những tác động tích cực của fta-final

58

Upload: le-diem-quynh

Post on 08-Aug-2015

153 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Những tác động tích cực của FTA-final
Page 2: Những tác động tích cực của FTA-final

LỜI MỞ ĐẦU

Trong hơn hai thập kỉ vừa qua, quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã và đang diễn ra

tại một tốc độc nhanh kinh hoàng với chiều kích ngày càng rộng và sâu, trở thành một xu

thế khách quan không thể cưỡng lại đới với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ. Tuy nhiên

một thực tế bức xúc đang tồn tại chính là vòng đàm phán đa phương trong khuôn khổ

GATT/WTO lâm vào tình trạng bế tắc trước những vấn đề mở rộng tự do thương mại do

những bất đồng sâu sắc và ngày càng lớn giữa các quốc gia với nhau và các nhóm nước

với nhau. Trong bối cảnh đó, các quốc gia và vùng lãnh thổ đang có xu hướng coi việc ký

kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) – một trong sáu cấp độ liên kết quốc tế không

những là một cứu cánh mà còn là một chiến lược phát triển kinh tế đất nước dài hạn, đấy

mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Người ta không thể không chú ý tới làn sóng ký

kết FTA đang dậy lên mạnh mẽ trên khắp thế giới, trở thành một xu thế mới trong quan

hệ kinh tế quốc tế. Theo một thống kê mới nhất của WTO thì hầu hết các nước thành viên

của của tổ chức này đều có tham gia ký kết vào các FTA và giá trị trao đổi thương mại

giữa thành viên của các FTA đã chiếm tới 45% tổng giá trị thương mại toàn cầu. Con số

trên thể hiện vai then chốt của các FTA tới thương mại thế giới.

Việc tham gia FTA của Việt Nam hiện nay chủ yếu là tham gia các FTA của khối

ASEAN ký với các đối tác ngoại khối, ngoài ra Việt Nam cũng đang xúc tiến ký FTA

song phương đầu tiên với Nhật Bản. Trong khi đó, làn sóng FTA song phương đang diễn

ra như vũ bão tại các nước thành viên ASEAN khác mà dẫn đầu là Singapore và Thái

Lan. Nếu chậm chân trong cuộc đua FTA, Việt Nam có thể phải gánh chịu nhiều thua

thiệt và ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển cũng như tiến trình hội nhập của nước ta.

Xuất phát từ tầm quan trọng của FTA đối với hoạt động thương mại và sự phát

triển của nên kinh tế, xu thế gia tăng các FTA trên thế giới, đặc biệt tại khu vực ASEAN

cũng như sự cần thiết phải nghiên cứu và rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt

Nam, người viết đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Những tác động tích cực của FTA”

cho bài tiểu luận giữa kì môn học quan hệ kinh tế quốc tế.

Page 3: Những tác động tích cực của FTA-final

Không những tập trung phân tích, làm rõ những tác động tích cực của FTA nhìn

từ cả 2 khía cạnh đối với các quốc gia thành viên và đối với quá trình đa phương hóa, bài

tiểu luận còn đi xa thêm 1 bước trong việc đưa ra những lưu ý làm sao để phát huy tốt

nhất những tác động tích cực của FTA từ giác độ của các nước đang phát triển mà cụ thể

là Việt Nam. Đây là một chút tham vọng của nhóm nghiên cứu nhưng thiết nghĩ không

thể không có bới nó là một thực tiễn cụ thể hóa sống động cho những tác động tích cực

do FTA mang lại trên thực tế.

Page 4: Những tác động tích cực của FTA-final

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO

1. Khái niệm hiệp định thương mại tự do FTA

1.1. Quan niệm truyền thống

Quan điểm về một Khu vực thương mại tự do (Free Trade Area) lần đầu tiên được

đưa ra tại GATT 1947 trong Điều XXIV-điểm 8b như sau: “Một Khu vực Thương mại tự

do được hiểu là một nhóm gồm hai hoặc nhiều các lãnh thổ thuế quan trong đó thuế và

các quy định thương mại khác sẽ bị dỡ bỏ đối với phần lớn các mặt hàng có xuất xứ từ

các lãnh thổ đó và được trao đổi thương mại giữa các lãnh thổ thuế quan đó.” Trong khái

niệm này có những điểm chú ý sau. Thứ nhất, trong một Khu vực Thương mại tự do thì

các nước thành viên cam kết giảm thuế và các quy định thương mại khác. Thứ hai, đối

tượng cắt giảm thuế và giảm các quy định thương mại khác là với các mặt hàng có xuất

xứ từ các nước thành viên trong Khu vực Thương mại tự do. Thứ ba, khái niệm này cho

thấy GATT mới chủ yếu quan tâm đến thương mại hàng hóa. Đây cũng là điều dễ hiểu vì

theo tiến trình lịch sử, quan hệ thương mại giữa các nước thời kỳ này chủ yếu tập trung

vào trao đổi mua bán hàng hóa hữu hình. Qua đó có thể thấy quan niệm truyền thống về

FTA mới chỉ dừng lại ở phạm vi thương mại hàng hóa hữu hình và mức độ cam kết tự do

hóa mới chỉ dừng ở cắt giảm thuế quan và giảm thiểu một số quy định thương mại khác.

1.2. Quan niệm hiện đại

Từ thập niên 1990 trở lại đây, khái niệm Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã

được mở rộng hơn về phạm vi và sâu hơn về cam kết tự do hóa. Các FTA ngày nay

không chỉ dừng lại ở phạm vi cam kết cắt giảm thuế quan và hàng rào phi thuế quan, mà

hơn thế còn bao gồm nhiều vấn đề rộng hơn cả cam kết trong khuôn khổ GATT/WTO

cũng như một loạt vấn đề thương mại mới mà WTO chưa có quy định. Phạm vi cam kết

của các FTA “thế hệ mới” còn bao gồm những lĩnh vực như thuận lợi hóa thương mại,

hoạt động đầu tư, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh tranh (còn gọi là “những vấn đề

Singapore”), các biện pháp phi thuế quan, thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, cơ

chế giải quyết tranh chấp, tiêu chuẩn và hợp chuẩn, lao động, môi trường, thậm chí còn

Page 5: Những tác động tích cực của FTA-final

gắn với những vấn đề như dân chủ, nhân quyền hay chống khủng bố… Khái niệm FTA

được sử dụng rộng rãi ngày nay không còn được hiểu trong phạm vi hạn hẹp của những

thỏa thuận hội nhập khu vực và song phương có cấp độ liên kết kinh tế “nông” của giai

đoạn trước, mà đã được dùng để chỉ các thỏa thuận hội nhập kinh tế “sâu” giữa hai hay

một nhóm nước với nhau. Ngoài ra trong một số trường hợp Hiệp định thương mại tự do

có thể được gọi dưới một số tên gọi khác nhau như EPA (Hiệp định đối tác kinh tế)

nhưng về bản chất vẫn không thay đổi.

2. Nội dung cơ bản của Hiệp định thương mại tự do FTA

2.1. Tự do hóa thương mại hàng hóa

Về thuế và các rào cản thương mại phi thuế: Trong các FTA một nội dung không

thể thiếu đó là cam kết dỡ bỏ các rào cản thuế quan và phi thuế đối với hàng hóa. Các bên

cam kết dần dần xóa bỏ thuế quan, áp dụng mức thuế suất 0% đối với hầu hết các mặt

hàng và thường quy định cụ thể các danh mục như: Danh mục hàng hóa dỡ bỏ thuế ngay,

Danh mục hàng hóa cắt giảm thuế dần dần với lộ trình cắt giảm thuế, Danh mục hàng

nhạy cảm, Danh mục loại trừ không đưa vào cắt giảm. Hiện nay ngày càng có ít mặt hàng

nằm trong danh sách loại trừ hơn, các mặt hàng trong danh sách loại trừ thường là nhóm

hàng nông phẩm, những hàng hóa liên quan đến an ninh, văn hóa, phong tục tập quán của

quốc gia.. Còn lại hầu hết các mặt hàng thông thường đều nằm trong danh mục cắt giảm

thuế.

Bên cạnh đưa ra các danh mục cắt giảm thuế cụ thể, FTA còn đưa ra lộ trình cụ thể

cho việc thực hiện các cam kết trên của các nước thành viên. Lộ trình này được đàm phán

dựa trên tiềm lực, khả năng tự do hóa của mỗi quốc gia và thậm chí là tính chất riêng của

một số mặt hàng.

Trong các FTA ngày nay, các cam kết không chỉ dừng lại ở việc quy định dỡ bỏ

các hàng rào thuế mà còn quy định cả về các biện pháp hạn chế định lượng và các rào cản

kỹ thuật thương mại khác.

Page 6: Những tác động tích cực của FTA-final

Về xuất xứ hàng hóa: Một FTA thường bao gồm quy chế về xuất xứ hàng hóa. Nội

dung của quy chế này là quy định một hàm lượng nội địa nhất định. Hàng hóa nhập khẩu

vào nước đối tác phải đáp ứng được tỷ lệ nội địa đó mới được hưởng những ưu đãi về

thuế hơn so với hàng hóa từ nước thứ ba.

Ngoài ra, FTA còn có thể có những quy định về mặt thủ tục hải quan nhằm đơn

giản hóa thủ tục, hài hòa với những tiêu chuẩn quốc tế và từ đó tạo thuận lợi cho thông

thương hàng hóa. FTA còn có thể đưa ra điều khoản về Thương mại không qua giấy tờ

với mục đích khuyến khích phát triển thương mại điện tử giữa các bên.

2.2. Tự do hóa thương mại dịch vụ

FTA ngày nay thường bao gồm cả nội dung tự do hóa thương mại dịch vụ, có

nghĩa là các nước tham gia hiệp định cam kết mở cửa thị trường dịch vụ cho nhau, tuy

nhiên phạm vi và mức độ mở cửa lớn hay nhỏ trong các FTA còn tùy thuộc vào quốc gia

tham gia ký kết. Các nước đang phát triển ký kết với nhau thì mức độ tự do hóa trong

thương mại dịch vụ thường không cao bằng trong thương mại hàng hóa. Nhưng nếu FTA

có sự tham gia của Mỹ hay một số nước phát triển khác thì thường đòi hỏi mức độ tự do

hóa dịch vụ rất cao, thậm chí là đòi hỏi mở cửa tuyệt đối.

