo tay không nào!
Nhờ mẹ hướng dẫn, em cũng cắm được một bình hoa xinh xắn rồi đem
đặt vào giữa chiếc bàn dài phủ khăn màu xanh lá cây, sắc đỏ hoa hồng nổi bật
giữa nền khăn xanh, trông thật đẹp! Trên bàn, mẹ đã bày mấy đĩa trái cây, bánh
kẹo,... cùng một chiếc bánh kem có cắm 11 ngọn nến nhỏ xíu đủ màu. Dòng
chữ: “Chúc mừng sinh nhật Hồng Nhung” nhìn thật thích mắt. Mẹ giục em chải
tóc và thay quần áo mới.
Ngoài cửa chợt có tiếng nói cười rộn rã. Hương, Oanh, Quyên, Tú và Đức
ùa vào, tíu tít chúc mừng và tặng em những món quà nho nhỏ nhưng thật ngộ
nghĩnh, dễ thương: cuốn sổ tay, chiếc nơ cài tóc, hộp bút chì màu,... Bạn nào
cũng xiết tay em thật chặt làm em cảm động không nói nên lời.
Buổi sinh nhật diễn ra thật là vui. Em thổi tắt nến trong tiếng vỗ tay và
tiếng hát chúc mừng sinh nhật. Ba, mẹ chúc em chăm ngoan, học giỏi, được mọi
người yêu mến. Một cảm xúc kì lạ, khó tả chợt làm em rưng rưng. Em muốn ôm
chặt ba mẹ, bé Khoa và các bạn vào lòng để san sẻ niềm hạnh phúc.
Ba trao cho em gói quà mà ba nói là đặc biệt rồi bảo em mở ra xem. Một
chiếc đồng hồ báo thức có hình chú gà trống với chiếc mào đỏ chót và chiếc cổ
vươn cao ngạo nghễ. Mọi người cùng ồ lên thích thú. Nhìn thấy nó là em mê
ngay. Từ nay, chiếc đồng hồ báo thức này sẽ trở thành người bạn gắn bó với
em, nhắc nhở em đi học đúng giờ. Em cảm ơn ba. Ba mẹ nhìn em với ánh mắt
động viên đầy tình thương mến!
Em tự nhủ rằng mình đã lớn, phải cố gắng hơn nữa để xứng đáng với
những gì tốt đẹp nhất mà ba mẹ, thầy cô và các bạn đã dành cho mình. Sinh
nhật vừa rồi sẽ trở thành một kỉ niệm khó quên trong tuổi học trò của em.
ĐỀ 27: Năm nay em học lớp 6, em đã lớn rồi. Hãy kể lại những sự thay đổi của em.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu sơ lược về bản thân:
- Mới ngày nào em còn là học sinh Tiểu học.
- Nay em đã thành học sinh Trung học cơ sở.
2. Thân bài:
* Kể về những suy nghĩ, hành động chứng tỏ là em đã lớn:
(Trong sinh hoạt và học tập).
- Giúp được cha mẹ một số việc nhỏ trong gia đình.
- Tự đi học, cha mẹ không còn phải đưa đón.
- Biết học tổ học nhóm cùng bạn bè.
- Mạnh dạn tham gia các phong trào của lớp, của trường.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Em cảm thấy rằng mình đã lớn.
- Tự tin vào bản thân, cố gắng phấn đấu...
II. BÀI LÀM
Thời gian trôi đi nhanh quá! Mới ngày nào em còn là cô học sinh bé nhỏ
của trường Tiểu học Hòa Bình, giờ đây em đã trở thành học sinh lớp 6A, trường
Trung học cơ sở Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh.
Từ tuổi nhi đồng, giờ đây em đã bước sang tuổi thiếu niên. Em giúp đỡ mẹ
một số việc nhỏ như quét dọn nhà cửa, nấu cơm và chăm sóc cu Bi lên sáu tuổi.
Không còn cảnh ba mẹ phải đưa đón như trước đây mà em tự đi học cùng các
bạn gần nhà. Sáng chúng em cùng đi, trưa cùng về, không la cà đây đó.
Điều ấy đã thành nề nếp khiến ba mẹ em rất yên tâm.
Em chơi thân với Tú, Oanh và Nga. Bốn đứa hợp thành nhóm học tập để
giúp đỡ lẫn nhau. Em học khá môn Toán, Tú và Oanh giỏi Văn, còn Nga rất có
năng khiếu về ngoại ngữ. Buổi tối, chúng em học nhóm ở nhà bạn Oanh, cùng
giải những bài toán khó và kiểm tra lẫn nhau cho đến lúc tất cả đều thuộc bài
mới thôi. Những phút giải lao, chúng em thư giãn bằng những trò chơi thú vị và
bổ ích.
Lớp 6A của chúng em là một tập thể khá nổi bật về mọi mặt, từ học tập
cho đến các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao, sống trong môi trường ấy,
em thấy mình thay đổi rất nhiều. Tính nhút nhát bớt dần, em vui vẻ hòa đồng
cùng các bạn. Em rất thích những buổi dã ngoại hoặc đi tham quan di tích lịch
sử, danh lam thắng cảnh... cùng với lớp bởi đó là dịp để chúng em thông cảm và
gắn bó với nhau hơn.
Em yêu lớp, yêu trường, yêu thầy cô, bè bạn. Em tự nhủ rằng mình đã
lớn, phải chăm ngoan hơn nữa để xứng đáng với niềm tin của mọi người.
ĐỀ 28: Em hãy tự giới thiệu về bản thân
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Tự giới thiệu:
- Tên, tuổi, học sinh trường... nhà ở tại...
2. Thân bài:
* Kể một số chi tiết về gia đình và bản thân:
- Gia đình em gồm những ai? Làm nghề gì?
- Căn nhà em đang ở có đặc điểm gì?
- Bản thân em có năng khiếu, sở thích gì?
- Tình cảm của em đổi với gia đình, bè bạn.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của bản thân:
- Yêu mến, gắn bó với gia đình, bè bạn.
- Mong muốn được làm quen với tất cả các bạn.
II. BÀI LÀM
Thân mến chào các bạn!
Tôi là Trần Thanh Mai, học sinh lớp 6B, trường Trung học cơ sở Lương
Thế Vinh, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh. Gia đình tôi có 6 người: ông, bà nội,
ba, mẹ và hai chị em tôi. Ông, bà nội là cán bộ đã hưu trí. Ba, mẹ tôi đều là giáo
viên. Em trai tôi có cái tên rất đẹp: Trần Thanh Trúc. Nhà tôi số 22A / 46 đường
Võ Văn Tần, phường 6, quận 3, cách trường chỉ vài trăm mét. Ngày ngày, tôi
vẫn thường đi bộ đến trường.
Giống như ông nội và ba, tôi rất yêu thích thiên nhiên. Căn nhà của gia
đình tôi tuy không rộng lắm nhưng luôn luôn có màu xanh của cây kiểng; màu
vàng hoa cúc, màu đỏ thắm của hoa hồng... mà ông và ba tôi trồng trong những
chiếc chậu đặt trước hàng hiên, ở góc bàn học của tôi kê cạnh cửa sổ, mẹ tôi
treo một giò phong lan hoàng điệp, mỗi bông hoa giống hệt một chú bướm vàng
xinh xắn. Trước hiên là chiếc lồng chim với chú chích chòe than có giọng hót
giòn giã và trong vắt.
Tôi kính trọng ông bà, ba mẹ và yêu quý em trai nhỏ của tôi. Sau một ngày
lao động, học tập, bữa cơm tối là lúc gia đình tôi sum họp đầy đủ, đông vui nhất.
Tôi tìm thấy ở mái ấm gia đình một nguồn động viên tinh thần rất lớn trong học
tập và trong cuộc sống.
Ở lớp, tôi có nhiều bạn bè, cả nam lẫn nữ. Tuy mỗi người một tính nhưng
chúng tôi chơi với nhau rất thân, luôn đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau. Nhân
buổi giao lưu này, tôi rất mong được làm quen với tất cả các bạn!
ĐỀ 29: Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Tự giới thiệu:
- Tên, tuổi, chỗ ở, vài nét về gia đình.
- Học lớp..., trường...
2. Thân bài:
* Các hoạt động trong ngày:
+ Buổi sáng:
- Thức dậy lúc mấy giờ? Làm những việc gì?
- Đi học lúc nào? Trường xa hay gần?
+ Buổi trưa:
- Ăn uống, nghỉ ngơi.
+ Buổi chiều:
- Giúp việc gia đình (dọn dẹp nhà cửa, dạy em học...).
- Học và làm bài tập.
- Giải trí.
+ Buổi tối:
- Quây quần cùng gia đình trò chuyện, vui chơi...
- Chuẩn bị bài cho ngày mai.
- Đi ngủ.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Em rất quý thời gian, biết sử dụng thời gian vào những việc có ích.
- Cố gắng rèn luyện nề nếp tốt trong cuộc sống hằng ngày.
II. BÀI LÀM
Em là Hoàng Đức Hải, học sinh lớp 6A trường Trung học cơ sở Lý Tự
Trọng, phường 4, thị xã Tân An, tỉnh Long An. Em là con trai lớn trong nhà. Dưới
em là bé út Hoàng Mai, rất hay nhõng nhẽo nên có biệt danh là Mít Ướt. Ba em
là bộ đội biên phòng, thường xuyên công tác xa nhà. Mẹ em là công nhân xí
nghiệp may xuất khẩu của tỉnh.
Vì hoàn cảnh gia đình còn nhiều khó khăn nên em sớm biết lo. Buổi sáng,
khoảng năm giờ rưỡi, khi chú gà trống nhà bác Mười kế bên cất tiếng gáy vang
là em đã thức giấc. Dưới bếp, mẹ em đang nấu bữa sáng. Tập thể dục xong, em
chạy bộ khoảng hơn cây số dọc theo quốc lộ. Khí trời mát mẻ, trong lành khiến
em thấy khoẻ khoắn hẳn ra.
Em bắt tay vào quét dọn nhà cửa sạch sẽ, sắp xếp các thứ cho gọn gàng,
ngăn nắp. Em thay mẹ nhắc nhở em gái chuẩn bị sách vở. Ăn sáng xong, hai
anh em cùng đi học. Ngôi trường khang trang chỉ cách nhà độ chừng cây số.
Buổi trưa, khi mẹ nấu cơm, em cho gà ăn, thay nước uống cho chúng và
lượm những quả trứng hồng bỏ vào chiếc giỏ nhựa lót rơm. Đàn gà mấy chục
con, mỗi ngày đẻ hơn hai chục trứng là nguồn thu nhập thêm của gia đình em.
Bữa cơm đơn giản với ba món: trứng chiên, đậu đũa xào và canh bí xanh
nấu tôm khô. Ba mẹ con ăn rất ngon miệng. Mẹ em tranh thủ chợp mắt. Bé Mai
cũng “tranh thủ” nằm gọn trong lòng mẹ. Em ra ngoài hiên, nằm đu đưa trên
chiếc võng dù màu xanh lá cây của ba rồi cũng thiu thiu ngủ.
Lúc em thức dậy thì mẹ đã đi làm. Nắng chiều chiếu chếch qua khung cửa
sổ, in những sọc vàng trên nền gạch. Đã đến giờ tự học. Em xem lại những bài
buổi sáng và giải mấy bài toán cô yêu cầu. Bé Mai cũng chăm chỉ học. Chỉ khi
nào gặp chỗ khó Mai mới hỏi em.
Buổi tối, mấy mẹ con quây quần trò chuyện. Mẹ nhắc nhiều về ba. Chúng
em cũng mong Tết nhanh tới, ba sẽ được nghỉ phép về nhà. Mới nghĩ đến đây,
em đã thấy vui hẳn lên!
Sau khi xem xong mục Thời sự và vườn âm nhạc trên tivi, em và bé Mai
ngồi vào bàn học. Chuyện đó đã thành nếp. Em cố gắng rèn cho mình những
thói quen tốt như biết sử dụng thời gian vào những việc làm có ích cho bản thân
và gia đình. Em cảm thấy mình đã lớn lên nhiều.
ĐỀ 30: Em hãy thay lời ông lão đánh cá trong truyện Ông lão đánh cá và con cá vàng để kể lại truyện.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Kể lại tóm tắt phần dầu.
2. Thân bài:
* Kể lại lần thứ năm ông lão đi ra biển:
- Mụ vợ chán làm Nữ hoàng, bắt ông lão đi gặp cá vàng xin cho mụ làm
Long vương ngự trên mặt biển.
- Cá vàng phẫn nộ trước ý định điên rồ của mụ nhưng lại rất thương ông
lão, bèn mời ông lão xuống Thủy cung để đền ơn.
3. Kết bài:
* Kể một kết thúc khác với truyện:
- Ông lão băn khoăn do dự nhưng cuối cùng đã làm theo lời cá vàng.
II. BÀI LÀM
Tôi thật khốn khổ vì mụ vợ tham lam, độc ác. Sau bao lần đòi hỏi những
của cải ngày càng nhiều như vàng bạc, châu báu, lâu đài,... mụ còn muốn cá
vàng cho mụ làm Nữ hoàng. Mặc dù đã đạt tới tột đỉnh cao sang nhưng giờ đây
mụ lại muốn trở thành Long vương để bắt cá vàng trực tiếp hầu hạ, nhằm thỏa
lòng tham khôn cùng của mụ.
Cũng như những lần trước, không dám trái lời mụ, tôi lại đi ra biển. Biển
tung bọt sóng trắng xoá, dữ dội. Nghe tiếng gọi khẩn thiết của tôi, cá vàng hiện
lên. Sau khi nghe tôi thuật lại ý muốn điên rồ của mụ vợ, cá vàng nói:
- Hỡi ân nhân của tôi! Tôi thấu hiểu tình cảnh đáng thương của ông. Ông
sống làm sao được với mụ vợ tai quái ấy. Trời sẽ trừng phạt thói tham lam và
bội bạc của mụ. Những năm tháng còn lại của cuộc đời, ông hãy xuống Thủy
cung vui vầy cùng tôi. Như thế, ông đỡ bị hành hạ mà tôi cũng thỏa mong ước
được đền đáp ơn cứu mạng.
Nghe cá vàng nói vậy, tôi băn khoăn do dự hồi lâu. Ra đi ư? Còn quê
hương, làng xóm, bỏ đi sao đành! Vả lại, trần gian với thủy cung chắc cũng có
nhiều điều khác biệt, không biết mình có hợp hay không?
Trong cung điện nguy nga, mụ vợ tôi ngồi chờ phép lạ như những lần
trước. Chờ mãi, chờ mãi mà chưa thấy quân lính áp giải tôi về, mụ sốt ruột
nghiến răng nguyền rủa... Bỗng đâu mây đen kéo đến, giông tố nổi lên ầm ầm.
Đây đó đã nghe tiếng tường đổ, ngói rơi. Mụ vợ nhận ra nguy hiểm đang tới gần.
Bực tức, căm giận và tuyệt vọng, mụ quát đám cận thần cùng mụ xông ra biển
bắt tôi cùng cá vàng về trị tội. Nhưng đã muộn. Cá vàng rẽ nước đưa tôi xuống
thủy cung. Mụ tức tối giậm chân la hét. Một cơn sóng lớn xô tới, cuốn phăng rồi
đưa mụ già về bên túp lều xiêu vẹo với cái máng lợn ăn sứt mẻ.
ĐỀ 31: Kể về một việc tốt mà em đã làm.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu cụ thể việc tốt:
- Tuần trước, trong đợt thi đua học tập và làm theo Năm điều Bác Hồ dạy,
em đã làm một việc tốt: nhặt được của rơi, trả lại cho người bị mất.
2. Thân bài:
* Diễn biến của sự việc:
- Buổi trưa, đi học về, em nhặt được một túi nhỏ bằng da màu đen.
- Em cố ý chờ người đánh rơi quay lại nhưng gần đến nhà rồi mà vẫn
không thấy ai tìm kiếm.
- Em đem đến nộp cho công an phường.
- Nhà trường biết tin đã tuyên dương em trong lễ chào cờ đầu tuần.
- Chủ nhân của chiếc túi xách tìm đến tận nhà cảm ơn em.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Em rất vui vì đã làm được một việc nhỏ nhưng có ích. Cha mẹ, thầy cô
đều khen em là một đội viên ngoan.
II. BÀI LÀM
Tuần trước, trường em phát động phong trào thi đua học tập và làm theo
Năm điều Bác Hồ dạy. Em đã làm được một việc tốt: nhặt được của rơi, trả lại
cho người bị mất.
Trưa thứ năm, trên đường đi học về, qua quãng đường vắng, em nhìn
thấy một túi xách nhỏ màu đen nằm ngay giữa đường. Em nhặt lên rồi vừa đi
chậm chậm, vừa đưa mắt ngó chừng xem ai là chủ nhân của nó.
Một lúc sau, vẫn không thấy người tìm kiếm. Em đoán người đánh rơi đã
đi xa hoặc không biết rằng mình đã đánh rơi. Nếu biết, chắc giờ này người ấy
đang loay hoay tìm kiếm. Ai nhỉ? Một bác cán bộ hay một chú công nhân, một
anh bộ đội? Trong chiếc túi này đựng những gì? Tài liệu, giấy tờ hay tiền bạc?
Bao câu hỏi hiện lên trong óc. Em đưa mắt nhìn quanh lần nữa. Không ai chú ý
tới em. Em nghĩ là trả hay không trả? Nếu mình không trả, có ai biết đâu mà
trách? Có tiền, mình sẽ mua truyện tranh này, mua quần áo mới này và mua
những đồ chơi mà mình ao ước từ lâu. Tưởng tượng đến lúc ấy, em thích lắm,
bước chân như nhanh hơn, nhẹ nhàng hơn. Tiếng thầy Hiệu trưỏng trong buổi lễ
phát động thi đua như văng vẳng đâu đây: Các em hãy ghi nhớ Năm điều Bác
Hồ dạy, cố gắng học tập tốt, tu dưỡng tốt để trở thành con ngoan, trò giỏi...
Không! Không nên tham của người khác! Phải trả lại thôi!
Chủ nhân chiếc túi xách này sẽ mừng biết bao nếu tìm lại được nó. Nhưng
biết ai là người đánh rơi mà trả? Tốt nhất là đem nộp cho các chú công an.
Giữa trưa, trụ sở công an phường vắng vẻ, chỉ có một chú trực ban. Thấy
em ngập ngừng ở cửa, chú vồn vã hỏi:
- Có chuyện chi đó cháu?
- Dạ thưa chú... cháu nhặt được cái túi xách này. Cháu đem nộp, nhờ chú
trả lại cho người mất ạ!
Đỡ chiếc túi từ tay em, chú tươi cười xoa đầu em rồi bảo:
- Cháu ngoan lắm, không tham của rơi! Chú cháu mình xem trong này có
những gì để còn ghi vào biên bản.
Rồi chú lấy ra một xấp giấy tờ chủ quyền nhà, chủ quyền xe và hơn hai
trăm ngàn tiền mặt. Chú ghi rõ từng thứ vào biên bản rồi yêu cầu em viết tên và
địa chỉ xuống phía dưới.
Sáng thứ hai tuần sau, em được thầy Hiệu trưởng và cô Tổng phụ trách
tuyên dương trong tiết chào cờ. Tiếng vỗ tay nồng nhiệt của toàn trường khiến
em vô cùng xúc động. Buổi tối, gia đình em tiếp một người khách lạ. Đó chính là
chủ nhân của chiếc túi. Bác cám ơn em mãi và tặng em một trăm ngàn để mua
sách vở và đồ chơi nhưng em kiên quyết từ chối.
Ba mẹ em rất mừng vì em biết làm điều tốt. Lời khen chân thành của mọi
người đối với em là phần thưởng quý giá nhất. Nhớ lại chuyện ấy, giờ đây em
vẫn thấy vui.
ĐỀ 32: Kể về một lần em mắc lỗi (bỏ học, nói dối, không làm bài,…)
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Thời gian xảy ra sự việc:
- Đó là lỗi lầm gì? xảy ra vào lúc nào?
2. Thân bài:
* Diễn biến sự việc:
- Hoàn cảnh dẫn đến lỗi lầm.
- Em đã có suy nghĩ và hành động sai trái như thế nào?
- Hậu quả của lỗi lầm đó ra sao?
3. Kết bài:
* Kết thúc sự việc và cảm nghĩ của em:
- Nhận thức của em về lỗi lầm đã mắc phải. Em ân hận và quyết tâm sửa
chữa.
II. BÀI LÀM
Cuối năm học vừa qua, em được nhận phần thưởng Học sinh xuất sắc.
Thầy cô và bạn bè khen ngợi nhưng cũng chính những lời khen ấy lại làm cho
em xấu hổ vô cùng. Chuyện là thế này:
Em vốn là học sinh giỏi Toán. Bài kiểm tra nào em cũng đạt điểm 9, điểm
10. Mỗi lần thầy yêu cầu xướng điểm, em trả lời rất rành rọt trước sự thán phục
của bạn bè trong lớp. Một hôm, trong giờ ôn tập, em chủ quan không học bài cũ.
Theo thường lệ, thầy giáo gọi học sinh lên bảng. Em đã có điểm kiểm tra miệng
nên tin chắc là thầy sẽ chẳng gọi đến mình. Vì vậy em ung dung ngồi ngắm trời
qua khung cửa sổ và tưởng tượng đến trận đá bóng chiều nay giữa đội lớp em
với lớp 6B.
Nhưng một chuyện bất ngờ xảy ra. Thầy giáo yêu cầu cả lớp lấy giấy ra
làm bài. Biết làm sao bây giờ? Mọi khi làm bài một tiết, thầy thường báo trước.
Còn hôm nay, sao lại thế này? Đây đó trong lớp nổi lên tiếng xì xào thắc mắc
của một số bạn. Em ngơ ngác nhìn quanh một lượt. Bạn Hoa ngồi cạnh huých
cùi tay vào sườn, nhắc nhở: Kìa, chép đề đi chứ!
Em có cảm giác là tiết kiểm tra như kéo dài vô tận. Em loay hoay viết rồi
lại xóa. Vì mất bình tĩnh nên đầu óc cứ rối tinh lên. Thời gian đã hết, em nộp bài
mà lòng cứ thắc thỏm, lo âu.
Tuần sau, thầy giáo trả bài. Như mọi lần, em nhận bài từ tay thầy để phát
cho các bạn. Liếc qua bài mình, thấy bị điểm 3, tim em thắt lại. Em không để cho
ai kịp nhìn thấy và cố giữ nét mặt thản nhiên, vẻ mặt ấy che giấu bao nhiêu bối
rối trong lòng. Thật là chuyện chưa từng có. Ăn nói làm sao với thầy, với bạn, với
bố mẹ bây giờ? Em quay cuồng lo nghĩ và bất chợt nảy ra một ý...
Thầy giáo gọi điểm vào sổ. Đến tên em, em bình tĩnh xướng to: Tám ạ!
Thầy gọi tiếp bạn khác. Em thở phào nhẹ nhõm và tự nhủ chắc thầy giáo sẽ
không để ý vì có gần chục bài bị điểm kém cơ mà!
Để xóa sạch mọi dấu vết, tối hôm ấy em làm lại bài rồi lấy bút đỏ ghi điểm
8 theo nét chữ của thầy. Ngày qua ngày, cứ nghĩ đến lúc thầy giáo yêu cầu xem
lại bài mà em lạnh cả người. May sao, mọi chuyện rồi cũng trôi qua và tưởng
chừng em đã quên bẵng chuyện ấy.
Cuối năm, em đạt danh hiệu Học sinh xuất sắc. Những tràng vỗ tay,
những lời khen ngợi chân thành, vẻ hài lòng và tự hào của cha mẹ... Tất cả
những điều ấy vô tình khơi dậy sự day dứt và xấu hổ trong em. Em không xứng
đáng. Em muốn nói lên sự thật xấu xa ấy nhưng không đủ can đảm.
Thời gian đã đẩy lùi mọi chuyện vào dĩ vãng nhưng nỗi ân hận vẫn còn
nguyên đó. Giờ em kể lại chuyện này mà lòng chưa hết day dứt. Mong thầy cô,
cha mẹ và các bạn tha thứ cho em. Em hứa không bao giờ mắc lỗi lầm đó nữa.
ĐỀ 33: Kể về một kỉ niệm hồi thơ ấu mà em nhớ nhất
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu sơ lược về kỉ niệm đáng nhớ:
- Về chuyện gì? xảy ra bao giờ? Có liên quan đến ai?
(Việc rèn luyện chữ viết hồi em học lớp 3)
2. Thân bài:
* Kể lại trình tự sự việc:
- Vì chữ rất xấu nên em sợ môn Chính tả.
- Em chưa được điểm cao bao giờ.
- Mẹ khuyên nhủ động viên em nên tập viết chữ cho sạch đẹp.
- Em cố gắng rất nhiều, kiên trì luyện tập.
3. Kết bài:
* Kết quả và cảm nghĩ của em:
- Chữ viết của em càng ngày càng sạch đẹp hơn.
- Em đã đạt được điểm 10.
- Em tự nhủ phải cố gắng hơn nữa.
II. BÀI LÀM
Năm nay, em đã là học sinh lớp 6 nhưng những kỉ niệm hồi còn thơ ấu em
không bao giờ quên. Trong những kỉ niệm ấy có chuyện rèn luyện chữ viết hồi
em học lớp 3. Em trở thành học sinh giỏi Văn cũng là nhờ một phần vào những
ngày rèn luyện gian khổ ấy.
Trong các môn học, em sợ nhất môn Chính tả vì chữ em rất xấu. Mỗi khi
đến giờ chép Chính tả theo lời cô đọc, em thấy khổ sở vô cùng. Chưa bao giờ
em đạt điểm cao môn này. Nhiều buổi tối, em giở tập, lặng nhìn những điểm kém
và lời phê nghiêm khắc của cô giáo rồi buồn và khóc. Mẹ thường xuyên theo dõi
việc học tập của em. Biết chuyện, mẹ không rày la trách mắng mà ân cần
khuyên nhủ:
- Con lớn rồi, phải cố tập viết sao cho đẹp. Ông bà mình bảo nét chữ là
nết người đấy con ạ!
Em ngẫm nghĩ và thấy lời khuyên của mẹ rất đúng. Vì thế em quyết tâm
tập viết hằng ngày, đến bao giờ chữ em trở nên sạch đẹp mới thôi.
Em tự đề ra cho mình kế hoạch mỗi ngày dành ra một tiếng đồng hồ tập
chép. Trước hết, em chép lại những bài tập đọc trong sách giáo khoa. Sau đó,
tập chép những bài thơ ngắn. Mẹ dạy em cách cầm bút sao cho thoải mái để viết
lâu không bị mỏi tay. Em học theo và đã quen dần với cách cầm bút ấy. Mỗi bài,
em viết nhiều lần ra giấy nháp, khi nào tự thấy đã tương đối sạch đẹp thì mới
chép vào vở. Xong xuôi em nhờ mẹ chấm điểm. Những bài đầu, mẹ chỉ cho
điểm 5, điểm 6 vì em viết còn sai Chính tả và nét chữ chưa đều. Em không nản
chí, càng cố gắng hơn.
Đến bài thứ chín, thứ mười, em đã có nhiều tiến bộ. Những dòng chữ đều
đặn, ngay hàng thẳng lối hiện dần ra dưới ngòi bút của em. Mẹ không ngừng
động viên làm cho em tăng thêm quyết tâm phấn đấu.
Lần đầu tiên được cô giáo cho điểm mười Chính tả, em vô cùng sung
sướng. Cô giáo khen em trước lớp và khuyên các bạn hãy coi em là gương tốt
để học tập.
Em luôn nhớ lời mẹ và thầm cảm ơn mẹ. Em cầm quyển vở có điểm 10 đỏ
tươi về khoe với mẹ. Mẹ xoa đầu em nói:
- Thế là con đã chiến thắng được bản thân. Con đã trở thành người học
sinh có ý chí và nghị lực trong học tập. Mẹ tự hào về con. Ba con biết tin này
chắc là vui lắm!
Từ đó, cái biệt danh Tuấn gà bươi mà các bạn tinh nghịch trong lớp đặt
cho em không còn nữa. Tuy vậy, em vẫn kiên trì tập viết để nét chữ ngày một
đẹp hơn. Sau Tết, em sẽ tham gia hội thi Vở sạch chữ đẹp do trường tổ chức.
Đúng là Có chí thì nên, Có công mài sắt có ngày nên kim, phải không các
bạn?
ĐỀ 34: Kể về một tấm gương tốt trong học tập hay trong việc giúp đỡ mọi người mà em biết.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Hoàn cảnh xuất hiện người tốt việc tốt.
2. Thân bài:
* Diễn biến của chuyện:
- Kể về người tốt, việc tốt mà em biết.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Học tập gương tốt, cố gắng trở thành người có ích.
II. BÀI LÀM
Trước đây, em thường nghĩ rằng trong cuộc sống hằng ngày, không phải
ai cũng có cơ hội để làm việc tốt. Nhưng rồi một chuyện xảy ra tuần trước đã
khiến em hiểu là không phải như vậy. Em đã được chứng kiến một tấm gương
người tốt việc tốt ngay trên đường phố.
Hôm ấy, trên đường đi học về, ngang qua một ngã tư, em đứng chờ ở
phần đường dành cho người đi bộ. Vừa đói, vừa mệt, em chỉ mong đèn đỏ bật
lên cho dòng xe cộ dừng lại để qua đường. Chăm chú nhìn vào cột đèn tín hiệu,
em chẳng để ý gì đến những người xung quanh. Bỗng có tiếng: Bà ơi, khoan đã,
chưa sang được đâu bà ạ! Em quay lại thì thấy một bà cụ đang định bước xuống
lòng đường. Dòng xe cộ vẫn ào ào lướt tới, May quá, một bàn tay đã kịp kéo bà
đứng lại. Đèn đỏ bật lên, em bước nhanh qua.
Ngoái lại, em thấy một bạn thiếu niên đang dắt bà cụ qua đường. Sang
đến nơi, bạn ấy chỉ đường cho bà cụ đi xuôi xuống cuối phố. Bà cụ chống gậy
dò dẫm từng bước. Còn bạn thiếu niên ấy đã hòa lẫn trong dòng người đông
đúc.
Việc làm của bạn ấy đã đánh thức trong em sự quan tâm đến mọi người,
dù là những người mình thoáng gặp trên đường. Em chợt hiểu ra rằng ai cũng
có cơ hội để làm việc tốt, chỉ cần mình có một trái tim nhân hậu.
ĐỀ 35: Em hãy kể chuyện về một chuyến thăm quê.I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Em được về thăm quê vào dịp nào? Đi với ai? Quê em ở đâu?
2. Thân bài:
* Diễn biến của chuyến đi:
- Trên đường đi.
- Kể chuyện về cảnh đẹp và cảnh sinh hoạt ở quê em.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Thích thú, yêu mến, gắn bó với quê hương.
II. BÀI LÀM
Hồi đầu năm học, bố em có hứa rằng nếu em đạt danh hiệu Học sinh giỏi
thì đến hè bố sẽ cho về thăm quê. Em đã cố gắng phấn đấu để trở thành con
ngoan, trò giỏi và bố em đã thực hiện lời hứa của mình.
Vào một buổi sáng đẹp trời, hai bố con em dậy từ rất sớm, chuẩn bị kĩ
càng cho chuyến đi. Chiếc Honda được lau chùi sạch sẽ và đổ đầy xăng. Túi
quà biếu ông bà nội mà mẹ em sắp sẵn từ tối hôm qua cũng đã được chằng
buộc kĩ càng. Mẹ tiễn hai bố con ra cổng rồi nắm tay em dặn:
- Con thưa với ông bà là mẹ gửi lời kính thăm ông bà nhé! Chúc hai bố
con một chuyến đi vui vẻ!
Chiếc xe máy như con tuấn mã nhẹ nhàng lao đi trên con đường trải nhựa
phẳng phiu, rộng rãi. Cây cối, nhà cửa hai bên đường vùn vụt lùi lại phía sau.
Gió sớm lồng lộng thổi làm cho tâm trạng em thêm náo nức. Hai tay ôm chặt lấy
lưng bố, em vui vẻ cất tiếng hát:
Quê hương là chùm khế ngọt
Cho con trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về rợp bướm vàng bay...
Quê nội em ở huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, vùng đất nổi tiếng với
hội Lim, với các làn điệu dân ca quan họ ngọt ngào, với tranh Đông Hồ nức tiếng
gần xa. Bố em đã được sinh ra và lớn lên ở ngôi làng cổ ven sông Đuống. Xa
quê, bố hay nhắc đến những kỉ niệm thời thơ ấu gắn liền với cây đa, bến nước,
mái đình,...
Rong ruổi độ hơn một tiếng đồng hồ, hai bố con em về tới cổng làng. Một
đoàn người tay liềm tay hái, vai quảy quang gánh đang ra đồng gặt lúa. Bố con
em cất tiếng chào, bao nhiêu tiếng bà con tíu tít đáp lại. Lòng em ấm áp hẳn lên
bởi tình cảm quê hương thân thiết.
Nhà ông bà nội kia rồi! Năm gian nhà ngói giữa một vườn cây trái sum
suê. Hàng cau cao vút trồng dọc lối vào đeo những buồng sai quả. Giàn trầu bên
giếng nước vẫn xanh tươi như trước. Dưới gốc cam, mẹ con đàn gà đang rỉa
lông rỉa cánh...
Ông bà và các bác, các anh chị ùa ra đón. Người dắt xe, người xách túi...
Tiếng nói tiếng cười rộn rã cả một khoảng sân.
Ông nội dắt tay em vào nhà. Ông cười, chòm râu bạc rung rung:
- Cu Thuận con bố Thành năm nay học hành ra sao, kể cho ông nghe nào!
Em bẽn lẽn thưa rằng em đạt được danh hiệu Học sinh xuất sắc, ông vui
lắm, xoa đầu em khen:
- Cháu ông giỏi lắm! Mấy tháng nữa là lên lớp 7 rồi, phải chăm ngoan hơn
nữa nghe chưa!
Cả nhà cười vang. Em xấu hổ chạy đến nấp sau lưng bà nội.
Mấy ngày ở quê, em được dẫn đi thăm hết thảy họ hàng; được lên chơi
chùa Bút Tháp, được theo các anh chị ra đồng xem thu hoạch lúa...
Vui nhất là đêm rằm, anh Tiến con bác cả đưa em ra sân đình chơi cùng
các bạn. Nào là trò rồng rắn lên mây, nào là trò ú tim tìm bắt, nào là trò chồng nụ
chồng hoa... Chúng em tung tăng chạy nhảy trên thảm rơm vàng. Mùi rơm mới
thơm nồng tỏa lan trong đêm trăng sáng. Dưới ánh trăng, cảnh vật quê em thật
là thơ mộng.
Trên đường về thành phố, em thủ thỉ bên tai bố:
- Bố ơi, con thích sống ở quê lắm bố ạ! Tết này bố cho cả mẹ và em Hòa
về quê ăn Tết, bố nhé!
Bố em bật cười:
- Ý kiến của con hay đấy! Con trai của bố!
ĐỀ 36: Em hãy kể lại một cuộc đi thăm danh lam thắng cảnh.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Hoàn cảnh cuộc đi thăm và tên của danh lam thắng cảnh.
2. Thân bài:
* Kể về cảnh đẹp đèo Hải Vân:
- Đường lên đèo một bên là núi, một bên là biển.
- Đường vượt đèo ngoằn ngoèo hiểm trở.
- Cảnh non nước, trời mây hùng vĩ, đẹp như một bức tranh.
- Đèo Hải Vân tạo ra sự khác biệt về thời tiết giữa hai miền Nam Bắc.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Đèo Hải Vân là một thắng cảnh nổi tiếng của nước ta.
II. BÀI LÀM
Năm ngoái, những học sinh xuất sắc của trường Tiểu học Ngô Sĩ Liên
được Ban Giám hiệu thưởng cho một chuyến du lịch miền Nam.
Con tàu tốc hành đưa chúng em từ Hà Nội vào thăm thành phố mang tên
Bác đang vun vút lao trên tuyến đường sắt xuyên Việt. Phong cảnh hai bên
đường thật tuyệt vời! Việt Nam quả là một giang sơn gấm vóc! Cô giáo Lan,
trưởng đoàn thông báo tàu chuẩn bị vượt đèo Hải Vân, đèo dài nhất trên lộ trình
Bắc Nam - một cảnh quan nổi tiếng của nước ta.
Kia rồi! Đèo Hải Vân đã hiện ra trước mắt. Dãy Trường Sơn sừng sững
chắn ngang. Từ xa, chúng em đã nhìn thấy con đường đèo ngoằn ngoèo uốn
khúc vắt từ sườn núi này sang sườn núi nọ.
Đã đến chân đèo. Con tàu giảm tốc độ, ì ạch kéo các toa đầy hành khách
từ từ leo dốc. Dù đã được lắp thêm một đầu máy đẩy phía sau, nó vẫn trườn đi
một cách nặng nhọc. Có lúc, đoàn tàu chui vào đoạn đường hầm hun hút, tối om
xuyên qua lòng núi. Có lúc, nó bám cheo leo vào sườn núi, hoặc lượn vòng như
con rắn khổng lồ. Không gian tĩnh mịch và thoáng đãng. Thỉnh thoảng, có tiếng
chim rừng lảnh lót trong nắng sớm.
Xa xa, biển Đông bao la tít tắp nối liền với chân trời. Những chỗ biển ăn
sâu vào chân núi tạo thành những vũng, những vịnh xinh xinh, nước xanh ngăn
ngắt. Thỉnh thoảng hiện ra trong tầm mắt du khách những cồn cát trắng có rặng
dừa xanh viền quanh làng chài ven biển. Dăm ba chiếc thuyền sau một đêm ra
khơi đang từ từ về bến. Đoàn tàu lướt đi trong mây gió bồng bềnh. Xuống đến
chân đèo, ta thấy biển xanh hiện ra gần gũi lạ thường. Hành khách có thể nhìn
rõ từng cánh chim hải âu chao mình trên sóng rồi bay vút lên cao. Từng đợt
sóng dào dạt vỗ bờ, bọt tung trắng xoá. Gió biển mát lộng mang lại sự sảng
khoái lạ thường cho du khách.
Đèo Hải Vân phân chia rõ rệt khí hậu hai miền Bắc Nam. Hình như mọi
cơn gió lạnh, mọi trận mưa phùn đều dừng lại phía Bắc đèo. Tạo hoá sắp đặt
mới khéo làm sao! ở đây có đủ trời mây, non nước hữu tình. Đèo Hải Vân là một
cảnh quan hùng vĩ hiếm có của nước ta. Ai đã qua đây một lần, ắt không thể nào
quên.
ĐỀ 37: Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Cuộc đi do ai tổ chức? Đi vào dịp nào? Thăm di tích nào?
2. Thân bài:
* Diễn biến cuộc đi thăm:
- Tả lại cảnh đẹp mà em đã đến thăm.
- Kể lại những chi tiết thú vị nhất trong chuyến đi.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Gắn bó hơn với bạn bè, thầy cô...
- Hiểu và yêu thêm quê hương, đất nước.
II. BÀI LÀM
Chuyến đi tham quan cố đô Hoa Lư - Ninh Bình vừa qua đã để lại trong
em những ấn tượng sâu sắc. Em nhớ mãi cảm xúc phấn khởi, hăng say và ngạc
nhiên thích thú trong chuyến đi ấy.
Vào một sáng cuối xuân, đầu hạ, khi bầu trời còn đẫm sương đêm, đoàn
xe tham quan của trường em đã bắt đầu chuyển bánh. Những chiếc xe đầy ắp
tiếng cười lướt nhẹ qua cây cầu bắc ngang sông Đáy hiền hoà, trong vắt, rồi tiếp
tục bon bon trên quốc lộ 1. Xa xa, sau làn sương mờ, dãy Non Nước hiện lên
đẹp như một bức tranh phong cảnh. Chúng em đều cảm thấy hồi hộp vì tuy nghe
tiếng đã lâu nhưng chưa ai được đặt chân tới mảnh đất quê hương cờ lau dẹp
loạn này bao giờ. Tiếng cười nói trong xe tạm lắng xuống, nhường chỗ cho
những ánh mắt háo hức, chờ đợi...
Hoa Lư đây rồi! Kinh đô đầu tiên của nước Đại Việt chính là đây. Toàn bộ
khu di tích nằm trong một vùng đất trũng lòng chảo, xung quanh bao bọc bởi
những ngọn núi trùng điệp. Thiên nhiên đã khéo sắp đặt cho nơi này một cảnh
quan hùng vĩ, vừa có sông nước vừa có núi non. Phong cảnh hữu tình biết mấy!
Đến Hoa Lư hôm nay, em không còn được nhìn thấy những cung điện
nguy nga, những thành cao hào sâu... nhưng mỗi tấc đất, mỗi ngọn núi nơi đây
đều ghi đậm dấu ấn vẻ vang của một thời kì lịch sử oai hùng. Kia là núi Cột Cờ
cao hơn 200 mét như một chân đế khổng lồ để vua Đinh dựng cờ khởi nghĩa.
Đây là ngôi Sao Khê chảy qua hang Luồn, là nơi thủy quân ta luyện tập. Chúng
em còn đi thăm hang Muối, hang Tiền với những nhũ đá lóng lánh. Nghe nói đây
là kho dự trữ, nguồn cung cấp quân lương cho Đinh Bộ Lĩnh ngày xưa.
Giữa khu di tích Hoa Lư có đền thờ Đinh Tiên Hoàng. Ngôi đền sừng
sững, mái cong vút, lợp ngói hình vảy cá, rêu xanh đã phủ dày dấu thời gian. Cột
đền làm bằng những cây gỗ to, một vòng tay ôm không hết. Ngoài sân rồng còn
lưu lại dấu tích bệ đặt ngai ngự của vua. Đó là một phiến đá to, bằng phẳng. Các
nghệ nhân tài hoa thuở trước đã khéo léo khắc chạm lên mặt đá hình rồng bay
rất đẹp. Xung quanh là hình con nghê, hình chim phượng cao quý và dũng mãnh
tượng trưng cho quyền uy của nhà vua. Chúng em ngắm chiếc sập đá lòng thầm
khâm phục những bàn tay tài hoa của ông cha thuở trước.
Sâu trong chính cung là tượng Đinh Tiên Hoàng đang ngự trên ngai. Nhà
vua mặc áo thêu rồng, đội mũ bình thiên, bàn tay xoè rộng đặt nhẹ trên gối, vẻ
cương nghị đọng lại ở đôi môi mím chặt, đôi mắt mở to nhìn thẳng. Thắp một
nén hương tưởng niệm, chúng em kính cẩn dâng lên vị vua đã có công xây
dựng Hoa Lư thành kinh đô của nước Đại Việt.
Tạm biệt đền Đinh Tiên Hoàng, chúng em đến thăm đền thờ vua Lê, ở
phía bên trái khu di tích. Vua Lê vận long bào, đội mũ miện vàng, đeo kiếm
ngang lưng trông rất oai nghiêm. Trong khu vực đền thờ còn có bức tượng một
người phụ nữ phúc hậu đoan trang. Đó là thái hậu Dương Vân Nga, bậc liệt nữ
có một không hai trong lịch sử nước nhà. Bà đã ghé vai gánh vác sự nghiệp cả
hai triều Đinh - Lê. Những vị được tôn thờ ở đây đều là những con người kiệt
xuất, mãi mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Không có thời gian để leo núi, chúng em đứng trong thung lũng, ngẩng
đầu nhìn bốn phía để cảm nhận rõ thêm vị thế hiểm trở của cố đô. Có bạn đã giở
sổ tay, đưa nhanh vài nét kí hoạ. Nhiều tiếng bàn bạc sôi nổi về phong trào cờ
lau dẹp loạn thuở nào.
Trời đã xế chiều. Chúng em lưu luyến ra về và nuối tiếc vì chưa bẻ được
mấy bông lau làm cờ cho xe mình thêm khí thế. Tạm biệt Hoa Lư, chúng em
hiểu thêm về lịch sử dân tộc và cảnh đẹp đất nước. Chuyến đi tham quan này đã
trở thành đề tài cho những cuộc trò chuyện sôi nổi ở lớp em suốt những ngày
sau đó.
ĐỀ 38: Kể về một kỉ niệm đáng nhớ của em (được khen, bị chê, gặp rủi ro, bị hiểu lầm...).
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Vì chủ quan, thiếu cẩn thận nên em bị điểm kém.
2. Thân bài:
* Nhớ lại diễn biến tâm trạng của mình lúc đó:
- Hồi hộp khi nhận bài cô trả.
- Sững sờ khi bị điểm kém. Cảm thấy xấu hổ.
- Bình tĩnh tìm hiểu lí do.
- Suy nghĩ về sai lầm của mình.
3. Kết bài:
* Rút ra bài học:
- Quyết tâm phấn đấu để không mắc sai lầm nữa.
II. BÀI LÀM
Em nhớ mãi tiết trả bài hôm ấy... Giờ phút ngỡ ngàng và đau khổ nhất đối
với em từ khi bước vào lớp 6, bởi vì em đã bị một điểm 3 môn Làm văn.
Cô Thanh trả bài kiểm tra cho lớp. Cô đặt quyển vở của em xuống bàn,
nét mặt có vẻ không vui. Linh tính như mách bảo điều gì, em vội vã lật giở từng
trang. Những điểm 8, 9 đỏ chói lần lượt mỉm cười với em - cô học sinh giỏi Văn
của lớp. Em lật tiếp. Chao ôi! Em không thể tin vào mắt mình: một điểm 3 to
tướng! Choáng váng, em như lịm đi trước sự thật phũ phàng ấy.
Không, không thể như vậy được! Em cố định thần nhìn lại, nhưng còn nghi
ngờ gì nữa? Con số 3 in rõ trong khung điểm. Em vội vàng gập vở lại, bần thần
nhìn các bạn xung quanh. Hình như bạn nào cũng hớn hở với kết quả của mình,
chẳng ai để ý đến nỗi đau khổ của em. Có lẽ các bạn nghĩ rằng em đang sung
sướng với điểm khá giỏi như mọi lần vì em là cây Văn của lớp cơ mà! Càng nghĩ
càng xấu hổ, em cúi gầm mặt xuống. Lần giở lại bài, dòng chữ cô phê hiện lên rõ
ràng trước mắt: Lạc đề!
Em đọc lại đề bài và nhận ra đúng là mình sai thật. Đề bài yêu cầu tả một
dòng sông (một cánh đồng hay một góc phố...) gắn với những kỉ niệm thời thơ
ấu, vậy mà em lại đi kể về một kỉ niệm sâu sắc thời nhỏ. Đề bài đó đối với em
không khó. Tại em quá chủ quan, chẳng chịu đọc kĩ. Nhớ lại giờ làm bài hôm ấy,
em đã nộp bài đầu tiên trước bao cặp mắt thán phục của bạn bè mà quên mất
lời cô nhắc nhở: Các em phải xem lại bài thật kĩ trước khi nộp. Có lẽ vì ỷ vào sức
học của mình, và thỏa mãn trước lời khen của thầy cô và bè bạn nên em đã
thành một cô bé kiêu căng, hợm hĩnh từ lúc nào chẳng biết.
Đúng lúc ấy, bạn Hà thì thào bên tai em, giọng mừng rỡ:
- Lan ơi, hôm nay tớ được 7 điểm nhé! Cố mãi rồi mình cũng đạt điểm khá
rồi đây. Mẹ mình chắc mừng lắm... ủa! Mà sao mặt cậu tái thế kia? Được mấy
điểm? Cho tớ xem nào!
Nghe Hà nói, em lại càng buồn bã và xấu hổ. Hà đang sung sướng với
điểm 7 đầu tiên của môn Làm văn. Còn em, kẻ vẫn coi điểm 7 là xoàng xĩnh,
hôm nay lại bị điểm 3! Không thể nào diễn tả hết nỗi đau khổ của em lúc ấy. Em
cảm thấy ánh mắt cô giáo vừa buồn rầu, vừa ngạc nhiên, thất vọng: Sao lại thế
hả Lan? Cô rất buồn...
Trên đường về, em lo lắng và bối rối. Bố mẹ tin tưởng ở em nhiều lắm.
Nếu biết em bị 3 điểm Làm văn thì bố mẹ em sẽ nghĩ gì đây? Bố thường động
viên em học cho giỏi và ước mơ rằng em cũng sẽ trở thành luật sư như bố. Còn
mẹ nữa, biết bao đêm mẹ ngồi đan len, cố chờ em học xong bài mới cùng đi
ngủ. Mẹ cũng chỉ mong có một điều là con gái mẹ học giỏi. Không thể làm bố mẹ
thất vọng, em sẽ giấu bài đi, sẽ nói rằng cô giáo không chấm vì cả lớp làm bài
kém quá... Quanh quẩn với ý nghĩ dối trá ấy, em đã về đến nhà mà đầu óc vẫn
mông lung.
Vừa vào đến cổng, mẹ dịu dàng bước xuống thềm đón em. Ánh mắt mẹ
chợt hoảng hốt khi thấy em bơ phờ mệt mỏi. Em đã ôm chầm lấy mẹ, khóc tức
tưởi. Không, em không thể lừa dối người mẹ yêu kính của mình.
Tối hôm ấy, em đã xem kĩ lại bài. Điểm 3 nhắc nhở em hãy nhìn lại mình.
Em tự nhủ: Nhất định chỉ có một điểm 3 này mà thôi. Em sẽ tiếp tục giành được
những điểm 9, điểm 10 và sẽ lại được cha mẹ, thầy cô, bè bạn tin yêu như
trước.
ĐỀ 39: Kể về một cuộc đi thăm gia đình thương binh, liệt sĩ do lớp em tổ chức.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Thời gian, thành phần tham dự, đối tượng được thăm.
2. Thân bài:
* Kể lại diễn biến cuộc đi thăm:
- Mục đích cuộc đi thăm.
- Các sự việc cụ thể trong buổi thăm viếng (hỏi thăm sức khoẻ, tặng quà,
giúp đỡ một số việc cần thiết,...).
- Thái độ, tình cảm của người đến thăm và người được thăm.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Hiểu rõ thêm về đạo lí của dân tộc ta. Biết ơn và có trách nhiệm đối với
những gia đình có công với cách mạng...
II. BÀI LÀM
Sáng chủ nhật tuần trước, lớp em tổ chức đi thăm một số gia đình thương
binh, liệt sĩ ở địa phương. Tổ em được phân công thăm bà Phan, mẹ liệt sĩ và
chú Hiển, thương binh nặng, cụt cả hai chân trong chiến dịch giải phóng Sài Gòn
năm 1975.
Nhà bà Phan nằm sâu trong một con hẻm ở đường Bàn Cờ. Bà là mẹ của
liệt sĩ Trương Tấn Quang, hi sinh anh dũng trong chiến dịch biên giới Tây Nam.
Bản thân bà trước đây cũng là một cơ sở hoạt động cách mạng nội thành và đã
từng bị địch bắt giam, tra tấn dã man.
Tuổi già sức yếu, bà Phan sống dựa vào tiền trợ cấp gia đình liệt sĩ và sự
đùm bọc của nhân dân trong phường. Cách đây hơn một tháng, phòng Giáo dục
quận 3 đã tặng bà ngôi nhà tình nghĩa, thay thế cho căn nhà dột nát chật chội.
Thấy chúng em tới, bà mừng lắm: Các cháu đến thăm bà đấy ư? Khuôn
mặt nhăn nheo vụt tươi lên bởi nụ cười đôn hậu. Bạn Thu Hương thay mặt cho
tổ hỏi thăm sức khoẻ của bà. Bạn Tiến Thành cắm một bó hoa tươi vào bình rồi
kính cẩn đặt lên bàn thờ. Mùi nhang trầm tỏa ấm cả gian nhà. Từ trong ảnh, đôi
mắt trong sáng của chú Quang nhìn chúng em trìu mến. Chúng em biếu bà mấy
ký đường, vài hộp sữa, chục trứng gà, chục cam và ít thuốc bổ... Bà xúc động
cảm ơn chúng em. Em thầm nghĩ là không gì có thể đền đáp xứng đáng công
lao của những người mẹ đã cống hiến, hi sinh đứa con ruột thịt của mình cho Tổ
quốc.
Rồi chúng em quây quần bên cánh võng, nghe bà kể về những kỉ niệm
trong đời hoạt động cách mạng của mình; kể về chú Quang, người con trai yêu
quý. Cảnh tượng bà cháu sum vầy thật vui vẻ và ấm cúng.
Từ giã bà Phan, chúng em sang thăm chú Hiển. Chú ngồi trên xe lăn, tươi
cười chào đón chúng em. Tuy là một thương binh nặng nhưng chú Hiển vẫn rất
lạc quan. Chú là một tấm gương sáng về nghị lực và ý chí khắc phục khó khăn.
Theo lời Bác dạy: Thương binh tàn nhưng không phế, chú Hiển vẫn cần
cù làm việc bằng đôi tay tài hoa của mình. Chú hướng dẫn cho vợ con đan lát
những mặt hàng thủ công mĩ nghệ bằng mây, tre, lá. Bàn tay cầm súng năm xưa
giờ đây đang thoăn thoắt luồn những sợi mây óng chuốt, tạo nên những chiếc
khay, chiếc giỏ xinh xắn, làm đẹp cho mọi nhà.
Chúng em nhận giúp đỡ gia đình chú đã hơn nửa năm nay nên đến nhà
chú thấy việc là làm. Nhóm nữ giúp cô Hồng dọn dẹp nhà cửa cho ngăn nắp,
Bạn Thủy, bạn Dung hướng dẫn hai em con chú Hiển giải những bài toán khó.
Chúng em quyên góp tiền mua tặng sách vở và một số đồ dùng học tập cho hai
em. Chú Hiển nói lên ước nguyện của mình là cố gắng nuôi các con ăn học đến
nơi đến chốn. Với tình hình sức khoẻ và hoàn cảnh gia đình của chú, điều ấy
quả thật chẳng dễ chút nào. Nhưng chúng em tin rằng với tinh thần phấn đấu và
quyết tâm cao, ước vọng của chú sẽ thành hiện thực.
Buổi đi thăm các gia đình thương binh, liệt sĩ kết thúc tốt đẹp. Trên đường
về, chúng em bàn bạc để tìm cách giúp đỡ các gia đình ấy sao cho có hiệu quả
hơn. Đạo lí Uống nước nhớ nguồn của dân tộc nhắc nhở chúng em sống sao
cho có nghĩa có tình đối với những người có công với đất nước. Em càng hiểu
sâu sắc hơn về lòng biết ơn - nền tảng đạo đức, đạo lí truyền thống của dân tộc
ta.
ĐỀ 40: Hãy kể lại một hoạt động từ thiện của lớp em.I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Đó là hoạt động gì? Mục đích? Được tổ chức vào thời gian nào? ở đâu?
Những ai tham gia?
2. Thân bài:
* Tường thuật lại diễn biến của hoạt động từ thiện:
- Các việc làm cụ thể.
- Kết quả.
- Thái độ, tình cảm của những người tham gia.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Hiểu sâu thêm ý nghĩa của câu tục ngữ: Lá lành đùm lá rách.
- Nâng cao ý thức tương thân tương ái, tự giác giúp đỡ những người bất
hạnh.
II. BÀI LÀM
Trong mấy năm gần đây, phong trào từ thiện được nhân lên rộng rãi trên
khắp đất nước ta và đã góp phần không nhỏ vào việc giảm bớt nỗi khổ của
những người bất hạnh trong xã hội.
Người người làm việc thiện, nhà nhà làm việc thiện. Thấm nhuần tinh thần
ấy, học sinh chúng em đã có những hoạt động từ thiện phù hợp với khả năng và
lứa tuổi. Tuần qua, trường em phát động phong trào quyên góp giúp đỡ học sinh
và đồng bào vùng lũ lụt. Tất cả các bạn lớp 6B đều nhiệt tình hưởng ứng.
Giờ sinh hoạt lớp, thầy chủ nhiệm nhắc nhở, động viên chúng em tích cực
tham gia phong trào này. Chúng em rất xúc động khi nghe thầy nói về cuộc sống
thiếu thốn, vất vả của đồng bào vùng bị lũ lụt. Những cánh đồng lúa ngâm dưới
nước sâu. Những ngôi nhà, mái trường bị đổ nát, cuốn trôi theo dòng lũ. Hàng
ngàn người không có chốn nương thân, các bạn học sinh không có nơi học tập.
Rồi đói rét, bệnh tật... trăm ngàn nỗi khổ do thiên tai gây ra mà con người phải
gánh chịu... Những lúc hoạn nạn như thế này, tình làng, nghĩa xóm đáng quý
biết bao!
Nghe lời thầy, chúng em tích cực chuẩn bị cho đợt quyên góp. Ai có gì góp
nấy, tùy theo hoàn cảnh của mình. Ban cán bộ lớp giúp thầy thu nhận tiền và
quà của từng học sinh. Nhiều bạn nhịn ăn sáng mấy ngày liền để lấy tiền đóng
góp. Một số bạn có tiền dành dụm vui vẻ đem lên bỏ vào thùng lạc quyên. Cảm
động nhất là mấy bạn nghèo trong lớp cũng cố gắng đóng góp. Của ít lòng
nhiều, tình cảm của các bạn thật đáng trân trọng. Bạn Xuân mồ côi cha, hằng
ngày phải phụ mẹ bán hàng ở chợ để kiếm sống và nuôi các em. Cuộc sống của
gia đình bạn khá chật vật. Ngay sau ngày phát động phong trào, Xuân trao cho
bạn Hương lớp trưởng một gói nhỏ: “Mẹ mới may cho mình bộ quần áo, mình
chưa mặc đến. Cho mình gửi tặng các bạn vùng lũ lụt”. Bạn Cẩm phải nhận vé
số để bán kiếm thêm tiền ăn học cũng hăng hái đóng góp mười ngàn đồng và
nói: “Mình vẫn còn sướng hơn các bạn vùng bị thiên tai nhiều lắm! Cần chia sẻ
khó khăn với các bạn ấy!”.
Sau ba ngày, số tiền và hàng quyên góp được khá nhiều. Các bạn nữ
đóng gói cẩn thận từng thứ cho vào trong thùng giấy, túi xách. Công việc bận rộn
nhưng ai cũng vui vẻ. Chúng em muốn những món quà nhỏ này sớm đến tay
những người bạn đang sống trong cảnh gieo neo.
Nhìn chuyến xe tải lớn chở hàng lên ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố,
chúng em bồi hồi xúc động. Em càng thấm thía hơn ý nghĩa câu tục ngữ: Lá lành
đùm lá rách, Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
Đạo lí của dân tộc Việt Nam ta lấy chữ nhân làm gốc. Hơn lúc nào hết,
trong cảnh tai ương, hoạn nạn, đạo lí ấy càng được khơi dậy mạnh mẽ trong
lòng mọi người.
ĐỀ 41: Hãy kể một kỉ niệm về thầy giáo (hay cô gỉáo) mà em nhớ mãỉ.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Trên chuyến xe về thăm quê, em gặp lại cô giáo chủ nhiệm hồi lớp 5. Em
nhớ lại kỉ niệm cũ.
2. Thân bài:
* Kể về kỉ niệm gắn với (thầy) cô:
- Hồi còn ở quê, ngày ngày em đi học cùng với bạn Lâm.
- Hôm ấy, Lâm không đi học. Em định chiều sang nhà bạn ấy xem sao
nhưng vì trời mưa rét nên ngại.
- Buổi tối em đến thăm Lâm, thấy cô giáo đang giảng bài cho bạn ấy.
- Việc làm của cô khiến em xúc động.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Kỉ niệm về cô còn in đậm trong lòng em.
- Em không thể quên ngôi trường quê nghèo nhưng ấm áp tình người.
II. BÀI LÀM
Gia đình em theo bố chuyển ra thị xã đã được hơn một năm. Hôm nay, em
mới có dịp về thăm quê. Vừa lên xe, em đã nhận ra cô Nga, cô giáo chủ nhiệm
lớp 5A mà em rất quý mến. Em khoanh tay lễ phép chào cô. Cô mỉm cười kéo
tay em ngồi xuống ghế bên cạnh. Cô ân cần hỏi thăm tình hình học tập và sinh
hoạt của em. Gặp cô, em mừng lắm. Bao nhiêu kỉ niệm tốt đẹp về cô lại trỗi dậy
trong kí ức em...
Hồi ấy, quê em còn nghèo. Đường làng lồi lõm, quanh co. Sau mỗi cơn
mưa, đất nhão thành bùn dính bết vào chân, đi lại rất khó khăn. Dân làng làm
việc quần quật suốt ngày ngoài đồng, quanh năm vất vả. Trẻ em phải phụ giúp
cha mẹ những việc nhỏ như chăn trâu, cắt cỏ, dọn dẹp nhà cửa...
Sáng sáng, em đi học cùng bạn Lâm. Nhà bạn ấy cách nhà em một xóm.
Hôm đó, chờ mãi không thấy Lâm đến rủ, em đành tới trường một mình.
Suốt mấy ngày mưa phùn lây rây, không khí ướt và lạnh. Bầu trời xám xịt,
mặt trời bị che khuất sau những đám mây dày sũng nước. Đến lớp, em thấy bạn
nào cũng co ro vì lạnh, chân tay, quần áo lem nhem bùn đất. Cô Nga nhìn chúng
em với ánh mắt ái ngại và thương cảm. Cô khen chúng em chịu khó, chăm học
rồi cô bắt đầu giảng bài như thường lệ. Chúng em say mê nghe, quên cả trời
đang mưa lạnh.
Giờ chơi, các bạn ùa ra hành lang, túm năm tụm ba chuyện trò vui vẻ. Em
nhớ tới Lâm và định bụng tan học sẽ đến thăm xem bạn ấy vì sao mà nghỉ học.
Buổi trưa, ăn cơm xong, nghĩ tới đoạn đường đến nhà Lâm, em ngại quá.
Em chui tọt vào chăn rồi ngủ quên mất. Mãi đến tối, em lấy hết can đảm dấn
bước trên con đường trơn trượt để đến nhà Lâm. Em ngạc nhiên khi thấy bên
ngọn đèn dầu, cô Nga đang hướng dẫn Lâm làm toán. Lâm quàng chiếc khăn
kín cổ, mặt đỏ bừng như người đang sốt. Nhìn cảnh ấy, lòng em xao xuyến. Em
thương Lâm và cô giáo bao nhiêu thì lại tự trách mình bấy nhiêu. Lẽ ra tan học,
em phải đến với Lâm ngay để giúp bạn ấy chép bài, làm bài mới đúng. Em thật
có lỗi.
