ntm tháng 6-2016.pdf

42
SOÁ 06/2016 Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy Nông thôn mới không phải là.... bảng hiệu Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu năm 2016 Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ nông nghiệp THÖ VIEÄN TÆNH BAØ RÒA - VUÕNG TAØU Ñòa chæ: Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung - Tp. Bà Rịa Ñieän thoaïi: 064.3742101; Fax: 064.3742105 Email: [email protected] Website: http://thuvienbrvt.com.vn & http://thuvienbrvt.vn

Upload: hahuong

Post on 28-Jan-2017

233 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: NTM tháng 6-2016.pdf

SOÁ 06/2016

Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy

Nông thôn mới không phải là.... bảng hiệu

Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu năm 2016

Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ nông nghiệp

THÖ VIEÄN TÆNH BAØ RÒA - VUÕNG TAØU

Ñòa chæ: Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung - Tp. Bà Rịa

Ñieän thoaïi: 064.3742101; Fax: 064.3742105

Email: [email protected]

Website: http://thuvienbrvt.com.vn & http://thuvienbrvt.vn

Page 2: NTM tháng 6-2016.pdf

BAÛN TIN

NOÂNG THOÂN ÑOÅI MÔÙI

Soá 06/2016

-----------------------------------

PHAÙT HAØNH HAØNG THAÙNG

Trưởng Ban biên tập

TRẦN MINH THẾ

Chịu trách nhiệm nội dung

NGUYỄN QUANG PHI

Biên tập - Trình bày

VŨ HÀ – QUANG SƠN

Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Số 04 - Phạm Văn Đồng - P. Phước Trung

Tp. Bà Rịa

Website:

Email:

MUÏC LUÏC

TIN NÔNG NGHIỆP – NÔNG THÔN

1. Xây dựng Nông thôn mới: Có biểu hiện huy

động quá sức dân……………………………01

2. Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy..........02

3. Tp. Hồ Chí Minh phát triển nền nông nghiệp đô thị

gắn với phong trào nông dân thi đua..................05

VĂN HÓA NÔNG THÔN MỚI

4. Áp dụng KHCN hiệu quả trong xây dựng nông

thôn mới……………………………………..06

5. Vùng “đệ nhất chè” và giấc mơ nông nghiệp

công nghệ cao.................................................08

6. Xây dựng nông thôn mới tại huyện duyên hải

Thạch Hà........................................................10

7. Chư Sê (Gia Lai) xây dựng nông thôn mới…12

8. Nông thôn mới không là bảng hiệu.....……...16

KỸ THUẬT NÔNG NGHIỆP

9. Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu

năm 2016..............................................……..17

10. Rau sạch theo công nghệ Israel là cực kỳ an

toàn? Không hẳn……………………....…….20

11. Kỹ thuật trồng nấm rơm trong nhà……..………22

12. Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng………………25

13. Cải tiến nuôi tôm: Hiệu quả trong hạn mặn...29

14. Sản xuất tảo xoắn……………………...........30

15. Phải thay đổi quy trình kỹ thuật nuôi.………32

NHÀ NÔNG LÀM GIÀU

16. Chuyển trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt…...34

17. Rau hữu cơ trên đất nhiễm mặn...…………..35

18. An Giang: Thu nhập cao từ trồng cải.............36

19. Tỉ phú bưởi da xanh trên đất cà phê.....…………37

20. Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ

nông nghiệp..........……………………………...38

Page 3: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn

~ 1 ~

Xây dựng nông thôn mới:

Có biểu hiện huy động quá sức dân Ngày 25/05/2016

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu cho biết như vậy tại Phiên

họp thứ 48, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khi trình bày báo cáo giám sát việc thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (giai đoạn 2010 - 2015) gắn với tái

cơ cấu ngành Nông nghiệp ngày 25/5.

Xây dựng nông thôn mới không đồng đều

Theo báo cáo giám sát do Chủ nhiệm Ủy ban

Kinh tế Nguyễn Văn Giàu trình bày nêu rõ, đến

ngày 31/12/2015, cả nước có 1.526 xã chiếm

17,1% tổng số xã đạt tiêu chí nông thôn mới và

đến tháng 3/2016, có 1.761 xã chiếm 19,7% đạt

tiêu chí nông thôn mới. Trong 5 năm, cả nước

đã huy động khoảng 851.380 tỷ đồng. Trong

đó, ngân sách Nhà nước bao gồm các chương

trình, dự án khác là 266.785 tỷ đồng chiếm

31,34%, vốn tín dụng là 434.950 tỷ đồng chiếm

51%, huy động từ doanh nghiệp là 42.198 tỷ

đồng chiếm 4,9%, người dân đóng góp là

107.447 tỷ đồng chiếm 12,62%.

Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế

Nguyễn Văn Giàu cho biết, ngân sách Nhà

nước và nguồn lực xã hội huy động cho

Chương trình còn thấp nhiều so với thực

tế. Nhất là, một số địa phương có biểu hiện chạy

theo thành tích nên huy động quá sức dân, nợ

đọng xây dựng cơ bản không có khả năng thanh

toán để lại hậu quả lớn và ảnh hưởng đến chủ

trương xây dựng nông thôn mới của Đảng và

Nhà nước. Theo báo cáo của Chính phủ, số nợ

đọng của 35/41 tỉnh, Tp khoảng 8.600 tỷ đồng.

“Kết quả xây dựng nông thôn mới không đồng

đều. Số xã đạt tiêu chí nông thôn mới ở Đông

Nam Bộ là 46,4%, Đồng bằng sông Hồng là

42,8%, miền núi phía Bắc chỉ đạt khoảng 8,2%,

Tây Nguyên đạt 13,2%, Đồng bằng sông Cửu

Long đạt 16,7%”, ông Nguyễn Văn Giàu nói.

Đề án tái Cơ cấu ngành Nông nghiệp đã

được phê duyệt từ ngày 10/6/2013 triển khai

đến các cấp quá chậm, thậm chí đến nay còn 9

địa phương chưa ban hành đề án, kế hoạch tái

cơ cấu trên địa bàn là Cao Bằng, Thái Nguyên,

Hà Nội, Hải Phòng, Thừa Thiên - Huế, Đắk

Lắk, Bà Rịa - Vũng Tàu, Cần Thơ, Kiên Giang.

Đề nghị xóa nợ đọng cho hợp tác xã

Phát biểu tại phiên họp, Phó Thủ tướng

Vương Đình Huệ cho biết, chủ trương thực hiện

chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông

thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp

là hết sức đúng đắn và cần đi sâu hơn trong vấn

đề tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, mở rộng mô

hình hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp.

Cho nên, cần nghiên cứu lí do tại sao hợp

tác xã kiểu cũ không thể chuyển sang mô hình

hợp tác xã kiểu mới được, có phải vì do nợ

đọng cũ tồn đọng, mặc dù đã được xử lý nhưng

vẫn còn tồn tại.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Văn Giàu cho biết,

một số địa phương có biểu hiện chạy theo thành tích nên

huy động quá sức dân, nợ đọng xây dựng cơ bản không

có khả năng thanh toán để lại hậu quả lớn. Ảnh: TN

Page 4: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn

~ 2 ~

“Đề nghị Quốc hội ban hành nghị quyết cho

phép Chính phủ nghiên cứu xóa số nợ đọng này.

Chúng tôi chưa thống kê cụ thể nhưng số nợ nhỏ

thôi, bởi về pháp lý nếu không giải thể được thì

thành yếu kém”, Phó Thủ tướng đề xuất.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Công nghệ

và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng

thì cho rằng, vừa rồi có một phong trào khá

lớn là các doanh nghiệp, nhà đầu tư Việt Nam

đầu tư ra nước ngoài.

“Doanh nghiệp, nhà đầu tư báo cáo lại là

quá trình đầu tư rất hiệu quả, đầu tư sang nhiều

nước như Mỹ, Úc, Nga, Lào, ví dụ như đầu tư

sang Nga hay Mỹ sau 5 - 6 năm đã thu hồi vốn.

Do đó, trong báo cáo này cũng cần phân tích

lại chính sách của ta và bạn có gì khác nhau

để tính lại tác động chính sách”, Chủ nhiệm

Phan Xuân Dũng cho biết.

Chốt thảo luận nội dung này, Phó Chủ tịch

Quốc hội Phùng Quốc Hiển đề nghị đoàn giám

sát tiếp thu các ý kiến góp ý của Ủy ban Thường

vụ Quốc hội và Phó Thủ tướng Vương Đình

Huệ, đặc biệt là chuẩn bị tốt một nghị quyết về

vấn đề này, trong đó chỉ rõ những giải pháp

khắc phục những tồn tại, đồng thời tiếp tục

hoàn chỉnh báo cáo để trình Ủy ban Thường vụ

Quốc hội cho ý kiến vào tháng 9 tới, sau đó sẽ

trình Quốc hội khóa 14 vào kỳ họp thứ 2 để tiến

hành giám sát tối cao.

Ngoài ra, trong hôm nay, Ủy ban Thường vụ

Quốc hội nghe và cho ý kiến về báo cáo kết quả

giám sát bước đầu chuyên đề Hiệu quả thực hiện

chính sách, pháp luật về phát triển khoa học, công

nghệ nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại

hóa, giai đoạn 2005 - 2015 và định hướng phát

triển giai đoạn tới, trong đó chú trọng đẩy mạnh

công nghiệp hỗ trợ và cơ khí chế tạo.

Ủy ban Thường vụ cũng cho ý kiến về 2 dự

thảo Nghị quyết về tiêu chuẩn và phân loại đơn

vị hành chính; Nghị quyết quy định về phân

loại đô thị và nghe Hội đồng bầu cử Quốc gia

báo cáo sơ bộ kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội

khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các

cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021.

Thảo Nguyên

http://thanhtra.com.vn

Báo Thanh tra Việt Nam

Phát triển lúa gạo: Cần thay đổi tư duy Ngày 07/06/2016

Là nước nằm trong “top” đầu XK gạo

trên thế giới, song ngành lúa gạo phát triển

chưa thực sự bền vững, gạo Việt chưa đi

được “xa” khi chất lượng còn hạn chế, giá

bán không cao, đặc biệt người nông dân là

đối tượng trực tiếp sản xuất lúa gạo lại luôn

nằm ở vị trí yếu thế, thiệt thòi.

Nâng vai trò của nông dân

Theo Bộ NN&PTNT: Khối lượng XK gạo

5 tháng đầu năm ước đạt 2,35 triệu tấn, tương

đương giá trị 1,06 triệu USD, giảm 2,1% về

Ảnh minh họa

Page 5: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn

~ 3 ~

khối lượng nhưng tăng 1,2% về giá trị so với

cùng kỳ năm 2015.

Giá gạo XK bình quân 4 tháng đầu năm đạt

445 USD/tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm

trước. Trung Quốc vẫn tiếp tục đứng vị trí thứ

nhất về thị trường NK gạo của Việt Nam trong

4 tháng đầu năm với trên 36% thị phần. Sau

Trung Quốc, Indonesia là thị trường NK gạo

lớn thứ hai của Việt Nam trong 4 tháng đầu

năm với gần 16% thị phần.

Tại thị trường trong nước, giá lúa gạo biến

động từ ổn định đến giảm nhẹ trong 20 ngày đầu

tháng 5. Tình trạng này xuất phát từ sức ép Thái

Lan tuyên bố xả kho gạo khổng lồ 11,4 triệu tấn.

Theo các thương lái tại khu vực ĐBSCL:

Giá lúa tại một số tỉnh liên tục sụt giảm, sức

tiêu thụ yếu. Cụ thể tại Tiền Giang, Long An,

giá lúa tươi IR50404 hiện chỉ còn khoảng

4.500 - 4.550 đồng/kg, giảm 250 - 300

đồng/kg. Giá gạo nguyên liệu tại thị trường

chợ đầu mối lương thực Bà Đắc, huyện Cái Bè,

tỉnh Tiền Giang cũng nhanh chóng rớt xuống

mức chỉ còn 6.500 - 6.700 đồng/kg so với mức

6.700 - 6.900 đồng/kg.

Đánh giá về việc phát triển ngành hàng lúa

gạo suốt nhiều năm qua, ông Đặng Quang

Vinh, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung

ương (CIEM) cho rằng, còn khá nhiều bất cập

tồn tại dai dẳng. Đi sâu phân tích chuỗi giá trị

lúa gạo dễ thấy, đối tượng sản xuất, trồng lúa

chủ yếu là nông dân với quy sản xuất mô nhỏ,

thậm chí rất nhỏ khi trung bình chỉ 0,4ha/hộ,

riêng tại ĐBSCL mới đạt mức 1,2ha/hộ. Nông

dân làm ra lúa, song lại thường xuyên bị thương

lái ép giá. Mặc dù vậy, thương lái lại phụ thuộc

các DN XK vì các DN này thường nắm các nhà

máy xay xát cũng như thị trường XK.

“XK hiện chiếm 65-70% sản lượng lúa gạo

tại vùng ĐBSCL. Ai nắm yếu tố XK, người đó

quyết định giá. Vì vậy, xét đến cùng, DN XK

chính là đối tượng có quyền quyết định giá.

Trong số đó, các DN Nhà nước như Tổng Công

ty Lương thực miền Bắc (Vinafood 1) và Tổng

Công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2) là

các DN chiếm vai trò thống lĩnh. Điều không

hề mới nhưng rất đáng đề cập là trong toàn

chuỗi giá trị lúa gạo, nông dân vất vả, chịu

nhiều rủi ro song hưởng lợi lại ít nhất và lợi

nhuận chủ yếu rơi vào tay DN XK. Vấn đề làm

thế nào để đảm bảo sự công bằng trong chuỗi

giá trị còn khá nan giải”, ông Vinh phân tích.

Liên quan tới vấn đề này, một số chuyên gia

cho rằng, để thực sự đảm bảo cho sự phát triển

bền vững của ngành hàng, cần thực sự nghiêm

túc nhìn nhận, nâng cao vai trò của người nông

dân trong chuỗi giá trị. Điều này có thể được

thực hiện thông qua việc Nhà nước có chính

sách hỗ trợ mở rộng quy mô sản xuất, bỏ hạn

điền, tăng cường trợ cấp và bảo lãnh vay vốn

cho nông dân. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần

hỗ trợ nông dân đủ khả năng hình thành hợp tác

xã, công ty cổ phần phục vụ hoạt động xát và

XK trực tiếp, giảm phụ thuộc vào DN XK.

Theo ông Vinh, một trong những giải pháp

cần thiết còn là thúc đẩy hình thành sàn giao

dịch lúa gạo và thị trường phái sinh trên sản

phẩm gạo (thị trường tương lai, thị trường

quyền chọn) để ổn định giá bán và tạo điều

kiện cho người trồng lúa bảo vệ quyền lợi của

mình khi có nhiều khách hàng.

Không cần giữ 3,8 triệu ha đất lúa

Theo quy hoạch sử dụng đất giai đoạn

2011-2020, diện tích đất trồng lúa trên toàn

quốc là 3,8 triệu ha. Diện tích này nhằm mục

tiêu luôn đảm bảo an ninh lương thực trong

nước cũng như góp phần đảm bảo an ninh

lương thực trên thế giới. Trong bối cảnh, XK

lúa gạo còn nhiều vấn đề, nhất là về chất lượng,

giá cả, đời sống người nông dân trồng lúa

Page 6: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn

~ 4 ~

còn khá chật vật, nhiều quan điểm đánh giá, duy

trì 3,8 triệu ha trồng lúa là điều không cần thiết.

Ông Vinh phân tích, Việt Nam đã là nước

XK gạo hàng đầu thế giới, câu chuyện an ninh

lương thực không cần quá lo lắng, điều đáng

quan tâm là những lợi ích thiết thực cho người

nông dân nói riêng, cho phát triển ngành hàng

nói chung. Ở nhiều nơi nên để nông dân lựa

chọn sản xuất cái gì cho phù hợp, hiệu quả.

Yếu tố chất lượng cần được lựa chọn thay cho

số lượng, khuyến khích trồng và XK giống lúa

chất lượng cao dù sản lượng nhỏ.

Ông Tom Kompas, Trường Chính sách

công Crawford, Đại học Quốc gia Úc cũng cho

rằng: Trong điều kiện của Việt Nam, việc giữ

3,8 triệu ha đất trồng lúa là tương đối nhiều.

Nghiên cứu do ông Tom Kompas cùng một số

cộng sự triển khai cho thấy, chuyển đổi một số

diện tích đất lúa để trồng các cây phù hợp hơn sẽ

giúp tăng cường hiệu quả kinh tế và giảm chỉ số

bất bình đẳng giữa các đối tượng trong chuỗi giá

trị lúa gạo của Việt Nam. Cụ thể, nếu chuyển đổi

19% đất lúa trên toàn quốc, ước tính có thể làm

tăng GDP thêm 5,5 tỷ USD trong 20 năm.

Ông Tom Kompas còn đưa ra khuyến nghị

con số chuyển đổi chi tiết cho từng vùng. Theo

đó, tại Đồng bằng sông Hồng, diện tích chuyển

đổi là 6,35-9,71%. Tỷ lệ chuyển đổi ở ĐBSCL

là 8,58-11,75%. Trong các khu vực còn lại, tỷ

lệ chuyển đổi cao hơn nhưng quy mô chuyển

đổi thì nhỏ hơn.

Theo ông Nguyễn Trí Hoàn, Viện trưởng

Viện Cây lương thực và Cây thực phẩm: Ở

Việt Nam, sản xuất lúa gạo hiệu quả kém

nguyên nhân quan trọng là do ruộng đất quá

manh mún. Để đảm bảo vấn đề an ninh lương

thực thì diện tích trồng lúa ở Việt Nam duy trì

3-3,2 triệu ha là đủ. Do đó, câu chuyện giảm

bớt diện tích trồng lúa là hợp lý. Tuy nhiên,

không cần giảm diện tích ở tất cả các vùng.

Ở vùng Đồng bằng sông Hồng có thể giảm

diện tích trồng lúa để chuyển sang trồng hoa

màu, rau. Ở miền Trung việc chuyển đổi một

phần diện tích trồng lúa sang cây trồng khác

cũng có thể tính toán. Tuy nhiên, riêng vùng

ĐBSCL, diện tích rộng lớn, có nhiều điều kiện

thuận lợi trồng lúa thì nên giữ nguyên.

Một số chuyên gia đánh giá thêm, xét tới

cùng giảm bớt diện tích trồng lúa có thể được,

song điều quan trọng nhất là cần xem xét cụ

thể đối với từng vùng, chuyển từ cây lúa sang

trồng cây gì hoặc làm khác để có lợi hơn thì

mới làm chứ không phải đặt ra bài toán, cứ

chuyển đổi theo phong trào.

Ông Phạm Quang Diệu, Công ty Phân tích và

Dự báo thị trường Việt Nam: Gia tăng XK gạo

tiểu ngạch sang Trung Quốc rất đáng lo ngại.

Từ năm 2010 đến 2015, Việt Nam có 4 thị

trường XK gạo lớn là Trung Quốc, Philippines,

Malaysia và Indonesia, trong đó thị trường

Trung Quốc đóng vai trò ngày càng quan

trọng. Nếu như trước năm 2012, Trung Quốc

chỉ NK chính ngạch khoảng 300 nghìn tấn gạo

từ Việt Nam thì suốt từ năm 2012 đến nay, con

số NK thường xuyên dao động ở mức 1,9-2

triệu tấn/năm.