2.3. Tự do hóa đầu tư

Các cam kết hướng tới tự do hóa đầu tư ngày càng xuất hiện nhiều trong các FTA,

đặc biệt là các FTA có sự tham gia của các nước phát triển. Nội dung của các cam kết

này thường là quy định dỡ bỏ các rào cản đối với nhà đầu tư của nước đối tác, tạo điều

kiện thuận lợi cho họ ký kết đầu tư, ví dụ: bảo vệ các nhà đầu tư và hoạt động đầu tư, áp

dụng quy chế đối xử quốc gia đối với các chủ đầu tư và hoạt động đầu tư, cấm các biện

pháp cản trở đầu tư, đảm bảo bồi thường thỏa đáng trong trường hợp quốc hữu hóa, đảm

bảo tự do lưu chuyển thanh khoản…

2.4. Thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa các nước tham gia ký kết hiệp định

Page 7: Những tác động tích cực của FTA-final

Trong một FTA, một nội dung thường thấy nữa đó là các thỏa thuận hợp tác trong

nhiều lĩnh vực nhằm thúc đẩy quan hệ và hợp tác kinh tế giữa các nước đối tác. Có thể kể

ra đây một số lĩnh vực thường được cam kết hợp tác như: phát triển nguồn nhân lực, du

lịch, nghiên cứu khoa học công nghệ, dịch vụ tài chính, công nghệ thông tin và viễn

thông, xúc tiến thương mại và đầu tư, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát thanh

truyền hình và các lĩnh vực chia sẻ thông tin khác.

2.5. Một số cam kết khác

Điều khoản về sở hữu trí tuệ cũng được đưa vào trong nhiều “FTA thế hệ mới”.

Các bên thường cam kết tiến hành các biện pháp thích hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi

cho việc sử dụng cơ sở dữ liệu về quyền sở hữu trí tuệ của họ một cách rộng rãi đối với

công chúng và thuận lợi hóa quy trình cấp bằng sáng chế. Một số lĩnh vực hay được nhắc

đến như: vấn đề tiếp cận thị trường dược phẩm, các sản phẩm sinh học, bí mật, bản quyền

về việc tiếp cận thông tin, phát thanh truyền hình…

Ngoài ra, Mỹ hay một số nước phát triển khác còn đưa vào trong các FTA của

mình các vấn đề như mua sắm chính phủ, cạnh tranh, môi trường và lao động. Đây là

những FTA có phạm vi và mức độ cam kết tự do hóa rất sâu rộng và đòi hỏi mở cửa rất

lớn thị trường nên các nước đang phát triển muốn tham gia các FTA này thường gặp khá

nhiều khó khăn, bất lợi và thường phải chịu thiệt thòi.

3. Phân loại Hiệp định thương mại tự do FTA

Tùy vào mục đích nghiên cứu khác nhau các tổ chức, các học giả lại dựa vào các

tiêu chí khác nhau để phân loại các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), tuy nhiên có hai

cách phân loại phổ biến nhất, đó là phân loại dựa vào quy mô, số lượng các thành viên

tham gia và phân loại dựa vào mức độ tự do hóa.

3.1. Căn cứ theo quy mô, số lượng các thành viên tham gia

Nếu căn cứ theo quy mô, số lượng các thành viên tham gia thì FTA được chia

thành FTA song phương (BFTA), FTA khu vực và FTA hỗn hợp

Page 8: Những tác động tích cực của FTA-final

BFTA là loại FTA chỉ có hai nước tham gia ký kết, và hiệp định này cũng chỉ có

giá trị ràng buộc đối với hai quốc gia này mà thôi. BFTA do đặc điểm chỉ gồm 2 thành

viên nên quá trình đàm phán và việc đạt được thỏa thuận cũng trở nên dễ dàng, nhanh

chóng hơn so với các FTA khu vực hay FTA hỗn hợp. Trong làn sóng ký kết FTA toàn

cầu hiện nay thì BFTA là loại FTA được ký kết nhiều nhất, phát triển mạnh cả về số

lượng cũng như chất lượng cam kết.

FTA khu vực là Hiệp định Thương mại tự do có sự tham gia của từ ba nước thành

viên trở lên, thông thường các nước này có vị trí địa lý gần nhau. Những nước này tham

gia FTA khu vực thường với mục đích tận dụng ưu thế về vị trí địa lý để tăng cường trao

đổi thương mại, cũng như thắt chặt mối quan hệ láng giềng cũng như nâng cao vị thế của

mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Một số FTA khu vực điển hình nhất đó là Liên minh

châu Âu (EC), Khu vực Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực thương mại tự do

ASEAN (AFTA).

FTA hỗn hợp là FTA được ký kết giữa một khu vực tự do thương mại (FTA khu

vực) với một nước, một số nước hoặc một khu vực tự do thương mại khác. Bất chấp sự

phức tạp trong việc đàm phán, hiện nay loại FTA này cũng đang phát triển và tăng lên

nhanh chóng về mặt số lượng. Một số FTA hỗn hợp điển hình như: FTA ASEAN- Trung

Quốc (ACFTA), FTA ASEAN- Hàn Quốc, FTA EC - Mexico, FTA EC -Isarel…Có thể

coi FTA hỗn hợp là một dạng FTA song phương đặc biệt vì đây là thỏa thuận tự do

thương mại giữa một bên là một quốc gia và một bên là một khu vực mậu dịch tự do

(hoặc một liên minh thuế quan). Tuy nhiên, rõ ràng là để đạt được một FTA hỗn hợp sẽ

khó khăn phức tạp hơn nhiều so với một FTA song phương, nhất là về khía cạnh đàm

phán và hệ quả.

3.2. Dựa vào mức độ tự do hóa

Đây là cách phân loại được World Bank sử dụng. FTA theo tiêu chí này được chia

thành FTA kiểu Mỹ, FTA kiểu châu Âu và FTA kiểu các nươc đang phát triển.

Page 9: Những tác động tích cực của FTA-final

FTA kiểu Mỹ là loại FTA có mức độ tự do hóa cao nhất, đòi hỏi các nước thành

viên phải mở cửa tất cả các lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực thuộc ngành dịch vụ. Một khi đã

tham gia các FTA kiểu này thì chỉ có con đường là mở cửa thị trường hơn nữa hoặc giảm

thiểu nhiều rào cản thương mại hơn nữa, chứ việc thay đổi hiệp định hoặc việc đảo ngược

lại các điều khoản trong hiệp định là rất khó khăn. Trong hiệp định này áp dụng quy chế

MFN và NT và tất cả các ngành đều phải mở cửa, trừ khi các bên có quy định khác và

phải được ghi rõ trong hiệp định. Điều này khiến người ta cho rằng FTA kiểu Mỹ có xu

hướng làm giảm sự tham gia của chính phủ trong việc bảo vệ môi trường sinh thái hoặc

các ngành dịch vụ công. Ví dụ về FTA kiểu Mỹ điển hình là Hiệp định thương mại tự do

Bắc Mỹ (NAFTA).

Xếp thứ hai sau Mỹ là FTA kiểu châu Âu. Đây cũng là dạng FTA có mức độ tự do

hóa khá cao, thậm chí gần bằng FTA kiểu Mỹ. Điểm khác biệt của 2 loại FTA này là

FTA kiểu châu Âu chỉ quy định mở cửa những lĩnh vực mà các nước cam kết hoặc thống

nhất riêng với nhau. Ví dụ điển hình của FTA kiểu này là cam kết về tự do hóa thương

mại của Liên minh châu Âu (EU). Trong cam kết tự do hóa thương mại, các nước EU đã

không đưa vào lĩnh vực nông nghiệp - lĩnh vực vốn rất nhạy cảm và được hầu hết các

nước thành viên EU bảo hộ. Các thành viên EU đều có những chính sách nông nghiệp

riêng phù hợp điều chỉnh với những đặc thù của ngành nông nghiệp nước mình. Việc đưa

nông nghiệp vào FTA sẽ làm ảnh hưởng lớn đến nền an ninh lương thực của các quốc gia

cũng như đời sống của những người làm nông nghiệp mỗi nước.

Xét về mức độ tự do hoá thì FTA kiểu các nước đang phát triển kém hơn hẳn so

với hai dạng FTA ở trên. FTA kiểu này thường chú trọng nhiều hơn đến tự do hóa thương

mại hàng hóa và ít khi bao gồm các điều khoản quy định mở cửa cho nhau trong các lĩnh

vực dịch vụ, đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và

Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) là những ví dụ điển hình cho kiểu FTA này.

Có thể nói trong khi FTA kiểu Mỹ được xem là hội nhập một cách sâu rộng nhất thì FTA

kiểu các nước đang phát triển được xem là mang lại ít ảnh hưởng nhất.

Page 10: Những tác động tích cực của FTA-final

II. NHỮNG TÁC ĐỘNG TÍCH CỰC CỦA FTA

1. Tác dộng về các quốc gia thành viên

1.1 Tác động về thương mại

1.1.1 Gia tăng thương mại

Sự tham gia của các quốc gia thành viên vào FTA nói riêng và các tổ chức

thương mại tự do nói chung là một quá trình khách quan, hòa hợp với xu

hướng toàn cầu. Các quốc gia sẽ tiến tới dỡ bỏ những hàng rào thuế quan và

phi thuế quan của mình để hình thành một khu vực mậu dịch tự do chung. Tức

là một khi tham gia ký kết các Hiệp định FTA, các nước thành viên phải cùng

nhau thực hiện cam kết giảm thuế đối với những hàng hoá nằm trong danh mục

giảm thuế theo lộ trình. Từ những nền tảng quan trọng này, các quốc gia thành

viên sẽ nhận được rất nhiều cơ hội. Thứ nhất, nhờ vào việc cam kết dỡ bỏ các

rào cản thương mại, doanh nghiệp các nước thành viên được phép tự do trao

đổi mua bán hàng hóa, không bị đánh thuế, không bị áp hạn ngạch hay phải

thực hiện các thủ tục xuất nhập khẩu rắc rối khác, vì vậy cơ hội bán hàng vào

các nước thành viên khác của một nước sẽ rất thuận lợi dẫn đến chi phí đầu

vào thấp hơn. Đặc biệt, đối với những nước đang gặp phải tình trạng nhập siêu

và lạm phát hiện nay, nếu biết tận dụng tốt thì là một cơ hội để khắc phục phần

nào khó khăn. Đó chính là việc giảm thuế quan đối với nguyên liệu cho các

ngành sản xuất trong nước, các mặt hàng hoá chất và các sản phẩm hoá chất

dùng cho sản xuất công nghiệp, hoá chất hữu cơ, phân bón, clinker và tư liệu

sản xuất như¬ máy móc điện năng và thiết bị điện. Việc giảm thuế quan này sẽ

giúp chi phí sản xuất giảm và giúp giảm giá tiêu dùng trong nước, hạ bớt nhiệt

của tình trạng lạm phát. Thứ hai, những ưu đãi từ việc cắt giảm thuế xuất nhập

khẩu và dỡ bỏ hàng rào thuế quan sẽ tạo điều kiện cho những ngành công

nghiệp chế biến hàng xuất khẩu trong nước và đa dạng hóa các mặt hàng từ

nhập khẩu. Kim ngạch xuất nhập khẩu từ đó cũng tăng lên kéo theo sự tăng

trưởng về thu nhập và GDP của các nước trong FTA. Như vậy có thể nói FTA

Page 11: Những tác động tích cực của FTA-final

tạo ra một thị trường rộng lớn hơn với những cơ hội kinh doanh, thúc đẩy gia

tăng sản xuất và mua bán trao đổi giữa các nền kinh tế thành viên.