Dường như nhận ra vẻ bối rối của em, cô Nga tươi cười bảo: “Đạt tới
thăm Lâm đấy ư? Tốt lắm! Cô và hai em cùng giải mấy bài toán khó này nhé!”.
Thế rồi cô lại hướng dẫn cặn kẽ cho tới lúc bạn Lâm tự làm được bài.
Mẹ Lâm nói với em: “Hôm qua, Lâm ra đồng giúp bác nhổ cỏ lúa suốt buổi
chiều nên bị cảm. Đêm nó sốt cao quá nên sáng nay phải nghỉ học. Nó mong
cháu mãi đấy!”. Nghe bác nói, em càng ân hận, trách mình sao quá vô tình.
Chín giờ khuya, cô cùng em trở về trên con đường lầy lội. Cô dặn em:
“Nếu mai Lâm chưa đi học được thì Đạt tới chép bài cho Lâm nhé! Bạn bè phải
giúp đỡ nhau lúc khó khăn, em ạ!”. Em tần ngần đứng nhìn theo ánh đèn trong
tay cô xa dần mà lòng dâng lên niềm kính phục và quý mến vô hạn.
Hơn một năm sống và học tập trong ngôi trường mới, em luôn nhớ đến
những ngày thơ ấu dưới mái trường làng với bao kỉ niệm khó quên về thầy cô và
bạn bè thân yêu. Mái trường nơi quê nghèo nhưng ấm áp tình người.
ĐỀ 42: Hãy kể về người bà kính yêu của em.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Giới thiệu vài nét về bà nội yêu quý của em.
2. Thân bài:
* Những phẩm chất tốt đẹp của bà:
- Thương con cháu, sẵn sàng hi sinh cho con cháu.
- Bà rất thương yêu các cháu, chăm sóc các cháu tận tình.
- Bà thuộc nhiều ca dao, cổ tích...
- Bà thường ước ao được về thăm quê.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Em rất yêu quý và biết ơn bà.
II. BÀI LÀM
Bà nội em năm nay tuy tuổi đã ngoài sáu mươi nhưng vẫn còn dẻo dai,
nhanh nhẹn lắm. Mái tóc bạc của bà búi cao sau đầu. Gương mặt bà phúc hậu,
ánh mắt thật hiền từ, độ lượng.
Bà chỉ sinh được một mình bố em nên khi bố em chuyển công tác, bà đã
từ biệt mái nhà, mảnh vườn thân quen để theo con cháu lên thành phố.
Bố em là kĩ sư xây dựng nên thường xuyên phải công tác xa nhà. Mẹ em
là công nhân, ngày làm tám tiếng trong xưởng máy. Bà thay bố mẹ em chăm sóc
chúng em, từ việc ăn ở đến việc học hành. Sáng sáng, bà đánh thức em và bé
Thắng dậy, giục đánh răng, rửa mặt, thay quần áo sạch sẽ, gọn gàng. Rồi bà
cho hai chị em ăn sáng. Mỗi khi các cháu đi học, bà không quên khuyên nhủ các
cháu phải chăm ngoan.
Bà dọn dẹp nhà cửa gọn gàng, chu tất. Xong xuôi, bà xách giỏ đi chợ. Số
tiền chi tiêu hằng ngày tuy ít ỏi nhưng do bà khéo thu xếp nên bữa nào chúng
em cũng được ăn cơm dẻo, canh ngon. Buổi trưa đi học về, bà cháu, mẹ con
quây quần bên mâm cơm, đầm ấm biết chừng nào! Suốt ngày, bà chẳng lúc nào
ngơi tay. Việc nhà tạm ổn, bà lại lúi húi bên thúng đồ may. Bà khâu lại cho em
chiếc áo sứt chỉ, đính lại cho bé Thắng chiếc khuy... Đêm nào trước khi đi ngủ,
bà cũng dành mười lăm, hai mươi phút kể chuyện cổ tích cho chúng em nghe.
Giọng kể của bà ấm áp và truyền cảm lạ thường. Bà đưa em vào thế giới huyền
ảo của những chuyện như Cây khế, Tấm Cám...
Thỉnh thoảng, bố em về thăm, thấy nhà cửa ngăn nắp, con cái sạch sẽ,
chăm ngoan, bố vui lắm. Bố em nói lời chân thành cảm ơn bà thì bà chỉ mỉm
cười hiền hậu: - Có gì đâu! Mẹ cố gắng giúp gia đình để con yên tâm công tác.
Bố mẹ em quý bà lắm. Bố mẹ thường bảo nếu không có bà thì gia đình em sẽ
gặp không ít khó khăn...
Vất vả, khó nhọc là thế nhưng bà em chẳng đòi hỏi gì nhiều. Bà chỉ có một
ao ước là thỉnh thoảng được về thăm quê hương, làng xóm. Bố em hứa Tết này
sẽ thu xếp để cả gia đình về quê ăn Tết. Nghe vậy, bà rất mừng.
Em và bé Thắng luôn nghe theo lời bà dạy để làm bà vui lòng. Mỗi khi
được điểm 10, em khoe bà thì lại được bà âu yếm xoa đầu khen: Cháu bà giỏi
lắm! Rồi bà mỉm cười, trông bà hiền hậu như một bà tiên trong cổ tích. Em yêu
quý và biết ơn bà biết chừng nào!
ĐỀ 43: Hãy kể về người mẹ của em
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Đi du lịch xa nhà mấy ngày, em nhớ mẹ và một kỉ niệm sâu sắc về mẹ.
2. Thân bài:
* Kể về kỉ niệm đó:
- Một hôm mẹ đi đón em ở trường về, trời mưa bất chợt, mẹ nhường áo
mưa cho em, còn mẹ chịu ướt.
- Mẹ vẫn cố gắng đi làm, nhưng do bị cảm nặng nên mẹ phải vào bệnh
viện.
- Em lo lắng và chăm sóc mẹ, mong mẹ mau khỏe.
- Em nhớ mãi hình ảnh mẹ dầm mưa.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Hiểu ra đức hi sinh của mẹ.
- Em yêu thương mẹ nhiều hơn.
II. BÀI LÀM
Năm học vừa qua, do đạt danh hiệu Học sinh xuất sắc nên em được đi
nghỉ mát ở Nha Trang bốn ngày. Từ sáng sớm cho đến chiều tối, em cùng các
bạn tắm biển, leo núi, ngồi trên canô lướt sóng tới thăm các đảo. Cuộc du ngoạn
rất vui vẻ và thú vị. Tối đến, lúc mọi người ngủ say thì em lại thao thức nhớ mẹ -
người mẹ hiền từ và yêu quý. Mỗi lần nhớ mẹ, kỉ niệm về một cơn mưa lại hiện
lên trong kí ức của em...
Dạo ấy, ba em đi công tác xa nhà nên ngày ngày mẹ phải đến trường đón
em sau giờ tan học. Một buổi trưa, trời bỗng đổ mưa to và kéo dài hàng tiếng
đồng hồ. Từ cơ quan, mẹ hối hả đạp xe tới trường. Thấy em đang đứng nép
dưới cổng, mẹ vội cởi áo mưa trùm cho em và bảo: - Con khoác áo vào đi cho
khỏi ướt. Nhận ra vẻ băn khoăn của em, mẹ an ủi: - Đừng lo con ạ! Mưa chắc
cũng sắp tạnh rồi! Mẹ khoẻ hơn con, có ướt một chút cũng chẳng sao.
Mưa vẫn nặng hạt, nước chảy tràn trên mặt đường, tuôn ồ ồ xuống các
miệng cống. Trên đường vắng xe cộ và người qua lại. Trong các hiên nhà, người
trú mưa chen chúc. Mẹ em vẫn gò lưng đạp xe trong mưa. Em thương mẹ quá
mà chẳng biết làm sao.
Về đến nhà, mẹ vội thay quần áo rồi lo nấu cơm, dọn dẹp nhà cửa. Em
cũng giúp mẹ một tay. Đến bữa, mẹ có vẻ mệt mỏi, ăn không ngon miệng. Em
động viên: - Mẹ cố ăn bát cơm cho khoẻ! Mẹ gượng cười: - Chắc không sao đâu
con! Mẹ chỉ thấy khó chịu một chút thôi. Rồi mẹ uống một viên thuốc cảm và đi
nghỉ. Đến chiều, mẹ vẫn đi làm như thường lệ.
Đêm ấy, mẹ lên cơn sốt. Em bối rối chẳng biết phải làm thế nào nên chạy
sang nhờ bác An hàng xóm đưa mẹ đi bệnh viện. Bác sĩ khám bệnh rồi nói rằng
mẹ bị viêm phổi cấp tính do bị cảm lạnh. Em đặt tay lên trán mẹ, trán mẹ nóng
như lửa. Đôi môi mẹ khô se, hơi thở mệt nhọc, khó khăn. Em thương mẹ quá,
nước mắt cứ rưng rưng. Bác An lấy chiếc khăn lạnh đặt lên trán mẹ. Hai bác
cháu cùng cô y tá trực thức bên mẹ suốt đêm. Mẹ được tiêm mấy mũi thuốc, đến
gần sáng, cơn sốt hạ dần.
Mẹ vẫy em lại gần rồi ra hiệu bảo mở cửa sổ. Những tia nắng sớm rọi vào
làm sáng cả căn phòng. Nét mặt mẹ tươi trở lại.
Lần ấy, mẹ phải nằm bệnh viện mất năm hôm. Ngày ngày, bác An thay mẹ
đến trường đón em. Chiều nào em cũng vào bệnh viện thăm mẹ. Hai mẹ con
ngồi trên chiếc ghế đá kê dưới gốc cây bàng, nhỏ to tâm sự. Mẹ vuốt tóc em và
khuyên: - Đừng vì mẹ bệnh mà xao nhãng việc học hành, con nhé! Ngày mai,
mẹ sẽ về với con. Em ngả đầu vào vai mẹ như ngày còn thơ bé...
Hôm mẹ về nhà, thấy nhà cửa gọn gàng, sạch sẽ, mẹ vui lòng lắm. Mẹ
khen em: - Con gái mẹ giỏi quá! Em thầm mong mai sau sẽ trở thành một người
phụ nữ hiền dịu, đảm đang như mẹ.
Từ độ ấy, em càng cố gắng chăm ngoan, học giỏi để đền đáp phần nào
công ơn của mẹ. Mẹ ơi! Đúng như lời một bài hát: Lòng mẹ bao la như biển Thái
Bình dạt dào. Tình mẹ tha thiết như dòng suối nguồn ngọt ngào... Lời hát nặng
ân tình ấy sẽ theo con suốt cuộc đời mẹ ạ!
Phần 2. KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNGĐỀ 44: Hãy kể về một chuyến du lịch trong thế giới cổ tích, gặp gỡ
với những nhân vật mà em yêu mến.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu tình huống của câu chuyện:
- Đêm hè, nghe bà kể chuyện, em nằm mơ thấy bao điều lạ trong thế giới
cổ tích.
2. Thân bài:
* Phát triển câu chuyện:
- Em gặp gỡ và trò chuyện với Lang Liêu.
- Gặp gỡ cô Tấm trong truyện Tấm Cám.
- Gặp hai anh em Tân và Lang trong Sự tích trầu cau.
- Gặp Sọ Dừa và nàng út trong truyện Sọ Dừa.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Em tỉnh dậy trong tâm trạng lâng lâng vui sướng.
II. BÀI LÀM
Đêm mùa hè, ánh trăng dịu dàng tỏa sáng khắp mặt đất, chảy tràn qua kẽ
lá, đọng từng giọt sáng lung linh trên chiếc chõng tre, nơi bà cháu em đang nằm
hóng mát. Em ghé đầu vào ngực bà, hít hà mùi trầu thơm nồng, nũng nịu đòi bà
kể chuyện. Bà em có cả một kho chuyện mà lúc nào em cũng háo hức muốn
nghe. Tiếng bà chậm rãi thủ thĩ bên tai... Em thấy mình bồng bềnh lơ lửng trong
thế giới cổ tích thần kì...
Tiếng trống đồng rộn rã đâu đây. A! Hôm nay là ngày vua Hùng mở hội
chọn người kế vị. Hai mươi hoàng tử đã vào cung. Các lễ vật lần lượt được
dâng lên. Chao ôi, toàn những thứ quý hiếm trên rừng dưới biển, những ngọc
ngà châu báu lấp lóa dưới ánh mặt trời. Nhưng vua Hùng dường như vẫn còn
băn khoăn điều gì.
Vừa lúc đó, hoàng tử Lang Liêu bước vào. Khác với các anh, Lang Liêu
vẫn mặc bộ quần áo nâu giản dị thường ngày. Chàng kính cẩn mở mâm lễ vật
dâng vua cha. Một mùi thơm vừa quen thuộc vừa tinh khiết dậy lên. Vua Hùng
tươi cười phán rằng:
- Đây mới chính là thứ lễ vật quý giá mà ta mong đợi! Lang Liêu, con xứng
đáng là người nối ngôi ta!
Lạ lùng quá! Điều gì đã khiến vua Hùng hài lòng đến thế? Em vội bước tới
gần và hỏi:
- Lang Liêu ơi, chàng đã dâng lên vua cha lễ vật gì vậy?
Lang Liêu mỉm cười:
- Cô bé ơi, có gì đâu! Ta đã dùng gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, để làm ra hai
thứ bánh. Bánh chưng vuông tượng trưng cho mặt đất, bánh giầy tròn là hình
ảnh của bầu trời. Bằng chính sức lao động của mình, ta muốn dâng lên Tiên
vương và vua cha tinh hoa của trời đất này!
- Chà! Hay thật! Lang Liêu ơi, chàng sẽ là vị vua sáng suốt, đức độ nhất
của muôn dân!
Tạm biệt Lang Liêu, em bước tiếp. Đang mải mê ngắm nhìn cỏ cây, hoa
lá, em bỗng giật mình khi nghe thấy tiếng khóc thút thít, tức tưởi đâu đây. Kia
rồi... bên bờ giếng có một cô gái quần áo rách rưới đang ngồi cạnh đôi thùng
gánh nước. Cô Tấm đây sao? Em khe khẽ hỏi:
- Chị Tấm ơi, chị có điều chi oan ức vậy?
Chị Tấm ôm mặt nức nở:
- Mẹ con nhà Cám đã giết Bống của tôi rồi! Hu... hu...
Em lau nước mắt cho chị:
- Nín đi chị Tấm! Một con cá Bống bé nhỏ, có gì mà chị phải tiếc thương
đến thế!
- Trời ơi, đối với tôi lúc này, Bống là tất cả! Bống là người bạn tâm tình, là
nguồn an ủi. Mất Bống, tôi đau khổ lắm!
Hiểu được nỗi lòng của chị, em dịu dàng khuyên:
- Một cô gái chăm ngoan, nhân hậu như chị nhất định sẽ được hạnh phúc,
chị Tấm ạ!
Chị Tấm nhìn em, cặp mắt ánh lên niềm hi vọng và tin tưởng.
Bỗng nhiên, một vầng hào quang lóe sáng, Bụt xuất hiện ngay trước mặt
em. Đưa tay chậm rãi vuốt chòm râu bạc trắng như bông, Bụt ân cần nói với chị
Tấm:
- Cháu thân yêu của ta! Cháu hãy tìm lấy xương Bống bỏ vào lọ chôn
xuống chân giường. Ít lâu nữa, điều kì diệu sẽ đến với cháu đấy, cháu ạ!
Chị Tấm chưa kịp cám ơn thì Bụt đã biến mất sau làn khói sương hư ảo.
Em cùng chị tìm xương Bống nhưng tìm hoài không thấy. May sao con gà tốt
bụng đã giúp chị tìm ra. Chị Tấm làm theo lời Bụt dặn. Chia tay chị, em chân
thành chúc chị sẽ gặp nhiều may mắn.
Em lại thong dong bước tiếp. Trên bãi cỏ non xanh, một bầy hươu đang
nhởn nhơ gặm cỏ. Em mải mê bước theo chú hươu sao có cặp sừng tuyệt đẹp.
Một khu rừng hiện ra trước mắt em. Tiếng chim ca ríu rít, suối chảy róc rách,
những bông hoa rực rỡ lạ kì đang ngả đầu vào nhau thì thầm trò chuyện. Em
dừng lại trước một tảng đá lớn màu trắng đục. Cạnh tảng đá là một cây cau cao
vút, tàu cau rủ xuống như âu yếm, chở che. Một dây trầu với những chiếc lá
xanh mướt dịu dàng quấn quanh thân cây như chẳng muốn rời. Em thốt lên
thích thú:
- Ồ! Thì ra anh em, vợ chồng nhà họ Cao đã gặp nhau ở chốn này ư?
- Đúng thế đấy cô bé ạ!
Em giật mình ngẩng lên. Ngọn cau lắc lư thổ lộ tâm tình:
- Cô bé ơi, ta đã nghi ngờ vợ và em trai, những người thân yêu nhất của
ta. Ta đã mắc phải một lỗi lầm không dễ gì chuộc lại... Nhưng thật may mắn là
vợ và em trai ta rất yêu thương ta. Bây giờ, gia đình ta đoàn tụ ở đây thành một
tổ ấm vĩnh hằng. Cô bé ơi, hãy trân trọng những người thân yêu, đừng để tâm
hồn mình bị vấy bẩn bởi những ý nghĩ xấu xa...
Cây cau lắc lư. Một giọt nước trong suốt như nước mắt nhỏ xuống lá trầu
không rồi rơi xuống tảng đá. Mắt em bỗng cay cay. Tình cảm gắn bó yêu thương
của ba con người tội nghiệp này thật là đáng quý!
- Ôi! Cháu tôi khóc mê này!
Tiếng bà dịu dàng bên tai em. Mùi trầu quen thuộc tỏa ra thơm nồng, dễ
chịu. Trầu cau, trầu cau, sự tích trầu cau... Chưa bao giờ em thấy xúc động thấm
thía đến như vậy.
Em tiếp tục cuộc phiêu du. Đến khi mỏi chân, em dừng lại trước cảnh
tượng kì lạ: một chàng trai tuấn tú ngồi trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân
cây đang say sưa thổi sáo. Lưng chừng đồi, một đàn bò đông đúc thong dong
gặm cỏ. Em nín thở vạch kẽ lá ra nhìn, sợ rằng một tiếng động mạnh lúc này sẽ
phá hỏng mọi chuyện. Tiếng sáo vẫn dìu dặt như tâm tình, như mời gọi.
Bỗng có tiếng cành cây khô gãy dưới chân. Chàng trai biến mất, chỉ còn
Sọ Dừa lăn lóc trên đám cỏ xanh. Có lẽ đây là chàng Sọ Dừa trong câu chuyện
bà đã kể cho em nghe.
Lát sau, một cô gái xinh đẹp tươi cười bước tới bên chàng. Nàng mở
chiếc giỏ mây ra, lấy cơm canh ân cần mời chàng ăn. Sọ Dừa ăn rất ngon
miệng. Trong khi đó, cô gái nhìn chàng với ánh mắt đầy thiện cảm.
Đến lúc cô gái ra về, em vội vàng chạy theo và hỏi:
- Chị ơi! Chị có phải là nàng út con gái phú ông không? Tại sao chị lại yêu
chàng Sọ Dừa xấu xí?
Nàng út cười hiền hậu trả lời:
- Em lạ lắm phải không? Lần đầu gặp Sọ Dừa, chị cũng có cảm giác sợ
hãi như mọi người. Nhưng thấy ai cũng xa lánh chàng, mà chàng nào có tội tình
gì nên chị lại thấy thương. Cũng là một con người mà chàng phải chịu thiệt thòi
quá lớn. Chị muốn bù đắp phần nào nỗi cô đơn buồn tủi của chàng. Ngày tháng
qua đi, chị đã quên hẳn cái vỏ ngoài xấu xí của chàng lúc nào chẳng rõ. Chị đã
thấy ở chàng một con người trung thực, siêng năng, một tâm hồn đẹp đẽ. Chị
say mê tiếng sáo của chàng và rồi chị đã yêu chàng...
- Ôi! Chị Út xinh đẹp và nhân hậu quá! Em chúc cho chị và chàng Sọ Dừa
của chị được hạnh phúc!
Em vừa dứt lời thì một làn gió ào ào nổi lên. Một đám mây ngũ sắc sà
xuống bao quanh Sọ Dừa. Thoáng chốc, đám mây tan, một chàng trai tuấn tú
hiện ra. Chàng dịu dàng nắm tay nàng út. Nàng út bối rối định rụt tay lại thì giọng
nói trầm ấm của chàng đã vang lên:
- Đừng sợ, ta chính là Sọ Dừa của nàng đây! Tấm lòng nhân hậu của
nàng và lời cầu chúc chân thành của cô bé đã giúp ta trở lại làm người.
- Trời ơi! Chị biết lấy gì để đền ơn em đây!
Nàng út xiết chặt tay em và thốt lên sung sướng.
- Em mừng cho anh chị!
Em choàng tỉnh dậy. Bà vẫn nằm bên cạnh, bỏm bẻm nhai trầu. Mùi trầu
nồng ấm quen thuộc phảng phất quanh em. Em thầm thì: “Bà yêu quý ơi! Bà
chính là bà tiên đầy phép màu nhiệm. Bà đã đem lại cho cháu những giấc mơ
thật tuyệt vời!”.
ĐỀ 45: Mượn lời một đồ vật hay con vật gần gũi với em để kể chuyện tình cảm giữa em và đồ vật hay con vật đó.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật:
- Mèo Mi Mi, một tuổi.
- Từ quê lên thành phố ở với mẹ con chị Hằng.
2. Thân bài:
* Diễn biến của chuyện:
- Mẹ con chị Hằng về quê xin bà ngoại một con mèo.
- Mèo Mi Mi làm quen với môi trường mới.
- Chị Hằng rất quý Mi Mi. Mỗi lần Mi Mi bắt được chuột, chị Hằng lại
thưởng. Hai chị em thường quấn quýt bên nhau.
3. Kết bài:
* Kết thúc chuyện:
- Chị Hằng đi chơi xa, Mi Mi rất nhớ, mong chị mau về.
II. BÀI LÀM
Meo! Meo! Xin tự giới thiệu với các bạn, tôi là mèo tam thể Mi Mi, vừa tròn
một tuổi. Tôi về ở với chị Hằng đã được nửa năm rồi. Chuyện của tôi với chị
Hằng đầu đuôi là thế này:
Năm ngoái, nhà chị Hằng ở trên thành phố có nuôi một anh Mèo Mướp.
Chị Hằng kể là anh Mèo Mướp bắt chuột rất tài. Lũ chuột cống, chuột nhắt cứ
thấy bóng anh ấy là khiếp vía, tìm đường trốn chạy. Nhờ thế mà đồ đạc trong
nhà đỡ bị cắn phá. Ai cũng quý, cũng yêu anh Mèo Mướp.
Nhưng rồi anh Mèo Mướp bị bọn trộm bắt mất. Lũ chuột được thể hoành
hành dữ dội. Mẹ con chị Hằng phải về quê xin bà ngoại một con mèo khác. Đó
chính là tôi. Phải xa mái nhà vốn đã quen thuộc, gắn bó bấy lâu, tôi thấy lòng
nôn nao khó tả. Lên thành phố, lạ cảnh, lạ người, tôi sẽ sống ra sao?
Nhưng nỗi băn khoăn ấy nhẹ hẳn đi khi chị Hằng đón tôi từ tay bà ngoại.
Chị Hằng là một cô bé xinh xắn và lanh lợi. Chị ôm tôi vào lòng, thủ thỉ:
- Mi Mi ngoan của chị! về với chị nhé! ôi, bộ lông của Mi Mi mới đẹp làm
sao!
Nghe chị Hằng khen, tôi thích lắm! Kể từ nay, chị Hằng sẽ là cô chủ nhỏ
của tôi.
Đường lên thành phố xa ơi là xa! Dễ đến mấy chục cây số. Lúc trời xẩm
tối, mẹ con chị Hằng mới về đến nhà. Đèn điện bật sáng. Ồ! Tất cả đều lạ lẫm
đối với tôi! Căn nhà hơi chật mà lại nhiều đồ đạc thế kia thì lũ chuột tha hồ mà
ẩn nấp.
Suốt mấy ngày, tôi loanh quanh trong nhà, làm quen với nơi ở mới. Chị
Hằng chăm sóc tôi rất kĩ. Lúc chị học bài, tôi nằm cạnh bàn, mắt lim dim. Học bài
xong, trước lúc đi ngủ, bao giờ chị cũng vuốt ve và âu yếm trò chuyện với tôi
như với đứa em mà chị thương yêu. Đáp lại tình cảm đặc biệt mà chị Hằng dành
cho tôi, tôi cố làm tròn phận sự của mình. Sau mỗi lần tôi bắt được chuột, chị
Hằng đều dành cho tôi những phần thưởng xứng đáng.
Chị Hằng yêu tôi và tôi cũng rất mến chị Hằng. Mấy ngày chị ấy cùng với
các bạn trong lớp đi tham quan xa nhà, tôi nhớ lắm! Tôi thích nghe giọng nói dịu
dàng của chị mỗi lúc chị khen: “ôi! Mi Mi của chị giỏi quá chừng! Lại đây với chị
nào!”.
ĐỀ 46: Hãy tưởng tượng cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh - Thuỷ Tinh trong điều kiện ngày nay với máy xúc, máy ủi, xi măng cốt thép, máy bay trực thăng, điện thoại di động, xe lội nước,...
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Nhắc lại nguồn gốc mối thù dai dẳng giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
- Thời gian xảy ra cuộc giao chiến. (Ví dụ: Mùa lũ năm 2006 ở đồng bằng
sông Hồng)
2. Thân bài:
* Tả cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh:
+ Khung cảnh trước trận đấu:
- Bầu trời tối đen, chớp rạch loang loáng, sấm nổ đì đùng...
- Sơn Tinh bình tĩnh chuẩn bị mọi phương tiện hiện đại để sẵn sàng đánh
trả.
+ Trong trận đấu:
- Thủy Tinh hoá phép hô gió gọi mưa. Giông tố nổi lên ầm ầm, mưa như
trút. Nước sông Hồng dâng lên cuồn cuộn đe dọa phá vỡ đê...
- Sơn Tinh bày binh bố trận, phối hợp chặt chẽ các lực lượng và phương
tiện để chống đỡ, đẩy lùi các đợt tấn công của Thủy Tinh.
+ Kết thúc trận đấu:
- Sau nhiều ngày đêm giao tranh, Thủy Tinh thua trận phải rút quân về.
- Nhân dân vui mừng trước thắng lợi to lớn, càng tin tưởng vào tài năng và
đức độ của Sơn Tinh.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh phản ánh ước mơ chế ngự thiên
nhiên, chiến thắng thiên tai của người xưa.
- Cái thiện luôn luôn chiến thắng cái ác, đó là chân lí, là ước mơ ngàn đời
của nhân dân ta.
II. BÀI LÀM
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái tên là Mị Nương, người
đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương nàng hết mực, muốn kén
cho con một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm, có hai chàng trai đến cầu hôn. Một người tên là Sơn Tinh, chúa
tể của miền non cao, tài nghệ phi thường. Chàng vẫy tay về phía đông, phía
đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Một
người tên là Thủy Tinh, chúa tể của vùng nước thẳm, có tài gọi gió, gió đến, hô
mưa, mưa về. Hai người đều xứng đáng làm rể vua Hùng nhưng vua Hùng chỉ
có một người con gái, nên băn khoăn không biết gả cho ai. Cuối cùng, vua đành
phán rằng: Sáng mai, ai đến trước thì sẽ được cưới Mị Nương. Sơn Tinh mang
đủ sính lễ theo yêu cầu của vua Hùng: Một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp
bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi.
Vua Hùng ưng ý, cho Sơn Tinh rước Mị Nương về núi Tản Viên.
Vì đến muộn nên không lấy được vợ, Thủy Tinh giận dữ, đùng đùng đuổi
theo. Chàng hóa phép gây ra mưa to gió lớn, dâng nước sông lên cao hòng
nhấn chìm đồng ruộng, núi đồi. Sơn Tinh chiến đấu kiên cường. Cuối cùng, Thủy
Tinh kiệt sức thua trận, đành ôm mối hận tình.
... Mối thù từ ngàn xưa, cho đến nay Thủy Tinh vẫn không quên. Mùa lũ
năm 2006, Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn Tinh hòng cướp lấy Mị Nương.
Gần một tuần nay, những đám mây xám đầy hơi nước che kín mặt trời.
Tiếng sấm nổ ran. Ánh chớp nhoang nhoáng xé rách bầu trời u ám. Từ thượng
nguồn, nước lũ đổ về cuồn cuộn, cuốn phăng mọi thứ bắt gặp trên đường. Sông
Hồng sục sôi sóng đỏ, giống như một con ngựa bất kham đang tung bờm phi
nước đại. Nước dâng mấp mé mặt đê, con đê sừng sững chạy dọc theo sông,
làm nhiệm vụ ngăn nước lũ để bảo vệ mùa màng.
Mặc cho Thủy Tinh điên cuồng, hung hãn báo thù, Sơn Tinh vẫn bình tĩnh
chống trả bằng mọi lực lượng và phương tiện hiện đại. Trên chiếc trực thăng đặc
biệt do đại bàng cầm lái đang bay là là sát mặt sông, Sơn Tinh dùng ống nhòm
quan sát, phát hiện ra những chỗ Thủy Tinh tập trung nhiều quân nhất để tấn
công phá vỡ thân đê. Thôi thì đủ cả thuồng luồng, ba ba, binh tôm, tướng cá...
đàn đàn lũ lũ hùng hổ kéo sau Thủy Tinh, tưởng sẽ nhấn chìm đất Phong Châu
trong biển nước.
Sơn Tinh sáng suốt chỉ huy trận đánh qua máy bộ đàm. Hàng trăm chiếc
máy xúc, máy ủi sẵn sàng chờ lệnh, ở những quãng đê xung yếu, người đông
như kiến, hối hả khiêng đất, khiêng đá và móc các khối bê tông đúc sẵn vào cần
cẩu. Hàng chục chiếc cần cẩu giống như những cánh tay bằng thép khổng lồ
làm việc không biết mệt. Chỉ sau một thời gian ngắn, dãy sà lan có sức chứa
hàng ngàn tấn đã được xếp đầy đất đá để dùng cho việc vá đê nếu chẳng may
đê bị vỡ. Trên mặt sông, hàng chục xe lội nước dàn hàng ngang, rà lưới sát đáy
sông, bắt sống vô số quân tướng của Thủy Tinh, khiến cho hàng ngũ bị rối loạn,
mất tinh thần chiến đấu. Cho đến lúc này, dẫu Thủy Tinh đã trổ hết tài nhưng
con đê sông Hồng vẫn sừng sững như bức tường thành không gì tàn phá nổi.
Hễ Thủy Tinh dâng nước cao bao nhiêu thì Sơn Tinh lại hoá phép nâng con đê
lên cao bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn
Tinh vẫn vững vàng mà Thủy Tinh thì sức cùng lực kiệt, bại trận đành rút quân
về.
Khắp mặt đất rộn ràng tiếng trống chiêng và tiếng reo hò mừng chiến
thắng. Bầu trời lại xanh trong, chan hoà ánh nắng. Cây cối xanh tươi trở lại, chim
chóc líu lo, muông thú tưng bừng mở hội. Người người hân hoan và càng thêm
tin tưởng vào tài đức tuyệt vời của Sơn Tinh - vị thần ngự trên đỉnh Tản Viên cao
vòi vọi.
Suốt mấy ngàn năm qua, năm nào Thủy Tinh cũng đánh Sơn Tinh nhưng
chưa bao giờ thắng. Tuy vậy, Thủy Tinh không nguôi mối hận thù, hằng năm cứ
đến tháng bảy, tháng tám lại gây ra giông bão, lũ lụt.
Sơn Tinh – Thủy Tinh là một truyền thuyết đẹp và hay vào bậc nhất trong
kho tàng truyện cổ Việt Nam. Truyện phản ánh ước mơ chế ngự thiên tai của
người xưa, đồng thời cũng nêu lên chân lí: con người có thể làm được tất cả với
ý chí và nghị lực phi thường của mình.
ĐỀ 47: Nhà em có ôtô, xe máy và xe đạp. Hãy kể một câu chuyện tưởng tượng về cuộc tranh luận giữa chúng.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu hoàn cảnh xảy ra câu chuyện:
- Chủ nhật, cả nhà em được nghỉ.
- Em tình cờ nghe thấy ôtô, xe máy, xe đạp tranh cãi với nhau ai hơn ai
kém.
2. Thân bài:
* Diễn biến cuộc tranh luận:
- Ôtô nói trước, khẳng định mình hơn hẳn xe máy, xe đạp về mọi mặt.
- Xe máy cũng khẳng định mình được việc hơn ôtô.
- Xe đạp chê ôtô, xe máy chạy tốn xăng, làm ô nhiễm môi trường; khẳng
định mình có ích nhất.
3. Kết bài:
* Kết thúc cuộc tranh luận:
- Em phân tích mặt mạnh, mặt yếu của cả ba phương tiện.
- Khẳng định phương tiện nào cũng có ích cho con người.
II. BÀI LÀM
Ba em là Giám đốc công ty xây dựng số 1 của Sở xây dựng thành phố Hồ
Chí Minh. Cơ quan cấp cho ba em một chiếc xe du lịch màu xanh hiệu Toyota để
làm phương tiện đi lại. Mẹ em là giáo viên Văn trường chuyên Lê Hồng Phong.
Ngày ngày, mẹ đi dạy bằng chiếc Honda đã cũ. Còn em đi học bằng chiếc xe
đạp leo núi mà ba mua tặng hồi Tết.
Sáng nay chủ nhật, gia đình em có mặt đông đủ ở nhà. Sau bữa ăn sáng,
ba vào phòng khách đọc báo, mẹ xách giỏ đi chợ chuẩn bị cho bữa cơm trưa.
Em lấy chiếc bình nước tưới cho mấy chậu hoa đặt trước lối vào nhà để xe.
Chợt em nghe có tiếng trao đổi xì xầm. Lấy làm lạ, em nép ngoài cửa lắng nghe.
Thì ra anh ôtô, chị xe máy và cậu xe đạp đang tranh hơn tranh kém với nhau.
Anh ôtô giọng Ồm Ồm kẻ cả:
- Cô cậu nghe đây! Chỉ so về hình thức, anh đã hơn hẳn rồi! Anh bệ vệ,
sang trọng khó bì. Ông chủ mỗi khi đi đâu đều nhẹ nhàng, thảnh thơi, mưa
không tới mặt, nắng chẳng tới đầu. Còn cô cậu thì kém anh đủ điều, so làm sao
được? Cho nên ông chủ quý anh nhất là phải thôi!
Chị Honda không chịu lép:
- Anh nói chẳng sai! Nhưng tôi hỏi anh, ngoài những lúc đưa ông chủ đến
sở làm hoặc đi công tác, anh được dùng vào việc gì nữa nào? Còn tôi, tôi được
việc hơn anh nhiều! Này nhé! Sáng sáng, tôi đưa bà chủ đi dạy học. Rồi đi chợ,
đi chơi, đi thăm người thân... lúc nào tôi cũng kề cận bên bà chủ. Tiện lợi biết
bao! Tôi thấy tôi có ích nhất nhà.
Xe đạp nãy giờ đứng dựa vào tường nghe ôtô và xe máy tranh luận, giờ
mới lên tiếng:
- Em tuy nhỏ bé nhưng rất có ích. Ngày ngày, em cùng anh Huy tới
trường, tới câu lạc bộ. Thỉnh thoảng giúp anh ấy đi picnic với bạn bè ở trong hay
ngoài thành phố. Dẫu có kẹt xe kẹt cầu, em vẫn luồn lách được, chứ cứ như anh
ôtô với chị Honda thì đành chịu chết. Em lại chỉ miệt mài làm chứ không ăn uống
tốn kém gì. Trong khi đó hai người phải uống no xăng mới chạy được. Lại còn xả
khói gây ô nhiễm môi trường nữa chứ!
Ôtô và Honda nghe xe đạp nói vậy không bằng lòng. Cuộc tranh luận vẫn
còn tiếp diễn.
Em bước vào nói:
- Các bạn không nên so bì như thế! Dù có những mặt mạnh, mặt yếu khác
nhau nhưng ai cũng có ích cả. Ba mẹ tôi và tôi đều yêu quý các bạn như nhau.
Các bạn có đồng ý với tôi không nào?
Ôtô, Honda và xe đạp nhìn nhau với ánh mắt thân thiện, cùng cười vui rồi
hô to: Đồng ý!
ĐỀ 48: Kể chuyện mười năm sau em về thăm lại mái trường mà hiện nay em đang học. Hãy tưởng tượng những thay đổi có thể xảy ra.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu sơ lược về bản thân:
- Tôi là kĩ sư, tốt nghiệp đại học Bách khoa, được phân công về làm việc
tại một nhà máy của tỉnh nhà.
- Nhân dịp ngày Nhà giáo Việt Nam 20 - 11, tôi về thăm lại trường cũ.
2. Thân bài:
* Kể vài nét về khung cảnh của ngôi trường:
- Hình ảnh trường cũ đơn sơ hiện lên trong tâm trí.
- Hình ảnh ngôi trường mới to đẹp, khang trang với đầy đủ các phòng, các
phương tiện phục vụ giảng dạy và học tập.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của bản thân:
- Ngạc nhiên, vui mừng trước những thay đổi to lớn của trường.
- Cuộc gặp mặt ấm áp tình nghĩa thầy trò.
- Hình ảnh ngôi trường thân yêu mãi mãi in đậm trong kí ức.
II. BÀI LÀM
Sau bốn năm miệt mài học tập ở trường Đại học Bách khoa, tôi đã trở
thành kĩ sư và được nhận vào làm việc trong một nhà máy cơ khí của tỉnh nhà.
Thời gian trôi đi nhanh quá! Mới ngày nào tôi là cậu học sinh lớp 6, thoắt cái mà
đã mười năm. Bao kỉ niệm của thời học trò tinh nghịch, đáng yêu vẫn còn tươi
rói trong kí ức...
Năm nay, ngày Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 lại đúng vào thứ bảy. Tôi
trở về thăm các thầy cô và thăm ngôi trường cũ mà tôi xa cách đã lâu.
Hồi học lớp 6A do cô Nhân dạy toán làm chủ nhiệm, tôi được cử làm lớp
trưởng. Các bạn trong lớp “tín nhiệm” phần vì tôi học khá, phần vì tôi rất nhiệt
tình trong mọi công việc của lớp.
Trường tôi nằm trên một khu đất rộng, có tường xây bao quanh. Đoạn
đường dẫn từ quốc lộ 1 vào tới cổng trường rộng chừng sáu mét, hai bên trồng
bạch đàn. Chiếc bảng đề tên trường màu xanh, nổi bật hàng chữ trắng: Trường
Trung học cơ sở Võ Thị Sáu, từ xa đã nhìn thấy rất rõ. Ba dãy phòng học lợp tôn
nối với nhau theo hình chữ u, ở giữa là sân trường với cột cờ đặt trước cửa
phòng Ban Giám hiệu. Hình ảnh ngôi trường cũ thân yêu luôn hiện lên trong nỗi
nhớ. Về thăm trường lần này, tôi hi vọng thấy lại những gì quen thuộc một thời.
Nhưng sao lạ thế này!? vẫn tên trường cũ, vẫn con đường dẫn vào trường
ngày nào nhưng hàng cây thì đã cao vút, thân tròn, thẳng tắp. Mặt đường tráng
xi măng phẳng phiu, cổng trường được xây bề thế và quétvôi trắng trông rất đẹp.
Ấn tượng nhất là ngôi trường ba tầng cao sừng sững, mái ngói đỏ tươi.
Tường quét vôi vàng, cửa lớn, cửa sổ sơn xanh nhìn thật hài hóa. Hai bên là hai
dãy phòng làm việc của Ban Giám hiệu, hội trường, thư viện, phòng thí nghiệm,
phòng vi tính và phòng truyền thống. Trước cửa các lớp học đều có bồn hoa.
Hoa cúc, hoa hồng rung rinh trước gió. Sau trường là vườn sinh vật trồng nhiều
loại cây. Ở mỗi cây đều có gắn bảng đề tên thường gọi và tên khoa học. Quả là
một sự thay đổi lớn lao và kì diệu.
Gặp lại các thầy cô cũ, lòng tôi trào lên một niềm xúc động lạ thường. Các
thầy cô vẫn nhớ đến tôi, trìu mến gọi tên tôi và hỏi thăm tôi về mọi mặt. Cô Nhân
xiết tay tôi thật chặt, chúc mừng tôi đã trưởng thành. Tôi thầm nghĩ: Dù đi đâu,
về đâu, mình cũng sẽ mãi mãi nhớ về ngôi trường này, về các thầy cô và bạn bè
yêu quý.
ĐỀ 49: Trẻ em vẫn mơ ước vươn vai một cái là trở thành tráng sĩ như Thánh Gióng. Em hãy tưởng tượng mình mơ thấy Thánh Gióng và hỏi ngài bí quyết, xem ngài khuyên em như thế nào?
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu chung:
- Buổi sáng, trong giờ Ngữ văn, em được học truyền thuyết Thánh Gióng
và câu chuyện thần kì đã cuốn hút em.
- Đến đêm, em mơ mình được gặp Thánh Gióng.
2. Thân bài:
* Kể lại giấc mơ gặp Thánh Gióng:
- Em mơ thấy một tráng sĩ tư thế oai phong lẫm liệt, đầu đội mũ sắt, cưỡi
trên lưng con ngựa sắt, tự xưng là Thánh Gióng.
- Em bày tỏ ước muốn của mình và hỏi Thánh Gióng bí quyết làm thế nào
để vươn vai một cái là trở thành tráng sĩ có sức mạnh phi thường.
- Thánh Gióng khuyên em nên chăm chỉ học hành, thường xuyên rèn
luyện sức khoẻ để trở thành người có trí tuệ sáng suốt trong một thân thể khỏe
mạnh. Như vậy thì mới có ích cho gia đình và xã hội.
3. Kết bài:
* Cảm nghĩ của em:
- Giấc mơ gặp Thánh Gióng thật đẹp và nhiều ý nghĩa.
- Em thấm thía lời khuyên thiết thực của Thánh Gióng, cố gắng phấn đấu
thành con người toàn diện.
II. BÀI LÀM
Sáng nay, trong tiết Văn, chúng em được học về truyền thuyết Thánh
Gióng, người anh hùng nhỏ tuổi đã lập nên kì tích quét sạch giặc Ân xâm lược ra
khỏi bờ cõi nước ta. Giọng kể truyền cảm, sinh động của cô giáo Hương đã đưa
chúng em vào thế giới đầy những hình ảnh huyền ảo, phi thường. Hình tượng
đẹp đẽ của Thánh Gióng đã để lại trong tâm trí em một ấn tượng sâu đậm có
sức cuốn hút lạ lùng. Đến đêm, trước khi đi ngủ, em giở sách ra đọc lại truyện
một lần nữa và ao ước rằng giá như mình vươn vai một cái cũng trở thành tráng
sĩ oai phong lẫm liệt như Thánh Gióng. Ao ước cháy bỏng ấy đã theo em vào cả
giấc mơ...
Em đang đi giữa một vùng quê yên bình, đầy hoa thơm cỏ lạ. Những ngôi
làng được bao bọc bằng lũy tre đằng ngà, thân vàng óng, lá xanh rì rào trước
ngọn gió xuân hây hẩy. Dọc đường, ao chuôm nối tiếp nhau thành dãy, mặt
nước lung linh soi bóng mây trời. Mỗi hình ảnh đều gợi lại chiến công của Thánh
Gióng. Dòng người đông đúc đang hối hả kéo nhau về đền thờ Thánh Gióng.
Tiếng trống, tiếng chiêng rộn rã, náo nức cả một vùng.
Em ngước mắt lên nhìn bầu trời xanh thăm thẳm, Ồ kìa! Lạ chưa! có một
đám mây ngũ sắc giống hệt hình người đang cưỡi ngựa. Đám mây hạ thấp dần,
thấp dần và em không tin vào mắt mình nữa. Trước mặt em là Thánh Gióng đầu
đội mũ sắt, mặc áo giáp sắt, cưỡi trên lưng ngựa sắt... hiển hiện trên bãi cỏ
xanh. Thánh Gióng vui vẻ cất tiếng chào:
- Chào cậu bé! Ta là Thánh Gióng. Ta đã nhận được lời nguyện cầu của
cậu. Cậu có muốn ta giúp gì chăng?!
Sự ngạc nhiên tột độ đã nhanh chóng biến thành niềm vui mừng khôn xiết.
Em vội vàng bày tỏ:
- Thưa ngài! Em và các bạn chỉ ao ước làm sao vươn vai một cái trở thành
tráng sĩ oai phong lẫm liệt như ngài. Xin hỏi ngài bí quyết để điều đó biến thành
hiện thực.
Thánh Gióng cười lớn, tiếng cười vang động không gian:
- Ồ! Ta hiểu! Tuổi thơ bao giờ cũng có những ước mơ đẹp đẽ lạ thường!
Ngày xưa, ta cũng vậy. Chính sự tồn vong của đất nước trước nạn ngoại xâm đã
khơi dậy trong ta sức mạnh thần kì. Chính dân làng đã góp gạo nuôi ta lớn
nhanh như thổi để đi đánh giặc. Sức mạnh của ta là sức mạnh lòng yêu nước
của toàn dân. Việc ta vươn vai một cái trở thành tráng sĩ tượng trưng cho khát
vọng chiến thắng quân thù. Ta thay mặt nhân dân trừng trị đích đáng lũ giặc
ngông cuồng, dám xâm phạm vào giang sơn gấm vóc của tổ tiên.
Còn bây giờ, trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển như vũ bão, con
người không cần phải khổng lồ về thể xác nhưng phải khổng lồ về ý chí và trí
tuệ. Một trí tuệ sáng suốt, một nghị lực phi thường trong một thân thể khỏe mạnh
là những điều rất cần thiết cho cuộc sống ngày nay. Đó là những lời tâm huyết
mà ta muốn nói. Cậu bé hãy suy nghĩ kĩ xem có đúng không. Nếu đúng thì hãy
làm theo và ta cũng nói trước rằng đó là cả quá trình phấn đấu lâu dài và gian
khổ đấy! Ta chúc cậu mai sau trở thành người có đức, có tài hữu ích cho đất
nước! Thôi, chào cậu! Ta đi đây!
Thánh Gióng dứt lời, ngựa sắt hí vang, bốn vó từ từ nhấc khỏi mặt đất. Cả
người lẫn ngựa bay càng lúc càng cao, rồi mờ dần, mờ dần giữa những đám
mây trắng như bông.
Em bàng hoàng tỉnh giấc. Ôi! Thì ra là một giấc mơ! Một giấc mơ lạ lùng!
Tiếng nói của Thánh Gióng vẫn văng vẳng đâu đây. Em thấm thía lời khuyên chí
tình của ngài. Đúng là chỉ có thể bằng con đường học tập, rèn luyện và phấn đấu
không ngừng thì chúng ta mới biến được những ước mơ đẹp đẽ thành hiện
thực.
ĐỀ 50: Em hãy kể về tâm sự của một cuốn sách bị bỏ quên.I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu tình huống xuất hiện sự việc:
- Em nghe tiếng khóc của cuốn sách trên mặt bàn.
- Hỏi han và nghe sách tâm sự.
2. Thân bài:
* Phát triển câu chuyện:
- Cuốn sách đã từng giúp ích cho một bạn học sinh trong năm học trước.
- Sách đã giúp em đạt kết quả học tập tốt.
- Thi xong, em ném mạnh sách lên nóc tủ. Vì quá tay nên sách rơi xuống
đất và bị bỏ quên.
- Bụi bẩn bám, gián chuột gặm làm sách đau khổ vô cùng.
- May nhờ bà quét dọn, tìm thấy sách đặt lên mặt bàn như cũ.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Em hối hận và hứa từ nay về sau sẽ giữ gìn sách cẩn thận.
II. BÀI LÀM
Trưa hè êm ả, gió nam lồng lộng thổi. Tiếng chim sâu ríu rít trong vòm lá
ngoài vườn. Theo nhịp võng đều đều kẽo kẹt, em lơ mơ rồi chìm dần vào giấc
ngủ êm đềm. Bỗng em nghe thấy tiếng thút thít khe khẽ, văng vẳng đâu đây. Em
đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm và phát hiện ra cuốn Tiếng Việt 5 đang thổn thức
trên mặt bàn học kê ở góc nhà.
Em liền rời khỏi võng, tới bên bàn và nâng cuốn sách lên, dịu dàng hỏi:
- Làm sao mà khóc? Có chuyện gì buồn nói cho chị nghe nào! Chị có thể
giúp gì em chăng?
Nước mắt rưng rưng, cuốn sách ngập ngừng kể:
- Em buồn lắm chị ơi! Chị xem này, bìa của em rách hết cả, gáy thì bị gián
nhấm lem nhem. Lũ chuột vấy bẩn lên người em... thật là hôi hám và khó chịu.
Em bị rơi xuống gầm tủ đã bao lâu nay mà chị chẳng biết. May mà bà quét dọn
và cứu em sáng nay. Nếu không thì... em đâu có được gặp lại chị...
Em chợt nhớ ra rằng sau khi thi xong, em vứt mấy cuốn sách lên nóc tủ,
trong đó có cuốn Tiếng Việt này. Chắc là do em quá tay nên nó rơi xuống đất.
Từ hôm ấy, em không quan tâm đến chuyện đó nữa mà thanh thản hưởng một
mùa hè vui vẻ.
Cuốn sách lại tiếp tục than thở:
- Chị hãy nhìn lại em một chút mà xem! Bên ngoài thì xơ xác, bẩn thỉu, bên
trong cũng thảm hại không kém. Trang nào cũng quăn góc và bị gạch xóa lung
tung. Thật chẳng ra làm sao cả. Em khổ lắm chị ạ! Nhớ ngày nào, em cùng các
bạn về trường chị với bao sung sướng và hi vọng. Chúng em mong sao sẽ giúp
ích cho các anh chị trong học tập. Được về với chị Hiền, em vui lắm. Em được
chị ấy giữ gìn, nâng niu. Chị Hiền mặc cho em chiếc áo làm bằng tờ họa báo thật
đẹp. Em cùng các bạn được dán nhãn cẩn thận và xếp ngay ngắn trên giá sách.
Mỗi khi cần đến, chị Hiền nhẹ nhàng lật giở từng trang. Dùng xong, chị lại cất
chúng em vào chỗ cũ. Nhờ thế mà sau một năm học, chúng em vẫn sạch đẹp
như mới. Cuối năm, chị Hiền đạt danh hiệu học sinh xuất sắc. Chúng em rất tự
hào về người chủ nhỏ của mình và cùng chia vui với chị ấy. Chị Hiền được nghỉ
hè và chúng em cũng được nghỉ ngơi.
Rồi năm học mới lại bắt đầu. Em cùng các bạn về với chị - cô chủ mới. Em
đã sát cánh bên chị suốt năm học vừa qua. Chị cũng học giỏi như chị Hiền. Có
điều tính chị không ngăn nắp lắm. Chị hay bỏ chúng em vung vãi khắp nơi. Lúc
cần lại cuống lên tìm kiếm. Sau khi thi được vài ngày, chị quẳng chúng em lên
nóc tủ và em đã rơi xuống gầm tủ tối om.
Chẳng ai để ý đến xó xỉnh ấy nên em đành cam chịu đau khổ. Một mình
em chống chọi với lũ gián, lũ chuột. Em những tưởng mình sẽ làm mồi ngon cho
lũ mối. Nhưng may sao bà đã nhặt em lên, phủi bụi rồi đặt em lên bàn. Thế mà
chị chẳng hay biết tí gì!
Giọng kể của cuốn sách vừa buồn tủi vừa pha chút giận hờn, trách móc.
Trách là đúng lắm. Tất cả là tại em, tại cái tính không cẩn thận của em.
Em đã không có ý thức giữ gìn sách vở sạch đẹp.
Em ân hận thật sự và chân thành nói:
- Chị thật có lỗi. Chị hứa từ nay trở đi sẽ giữ gìn sách vở cẩn thận.
ĐỀ 51: Hãy kể về tâm tình cây lúa.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật và tình huống:
- Cây lúa tự kể chuyện về mình.
2. Thân bài:
* Diễn biến câu chuyện:
- Nguồn gốc cây lúa.
- Quá trình sinh trưởng của cây lúa.
- Ích lợi của cây lúa.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Cây lúa vui vì được giúp ích cho đời.
II. BÀI LÀM
Tôi là cây lúa. Họ hàng nhà lúa chúng tôi có mặt ở nhiều nơi trên thế giới
đã mấy ngàn năm nay. Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng tôi đã gắn bó thân thiết với
con người. Bằng hạt gạo - hạt ngọc của trời ban cho, Lang Liêu đã làm nên bánh
chưng bánh giầy tượng trưng cho trời và đất - để kính dâng mừng thọ vua Hùng.
Cuộc đời cây lúa chúng tôi gắn liền với niềm vui, nỗi buồn của con người.
Chúng tôi sinh ra và lớn lên từ những hạt thóc giống chín mẩy, vàng ươm.
Sau mấy tháng nằm nghỉ ngơi trong bồ lúa, chị em chúng tôi được đem ra ngâm
vào nước ba sôi hai lạnh. Nước ấm làm chúng tôi tỉnh giấc, Sự sống trong chúng
tôi bừng dậy. Vài ngày sau, những chiếc rễ trắng tinh đã nhú ra. Một sớm mai
hồng, chúng tôi được đem gieo trên những mảnh ruộng phẳng như chiếu trải.
Mùi bùn ngai ngái khiến chúng tôi ngây ngất. Ánh nắng ấm áp ban ngày, làn
sương mát dịu ban đêm giúp chúng tôi nảy mầm đâm lá thành những cây mạ
non mơn mởn. Cô bác nông dân chăm sóc chúng tôi kĩ lắm.
Thế rồi vào một ngày đẹp trời, chúng tôi được nhổ lên, bó thành từng bó.
Từ đó, chị em chúng tôi bước qua một giai đoạn mới của cuộc đời: từ cây mạ
biến thành cây lúa. Cứ vài dảnh mạ được cấy thành một gốc. Gốc này cách gốc
kia mỗi chiều chừng ba tấc. Đang quen sống quây quần ấm áp bên nhau, giờ bị
tách riêng ra, chúng tôi cảm thấy trống trải và lạnh lẽo vô cùng. Phải mất chừng
vài tuần, chúng tôi mới bén rễ trên đất mới. Màu xanh của lá thẫm dần và thân
thể chúng tôi cứng cáp hẳn lên. Bộ rễ cần cù hút màu mỡ nuôi cây. Dần dà,
chúng tôi đã trở thành những bụi lúa đầy đặn và tươi tốt. Bụi nọ mọc sát bụi kia
tạo thành một tấm thảm xanh mênh mông, mỗi lần gió thổi qua lại dập dờn như
sóng biển.
Ngày tháng trôi qua, chúng tôi đã thành lúa thì con gái. Các cô bác nông
dân thường xuyên nhổ cỏ, bón phân, xịt thuốc trừ sâu rầy phá hoại lúa. Một
hôm, trong gió sớm thoang thoảng mùi thơm thật dễ chịu. Đầu bờ, có tiếng reo
vui: ô, lúa đã làm đòng rồi đây này! Những bàn tay vuốt ve trìu mến. Chúng tôi
thầm cám ơn những bàn tay chai sần, rám nắng của người nông dân một nắng
hai sương vất vả trên đồng ruộng.
Bao mồ hôi của họ đã đổ xuống đất này. Họ hàng nhà lúa chúng tôi không
phụ ơn người. Tháng năm, mùa lúa chín, cả cánh đồng phủ một màu vàng rực
như kén tằm. Màu vàng của nắng, màu vàng của lúa làm sáng cả một vùng quê
thanh bình, gợi cảm giác ấm no, sung túc.
Đoàn người tay liềm, tay hái đổ ra đồng gặt lúa. Tiếng cắt lúa xoèn xoẹt,
tiếng máy tuốt lúa rào rào xen lẫn tiếng nói cười rộn rã. Âm thanh náo nức vang
khắp cánh đồng. Theo chân người, chúng tôi về với từng sân phơi. Quang cảnh
xóm làng thật nhộn nhịp và trong lòng chúng tôi cũng dâng lên một niềm vui khó
tả.
Sau mấy ngày phơi mình dưới ánh nắng chói chang, chúng tôi được quạt
sạch rồi đổ vào bồ, vào vựa. Có chúng tôi, người nông dân sẽ có được nhiều
thứ hàng hoá cần thiết phục vụ cho đời sống. Chúng tôi đã góp phần tạo nên
những ngôi nhà ngói mới, thay thế những mái tranh nghèo. Bộ mặt nông thôn
ngày càng tươi đẹp chính là nhờ sự đóng góp đáng kể của họ hàng nhà lúa
chúng tôi.
Chúng tôi vui sướng vì đã giúp ích cho con người. Nhân đây, chúng tôi xin
gửi đến các bạn học sinh lời nhắn nhủ chân thành của ông cha:
Ai ơi bưng bát cơm đầy. Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần.
ĐỀ 52: Hãy kể về giấc mơ của một bông hoa.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật và tình huống:
- Bông hoa Hồng Nhung tươi vui chào đón bình minh. Nó đang nhớ tới
giấc mơ đẹp đêm qua.
2. Thân bài:
* Phát triển câu chuyện:
- Hoa Hồng Nhung được chị Mây Trắng đưa đi du ngoạn, được tận mắt
chiêm ngưỡng những cảnh đẹp của thế giới rộng lớn. Từ đồng lúa xanh rờn,
thảo nguyên bao la, đại dương mênh mông... đến những kì quan của loài người
như Kim tự tháp Ai Cập, tháp Epphen,...
- Hoa Hồng Nhung đến với thế giới cổ tích, gặp gỡ các nàng công chúa
như nàng Bạch Tuyết ngủ trong rừng, nàng Lọ Lem,...
- Hồng Nhung lên tận Thiên Đình dự hội thi hoa của Tây Vương Mẫu, gặp
muôn loài, mỗi loài mỗi vẻ, làm cho ngày hội rực rỡ. Hồng Nhung sung sướng
được nhận những lời khen và cảm thấy hạnh phúc vô cùng.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Trở về khu vườn cũ, Hồng Nhung thấy yêu mến bạn bè và yêu cuộc đời
hơn.
II. BÀI LÀM
Bình minh đã bắt đầu le lói phía trời Đông. Những tia nắng hồng rực rỡ
báo hiệu một ngày mới. Một tia nắng tinh nghịch nhẹ nhàng lay gọi bông Hồng
Nhung dậy muộn. Hồng Nhung khẽ chớp chớp hàng mi ngái ngủ. Những giọt
sương đêm long lanh lăn tròn trên những cánh hoa đỏ thắm. Bông hoa ngẩng
cao đầu, quay nhìn bốn phía rồi mỉm cười nhớ lại giấc mơ đêm qua. ôi! Giấc mơ
thật đẹp!
... Mặt trời lặn đã lâu, khu vườn chìm trong bóng đêm dịu dàng, yên tĩnh.
Đang thiu thiu ngủ, chợt Hồng Nhung cảm thấy lâng lâng như được nhấc bổng
lên cao. Hóa ra là chị Mây Trắng bồng bềnh vừa sà xuống. Chị hôn nhẹ vào đôi
má mịn màng của Hồng Nhung rồi thì thầm: Em đi chơi với chị nhé! Ngồi trong
lòng chị Mây Trắng, cô bé Hồng Nhung rực rỡ như một đốm lửa hồng.
Nương theo làn gió nhẹ, chị Mây đưa Hồng Nhung bay qua một cánh
đồng bát ngát lúa xanh, nhấp nhô như sóng biển. Lá lúa đung đưa trong gió như
những cánh tay vẫy gọi, mời mọc Hồng Nhung hãy ghé chơi và thưởng ngoạn
vẻ đẹp của đồng quê. Lần đầu tiên được nhìn hàng ngàn, hàng vạn khóm lúa
tươi tốt mọc san sát bên nhau, Hồng Nhung thích lắm. Cô bé khoan khoái hít
căng lồng ngực hương thơm ngan ngát của lúa làm đòng. Không ghé thăm
được, Hồng Nhung gửi xuống cho các bạn lúa một nụ hôn thay lời chào thân ái.
Cuộc hành trình tiếp tục. Loáng một cái, trước mắt Hống Nhung hiện ra
một bãi cỏ bao la, ngào ngạt mùi thơm cỏ mật. Âm thanh réo rắt văng vẳng đâu
đây. À thì ra là tiếng sáo của mấy chú mục đồng cưỡi trên lưng những con trâu
béo mượt đang ung dung gặm cỏ. Cảnh đẹp như tranh. Hồng Nhung xuýt xoa
khen ngợi và say mê nhìn ngắm mãi.
Chị Mây Trắng đưa Hồng Nhung ra thăm biển. Quen sống trong khu vườn
nhỏ nên Hồng Nhung rợn ngợp trước cảnh trời nước mênh mông. Cô bé sung
sướng thốt lên: Biển rộng quá chị Mây Trắng nhỉ! Ôi! Biển mới đẹp làm sao!
Dưới mắt Hồng Nhung, biển xanh thăm thẳm. Những cánh buồm trắng, buồm
nâu giống như những cánh bướm khổng lồ chập chờn trên sóng nước. Chị Mây
Trắng mỉm cười nói với Hồng Nhung: Còn có nhiều cảnh đẹp kì diệu hơn nữa,
cô bé ạ!
Vượt qua đại dương, chị Mây Trắng đưa Hồng Nhung đến xứ sở của
những Kim tự tháp Ai Cập sừng sững trên sa mạc với những bức tượng nhân
sư bằng đá uy nghiêm canh giữ lối vào. Rồi đến với tháp Epphen cao vút, ngạo
nghễ giữa trời xanh; tháp nghiêng Pida đồ sộ và cổ kính... Mỗi kì quan có một vẻ
đẹp khác nhau khiến Hồng Nhung mải mê ngắm nhìn không chán mắt.
