noise trader risk_46
TRANSCRIPT
Vũ Thị Anh Đào
Phan Văn Nhựt
Trần Thị Hoa Phi
Phạm Thị Quỳnh Nương
Ngô Thị Kim Oanh
Trương Thị Thanh Nhàn
Hồ Lũy Muối
Nguyễn Thị Thanh Nhàn
2
1. Giới thiệu chung
2. Phương pháp nghiên cứu và MH nghiên cứu
• Mô hình chéo 2 giai đoạn không có kế thừa
• Mô hình chéo 2 giai đoạn có kế thừa
• Mô hình mở rộng
3. Kết luận
3
Mục tiêu nghiên cứu
Kiểm chứng rằng các nhà đầu tư gây nhiễu phi lý trí có niềm tin sai lầm đều ảnh hưởng đến giá và tạo lợi nhuận cao hơn dự kiến.
Tập trung một cách rõ ràng về giới hạn của kinh doanh chênh lệch giá tới khai thác nhận thức sai lầm của các nhà đầu tư thiếu thông tin.
Làm sáng tỏ một số sự khác thường của tài chính.
4
Các nghiên cứu liên quan
Figlewski (1979): có thể mất một thời gian rất dài cho các NĐT gây nhiễu mất phần lớn số tiền của mình nếu các nhà KD chênh lệch giá phải gánh chịu rủi ro cơ bản chống lại họ.
Shiller (1984), Campbell và Kyle (1987): ác cảm với rủi ro cơ bản có thể chính nó giới hạn KD chênh lệch giá, ngay cả khi các nhà KD chênh lệch giá có tầm nhìn vô hạn.
Friedman (1953) và Fama (1965): các nhà đầu tư gây nhiễu thì không thể ảnh hưởng đến giá quá nhiều và ngay cả khi có thể thì họ sẽ không làm như vậy trong lâu dài,
5
Phương pháp NC và mô hình NC
Mô hình chéo 2 giai đoạn không kế thừa
Mô hình chéo 2 giai đoạn có kế thừa.
Mô hình chéo mở rộng.
6
Các giả định
Không có giai đoạn tiêu dùng đầu tiên.
Không có quyết định cung ứng lao động
Không có kế thừa
Các đại diện quyết định duy nhất là chọn một danh mục ĐT khi còn trẻ
7
Các đại diện nhà đầu tư tinh vi tối đa hoá hữu dụng:
Các đại diện nhà đầu tư thiếu thông tin tối đa hoá hữu dụng:
Sự khác biệt duy nhất giữa (4) và (6) là kỳ cuối cùng của (6), mà nắm được những ngộ nhận thu nhập kỳ vọng của nhà đầu tư gây nhiễu từ việc nắm giữ λt
n
đơn vị tài sản rủi ro.
8
Hàm giá cả:
Phương trình (9) cho thấy rằng giá của các tài sản rủi ro ở
kỳ t là một hàm ngộ nhận của kỳ t bởi những nhà đầu tư
gây nhiễu (pt), của các tham số công nghệ (r) và hành vi (γ)
của mô hình, và của những thời điểm của sự phân phối giápt+1 một giai đoạn trước.
10
Hình thức cuối cùng của quy tắc giá cả với (u), trong
đó giá cả chỉ phụ thuộc vào các tham số nội sinh của
mô hình và những thông tin công cộng về hiện tại,
tương lai ngộ nhận bởi những nhà đầu tư gây nhiễu, là:
11
Giải thích: 3 điều khoản sau cho thấy ảnh hưởng của việc thiếu thông tin NĐT trên giá của tài sản (u)
Điều khoản thứ hai ở (12) thể hiện được sự dao động giá của tài sản có rủi ro (u) do bởi sự biến thiên ngộ nhận của các nhà đầu tư gây nhiễu
Điều khoản thứ ba ở (12) thể hiện được độ lệch của pt từ giá trị cơ bản của nó dựa trên lập luận sự ngộ nhận trung bình của các nhà đầu tư gây nhiễu không phải bằng 0
Điều khoản sau cùng ở (12) là điểm chính (trung tâm) của mô hình. Các nhà đầu tư tinh vi có thể không giữ tài sản có rủi ro trừ khi bù đắp cho việc gánh chịu rủi ro mà các nhà đầu tư gây nhiễu sẽ trở nên bi quan và giá các tài sản rủi ro sẽ giảm
12
Các nhà đầu tư kế thừa là những thành viên trong gia đình,
một hình ảnh có liên quan của một nhà đầu tư mới tham
gia thị trường như một quỹ hưu trí tìm kiếm một người
quản lý tiền mới.