Chúng ta có thể lấy CAFTA để minh họa cho những tác động tích cực lớn

lao mà FTA đã mang lại. CAFTA, hay còn gọi là khu vực mậu dịch tự do được

kí kết bởi Trung Quốc và các nước thành viên ASEAN, được kí kết và có hiệu

lực toàn diện từ tháng 1 năm 2010. Đây là FTA có dân số đông nhất thế giới và

đứng hàng thứ ba của thế giới nếu xét về tổng thu nhập quốc dân. (theo

http://en.wikipedia.org/wiki/ASEAN%E2%80%93China_Free_Trade_Area).

Theo các điều khoản đã được kí kết của CAFTA, 91,5% hàng hóa của 10 nước

thành viên ASEAN xuất khẩu vào Trung Quốc được hưởng thuế suất 0%, còn

hàng Trung Quốc vào thị trường ASEANsẽ được giảm thuế với mức giảm bình

quân từ 9,8% xuống còn 0,1%. Với mức thuế suất ưu đãi như trên, CAFTA đã

tạo ra một môi trường hết sức thuận lợi cho việc thúc đẩy sự hợp tác thương

mại. Và kết quả là trong sáu tháng đầu năm 2010 sau khi CAFTA chính thức

có hiệu lực, thế giới đã ghi nhận một sự tăng lên đáng kể trong thương mại

song phương giữa ASEAN và Trung Quốc, theo http://www.baomoi.com/Loi-

ich-tu-mau-dich-tu-do-ASEAN--Trung-Quoc/45/4763321.epi, thương mại

song phương đạt 136,5 tỉ USD, tăng 55%, cao hơn tổng mức tăng trưởng

thương mại quốc tế của Trung Quốc cùng kỳ năm trước là 11%. Kim ngạch

nhập khẩu của Trung Quốc từ ASEAN đạt 71,9 tỉ USD, tăng 64% so với cùng

kỳ năm ngoái; trong khi kim ngạch xuất khẩu nước này đạt 64,6 tỉ USD. Về

căn bản, tăng trưởng nhập khẩu vượt tăng trưởng xuất khẩu, với mức nhập siêu

của Trung Quốc là 7,3 tỉ USD.

Một ví dụ điển hình khác chính là Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ - NAFTA.

Mỹ đã nhận được những lợi ích khổng lồ từ việc tham gia vào khu vực này.

Đối với xuất khẩu hàng hóa sang Canda và Mexico đã tăng lên từ 270 tỉ dollar

(2003) đến 883 tỉ USD (2006) với mức tăng là 198%. Còn với dịch vụ, mức

tăng là 125% đạt 61.7 tỉ USD.

Page 12: Những tác động tích cực của FTA-final

Mức tăng trưởng thương mại của Mỹ, cũng như của ASEAN và Trung

Quốc trong 2 ví dụ trên có thể cho chúng ta thấy được rõ ràng một sự gia tăng

thương mại hết sức ấn tượng. Có thể thấy FTA là một phương thức hiệu quả

bậc nhất trong việc thúc đẩy thương mại quốc tế, kinh doanh quốc tế đem lại

những ích lợi to lớn về mặt kinh tế cho các nước thành viên.

1.1.2 Gia tăng cạnh tranh

Việc xóa bỏ các rào cản thương mại, một thị trường rộng lớn hơn được mở

ra cũng đồng nghĩa với một thực tế là các doanh nghiệp cũng phải đối mặt với

sự cạnh tranh gay gắt hơn từ cả trong và ngoài nước. Thị trường rộng lớn hơn

một mặt thúc đẩy các doanh nghiệp mở rộng quy mô, mặt khác làm tăng số

lượng doanh nghiệp tham gia thị trường. Ngoài ra, về nguyên tắc một FTA khi

hình thành chính là sự hợp nhất của nhiều thị trường nhỏ hơn do đó làm giảm

mức độ độc quyền một khi nhiều doanh nghiệp từ các nước thành viên khác

nhau phải cạnh tranh với nhau. Sự gia tăng cạnh tranh trong nền kinh tế có thể

là mối đe dọa đối với những doanh nghiệp trong nước làm ăn kém hiệu quả

nhưng đối với cả nền kinh tế lại là một hiệu ứng tích cực, đặc biệt đối với

những nước đang hướng tới một nền kinh tế thị trường phát triển.

Lợi ích từ sự gia tăng cạnh tranh mang đến cho nền kinh tế có thể là: Thứ

nhất, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp cắt giảm chi phí và tăng doanh số, điều

này giúp giảm các méo mó trên thị trường và có lợi cho người tiêu dùng. Thứ

hai, quy mô thị trường lớn hơn cho phép doanh nghiệp khai thác hiệu quả kinh

tế từ quy mô tốt hơn. Thứ ba, cạnh tranh khiến các hãng phải đa dạng hóa sản

phẩm, nghĩa là người tiêu dùng sẽ có sự lựa chọn phong phú hơn sau khi FTA

hình thành. Thứ tư, môi trường kinh doanh cạnh tranh hơn buộc các hãng phải

loại bỏ bớt những hoạt động không hiệu quả bên trong hệ thống doanh nghiệp

và gia tăng năng suất đồng thời người lao động cũng phải nâng cao hiệu suất

công việc để thích nghi với điều kiện làm việc cạnh tranh hơn, dễ bị mất việc

làm hơn. Cuối cùng, hiệu ứng cạnh tranh còn buộc các nước thành viên phải

Page 13: Những tác động tích cực của FTA-final

cải cách hệ thống pháp luật liên quan nhằm đạt được một hệ thống pháp luật

hoàn thiện và hợp lý hơn phù hợp với tiến trình tự do hóa.

1.2 . Tác động đến đầu tư và cơ cấu kinh tế

1.2.1 Tác động đến đầu tư

Hiệu ứng thúc đẩy đầu tư do FTA tạo ra thể hiện ở việc tạo ra những tác

động tích cực đối với môi trường đầu tư và hành vi của nhà đầu tư. Một FTA

khi hình thành có thể thúc đẩy cả dòng đầu tư nội địa và đầu tư nước ngoài,

dòng đầu tư giữa các thành viên FTA cũng như với bên ngoài FTA đó.

Thứ nhất, đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), FTA mang

lại cơ hội tiếp cận thị trường rộng lớn hơn với sức mua lớn hơn sẽ có tác dụng

thu hút dòng FDI mới vào nước thành viên FTA. Một khi có dòng FDI từ bên

ngoài vào một khu vực thương mại tự do, đặc biệt là các liên minh thuế quan

có một mức thuế quan đối ngoại chung, thường tận dụng điều kiện tiếp cận thị

trường mới để vượt qua các hàng rào thuế quan không đồng nhất giữa các

thành viên FTA đó. Nói cách khác, các nhà đầu tư có thể sản xuất hàng hóa tại

một hay một số nước và đưa ra tiêu thụ ở tất cả các nước thành viên với mức

thuế thấp và hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ. Khi các nhà đầu tư nước

ngoài đầu tư vào một nước, họ sẽ có một thị trường tiềm năng rộng lớn hơn

nhiều lần nước đó. Ví như AFTA và Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài khi

đầu tư vào Việt Nam, họ sẽ không chỉ nghĩ đến một thị trường với hơn 80 triệu

dân, mà còn tính đến cả thị trường ASEAN với trên 500 triệu người.Nếu như

trước đây, Indonesia hay Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để

vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế nhập khẩu vào thị trường

Indonesia hay Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài buộc phải đầu tư tại nước

sở tại. Nhưng nay Việt Nam đã là thành viên AFTA, nếu môi trường đầu tư

vào Việt Nam không hấp dẫn, thì thay vì đầu tư Việt Nam, các nhà đầu tư nước

ngoài có thể sẽ đầu tư vào các nước ASEAN khác, hoặc đơn giản hơn, chỉ cần

Page 14: Những tác động tích cực của FTA-final

mở rộng hoặc tăng thêm công suất của các nhà máy sẵn có tại các nước AFTA,

đặc biệt là đối với các dây chuyền sản xuất đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận

hành tốt, rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam.

Thứ hai, FTA thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư về mặt

chất thông qua việc nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh và giảm thiểu các

méo mó của môi trường đầu tư. FTA sẽ tác động đến các quốc gia thành viên

bằng việc phân công lại nguồn lực trong nước hiệu quả hơn. Khi không còn

được bảo hộ bởi hàng rào thuế quan, những ngành công nghiệp của một số

nước sẽ bộc lộ sự thua kém về năng lực cạnh tranh. Muốn tồn tại, và thu được

lợi nhuận, các nhà đầu tư trong nước sẽ đầu tư sang các quốc gia thành viên

khác, nơi có các yếu tố khác thuận lợi hơn.

Thứ ba, dòng FDI lưu chuyển giữa các thành viên FTA còn vừa nhắm vào

mục tiêu tận dụng lợi thế về chi phí các nhân tố đầu vào sản xuất, chẳng hạn

như chi phí lao động rẻ từ một nước thành viên khác trong FTA; vừa nhắm vào

thuận lợi hơn về thủ tục hành chính và tâm lí. Đơn cử xét trong AFTA, các

quốc gia thành viên trong khu vực Đông Nam Á có điều kiện thuận lợi về

khoảng cách địa lí, những điểm tương đồng về văn hóa, lịch sử, con người nên

sẽ có động lực để đầu tư nội khối, tạo mối liên kết bền vững đồng thời thu

được lợi nhuận cho đất nước mình.

Để cảm nhận những tác động tích cực to lớn từ lĩnh vực đầu tư do FTA

mang lại nhóm nghiên cứu xin trích dẫn những số liệu sau dẫn theo

http://www.baomoi.com/Loi-ich-tu-mau-dich-tu-do-ASEAN--Trung-Quoc/

45/4763321.epi. Đầu tư song phương giữa ASEAN và Trung Quốc ngày càng

được mở rộng. Trong nửa đầu năm 2010, đầu tư trực tiếp của ASEAN vào

Trung Quốc đạt 3,131 tỉ USD, cao hơn 24,9% so với cùng kỳ năm ngoái; đầu

tư trực tiếp của Trung Quốc vào ASEAN là 1,221 tỉ USD, tăng hơn 125,7%.

Cuối tháng 6 năm 2010, đầu tư song phương lũy kế đạt mức 69,4 tỉ USD, trong

đó 59,8 tỉ USD được đầu tư từ ASEAN và 9,6 tỉ USD từ Trung Quốc.

Page 15: Những tác động tích cực của FTA-final

1.2.2 Tác động đến cơ cấu kinh tế

Khi kí kết FTA, trong một tương lai dài hạn, các ngành công nghiệp trong

nước không còn được bảo hộ bởi thuế xuất nhập khẩu và các hàng rào thuế

quan/ phi thuế quan thì cơ cấu kinh tế của các nước thành viên cũng có những

thay đổi nhất định theo hướng chuyên môn hóa và phân bố nguồn lực hợp lí

hơn. Các quốc gia sẽ phát huy lợi thế so sánh của mình để dịch chuyển cơ cấu

sản xuất và xuất khẩu theo hướng tạo ra những mặt hàng có sức cạnh tranh

cao.Vì vậy, trong cơ cấu kinh tế của đất nước, một số ngành có lợi thế so sánh

sẽ phát triển còn một số ngành không có lợi thế so sánh sẽ bị thu hẹp nhằm tận

dụng tối ưu nguồn lực có hạn của đất nước, mang lại lợi ích cho quốc gia đó.