Bỗng cô bé reo lên: “Chị Mây Trắng ơi, chúng ta đến thăm khu vườn cổ
tích đi!”. Chị Mây Trắng gật đầu đồng ý. Chẳng mấy chốc, hai chị em đã tới khu
công viên nổi tiếng. Tuyệt vời làm sao! Trên mặt đất, cả một rừng hồng đang tỏa
hương, khoe sắc. Hồng trắng, hồng đỏ, hồng vàng... loại nào cũng đẹp! Chúng
vây quanh nàng công chúa ngủ trong rừng. Nàng đẹp vẻ đẹp ngây thơ, trong
trắng như một thiên thần. Tòa lâu đài, rừng cây cổ thụ, con đường mòn đẫn tới
lâu đài... Tất cả đều như mơ, như thực, đưa du khách vào cõi thần tiên. Và kìa,
nàng Bạch Tuyết với bảy chú lùn dễ thương đang quây quần nhảy múa. Hồng
Nhung và chị Mây Trắng ghé xuống tham dự cuộc vui với họ. Nàng Bạch Tuyết
âu yếm đặt Hồng Nhung lên ngực áo trắng muốt của mình. Hồng Nhung biết
rằng, bên cạnh nàng Bạch Tuyết, mình sẽ đẹp lên rất nhiều.
Hai chị em đã đến tận Thiên Đình. Tây Vương Mẫu đang mở hội thi hoa.
Chị Mây Trắng khuyên Hồng Nhung nên tham dự. Cô bé e thẹn chối từ vì thấy
quanh mình là hàng trăm loài hoa muôn hồng, ngàn tía. Mọi người xúm lại
khuyến khích nên Hồng Nhung đồng ý và cô bé không ngờ rằng mình lại được
bầu làm hoa hậu của các loài hoa. Hồng Nhung rất sung sướng nhưng cô bé
vẫn khiêm tốn nghĩ rằng mình chỉ là một vẻ đẹp trong muôn ngàn vẻ đẹp, một
hương thơm trong hàng vạn hương thơm.
Cuộc du ngoạn thế giới của hai chị em kết thúc tốt đẹp. Trở về khu vườn
quen thuộc, Hồng Nhung mừng rỡ gặp lại các bạn thân yêu. Hồng Nhung cảm
ơn chị Mây Trắng đã giúp mình hiểu biết về thế giới rộng lớn xung quanh...
Hồng Nhung thấy xao xuyến trong lòng. Lát nữa, cô bé sẽ kể cho tất cả
các bạn nghe về giấc mơ đẹp đẽ đêm qua. Những cánh hồng đỏ thắm rung rinh
như muốn nói: Các bạn ơi! Cuộc sống quanh ta đẹp đẽ và đáng yêu biết mấy!
ĐỀ 53: Kể về tâm sự của một chú chó bị lạc chủ.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật và tình huống:
- Trong một cuộc đi săn, chú chó giúp chủ săn thú, được chủ khen ngợi.
2. Thân bài:
* Phát triển câu chuyện:
- Mải mê săn mồi nên chó bị lạc.
- Nó cuống quýt tìm lối về mà không thấy.
- Nó nhớ ông chủ.
- Nó lo lắng cho tình trạng hiện tại.
- Nó hi vọng rằng ông chủ cũng đang đi tìm.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Chó nhẫn nại tìm đường về với chủ.
II. BÀI LÀM
Tiếng người hú, tiếng tù và thúc giục, tiếng sủa ăng ẳng của lũ bạn tôi làm
náo động cả góc rừng. Không lẫn vào đâu được là tiếng sủa “gâu gâu” trầm trầm
và vang dội của tôi, một chú chó săn lão luyện.
Tiếng súng chát chúa của ông chủ đã hạ gục một con dê núi, nhưng nó chỉ
quỵ xuống một lát rồi vùng dậy chạy bán sống bán chết. Tôi lao lên như một mũi
tên. Ngang qua suối cạn, con dê vấp ngã. Tôi bồi tiếp hai cú vào cổ, dê núi tắt
thở. Mọi người lục tục chạy tới, vui mừng khiêng con thú về. Ông chủ vỗ nhẹ vào
hai má tôi và khen: Tốt lắm! Giỏi lắm!
Cuộc săn tiếp tục. Tôi chạy trước, mũi khịt khịt đánh hơi, hi vọng lập thêm
chiến công. Đây rồi! Có mùi gì hăng hắc cùng tiếng sột soạt khe khẽ. Một bóng
đen vụt qua. Tôi mê mải lao theo...
Bỗng một quả rừng rơi xuống trúng đầu làm tôi chợt tỉnh. Con thú chạy
đâu mất mà tiếng người cũng chỉ thoang thoảng trong gió. Tôi dừng lại nhìn
quanh... Sao im ắng quá vậy? Trời bắt đầu tối. Tôi vội vàng chạy theo lối cũ trở
về.
Nhưng dường như càng chạy càng không tìm thấy lối ra. Mỗi gốc cây
ngọn cỏ quanh tôi xa lạ như chưa từng gặp bao giờ. Khu rừng rậm rịt, bóng tối
như bưng lấy mắt, như bịt chặt tai. Tôi mệt mỏi rã rời, tìm một hốc cây có nhiều
lá khô nằm khoanh cho đỡ mệt. Chỉ mong sao ngủ quên đi cho đến khi trời sáng.
Nhưng bóng tối, cảnh lạ khiến cho tôi không sao chợp mắt được. Cơn đói cồn
cào gợi tôi nhớ tới những bữa ăn ngon lành ở nhà. Họ nhà chó chúng tôi vốn
dũng cảm nhưng lúc này xung quanh yên ắng quá nên tôi thèm hơi ấm của con
người. Ông chủ quý tôi lắm. Ông rất ít nói. Khi nào vui vẻ hoặc hài lòng, ông
thường vuốt bộ lông mượt của tôi, vỗ vỗ vào má tôi và khen: Giỏi lắm! Tốt lắm!
Còn tôi ngước nhìn ông, mắt sáng long lanh và đuôi thì ngoáy tít mừng rỡ.
Chạy suốt ngày, giờ đây tôi thấy mệt. Nhớ lại có lần mải săn mồi, chân
trước của tôi vấp vào đá tóe máu, ông chủ đã kiếm lá dịt vào vết thương rồi băng
bó cho tôi. Mấy ngày tôi đau chân, ông chủ xích tôi bên cạnh cầu thang, không
cho chạy nhảy. Sáng sáng, ông tháo xích dắt tôi đi một vòng quanh xóm. Nhờ
thế mà chân tôi mau lành.
Giờ này, tôi nằm đây, còn ông chủ chắc cũng đang hú gọi tôi khắp ngả.
Không thấy tôi về nhà, chắc là ông lo và thương lắm. Biết đâu ông lại đeo súng,
xách đèn bươn bả đi tìm dọc bìa rừng...
Suy nghĩ miên man, tôi thiếp đi lúc nào không biết. Khi tỉnh lại thì trời đã
tang tảng sáng. Không chịu làm mồi cho thú dữ, càng không thể lang thang trong
rừng như lũ chó hoang, tôi phải tìm ra đường về. Nhất định phải về với ông chủ
yêu quý của tôi. Tôi đứng dậy nhìn bốn phía, mũi khịt khịt đánh hơi, tai dỏng lên
nghe ngóng rồi lao đi với niềm hi vọng.
ĐỀ 54: Hãy đóng vai bà đỡ Trần trong truyện Con hổ có nghĩa để kể lại câu chuyện ấy.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật:
- Bà đỡ họ Trần, quê ở huyện Đông Triều.
- Làm nghề đỡ đẻ đã mấy chục năm.
2. Thân bài:
* Diễn biến của truyện:
a/ Với bà đỡ Trần:
- Hổ đực cõng bà vào rừng, nhờ bà đỡ đẻ cho hổ cái.
- Hổ đực đền ơn bà bằng một cục bạc lớn.
- Nhờ cục bạc đó, bà đỡ Trần sống qua nạn đói.
b/ Với bác tiều phu:
- Con hổ trán trắng bị hóc xương. Nó đau đớn giãy giụa, cố móc họng
nhưng không được.
- Bác tiều phu giúp hổ lấy khúc xương ra.
- Hổ đền ơn bác bằng những con mồi như nai, dê, lợn rừng.
- Bác tiều phu chết, hổ đến bên mộ tỏ ý tiếc thương.
- Năm nào đến ngày giỗ bác tiều phu, hổ cũng tha hươu nai hoặc lợn đến
để trước cửa.
3. Kết bài:
* Kết thúc chuyện:
- Hổ tuy là loài vật nhưng lại rất có nghĩa có tình, biết quý trọng và đền ơn
ân nhân của mình.
II. BÀI LÀM
Tôi họ Trần, người huyện Đông Triều, làm nghề đỡ đẻ đã mấy chục năm
nay. Kể ra thì cũng có đến hàng trăm đứa trẻ trong vùng được hai bàn tay tôi
đón ra chào đời.
Một đêm nọ, tôi đã lên giường đi ngủ, chợt nghe có tiếng gõ cửa dồn dập
rất lạ. Tôi mở cửa ra nhìn thì chẳng thấy một ai. Vừa định quay vào nhà thì một
con hổ lao tới cõng tôi chạy vào rừng. Tôi sợ quá ngất đi.
Tỉnh dậy, tôi nhìn thấy một con hổ cái đang lăn lộn, móng vuốt của nó cào
bới liên tục trên mặt đất. Tưởng hổ sắp ăn thịt mình, tôi khiếp hãi đứng im,
không dám nhúc nhích.
Chợt con hổ đực cầm lấy tay tôi, mắt nó nhìn tôi như van lơn, cầu khẩn.
Tôi nhìn kĩ bụng hổ cái thì thấy như có cái gì đang động đậy. Với kinh nghiệm
của nghề làm bà đỡ, tôi biết là nó sắp sinh con, sẵn có thuốc luôn mang theo
trong túi, tôi hoà với nước suối cho hổ cái uống rồi xoa bụng cho nó. Lát sau, nó
sinh được một chú hổ con xinh xắn. Hổ bố mừng lắm, âu yếm đùa giỡn với con;
còn hổ mẹ mệt mỏi nằm phục xuống trên mặt cỏ.
Rồi hổ bố đi đến một gốc cây to, lấy chân đào bới và lôi lên một cục bạc
lớn. Nó đưa cho tôi với ý tạ ơn. Tôi nhận cục bạc rồi theo hổ bố đi ra khỏi rừng.
Được một quãng, tôi nói: Xin chúa rừng hãy quay về! Hổ bố cúi đầu vẫy đuôi, tỏ
vẻ tiễn biệt và cứ đứng nhìn theo. Đi đã khá xa, tôi quay lại thì hổ bố gầm lên
một tiếng rồi trở vào rừng, về nhà, tôi cân bạc được hơn mười lạng. Năm ấy mất
mùa, nạn đói diễn ra khắp nơi. Nhờ số bạc mà hổ trả ơn, tôi sống được qua kì
đói kém.
Năm sau, tôi nghe nói ở bên Lạng Giang có người tiều phu cũng cứu
được một con hổ thoát nạn. Hôm ấy, bác ta đang bổ củi ở sườn núi thì thấy dưới
thung lũng phía xa, cây cỏ lay động không ngớt. Lấy làm lạ, bác vác búa đến
xem thì hoá ra là một con hổ trán trắng đang giãy giụa, nhảy lên, vật xuống, thỉnh
thoảng lại lấy tay móc họng. Từ miệng nó, máu me, nhớt dãi trào ra trông phát
khiếp.
Bác tiều phu nhìn kĩ thì thấy có khúc xương mắc ngang họng nó. Bàn
chân hổ thì to, càng móc khúc xương càng vào sâu. Bác tiều phu uống rượu để
lấy can đảm rồi trèo lên cây kêu lớn:
- Này hổ! cổ họng ngươi đau phải không? Đừng cắn ta, ta sẽ lấy xương ra
cho!
Hổ nghe thấy liền nằm phục xuống, nhìn bác tiều cầu cứu. Bác tiều mạnh
bạo thò tay vào họng hổ, lấy ra một khúc xương bò to tướng. Thoát nạn, hổ liếm
mép, nhìn bác tiều với ánh mắt biết ơn rồi lẳng lặng bỏ đi. Bác tiều nói với theo:
- Này hổ! Nhà ta ở thôn... Hễ có miếng gì ngon thì nhớ nhau nhé!
Bẵng đi một thời gian, một đêm nọ bác tiều nghe có tiếng hổ gầm dài mà
sắc. Mở cửa ra, thấy có một con nai nằm trước nhà, bác biết là hổ trả ơn.
Hơn mười năm sau, bác tiều già rồi chết. Khi dân làng chôn cất bác thì
bỗng nhiên hổ trán trắng xuất hiện. Mọi người sợ hãi bỏ chạy. Từ xa, họ thấy hổ
dụi đầu vào quan tài và chạy mấy vòng quanh mộ, rồi bỏ vào rừng.
Từ đó về sau, năm nào cũng vậy, cứ đến ngày giỗ bác tiều là hổ lại mang
dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa ngôi nhà của bác. Tuy là loài vật nhưng những
con hổ này rất có nghĩa có tình, biết quý trọng và báo đáp công ơn ân nhân của
chúng.
ĐỀ 55: Hãy kể về một con chó có nghĩa với chủ.I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu sơ lược về con chó:
- Con chó của nhà em (hay của ai?).
- Nuôi từ bao giờ?
- Tên là gì? Mấy tuổi? Giống chó gì? Lớn hay nhỏ?
2. Thân bài:
* Kể về chuyện con chó có nghĩa:
- Tinh khôn, hiểu ý chủ, biết nghe lời.
- Quấn quýt với mọi người trong gia đình.
- Dũng cảm cứu chủ trong cơn hoạn nạn.
3. Kết bài:
* Nêu cảm nghĩ của em về con chó đó:
- Nó là con chó có nghĩa có tình.
- Cả nhà đều yêu mến và tin tưởng nó.
II. BÀI LÀM
Cách đây bốn năm, lúc em mới học lớp hai, ông ngoại cho một con chó
nhỏ khoảng vài tháng tuổi, lông màu nâu sẫm. Em đặt tên cho nó là Lắc-ki.
Lúc trưởng thành, Lắc-ki có thân hình rất đẹp: ngực nở, bụng thon, bốn
chân cao và mảnh. Chiếc đầu nhỏ, đôi tai nhọn dựng đứng, cặp mắt tinh nhanh.
Chiếc mũi đen ướt đánh hơi rất tài. Đã nhiều lần, nó tấn công và giết chết những
con chuột cống đáng ghét dám mò vào bếp ăn vụng.
Lắc-ki thông minh lắm. Dường như nó hiểu được tiếng người, hiểu được ý
định của chủ. Vì em chăm sóc Lắc-ki từ nhỏ nên nó gắn bó với em hơn cả. Trừ
những lúc đi học, còn ở nhà thì em đi đâu, Lắc-ki cũng theo sát như hình với
bóng. Nó rất thích chơi trò kéo co với em và phần thắng bao giờ cũng thuộc về
nó. Vì Lắc-ki khỏe như vậy nên em còn đặt thêm cho nó một biệt danh là Lực sĩ.
Ban ngày, Lắc-ki nằm trước thềm nhà, mõm gác lên hai chân trước, mắt
lim dim. Nó chẳng ngủ đâu mà đang trông nhà đấy! Một tiếng động nhẹ, một
bóng người thoáng qua... nó đứng phắt lên, dỏng tai nghe ngóng. Tiếng sủa của
Lắc-ki lớn và vang. Trông bộ dạng của nó lúc giận dữ, kẻ có ý xấu phải lùi xa.
Ban đêm, nó ít ngủ, cứ đi loanh quanh để giữ nhà. Có nó, mọi người rất yên tâm.
Ấy thế nhưng đối với người thân, Lắc-ki lại rất hiền. Nó thích bày tỏ tình
cảm bằng cách bắt tay, ngoáy tít cái đuôi hay nằm khoanh dưới chân chờ lệnh.
Lòng trung thành của Lắc-ki đã để lại trong em một ấn tượng không thể nào
quên.
Mùa hè năm ngoái, vào một buổi chiều, bạn Quốc và bạn Tùng rủ em ra
kênh tắm. Con kênh mới đào dẫn nước ngọt tưới mát cho cả một vùng. Từ ngày
có dòng kênh này, quê em bốn mùa phủ kín một màu xanh của lúa khoai, cây
trái...
Chiếc cầu bắc ngang kênh là nơi bọn con trai chúng em tụ tập vui chơi nô
đùa hằng ngày. Chiều hôm ấy, chơi chán trò rồng rắn, trò đánh trận giả... cả đám
ùa xuống dòng kênh té nước vào nhau và la hét vang trời. Sau đó, chúng em
thách nhau bơi thi xem ai giỏi nhất.
Vốn là dân “không sợ nước” và bơi cũng khá, em nhận lời ngay. Sau tiếng
hô bắt đầu của cu Tèo, ba “vận động viên” nhảy ùm xuống kênh, trổ tài bơi lội.
Chặng đầu tiên, em vượt lên trước Quốc và Tùng cả đoạn dài. Tính hiếu thắng
trỗi dậy, em dồn sức bơi thật nhanh để về đích trước.
Nhưng... Ôi! Sao chân trái của em tự nhiên cứng đờ và đau quá thế này!
Em đã bị “chuột rút”. Không thể duỗi chân ra bơi tiếp được nữa nên em vội kêu
to nhưng càng kêu, nước càng ộc vào miệng nhiều hơn. Em mất thăng bằng,
lạng người đi rồi trôi theo dòng nước. Phen này chắc em chết mất!
Trong cơn hoảng hốt, bỗng tay em quờ vào một vật gì đó mềm và ấm. Rồi
hình như có ai đó túm chặt lấy quần em, cố lôi đi. Em định thần nhìn lại thì hóa
ra là Lắc-ki, chú chó thân yêu. Nó đã dũng cảm lao xuống cứu em trong cơn
nguy hiểm. Vừa lúc đó, Quốc và Tùng cũng đã đến kịp thời. Cả ba dìu em vào
bờ. Lắc-ki rùng mình rũ nước rồi mừng rỡ chạy quanh em, cất tiếng sủa vang.
Được nghe chuyện chú chó liều mình cứu chủ, ai cũng khen là con chó có
nghĩa. Từ hôm ấy em và tất cả những người thân trong gia đình càng yêu quý
Lắc-ki hơn.
ĐỀ 56: Đọc bài ca dao sau đây:
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Hãy tưởng tượng và viết thành một câu chuyện ngắn.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật và tình huống:
- Tiếng van xin văng vẳng trong đêm làm cho em chú ý.
- Lần theo hướng có tiếng nói, em gặp một con cò ướt sũng nước nằm
trước lều của người coi ao cá đầu làng.
2. Thân bài:
* Phát triển câu chuyện:
- Đàn cò con đói quá, cò mẹ buộc phải đi kiếm ăn ban đêm.
- Vì không quen nhìn bóng tối, cò đậu vào một cành mềm nên bị ngã
xuống ao.
- Người coi ao cá vớt cò lên, dọa trừng trị cò vì tội ăn trộm.
- Cò thanh minh, van xin, cầu mong được chết trong sạch.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Thì ra đây là một giấc mơ. Hôm trước em vừa học bài ca dao Con cò mà
đi ăn đêm. Em suy nghĩ mãi về thân phận và lời cầu xin của cò mẹ.
II. BÀI LÀM
“Tôi van ông... Tôi xin ông... Đó là nguyện vọng cuối cùng của tôi... mong
ông chấp nhận... Trời ơi! Các con tôi chết đói mất!”.
Tiếng van xin não nuột từ đâu vọng đến khiến em chú ý. Em vùng dậy ra
mở cửa. Đến gần ao cá đầu làng, em nghe thấy trong lều trông cá có tiếng
người lao xao. Trước cửa lều, một con cò mình mẩy ướt đẫm đang nằm thoi
thóp. Em chợt hình dung ra câu chuyện về mẹ con nhà cò...
- Mẹ ơi! Chúng con đói quá!
- Ngủ đi các con! Cố ngủ cho quên đói. Sáng mai mẹ về sẽ có cá cho các
con ăn.
Cò mẹ vừa nói vừa âu yếm vuốt nhẹ lên đầu từng đứa con. Trong đầu cò
mẹ cứ xoáy lên câu hỏi: “Làm thế nào bây giờ? Biết tìm đâu ra mồi trong lúc đêm
hôm khuya khoắt như thế này?”.
Bỗng có tiếng lao xao của mấy chị vạc bay ngang qua. Cò mẹ nghĩ: “Hay
là mình thử đi kiếm ăn đêm như họ xem sao. Biết đâu may ra mình lại kiếm
được chút gì cho lũ con chăng?!”.
Nhìn các con ngủ chập chờn trong cơn đói, lòng cò mẹ như lửa đốt. Cò
mẹ thầm thì:
- Các con ngủ ngoan nhé! Mẹ đi một lát sẽ về ngay!
Lũ cò con nhao nhao:
- Mẹ cố kiếm cái gì cho chúng con ăn mẹ nhé!
Hướng về phía cánh đồng, cò mẹ bay đi. Khung cảnh ban ngày thân quen
là thế mà sao ban đêm trở nên lạ hẳn. Cò không biết là mình đã bay đến đâu.
Bỗng thấy ở dưới có vệt đen mờ, trông như một cành cây, cò mẹ nghĩ bụng: “Ta
nghỉ chân một chút đã”.
Cò mẹ vừa đặt chân lên thì rơi tùm xuống nước. Hoá ra đó chỉ là một
nhánh cây mềm bên bờ ao. Cò mẹ cố bay lên nhưng không sao nhấc nổi mình.
Càng vùng vẫy, đôi cánh càng nặng trĩu.
Nghĩ đến đàn con đang trông ngóng, cò mẹ trào nước mắt. Chợt một vệt
sáng đèn pin lia đến chỗ cò cùng với tiếng quát:
- A! Con cò này định ăn trộm cá phải không? Thật đáng đời! Cho mày
chết!
- Không! Không phải như thế! Tôi không ăn trộm cá...
Người coi ao cá vớt cò lên rồi vứt trước cửa lều.
Cò cố thanh minh nhưng không ai chú ý đến cả. Người ta giục nhau làm
thịt cò để xáo măng.
Cầm chắc cái chết, cò mẹ lo sợ hoảng hốt khi nghĩ đến đàn con. Sáng ra,
tỉnh dậy không thấy mẹ đâu, chúng sẽ ra sao? Nếu biết mẹ bị bắt, chúng sẽ nghĩ
như thế nào? Từ trước đến giờ, cò mẹ vẫn luôn dạy các con phải sống lương
thiện, phải biết tự trọng, vậy mà giờ đây, mẹ chúng lại chết vì tội ăn trộm ư?
Không! Không thể được!
Khi người đàn ông tới gần, túm hai cánh cò nhấc lên, cò tha thiết nói:
- Ông ơi! Vì các con tôi đói quá nên tôi phải đi kiếm ăn đêm. Tôi chỉ dừng
chân tạm ở đây thôi. Tôi thực tình không biết chỗ này là ao cá của ông. Tôi chưa
bao giờ làm điều xấu. Vì thế tôi mong ông cho tôi một ân huệ cuối cùng. Nếu có
xáo măng, xin ông hãy xáo bằng nước trong, chớ dùng nước đục, có như vậy
nỗi oan của tôi mới được giải, tâm hồn tôi được thanh thản và các con tôi mới
khỏi đau lòng.
Hai hàng nước mắt lã chã, cò mẹ nói xong nhắm nghiền mắt lại, chờ đợi
giây phút hãi hùng...
Chợt có tiếng mẹ em lay gọi: “Dậy thôi con! Đến giờ đi học rồi! Trời ơi, sao
nằm ngủ mà nước mắt đầm đìa thế này hả con?” Em bàng hoàng tỉnh giấc. Thì
ra tất cả chỉ là một giấc mơ. Bài ca dao Con cò mà đi ăn đêm vừa học hôm qua
đã hiện lên trong giấc mơ của em như thế đó. Em hỏi bà về ý nghĩa của bài ca
dao, bà nói: “Người dân nghèo khổ xưa kia luôn đề cao cách sống trong sạch.
Chết trong còn hơn sống đục. Họ muốn mượn lời con cò để nói lên điều ấy cháu
ạ!”.
ĐỀ 57: Kể lại câu chuyện tưởng tượng về cô Tấm đang ở nhà bà hàng nước, nhớ nhà, nhớ vua, mong được đoàn tụ.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
* Giới thiệu nhân vật và tình huống:
- Sau khi hóa thân thành trái thị vàng, cô Tấm được về ở với bà cụ hàng
nước. Tuy sống trong cảnh đầm ấm, yêu thương nhưng cô vẫn buồn vì nhớ gia
đình và mong được đoàn tụ với chồng.
2. Thân bài:
* Phát triển câu chuyện:
- Cô Tấm nhớ lại ngày còn ở nhà, tuy phải làm lụng vất vả nhưng cũng có
niềm vui trong lao động.
- Nhớ lại những kỉ niệm hạnh phúc khi chung sống với nhà vua.
- Tấm ao ước được đoàn tụ.
3. Kết bài:
* Kết thúc câu chuyện:
- Mong ước của Tấm đã thành sự thật. Trên đường đi tìm vợ, nhà vua ghé
vào hàng nước, nhận ra miếng trầu têm cánh phượng và đưa Tấm về cung.
II. BÀI LÀM
Từ ngày về ở với bà cụ hàng nước, Tấm được sống trong khung cảnh ấm
cúng của gia đình. Bà cụ yêu quý Tấm vô cùng, coi cô như con ruột. Còn Tấm
cũng coi bà như mẹ đẻ, cô chăm chỉ lo toan hết mọi việc trong nhà. Bà cụ chỉ
việc ngồi bán hàng. Sợ lộ tung tích, Tấm không dám ra ngoài nên cứ quanh
quẩn trong nhà. Có lúc Tấm cũng cảm thấy trống trải, cô đơn. Những khi ấy, kỉ
niệm lại xôn xao sống dậy...
Tấm nhớ lại ngày xưa, khi còn ở nhà với mẹ con Cám. Đúng là những
ngày vất vả tủi cực, nhưng Tấm còn được tự do, lúc chăn trâu ngoài đồng, lúc
xúc tép dưới ruộng. Khoan khoái biết bao giữa thiên nhiên tươi đẹp, gió thổi lồng
lộng, nắng sớm long lanh. Dù đi đâu ở đâu, Tấm vẫn nhớ và mong ước được trở
lại với đồng quê, dẫu chỉ trong giây lát.
Tấm bồi hồi tưởng tượng lại cảnh vật trong cung cùng với những ngày
hạnh phúc tuyệt vời bên đức vua. Tất cả đều hiện lên rõ ràng trước mắt cô...
Ngày hội năm ấy, Tấm bước lên thử hài trước bao con mắt ngưỡng mộ và
ghen tị. Khi bàn chân Tấm nằm gọn trong chiếc hài xinh đẹp, tất cả mọi người ồ
lên kinh ngạc. Nhà vua đã nhìn Tấm âu yếm biết nhường nào. Buổi đầu gặp gỡ
cũng là kỉ niệm hạnh phúc đầu tiên. Rồi những ngày đầm ấm trong cung... Tấm
ngồi têm trầu bên chiếc tràng kỉ, cạnh bàn đọc sách của nhà vua. Nhà vua chợt
dừng đọc sách, đến ngồi bên Tấm, cầm trên tay miếng trầu vừa têm, nhà vua
ngắm nghía rồi chợt hỏi:
- Sao miếng trầu nàng têm lại có cánh thế này?
- Tâu bệ hạ, têm trầu có nhiều cách. Thiếp têm trầu theo kiểu cánh
phượng, để cho miếng trầu trông xinh xắn hơn.
Nhà vua khen:
- Nàng có đôi bàn tay thật khéo léo. Ta chưa từng thấy ai têm trầu đẹp
như nàng!
Rồi những ngày yên vui ấy qua mau. Mẹ con Cám bày mưu tính kế, quyết
giết chết Tấm cho bằng được. Tấm cũng đã chống trả đến cùng.
Trong những ngày hoạn nạn, Tấm hiểu thêm về sự chung tình của nhà
vua đối với nàng. Tấm không còn nữa, nhà vua buồn lắm. Tuy có Cám thường
xuyên chăm sóc nhưng nhà vua vẫn nhớ Tấm không nguôi. Nhà vua yêu quý
con chim Vàng Anh đến mức suốt ngày rủ rỉ trò chuyện với chim, chẳng đoái
hoài gì đến Cám. Rồi chim Vàng Anh xinh đẹp bị mẹ con Cám độc ác ăn thịt, vứt
lông ra ngoài vườn. Từ đống lông chim mọc lên hai cây xoan đào tươi tốt. Vua
sai mắc võng giữa hai gốc xoan đào để nằm đọc sách và nhớ đến người vợ yêu
quý của mình.
Chim Vàng Anh, hai gốc xoan đào và chiếc khung cửi đều là hóa thân của
Tấm, cho nên Tấm đã chứng kiến tất cả. Vì thế nàng càng thương nhớ nhà vua.
Ngồi têm trầu cho bà cụ hàng nước, Tấm rưng rưng nhớ lại kĩ niệm xưa, nước
mắt rơi trên miếng trầu cánh phượng. Tấm têm những miếng trầu thật đẹp và
gửi vào đó bao niềm thương nhớ.
Ngày ngày, người qua kẻ lại, nghỉ chân bên hàng nước, uống bát nước
chè xanh, cầm miếng trầu lên, ai cũng tấm tắc khen sao mà khéo thế! Biết đâu,
chẳng có ngày, nhà vua đi qua đây... Tấm vừa làm vừa suy nghĩ miên man và hi
vọng...
Rồi một hôm, có một chàng thư sinh qua đường vào nghỉ chân. Bà lão rót
nước, đem trầu mời khách. Vừa nhìn thấy miếng trầu, người ấy đã nắm lấy tay
bà lão hỏi dồn:
- Bà ơi bà, trầu này ai têm mà khéo vậy?
- À, con gái của già têm đấy!
Nghe tiếng lao xao ngoài quán, Tấm đứng nép trong buồng, hồi hộp lắng
nghe.
- Bà ơi, bà làm ơn cho tôi gặp người têm trầu! Nhất định là Tấm rồi! Tôi đã
tìm nàng khắp nơi mà không thấy. Chỉ có nàng mới têm được những miếng trầu
cánh phượng này. Bà ơi, con gái bà đâu? Hãy cho tôi được gặp nàng!
Nghe lời khẩn cầu tha thiết của chàng thư sinh khôi ngô tuấn tú, bà lão
xiêu lòng định lên tiếng gọi. Vừa lúc đó, Tấm mở cửa bước ra. Chủ khách nhìn
nhau ngỡ ngàng trong giây phút rồi nắm tay nhau sung sướng, nghẹn ngào.
Thì ra thương nhớ Tấm khôn nguôi, nhà vua đã cải trang thành một thư
sinh, đi tìm Tấm khắp nơi. Miếng trầu cánh phượng đã thành chiếc cầu nối cho
hai người sum họp.
Còn bà lão hàng nước vẫn chưa hết ngạc nhiên vì cô gái trong quả thị
hôm nào ai ngờ lại chính là hoàng hậu?! Bà vui mừng chia sẻ niềm vui và cầu
chúc cho hai người mãi mãi hạnh phúc bên nhau.
Phần 3. DÀNH CHO HỌC SINH GIỎIĐỀ 58: Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Con Rồng, cháu Tiên.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Con Rồng, cháu Tiên là thiên thần thoại đứng đầu trong kho tàng cổ tích
Việt Nam.
- Truyện nhằm giải thích và tôn vinh nguồn gốc cao quý của dân tộc Việt.
2. Thân bài:
* Hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ:
+ Lạc Long Quân: là con trai của thần Long Nữ ở Đông Hải, thân hình
Rồng, sống được cả dưới nước và trên cạn, sức khoẻ vô địch, có nhiều phép lạ.
Thần giúp dân trừ khử các loài yêu quái, lại dạy cho dân cách trồng trọt, chăn
nuôi và cách ăn ở...
+ Âu Cơ: là Tiên nữ, dòng họ Thần Nông, sống ở vùng núi cao phương
Bắc. Nàng đẹp tuyệt trần, thích đi thăm đây đó...
* Mối duyên kì ngộ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ:
+ Hai người gặp nhau ở vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ.
+ Rồng (dưới biển), gặp Tiên (non cao), kết thành chồng vợ. Đây là biểu
tượng của sự kết hợp giữa các thành phần dân tộc chính ở miền xuôi và miền
ngược tạo nên dân tộc Việt.
* Cuộc sinh nở kì lạ của Âu Cơ:
+ Âu Cơ có mang, ít lâu sau sinh ra cái bọc một trăm trứng, nở thành một
trăm người con khôi ngô, tuấn tú...
+ Hình ảnh cái bọc trăm trứng mang ý nghĩa thiêng liêng, khẳng định tất cả
các dân tộc sống trên đất Lạc Việt đều là con từ một mẹ sinh ra (đồng bào).
* Cuộc chia tay giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ:
+ Không thể sống lâu trên cạn, Lạc Long Quân đành chia tay với Âu Cơ,
trở vể biển Đông, đem theo năm mươi người con. Chi tiết này giải thích sự phân
bố vùng định cư của các dân tộc trên đất Việt.
+ Lời dặn của Lạc Long Quân: Khi cần giúp đỡ thì cứ nhắn gọi... thể hiện
tình thương yêu, đoàn kết giữa các dân tộc miền xuôi, miền ngược... Điều này
đã thành truyền thống tốt đẹp suốt mấy ngàn năm.
* Sự hình thành của đất nước Lạc Việt trong buổi bình minh của lịch sử:
+ Người con trưởng của Lạc Long Quân và Âu Cơ được tôn làm vua, lấy
hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu (Phú Thọ ngày nay). Đặt tên
nước là Văn Lang. Cha chết truyền ngôi cho con, cứ thế qua nhiều đời...
+ Triều đình có tướng văn, tướng võ...
3. Kết bài:
- Truyện Con Rồng, cháu Tiên thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
- Khẳng định tất cả các dân tộc sống trên đất Việt đều là anh em ruột thịt
cùng một mẹ sinh ra.
- Mỗi người dân Việt dù sống ở bất cứ nơi đâu cũng luôn ghi nhớ mình là
con cháu của các vua Hùng, dòng giống Rồng Tiên.
II. BÀI LÀM
Trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam, em rất thích truyện Con
Rồng, cháu Tiên. Truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên hay Sự tích trăm trứng,
Lạc Long Quân và Âu Cơ... vốn là một thần thoại có nhiều chi tiết tưởng tượng kì
ảo như các nhân vật thần linh có nhiều phép lạ và hình tượng cái bọc trăm
trứng... đã biến nó thành một truyền thuyết hay và đẹp vào bậc nhất, nhằm giải
thích và suy tôn nguồn gốc giống nòi cao quý của dân tộc Việt.
Lạc Long Quân và Âu Cơ là sản phẩm của trí tưởng tượng hồn nhiên,
phong phú của người xưa. Hình tượng Lạc Long Quân và Âu Cơ được dệt nên
từ những chi tiết lạ thường.
Lạc Long Quân là con trai của thần Long Nữ ở Đông Hải (biển Đông); còn
Âu Cơ thuộc dòng họ Thần Nông, sống ở vùng núi cao phương Bắc. Mỗi thần có
một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp của Lạc Long Quân được nhấn mạnh là vẻ đẹp của tài
năng. Thần có thân hình Rồng, sống được cả dưới nước lẫn trên cạn, sức khoẻ
vô địch, có nhiều phép lạ, trấn áp được lũ yêu quái (Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc
Tinh) làm hại dân lành. Thần lại có lòng thương người, thường dạy dân cách
trồng trọt, chăn nuôi và cách ăn ở.
Âu Cơ là Tiên nữ xinh đẹp tuyệt trần. Nàng thích đi đây đi đó. Nghe nói
vùng đất Lạc có nhiều hoa thơm cỏ lạ, nàng bèn tìm đến thăm và tình cờ gặp
Lạc Long Quân ở đó.
Câu chuyện hấp dẫn người nghe bởi những chi tiết ngẫu nhiên lạ lùng:
Rồng ở dưới nước gặp Tiên trên non cao rồi yêu nhau, kết duyên thành vợ
chồng. Đây là biểu tượng của sự kết hợp giữa hai thành phần chính trong cộng
đồng mới hình thành của dân tộc Việt.
Đời Hùng Vương, cư dân Văn Lang chủ yếu là người Lạc Việt và Âu Việt.
Họ thường xuyên quan hệ với nhau về kinh tế, văn hoá. Cuộc hôn nhân thần
thoại giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ phản ánh mối quan hệ và sự thống nhất
giữa cư dân của hai bộ tộc này.
Truyện Con Rồng, cháu Tiên phản ánh sự hình thành của đất nước Lạc
Việt trong buổi bình minh của lịch sử qua các chi tiết: Người con trưởng theo Ầu
Cơ được tôn lên làm vua, lấy hiệu là Hùng Vương, đóng đô ở đất Phong Châu,
đặt tên nước là Văn Lang. Triều đình có tướng văn, tướng võ... Khi cha chết thì
truyền ngôi cho con trưởng, mười mấy đời truyền nối ngôi vua đều lấy danh hiệu
Hùng Vương, không hề thay đổi.
Đây là thời kì mở đầu kỉ nguyên độc lập của người Việt, hay còn gọi là thời
kì Hùng Vương dựng nước.
Nội dung truyện nhằm giải thích nguồn gốc dân tộc Việt là con Rồng, cháu
Tiên. Tổ tiên ta là hai vị thần khoẻ mạnh, tài năng, xinh đẹp, đức độ. Cuộc hôn
nhân giữa Long Quân - Âu Cơ như một mối lương duyên tiền định và kết quả
thật lạ thường: Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành một trăm ngươi con
hồng hào, đẹp đẽ... Đàn con không cần bú mớm mà tự lớn lên như thổi, mặt mũi
khôi ngô, khỏe mạnh như thần. Dấu ấn thần tiên được khắc sâu trong cuộc sinh
nở này.
Hình ảnh cái bọc một trăm trứng mang ý nghĩa tượng trưng rất thiêng
liêng. Nó khẳng định rằng tất cả các dân tộc sống trên đất Việt đều chung một
mẹ sinh ra, do đó mối quan hệ giữa các dân tộc là mối quan hệ anh em thân
thiết. Hai tiếng đồng bào (cùng một bọc) đã gợi lên đầy đủ và cảm động nghĩa
tình keo sơn, máu thịt ấy.
Sự tích Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ, đem theo năm mươi con
xuống biển, còn năm mươi người con theo mẹ lên núi, ngoài lí do kẻ ở trên cạn,
người ở dưới nước, tính tình, tập quán khác nhau, khó mà ăn ở cùng nhau một
nơi lâu dài còn nhằm giải thích sự phân bố vùng định cư của các dân tộc trên đất
Lạc Việt. Ngay từ buổi đầu dựng nước, dân tộc ta đã tiến hành những cuộc sắp
đặt giang sơn. Địa bàn đất nước rộng, các dân tộc đã biết phân chia nhau cai
quản. Kẻ ở chốn núi rừng, kẻ đồng bằng, người biển cả... lập nghiệp khắp nơi,
khắp chốn. Khi có việc quan trọng, lớn lao, họ lại tìm đến nhau, giúp đỡ lẫn
nhau.
Điều đó thể hiện truyền thống đoàn kết tốt đẹp trong suốt mấy ngàn năm
lịch sử của dân tộc ta.
Con Rồng, cháu Tiên là một truyền thuyết đặc sắc trong kho tàng truyện
cổ dân gian. Nó thể hiện lòng tự hào, tự tôn về nguồn gốc cao quý của dân tộc
ta, đồng thời khẳng định và ca ngợi mối quan hệ gắn bó thân thiết cùng truyền
thống đoàn kết tốt đẹp có từ lâu đời của các dân tộc anh em sống trên đất nước
Việt Nam. Mỗi người chúng ta dù sinh sống ở bất cứ nơi đâu cũng luôn nhớ tới
cội nguồn và tự hào là dòng giống Tiên Rồng, là con cháu của các vua Hùng.
ĐỀ 59: Phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc Sự tích bánh chưng, bánh giầy.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Trên thế giới, mỗi nước có một phong tục đón Tết khác nhau.
- Tết Nguyên Đán, người dân Việt Nam đón Tết bằng bánh chưng, bánh
giầy, hai thứ bánh cổ truyền xuất hiện từ lâu đời.
- Sự tích bánh chưng, bánh giầy giải thích nguồn gốc của hai thứ bánh
này, qua đó phản ánh thành tựu của nền văn minh lúa nước thời kì đầu lịch sử.
Truyện còn là bài học quý về cách chọn người tài đức để trị vị đất nước của các
vua Hùng ngày xưa.
2. Thân bài:
* Bối cảnh của truyện:
+ Hùng Vương thứ sáu khi đã già yếu, muốn chọn người kế vị bèn nghĩ ra
kế mở một cuộc thi tài làm cỗ cúng Trời Đất và Tiên vương, cỗ của ai được
chấm giải nhất thì người đó sẽ được vua truyền cho ngôi báu.
+ Các hoàng tử con vua (gọi là Lang), thi nhau sai người lên rừng, xuống
biển tìm kiếm của ngon vật lạ...
* Nhân vật Lang Liêu - người làm ra bánh chưng, bánh giầy:
+ Lang Liêu là con trai thứ mười tám của vua Hùng. Tuy là con vua nhưng
chàng sống cuộc sống vất vả của nông dân.
+ Lang Liêu được Thần báo mộng, dạy cho cách làm hai thứ bánh bằng
gạo nếp, thịt lợn: đậu xanh... là những sản vật chàng tự tay trồng trọt, chăn nuôi
được.
* Diễn biến cuộc thi:
+ Các Lang đều có mâm cao cỗ đầy, toàn sơn hào hải vị, nem công chả
phượng rất cầu kì, tốn kém... để dâng lên vua cha.
+ Lang Liêu chỉ có hai thứ bánh mộc mạc, giản dị.
+ Vua Hùng nếm thử rồi giới thiệu với các quan, mọi người đều khen
ngon. Lang Liêu thật tình kể lại chuyện được Thần báo mộng...
+ Vua Hùng ưng ý, chấm giải nhất cho cỗ của Lang Liêu, giải thích và đặt
tên là bánh chưng và bánh giầy. Lang Liêu được vua cha trao cho ngôi báu.
* Ý nghĩa của truyện:
+ Hai thứ bánh này chứng tỏ được trí tuệ và tình cảm của người làm ra
nó. Lang Liêu là người vừa có đức vừa có tài, biết tôn kính Trời Đất, hiếu thảo
với vua cha, biết quý trọng lao động...
+ Bánh chưng, bánh giầy từ đó đi vào phong tục ngày Tết Nguyên Đán
của dân tộc Việt.
3. Kết bài:
- Truyện phản ánh đời sống của người Việt cổ, thời ấy đã biết chăn nuôi,
trồng trọt, chế biến ra các món ăn vừa ngon vừa có ý nghĩa.
- Truyện còn là bài học thấm thía về cách chọn người hiền tài để trị vì đất
nước, đem lại cho nhân dân cuộc sống thanh bình, no ấm.
II. BÀI LÀM
Trên thế giới, mỗi dân tộc đón Tết cổ truyền theo một phong tục khác
nhau, ở nước ta, từ ngàn xưa đã có tục cúng Tết bằng bánh chưng, bánh giầy.
Truyện sự tích bánh chưng, bánh giầy vừa giải thích nguồn gốc của hai loại
bánh này vừa phản ánh thành tựu của nền văn minh nông nghiệp buổi đầu dựng
nước với thái độ đề cao lao động, đề cao nghề nông và thể hiện sự tôn kính trời,
đất, tổ tiên của nhân dân ta. Truyện còn là bài học quý về cách lựa chọn và sử
dụng người có tài, có đức để trị vì đất nước.
Bối cảnh của truyện là đời Hùng Vương thứ sáu. Khi đã về già, nhà vua
muốn truyền ngôi nhưng vì có tới hai mươi người con trai nên băn khoăn không
biết chọn ai cho xứng đáng. Lúc ấy, giặc ngoài đã dẹp yên, nhưng giặc trong vẫn
còn phải đề phòng. Nhà vua muốn đưa đất nước đến giai đoạn thịnh vượng.
Ông biết rằng dân ấm no thì ngai vàng mới vững. Hiềm một nỗi, nhà vua tuổi cao
sức yếu, lực bất tòng tâm.
Một hôm, ông gọi các con lại và nói: Tổ tiên ta từ khi dựng nước đã truyền
được sáu đời. Giặc Ân nhiều lần xâm chiếm bờ cõi, nhờ phúc ấm Tiên Vương,
ta đều đánh đuổi được, thiên hạ hưởng thái bình. Nhưng ta già rồi, không sống
mãi ở đời, người nối ngôi ta phải nối chí ta, không nhất thiết là con trưởng. Năm
nay, nhân lễ Tiên Vương, ai làm vừa ý ta, ta sẽ truyền ngôi cho, có Tiên Vương
chứng giám.
Các Lang (con trai vua Hùng thời ấy gọi là Lang), ai cũng muốn ngôi báu
về mình nhưng họ không thể hiểu nổi ý tứ sâu xa của vua cha. Họ chỉ nghĩ đơn
giản là cứ chuẩn bị mâm cao, cỗ đầy, lễ vật ngon lạ... là đủ, cho nên vội sai
người đi tìm của quý khắp trên rừng, dưới biển.
Riêng Lang Liêu - con trai thứ mười tám của vua Hùng đã được một vị
Thần giúp đỡ, bởi vì chàng vốn chịu thiệt thòi so với các anh, không được
hưởng giàu sang phú quý. Từ nhỏ, chàng đã phải chăm lo công việc đồng áng,
trồng lúa, trồng khoai. Lang Liêu tuy thân là con vua nhưng phận thì lại giống
người nông dân lao động. Chàng buồn vì trong nhà chỉ có khoai và lúa. Nhưng
khoai lúa tầm thường quá! Chàng tủi thân nghĩ thầm như vậy.
Theo quan niệm của tổ tiên chúng cha ta ngày xưa thì Thần, Phật, Tiên,
Bụt thường hay giúp đỡ người hiền lành, nghèo khó. Lang Liêu không có quyền
thế, của cải gì, lại chẳng có kẻ ăn người ở để sai khiến đi tìm của ngon vật lạ.
Chàng chỉ có tấm lòng yêu kính cha và đôi tay làm lụng chuyên cần. Chàng đã
được Thần Phật giúp đỡ.
Lang Liêu được Thần báo mộng, dạy rằng hãy lấy gạo làm bánh mà lễ
Tiên Vương, bởi trong trời đất không có gì quý bằng hạt gạo. Hạt gạo nuôi sống
con người. Hạt gạo quý giá như vậy và nó lại dễ kiếm bởi nó được làm ra do
chính bàn tay lao động của con người.
Lang Liêu hiểu và làm theo ý Thần. Lời khuyên của Thần thật sáng suốt,
chân tình. Càng nghĩ Lang Liêu càng thấy đúng. Suy nghĩ của Thần chính là suy
nghĩ, tâm tư, ước vọng của nhân dân. Thần đây chính là hiện thân của nhân
dân. Ai có thể trân trọng coi hạt gạo là hạt ngọc của trời đất và cũng là kết quả
mồ hôi, công sức của con người như nhân dân? Nhân dân rất quý trọng cái nuôi
sống mình, cái mình làm ra được. Phải là những người một nắng hai sương làm
ra hạt gạo nuôi đời mới có suy nghĩ sâu sắc và đáng quý như vậy. Lang Liêu
dâng lên vua cha phẩm vật quý nhất trong trời đất, lại do chính tay mình làm ra
thì quả thật chàng là người con hiếu thảo.
Được thần linh mách bảo, kết hợp với tấm lòng thành, óc sáng tạo và đôi
tay khéo léo, Lang Liêu đã dùng thứ gạo nếp thơm lừng, trắng tinh, cùng với đậu
xanh, thịt lợn, gói bằng lá dong, buộc bằng lạt giang thành một thứ bánh hình
vuông rồi đem nấu chín.
Vậy là chàng không phải mất công tìm kiếm đâu xa. Gạo, đậu do chàng
trồng, lợn chàng nuôi, lá dong mọc sẵn trong vườn, ngoài bãi. Ngần ấy thứ kết
hợp với nhau thành thứ bánh đặc biệt xưa nay chưa từng có. Và cũng gạo nếp
ấy, chàng đồ lên, giã nhuyễn rồi nặn thành thứ bánh hình tròn. Đó là bánh giầy.
Thật thú vị là cảnh thi cỗ trong ngày cúng Tiên Vương. Các con trai của
vua Hùng mang sơn hào hải vị, nem công chả phượng (cách gọi các sản vật quý
hiếm) tới, chẳng thiếu thứ gì. Thế nhưng vua cha chỉ xem qua một lượt rồi dừng
lại trước mâm cỗ của Lang Liêu. Điều gì đã cuốn hút nhà vua quan tâm tới hai
thứ bánh ấy? Có lẽ trước tiên là hình dáng vuông vức của bánh chưng và hình
dáng tròn trịa của bánh giầy cùng vẻ đẹp mộc mạc, ưa nhìn của chúng. Bánh
chưng xanh, bánh giầy trắng muốt, mịn màng. Hùng Vương rất vừa ý, bèn gọi
Lang Liêu lên hỏi. Chàng thật tình đem chuyện giấc mộng gặp Thần ra kể lại.
Vua cha ngẫm nghĩ rất lâu rồi chọn hai thứ bánh ấy đem tế Trời Đất và Tiên
Vương.
Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu lại được Hùng Vương lựa chọn và
chàng được nối ngôi vua?
Bởi vì hai thứ bánh đó thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt
gạo do chính con người làm ra.
Hùng Vương chắc đã cảm nhận được tính chất thiêng liêng trong câu
chuyện Thần báo mộng kia. Lời Thần dạy quả không sai: Trong trời đất, hạt gạo
là quý nhất. Hạt gạo nuôi sống con người, dân có ấm no thì ngai vàng mới vững.
Lang Liêu biết quý lao động, quý thành quả làm ra từ mồ hôi nước mắt của
mình.
Sau khi thưởng thức hai thứ bánh của Lang Liêu, nhà vua và quần thần ai
cũng tấm tắc khen ngon. Lời giải thích của nhà vua về hai thứ bánh này thật có lí
có tình: Bánh hình tròn là tượng Trời, ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là
tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn
loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc
nhau...
Hai thứ bánh này chứng tỏ được tài đức của người có thể nối chí nhà vua.
Đem cái quý nhất trong trời đất, lại do tay mình làm ra dâng lên vua cha để tiến
cúng Trời Đất cùng các bậc Tiên Vương thì Lang Liêu quả là người con tài năng,
thông minh, hiếu thảo. Vua Hùng phán rằng: Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý
ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên Vương chứng giám.
Lang Liêu là người tốt, có đủ tài trí để chăm lo cho muôn dân và nối chí
vua cha. Trao ngôi báu cho Lang Liêu là thuận ý trời, hợp ý Hùng Vương.
Sự tích bánh chưng, bánh giầy đã đi vào phong tục ngày Tết Nguyên Đán
cổ truyền của dân tộc Việt. Nhân dân ta đã xây dựng nên phong tục từ những cái
bình thường giản dị nhưng rất giàu ý nghĩa. Chiều 30, tiếng chày giã bánh giầy
vang khắp xóm thôn. Đầm ấm biết bao là cảnh cả nhà náo nức vây quanh ngọn
lửa hồng nấu bánh chưng xanh. Trên bàn thờ tổ tiên phải bày vài cặp bánh
chưng và mâm bánh giầy thì mới là Tết.
Sự tích bánh chưng, bánh giầy nằm trong mảng cổ tích giải thích nguồn
gốc sự vật xuất hiện sau thời kì vua Hùng dựng nước. Sự tích trầu cau giải thích
tục ăn trầu. Sự tích dưa hấu giải thích nguồn gốc dưa hấu... Đằng sau cách giải
thích thú vị về nguồn gốc bánh chưng bánh giầy là hiện thực cuộc sống của tổ
tiên dân tộc Việt - một dân tộc có nền văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân
ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi, chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon
lành, vừa giàu ý nghĩa.
Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để trị
vì đất nước, chăm sóc muôn dân. Vì thế, tuy ra đời cách đây đã hàng ngàn năm
mà cho đến nay, truyện vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa của nó.
ĐỀ 60: Phát biểu cảm nghỉ của em về hình tượng Gióng trong truyền thuyết Thánh Gióng.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Truyền thuyết Thánh Gióng ra đời từ thời Hùng Vương dựng nước, được
đánh giá là một trong những truyện cổ dân gian hay nhất.
- Hình tượng Thánh Gióng tượng trưng cho lòng yêu nước, ý chí và quyết
tâm chiến đấu, chiến thắng giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc.
2. Thân bài:
* Sự ra đời và những nét kì lạ của Gióng:
+ Mẹ Gióng ra đồng, ướm thử bàn chân vào vết chân lạ, sau đó thụ thai,
sinh ra Gióng.
+ Gióng lên ba mà không biết đi, không biết nói, đặt đâu nằm đấy.
+ Nghe tiếng loa rao tìm người tài giỏi cứu nước, tự nhiên Gióng bật ra
tiếng nói, xin mẹ mời sứ giả vào nhà rồi nhờ sứ giả tâu với vua cấp cho ngựa
sắt, giáp sắt, roi sắt để đi đánh giặc.
+ Sau đó Gióng lớn nhanh như thổi, cả làng góp gạo nuôi Gióng.
+ Sứ giả mang ngựa sắt, giáp sắt, roi sắt tới, Gióng vươn vai trở thành
một tráng sĩ cao lớn. Chàng cưỡi ngựa sắt xông ra trận đánh đuổi quân thù. Roi
sắt gãy, chàng nhổ tre quật tơi bời vào quân giặc.
+ Đuổi giặc đến chân núi Sóc, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi, trút bỏ giáp
sắt rồi bay lên trời.
* Ý nghĩa của truyện:
+ Hình tượng Thánh Gióng tượng trưng cho dân tộc Việt yêu nước, anh
dũng chống xâm lăng bảo vệ Tổ quốc.
+ Các yếu tố hoang đường, kì ảo trong truyện thể hiện mơ ước của người
xưa có đủ sức mạnh để đánh đuổi quân thù.
+ Gióng đánh tan giặc rồi bay lên trời, không màng công danh phú quý.
Chi tiết này phản ánh lòng yêu nước chân thành và phẩm chất trong sáng tuyệt
vời của nhân dân ta.
+ Nhân dân lập đền thờ, tôn kính gọi là Thánh Gióng để đời đời ghi nhớ
công ơn của người anh hùng cứu nước.
3. Kết bài:
- Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh phi thường của cả
dân tộc.
- Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt cần có một hình tượng
khổng lồ mang ý nghĩa khái quát cao. Thánh Gióng chính là hình tượng tuyệt vời
đáp ứng được yêu cầu đó.
II. BÀI LÀM
Truyền thuyết Thánh Gióng xuất hiện từ thời Hùng Vương dựng nước và
được nhân dân ta lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến tận ngày nay.
Đây là một truyền thuyết hay vào bậc nhất trong những truyền thuyết nói về
truyền thống giữ nước của dân tộc ta.
Hình tượng Thánh Gióng với nhiều yếu tố thần kì là biểu tượng rực rỡ của
ý thức và sức mạnh bảo vệ đất nước, đồng thời thể hiện quan niệm và ước mơ
của nhân dân ta về người anh hùng cứu nước chống ngoại xâm.
Người xưa cho rằng đã là anh hùng thì phải phi thường, phải có khả năng
như thần thánh, do trời sai xuống giúp đời. Do đó mà cậu bé làng Gióng là một
nhân vật kì lạ. Bà mẹ Gióng có thai cũng khác thường: Một hôm, bà ra đồng
trông thấy một vết chân rất to, liền đặt bàn chân mình lên ướm thử để xem thua
kém bao nhiêu. Không ngờ về nhà bà thụ thai... Bà có thai không phải chín tháng
mười ngày mà trọn mười hai tháng. Đây là sự tưởng tượng của dân gian về
nhân vật phi thường của mình.
Điều kì lạ nữa là Gióng lên ba vẫn không biết nói, biết cười, cũng chẳng
biết đi, cứ đặt đâu thì nằm đây. Những chi tiết kỳ ảo đó càng thu hút người nghe.
Gióng không nói nhưng khi nghe sứ giả rao loa thì bỗng dưng cất tiếng nói.
Tiếng nói đầu tiên của Gióng là tiếng nói tự nguyện đánh giặc. Lời nói yêu nước,
cứu nước ấy cũng không phải là lời nói bình thường ở tuổi lên ba.
Chi tiết thần kì ấy ca ngợi ý thức đánh giặc, cứu nước của nhân dân ta
được gửi gắm trong hình tượng Gióng. Ý thức trách nhiệm đối với đất nước
được đặt lên hàng đầu với người anh hùng và tạo cho người anh hùng những
khả năng hành động phi thường.
Còn nằm ngửa trên chõng tre mà Gióng đòi có ngựa sắt, roi sắt, áo giáp
sắt để đánh tan quân giặc. Ba tuổi, Gióng vẫn chưa biết đi nhưng tới lúc giặc
đến thì vươn vai hóa thành tráng sĩ, nhảy lên mình ngựa, phi thẳng ra chiến
trường. Khi cần có sức lực, tầm vóc để cứu nước thì Gióng lớn nhanh như thổi,
cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa may xong đã căng đứt chỉ.
Dân gian kể rằng: Gióng ăn một bữa bảy nong cơm, ba nong cà, uống một
hớp nước cạn đà khúc sông. Đấy là cách nói cường điệu của dân gian để tô
đậm tính chất phi thường cho nhân vật mà mình yêu mến. Mẹ Gióng nuôi không
nổi, bà con trong làng nô nức gom góp gạo thóc nuôi cậu bé, vì ai cũng mong
cậu lớn nhanh để giết giặc cứu nước. Gióng đã lớn lên bằng thức ăn, thức mặc,
bằng sự yêu thương, đùm bọc của dân làng. Gióng đâu chỉ là con của một bà
mẹ mà là con của mọi người, của nhân dân. Một người cứu nước sao đặng?
Phải toàn dân góp sức chuẩn bị cho sự nghiệp đánh giặc. Như vậy mới đủ sức
mạnh để chiến thắng quân thù. Gióng lớn lên từ trong lòng nhân dân và do nhân
dân nuôi dưỡng. Sức mạnh dũng sĩ của Gióng được nuôi bằng cơm gạo quê
hương và tình thương vô hạn của bà con.
Vì sao Gióng lại lớn nhanh như vậy? Gióng lớn lên từ khi nào và lớn lên
để làm gì? Trước khi có tiếng gọi cứu nước, Gióng chỉ nằm ngửa, không nói,
không cười. Gióng mở miệng nói lời đầu tiên là để đáp lại lời kêu gọi cứu nước.
Dường như việc cứu nước có sức mạnh làm cho Gióng vụt lớn lên. Việc cứu
nước vô cùng to lớn và cấp bách, Gióng không lớn lên nhanh thì làm sao làm
được nhiệm vụ cứu nước? Cuộc chiến đấu đòi hỏi dân tộc ta phải vươn mình
phi thường như vậy. Hình ảnh Gióng vươn vai là tượng đài bất hủ về sự trưởng
thành vượt bậc, về hùng khí của một dân tộc trước nạn ngoại xâm. Khi lịch sử
đặt vấn đề sống còn cấp bách, khi tình thế đòi hỏi dân tộc vươn lên một tầm vóc
phi thường thì cả dân tộc vụt đứng dậy như Thánh Gióng, tự thay đổi tư thế, tầm
vóc của mình. Hình tượng cậu bé làng Gióng tiêu biểu cho sức mạnh toàn dân
trong cuộc chiến tranh cứu nước.
Gióng chính là hình ảnh của nhân dân. Nhân dân lúc bình thường thì âm
thầm lặng lẽ, cũng như Gióng ba năm không nói, không cười. Nhưng khi nước
nhà gặp cơn nguy biến thì họ rất mẫn cảm, tự nguyện đứng ra cứu nước cứu
nhà. Cũng như Gióng, khi vua vừa phát lời kêu gọi, chú bé đã đáp lời cứu nước.
Giặc đến chân núi Trâu, thế nước rất nguy. Vừa lúc sứ giả đem ngựa sắt,
roi sắt, áo giáp sắt tới. Gióng vùng dậy vươn vai một cái, bỗng thành một tráng
sĩ oai phong lẫm liệt. Chi tiết này có liên quan đến truyền thống của truyện cổ
dân gian. Thời cổ, nhân dân quan niệm người anh hùng phải khổng lồ về thể
xác, sức mạnh và chiến công. Thần Trụ Trời, Sơn Tinh... đều là những nhân vật
khổng lồ. Cái vươn vai của Gióng là đạt đến độ phi thường ấy. Gióng nhảy lên
mình ngựa, ngựa phun lửa, phi thẳng ra chiến trường. Ngọn roi của Gióng quật
giặc chết như rạ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh tiếp. Gióng đánh
giặc không chỉ bằng vũ khí vua ban mà còn bằng cả cây cối thân yêu của quê
nhà.
Đánh tan giặc Ân, Gióng cưỡi ngựa lên đỉnh núi Sóc, cởi giáp sắt bỏ lại,
rồi cả người lẫn ngựa từ từ bay lên trời. Gióng ra đời đã khác thường thì ra đi
cũng khác thường.
Nhân dân trân trọng muốn giữ mãi hình ảnh người anh hùng nên đã để
Gióng đi vào cõi bất tử. Gióng không quay về triều để được vua ban cho bổng
lộc, vinh quang. Gióng biến mất vào cõi hư không. Sinh ra từ cõi lặng im, nay
Gióng trở về trong im lặng, không màng phú quý, công danh. Tuy Gióng đã trở
về trời nhưng thật ra Gióng luôn luôn ở lại với đất nước, cây cỏ, với dân tộc Việt.
Vua phong cho Gióng là Phù Đổng Thiên Vương. Gióng được nhân dân suy tôn
là Thánh và lập đền thờ ngay tại quê hương để muôn đời ghi nhớ công ơn.
Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ của người anh hùng đánh giặc cứu
nước. Trong văn học dân gian Việt Nam, đây là hình tượng người anh hùng
đánh giặc đầu tiên, tiêu biểu cho lòng yêu nước của nhân dân ta.
Gióng là người anh hùng mang trong mình sức mạnh của cả cộng
đồng.Trong buổi đầu dựng nước, sức mạnh của thần thánh, tổ tiên thể hiện ở sự
ra đời thần kì của chú bé làng Gióng. Sức mạnh của cộng đồng thể hiện ở việc
bà con dân làng góp gạo nuôi Gióng.
Dân tộc Việt Nam anh hùng muốn có hình tượng khổng lồ, tuyệt đẹp và có
ý nghĩa khái quát để phản ánh hết được lòng yêu nước, khả năng và sức mạnh
quật khởi của dân tộc ta trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm suốt bốn ngàn
năm lịch sử. Hình tượng Thánh Gióng với vẻ đẹp tuyệt vời rực sáng muôn đời
đã đáp ứng được điều đó.
ĐỀ 61: Hãy phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh. Từ đó, em có suy nghĩ gì về chủ trương xây dựng, củng cố đê điều, nghiêm cấm nạn phá rừng của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Trong kho tàng truyện cổ Việt Nam, Sơn Tinh, Thủy Tinh là truyện có sức
hấp dẫn lạ thường. Truyện mượn hình thức hoang đường, kì ảo để giải thích
hiện tượng lũ lụt xảy ra hằng năm tại đồng bằng Bắc Bộ.
- Qua truyện, người xưa suy tôn công lao dựng nước của các vua Hùng và
gửi gắm vào đó khát vọng chiến thắng thiên tai của người xưa.
2. Thân bài:
* Cuộc so tài đầu tiên giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh:
- Hùng Vương kén chồng cho công chúa Mị Nương.
- Sơn Tinh, Thủy Tinh cùng đến một lúc.
- Hùng Vương yêu cầu hai người so tài. Sơn Tinh vẫy tay về phía đông,
phía đông nổi cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây lập tức hiện ra những dãy núi
đồi. Thủy Tinh trổ hết phép lạ hô mưa gọi gió. Cả hai vị thần đều tài giỏi phi
thường.
- Hùng Vương không biết chọn ai, đành ra điều kiện ngày mai, ai mang lễ
vật đến trước sẽ được cưới Mị Nương. (Lễ vật gồm: voi chín ngà, gà chín cựa,
ngựa chín hồng mao, trăm ván cơm nếp, trăm nệp bánh chưng...).
* Trận đấu gay go, ác liệt giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh:
- Sơn Tinh mang lễ vật đến trước nên cưới được Mị Nương, rước nàng về
núi Tản Viên.
- Thủy Tinh đến sau, không lấy được vợ nên đùng đùng nổi giận, dâng
nước đánh Sơn Tinh để giành lại Mị Nương.
- Thủy Tinh gây ra mưa to gió lớn, dâng nước sông lên cuồn cuộn...
- Sơn Tinh bình tĩnh chống trả. Nước dâng cao bao nhiêu, đồi núi cao lên
bấy nhiêu. Quân Sơn Tinh đắp thành ngăn nước, nhổ cây, ném đá, tiêu diệt
quân của Thủy Tinh...
- Sau nhiều ngày, Thủy Tinh đuối sức phải rút quân về. Nhưng không
nguôi thù cũ nên hằng năm, cứ đến dịp ấy là Thủy Tinh lại dâng nước đánh Sơn
Tinh.
* Ý nghĩa của truyện:
- Phản ánh hiện thực xã hội thời cổ: nhân dân ta đã biết đắp đê ngăn
nước lũ, bảo vệ mùa màng.
- Thể hiện khát vọng chế ngự và chiến thắng thiên tai qua hình tượng Sơn
Tinh - chúa tể của núi Tản Viên - tượng trưng cho sức mạnh đoàn kết của con
người trong cuộc sống lao động dựng xây đất nước.
3. Kết bài:
- Sơn Tinh – Thủy Tinh là một thần thoại hay vào bậc nhất nên sống mãi
trong lòng người dân đất Việt.
- Ngày nay, con cháu của Sơn Tinh đã biến ước mơ của tổ tiên xưa thành
hiện thực với những công trình thủy lợi, thủy điện lớn, đem lại cuộc sống no ấm
cho muôn người.
II. BÀI LÀM
Trong những truyện thần thoại đã đọc, em rất thích truyện Sơn Tinh, Thủy
Tinh bởi sự cuốn hút, hấp dẫn lạ thường của nó. Truyện mượn thần thánh để
giải thích hiện tượng lũ lụt hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ và gửi gắm vào đó
ước mơ chiến thắng thiên nhiên, bảo vệ cuộc sống của người xưa, đồng thời
suy tôn, ca ngợi công lao dựng nước của các vua Hùng.
Cách đây mấy ngàn năm, khi tổ tiên người Việt từ vùng rừng núi chuyển
xuống sinh sống ở đồng bằng Bắc Bộ thì năm nào cũng gặp phải một trong
những thiên tai đáng sợ là nạn lụt. Nạn lụt do nước lũ từ các con sông, chủ yếu
là sông Hồng, sông Đà gây ra. Để bảo vệ thành quả lao động của mình, nhân
dân ta đã dũng cảm, mưu trí, bền bỉ tìm cách chống lụt. Việc đắp đê ngăn nước
chính là biểu hiện của tinh thần đó.
Từ chuyện chống lũ lụt để bảo vệ mùa màng và đời sống, người xưa đã
tưởng tượng thành một câu chuyện với nhiều tình tiết li kì: Hai vị thần cùng
muốn cưới một công chúa xinh đẹp làm vợ; rồi người được vợ, kẻ không được
vợ, dẫn đến cuộc giao tranh dữ dội. Cuối cùng, bên thắng, bên thua. Kẻ thua
cuộc ôm lòng thù hận khôn nguôi, hằng năm vẫn gây sự đánh trả.
Thực tế là hằng năm ở đồng bằng Bắc Bộ, cứ đến mùa mưa bão là nước
dâng to, nhưng chưa bao giờ làm ngập nổi núi đồi. Cuối mùa lũ, nước rút đi,
sông suối trở lại hiền hoà. Người xưa cho rằng đó là Thần Nước đánh nhau với
Thần Núi để giành lại Mị Nương... Quả là trí tưởng tượng của họ vô cùng phong
phú và bay bổng.
Truyện có hai nhân vật: Sơn Tinh - chúa tể của vùng non cao và Thủy
Tinh - chúa tể của vùng nước thẳm, cả hai đều có tài năng phi thường. Sơn Tinh
vẫy tay về phía đông, phía đông nổi lên cồn bãi, vẫy tay về phía tây, phía tây lập
tức hiện ra những dãy núi đồi. Thủy Tinh gọi gió, gió tới; hô mưa, mưa về. Cả
hai vị thần đều tài giỏi. Điều ấy khiến nhà vua băn khoăn không biết chọn ai,
đành ra điều kiện: Ngày mai, nếu ai mang lễ vật đến sớm thì được cưới Mị
Nương.
Ngay trong chuyện thách cưới, có lẽ ý nhà vua đã nghiêng về phía Sơn
Tinh. Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao. Rồi trăm ván cơm nếp,
trăm nệp bánh chưng... Tất cả đều là sản vật của đồng ruộng, núi rừng. Vì vậy,
kẻ thắng cuộc tất nhiên phải là Sơn Tinh. Sơn Tinh mang lễ vật đến trước, cưới
được Mị Nương và đưa nàng về núi Tản Viên. Sơn Tinh thật xứng đôi với nàng
công chúa xinh đẹp.
Không cưới được Mị Nương, Thủy Tinh đùng đùng nổi giận. Chàng phô
bày hết sức mạnh tàn bạo của mình trong cuộc giao tranh với Sơn Tinh. Gió bão
rung chuyển cả đất trời. Mưa làm nước sông hồ dâng lên cuồn cuộn, ngập tràn
đồng ruộng, mùa màng, cuốn phăng cây cối, nhà cửa, súc vật. Nước dâng lên
sườn đồi, sườn núi làm trốc cây, lở đá... Thủy Tinh muốn nhấn chìm đỉnh núi để
tiêu diệt Sơn Tinh, cướp lại Mị Nương.
Nhưng Sơn Tinh cũng trổ hết tài bốc đồi, dời núi, dựng thành ngăn nước.
Nước dâng cao bao nhiêu, núi đồi cao lên bấy nhiêu. Suốt mấy tháng trời, cuộc
tấn công của Thủy Tinh thật là dữ dội: giông bão, sấm chớp, mưa như trút nưởc,
đồng ruộng hóa thành sông, sông thành biển cả. Ấy vậy nhưng Sơn Tinh không
hề nao núng, vẫn bình tĩnh, sáng suốt chống trả một cách quyết liệt và thắng lợi.
Cuối cùng kiệt sức, Thủy Tinh phải rút lui.
Cả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Nhưng Thủy Tinh dù phép thuật cao
cường vẫn phải khuất phục trước Sơn Tinh dũng mãnh và mưu trí. Những chi
tiết nghệ thuật kì ảo, hoang đường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và khí thế hào hùng
của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng phong phú của
người xưa.
Cuộc giao tranh không chỉ xảy ra một lần mà nhiều lần, năm nào cũng vậy.
Nhưng kết cục thì không thay đổi: thần Núi chiến thắng thần Nước. Mị Nương
vẫn sống hạnh phúc bên Sơn Tinh trên đỉnh Tản Viên cao vòi vọi. Thủy Tinh
không sao giành lại được nàng.
Sơn Tinh, Thủy Tinh là những nhân vật hoàn toàn tưởng tượng nhưng lại
có ý nghĩa rất thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ lụt, đồng thời phản ánh
những kì công trong sự nghiệp dựng nước của nhân dân ta dưới triều đại các
vua Hùng.
Tất cả những chi tiết kì ảo trên đều nhằm để giải thích hiện tượng lũ lụt và
việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ. Có một chi tiết
quan trọng là Sơn Tinh dựng thành ngăn nước. Đó là công việc đắp thành bằng
đất của con người - khởi đầu cho những con đê lớn sau này chạy suốt hai bờ
những con sông lớn để ngăn lũ. Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là
gửi gắm vào đó ước mơ có được sức mạnh thần kì để chế ngự được nạn lũ lụt -
một tai họa lớn của con người.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh có giá trị nội dung và nghệ thuật rất đặc sắc.
Thủy Tinh là hiện tượng mưa gió, bão lụt ghê gớm hằng năm đã được
hình tượng hóa thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh.
Sơn Tinh là hiện thân của người dân Việt cổ cần cù đắp đê phòng chống
lũ lụt, là ước mơ chiến thắng thiên tai của người xưa. Tầm vóc vũ trụ, tài năng và
khí phách của Sơn Tinh là biểu tượng sinh động cho chiến công của người Việt
cổ trong cuộc đấu tranh chống bão lụt ở vùng lưu vực sông Đà và sông Hồng.
Đây cũng là kì tích dựng nước của thời đại các vua Hùng và kì tích ấy cho đến
nay vẫn được tiếp tục phát huy mạnh mẽ.
Ước mơ xưa giờ đây đã thành hiện thực. Những công trình thủy lợi lớn
như hệ thống đê điều, mương máng, những hồ nước, đập nước điều hoà dòng
chảy của sông Đà, sông Hồng đã thực sự chế ngự được sức tàn phá ghê gớm
của nước lũ. Hạt lúa, củ khoai do bà con nông dân đổ mồ hôi làm ra đã được
bảo vệ. Ngày nay, con cháu của Sơn Tinh đã và đang thực hiện ước mơ của tổ
tiên ngày trước.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nạn phá rừng, cháy rừng diễn ra rất
nghiêm trọng trên khắp ba miền Bắc, Trung, Nam. Điều đó ảnh hưởng rất lớn tới
sinh thái, môi trường của đất nước ta. Hiện tượng thiên tai lũ lụt xảy ra gây hậu
quả rất nghiêm trọng, phần lớn nguyên nhân là do cháy rừng, phá rừng.
Mất rừng, Sơn Tinh sẽ mất hết sức lực và phép lạ, làm sao chống chọi
được với Thủy Tinh?
Nhà nước ta hiện nay đang có chủ trương vận động nhân dân tích cực
xây dựng, củng cố đê điều; nghiêm cấm nạn phá rừng, đi đôi với việc trồng thêm
hàng triệu héc-ta rừng phủ xanh đất trống, đồi trọc. Đây là chủ trương đúng đắn
và hợp lí, được mọi người đồng tình.
Chẳng lẽ Sơn Tinh lại thua Thủy Tinh? Chuyện xảy ra từ ngàn xưa nhưng
vẫn là bài học thiết thực trong cuộc sống hôm nay, cháu con cần ghi nhớ.
ĐỀ 62: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sự tích Hồ Gươm.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Hồ Gươm là một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Thủ đô Hà Nội.
- Tên hồ gắn liền với truyền thuyết Rùa Vàng đòi lại gươm thần mà Long
Quân đã cho Lê Lợi mượn để đánh tan quân xâm lược nhà Minh, đem lại thái
bình cho đất nước.
2. Thân bài:
* Long vương cho Lê Lợi mượn gươm thần để giữ nước:
- Giặc Minh xâm lược gây nhiều tội ác với dân ta.
- Lê Lợi lãnh đạo nghĩa quân đánh giặc. Bước đầu, thế lực nghĩa quân
còn yếu nên thường thua trận. Long Quân quyết định cho Lê Lợi mượn gươm
thần để giết giặc. (Lê Thận kéo lưới nhặt được lưỡi gươm. Lê Lợi bắt được
chuôi gươm trong rừng sâu, lắp vào vừa khít).
- Có gươm thần trong tay, Lê Lợi cùng nghĩa quân tung hoành ngang dọc,
đánh tràn ra mãi cho đến lúc sạch bóng quân thù.
- Chi tiết Long Quân cho mượn gươm thần có ý nghĩa tổ tiên phù trợ cho
con cháu đủ khả năng để giữ nước và khẳng định sức mạnh chính nghĩa của
cuộc chiến đấu chống xâm lăng do Lê Lợi lãnh đạo.
* Long vương sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần:
- Giặc tan, Lê Lợi lên ngôi vua. Một hôm, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo trên
hồ Tả Vọng trước kinh thành, bất chợt thấy thanh gươm đeo bên mình động đậy.
- Rùa Vàng nổi lên trước mũi thuyền, đòi lại gươm thần cho Long Quân.
- Lê Lợi trả gươm, Rùa Vàng đón lấy gươm thần rồi lặn xuống hồ sâu.
- Từ đó hồ Tả Vọng đổi tên thành hồ Hoàn Kiếm (Hồ Gươm).
- Hình ảnh Lê Lợi trả gươm nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc Việt.
3. Kết bài:
- Sự tích Hồ Gươm gắn liền với lịch sử chống xâm lăng.
- Cái tên hồ Hoàn Kiếm gắn liền với huyền thoại đẹp đẽ về Lê Lợi - vị anh
hùng dân tộc đã có công đánh đuổi giặc Minh, gìn giữ non sông gấm vóc của tổ
tiên để lại. Đồng thời thể hiện tư tưởng yêu chuộng hoà bình của dân tộc Việt.
II. BÀI LÀM
Ai đã một lần đặt chân đến Hà Nội đều không thể không đến thăm Hồ
Gươm. Hồ Gươm như một lẵng hoa xinh đẹp nằm giữa lòng thành phố. Sự tích
cái tên Hồ Gươm hay còn gọi là hồ Hoàn Kiếm đã gắn liền với gần ngàn năm
lịch sử của đất Thăng Long.
Sự tích Hồ Gươm là một thiên truyện vô cùng đẹp đẽ trong kho tàng
truyện cổ dân gian Việt Nam. Trong việc được gươm và trả gươm của Lê Lợi,
yếu tố hiện thực và kì ảo hòa quyện với nhau tạo nên sức hấp dẫn kì lạ. Bằng
những hình tượng cực kì đẹp đẽ như Rùa Vàng, gươm thần, truyện ca ngợi tính
chất chính nghĩa, tính chất nhân dân và chiến thắng vẻ vang của cuộc khởi
nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống giặc Minh xâm lược. Truyện cũng
nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ và ca ngợi truyền thống đánh giặc giữ
nước oai hùng, bất khuất của dân tộc ta.
Bố cục của truyện gồm hai phần: Long Quân cho nghĩa quân mượn gươm
thần đánh giặc và sau khi đất nước sạch bóng quân thù, Long Vương đòi lại
gươm.
Bối cảnh của truyện là thế kỉ XV, giặc Minh sang xâm chiếm nước ta.
Chúng coi dân ta như cỏ rác và làm nhiều điều bạo ngược khiến thiên hạ căm
giận đến tận xương tủy. Tội ác của chúng quả là trời không dung, đất không tha.
Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn tỉnh Thanh Hoá, nghĩa quân dựng cờ khởi nghĩa
nhưng vì thế lực còn non yếu nên thua trận liên tiếp. Thấy vậy, Long Quân quyết
định cho họ mượn thanh gươm thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã
được tổ tiên, thần linh giúp đỡ và nhân dân nhiệt tình hưởng ứng.
Lê Lợi và Lê Thận nhận được gươm thần không phải từ một thế giới xa lạ
nào mà ở ngay chính trên quê hương họ. Lê Thận đi kéo lưới ở bến sông, ba lần
kéo lên đều chỉ được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi
gươm. Con số 3 theo quan niệm dân gian tượng trưng cho số nhiều, có ý nghĩa
khẳng định và ý nghĩa tạo tình huống, tăng sức hấp dẫn cho truyện. Lê Thận
đem lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này
trở thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một hôm đến nhà Lê Thận, chủ
tướng Lê Lợi nhìn thấy lưỡi gươm rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý
trời) bèn cầm lên xem nhưng chưa biết đó là gươm thần.
Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng.
Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây có ánh sáng khác lạ. Ông trèo lên xem thử,
nhận ra đó là một chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê
Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được dưới nước
tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in.
Không phải tình cờ người xưa để cho Lê Thận bắt được lưỡi gươm từ
dưới đáy sông và Lê Lợi bắt được chuôi gươm từ trong rừng thẳm. Hai chi tiết
đó có dụng ý nhấn mạnh gươm thiêng là do linh khí của sông núi hun đúc mà
thành. Lưỡi gươm dưới nước tượng trưng cho hình ảnh miền xuôi, chuôi gươm
trên rừng tượng trưng cho hình ảnh miền núi. Hai hình ảnh ấy kết hợp lại, ý nói ở
khắp nơi trên đất Việt, các dân tộc đều có khả năng đánh giặc, cứu nước. Từ
đồng bằng sông nước tới vùng núi non hiểm trở, mọi người đều một lòng yêu
nước và sẵn sàng đứng lên cứu nước, giết giặc ngoại xâm.
Tuy lưỡi gươm ở nơi này, chuôi gươm ở nơi khác nhưng khi đem lắp vào
nhau thì vừa như in. Điều đó thể hiện nghĩa quân trên dưới một lòng và các dân
tộc đồng tâm nhất trí cao độ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đánh đuổi ngoại
xâm.
Gươm thiêng phải được trao vào tay người hiền tài, có lòng yêu nước
nhiệt thành, có ý chí cứu nước. Cho nên mới có chi tiết thú vị: ba lần Thận kéo
lưới lên đều chỉ được một thanh sắt (lưỡi gươm); trong đám người chạy giặc vào
rừng sâu, chỉ một mình Lê Lợi nhìn thấy ánh sáng lạ phát ra từ ngọn cây cao,
nơi có treo chuôi gươm báu. Và một hôm, khi chủ tướng Lê Lợi cùng mấy người
tùy tòng đến nhà Thận. Trong túp lều tối om, thanh sắt hôm đó tự nhiên sáng rực
lên ở xó nhà. Ánh sáng của thanh gươm và hai chữ Thuận Thiên khắc trên
gươm như một lời khuyến khích, động viên của thần linh, của tổ tiên đối với Lê
Lợi. Thuận Thiên là hợp ý trời. Hãy hành động cứu nước vì hành động đó hợp
với lẽ trời. Mà đã hợp lẽ trời thì tất yếu sẽ hợp với lòng người và tin chắc sẽ
thành công.
Đằng sau hình ảnh có vẻ hoang đường ấy chính là ý chí của muôn dân. Ý
dân là ý trời. Trời trao mệnh lớn cho Lê Lợi cũng có nghĩa là nhân dân tin tưởng,
trao ngọn cờ khởi nghĩa vào tay người anh hùng áo vải đất Lam Sơn. Gươm
chọn người và người đã nhận thanh gươm, tức là nhận trách nhiệm trước đất
nước, dân tộc. Lời nói của Lê Thận khi dâng gươm báu cho Lê Lợi đã phản ánh
rất rõ điều đó: Đây là trời có ý phó thác cho mình công làm việc lớn. Chúng tôi
nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần
này để báo đền tổ quốc.
Như vậy là gươm báu đã trao đúng vào tay người hiền tài, cho nên đã
phát huy hết sức mạnh lợi hại của nó. Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khí của
nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng, đánh đâu thắng đấy, bao phen làm cho
quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn kết của con người kết hợp với sức
mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến thắng vẻ vang.
Chuyện Long Quân cho mượn gươm được tác giả dân gian miêu tả rất
khéo. Nếu để Lê Lợi trực tiếp nhận chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc thì
sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân, trên dưới một lòng của nhân dân ta
trong cuộc kháng chiến. Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh gươm thống
nhất, hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của toàn dân trên mọi miền đất nước.
Lúc ở nhà Lê Thận, lưỡi gươm tỏa sáng trong góc nhà tối giống như cuộc
khởi nghĩa chống quân Minh của nghĩa quân Lam Sơn đã được nhen nhóm từ
trong nhân dân. Ánh sáng thanh gươm thúc giục mọi người lên đường. Ánh
sáng phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng của chính nghĩa,
của khát vọng tự do, độc lập muôn đời.
Thanh gươm tỏa sáng có sức tập hợp mọi người. Gươm thần tung hoành
ngang dọc, mở đường cho nghĩa quân đánh tràn ra mãi, cho đến lúc không còn
bóng dáng một tên giặc Minh nào trên đất nước ta.
Đánh tan quân xâm lược, non sông trở lại thanh bình. Lê Lợi lên ngôi vua,
đóng đô ở Thăng Long. Một ngày nọ, vua Lê cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả
Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân sai Rùa Vàng đòi lại gươm
thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho Rùa Vàng. Long Quân cho Lê
Lợi mượn gươm thần để đánh giặc, nay đất nước đã yên bình thì đòi gươm lại.
Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước. Gươm và Rùa
đã chìm đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh. Đấy là
ánh sáng của hào quang chiến thắng vẻ vang, ánh sáng của quyết tâm giết giặc
bảo vệ Tổ quốc. Những hình ảnh thần kì trên đã để lại ấn tượng đẹp đẽ trong
lòng bao người. Chi tiết này có ý nghĩa lớn lao: Khi vận nước ngàn cân treo sợi
tóc, thần linh, tổ tiên trao gươm báu cho con cháu giữ gìn giang sơn, bờ cõi. Nay
đất nước độc lập, bắt đầu giai đoạn xây dựng trong hòa bình thì gươm báu -
hùng khí của tổ tiên lại trở về cõi thiêng liêng.
Hình ảnh Lê Lợi trả gươm đã nói lên khát vọng hòa bình của dân tộc ta.
Dân tộc Việt Nam yêu hòa bình, không thích chiến tranh nhưng kẻ nào xâm
phạm đến chủ quyền độc lập, tự do của đất nước này đều sẽ được một bài học
nhớ đời. Việc cho mượn gươm và đòi lại gươm của Long Quân như một lời răn
dạy chí tình của ông cha ta đối với vị vua mới Lê Lợi: trừng trị kẻ thù thì phải
dùng bạo lực, còn cai trị nhân dân thì nên dùng ân đức.
Lê Lợi nhận gươm trên đất Thanh Hóa nhưng lại trả gươm tại hồ Tả Vọng
ở Thăng Long. Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết
này bị giới hạn bởi vì lúc này, Lê Lợi đã là vua và kinh thành Thăng Long là thủ
đô, tượng trưng cho cả nước. Việc trả gươm diễn ra ở đây mới thể hiện hết
được tư tưởng yêu hòa bình và tinh thần cảnh giác của toàn dân tộc.
Sau việc Lê Lợi trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là Hồ
Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm). Tên hồ Hoàn Kiếm (trả gươm) có ý nghĩa là gươm
thần vẫn còn đó và nhắc nhở tinh thần cảnh giác đối với mọi người, răn đe
những kẻ có tham vọng dòm ngó đất nước ta. Tên hồ đánh dấu và khẳng định
chiến thắng hoàn toàn của khởi nghĩa Lam Sơn đối với giặc Minh, phản ánh tư
tưởng yêu hòa bình đã thành truyền thống của dân tộc ta.
Cái tên Hồ Gươm gắn liền với huyền thoại lịch sử ấy sẽ mãi mãi tồn tại với
thời gian, với sự ngưỡng mộ của bao thế hệ Việt Nam yêu nước.
ĐỀ 63: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Sọ dừa
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Sọ Dừa là truyện cổ được truyền tụng rộng rãi trong dân gian từ lâu đời.
- Truyện thể hiện ước mơ, khát vọng đổi đời, mong muốn những điều tốt
lành sẽ đến với người nghèo khổ, bất hạnh.
- Truyện cũng là bài học sâu sắc về cách nhìn nhận và đánh giá con
người.
2. Thân bài:
* Sự ra đời kì lạ và thân hình dị dạng của Sọ Dừa:
- Chi tiết hoang đường, kì ảo làm nền cho sự xuất hiện của nhân vật: Bà
mẹ đi rừng kiếm củi, khát nước bèn uống nước mưa đọng trong chiếc sọ dừa.
Sau đó bà có thai và sinh ra đứa bé chỉ có đầu mà không có mình mẩy, chân tay,
bèn đặt tên là Sọ Dừa.
- Sọ Dừa xin mẹ nói với phú ông cho mình được chăn đàn bò đông đúc.
Chẳng bao lâu, đàn bò sinh sôi nảy nở, con nào cũng no căng, béo mượt.
- Lúc đàn bò mải mê gặm cỏ, Sọ Dừa trút lốt, hoá thành chàng trai khôi
ngô tuấn tú, ngồi trên võng đào thổi sáo.
* Sọ Dừa và cuộc hôn nhân đẹp đẽ với cô con gái út của phú ông:
- Trong ba cô con gái của phú ông, chỉ có cô út là yêu mến Sọ Dừa vì
chàng chăm chỉ. Cô đối xử với Sọ Dừa ân cần, tử tế.
- Bất ngờ được chứng kiến sự đội lốt của Sọ Dừa, cô út đem lòng yêu
mến và nhận lời làm vợ chàng.
- Sọ Dừa đáp ứng đầy đủ thách cưới của phú ông. Chàng và nàng út sống
hạnh phúc bên nhau.
- Sọ Dừa đi thi, đỗ Trạng nguyên, được vua cử đi sứ ở nước ngoài. Chàng
dặn dò vợ rất cẩn thận lúc chia tay.
- Nàng út bị hai cô chị xấu xa, độc ác hãm hại, phải sống trên đảo hoang.
Nhờ tiếng gáy của gà trống mà vợ chồng được đoàn tụ. Sọ Dừa đón vợ về nhà.
Hai cô chị xấu hổ bỏ trốn vào rừng sâu.
3. Kết bài:
- Truyện Sọ Dừa là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, thể hiện
sức sống và tinh thần lạc quan mãnh liệt của người lao động.
- Phản ánh niềm tin to lớn của nhân dân vào thắng lợi tất yếu của lòng tốt
và sự công bằng xã hội.
II. BÀI LÀM
Sọ Dừa là truyện cổ về người mang lốt vật, được truyền tụng lâu đời trong
dân gian. Truyện thể hiện ước mơ đổi đời, mong muốn những điều tốt đẹp, hạnh
phúc sẽ đến với người hiền lành, lương thiện và khát vọng công lí của người
xưa. Truyện còn đặt ra bài học về cách đánh giá con người: Đừng nhìn hình
thức bên ngoài mà vội nhận xét bản chất bên trong. Bài học ấy được gửi gắm
qua hình ảnh chàng Sọ Dừa dị dạng mà tài đức vẹn toàn.
Sự ra đời của Sọ Dừa có nhiều nét khác thường. Bà mẹ đi rừng khát
nước, uống nước trong một cái sọ dừa rồi có thai sinh ra đứa con chỉ có cái đầu
tròn lông lốc, thân mình, chân tay chẳng có. Bà mẹ chỉ vì thương con nên giữ lại
nuôi và đặt tên là Sọ Dừa.
Các tình tiết li kì về sự ra đời và hình dạng khác thường của Sọ Dừa thể
hiện sự quan tâm của nhân dân đến một loại người đau khổ nhất, số phận thấp
hèn nhất trong xã hội. Đau khổ, thấp hèn từ dáng vẻ bề ngoài, lại bị coi là “vô
tích sự”. Hình ảnh cái đầu tròn lông lốc gợi sự thương cảm sâu xa của mọi
người đối với nhân vật này.
Tưởng chừng Sọ Dừa là kẻ vô tích sự, nào ngờ chàng lại làm việc giỏi.
Chàng thưa với mẹ hãy xin phú ông cho chàng chăn đàn bờ đông đúc của ông
ta. Thật khó mà tin rằng chàng làm được công việc vất vả ấy. Thế mà chỉ sau
một thời gian, bò con nào con nấy bụng no căng, béo mượt khiến phú ông rất
hài lòng.
Chăn bò cực nhọc vô cùng nhưng Sọ Dừa đã biết tạo cho mình một niềm
vui... Những lúc đàn bò mải mê gặm cỏ, Sọ Dừa trút bỏ lốt quái dị, biến thành
một chàng trai tuấn tú, đu đưa trên chiếc võng đào mắc giữa hai thân cây, ung
dung thổi sáo. Thật là thong dong, thư thái. Lao động nặng nhọc đã trở thành
tươi vui, nhẹ nhàng. Sọ Dừa không những lao động giỏi mà còn tài hoa biết mấy!
Bất ngờ và kì lạ hơn cả là Sọ Dừa nhờ mẹ đi hỏi con gái phú ông về làm
vợ. Nghèo hèn, dị dạng, lại làm đầy tớ cho nhà người ta, thế mà chàng lại dám
làm điều thiên hạ cho là đũa mốc mà chòi mâm son. Bà mẹ ngạc nhiên, thậm chí
sợ hãi nhưng rồi cũng phải chiều con. Phú ông bật cười mai mỉa và thách cưới
một cách nghiệt ngã, tưởng chừng giàu có cỡ nào cũng không lo nổi. Hắn định
bụng trừng trị mẹ con gã đầy tớ kia một cách đích đáng. Vậy mà chỉ hôm sau,
Sọ Dừa có đủ sính lễ theo yêu cầu của phú ông: mười mâm lụa đào, mười con
lợn béo, mười vò rượu tăm, một Chĩnh vàng cốm. Sọ Dừa không phải là người
phàm trần, chàng đã hoá phép ra tất cả.
Những đòi hỏi về sính lễ của phú ông có ý nghĩa như là một thử thách ban
đầu mà Sọ Dừa phải vượt qua. Phú ông hoa mắt vì tham, nhưng rõ ràng vẫn
ngần ngại, do đó mới có chi tiết: Lão lúng túng nói với bà cụ: - Để ta hỏi con gái
ta, xem có đứa nào ưng lấy thằng Sọ Dừa không đã.
Điều lão không ngờ đã xảy ra là trong khi hai cô chị bĩu môi chê bai, thì cô
út đồng ý lấy Sọ Dừa. Thế là phú ông đành phải nhận lễ và gả cô út cho Sọ Dừa.
Khác với hai cô chị, cô út nhận biết được thực chất vẻ đẹp bên trong của
Sọ Dừa nên đã thuận lòng lấy chàng. Trong truyện này, bên cạnh nhân vật chính
là Sọ Dừa, cô Út cũng là nhân vật đáng chú ý.
Hai cô chị vốn tính ác nghiệt, đỏng đảnh nên thường hắt hủi Sọ Dừa. Cái
định kiến sâu sắc về sự thấp kém, về sự dị hình và vô dụng đã khiến hai cô chị
không thể nhìn thấy được bản chất tốt đẹp của Sọ Dừa.
Cô Út hiền lành, tính hay thương người. Ngay cả khi chưa biết gì về
những điều kì lạ của Sọ Dừa, cô vẫn đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. Phép lạ của Sọ
Dừa có được là nhờ sự kết hợp của hai yếu tố: thứ nhất là dưới bề ngoài xấu xí,
thực chất Sọ Dừa là chàng trai khôi ngô, tài giỏi và thứ hai là lòng thương người
của cô Út.
Chính lòng thương người ấy giúp cô có dịp thấy được bên trong cái hình
hài sọ dừa lăn lóc là một chàng trai khôi ngô, tài giỏi. Cô út trở thành bà Trạng là
phần thưởng xứng đáng mà truyện cổ thường dành cho những người nhân hậu.
Như vậy, ở truyện này, giá trị cao quý của con người không chỉ thể hiện ở
nhân vật Sọ Dừa mà còn thể hiện ở nhân vật cô út. Nhờ cô út, giá trị của Sọ
Dừa mới có thể bộc lộ và phát triển.
Cưới được con gái út phú ông, Sọ Dừa đã xóa được cái hố sâu ngăn cách
giữa giàu và nghèo, giữa tầng lớp trên và tầng lớp dưới trong hôn nhân thời
phong kiến. Bằng tài năng, đạo đức của mình, chàng buộc phú ông phải chịu
thua. Đến lúc này, chẳng cần phải tiếp tục giấu mình trong cái lốt xấu xí nữa, Sọ
Dừa hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô, đẹp đẽ và càng tỏ ra có tài, có
đức. Chàng học giỏi, thông minh khác thường và thi đỗ Trạng nguyên rồi được
nhà vua cử đi sứ ở nước ngoài. Chàng đã đạt tới tột đỉnh danh vọng cao sang.
Sọ Dừa đã đem đến cho người đọc những bất ngờ hết sức thú vị.
Nhưng hạnh phúc của chàng bị đe dọa bởi lòng đố kị và sự ghen ghét của
những kẻ lòng dạ xấu xa. Hai cô chị vốn khinh rẻ Sọ Dừa, nay thấy chàng thành
đạt lại rắp tâm hãm hại em gái để được làm vợ quan trạng. Mưu mô của chúng
thật hiểm độc nhưng nhờ trí tuệ sáng suốt, Sọ Dừa đã dự đoán và lo xa được tất
cả. Trước khi lên đường, chàng chuẩn bị chu đáo cho vợ: con dao, hai quả
trứng, hòn đá lửa... để phòng thân.
Quả nhiên, khi nàng út bị hãm hại, các thứ đó đều có ích cho nàng. Dao
đâm chết cá kình, đá đánh ra lửa nướng cá làm thức ăn. Đặc biệt là hai quả
trứng nở ra hai con gà sớm hôm bầu bạn với nàng và tiếng gáy của chú gà trống
đã báo cho quan trạng biết mà ghé vào đảo hoang cứu vợ.
Không chỉ có tài và trí, Sọ Dừa còn là người nhân đức và độ lượng. Trở về
quê hương, chàng mở tiệc mừng sum họp. Mặc dù biết rõ lòng dạ độc ác của
hai người chị nhưng chàng không một lời trách cứ, chỉ lặng lẽ đưa vợ ra chào.
Hai người chị xấu hổ, nhục nhã, âm thầm trốn đi. Vậy là quan trạng Sọ Dừa có
đủ cả tài, đức, trí. Chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Người xưa đã thành công khi miêu tả hình dạng bên ngoài và phẩm chất
bên trong của nhân vật Sọ Dừa có sự đối lập đến mức kỳ lạ. Dưới cái lốt kì quái,
Sọ Dừa có đủ vẻ đẹp cả về hình dáng lẫn tài năng, phẩm chất tuyệt vời. Sự đối
lập ấy khẳng định cái đáng quý là phẩm chất bên trong và đề cao giá trị của con
người chân chính.
Trong xã hội phong kiến trọng người giàu sang, khinh kẻ nghèo hèn,
người lao động khó lòng vượt qua số phận tăm tối của mình. Cho nên sự biến
đổi kì diệu của Sọ Dừa chính là sản phẩm của trí tưởng tượng phong phú, thể
hiện sức sống và tinh thần lạc quan mãnh liệt của nhân dân lao động. Còn sống
là còn hi vọng, còn mơ ước, còn tin tưởng vào chiến thắng tất yếu của lòng tốt
và sự cônq bằng trước sự độc ác, bất công của cuộc đời.
ĐỀ 64: Nhân vật phú ông trong truyện Sọ Dừa có ba người con gái. Hãy phát biểu suy nghĩ của em về cô út.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Sọ Dừa là một truyện cổ lí thú và hấp dẫn, phản ánh quan niệm Ở hiền
gặp lành của người xưa.
- Phú ông có ba cô con gái, trong đó cô út vừa xinh đẹp, vừa hiền lành,
xứng đáng được hưởng hạnh phúc với chàng Sọ Dừa siêng năng, tài giỏi.
2. Thân bài:
* Cô Út là người giàu lòng nhân ái:
- Cô không khinh bỉ, xa lánh Sọ Dừa như hai cô chị. Ngày ngày, cô chịu
khó mang cơm nước cho Sọ Dừa và đối xử với con người dị dạng ấy bằng tình
cảm chân thành.
- Cô nhìn thấy bên trong cái hình thức xấu xí của Sọ Dừa là một bản chất
tốt đẹp: cần cù, siêng năng, tài giỏi. Vô tình được chứng kiến cảnh Sọ Dừa đổi
lốt thành chàng trai khôi ngô tuấn tú, cô út đem lòng yêu mến.
- Cô vui lòng nhận lời làm vợ Sọ Dừa, điều đó chứng tỏ cô dám dũng cảm
vượt qua định kiến khắt khe của lễ giáo phong kiến về sự phân biệt giàu nghèo,
chủ tớ...
* Cô Út tà người vú thủy chung:
- Sọ Dừa đỗ Trạng nguyên, được nhà vua cử đi sứ nước ngoài. Hai vợ
chồng đành phải chia tay.
- Bị hai người chị độc ác hãm hại, cô út dạt vào đảo hoang, vững chí chờ
chồng trở về.
- Nhờ nghe thấy tiếng gáy của gà trống mà Trạng nguyên Sọ Dừa tìm
được vợ. Hai vợ chồng lại sum họp hạnh phúc. Cô út xứng đáng được sống một
cuộc đời sung sướng.
3. Kết bài:
- Kết thúc tốt đẹp của truyện làm thỏa mãn ước mơ về sự công bằng của
người xưa. Hình ảnh cô út đẹp người, đẹp nết được yêu mến và ca ngợi.
II. BÀI LÀM
Từ thuở em còn bé tí, bà nội đã kể cho em nghe bao câu chuyện cổ thật
hay. Những nhân vật hiền lành, tài năng như Thạch Sanh, cô Tấm, An Tiêm,
Lang Liêu... đã để lại trong tâm trí em ấn tượng sâu sắc. Truyện Sọ Dừa cũng là
một cổ tích lí thú. Nhân vật phú ông trong truyện có ba người con gái, nhưng
hạnh phúc không đến với hai cô chị mà chỉ đến với cô út bởi cô hiền lành nhân
hậu, xứng đáng được hưởng hạnh phúc.
Cô Út là người giàu lòng nhân ái. Cô chẳng nề hà gì khi phải mang cơm
cho người đầy tớ chăn bò ở tận trên núi cao. Dù Sọ Dừa dị dạng, xấu xí, cô vẫn
đối xử ân cần tử tế. Cô thương người như thể thương thân.
Những người bất hạnh, sinh ra đã kì hình dị tướng, thường hay buồn tủi.
Chỉ cần một chút cảm thông, trân trọng như thái độ của cô út cũng đủ đem lại
cho họ niềm an ủi lớn lao.
Cô Út là người có trái tim vàng. Chính trái tim nhân hậu đó đã cho cô một
cách nhìn đời, nhìn người hết sức đúng đắn. Từ những buổi đưa cơm lên núi
cho Sọ Dừa, cô đã được chứng kiến chàng có tài thổi sáo tuyệt vời. Tiếng sáo
đã nói lên tâm tư, ước vọng của chàng. Cô út lắng nghe và nhận ra điều đó.
Cũng từ đấy cô phát hiện ra điều bí mật của Sọ Dừa.
Bên trong cái lốt xấu xí là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, tài hoa. Cũng
giống như ở đời, có biết bao tâm hồn cao thượng ẩn giấu dưới hình dạng cục
mịch quê mùa. Việc làm của cô út đã nhắc nhở mọi người chớ nhìn dáng vẻ bề
ngoài mà đã vội nhận xét phẩm chất bên trong.
Cô Út đã hành động theo sự mách bảo của con tim. Cô nhận lời lấy Sọ
Dừa trong sự dè bỉu, khinh thường của gia đình, nhất là của hai cô chị. Khi mẹ
con Sọ Dừa mang lễ vật sang cầu hôn, phú ông rất lúng túng vì không muốn gả
con cho kẻ đầy tớ hèn mọn. Nhưng vốn tham lam, trước bao nhiêu lễ vật quý
giá, lão cũng không dám chối từ. Lão đã gọi ba cô con gái lên hỏi ý kiến. Hai cô
chị bĩu môi khinh bỉ, chỉ có cô út e lệ tỏ ý bằng lòng. Bởi vì cô đã nhận ra phẩm
chất đẹp đẽ của Sọ Dừa và đem lòng yêu mến chàng. Trong xã hội phong kiến
thời xưa, hành động đó chứng tỏ cô là một phụ nữ thông minh và dũng cảm,
dám vượt lên những định kiến khắt khe.
Vì nhân hậu, thương người nên cô út đã vui vẻ chấp nhận cùng Sọ Dừa
kết duyên đôi lứa. Hạnh phúc thật sự đã mỉm cười với cô. Sọ Dừa thi đỗ Trạng
nguyên, cô út thành bà Trạng, Nhưng hai cô chị sinh lòng ghen ghét đã lập mưu
hãm hại em. Cô út không thể chết. Sóng biển đã đưa cô dạt vào một hòn đảo
vắng. Những đồ vật nhỏ bé thân thuộc cô đem theo bên mình đã giúp đỡ cô.
Con dao và hòn đá đánh lửa đã giúp cô sống được giữa đảo hoang. Đôi gà nhỏ
trở thành bầu bạn chia sẻ buồn vui cùng cô. Cô út bền gan vững chí, ngày đêm
trông ngóng người chồng yêu quý. Nghị lực, tình yêu và lòng chung thủy tăng
thêm sức mạnh cho cô. Cuối cùng, cô út đã được sum họp cùng quan trạng. Kết
thúc có hậu ấy làm thỏa lòng mong ước của bao người từng nghe truyện Sọ
Dừa.
Hàng ngàn năm đã trôi qua nhưng hình ảnh cô út đẹp người đẹp nết đã in
sâu trong tâm trí bao người. Truyện Sọ Dừa mãi mãi được người Việt Nam thích
thú và truyền tụng.
ĐỀ 65: Phát biểu cảm nghĩ của em về truyện Thạch Sanh.I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Thạch Sanh là truyện kể về người dũng sĩ tiêu biểu cho vẻ đẹp trí tuệ, tài
năng và tâm hồn của dân tộc Việt.
- Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin vào công lí và tư tưởng nhân nghĩa,
yêu chuộng hòa bình qua hình tượng Thạch Sanh tài đức vẹn toàn.
2. Thân bài:
* Nguồn gốc khác thường của nhân vật Thạch Sanh:
- Thạch ông, Thạch bà tuy nghèo khổ nhưng giàu lòng nhân ái. Họ đã già
mà vẫn chưa có con nối dõi.
- Thạch Sanh vốn là thái tử con của Ngọc Hoàng, đầu thai xuống trần làm
con nhà họ Thạch.
- Thạch bà mang thai nhiều năm mới sinh ra một đứa bé trai khôi ngô,
tuấn tú, đặt tên là Thạch Sanh.
- Lớn lên, Thạch Sanh được các vị thần dạy cho nhiều môn võ nghệ và
phép lạ. Sau này, chàng đã sử dụng sức mạnh và phép lạ để cứu giúp mọi
người.
* Những đức tính đáng quý của Thạch Sanh:
- Thật thà, chất phác: Quanh năm Thạch Sanh chăm chỉ làm lụng để tự
nuôi thân. Nghe theo lời của Lí Thông, chàng rời bỏ gốc đa về ở chung với mẹ
con hắn. Thạch Sanh vui vẻ đi canh miếu thờ (tức nộp mạng cho chằn tinh) thay
Lí Thông.
- Dũng cảm, quên mình vì việc nghĩa: Giết chết chằn tinh, bắn đại bàng,
xuống tận hang đại bàng cứu công chúa, giải thoát con vua Thủy Tề...
- Yêu chuộng hòa bình: Chàng dùng tiếng đàn để cảm hóa quân tướng
mười tám nước, tránh cho họ cảnh máu chảy đầu rơi. Đãi họ một bữa cơm no
trước lúc lui binh...
* Phần thưởng xứng đáng đối với Thạch Sanh:
- Giết chết chằn tinh, chàng được một bộ cung tên bằng vàng.
- Cứu thoát thái tử con vua Thủy Tề ra khỏi hang đại bàng, Thạch Sanh
được tặng cây đàn thần.
- Cứu công chúa, Thạch Sanh được làm phò mã và được nhà vua trao
cho ngôi báu...
3. Kết bài:
- Cách kết thúc có hậu phản ánh ước mơ và khát vọng công lí của người
xưa.
- Hình tượng dũng sĩ Thạch Sanh có tài có đức sống mãi trong lòng nhiều
thế hệ người dân đất Việt.
II. BÀI LÀM
Trong truyện cổ nước ta thường có những nhân vật độc đáo, tiêu biểu cho
vẻ đẹp của trí tuệ, tài năng và tâm hồn của con người Việt Nam.
Thạch Sanh là truyện kể về người dũng sĩ chém chằn tinh, diệt đại bàng,
cứu người bị hại. Tiếng đàn của chàng vạch mặt kẻ vong ơn bội nghĩa và làm
nhụt chí quân xâm lược.
Truyện thể hiện ước mơ, niềm tin về đạo đức, công lí xã hội và lí tưởng
nhân nghĩa, yêu hòa bình của nhân dân ta. Trong truyện có nhiều chi tiết thần kì
độc đáo và giàu ý nghĩa (như sự ra đời kì lạ của Thạch Sanh, cung tên vàng, cây
đàn thần, niêu cơm thần...). Có thể nói, trong những nhân vật chính diện mà
truyện cổ tích Việt Nam đã xây dựng nên thì Thạch Sanh là nhân vật đẹp nhất và
tiêu biểu nhất.
Sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh có những nét vừa bình thường vừa
khác thường.
Xét về nguồn gốc thì Thạch Sanh không phải người thường. Theo truyện
kể thì vợ chồng nhà họ Thạch (ở Cao Bằng), tuổi đã già mà chưa có con. Thấy
họ tốt bụng, Ngọc Hoàng sai thái tử xuống trần đầu thai làm con. Bà mẹ mang
thai nhiều năm mới sinh ra Thạch Sanh. Lớn lên, chàng lại được các vị thần dạy
cho đủ các môn võ nghệ và mọi phép thần thông. Như vậy Thạch Sanh là “người
trời”.
Những chi tiết về sự ra đời và lớn lên khác thường của Thạch Sanh có ý
nghĩa tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ cho nhân vật lí tưởng, làm tăng sức hấp dẫn
cho câu chuyện. Nhân dân quan niệm rằng, nhân vật ra đời và lớn lên kì lạ như
vậy tất sẽ có khả năng, phẩm chất phi thường và sẽ lập được nhiều chiến công
lừng lẫy.
Bình thường ở chỗ Thạch Sanh là con của một gia đình nông dân tốt
bụng, sống nghèo khổ bằng nghề kiếm củi. Khi đầu thai vào nhà họ Thạch,
Thạch Sanh đã thành người cõi trần, có cha mẹ, họ tên, quê quán, nghề nghiệp
cụ thể, rõ ràng. Cuộc đời và số phận Thạch Sanh rất gần gũi với nhân dân.
Thạch Sanh mồ côi cha từ khi còn ở trong bụng mẹ, rồi vừa mới lớn đã
mất luôn cả mẹ. Chàng sống một thân một mình từ tấm bé. Đó là đặc điểm có
tính phổ biến của các nhân vật chính diện trong truyện cổ tích thần kì. Ngoài đặc
điểm ấy, nhân vật Thạch Sanh còn có tính chất của nhân vật thần thoại và nhân
vật anh hùng trong truyền thuyết.
Thạch Sanh sống trong túp lều cũ ở dưới gốc đa. Cả gia tài chỉ có một
lưỡi búa của cha để lại. Thân cô, thế cô, chàng phải chịu bao khó khăn thử thách
của cuộc đời.
Đầu tiên là chuyện chàng bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ để thế
mạng. Bằng tài năng của mình, Thạch Sanh đã diệt được chằn tinh.
Sau đó là chuyện công chúa bị đại bàng khổng lồ quắp đi. Thạch Sanh đã
xuống hang tiêu diệt đại bàng, cứu được công chúa. Chàng bị Lí Thông cố tình
hãm hại, lấp mất cửa hang. Trong khi tìm lối thoát, chàng lại cứu được con vua
Thủy Tề và được tặng cây đàn thần. Trở về gốc đa, bị hồn chằn tinh và đại bàng
báo thù, Thạch Sanh bị bắt hạ ngục. Nỗi oan của chàng được giải. Mẹ con Lí
Thông độc ác bị trừng trị, biến thành bọ hung. Thạch Sanh được kết hôn với
công chúa. Hoàng tử mười tám nước chư hầu trước kia bị công chúa từ hôn lấy
làm tức giận, họp nhau kéo quân sang đánh. Thạch Sanh lấy đàn thần ra gảy,
quân sĩ mười tám nước rút lui. Thạch Sanh và công chúa từ đó sống hạnh phúc
bên nhau.
Trong truyện, khó khăn, trắc trở cứ tăng dần, thử thách sau bao giờ cũng
gay go hơn thử thách trước. Thạch Sanh đã vượt qua tất cả nhờ tài năng, phẩm
chất và sự giúp đỡ của các phương tiện thần kì.
Qua thử thách, Thạch Sanh đã dần dần bộc lộ những phẩm chất quý báu.
Đó là tính thật thà chất phác, tinh thần dũng cảm vì nghĩa quên thân, lòng nhân
ái và yêu chuộng hòa bình.
Chiến công, sự nghiệp to lớn của Thạch Sanh gắn liền với tài năng và
phẩm chất đẹp đẽ của chàng. Tác giả dân gian đã phản ánh điều ấy rất thành
công bằng nghệ thuật hoang đường, kì ảo của truyện cổ tích.
Ngoại hình của Thạch Sanh được miêu tả đơn sơ nhưng rất rõ nét. Đó là
một chàng trai khôi ngô, khỏe mạnh, quanh năm mình trần, đóng khố. Gia tài của
chàng chỉ có hai thứ tầm thường là lưỡi búa đốn củi và túp lều nát dưới gốc đa.
Tuy nghèo nhưng Thạch Sanh có đủ ba điều quý giá ban đầu: sức khoẻ,
tài năng, nghị lực; có công cụ lao động và mảnh đất quê hương để từ đó làm
nên tất cả.
Nhờ cây búa của cha để lại và phép thuật mà các vị thần dạy cho, Thạch
Sanh đã chém được đầu chằn tinh. Sau khi đốt xác quái vật, chàng có thêm
chiếc cung tên bằng vàng. Thạch Sanh đã dùng cung tên diệt đại bàng, cứu
công chúa và Thái tử con vua Thủy Tề. Chàng được vua Thủy Tề tặng cho cây
đàn thần.
Ở nhân vật Thạch Sanh, yếu tố bình thường gắn liền với yếu tố phi
thường, sức người kết hợp với sức thần một cách chặt chẽ, hài hòa.
Những lần bị Lí Thông và yêu quái hãm hại, Thạch Sanh không được
Tiên, Bụt hiện lên giúp đỡ nhưng chàng lại có trong tay những phương tiện kì
diệu (cung vàng, đàn thần). Tài năng của chàng là tài năng của con người kết
hợp với sức mạnh của thần thánh.
Tiếng đàn thần vô cùng kì diệu đã giải oan cho Thạch Sanh, vạch tội Lí
Thông, làm cho công chúa hết câm, khiến cho đội quân xâm lược của mười tám
nước phải mềm lòng nhụt chí, buông giáo xin hàng. Đó là tiếng nói nhân nghĩa
và công lí, đại diện cho cái thiện, cho tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân
dân.
Với cây đàn thần trong tay, Thạch Sanh được miêu tả như một nghệ sĩ tài
hoa, một anh hùng trong cuộc đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác để bảo vệ cuộc
sống yên vui cho mọi người.
Giặc chấp nhận lui binh, được Thạch Sanh dọn một bữa cơm thết đãi.
Niêu cơm thần kì của Thạch Sanh cứ vơi lại đầy, làm cho quân sĩ mười tám
nước lúc đầu coi thường và chế giễu, sau đó phải ngạc nhiên khâm phục. Niêu
cơm thần kì ấy tượng trưng cho sức mạnh tiềm tàng và tấm lòng nhân đạo cao
cả, rộng lớn của nhân dân ta.
Kết thúc truyện, Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa và lên ngôi
vua. Đây là phần thưởng lớn lao, xứng đáng với những khó khăn, thử thách và
tài năng của Thạch Sanh. Kết thúc có hậu ấy thể hiện quan điểm ở hiền gặp
lành, ở ác gặp ác, đồng thời phản ánh ước mơ công lí, ước mơ đổi đời của
người lao động thuở xưa.
ĐỀ 66: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện cổ Em bé thông minh.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Nhân dân ta từ xưa đã đánh giá rất cao vai trò của trí tuệ trong đời sống.
- Nhân vật em bé trong truyện Em bé thông minh tiêu biểu cho trí thông
minh của người lao động.
2. Thân bài:
* Trí thông minh tuyệt vời của chú bé nông dân:
+ Thể hiện qua nhiều tình huống có tính chất thử thách, càng về sau càng
gay go:
- Trả lời câu hỏi của viên quan bằng chính cách hỏi ấy:... Ngựa của ông
một ngày đi được mấy bước?
* Hóa giải lệnh oái oăm của nhà vua là bắt dân làng nuôi trâu đực đẻ bằng
câu chuyện bịa đặt và nhờ vua bắt cha mình đẻ em bé.
- Vua thử tài chú bé, bắt làm cỗ từ một con chim sẻ. Chú yêu cầu sứ giả
tâu với vua cho người rèn chiếc kim thành dao để mổ chim.
- Sứ thần nước ngoài thách đố xâu sợi chỉ qua đường ruột của một chiếc
vỏ ốc vặn, chú bé nghĩ ra mẹo và làm được.
* Thái độ của nhà vua đối với chú bé thông minh:
- Khẳng định chú chính là nhân tài mà mình đang cần tìm.
- Phong cho chú bé chức Trạng nguyên, lưu lại trong cung nuôi ăn học tử
tế để sau này giúp nước.
- Tin dùng và thường hỏi ý kiến của chú bé trong những công việc quốc
gia đại sự.
3. Kết bài:
- Với truyện Chú bé thông minh, khao khát đổi đời của người lao động xưa
kia đã được thoả mãn.
- Qua truyện, trí tuệ dân gian được đề cao và ca ngợi. Các chi tiết cường
điệu khiến cho truyện trở nên thú vị và hấp dẫn.
II. BÀI LÀM
Từ thuở xưa, nhân dân ta đã coi trọng trí tuệ, bởi trí tuệ giúp con người
vượt qua được khó khăn, thử thách trong cuộc sống hằng ngày. Bằng trí tưởng
tượng, họ đã sáng tạo ra những nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của trí tuệ. Truyện
Em bé thông minh đề cao trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố,
vượt những thử thách oái oăm...), từ đó tạo ra tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên
nhưng không kém phần thâm thúy. Trong truyện, sự thông minh của em bé
được thử thách cả thảy bốn lần.
Lần đầu, em trả lời câu hỏi éo le của viên quan: Trâu cày một ngày được
mấy đường?
Lần thứ hai, em hóa giải cái lệnh ngược đời của vua về chuyện ban cho
dân làng ba con trâu đực, bắt nuôi sao cho chúng đẻ thành chín con trong một
năm...
Lần thứ ba, em vượt qua thử thách cực kì khó khăn: từ thịt một con chim
sẻ, phải nấu thành ba mâm cỗ theo yêu cầu của nhà vua.
Lần thứ tư là làm được công việc oái oăm mà sứ thần nước ngoài thách
đố: xâu một sợi chỉ mảnh qua đường ruột của một chiếc vỏ ốc vặn.
Thử thách càng ngày càng khó nhưng chú bé đều vượt qua một cách dễ
dàng. Điều đó chứng tỏ trí thông minh tuyệt vời của chú.
Bối cảnh của truyện là thời mà chế độ phong kiến Việt Nam đã phát triển
đến mức độ cao. Trên có vua quan, dưới có tổ chức làng xã. Vua biết trọng dụng
người hiền tài để phò tá cai trị đất nước. Bởi vậy nên mới có chuyện nhà vua sai
một viên quan đi dò la để tìm cho ra người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi rất nhiều
nơi mà vẫn chưa tìm thấy ai như ý.
Một hôm, viên quan đi qua làng nọ, thấy hai cha con chú bé đang làm
ruộng. Cha đánh trâu cày, con đập đất, những công việc quen thuộc hằng ngày
của nhà nông. Khi viên quan cất giọng hách dịch hỏi: - Này, lão kia! Trâu của lão
cày một ngày được mấy đường? thì người cha vì bất ngờ và hoảng hốt nên cứ
đứng ngẩn người ra chưa biết trả lời thế nào. Đứa con trai mới chừng bảy tám
tuổi đã nhanh miệng vặn lại quan rằng: - Thế xin hỏi ông câu này đã. Nếu ông trả
lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của
cha tôi cày một ngày được mấy đường.
Trong lần đầu tiên này, sự nhanh trí của chú bé thể hiện ở chỗ đã đánh đố
lại viên quan. Chú bé biết lợi dụng chính cái lắt léo trong câu hỏi để đẩy ông ta
vào thế bí. Chú đã xoay chuyển được tình thế, giành phần thắng về mình. Có ai
để ý đếm bước chân ngựa trên đường? Vậy thì có ai đếm đường trâu cày trong
một ngày bao giờ? Mục đích của viên quan là nêu câu hỏi cắc cớ để dồn cho kẻ
bị hỏi vào thế lúng túng, thì chú bé đã hỏi lại viên quan với ngụ ý: Nếu ông không
trả lời được câu hỏi của tôi thì cha tôi không việc gì phải trả lời ông cả. Thái độ
mạnh bạo, tự tin cùng câu hỏi thông minh của chú bé khiến viên quan nọ giật
mình, há hốc mồm sửng sốt và nghĩ rằng có lẽ chú bé chính là nhân tài mà nhà
vua đang cần tìm. Ông ta vội vã trở về triều, trong bụng mừng thầm.
Nghe viên quan tâu lại đầu đuôi câu chuyện về chú bé, nhà vua mừng rỡ
nhưng muốn thử lại cho chắc chắn: Vua sai ban cho làng (của chú bé) ba thúng
gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao ba con trâu ấy đẻ thành
chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.
Cái lệnh kì quặc xưa nay chưa từng thấy của nhà vua làm cho dân làng lo
lắng, sợ hãi, họp bàn liên tục mà không tìm ra cách giải quyết. Giải quyết sao
được bởi xưa nay trâu đực có đẻ con bao giờ? Nhưng dẫu phi lí đến đâu chăng
nữa thì đó cũng là lệnh vua. Không thực hiện đúng lệnh là mắc tội khi quân, ắt
cả làng phải chịu tội chết. Đoạn kể về thái độ của dân làng khi nhận được lệnh
vua thật cụ thể, sinh động, làm nổi bật không khí lo sợ đến kinh hoàng: Từ trên
xuống dưới, mọi người đều tin là một tai họa.
Chuyện đến tai chú bé, chú thản nhiên bảo cha: - Chả mấy khi được lộc
vua ban, cha cứ thưa với làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để
mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, ta
sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.
Sự tính toán đâu ra đấy và thái độ bình tĩnh, tự tin ấy quả là khác thường,
kì lạ đối với cái tuổi lên bảy, lên tám của chú bé. Nghe con nói, người cha sợ hãi
khuyên can, chú bé vẫn khăng khăng quả quyết: “Cha cứ mặc con lo liệu, thế
nào cũng xong xuôi mọi việc”.
Lần thứ hai này, chú bé vượt qua thử thách bằng cách khéo léo gài bẫy để
nhà vua phải công nhận sự vô lí trong lệnh của mình.
Nghĩ sao làm vậy, chú cùng cha lên kinh đô, tìm cách đến tận trước ngai
vàng và ra mắt vua với điệu bộ, lời lẽ cố tình gây chú ý đối với mọi người: lẻn
vào sân rồng, khóc um lên. Thấy chuyện lạ, vua sai lính điệu vào, phán hỏi: -
Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc?. Chú bé chỉ chờ có thế
để thực hiện mưu kế của mình: - Tâu đức vua! Mẹ con chết sớm mà cha con thì
không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn, cho nên con khóc. Dám mong
đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.
Lời nói ngộ nghĩnh của bé chú khiến nhà vua và quần thần đều bật cười
về sự vô lí của nó. Vua phán: - Cha mày là giống đực, làm sao mà đẻ được!.
Vậy là chú bé đã lừa nhà vua vào tròng một cách nhẹ nhàng, êm ái: - Thế sao
làng chúng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực cho đẻ thành chín con
để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!.
Hiểu ý chú bé, đức vua bật cười bảo: - Ta thử đấy mà!... Chú bé đã tương
kế tựu kế, dùng thuật gậy ông lại đập lưng ông để giành phần chủ động về mình,
mạnh dạn lấy cái phi lí trong lời lẽ của mình để buộc đức vua phải tự công nhận
sự phi lí trong lệnh của đức vua. Trí thông minh nhanh nhạy, tài ứng đối trôi
chảy, lí lẽ sắc sảo của chú bé làm cho đức vua và triều thần đều chịu thằng bé là
thông minh lỗi lạc.
Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn khi chú bé lần lượt vượt qua hết thử
thách này đến thử thách khác. Tuy đã tận mắt chứng kiến khả năng ứng xử
thông minh của chú nhưng đức vua vẫn muốn thử một lần nữa. Những lần
trước, trí thông minh của chú bé thể hiện qua lời nói; lần này, đức vua muốn
được xem trí tuệ ấy thể hiện ra sao qua hành động.
Đức vua sai sứ giả mang tới cho chú bé một con chim sẻ và truyền lệnh
chú bé phải làm thịt chim, dọn thành ba mâm cỗ. Không chút bối rối, chú bé bảo
cha lấy cho mình một cây kim may rồi đưa cho sứ giả và bảo: - ông cầm lấy cái
này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim. Phản
ứng của chú bé thật nhanh nhạy và cách xử trí cũng thật là đáng phục. Chú bé
đã đẩy trả thế bí cho đối phương bằng cách đánh đố lại với ngầm ý: Nếu nhà
vua rèn được cây kim này thành con dao thì tôi cũng sẽ làm được ba mâm cỗ từ
thịt con chim sẻ. Tất nhiên, yêu cầu của chú đối với vua là không thể thực hiện
được, do vậy sẽ không có chuyện ngược lại. Trí thông minh của chú bé thật
tuyệt vời!
Để câu chuyện tăng tính hiện thực và mức độ thuyết phục, người xưa đã
đưa vào chi tiết: Hồi đó có một nước láng giềng lăm le muốn xâm chiếm bờ cõi
nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái
vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua
đường ruột ốc. Kiểu thử tài này thường thấy trong truyện kể dân gian về các
nhân vật thông minh, tài giỏi như Trạng Quỳnh, Mạc Đĩnh Chi, Trạng Hiền...
Sự thách đố oái ăm ấy làm cho các vị đại thần vò đầu suy nghĩ mà không
sao tìm ra cách. Nhà vua đành phải nhờ đến trí thông minh của chú bé. Nghe
qua, chẳng cần suy nghĩ lâu la gì, chú bé liền hát: - Tang tình tang! Tính tình
tang. Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng. Bên thời lấy giấy mà bưng. Bên
thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang. Tang tình tang... Câu hát hồn nhiên, nhí
nhảnh nhưng lại chứa đựng một giải pháp cực kì sáng suốt, tuy đơn giản, dễ
dàng như một trò chơi con trẻ. Dân gian chẳng có câu: Quan thấy kiện như kiến
thấy mỡ đó sao? Kiến ngửi thấy mùi mỡ ắt tìm mọi cách lần sang bằng được, do
vậy sợi chỉ sẽ được kéo sang theo. Đơn giản thế mà đức vua và các nhà thông
thái không sao nghĩ ra. Giải pháp đó chính là trí tuệ, là kinh nghiệm của dân gian
được đúc kết từ cuộc sống.
Trí thông minh của chú bé càng ngày càng được bộc lộ ở mức độ cao
hơn. Ban đầu, chú bé làm cho viên quan đi tìm người tài phải ngạc nhiên. Sau
đó đến đức vua và quần thần trong triều đình. Cuối cùng, sứ thần ngoại bang
cũng phải thán phục trước trí tuệ của nhân tài nước Nam. Tài trí thông minh
tuyệt vời của chú bé thật xứng đáng với chức Trạng nguyên nhà vua ban tặng,
xứng đáng với dinh thự nguy nga bên cạnh cung vua. Chú bé trở thành người
được nhà vua tin dùng trong quá trình trị vì đất nước.
Truyện đề cao trí thông minh của người lao động. Trí thông minh của chú
bé không thể hiện qua chữ nghĩa, văn chương, thi cử mà là qua thực tế cuộc
sống hằng ngày. Cuộc đấu trí của chú bé xoay quanh những chuyện bình
thường như đường cày, bước chân ngựa, con trâu, con chim sẻ, con ốc, con
kiến vàng. Chú bé tiêu biểu cho trí tuệ dân gian được đúc kết từ đời sống và
luôn được vận dụng trong thực tế.
Truyện còn mang ý nghĩa hài hước thâm thúy. Cách giải các câu đố của
chú bé đều thông minh, hóm hỉnh, tạo ra những tình huống bất ngờ thú vị, đem
lại tiếng cười vui vẻ.
Trong truyện, từ dân làng cho đến các ông trạng, các nhà thông thái và
vua quan đều thua tài em bé. Nhân vật em bé thông minh khiến cho mọi người
yêu thích bởi tính chất hồn nhiên, ngây thơ mà sắc sảo tuyệt vời.
Chú bé thông minh được vua phong cho chức Trạng nguyên. Trí tưởng
tượng và khao khát đổi đời của người xưa được thỏa mãn. Qua truyện này,
nhân dân ta muốn khẳng định sức mạnh của trí tuệ, đồng thời thể hiện tình cảm
mến yêu, thán phục đối với những người hiền tài đã làm rạng danh cho gia đình
và đất nước.
ĐỀ 67: Phát biểu cảm nghĩ về truyện Cây bút thần.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Cây bút thần là truyện cổ nổi tiếng của Trung Quốc.
- Nhân vật Mã Lương thông minh, tài ba và nhân hậu luôn giúp đỡ người
nghèo khổ, trừng trị những kẻ giàu có mà tham lam, độc ác.
- Truyện phản ánh ước mơ công lí của người xưa và khẳng định mục đích
của mọi sáng tạo nghệ thuật đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân.
2. Thân bài:
* Mã Lương - chú bé mồ côi say mê học vẽ và hết lòng giúp đỡ người
nghèo:
- Mã Lương mồ côi cả cha lẫn mẹ, ngày ngày phải lên rừng kiếm củi đổi
gạo nuôi thân.
- Chú tập vẽ bằng que trên mặt đất, bằng than lên bốn bức tường, nhúng
tay vào nước rồi vẽ lên đá...
- Tài vẽ của Mã Lương ngày càng tiến bộ. Chú vẽ các con vật giống y như
thật. Chú ao ước có tiền mua được cây bút lông. Trong giấc ngủ, chú mơ được
Tiên ông ban cho cây bút thần bằng vàng sáng lấp lánh.
- Có bút thần trong tay, Mã Lương vẽ những vật dụng cần thiết cho người
nghèo trong làng.
* Mã Lương trừng trị những kẻ tham lam, độc ác:
- Tên địa chủ muốn Mã Lương phải vẽ theo ý hắn, chú bé không nghe
theo. Bị hắn bỏ đói và nhốt vào chuồng ngựa, Mã Lương tự vẽ ra lò sưởi, bánh
nướng, vẫn sống ung dung. Rồi chú vẽ chiếc thang để trèo tường trốn thoát.
- Tên vua độc ác bắt Mã Lương về triều, ép chú vẽ rồng, vẽ vàng bạc cho
hắn. Mã Lương vẽ con cóc ghẻ, vẽ thuyền và những con sóng lớn dìm chết
hắn...
3. Kết bài:
- Cấy bút thần là truyện cổ tích thần kì, sản phẩm trí tưởng tượng phong
phú của người xưa.
- Thể hiện quan niệm: Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác. Khẳng định người tốt
bụng, thông minh sẽ được nhận phần thưởng xứng đáng; kẻ tham lam, xấu xa
sẽ bị trừng trị đích đáng.
- Ý nghĩa sâu xa của truyện: Nghệ thuật chân chính phải phục vụ chính
nghĩa, phục vụ nhân dân và tài năng của nghệ sĩ chỉ có được sau quá trình khổ
công luyện tập mà thôi.
II. BÀI LÀM
Cây bút thần là một thiên cổ tích nổi tiếng của Trung Quốc. Nhân vật Mã
Lương gần giống với Thạch Sanh, Sọ Dừa... trong truyện cổ tích nước ta, là
những nhân vật bất hạnh nhưng lại có tài năng kì lạ. Trong tay Mã Lương, cây
bút thần đã tạo ra bao điều kì diệu: giúp đỡ người nghèo khó, trừng trị kẻ tham
lam, độc ác. Truyện Cây bút thần thể hiện quan niệm của nhân dân về công lí xã
hội và ước mơ về khả năng kì diệu của con người; đồng thời nhấn mạnh mục
đích của nghệ sĩ là đem tài năng sáng tạo nghệ thuật để phục vụ nhân dân và
làm đẹp cuộc đời. Sức hấp dẫn lạ lùng của truyện không chỉ ở nội dung, ý nghĩa,
mà còn ở rất nhiều chi tiết thần kì.
Mã Lương là một chú bé nghèo khổ, mồ côi cha mẹ. Chú rất thông minh
và thích học vẽ. Ngày ngày, Mã Lương phải lên rừng chặt củi hay cắt cỏ đem
bán lấy tiền mua gạo. Không có tiền mua bút, chú vẽ bằng que trên mặt đất,
nhúng tay xuống nước rồi vẽ tôm cá trên đá, lấy than vẽ hình các đồ vật lên bốn
bức tường... Khó khăn, gian khổ không thể ngăn nổi ý chí và niềm say mê của
Mã Lương.
Do dốc lòng học vẽ và chăm chỉ luyện tập như vậy nên Mã Lương tiến bộ
rất mau. Em vẽ chim, vẽ cá giống như thật. Người xem tưởng như sắp được
nghe chim hót, được trông thấy cá bơi lội. Thế nhưng em vẫn chưa có cây bút
vẽ. Em chỉ mong sao có được một chiếc. Mong muốn ấy ám ảnh Mã Lương cả
trong giấc ngủ.
Cảm động trước mong ước chân thành và cháy bỏng của chú bé nghèo,
Tiên ông đã ban cho chú một cây bút và dặn: - Đây là cây bút thần, nó sẽ giúp
con nhiều trong cuộc sống.
Việc Tiên ông cho Mã Lương cây bút thần bằng vàng sáng lấp lánh thể
hiện khát vọng của người xưa: ở hiền sẽ gặp lành, sống tử tế nhân đức sẽ được
Trời, Phật giúp đỡ.
Mơ ước bao ngày đã thành hiện thực. Mã Lương sung sướng lấy bút ra vẽ
một con chim. Chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót líu lo. Em vẽ tiếp một
con cá. Cá vẫy đuôi trườn xuống sông, bơi lượn trước mất em. Mã Lương thích
thú vô cùng.
Mã Lương vẽ giỏi là do có sự say mê, cần cù, chăm chỉ, cộng với sự thông
minh và khiếu vẽ sẵn có kết hợp với việc được Tiên ông ban cho cây bút thần
bằng vàng để vẽ gì được nấy.
Nhớ lời Tiên ông dặn, Mã Lương dùng cây bút thần vẽ cho tất cả những
người nghèo trong làng. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc. Nhà nào
không có đèn, em vẽ cho đèn. Nhà nào không có thùng múc nước, em vẽ cho
thùng... Như vậy, đối tượng mà Mã Lương nghĩ đến đầu tiên chính là những
người nghèo khổ. Chú bé đã dùng cây bút thần để giúp đỡ họ một cách thiết
thực nhất.
Mã Lương không vẽ trước thóc gạo, nhà cửa, vàng bạc, châu báu mà vẽ
cái cày, cái cuốc, cái đèn, cái thùng... Điều này có ý nghĩa rất lớn. Mã Lương
không vẽ của cải vật chất có sẵn mà vẽ các phương tiện cần thiết để người dân
sản xuất, sinh hoạt, tạo ra thóc gạo, nhà cửa... vì chú bé cho rằng muốn hưởng
thụ, con người phải tự làm ra của cải.
Mã Lương không chỉ có tài mà còn có đức, tuy còn nhỏ nhưng tính tình
khảng khái, rất ghét bọn nhà giàu tham lam. Chuyện cây bút thần của chú lọt
đến tai một tên địa chủ. Hắn dùng đủ mọi cách ép buộc Mã Lương vẽ theo ý hắn
nhưng chú bé dứt khoát không vẽ bất cứ một thứ gì, mặc chúng hết lời dụ dỗ,
doạ nạt. Thêm một đức tính nữa của Mã Lương khiến cho mọi người càng yêu
mến chú: không nao núng, run sợ trước kẻ xấu, kẻ ác; không lay chuyển trước
những lời cám dỗ đường mật giả dối. Cây bút thần của Mã Lương không bao giờ
phục vụ kẻ thống trị. Thái độ kiên quyết của Mã Lương chính là thái độ của
những nghệ sĩ chân chính đã xác định được mục đích đúng đắn là đem tài năng
sáng tạo nghệ thuật để phục vụ nhân dân.
Dụ dỗ, đe dọa đều vô ích, tên địa chủ tức tối tống giam Mã Lương vào
chuồng ngựa, bỏ đói suốt mấy ngày, tưởng chú sẽ nghĩ lại. Hắn không thể ngờ
với cây bút thần trong tay, Mã Lương tiếp tục sáng tạo ra những điều kì diệu: lò
sưởi và bánh nướng. Chú bé vẫn sống ung dung nhờ tài năng của mình và sự
giúp đỡ của thần linh. Thấy thế, tên địa chủ tức giận, sai đầy tớ giết Mã Lương
để cướp lấy cây bút thần. Mã Lương đã thoát chết nhờ chiếc thang chú vẽ trên
tường. Tên địa chủ bám thang đuổi theo nhưng hắn đã bị ngã lộn xuống đất,
chiếc thang biến mất.
Lòng tham khiến cho tên địa chủ trở nên điên cuồng. Hắn phi ngựa cố
đuổi theo Mã Lương để cướp bằng được cây bút thần. Khi hắn và bọn đầy tớ
đến gần, Mã Lương lặng lẽ rút cây bút thần vẽ chiếc cung và mũi tên. Em
giương cung. “Vút”, mũi tên lao đúng họng tên địa chủ, hắn ngã nhào xuống đất.
Mã Lương ra roi thúc ngựa, ngựa tung vó phóng như bay. Chi tiết này thật là thú
vị. Chú bé Mã Lương không những thông minh, tài giỏi mà còn vô cùng dũng
cảm. Với cây bút thần, chú đã thay mặt nhân dân thực hiện công lí, trừng trị kẻ
xấu, kẻ ác.
Chuyện không dừng ở đó mà diễn biến càng về sau càng hấp dẫn hơn.
Suốt mấy ngày đêm phi ngựa ròng rã, cuối cùng Mã Lương dừng lại ở một thị
trấn nhỏ xa xôi. Chú bé kiếm sống qua ngày bằng nghề vẽ tranh. Vì muốn giấu
kín tung tích, Mã Lương cố ý để cho các bức tranh chú vẽ thiếu một nét nào đó
như chim thì thiếu mỏ hoặc thiếu một chân...
Nhưng rồi một sự việc tình cờ đã xảy ra ngoài ý muốn của Mã Lương. Chú
vẽ con cò trắng không có mắt. Chẳng may, một giọt mực rơi đúng vào chỗ mắt
cò. Thế là cò mở mắt, xoè cánh, bay đi. Chuyện làm chấn động cả thị trấn và
đến tai vua. Vua phái triều thần đến đón Mã Lương về kinh đô. Mã Lương không
muốn đi, nhưng bọn họ tìm đủ cách dụ dỗ, dọa nạt để bắt em về hoàng cung.
Một lần nữa chú bé Mã Lương phải đối đầu với thử thách. Chú không hề
sợ hãi. Vua bắt chú vẽ rồng, chú vẽ con cóc ghẻ; bắt vẽ phượng, chú vẽ con gà
trụi lông. Tài năng của chú, cây bút thần trong tay chú không thể đem ra phục vụ
tên vua tàn bạo. Không sai khiến nổi Mã Lương, hắn liền cho quân lính đến
cướp cây bút thần trong tay Mã Lương rồi nhốt em vào ngục.
Công lí nhân dân không đời nào để cho tên vua tham tàn kia được thỏa
lòng tham không đáy. Hắn vẽ núi vàng, hết núi này đến núi khác... Vẽ xong, xem
lại thì không phải là những núi vàng mà chỉ là những tảng đá lớn. Những tảng đá
đó từ trên đỉnh núi lăn xuống, suýt đè gẫy chân hắn.
Không chịu từ bỏ lòng tham, hắn vẽ thỏi vàng, trước nhỏ sau lớn, trước
ngắn sau dài, dài mãi... Vẽ xong, tên vua nhìn lại thì thấy trước mắt không phải
là một thỏi vàng lớn mà lại là một con mãng xà miệng há hốc, đỏ lòm, đang lao
về phía hắn. May mà có triều thần xô tới cứu, nếu không, hắn đã bị mãng xà
nuốt chửng.
Tên vua gian tham đành chịu thua. Hắn tìm kế khác để lừa Mã Lương là
thả em ra, dùng vàng bạc dỗ dành và hứa gả công chúa cho.
Vốn thông minh, Mã Lương vờ đồng ý để lấy lại cây bút thần.
Tên vua đã mắc mưu chú bé thông minh. Hắn đòi vẽ biển, vẽ thuyền, Mã
Lương chiều ý hắn. Gió nhẹ, sóng êm, tên vua không thích mà lại thích gió to
thêm một tí. Mã Lương chớp lấy cơ hội để tiêu diệt hắn và cả cái triều đình xấu
xa của hắn. Chỉ mấy nét bút đậm, sóng biển liền nổi lên, buồm căng phồng,
chiếc thuyền lao khỏi bờ nhanh vun vút. Tên vua hoảng sợ cuống quýt. Mã
Lương không đếm xỉa đến lời kêu cứu của hắn. Cây bút của em tiếp tục vẽ
những đường cong lớn. Biển động dữ dội, sóng biển xô vào thuyền hết đợt này
đến đợt khác... Gió bão càng to, mây đen kéo mù mịt, trời tối sầm. Sống lớn nổi
lên dữ dội như những trái núi đổ sập xuống thuyền. Chiếc thuyền ngả nghiêng
rồi bị chôn vùi trong những lớp sóng hung dữ.
Tên vua tham lam độc ác đã phải bỏ xác dưới đáy biển sâu. Không chỉ Mã
Lương và nhân dân vui sướng mà cả chúng ta cũng hả hê trước kết thúc có hậu
của câu chuyện về cây bút thần kì. Quả là trí tưởng tượng của người xưa cực kì
phong phú và độc đáo. Mã Lương không những dùng bút thần để giúp ích cho
nhân dân mà còn dùng cây bút thần để chống lại tên địa chủ và tên vua tham
lam độc ác.
Trong truyện, nhân vật Mã Lương đã phải trải qua nhiều tình huống thử
thách, từ thấp đến cao. Lần thử thách sau khó khăn, phức tạp hơn lần trước.
Nhờ đó, phẩm chất của nhân vật ngày càng được bộc lộ rõ hơn. Từ chỗ dứt
khoát không vẽ gì cho tên địa chủ đến chỗ vẽ ngược hẳn ý muốn của nhà vua.
Từ chỗ trừng trị kẻ ác để thoát thân đến chỗ chủ động diệt kẻ ác lớn nhất
để trừ họa cho mọi người. Mã Lương như được trời trao cho sứ mệnh vung bút
thần lên để tiêu diệt kẻ ác. Mã Lương không chỉ tài ba, khẳng khái mà còn hết
sức mưu trí và dũng cảm.
Truyện Cây bút thần được sáng tác bằng trí tưởng tượng phong phú của
nhân dân. Truyện có nhiều chi tiết lí thú là nhờ xoay quanh hình ảnh cây bút thần
và khả năng kì diệu của nó. Đây là báu vật, là phương tiện thần kì, giống như đôi
đũa thần, lọ nước thần, cây đàn thần... ở nhiều truyện cổ tích khác.
Cây bút thần là phần thưởng xứng đáng cho Mã Lương - một chú bé đam
mê nghệ thuật và giàu lòng nhân ái. Chỉ trong tay Mã Lương, bút thần mới tạo ra
được những sự vật như mong muốn; còn vào tay kẻ ác, nó tạo ra những điều
ngược lại. Với cây bút thần, Mã Lương đã giúp đỡ người nghèo khó và trừng trị
kẻ tham lam độc ác.
Truyện Cây bút thần có nhiều ý nghĩa. Trước hết, nó thể hiện quan niệm
của nhân dân về công lí. Những người chăm chỉ, tốt bụng, thông minh sẽ được
nhận phần thưởng xứng đáng; kẻ độc ác, tham lam sẽ bị trừng trị.
Truyện còn ngầm khẳng định rằng nghệ thuật phải được sử dụng để phục
vụ nhân dân, phục vụ chính nghĩa, chống lại cái ác và tài năng của nghệ sĩ chỉ
có được sau bao ngày khổ công luyện tập.
Cuối cùng, chú bé Mã Lương lại trở về với những người bạn ruộng đồng.
Chú đi khắp đó đây, đem hết thời giờ và sức lực để vẽ cho những người nghèo
khổ. Mã Lương là nghệ sĩ của nhân dân. Chú biết dành hết tài năng, tâm huyết
để phục vụ nhân dân, làm đẹp thêm cho cuộc sống. Đó cũng là ý nghĩa lớn lao,
sâu sắc của truyện này.
ĐỀ 68: Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện dân gian Nga: ông lão đánh cá và con cá vàng.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Ông lão đánh cá và con cá vàng là truyện cổ dân gian Nga nổi tiếng thế
giới.
- Truyện ca ngợi lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và nêu ra bài
học đích đáng cho những kẻ tham lam, độc ác.
2. Thân bài:
* Ông lão đánh cá hiền lành, nhân hậu:
- Cá vàng mắc lưới, van xin ông lão thả ra, hứa sẽ đến ơn. Ông lão thả cá
vàng và không đòi trả ơn.
- Ông thật thà kể chuyện cho mụ vợ nghe nên bị mụ mắng té tát là đồ
ngốc.
- Năm lần mụ vợ bắt ông lão ra biển, đòi cá vàng làm theo ý muốn để thỏa
mãn lòng tham (đòi máng lợn mới, nhà đẹp, nhất phẩm phu nhân, nữ hoàng,
Long Vương), ông lão vẫn nhẫn nhục chịu đựng, làm theo ý vợ, mặc cho cá
vàng và biển cả nổi giận.
- Ông lão hiền lành đến mức nhu nhược. Sự đọa đày của mụ vợ tai ác
khiến ông lão khổ sở. Nhịn nhục như ông lão là điều không nên.
* Mụ vợ đáo để, độc ác và tham lam vô độ:
- Là hiện thân của những thói xấu, nhất là thói tham lam và bội bạc.
- Lòng tham biến mụ ta thành kẻ thô lỗ, đối xử tàn tệ với chồng (mắng mỏ,
đánh đập, xua đuổi...), sẵn sàng dùng bạo lực ép buộc chồng làm theo ý mình.
(Đòi cá vàng cho làm nhất phẩm phu nhân, nữ hoàng,..)
- Không chỉ tham lam của cải, mụ ta còn có những tham vọng ngông
cuồng về quyền lực, danh vọng. Điều đó làm cho mụ lu mờ lí trí, mất hết lương
tri, không còn khả năng nhận biết đúng sai.
- Ước muốn điên rồ trở thành Long vương ngự trên biển đòi cá vàng hầu
hạ của mụ ta đã bị trừng trị đích đáng: phút chốc, lâu đài, xe cộ, người hầu kẻ hạ
biến mất, mụ lại ngồi trước cửa túp lều rách nát, bên cái máng lợn ăn sứt mẻ.
3. Kết bài:
- Truyện chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc. Hình ảnh cá vàng tượng trưng
cho lòng biết ơn, cho công lí.
- Nghệ thuật hoang đường, kì ảo của truyện làm say mê nhiều thế hệ
người đọc suốt mấy thế kỉ qua.
II. BÀI LÀM
Ông lão đánh cá và con cá vàng là một truyện cổ dân gian Nga được
A.Puskin kể lại bằng 205 câu thơ (tiếng Nga) và Vũ Đình Liên, Lê Trí Viễn dịch
sang tiếng Việt qua văn bản tiếng Pháp. Người dịch vừa giữ được nét chất phác,
dung dị của nghệ thuật truyện cổ dân gian, vừa rất điêu luyện, tinh tế trong sự
miêu tả và sắp xếp tình tiết của truyện. Truyện không chỉ hấp dẫn với người Nga
mà còn với nhiều dân tộc khác trên thế giới.
Truyện sử dụng những biện pháp nghệ thuật rất tiêu biểu của cổ tích như:
sự lặp lại và tăng tiến của những tình huống, sự đối lập giữa các nhân vật, sự
xuất hiện của các yếu tố tưởng tượng, hoang đường. Truyện Ông lão đánh cá
và con cá vàng ca ngợi lòng biết ơn đối với những người nhân hậu và nêu ra bài
học đích đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc.
Cốt truyện đơn giản: Ngày xưa, có hai vợ chồng người đánh cá già sống
rất nghèo khổ. Một hôm, ông lão kéo lưới bắt được một con cá vàng. Cá vàng
van xin ông lão thả ra, ông lão muốn gì sẽ được nấy. Mụ vợ tham lam bắt ông
lão phải thực hiện những điều mụ yêu cầu. Lòng tham vô tận, mụ muốn làm
Long Vương để bắt cá vàng hầu hạ. Cá vàng tức giận, bắt mụ trở về cuộc sống
nghèo khổ như xưa.
Truyện có ba nhân vật: ông lão đánh cá, mụ vợ và con cá vàng. Biển cả
mênh mông là khung cảnh làm nền cho ba nhân vật hoạt động.
Trong truyện, ông lão năm lần ra biển gọi cá vàng để nhờ cậy. Lần thứ
nhất: biển gợn sóng êm ả. Lần thứ hai: biển xanh nổi sóng. Lần thứ ba: biển
xanh nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư: biển nổi sóng mù mịt. Lần thứ năm: một cơn
dông kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm.
Năm lần gọi cá vàng là năm lần cảnh biển thay đổi. Một bên là những yêu
cầu ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão, một bên là phản ứng của biển mỗi
lúc một tăng, tương ứng với sự vô lí của những yêu cầu đó. Qua những lần lặp
lại như thế, tính cách nhân vật (ông lão, mụ vợ, cá vàng) và chủ đề của truyện
càng được tô đậm.
Ở đây, biển không chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật hoạt động mà
còn tham gia tích cực vào diễn biến của truyện, tượng trưng cho phản ứng của
nhân dân, của trời đất trước thói tham lam và bội bạc.
Đọc truyện này, ai cũng thương ông lão bởi vì ông là người tốt bụng, hiền
lành mà không may gặp phải mụ vợ tai quái, độc ác. Ông lão luôn luôn bị vợ
mắng chửi tàn tệ. Lần thứ nhất, khi ông lão thật thà kể chuyện về cá vàng, ông
đã bị mụ mắng như mắng trẻ con: “Đồ ngốc!...”. Lần thứ hai, dù ông lão đã làm
theo ý mụ, mụ vẫn quát to: “Đồ ngu!...”. Lần thứ ba, thấy ông lão từ biển về, mụ
mắng như tát nước vào mặt...
Không chỉ bị vợ sỉ nhục, mắng mỏ, ông lão còn bị mụ khinh rẻ, ngược đãi.
Lần thứ ba, tuy ông lão đã ra biển xin cá vàng cho mụ trở thành nhất phẩm phu
nhân nhưng ông vẫn bị mụ quát tháo và bắt quét dọn chuồng ngựa. Lần thứ tư,
ông lão lại năn nỉ xin cá vàng cho mụ được làm nữ hoàng, để rồi bị mụ tàn nhẫn
ra lệnh đuổi đi...
Từ địa vị của một ông chồng, ông lão đã bị biến thành đầy tớ, bị vợ hắt
hủi, xua đuổi không chút xót thương. Nguyên nhân chỉ vì ông sợ vợ một cách mù
quáng. Người đọc thương ông lão hiền lành nhưng cũng giận ông lão quá nhu
nhược, nhất nhất nghe theo lời vợ. Biết mụ được voi đòi tiên nhưng ông vẫn
nhắm mắt làm theo lời mụ. Cảm thấy những đòi hỏi của mụ vợ là vô lí, nhận ra
lòng tham đến mức quái gở của mụ, vậy mà ông lão không dám phản đối thì thật
là đáng trách.
Chính vì nhu nhược mà ông lão bị mụ vợ đối xử thậm tệ. Lần thứ tư, rồi
lần thứ năm, ông lão vẫn mù quáng làm theo lời mụ vợ, chỉ biết van xin cá vàng:
- Giúp tôi với! Thương tôi với! Tôi sống làm sao được? Ông lão không biết bảo
vệ mình. Dân gian có câu: Một sự nhịn là chín sự lành nhưng nhịn nhục như ông
lão là điều không nên.
Ông lão là một người hiền lành tử tế, đối lập với mụ vợ tai quái, độc ác. Vì
vậy, người đọc thương xót, ái ngại cho tình cảnh của ông. Câu chuyện của ông
lão đánh cá đã cho chúng ta một bài học về cách đối nhân xử thế: Sự nhẫn nhục
chịu đựng bao giờ cũng có giới hạn. Mỗi người cần có bản lĩnh để bảo vệ nhân
phẩm của mình, không nên nhân nhượng và làm theo những tham vọng ngông
cuồng của kẻ khác.
Trong truyện, mụ vợ là nhân vật phản diện. Đây không phải là con người
mang tính xấu mà là tính xấu hiện hình dưới lốt người. Có thể kể ra vô số tính
xấu của nhân vật này: tham lam, bội bạc, dữ dằn, thô lỗ... Trong đó có hai thói
xấu nổi bật nhất là tham lam và bội bạc. Có lẽ sự bội bạc còn đáng ghét và khó
tha thứ hơn cả sự tham lam.
Mở đầu truyện là cảnh sống bình thường của hai vợ chồng nghèo: Ngày
ngày, chồng đi thả lưới, vợ ở nhà kéo sợi. Thế rồi khi cá vàng xuất hiện có khả
năng kì diệu thỏa mãn được mọi ước muốn của con người thì mọi sự thay đổi
hẳn.
Chúng ta hãy quan sát thái độ của mụ vợ đối với chồng. Khi đòi cá vàng
đền ơn cho một cái máng lợn mới, được máng rồi thì mụ lại mắng chồng là: - Đồ
ngốc! Đòi ngôi nhà lớn, được nhà rồi, mụ quát chồng to hơn: - Đồ ngu! Khi đã là
nhất phẩm phu nhân, mụ mắng như tát nước vào mặt chồng: - Đồ ngốc, ngốc
sao ngốc thế! Khi thành nữ hoàng, mụ nổi trận lôi đình, tát vào mặt ông lão: -
Mày dám cãi... Đến khi đòi làm Long Vương không được, mụ nổi cơn thịnh nộ,
sai lính đi bắt ông lão về để trị tội.
Những tình tiết ấy đã làm nổi rõ nghịch lí: lòng tham càng lớn thì tình
nghĩa vợ chồng càng nhạt phai, rồi tiêu biến.
Với mụ vợ, ông lão đánh cá không chỉ là chồng mà còn là ân nhân bởi vì
nhờ ông mà mụ có tất cả. Nhưng ông lão càng giúp mụ vợ thỏa mãn lòng tham
bao nhiêu thì mụ lại càng cư xử tệ bạc bấy nhiêu. Mụ không còn coi ông lão là
chồng mà coi ông như một kẻ đầy tớ, chỉ được phép cúi đầu tuân lệnh.
Mụ không có công gì với cá vàng để có thể đòi hỏi cá vàng trả ơn. Cá
vàng đã nể tình ông lão mà mang lại tiền bạc và quyền uy cho mụ. Nhưng lòng
tham không đáy, mụ đòi hỏi tất cả mọi thứ mà con người có thể có. Chưa đủ, mụ
còn muốn có trong tay quyền lực vô biên và cuối cùng, mụ muốn bắt cá vàng
làm nô lệ để mụ tiện sai khiến. Khi đã làm nữ hoàng, mụ đuổi ông lão đi cho
khuất mắt. Ân nhân đã trở thành chướng ngại. Sự bội bạc và tham lam của mụ
đã tới mức tột cùng, người và trời đều không thể dung tha. Biển cả cũng nổi cơn
giận dữ, trừng trị đích đáng mụ vợ tham lam, bội bạc và tàn nhẫn.
Có người cho rằng nếu đặt tên truyện là Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá
vàng thì cũng có lí bởi vì mụ cũng là nhân vật chính. Trong truyện cổ tích, nhân
vật chính thường là nhân vật tích cực và về nguyên tắc thì lấy nhân vật chính để
đặt tên truyện. Nhưng trong trường hợp này, nếu lấy nhân vật phản diện để đặt
tên cho truyện thì ý nghĩa của truyện dường như cũng không thay đổi: nêu bài
học cảnh cáo nghiêm khắc đối với những kẻ tham lam bội bạc như mụ vợ ông
lão.
Kết thúc truyện, tất cả mọi thứ đều trở lại như xưa (lều nát, máng sứt...).
Ông lão không mất gì cả, nhưng rõ ràng vừa trải qua cơn ác mộng. Có lẽ từ nay,
ông lão càng thấy quý hơn cảnh sống yên bình, thanh thản.
Đọc truyện, có người sẽ thắc mắc tại sao mụ vợ không bị trừng phạt nặng
như mẹ con Lí Thông mà chỉ phải sống trong hoàn cảnh nghèo khó như trước?
Nhưng nếu suy ngẫm kĩ thì ta thấy rằng tuy trở lại cảnh sống ban đầu nhưng
thực ra không phải hoàn toàn như xưa nữa. Cá vàng không chỉ lấy đi những gì
nó đã cho mà còn nhiều hơn thế.
Mở đầu truyện là cảnh mụ vợ sống trong nghèo khó. Chưa bao giờ mụ
được sống sung sướng, giàu sang, lên xe xuống ngựa. Còn ở kết thúc truyện,
sau khi mụ vợ đã được hưởng tột đỉnh giàu sang mà lại phải trở lại cảnh nghèo
khó ban đầu thì điều đó quả thật chẳng dễ chịu chút nào. Mụ bị suy sụp cả về
tinh thần lẫn thể xác; sẽ nhục nhã ê chề tới cực điểm. Đây chính là sự trừng phạt
đích đáng đối với nhân vật tham lam, độc ác này.
Cá vàng trừng trị mụ vợ ông lão vì hai tội tham lam và bội bạc nhưng có lẽ
tội bội bạc lớn hơn. Thực ra giữa hai tội này có sự liên quan chặt chẽ: lòng tham
quá lớn thường làm cho người ta mất hết lương tri và tính người, không còn khả
năng nhận biết đúng sai.
Ở con người, lòng tham có ít hay nhiều, điều ấy không phải là chuyện lạ.
Có lẽ tác giả muốn nhấn mạnh lòng tham là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến nhiều tai vạ.
Hình tượng cá vàng có ý nghĩa tượng trưng cho sự biết ơn đối với những
người đã giúp mình qua cơn hoạn nạn, khó khăn. Cá vàng còn đại diện cho
công lí: những kẻ bội bạc, tham lam tất sẽ bị trừng trị đích đáng.
Tuy là cổ tích thần kì nhưng ý nghĩa hiện thực của nó lại vô cùng sâu sắc,
lớn lao. Điều đó đã làm say mê, xúc động bao thế hệ người đọc từ trước đến
nay.
ĐỀ 69: Phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Ếch ngồi đáy giếng là truyện ngụ ngôn mang nội dung phê phán thói xấu
huênh hoang, khoác lác, đồng thời khuyên mọi người phải cố gắng mở mang
tầm hiểu biết, không nên chủ quan, kiêu ngạo.
2. Thân bài:
* Con ếch kiêu căng, tự mãn:
- Sống lâu dưới đáy giếng nhỏ hẹp nên ếch cứ tưởng bầu trời chỉ bé bằng
cái vung.
- Ếch coi thường những con vật nhỏ bé xung quanh, tự tôn mình là chúa
tể.
* Cái chết thảm thương của con ếch:
- Mưa to, giếng đầy nước, ếch nhảy ra ngoài, nhâng nháo nhìn lên bầu
trời, không để ý gì đến mọi vật nên bị một con trâu dẫm bẹp.
- Nguyên nhân cái chết chính là thói chủ quan, tự mãn của ếch.
3. Kết bài:
- Truyện nhỏ nhưng ý nghĩa lớn.
- Thành ngữ Ếch ngồi đáy giếng là bài học thiết thực, nhắc nhở mọi người
không nên kiêu căng, ngạo mạn. Phải không ngừng nâng cao, tầm hiểu biết để
đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống.
II. BÀI LÀM
Truyện Ếch ngồi đáy giếng là ngụ ngôn mượn chuyện loài vật để bóng gió,
kín đáo nói về chuyện con người.
Từ câu chuyện kể về cách nhìn nhận, đánh giá thế giới bên ngoài chỉ qua
cái miệng giếng nhỏ hẹp của chú ếch, truyện ngầm phê phán những kẻ hiểu biết
hạn hẹp mà lại hay huênh hoang, khoác lác. Đồng thời khuyên nhủ mọi người
phải cố gắng mở rộng tầm nhìn, tầm hiểu biết của mình, không nên chủ quan,
kiêu ngạo.
Tuy ngắn nhưng bố cục của truyện cũng chia thành hai phần rõ rệt. Phần
đầu kể về hoàn cảnh sống và trình độ hiểu biết ít ỏi của con ếch. Phần hai kể về
hậu quả tai hại của thái độ chủ quan kiêu ngạo. Từ đó rút ra bài học cho mọi
người.
Nội dung truyện có thể tóm tắt như sau: Vì sống lâu trong một cái giếng
nhỏ hẹp nên ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng cái vung, còn nó thì oai
như một vị chúa tể. Một năm nọ, trời mưa to, nước giếng tràn bờ, đưa ếch ra
ngoài. Quen thói cũ, nó nhâng nháo đưa mắt nhìn lên bầu trời, chẳng thèm để ý
gì đến xung quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.
Tác giả dân gian đã khéo léo tưởng tượng ra bối cảnh của truyện và tâm lí
nhân vật. Tại sao con ếch lại có những suy nghĩ thiển cận như vậy?
Bởi ếch sống dưới đáy một cái giếng nhỏ nên từ dưới giếng nhìn lên, nó
thấy bầu trời bé xíu như cái vung nồi. Ngày nào cũng thấy như vậy nên nó khẳng
định bầu trời chỉ to bằng ngần ấy mà thôi.
Dưới giếng lâu nay cũng chỉ có một vài loài vật nhỏ bé tầm thường như
nhái, cua, ốc... Mỗi khi ếch cất tiếng kêu Ồm ộp vang động, các loài vật kia đều
hoảng sợ.
Chi tiết này vừa có ý nghĩa hiện thực vừa có ý nghĩa tượng trưng. Giếng
nhỏ lại sâu, khi có tiếng động thì âm vang rất lớn. Giống như ở nông thôn xưa,
hễ nhà ai có việc gì thì cả xóm, cả làng đều biết. Làng lại xa vua, xa quan nên
bọn cường hào ác bá tha hồ tác oai tác quái, nhũng nhiễu dân lành.
Trong thế giới quá nhỏ bé ấy, ếch tự cho mình là chúa tể nên chẳng coi ai
ra gì. Chưa bao giờ nó được biết thêm về một môi trường khác, một thế giới
khác, cho nên tầm nhìn của nó rất hạn hẹp, trình độ hiểu biết ít ỏi, thấp kém. Thế
nhưng ếch lại chủ quan, kiêu ngạo, tự cho là mình tài giỏi hơn tất cả. Điều đó đã
thành thói quen, thành tật xấu của nó.
Một tình huống bất ngờ xảy ra làm đảo lộn tất cả.
Sau một cơn mưa lớn, nước giếng đầy tràn, đẩy ếch ra ngoài. Hoàn cảnh
sống của ếch đã đột ngột thay đổi, từ một phạm vi rất hẹp là đáy giếng tới một
phạm vi rất rộng là không gian mênh mông. Lúc đầu, ếch cứ tưởng mặt đất cũng
giống như đáy giếng kia, bầu trời trên đầu nó lúc này cũng chỉ là bầu trời mà nó
đã quen nhìn qua miệng giếng bấy lâu nay và nó vẫn là chúa tể.
Nhưng mặt đất thì mênh mông mà bầu trời thì bát ngát.
Muốn tồn tại, ếch phải thay đổi cách nhìn, cách sống. Nhưng quen thói cũ,
ếch nghênh ngang đi lại khắp nơi và cất tiếng kêu Ồm ộp.
Cơn mưa lớn chỉ làm thay đổi hoàn cảnh sống chứ không phải là nguyên
nhân dẫn đến cái chết của ếch mà nguyên nhân chính là thói kiêu ngạo, chủ
quan của nó.
Thông qua truyện, người xưa khuyên chúng ta dù sống trong hoàn cảnh
nào thì vẫn phải cố gắng học tập để mở rộng tầm nhìn và tầm hiểu biết. Chúng
ta không chỉ học tập ở nhà trường, mà còn phải học nhiều điều trong cuộc sống.
Bên cạnh trường học còn có trường đời. Trường đời là biển cả bao la về tri thức
và kinh nghiệm. Chúng ta phải biết khắc phục những hạn chế của mình và không
ngừng học hỏi để có được trình độ học vấn cao và tầm nhìn xa rộng; không nên
chủ quan, kiêu ngạo vì chủ quan, kiêu ngạo dễ dẫn đến thất bại trong sự nghiệp
và trong cuộc đời. Chúng ta nên suy ngẫm kĩ về những bài học mà truyện đặt ra,
chớ nên tự biến mình thành Ếch ngồi đáy giếng, coi trời bằng vung.
ĐỀ 70: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Thầy bói xem voi là truyện ngụ ngôn có nội dung giáo dục thâm thúy
dưới hình thức hài hước, gây cười thú vị và hấp dẫn.
- Truyện là bài học thiết thực về cách nhìn nhận, đánh giá con người và sự
vật trong cuộc sống hằng ngày.
2. Thân bài:
* Hoàn cảnh xảy ra câu chuyện:
- Năm thầy bói mù ế khách ngồi tán gẫu, thấy có người bảo rằng voi sắp đi
qua nên bàn nhau góp tiền biếu quản tượng để được xem voi.
* Diễn biến câu chuyện:
- Năm thầy xúm lại xem voi bằng cách lấy tay sờ.
- Mỗi thầy sờ vào một bộ phận của voi (vòi, chân, tai, ngà, đuôi).
- Mỗi thầy mường tượng ra hình dáng của con voi theo cái mà mình sờ
được (sun sun như con đỉa, sừng sững như cột đình, bè bè như quạt thóc, chần
chần như đòn càn, tun tủn như chổi sể cùn).
- Ai cũng cho rằng ý kiến của mình là đúng. Cuối cùng, năm thầy bói lao
vào đánh nhau toác đầu chảy máu.
3. Kết bài:
- Truyện như một màn hài kịch vui nhộn mà chứa đựng ý nghĩa giáo dục
sâu sắc.
- Thành ngữ Thầy bói xem voi phê phán hạng người thiếu hiểu biết nhưng
lại hay tỏ ra thông thái.
II. BÀI LÀM
Thầy bói xem voi là một truyện ngụ ngôn có nội dung giáo dục rất thâm
thúy, ẩn chứa dưới hình thức nghệ thuật hài hước thú vị.
Truyện ngụ ngôn là truyện không chỉ có nghĩa đen mà còn hàm chứa
nghĩa bóng. Nghĩa bóng là ý nghĩa sâu kín gửi gắm trong truyện, thường là
những bài học nhân sinh bổ ích cho con người trong cuộc sống.
Thầy bói xem voi kể về cuộc xem voi của năm thầy bói mù và nhận xét
của từng người về con voi. Sự khác biệt trong nhận thức về hình dáng con voi
giữa các thầy bói dẫn đến cuộc tranh luận bất phân thắng bại, thậm chí dẫn tới
ẩu đả.
Từ việc chế giễu cách xem voi và nhận xét về voi rất phiến diện của năm
ông thầy bói mù, người xưa khuyên chúng ta rằng khi tìm hiểu, xem xét, đánh
giá các sự vật, sự việc, hiện tượng xung quanh thì phải thận trọng, kĩ càng và
toàn diện để tránh những đánh giá lệch lạc, sai lầm.
Truyện ngắn gọn nhưng rất hấp dẫn bởi hàng loạt các yếu tố đặc biệt của
nó: tình huống đặc biệt, nhân vật đặc biệt, sự vật đặc biệt và cách cảm nhận sự
vật của mỗi người lại càng đặc biệt. Có thể coi truyện ngụ ngôn này là một vở
hài kịch nhỏ có đủ hoàn cảnh, nhân vật và mâu thuẫn kịch.
Mở đầu là cảnh năm thầy bói mù nhân buổi ế khách bèn túm tụm lại ngồi
chuyện gẫu với nhau. Thầy nào cũng phàn nàn là chưa biết hình thù con voi ra
sao. Tình cờ đúng lúc ấy, các thầy nghe người ta nói có voi đi qua, bèn chung
nhau tiền biếu quản tượng, xin cho voi dừng lại để xem. Vì mù nên năm thầy
cùng chung một cách xem voi là sờ bằng tay và mỗi thầy chỉ sờ được vào một
bộ phận của con voi mà thôi.
Phần mở đầu ngắn gọn nhưng chứa đựng đầy đủ những thông tin cần
thiết để thu hút và dẫn dắt người đọc. Nếu coi truyện là một màn kịch thì ở đoạn
này, mâu thuẫn kịch đã bắt đầu hình thành và phát triển.
Cách xem voi của năm thầy là dùng tay để sờ. Thầy thì sờ vòi, thầy thì sờ
ngà, thầy thì sờ tai, thầy thì sờ chân, thầy thì sờ đuôi.
Thầy nào sờ được bộ phận nào thì nhận xét về hình thù “con voi” như thế.
Thầy sờ vào vòi cho rằng voi sun sun như con đỉa. Thầy sờ vào ngà bảo voi
chần chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ vào tai khăng khăng voi bè bè như cái quạt
thóc. Thầy sờ vào chân voi thì cãi: Nó sừng sững như cái cột đình. Bốn nhận
định của bốn thầy khác xa nhau nên thầy này phủ nhận ý kiến của thầy kia. Thầy
thứ năm sờ vào cái đuôi thì phủ nhận tất cả bốn thầy trước: - Các thầy nói không
đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn.
Dựa trên thực tế mà mình “xem” được, mỗi thầy đều đưa ra nhận xét về
hình thù con voi bằng hình thức ví von, so sánh. Điều đó làm cho truyện thêm
sinh động và có tác dụng tô đậm sai lầm trong cách xem voi và lời “phán” về voi
của các thầy.
Mâu thuẫn càng lúc càng tăng, không ai chịu ai vì người nào cũng cho
rằng mình đúng. Tục ngữ có câu: Trăm nghe không bằng một thấy, Trăm thấy
không bằng một sờ. Ở đây, các thầy đã sờ tận tay, thử hỏi còn sai vào đâu
được? Do vậy, việc thầy nào cũng khẳng định rằng mình đúng là có cơ sở. Thầy
nào cũng đúng nhưng khổ nỗi chỉ đúng với một bộ phận của con voi chứ không
đúng với toàn bộ con voi.
Người xưa thật hóm hỉnh khi để các thầy bói mù xem một con vật khổng lồ
là con voi. Các bộ phận của nó ở cách xa nhau (vòi, ngà, tai, chân, đuôi) mà các
thầy đều bị mù, không thể đi lại dễ dàng. Mỗi thầy lại chỉ sờ được có một thứ
nên mới dẫn đến chuyện đấu khẩu bất phân thắng bại.
Mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khi thầy nào cũng khăng khăng bảo vệ ý kiến
của mình. Cãi nhau mãi không xong tất dẫn đến cuộc ẩu đả quyết liệt, bởi vì cả
năm thầy không ai chịu ai. Như vậy là cãi nhau không đi đến đâu, mà đánh nhau
càng không thể dẫn đến chân lí khách quan. Cái sai nọ tất yếu dẫn đến cái sai
kia. Người đọc tưởng tượng ra cảnh năm thầy bói mù gân cổ cãi nhau rồi quờ
quạng đánh nhau mà cười ra nước mắt.
Biện pháp phóng đại được sử dụng triệt để trong truyện để tô đậm cái sai
về nhận thức của các thầy bói xem voi.
Năm thầy bói đều sờ vào voi thật và mỗi thầy đều tả đúng một bộ phận
của voi, nhưng không ai nhận xét đúng về cả con voi. Sai lầm của họ là mỗi
người chỉ sờ được vào một bộ phận của con voi mà đã nhất quyết cho rằng đó là
con voi. Điều đáng buồn cười là các thầy đều sai nhưng ai cũng nhận mình là
đúng. Thực ra họ đều sai lầm trầm trọng bởi vì đã lấy nhận xét chủ quan về một
chi tiết của sự vật để khẳng định, đánh giá toàn thể sự vật và phủ nhận ý kiến
của người khác, cả năm thầy đều chung một cách xem voi phiến diện, dùng bộ
phận để khái quát toàn thể. Truyện không nhằm chế giễu cái “mù” về thể chất
(đây chỉ là chi tiết cần có của tình huống truyện), mà muốn nói đến cái “mù” về
nhận thức và phương pháp nhận thức của các thầy bói. Cao hơn thế, truyện có
ý giễu cợt những người làm nghề xem bói (Thầy bói nói càn). Tiếng cười trong
truyện nhẹ nhàng nhưng cũng rất thâm thúy.
Truyện là màn hài kịch ngắn nhưng chứa đựng một bài học bổ ích. Người
xưa muốn thông qua truyện để nhắc nhở mọi người khi giao tiếp, vấn đề nào tìm
hiểu chưa thấu đáo thì không nên thể hiện quan điểm của mình vì không thể nào
có được một nhận xét đúng đắn về thực tế xung quanh (hiện tượng, sự việc, sự
vật, con người) nếu chưa tìm hiểu đầy đủ, kĩ càng. Muốn kết luận đúng về sự vật
thì phải xem xét nó một cách toàn diện. Những hiểu biết hời hợt, nông cạn,
những suy đoán mò mẫm thiếu thực tế... chỉ dẫn đến nhận thức lệch lạc, sai lầm
mà thôi.
Qua truyện, người xưa còn ngầm phê phán những kẻ thiếu hiểu biết
nhưng lại hay tỏ ra thông thái. Ý nghĩa này được gói gọn trong câu thành ngữ:
Thầy bói xem voi.
ĐỀ 71: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho mèo
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Đeo nhạc cho mèo là truyện ngụ ngôn chứa đựng ý nghĩa phê phán xã
hội phong kiến rất sâu xa.
- Thông qua truyện, người xưa muốn phản ánh đôi nét về hiện thực cuộc
sống đương thời đầy mâu thuẫn và lồng vào trong đó bài học thiết thực về mối
quan hệ giữa lí thuyết với thực hành, giữa nói và làm.
2. Thân bài:
* Nỗi sợ hãi truyền kiếp của loài chuột đối với mèo:
- Vì mèo hay ăn thịt chuột nên chuột vừa đẻ ra là đã sợ mèo.
- Họ nhà chuột vừa sợ vừa tức nhưng không biết làm thế nào.
* Hội nghị làng chuột:
- Một hôm, làng chuột họp nhau lại bàn cách chống mèo.
- Chuột Cống đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu thì
cứ nghe tiếng nhạc rung mà tránh. Cả làng chuột hò reo tán thưởng.
- Làng phân công người đi đeo nhạc vào cổ mèo nhưng không ai dám
nhận. Ai cũng đưa ra lí do để từ chối.
- Cuối cùng, làng cắt cử chuột Chù. Chuột Chù thân phận thấp kém (đầy
tớ), không đùn đẩy được cho ai đành phải nhận đi.
- Mới nhìn thấy mèo từ xa, chuột Chù đã bỏ chạy, quăng cả nhạc.
* Kết quả:
- Từ đó đến nay, loài chuột vẫn sợ mèo.
3. Kết bài:
- Trí tưởng tượng phong phú của nhân dân đã xây dựng nên hình ảnh vô
cùng sinh động về loài chuột nhưng lại phảng phất hình ảnh của xã hội loài
người trong xã hội phong kiến đương thời.
- Hội đồng chuột trong truyện không khác mấy với hội đồng làng xã, quanh
năm lo hội họp, đình đám mà chẳng làm nên tích sự gì.
- Truyện ngầm phê phán cách suy nghĩ, viển vông, thiếu thực tế, dám nói
mà chẳng dám làm của không ít người. Do đó, ý nghĩa giáo dục của truyện vừa
tế nhị vừa thấm thía.
II. BÀI LÀM
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn hài hước, thú vị, chứa đựng ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Truyện kể về cuộc họp mặt của làng chuột để bàn cách
chống mèo. Chuột cống có sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu,
chuột sẽ biết trước mà tránh. Cả họ nhà chuột đồng tình với sáng kiến đó nhưng
không ai dám đi đeo nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, chuột vẫn cứ bị mèo ăn thịt và
mãi mãi khiếp sợ mèo.
Thông qua truyện, người xưa muốn phản ánh đôi nét hiện thực của cuộc
sống đương thời dưới xã hội phong kiến trì trệ và đầy mâu thuẫn giữa giai cấp
thống trị với giai cấp bị trị. Đồng thời đặt ra bài học thiết thực về mối quan hệ
giữa lí thuyết với thực hành; giữa nói và làm trong mọi công việc lớn nhỏ của
cuộc sống hằng ngày. Nếu lí thuyết không thể biến thành hiện thực thì đó chỉ là
thứ lí thuyết suông, làm tốn thời gian tranh cãi, bàn bạc một cách vô ích.
Truyện bắt đầu bằng nỗi sợ hãi truyền kiếp của loài chuột đối với loài mèo:
Tự bao giờ đến giờ, mèo cứ xơi chuột luôn mãi, nên chuột mới đẻ ra là đã sợ
mèo rồi. Họ nhà chuột căm giận mèo lắm. Một hôm, mới hội cả nhau lại làm một
làng chuột để chống lại mèo. Lí do họp làng thật chính đáng: vừa bàn cách
chống tổn thất, vừa để con cháu chuột mãi mãi về sau không sợ mèo. Cả xã hội
loài chuột có mặt đông đủ trong cuộc họp lạ lùng này:... nào anh Chù, mùi hôi
đến nỗi thành câu ca, nào chú Nhắt, có tính nhí nhắt đã nên câu ví; nào ông
Cống, rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên ông Đồ... Bút pháp dân
gian miêu tả khéo léo, tài tình đã làm nổi bật hình dáng, tính nết của từng loài
chuột và nghệ thuật nhân hoá - đặc trưng của ngụ ngôn đã tạo nên bức tranh
sinh động về xã hội loài chuột, phảng phất hình bóng xã hội loài người.
Chuột Cống (loại chuột lớn nhất), tự cho mình là thông minh hơn cả đã
đưa ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo: Cái giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh
em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ,
bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng
nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn làm gì nổi ta nữa.
Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột, rồi đưa ra cách
giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định chắc chắn là mèo không còn làm gì nổi
loài chuột nữa. Lời lẽ của chuột Cống mới nghe qua thấy đúng. Mèo thường rình
chuột rất kín đáo và vồ chuột bất ngờ nên chuột không sao tránh kịp. Bây giờ
đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu, tiếng nhạc sẽ vang lên, báo
cho chuột biết trước mà trốn. Ý kiến của chuột Cống hay tới mức xua tan được
nỗi sợ hãi bấy lâu và khơi dậy niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến
cả làng chuột nghe nói, dẩu mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chí lí của
ông Cống và đồng thanh ưng thuận.
Vậy là sáng kiến của chuột cống đã được tán đồng. Bước một (lí thuyết)
đã xong, cái lục lạc cũng đã kiếm được rồi, hội đồng chuột lại họp để bàn bạc cử
người đi đeo nhạc vào cổ mèo (bước hai - thực hành).
Hãy xem không khí vui mừng, náo nhiệt của làng chuột:...con nào con nấy
lao xao hớn hở, bảo nhau đã sắp tới ngày thoát được cái ách ông Miu ranh
mãnh rồi.
Nực cười thay, lúc hội đồng hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo, tức là
thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời ấy thì cả hội đồng im phăng phắc, không một
cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Trái ngược với lúc nghe chuột cống
nói, làng chuột con nào con nấy dẩu mõm, quật đuôi, lao xao, hớn hở. Những
chi tiết đối lập này có ý nghĩa mỉa mai, châm biếm sâu sắc. Không ai dám nhận
công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng ấy nên làng chuột đành cử ông
Cống phải đi, vì chính ông Cống đã xướng lên cái thuyết đeo nhạc vậy. Mọi
người cho rằng chuột Cống nói được ắt phải làm được.
Đây là điều bất ngờ với chuột Cống vì nó cho rằng mình chỉ là người đưa
ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện ắt phải là kẻ khác. Cho nên nghe vậy,
Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói rằng:
Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn trên
ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy được!
Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh nhảu
chắc làm được việc.
Chuột Cống tinh ranh vin ngay vào chức vị của mình (kẻ trên), nêu ra sự
bất xứng giữa chức vị ấy với cái việc tầm thường (đeo nhạc vào cổ mèo) và vội
vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười
ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột cống cho đây là đại sự
(việc lớn), đến lúc bị làng cắt phải làm, chuột Cống lại từ chối khéo với lí do đó là
việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình.
Chuột Nhắt vốn láu cá. Nó chẳng dại gì nhận phần nguy hiểm nên cãi lí
rằng: - Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé
vậy, mà cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. Ông Cống không đi, phải; tôi
đây không đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc
chắn, làng không lo hỏng việc. Chuột Nhắt khôn ở chỗ lấy ngay cái lí do của
chuột Cống làm lí do của mình (xét địa vị trong làng chuột), khẳng định mình
không phải làm vì còn ở chiếu trên, tức là chưa phải hạng cùng đinh. Đồng thời
Nhắt nhanh nhảu tiến cử ngay chuột Chù là kẻ bị khinh rẻ nhất trong làng chuột.
Chuột Chù thấp cổ bé miệng, không biết cãi sao đành chấp nhận nhưng
cũng không khỏi lo lắng: - Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi
chỉ sợ, nếu tôi đến gần mèo mà mèo thịt tôi đi, thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc
nhạc được nữa. Câu nói thật thà của Chù đã được chuột cống chớp nhanh
chẳng kém gì mèo vồ chuột: - Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt
kia, chớ chú mày hôi hám như thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay
đi, không được nói lôi thôi gì nữa. (Quả thật mèo không ăn thịt chuột Chù). Thế
là chuột Chù đành phải vác nhạc đi tìm mèo. Chuyện làng chuột mà y như
chuyện hội đồng làng xã ngày xưa. Cuối cùng, kẻ có địa vị thấp kém nhất
thường phải làm những công việc vất vả và nguy hiểm nhất.
Cảnh chuột Chù vác nhạc đi tìm mèo để đeo vào cổ nó (thực hành cái
sáng kiến được cho là chí lí của chuột Cống) được miêu tả thật sinh động và hài
hước: Khốn chưa trông thấy mèo, mới nghe thấy tiếng, Chù đã sợ run cả mình,
không dám tiến. Tuy không bị mèo vồ nhưng khi thấy mèo nhe nanh giương vuốt
là Chù vội cắm đầu, vác cái thân ì ạch chạy khốn chạy khổ về báo cho làng hay.
Thái độ của làng chuột cũng thảm hại chẳng kém, mới nghe Chù báo đã hoảng
sợ, bỏ chạy tán loạn, chẳng ai hỏi đến cái nhạc, nó bon đi đâu và bon tự bao giờ
không biết. Thành ra từ đó, chuột vốn sợ mèo, vẫn hoàn sợ mèo mãi.
Sáng kiến của hội đồng chuột đưa ra thật hay, thật hấp dẫn nhưng bất
ngờ và đáng buồn cười là từ kẻ hiến kế cho đến kẻ bị bắt đi đeo nhạc, từ hạng
có địa vị cao đến hạng cùng đinh, không một ai đủ can đảm để thực hiện diệu kế
ấy. Kẻ bị bắt buộc phải làm thì ươn hèn, dốt nát, làm sao có thể cáng đáng được
công việc lớn lao! Rốt cuộc, chuột vẫn sợ mèo.
Đeo nhạc cho mèo là một truyện ngụ ngôn đặc sắc, có ý nghĩa thâm thúy.
Trí tưởng tượng phong phú của dân gian đã xây dựng nên hình ảnh sinh động
về xã hội loài chuột nhưng mang đậm nét của xã hội loài người với những hạng
người có cá tính khác nhau. Cái hội đồng chuột trong truyện đâu có khác với cái
hội đồng làng xã trong chế độ phong kiến xưa kia, quanh năm bận rộn họp hành,
bàn cãi toàn chuyện tưởng như đại sự nhưng cuối cùng thì chẳng làm được việc
gì có ích, chỉ tốn phí thời gian, tiền của mà thôi.
Truyện còn ngầm phê phán cách suy nghĩ viển vông và đưa ra bài học
thiết thực đối với mỗi người: Trước khi làm gì, ta nên suy xét, cân nhắc cho thật
kĩ khả năng thực hiện vấn đề đó, kẻo uổng công vô ích. Truyện còn phê phán
những kẻ tham sống sợ chết, chỉ biết nói mà không dám làm, những lúc gặp khó
khăn nguy hiểm thì vội vàng trút hết trách nhiệm cho người khác.
ĐỀ 72: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Dân tộc Việt từ ngàn xưa đã coi tinh thần đoàn kết là cội nguồn của sức
mạnh dựng nước và giữ nước.
- Bài học giáo dục nhẹ nhàng mà thâm thúy về tinh thần đoàn kết đã được
gửi gắm qua truyện ngụ ngôn: Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
2. Thân bài:
* Nguyên nhân dẫn đến mất đoàn kết giữa Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng:
- Từ trước đến nay, mọi người sống với nhau rất thân thiết. Bỗng một
hôm, cô Mắt cho rằng lão Miệng quanh năm chẳng làm gì cả mà lại được hưởng
hết những miếng ngon miếng lành.
- Vì nông nổi nên mấy người kia cũng thấy đúng như vậy và cùng lên án
lão Miệng là lười biếng.
* Hành động dại dột của Chân, Tay, Tai, Mắt:
- Rủ nhau kéo đến nhà lão Miệng, mắng nhiếc không tiếc lời.