Điểm đáng lưu ý trong XK gạo sang Trung

Quốc là số lượng gạo xuất theo đường tiểu

ngạch qua biên giới khá lớn. Một số năm gần

đây, trung bình Việt Nam XK tiểu ngạch qua

Trung Quốc 1,5-1,9 triệu tấn/năm, chiếm

khoảng 70-90% so với lượng gạo XK chính

ngạch. Điều đó cho thấy quy mô cũng như sức

ảnh hưởng của gạo tiểu ngạch rất lớn.

Việt Nam mong biến Trung Quốc trở thành

thị trường XK tương tự như Indonesia hoặc

Philippines, có thể ký kết những hợp đồng lớn

để đẩy mặt bằng giá lên cao, tuy nhiên điều

này khá khó khăn. Trung Quốc không bao giờ

Page 7: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Tin Nông nghiệp – Nông thôn

~ 5 ~

công bố số liệu NK lúa gạo một cách chính

xác. Thị trường này áp dụng lối NK vừa chính

ngạch vừa tiểu ngạch để có thể đạt mặt bằng

giá NK thấp nhất.

Về lâu dài, việc quy mô XK gạo tiểu

ngạch sang Trung Quốc lớn rất đáng lo ngại,

bởi tiềm ẩn nguy cơ rủi ro về tồn kho, giá cả,

hình thức thanh toán…

Uyển Như

http://www.haiquan.vn

Báo Hải quan

Tp. Hồ Chí Minh

Phát triển nền nông nghiệp đô thị gắn với phong trào

nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi Ngày 31/05/2016

Để phát triển kinh tế phù hợp trong tiến

trình công nghiệp hóa, đô thị hóa diễn ra

nhanh chóng như hiện nay, phong trào nông

dân tham gia xây dựng và phát triển nền nông

nghiệp đô thị được các cấp Hội trên địa bàn

thành phố Hồ Chí Minh tích cực triển khai Kế

hoạch số 30-KH/HNDT về tổ chức thực hiện

phong trào nông dân tham gia xây dựng và phát

triển nông nghiệp đô thị, thành Hội tăng cường

công tác phối hợp với Sở Khoa học và Công

nghệ, Cục Sở hữu trí tuệ khảo sát nhu cầu cơ sở

vật chất, ứng dụng tiến bộ khoa học và công

nghệ của 2.600 hộ nông dân sản xuất kinh

doanh giỏi để xây dựng kế hoạch hỗ trợ cho

nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp; cài

đặt dữ liệu nông nghiệp cho Hội Nông dân

huyện Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè, quận 12;

phối hợp thực hiện phim phóng sự tuyên truyền

vận động nông dân tham gia xây dựng Hợp tác

xã, chăn nuôi bò sữa theo tiêu chuẩn VietGAP;

phóng sự về tác hại của biến đổi khí hậu và

giảm nhẹ rủi ro thiên tai trong sản xuất nông

nghiệp. Ngoài ra, Hội còn phối hợp với Sở

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố

kiểm tra tình hình thực hiện quy định

khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp

đô thị tại 5 huyện quận.

Thành Hội phối hợp Hội làm vườn và trang

trại thành phố xây dựng thí điểm mô hình rau

dinh dưỡng tại các xã nông thôn mới trên địa

bàn thành phố nhằm giúp cho các hộ nông dân

có ít đất sản xuất tận dụng khoảng không gian

xung quanh nhà ở xây dựng vườn rau đảm bảo

dinh dưỡng hằng ngày. Hội ND thành phố phối

hợp Ban Quản lý Khu Nông nghiệp Công nghệ

cao xây dựng dự thảo Đề án đào tạo nguồn

nhân lực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn

2016 – 2020.

Bên cạnh đó, Hội hướng dẫn, hỗ trợ 02 mô

hình về xây dựng thương hiệu, nghiên cứu

chuyển giao thiết bị cải tiến quy trình sản xuất

bánh tráng của hội viên Phạm Minh Linh ở xã

Tân Hiệp (huyện Hóc Môn) với mức kinh phí

hỗ trợ gần 250 triệu đồng và hỗ trợ đăng ký

sở hữu trí tuệ và xây dựng thương hiệu cho

Page 8: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 6 ~

mô hình tưới rau thông qua tin nhắn điện thoại

của hội viên Bùi Ngọc Minh Tâm phường An

Lạc, Quận Bình Tân.

Bên cạnh đó, các cấp Hội tiếp tục phối hợp

tập huấn Quyết định số 13/2113/QĐ-UBND

của Ủy ban nhân dân thành phố về khuyến

khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

đô thị trên địa bàn thành phố giúp nông dân

hiểu và tiếp cận với Quyết định này.

Đến nay đã có 815 quyết định phê duyệt

phương án, 2.026 lượt hộ vay với tổng số vốn

đầu tư 1.186,5 tỷ đồng, tổng vốn vay 726 tỷ

đồng. Hội Nông dân Quận 9 tổ chức tọa đàm

“Nông dân với nông nghiệp đô thị” nhằm định

hướng cho nông dân sản xuất các cây, con có

giá trị kinh tế cao phù hợp với nền nông nghiệp

đô thị trên địa bàn. Các cấp Hội tiếp tục duy

trì, nâng chất Website để định hướng giới thiệu

các sản phẩm mới của nông dân trên địa bàn.

Tính đến nay, trên địa bàn thành phố có

27.047/23.710 hộ đạt danh hiệu nông dân sản

xuất kinh doanh giỏi. Thông qua các câu lạc

bộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, bà con

có cơ hội để gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm trong

sản xuất để phát huy vai trò nòng cốt của nông

dân sản xuất kinh doanh giỏi tham gia xây

dựng nông thôn mới.

Bên cạnh đó, Hội phối hợp với Trung tâm

tư vấn và hỗ trợ nông nghiệp tổ chức 06 lớp

tập huấn về quy trình thực hành nông nghiệp

tốt trong chăn nuôi, trồng trọt và thủy sản thu

hút gần 700 lượt nông dân tham dự. Hội Nông

dân huyện Cần Giờ tổ chức Hội nghị chuyên

đề “Vai trò của Hội Nông dân trong công tác

giảm nghèo tăng hộ khá”; Hội Nông dân quận

12 nâng cao hiệu quả hoạt động câu lạc bộ

khuyến nông, các tổ ngành nghề hợp tác xã

dịch vụ Nông nghiệp An Phú Đông điểm trưng

bày quảng bá sản phẩm, điểm cà phê khuyến

nông, giúp nông dân nắm được thông tin, thị

trường, giá cả, tạo điều kiện cho nông dân tiêu

thụ sản phẩm; Hội Nông dân 5 huyện ngoại

thành đã tổ chức họp các câu lạc bộ nông dân

sản xuất - kinh doanh giỏi, các hợp tác xã, tổ

hợp tác để lấy ý kiến góp ý cho dự thảo chính

sách hỗ trợ nhằm khuyến khích phát triển, hợp

tác, liên kết sản xuất gắn tiêu thụ nông sản.

Tới đây, thành Hội sẽ tập trung phát triển

nông nghiệp đô thị theo hướng công nghệ cao,

đẩy mạnh chương trình cây, con chủ lực,

từng bước hình thành trung tâm giống của khu

vực. Đồng thời, tăng cường quảng bá và xúc

tiến thương mại nhằm giới thiệu loại hình sản

xuất phù hợp để nông nghiệp đô thị trở thành

nông nghiệp công nghệ cao.

Hoàng Thiện

http://www.hoinongdan.org.vn

Hội nông dân Việt Nam

Áp dụng KHCN hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới Ngày 12/06/2016

Trong giai đoạn 2010-2015, việc ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) đã mang lại hiệu

quả, đóng góp vào thành công trong “Chương trình xây dựng NTM tại BR-VT”. Đây là

đánh giá của các nhà khoa học trong và ngoài tỉnh tại hội thảo “Phát huy vai trò của KH-

CN trong xây dựng NTM” do Sở KH-CN tổ chức vào sáng 10-6.

Page 9: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 7 ~

Nhiều mô hình sản xuất mới

Đến cuối năm 2015, BR-VT đã kết thúc giai

đoạn 2 thực hiện Chương trình mục tiêu quốc

gia xây dựng NTM với 15 xã đạt 19/19 tiêu chí

NTM. Ông Nguyễn Kim Trường, Phó Giám

đốc Sở KH-CN cho biết, để đạt kết quả trên có

thể kể đến vai trò không nhỏ trong việc áp dụng

KHCN vào sản xuất ở các xã NTM. Qua đó góp

phần nâng cao năng suất sản phẩm nông nghiệp,

tăng thu nhập bền vững cho người dân. Trong 5

năm (2010-2015), thông qua 35 trạm thông tin

KHCN của tỉnh, nhiều giải pháp đã được ngành

KHCN thực hiện nhằm chuyển đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi sang loại hình có năng suất, giá

trị kinh tế cao hơn. Đã có hàng trăm mô hình sản

xuất hiệu quả, giúp nâng cao thu nhập cho người

dân như 206 mô hình trồng trọt chăn nuôi, thủy

sản tại huyện Xuyên Mộc; 220 mô hình trồng

trọt, chăn nuôi tại huyện Đất Đỏ…

Trang trại của anh Vũ Ngọc Bích (xã Xuyên

Mộc, huyện Xuyên Mộc) áp dụng thành công

mô hình heo nái nuôi con trên đệm lót sinh học

do Sở KH-CN triển khai. Anh Vũ Ngọc Bích

cho biết, với mô hình này chuồng nuôi heo luôn

khô ráo, sạch sẽ và hoàn toàn không mùi hôi;

heo giảm dịch bệnh: Tỷ lệ heo con bị tiêu chảy

giảm từ 70% (nuôi theo phương pháp cũ) xuống

còn 10% khi nuôi trên đệm lót sinh học; bệnh

viêm phổi và viêm khớp hầu như không có; heo

nái nuôi con mau lên giống... Đặc biệt, heo nái

trong chuồng không còn hiện tượng bị chết đột

ngột do phải thường xuyên tiếp xúc với thuốc

sát trùng định kỳ. Mặt khác, đệm lót sinh học

còn giúp anh tiết kiệm chi phí điện, nước, công

nhân, hạn chế tối đa ruồi và ô nhiễm môi

trường. Một ưu điểm nổi bật của mô hình này

là tỷ lệ heo con cai sữa lúc 21 ngày tăng 10%

so với cách nuôi cũ. Với hiệu quả của mô hình,

trong thời gian tới, trang trại của anh dự kiến sẽ

cải tạo chuồng nuôi cho heo nái nuôi con trên

đệm lót với đàn heo 3.000 con.

Tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm

Trước đây tình trạng tổn thất về sản lượng

trong và sau thu hoạch là một trong những

nguyên nhân làm giảm năng suất. Chẳng hạn

tổn thất sản lượng sau thu hoạch đối với lúa 11-

13%; các loại bắp, màu, trái cây từ 13-15%. Ông

Phạm Ngọc Vũ, Giám đốc Trung tâm Thông tin

và Thống kê KHCN tỉnh cho biết, việc đầu tư ứng

dụng KHCN sau thu hoạch những năm qua tại

một số địa phương đã hạn chế tối đa tổn thất, nâng

cao hiệu quả của sản xuất, ổn định đời sống, thu

nhập của người dân.

Theo ông Đỗ Hữu Hiền, Giám đốc Trung

tâm Ứng dụng tiến bộ KHCN, thời gian tới, để

phát huy vai trò của KHCN trong xây dựng

NTM, tỉnh cần hỗ trợ đẩy nhanh tốc độ đổi mới

công nghệ trong các ngành, các lĩnh vực then

chốt như công nghệ sinh học, công nghệ bảo

quản và chế biến nông lâm thủy sản, công nghệ

môi trường…. Trong đó, công nghệ sinh học phải

là khâu đột phá, thông qua hoạt động lai tạo, sản

xuất giống cây trồng, vật nuôi có chất lượng tốt,

hiệu quả kinh tế cao đáp ứng yêu cầu thị trường

và phục vụ nhu cầu xuất khẩu, từng bước tiến lên

công nghệ cao trên cơ sở nâng cao hàm lượng

chất xám trong sản phẩm. “Việc nghiên cứu và

áp dụng những tiến bộ KHCN, trong đó việc

ứng dụng có hiệu quả công nghệ sinh học sẽ làm

thay đổi mạnh mẽ năng suất và chất lượng sản

phẩm cây trồng, vật nuôi, góp phần tích cực

Thu hoạch lúa bằng máy gặt đập liên hợp tại xã An Nhứt

(huyện Long Điền).

Page 10: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 8 ~

vào việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo

hướng tăng hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện

tích sản xuất”, ông Hiền cho biết thêm.

Còn theo ông Võ Minh Giang, Phó Chủ tịch

Hội Nông dân tỉnh, trong thời gian tới, khi hiệp

định TPP có hiệu lực, một trong những giải

pháp quan trọng để hội nhập là đẩy nhanh tiến

trình tái cơ cấu ngành nông nghiệp, phát huy

cao hơn những lợi thế của tỉnh BR-VT. Đồng

thời kết hợp với việc ứng dụng KHCN, tổ chức

lại sản xuất để các sản phẩm của tỉnh có khả

năng cạnh tranh cao hơn, chiếm lĩnh thị trường

không bị thua ngay trên sân nhà. “Như vậy, việc

ứng dụng KHCN vào sản xuất nông nghiệp

giúp nông dân giải quyết vấn đề giá thành,

nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo đảm vệ

sinh ATTP, nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng

thu nhập của hộ nông dân, giảm thiểu ô nhiễm

môi trường …, đồng thời góp phần hoàn thành

các mục tiêu chương trình xây dựng NTM”,

ông Giang nói.

Bài, ảnh: NGÔ THANH

http://www.baobariavungtau.com.vn

Báo Bà Rịa

Vùng đất “đệ nhất chè” và giấc mơ nông nghiệp công nghệ cao Ngày 6/6/2016

Được ví là vùng “đệ nhất chè”, những năm qua tỉnh Thái Nguyên luôn chú trọng đẩy mạnh

sản xuất cây chè hàng hóa và phát triển nông nghiệp công nghệ cao.

Từ khi triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới

(NTM), Thái Nguyên lại có thêm điều kiện thuận lợi để đưa

nông nghiệp tiến thêm một bước, góp phần nâng cao thu nhập

cho người dân.

Xây dựng 7 vùng chè trọng điểm

Theo Sở NNPTNT Thái Nguyên, toàn tỉnh hiện có khoảng

21.100ha chè, sản lượng bình quân 195.000 tấn/năm. Tỉnh đã

xây dựng thành công nhãn hiệu tập thể chè Thái Nguyên và hiện

có 775 tổ chức, cá nhân được cấp quyền sử dụng nhãn hiệu này.

Tuy nhiên, có một thực tế là

ngành chè trên địa bàn vẫn chủ

yếu sản xuất theo phương pháp

thủ công truyền thống, quy mô

nhỏ lẻ, manh mún, trình độ sản

xuất của người trồng chè còn

nhiều hạn chế. Thái Nguyên

cũng chưa có quy hoạch vùng

sản xuất nguyên liệu tập trung

Vùng chè Thái Nguyên có nhiều giống chè nổi tiếng thơm ngon, năng suất bình quân đạt 160tạ búp

tươi/ha/năm. Ảnh: T.L

Page 11: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 9 ~

gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Toàn tỉnh mới có 640ha

chè VietGAP... Ông Hoàng Văn Dũng - Phó Giám đốc Sở

NNPTNT Thái Nguyên cho biết, để ngành chè nói riêng và

nông nghiệp Thái Nguyên phát triển bền vững, đáp ứng được

yêu cầu tái cơ cấu ngành nông nghiệp, đòi hỏi các cấp, ngành

liên quan phải có lộ trình thích hợp. Theo đó, trong giai đoạn

này tỉnh sẽ ưu tiên đầu tư hạ tầng phục vụ sản xuất, đẩy mạnh

dồn điền, đổi thửa và khuyến khích tích tụ ruộng đất để phát

triển sản xuất quy mô lớn. Bên cạnh đó, tỉnh cũng tổ chức sản

xuất theo chuỗi giá trị liên kết, từng bước xây dựng các mô hình

nông nghiệp hàng hóa cho thu nhập cao; đào tạo nghề nông

nghiệp cho lao động nông thôn...

Riêng đối với cây chè, ông Dũng cho biết một trong những

giải pháp mang tính đột phá là tỉnh sẽ tăng nhanh diện tích sản

xuất chè an toàn để đến năm 2020, toàn tỉnh sẽ có trên 16.800ha

chè an toàn; xây dựng mô hình chế biến chè công nghệ cao để

nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm. Đặc biệt là phát triển cơ

sở hạ tầng tại 7 vùng sản xuất chè tập trung theo hướng công

nghệ cao ở các huyện trọng điểm như huyện Đại Từ, Phú

Lương, Định Hoá, Đồng Hỷ, Phổ Yên và Tp. Thái Nguyên.

Đầu tư 3.388 tỷ đồng cho nông thôn mới

Theo báo cáo, trong giai đoạn 2011-2015, tổng vốn ngân

sách đầu tư cho xây dựng NTM tỉnh Thái Nguyên đạt 3.388 tỷ

đồng, chiếm gần 45% tổng chi ngân sách cho đầu tư xây dựng

cơ bản. Nguồn vốn trên đã được tỉnh ưu tiên đầu tư cơ sở hạ

tầng cho những xã gần về đích và các xã đặc biệt khó khăn. Đối

với những xã điểm, tỉnh hỗ trợ 2 tỷ đồng, các xã còn lại được

hỗ trợ 600 triệu đồng.

Để giúp các huyện chủ động cân đối ngân sách, huy động

nguồn lực của địa phương, tỉnh đã thực hiện cơ chế hỗ trợ theo

từng vùng. Theo đó, các huyện đặc biệt khó khăn như Võ Nhai,

Định Hóa, Phú Bình được ngân sách hỗ trợ 80%, các địa

phương còn lại hỗ trợ từ 60 - 70%, riêng Tp. Thái Nguyên và

thị xã Sông Công được hỗ trợ 50%.

Để nâng cao hiệu quả cơ chế hỗ trợ, Thái Nguyên đã triển

khai chương trình mua xi măng trả chậm. Ông Nguyễn Văn Thái

- Phó Giám đốc Sở KHĐT cho biết, phương án này đã được nhân

dân đồng tình ủng hộ rất cao. Sau 4 năm (2012-2015), đã có

208.200 tấn xi măng được tỉnh

hỗ trợ cho các xã để xây dựng

trên 1.000km đường giao

thông nông thôn.

Phương án hỗ trợ xi măng

đã góp phần thúc đẩy phong

trào xây dựng NTM tại các địa

phương, tạo nguồn vốn “mồi”

để huy động người dân đóng

góp trên 887 tỷ đồng, tham gia

gần 2 triệu ngày công lao động,

hiến 346ha đất... đồng thời, đây

cũng là giải pháp giúp các

doanh nghiệp sản xuất xi măng

trên địa bàn gỡ “thế bí” trong

tiêu thụ sản phẩm.

Đánh giá về hiệu quả của

chương trình xây dựng NTM,

ông Nguyễn Văn Thái cho hay:

“Việc “mạnh tay” đầu tư cho

Một số kết quả nổi bật

- 3.388 tỷ đồng là tổng vốn ngân

sách đầu tư xây dựng NTM giai

đoạn 2011 - 2015.