Bởi vậy có thể nói tham gia vào khu vực mậu dịch tự do, không chỉ là cơ hội

mà còn có nhiều thách thức, do đó nếu không điều chỉnh, cơ cấu lại nền kinh tế

cho hợp lí thì sẽ khó lòng cạnh tranh được với các quốc gia khác. Dưới áp lực

của FTA, các quốc gia sẽ ngày một hoàn thiện cơ cấu kinh tế để có thể phát

triển tốt hơn. Một cơ cấu kinh tế hoàn thiện có thể xem vừa là điều kiện, vừa là

hệ quả của việc kí kết các FTA. Đơn cử trường hợp của Việt Nam, muốn đạt

được lợi từ FTA EU-Việt Nam, nước ta phải “thay đổi cơ cấu kinh tế, chuyển

dịch từ sơ chế, gia công sang sản xuất những mặt hàng tinh chế, giá trị gia

tăng, đồng thời phát triển kênh phân phối và tạo ra thương hiệu riêng cho sản

phẩm của mình” (GS Claudio Dorli, chuyên gia MUTRAP III). Qua đó ta có

thể thấy, muốn đạt được những thành quả nhất định, Việt Nam cần có sự chủ

động và nỗ lực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế với những cải cách kinh

tế-xã hội nhằm xóa bỏ những rào cản làm hạn chế sự di chuyển nguồn lực sang

những lĩnh vực có tiềm năng.

1.3 . Tác động đến quá trình cải cách thể chế

Khi tham gia vào hội nhập nền kinh tế toàn cầu với con đường kí kết thành lập

các khu vực mậu dịch tự do, chính phủ các nước chắc chắn phải tạo ra một môi

trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và có đủ độ hấp dẫn để thu hút đầu tư của

Page 16: Những tác động tích cực của FTA-final

nước ngoài. Như vậy, bên cạnh nhiều công việc quan trọng khác, cũng cần phải

chú ý đẩy mạnh cải cách thể chế, bao gồm cả thể chế kinh tế và thể chế chính trị,

đặc biệt quan trọng nhất là cải cách bộ máy hành chính công, các thủ tục và quy

trình hành chính. Như chúng ta đã biết, ở mỗi quốc gia khác nhau đều có thủ tục

hành chính khá phức tạp. Điều này gây ra sự trì trệ cho nền kinh tế. Để đảm bảo

một nền kinh tế hoạt động hiệu quả và có tốc độ tăng trưởng tốt, dưới áp lực của

cạnh tranh khi gia nhập FTA, các quốc gia bắt buộc phải tiền hành đơn giản hóa

thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút đầu tư và phát triển

kinh tế. Lấy một ví dụ điển hình, dẫn theo http://www.vietnamplus.vn/Home/Cai-

cach-the-che-de-thuc-day-tang-truong-kinh-te/201110/109468.vnplus, việc “rút

ngắn thời gian và đơn giản hóa cách làm chứng nhận xuất xứ hàng hóa - C/O để

được hưởng ưu đãi về thuế quan cho doanh nghiệp, tránh trường hợp hàng đến nơi

rồi nhưng C/O chưa có và khách hàng chưa nhận được” là một quyết tâm to lớn

của cải cách thể chế ở Việt Nam.

Bên cạnh đó, dưới tác động tích cực của FTA trong việc góp phần ổn định tình

hình kinh tế thương mại chung của khu vực và từng quốc gia, cũng tạo tiền đề cho

sự ổn định về chính trị cho các quốc gia thành viên. Một nền chính trị ổn định và

dân chủ là một điều kiện thiết yếu và cơ bản cho sự phát triển, không chỉ là về

kinh tế, thương mại, ngoại giao mà còn thu hút được nguồn vốn đầu tư sâu rộng

hơn từ nước ngoài.

Một điểm mới mà nhóm nghiên cứu đề cập ở đây chính là hiệu ứng cam

kết cải cách. Hiệu ứng này là việc hình thành FTA cho phép các quốc gia thành

viên có thể duy trì sự nhất quán trong chính sách của mình cho dù các thế hệ lãnh

đạo hay nhiệm kỳ Chính phủ có thể thay đổi theo thời gian. Nếu không có các cam

kết quốc tế trong FTA, chính quyền mới của một quốc gia rất có thể đảo ngược

chính sách kinh tế đối ngoại của chính quyền tiền nhiệm, hoặc không đủ cơ sở

pháp lý để duy trì quá trình cải cách chính sách trong nước của chính quyền tiền

nhiệm. Trong khi đó, những thay đổi chính sách bất ngờ và không tiên liệu được

khiến các nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư nước ngoài, rụt rè hơn trong

Page 17: Những tác động tích cực của FTA-final

đầu tư thậm chí không rót vốn trong nhiệm kỳ chính quyền đó. Do vậy, việc hình

thành các FTA sẽ cho phép một nước thành viên có các cam kết quốc tế lâu dài và

nhất quán hơn, do đó làm tăng mức độ tín nhiệm của môi trường kinh doanh quốc

gia trong mắt giới đầu tư. Có thể lấy ra đây ví dụ về Mexico, một trong những mục

đích chính của quốc gia này khi tham gia NAFTA chính là làm tăng niềm tin của

các nhà đầu tư nước ngoài đối với các cải cách trong nước kể từ một trong những

cuộc khủng hoảng kinh tế tồi tệ nhất trong lịch sử của nước này thường được biết

đến với tên gọi cuộc khủng hoảng đồng peso.

1.4 Tác động đến hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không còn đơn thuần là một sự lựa chọn

mà là một xu thế tất yếu, một thực tế khách quan đối với các quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra đa diện đa chiều. Có 6 cấp độ để thể hiện sự liên kết kinh tế, bao gồm thỏa thuận kinh tế ưu đãi, hiệp định thương mại tự do, hiệp định đối tác kinh tế, thị trường chung, liên minh thuế quan, liên minh kinh tế và tiền tệ. Như vậy, FTA đóng vai trò là cấp độ thứ hai trong mắt xích trên. Như đã phân tích ở trên, thông qua FTA, các quốc gia sẽ hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới thông qua quá trình đặt mối quan hệ thương mại, đầu tư và cải cách thể chế phù hợp.

Ta có thể thấy rõ trong trường hợp của Hàn Quốc, Theo đài KBS, http://world.kbs.co.kr/vietnamese/program/program_economyplus_detail.htm?No=900, Hàn Quốc đã vươn tới 12 bậc, từ vị trí 23 lên vị trí số 11trong bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh toàn cầu do diễn đàn kinh tế thế giới công bố, và là quốc gia có mức tăng hạng lớn nhất trong số 131 quốc gia trong bảng xếp hạng. về phía các nhân tố đóng góp cho sự tiến bộ vượt bậc của miền Nam Triều Tiên, không thể không kể đến một nguyên nhân chủ yếu là FTA giữa Hoa Kì và Hàn Quốc. FTA Hoa Kì – Hàn Quốc được đánh giá là đã gây ảnh hưởng rất tích cực vào triển vọng tăng trưởng của kinh tế Hàn Quốc và do đó, được xem là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng năng lực cạnh tranh toàn cầu của Hàn Quốc. Với kết quả đáng kinh ngạc này, đầu tư vào Hàn Quốc được dự báo sẽ tăng lên, nhu cầu đối với nguồn nhân lực của Hàn Quốc cũng sẽ tăng và thúc đẩy nền kinh tế Hàn quốc phát triển và hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế toàn cầu.

1.5 Tác động tích cực từ việc học hỏi, chuyển giao tri thức, công nghệ và thông tin

Page 18: Những tác động tích cực của FTA-final

FTA còn tạo ra cơ hội cho các nước thành viên chia sẻ và chuyển giao công nghệ cho nhau thuận lợi hơn, đặc biệt là giữa các thành viên có nền kinh tế phát triển khác nhau. Ngoài ra, thông qua việc trở thành đối tác với nước phát triển hơn, một quốc gia có thể học hỏi từ chính sách, kinh nghiệm quản lý, thông lệ tốt trong quá trình phát triển của người đi trước, từ đó xây dựng và hoàn thiện thể chế chính sách và phát triển của mình. Hơn nữa, thông qua các FTA bản thân mỗi doanh nghiệp cũng học hỏi được từ nhau và từ chính quá trình liên kết kinh tế sâu rộng này. Cụ thể, bằng việc quan sát đối thủ cạnh tranh, hợp tác với các nhà cung ứng và giao tiếp với khách hàng, các hãng có thể vận dụng những bài học thực tiễn trong quan hệ thương mại và đầu tư để nâng cao hiệu quả, năng suất và lợi nhuận.

1.6 Những tác động khácNhiều ý kiến cho rằng các sáng kiến hình thành FTA ngày nay không đơn

thuần xuất phát từ những mục tiêu kinh tế, mà còn từ những động cơ, kỳ vọng về

chính trị và an ninh.

Khi hai đối tác có quan hệ kinh tế, thương mại gần gũi hơn có thể làm gia

tăng lòng tin giữa các bên từ đó làm giảm những bất trắc trong quan hệ đối ngoại,

xác suất xung đột sẽ giảm tương ứng đồng thời củng cố quan hệ chính trị. Hơn

nữa, việc hình thành FTA còn tạo ra cơ chế hợp tác và phối hợp về chính sách

giữa các nhà nước, nhờ đó củng cố sự ổn định và an ninh của một nhóm nước hay

một khu vực, thậm chí toàn cầu.

Chẳng hạn, theo http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2012-01-05-my-huong-dong-

dieu-gi-se-xay-ra-, chúng ta có thể thấy các nước Đông Á khi tham gia kí kết FTA

với quốc gia đông dân nhất thế giới Trung Quốc vừa muốn mở rộng các hoạt động

hợp tác về kinh tế trong khi vẫn lo ngại Bắc Kinh có thể dùng kinh tế để đạt được

mục đích về ngoại giao và an ninh. Bên cạnh trung quốc, các nước hàn quốc, nhật

bản, đài loan cũng có những hợp tác quan trọng với đối trọng chính của trung quốc

là mỹ, như vậy có thể tạo ra một sự đảm bảo bền vững cho an ninh và chính trị

trong khu vực.