- Tuyên bố từ nay lão Miệng phải tự kiếm lấy thức ăn. Mọi người sẽ không
làm để nuôi lão nữa.
- Bảo nhau đồng loạt nghỉ việc.
* Hậu quả tai hại:
- Sau vài ngày, cả bọn đều thấy mệt mỏi rã rời. Chân, Tay, không buồn cất
nhắc, Mắt lờ đờ, Tai lúc nào cũng ù ù như xay lúa.
- Đến ngày thứ bảy thì không thể chịu nổi, bèn họp nhau lại để bàn.
- Bác Tai chỉ ra nguyên nhân: Mọi người làm việc để kiếm thức ăn nuôi lão
Miệng. Lão Miệng nhai, nuốt thức ăn, nuôi toàn bộ cơ thể, như vậy cũng là làm
việc. Bỏ lão Miệng đói thì tất nhiên là Chân, Tay, Tai, Mắt đều tê liệt cả. Mọi
người hiểu và thấy rõ sai lầm.
* Giải quyết hậu quả:
- Bác Tai dẫn cả bọn đến xin lỗi lão Miệng.
- Thấy lão Miệng sống dở chết dở, cả bọn vội vã làm việc, kiếm thức ăn
mang về cho lão.
- Lão Miệng ăn xong, mọi người đếu thấy khỏe khoắn hẳn ra.
- Mọi người lại sống vui vẻ, hoà thuận như xưa.
3. Kết bài:
- Truyện ngắn gọn, dí dỏm nhưng là một lời khuyên khôn ngoan: Đoàn kết
thì sống, chia rẽ thì chết.
- Trong xã hội, mỗi người có một năng lực, trình độ, nhiệm vụ khác nhau.
Do đó không nên suy bì, tị nạnh, dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích
chung.
- Đoàn kết tạo ra sức mạnh và làm cho cuộc đời trở nên đẹp đẽ, đáng yêu.
II. BÀI LÀM
Từ thuở xa xưa, tổ tiên chúng ta đã nhận thức rất đúng về vai trò của đoàn
kết và mối quan hệ chặt chẽ giữa cá nhân với cộng đồng. Nhận thức đó đã được
đúc kết thành bài học bổ ích gửi gắm trong tục ngữ, ca dao và truyện cổ dân
gian. Một trong những truyện mang ý nghĩa giáo dục thấm thìa, sâu sắc dưới
một hình thức ngụ ngôn dí dỏm, thú vị là truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Truyện kể về hành động dại dột của Chân, Tay, Tai, Mắt suy bì, ganh tị với
Miệng mà bảo nhau đồng loạt không làm việc, để cho lão Miệng tự kiếm lấy
miếng ăn. Hành động nông nổi thiếu suy nghĩ ấy khiến cho cả bọn mệt mỏi, rã
rời. Hiểu ra sai lầm, tất cả kéo nhau đến giảng hoà với lão Miệng. Rồi ai làm việc
nấy, mọi người lại sống hoà thuận như xưa.
Trong truyện ngụ ngôn này, nhân vật là những bộ phận của cơ thể con
người đã được nhân hoá.
Thông qua truyện, người xưa muốn khẳng định: Trong xã hội, trong một
tập thể, tất cả mọi người đều có liên quan chặt chẽ với nhau. Không ai có thể
tách rời khỏi cộng đồng và chỉ có đoàn kết, gắn bó, nương tựa lẫn nhau mới có
thể tạo ra sức mạnh. Nếu chia rẽ sẽ dẫn tới suy thoái, diệt vong. Do đó mọi
người phải biết hợp tác với nhau và tôn trọng công sức của nhau.
Kết cấu truyện ngắn gọn, bố cục rõ ràng và có đầy đủ nhân vật, tình tiết,
mâu thuẫn như một màn kịch nhỏ và hoàn cảnh nảy sinh mâu thuẫn chính là
cuộc trao đổi giữa Chân, Tay, Tai, Mắt về sự cống hiến và hưởng thụ.
Truyện kể rằng: Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai, lão Miệng từ xưa
vẫn sống với nhau rất thân thiết. Bỗng một hôm, cô Mắt cho rằng lão Miệng
quanh năm không phải làm việc mà lại được hưởng tất cả những miếng ngon
miếng lành; còn mọi người suốt ngày quần quật mà chẳng được gì. Ý kiến của
cô Mắt nêu ra nhanh chóng được cậu Chân, cậu Tay và bác Tai ủng hộ. Cả bọn
hăm hở đến gặp lão Miệng để nói thẳng với lão rằng:... Từ nay chúng tôi không
làm để nuôi ông nữa. Lâu nay, chúng tôi đã cực khổ, vất vả vì ông nhiều rồi. Câu
nói ấy chứa đựng sự bất bình mà mọi người cố chịu đựng bấy lâu. Chẳng thèm
nghe lão Miệng phân trần phải trái, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay đều lắc
đầu mà rằng: Không, không phải bàn bạc gì nữa, từ nay trở đi, ông phải lo lấy
mà sống. Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ không làm gì cả. Xưa nay, chúng tôi có
biết cái gì ngọt bùi ngon lành mà làm cho cực!
Nếu mới nghe qua thì lí sự của chúng có vẻ đúng, bởi thực tế là Mắt nhìn,
Tai nghe, Tay làm, Chân đi... để kiếm sống, chứ còn Miệng thì chỉ có ăn uống,
hưởng thụ, nào có phải vất vả, mệt nhọc gì đâu? Kẻ làm nhiều mà không được
hưởng thụ gì, còn kẻ không làm lại được hưởng tất. Chúng bất bình, giận dữ,
tẩy chay lão Miệng để cho lão biết thân. Chúng không hiểu rằng việc nhai nuốt
của lão Miệng cũng là làm việc, biến thức ăn thành chất bổ dưỡng nuôi cơ thể,
trong đó có Chân, Tay, Tai, Mắt... Người có khoẻ thì Mắt mới tinh, Tai mới thính,
Chân, Tay mới nhanh nhẹn được. Trong cơ thể con người, mỗi bộ phận có một
chức năng riêng nhưng tất cả phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì sự sống.
Nếu một bộ phận suy yếu hoặc ngừng hoạt động, con người sẽ bị bệnh hoặc có
thể chết.
Suy nghĩ nông nổi của Chân, Tay, Tai, Mắt đã phải trả giá. Chúng bảo
nhau đồng loạt nghỉ việc. Một ngày, hai ngày rồi ba ngày, cả bọn thấy mệt mỏi,
rã rời. Cậu Chân, cậu Tay không còn muốn cất mình lên để chạy nhảy vui đùa
như trước nữa. Cô Mắt thì ngày cũng như đêm, lúc nào cũng lờ đờ, hai mi nặng
trĩu như buồn ngủ mà ngủ không được. Bác Tai trước kia hay đi nghe hò nghe
hát, nghe tiếng gì cũng rõ, nay bỗng thấy lúc nào cũng ù ù như xay lúa ở trong,
cả bọn lừ đừ, mệt mỏi như thế cho đến ngày thứ bảy thì không thể chịu được
nữa, đành họp nhau lại để bàn...
May mắn là trong bọn họ, bác Tai đã hiểu ra nguyên nhân của tình cảnh
đáng sợ ấy nên giải thích cho cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay: Chúng ta lầm rồi các
cháu ạ. Chúng ta nếu không làm cho lão Miệng có cái ăn thì chúng ta sẽ bị tê liệt
cả. Lão Miệng không đi làm, nhưng lão có công việc là nhai. Như vậy cũng là
làm việc chứ không phải là ăn không ngồi rồi. Trước kia sống với nhau thân thiết
như thế, nay tự dưng chúng ta gây nên chuyện. Lão Miệng có ăn thì chúng ta
mới khỏe khoắn được. Chúng ta nên đến nói lại với lão, các cháu có đi không?
Trước lời nói có tình có lí của bác Tai, cả bọn đã nghe ra và cố gượng dậy
đi theo bác Tai đến nhà lão Miệng. Suốt bảy ngày không có cái ăn, lão Miệng
cũng rơi vào cảnh sống dở chết dở: nhợt nhạt cả hai môi, hai hàm thì khô như
rang, không buồn nhếch mép.
Tất cả mọi người vội vàng ai vào việc nấy: Bác Tai, cô Mắt vực lão Miệng
dậy. Còn cậu Chân, cậu Tay thì đi tìm thức ăn cho lão Miệng ăn. Lão Miệng ăn
xong, dần dần tỉnh lại. Và như có phép lạ, lập tức bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu
Tay tự nhiên thấy đỡ mệt nhọc, rồi thấy trong mình khoan khoái như trước. Từ
một sự hiểu lầm dẫn đến hành động không đúng, nay hiểu ra, may mà còn cứu
kịp.
Kết thúc câu chuyện là cảnh: lão Miệng, bác Tai, cô Mắt, cậu Chân, cậu
Tay lại thân mật, hoà thuận, mỗi người một việc, không ai tị ai cả.
Như vậy rõ ràng là Chân, Tay, Tai, Mắt và Miệng có liên quan mật thiết với
nhau. Mỗi bộ phận tuy có chức năng riêng nhưng có cùng một nhiệm vụ chung
là duy trì và phát triển sự sống của cơ thể. Không thể nói bộ phận nào quan
trọng hơn cả. Sự khiếm khuyết bất cứ bộ phận nào cũng gây ảnh hưởng xấu
đến toàn bộ hoạt động của con người.
Từ quan hệ không thể tách rời giữa các nhân vật, truyện ngụ ngôn này đã
khéo léo đặt ra bài học cho con người. Trong cuộc sống, một cá nhân không thể
tồn tại nếu tách khỏi cộng đồng. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá
nhân với cộng đồng là hết sức quan trọng. Truyện tuy ngắn gọn nhưng là lời
khuyên khéo léo và thiết thực: Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người.
Bởi vì suy nghĩ, hành động, cách ứng xử của cá nhân không chỉ tác động đến
bản thân mà còn ảnh hưởng chung đến cả cộng đồng, tập thể.
Điều thú vị là qua truyện ngụ ngôn này, ông cha ta đã khẳng định: Trong
xã hội, mỗi người có một năng lực, một trình độ khác nhau, do đó sự phân công
công việc và cách thức đóng góp cũng khác nhau. Không nên suy bì, tị nạnh một
cách nông nổi, thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích
chung. Bên cạnh việc đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau, mỗi thành viên phải tự giác làm
việc theo sự phân công của xã hội. Khi làm việc phải cống hiến hết sức mình cho
cả cộng đồng. Có như vậy xã hội mới ngày càng tốt đẹp hơn.
ĐỀ 73: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Treo biển.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Người Việt ta rất thích cười. Tiếng cười dân gian đa dạng, phong phú,
xoay quanh nhiều vấn đề xã hội và có nhiều mục đích khác nhau: trào lộng,
châm biếm, phê phán và đả kích...
- Truyện Treo biển là một ngụ ngôn chứa đựng ý nghĩa giáo dục dưới hình
thức cười cợt nhẹ nhàng, phê phán thái độ dao động, phụ thuộc vào người khác,
làm mất đi chủ kiến của mình.
2. Thân bài:
* Diễn biến hành động của ông chủ cửa hàng cá:
- Treo biển: Ở đây có bán cá tươi.
- Người thứ nhất góp ý, ông ta nghe theo, bỏ chữ tươi.
- Người thứ hai góp ý, ông ta bỏ chữ Ở đây.
- Người thứ ba góp ý, ông ta bỏ chữ có bán.
- Người thứ tư góp ý, ông ta bỏ nốt chữ cá.
- Cuối cùng, ông ta cất luôn cái biển.
* Các chi tiết gây cười:
- Cứ mỗi lần có người góp ý là ông chủ hàng cá vội vã làm theo ngay mà
không suy nghĩ kĩ. Đó là thái độ tiếp thu tiêu cực, thụ động.
- Ông ta không hiểu mục đích treo biển để làm gì và những điều viết trên
biển có ý nghĩa gì nên nghe người khác góp ý theo kiểu “đẽo cày giữa đường”.
- Những người góp ý cũng góp ý một cách tùy tiện, nghĩ sao nói vậy.
3. Kết bài:
- Bài học đặt ra trong truyện: Trước khi làm bất cứ việc gì, ta phải cân
nhắc kĩ. Nếu thấy đúng thì phải giữ vững chủ kiến. Không nên phụ thuộc vào
người khác một cách thụ động mà hỏng việc.
II. BÀI LÀM
Người Việt Nam chúng ta rất thích cười, dù trong bất kì tình huống, hoàn
cảnh nào. Vì vậy, tiếng cười dân gian rất phong phú, có đủ cung bậc khác nhau.
Có tiếng cười hóm hỉnh, hài hước để giải trí sau những giờ lao động mệt nhọc;
có tiếng cười trào lộng, châm biếm để phê phán những thói hư tật xấu hay đả
kích kẻ thù.
Treo biển là truyện ngụ ngôn chứa đựng ý nghĩa thâm thúy dưới hình thức
tiếng cười vui vẻ, nhẹ nhàng. Nội dung kể về một ông chủ cửa hàng bán cá treo
tấm biển: Ở đây có bán cá tươi. Nội dung tấm biển được một số người qua
đường góp ý theo cách “nghĩ gì nói nấy”. ông chủ nghe theo, cứ bỏ dần từng
chữ và cuối cùng thì cất luôn cái biển.
Đọc truyện, người ta thấy buồn cười vì trên đời này không có ai góp ý kiểu
như vậy và cũng chẳng có ai lại dễ dàng nghe theo những lời góp ý vớ vẩn như
thế. Điều thú vị là truyện lấy cái không thể xảy ra để nói đến những cái hiện
tượng có thực trong cuộc sống hằng ngày. Mượn chuyện ông chủ cửa hàng bán
cá nghe ai góp ý cũng làm theo, truyện ngụ ý phê phán những người thiếu chủ
kiến trong cuộc sống.
Tuy ngắn gọn nhưng truyện vẫn có đầy đủ cốt truyện và nhân vật. Ngôn
ngữ kể giản dị, mộc mạc nhưng hài hước, gây cười. Truyện bắt đầu từ tấm biển
đề: Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ TƯƠI.
Nội dung tấm biển thông báo bốn ý: Ở ĐÂY chỉ rõ địa chỉ bán hàng. CÓ
BÁN thông báo chức năng hoạt động của cửa hàng (bán chứ không phải là mua
cá). CÁ thông báo loại mặt hàng mà cửa hàng bán ra (cá chứ không phải tôm,
cua...). TƯƠI thông báo chất lượng của cá.
Bốn yếu tố ấy là cần thiết cho nội dung của một tấm biển quảng cáo bằng
ngôn ngữ.
Thông thường, một cửa hàng muốn bán thứ gì đều phải quảng cáo để giới
thiệu hàng của mình với mọi người. Xét về mục đích thì nội dung của tấm biển
trên là đầy đủ và hợp lí. Sẽ không có chuyện gì xảy ra nếu không có những lời
góp ý vu vơ của một số người.
Có bốn người góp ý về tấm biển. Mỗi người bảo ông chủ bỏ bớt một yếu
tố trong dòng chữ đề trên biển.
Người đầu tiên bảo:
- Nhà này xưa nay quen bán cá ươn hay sao mà bây giờ phải đề biển là
cá TƯƠI?
Sự đối lập giữa tươi và ươn đã đánh vào lòng tự ái của ông chủ nên ông
ta vội xóa bỏ chữ TƯƠI đi. Tấm biển còn dòng chữ: Ở ĐÂY CÓ BÁN CÁ.
Người thứ hai nhìn tấm biển, cười bảo:
- Người ta chẳng nhẽ ra hàng hoa mua cá hay sao mà phải đề là Ở ĐÂY?
Nghe thế, ông chủ vội xoá hai chữ ấy đi. Dòng chữ còn lại là CÓ BÁN CÁ.
Vài hôm sau, người khách khác đến mua cá, cũng cười bảo:
- Ở đây chẳng bán cá thì bày cá ra khoe hay sao mà phải đề là CÓ BÁN?
Ngẫm cũng có lí, ông chủ xóa liền hai chữ CÓ BÁN. Rốt cuộc, tấm biển
còn mỗi chữ CÁ. Chẳng cứ ông chủ cửa hàng mà đến chính người đọc, người
nghe cũng tưởng rằng đến đây thì chẳng còn gì để góp ý nữa. Nhưng người thứ
tư lại bảo:
- Chưa đi đến đầu phố đã ngửi thấy mùi tanh, đến gần nhà thấy đầy
những cá, ai chẳng biết là bán cá, còn đề biển làm gì nữa?
Vậy thì tấm biển treo lên là thừa, là vô ích, chủ nhà bèn cất luôn cái biển.
Thoạt nghe, ta tưởng ý kiến của từng người đều có lí nhưng nghĩ kĩ thì
hoá ra không phải. Bởi vì người góp ý không hiểu được chức năng, ý nghĩa của
yếu tố mà họ cho là thừa và mối quan hệ giữa nó với những yếu tố khác. Mỗi
người đều lấy sự hiện diện của khách ở cửa hàng và sự trực tiếp được nhìn,
ngửi, xem xét mặt hàng thay cho thông báo gián tiếp vốn là chức năng, đặc điểm
của ngôn ngữ. Vì vậy, họ chỉ quan tâm đến một hoặc hai từ mà họ cho là quan
trọng mà không thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của các thành phần khác trong
câu.
Đọc truyện này, ta thấy cứ mỗi lần có người góp ý là ông chủ cửa hàng
không cần suy nghĩ vội làm theo ngay. Ta cười vì thái độ tiếp thu thụ động,
không suy xét cẩn thận của ông ta. Ta cười vì ông ta không hiểu mục đích treo
biển để làm gì và những điều viết trên biển có ý nghĩa gì.
Kết thúc truyện cũng là lúc tiếng cười vang lên bởi vì ý kiến của từng
người mới nghe qua tưởng là có lí nhưng làm theo thì kết quả cuối cùng lại
thành phi lí. Ta bật cười vì trên đời này có lẽ không có ông chủ nào lại nghe góp
ý theo kiểu “đẽo cày giữa đường” như thế.
Treo biển là một truyện hài hước tạo nên tiếng cười vui vẻ, phê phán nhẹ
nhàng những người thiếu chủ kiến trong suy nghĩ và trong hành động.
Từ truyện này, ta có thể rút ra bài học: Trong cuộc sống, chúng ta nên
lắng nghe lời góp ý của mọi người nhưng không nên vội vàng làm theo khi chưa
suy xét kĩ. Làm bất cứ việc gì ta cũng phải đặt ra mục đích, có chủ kiến và biết
tiếp thu một cách chọn lọc và sáng tạo ý kiến của người khác để vận dụng thiết
thực vào hoàn cảnh của mình. Trước khi làm việc gì cũng nên đặt ra câu hỏi:
Mình làm việc ấy để làm gì? Làm như thế nào?
Qua truyện này, chúng ta cũng có thể rút ra bài học về cách dùng từ. Từ
dùng phải có nghĩa, có chứa thông tin cần thiết, không dùng từ thừa và thiếu. Từ
được sử dụng phải ngắn gọn, rõ ràng, chính xác, đem lại hiệu quả cao nhất
trong giao tiếp.
ĐỀ 74: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện cười Lợn cưới, áo mới.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Lợn cưới áo mới là truyện cười đặc sắc trong kho tàng truyện cổ dân
gian Việt Nam.
- Thói khoe khoang bị đem ra chế giễu, cười cợt với mục đích phê phán
nhẹ nhàng.
2. Thân bài:
* Hai anh khoe của gặp nhau - cuộc tranh tài bất ngờ và thú vị:
- Anh khoe lợn cưới: đi tìm lợn sổng, lại hỏi thăm: - Bác có thấy con lợn
cưới của tôi chạy qua đây không? Buồn cười ở chỗ anh ta cố tình khoe lợn để
làm đám cưới (có nghĩa là cưới to), mặc dù lợn cưới hình thức chẳng khác gì
lợn thường.
- Anh khoe áo mới: mặc áo mới đứng ở cửa, chờ người qua lại để khoe
(giống như trẻ con thích khoe áo mới). Chờ mãi mới thấy anh đi tìm lợn, vội vàng
bảo: - Từ lúc tôi mặc cái áo mới này, tôi chẳng thấy con lợn nào chạy qua đây
cả. Buồn cười ở chỗ anh ta chỉ cần đáp có hay không? lại trả lời dài dòng và cố ý
nhấn mạnh vào cái áo mới.
* Nghệ thuật trào lộng của truyện:
- Thể hiện qua cách tạo tình huống bất ngờ, cách hỏi, cách đáp nặng về
tính chất khoe của của hai nhân vật.
- Thủ pháp cường điệu tô đậm thói xấu khoe khoang, gây ra tiếng cười
chế giễu, phê phán.
3. Kết bài:
- Khoe của là một thói xấu; nó biến kẻ khoe khoang thành trò cười cho
thiên hạ.
- Câu chuyện giống như một màn hài kịch nhỏ chứa đựng bài học bổ ích
cho mọi người.
II. BÀI LÀM
Lợn cưới, áo mới là một trong những truyện cười đặc sắc của kho tàng
truyện cười dân gian Việt Nam. Truyện chế giễu những người có tính hay khoe
của. Tính xấu ấy thường biến người khoe của thành trò cười cho thiên hạ.
Truyện ngắn gọn như một màn hài kịch nhỏ, kể lại cuộc tranh tài thú vị, bất
ngờ giữa hai anh có tính hay khoe, mà của đem khoe chẳng đáng là bao. Một
anh khoe con lợn cưới bị sổng chuồng và một anh khoe chiếc áo mới may.
Anh đi tìm lợn khoe của trong một hoàn cảnh thật đặc biệt. Đó là lúc nhà
anh ta có việc lớn (đám cưới), lợn để làm cỗ cưới lại bị sổng mất, nghĩa là trong
lúc việc nhà đang bận bịu và bối rối, một tình huống tưởng như người trong cuộc
không còn tâm trí nào để khoe khoang.
Khi đi tìm lợn, lẽ ra anh ta chỉ cần hỏi: Bác có thấy con lợn của tôi chạy
qua đây không? Hoặc nói rõ con lợn ấy là lợn gì, to hay nhỏ, trắng hay đen, thì
anh ta lại hỏi: Bác có thấy con lợn CƯỚI của tôi chạy qua đây không? Câu hỏi
thừa từ cưới, vì từ cưới không phải là từ thích hợp để chỉ đặc điểm của con lợn
bị sổng và cũng không phải là thông tin cần thiết đối với người được hỏi. Người
được hỏi không cần biết con lợn ấy được dùng vào việc gì (đám cưới hay đám
tang). Thế nhưng nó lại rất quan trọng đối với anh đi tìm lợn vì nó là cái cớ để
anh ta khoe con lợn của mình. Thành ra câu hỏi của anh ta vừa có mục đích tìm
lợn, vừa có mục đích khoe của, nhưng để khoe của là chính.
Anh có áo mới cũng thích khoe đến mức may được cái áo, không đợi
ngày lễ, ngày Tết hay đi chơi mới mặc mà đem ra mặc ngay. Tính thích khoe của
đã biến anh ta thành trẻ con. (Già được bát canh, trẻ được manh áo mới).
Nhưng trẻ con thích khoe áo mới thì đó là lẽ thường tình bởi chúng ngây thơ,
trong sáng; còn nhân vật trong truyện cười này mặc áo mới với mục đích là để
khoe của.
Cách khoe của anh ta cũng thật buồn cười: đứng hóng ở cửa, đợi có ai đi
qua người ta khen. Vì nôn nóng khoe áo mới mà anh ta đã đứng mãi từ sáng tới
chiều, kiên nhẫn đợi để khoe bằng được. Đợi mãi chẳng thấy ai hỏi đến, anh ta
tức lắm. Đang lúc cụt hứng vì không có ai để mà khoe áo mới thì anh chàng mất
lợn chạy tới hỏi thăm. Mừng như bắt được vàng, anh có áo mới vội giơ ngay vạt
áo ra để khoe và trả lời rằng: Từ lúc tôi mặc CÁI ÁO MỚI này, tôi chẳng thấy con
lợn nào chạy qua đây cả. Đúng ra, anh ta chỉ cần đáp là có nhìn thấy hay không
nhìn thấy, nhưng anh ta lại cố tình khoe áo mới cả bằng điệu bộ lẫn lời nói. Đấy
là những yếu tố thừa nhưng lại là nội dung, mục đích thông báo chính của anh
ta.
Tính khoe của của nhân vật được đẩy tới tột đỉnh bằng nghệ thuật cường
điệu, bởi trên đời này không có ai lại khoe của một cách vô duyên và trơ trẽn
như anh lợn cưới và anh áo mới.
Đọc truyện chúng ta bật cười vì nhiều lẽ:
Trước hết là về hành động, lời nói của nhân vật. Của chẳng đáng là bao,
chỉ là chiếc áo, con lợn mà vẫn thích khoe. (Đây cũng chính là đặc điểm của loại
người này). Sau đó là lời khoe và cách khoe đều quá đáng và phi lí.
Tác giả dân gian đã tạo ra cuộc ganh đua gay cấn trong việc khoe của
giữa hai nhân vật. Người đi tìm lợn sổng mà cứ nhấn mạnh là lợn cưới. Kẻ trả
lời là không thấy lợn thì lại cố đưa thêm cái áo mới của mình vào. Cái trái tự
nhiên, không hợp với lẽ thường xuất hiện khiến cho tiếng cười chế giễu vang
lên.
Anh áo mới đứng hóng ở cửa, kiên nhẫn đợi suốt từ sáng đến chiều mà
vẫn chưa khoe được áo. Đang tức tối thì lại bị anh lợn cưới khoe của trước. Anh
áo mới đã không bỏ lỡ cơ hội cả ngày chỉ có một lần để khoe áo mới trước mặt
anh lợn cưới. Kết thúc bất ngờ của truyện tạo cảm giác rất hấp dẫn và thú vị cho
người đọc.
Tính khoe của là thói thích tỏ ra, trưng ra cho mọi người biết là mình giàu
có. Đây là thói xấu thường thấy ở những người mới giàu (giàu xổi), thích học
đòi. Nó biểu hiện qua cách ăn mặc, nói năng, giao tiếp, cách trang sức và xây
cất, bài trí nhà cửa lố lăng, kệch cỡm.
Tính khoe của là thói xấu của con người nói chung nhưng ở truyện này nó
lại mang một sắc thái khá đặc biệt. Nhân vật trong truyện không phải là khoe tài,
khoe lộc, khoe trí tuệ, học vấn, công lao đóng góp hay địa vị trong xã hội mà là
khoe những thứ tầm thường, nhỏ nhặt, chẳng đáng đem khoe.
Khi khoe của đã trở thành một thói quen, một nhu cầu cần thiết đến mức
không khoe không chịu được thì nó sẽ là thói xấu và thói xấu ấy làm cho những
người xung quanh khó chịu. Câu chuyện dí dỏm Lợn cưới, áo mới là một bài học
bổ ích cho tất cả chúng ta.
ĐỀ 75: Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện ngụ ngôn Con hổ có nghĩa
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Con hổ có nghĩa của tác giả Vũ Trinh (sống vào cuối thế kỉ 18, đầu thế kỉ
19), là một truyện ngụ ngôn được lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
- Nội dung mượn chuyện loài vật để đề cao đạo lí ân nghĩa của loài người.
2. Thân bài:
* Câu chuyện thứ nhất: Hổ đực nhờ bà đỡ Trần đã đẻ cho hổ cái.
- Bà đỡ Trần nhà ở huyện Đông Triều, nổi tiếng đỡ đẻ mát tay.
- Một đêm, hổ đực tới nhà, cõng bà chạy vào rừng sâu, nhờ bà đỡ đẻ cho
hổ cái.
- Hổ đực trả ơn bà mười lạng bạc, sau này nhờ số bạc đó, bà đỡ Trần
sống qua cảnh mất mùa đói kém,
* Câu chuyện thứ hai: Hổ trán trắng và bác tiều phu.
- Bác tiều phu đang đốn củi ở sườn núi thì nhìn thấy dưới chân núi, cỏ cây
lay động không ngớt.
- Bác xuống xem, thì ra hổ trán trắng bị hóc xương nên đau đớn giãy giụa.
- Bác lấy xương ra giúp hổ.
- Hôm sau, hổ cõng một con nai để ngay trước cửa nhà bác, đền ơn cứu
mạng.
- Mười năm sau, bác tiều phu chết, hổ đến tận mộ vĩnh biệt.
- Năm nào cũng vậy, cứ đến ngày giỗ bác tiều phu là hổ lại mang lễ vật tới
viếng.
* Ý nghĩa giáo dục của truyện:
- Tưởng tượng ra hai con hổ sống có nghĩa có tình đến như vậy là tác giả
có mục đích giáo huấn rõ ràng: loài vật đã vậy, loài người phải sống ra sao cho
đúng đạo làm người.
3. Kết bài:
- Truyện Con hổ có nghĩa giáo huấn đạo đức bằng hình tượng nghệ thuật
sinh động nên nhẹ nhàng, dễ tiếp thu.
- Bài học đúc kết từ truyện là đề cao lòng biết ơn và nhắc nhở con người
phải sống cho có tình có nghĩa.
II. BÀI LÀM
Con hổ có nghĩa là tác phẩm của Vũ Trinh (1759 - 1828), một nhà Nho
quê ở làng Xuân Lan, huyện Lang Tài, trấn Kinh Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh),
ông đỗ hương cống (cử nhân), làm quan dưới thời nhà Lê và thời nhà Nguyễn.
Truyện thuộc loại ngụ ngôn, mượn chuyện loài vật để nhằm đề cao ân nghĩa
trong đạo làm người.
Những câu chuyện cảm động về hổ được kể trong hai đoạn văn có kết
cấu giống nhau: hổ (hoặc gia đình hổ) gặp nạn, người cứu hổ, hổ đền ơn.
Đoạn thứ nhất là câu chuyện giữa hổ và bà đỡ Trần ở huyện Đông Triều.
Hổ đực đền ơn mười lạng bạc vì bà đỡ Trần đã cứu vợ con nó. Số bạc ấy đã
giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém.
Biện pháp nghệ thuật nhân hóa thường thấy trong truyện ngụ ngôn khiến
cho hình ảnh hổ đực mang bóng dáng hình ảnh con người. Nó không những biết
đền ơn đáp nghĩa với ân nhân mà còn có nhiều biểu hiện đáng quý: hết lòng với
hổ cái trong lúc sinh đẻ, vui mừng khi có con, lễ phép, lưu luyến trong phút chia
tay ân nhân...
Đoạn thứ hai kể về chuyện đã xảy ra giữa hổ trán trắng và người kiếm củi
ở huyện Lạng Giang. Hổ bị hóc xương, không thể nào lấy ra được. Nó đau đớn
giãy giụa làm cỏ cây nghiêng ngả. Bác tiều phu đã giúp hổ lấy khúc xương ra
khỏi họng. Hổ đền ơn đáp nghĩa bác tiều. Hơn mười năm sau, bác tiều qua đời,
hổ đến bên quan tài tỏ lòng thương tiếc. Sau đó, mỗi năm đến ngày giỗ bác, hổ
lại đem dê hoặc lợn đến để trước cửa nhà.
Đoạn này rất hấp dẫn vì có nhiều tình tiết độc đáo, trong đó có tình huống
gay go khi hổ bị hóc xương, cách xử sự táo bạo và nhiệt tình của bác tiều trong
khi cứu hổ, việc trả ơn và tình nghĩa sâu nặng của hổ đối với ân nhân.
Cái đáng quý nhất trong tính cách của hai con hổ chính là lòng biết ơn -
điều cốt lõi trong đạo làm người.
Khi bà đỡ Trần giúp cho hổ cái được mẹ tròn con vuông, sau những phút
mừng rỡ đùa giỡn với con, hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy chân đào lên
một cục bạc đưa biếu bà Trần. Hành động đền ơn đáp nghĩa của nó diễn ra
ngay tức thì, không một chút đắn đo, suy nghĩ. Mà hổ đền ơn đâu phải ít, những
hơn mười lạng bạc. Hổ tuy là một con vật nhưng lại biết cư xử có nghĩa có tình
với người đã giúp gia đình nó vượt qua cơn hoạn nạn. Khi tiễn ân nhân về, hổ
cúi đầu vẫy đuôi. Đến khi bà đỡ Trần đã đi khá xa, nó gầm lên một tiếng rồi bỏ
đi. Đây là tiếng chào tiễn biệt, là lời cảm ơn chân thành của hổ đực đối với ân
nhân.
Cũng đáp đền ân nghĩa nhưng cách trả ơn của hổ trán trắng có khác. Sau
khi được cứu sống, nó đã tha một con nai đến đặt trước cửa nhà bác tiều phu để
tạ ơn. Cảm động nhất là mười năm sau, khi bác tiều phu qua đời, nó vẫn nhớ
đến bác và về chịu tang ân nhân của mình. Từ xa, mọi người nhìn thấy hổ trán
trắng dụi đầu vào quan tài, gầm lên tỏ vẻ thương xót, chạy quanh quan tài vài
vòng rồi đi. Từ đó về sau, hằng năm cứ tới ngày giỗ bác tiều là hổ lại đưa dê
hoặc lợn đến để ở ngoài cửa...
Trong đoạn này, tác giả đặc tả ân nghĩa thủy chung của hổ qua hai tiếng
gầm của nó: một tiếng gầm tỏ ý cảm ơn khi đem nai về cho bác tiều và một tiếng
gầm tỏ ý tiếc thương để vĩnh biệt ân nhân. Tiếng gầm ấy cũng là lời hứa không
bao giờ quên ơn người đã khuất.
Hai câu chuyện được tác giả kể lại bằng giọng kể tự nhiên, mộc mạc,
không khoa trương, không bình phẩm, nhưng chính điều này lại làm cho ý nghĩa
của câu chuyện thêm thú vị và sâu sắc.
Trong thực tế có thể có những con vật có nghĩa (chó, ngựa...) nhưng chắc
hẳn là không thể sâu nặng như hai con hổ trong truyện. Tưởng tượng ra hai con
hổ có nghĩa đến mức lí tưởng như vậy, mục đích của tác giả chính là mượn
chuyện hổ để nói chuyện con người. Xưa nay, theo quan niệm của nhân dân ta
thì hổ là loài vật dữ tợn nhất. Ấy vậy mà chúng lại rất có nghĩa có tình. Thế thì
con người phải sống sao đây? Giáo huấn bằng hình tượng nghệ thuật dễ tiếp
thu hơn là cách nói khô khan. Bài học được tác giả gửi gắm một cách kín đáo và
thấm thìa trong câu chuyện này là: Làm người thì phải sống cho có tình, có
nghĩa. Tình nghĩa không chỉ cảm hóa được con người mà đối với loài vật chúng
ta cũng có thể thu phục được.
ĐỀ 76: Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện Mẹ hiền dạy con
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Truyện Mẹ hiền dạy con trích từ cuốn Liệt nữ truyện của Trung Hoa thời
phong kiến trung đại.
- Truyện kể về cách dạy con nghiêm khắc và đúng đắn của bà mẹ lúc
Mạnh Tử còn nhỏ. Nhờ vậy mà sau này Mạnh Tử trở thành bậc đại hiền trong
thiên hạ.
2. Thân bài:
* Những việc làm sáng suốt của bà mẹ:
- Nhà ở gần nghĩa địa, thấy con bắt chước người ta đào, chôn, lăn, khóc,
bà mẹ dọn nhà ra gần chợ.
- Nhà ở gần chợ, thấy con học thói bán buôn điên đảo, bà dọn nhà đến
gần trường học.
- Nhà ở gần trường, thấy con học hành chăm chỉ và lễ phép với mọi
người, bà bảo đây mới đúng là chỗ con trẻ ở được lâu dài.
- Thấy hàng xóm giết lợn, con hỏi mẹ để làm gì, mẹ đáp giết lợn cho con
ăn. Biết mình lỡ lời, bà ra chợ mua thịt cho con ăn.
- Bà đang dệt vải, thấy con bỏ học về nhà chơi, liền lấy dao cắt đứt tấm
vải. Con hiểu ý mẹ, lại chăm chỉ học hành.
* Ý nghĩa của những việc làm trên:
- Môi trường sống có tác động rất lớn tới việc hình thành nhân cách của
con người, nhất là trẻ em.
- Trong cuộc sống, người lớn phải biết giữ chữ tín.
- Cha mẹ phải nghiêm khắc giáo dục, làm gương cho con cái noi theo.
3. Kết bài:
- Truyện ngắn gọn nhưng chứa đựng nhiều bài học bổ ích, thiết thực về
phương pháp giáo dục con cái.
- Ý nghĩa truyện không bó hẹp trong việc cha mẹ dạy con mà còn mở rộng
ra tới phạm vi giáo dục con người nói chung trong xã hội.
II. BÀI LÀM
Truyện Mẹ hiền dạy con trích từ sách Liệt nữ truyện của Trung Hoa, nội
dung kể về cách dạy con rất nghiêm khắc và tình thương con đặc biệt của bà mẹ
Mạnh Tử. Bà đã cố tạo cho con một môi trường sống tốt đẹp và dạy con vừa có
đạo đức, vừa có ý chí học hành, phấn đấu.
Cốt truyện gồm năm sự việc diễn ra từ thuở Mạnh Tử còn nhỏ:
Sự việc 1: Nhà ở gần nghĩa địa, thấy con bắt chước người ta đào, chôn,
lăn, khóc, mẹ nghĩ: Chỗ này không phải chỗ con ta ở được nên dọn nhà ra gần
chợ.
Sự việc 2: Nhà ở gần chợ, thấy con bắt chước học theo thói bán buôn
điên đảo, bà mẹ nghĩ: Chỗ này cũng không phải là chỗ con ta ở được nên dọn
nhà đến cạnh trường học.
Sự việc 3: Nhà ở gần trường học, thấy con bắt chước lễ phép, chăm chỉ
học hành, bà mẹ vui lòng nói: Chỗ này là chỗ con ta ở được lâu dài.
Sự việc 4: Thấy nhà hàng xóm giết lợn, con hỏi mẹ: Người ta giết lợn làm
gì thế? Mẹ nói đùa: Để cho con ăn đấy. Biết mình lỡ lời, bà đi chợ mua thịt lợn
về cho con ăn.
Sự việc 5: Con đang đi học bỏ về nhà chơi, mẹ cầm dao cắt đứt tấm vải
đang dệt để ngầm ví với việc con đang đi học mà bỏ học. Sau khi nghe mẹ
khuyên, con học tập rất chuyên cần.
Năm sự việc trên thể hiện ba ý như sau:
Môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tính cách con
người.
Đề cao chữ tín trong cuộc sống.
Tác dụng của hành động và lời nói của người lớn đối với con trẻ.
Vấn đề mà bà mẹ thầy Mạnh Tử quan tâm trước hết trong việc dạy con là
môi trường sống. Bà cho rằng phải tạo cho con một môi trường sống tốt đẹp thì
đứa trẻ mới có thể tiếp thu những mặt tích cực, những yếu tố lành mạnh để phát
triển nhân cách và trưởng thành. Trẻ em rất hay bắt chước. Nếu ở môi trường
sống không tốt thì sẽ bị ảnh hưởng bởi những điều không tốt. Như khi nhà ở gần
nghĩa địa thì Mạnh Tử đã bắt chước người ta đào, chôn, lăn khóc. Đến lúc dọn
nhà ra gần chợ thì lại bắt chước theo thói bán buôn điên đảo. Chỉ khi dọn nhà
đến cạnh trường học thì bà mẹ mới yên tâm: Chỗ này mới là chỗ con ta ở được
lâu dài. Mạnh Tử đã bắt chước theo thái độ lễ phép và chăm chỉ học hành của
học trò. Đúng là Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng như nhân dân ta thường nói.
Ở sự việc thứ tư, khi biết mình lỡ lời nói đùa, bà mẹ đã kịp thời chữa lại
ngay. Không phải bà đính chính lại câu nói đùa mà bà đi chợ mua thịt lợn về cho
ăn thật. Bà muốn chứng tỏ câu nói của bà là đúng. Bà phải giữ chữ tín trước con
vì bà nghĩ rằng con ta thơ ấu, tri thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng
hóa ra ta dạy nó nói dối hay sao? Mà nếu để trẻ em học nói dối từ nhỏ thì sẽ hết
sức nguy hiểm. Cách dạy của bà mẹ thật khéo léo và tế nhị, giữ cho tâm hồn
con trẻ trong sáng, hồn nhiên. Hơn thế, bà dạy con phải biết quý trọng chữ tín vì
nếu mất chữ tín thì không ai còn tin mình cả, do đó sẽ không thể làm tốt mọi
việc.
Bên cạnh cách dạy con khéo léo, bà mẹ còn có thái độ rất kiên quyết. Phải
nói rằng thái độ này của bà đã gây ấn tượng mạnh và có tác dụng tích cực đối
với con. Hành động, lời nói của bà mẹ xuất phát từ tình thương, muốn con nên
người. Sự nghiêm khắc của bà mẹ có tác dụng rất lớn trong việc hướng con trai
mình vào việc học tập chuyên cần để về sau trở nên bậc đại hiền.
Câu kết của truyện: Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của
bà mẹ hay sao? vừa là lời kể, vừa là lời bình của tác giả. Mạnh Tử trở thành
người tài giỏi trước hết là nhờ công lao giáo dục và tình thương yêu của bà mẹ.
Hành động cắt đứt tấm vải đang dệt và lời nói nghiêm khắc của bà mẹ đã để lại
ấn tượng sâu sắc, thành bài học nhớ đời cho Mạnh Tử. Thấm thía lời mẹ dạy, từ
hôm đó, thầy Mạnh Từ học tập rất chuyên cần.
Truyện ngắn gọn nhưng đúc kết được nhiều bài học bổ ích và thiết thực
về phương pháp giáo dục con cái. Mẹ thương con chưa đủ mà còn phải biết dạy
con nên người. Bà mẹ thầy Mạnh Tử là tấm gương sáng về tình thương và cách
dạy con cho các bậc cha mẹ noi theo.
Dạy con trước hết phải chọn môi trường sống tốt cho con.
Dạy con trước hết phải dạy đạo đức làm người.
Dạy đạo đức chưa đủ, còn phải dạy con lòng say mê học tập và ý chí
phấn đấu trong cuộc sống.
Đối với con, không nên nuông chiều mà phải nghiêm khắc. Thái độ
nghiêm khắc phải xuất phát từ tình yêu thương chân thành và mong muốn thiết
tha con mình trở thành người có tài có đức.
Truyện Mẹ hiền dạy con tuy đơn giản nhưng lại gây xúc động sâu sắc bởi
ý nghĩa to lớn của nó. Ý nghĩa ấy vượt ra ngoài phạm vi dạy con trong gia đình
và mở rộng thành vấn đề giáo dục trẻ em trong toàn xã hội. Cách dạy con đúng
đắn của bà mẹ thầy Mạnh Tử đã đem lại kết quả tốt đẹp. Sau này, Mạnh Tử đã
trở thành một bậc đại hiền nổi tiếng trong thiên hạ.
ĐỀ 77: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.
I. DÀN Ý
1. Mở bài:
- Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của tác giả Hồ Nguyên Trừng được
viết vào khoảng nửa đầu thế kỉ XV.
- Truyện ca ngợi phẩm chất cao quý của Thái y lệnh Phạm Bân, một lòng
một dạ phục vụ dân nghèo, quên mình để cứu người.
2. Thân bài:
* Công đức to lớn của Thái y lệnh Phạm Bân:
- Ông dốc toàn bộ tâm lực, tiền của để cứu giúp dân nghèo, không tính
toán thiệt hơn.
- Mang tiền của nhà ra mua thóc gạo, tích trữ thuốc tốt để vừa nuôi ăn,
vừa chữa bệnh cho họ.
- Dựng nhà cho bệnh nhân ở. Ai bị bệnh nặng, ông tận tình cứu chữa
không lấy tiền.
- Ông cứu sống hàng ngàn người qua cơn đói kém, dịch bệnh.
- Tiêu biểu nhất là hành động cứu sống người đàn bà nghèo trước rồi mới
chữa bệnh cho quý nhân trong cung vua sau, bất chấp chuyện có thể mất đầu.
* Ý nghĩa của truyện:
- Phạm Bân là tấm gương sáng Lương y như từ mẫu.
- Khẳng định y đức là vấn đề quan trọng hàng đầu của người thầy thuốc.
3. Kết bài:
- Truyện mang tính giáo huấn khá rõ, thể hiện qua tính cách nhân vật
Phạm Bân.
- Truyện vừa có nội dung sâu sắc, vừa có giá trị nghệ thuật cao, chứng tỏ
năng lực văn chương của tác giả.
II. BÀI LÀM
Trong xã hội có rất nhiều nghề và làm nghề nào cũng phải có đạo đức.
Đặc biệt có hai nghề bắt buộc phải đặt đạo đức lên hàng đầu là dạy học và làm
thuốc. Truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng của Hồ Nguyên Trừng (con
trai trưởng của vua Hồ Quý Ly), viết vào khoảng nửa đầu thế kỉ XV trên đất
Trung Quốc kể về một bậc lương y tinh thông nghề nghiệp và giàu lòng nhân
đạo.
Truyện ca ngợi phẩm chất cao quý của Thái y lệnh Phạm Bân: hết lòng vì
dân nghèo, quên mình để cứu người, bất chấp quyền uy vua chúa cũng như sự
nguy hiểm đến tính mạng bản thân.
Truyện gồm ba đoạn có liên quan chặt chẽ với nhau trong việc bộc lộ chủ
đề của truyện. Đoạn đầu giới thiệu tên tuổi, chức vị, công đức của Phạm Bân.
Đoạn giữa kể về một tình huống gay cấn có tính chất thử thách, qua đó y đức
của ông được bộc lộ rõ nhất. Đoạn cuối nhấn mạnh y đức sáng ngời của bậc
lương y đã truyền cho con cháu, giúp con cháu giữ vững nghiệp nhà, tiếp tục
cứu đời.
Công đức của lương y Phạm Bân rất lớn, không phải thầy thuốc nào cũng
làm được như ông. Ông đã dốc toàn tâm, toàn ý, toàn lực để cứu người mà
không nề hà, không tính toán thiệt hơn.
Phạm Bân đã đem hết tiền của trong nhà ra mua thuốc tốt, tích trữ thóc
gạo để vừa nuôi ăn vừa chữa bệnh cho người nghèo khổ. Dẫu bệnh nặng đến
đâu chăng nữa ông cũng không né tránh. Lương y làm nhà cho họ ở, chu cấp
cơm cháo đầy đủ và chữa bệnh không lấy tiền, ông đã cứu sống hơn ngàn
người trong những năm đói kém, dịch bệnh.
Nhưng điều làm ta cảm phục nhất là việc ông đã quyết tâm cứu sống
người đàn bà nghèo trước rồi sau đó mới chữa bệnh cho quý nhân trong cung
vua, dù đã có lệnh của vua.
Thái độ tức giận cùng với lời nói có ý đe dọa của quan Trung sứ: - Phận
làm tôi, sao được như vậy? Ông định cứu tính mạng người ta mà không cứu tính
mạng mình chăng? đã đẩy lương y Phạm Bân vào một tình huống éo le khó xử.
Đây là một thử thách gay go buộc ông phải có sự lựa chọn đúng đắn giữa
việc cứu người dân thường sắp chết với việc thực hiện phận sự của một kẻ bề
tôi.
Thái độ dứt khoát và cương quyết của ông chứng tỏ uy quyền vua chúa
không thắng nổi y đức của một bậc lương y chân chính. Ông không sợ mắc tội
“phạm thượng”, không sợ nguy hiểm đến tính mạng mà chỉ nghĩ đến trách nhiệm
của người thầy thuốc, ông đã vượt qua thử thách một cách nhẹ nhàng.
Phạm Bân không chỉ có trái tim nhân hậu và bản lĩnh cứng cỏi mà còn tỏ
ra rất thông minh trong ứng xử. Câu nói: Nếu người kia không được cứu, sẽ chết
trong khoảnh khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông
cậy vào Chúa thượng, may ra thoát đã nhấn mạnh đến trách nhiệm nặng nề của
người thầy thuốc, khơi dậy tình thương và lòng bao dung của nhà vua và tỏ rõ
lòng thành của một bề tôi. Nếu như nhà vua là người có lương tâm, chắc chắn
sẽ cảm động và không trị tội ông.
Quả thật, lúc đầu nhà vua tức giận, nhưng sau khi nghe Thái y lệnh trình
bày thì không những hết giận mà còn ban khen. Điều đó chứng tỏ Trần Anh
Vương cũng là một ông vua sáng suốt và nhân đức.
Phạm Bân lấy tấm lòng chân thành của mình để tâu trình điều hơn lẽ thiệt,
từ đó thuyết phục được nhà vua. Đây là thắng lợi vẻ vang của y đức, của bản
lĩnh, trí tuệ và lòng nhân ái.
Kết thúc truyện, tác giả kể về con cháu của Thái y lệnh và sự ngợi khen
của người đời đối với gia đình ông. Sự nghiệp của lương y Phạm Bân và con
cháu ông đã chứng minh cho quan niệm Ở hiền gặp lành. Tên tuổi của ông còn
lưu truyền mãi trong dân gian.
Truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng mang tính chất giáo huấn khá
rõ. Cách viết gần với cách viết kí, viết sử, nghĩa là thiên về ghi chép chuyện
người thật việc thật mà không cần thêm thắt. Truyện có bố cục chặt chẽ, hợp lí
và cách dẫn dắt gây hứng thú cho người đọc. Tác giả đã chọn lọc và nhấn mạnh
vào một tình huống gay cấn (đó là chi tiết có thật) để qua đó tính cách nhân vật
chính được bộc lộ rõ ràng, gây ấn tượng khó quên. Trong khi thể hiện tính cách
nhân vật, tác giả còn tạo ra những lời đối thoại sắc sảo, chứa đựng ý tứ sâu xa.
Do đó, truyện vừa có giá trị nội dung lớn, vừa có giá trị nghệ thuật cao.
Phần 4. PHỤ LỤC HƯỚNG DẪN ĐỌC VÀ TÌM HlỂU TÁC PHẨM
Bài 1: CON RỒNG, CHÁU TIÊNCâu 1. Hãy tìm những chi tiết trong truyện thể hiện tính chất kì lạ, lớn lao,
đẹp đẽ về nguồn gốc và hình dạng của Lạc Long Quân và Âu Cơ:
(a. Lạc Long Quân:
- Dòng dõi, nguồn gốc: nòi Rồng, là con trai của thần Long Nữ ở biển
Đông.
- Tài năng: sức khoẻ vô địch, có nhiều phép lạ, giúp dân diệt trừ Ngư Tinh,
Hồ Tinh, Mộc Tinh.
b. Âu Cơ:
- Dòng dõi, nguồn gốc: là Tiên nữ sống trên núi cao phương Bắc, thuộc
dòng họ Thần Nông - vị thần chủ trì nghề nông, dạy loài người trồng trọt và cày
cấy.
- Sắc đẹp: xinh đẹp tuyệt trần.
- Tính tình phóng khoáng, tâm hồn thơ mộng: thích du ngoạn đến những
vùng đất có nhiều hoa thơm cỏ lạ.)
Câu 2. Việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ
sinh nở có gì kì lạ? Lạc Long Quân cùng Âu Cơ chia con như thế nào và để làm
gì? Theo truyện này thì người Việt là con cháu của ai?
(a. Cuộc hôn nhân có điều kì lạ là:
- Rồng ở dưới nước gặp Tiên trên non cao rồi yêu nhau, kết duyên vợ
chồng như lương duyên Trời đã định sẵn.
- Kết quả thật lạ thường: Âu Cơ sinh ra cái bọc trăm trứng, nở thành một
trăm con, con nào con nấy hồng hào, đẹp đẽ, khỏe mạnh như thần.
b. Lạc Long Quân chia tay với Âu Cơ, đem theo năm mươi người con
xuống biển, còn năm mươi người con theo mẹ lên núi. Ngoài lí do kẻ ở cạn,
người ở nước tính tình tập quán khác nhau, khó mà chung sống cùng nhau,
truyện còn nhằm giải thích hiện tượng phân bố vùng định cư tự nhiên của các
dân tộc trên đất Lạc Việt.
c. Theo truyện này thì người Việt là con cháu vua Hùng, có nguồn gốc là
con Rồng, cháu Tiên.)
Câu 3. Em hiểu thế nào là chi tiết tưởng tượng, kì ảo? Hãy nói rõ vai trò
của các chi tiết này trong truyện?
(Chi tiết tưởng tượng, kì ảo là chi tiết không có thật mà do con người
tưởng tượng ra. Vì là sản phẩm của trí tưởng tượng nên các chi tiết ấy thường
kì ảo và chính sự kì ảo làm cho câu chuyện trở nên huyền diệu, lung linh, li kì,
hấp dẫn nhưng vẫn hàm chứa những ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Người ta gọi
các chi tiết ấy là yếu tố thần kì. hoang đường, kì ảo...
Chi tiết tưởng tượng, kì ảo trong truyện cổ dân gian gắn liền với quan
niệm, tín ngưỡng của người xưa về thế giới. Chẳng hạn, quan niệm về các thế
giới (thiên giới, trần gian, âm phủ, thủy phủ), về sự đan xen giữa thế giới thần
tiên và thế giới loài người, quan niệm “vạn vật hữu linh” (vạn vật đều có linh
hồn); tín ngưỡng vật tổ (mỗi tộc người được sinh ra từ một loài thảo mộc hay
động vật nào đó).
Trong truyền thuyết Con Rồng, cháu Tiên, các chi tiết tưởng tượng, kì ảo
mang ý nghĩa như sau:
- Tô đậm tính chất kì lạ, lớn lao, đẹp đẽ của nhân vật, sự kiện.
- Thần kì hóa, linh thiêng hóa nguồn gốc giống nòi để chúng ta thêm tự
hào, tôn kính tổ tiên, dân tộc mình.
- Làm tăng sức hấp dẫn của truyện.)
Câu 4. Ý nghĩa của truyện Con Rồng, cháu Tiên:
(- Giải thích, suy tôn nguồn gốc dân tộc và thể hiện niềm tự hào về dòng
giống Tiên Rồng đẹp đẽ, cao quý, thiêng liêng của người Lạc Việt.
- Đề cao nguồn gốc chung là biểu hiện ý nguyện đoàn kết, thống nhất của
nhân dân ta. Người Việt dù ở miền xuôi hay miền ngược, dù ở đồng bằng hay
ven biển, trong nước hay ở nước ngoài đều cùng chung cội nguồn, đều là con
của mẹ Âu Cơ (đồng bào: cùng một bọc), vì vậy phải thương yêu, đoàn kết, đùm
bọc lẫn nhau.)
Câu 5. Em biết những truyện nào của các dân tộc khác ở Việt Nam cũng
giải thích nguồn gốc dân tộc tương tự như truyện Con Rồng, cháu Tiên? sự
giống nhau ấy khẳng định điều gì?
(Người Kinh có truyện Sự tích trăm trứng, các dân tộc ít người như Khơ
Mú, La Ha, Dao, Ba Na,... cũng có những truyện giống kiểu truyện Quả bầu mẹ
với nội dung: Qua trận lụt lớn, chỉ còn sống sót một cặp trai gái; sau này họ trở
thành vợ chồng và sinh ra các dân tộc.
Sự tích trăm trứng và Quả bầu mẹ là những mô tip nghệ thuật quen thuộc
trong truyện cổ dân gian. Sự giống nhau ấy khẳng định cội nguồn thống nhất của
dân tộc ta.)
Bài 2: SỰ TÍCH BÁNH CHƯNG, BÁNH GIẦYCâu 1. Vua Hùng chọn người nối ngôi trong hoàn cảnh nào, với ý định ra
sao và bằng hình thức gì?
(- Hoàn cảnh: Lúc này, giặc ngoài đã dẹp yên, vua Hùng tập trung chăm lo
cho đời sống dân chúng được no ấm. Nhà vua đã già, muốn truyền ngôi cho
con.
- Ý nguyện của vua: Người nối ngôi phải nối được chí của vua cha, không
nhất thiết phải là con trưởng.
- Hình thức: Yêu cầu của vua thực chất là một câu đố đặc biệt để thử tài
(nhân lễ Tiên Vương, ai làm cỗ vừa ý vua sẽ được truyền ngôi).
Đây là cuộc thi chí chứ không phải thi tài (chí của mỗi người con biểu hiện
qua việc làm cỗ vừa ngon, vừa có ý nghĩa và đẹp lòng vua cha). Vua Hùng cho
rằng: Người nối ngôi ta phải nối được chí ta, không nhất thiết phải là con trưởng.
Đó là một quan niệm đúng đắn, tiến bộ (coi trọng cái chí của người đứng đầu
một đất nước).)
Câu 2. Vì sao trong các con vua, chỉ có Lang Liêu được Thần giúp đỡ?
(Lang Liêu được thần giúp đỡ (báo mộng) vì so với các anh em khác,
chàng là người thiệt thòi nhất bởi tuy là con vua nhưng cuộc sống của chàng rất
gần gũi với dân thường.
- Chàng là người duy nhất hiểu được ý thần và thực hiện ý thần: Hãy lấy
gạo làm bánh mà lễ Tiên vương. Thần ở đây chính là nhân dân. Không ai có thể
suy nghĩ về lúa gạo sâu sắc và trân trọng hạt gạo tinh hoa của trời đất, kết quả
mồ hôi, công sức của con người như nhân dân.
- Lang Liêu chỉ có tấm lòng chân thành yêu kính vua cha và đôi tay làm
lụng chuyên cần, vì thế chàng xứng đáng được thần giúp đỡ.)
Câu 3. Vì sao hai thứ bánh của Lang Liêu được vua cha chọn để tế Trời
Đất, Tiên vương và Lang Liêu được chọn nối ngôi vua?
(* Hai thứ bánh của Lang Liêu được nhà vua chọn vì:
- Hai thứ bánh đó có ý nghĩa rất thực tế: là sản phẩm do chính con người
làm ra và thể hiện thái độ quý trọng nghề nông, quý trọng hạt gạo nuôi sống con
người.
- Hai thứ bánh đó chứa đựng ý tưởng sâu xa: tượng trưng cho Trời Đất và
muôn loài.
* Lang Liêu được chọn nối ngôi vua vì:
- Hai thứ bánh của Lang Liêu hợp ý vua cha. Điều đó chứng tỏ chàng
đúng là người con tài năng, thông minh, hiếu thảo.
- Bánh chưng, bánh giầy là kết tinh của ý thần, lòng người và chí vua,
đồng thời cũng là sáng tạo của người anh hùng văn hóa.)
Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy.
(- Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy giải thích về nguồn gốc của sự vật
và phản ánh hiện thực cuộc sống của tổ tiên dân tộc Việt - một dân tộc có nền
văn minh lúa nước lâu đời. Thuở ấy, dân ta đã có kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi,
chế biến các món ăn đặc biệt vừa ngon lành vừa giàu ý nghĩa.
Nguồn gốc của bánh chưng, bánh giầy gắn liền với ý nghĩa sâu sắc của
hai loại bánh đó. Trong hai thứ bánh có cả vũ trụ, đất trời, cầm thú, cỏ cây, lại có
cả tình người đùm bọc lẫn nhau.
- Truyền thuyết Bánh chưng, bánh giầy còn đề cao lao động, đề cao nghề
nông. Bánh chưng, bánh giầy càng có ý nghĩa bao nhiêu thì càng nói lên tài
năng, phẩm chất tốt đẹp của Lang Liêu bấy nhiêu.
- Truyện còn là bài học sâu sắc về cách lựa chọn người có đức có tài để
trị vì đất nước, chăm sóc muôn dân.)
Câu 5. Ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng,
bánh giầy.
(- Ý nghĩa của phong tục ngày Tết nhân dân ta làm bánh chưng, bánh giầy
là đề cao nghề nông, đề cao sự tôn thờ Trời Đất và tổ tiên. Ông cha ta đã xây
dựng phong tục tập quán của dân tộc từ những điều giản dị nhưng thiêng liêng
và giàu ý nghĩa.
- Quang cảnh ngày Tết nhân dân ta làm hai loại bánh này còn có ý nghĩa
giữ gìn truyền thống văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc và làm sống lại câu
chuyện Bánh chưng, bánh giầy trong kho tàng truyện cổ dân gian Việt Nam.)
Câu 6. Đọc truyện này, em thích nhất chi tiết nào? Vì sao?
(Tùy theo ý thích của từng em, tuy nhiên phải giải thích hợp tình hợp lí. Ví
dụ:
- Chi tiết Lang Liêu nằm mộng thấy thần khuyên rằng: Trong trời đất,
không gì quý bằng hạt gạo... Đây là chi tiết kì ảo làm tăng sức hấp dẫn cho
truyện. Trong các con của vua Hùng, chỉ có Lang Liêu mới được thần giúp đỡ vì
chàng là người lao động. Chi tiết này còn nêu bật giá trị của hạt gạo ở một đất
nước mà cư dân sống bằng nghề nông; đồng thời nó cũng thể hiện thái độ trân
trọng sản phẩm do con người làm ra.
- Chi tiết lời nói của vua Hùng về hai loại bánh:
Bánh hình tròn là tượng Trời ta đặt tên là bánh giầy. Bánh hình vuông là
tượng Đất, các thứ thịt mỡ, đậu xanh, lá dong là tượng cầm thú, cây cỏ muôn
loài, ta đặt tên là bánh chưng. Lá bọc ngoài, mĩ vị để trong là ngụ ý đùm bọc
nhau. Lang Liêu đã dâng lễ vật hợp với ý ta. Lang Liêu sẽ nối ngôi ta, xin Tiên
vương chứng giám.
Nhận xét của vua Hùng về bánh chưng, bánh giầy cũng chính là ý nghĩa,
tư tưởng, tình cảm của nhân dân ta về hai loại bánh này nói riêng và về phong
tục làm hai loại bánh này vào ngày Tết nói chung.)
Bài 3: THÁNH GIÓNGCâu 1. Trong truyện Thánh Gióng có những nhân vật nào? Ai là nhân vật
chính? Nhân vật chính này được xây dựng bằng những chi tiết tưởng tượng, kì
ảo và giàu ý nghĩa. Em hãy tìm và liệt kê những chi tiết đó.