- 2.000 tỷ đồng là tổng vốn đóng

góp của nhân dân, doanh nghiệp.

- 208.200 tấn xi măng đã được

tỉnh hỗ trợ cho các xã để thực

hiện trên 1.000km đường giao

thông nông thôn.

- 346ha là diện tích đất nhân dân

toàn tỉnh đã hiến.

Dự kiến trong giai đoạn 2016 –

2020, nguồn ngân sách T.Ư hỗ

trợ cho xây dựng NTM của Thái

Nguyên khoảng 294,8 tỷ đồng.

Tỉnh Thái Nguyên cũng phấn

đấu sẽ có 70% số xã đạt chuẩn

NTM vào năm 2020.

Page 12: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 10 ~

chương trình xây dựng NTM đã đem đến sự thay đổi rõ rệt cho

diện mạo các vùng nông thôn trên địa bàn tỉnh, nhất là về cơ

sở hạ tầng. Hiện nay toàn bộ các xã đã có đường bê tông đến

trung tâm, đạt chuẩn về y tế, trụ sở làm việc được đầu tư khang

trang, thu nhập của người dân được cải thiện rõ rệt”.

http://danviet.vn

Theo Dân Việt

Xây dựng nông thôn mới tại huyện duyên hải Thạch Hà Ngày 03/06/2016

Xác định phát triển kinh tế, nâng cao thu

nhập cho người dân là một trong những tiêu

chí và mục tiêu quan trọng trong quá trình

xây dựng nông thôn mới, huyện Thạch Hà (Hà

Tĩnh) luôn chú trọng phát triển các hình thức

tổ chức sản xuất, các mô hình kinh tế hiệu quả

tại các địa phương.

Đổi thay từ mỗi gia đình

Trước kia, khi chưa thực hiện phong trào

xây dựng nông thôn mới, mỗi hộ dân trong xã

Tượng Sơn, huyện Thạch Hà đều phát triển

kinh tế và xây dựng theo kiểu “mạnh ai nấy

làm”, người trồng ngô, người trồng khoai, nhà

xây bờ rào bằng gạch, nhà để bờ rào bằng

cây… Nhưng nay tất cả đã đổi thay khi phong

trào xây dựng khu dân cư nông thôn kiểu mẫu

và vườn mẫu được đưa vào áp dụng.

Không chỉ tạo nên không gian trù phú, hiện

đại cho các vùng quê nông thôn mới, các khu

vườn mẫu ở Tượng Sơn thực sự đã đem lại

nguồn thu nhập đáng kể cho người dân, góp

phần quan trọng và trực tiếp vào quá trình phấn

đấu trở thành xã nông thôn mới (NTM) kiểu

mẫu của địa phương.

Thôn Hà Thanh, một trong những địa phương

khó khăn nhất của xã Tượng Sơn, sau những

năm thực hiện chương trình xây dựng NTM, đặc

biệt là khu dân cư NTM kiểu mẫu, đã đổi thay rõ

nét. Không chỉ có hệ thống hạ tầng kiên cố, hiện

đại, cảnh quan, môi trường xanh, sạch, đẹp, hàng

chục khu vườn mẫu được đầu tư công phu, tạo

điểm nhấn trong bức tranh NTM của xã.

Bà Nguyễn Thị Cử, thôn Hà Thanh phấn

khởi cho biết, “Kể từ khi tham gia làm vườn

mẫu, cùng với làm đẹp cảnh quan khuôn viên,

gia đình đã tận dụng được hết đất đai và đã có

nguồn thu nhập khá trên mảnh vườn của mình.

Với diện tích vườn 1.500m2, tôi đang trồng cây

ăn quả như hồng xiêm, nhãn, bưởi, na, ổi. Rau

ăn quả, mướp ngọt, mướp đắng, rau mồng tơi,

rau dền, thơm các loại, mỗi ngày đi chợ bán

trung bình cũng được 200-300 ngàn”. Mùa

nào thức ấy, người cán bộ hưu này cũng tăng

thêm thu nhập cho gia đình bằng các loại cây

trái, rau củ trong vườn. Bà rất vui khi phong

trào trồng vườn kiểu mẫu được nhân dân trong

xã hưởng ứng, vừa tạo cảnh quan, vừa có tính

chuyên nghiệp cao, các thương lái về xã cũng

sẽ dễ mua vì nhân dân trồng đồng bộ. Đến thời

điểm này, toàn xã Tượng Sơn có 2 khu dân cư

NTM kiểu mẫu và 25 vườn mẫu. Hiện nay, xã

đang tích cực huy động sức dân và các nguồn

lực khác, đồng thời, tổ chức quy hoạch để nhân

rộng các mô hình khu dân cư NTM kiểu mẫu

Page 13: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 11 ~

và vườn mẫu trên địa bàn toàn xã. Cùng với

quy hoạch về quy mô và hình thức, xã đặc biệt

chú trọng cơ cấu các loại cây trồng phù hợp,

nhằm đảm bảo mỹ quan cho các khu vườn

mẫu, đồng thời, có giá trị kinh tế để nâng cao

thu nhập cho người dân.

Bí thư Đảng ủy xã Tượng Sơn vui mừng

cho biết, nhờ thực hiện phong trào xây dựng

nông thôn mới mà Tượng Sơn đã có sự thay

đổi nhanh chóng và rõ nét nhìn từ mỗi gia đình,

từ mỗi khu vườn và từ các đường làng, ngõ

xóm. Xác định nội dung quan trọng của quá

trình xây dựng nông thôn mới là phải nâng cao

được đời sống vật chất và tinh thần cho nhân

dân, trong những năm qua, xã đã tập trung xây

dựng được 52 mô hình phát triển kinh tế, điển

hình là 6 vùng sản xuất rau củ quả an toàn với

diện tích gần 30ha cho thu nhập từ 250 đến 300

triệu đồng/ha mỗi năm; 5 mô hình nuôi tôm

thâm canh cho thu nhập trên 1 tỷ đồng mỗi

năm. Xã đã được các chính sách hỗ trợ sản

xuất 2,76 tỷ đồng. Bên cạnh đó đã huy động

các nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

và thực hiện các nhóm tiêu chí 150 tỷ đồng.

Riêng việc triển khai khu dân cư kiểu mẫu đã

huy động được hơn 1000 ngày công, phá bỏ 69

vườn tạp, triển khai xây dựng các nhà văn hóa

thôn đạt chuẩn. Xã Tượng Sơn cũng là 1 trong

5 xã đầu tiên trong huyện cán đích xã nông

thôn mới năm 2015.

Huy động mọi nguồn lực xây dựng nông

thôn mới

Không chỉ ở Tượng Sơn, phong trào xây

dựng nông thôn mới diễn ra sôi nổi trên khắp

địa bàn huyện Thạch Hà. Ông Trần Việt Hà,

Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện

Thạch Hà cho biết, phong trào xây dựng nông

thôn mới không chỉ của những người nông dân

mà tất cả hệ thống chính trị đều vào cuộc.

Huyện đã phát động phong trào “Ngày về cơ

sở xây dựng nông thôn mới” vào các ngày thứ

7, chủ nhật hằng tuần, các ban, phòng, ngành,

đoàn thể cấp huyện đã về tận các địa phương

trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc và tham

gia phong trào ra quân phát quang giải tỏa hành

lang an toàn giao thông, nạo vét kênh mương,

chỉnh trang vườn hộ, khu dân cư, vệ sinh môi

trường, tạo được sự đồng thuận, nhất trí cao

trong quần chúng nhân dân.

Với các cơ chế, chính sách khuyến khích

hợp lý, nhiều hộ dân trên địa bàn đã mạnh dạn

vay vốn, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh

tạo sự chuyển biến tích cực trong quá trình

phát triển kinh tế tại địa phương. Trong 03

tháng đầu năm 2016, toàn huyện đã thành lập

mới 15 tổ hợp tác, lũy kế đến nay là 275 tổ hợp

tác; thành lập mới 05 Hợp tác xã, lũy kế đến

nay là 130 hợp tác xã; thành lập mới 01 doanh

nghiệp nâng tổng số doanh nghiệp toàn huyện

lên 203 doanh nghiệp.

Huyện cũng đã chỉ đạo triển khai quyết liệt

Đề án phát triển sản xuất nâng cao thu nhập

cho người dân ở các xã; xây dựng và thành lập

mới 27 mô hình có doanh thu từ 100 triệu

đồng/năm trở lên, trong đó có 06 mô hình lớn,

03 mô hình vừa, 18 mô hình nhỏ. Phong trào

phát triển kinh tế với nhiều hình thức đa dạng

đang được nhân rộng tại các địa phương, từng

bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho

nhiều hộ dân. Tiêu biểu như: mô hình chăn nuôi

Đường làng, ngõ xóm trên địa bàn huyện Thạch Hà

đã được mở rộng và bên tông hóa. (Ảnh: HH)

Page 14: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 12 ~

lợn nái quy mô 600 con/lứa tại xã Ngọc Sơn,

mô hình chăn nuôi tổng hợp ở xã Thạch Ngọc,

Tổ hợp tác chăn nuôi bò quy mô 100 con ở

thôn Vĩnh Cát, xã Thạch Vĩnh...

Cùng với phát triển kinh tế, nâng cao thu

nhập cho người dân, huyện Thạch Hà cũng đã

tập trung huy động các nguồn lực, xây dựng cơ

sở hạ tầng kinh tế, xã hội, nâng cao các hoạt

động văn hóa, môi trường, xây dựng khu dân

cư kiểu mẫu, vườn mẫu.... Tổng nguồn vốn

huy động xây dựng nông thôn mới 3 tháng đầu

năm 2016 là 48,846 tỷ đồng, trong đó vốn ngân

sách huyện là 4,372 tỷ đồng, ngân sách xã

3,913 tỷ đồng, vốn lồng ghép 14,5 tỷ đồng; vốn

tín dụng 5,59 tỷ đồng; vốn doanh nghiệp 6,228

tỷ đồng; vốn nhân dân đóng góp 7,526 tỷ đồng...

Với 4 xã bãi ngang ven biển gồm Thạch Khê,

Thạch Hải, Thạch Đỉnh, Thạch Bàn cũng đã

được các cơ quan, đoàn thể chung tay góp sức

xây dựng đường giao thông đi lại thuận tiện.

Theo ông Trần Việt Hà, đến nay, huyện

Thạch Hà đã có 5 xã đạt chuẩn nông thôn mới, 6

xã đạt 10 - 13 tiêu chí; 10 xã đạt 9 tiêu chí; 9 xã

đạt dưới 9 tiêu chí. Năm 2016, huyện phấn đấu

100% xã hoàn thành các tiêu chí: Bưu điện, Hình

thức tổ chức sản xuất, Y tế; mỗi xã có ít nhất 01

khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu; 04 xã đạt

chuẩn gồm: Thạch Đài, Thạch Khê, Thạch Liên,

Thạch Kênh và không còn xã dưới 10 tiêu chí./.

Hiền Nguyễn

http://dangcongsan.vn/

Trang điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Chư Sê (Gia Lai) xây dựng nông thôn mới Ngày 03/06/2016

"Mặc dù là huyện miền núi có nhiều khó khăn, song với quyết tâm cao của toàn Đảng

bộ và nhân dân trong huyện, đến nay, công tác xây dựng nông thôn mới (NTM) trên địa

bàn huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai) bước đầu gặt hái một số thành công quan trọng, tạo đà để

đến năm 2020, huyện sẽ có 80% số xã về đích NTM".

Đó là khẳng định của

đồng chí Nguyễn Hồng Linh

- Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ

tịch UBND huyện, Trưởng

Ban Chỉ đạo Xây dựng NTM

huyện Chư Sê (tỉnh Gia Lai).

Từ năm 2011, huyện Chư Sê

bắt tay vào thực hiện Chương

trình mục tiêu Quốc gia xây

dựng NTM. Kế hoạch của

Chương trình này là phấn đấu

đến năm 2015 sẽ có 4 xã đầu

tiên của huyện về đích NTM

Đến nay, tại các thôn xóm ở Chư Sê, bên cạnh sự đầu tư của Nhà nước,

người dân địa phương còn đóng góp ngày công, tiền của và cả vườn

ruộng, cây trồng...., để cùng với xã làm đường giao thông nông thôn

Page 15: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 13 ~

và đến năm 2020 là 11/14 xã,

thị trấn cũng sẽ về đích. Tuy

nhiên, so với điều kiện thực

tế và yêu cầu để thực hiện

của địa phương, Chư Sê gặp

rất nhiều khó khăn nếu

không có các giải pháp đột

phá. Ngay từ đầu, Ban

Thường vụ Huyện ủy đã xác

định, yếu tố nội lực, sự quyết

tâm vào cuộc của hệ thống

chính trị và sự đồng thuận,

đóng góp của nhân dân có ý

nghĩa quyết định để Chư Sê

hoàn thành mục tiêu.

Nhận thức rõ yêu cầu,

thách thức đặt ra, từ tháng

10/2011, Huyện ủy Chư Sê

đã ban hành Chương trình

hành động để chỉ đạo, kêu

gọi các cấp, các ngành và

toàn dân cùng vào cuộc, tích

cực hưởng ứng Chương

trình mục tiêu xây dựng

NTM trên địa bàn. Từ tháng

5/2012, Huyện ủy cũng tiếp

tục ban hành Kế hoạch thực

hiện Quyết định số 196 của

UBND tỉnh Gia Lai về tổ

chức thực hiện phong trào

“Gia Lai chung sức xây

dựng nông thôn mới” để huy

động các nguồn lực từ xã hội

và nhân dân đóng góp cho

chương trình này.

Trong quá trình tổ chức

thực hiện, tại 14/14 xã của

huyện, các địa phương đã

thành lập Ban Chỉ đạo cấp

xã, thôn; nhiều lớp tập huấn, tuyên truyền về xây dựng NTM

được triển khai, giúp đội ngũ cán bộ xã, thôn và người dân nâng

cao nhận thức, triển khai có hiệu quả các mô hình liên quan đến

xây dựng NTM; các phong trào thi đua trong nhân dân được phát

động.., từ đó, ngày càng có nhiều tổ chức, doanh nghiệp và người

dân ủng hộ ngày công, tiền của, đất đai, hoa màu…, cho địa phương

để có thêm nguồn lực xây dựng NTM.

Theo đồng chí Nguyễn Hồng Linh, ngay trong năm đầu tiên bắt

tay vào xây dựng NTM (năm 2011), Chư Sê đã hoàn thành đồ án

quy hoạch và đề án xây dựng NTM để cấp có thẩm quyền phê duyệt,

sau đó công bố rộng rãi để nhân dân biết chủ động thực hiện.

Trên cơ sở các đồ án quy hoạch và đề án của từng xã, cấp ủy,

chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể ở các địa phương đã vào

cuộc khá tích cực, nhất là trong chỉ đạo, áp dụng, triển khai các

mô hình kinh tế có hiệu quả phù hợp với điều kiện của địa

phương; triển khai xây dựng các công trình hạ tầng thiết yếu như:

Đường, điện, trường, trạm, chợ…, phục vụ nhu cầu dân sinh,

đồng thời tạo điểm nhấn để đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa,

xã hội và nâng cao đời sống người dân trên địa bàn.

“Từ năm 2011 đến nay, tất cả 14/14 xã trong huyện đã hoàn

thành việc rà soát diện tích cây trồng tập trung để đưa cơ giới

vào sản xuất, xây dựng các cách đồng mẫu lớn; đồng thời phát

huy, nhân rộng các mô hình trồng trọt, chăn nuôi có hiệu quả,

từng bước mở rộng diện tích canh tác, phát triển mạnh theo

hướng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp chế biến,

tạo được nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao như: Hồ tiêu,

Tại các cánh đồng ở Chư Sê, trong mùa khô vừa qua, các con kênh bê tông

do người dân và chính quyền xã xây dựng đã Mang đến những dòng nước

"giải khát", giúp cây trồng vượt qua nắng hạn

Page 16: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 14 ~

cà phê, ngô, sắn, bông vải…,

mang thương hiệu Chư Sê” -

đồng chí Nguyễn Hồng Linh

- Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ

tịch UBND, Trưởng Ban

Chỉ đạo Xây dựng NTM

huyện Chư Sê chia sẻ.

Theo Phòng Nông nghiệp

và Phát triển Nông thôn

huyện Chư Sê, đến nay, toàn

huyện có trên 2.496ha hồ

tiêu gắn với 2 nhà máy chế

biến cung cấp nguyên liệu

hồ tiêu thành phẩm trên địa

bàn với công suất sản xuất

10.000 tấn sản phẩm/năm;

hơn 8.000ha cà phê, đủ cung

cấp nguyên liệu cho 21 cơ sở

chế biến cà phê bột và cà phê

nhân của huyện và tỉnh; hơn

2.150ha ngô, sản lượng đạt

hơn 11.000 tấn/năm, là

nguồn nguyên liệu cung cấp

cho các nhà máy chế biến

thức ăn chăn nuôi trong tỉnh

và một số tỉnh thuộc Tây

Nguyên; gần 950ha sắn là

nguồn nguyên liệu ổn định

hằng năm cung cấp cho nhà

máy sản xuất tinh bột sắn của

tỉnh; hơn 100ha bông vải đủ

công cấp nhiên liệu bông cho

nhà máy bông của huyện.

Trong khi đó, đàn gia súc

trên địa bàn huyện cũng

ngày càng phát triển; nhất là

đàn bò với hơn 18.800 con

(trong đó có 01 trang trại có

tổng đàn hơn 2.000 con, tỷ lệ

bò lai hơn 22%), đàn lợn hơn 40.000 con (có 03 trang trại nuôi

quy mô lớn từ 50 đến 200 lợn nái/trang trại, tỷ lệ lai hơn 60%) là

nguồn nguyên liệu thịt và giống gia súc lớn để đáp ứng nhu cầu

thị trường tại huyện và tỉnh Gia Lai mấy năm trở lại đây.

Đặc biệt, trong 5 năm qua, Chư Sê đã xây dựng được 77 mô

hình phát triển sản xuất có hiệu quả, trong đó tập trung chủ yếu là

trồng trọt và chăn nuôi. Các mô hình sản xuất hiệu quả này đang

được các địa phương tiếp tục nhân rộng, như: Mô hình sản xuất cà

phê bền vững, mô hình trồng hồ tiêu sạch cho thu nhập bình quân

từ 100 đến 140 triệu đồng/hộ/năm, góp phần tăng thu nhập bình

quân đầu người ở khu vực nông thôn của huyện theo từng năm.

Cụ thể năm 2011 là 8,97 triệu đồng/người/năm, đến năm 2015

tăng lên 18,6 triệu đồng/người/năm (tăng gấp đôi).

Tại địa bàn huyện, hiện có 1 hợp tác xã nông nghiệp với 9 tổ

hợp tác tại 9 xã của huyện; 3 tổ hợp tác đánh bắt cá tại xã Ayun,

01 tổ hợp tác sản xuất cà phê tại xã Chư Pơng và các hộ dân là

thành viên tham gia sản xuất cà phê thuộc Công ty cà phê tỉnh.