Có thể nói hiệu ứng này cũng là một trong những lí do chính khiến các nước nhỏ

và yếu hơn tìm kiếm tư cách đối tác trong các FTA với các cường quốc hay các

nền kinh tế có ảnh hưởng. Những nền kinh tế nhỏ dựa vào xuất khẩu phải tìm cách

Page 19: Những tác động tích cực của FTA-final

đảm bảo điều kiện tiếp cận thị trường xuất khẩu chiến lược của mình, do đó

thường tìm cách có được các cam kết pháp lý cao nhất từ các thị trường lớn như

Mỹ, EU, Nhật Bản.. Việc hình thành FTA với các đối tác thương mại lớn chính là

xây dựng cho mình một cơ chế bảo hiểm trước nguy cơ xảy ra chiến tranh thương

mại với các nền kinh tế lớn ấy. Đó là chưa kể việc có được những cam kết pháp lý

về tiếp cận thị trường của các đối tác đó. Như vậy hiệu ứng bảo hiểm chủ quyền sẽ

lớn đối với các FTA Bắc-Nam (FTA giữa các nước phát triển với các nước đang

phát triển) và ở mức độ thấp hơn đối với các FTA Nam-Nam (FTA giữa các nước

đang phát triển với nhau). Hàn quốc chính là ví dụ điển hình nhất của sự bảo hiểm

chủ quyền này. Với vị trí nằm ngay bên dưới Bắc triều tiên, một quốc gia xã hội

chủ nghĩa, đang phát triển vũ khí hạt nhân và có một lực lượng quân đội khổng lồ,

việc hợp tác kinh tế với Mỹ - một quốc gia được xem là đứng đầu thế giới, có ý

nghĩa lớn không chỉ về mặt lợi ích kinh tế mà còn có được cả một sự bảo đảm về

quân sự. với sự hiện diện của Mỹ, miền Nam Triều tiên sẽ có sự đảm bảo vững

vàng hơn để yên tâm xây dựng và phát triền đất nước.

Các FTA giúp các nước thành viên nâng cao sức mạnh chính trị của mình

trên trường quốc tế. Hiệu ứng này lớn hơn đối với các nước tham gia FTA đa

phương hay các hiệp định thương mại tự do khu vực RTA. Các quốc gia riêng lẻ

có thể sẽ không có tiếng nói về chính trị tên trường quốc tế nhưng nhiều quốc gia

cùng hợp tác lại thì sẽ tạo nên một tập thể lớn mạnh, có uy thế và ảnh hưởng lớn

hơn đối với quốc tế. Nhờ đó, các thành viên nhỏ có thể có được vị thế mặc cả lớn

hơn thay vì các cá thể đơn lẻ, đồng thời các nước thành viên thông qua chia sẻ và

hợp tác sẽ có được chính sách, cơ chế phối hợp hiệu quả, thống nhất hơn trước các

đối tác lớn. Ví dụ rất rõ ràng cho hiệu ứng này là trường hợp ASEAN/AFTA. . Ví

dụ rất rõ ràng cho hiệu ứng này là trường hợp ASEAN/AFTA. Trong khi trung

quốc đang thể hiện rõ mưu đồ bành trướng ở biển đôngbằng việc liên tục khiêu

khích các nước trong khu vực, tiêu biểu là Việt Nam và Philipin vào mùa hè năm

2011 bằng nhiều hình thức khiêu chiến khác nhau (http://vietnamnet.vn/vn/chinh-

tri/22902/tau-trung-quoc-cat-cap-tham-do-dau-khi-cua-viet-nam.html), các nước

Page 20: Những tác động tích cực của FTA-final

asean đã ra được một tuyên bố ngoại giao chung của khu vực, đặc biệt là về vấn đề

biển đông (http://dantri.com.vn/c36/s36-539475/tuyen-bo-chung-hoi-nghi-cap-

cao-asean-nhan-manh-van-de-bien-dong.htm) trong bối cảnh các nước thành viên

đều có những mối quan hệ hết sức phức tạp với trung quốc. xét riêng từng quốc

gia trong khu vực thì quá nhỏ bé so với gã khổng lồ nhưng với cả tuyên bố chung

của khu vực đã tạo một sức nặng lớn, trung quốc sau đó đã phải ra nhiều tuyên bố

mềm dẻo hơn, thay cho những sự khiêu khích lớn trước đó.

2. Tác động đến quá trình đa phương hóa

FTA đã mang lại nhiều tác động tích cực đến quá trình đa phương hóa bằng

việc thúc đấy sự liên kết hợp tác giữa các quốc gia với nhau theo nhiều con đường.

Tham gia vào các FTA tức là các quốc gia đã tham gia vào công việc làm ăn với

nhau và tăng cường sự hiểu biết cũng như ảnh hưởng lẫn nhau. Càng ngày càng

nhiều các FTA được kí kết và hình thành cho thấy hầu hết các quốc gia đều muốn

đa dạng các mối quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội … với các nước khác. Có thể nói

các FTA đã góp phần thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa, đa phương hóa diễn ra

thuận lợi và nhanh chóng hơn. Bởi nếu như đa phương hóa, các quốc gia sẽ có thể

tìm kiếm thêm nhiều thị trường mới mẻ và tiềm năng, cũng như thu hút đầu tư về

vốn và khoa học công nghệ.

Chẳng hạn, Việt Nam vào ngày 14/11/2011 đã kí kết FTA với Chile, một quốc gia

ở Nam Mỹ xa xôi (theo http://dvt.vn/20111114114816176p0c69/viet-nam-ky-

ket-fta-song-phuong-voi-chile.htm ) sau khi đã kí kết rất nhiều các FTA với các

quốc gia và khu vực khác trên toàn thế giới. từ lúc tham gia vào các FTA, Việt

Nam đã tận dụng rất tốt thời cơ để đa dạng hóa các mối quan hệ hợp tác của mình

với nhiều nước khác trên toàn thế giới, thay vì chỉ bó hẹp trong các nước xã hội

chủ nghĩa thời kì trước đổi mới hay bám víu vào thị trường quen thuộc ASEAN và

Trung Quốc …

Một câu hỏi được đặt ra là: “Tự do hóa thương mại khu vực/ song phương

thúc đẩy hay cản trở tự do hóa thương mại đa phương?” Hay cụ thể, các FTA là

Page 21: Những tác động tích cực của FTA-final

“vật cản đường” hay “vật lát đường” tới lộ trình tự do hóa thương mại trong khuôn

khổ GATT/WTO? Cho tới nay mối quan hệ giữa chủ nghĩa khu vực và chủ nghĩa

đa phương vẫn là một trong những vấn đề gây tranh cãi giữa các nhà nghiên cứu.

Trên thế giới hiện tồn tại hai trường phái đối lập rõ rệt, một ủng hộ chủ nghĩa khu

vực và một phản đối. Sau đây nhóm nghiên cứu xin đưa ra và phân tích một số tác

động cả tích cực của các FTA tới quá trình đa phương hóa. Thứ nhất, FTA là một

hình thức để các nước chưa phải là thành viên của WTO hình thành nguyên tắc tự

do hóa thương mại và chuẩn bị cho việc gia nhập tổ chức sau này. Các FTA hầu

hết được hình thành trên nền tảng các nguyên tắc của WTO và thậm chí một số

còn đi xa hơn WTO về mức độ tự do hóa ở một số lĩnh vực. Do vậy, những quốc

gia chưa gia nhập WTO nhưng thông qua việc tham gia vào các FTA có thể khiến

các thể chế kinh tế của mình đáp ứng được nhu cầu và đòi hỏi của tự do hóa

thương mại phù hợp với nguyên tắc của WTO. Những người ủng hộ FTA lập luận

rằng việc thúc đẩy các FTA song phương và khu vực sẽ tạo ra những “ngoại áp”

cần thiết cho quá trình cải cách bên trong, đồng thời có thể tạo ra các hiệu ứng

“cam kết cải cách” minh bạch, đoán định được và giảm thiểu nguy cơ đảo ngược

chính sách. Có thể coi đây là một cách thức để các nước chưa phải là thành viên

của WTO chuẩn bị năng lực một thành viên WTO trong tương lai cho mình thông

qua việc thực hiện các nguyên tắc tự do hóa thương mại trên nền tảng của hệ thống

thương mại đa phương trong FTA. Thứ hai, FTA có thể hỗ trợ tiến trình tự do hóa

thương mại trong WTO. Những người ủng hộ lập luận này, như Loyd (2002) cho

rằng, các FTA có thể tạo ra các tiền lệ tốt về phương thức đàm phán và thể thức

của một khu vực thương mại tự do nếu được hình thành và đó là những tiền lệ có

thể áp dụng được vào quá trình đàm phán đa phương. Ví dụ, FTA đó có thể mở

rộng phạm vi cam kết tự do hóa còn cao hơn so với cam kết hiện có của WTO

hoặc những vấn đề mà WTO vốn đang bế tắc. Nếu càng có nhiều nước cam kết

như vậy trong khuôn khổ các FTA thì sẽ càng thuận lợi trong việc đạt được các

cam kết có mục đích tương tự trong vòng đàm phán đa phương của WTO. Có thể

nói các tiến trình tự do hóa song phương và khu vực đang góp phần tạo áp lực thúc

Page 22: Những tác động tích cực của FTA-final

đẩy tiến trình tự do hóa đa phương đi nhanh hơn.Thứ ba, FTA là một kênh thay

thế tiến tới tự do hóa thương mại đa phương. Quan điểm ủng hộ tự do hóa thương

mại khu vực lập luận rằng các FTA sẽ trở thành những “ viên gạch lát đường” cho

quá trình tự do hóa thương mại đa phương. Nghiên cứu của Baldwin (1996) đã

phân tích “Hiệu ứng Đôminô” của việc hình thành các FTA, theo đó khi FTA hình

thành thì các nước đứng ngoài sẽ có động lực đua nhau gia nhập FTA đó do lo

ngại bị phân biệt đối xử, không được hưởng những ưu đãi của các nước tham gia

FTA dành cho nhau.

Cùng với quá trình kết nạp thành viên mới thi FTA đó sẽ trở nên rộng lớn hơn và

dần bao gồm toàn bộ nền thương mại thế giới.

III. NHỮNG LƯU Ý KHI THAM GIA VÀO QUÁ TRÌNH KÍ KẾT FTA TỪ KHÍA

CẠNH CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN TRONG ĐÓ CÓ VIỆT NAM

Rõ ràng, việc kí kết và tham gia các Hiệp định FTA mang lại nhiều lợi ích

to lớn cho mỗi quốc gia xét trên bình diện tăng trưởng kinh tế, mở ra cho quốc gia

đó cánh cửa hội nhập sâu rộng với một thế giới chưa bao giờ ngừng vận động và

ngày càng “phẳng” hơn bao giờ hết. Song, khi mà làn sóng gia tăng của các FTA

trên thế giới đang diễn ra với chất lượng ngày càng cao, phạm vi ngày càng rộng

với những cam kết ngày càng sâu thì rõ ràng, việc đánh giá được năng lực của mỗi

quốc gia và nhận ra, nắm bắt lấy những thời cơ to lớn mà các FTA mang lại cho

nền kinh tế - xã hội đất nước là yếu tố sống còn của mỗi quốc gia trong sân chơi

toàn cầu hóa. Nhóm nghiên cứu, trong thời lượng giới hạn của bài tiểu luận, sẽ

thảo luận những điều cần lưu ý khi tham gia kí kết các FTA từ khía cạnh các nước

đang phát triển mà cụ thể là Việt Nam nhằm tận dụng tối đa những tác động tích

cực mà FTA mang lại.