(a. Truyện Thánh Gióng gồm có các nhân vật: bà mẹ Thánh Gióng, Thánh
Gióng, sứ giả, bà con dân làng. Thánh Gióng là nhân vật chính, các nhân vật
phụ khác đóng vai trò giúp cho câu chuyện phát triển và làm nổi bật tính cách
của nhân vật chính.
b. Nhân vật Thánh Gióng được xây dựng bằng nhiều chi tiết tưởng tượng
kì ảo giàu ý nghĩa:
* Sự ra đời của Thánh Gióng.
- Hai vợ chồng ông lão mong muốn có được một đứa con trai nối dõi.
- Bà vợ ướm thử chân mình vào vết chân lạ ở ngoài đồng.
- Sau đó có thai 12 tháng mới sinh ra một đứa con trai.
- Đứa trẻ lên ba tuổi mà vẫn không biết nói cười, không biết đi, cứ đặt đâu
nằm đấy.
* Nghe sứ giả rao truyền lệnh của vua, cậu bé cất tiếng nói đầu tiên và đó
là lời nhận trách nhiệm đánh tan quân giặc.
* Gióng lớn nhanh như thổi, ăn mỗi bữa Một nong cơm ba nong cà...
* Gióng vươn vai biến thành tráng sĩ, mặc áo giáp sắt, cưỡi ngựa sắt, cầm
roi sắt lên đường đánh giặc.
* Gióng đánh tan giặc Ân.
* Đến chân núi Sóc, Gióng cởi bỏ áo giáp sắt rồi cưỡi ngựa sắt bay về trời.
* Vua phong cho danh hiệu là Phù Đổng Thiên vương. Nhân dân lập đền
thờ tại quê nhà.
* Những dấu tích còn lại của trận Thánh Gióng đánh tan giặc Ân: tre đằng
ngà, làng Cháy, ao hồ...)
Câu 2. Theo em, các chi tiết sau đây có ý nghĩa như thế nào?
a) Tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc.
b) Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc.
c) Bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé.
d) Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ.
đ) Gậy sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường đánh giặc.
e) Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời.
(a. Chi tiết tiếng nói đầu tiên của chú bé lên ba là tiếng nói đòi đánh giặc
có ý nghĩa:
- Ý thức trách nhiệm trước vận mệnh đất nước được đặt lên hàng đầu đối
với người anh hùng và tạo cho người anh hùng những khả năng, hành động phi
thường, thần kì.
- Ca ngợi tinh thần đánh giặc cứu nước qua chi tiết cậu bé Gióng ba năm
không nói là để bắt đầu nói thì nói lời tình nguyện đứng ra cứu nước.
- Gióng chính là hình ảnh của nhân dân. Khi nước nhà gặp cơn nguy biến
thì nhân dân đứng lên đánh giặc đầu tiên. Vua vừa phát lời kêu gọi, Gióng đã
đáp lời cứu nước.
b. Gióng đòi ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt để đánh giặc:
- Gióng yêu cầu được cung cấp những phương tiện tốt nhất để chiến
thắng quân thù.
- Những thứ Gióng đòi hỏi phản ánh thời đại đồ sắt trong lịch sử nước ta.
Con người đã biết dùng sắt để chế tạo công cụ lao động và vũ khí chống ngoại
xâm.
c. Bà con làng xóm vui lòng góp gạo nuôi cậu bé:
- Phản ánh lòng yêu nước của nhân dân ta, ai cũng mong Gióng lớn
nhanh để đánh giặc cứu nước.
- Gióng lớn lên bằng cơm gạo của dân làng nên Gióng không chỉ là con
của một bà mẹ mà là con của mọi người, mọi nhà. Sức mạnh của Gióng tiêu
biểu cho sức mạnh đoàn kết chống ngoại xâm của dân tộc Việt.
d. Gióng lớn nhanh như thổi, vươn vai thành tráng sĩ:
- Việc cứu nước có sức mạnh thần kì làm cho Gióng vụt lớn lên để đánh
giặc.
- Chi tiết vươn vai một cái thành tráng sĩ của Gióng là chi tiết thần kì mang
đậm dấu ấn của truyện cổ dân gian. Thời xưa, nhân dân ta quan niệm rằng
người anh hùng phải khổng lồ về thể xác, phi thường về sức mạnh và chiến
công. Cái vươn vai của Gióng là để đạt đến sự phi thường ấy.
- Người Việt vốn hiền lành nhưng khi vận mệnh đất nước ở tình thế nguy
nan thì cả dân tộc vụt đứng dậy dũng mãnh như Thánh Gióng.
đ. Roi sắt gãy, Gióng nhổ tre bên đường tiếp tục đánh giặc:
Chi tiết này có ý nghĩa: Gióng đánh giặc không chỉ bằng vũ khí mà còn
bằng cây cỏ quen thuộc của quê nhà. Hành động này thể hiện ý chí quyết đánh
tan giặc ngoại xâm của Gióng, của dân tộc Việt.
e. Gióng đánh giặc xong, cởi áo giáp sắt để lại và bay thẳng về trời.
- Gióng sinh ra từ cõi lặng im, nay lại trở về trong im lặng, không màng
đến phú quý, công danh. Gióng đã đi vào cõi bất tử.
- Tuy vậy, Gióng vĩnh viễn ở lại với đất trời, cây cỏ, với dân tộc Việt. Vua
trân trọng phong cho Gióng danh hiệu cao quý là Phù Đổng Thiên Vương. Gióng
được nhân dân suy tôn là Thánh Gióng và lập đền thờ để muôn đời ghi nhớ
công ơn.)
Câu 3. Hãy nêu ý nghĩa của hình tượng Thánh Gióng:
(- Thánh Gióng là hình tượng tiêu biểu, rực rỡ về người anh hùng đánh
giặc giữ nước; tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, bất khuất chống ngoại xâm của
dân tộc Việt.
- Thánh Gióng là người anh hùng trẻ tuổi mang trong mình sức mạnh của
thần thánh, tổ tiên và dân tộc.
- Phải xây dựng hình tượng khổng lồ, đẹp đẽ và có ý nghĩa khái quát như
Thánh Gióng thì mới thể hiện đầy đủ lòng yêu nước, khả năng và sức mạnh
chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.)
Câu 4. Truyền thuyết thường liên quan đến sự thật lịch sử. Theo em,
truyện Thánh Gióng có liên quan đến sự thật lịch sử nào?
(Truyện Thánh Gióng có liên quan đến sự thật lịch sử là đời Hùng vương
thứ sáu, giặc Ân ở phương Bắc sang xâm lược nước ta. Cậu bé Gióng sinh ra ở
làng Gióng (trước đây thuộc huyện Tiên Du, Bắc Ninh; nay là làng Phù Đổng
thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội); đánh tan giặc ở núi Trâu thuộc huyện Quế Võ,
Bắc Ninh; sau đó bay lên trời ở núi Sóc thuộc huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Dấu vết
trận đánh vẫn còn để lại ở những nơi Gióng phi ngựa qua như từng dãy ao hồ là
vết chân ngựa; có một loại tre thân màu vàng do ngựa phun lửa bị cháy (tre
đằng ngà) và có một làng tên là làng Cháy. Gióng được vua phong cho danh
hiệu cao quý là Phù Đổng Thiên Vương và nhân dân lập đền thờ ngay ở quê
nhà.)
Câu 5. Hình ảnh nào của Gióng là hình ảnh đẹp nhất trong tâm trí em?
(Tùy theo cảm nhận của từng em nhưng phải giải thích được tại sao đó là
hình ảnh đẹp nhất. Ví dụ:
- Hình ảnh về sự lớn lên kì lạ của Thánh Gióng là hình ảnh đẹp nhất, để lại
ấn tượng sâu đậm trong tâm trí em. Sau hôm gặp sứ giả, cậu bé lớn nhanh như
thổi. Gióng phải lớn nhanh như thế thì mới đủ sức mạnh để đánh giặc hay chính
lòng yêu nước, căm thù giặc đã thôi thúc cậu bé?! Khi giặc tràn đến thì cậu bé
vươn vai biến thành một tráng sĩ mình cao hơn trượng. Cái độc đáo của hình
tượng là ở chỗ mới hôm qua, Gióng còn là một đứa bé lên ba không biết đi,
không biết nói cười thì hôm nay, khi đất nước lâm nguy, cậu bé bỗng trở thành
một tráng sĩ oai phong lẫm liệt. Dường như nhiệm vụ cứu nước càng cấp bách
bao nhiêu thì cậu bé càng lớn nhanh bấy nhiêu để thừa sức giết giặc. Người xưa
đã sáng tạo ra những chi tiết thần kì đặc sắc để ca ngợi lòng yêu nước và ý chí
chống xâm lăng của người anh hùng.)
Câu 6. Theo em, tại sao hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông lại
mang tên Hội khỏe Phù Đổng?
(Hội thi thể thao trong nhà trường phổ thông mang tên Hội khỏe Phù Đổng
vì:
- Đây là hội thi thể thao dành cho lứa tuổi thiếu niên, học sinh, lứa tuổi của
Gióng. Đặt tên như vậy là để tưởng nhớ và noi gương người anh hùng cứu
nước nhỏ tuổi.
- Mục đích của Hội khỏe Phù Đổng là động viên học sinh rèn luyện sức
khỏe để học tập tốt, lao động tốt, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng
đất nước.)
Bài 4: SƠN TINH – THỦY TINHCâu 1. Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh gồm mấy đoạn? Mỗi đoạn thể hiện nội
dung gì? Truyện được gắn với thời đại nào trong lịch sử Việt Nam?
(a. Có thể chia truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh thành ba đoạn với nội dung
như sau:
- Đoạn 1: Từ đầu đến...mỗi thứ một đôi: Hùng Vương thứ mười tám kén
rể.
- Đoạn 2: Tiếp theo đến...Thần Nước đành rút quân: Sơn Tinh, Thủy Tinh
cùng đến cầu hôn. Cuộc giao tranh ác liệt giữa hai vị thần và chiến thắng của
Sơn Tinh.
- Đoạn 3: Phần còn lại: Sự trả thù dai dẳng của Thủy Tinh và hậu quả của
nó là gây ra nạn lụt hằng năm.
b. Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh được gắn với thời Hùng vương thứ mười
tám. Đây là thời gian chỉ có tính chất ước lệ, chung chung.
Truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh đã gắn công cuộc trị thủy với thời đại mở
nước, dựng nước của người Việt cổ. Do đó ý nghĩa của truyện không chỉ dừng
lại ở việc giải thích các hiện tượng tự nhiên và phản ánh ước mơ chinh phục
thiên nhiên mà còn hướng tới việc ca ngợi công lao dựng nước của tổ tiên ta.)
Câu 2. Trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh, rhân vật chính là ai? Các nhân
vật chính được miêu tả bằng những chi tiết nghệ thuật tưỏng tượng, kì ảo như
thế nào? Ý nghĩa tượng trưng của các nhân vật đó?
(a. Nhân vật chính trong truyện là Sơn Tinh và Thủy Tinh.
b. Những chi tiết nghệ thuật tưởng tượng kì ảo về Sơn Tinh, Thủy Tinh và
về cuộc giao tranh giữa hai vị thần này:
- Cả hai vị thần đều có tài cao, phép lạ. Sơn Tinh vẫy tay về phía đông,
phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi.
Thủy Tinh gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về.
- Những chi tiết nghệ thuật kì ảo, phi thường về Sơn Tinh, Thủy Tinh và
khí thế hào hùng của cuộc giao tranh giữa hai vị thần thể hiện trí tưởng tượng
bay bổng, phong phú của người xưa.
- Sơn Tinh và Thủy Tinh là những hình tượng nhân vật tưởng tượng,
hoang đường nhưng lại có ý nghĩa hiện thực vì đã khái quát được hiện tượng lũ
lụt và phản ánh sức mạnh cùng ước mơ chế ngự thiên tai của người Việt cổ và
công lao to lớn của các vua Hùng thời dựng nước.
c. Ý nghĩa tượng trưng của các nhân vật:
- Thủy Tinh là hiện tượng mưa to và bão lụt tái diễn hằng năm được hình
tượng hóa trở thành kẻ thù hung dữ, truyền kiếp của Sơn Tinh.
- Sơn Tinh là hình tượng tiêu biểu cho cư dân nước Việt cổ đã biết đắp đê
chống lũ lụt, đồng thời thể hiện ước mơ chiến thắng thiên tai.)
(- Tất cả những nhân vật thần kì, các chi tiết kì ảo đều nhằm giải thích hiện
tượng lũ lụt và việc chống lũ lụt hằng năm của nhân dân ta ở đồng bằng Bắc Bộ.
- Người xưa để cho Sơn Tinh thắng Thủy Tinh là gửi gắm vào đó ước mơ
có được sức mạnh thần kì để chế ngự nạn lũ lụt - một tai họa lớn của con người.
- Truyện đã xây dựng được những hình tượng nghệ thuật kì ảo mang tính
tượng trưng và khái quát cao.)
Bài 5: SỰ TÍCH HỒ GƯƠMCâu 1. Vì sao đức Long Quân cho nghĩa quân Lam Sơn mượn gươm
thần?
(- Giặc Minh đô hộ nước Đại Việt, làm nhiều điều bạo ngược. Nhân dân ta
căm thù chúng đến tận xương tủy.
- Ở vùng Lam Sơn, Thanh Hóa, lãnh tụ Lê Lợi tập hợp nghĩa quân nổi dậy
khởi nghĩa chống lại giặc Minh, nhưng do thế lực ban đầu còn yếu nên nhiều lần
bị thua.
- Đức Long Quân thấy vậy bèn quyết định cho nghĩa quân mượn gươm
thần để giết giặc. Cuộc khởi nghĩa đã được thần thánh, tổ tiên ủng hộ, giúp đỡ.)
Câu 2. Lê Lợi đã nhận gươm thần như thế nào? Cách Long Quân cho
nghĩa quân Lam Sơn và Lê Lợi mượn gươm có ý nghĩa gì?
(a. Lê Thận là một dân chài đi kéo lưới ở bến sông, ba lần kéo lên đều chỉ
được một thanh sắt. Lần thứ ba, ông nhìn kĩ thì là một lưỡi gươm. Lê Thận đem
lưỡi gươm ấy về cất ở xó nhà rồi gia nhập nghĩa quân Lam Sơn và sau này trở
thành người tâm phúc của Lê Lợi. Nhân một lần Lê Lợi đến nhà Lê Thận, thấy
lưỡi gươm sáng rực lên hai chữ Thuận Thiên (thuận theo ý trời) bèn cầm lên
xem nhưng chưa biết đó là gươm thần.
Một lần bị giặc truy đuổi, Lê Lợi cùng một số tướng sĩ phải chạy vào rừng.
Bất ngờ, ông nhìn thấy trên ngọn cây đa có ánh sáng khác lạ, bèn trèo lên xem
thử và nhận ra đó là một chiếc chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà
Lê Thận, Lê Lợi gỡ lấy chuôi gươm mang về. Đem lưỡi gươm Lê Thận bắt được
dưới nước tra vào chuôi gươm bắt được trên rừng thì vừa như in.
b. Ý nghĩa cách Long Quân cho mượn gươm:
- Chi tiết lưỡi gươm ở dưới nước, chuôi gươm ở trên rừng có ý nghĩa là
nhân dân ta từ miền biển đến miền núi đều có khả năng đánh giặc cứu nước.
- Các bộ phận của thanh gươm tuy ở xa nhau nhưng khi khớp lại thì vừa
như in. Điều đó có nghĩa là dân tộc ta đồng tâm nhất trí, nghĩa quân trên dưới
một lòng tạo nên sức mạnh đánh tan quân cướp nước.
- Lê Thận dâng lưỡi gươm cho Lê Lợi, Lê Lợi bắt được chuôi gươm,
những chi tiết này khẳng định, đề cao vai trò minh chủ của Lê Lợi. Gươm sáng
ngời hai chữ Thuận Thiên khẳng định cuộc khởi nghĩa thuận theo ý trời. Trời ở
đây chính là đất nước, nhân dân đã giao cho Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn
trách nhiệm đánh giặc. Gươm chọn người xứng đáng và người nhận thanh
gươm tức là nhận trách nhiệm nặng nề và vinh quang trước vận mệnh của đất
nước, dân tộc.)
Cáu 3. Hãy chỉ ra sức mạnh của gươm thần đối với nghĩa quân Lam Sơn.
(Từ khi có gươm thiêng, nhuệ khí của nghĩa quân Lam Sơn ngày một tăng
tiến, đánh đâu thắng đấy, làm cho quân giặc bạt vía kinh hồn. Sức mạnh đoàn
kết của con người kết hợp với sức mạnh của vũ khí thần kì đã làm nên chiến
thắng vẻ vang.
Ánh sáng kì diệu phát ra lấp lánh từ gươm thiêng phải chăng là ánh sáng
của chính nghĩa, của khát vọng tự do, độc lập muôn đời, thôi thúc mọi người
vùng lên giết giặc cứu nước. Gươm thần mở đường cho nghĩa quân đánh tràn
ra mãi, cho đến lúc không còn bóng dáng một tên giặc nào trên đất nước ta.)
Câu 4. Khi nào Long Quân cho đòi gươm? cảnh đòi gươm và trả gươm
diễn ra như thế nào?
(a. Sau khi đánh tan quân Minh xâm lược, một ngày nọ, vua Lê cưỡi
thuyền rồng dạo quanh hồ Tả Vọng trước kinh thành. Nhân dịp này, Long Quân
sai Rùa Vàng đòi lại gươm thần và Lê Lợi hiểu ý thần linh, đã trao gươm cho
Rùa Vàng.
b. Rùa Vàng há miệng đón lấy gươm thần và lặn xuống nước: Gươm và
Rùa đã chìm đáy nước, người ta vẫn thấy vật gì sáng le lói dưới mặt hồ xanh.
Sau sự kiện vua Lê trả gươm cho Long Quân, hồ Tả Vọng được đổi tên là
Hồ Gươm (hay hồ Hoàn Kiếm) đánh dấu và khẳng định chiến thắng hoàn toàn
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, phản ánh tư tưởng yêu hòa bình đã thành truyền
thống của dân tộc ta.)
Câu 5. Thảo luận ở lớp: Ý nghĩa của truyện Sự tích Hồ Gươm?
(- Ý nghĩa của truyện là ca ngợi tính chất chính nghĩa, tính chất nhân dân
của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Chủ tướng của cuộc khởi nghĩa là Lê Lợi, dưới là Lê Thận (tiêu biểu cho
nghĩa quân) xuất thân từ người đánh cá, trên là đức Long Quân - tượng trưng
cho tổ tiên, hồn thiêng dân tộc. Các bộ phận của gươm lắp khớp vào nhau
tượng trưng cho hình ảnh nhân dân các vùng miền trên khắp đất nước đoàn kết
một lòng tạo thành sức mạnh chiến đấu và chiến thắng quân thù. Thanh gươm
ngời sáng sức mạnh chính nghĩa, sức mạnh truyền thống chống ngoại xâm của
dân tộc ta.
- Đề cao, suy tôn Lê Lợi và triều đại nhà Lê.
Tuy không xuất thân từ dòng dõi vua chúa nhưng Lê Lợi đã phất cao ngọn
cờ chính nghĩa, tập hợp nghĩa quân đánh giặc cứu nước. Lê Lợi được nghĩa
quân tôn làm chủ tướng.
Vì thế mà ông được Long Quân cho mượn gươm thần và đòi lại gươm khi
đã đuổi hết giặc. Chi tiết thần kì trên đã tôn vinh vai trò chủ tướng của Lê Lợi,
gây thanh thế cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và tạo dựng uy thế cho Lê Lợi sau
khi ông lên ngôi vua.
- Giải thích nguồn gốc tên gọi của hồ Hoàn Kiếm (trả gươm).
Tên hồ đánh dấu và khẳng định chiến thắng vẻ vang của nghĩa quân Lam
Sơn đã quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi. Đồng thời phản ánh tư tưởng, tình
cảm yêu hoà bình đã thành truyền thống của dân tộc ta. Khi có giặc, dân ta phải
cầm gươm đánh giặc; thời bình, không cần cầm gươm nữa thì tập trung xây
dựng đất nước.
- Tên hồ Hoàn Kiếm còn có ý nghĩa cảnh cáo, răn đe đối với kẻ thù nuôi
tham vọng xâm chiếm nước ta. Lê Lợi trả gươm cho Long Quân cũng có nghĩa
là gươm thiêng vẫn còn đó. Ánh sáng của thanh gươm thần dưới mặt hồ xanh
kết tụ cả ba ý nghĩa trên.)
Câu 6. Em biết còn truyền thuyết nào của nưóc ta cũng có hình ảnh Rùa
Vàng? Theo em, hình tượng Rùa Vàng trong truyền thuyết Việt Nam tượng
trưng cho ai và cho cái gì?
(- Nhiều truyền thuyết Việt Nam có hlnh ảnh Rùa Vàng nhưng hình ảnh
thần Kim Quy xuất hiện tiêu biểu nhất trong hai truyền thuyết: An Dương vương
và Sự tích Hồ Gươm. Trong truyền thuyết An Dương Vương, thần Kim Quy giúp
vua xây thành, lại tặng vua chiếc vuốt để làm nỏ thần và cũng chính thần Kim
Quy chỉ ra cho vua biết ai là giặc ở sau lưng.
- Thần Kim Quy xuất hiện lúc An Dương Vương gặp khó khăn để dẫn
đường chỉ lối. Rùa Vàng giúp Long Quân nhận lại gươm thần, điều đó thể hiện
tư tưởng yêu hoà bình của nhân dân ta.
Tóm lại, hình ảnh Rùa Vàng trong truyền thuyết Việt Nam tượng trưng cho
hồn thiêng sông núi, cho tư tưởng, tình cảm và trí tuệ của nhân dân.)
Câu 7. Hãy đọc phần Đọc thêm để thấy rõ hơn tính lặp lại và ý nghĩa của
chi tiết trao gươm thần trong các truyền thuyết Việt Nam.
(Đoạn văn Ấn, kiếm Tây Sơn kể về việc hai ông Xà (thần rắn) dâng ấn
kiếm cho Nguyễn Huệ. Trong truyền thuyết Việt Nam, lãnh tụ của các cuộc khởi
nghĩa chống giặc ngoại xâm nếu được nhân dân ủng hộ thì hình tượng trao
gươm thần được dựng nên.
Thần ở đây chính là nhân dân. Nhân dân trao ấn kiếm tức là trao trọng
trách, trao quyền lực để lãnh tụ tổ chức, xây dựng đội quân đoàn kết thống nhất,
trên dưới đồng lòng, quyết chiến với quân thù. Đây cũng là cách thể hiện niềm
tin của nhân dân vào người có tài, có đức.)
Câu 8. Vì sao tác giả dân gian không để Lê Lợi được trực tiếp nhận cả
chuôi gươm và lưỡi gươm cùng một lúc?
(Nếu để Lê Lợi được trực tiếp nhận cả chuôi gươm và lưỡi gươm cùng
một lúc thì truyện sẽ không thể hiện được tính chất toàn dân đánh giặc của cuộc
kháng chiến chống quân Minh. Thanh gươm Lê Lợi nhận được là thanh, gươm
hội tụ tư tưởng, tình cảm, sức mạnh của nhân dân trên khắp mọi miền đất
nước.)
Câu 9. Lê Lợi nhận gươm ở Thanh Hóa nhưng lại trả gươm ở Hồ Gươm -
Thăng Long. Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết sẽ
khác đi như thế nào?
(Nếu Lê Lợi trả gươm ở Thanh Hóa thì ý nghĩa của truyền thuyết sẽ bị hạn
chế rất nhiều. Bởi vì lúc này, Lê Lợi đã lên ngôi vua và đóng đô ở kinh thành
Thăng Long. Để việc trả gươm diễn ra ở hồ Tả Vọng của kinh thành Thăng Long
mới giải thích được nguồn gốc tên gọi của Hồ Gươm và thể hiện được tư tưởng
yêu hoà bình cùng tinh thần cảnh giác của dân tộc ta.)
Câu 10. Hãy nhắc lại định nghĩa truyền thuyết và kể tên những truyền
thuyết đã học.
(a. Truyền thuyết: Là loại truyện dân gian kể về các nhân vật và sự kiện có
liên quan đến lịch sử thời quá khứ, thường có yếu tố tưởng tượng, kì ảo. Truyền
thuyết thể hiện thái độ và cách đánh giá của nhân dân đối với các sự kiện và
nhân vật lịch sử được kể.
Truyền thuyết Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với thần thoại. Nhiều
truyền thuyết, đặc biệt truyền thuyết về thời đại các vua Hùng chính là những
thần thoại đã được lịch sử hoá.
b. Những truyền thuyết đã học như: Con Rồng, cháu Tiên; Bánh chưng,
bánh giầy, Thánh Gióng; Sơn Tinh, Thủy Tinh; Sự tích Hồ Gươm.)
Bài 6: SỌ DỪACâu 1. Sự ra đời của Sọ Dừa có gì khác thường? Kể về sự ra đời của Sọ
Dừa như vậy, nhân dân muốn thể hiện điều gì và muốn chú ý đến những con
người như thế nào trong xã hội xưa?
(a. Bà mẹ đi rừng, uống nước trong một cái sọ dừa rồi có thai, sinh ra đứa
con trai chỉ có cái đầu tròn lông lốc.
b. Các tình tiết li kì, khác thường của Sọ Dừa thể hiện sự quan tâm của
nhân dân về một loại người đau khổ, số phận thấp hèn nhất trong xã hội. Đau
khổ, thấp hèn từ dáng vẻ bề ngoài, thường bị coi là “vô tích sự”.)
Câu 2. Sự tài giỏi của Sọ Dừa thể hiện qua những chi tiết nào? Em có
nhận xét gì về quan hệ giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong của
nhân vật?
(a. Sự tài giỏi của nhân vật Sọ Dừa thể hiện qua những chi tiết:
- Chăn bò rất giỏi: Ngày nắng cũng như ngày mưa, bò con nào con nấy
bụng no căng.
- Hóa thân thành chàng trai khôi ngô, tuấn tú, thổi sáo rất hay.
- Tự biết khả năng đặc biệt của mình nên mạnh dạn nhờ mẹ đến hỏi con
gái phú ông làm vợ.
- Hóa phép ra đủ sính lễ theo yêu cầu nghiệt ngã của phú ông: Một Chĩnh
vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.
- Thông minh khác thường, tự học và thi đỗ trạng nguyên.
- Có tài dự đoán chính xác, biết lo xa: Khi chia tay vợ để đi sứ nước ngoài,
quan trạng Sọ Dừa đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng
gà, dặn phải giắt luôn trong người phòng khi dùng đến.
b. Nhận xét về quan hệ giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên trong
của nhân vật Sọ Dừa:
- Có sự trái ngược hoàn toàn giữa hình dạng bên ngoài và phẩm chất bên
trong: Bề ngoài dị dạng, kì quái; bên trong lại là người tuấn tú, có tài năng, phẩm
chất tuyệt vời.
- Sự đối lập ấy khẳng định tuyệt đối vẻ đẹp bên trong và đề cao giá trị
chân chính của con người.
- Sự biến đổi kì diệu từ một cậu bé có bề ngoài dị hình dị dạng, thân phận
thấp kém, trở thành chàng trai tuấn tú, thông minh, tài giỏi và đỗ đạt cao mà tên
gọi vẫn là Sọ Dừa thể hiện ước mơ đổi đời mãnh liệt của người lao động trong
xã hội xưa.)
Câu 3. Tại sao cô út lại bằng lòng lấy Sọ Dừa? Em có nhận xét gì về nhân
vật cô út?
(a. Điều lão phú ông không ngờ tới đã xảy ra: Hai cô chị bĩu môi chê bai,
còn cô út đồng ý lấy Sọ Dừa. Bởi vì cô nhận biết được thực chất vẻ đẹp bên
trong của Sọ Dừa.
b. Cô Út hiền lành, tính hay thương người. Ngay cả khi chưa biết gì về
những điều kì lạ của Sọ Dừa, cô vẫn đối xử với Sọ Dừa rất tử tế. Chính lòng
thương người ấy giúp cô thấy được vẻ đẹp thực sự bên trong cái hình hài sọ
dừa lăn lóc. Cô út trở thành bà Trạng là phần thưởng xứng đáng cho những
người nhân hậu.)
Câu 4. Trong truyện, Sọ Dừa có hình dạng xấu xí nhưng cuối cùng đã
được trút bỏ lốt, cùng cô út hưởng hạnh phúc, còn hai cô chị thì phải bỏ nhà trốn
đi. Qua kết cục này, em thấy người lao động mơ ước điều gì?
(Truyện Sọ Dừa có những kết cục khác nhau dành cho các nhân vật: Sọ
Dừa dị hình, dị dạng nhưng cuối cùng đạt được vinh quang. Cô út tốt bụng được
hưởng hạnh phúc. Hai cô chị độc ác thì xấu hổ bỏ đi biệt xứ.
Từ kết thúc đó, ta thấy toát lên những mơ ước, khát vọng của người lao
động:
- Mơ ước đổi đời: Sọ Dừa dị hình, xấu xí, thân phận thấp kém tưởng như
vô dụng đã trở thành chàng trai đẹp đẽ, thông minh, tài giỏi, được thành đạt và
hạnh phúc. Sự đổi đời đó thật là triệt để và kì diệu.
- Mơ ước công bằng: Người lao động xưa mơ ước và tin tưởng rằng
người tài giỏi, đức độ “ở hiền gặp lành”; còn kẻ độc ác, gian tham sẽ bị trừng
phạt đích đáng: “Gieo gió gặt bão”.)
Câu 5. Hãy nêu những ý nghĩa chính của truyện Sọ Dừa?
(- Đề cao giá trị đích thực, phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Truyện
cũng là lời khuyên: muốn đánh giá đúng bản chất con người, không nên chỉ xem
xét bề ngoài mà phải tìm hiểu kĩ phẩm chất bên trong.
- Đề cao lòng nhân ái đối với người bất hạnh. Lòng nhân ái đem lại hạnh
phúc kì diệu cho cả Sọ Dừa và cô út. Lòng nhân ái được đúc kết trong câu tục
ngữ: Thương người như thể thương thân.
- Câu chuyện toát lên sức sống mãnh liệt và tinh thần lạc quan của nhân
dân lao động: Còn sống là còn hi vọng, còn mơ ước, tin tưởng vào chiến thắng
tất yếu của công bằng, lẽ phải, của lòng tốt trước sự bất công, độc ác:
- Thấp thoáng sau các sự việc, tình huống trong truyện Sọ Dừa là cảnh
sinh hoạt đời xưa rất quen thuộc ở nông thôn Việt Nam: tiếng sáo mục đồng,
cảnh đàn bò gặm cỏ, cảnh ngày mùa, tục lệ cưới hỏi, tiếng gà gáy trên đảo
vắng... Chính vì lẽ đó mà truyện rất hấp dẫn.)
Bài 7: THẠCH SANH
Câu 1. Sự ra đời và lớn lên của Thạch Sanh có gì khác thường? Kể về sự
ra đời và lớn lên của Thạch Sanh như vậy, theo em, nhân dân muốn thể hiện
điều gì?
(a. - Yếu tố bình thường: Thạch Sanh là con một gia đình nông dân tốt
bụng, sống nghèo khổ bằng nghề kiếm củi.
- Yếu tố khác thường: Thạch Sanh chính là Thái tử được Ngọc Hoàng sai
xuống trần đầu thai. Bà mẹ mang thai nhiều năm mới sinh ra Thạch Sanh. Lớn
lên, chàng được các vị thần dạy võ nghệ và mọi phép thần thông.
b. Những chi tiết về sự ra đời và lớn lên khác thường của Thạch Sanh có
ý nghĩa tô đậm tính chất kì lạ, đẹp đẽ cho nhân vật lí tưởng, làm tăng sức hấp
dẫn cho câu chuyện. Người xưa quan niệm rằng: nhân vật ra đời và lớn lên kì lạ
như vậy tất sẽ có khả năng, phẩm chất phi thường và sẽ lập được nhiều chiến
công lừng lẫy. Những con người bình thường cũng là những con người có khả
năng, phẩm chất kì lạ, khác thường.)
Câu 2. Trước khi được kết hôn với công chúa, Thạch Sanh đã phải trải
qua những thử thách như thế nào? Thạch Sanh bộc lộ phẩm chất gì qua những
lần thử thách ấy?
(a. Những thử thách Thạch Sanh đã phải trải qua:
- Bị mẹ con Lí Thông lừa đi canh miếu thờ để thế mạng, Thạch Sanh đã
diệt được chằn tinh.
- Thạch Sanh xuống hang diệt đại bàng, cứu công chúa, bị Lí Thông lấp
cửa hang và cướp công.
- Hồn chằn tinh kết hợp với đại bàng báo thù, Thạch Sanh bị bắt hạ ngục.
Trong cổ tích, những khó khăn, trắc trở do các lực lượng đối kháng gây ra
cho nhân vật lí tưởng cứ tăng dần và thử thách sau bao giờ cũng gay go hơn
thử thách trước. Nhưng Thạch Sanh đã vượt qua tất cả nhờ tài năng kiệt xuất,
phẩm chất tốt đẹp và được sự giúp đỡ của các phương tiện thần kì.
b. Qua những lần thử thách, Thạch Sanh đã bộc lộ rõ phẩm chất quý báu
sau đây:
- Bản tính thật thà, chất phác, thương người, trọng nghĩa...
- Tinh thần dũng cảm và tài năng phi thường (diệt chằn tinh, diệt đại bàng
và có nhiều phép lạ).
Những phẩm chất trên của Thạch Sanh cũng là phẩm chất tiêu biểu của
nhân dân ta. Vì thế, cổ tích Thạch Sanh được nhiều người yêu thích.)
Câu 3. Trong truyện, hai nhân vật Thạch Sanh và Lí Thông luôn đối lập
nhau về tính cách và hành động. Hãy chỉ ra sự đối lập này.
(Đặc điểm trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của truyện cổ là
nhân vật chính diện và nhân vật phản diện luôn đối lập nhau về mặt tính cách và
hành động. Sự đối lập giữa Thạch Sanh và Lí Thông là sự đối lập giữa thật thà
và xảo trá, vị tha và ích kỉ, thiện và ác.)
Câu 4. Truyện Thạch Sanh có nhiều chi tiết thần kì, trong đó đặc sắc nhất
là chi tiết tiếng đàn và niêu cơm đãi quân sĩ mười tám nước chư hầu. Em hãy
nêu ý nghĩa của những chi tiết đó.
(a. Ý nghĩa tiếng đàn của Thạch Sanh:
- Tiếng đàn giúp nhân vật được giải oan: Sau khi bị Lí Thông lừa gạt,
cướp công, Thạch Sanh bị bắt giam vào ngục tối. Nhờ có tiếng đàn thần của
Thạch Sanh mà công chúa khỏi câm, nhận ra người cứu mình và đã giải oan
cho Thạch Sanh. Do đó mà Lí Thông cũng bị vạch mặt. Tiếng đàn thần vì thế
đồng nghĩa với công lí. Tác giả dân gian đã sử dụng chi tiết này để thể hiện quan
niệm và ước mơ công lí của người xưa.
- Tiếng đàn thần của Thạch Sanh làm cho quân sĩ mười tám nước chư
hầu nao núng, mất hết ý chí, phải buông vũ khí xin hàng. Tiếng đàn thần tượng
trưng cho cái thiện và tinh thần yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta, là “vũ khí”
đặc biệt để cảm hóa kẻ thù.
b. Ý nghĩa của niêu cơm thần kì:
- Niêu cơm thần kì của Thạch Sanh cứ ăn hết lại đầy làm cho quân lính
mười tám nước chư hầu lúc đầu coi thường, chế giễu nhưng sau đó phải ngạc
nhiên, khâm phục.
- Niêu cơm thần kì với lời thách đố của Thạch Sanh và sự thua cuộc của
quân sĩ mười tám nước chư hầu càng khẳng định tài năng phi thường của
Thạch Sanh.
- Niêu cơm thần kì tượng trưng cho tinh thần nhân đạo, tư tưởng yêu hòa
bình của nhân dân ta.)
Câu 5. Trong phần kết thúc truyện, mẹ con Lí Thông phải chết, còn Thạch
Sanh thì được kết hôn cùng công chúa và lên ngôi vua. Qua cách kết thúc này,
nhân dân ta muốn thể hiện điều gì? Kết thúc ấy có phổ biến trong truyện cổ tích
không? Hãy nêu một số ví dụ.
(Ở phần kết thúc truyện, Thạch Sanh được kết hôn cùng công chúa và lên
ngôi vua. Đây là phần thưởng lớn lao, xứng đáng với những khó khăn, thử thách
mà nhân vật đã phải trải qua cùng với phẩm chất, tài năng của nhân vật. Trong
xã hội cũ, những thứ mà người lao động không bao giờ có cuối cùng đều được
trao cho nhân vật.
Mẹ con Lí Thông tuy được Thạch Sanh tha tội chết nhưng lại bị lưỡi tầm
sét của Thiên Lôi đánh chết. Đây cũng là công lí của nhân dân trừng trị kẻ ác.
Mẹ con Lí Thông còn bị hóa thành bọ hung đời đời sống trong dơ bẩn. Đấy là sự
trừng phạt tương xứng với thủ đoạn và tội ác mà mẹ con Lí Thông đã gây ra.
- Cách kết thúc có hậu ấy thể hiện công lí xã hội: ở hiền gặp lành, ở ác
gặp ác và ước mơ của nhân dân về một sự đổi đời. Đây là cách kết thúc phổ
biến trong truyện cổ tích, có thể thấy ở nhiều truyện khác như Sọ Dừa, Tấm
Cám, Cây bút thần, v.v...)
Bài 8: EM BÉ THÔNG MINHCâu 1. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật có phổ biến trong truyện
cổ tích không? Tác dụng của hình thức này?
(a. Dùng câu đố để thử tài nhân vật là chi tiết phổ biến trong truyện cổ dân
gian nói chung và truyện cổ tích nói riêng. Ví dụ: câu đố trong các truyện về
những người tài hay truyện Trạng.
b. Hình thức dùng câu đố để thử tài nhân vật trong truyện dân gian có mấy
tác dụng như sau:
- Tạo ra thử thách để nhân vật bộc lộ tài năng, phẩm chất. Theo truyện cổ
dân gian, câu đố đóng vai trò quan trọng trong việc thử tài, thử trí thông minh.
- Tạo tình huống cho cốt truyện phát triển.
- Gây hứng thú, hồi hộp cho người nghe.)
Câu 2. Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua mấy lần?
Lần sau có khó hơn lần trước không? Vì sao?
(a. Sự mưu trí, thông minh của em bé được thử thách qua bốn lần:
- Lần 1: Đáp lại câu hỏi của viên quan. (Trâu cày một ngày được mấy
đường?)
- Lần 2: Đáp lại thử thách của vua đối với dân làng. (Nuôi ba con trâu đực
sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm để nộp cho vua.)
- Lần 3: Đáp lại thử thách của vua đối với chính mình. (Từ một con chim
sẻ làm thành ba mâm cỗ.)
- Lần 4: Đáp lại thử thách của sứ thần nước ngoài. (Xâu một sợi chỉ mảnh
qua ruột con ốc vặn rất dài.)
b. Lần thách đố sau khó khăn hơn lần trước, bởi vì:
+ Xét về người đố: lần đầu là viên quan, hai lần tiếp sau là vua và lần cuối
cùng cậu bé phải “đối đáp” với sứ thần nước ngoài.
+ Tính chất oái oăm của câu đố cũng mỗi lần một tăng lên.
- Trước hết thể hiện ở chính nội dung, yêu cầu của câu đố.
- Sau đó thể hiện ở những đối tượng tham gia giải đố đều bất lực bó tay.
* Chính từ đây, em bé càng thể hiện rõ sự thông minh hơn người.
- Lần 1: Để làm nổi bật sự oái oăm của câu đố và tài trí của cậu bé, truyện
chỉ so sánh cậu bé với một người, đó là người cha của cậu.
- Lần 2: So sánh cậu bé với toàn thể dân làng (dân làng lo lắng, không biết
làm sao, coi lệnh của vua là tai vạ).
- Lần 3: So sánh cậu bé với vua, (câu đố lại có nội dung và yêu cầu tương
tự) của cậu bé đã làm cho vua từ đó phục hẳn.
- Lần 4: So sánh cậu bé với cả vua, quan, đại thần, các ông trạng và các
nhà thông thái. Câu đố của sứ thần khiến tất cả mọi người vò đầu suy nghĩ, lắc
đầu bó tay, trừ cậu bé vừa đùa nghịch ở sau nhà vừa giải đố.)
Câu 3. Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách gì để giải
những câu đố oái oăm? Theo em, những cách ấy lí thú ở chỗ nào?
(Trong mỗi lần thử thách, em bé đã dùng những cách rất thông minh để
giải đố:
- Lần 1: Đố lại viên quan.
- Lần 2: Để vua tự nói lên sự oái oăm đến mức phi lí trong lệnh mà mình
đã ban ra cho dân làng của cậu bé.
- Lần 3: Cũng bằng cách đố lại vua.
- Lần 4: Dùng kinh nghiệm dân gian để giải câu đố của sứ thần.
* Những cách giải đố của cậu bé thông minh và lí thú ở chỗ:
- Đẩy thế bí về phía người ra câu đố, lấy gậy ông đập lưng ông.
- Làm cho những người ra câu đố tự thấy sự vô lí, phi lí của điều mà họ
đố.
- Những lời giải đố của cậu bé đều không dựa vào kiến thức sách vở mà
dựa vào thực tiễn đời sống.
- Làm cho người ra câu đố, người chứng kiến và người nghe ngạc nhiên,
thú vị: vì sự bất ngờ, giản dị và hồn nhiên của những lời giải.
- Những lời giải chứng tỏ trí tuệ thông minh hơn người của cậu bé, hơn cả
nhà vua, các đại thần, các ông trạng và các nhà thông thái.)
Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện cổ tích Em bé thông minh.
(a. Ý nghĩa đề cao trí thông minh:
Ở truyện này, một em bé nông thôn được vua phong cho chức Trạng
nguyên, được vua xây cho dinh thự trong hoàng cung để tiện hỏi han. Truyện đã
đề cao sự thông minh, mưu trí của người lao động. Nhưng đó là sự thông minh
về lĩnh vực nào?
Em bé được coi là thông minh không phải về chữ nghĩa, văn chương, thi
cử. Truyện cổ tích này Không nhằm phủ nhận kiến thức sách vở nhưng nó tập
trung ca ngợi, đề cao kinh nghiệm thực tiễn rút ra từ đời sống hằng ngày. Cuộc
đấu trí của em bé xoay quanh những chuyện rất bình thường như đường cày,
bước chân ngựa, con trâu, con chim sẻ, con ốc, con kiến vàng.
Trí thông minh của em bé trong truyện tiêu biểu cho trí thông minh của
người lao động, luôn được vận dụng thành công trong thực tế.
b. Ý nghĩa hài hước, mua vui:
- Từ câu đố của viên quan, của nhà vua và sứ thần nước ngoài đến những
lời giải đáp của em bé đều tạo ra các tình huống bất ngờ, thú vị, đem lại tiếng
cười vui vẻ, sảng khoái.
- Trong truyện, từ dân làng cho đến vua, quan, các ông trạng, các nhà
thông thái,... đều thua tài em bé. Chuyện các em bé thông minh, tài giỏi hơn
người lớn bao giờ cũng làm cho người đọc, người nghe hứng thú, yêu thích.
- Em bé thông minh, tài trí hơn người nhưng rất hồn nhiên, ngây thơ trong
cách đối đáp.)
Bài 9: CÂY BÚT THẦNCâu 1. Mã Lương thuộc một kiểu nhân vật rất phổ biến nào trong truyện
cổ tích? Hãy kể tên một số nhân vật tương tự trong truyện cổ tích mà em biết.
(Mã Lương thuộc kiểu nhân vật có tài năng kì lạ rất phổ biến trong truyện
cổ tích ở nước ta cũng như trên thế giới, cổ tích Việt Nam có Thạch Sanh, Chử
Đồng Tử, Sọ Dừa,... Nhưng khác với tài năng kiểu nhân vật dũng sĩ như Thạch
Sanh, hay kiểu trí khôn dân gian như Em bé thông minh, tài năng của Mã Lương
là tài năng nghệ thuật. Mã Lương đem tài năng sáng tạo nghệ thuật của mình để
phục vụ nhân dân và làm đẹp cuộc đời.)
Câu 2. Những điều gì đã giúp cho Mã Lương vẽ giỏi như vậy? Những điều
ấy có quan hệ với nhau ra sao?
(a. Những điều giúp Mã Lương vẽ giỏi:
- Nguyên nhân thực tế: Đó là năng khiếu sẵn có kết hợp với sự say mê,
cần cù và trí thông minh.
- Nguyên nhân thần kì: Mã Lương được Tiên ông tặng cho cây bút thần để
vẽ được những vật như thật (con chim tung cánh bay lên trời, cất tiếng hót; con
cá vẫy đuôi, trườn xuống sông...).
Nguyên nhân này tô đậm và thần kì hóa tài vẽ của Mã Lương. Mặt khác,
đây cũng là sự ban thưởng xứng đáng cho người có tâm, có tài, có chí, khổ
công rèn luyện.
b. Những nguyên nhân nói trên có quan hệ chặt chẽ với nhau. Tiên ông
cho Mã Lương cây bút thần chứ không phải vật gì khác và cũng chỉ có Mã
Lương chứ không phải ai khác được nhận cây bút thần.)
Câu 3. Mã Lương đã vẽ gì cho những người nghèo khổ và cho những kẻ
tham lam? Hãy đánh giá ngòi bút thần của Mã Lương qua những gì mà Mã
Lương đã vẽ.
(a. Mã Lương đã dùng cây bút thần vẽ cho tất cả người nghèo trong làng.
Nhà nào không có cày, em vẽ cho cày. Nhà nào không có cuốc, em vẽ cho cuốc.
Nhà nào không có đèn, em vẽ cho đèn, v.v...
Mã Lương không vẽ thóc gạo, nhà cửa, vàng bạc, châu báu mà vẽ cái
cày, cái cuốc, cái đèn, cái thùng. Các đồ vật Mã Lương vẽ là những công cụ hữu
ích để người dân sản xuất, tạo ra thóc gạo, nhà cửa...
b. Mã Lương dùng bút thần chống lại tên địa chủ tham lam và tên vua độc
ác vì rất căm ghét chúng.
- Nhân vật Mã Lương trải qua nhiều tình huống thử thách, lần sau khó
khăn, phức tạp hơn lần trước. Qua đó phẩm chất tốt đẹp của nhân vật ngày
càng bộc lộ rõ hơn. Từ chỗ Mã Lương dứt khoát không vẽ gì cho tên địa chủ đến
chỗ dám vẽ ngược hẳn ý muốn của vua. Từ chỗ chú trừng trị kẻ ác để thoát thân
đến chỗ dũng cảm tiêu diệt kẻ ác để trừ họa cho dân lành. Mã Lương như được
Trời trao cho sứ mệnh vung bút thần lên để thực hiện công lí.
- Ngoài cây bút thần ra, Mã Lương còn có tinh thần khẳng khái, dũng cảm
và trí thông minh tuyệt vời.)
Câu 4. Truyện kể này được xây dựng theo trí tưỏng tượng rất phong phú
và độc đáo của nhân dân. Theo em, những chi tiết nào trong truyện là lí thú và
gợi cảm hơn cả?
(* Truyện có rất nhiều chi tiết lí thú và gợi cảm nhưng lí thú và gợi cảm
hơn cả là hình ảnh cây bút thần với những khả năng kì diệu của nó. Đây là báu
vật giống như đũa thần, lọ nước thần, chiếc nhẫn thần, cây đàn thần, v.v... ở
nhiều truyện cổ tích khác. Hình ảnh cây bút thần lí thú và gợi cảm ở chỗ:
- Là phần thưởng xứng đáng cho Mã Lương.
- Có những khả năng kì diệu.
- Chỉ ở trong tay Mã Lương, bút thần mới tạo ra được những vật hữu ích
như mong muốn; còn rơi vào tay kẻ ác, nó tạo ra những điều ngược lại.
- Cây bút thần giúp đỡ người nghèo khó và trừng trị kẻ tham lam, độc ác.
Nó cũng thể hiện ước mơ về những khả năng kì diệu và khát vọng công lí của
người bình dân xưa.)
Câu 5. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Cây bút thần.
(Ý nghĩa của truyện Cây bút thần:
- Thể hiện quan niệm của nhân dân về công lí: Người chăm chỉ, tốt bụng,
thông minh sẽ được nhận phần thưởng xứng đáng; kẻ độc ác, tham lam tất sẽ bị
trừng trị.
- Khẳng định tài năng nghệ thuật phải được sử dụng để phục vụ nhân dân,
phục vụ chính nghĩa, chống lại cái ác.
- Khẳng định nghệ thuật chân chính thuộc về nhân dân, về những người
có đức, có tài.
- Thể hiện ước mơ và niềm tin về những khả năng kì diệu của con người.
Trong truyện cổ tích, con người mơ ước có được những báu vật và phương tiện
thần kì để từ đó sáng tạo ra tất cả.)
Bài 10: ÔNG LÃO ĐÁNH CÁ VÀ CON CÁ VÀNGCâu 1. Trong truyện, mấy lần ông lão ra biển gọi cá vàng? Việc kể lại
những lần ông lão ra biển gọi cá vàng là biện pháp lặp lại có chủ ý của truyện cổ
tích. Hãy nêu tác dụng của biện pháp này.
(a. Trong truyện, năm lần ông lão ra biển gọi cá vàng để thực hiện yêu cầu
của mụ vợ:
- Lần thứ nhất: Đòi một cái máng mới cho lợn ăn.
- Lần thứ hai: Đòi một toà nhà đẹp.
- Lần thứ ba: Đòi làm nhất phẩm phu nhân.
- Lần thứ tư: Đòi làm nữ hoàng.
- Lần thứ năm: Đòi làm Long Vương ngự trên mặt biển.
b. Việc kể lại những lần ông lão ra biển gọi cá vàng là biện pháp lặp lại
của truyện cổ tích, có mấy dụng ý như sau:
- Tạo nên tình huống gay cấn, tạo cảm giác hồi hộp cho người đọc, người
nghe.
- Sự lặp lại ở đây không phải là lặp lại y nguyên mà có thêm những chi tiết
mới. Đây là sự lặp lại có tính chất tăng tiến.)
Câu 2. Mỗi lần ông lão ra biển gọi cá vàng, cảnh biển thay dổi như thế
nào? Vì sao?
(Trong truyện, ông lão năm lần ra biển gọi cá vàng để nhờ cậy. Lần thứ
nhất: biển gợn sóng êm ả. Lần thứ hai: biển xanh nổi sóng. Lần thứ ba: biển
xanh nổi sóng dữ dội. Lần thứ tư: biển nổi sóng mù mịt. Lần thứ năm: một cơn
dông tố kinh khủng kéo đến, mặt biển nổi sóng ầm ầm.
Năm lần ông lão gọi cá vàng là năm lần cảnh biển thay đổi. Một bên là
những yêu cầu ngày càng quá quắt của mụ vợ ông lão, một bên là phản ứng của
biển mỗi lúc một tăng tương ứng với những yêu cầu đó. Qua những lần lặp lại
như thế, tính cách của các nhân vật và chủ đề truyện càng được tô đậm.
Trong truyện, cảnh biển không chỉ đơn thuần làm nền cho các nhân vật
hoạt động mà còn tham gia tích cực vào diễn biến của truyện. Biển tượng trưng
cho phản ứng của nhân dân, của đất trời trước thói tham lam và bội bạc.)
Câu 3. Em có nhận xét gì về lòng tham và sự bội bạc của nhân vật mụ
vợ? sự bội bạc của mụ đối với chồng đã tăng lên như thế nào? Khi nào sự bội
bạc của mụ đi tới tột cùng? (Chú ý thái độ của mụ vợ đối với cá vàng thể hiện ổ
ý muốn cuối cùng).
(Lòng tham không đáy và sự bội bạc của mụ vợ chính là mạch dẫn dắt sự
phát triển của câu chuyện. Mụ không hề có công lao gì với cá vàng nhưng yêu
cầu của mụ thì ngày càng quá quắt:
- Lần 1: Đòi máng lợn mới.
- Lần 2: Đòi một cái nhà rộng.
- Lần 3: Muốn làm nhất phẩm phu nhân.
- Lần 4: Muốn làm nữ hoàng.
- Lần 5: Muốn làm Long vương, bắt cá vàng hầu hạ và làm theo ý muốn
của mụ.
Qua năm lần yêu cầu của mụ vợ ông lão, chúng ta nhận thấy:
- Lần 1 và 2: Yêu cầu về của cải vật chất (tăng lên).
- Lần 3: Yêu cầu về của cải và danh vọng.
- Lần 4: Yêu cầu về của cải, danh vọng và quyền lực.
- Lần 5: Yêu cầu phải có một địa vị tột đỉnh và một quyền uy vô hạn.
Lòng tham của mụ vợ cứ tăng mãi không có điểm dừng. Mụ muốn có tất
cả mọi thứ: của cải, danh vọng, quyền lực. Trong truyện, mụ vợ là nhân vật phản
diện. Đây không phải là con người mang tính xấu mà là tính xấu hiện hình dưới
lốt người. Có thể kể ra vô số thói xấu của nhân vật này: tham lam, bội bạc, dữ
dằn, thô lỗ,... Trong đó có hai thói xấu nổi bật nhất: tham lam, bội bạc. Có lẽ, ở
con người, sự bội bạc còn đáng ghét và khó tha thứ hơn cả sự tham lam.
Với chồng, thái độ bội bạc của mụ ngày càng tăng lên:
- Mụ mắng chồng là Đồ ngốc (đòi máng);
- Mụ quát chồng to hơn: Đồ ngu (đòi nhà);
- Mụ mắng như tát nước vào mặt chồng: Đồ ngu, ngốc sao ngốc thế! (đòi
làm nhất phẩm phu nhân);
- Mụ giận dữ, nổi trận lôi đình tát vào mặt ông lão: Mày dám cãi... (đòi làm
nữ hoàng);
- Mụ lại nổi cơn thịnh nộ, sai người đi bắt ông lão để trừng trị (đòi làm
Long vương,...).
Những chi tiết ấy làm nổi rõ nghịch lí: khi lòng tham càng lớn thì tình nghĩa
vợ chồng càng nhạt nhẽo.
Với mụ vợ, ông lão đánh cá không chỉ là chồng mà còn là ân nhân. Nhưng
mụ cư xử với ông ngày càng tệ bạc. Đặc biệt, cá vàng đã đáp ứng mọi yêu cầu
của mụ nhưng mụ lại muốn bắt cá vàng trực tiếp làm đầy tớ để tùy mụ sai khiến.
Mụ muốn gạt bỏ ông lão vì giờ đây ông đã trở thành chướng ngại. Sự bội bạc
của mụ đã tới tột cùng, không thể dung tha.)
(- Hình ảnh mụ vợ: Kết thúc truyện, cuộc sống của vợ chồng ông lão đánh
cá trở lại nghèo khổ như xưa (lều nát, máng sứt,...). Nhưng thực ra, cá vàng
không chỉ lấy đi những gì nó đã cho mà còn nhiều hơn thế. Mở đầu truyện là
cảnh mụ vợ sống trong nghèo khó, chưa hề được nếm trải sung sướng, giàu
sang. Còn ở cuối truyện, sau khi mụ đã biết thế nào là tột đỉnh giàu sang mà lại
phải trở về cảnh nghèo khó thì điều đó thực là khổ sở, nỗi khổ lớn gấp nhiều lần
nỗi khổ lúc đầu khiến mụ không thể sống yên. Đây chính là sự trừng phạt đích
đáng đối với kẻ tham lam vô độ.
- Hình ảnh ông lão đánh cá: ông lão không mất gì cả, mà chỉ cảm thấy như
vừa trải qua một cơn ác mộng. Có lẽ từ đây trở đi, ông lão càng quý hơn cuộc
sống nghèo khổ nhưng bình yên của mình.)
Câu 5. Cá vàng trừng trị mụ vợ vì tội tham lam hay tội bội bạc? Hãy nêu ý
nghĩa tượng trưng của hình tượng con cá vàng.
(a. Cá vàng trừng trị mụ vợ ông lão vì cả hai tội tham lam và bội bạc
nhưng có lẽ tội bội bạc nặng hơn. Giữa hai tội này có sự liên quan chặt chẽ: lòng
tham vô hạn thường làm cho con người mất hết lương tri và nhân tính, không
còn khả năng nhận biết đúng, sai. Lòng tham là một trong những nguyên nhân
dẫn con người đến nhiều tai hoạ.
b. Hình tượng con cá vàng không những có ý nghĩa tượng trưng cho lòng
biết ơn mà còn đại diện cho công lí, cho lòng tốt và cái thiện. Những kẻ bội bạc,
tham lam tất sẽ bị trừng trị đích đáng.)
Câu 6. Có người cho rằng truyện này nên đặt tên là Mụ vợ ông lão đánh
cá và con cá vàng. Ý kiến của em thế nào?
(Nếu đặt tên truyện là Mụ vợ ông lão đánh cá và con cá vàng thì cũng có
cơ sở bởi vì mụ vợ là nhân vật chính. Trong truyện cổ tích thần kì, nhân vật
chính thường là nhân vật tích cực và người xưa thường lấy nhân vật chính để
đặt tên cho truyện. Nhưng trong trường hợp này, nếu lấy nhân vật phản diện để
đặt tên cho truyện thì ý nghĩa của truyện cũng không thay đổi: Nêu bài học đích
đáng cho những kẻ tham lam, bội bạc như mụ vợ ông lão đánh cá.)
Bài 11: ẾCH NGỒI ĐÁY GIẾNGCâu 1. Vì sao ếch tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng cái vung và nó thì
oai như một vị chúa tể?
(Ếch tưởng bầu trời chỉ bé bằng cái vung, còn nó thì oai như một vị chúa
tể, bởi vì:
- Ếch sống lâu ngày dưới đáy một cái giếng chật hẹp.
- Xung quanh nó chỉ có một vài loài vật bé nhỏ.
- Hằng ngày, ếch cất tiếng kêu Ồm ộp làm vang động cả giếng, khiến các
con vật kia rất hoảng sợ.
* Những chi tiết ấy chứng tỏ:
- Môi trường sống của ếch rất nhỏ. Chưa bao giờ nó biết thêm một môi
trường nào khác ngoài đáy giếng. Tình trạng ấy kéo dài quá lâu nên tầm nhìn,
tầm hiểu biết của ếch rất hạn chế.
- Ếch chủ quan và kiêu ngạo. Thái độ chủ quan, kiêu ngạo đó đã thành
thói quen, thành căn bệnh trầm trọng của nó.)
Câu 2. Do đâu ếch bị con trâu đi qua giẫm bẹp?
(Sau một lần mưa to, nước giếng tràn đầy đẩy ếch ra ngoài, nhưng đó chỉ
là hoàn cảnh, chứ không phải là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ếch. Quen
thói cũ, nó nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm để ý đến xung
quanh nên đã bị một con trâu đi qua dẫm bẹp. Nguyên nhân của kết cục bi thảm
kia chính là sự kiêu ngạo, chủ quan của ếch.)
Câu 3. Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng nhằm nêu lên bài học gì? Ý
nghĩa của bài học?
(- Dù môi trường, hoàn cảnh sống hạn hẹp nhưng chúng ta vẫn phải cố
gắng mở rộng sự hiểu biết bằng nhiều hình thức học hỏi khác nhau. Phải biết
khắc phục những hạn chế của mình để có tầm nhìn xa trông rộng.
- Không được chủ quan, kiêu ngạo, coi thường người khác. Kẻ chủ quan,
kiêu ngạo dễ bị trả giá đẳt, thậm chí bằng cả tính mạng.
* Ý nghĩa của bài học:
- Những bài học trên có ý nghĩa nhắc nhở, khuyên bảo tất cả mọi người ở
mọi lĩnh vực, nghề nghiệp khác nhau. Các hình ảnh như: cái giếng, bầu trời, con
ếch và các con vật khác trong truyện đều có ý nghĩa ẩn dụ, thích ứng với từng
con người, từng hoàn cảnh. Điều đó cho thấy phạm vi ý nghĩa của những bài
học mà truyện ngụ ngôn này nêu ra là rất rộng.)
* Câu 4. Hãy tìm và gạch chân hai câu văn trong văn bản mà em cho là
quan trọng nhất trong việc thể hiện nội dung, ý nghĩa của truyện.
(Hai câu văn quan trọng nhất trong bài là:
- Ếch cứ tưởng bầu trời trên đầu chỉ bé bằng chiếc vung và nó thì oai như
một vị chúa tể.
- Nó nhâng nháo đưa cặp mắt nhìn lên bầu trời, chả thèm để ý đến xung
quanh nên đã bị một con trâu đi qua giẫm bẹp.)
* Câu 5. Thử nêu một số hiện tượng trong cuộc sống ứng với thành ngữ
“Ếch ngồi đáy giếng”.
(- Một người suốt đời chỉ quanh quẩn, ru rú ở góc nhà, xó bếp, nhưng hễ
mở miệng ra là ba hoa, khoác lác về những chuyện trên trời, dưới biển, ra vẻ ta
đây hiểu nhiểu, biết rộng. Đó là một kiểu Ếch ngổi đáy giếng.
* Một người trẻ tuổi, trình độ học vấn thấp, kinh nghiệm sống chưa nhiều
nhưng không chịu nghe ai khuyên nhủ; thích làm theo ý mình, dù là sai. Đó cũng
là một kiểu Ếch ngồi đấy giếng.)
Bài 12: THẦY BÓI XEM VOICâu 1. Hãy nêu cách các ông thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của
các thầy bói khi phán như thế nào?
(a. Cách xem voi của năm ông thầy bói là dùng tay để sờ.
Thầy nào sờ được bộ phận nào thì nhận xét về hình thù con voi như thế.