Ngoài ra, Hiệp hội hồ tiêu Chư Sê là nơi cung cấp các dịch vụ hỗ

trợ kỹ thuật và hướng dẫn các hộ dân sản xuất hồ tiêu đảm bảo

đúng quy trình về hồ tiêu an toàn. Bên cạnh các mô hình sản xuất

trên, theo Ban Chỉ đạo Xây dựng NTM huyện Chư Sê, trong 5

năm qua (2011 - 2015), Chương trình xây dựng NTM trên địa

bàn huyện đã lồng ghép, tổ chức được 58 lớp đào tạo nghề cho

hơn 1.740 lao động nông thôn của huyện; 145 lớp chuyển giao

khoa học - kỹ thuật nông nghiệp cho hơn 5.300 lượt nông dân

tham gia; 02 lớp tập huấn cho 250 lượt đại biểu là người có uy

tín trong đồng bào dân tộc thiểu số của huyện để phổ biến một

số nội dung, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về

Từ phong trào xây dựng NTM, tại nhiều xã trạm y tế được nâng cấp, xây

mới,làm tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân địa phương

Page 17: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 15 ~

công tác dân tộc, công tác phát

triển kinh tế - xã hội vùng

đồng bào dân tộc, miền núi.

Để đảm bảo nguồn lực

phát triển cho các mô hình

sản xuất kể trên, trong 5 năm

qua, huyện Chư Sê đã huy

động nhiều nguồn vốn đầu

tư từ Trung ương, tỉnh và địa

phương hơn 1.782 tỷ 021

triệu đồng; trong đó vốn trực

tiếp Chương trình mục tiêu

quốc gia xây dựng NTM là

2.170 triệu đồng, vốn lồng

ghép các chương trình có liên

quan 36.040,8 triệu đồng, vốn

nhân dân vay tín dụng để đầu

tư phát triển sản xuất 1.738 tỷ

178,13 triệu đồng, vốn do

doanh nghiệp đóng góp 1.720

triệu đồng, vốn nhân dân đối

ứng 842,6 triệu đồng...

Từ các nguồn vốn đầu tư

trên, đến nay, Chư Sê đã làm

mới, cải tạo và nâng cấp gần

200km đường giao thông

nông thôn; xây dựng mới và

nâng cấp 15 công trình thủy

lợi; kiên cố hóa 43,94km

kênh mương; làm mới và

nâng cấp trên 31km đường

dây điện trung thế và hạ thế;

nâng cấp, xây mới 199 phòng

học các cấp, 18 nhà văn hóa

xã và thôn, làng; xây dựng,

cải tạo, nâng cấp 4 chợ; xây mới 15 công trình cấp nước sinh hoạt,

3 trụ sở làm việc của xã; xóa 1.365 nhà tạm cho các hộ thuộc diện

nghèo và gia đình chính sách.

Tuy nhiên, theo đồng chí Nguyễn Hồng Linh, mặc dù có nhiều

nỗ lực trong thời gian qua, song trên địa bàn huyện, việc xây

dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là tại các xã (thuộc vùng I,

khu vùng II, vùng III) chưa đồng bộ và chưa đồng đều. Đặc biệt,

ở các xã vùng III có tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng khá chậm

do điều kiện kinh tế của nhân dân còn thấp, việc đóng góp đối ứng

và nguồn lực đầu tư còn hạn chế.

Ngoài những nỗ lực phát triển kinh tế - xã hội, hạ tầng trên

địa bàn, hoạt động của hệ thống chính trị tại Chư Sê mấy năm

gần đây có nhiều chuyển biến đáng kể. Trong đó, các tổ chức cơ

sở đảng trên địa bàn đã được nâng cao chất lượng, đổi mới nội

dung, phương thức hoạt động, từ đó không ngừng nâng cao vai

trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa

phương. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ từ huyện đến xã luôn được kiện

toàn, trưởng thành về nhiều mặt. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ ở cơ sở đạt chuẩn được quan tâm hơn. Hoạt động của Đảng,

chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể luôn có sự phối hợp chặt

chẽ và hiệu quả, được nhân dân tin tưởng. Đây cũng là cơ sở, nền

tảng để Chư Sê làm tốt công tác dân vận, xây dựng các phong trào

bảo vệ an ninh, trật tự tại địa phương khá tốt…

Với những nỗ lực trên, đến cuối năm 2015, Ban Chỉ đạo xây

dựng nông thôn mới toàn huyện Chư Sê đã lập hồ sơ đề nghị tỉnh

công nhận 4 xã đạt chuẩn NTM. Ngoài ra, căn cứ vào các tiêu

chí của Bộ tiêu chí Xây dựng NTM do Bộ NN&PTNT đưa ra,

đến nay, Chư Sê có 14/14 xã đạt tiêu chí nhóm I (quy hoạch);

4/14 xã đạt tiêu chí nhóm II (phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội);

04/14 xã đạt tiêu chí nhóm III (kinh tế, tổ chức sản xuất); 04/14

xã đạt tiêu chí nhóm IV (văn hóa, xã hội, môi trường); 8/14 xã

đạt tiêu chí nhóm V (hệ thống chính trị)./.

Bài, ảnh: Đình Tăng

http://dangcongsan.vn

Trang điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam

Page 18: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Văn hóa Nông thôn mới

~ 16 ~

Nông thôn mới không phải là… bảng hiệu Báo chí vừa qua tỏ ra lo

ngại khi các địa phương xây

dựng nông thôn mới (NTM)

đang bị đè nặng bởi món nợ

14.000 tỷ đồng, chủ yếu là nợ

xây dựng cơ bản...

Đây là số nợ do chính quyền

các cấp quá sốt sắng hoàn thành

chỉ tiêu xây dựng NTM mà đã

bạo tay đi vay mượn, nó rồi sẽ

quy về đâu? Hay rồi được “bổ

sung” vào nợ công quốc gia?

Con số 14.000 tỷ là không lớn đối với một chương trình

quốc gia có quy mô và tầm cỡ như xây dựng NTM nhưng liệu

rằng mắc nợ để xây dựng NTM thì có đáng? Khắp nơi hô hào

phát động chương trình này nhưng hiệu quả và thực chất của

nó vẫn là vấn đề cần bàn.

Phát biểu trong một hội nghị, TS Trần Đình Thiên - Viện

trưởng Viện Kinh tế Việt Nam đã phải nói rằng: “Không thể

có NTM nếu chỉ xây một cái cổng làng, rồi dựng hai con chó

đá ở hai bên là xong được, mà phải là người dân được cái gì

từ chương trình này”.

Tính hiệu quả là vấn đề cần được đặt lên hàng đầu chứ

không phải chạy theo các tiêu chí “phần trăm” trên giấy, đưa

ra các giới hạn thời gian về việc hoàn thành các tiêu chí vô hình

tạo áp lực buộc phải đạt được khiến không ít địa phương “lỏng

tay” trong việc bình xét các tiêu chí, không ít trường hợp đánh

giá qua loa, hời hợt.

Điển hình như việc xây cổng, nhà văn hóa thôn, ấp tốn hàng

tỷ đồng để được công nhận đạt các tiêu chí về văn hóa trong

khi tỷ lệ hộ nghèo còn cao chót vót, đời sống thực tế của người

dân còn quá khó khăn là điều không hợp lý.

Nghịch lý hơn, trụ sở văn hóa thôn ấp được đầu tư xây tiền

tỷ nhưng rất nhiều nơi chỉ đóng cửa bỏ hoang, họa hoằn lắm

mỗi tháng chỉ họp hành một lần. Lãng phí này không đáng có

và “động cơ” phê duyệt các công trình thiếu hiệu quả này cần

được minh bạch, công khai.

Cần xác định mục tiêu đầu tư

xây dựng các công trình liên

quan trực tiếp đến đời sống

người dân, như y tế, giáo dục, hỗ

trợ khởi nghiệp, giải quyết các

vấn đề nhức nhối về môi trường

và an toàn vệ sinh thực phẩm…

Nói cách khác phải sử dụng

đồng tiền hiệu quả hơn chứ

không nên “vung tay quá trán”

để chạy theo thành tích được

“gắn bảng” NTM trong khi nợ

ngập đầu!

Nếu không có biện pháp

chấn chỉnh rồi đây chắc chắn số

nợ đọng sẽ không dừng lại ở

con số 14.000 tỷ, trong bối cảnh

bội chi ngân sách và khó khăn

kinh tế hiện nay phải chi tiêu tiết

kiệm chứ không nên lấy hình

thức trụ sở hoành tráng, cổng

chào tiền tỷ làm thước đo.

Cơ sở hạ tầng luôn là nền

tảng và quyết định kiến trúc

thượng tầng, quy luật vốn có là

phải xây dựng nền tảng kinh tế

Page 19: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 17 ~

vững mạnh, lấy kinh tế là đòn bẩy và sau đó các thiết chế về

văn hóa sẽ hình thành trên nền tảng đó, nhưng hiện nay nhiều

địa phương “nhà nghèo chơi sang” làm ngược lại với quy luật

khách quan.

Lo ngại trước việc nợ đọng xây dựng cơ bản không có khả

năng thanh toán, Tổng Thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc băn

khoăn, hiện nợ đọng xây dựng cơ bản tại các địa phương quá

nhiều, trong khi đó khả năng trả nợ không có. Lo nhất lại chuyển

đổi mục đích sử dụng, bán đất nông nghiệp trả nợ. Không khéo

được cái này thì mất cái kia.

Mục tiêu cuối cùng và tối thượng của NTM là người dân

thoát nghèo, được sống trong một môi trường văn hóa lành

mạnh, được hưởng các dịch vụ y tế, giáo dục tiên tiến và tất cả

những dịch vụ đó được xây

dựng và hình thành trên nền

tảng kinh tế chứ không phải là

cái gì khác.

Người dân không thể nhìn

trụ sở hoành tráng, cổng chào

tiền tỷ mà hết đói hết khổ và

NTM cần thực chất chứ không

phải là cái bảng hiệu gắn trên

mọi con đường.

Ths Trương Khắc Trà

http://nongnghiep.vn

Nông Nghiệp Việt Nam

Một số biện pháp sản xuất rau màu vụ hè, hè thu năm 2016 Ngày 07/06/2016

Sản xuất cây rau màu vụ hè, hè thu trong điều kiện sinh thái, khí hậu của miền Bắc thời

tiết nắng nóng, mưa nhiều, mặt khác gieo trồng cây vụ hè, vụ hè thu diễn ra đồng thời với

thu hoạch lúa đông xuân và gieo cấy lúa mùa. Vì vậy trồng cây vụ hè, hè thu cần chuẩn bị tốt

các điều kiện để sản xuất, thực hiện kỹ thuật thâm canh.

Vụ đông xuân năm 2016 chịu ảnh hưởng

lớn của biến đổi khí hậu, tháng 5 bước vào hè

mà thời tiết mát mẻ như mùa thu, thời tiết

muộn lại khoảng 1 tháng, lúa và rau màu kéo

dài thời gian sinh trưởng, cây ăn quả ra hoa,

kết quả muộn.

Quỹ thời gian từ thu hoạch lúa đông xuân

đến trồng cây vụ đông sớm ngắn nên các địa

phương có cơ hội đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu

cây trồng, cơ cấu mùa vụ, trồng cây rau màu

vụ hè, tạo điều kiện mở rộng diện tích cây vụ

đông sớm, nhóm cây ưa nhiệt sẽ cho năng suất

Page 20: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 18 ~

và hiệu quả kinh tế cao. Việc bố trí sản xuất vụ

hè, vụ hè thu là vụ trung gian giữa vụ đông

xuân với vụ đông có ý nghĩa quan trọng trong

công thức luân canh của năm.

Theo nhận định của Trung tâm Khí tượng

thủy văn Quốc gia về thời tiết vụ mùa năm

2016: Bão và áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng trực

tiếp vào nước ta tập trung vào những tháng

cuối năm (từ tháng 8 – 11), nắng nóng ở Bắc

Bộ vụ hè không gay gắt như năm 2015, lượng

mưa vụ hè, hè thu cao hơn so với trung bình

nhiều năm.

Sản xuất cây rau màu vụ hè, hè thu trong điều

kiện sinh thái, khí hậu của miền Bắc thời tiết

nắng nóng, mưa nhiều, mặt khác gieo trồng cây

vụ hè, vụ hè thu diễn ra đồng thời với thu hoạch

lúa đông xuân và gieo cấy lúa mùa.

Vì vậy trồng cây vụ hè, hè thu cần chuẩn bị

tốt các điều kiện để sản xuất, thực hiện kỹ thuật

thâm canh. Sau đây xin giới thiệu kinh nghiệm

của nông dân vùng trồng rau màu tập trung với

sản lượng hàng hóa lớn ở huyện Gia Lộc (Hải

Dương) như sau:

1. Quy hoạch vùng sản xuất tập trung

Lựa chọn vùng có cao trình ruộng đất cao,

vàn cao, đất nhẹ, dễ làm, có hệ thống thủy lợi

tưới tiêu thuận lợi, quy mô vùng hợp lý, tối

thiểu 3ha trở lên, có sản phẩm chính như: vùng

dưa lê, vùng dưa hấu, vùng bắp cải, vùng cải

dưa… để tạo ra một khối lượng nông sản hàng

hóa lớn, phát triển các cơ sở thu mua và tiêu

thụ sản phẩm.

Mở rộng quy mô sản xuất của hộ, các doanh

nghiệp với các hình thức thuê, thầu, mượn

ruộng, áp dụng cơ giới hóa vào sản xuất để hạ

giá thành, nâng cao lợi nhuận.

2. Xây dựng các công thức luân canh, mô

hình trồng giống mới, kỹ thuật canh tác mới

Xây dựng công thức luân canh khoa học,

một thửa ruộng, một vùng không trồng một

loại cây trồng nhiều lần, không trồng cây cùng

họ trên cùng một ruộng để giảm sâu bệnh hại

cây trồng. Luân canh giữa cây trồng nước với

cây trồng cạn, luân canh giữa cây họ đậu với

các cây trồng khác để cải tạo đất.

Ví dụ công thức luân canh như sau:

Lúa xuân – Dưa hấu, dưa lê hè – Bắp cải

thu đông.

Dưa xuân – Cây họ đậu – Cây vụ đông

Lúa xuân – Cà pháo – Su hào – Cây vụ đông

khác

Bầu hoặc Bí xuân – Cải dưa – Ngô nếp, Ngô

ngọt, Ngô giống – Rau vụ đông

Cà chua xuân – Rau cải – Lúa mùa – Rau

vụ đông ...

Các giống rau màu mới trong và ngoài nước

ngày càng nhiều, các tiến bộ về phân bón, kỹ

thuật canh tác mới… Cần xây dựng các mô hình

trình diễn với quy mô từ nhỏ đến vừa để nông

dân tham quan, học hỏi các tiến bộ khoa học kỹ

thuật và ứng dụng vào sản xuất.

3. Thời vụ và các giải pháp tranh thủ thời vụ

a. Thời vụ

Địa phương, hộ có trình độ thâm canh, phát

triển các cây rau màu trái vụ, lệch vụ thì sản

xuất khó khăn, chi phí sản xuất cao nhưng giá

trị sản phẩm cao, thị trường tiêu thụ thuận lợi,

đa số các hộ có thu nhập cao như: trồng cần

tây, tỏi tây, cà chua thu đông, dưa lê chất lượng

cao, bí xanh... Các loại rau màu này trồng từ

tháng 5 đến tháng 8.

Căn cứ vào điều kiện tiểu khí hậu của địa

phương để bố trí thời vụ các cây trồng để hạn

chế thiệt hại do mưa lớn gây ra.

b. Các giải pháp tranh thủ thời vụ

* Chuẩn bị tốt các điều kiện cho sản xuất như:

ủ phân chuồng, làm đất bột, các nông cụ...

* Làm bầu ươm cây giống: kích thước bầu

to để tuổi cây giống trong bầu dài hơn so với

vụ hè, vụ hè thu các năm trước.

Page 21: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 19 ~

* Trồng rau màu xen lúa (rau màu luồn lúa)

hoặc thu hoạch một phần diện tích lúa chín 85

- 90% để làm rạch gieo hạt hoặc đặt bầu cây

rau màu.

* Làm đất tối thiểu.

4. Lựa chọn giống

Bên cạnh một bộ phận nhỏ các giống rau

truyền thống, sử dụng nhiều các giống lai F1

có thời gian sinh trưởng ngắn, chịu nóng tốt,

chịu mưa, chống chịu sâu bệnh tốt, có chất

lượng, sản phẩm đáp ứng với nhu cầu thị

trường, phù hợp với trình độ canh tác và điều

kiện đất đai của địa phương.

Các hộ có trình độ canh tác trung bình trồng

các loại rau màu dễ làm, không yêu cầu kỹ thuật

cao, như dưa lê trồng an toàn hơn so với dưa hấu

(mất đợt hoa này còn đợt hoa khác).

Các hộ có trình độ thâm canh cao, có nguồn

vốn đầu tư nên trồng rau màu giống mới, cây

cho giá trị kinh tế cao, áp dụng các biện pháp

kỹ thuật canh tác mới như: sử dụng màng phủ

nông nghiệp, kỹ thuật bắc giàn cải tiến...

5. Kỹ thuật làm đất

Đối với ruộng trồng màu nhiều vụ cần xử lý

đất: Nên để đất nghỉ tối thiểu 15 ngày, cày bừa

ngả ruộng, rắc 20 - 30kg vôi bột/sào Bắc Bộ bừa

đan 1 - 2 lần rồi rắc 2kg đồng sunphat, bừa tiếp,

để ruộng ngập nước ít nhất 10 ngày nhằm diệt

giun, dế, tuyến trùng, côn trùng và các nấm bệnh,

tàn dư thực vật được phân hủy. Đồng thời cung

cấp nguyên tố trung (Canxi) và vi lượng (Đồng)

cho cây trồng.

Căn cứ vào thành phần cơ giới của đất. Đối

với đất có thành phần cơ giới nhẹ đất dễ bị trăng

lì, gí nên làm đất khi đất còn hơi ướt, không làm

kỹ để khi gặp mưa hoặc đưa nước vào ruộng đất

trong luống vẫn thông thoáng, rễ cây hô hấp tốt,

cây sinh trưởng phát triển tốt.

Đối với đất thịt nặng thì cần làm đất kỹ,

nhỏ, tơi.

Căn cứ vào đặc điểm hệ rễ của cây trồng mà

có kỹ thuật làm đất phù hợp. Đối với cây có hệ

rễ chùm, ăn nông thì làm đất kỹ hơn nhưng bảo

đảm độ thoáng như các cây họ đậu. Đối với cây

có bộ rễ khỏe, phát triển mạnh, ăn sâu, rộng thì

không làm đất kỹ, lật đất đến tầng đế cày, có thể

chỉ làm đất ở phần đặt bầu và làm rãnh thoát

nước như: Bí xanh, Ngô.

Đối với cây chịu nước kém phải lên luống

cao, làm luống mui rùa, làm rãnh thoát nước

tốt. Các cây trồng ưa ẩm, rễ phát triển trong

nước được như: Bí xanh, Dưa chuột…, chỉ cần

gốc cao khi mưa to không bị ngập gốc, không

cần làm rãnh sâu và rãnh thoát nước xung

quanh ruộng.

Trồng cây vụ hè trên đất lúa: rút nước trước

khi thu hoạch lúa khoảng 15 ngày. Nếu gặp mưa

nhiều, tranh thủ thời vụ cày lật đất, xếp luống,

vằm xới mặt luống, trồng ngay trong khi mưa.