Trước hết và trên hết, Chính phủ phải nhìn nhận và đánh giá thật đúng đắn

nội lực của quốc gia ở thời điểm hiện tại và tầm nhìn xa trong tương lai, ta có gì,

lợi thế ở đâu, tiềm năng gì, còn nhược điểm nào, những ai là đối tác chiến

lược...để rồi, từ cơ sở đó sẽ có những quyết sách đúng đắn về việc kí kết và tham

Page 23: Những tác động tích cực của FTA-final

gia các FTA với những quốc gia có quan hệ chiến lược đó. Chọn được đối tác

chiến lược rồi, quan trọng hơn là làm sao trong đàm phán cần sáng suốt để lựa

chọn những điều khoản có lợi với những thế mạnh sẵn có, cố gắng giảm ảnh

hưởng bất lợi. Muốn vậy, thiết nghĩ, các nhà hoạch định chính sách nên thường

xuyên trao đổi và tham vấn các chuyên gia kinh tế cũng như các doanh nghiệp

trong nước để đưa ra những quyết sách đúng đắn trong đàm phán và kí kết các

Hiệp định FTA.

1. Sơ lược về thực trạng tham gia vào các FTA của Việt Nam

Tính đến nay, Việt Nam đã cùng ASEAN kí kết và triển khai thực hiện các

hiệp định FTA là Hiệp định Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Hiệp

dịnh Khu vực thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc (ACFTA) và Hiệp định

Khu vực thương mại tự do ASEAN – Hàn Quốc (AKAFTA), Hiệp định đối tác

kinh tế toàn diện ASEAN-Nhật Bản(AJCEP), Hiệp định Khu vực thương mại tự

do ASEAN- Australia-New Zealand (AANZFTA) và Hiệp định Khu vực thương

mại tự do ASEAN- Ấn Độ (AIFTA), riêng Hiệp định thương mại Việt Nam- EU

hiện đang trong giai đoạn đàm phán.

2. Những bài học từ thực tiễn tham gia FTA mà Việt Nam cần lưu ý

2.1. Vấn đề tiếp cận thị trường

Mong muốn mở rộng tiếp cận thị trường luôn là lý do chính khiến các nước

đang phát triển ký kết các FTA. Trong một FTA giữa một nước đang phát triển và

một nước phát triển thì nước đang phát triển thường đạt được nhiều hơn trong mục

tiêu tiếp cận thị trường. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp các nước này cũng

chỉ đạt được những kết quả rất đáng thất vọng.

Trở ngại ở đây là các nước phát triển có thể dựng lên những rào cản về cơ cấu, luật

pháp và chính trị, nhất là trong các mặt hàng “nhạy cảm”, những mặt hàng mà các

nước đang phát triển có lợi thế xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng nông sản. Các

nước phát triển không hề cắt giảm hoặc loại bỏ trợ cấp đối với các mặt hàng là lợi

thế xuất khẩu của nước đối tác đang phát triển. Ví dụ như Mỹ, với đạo luật quyền

xúc tiến thương mại lưỡng đảng năm 2002 (Bipartisan Trade Promotion Authority

Page 24: Những tác động tích cực của FTA-final

Act) đã cấm các FTA giảm mưc thuế suất của bất kỳ mặt hàng nông phẩm nhạy

cảm nào xuống dưới mức thuế suất được áp dụng theo các thỏa thuận của vòng

đàm phán Uruguay. Đạo luật này cũng không cho phép một sự đối xử đặc biệt nào

bởi những mục tiêu đàm phán của Mỹ bao gồm “đôi bên cùng tiếp cận thị trường”

và “đôi bên cùng đạt được những thỏa thuận dỡ bỏ các hàng rào phi thuế”.

Với các sản phẩm nông nghiệp thì việc mở rộng tiếp cận thị trường càng có thể bị

hạn chế. Ví dụ như Australia đã không thể mở rộng hạn ngạch với mặt hàng

đường mía trong FTA của nước này với Mỹ, và tình hình cũng không mấy khả

quan hơn đối với sản phẩm thịt bò từ Australia sang Mỹ. Bên cạnh đó, những rào

cản phi thuế như kiểm dịch động thực vật, vệ sinh dịch tễ… cũng làm cho Mexico

không xuất khẩu được nhiều nông phẩm sang Mỹ theo NAFTA như mong đợi.

Ngược lại, các nước đang phát triển cũng phải cho phép đối tác tiếp cận thị trường

của mình, về việc tiếp cận đó có nhiều khả năng là lớn hơn về tỷ lệ và giá trị, bởi

vì mức thuế trung bình đánh vào các hàng công nghiệp cao hơn. Không những thế,

việc dỡ bỏ thuế quan với nhiều mặt hàng có thể dẫn đến việc các nhà sản xuất

trong nước di chuyển địa bàn hoạt động.

Đối với Việt Nam, từ những bài học đắt giá nêu trên, khi ký kết FTA với

các nước phát triển, đối với vấn đề tiếp cận thị trường, Việt Nam cần lưu ý:

Thứ nhất, Việt Nam phải xác định rõ được mặt hàng nào là quan trọng đối với

mình, mặt hàng nào mà chúng ta kỳ vọng có thể tăng xuất khẩu thông qua FTA.

Hiện tại, có lẽ những mặt hàng quan trọng nhất vẫn là nông, lâm, thủy sản và một

số mặt hàng tiêu dùng khác như dệt may, giày dép…Bên cạnh đó cũng phải cân

nhắc liệu trên thực tế thì có thể mở rộng được việc tiếp cận thị trường hay không

và mở rộng thị trường nào. Điều này cũng cần được cân nhắc lại so với những cái

giá mà đất nước phải gánh chịu, cũng như trong việc nhượng bộ trên các lĩnh vực

khác như dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ.

Thứ hai, Việt Nam với vị thế là một nước đang phát triển nên khi đàm phán ký kết

FTA với các nước phát triển cũng cần yêu cầu được đối xử càng đặc biệt và càng

Page 25: Những tác động tích cực của FTA-final

đãi ngộ càng tốt, không chỉ trong vấn đề lộ trình thực hiện FTA dài hơn mà còn

trong vấn đề các mặt hàng loại trừ hay các mặt hàng nhạy cảm với nước mình.

2.2. Xử lí các vấn đề hậu thị trường

Để tận dụng được những thuận lợi từ các FTA, chúng ta cần có một phương

thức tiếp cận và lộ trình thực hiện đúng đắn, nhất là khi Việt Nam kí kết tham gia

các FTA với tư cách là một nước đang phát triển. Tham gia vào các FTA cũng

đồng nghĩa với việc sớm muộn gì, hàng hóa nhập khẩu từ các nước đối tác sẽ tràn

ngập và chiếm lĩnh thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, vì còn là một quốc gia đang

phát triển, thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình, Việt Nam được hưởng

nhiều ưu đãi về lộ trình cắt giảm thuế quan dài hơn đối với hàng hóa nhập khẩu từ

các nước đối tác. Đây là một lợi thế lớn cần được các doanh nghiệp xuất khẩu Việt

Nam nắm bắt để mở rộng thị trường xuất khẩu ở nước đối tác. Đồng thời, khi mà

hàng nhập khẩu từ nước đối tác còn phải chịu một mức thuế nhập khẩu nhất định

khi vào Việt Nam thì hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước với ưu thế giá cả

và chất lượng sẽ còn nhiều cơ hội chinh phục và củng cố thị trường nội địa. Song,

khi mà thời hạn cam kết dỡ bỏ thuế quan đang đến thời điểm mức thuế nhập khẩu

còn 0% vào năm 2015 dành cho các nước đối tác FTA đã kí kết thì vấn đề cạnh

tranh gay gắt từ hàng hóa ngoại nhập là một nguy cơ sớm muộn. Vì vậy, trong giai

đoạn nước rút như hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam phải nhạy bén thông tin

và nắm bắt lấy những cơ hội của mình. Bên cạnh đó, Nhà nước ta cần thực hiện

thêm nhiều chính sách kích cầu và tuyên truyền thông tin để nâng cao ý thức sử

dụng hàng Việt cũng như có các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam

trong việc chinh phục thị trường nội địa lâu nay còn bỏ ngõ. Một trong những

chính sách nhận được sự hưởng ứng tích cực từ nhân dân và mang về nhiều thành

công bước đầu chính là cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt

Nam” do Bộ Chính trị phát động vào tháng 7/2009. Mặc dù khuyến khích dùng

hàng Việt, nhưng tinh thần của cuộc vận động không hề “bài ngoại”, đóng cửa đối

với hàng hóa của nước ngoài. Trên thực tế, chính những đối thủ cạnh tranh từ

Page 26: Những tác động tích cực của FTA-final

nước ngoài là động lực mạnh mẽ để cho các nhà sản xuất trong nước phải không

ngừng cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất chất lượng, kiểu dáng, mẫu mã,

giảm giá thành để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.

Rõ ràng, có tận dụng được những lợi ích từ FTA hay không không chỉ phụ thuộc

vào vai trò định hướng của nhà nước, mà quan trọng hơn chính là sự tham gia của

cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chủ

động trong việc: tìm hiểu những cam kết thuế quan, quy tắc xuất xứ, các quy định

về vệ sinh, kiểm dịch và các quy định kỹ thuật khác đang tác động đến hoạt động

kinh doanh của mình, nghiên cứu thị trường, nâng cao chất lượng, giá trị và trách

nhiệm đối với uy tín sản phẩm của mình để tiệm cận và tận dụng tốt hơn các ưu

đãi trong khuôn khổ FTA. Từ phía các cơ quan quản lý, cần đặt ra mục tiêu hỗ trợ

doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng giá trị của khu vực và toàn

cầu.

Bước vào sân chơi toàn cầu hóa thông qua kí kết các FTA đồng nghĩa với

việc chúng ta cần có những chính sách xuất nhập khẩu đúng đắn từ các nước đối

tác. Có thể thấy, tình trạng nhập siêu tăng mạnh ngay trong giai đoạn chúng ta

được lợi về tiếp cận thị trường cho thấy Việt Nam chưa thật sự tận dụng tốt các cơ

hội FTA. Nguyên nhân vẫn là những hạn chế kinh niên của cơ chế và nền kinh tế.

Tuy nhiên, đó là những yếu tố mà cơ quan hoạch định phải tính đến khi xây dựng

chiến lược đàm phán nhằm đảm bảo chúng ta có thể tận dụng được lợi ích từ các

FTA. Vì vậy, cần phải định hình một lộ trình mới cho hội nhập kinh tế quốc tế,

phù hợp với trào lưu khu vực hóa hiện nay. Trong đó, chúng ta cần ưu tiên mở

rộng thị trường xuất khẩu. Bên cạnh việc phát triển thị trường nội địa với phong

trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” do Bộ Chính trị phát động,

thị trường quốc tế vẫn có vai trò quan trọng đối với kinh tế nước ta trong điều kiện

kim ngạch xuất khẩu tương ứng xấp xỉ 70% GDP. Đặc biệt nhiều mặt hàng xuất

khẩu chủ lực, đã khẳng định vị thế, có kim ngạch lớn (nông sản, dệt may, giày

dép, đồ gỗ, thủy hải sản…) chỉ có thể phát triển khi mở rộng được thị trường quốc

tế. FTA là công cụ hữu hiệu để mở cửa cho hàng Việt Nam tiếp cận các thị trường

Page 27: Những tác động tích cực của FTA-final

tiềm năng mà không vi phạm nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại

quốc tế bởi WTO thừa nhận quyền các quốc gia dành cho nhau các đãi ngộ ưu đãi

trong khuôn khổ FTA. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam, nhất là là các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải thật sự chủ động, đi tắt đón đầu để từng

bước thâm nhập và chinh phục thị trường các nước đối tác.