Thầy sờ vào vòi cho rằng nó sun sun giống con đỉa. Thầy sờ vào ngà bảo nó
chẩn chẫn như cái đòn càn. Thầy sờ vào tai khăng khăng nó bè bè như cái quạt
thóc. Thầy sờ vào chân voi thì cãi: Nó sừng sững như cái cột đình. Thầy thứ
năm sờ vào cái đuôi thì phủ nhận tất cả bốn thầy trước: Các thầy nói không
đúng cả. Chính nó tun tủn như cái chổi sể cùn.
b. Thái độ của các thầy bói khi “phán” về voi:
- Cả năm thầy bói đều “phán” sai về voi nhưng ai cũng khẳng định chỉ
mình là đúng và phủ nhận triệt để ý kiến của người khác. Đó là thái độ chủ quan
sai lầm.
- Cái sai nọ dẫn đến cái sai kia. Cả năm thầy không ai chịu ai, cãi vã thành
ra xô xát. Ở đây, truyện sử dụng thủ pháp nghệ thuật phóng đại để tô đậm sai
lầm trong cách “lí sự” cũng như thái độ của các thầy bói xem voi.)
Câu 2. Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói
được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai
lầm của họ là ở chỗ nào?
(- Năm thầy bói mỗi người chỉ sờ một bộ phận của voi nên không ai nói
đúng về con voi cả. Sai lầm của họ là chỉ sờ vào một bộ phận mà đã nhất quyết
cho rằng đó là toàn bộ con voi. Thực ra họ đều sai bởi vì đã lấy nhận xét về một
chi tiết để khẳng định, đánh giá về toàn thể sự vật và phủ nhận ý kiến của người
khác. Năm thầy giống nhau ở cách xem voi phiến diện và thái độ đánh giá chủ
quan đến mức cực đoan.
- Truyện không nhằm chế giễu cái “mù” về thể chất (đây chỉ là chi tiết cần
có của tình huống truyện), mà muốn nói đến cái “mù” về nhận thức và phương
pháp nhận thức của các thầy bói.)
(Qua truyện ngụ ngôn này, người xưa muốn nhắc nhở rằng khi giao tiếp,
vấn đề nào ta chưa hiểu thấu đáo thì không nên nhận xét, đánh giá. Muốn có kết
luận đúng về sự vật thì ta phải xem xét nó một cách toàn diện. Những hiểu biết
hời hợt, nông cạn, những suy đoán mò mẫm thiếu thực tế... chỉ dẫn đến nhận
thức lệch lạc, sai lầm mà thôi.
Truyện phê phán những người làm nghề xem bói hay nói linh tinh, chẳng
dựa trên cơ sở đáng tin cậy nào. Qua truyện, người xưa còn ngầm phê phán
những kẻ thiếu hiểu biết nhưng lại hay tỏ ra thông thái. Ý nghĩa này được gói
gọn trong câu thành ngữ: Thầy bói xem voi. Tiếng cười trong truyện nhẹ nhàng
nhưng cũng rất thâm thúy.)
Bài 13: ĐEO NHẠC CHO MÈOCâu 1. Hãy tóm tắt truyện, dựa vào mấy ý sau:
- Lí do cuộc họp làng chuột;
- Cảnh họp làng chuột lúc đầu và sáng kiến “đeo nhạc cho mèo”;
- Cảnh họp làng chuột lúc cử người “đeo nhạc cho mèo”.
- Kết quả việc cử người và thực hiện sáng kiến.
(- Xưa nay, loài chuột bị mèo giết hại đã nhiều. Chúng tức lắm, bèn họp
nhau lại bàn cách để chống mèo.
- Cuộc họp của “làng dài răng” rất đông đủ. Chuột cống đưa ra sáng kiến
“đeo nhạc cho mèo” để khi mèo đến gần, chuột biết đường mà chạy trốn, cả làng
chuột đồng thanh ưng thuận sáng kiến ấy.
- Tìm được nhạc rồi, hội đồng chuột lại họp. Mọi người lao xao, hớn hở
nhưng khi cử người đi “đeo nhạc vào cổ mèo” thì cả làng đùn đẩy nhau. Ông
cống có lí sự của ông cống, anh Nhắt có lí sự của anh Nhắt. Cuối cùng, chuột
Chù đầy tớ của làng đành phải nhận việc.
- Do nhút nhát nên vừa trông thấy mèo, chuột Chù đã cắm đầu chạy, cả
làng chuột cũng bỏ chạy tán loạn. Rút cuộc, chuột vẫn sợ mèo.)
Câu 2. Cảnh họp làng chuột lúc đầu và lúc cử người “đeo nhạc cho mèo”
rất đối lập nhau. Hãy chỉ ra và nêu ý nghĩa của những chi tiết đối lập ấy.
(- Lúc đầu, cảnh họp làng chuột rất khí thế, có mặt đủ cả, từ người có “vai
vế” cao nhất như ông cống đến kẻ thấp hơn nhưng vẫn thuộc hàng “chiếu trên”
như anh Nhắt, rồi tới đầy tớ làng như anh Chù. Tất cả đều thán phục và đồng
thanh Ưng thuận sáng kiến “đeo nhạc cho mèo” của cống, hớn hở nghĩ đến
ngày chuột không còn bị mèo làm hại.
- Lúc cử người đi “đeo nhạc cho mèo” thì cả làng chuột im phăng phắc,
không một cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Không khí nặng nề, sợ hãi
bao trùm. Không ai dám nhận công việc nguy hiểm ấy nên sự phân công thành
chuyện đùn đẩy, né tránh, bắt ép kẻ dưới.
* Ý nghĩa: Những chi tiết đối lập ấy chứng tỏ sự bốc đồng và hèn nhát của
hội đồng chuột, hăng hái đưa ra những sáng kiến viển vông mà không kẻ nào có
đủ can đảm để thưc hiện. Vì thế, mà sáng kiến hoá thành “tối kiến”.)
Câu 3. Em có nhận xét gì việc tả các loại chuột trong truyện. Phải chăng
mỗi loại chuột ám chỉ một loại người nào đó trong xã hội cũ?
(a. Việc tả các loại chuột trong truyện rất sinh động, đặc sắc:
- Trước hết là tả khái quát các loại chuột: Làng chuột được gọi là làng dài
răng (tả rất đúng đặc điểm về mặt sinh học cũng như bản chất phá hoại của loài
chuột). Khi đồng thanh ưng thuận sáng kiến của chuột cống, cả làng chuột phấn
chấn dẫu mõm, quật đuôi. Lúc sợ hãi thì cả hội đồng im phăng phắc, không một
cái tai nào nhích, một cái răng nào nhe cả. Tai không nhích vì giả vờ như... chưa
nghe thấy gì; răng không nhe vì... sợ phải lên tiếng, sợ bị chú ý.
- Tả “vai” nào ra “vai” ấy bằng cách gọi từng loại chuột theo tên gọi dân
gian của chúng, kết hợp với những câu ví cùng với lối chơi chữ đồng âm khác
nghĩa (ông cống, chuột Cống).
b. Từng loại chuột tương ứng với từng loại người bị ám chỉ (từ tên gọi đến
bộ dạng, hành động, ngôn ngữ, tính cách). Ông cống là bậc vai vế trong làng (lí
trưởng) có quyền xướng việc và sai khiến. Chú Nhắt tuy bé cũng là bậc đàn anh
(địa chủ, lính lệ) lại là người nhanh nhảu, láu lỉnh. Anh Chù thân phận thấp kém
(mõ làng, cùng đinh) chỉ để cho làng sai vặt và phải nhận những việc khó khăn,
nguy hiểm.)
Câu 4. Trong cuộc họp của làng chuột, ai có quyền xướng việc và sai
khiến? Ai phải nghe theo và nhận những việc khó khăn, nguy hiểm?
(Cuộc họp của làng chuột chẳng khác gì cuộc họp của hội đồng làng xã ở
nông thôn Việt Nam thời phong kiến.
- Quyền xướng việc, sai bảo thuộc về các vị tai to mặt lớn, có vai vế,
quyền lực trong làng (ông cống). Khi các vị đã phán, dù là chuyện viển vông thì
dân cũng chỉ biết phục là chí lí và đồng thanh ưng thuận, có nghĩa là nhất nhất
phải nghe theo.
- Những việc khó khăn, nguy hiểm cuối cùng đều đùn đẩy cho những đầy
tớ của làng (anh Chù). Họ không được nói, không biết cãi ra sao, đành phải
nhận.
- Truyện ngầm phê phán những cuộc họp bàn việc làng của hội đồng làng
xã thời phong kiến. Những điều đưa ra bàn bạc thường viển vông, hão huyền.
Những kẻ tai to mặt lớn trong làng phần lớn đạo đức giả, ham sống sợ chết,
thường trút khó khăn, nguy hiểm cho người dân thấp cổ bé họng. Đó cũng chính
là ý nghĩa của thành ngữ hội đồng chuột mà dân gian thường sử dụng với ý mỉa
mai.)
Câu 5. Mục đích chính của truyện ngụ ngôn là khuyên nhủ, răn dạy con
người ta bài học nào đó trong cuộc sống. Truyện Đeo nhạc cho mèo đưa ra bài
học gì?
(a. Truyện phê phán những ý tưởng vu vơ, hão huyền; những hành động
phiêu lưu mạo hiểm không bao giờ thực hiện được. Sáng kiến của chuột Cống
mới nghe qua có vẻ hay ho và được cả làng chuột đồng thanh ưng thuận nhưng
rốt cuộc không giải quyết được việc gì. Làm sao chuột lại có thể đeo nhạc cho
mèo khi từ trước đến nay, chưa trông thấy mèo, chỉ mới nghe thấy tiếng kêu
chuột đã sợ chết khiếp?!
b. Bài học mà truyện đặt ra nhắc nhở chúng ta tính thực tiễn, tính khả thi
trong dự định và kế hoạch về một điều cụ thể nào đó.
- Phê phán những đại diện chóp bu của xã hội phong kiến cũ, những kẻ
đạo đức giả thường đùn đẩy và bắt ép kẻ dưới phải nhận những việc khó khăn,
nguy hiểm.)
Câu 6. Phân tích, đánh giá tính cách chuột Cống.
(* Tham khảo bài viết dưới đây:
Đeo nhạc cho mèo là một chuyện ngụ ngôn hài hước, thú vị. Truyện kể về
cuộc họp lạ lùng của làng chuột để bàn cách chống mèo. Chuột cống nêu ra
sáng kiến đeo nhạc cho mèo để mèo đi đến đâu, chuột sẽ biết trước mà tránh.
Cả họ nhà chuột đồng tinh với sáng kiến đó nhưng không ai dám nhận việc đeo
nhạc vào cổ mèo. Cuối cùng, làng ép chuột Chù thực hiện. Vốn nhát gan, vừa
trông thấy mèo chuột Chù đã hoảng sợ bỏ chạy.
Truyện có nhiều nhân vật, nhưng nổi bật nhất là chuột Cống-đại diện cho
những kẻ tinh ranh, láu cá, hay ra vẻ ta đây nhưng thực chất chỉ biết nói mà
không biết làm, ham sống sợ chết.
Chuột Cống được giới thiệu hết sức trịnh trọng về hình dáng bên ngoài
cũng như chức vụ: ông Cống rung rinh béo tốt, quan trường lại chấm cho ở trên
ông Đồ,... Trong làng chuột, chuột Cống là bề trên luôn ngồi ở chiếu trên.
Khi làng chuột đã họp mặt đầy đủ, chuột Cống mới lên tiếng rằng: Cái
giống quái kia sở dĩ nó chụp được anh em mình chỉ vì trời phú cho nó cái tài rình
mò và khéo bắt lén mà thôi. Bây giờ, bà con ta nên mua một cái nhạc buộc vào
cổ nó, để khi nào nó đến, nghe tiếng nhạc, ta biết đường chạy trước, thì nó còn
làm gì nổi ta nữa.
Chuột Cống nêu nguyên nhân vì sao mèo hại được chuột (nguyên nhân
này thì ai chẳng biết); rồi đưa ra cách giải quyết thật nhẹ nhàng và khẳng định là
mèo không còn làm gì nổi loài chuột nữa. Giọng điệu của chuột cống vừa có vẻ
coi thường, không sợ mèo, vừa tỏ ra nó không biết lượng sức mình và không
hiểu hết về đối thủ. Tuy nhiên, mới nghe qua, làng chuột thấy rất hợp lí.
Khi săn mồi, mèo thường rình rất kín đáo và vồ quá nhanh nên chuột
không sao tránh kịp. Bây giờ đeo nhạc (lục lạc) vào cổ mèo thì mèo đi đến đâu,
tiếng nhạc sẽ vang lên đến đấy, báo cho chuột biết đường mà trốn cho kĩ. Ý kiến
của chuột Cống hay ho tới mức xua tan được nỗi sợ hãi cố hữu và khơi dậy
niềm hi vọng thoát khỏi nanh vuốt của mèo, khiến cả làng chuột nghe nói, dẩu
mõm, quật đuôi, đều lấy làm phục cái câu chí lí của ông Cống và đồng thanh
ưng thuận.
Vậy là sáng kiến của chuột cống đã được tán đồng, nhạc cũng đã kiếm
được rồi, hội đồng chuột bàn bạc để cử kẻ đi đeo nhạc cho mèo.
Nực cười thay, lúc hội đồng chuột hỏi ai dám đem nhạc đeo vào cổ mèo,
tức là thực hiện cái sáng kiến tuyệt vời của chuột Cống thì cả hội đồng im phăng
phắc. Không ai tự nguyện nhận công việc vô cùng nguy hiểm đến tính mạng nên
làng chuột đành cử ông Cống phải đi, vì chính ông Cống đã xướng lên cái thuyết
đeo nhạc ấy. Làng chuột cho rằng chuột cống nói được ắt phải có cách làm
được.
Đây là điều hoàn toàn bất ngờ với chuột cống vì nó cho rằng mình chỉ đưa
ra cách chống mèo thôi, còn thực hiện phải là kẻ khác. Đến lúc này, chuột cống
chợt tỉnh ngộ vì thấy công việc ấy quá nguy hiểm, cận kề cái chết. Cho nên nghe
vậy, Cống ta trong lòng tuy nao (lo sợ), mà ngoài mặt làm ra bộ bệ vệ kẻ cả, nói
rằng: Tôi đây, chẳng gì nhờ tổ ấm cũng được vào bậc ông Cống, ông Nghè, ăn
trên ngồi trước trong làng, có đâu làng lại cắt tôi đi làm cái việc tầm thường ấy
được! Trong làng ta nào có thiếu chi người! Tôi xin cử anh Nhắt, anh ấy nhanh
nhảu chắc làm được việc.
Chuột Cống tinh ranh vin ngay vào chức vị bề trên của mình, nêu ra sự bất
xứng giữa chức vị ấy với công việc tầm thường là đeo nhạc vào cổ mèo và vội
vàng đùn đẩy phần nguy hiểm sang cho kẻ khác (đề cử chuột Nhắt). Đáng cười
ở chỗ lúc nêu ra sáng kiến đeo nhạc cho mèo, chuột cống cho đây là đại sự
(việc lớn), đến lúc bị làng cắt cử phải làm, chuột Cống lại từ chối khéo với lí do
đó là việc tầm thường, không xứng với địa vị, chức tước, tài năng của mình.
Chuột Nhắt vốn láu cá. Nó chẳng dại gì lao đầu vào chỗ chết nên cãi lí
rằng: Làng cắt tôi đi, tôi cũng xin vâng, không dám chối từ. Nhưng tôi, dù bé vậy,
mà cũng còn ở chiếu trên, chưa đến nỗi nào. ông Cống không đi, phải; tôi đây
không đi, cũng phải. Để xin cắt anh Chù, anh ấy tuy chậm, nhưng chắc chắn,
làng không lo hỏng việc. Chuột Nhắt khôn ở chỗ lấy ngay cái lí do của chuột
cống làm lí do của mình (xét địa vị trong làng chuột), khẳng định mình không
phải làm vì còn ở chiếu trên, tức là chưa phải hạng cùng đinh. Đồng thời chuột
Nhắt nhanh nhảu tiến cử ngay chuột Chù là kẻ bị khinh rẻ nhất trong làng chuột.
Chuột Chù thấp cổ bé miệng, không biết cãi sao đành chấp nhận nhưng
cũng không khỏi lo lắng: Tôi là đầy tớ làng, làng sai tôi đi là phải lắm. Nhưng tôi
chỉ sợ, nếu tôi đến gần mèo mà mèo thịt tôi đi, thì rồi lấy ai thay tôi mà buộc
nhạc được nữa. Câu nói thật thà của Chù đã được chuột Cống chớp nhanh
chẳng kém gì mèo vồ chuột: Mèo nó có vờn là vờn chúng tao, vờn cái anh Nhắt
kia, chớ chú mày hôi hám như thế, thì nó bắt mà thèm vào. Thôi cứ nhận đi ngay
đi, không được nói lôi thôi gì nữa.
Lời lẽ của chuột Cống vừa thể hiện “cái oai” của kẻ trên ép kẻ dưới, đồng
thời cũng thể hiện sự hèn nhát, né tránh của kẻ có quyền, có thế. Cuối cùng, kẻ
có địa vị thấp kém nhất thường phải làm những công việc vất vả và nguy hiểm
nhất. Chuyện làng chuột mà y như chuyện hội đồng làng xã ngày xưa.
Thế là chuột Chù ì ạch phải nhận, vác nhạc ra đi tìm mèo thật. Tuy mèo
không ăn thịt nhưng cũng nhe nanh giương vuốt doạ dẫm khiến Chù chết khiếp,
vội vã quăng lục lạc rồi cắm đầu chạy trốn, cả làng chuột tan tác, thế là chuột
vốn sợ mèo vẫn hoàn sợ mèo.
Thông qua nhân vật chuột cống, truyện ngụ ngôn trên khuyên nhủ mọi
người luôn phải cân nhắc đến điều kiện và khả năng thực hiện khi dự định làm
một công việc nào đó. Truyện còn phê phán những ý tưởng viển vông, hão
huyền, những kẻ ham sống sợ chết, chỉ bàn suông mà không dám hành động,
trút công việc khó khăn nguy hiểm cho những người dưới quyền, cốt truyện và
tính cách nhân vật tuy đơn giản nhưng ý nghĩa xã hội thật sâu sắc.)
Bài 14: CHÂN, TAY, TAI, MẮT, MIỆNGCâu 1. Vì sao cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay, bác Tai so bì với lão Miệng?
(Cô Mắt, cậu Chân, cậu Tay và bác Tai so bì với lão Miệng vì cho rằng họ
phải làm việc mệt nhọc quanh năm, còn lão Miệng chẳng làm gì cả, chỉ ngồi ăn
không.
Nếu chỉ quan sát bề ngoài thì thấy: Mắt phải nhìn, Tai phải nghe, Chân
phải đi, Tay phải làm để phục vụ cho Miệng. Riêng Miệng không làm gì thì lại
được hưởng thụ tất cả. Bốn nhân vật trên so bì, ganh tị với Miệng vì chưa nhận
ra được bản chất của sự việc là nhờ Miệng nhai nuốt thức ăn mà toàn bộ cơ thể
được nuôi dưỡng khoẻ mạnh.)
Câu 2. Truyện mượn các bộ phận của cơ thể người để nói chuyện con
người. Có thể ví cơ thể người như một tổ chức, một cộng đồng, v.v... mà Chân,
Tay, Tai, Mắt, Miệng là những cá nhân trong tổ chức, cộng đồng đó. Từ mối
quan hệ này, truyện nhằm khuyên nhủ, răn dạy con người điều gì?
(Từ mối quan hệ gắn bó giữa các nhân vật, truyện ngụ ngôn này đã khéo
léo đặt ra bài học cho con người:
- Trong cuộc sống, một cá nhân không thể tồn tại nếu tách khỏi cộng
đồng. Mối quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng là hết sức
quan trọng và cần thiết.
- Truyện tuy ngắn gọn nhưng là lời khuyên khôn ngoan và thiết thực về
quan niệm sống: Mình vì mọi người, mọi người vì mình, bởi suy nghĩ, hành
động, cách ứng xử của cá nhân không chỉ tác động đến bản thân mà còn ảnh
hưởng chung đến cả tập thể.
- Qua truyện ngụ ngôn này, ông cha ta đã khẳng định: Trong xã hội, mỗi
người có một năng lực, một trình độ khác nhau; vì thế không nên suy bì, tị nạnh
một cách nông nổi, thiếu suy nghĩ dẫn đến hậu quả xấu, ảnh hưởng đến lợi ích
chung.)
Bài 15. TREO BIỂNCâu 1. Nội dung tấm biển treo ở cửa hàng “Ở đây có bán cá tươi” có mấy
yếu tố? Vai trò của từng yếu tố?
(Tấm biển treo ở cửa hàng “Ở đây có bán cá tươi” có bốn yếu tố, thông
báo bốn nội dung:
- Ở đây: thông báo địa điểm cửa hàng.
- Có bán: thông báo hoạt động của cửa hàng.
- Cá: thông báo loại mặt hàng.
- Tươi: thông báo chất lượng hàng.
Bốn yếu tố, bốn nội dung đó là cần thiết cho một tấm biển quảng cáo.)
Câu 2. Có mấy người “góp ý” về cái biển để ở cửa hàng bán cá? Em có
nhận xét gì về từng ý kiến?
(Có bốn người góp ý về tấm biển. Mỗi người bảo ông chủ bỏ bớt một yếu
tố trong dòng chữ đề trên biển. Vậy thì tấm biển treo lên là thừa, là vô ích, chủ
nhà bèn cất luôn tấm biển.
Thoạt nghe, ta lầm tưởng ý kiến của mọi người đều đúng nhưng nghĩ kĩ thì
hoá ra không phải. Bởi vì, người góp ý không hiểu được vai trò của từ mà họ cho
là thừa và mối quan hệ giữa các từ với nhau. Mỗi người đều lấy việc trực tiếp
được nhìn, ngửi, xem xét mặt hàng thay cho thông báo gián tiếp vốn là chức
năng, đặc điểm của ngôn ngữ. Vì vậy, họ chỉ quan tâm đến một hoặc hai từ cho
là quan trọng, chứ không thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của các từ ngữ khác
trong câu.)
Câu 3. Đọc truyện này, những chi tiết nào làm em cười? Khi nào cái đáng
cười bộc lộ rõ nhất? Vì sao?
(Đọc truyện này, ta thấy cứ mỗi lần có người góp ý là ông chủ cửa hàng
không cần suy nghĩ, vội làm theo ngay. Ta cười vì thái độ tiếp thu thụ động,
không suy xét cẩn thận của ông ta. Ta cười vì ông ta không hiểu mục đích treo
biển để làm gì và những điều viết trên biển có ý nghĩa gì.
Kết thúc truyện cũng là lúc tiếng cười vang lên bởi vì ý kiến của từng
người mới nghe qua tưởng là có lí nhưng ông chủ làm theo thì kết quả lại thành
phi lí. Ta bật cười vì trên đời này có lẽ không có ông chủ nào lại nghe góp ý theo
kiểu “đẽo cày giữa đường” như thế.)
Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện?
(Trong cuộc sống, chúng ta nên lắng nghe nhưng không nên vội vàng làm
theo ý người khác khi chưa suy xét kĩ. Trước khi làm, ta nên đặt ra câu hỏi: Làm
việc ấy để làm gì? Làm như thế nào? Qua truyện này, chúng ta cũng rút ra bài
học về cách sử dụng từ ngữ. Từ dùng phải có nghĩa, chứa đựng thông tin cần
thiết, không nên dùng thừa từ hoặc thiếu từ.)
Bài 16. LỢN CƯỚI, ÁO MỚICâu 1. Em hiểu thế nào về tính khoe của? Anh đi tìm lợn khoe của trong
tình huống như thế nào? Lẽ ra, anh phải hỏi người ta ra sao? Từ “cưới” (lợn
cưới) có phải là từ thích hợp để chỉ con lợn bị sổng và là thông tin cần thiết cho
người được hỏi không?
(a. Tính khoe của là tính thích phô bày cho mọi người biết là mình giàu có.
Nó biểu hiện qua cách ăn mặc, trang sức, nói năng, giao tiếp, và xây cất, bài trí
nhà cửa lố lăng, kệch cỡm. Đây là thói xấu thường thấy ở nhiều người.
b. Anh đi tìm lợn khoe của trong một hoàn cảnh đặc biệt: lúc nhà anh ta
đang chuẩn bị làm đám cưới, mà con lợn để làm cỗ cưới lại bị sổng mất, nghĩa
là trong lúc việc nhà đang bận rộn và bối rối, tưởng như không còn tâm trí nào
để khoe khoang.
c. Khi đi tìm lợn, lẽ ra anh ta chỉ cần hỏi: Bác có thấy con lợn của tôi chạy
qua đây không? Hoặc nói rõ con lợn ấy là lợn gì, to hay nhỏ, trắng hay đen, thì
anh ta lại hỏi: Bác có thấy con lợn CƯỚI của tôi chạy qua đây không? Câu hỏi
thừa từ cưới, vì từ cưới không phải là từ thích hợp để chỉ đặc điểm của con lợn
bị sổng. Thế nhưng nó lại rất quan trọng đối với anh mất lợn vì nó là cái cớ để
anh ta khoe đám cưới to của mình. Câu hỏi vừa có mục đích tìm lợn, vừa có
mục đích khoe của, nhưng để khoe của là chính.)
Câu 2. Anh có áo mới thích khoe của đến mức nào? Điệu bộ của anh ta
khi trả lời có phù hợp không? Hãy phân tích yếu tố thừa trong câu trả lời của anh
ta.
(a. Anh có áo mới thích khoe của đến mức vừa may được cái áo vội đem
ra mặc ngay để khoe. Tính thích khoe của đã biến anh ta thành trẻ con. Nhưng
trẻ con thích khoe áo mới bởi chúng ngây thơ, trong sáng; còn nhân vật này mặc
áo mới với mục đích là để khoe của.
b. Cách khoe áo của anh ta cũng thật buồn cười:...đứng hóng ở cửa,
đứng mãi từ sáng tới chiều, kiên nhẫn đợi để khoe bằng được. Đang lúc cụt
hứng thì anh chàng mất lợn chạy tới hỏi thăm. Anh có áo mới vội giơ ngay vạt
áo ra để khoe và trả lời rằng: Từ lúc tôi mặc CÁI ÁO MỚI này, tôi chẳng thấy con
lợn nào chạy qua đây cả. Đúng ra, anh ta chỉ cần đáp là có thấy con lợn hay
không, nhưng anh ta lại chớp thời cơ cố tình khoe áo mới cả bằng điệu bộ lẫn lời
nói. Đấy là những yếu tố thừa nhưng lại là nội dung, mục đích thông báo chính
của anh ta.)
Câu 3. Đọc truyện Lợn cưới, áo mới vì sao em lại cười?
(Đọc truyện, chúng ta bật cười vì nhiều lẽ:
- Trước hết là về hành động, lời nói của nhân vật, của đem khoe chẳng
đáng là bao. Sau đó là lời khoe và cách khoe đều sống sượng, trơ trẽn.
- Người đi tìm lợn sổng mà cứ nhấn mạnh là lợn cưới. Kẻ lẽ ra phải trả lời
là không thấy lợn thì lại cố đưa thêm cái áo mới của mình vào. Những chi tiết trái
tự nhiên, không hợp với lẽ thường xuất hiện, khiến cho tiếng cười chế giễu vang
lên.
- Anh áo mới đứng hóng ở cửa, kiên nhẫn đợi suốt từ sáng đến chiều mà
vẫn chưa khoe được áo. Đang tức tối thì lại bị anh lợn cưới khoe của trước. Anh
áo mới đã không bỏ lỡ cơ hội cả ngày chỉ có một lần để khoe áo trước mặt anh
lợn cưới. Kết thúc bất ngờ của truyện tạo cảm giác buồn cười và thú vị cho
người đọc.)
Câu 4. Hãy nêu ý nghĩa của truyện Lợn cưới, áo mới.
(Truyện Lợn cưới, áo mới phê phán tính hay khoe của, một tính xấu khá
phổ biến trong xã hội. Tính xấu ấy đã biến nhân vật thành trò cười cho mọi
người.)
Bài 17: CON HỔ CÓ NGHĨACâu 1. Văn bản này thuộc thể văn gì? Có mấy đoạn? Mỗi đoạn nói gì?
(a. Đây không phải là truyện dân gian truyền miệng mà là văn học viết thời
trung đại (từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XIX). Truyện trung đại là thể loại được viết
bằng văn xuôi chữ Hán, có cách viết không giống hẳn với truyện hiện đại ngày
nay: vừa có loại truyện hư cấu (tưởng tượng nghệ thuật) vừa có loại truyện gần
với kí (ghi chép sự việc), gần với sử (ghi chép chuyện thật) và thường mang tính
giáo huấn.
Cốt truyện đơn giản, nhân vật thường được miêu tả chủ yếu qua ngôn
ngữ trực tiếp của người kể chuyện, qua hành động và ngôn ngữ đối thoại của
nhân vật.
b. Những câu chuyện cảm động về hổ được kể trong hai đoạn văn có một
kết cấu giống nhau: hổ (hoặc gia đình hổ) gặp nạn, người cứu hổ, hổ đền ơn.
- Đoạn thứ nhất là câu chuyện giữa hổ đực và bà đỡ Trần ở huyện Đông
Triều. Hổ đực đền ơn mười lạng bạc vì bà đỡ Trần đã cứu vợ con nó, số bạc ấy
đã giúp bà sống qua năm mất mùa đói kém.
- Đoạn thứ hai kể về chuyện giữa hổ trán trắng và bác tiều phu. Hổ bị hóc
xương, nó đau đớn giãy giụa làm cỏ cây nghiêng ngả. Bác tiều phu đã giúp hổ
lấy khúc xương ra khỏi họng. Hổ đền ơn bác tiều. Hơn mười năm sau, bác tiều
qua đời, hổ đến bên quan tài tỏ lòng thương xót. Sau đó, mỗi năm cứ đến ngày
giỗ, hổ lại đem dê hoặc lợn đến để trước cửa nhà.)
Câu 2. Với văn bản này, biện pháp nghệ thuật cơ bản, bao trùm được sử
dụng là biện pháp gì? Tại sao lại dựng lên chuyện “Con hổ có nghĩa” mà không
phải là “Con người có nghĩa”?
(a. Với văn bản này, biện pháp nghệ thuật cơ bản được sử dụng là biện
pháp nhân hóa.
b. Tác giả dựng lên chuyện “Con hổ có nghĩa” mà không phải là “Con
người có nghĩa” vì: Trong thực tế có những con vật sống rất có nghĩa với người
(chó, ngựa...) nhưng chắc hẳn là không thể có hành động cao đẹp như hai con
hổ trong truyện. Tưởng tượng ra hai con hổ có nghĩa đến mức lí tưởng như vậy,
mục đích của tác giả là mượn chuyện hổ để nói chuyện con người.)
Câu 3. Chuyện gì đã xảy ra giữa bà đỡ Trần (người huyện Đông Triều) với
con hổ thứ nhất và giữa bác tiều (ở huyện Lạng Giang) với con hổ thứ hai?
Trong mỗi chuyện, chi tiết nào em cho là thú vị? Chuyện con hổ với bác tiều so
với chuyện con hổ với bà đỡ Trần có thêm ý nghĩa gì?
(a. Khi bà đỡ Trần giúp cho hổ cái sinh con, sau những phút mừng rỡ đùa
giỡn với con, hổ đực quỳ xuống bên một gốc cây, lấy tay đào lên một cục bạc.
Hành động đền ơn đáp nghĩa của nó diễn ra ngay tức thì, không chút đắn đo. Mà
hổ đền ơn những hơn mười lạng bạc. Hổ tuy là một con vật hung dữ nhưng lại
biết cư xử có nghĩa có tình với người đã giúp gia đình nó vượt qua cơn hoạn
nạn.
Chi tiết thú vị là khi tiễn ân nhân về, hổ cúi đầu vẫy đuôi. Đến khi bà đỡ
Trần đã đi khá xa, nó gầm lên một tiếng rồi bỏ đi. Đây là tiếng chào tiễn biệt, là
lời cảm ơn chân thành của hổ đực đối với ân nhân.
b. Cũng đáp đền ân nghĩa nhưng cách trả ơn của hổ trán trắng có khác.
Sau khi được cứu giúp mấy ngày, nó đã mang một con nai đến đặt trước cửa
nhà bác tiều phu để tạ ơn. Cảm động nhất là mười năm sau, khi bác tiều phu
qua đời, nó vẫn nhớ đến bác và về tận mộ để vĩnh biệt ân nhân của mình. Chi
tiết thú vị là khi chôn cất, hổ bỗng nhiên đứng trước mộ nhảy nhót... Từ xa, nhìn
thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài, gầm lên, chạy quanh quan tài vài vòng rồi đi.
Không phải chỉ trong ngày bác tiều mất mà từ đó về sau, hằng năm tới ngày giỗ
bác tiều, hổ lại đưa dê hoặc lợn đến để ở ngoài cửa...
Trong đoạn thứ hai, tác giả đặc tả ân nghĩa thủy chung của con hổ trán
trắng qua hai tiếng gầm của nó: một tiếng gầm tỏ ý cảm ơn khi đem nai về cho
bác tiều và một tiếng gầm tỏ ý tiếc thương để vĩnh biệt ân nhân. Tiếng gầm ấy
cũng là lời hứa không bao giờ quên ơn người đã khuất. Hổ trán trắng đã làm
đúng như lời hứa trước mộ bác tiều phu.
c. Tưởng tượng ra hai con hổ có nghĩa đến mức lí tưởng như vậy, mục
đích chính của tác giả là mượn chuyện hổ để nói chuyện con người. Cái nghĩa
của con hổ sau hơn hẳn so với con hổ trước. Hổ trước đền ơn một lần là xong;
hổ sau đền ơn mãi mãi, lúc ân nhân còn sống và cả sau khi ân nhân đã qua đời.)
Câu 4. Truyện Con hổ có nghĩa đề cao, khuyến khích điều gì cần có trong
cuộc sống con người?
(Xưa nay, trong tâm thức của nhân dân ta, hổ là con vật dữ tợn nhất, thế
mà chúng lại biết cư xử có nghĩa có tình như thế; vậy thì con người phải sống
sao đây? Cách nói bằng hình tượng nghệ thuật dễ tiếp thu hơn là lời giáo huấn
khô khan: Là con người thì phải sống cho có tình có nghĩa. Đó cũng là bài học
được tác giả gửi gắm một cách kín đáo và thấm thìa trong câu chuyện này.)
Bài 18. MẸ HIỀN DẠY CONCâu 1. Lập bảng tóm tắt năm sự việc đã diễn ra giữa mẹ con thầy Mạnh
Tử (thuở nhỏ): * Tham khảo bảng dưới đây:
Sự việc Con Mẹ
1
Nhà gần nghĩa địa:
Bắt chước người ta đào, chôn,
lăn, khóc
Không phải chỗ con ta ở được.
-> Dọn nhà ra gần chợ.
2
Nhà gần chợ:
Bắt chước thói bán buôn điên
đảo.
Cũng không phải chỗ con ta ở
được.
-> Dọn nhà đến ở cạnh trường
học.
3
Nhà gần trường học:
Học lễ phép, chăm chỉ.
Bà mẹ mới vui lòng nói:
Chỗ này là chỗ con ta ở được lâu
dài.
4
Thấy nhà hàng xóm giết lợn, hỏi
mẹ: Người ta giết lợn làm gì
thế?
Nói đùa: Để cho con ăn đấy. Biết
lỡ lời, bà đi mua thịt lợn cho con
ăn.
5
Đang đi học, bỏ về nhà chơi ->
sau khi thấy mẹ cầm dao cắt
đứt tấm vải đang dệt thì học tập
rất chuyên cần.
Cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt
trên khung để ngầm ví với việc
con bỏ dở việc học hành.
Câu 2. Ý nghĩa của việc dạy con trong ba sự việc đầu là gì? Trong hai sự
việc sau là gì? ở hai sự việc sau, về ý nghĩa có gì khác so với ba sự việc đầu?
Hãy nêu lên tác dụng cách dạy con của bà mẹ thầy Mạnh Tử.
(a. Ý nghĩa của việc dạy con trong ba sự việc đầu là:
- Môi trường sống ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành tính cách của
con người.
* Ý nghĩa của việc dạy con trong hai sự việc sau là:
- Đề cao chữ tín trong cuộc sống.
- Tác dụng của hành động và lời nói của người lớn đối với con trẻ. b. Tác
dụng cách dạy con của bà mẹ thầy Mạnh Tử:
* Vấn đề mà bà mẹ thầy Mạnh Tử quan tâm trước hết trong việc dạy con
là môi trường sống.
- Phải tạo ra một môi trường sống trong sạch thì đứa con mới có điều kiện
tiếp thu những mặt tích cực, lành mạnh, từ đó phát triển tính cách theo chiều
hướng tốt.
* Ở sự việc thứ tư, khi biết mình lỡ lời, bà mẹ đã kịp thời chữa lại ngay.
Không phải bà đính chính lại câu nói đùa mà bà đi chợ mua thịt lợn về cho con
ăn.
- Cách dạy của bà mẹ thật khéo léo và tế nhị, giữ cho tâm hồn con trẻ
trong sáng, hồn nhiên. Hơn thế, bà dạy con phải biết quý trọng chữ tín vì nếu
mất chữ tín thì không ai tin mình cả và mình sẽ không thể làm tốt mọi việc.
* Bên cạnh cách dạy dỗ khéo léo là thái độ kiên quyết. Phải nói rằng thái
độ này của bà đã gây ấn tượng mạnh và có tác dụng tích cực đối với thầy Mạnh
Tử.
- Hành động, lời nói của bà mẹ xuất phát từ tình thương con, muốn con
nên người.
- Sự nghiêm khắc của bà mẹ có tác dụng rất lớn trong việc hướng con trai
mình vào việc học tập chuyên cần để về sau trở nên bậc đại hiền.
* Câu kết của truyện: Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quý báu của
bà mẹ hay sao? vừa là lời kể, vừa là lời bình của tác giả. Mạnh Tử trở thành
người tài giỏi trước hết là nhờ công lao giáo dục và tình thương yêu của mẹ.
Hành động kiên quyết (cắt đứt tấm vải đang dệt) và lời nói nghiêm khắc của bà
mẹ đã để lại ấn tượng sâu sắc, thành bài học nhớ đời cho thầy Mạnh Tử. Thấm
thía lời mẹ dạy, từ hôm đó, thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần.)
Câu 3. Em hình dung bà mẹ thầy Mạnh Tử là người như thế nào?
(Bà mẹ thầy Mạnh Tử là tấm gương sáng về tình thương và cách dạy con.
- Dạy con trước hết phải chọn môi trường sống tốt cho con.
- Dạy con trước hết phải dạy đạo đức làm người.
- Dạy đạo đức chưa đủ, còn phải dạy con lòng say mê học tập và ý chí
phấn đấu trong cuộc sống.
- Đối với con, không nên nuông chiều mà phải nghiêm khắc. Thái độ
nghiêm khắc phải dựa trên tình yêu thương và mong muốn thiết tha con mình trở
thành người có tài có đức.)
Câu 4. Hãy đọc lại chú thích dấu sao (★) ở bài Con hổ có nghĩa, đoạn nói
về cách viết truyện trung đại, từ đó nêu nhận xét về cách viết truyện Mẹ hiền dạy
con.
(Truyện Mẹ hiền dạy con nổi tiếng từ xưa ở Trung Quốc cũng như ở nước
ta. Tuy ra đời sớm hơn truyện trung đại Việt Nam nhưng cũng tạm xếp vào cụm
bài gọi là truyện trung đại, vì cách viết giống nhau, như cách viết kí, viết sử ở
thời trung đại.
Truyện viết theo thể loại văn xuôi (chữ Hán), dùng biện pháp hư cấu
(tưởng tượng nghệ thuật) kết hợp với cách viết kí (ghi chép sự việc) và viết sử
(ghi chép chuyện thật). Cốt truyện đơn giản. Nhân vật thường được miêu tả chủ
yếu qua ngôn ngữ trực tiếp của người kể truyện, qua hành động và ngôn ngữ
đối thoại của nhân vật.)
Câu 5. Hãy phát biểu cảm nghĩ của em về sự việc: Bà mẹ thầy Mạnh Tử
đang ngồi dệt vải, thấy con bỏ học về nhà chơi liền cầm dao cắt đứt tấm vải
đang dệt trên khung.
* Tham khảo ý kiến dưới dây:
(Bà mẹ thầy Mạnh Tử đang ngồi dệt vải, thấy con bỏ học về nhà chơi liền
cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung. Đây là hành động đã gây ấn tượng
mạnh và có tác dụng tích cực đối với thầy Mạnh Tử, bày tỏ thái độ phê phán
quyết liệt: Con đang đi học mà bỏ học thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà
cắt đứt đi vậy. Tác hại của việc bỏ học của con được bà mẹ chứng minh một
cách cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, dễ thấm. Bà mẹ phải đau đớn lắm mới nói như thế
và cũng kiên quyết lắm mới cắt đứt tấm vải như thế. Tất cả đã thành ấn tượng
không bao giờ quên, thành bài học nhớ đời cho thầy Mạnh Tử và từ hôm đó,
thầy Mạnh Tử học tập rất chuyên cần để sau này trở thành một bậc đại hiền.
Người mẹ nào mà không thương con, nhưng không được nuông chiều
thói hư tật xấu của con và phải biết dạy con bằng nhiều phương pháp linh hoạt:
khi khéo léo, khi kiên quyết... Đây là bài học quý báu cho các bà mẹ.)
Câu 6. Từ chuyện mẹ con thầy Mạnh Tử xưa, em có suy nghĩ gì về đạo
làm con của mình?
* Tham khảo ý kiến dưới đây:
(Đạo làm con là đạo đức, là trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ. Các
con phải biết vâng lời cha mẹ để cha mẹ vui lòng. Bổn phận làm con là phải một
lòng nâng niu, kính mến, chăm sóc cha mẹ. Thực hiện đạo hiếu với cha mẹ phải
bằng tình cảm chân thành, trọn vẹn và phải được thể hiện qua thái độ, lời nói và
hành động.
Kính yêu cha mẹ là tình cảm tự nhiên. Bổn phận, trách nhiệm và lòng hiếu
thảo của con cái đối với cha mẹ là thước đo phẩm chất đạo đức đối với mỗi
người.)
* Câu 7. Có hai yếu tố Hán Việt đồng âm:
- tử: chết - tử: con
Hãy cho biết các kết hợp dưới đây được sử dụng với nghĩa nào? công tử,
tử trận, bất tử, hoàng tử, đệ tử, cảm tử.
(- công tử, hoàng tử, đệ tử: tử được sử dụng với nghĩa là con.
- tử trận, bất tử, cảm tử: tử được sử dụng với nghĩa là chết.)
Bài 19. THẦY THUỐC GIỎI CỐT NHẤT Ở TẤM LÒNGCâu 1. Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm. Từ
đó:
a) Trả lời các câu hỏi sau:
- Vị Thái y lệnh là người như thế nào?
- Trong những hành động của ông, điều gì làm em cảm phục nhất và suy
nghĩ nhiều nhất?
b) Phân tích, bình luận lời đối thoại của vị Thái y với quan Trung sứ: Ngài
đáp: Tôi có mắc tội... tôi xin chịu tội.
(a. Những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm:
- Là một vị “quan thầy thuốc” cao nhất ở triều đình nhưng Phạm Bân
thường quan tâm giúp đỡ, chữa trị cho những bệnh nhân nghèo khổ.
- Phạm Bân đã đem hết tiền của trong nhà ra mua thuốc tốt, tích trữ thóc
gạo để vừa nuôi ăn, vừa chữa bệnh cho người nghèo. Dẫu bệnh có nặng đến
đâu, ông cũng không nề hà. Ông làm nhà cho người bệnh ở, chu cấp cơm cháo
đầy đủ và chữa bệnh không lấy tiền.
Ông đã cứu sống hơn ngàn người trong những năm đói kém, dịch bệnh.
- Ông đã quyết tâm cứu sống người đàn bà nghèo trước rồi sau đó mới
chữa bệnh cho quý nhân trong cung vua, dù đã có lệnh của vua.
- Khi vào cung, ông đến yết kiến Trần Anh Vương và xin nhận tội vì đã
không vào triều ngay, nhưng nhà vua chẳng những không bắt tội mà còn khen
ông là một lương y chân chính.
* Qua đó ta thấy:
- Vị Thái y lệnh là một thầy thuốc vừa giỏi về chuyên môn, vừa giàu lòng
nhân ái, tận tụy cứu chữa cho bệnh nhân, ông là người có y đức cao quý.
- Trong hành động của ông, điều làm ta cảm phục nhất là ông đã dùng nhà
mình làm “bệnh xá” rồi nuôi cơm, cấp thuốc cho mọi người mà không ngại bẩn
thỉu, tốn kém. Trước bệnh nhân, ai nguy kịch hơn thì ông chữa trưóc, ai bệnh
nhẹ hơn thì ông chữa sau, bất kể giàu nghèo.
b. Qua lời đối thoại của vị Thái y với quan Trung sứ: Ngài đáp: Tôi có mắc
tội... tôi xin chịu tội.
- Đây là một tình huống thử thách gay go đối với y đức và bản lĩnh của vị
Thái y lệnh. Thái độ và lời nói của quan Trung sứ đã đặt Phạm Bân trước những
mâu thuẫn gay go, cần có sự lựa chọn sáng suốt để tìm ra giải pháp đúng đắn
nhất:
+ Giữa việc cứu người dân thường lâm bệnh nặng nếu không cứu ngay
thì sẽ chết với việc thi hành phận làm tôi, ông sẽ chọn việc nào làm trước?
+ Giữa tính mệnh của người dân thường lâm bệnh nguy cấp với tính
mệnh của chính mình trước quyền uy của nhà vua, ông sẽ chọn bên nào?
- Lời đáp của Thái y lệnh với quan Trung sứ chứng tỏ ông đã vượt qua thử
thách đó rất nhẹ nhàng. Lời đáp của ông đã bộc lộ nhân cách tốt đẹp và bản lĩnh
cứng cỏi của ông:
+ Quyền uy không thắng nổi y đức.
+ Tính mệnh của cá nhân ông đặt dưới tính mệnh của người dân
thường...
+ Ngoài y đức và bản lĩnh, ở Thái y lệnh Phạm Bân còn có sức mạnh và trí
tuệ sáng suốt. Câu nói: Nếu người kia không được cứu, sẽ chết trong khoảnh
khắc, chẳng biết trông vào đâu. Tính mệnh của tiểu thần còn trông vào chúa
thượng, may ra thoát vừa thể hiện y đức, bản lĩnh, vừa thể hiện sự thông minh
nhanh nhạy trong cách ứng xử của ông. Bởi nói như vậy, ông vẫn giữ được
phận làm tôi, mặc dù đã không tuân theo lệnh của vua. Vả lại, nếu vua là người
có lương tâm và lương tri, chắc chắn sẽ không trị tội Thái y lệnh Phạm Bân.)
Câu 2. Trước cách xử sự của vị Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương
diễn biến như thế nào?
Qua đó, nhân cách của Trần Anh Vương được thể hiện ra sao?
(Lúc đầu, nhà vua rất tức giận, nhưng sau khi nghe Thái y lệnh trình bày
thì không những hết giận mà còn ban khen. Điều đó chứng tỏ Trần Anh vương
cũng là một ông vua sáng suốt và nhân đức.
Phạm Bân lấy tấm lòng chân thành của mình để giải trình điều hơn lẽ thiệt,
từ đó thuyết phục được nhà vua. Đây là thắng lợi vẻ vang của y đức, của bản
lĩnh, trí tuệ và lòng nhân ái.)
Câu 3. Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng có thể rút ra
cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì?
(Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng, có thể rút ra cho
những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học: Phải hết lòng vì dân
nghèo, quên mình để cứu người, bất chấp quyền uy cũng như sự nguy hiểm đến
tính mạng bản thân. Thầy thuốc phải như mẹ hiền.)
Câu 4. Hãy so sánh nội dung y đức được thể hiện ở văn bản truyện Thầy
thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng với văn bản kể về Tuệ Tĩnh như thế nào?
(a. Cả hai văn bản đều ca ngợi y đức cao đẹp của người thầy thuốc trước
những quyền lực tối thượng, thông qua hai tình huống gần giống nhau.
b. Tuy nhiên, so với văn bản kể về Tuệ Tĩnh (trang 44, SGK) thì ở truyện
này, nội dung y đức được thể hiện phong phú, sâu sắc hơn.
- Ngoài câu chuyện nhà vua triệu Thái y lệnh Phạm Bân về cung chữa
bệnh cho bậc quý nhân thì còn kể về việc ông tận tâm cứu giúp bệnh nhân
nghèo và uy tín, đạo đức của ông để lại cho cọn cháu. Trong khi đó, truyện Tuệ
Tĩnh chỉ kể về cách xử sự của bậc danh y này khi nhà quý tộc đến để mời đi
chữa bệnh.
- Tình huống xảy ra đối với Thái y lệnh Phạm Bân so với Tuệ Tĩnh cũng
gay cấn hơn nhiều vì đây là cuộc đối đầu giữa y đức với quyền lực tối thượng
của nhà vua. Còn ở trường hợp Tuệ Tĩnh, chỉ mới là cuộc đụng độ giữa y đức
với uy thế của một vị quý tộc.
- Cuộc đụng độ trực tiếp giữa Thái y lệnh Phạm Bân với quan Trung sứ
của nhà vua cũng gay gắt hơn so với cuộc đụng độ giữa Tuệ Tĩnh với con của
nhà quý tộc. Bởi, người con của vị quý tộc chỉ muốn đặt Tuệ Tĩnh vào cái thế “đã
rồi” để ép buộc. Còn quan Trung sứ của nhà vua thì đe dọa tính mệnh của Thái y
lệnh Phạm Bân.)
* Câu 5. Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh vương
phải như thế nào? Hãy so sánh nội dung đó với nội dung trong lời thề của Hi-pô-
cờ-rát được trích ở phần đọc thêm.
(Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải
dốc toàn tâm, toàn ý, toàn lực để cứu người mà không nề hà, không tính toán
thiệt hơn. Nội dung trong lời thề của Hi-pô-cờ-rát là không lấy tiền thù lao quá
đáng và sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo.
So sánh sự giống và khác nhau giữa hai người:
+ Giống nhau: Cả hai đều là bậc lương y chân chính, hết lòng vì dân
nghèo, quên mình để cứu người.
+ Khác nhau: Thái y lệnh không sợ nguy hiểm đến tính mạng của mình.)
* Câu 6. Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm
(y: chữa bệnh, thầy thuốc; thiện: giỏi, tốt, lành; dụng: dùng, đem dùng; tâm: lòng,
tấm lòng). Có sách dịch nhan đề trên là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng, ở đây dịch:
Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Vậy có gì khác nhau? Em tán thành cách
nào? Lí do?
(Nấu dịch là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng thì dường như có ý khẳng định chỉ
cần có tấm lòng là đủ; trong khi đó, người thầy thuốc giỏi vừa phải có tấm lòng
vừa phải có tài năng. Trong thực tế, có những thầy thuốc có lòng nhân ái nhưng
tay nghề yếu. Ngược lại, có thầy thuốc tay nghề giỏi mà y đức lại kém, cả hai
trường hợp đó đều chưa đạt yêu cầu lí tưởng. Thầy thuốc giỏi phải có cả tài và
đức nhưng trong đó phải lấy tấm lòng làm gốc rễ. Cách dịch: Thầy thuốc giỏi cốt
nhất ở tấm lòng là đúng nhất.)
MỤC LỤCLời Nói Đầu
Phần I. KỂ CHUYỆN ĐỜI THƯỜNG
Đề 1. Kể diễn cảm truyện Con Rồng, cháu Tiên.
Đề 2. Kể diễn cảm truyện Bánh chưng, bánh giầy.
Đề 3. Kể diễn cảm truyện Thánh Gióng.
Đề 4. Kể diễn cảm truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh.
Đề 5. Kể diễn cảm truyền thuyết Sự tích Hồ Gươm.
Đề 6. Kể diễn cảm truyện Sọ Dừa.
Đề 7. Kể diễn cảm truyện Thạch Sanh.
Đề 8. Kể diễn cảm truyện Em bé thông minh.
Đề 9. Kể diễn cảm truyện Cây bút thần.
Đề 10. Kể diễn cảm truyện dân gian Nga ông lão đánh cá và con cá vàng.
Đề 11. Kể diễn cảm truyện Ếch ngồi đáy giếng.
Đề 12. Kể diễn cảm truyện Thầy bói xem voi.
Đề 13. Kể diễn cảm truyện Đeo nhạc cho mèo.
Đề 14. Kể diễn cảm truyện Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Đề 15. Kể diễn cảm truyện Treo biển.
Đề 16. Kể diễn cảm truyện Lợn cưới, áo mới.
Đề 17. Kể diễn cảm truyện Con hổ có nghĩa.
Đề 18. Kể diễn cảm truyện Mẹ hiền dạy con.
Đề 19. Kể diễn cảm truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng.
Đề 20. Ca dao có câu:
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Theo em, câu ca dao trên có ý nghĩa như thế nào?
Đề 21. Hãy nêu ý nghĩa đoạn thơ sau đây trích trong trường ca Mặt đường
khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm:
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.
Đề 22. Em hiểu gì về đoạn thơ sau:
Ôi sức trẻ! Xưa trai Phù Đổng
Vươn vai, lớn bổng dậy nghìn cân
Cưỡi lưng ngựa sắt bay phun lửa
Nhổ bụi tre làng, đuổi giặc Ân!
(Trích trong bài Theo chân Bác của Tố Hữu).
Đề 23. Hãy kể lại bằng văn xuôi bài thơ sau:
SA BẪY
Bé Mây rủ mèo con
Đánh bẫy bầy chuột nhắt
Mồi thơm: cá nướng ngon
Lửng lơ trong cạm sắt.
Lũ chuột tham hoá ngốc
Chẳng nhịn thèm được đâu!
Bé Mây cười tít mắt
Mèo gật gù, rung râu.
Đêm ấy Mây nằm ngủ
Mơ đầy lồng chuột sa
Cùng mèo con đem xử
Chúng khóc ròng, xin tha!
Sáng mai vùng xuống bếp:
Bẫy sập tự bao giờ
Chuột không, cá cũng hết
Giữa lồng mèo nằm... mơ!
(Nguyễn Hoàng Sơn - Dắt mùa thu vào phố)
Đề 24. Kể về một người bạn tốt mà em yêu mến.
Đề 25. Kể về một người bạn thân thiết của em.
Đề 26. Sinh nhật của em được tổ chức rất vui. Em hãy kể lại buổi tiệc sinh
nhật ấy.
Đề 27. Năm nay em học lớp 6. Em đã lớn rồi. Hãy kể lại những sự thay đổi
của em.
Đề 28. Em hãy tự giới thiệu về bản thân.
Đề 29. Em hãy kể về một ngày hoạt động của mình.
Đề 30. Em hãy thay lời ông lão đánh cá trong truyện ông lão đánh cá và
con cá vàng để kể lại truyện.
Đề 31. Kể về một việc tốt mà em đã làm.
Đề 32. Kể về một lần em mắc lỗi (bỏ học, nói dối, không làm bài...).
Đề 33. Kể về một kỉ niệm thời thơ ấu mà em nhớ mãi.
Đề 34. Kể về một tấm gương tốt trong học tập hay trong việc giúp đỡ mọi
người mà em biết
Đề 35. Em hãy kể chuyện một chuyến về quê.
Đề 36. Em hãy kể lại một cuôc đi thăm danh lam thắng cảnh.
Đề 37. Kể về một cuộc đi thăm di tích lịch sử.
Đề 38. Kể về một kỉ niệm đáng nhớ của em (được khen, bị chê, gặp rủi ro,
bị hiểu lầm...)
Đề 39. Kể về một cuộc đi thăm gia đình thương binh, liệt sĩ do lớp em tổ
chức.
Đề 40. Hãy kể lại một hoạt động từ thiện của lớp em.
Đề 41. Hãy kể một kỉ niệm về thầy giáo (hay cô giáo) cũ mà em nhớ mãi.
Đề 42. Hãy kể về người bà kính yêu của em.
Đề 43. Hãy kể về người mẹ của em.
Phần II. KỂ CHUYỆN TƯỞNG TƯỢNG
Đề 44. Hãy kể về một chuyến du lịch trong thế giới cổ tích, gặp gỡ với
những nhân vật mà em yêu mến.
Đề 45. Mượn lời một đồ vật hay một con vật gần gũi với em để kể chuyện
tình cảm giữa em và đồ vật hay con vật đó.
Đề 46. Hãy tưởng tượng cuộc đọ sức giữa Sơn Tinh – Thủy Tinh trong
điều kiện ngày nay với máy xúc, máy ủi, xi măng cốt thép, máy bay trực thăng,
điện thoại di động, xe lội nước,...
Đề 47. Nhà em có ôtô, xe máy và xe đạp. Hãy kể một câu chuyện tưởng
tượng về cuộc tranh luận giữa chúng.
Đề 48. Kể chuyện mười năm sau em về thăm lại mái trường mà hiện nay
em đang học. Hãy tưởng tượng những thay đổi có thể xảy ra.
Đề 49. Trẻ em vẫn mơ ước vươn vai một cái là trở thành tráng sĩ như
Thánh Gióng. Em hãy tưởng tượng mình mơ thấy Thánh Gióng và hỏi ngài bí
quyết, xem ngài khuyên em như thế nào?
Đề 50. Em hãy kể về tâm sự của một cuốn sách bị bỏ quên.
Đề 51. Hãy kể về tâm tình của cây lúa.
Đề 52. Hãy kể về giấc mơ của một bông hoa.
Đề 53. Kể tâm sự một chú chó bị lạc chủ.
Đề 54. Hãy đóng vai bà đỡ Trần trong truyện Con hổ có nghĩa để kể lại
câu chuyện ấy.
Đề 55. Hãy kể về một con chó có nghĩa với chủ.
Đề 56. Đọc bài ca dao:
Con cò mà đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng.
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Hãy tưởng tượng và viết thành một câu chuyện ngắn.
Đề 57. Kể lại câu chuyện tưởng tượng về cô Tấm đang ở nhà bà hàng
nước, nhớ nhà, nhớ vua, mong được đoàn tụ.
Phần III. DÀNH CHO HỌC SINH GIỎI
Đề 58. Phát biểu cảm nghĩ về truyện Con Rồng, cháu Tiên.
Đề 59. Phát biểu cảm nghĩ về Sự tích bánh chưng, bánh giầy.
Đề 60. Phát biểu cảm nghĩ về hình tượng Gióng trong truyền thuyết Thánh
Gióng.
Đề 61. Hãy phát biểu cảm nghĩ của em khi đọc truyện Sơn Tinh – Thủy
Tinh. Từ đó em có suy nghĩ gì về chủ trương xây dựng, củng cố đê điều, nghiêm
cấm nạn phá rừng của nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Đề 62. Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện Sự tích Hồ Gươm.
Đề 63. Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện Sọ Dừa.
Đề 64. Nhân vật phú ông trong truyện Sọ Dừa có ba người con gái. Hãy
phát biểu suy nghĩ của em về cô út.
Đề 65. Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện Thạch Sanh.
Đề 66. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện cổ Em bé thông
minh.
Đề 67. Phát biểu cảm nghĩ về truyện Cây bút thần.
Đề 68. Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện dân gian Nga: Ông lão đánh
cá và con cá vàng.
Đề 69. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Ếch ngồi
đáy giếng.
Đề 70. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Thầy bói xem voi.
Đề 71. Phát biểu cảm nghĩ sau khi đọc truyện ngụ ngôn Đeo nhạc cho
mèo.
Đề 72. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Chân,
Tay, Tai, Mắt, Miệng.
Đề 73. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Treo biển.
Đề 74. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện cười ngụ ngôn Lợn
cưới, áo mới.
Đề 75. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện ngụ ngôn Con hổ có
nghĩa.
Đề 76. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Mẹ hiền dạy con.
Đề 77. Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Thầy thuốc giỏi cốt
nhất ở tấm lòng.
Phần IV. PHỤ LỤC HƯỚNG DẪN ĐỌC VÀ TÌM HIỂU TÁC PHẨM
Bài 1. Con Rồng, cháu Tiên
Bài 2. Sự tích bánh chưng, bánh giầy
Bài 3. Thánh Gióng
Bài 4. Sơn Tinh – Thủy Tinh
Bài 5. Sự tích Hồ Gươm
Bài 6. Sọ Dừa
Bài 7. Thạch Sanh
Bài 8. Em bé thông minh
Bài 9. Cây bút thần
Bài 10. Ông lão đánh cá và con cá vàng
Bài 11. Ếch ngồi đáy giếng
Bài 12. Thầy bói xem voi
Bài 13. Đeo nhạc cho mèo
Bài 14. Chân, Tay, Tai, Mắt, Miệng
Bài 15. Treo biển
Bài 16. Lôn cưới, áo mới
Bài 17. Con hổ có nghĩa
Bài 18. Mẹ hiền dạy con
Bài 19. Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng
---//---
NHỮNG BÀI LÀM VĂN MẪULỚP 6 – TẬP I
(Tái bản có sửa chữa, bổ sung)
(Dùng cho Phụ huynh, giáo viên tham khảo,
Bồi dưỡng học sinh giỏi)
Tác giả: TRẦN THỊ THÌN
NHÀ XUẤT BẢN TỔNG HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
62 Nguyễn Thị Minh Khai - Q.1
Điện thoại: 38 225340 - 38 296764 - 38 247225
Fax: (08) 38 222726
Email: [email protected]
Website: www.nxbhcm.com.vn / www.sachweb.vn
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG
Biên tập: THÚY LIỄU
Sửa bản in: KHÁNH AN
Trình bày: THANH TRÚC
Bìa: VÕ TRƯỜNG LINH
Liên kết xuất bản:
NHÀ SÁCH THANH TRÚC
242/102 Nguyễn Thiện Thuật - P.3 - Q.3 - Tp. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08.38399287 - Fax: 08.38336623
In số lượng 3000 cuốn. Khổ 17 x 24cm. In tại Công ty cổ phần Văn hóa Đông
Dương, 73 Trần Bình Trọng, Phường 1, Quận Gò vấp, Tp. Hồ Chí Minh. Số
đăng ký KHXB: 57-13/CXB/55-190/THTPHCM. Giấy phép trích ngang số:
549/QĐ-THTPHCM-2013 ngày 14 tháng 05 năm 2013. Nộp lưu chiểu tháng 08
năm 2013.