6. Làm giàn và che phủ để bảo vệ cây trồng

Sử dụng màng phủ nông nghiệp phủ mặt

luống, đặt mặt bạc lên trên để giữ ẩm tốt, hạn

chế rửa trôi phân bón, cỏ dại và sâu bệnh.

a. Sử dụng khum tre hoặc sắt kết hợp nilon

trắng hoặc vải trắng để bảo vệ rau màu khi

mưa lớn. Khi trời không mưa, nắng nhẹ thì mở

nilon, vải bằng cách buộc túm vải, nilon vào

giữa khum.

Đối với Dưa lê, Dưa hấu, Dưa lê chất

lượng: Vừa phủ màng nilon mặt luống và làm

khum vòm vải hoặc nilon trắng che phủ chống

mưa to, nắng gắt.

b. Đối với cây họ Bầu bí, Cà chua, Ớt, Đậu

đũa: Làm giàn chắc chắn bằng dóc, tre hoặc

kết hợp với lưới cước. Để giảm chi phí, giảm

công lao động, hạn chế bệnh hại, nâng cao

năng suất và chất lượng sản phẩm.

7. Bón phân, điều tiết nước

Vụ hè, hè thu mưa nhiều, nhiệt độ cao yêu

cầu bón phân chuồng, phân vô cơ, phân NPK

Page 22: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 20 ~

phải bón sâu để hạn chế phân bón bị rửa trôi, bay

hơi. Tăng lượng phân chuồng, phân lân và kali.

Chú ý: Khi bón phân lót, nhất là phân đạm

và kali cần bón sâu và xa gốc cây để hạn chế

cây chết do xót phân khi gặp mưa to hoặc đưa

nước vào ruộng sau trồng.

Đối với diện tích vụ trước đã bón phân vi

sinh thì lượng phân bón cần đầu tư cao hơn

khoảng 20% vì hàm lượng chất dinh dưỡng

trong đất đã giảm do cây trồng vụ trước đã khai

thác được các phân bón bị keo đất giữ nhờ có vi

sinh vật phân giải thành các chất dễ tiêu.

Các cây rau màu phần lớn là các cây trồng

cạn, thường xuyên điều tiết nước bảo đảm đủ

ẩm, tiêu thoát nước tốt sau mưa lớn, thực hiện

tưới rãnh là chính, hạn chế tưới nước mặt luống

để giảm sự phát sinh gây hại của nấm bệnh.

Đưa nước vào ruộng sau 3 – 4 giờ rồi tháo cạn,

đối với một số cây trồng như: bí xanh, mướp, Dưa

chuột…, có thể để mực nước nông trong rãnh.

8. Phòng trừ sâu bệnh

Vụ hè, hè thu, sâu bệnh phát sinh gây hại

rau màu nhiều, cần thực hiện biện pháp phòng

trừ tổng hợp, khi phun thuốc BVTV thực hiện

theo nguyên tắc 4 đúng, sử dụng thuốc BVTV

trong danh mục thuốc được phép sử dụng của

Bộ Nông nghiệp và PTNT, tăng cường sử dụng

thuốc sinh học, thuốc thảo mộc, bảo đảm thời

gian cách ly khi thu hoạch sản phẩm để bảo

đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo đảm sức

khỏe người tiêu dùng.

Bùi Văn Viện

http://www.khuyennongvn.gov.vn/

Nguồn khuyennongvn.gov.vn

Rau sạch theo công nghệ Israel là cực kỳ an toàn? Không hẳn Người Israel ăn rau quả được tưới bằng

nước thải tái chế đang gia tăng sự phơi

nhiễm với chất có trong thuốc động kinh.

Chúng ta đều biết rằng Israel có một nền

nông nghiệp phát triển ở trình độ cao. Rất

nhiều công nghệ và quy trình hiện đại được đất

nước này áp dụng trong trồng trọt để khắc phục

sự bất lợi về điều kiện canh tác, điển hình là

thiếu nước ngọt.

Tuy nhiên, một trong số những công nghệ

này đang bộc lộ sự mất an toàn. Cụ thể, tình

trạng khan hiếm nước ngọt đang khiến Israel

tăng cường sử dụng nước thải tái chế để tưới

cho cây trồng. Đồng thời, điều này cũng gia

tăng sự phơi nhiễm hóa chất trong thực

phẩm của họ.

Mới đây, một nhóm nghiên cứu đa ngành

đến từ Đại học Hebrew và Trung tâm Y tế

Hadassah của Israel đã phát hiện: Người ăn rau

quả trồng trong đất tưới bằng nước thải tái chế

bị phơi nhiễm với một chất hóa học có tên

carbamazepine. Hợp chất này có nguồn gốc từ

một loại thuốc chống động kinh, và xuất hiện

nhiều trong nước thải.

Công nghệ tưới nhỏ giọt nổi tiếng của nông nghiệp

Israel.

Page 23: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 21 ~

"Israel là quốc gia tiên phong trên thế

giới sử dụng nước thải thu hồi và tái chế trong

lĩnh vực nông nghiệp", giáo sư Benny Chefetz

của Khoa Nông nghiệp và thực phẩm môi

trường, Đại học Habrew cho biết. Vì vậy, sẽ là

cần thiết để thực hiện các nghiên cứu đánh giá

sức khỏe của người tiêu thụ sản phẩm nông

nghiệp sử dụng nước thải tái chế có bị ảnh

hưởng. Công trình của giáo sư Chefetz là

nghiên cứu đầu tiên hướng đến mục đích cụ thể

này.

"Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, chúng

tôi đã chứng minh rằng những người khỏe

mạnh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp tưới bằng

nước thải tái chế có sự xuất hiện của

carbamazepine và các chất chuyển hóa trong

nước tiểu. Trong khi đó, người ăn rau quả tưới

bằng nước sạch hầu như không phát hiện mức

độ carbamazepine", giáo sư Ora Paltiel, hiệu

trưởng Trường Y tế động đồng thuộc Đại học

Hebrew nói.

Nghiên cứu theo dõi 34 người cả nam và nữ,

được chia làm 2 nhóm. Nhóm đầu tiên được

định hướng tiêu thụ rau quả tưới bằng nước

thải tái chế trong 1 tuần, sau đó chuyển sang

sản phẩm tưới bằng nước sạch. Nhóm thứ 2

thực hiện theo thứ tự ngược lại.

Các tình nguyện viên tiêu thụ các sản phẩm

nông nghiệp gồm: Cà chua, Dưa chuột, Ớt và

Rau diếp. Ngoài ra, họ ăn theo một chế độ bình

thường và uống nước đóng chai được đồng bộ

hóa suốt thời gian nghiên cứu.

Các nhà khoa học thực hiện đo nồng độ

carbamazepine trong sản phẩm tươi đầu vào và

trong nước tiểu của tình nguyện viên sau khi

tiêu thụ chúng. Thời điểm ban đầu trước khi ăn

rau quả tưới bằng nước thải tái chế,

carbamazepine không được phát hiện, hoặc

nếu có đều ở nồng độ rất thấp. Sau 7 ngày,

những người ở nhóm thứ nhất đã phát hiện

mức định lượng rõ ràng của carbamazepine,

nhóm thứ 2 không có sự thay đổi.

Sản phẩm nông nghiệp sử dụng nước thải

tái chế cũng trưng bày một mức độ

carbamazepine cao hơn đáng kể so với sử dụng

nước sạch, giáo sư Paltiel nói. "Rõ ràng những

người tiêu thụ sản phẩm trên đất được tưới bằng

nước thải tái chế đang gia tăng sự phơi nhiễm

với chất có trong thuốc động kinh này. Mặc dù

mức độ phát hiện của nó thấp hơn nhiều so với

bệnh nhân sử dụng thuốc thực sự".

Thêm vào kết luận, giáo sư Chefetz cho

biết: "Đây là bằng chứng cho ý tưởng người

tiêu dùng đang phơi nhiễm với các hợp chất

trong dược phẩm thông qua tiêu hóa sản phẩm

nông nghiệp thương mại". Dữ liệu cung cấp

trong nghiên cứu có thể giúp các nhà hoạch

định chính sách đánh giá mức độ rủi ro cho vấn

đề này. Trong tương lai, nhiều nghiên cứu

tương tự cũng sẽ phải được thực hiện.

http://ttvn.vn

Theo Tri Thức trẻ

Ý tưởng của nghiên cứu được trình bày trong báo cáo

Page 24: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 22 ~

Kỹ thuật trồng nấm rơm trong nhà hiệu quả cao Ngày 06/01/2016

Vài năm gần đây, nhiều hộ nông dân

ĐBSCL quyết định chuyển từ hình thức trồng

nấm rơm ngoài trời sang trồng trong nhà. Bởi

cách làm này có nhiều lợi thế về năng suất và

ưu điểm hơn.

Ông Nguyễn Thanh Tùng ở ấp Trung Bình

Nhì, xã Vĩnh Trạch, huyện Thoại Sơn (An

Giang) cho biết: “Trước đây, kinh tế gia đình

chủ yếu dựa vào SX lúa giống. Cách nay hơn

1 năm, tôi được Trạm Khuyến nông huyện

Thoại Sơn tập huấn kỹ thuật và hỗ trợ 30%

kinh phí để thực hiện thí điểm mô hình trồng

nấm trong nhà, thấy hiệu quả nên tôi tiếp tục

SX đến giờ”.

Để trồng nấm rơm trong nhà phải trải qua

nhiều công đoạn từ thiết kế kệ để, ủ rơm, đảo

rơm, hệ thống phun tưới… Đang thu hoạch

nấm rơm trong trại, ông Tùng nói: “Trại trồng

nấm tốt nhất là được lợp bằng lá, xung quanh

che chắn bằng bạt, giàn trồng nấm được làm

bằng tre, mỗi giàn có 3 kệ, khoảng cách mỗi kệ

cách nhau 50cm, bề rộng 80cm.

Trồng nấm rơm trong nhà có nhiều ưu điểm

hơn trồng ngoài trời, có thể điều chỉnh nhiệt

độ bằng cách tưới nước trên nền sàn và lớp vải

bạt được che chắn xung quanh. Còn nếu nhiệt

độ lạnh thì mở tấm mê ca trên nóc trại và bạt

xung quanh để cho ánh nắng vào. Đối với nấm

rơm nhiệt độ thích hợp nhất là 30 – 35 độ C, ẩm

độ 80 – 90%. Vào ban đêm trời lạnh thì sử dụng

đèn tròn loại 70W để sưởi ấm”.

Ngoài việc SX theo mô hình trồng nấm

trong nhà, ông Tùng còn chọn hướng canh tác

theo những thời điểm nấm có giá trong năm

để tăng lợi nhuận. “Trồng nấm trong nhà

năng suất cao nhất là vụ đông xuân vì rơm

chất lượng, thời tiết và độ ẩm thích hợp cho

nấm phát triển. Các tháng giêng, tháng 7, 10,

dịp Tết giá nấm từ 80.000 – 100.000 đ/kg nên

tôi chọn vào thời điểm này SX với số lượng

nhiều, các tháng còn lại SX nhỏ lẻ”, ông chia sẻ.

Mặc dù, trồng nấm trong nhà chi phí cao

hơn so với trồng nấm ngoài trời, nhưng năng

suất nấm luôn đứng ở mức cao và ổn định. Vẫn

có thể dự trữ rơm để làm cả mùa nắng, lẫn mùa

mưa. Trời lạnh thì các hộ trồng nấm làm mô rộng

và cao 38cm, còn khi nóng thì 30cm. Theo ước

tính, chi phí mua rơm, vận chuyển, meo, phân

bón, công lao động…, từ 400.000 – 500.000

đồng/công rơm, trừ chi phí cho lợi nhuận 1,5 – 2

triệu đồng/công (chưa tính tiền cất trại).

Trước đây, kinh tế gia đình chủ yếu là làm

lúa giống, ngoài ra ông Tùng còn được thử

nghiệm trồng nấm bào ngư, nấm rơm, nấm

mèo. Nhưng thấy nấm rơm cho hiệu quả hơn

nên chọn nấm rơm.

Sau khi thu hoạch xong nấm, phần rơm rạ

được ông Tùng sử dụng nấm Trichoderma ủ

cho oai mục sau đó dùng để bón cho lúa, phần

còn dư thì bán cho các hộ trồng hoa kiểng để

tăng thu nhập.

Theo ông Tùng, trồng nấm trong nhà nên

xây dựng nền bằng xi măng để sau mỗi vụ thu

hoạch dễ dàng vệ sinh, khử trùng cũng như

trong quá trình canh tác tưới nước, giữ ẩm mà

không bị bùn lầy. Lợp lá thì độ ẩm trong trại

ổn định, nhưng sau mỗi vụ thu hoạch cần tóc

nóc làm vệ sinh.

Mô hình trồng nấm rơm trong nhà đang mang lại

hiệu quả cao.

Page 25: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 23 ~

Sạp bằng tre thì chất nấm được 1 – 2 năm.

Việc chất nấm trên sạp tre mô nấm rõ nước tốt

sẽ cho năng suất cao. Bình quân 1m mô tới cho

thu hoạch 1 – 1,5kg nấm. Mỗi công rơm cho

20 – 30kg.

Ngoài ra, trồng nấm trong nhà không phải

tốn chi phí rơm đậy (lớp rơm áo) và công thu

hoạch nhiều. Không sợ không cho nấm. Rơm

trong quá trình ủ thì cho vôi vào để khử đi các

loại mầm bệnh, vi khuẩn bất lợi, giúp cho rơm

mau vàng và mau chín. Bình quân 1kg vôi bột

cho 20 lít nước để ủ. Mỗi công rơm tưới

khoảng 3 – 4kg vôi.

Nói về việc ủ rơm, ông Tùng chia sẻ: “Rơm

vụ đông xuân thì từ khi ủ đến chất khoảng 15

ngày, còn vụ hè thu khoảng 10 – 12 ngày, cứ 6

ngày ủ là tiến hành đảo rơm, giúp cho rơm

chín đồng đều. Thường thì chất nấm vào những

tháng nắng nóng thì tưới nước 2 lần/ngày, ít

thì 1 lần. Còn những lúc lạnh thì cách nhau 3

– 4 ngày mới tưới nước. Sau khi chất nấm

khoảng 12 – 14 ngày thì tiến hành thu hoạch.

Nấm ra tập trung nên việc thu hái rất thuận lợi,

chọn hái những nấm to, hình trứng. Thu hoạch

xong đợt 1, tưới nước, chăm sóc cho nấm phát

triển đợt 2”.

Được biết, trước đây, kệ trồng nấm của gia

đình ông Tùng được thiết kế bằng tre, nhưng

bên dưới nền trải bằng lưới cước nên nấm chỗ

bị hư, chỗ không thu hoạch được. Cho nên mấy

vụ SX gần đây, kệ được đóng có khoảng cách

thưa ra để tiện thu hoạch.

Hướng tới đây, ông Tùng sẽ đầu tư hệ thống

phun sương và quạt hút để nâng cao hiệu quả của

việc trồng nấm trong nhà. Mỗi năm, với việc

trồng 150 công rơm trên nền 3 trại, bán với giá

60.000 – 100.000 đ/kg, với vòng quay 3 vụ/năm

sau khi trừ chi phí đem lại nguồn thu nhập trên

200 triệu đồng cho gia đình.

Bà Huỳnh Đào Nguyên, Phó GĐ Trung tâm

KN An Giang cho biết: nhờ trồng nấm rơm

trong nhà, nông dân chủ động được điều kiện

về nhiệt độ, ẩm độ, thị trường vào các thời

điểm dịp lễ tết. Mô hình này chủ yếu được SX

theo kiểu hộ gia đình. Toàn tỉnh hiện có 14 nhà

trồng, diện tích mỗi nhà trồng khoảng 18 –

24m2. Tùy lượng rơm có được hoặc dự trữ, mỗi

năm có thể SX ít nhất 3 – 4 vụ/năm, năng suất

nấm rơm trồng trong nhà cao hơn trồng ngoài

trời khoảng 30%.

Một số kỹ thuật cần lưu ý khi trồng nấm

rơm trong nhà

Cách đây vài năm, phong trào trồng nấm

rơm phát triển khá mạnh ở nhiều địa phương

trong tỉnh, nhất là ở huyện Mộ Đức (với

khoảng hơn 100 hộ dân tham gia, chủ yếu ở

các xã Đức Nhuận, Đức Hòa và Đức Lân). Sau

một thời gian thực hiện, tuy có nhiều hộ thành

công đem lại lợi nhuận cao, nhưng cũng có

không ít hộ thất bại, phải bỏ nghề. Một trong

những nguyên nhân chính là do bà con thực

hiện yếu tố kỹ thuật chưa nghiêm túc.

“Trồng nấm rơm không tốn nhiều tiền đầu tư

nguyên liệu, nhanh thu hoạch, sản phẩm dễ tiêu

thụ, nhất là vào ngày rằm, mồng một. Tuy nhiên

để trồng nấm đạt năng suất cao và chất lượng

nấm tốt thì phải đảm bảo 3 yếu tố. Đó là xử lý

nguyên liệu trước khi cấy meo giống, chất lượng

giống và nhiệt độ trong nhà nấm, …” đó là kinh

nghiệm được đúc kết qua 6 năm làm nghề nấm

của ông Nguyễn Văn Bốn (ở thôn 2, Đức Nhuận).

Bắt đầu sản xuất từ năm 2002, trải qua

không ít lần thất bại, nhưng nhờ sự kiên trì,

chịu khó đúc rút kinh nghiệm, hiện nay vợ

chồng ông Bốn là những người sản xuất nấm

giỏi. Hiện tại gia đình ông có 5 nhà sản xuất nấm

(mỗi nhà khoảng 60m2), cung cấp nấm thường

xuyên cho thị trường (trung bình mỗi tháng

Page 26: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 24 ~

ông xuất bán khoảng 3 tạ nấm, với giá 35.000

đồng/kg). Ông cho biết: Ngày nào có bao nhiêu

nấm là ông bán hết bấy nhiêu, nhất là vào ngày

rằm, mồng một, nấm thường bán được giá cao

(khoảng 50.000 đồng/kg). Như vậy với giá

nấm dao động từ 35.000 – 50.000 đồng/kg,

hàng tháng ông thu 9-10 triệu đồng từ nấm.

Thành công trong nghề trồng nấm còn có

ông Dương Ngọc Sơn (ở thôn 2, Đức Nhuận).

Đến nay ông đã mở rộng diện tích trồng nấm

lên 1.000m2. Trung bình mỗi tháng ông hái 1,5

tạ nấm, thu về 5 - 6 triệu đồng. Ông Dương cho

biết: “Nghề nấm này không khó nhưng cũng

không dễ, người trồng phải thực hiện đúng

theo quy trình hướng dẫn, mới đạt kết quả. Nếu

không giữ nhiệt độ trong nhà nấm ổn định thì

nấm lên không như ý muốn hoặc bị hư hỏng.

Xử lý nguyên liệu không chu đáo là năng suất

sẽ thấp”. Theo kinh nghiệm của ông Sơn,

trong 5 ngày đầu để bánh rơm lên kệ không

được xê dịch, vì sẽ làm đứt tơ ảnh hưởng đến

năng suất. Nấm là loại mẫn cảm, không để

người lạ vào, dễ bị nhiễm bệnh. Ưu điểm của

nghề trồng nấm là sản xuất quanh năm (kể cả

mùa mưa) miễn làm sao phải đảm bảo được nhiệt

độ thích hợp, để nấm phát triển. Sản xuất nấm tại

nhà vừa tận dụng được phụ phẩm nông nghiệp,

vừa tận dụng được sức lao động nông nhàn.