Có thể nói, đây là thời điểm để Việt Nam cải thiện cán cân thương mại

thông qua việc tận dụng ưu đãi thuế từ những hiệp định FTA, nhưng chúng ta vẫn

chưa làm được...Nguy hiểm hơn, nếu không có chiến lược đúng, Việt Nam có

nguy cơ là thị trường tiêu thụ hàng hóa cho các đối tác của mình. Từ tháng 1-2010

đến năm 2012 là thời điểm thuận lợi cho việc Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào

Trung Quốc theo lộ trình cắt giảm thuế theo FTA Asean - Trung Quốc. Theo đó,

với 90% mặt hàng từ Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc thuế đã giảm về 0-5%.

Tương tự, với những ưu đãi từ Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản

(VJEPA), trên 7.000 mặt hàng Việt Nam xuất sang Nhật, mức thuế cũng là 0% từ

ngày 1-10-2009. Có một thực tế hiện nay là dường như các doanh nghiệp Việt

Nam chưa tận dụng được những ưu đãi về thuế quan do các hiệp định FTA mang

lại. Tựu trung là do những yếu kém nội tại của ngành xuất khẩu trong nước, từ cơ

cấu các mặt hàng cho đến chất lượng an toàn vệ sinh sản phẩm.

Hơn nữa, mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô, hàm

lượng chế biến thấp, do đó giá trị không cao. Ngoài ra, những mặt hàng này vốn

đã có mức thuế suất rất thấp hoặc 0%, nên không hưởng lợi nhiều từ các FTA, cơ

cấu hàng xuất khẩu của doanh nghiệp vẫn đơn điệu. Mặt khác, doanh nghiệp Việt

Nam đa phần còn bị động và chưa thật sự bắt kịp các quy định đối với hàng nhập

khẩu của các nước đối tác thuộc FTA. Dù VJEPA đã có hiệu lực, nhưng đến thời

điểm này, Việt Nam và Nhật Bản vẫn chưa có thỏa ước về vệ sinh, kiểm dịch và

các vấn đề liên quan đến hàng rào phi thuế. Đơn cử, mặt hàng gạo của Việt Nam,

dù có nhiều lợi thế nhưng vẫn không thâm nhập được vào thị trường Nhật do

vướng phải Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nhật, quy định dư lượng chất

acetamiprid (chất tồn dư khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật) ở mức dưới 0,01ppm.

Page 28: Những tác động tích cực của FTA-final

Hay mặt hàng rau quả lại bị vướng quy định của Bộ Y tế và Lao động Phúc lợi

Nhật về kiểm tra dư lượng kháng sinh trong các sản phẩm nông sản nhập khẩu từ

Việt Nam. Những lô hàng nông sản của Việt Nam xuất sang Nhật như rau cải chân

vịt, hạt điều, ngò tây, mùi tàu đều bị kiểm tra 100% lô hàng.

Với thị trường Trung Quốc, những mặt hàng của Việt Nam cũng lâm vào tình

trạng tương tự. Nhóm hàng nông sản, thủy sản chiếm tỷ trọng trung bình 15-20%

trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc trong ba năm qua.

Chủ yếu vẫn là nguyên liệu sơ chế có giá trị không lớn như trái cây, cao su, cà

phê, hạt điều, thủy hải sản... Rau quả Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Trung

Quốc bị nhiều rào cản liên quan đến các quy định về quản lý xuất nhập khẩu, vệ

sinh an toàn thực phẩm, nhãn mác, bao bì, giám định hàng hóa xuất nhập khẩu.

Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã không thích ứng được với những thay đổi liên

tục về chính sách của nước này.

Đáng buồn hơn, nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa lại không đủ thông tin và kỹ năng

cần thiết để tận dụng các hiệp định FTA. Ông Trần Quốc Mạnh, Phó chủ tịch Hiệp

hội Chế biến gỗ và Mỹ nghệ TPHCM, thừa nhận “có những hội viên vẫn chưa biết

cách làm chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) để được hưởng ưu đãi về thuế quan.

Nhà nước cần tuyên truyền và thông tin cụ thể hơn cho các doanh nghiệp về các

hiệp định FTA đã ký kết. “Chúng tôi muốn tìm toàn văn biểu thuế VJEPA hay

ACFTA cũng khó. Sẽ dễ dàng hơn nếu Nhà nước lập một website tập trung đăng

tải những thông tin này và hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện”, ông Mạnh đề

xuất. Việc này sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp nhỏ và

vừa, mới thành lập có cơ hội tiếp cận thị trường.

Hiệp hội các doanh nghiệp ngành nghề cũng cho rằng trước khi ký kết những hiệp

định FTA, Nhà nước cần lấy ý kiến hiệp hội ngành nghề. Điều này sẽ hạn chế

điểm yếu của các ngành hàng xuất khẩu “non trẻ” của Việt Nam khi bắt đầu lộ

trình giảm thuế. Bên cạnh đó, tham vấn và công bố thông tin sớm cũng giúp hiệp

hội và doanh nghiệp chủ động thâm nhập các thị trường mới khi những hiệp định

FTA có hiệu lực.

Page 29: Những tác động tích cực của FTA-final

(http://www.thesaigontimes.vn/Home/doanhnghiep/quantri/37907/)

2.3. Vấn đề dịch vụ

Dịch vụ là một lĩnh vực rất quan trọng đối với bất kỳ một quốc gia đang

phát triển nào. Đối với những nước này, điều quan trọng là phải tạo điều kiện và

cơ hội cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong nước phát triển, đặc biệt là

với những ngành dịch vụ quan trọng mang tính xã hội hoặc tính kinh tế chiến lược.

Các nước đang phát triển yếu thế hơn về khả năng cung cấp dịch vụ so với các

nước phát triển. Do vậy, họ phải yêu cầu quyền được cam kết mở cửa ít lĩnh vực

hơn hoặc cam kết mở trong mỗi lĩnh vực ở mức độ thấp hơn. Những lĩnh vực quan

tâm của những nước này thường bao gồm cả việc di chuyển tự nhiên nhân hoặc

việc tạo cơ hội cho người dân nước họ được làm việc tại những nước phát triển.

Một lo ngại lớn là việc một vài FTA ngày nay bao gồm “danh mục tiêu cực”

(negative list), trong đó quy định các nước sẽ phải tự do hóa hoàn toàn mọi lĩnh

vực dịch vụ, trừ những lĩnh vực được liệt kê trong phụ lục. Những FTA như thế

này thường có xu hướng ràng buộc các nước đang phát triển phải cam kết nhanh

hơn và nhiều hơn các lĩnh vực dịch vụ so với “danh mục tích cực” (positive list)

trong WTO (danh mục này quy định không lĩnh vực nào hoặc loại tự do hóa nào

sẽ được cam kết trừ khi nêu rõ lộ trình).

“Danh mục tiêu cực” trong các FTA sẽ khiến cho các nước đang phát triển khó

khăn hơn trong việc tuân theo các nguyên tắc của WTO, rằng nước này có thể lựa

chọn các lĩnh vực để tự do hóa và tự quy định tốc độ tự do hóa. Những FTA như

thế cũng làm giảm các khoảng trống chính sách cho các nước đang phát triển.

Lưu ý đối với Việt Nam: Dựa trên những lưu ý trên về vấn đề dịch vụ trong các

FTA với các nước phát triển, có thể rút ra những kinh nghiệm cho Việt Nam trong

quá trình chuẩn bị và đàm phán nội dung này, đó là:

Thứ nhất, Việt Nam cần phải đưa ra một kế hoạch quốc gia hoặc khung

chiến lược về dịch vụ trong đó bao gồm những kế hoạch cụ thể cho từng ngành.

Một phần trong kế hoạch đó sẽ bao gồm vai trò tương ứng của các doanh nghiệp

trong và ngoài nước cũng như những chính sách và cam kết cụ thể của Chính phủ.

Page 30: Những tác động tích cực của FTA-final

Bên cạnh đó, vị thế quốc gia trong các đàm phán thương mại cũng cần được đưa

vào trong nội dung của kế hoạch này. Lấy 2 ví dụ điển hình trong 2 lĩnh vực dịch

vụ xây dựng và tài chính để phân tích, Việt Nam có khá nhiều điều cần lưu ý.

Dịch vụ xây dựng : Những rào cản chính đối với ngành này bao gồm thiếu minh

bạch trong các quy trình mua sắm của chính phủ, các rào cản và giấy phép hành

chính, sự không rõ ràng của hình thức PPP và tình trạng tham nhũng. Những cải

cách trong lĩnh vực này sẽ giảm chi phí xây dựng, mang lại lợi ích cho những chủ

nhà và hoạt động kinh doanh tiềm năng, và quan trọng hơn là giảm đáng kể chi phí

đáp ứng nhu cầu cơ sở hạ tầng ở Việt nam.

Dịch vụ tài chính : Tự do hóa thêm các dịch vụ tài chính sẽ làm tăng thêm sản

phẩm, dịch vụ tài chính và sản lượng của các ngành khác trong nền kinh tế. Chính

sách tỷ giá và sự giám sát thận trọng với khu vực tài chính sẽ là cần thiết trong bối

cảnh khủng hoảng tài chính.

Sắp tới, khi mà Việt Nam – EU đang đàm phán để đi tới kí kết một Hiệp định

thương mại tự do giữa 2 bên trong thời gian không xa thì chắc chắn ngành dịch vụ

trong nước sẽ bị cạnh tranh quyết liệt từ các đối tác và các nhà đầu tư EU – nền

kinh tế vốn có thế mạnh vượt trội rõ rệt về ngành dịch vụ so với nước ta. Vì vậy,

một chính sách đàm phán hợp lí với những điều khoản có lợi cho ngành dịch vụ

nước nhà thiết nghĩ cần được chú trọng và cân nhắc.

Thứ hai, Việt Nam còn cần phải tiến hành cân nhắc các ngành dịch vụ và

các hoạt động mà mình có lợi thế xuất khẩu, cũng như cân nhắc xem những ngành

hoặc hoạt động nào không thể cam kết ngay được. Những điều này cần phải được

thực hiện thống nhất với kế hoạch quốc gia về dịch vụ. Không nên tiến hành đàm

phán hay cam kết cho đến khi đã cân nhắc xong những điều nêu trên.

Thứ ba, không nên ký kết các FTA có “danh sách tiêu cực”

Thứ tư, nếu có thể thì nên đưa ra những yêu cầu cam kết về những ngành và hoạt

động có lợi cho mình, ví dụ như việc di chuyển dân cư, lao động hoặc nhân công.