Tác giả đưa thêm yếu tố kế thừa bởi mô hình hai giai
đoạn phần 1 không cho phép kiểm tra sự tích lũy của
cải của nhà đầu tư gây nhiễu
13
Phương pháp tiếp cận
Phương pháp đầu tiên là định đề mà nhà đầu tư mới chỉ đáp trả lại gần đây đạt được chiến lược đầu tư khác nhau, và không thể đánh giá chính xác nguy cơ thực hiện. Tác giả chỉ ra rằng nhà đầu tư gây nhiễu có hiệu ứng về giá không chắc chắn giảm theo thời gian.
Phương pháp thứ hai của tác giả, các nhà đầu tư mới lựa chọn chiến lược đầu tư của họ trên cơ sở mức độ tiện ích gần đây. Tác giả chỉ ra rằng nhà đầu tư gây nhiễunhất thiết phải giảm theo thời gian
14
Mô hình bắt chước dựa trên lợi nhuận thực hiện mà
không có rủi ro cơ bản: đặt μt là độ nhạy cảm của nhóm nhà
đầu tư gây nhiễu và Rn và Ri là mức lợi nhuận của nhà đầu tư
gây nhiễu và nhà đầu tư tinh vi, chúng ta giả định rằng:
Với ζ là tỷ lệ mà mỗi nhà đầu tư mới tăng thêm khi trở thành nhà đầu tư gây nhiễu cho mỗi đơn vị
lợi nhuận thay đổi
Công thức (20) thành công khi mô phỏng rằng: chiến
lược đầu tư này làm cho những người thay đổi theo nó sẽ
giàu hơn
15
Trong công thức số 12, quy luật xác định giá với một số lượng nhà đầu
tư gây nhiễu không đổi, với μ thay đổi thành μt , giới hạn khi ζ hội tụ ở
mức 0 của quy luật xác định giá cả, mô hình được mô phỏng
Nếu phần của nhà đầu tư gây nhiễu là:
thì μt có khuynh hướng giảm. Nếu μt lớn hơn μ*, nhà đầu tư gây nhiễu sẽ
tạo ra nhiều mức giá rủi ro làm cho các nhà đầu tư tinh vi rất khó khăn để
suy xét những điều chống lại họ. Và số lượng các nhà đầu tư gây nhiễu
cũng kiếm được mức lợi nhuận trung bình nhiều hơn các nhà đầu tư tinh vi
16
Phần mở rộng với rủi ro cơ bản: Mục này mở rộng mô
hình mô phỏng cho trường hợp có rủi ro cơ bản cho phần tài sản không an toàn. Tài sản yêu cầu sẽ là:
17
Mệnh đề: Quy luật định giá được đưa ra như (27) và
luật mô phỏng (20). Giả sử rằng phương trình
E{ΔR(μ)} = 0 có ít nhất là một nghiệm trong khoảng
μ Є [0, 1]. Chú ý một dãy chỉ số kinh tế có n biến, sự
khác nhau chỉ là trong giá trị của nó của thông số mô
phỏng ζ n, như là ζ n → 0 khi n → ∞. Ta có δ > 0
như E(μt) → μ≥ δ khi n → ∞, khi đó sự mong đợi
được lấy ra sự phân phối ổn định của μt.
19
20
Mô phỏng dựa vào tính hữu dụng
Số lượng nhà đầu tư gây nhiễu phụ thuộc vào sự khác nhau về tính hữu dụng được nhận biết ở kỳ trước từ các chiến lược của nhà đầu tư tinh vi và
nhà đầu tư gây nhiễu.