Đó là hai trong số những hộ thực hiện thành

công mô hình này. Hiện tỉnh ta có khoảng 150

hộ sản xuất nấm đạt hiệu quả kinh tế cao và

đang tiếp tục mở rộng với quy mô lớn hơn (chủ

yếu là ở Nghĩa Hành và Mộ Đức). Tuy nhiên,

con số đó vẫn quá nhỏ so với con số khoảng

500 hộ được Trung tâm Khuyến nông tỉnh triển

khai thực hiện từ năm 2005 đến năm 2007 tại

các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Nghĩa Hành,

Mộ Đức. Nhưng đến nay nhiều hộ trong số này

đã bỏ nghề, vì trồng nấm không đạt, nấm

không phát triển, bị hư hỏng nặng.

Theo ông Hồ Sỹ Thận – cán bộ kỹ thuật

Trung tâm Khuyến nông tỉnh, thì nguyên nhân

thất bại là do, nhiều hộ dân chưa thực hiện

nghiêm túc các yêu cầu kỹ thuật trong các khâu

sản xuất nấm như không xử lý kỹ rơm, rạ trước

khi ủ, nên bị các loại nấm ký sinh cạnh tranh

dinh dưỡng, gây bệnh, làm cho nấm rơm không

phát triển và chết; không điều chỉnh được nhiệt

độ thích hợp trong các giai đoạn sinh trưởng

của nấm; chất lượng meo nấm không đảm bảo,

bị nhiễm nấm dại; khu vực sản xuất nấm không

được vệ sinh sạch sẽ, ẩm thấp,…

Mặc dù trồng nấm rơm không khó, nhưng

phải kỹ, vì nấm là giống rất ưa sạch. Do đó để

thành công thì yêu cầu trước hết là bà con cần

tuân thủ đầy đủ các khâu trong xử lý nguyên

liệu. Đây là khâu quan trọng, vì nó quyết định

năng suất và chất lượng nấm rơm. Trước khi ủ

phải xử lý rơm qua nước vôi theo hai cách:

Cách 1: Rơm rạ khô được làm ướt trong nước

vôi (3,5-4kg vôi hoà trong 1m3 nước) cho rơm

ngấm đủ nước vớt rơm lên để ráo rồi đánh đống.

Cách 2: Ngâm rơm rạ khô xuống ao, hồ,

mương,…, vớt lên bờ để ráo nước rồi ủ đống.

Trải lớp rơm rạ khô ra sân bãi, phun trực

tiếp bằng máy bơm hoặc ô doa trong nhiều giờ

đến khi rơm rạ đủ ướt sẽ có màu nâu sẫm, lấy

nước vôi tưới lên lần cuối, để rơm ráo rồi đem

ủ,… Ngoài ra, khâu chọn mẹo giống cũng có

ảnh hưởng lớn đến năng suất nấm. Chọn được

mẹo giống tốt, đúng tuổi, không nhiễm tạp

khuẩn, sẽ cho năng suất cao và chất lượng nấm

tốt. Chú ý khi chọn mẹo giống không chọn sử

dụng bịch mẹo có đốm màu nâu, đen, vàng

cam vì đã bị nhiễm nấm dại. Không chọn bịch

meo phía dưới đáy bịch bị ướt, bị nhão và có

mùi hôi chua,…

http://nong-dan.com

Page 27: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 25 ~

Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng hiệu quả cao Trong điều kiện diện tích đất đai đang bị thu hẹp ảnh hưởng đến việc chăn thả ngoài

đồng, nghề chăn nuôi bò theo hình thức nuôi nhốt là nghề nuôi phù hợp với nhiều địa

phương. Tuy nhiên để nghề chăn nuôi bò nhốt thực sự mạng lại hiệu quả kinh tế cao và

đảm bảo tính bền vững, thì người nuôi cần nắm vững Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng.

1. Kỹ thuật nuôi bò nhốt

chuồng – Chuồng trại:

Mục tiêu là để thuận lợi

cho công tác nuôi dưỡng,

quản lý đàn bò. Xây dựng

chuồng nuôi bò ở những nơi

cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát

về mùa hè, ấm áp về mùa

đông. Hướng chuồng xây

theo hướng Nam hoặc Đông

Nam, diện tích chuồng nuôi

bình quân 3-5m2/con. Tuỳ

theo qui mô mà chuồng có

thể xây dựng 1 dãy hoặc 2

dãy. Nền chuồng phải làm

chắc, không láng trơn, có độ

dốc 2-3% về phía rãnh thoát.

Cần trang bị máng ăn, máng

uống dọc theo hành lang,

kích thước máng ăn 60cm x

120cm, cao phía sau 80cm,

cao phía trước 50cm, trong lòng máng hình lòng mo. Kích thước

máng uống dài x rộng x sâu là 60cm x 60cm x 40cm. Rãnh thoát

nước thải thiết kế phía sau rộng 30cm, sâu 30cm, độ dốc 5-8%.

Ngoài ra cần bố trí thêm hố ủ phân hoặc hầm biogas, hệ thống

rèm che cách tầm bò với 1-1,5m, hệ thống cây xanh chống nóng

cho bò trong mùa hè, ....

2. Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng -Vệ sinh thú y:

– Tiêu độc, khử trùng và vệ sinh chuồng trại.

– Vệ sinh phòng bệnh: Thực hiện phương châm “Phòng bệnh

hơn chữa bệnh”. Chuồng trại, máng ăn, máng uống, môi trường

xung quanh và cơ thể bò phải luôn được sạch sẽ. Định kỳ tẩy uế

chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng nuôi, phát quang bờ

bụi, khơi thông cống rãnh, thu gom xử lý chất thải. Tích cực diệt

chuột, dán, ve, ruồi muỗi, hạn chế tối đa các động vật trung gian

truyền bệnh vào khu vực chăn nuôi bò.

– Thức ăn nước uống phải đảm bảo sạch sẽ, an toàn vệ sinh.

– Thường xuyên kiểm tra theo dõi đàn bò khi có dấu hiệu biểu

hiện không bình thường cần can thiệp ngay.

– Tiêm vacxin phòng bệnh đầy đủ các loại bệnh bắt buộc cho

bò 2 lần/năm như: Bệnh tụ huyết trùng trâu bò, lở mồm long

móng,…

Page 28: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 26 ~

– Chuồng nuôi phải được

làm vệ sinh hàng ngày và phải

được khử trùng định kỳ theo

chế độ phòng bệnh của thú y.

– Sau khi xuất toàn bộ vật

nuôi phải tiến hành khử trùng

toàn bộ chuồng nuôi theo chế

độ tổng vệ sinh và khử trùng

trước khi nuôi lứa mới.

– Trường hợp trong

chuồng nuôi có vật nuôi bị

chết vì bệnh dịch thì phải

thực hiện chế độ khử trùng

cấp bách theo hướng dẫn của

thú y.

3. Kỹ thuật nuôi bò nhốt

chuồng – Tẩy ký sinh trùng

cho bò:

Để bò khỏe mạn lớn nhanh

cần tẩy ký sinh trùng theo các

phương pháp dưới đây:

* Đối với ngoại ký sinh

trùng:

Sử dụng các loại thuốc

có phổ hoạt lực rộng như

Neuguvon hoặc Asuntol hòa

thành dung dịch tắm hoặc

xoa. Pha và sử dụng thuốc

Nevugvon với liều phổ biến

1à 25g/lít nước, bổ sung

50ml dầu ăn và 20g xà

phòng bột lắc đều trước khi

sử dụng. Dùng bình phun

đều lên cơ thể bò, đặc biệt là

vùng bẹn, nách và yếm. Có

thể đeo găng tay, dùng giẻ

để bôi thuốc. Không để

thuốc bám vào người, quần

áo. Không hút thuốc, ăn

uống trong khi pha và bôi thuốc.

* Đối với nội ký sinh trùng:

Sử dụng các loại thuốc có phổ hoạt lực rộng như: Levamisole,

Tetramisole điều trị nội ký sinh trùng đường ruột và Fasinex điều

trị sán lá gan.

Liều lượng: Levamisole 7,5%, dùng 1ml/20kg thể trọng.

Fasinex dùng 1 viên/75kg thể trọng. Cách sử dụng: Cho uống,

trộn vào thức ăn hoặc tiêm theo hướng dẫn.

4. Kỹ thuật nuôi bò nhốt chuồng – Khẩu phần ăn cho bò:

Để bò có tốc độ lớn nhanh nhất thì lượng thức ăn đảm bảo

năng lượng cao được ăn vào hàng ngày là 2,5% trọng lượng cơ

thể. Ví dụ, bò nặng 200kg cần khoảng 5kg vật chất khô trong một

ngày, còn thức ăn thô xơ khoảng 15 – 20kg. Khẩu phần hoàn

chỉnh là đủ tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết cho bò. Bò có thể

tự do lựa chọn sau khi đã trộn lẫn hoàn toàn cả hai loại thức ăn

tinh và thô với nhau. Phương pháp cho ăn và tập cho bò ăn thức

ăn tinh vô cùng quan trọng. Lúc đầu nên cho bò ăn nhiều thức ăn

thô xanh, ít thức ăn tinh để bò làm quen với khẩu phần năng

lượng cao. Nếu ngay từ đầu bò ăn nhiều thức ăn tinh có thể bị

chết do ngộ độc axít (acidosis). Thức ăn thô xanh cần sử dựng

kết hợp với thức ăn tinh để tạo ra một khẩu phần ăn hoàn chỉnh.

Khẩu phần ăn cho bò nhốt chuồng bao gồm: thức ăn thô xanh,

phụ phẩm, thức ăn tinh, thức ăn bổ sung khoáng và vitamin. Căn cứ

vào nguồn thức ăn sẵn có để lựa chọn các nguyên liệu chính như sau:

* Thức ăn thô xanh: Các loại cỏ băm nhỏ, thức ăn băm nhỏ ủ

chua, phụ phẩm nông nghiệp băm nhỏ, phụ phẩm công nghiệp

(bã bia, rượu, rỉ mật, bã đậu, bã dứa, vỏ hoa quả) chiếm 55-60%

vật chất khô trong khẩu phần.

* Thức ăn tinh hỗn hợp: Các loại Sắn Nghiền, ngô Nghiền,

khô dầu lạc, bột keo dậu. Thức ăn tinh hỗn hợp…, chiếm 40-45%

vật chất khô trong khẩu phần.

Trên cơ sở các loại nguyên liệu thức ăn trên, bổ sung khoáng

và vitamin phối hợp thành khẩu phần thức ăn tinh hoàn chỉnh để

cho bò ăn theo 4 công thức (xem bảng)

Page 29: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 27 ~

Để tăng năng suất lao

động, giảm giá thành thức ăn

và tận dụng triệt để nguồn

thức ăn nên đầu tư máy băm

Nghiền thức ăn vào việc chế

biến thức ăn cho bò nhốt.

Hướng dẫn kỹ thuật

nuôi bò thịt

1. Giống:

Giống là một trong

những vấn đề quan trọng

nhất. Giống khác nhau thì

tốc độ sinh trưởng, phát

triển, tích lũy thịt, mỡ khác

nhau: Con lai của bò

Charolaise có tỷ lệ thịt xẻ

cao hơn con lai của bò

Hereford và ngược lại, tổ

chức mỡ của thịt bò

Charolaise thấp hơn thịt bò

Hereford. Bò vàng Việt

Nam có tỷ lệ thịt xẻ là 42%,

tỷ lệ thịt tinh là 31%, trong

khi đó bò thịt Charolaise có

tỷ lệ thịt xẻ 60%, tỷ lệ thịt

tinh là 45%.

Hiện nay trên thế giới

nhiều giống bò có tỷ lệ thịt

xẻ tới 70%, tỷ lệ thịt tinh

trên 50%, giá trị dinh dưỡng

thịt rất cao và rất thơm,

ngon. Ngoài các giống bò

chuyên thịt, ở các cơ sở chăn

nuôi bò sữa, người ta cũng

chọn lọc những bê đực khỏe

mạnh đưa vào nuôi dưỡng

với một chế độ thích hợp để

vỗ béo và giết mổ. Đây

cũng là những nguồn cung

cấp sản phẩm thịt bò chiếm

một tỷ lệ lớn trong tổng sản lượng thịt bò.

2. Tuổi:

Trong quy trình vỗ béo và giết mổ, hiện nay người ta thường nuôi

bò từ 16 – 24 tháng tuổi với quy trình công nghệ cao để giết mổ.

Tuổi giết mổ khác nhau thì chất lượng thịt cũng khác nhau:

Bê và bò tơ cho thịt màu nhạt, ít mỡ, thịt mềm và thơm ngon hơn.

Bò lớn tuổi cho thịt màu đỏ, đậm, nhiều mỡ, thịt dai hơn và tất

nhiên là không thơm ngon bằng thịt bê tơ. Tỷ lệ các cơ quan nội

tạng sẽ giảm theo tuổi và ngược lại độ béo sẽ tăng dần lên.

3. Giới tính:

Thường thì bò cái thớ thịt nhỏ hơn bò đực, mô giữa các cơ ít

hơn, thịt vị đậm hơn, vỗ béo nhanh hơn. Ngược lại bò đực có tỷ

lệ thịt xẻ cao hơn bò cái cùng độ tuổi vì bò cái có cơ quan sinh

dục phát triển hơn bò đực. Trong quy trình vỗ béo người ta có

thể thiến bò đực lúc 7 – 12 tháng tuổi để vỗ béo, nếu bò thiến

sớm để vỗ béo thì thịt bò sẽ mềm hơn và béo nhanh hơn.

4. Khối lượng lúc giết mổ:

Khối lượng bò đưa vào giết mổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố

như: Giống, khả năng tăng trọng, thời điểm tích lũy nạc lớn nhất,

chế độ nuôi dưỡng, hệ số tiêu tốn thức ăn, thị trường và giá cả…

5. Dinh dưỡng và phương thức vỗ béo:

Kỹ thuật chăn nuôi thâm canh bò thịt hiện nay là chọn lọc

những bê khỏe mạnh của các giống cao sản chuyên thịt, đưa vào

nuôi dưỡng với chế độ thâm canh cao để đạt được khối lượng

giết mổ cao nhất ở giai đoạn bê sinh trưởng với cường độ cao

nhất (dưới 24 tháng tuổi). Các khẩu phần ăn khác nhau sẽ cho tỷ

lệ thịt xẻ, tỷ lệ thịt tinh khác nhau khi giết mổ.

Dù vỗ béo theo phương thức nào, vỗ béo sớm hay vỗ béo

muộn, đối với bò thịt trước khi giết mổ bắt buộc phải có công

đoạn vỗ béo. Vỗ béo là dùng biện pháp dinh dưỡng, chăm sóc

nuôi dưỡng làm cho khối lượng con vật tăng nhanh và phẩm chất

thịt được cải thiện. Thời gian vỗ béo tùy thuộc vào phương thức

vỗ béo, thức ăn, giống, độ béo của bò. Thời gian vỗ béo quá ngắn

thì thịt sẽ nhiều nước, thời gian vỗ béo thích hợp thì chất lượng

thịt sẽ cao hơn.

Khẩu phần thức ăn vỗ béo cho bò giàu đạm và nhiều sắt thì

thịt bò sẽ đỏ đậm, khẩu phần thức ăn có nhiều bột bắp thì mỡ bò

sẽ vàng, thịt thơm ngon và khẩu phần thức ăn có tỷ lệ các phụ

phẩm công nghiệp thì thịt bò có thớ lớn và nhiều mỡ giắt (mỡ

giữa các lớp thịt).

Page 30: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 28 ~

Điều cần chú ý khi nuôi

bò thịt

Trong và năm gần đây,

ngành chăn nuôi ở Đồng

bằng Sông Cửu Long đã có

những chuyển biến tích cực,

trong đó đáng chú ý là việc

khôi phục và phát triển đàn

bò địa phương. Ngoài ưu thế

về chi phí thức ăn thấp, sử

dụng thúc ăn không cạnh

tranh với người, giải quyết

công lao động nông nhàn.

Nghề nuôi bò còn có một ưu

thế quan trọng là sản phẩm

cuối cùng là bê và thịt có thị

trường tiêu thụ ổn định, giá

cả bảo đảm cho người chăn

nuôi có lãi. Tuy nhiên, để

đảm bảo hiệu quả đạt được

cao nhất, người chăn nuôi cần

biết những yếu tố cơ bản sau:

Đặc điểm sinh lý:

– Với bò đực: Tuổi bắt

đầu phối giống từ 24 – 26

tháng tuổi và thời gian sử

dụng phối giống tất nhất là

từ 2 – 6 năm tuổi.

– Đối với bò cái: Tuổi

thành thục sinh dục 18 – 24

tháng tuổi, chu kỳ động dục

trung bình là 21 ngày, thời

gian mang thai 9 tháng 10

ngày và thời gian động dục

trở lại sau khi sinh con 60 –

70 ngày.

Chọn giống:

Chọn những con tốt, thân

hình vạm vỡ, mình tròn,

phía mông và vai phát triển

như nhau giống hình trụ. Nên biết rõ nguồn góc và tính năng SX

của đòi bố mẹ.

Một số giống bò được nuôi phổ biến tại Việt Nam:

– Giống bò nội: Bò vàng Việt Nam (Bosindicus) .

– Giống bò lai ngoại: Con lai Zêbu (nhóm bò Zêbu gồm các

giống: Redsindhi, Sahiwal, Brah-man đỏ, Brahman trắng,

Ongole).

Chuồng trại:

– Xây dựng nơi cao ráo, thoáng mát và có màng lưới bao xung

quanh chuồng để chống ruồi, muỗi và các côn trùng khác xâm

nhập (trong chăn nuôi hộ gia đình).

– Nền cứng, không trơn trượt và có độ dốc để dễ thoát nước.

– Diện tích tối thiểu: 2,5 – 3m2/con bò thịt.

– Máng ăn và máng uống nên làm bằng xi măng đặt theo chiều

dài hành lang phân phối thúc ăn.

– Cần có biện pháp xử lý phân để hạn chế ô nhiễm môi trường

chung quanh và lây lan cỏ dại.

Thức ăn:

– Nguồn thức ăn chủ yếu của bò gồm các loại cỏ tươi, rơm rạ,

cỏ khô, thức ăn xanh thô và củ, quả…

– Ngoài ra nên sử dụng thức ăn ủ chua hoặc rơm được kiềm

hóa và thức ăn tinh chế chủ động trong việc tìm thức ăn cho bò.

– Trong chăn nuôi bò thịt, mỗi gia đình cần dành 500 –

1.000m2 đất để trống các loại cỏ như cỏ voi, cỏ sả, cỏ lông tây,

cây bình linh…, để lấy thức ăn cho bò.

Chăm sóc, nuôi dưỡng, vỗ béo

– Bò cái chửa: Cần cho ăn uống đầy đủ, tránh cày kéo nặng, đặc

biệt là ở những tháng chửa cuối cùng. Nhu cầu ăn mỗi ngày là: 25

– 30kg cỏ tươi, 2kg rơm, 1 kg thức ăn tinh và 20 – 30g muối.