Thứ sáu, trừ khi có thể đạt được những lợi ích vượt trội từ những đề nghị của phía

đối tác, Việt Nam cần phải đạt được mức độ cam kết như đã có tại WTO.

Page 31: Những tác động tích cực của FTA-final

2.4. Vấn đề đầu tư

Đầu tư là một phần của các vấn đề được gọi là “các vấn đề Singapore”

(Singapore Issues) tại WTO. Ở đây nhóm nghiên cứu đưa ra 2 vấn đề.

Thứ nhất là việc cân nhắc lợi hại hệ quả của việc đầu tư. Một mặt là cơ hội

thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều lĩnh vực kinh tế ở nước

ta. Vì thế, Chính phủ cần có nhiều hơn nữa các chính sách kêu gọi và thu hút vốn

đầu tư từ nước ngoài thông qua các cải cách kịp thời, minh bạch hóa thủ tục hành

chính, ưu đãi thuế và tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư tại

Việt Nam. Hiện nay Chính phủ cũng khuyến khích những hình thức đầu tư như

hợp tác nhà nước và doanh nghiệp (PPP) trong xây dựng cơ sở hạ tầng. Những

hiệp định như FTA sẽ thúc đẩy các hình thức đầu tư như thế phát triển. Mặt khác,

nói như thế không có nghĩa là chúng ta thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng mọi

giá, sự đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế và môi trường trong sạch luôn là một bài

toán cần đưa lên bàn cân tính toán thật kĩ.

Thứ hai là việc cân nhắc các điều khoản cam kết về đầu tư khi kí kết các

FTA. Rất nhiều các quốc gia đang phát triển trong FTA phản đối việc khởi đầu

đàm phán về môt thỏa thuận đầu tư của FTA như của WTO và WTO cũng đã đình

chỉ các cuộc đàm phán về đầu tư vào tháng 6/2004. Bởi một lẽ, điều khoản về đầu

tư đòi hỏi mức độ mở cửa quá cao sẽ xóa bỏ hoặc giảm một cách đáng kể những

khoảng trống chính sách của họ. Chúng có thể dẫn đến những hậu quả bất lợi cho

chính phủ trong việc duy trì và hình thành nên các chính sách liên quan đến xã hội,

kinh tế và chính trị. Vì vậy Việt Nam cần lưu ý những điều sau. Thứ nhất, Việt

Nam có thể lập luận rằng do vấn đề này cũng đã bị khước từ trong các vòng đàm

phán của WTO và do điều khoản này có thể gây nên những hậu quả bất lợi nên

không nên đưa nó vào trong các FTA. Thứ hai, nếu vẫn quyết định sẽ bao gồm

điều khoản về đầu tư vào trong FTA của mình, Việt Nam phải hạn chế điều khoản

về đầu tư trong các hoạt động hợp tác và không bao gồm các quy định ràng buộc

vào việc tiếp cận thị trường, bảo hộ đầu tư và điều khoản sung công. Thứ ba, cần

Page 32: Những tác động tích cực của FTA-final

phải chắc chắn rằng điều khoản đầu tư sẽ không buộc chúng ta phải cam kết vào

những tiêu chuẩn và yếu tố có thể gây bất lợi cho các chính sách đầu tư và phát

triển.

2.5. Những vấn đề khác

2.5.1 Về cạnh tranh

Việt Nam cần cân nhắc về tính tương đồng trong lợi thế cạnh tranh khi

tham gia FTA. Trong một số FTA song phương và khu vực, nhiều nước có cùng

lợi thế trong các lĩnh vực mà họ có thế mạnh sản xuất và xuất khẩu, sự cạnh tranh

trong nội bộ các thành viên của một FTA vì thế sẽ rất khốc liệt, ví dụ như lúa gạo

của Việt Nam và Thái Lan. Vì vậy, việc chọn đối tác đàm phán ký kết các FTA

cũng là yếu tố cần bàn luận kĩ lưỡng.

2.5.2 Về phân bổ nguồn lực

Hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là tham gia vào các

FTA, tất yếu sẽ dẫn đến xu thế sắp xếp lại các ngành và phân bổ lại nguồn lực.

Trong bối cảnh đó, Nhà nước cần tác động để tạo môi trường chu chuyển, vận

động của lao động và nguồn lực một cách thuận lợi nhất, với chi phí thấp nhất.

Đây là một yếu tố quan trọng giúp ổn định kinh tế và an sinh xã hội khi tham gia

FTA. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơ quan nào nghiên cứu tổng thể vấn đề này

để tham mưu cho Chính phủ khi quyết định các cam kết FTA. Không nên tham

gia theo trào lưu mà điều quan trọng nhất là cần tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng lợi

ích của quốc gia, tính đến sự bảo trợ của Nhà nước đối với sự phát triển của nền

sản xuất trong nước trong tương lai.

KẾT LUẬN

Hiệp định thương mại tự do đang là xu thế chung của hợp tác kinh tế quốc tế song

song với quá trình tự do hóa đa phương khác đang diễn ra trong khuôn khổ GATT/WTO.

Page 33: Những tác động tích cực của FTA-final

Do những tác động tích cực của nó, các nhà hoạch định chính sách kinh tế đối

ngoại tại nhiều quốc gia ngày càng xem chính sách FTA là một công cụ chính sách

thương mại trọng yếu và bổ sung cho chính sách tự do hóa thương mại đa phương. Ngoài

ra, sự phát triển như vũ bão về số lượng và chất lượng của các FTA cũng thúc đẩy các

nước còn ngại ngần với hiệp định thương mại tự do hãy vào cuộc nếu họ không muốn bị

bỏ lại sau lưng. Tham gia FTA không chỉ mang lại cho quốc gia thành viên những lợi ích

kinh tế như gia tăng thương mại, thúc đẩy cạnh tranh, đầu tư, chuyển giao tri thức, công

nghệ và thông tin…mà còn đem lại cả những lợi ích phi kinh tế như gia tăng vị thế quốc

gia trên trường quốc tế đồng thời củng cố hòa bình và an ninh. Hơn nữa, đối với tiến trình

đa phương hóa, các kênh đàm phán FTA song phương và khu vực có vai trò như “lò

luyện” giúp tích lũy những kinh nghiệm đàm phán, xử lý nhiều vấn đề thương mại mới,

phức tạp mà thực tiễn đàm phán đa phương đang đặt ra nhưng lại chưa có tiền lệ. Chính

vì vậy, trong những năm gần đây, FTA đã nổi lên như một xu thế quan trọng, một hướng

đi không thể không tính tới trong chính sách kinh tế đối ngoại của các quốc gia trên toàn

thế giới.

Đối với Việt Nam, để hội nhập thành công sau khi gia nhập WTO, chúng ta cần

vận dụng linh hoạt, khéo léo các quy định, các ngoại lệ của khuôn khổ thương mại đa

phương GATT/WTO. Một chiến lược hội nhập thành công đòi hỏi nước thành viên đó

phải biết kết hợp hội nhập ba cấp độ đa phương, khu vực và song phương với các chương

trình cải cách bên trong hay có thể gọi là hội nhập đơn phương. Trong bối cảnh xu hướng

hình thành các FTA diễn biến nhanh và rộng trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là sự bùng

nổ các lộ trình hình thành FTA trong khu vực ASEAN, việc xây dựng một chính sách

FTA tổng thể là đòi hỏi của thực tiễn quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của

Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Chính sách FTA sẽ là công cụ mới cho quá trình đổi

mới và xây mới thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn phát triển mới.

Việc lựa chọn cách tiếp cận chính sách FTA như là một công cụ đổi mới và xây mới thể

chế kinh tế thị trường cũng là một điểm mới trong lý luận về chính sách hội nhập kinh tế

quốc tế và khu vực của Việt Nam sau khi là thành viên WTO.

Page 34: Những tác động tích cực của FTA-final

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 35: Những tác động tích cực của FTA-final

Tiếng Việt

1. Bộ Ngoại Giao Việt Nam (2005), Đề tài nghiên cứu cấp Bộ “Xu hướng các

FTA trên thế giới: Hệ lụy, tác động và kiến nghị chính sách cho Việt Nam”, Vụ Kinh tế

đa phương, Bộ Ngoại Giao Việt Nam, Hà Nội.

2. Bùi Trường Giang - Cheong Inkyo (2004), “Cách tiếp cận chính sách FTA

hướng tới Hội nhập Kinh tế Đông Á: Tiến triển và thách thức” | “The FTA Approach

towards East Asian Economic Integration: Progress and Challenges”, Chương 2 trong

cuốn sách “Hướng tới Cộng đồng Kinh tế Đông Á” | “Towards East Asian Economic

Community”, GS. TS. Đỗ Hoài Nam và PGS. TSKH. Võ Đại Lược (đồng chủ biên,

2004), NXB Thế giới và Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.

3. Đặng Phương Hoa (2006), “Sự nổi lên của các nền kinh tế Trung Quốc và

Ấn Độ: Cơ hội và thách thức đối với phát triển kinh tế Việt Nam - ASEAN”, T/c Những

vấn đề kinh tế thế giới, số 127 (tháng 11/2005), Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.

4. Hoàng Lan, “Tác động của AFTA đối với nền kinh tế Vietnam”,

VietNamNet, ngày 18/07/2003.

5. Võ Đại Lược (2006), “Những vấn đề lớn về toàn cầu hóa kinh tế và hội

nhập kinh tế quốc tế”, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 125 (tháng 9/2006), Viện

Kinh tế và Chính trị Thế giới.

6. Võ Trí Thành và Nguyễn Anh Tú (2005), “Một số vấn đề của Vòng đàm

phán Đôha đối với các nước đang phát triển”, T/c Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 115

(tháng 11/2005), Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.

7. Lưu Ngọc Trịnh (chủ biên, 2006), “Phản ứng chính sách của các nước

Đông Á trước xu hướng hình thành các Khu vực Mậu dịch Tự do (FTA) từ cuối những

năm 1990”, NXB Lao động - Xã hội.

8. Trung Việt (2008), “FTA Hàn-ASEAN: Cơ hội lớn cho thương mại song

phương”, VnEconomy, ngày 20/06/2008.

Tiếng An

Page 36: Những tác động tích cực của FTA-final

9. De Melo, J. & A. Panagariya (1993), “New Dimension in Regional

Integration”, Cambridge, Cambridge University Press.

10. Grossman, Gene & Helpman, Elhanan (1995), “The Politics of Free-Trade

Agreement”, The American Economic Review, Vol. 85, No. 4, pp. 667-690.

11. Krueger, Anne (1997), “Free Trade Agreement versus Custom Unions”,

Journal of Development Economics, 54, 169-97.

12. Schott, Jeffrey (eds.2004), “Free Trade Agreements: US Strategies and

Priorities”, Institute for International Economics, Washington D.C., USA.

13. Wei, Shang-Jin, and Jeffrey A. Frankel, (1998), “Can Regional Blocs Be a

Stepping Stone to Global Free Trade?”, Ineternational Review of Economics and

Finance, Vol.5 (No.4)

Các website