Nhà đầu tư tinh vi tối đa hóa tính hữu dụng mong đợi thực tế, tính hữu dụng nhận biết được của nhà đầu tư tinh vi bình quân cao hơn tính hữu dụng nhận biết được của của nhà đầu tư gây nhiễu.
Sự mô phỏng này được dựa trên sự nhận biết về mục tiêu thực sự của nhà đầu tư.
Quan hệ lợi nhuận mong đợi của nhà đầu tư gây nhiễu và
nhà đầu tư tinh vi
Điểm khác biệt giữa tổng lợi nhuận của các nhà đầu tư gây nhiễu và
tổng lợi nhuận của các nhà đầu tư tinh vi là kết quả của sự khác biệt
việc nắm giữ các tài sản có rủi ro của họ và của lợi nhuận tăng thêm
của một đơn vị tài sản có rủi ro.
Ta có lợi tức mong đợi vô điều kiện toàn thể:
Lợi nhuận mong đợi của các nhà đầu tư gây nhiễu tương ứng với lợi
nhuận mong đợi của những nhà đầu tư tinh vi được gia tăng khi
những nhà đầu tư gây nhiễu giữ trên mức trung bình tài sản có rủi ro
và kiếm được một lượng lớn lợi nhuận để chấp nhận rủi ro.
21
Một số sự khác thường của tài chính, điển hình là trò
chơi Mehra-Presscott
- Các nhà đầu tư thiếu thông tin kiếm được một mức lợi nhuận mong
đợi cao hơn khi nào mà các tài sản không an toàn được định giá thấp
hơn giá trị cơ bản của nó thì có thể làm sáng tỏ trò chơi Mehra-
Prescott (1986) nổi tiếng. Mehra và Prescott (1986) cho thấy lợi
nhuận bình quân thực nhận trên vốn cổ phần US hơn sáu mươi năm
nay đã được khoảng 8%, và doanh thu thực sự của trái phiếu an toàn
chỉ khoảng là 0.
- Phí bảo hiểm vốn cổ phần của Mehra-Prescott thu được trong một
nền kinh tế là bằng chứng cho đề xuất mà lợi nhuận mong đợi kỳ
vọng của các nhà đầu tư thiếu thông tin có thể sẽ cao hơn của các
nhà đầu tư tinh vi.
22
23
Những quan sát về tài chính doanh nghiệp
Sự phân bổ dòng tiền của công ty càng miễn cưỡng thì giá
trị thị trường của nó lại càng cao:
- Giá cổ phần của 1 công ty tăng do tăng cổ tức, chuyển
nợ thành CP hoặc mua lại CP
- Giá CP giảm khi công ty cắt giảm cổ tức hoặc phát
hành CP mới
Những rủi ro do đầu tư mang lại như là 1 loại chi phí
mà những CK giao dịch rộng rãi trong công chúng phải
hứng chịu.
1. Rủi ro mà không thể tiên đoán được quan điểm của các nhà đầu tư đơn giản làm giảm đáng kể sự hấp dẫn của kinh doanh chênh lệch giá.
2. Các nhà đầu tư thiếu thông tin có thể được bù đắp cho việc gánh chịu rủi ro mà họ tự tạo ra và vì vậy có thể kiếm được lợi nhuận cao hơn so với các nhà đầu tư tinh vi, ngay cả khi họ bóp méo giá cả.
3. Một số bất thường của thị trường tài chính có thể được giải thích bởi ý tưởng của rủi ro đầu tư thiếu thông tin.
24
4. Nhiều hành vi của những người kinh doanh chênh lệch giá chuyên nghiệp có thể được xem như là một phản ứng đối với đầu tư thiếu thông tin hơn là kinh doanh theo nguyên tắc cơ bản.
5. Có thể học được một điều gì đó về thị trường tài chính chỉ đơn giản bằng cách nhìn vào ảnh hưởng của việc không thể tiên đoán được hành vi bất hợp lý đối với các cơ hội của nhà đầu tư hợp lý.
25