– Bò cái nuôi con: Ngoài khẩu phần trên, cần cho thêm các

thức ăn củ quả tươi và thức ăn tinh để bò cái tăng khả năng tiết

sữa nuôi con.

– Bê con: Tập cho bê con ăn cỏ khô từ tháng thứ 2, cỏ tươi và

củ quả từ tháng thứ 4 và cai sữa từ tháng thứ 6. Khi trời nắng ấm

nên cho bê con vận động tự do. Nhu cầu ăn mỗi ngày 5 – 10kg

cỏ tươi, 0,2 – 0,3kg thức ăn tinh.

– Bê từ 6 – 24 tháng: Trường hợp nuôi chuồng phải thường

xuyên cho bò, bê ra sân vận động từ 2-4 giờ/ngày. Nhu cầu ăn

một ngày: 10 – 15kg cỏ tươi và cho ăn thêm các thức ăn tận dụng

Page 31: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 29 ~

khác như ngọn mía, dây

khoai, rơm rạ, cỏ khô, cỏ ủ

chua và củ quả thay thế.

– Để có bò thịt đạt khối lượng cuối cùng khi giết thịt từ 250-

300kg lúc 24 tháng tuổi cần nuôi vỗ béo bò trong khoảng 80-90

ngày trước khi bán bằng thức ăn tinh 1 kg/con/ ngày.

http://nong-dan.com

Cải tiến nuôi tôm: Hiệu quả trong hạn mặn Ngày 17/06/2016

Nuôi tôm quảng canh cải tiến ít thay

nước; nuôi có mái che; trồng cỏ nuôi tôm…,

là những mô hình nuôi cải tiến đang được áp

dụng rộng rãi ở các tỉnh ĐBSCL. Nhằm hạn

chế tình trạng hạn mặn đang diễn ra khốc

liệt và giúp giảm thiệt hại, mang lại hiệu quả

cho người nuôi tôm.

Quảng canh cải tiến ít thay nước

Đây là mô hình đang được nhiều huyện của

tỉnh Cà Mau áp dụng. Một số kỹ thuật đối với

nuôi quảng canh cải tiến đã được Bộ

NN&PTNT khuyến cáo như: Tập trung gia cố

bờ bao, cống để tăng khả năng giữ nước; chủ

động bơm trữ nước vào mương và ao đầm nuôi

khi mực nước cao ở các tuyến kênh; diện tích

ao nuôi thường < 15.000m2; diện tích ao lắng,

xử lý chiếm 10 - 15% diện tích ao nuôi; diện

tích ao ương 200 - 1.000m2; Thả giống với mật

độ phù hợp và cần đạt kích thước 1,5 - 2cm/con

(nuôi chuyên tôm: mật độ thấp hơn 10 con/m2;

nuôi kết hợp cua, cá là 1 - 3 con/m2). Sau 2

tháng, thả tiếp 1 - 2 con/m2 (khoảng cách giữa

hai lần thả giống không quá ngắn). Tôm giống

trước khi thả nên ương trong ao hoặc gièo 10 -

15 ngày để tăng tỷ lệ sống và phát triển tốt.

Thực hiện đầy đủ các quy trình nuôi tôm đúng

khoa học, kỹ thuật và định kỳ bổ sung các chế

phẩm sinh học vào ao nuôi.

Nuôi có mái che

Việc sử dụng các loại lưới che trong ao nuôi

tôm không đỏi hỏi nhiều chi phí đầu tư và công

sức của hộ nuôi. Với các vùng nắng nóng và

hạn mặn kéo dài, người nuôi nên sử dụng các

tấm lưới này để che trên mặt ao tôm ngay từ

đầu vụ. Lưới sử dụng để che ao tôm thường có

độ che phủ 50 - 60% để vừa tránh nắng nóng

vừa đảm bảo ánh sáng cho tôm phát triển tốt.

Người nuôi nên chọn loại lưới có độ bền cao,

trọng lượng nhẹ, thoáng nước tốt, cản nắng mà

không gây ảnh hưởng đến môi trường sống của

tôm. Để sử dụng cho những ao nuôi có diện tích

lớn và thời gian sử dụng lâu dài, nên chọn

những loại lưới có độ bền cao, dễ thi công và

không làm ảnh hưởng đến vệ sinh trên mặt ao.

Hiện, trên thị trường có rất nhiều nhà cung

cấp loại lưới che cho ao nuôi tôm và thủy sản

với các nguồn gốc xuất xứ khác nhau như: Thái

Lan, Đài Loan, Việt Nam…, trong đó, loại lưới

che từ Thái Lan tuy có giá thành đắt nhưng có

nhiều đặc tính vượt trội như độ dốc tốt, độ bền

3 - 5 năm, che nắng 40 - 80%, kích cỡ phổ biến

là (2x100)m, (3x50)m được nhiều người nuôi

Giống cỏ đuôi phụng có khả năng chịu mặn khá tốt được

nông dân Kiên Giang áp dụng hiệu quả

Ảnh: Lê Hoàng Vũ

Page 32: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 30 ~

tôm sử dụng. Quy trình nuôi tôm có mái che

bằng lưới đang được nhiều người nuôi tôm tại

tỉnh Kiên Giang, Nghệ An áp dụng mang lại hiệu

quả. Bởi, hệ thống lưới che giúp hạn chế ánh

nắng chiếu thẳng xuống ao nuôi, làm giảm chênh

lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm. Đồng thời, giúp

giảm tình trạng bốc hơi nước và giữ độ mặn ổn

định cho ao nuôi, hạn chế tảo phát triển.

Trồng cỏ nuôi tôm

Cỏ được trồng trong ao tôm chủ yếu là cỏ

năn tượng (hến biển). Theo TS Dương Văn Ni,

Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu thực nghiệm

đa dạng sinh học Hòa An - Trường Đại học Cần

Thơ, trong hệ sinh thái tự nhiên của đầm lầy

ven biển, năn tượng là cây tiên phong phát triển

trên nền bùn nhão, giúp giữ lại lớp phù sa.

Còn trong hệ sinh thái ao nuôi tôm, năn

tượng giúp ổn định nhiệt độ nước và làm giảm

các chất ô nhiễm do thức ăn tôm dư thừa gây

ra. Cỏ năn tượng có thể sống với mật độ rất dày

800 - 1.000 cây/m2, hệ thống rễ chằng chịt của

cây chính là nơi lọc mặn và giữ đất rất tốt.

Trong quá trình phát triển, các chồi non của cây

cũng là nguồn thức ăn của cua, tôm, cá... Ðến

cuối mùa nắng, khi cây lụi dần và chết đi, thân

cây lại cung cấp cho môi trường nguồn chất

hữu cơ quan trọng.

Châu An

http://thuysanvietnam.com.vn

Thủy sản Việt Nam

Sản xuất tảo xoắn Sản xuất tảo phải là nơi có giao thông thuận tiện. Nguồn nước chủ động, không bị ô

nhiễm, thích hợp cho nuôi tảo. Hệ thống điện lưới tốt; lượng chiếu sáng tốt, thích hợp cho

tảo phát triển và giảm được chi phí chiếu sáng.

Thiết kế hệ thống nuôi

Sản xuất tảo phải là nơi có giao thông thuận

tiện. Nguồn nước chủ động, không bị ô nhiễm,

thích hợp cho nuôi tảo. Hệ thống điện lưới tốt;

lượng chiếu sáng tốt, thích hợp cho tảo phát

triển và giảm được chi phí chiếu sáng. Hệ

thống bể nuôi tảo thường có 2 loại là hệ thống

nuôi hở và nuôi kín. Bể được xây dựng bằng xi

măng, gạch cement, gạch bê tông cement có

tính chịu kiềm. Bể thường thiết kế hình chữ

nhật, các góc được vê tròn; cao 50 – 55cm;

mực nước 20 - 30cm; bể xây một bức tường

ngăn hụt ở giữa để tạo dòng chảy trong hệ

thống nuôi. Trong bể ở các quy mô nuôi lớn,

Page 33: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 31 ~

thường đặt hệ thống cánh khuấy tạo dòng chảy

giúp cho tảo không bị lắng tại các góc của bể

và tảo tiếp xúc tốt hơn với dinh dưỡng, ánh

sáng; giữ cho nhiệt độ nước ổn định.

Chọn giống

Mua giống ở những địa chỉ sản xuất uy tín

và tại các cơ sở nuôi trồng được trang bị các

phòng thí nghiệm để phục vụ cho công tác giữ

và nhân giống. Chọn giống cho năng suất cao,

dễ thu hoạch, dễ thích nghi, có sức chống chịu

tốt với môi trường.

Môi trường

Ánh sáng: Đối với hệ thống nuôi hở cần ánh

sáng tự nhiên, thời gian chiếu sáng có cường

độ đạt khoảng 30% lượng chiếu sáng. Đối với

hệ thống nuôi kín có thể chủ động điều chỉnh

ánh sáng thông qua điều chỉnh hệ thống đèn

hoặc mái che.

Nhiệt độ: Nhiệt độ tối ưu cho sự phát triển

của tảo xoắn là 350C; kiểm tra nhiệt độ nước 2

lần/ngày.

pH: độ pH cho tảo phát triển tối ưu 8,5 - 9,5.

Tuy nhiên, trong thực tế trong các bể nuôi

thường pH dao động lên tới 10 - 10,5. Kiểm tra

pH trong ngày 2 lần/ngày để có biện pháp xử

lý kịp thời.

Các yếu tố sinh học

Trong quá trình nuôi tảo các sinh vật có thể

xâm nhập vào hệ thống nuôi và gây hại cho tảo.

Cần chú ý xử lý nguồn nước cấp cẩn thận đảm

bảo cho tảo phát triển tốt nhất.

Động vật chân chèo (Rotifers): Tiến hành

diệt luân trùng bằng cách dừng khuấy bể vào

ban đêm, để làm chúng thiếu ôxy rồi chết.

Tảo tạp: Trong hệ thống nuôi có thể bị

nhiễm một số loài tảo khác như tảo silic, tảo

lục... Khi các loại tảo này phát triển mạnh, có

thể tiến hành tắt các máy khuấy sau đó thu vớt

tảo xoắn trên mặt chuyển sang bể nuôi khác;

rồi tiến hành xử lý tảo tạp.

Bổ sung các dưỡng chất

Trong quá trình nuôi cần bổ sung thêm các

dưỡng chất cần thiết cho tảo theo chu kỳ; K/Na

< 5 trong bể là thích hợp nhất và phải ổn định.

Hàm lượng một số cation và anion được bổ

sung trong quá trình nuôi tảo: Na+: 4.380 mg/l;

K+: 642 mg/l; 10 mg/l; Fe2+: 0,8 mg/l; CO32-

: 2.800 mg/l; NO3-: 614 mg/l; PO43-: 80 mg/l;

SO42-: 350 mg/l.

Ảnh hưởng của kim loại nặng và các chất

độc khác: As, Pb, Cu, Ni, Zn, thuốc trừ sâu,

thuốc diệt cỏ…, đều gây độc cho tảo. Cần loại

bỏ các chất độc hại này ra khỏi nguồn nước

trước khi đưa vào bể để sản xuất tảo.

Thu hoạch tảo

Khi sinh khối tảo đạt > 750 mg/l thì tiến

hành thu hoạch; nên để sinh khối tảo đang sinh

trưởng còn lại > 300 mg/l. Thời gian bắt đầu

thu hoạch thường sau khi xuống giống khoảng

7 - 10 ngày và quá trình nuôi, thu hoạch kéo

dài liên tục 3 - 4 tháng thì thu toàn bộ, làm vệ

sinh bể và chuẩn bị nuôi đợt mới.

Châu An

http://thuysanvietnam.com.vn

Theo Thủy sản Việt Nam

Page 34: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 32 ~

Phải thay đổi quy trình kỹ thuật nuôi Ngày 08/06/2016

Hiện nay, đã có một số quy trình kỹ thuật cao được áp dụng ở nước ta đó là quy trình

nuôi tuần hoàn, quy trình biofloc. Điểm mấu chốt của các quy trình này là có hệ thống xử

lý chất thải... - PGS.TS Trương Quốc Phú (Trưởng Khoa Thủy sản, ĐH Cần Thơ)

Trong năm 2012-2013 và

những năm tiếp theo có

điểm chung tôm nuôi ở

ĐBSCL bị thiệt hại chủ yếu

do hai loại bệnh là hoại tử

gan tụy cấp do vi khuẩn

Vibrio parahaemolyticus và

bệnh đốm trắng do virus

WSSV.

Chuyển tôm từ ao ương

vèo ra thả nuôi trên diện

rộng

Bệnh hoại tử gan tụy cấp

thường xảy ra vào đầu vụ

trong thời tiết nắng nóng và

bệnh đốm trắng thường xảy

ra vào cuối vụ khi bị các đợt

mưa dầm hoặc gió mùa đông

bắc bắt đầu thổi. Tuy nhiên,

có sự khác biệt khá rõ về

dịch bệnh xảy ra trong năm

2012-2013 và những vụ tôm

của các năm sau, đặc biệt là

vụ tôm năm 2015-2016.

Trong vụ tôm năm 2012-

2013 bệnh hoại tử gan tụy

cấp gây thiệt hại rất nặng nề

ở đầu vụ nuôi, tỉ lệ diện tích

nuôi bị thiệt hại do bệnh

đốm trắng rất thấp so với

diện tích bị thiệt hại do bệnh

hoại tử gan tụy cấp, cuối vụ

thì hầu hết nông dân trúng

mùa và được giá.

Trong khi đó, các năm tiếp theo bệnh hoại tử gan tụy cấp và

bệnh đốm trắng xảy ra rải rác và tỉ lệ thiệt hại do hai bệnh trên là

gần như nhau, diện tích tôm nuôi bị thiệt hại không cao như diện

tích tôm bị thiệt hại năm 2012-2013.

Ngoài ra, trong những năm gần đây trong các vùng nuôi tôm

xuất hiện một số bệnh mới gây hiện tượng tôm chậm lớn như

bệnh vi bào tử trùng (EHP), bệnh Laem Singh Virus (LSNV)…,

tuy các bệnh trên không gây chết tôm nhưng cũng gây thiệt hại

đáng kể cho người nuôi tôm.

Diễn biến khác, diện tích nuôi tôm công nghiệp tăng quá

nhanh trong khi quy trình kỹ thuật nuôi không có nhiều thay đổi,

điều này đã dẫn đến môi trường bị ô nhiễm, dịch bệnh xuất hiện

thường xuyên và trầm trọng hơn. Hiện nay, phần lớn nông dân

áp dụng quy trình nuôi hở, nước và bùn thải cuối vụ nuôi hầu như

được thải trực tiếp ra sông rạch, điều này làm cho môi trường

xung quanh bị ô nhiễm và mầm bệnh phát tán rộng hơn.

Mặc dù, cơ quan quản lý và các nhà khoa học khuyến cáo khi

ao tôm bị bệnh, nông dân không được xả nước và bùn ra môi trường

mà phải xử lý khử trùng để tránh mầm bệnh lây lan.

Tuy nhiên, việc này không được thực hiện nghiêm, nước của

ao tôm bệnh bị xả ra kênh rạch, một số hộ nuôi khác kế cận lại

lấy nguồn nước này vào ao nuôi của mình, điều này đã làm dịch

bệnh phát sinh trên diện rộng. Như vậy, để nuôi tôm bền vững

Page 35: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Kỹ thuật Nông nghiệp

~ 33 ~

và hạn chế dịch bệnh phát

sinh, người nuôi tôm cần phải

thay đổi quy trình kỹ thuật

nuôi tiên tiến hơn.

Hiện nay, đã có một số

quy trình kỹ thuật cao được

áp dụng ở nước ta đó là quy

trình nuôi tuần hoàn, quy

trình biofloc. Điểm mấu

chốt của các quy trình này là

có hệ thống xử lý chất thải

và tái sử dụng nước, hoàn

toàn không xả chất thải ra

môi trường xung quanh. Nếu

quy các quy trình này được

áp dụng rộng rãi thì chúng ta

hoàn toàn có thể hạn chế

thiệt hại do dịch bệnh gây ra.

Vào đầu mùa mưa năm

2016, theo dự báo dưới tác

động của hiện tượng La

Nina sẽ có nhiều mưa hơn,

có thể xuất hiện nhiều đợt

mưa dầm và nhiệt độ sẽ

giảm nhanh, điều này ảnh

hưởng rất lớn đến vụ tôm

chính năm nay.

Nhiệt độ và độ mặn giảm

là hai yếu tố cần được đặc

biệt lưu ý, nhiệt độ và độ

mặn giảm nhanh sẽ gây sốc

cho tôm, sức khỏe của tôm

bị suy giảm tạo điều kiện

cho mầm bệnh tấn công gây

bệnh tôm, đặc biệt bệnh

đốm trắng và các bệnh do virus khác. Để hạn chế rủi ro do bệnh

người nuôi tôm cần thực hiện một số biện pháp sau: Giữ mức

nước trong ao đủ sâu, khoảng 1,5m hoặc sâu hơn.

Mực nước sâu sẽ giúp nhiệt độ và độ mặn ít biến động hơn.

Áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp, trong đó có bốn khâu

quan trọng như nhau: Cải tảo và xử lý tốt ao nuôi vào đầu vụ;

chọn giống tốt; tăng sức đề kháng cho tôm bằng cách cho tôm ăn

đầy đủ và bổ sung các chất làm tăng sức đề kháng của tôm

(vitamin C, α-glucan, MOS…); cuối cùng là quản lý môi trường

ao nuôi ổn định, trong đó chú ý đến các yếu tố nhiệt độ, pH, độ

mặn và các khí độc trong ao...

Nuôi tôm 2 giai đoạn thành công rất cao

Ông Trần Thanh lân, cán bộ kỹ thuật Cty CP cho biết, mô hình

nuôi tôm 2 giai đoạn đã được Cty CP thực hiện tại tỉnh Bạc Liêu

qua mấy vụ nuôi. So với cách nuôi truyền thống thì mô hình này

cho sản lượng cao hơn hẳn. Hiện mô hình đã được nhân rộng ra

các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL.

Ở Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau, năm nay có khá nhiều đơn

vị và hộ nông dân nuôi theo mô hình này, tỷ lệ thành công trên

80%, mặc dù gặp thời tiết bất lợi. Tại Kiên Giang, cũng đã có

trên 10 mô hình được triển khai và những hộ đi đầu đều thành

công. Hiện nhiều Cty đầu tư nuôi tôm quy mô lớn tại khu vực Hà

Tiên - Kiên Lương như: Trung Sơn, BIM - Hạ Long, Biển

Đông…, điều triển khai mô hình nuôi tôm 2 giai đoạn.

Chi phí để làm bể ương có dung tích từ 50 - 80m2 khoảng 26-

30 triệu đồng/bể. Mỗi bể ương vèo được 250 - 400 ngàn con tôm

giống (mật độ trung bình 5con/lít). Thời gian ương vèo 25 - 30

ngày là có thể thả ra nuôi trên diện rộng. Nếu kết hợp nuôi trong

ao có lót bạt, có mái che để hạn chế tác động của môi trường thì

khả năng thành công rất cao.

HỮU ĐỨC - Đ.T.CHÁNH

http://nongnghiep.vn

Báo Nông nghiệp Việt Nam

Page 36: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 34 ~

Chuyển trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt Ngày 03/06/2016

Những năm gần đây nhiều hộ nông dân ở huyện Thanh Bình (Đồng Tháp) đã chuyển

hàng trăm ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt.

Ớt Thanh Bình khẳng định thương hiệu

Nhằm đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu cây trồng để tăng thêm

thu nhập trên cùng diện tích canh tác, những năm gần đây nhiều

hộ nông dân ở huyện Thanh Bình (Đồng Tháp) đã chuyển hàng

trăm ha đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ớt, tiết kiệm

nguồn nước tưới và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

Hiện toàn huyện đã có 1.860ha ớt các loại, chiếm hơn 65%

tổng diện tích trồng ớt của tỉnh, trồng tập trung chủ yếu ở các xã

cù lao và vùng ven. Trong số đó, khoảng 20% nông dân được đầu

tư hạt giống và thu mua sản phẩm theo giá thị trường.

Việc chủ động thu mua, bảo tiêu sản phẩm của các cơ sở thu

mua ớt trên địa bàn đã giúp nhiều nông dân an tâm SX, đẩy

mạnh chuyển đổi cây trồng và phát huy hiệu quả, xây dựng

thương hiệu “Ớt Thanh Bình”.

Để ớt đạt năng suất cao, bà con đã thực hiện đúng quy trình

chăm sóc, bón phân hợp lý, phòng trừ sâu bệnh kịp thời..., mỗi

công ớt (1.000m2) cho thu hoạch 3 đợt trái, năng suất dao động

từ 1 - 1,5 tấn.

Anh Trần Văn Tùng ở xã An Phong trồng hơn 10 công ớt

chia sẻ: “Mùa này trồng ớt cho năng suất cao, chất lượng tốt,

nhiều cơ sở thu mua nên cũng dễ dàng tiêu thụ. Giá cả hiện

nay tương đối ổn định, sau khi trừ chi phí thuốc men cũng cho

lợi nhuận khá”. Hiện tại ớt trái được thương lái thu mua tại

ruộng với giá 15.000 - 18.000 đồng/kg, giá ớt khô dao động từ

55.000 - 60.000 đồng/kg và

trên địa bàn huyện có rất nhiều

cơ sở thu mua ớt khô để xuất

khẩu sang thị trường Trung

Quốc như: Dũng Ớt, 2 Mành,

6 Nếu, 8 On, Xuân Bảo, Tấn

Đạt..., mỗi ngày thu mua hàng

chục tấn ớt thương phẩm.

Ông Nguyễn Văn Danh,

thương lái thu mua ớt ở xã An

Phong, cho biết: “Ớt được thu

mua tập trung của các nông

dân để xuất sang Trung Quốc,

Hàn Quốc, Thái Lan… Hiện

nay, nhiều thương lái đã đặt

cơ sở ở các địa phương để thu

mua với lượng lớn tập trung

rồi lên xe chuyển ra Tp. HCM

sau đó tiến hành XK”.

Trung bình mỗi năm ớt trên

địa bàn huyện cho sản lượng

15.000 - 20.000 tấn, chủ yếu là

ớt chỉ thiên (chiếm hơn 80%

sản lượng). Do điều kiện tự

nhiên thuận lợi, khả năng thích

nghi cao, nên ớt trồng ở đây có

màu đỏ đẹp, vị rất cay, phẩm

chất tốt, thời gian lưu giữ được

lâu. Nhiều cơ sở đã ký kết với

nông dân trồng ớt trong bao

tiêu sản phẩm với hình thức

thu mua theo giá thị trường

hoặc đầu tư một phần về giống

hay chi phí khác. Theo tính toán

của bà con, sau 2 tháng trồng,

Page 37: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 35 ~

ớt bắt đầu cho thu hoạch, thời gian thu liên tục, sản lượng đạt

từ 10 - 15 tấn/ha, thu nhập từ 50 - 100 triệu đồng/ha. Sản phẩm

ớt Thanh Bình còn được chế biến nhiều loại đa dạng khác như

tương ớt, bột ớt, muối ớt, ớt khô..., để có thể cạnh tranh với thị

trường nội, nâng cao giá trị sản phẩm từ ớt.

Tỉnh Đồng Tháp đang chủ động thực hiện mô hình trồng ớt

liên kết bao tiêu sản phẩm tiến đến chuỗi giá trị cây ớt trong

tương lai nhằm tăng hiệu quả trong sản xuất và nâng cao sức

cạnh tranh, đảm bảo chất

lượng sản phẩm phục vụ XK

và tiêu dùng.

Lê Hoàng – Phú Thuận

http://nongnghiep.vn

Báo Nông nghiệp Việt Nam

Rau hữu cơ trên đất nhiễm mặn Ngày 08/06/2016

Với cách làm độc đáo của mình, anh Hóa không chỉ xử lý thành công đất nhiễm mặn, mà

vườn rau của anh còn là rau hữu cơ, không sử dụng bất kỳ loại thuốc, phân bón hóa học nào...

Anh Hóa biến đất mặn thành vùng trồng rau hữu cơ an toàn

Nhìn vườn rau hữu cơ xanh tốt, không sử

dụng bất kỳ loại thuốc, phân bón hóa học nào tại

vườn của anh Nguyễn Văn Hóa (tổ 2, ấp Hải

Sơn, xã Phước Hưng, huyện Long Điền, Bà Rịa

– Vũng Tàu) mấy ai hay trên chính mảnh đất này

trước đây là cánh đồng muối nước ngập mặn

chát, khó có thể trồng được bất kỳ loại cây gì.

Được biết đến là nông dân điển hình của xã

bởi mô hình trồng rau sạch với rượu, tỏi, ớt,

không dùng bất kỳ loại phân, thuốc hóa học

nào; giờ đây anh Hóa còn tự mình chinh phục

hơn 2ha đất mặn, nơi trước kia là cánh đồng

muối, nước mặn ngập tới gần đầu gối.

Hồi mới chuyển nhà vào đây, anh bị nhiều

người cho là “khùng” vì ai lại đi trồng rau trên đất

nhiễm mặn. Nhưng anh nghĩ, hồi ở ngoài Bắc,

anh đã từng đi theo nhiều người ra đồng làm

ruộng.

Đất nơi đó cũng mặn chát do ở gần làng

muối, nhưng họ vẫn làm rau tươi tốt, thu hoạch

đều đặn thì tại sao anh không làm được. Nghĩ

là làm, anh dựng ngay một chòi nhỏ để tiện nghỉ

ngơi, rồi ngày đêm cải tạo đất.

Ban đầu, anh làm theo những gì mình nhìn

thấy ngoài quê nên thất bại, việc giảm mặn

không thành công do chưa làm thử lần nào, lần

cải tạo đầu, nước mặn vẫn cứ tràn lên mặt đất.

Bước sang năm thứ hai, anh bắt đầu thay đổi

dần, đi cẩn thận từng bước, từ làm đất, ép mặn

cho tới việc điều chỉnh nước ngọt cho phù hợp.

Năm đó, lần đầu tiên những cây rau của anh nhú

lên mặt đất, anh đã gần như hét lên vì vui sướng

Page 38: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 36 ~

khi công sức quần quật ngày đêm cuối cùng có

kết quả.

Chia sẻ kinh nghiệm, anh cho biết: “Để trị

đất nhiễm mặn, trước hết cần phải xử lý đất,

đây là bước quan trọng để có thể đo được độ

mặn của đất cũng như tách hoàn toàn phần đất

trồng cây ra khỏi phần nhiễm mặn”.

Thời gian đầu, anh cho máy cày xới toàn

bộ đất lên, tạo luống, nâng nền đất thật cao,

cách phần nước mặn từ 40 – 60cm. Chiều cao

này sẽ giúp cây trồng không đụng phải phần đất

nhiễm mặn. Sau khi nền đất được nâng lên, các

tầng nước mặn sẽ từ từ rút xuống thấp.

Sau đó, anh sử dụng rơm, lục bình phủ xuống

đất, đậy kín toàn bộ. Theo anh Hóa, vùng này vốn

là vùng làm muối, nắng chiếu vào nhiều sẽ đẩy

muối lên, đọng hết lên đất, việc che ánh nắng sẽ

ép hoàn toàn lượng muối xuống phía dưới, bảo

đảm được nền đất tốt phía trên.

Tiếp theo, anh sử dụng các loại phân xử lý

đất như phân chuồng ủ hoai mục, phân lân, vôi

để rửa chua, rửa phèn, lượng phân này sẽ gấp 3

lần so với các loại đất thường.

Điều bắt buộc khi xử lý đất nhiễm mặn là

phải có nước ngọt. Việc tưới nước ngọt có thể

duy trì nhiều ngày, tưới đẫm từ khi làm đất

cho tới khi trồng cây. Theo anh tính toán, lượng

nước ngọt phải lớn hơn nước mặn tới 80% thì

mới ép được nước mặn xuống phía dưới.

Nói đoạn, anh dẫn chúng tôi xuống vườn,

bốc từng mảnh đất lên, nói: Khu vực này, nếu

chỉ 1 ngày không tưới nước ngọt là nước mặn

sẽ trồi lên ngay, cây trồng rất dễ chết. Trung

bình một ngày tưới từ 9 – 10 lần, mỗi lần tưới

từ 5 - 7 phút. Thời gian tưới cách nhau từ 1 –

1,5 tiếng. Đối với các khu vực thiếu nước ngọt,

để xử lý đất nhiễm mặn, người dân phải che

bằng nhà lưới, nhà kính để giúp đất thoát khỏi

ánh nắng trực tiếp.

Với cách làm độc đáo của mình, anh Hóa

không chỉ xử lý thành công đất nhiễm mặn, mà

vườn rau của anh còn là rau hữu cơ, không sử

dụng bất kỳ loại thuốc, phân bón hóa học nào

trong suốt thời gian sản xuất. Nhờ đó, với 2ha rau

của mình, anh cung cấp cho phần lớn các trường

học, công ty và các chợ nhỏ trong khu vực, đảm

bảo bữa ăn an toàn cho mọi người.

NGÔ TRƯỜNG

http://nongnghiep.vn

Báo Nông nghiệp Việt Nam

An Giang: Thu nhập cao từ trồng cải bẹ dún Ngày 07/06/2016

Ông Phạm Văn Tường là nông dân có

kinh nghiệm sản xuất rau ăn lá và là thành

viên của Tổ liên kết sản xuất rau an toàn ở ấp

Tân Hậu B2, xã Long An, thị xã Tân Châu.

Vụ đông xuân 2016, ông Tường trồng cải

bẹ dún với diện tích 2000m2. Sau thời gian

chăm sóc là 40 ngày ông thu hoạch với năng

suất 4 tấn/1000m2, bán 4000 đồng/kg, trừ hết

chi phí, ông Tường thu được lợi nhuận từ 6,7

triệu đồng/1000m2. Nếu so với trồng lúa trong

cùng 1 thời gian và diện tích thì lợi nhuận trồng

cải bẹ dún cao hơn gấp 4 - 5 lần.

Tuy nhiên, không phải ai cũng có được lợi

nhuận trên vì theo ông Tường, cải bẹ dún rất

khó trồng, nếu không có kỹ thuật và kinh

nghiệm thì cải sẽ bị óp bắp và bị thương lái chê

nên khó bán và bán không được giá.

Page 39: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 37 ~

Trao đổi về kỹ thuật trồng cải bẹ dún, ông

Tường chia sẻ như sau:

Nên ương cây giống đến 20 ngày tuổi thì

đem ra trồng trên luống. Khâu chuẩn bị đất rất

quan trọng vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển

cây cải sau này. Đất xới tơi xốp, lên luống với

chiều cao 50 - 60cm, khoảng cách giữa mỗi

luống 70 - 80cm, diệt côn trùng gây hại trong

đất bằng sản phẩm thuốc Secsaigon 5EC (2

bình/công theo liều lượng khuyến cáo), bón lót

20kg phân NPK Việt Nhật/công. Sau đó rải

rơm phủ lên, tưới nước cho ướt đất và tiến hành

trồng cây giống trên luống.

Nhằm tránh cho cây cải mất sức khi đem ra

trồng ngoài luống với thời tiết nóng, nhiệt độ cao

so với trồng vườn ươm, nên cho nước vào rảnh

liên tục trong 4 ngày đầu để cây cải có đủ nước

phục hồi và phát triển rễ. Sau 4 ngày trồng cải

xuống luống thì cách 1 ngày cho nước vào 1 lần.

Cây cải bẹ dún rất nhạy cảm với nhiều loại

thuốc BVTV nên sau khi trồng chỉ sử dụng

các loại thuốc trừ sâu chiết xuất từ tự nhiên, có

tính an toàn cao và thân thiện với môi trường

như: Radiant 60SC ở các thời điểm 7 ngày và

30 ngày sau khi trồng.

Ngoài ra, ông Tường còn sử dụng phân urê

sau khi trồng 13 ngày (15kg/1000m2), phân

NPK sau khi trồng 20 ngày (75kg/1.000m2) và

phân bón lá Root 2 (150cc/1.000m2) ở thời

điểm 6 ngày, 11 ngày và 15 ngày sau khi trồng

để kích thích bộ rễ phát triển và giúp cây cải có

đủ chất dinh dưỡng qua lá và rễ để nuôi cây.

Trước khi thu hoạch 10 ngày ông Tường

không sử dụng bất kỳ loại thuốc hóa học nào vì

theo ông phải có thời gian cách ly như vậy để

thuốc phân hủy không còn khả năng gây độc cho

người và vật nuôi, đó là trách nhiệm của người

sản xuất nông sản để cung cấp cho người tiêu

dùng sản phẩm rau an toàn, chất lượng ./.

Nguyễn Thị Mỹ Tiên

http://www.khuyennongvn.gov.vn

Khuyến nông Việt Nam

Tỉ phú bưởi da xanh trên đất cà phê Ngày 8 tháng 6 năm 2016

Ở vùng chuyên canh cà phê, một nông dân

mạnh dạn trồng bưởi da xanh thu lợi lớn.

Ông Nguyễn Văn Nhàn ở tổ dân phố 8, TT.

Quảng Phú, H. Cư Mgar (Đắk Lắk), nổi tiếng

trong vùng là người làm ăn giỏi. Từ quê đất võ

Bình Định lên cao nguyên lập nghiệp những

năm đầu thập niên 1990, vợ chồng ông khởi sự

với nghề buôn bán nông sản nhỏ lẻ. Vốn yêu

thích nghề nông nên dành dụm được bao nhiêu

lời lãi từ kinh doanh là ông Nhàn tìm sang

nhượng lại đất rẫy. Ngay cả đất ở xa nguồn

nước, cằn cỗi, nhiều người chê nhưng ông vẫn

chấp nhận mua để cải tạo, biến thành diện tích

canh tác màu mỡ. Trong vòng 15 năm, vợ chồng

ông có trong tay hơn 20 ha đất chuyên trồng cây

công nghiệp và cây ăn quả.

Phá thế độc canh cà phê

Khác với những nông dân chuyên canh cà

phê trong vùng, ông Nhàn luôn tìm cách thay đổi

bằng những cây trồng khác sinh lợi nhiều hơn.

Vườn bưởi cho thu nhập tiền tỉ của ông Nhàn

Page 40: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 38 ~

Diện tích cà phê ban đầu hơn 10ha được ông

cho phá bỏ dần đến nay chỉ còn 3ha. Thay vào

đó, ông trồng hồ tiêu và các loại cây ăn trái có

hiệu quả kinh tế cao nhưng đầu tư chăm sóc ít

tốn kém hơn.

Cách đây chục năm, ông đưa vào trồng sầu

riêng thuần trên 2ha, đồng thời xen hàng trăm

cây khác trong vườn cà phê. Thu nhập từ sầu

riêng bình quân 200 triệu đồng/ha, cao hơn so

với trồng cà phê, nhưng ông Nhàn vẫn chưa thỏa

mãn. Ông tiếp tục trồng các giống bơ cao sản và

mít “siêu sớm” trên diện tích gần 7 ha để so sánh

hiệu quả đem lại của các loại cây ăn trái này.

4 năm trước, ông phá bỏ hơn 1ha cà phê để

trồng 370 cây bưởi da xanh với giống mua từ

Cai Lậy, Tiền Giang. Ban đầu, người thân ông

Nhàn phản đối gay gắt vì cho rằng cây bưởi

không hợp đất cao nguyên, khó sinh trưởng,

cho trái như ở miền Tây Nam bộ. Quyết vượt

thử thách này, ông Nhàn ứng dụng các giải

pháp công nghệ cao chăm sóc cây ăn trái vào

vườn bưởi, từ khâu bón phân, tỉa cành, theo dõi

phòng trừ sâu bệnh, đến lắp hệ thống tưới tiết

kiệm, bảo đảm mùa khô bưởi vẫn xanh tốt nhờ

tưới đủ nước. Được chăm sóc kỹ nên dù trồng

ở chân đất dốc, bưởi vẫn phát triển, năng suất

trái cao không thua kém những cây trồng trên

đất bằng. Dưới chân các gốc bưởi, ông Nhàn cho

trồng các loại cây ngắn ngày, cỏ trang trí để

chống xói mòn đất. Những loại cây tưởng chừng

chỉ tận dụng đất này cũng đem lại nguồn thu

không nhỏ, trang trải các chi phí nhân công

chăm sóc vườn...

Thu nhập không ngừng tăng

Kết quả, vườn bưởi da xanh đã cho thu

nhập cao hơn hẳn so với những cây ăn trái

khác. Theo ông Nhàn, bưởi ra trái quanh năm,

hơn 60% trái thu hoạch có trọng lượng từ 1,5

kg/trái trở lên, giá bán tại vườn khoảng 40.000

đồng/kg, mỗi gốc bưởi cho thu nhập bình quân

tới 3 triệu đồng. Năm 2015, 1ha bưởi cho

doanh thu tới 1,1 tỉ đồng; trong khi hơn 10ha

sầu riêng, mít, bơ còn lại thu gần 2,5 tỉ đồng.

Ông Nhàn cho biết sản phẩm bưởi da xanh chỉ

mới tiêu thụ ở Đắk Lắk, không đủ để cung cấp

đến Tp. HCM và tỉnh ngoài dù có nhiều đơn

đặt hàng. Ông cũng cho rằng năm 2016 dự kiến

vườn bưởi sẽ bước vào tuổi thứ 5, thu hoạch

mỗi năm sẽ ổn định ở mức 5 triệu đồng/cây.

“Ở Tây nguyên thời tiết thất thường, nhiều

lúc mưa to, gió lớn; cây bưởi trồng trên đất

bazan mềm, cõng nhiều trái nên dễ bật gốc,

gãy đổ. Tôi cũng tự mình nghiên cứu, chuyển

dần sang trồng bưởi ghép gốc thay cho bưởi

chiết cành để cây có rễ cọc, vững chắc hơn”,

ông Nhàn nói. Tỉ phú cây ăn trái trên vùng

chuyên canh cà phê Cư Mgar cũng cho biết

mùa mưa năm nay ông sẽ xuống giống trồng

mới thêm 2ha bưởi da xanh và những năm tới

tiếp tục mở rộng sản xuất loại cây này vì thị

trường tiêu thụ đang rất hút hàng.

http://www.kinhtenongthon.com.vn/

Kinh tế Nông thôn

Xã vùng cao biên giới có cả trăm tỷ phú đi lên từ nông nghiệp

Ngày 06/06/2016

Nhiều nông dân tại xã Thuận Hạnh, huyện Đắk Song (Đắk Nông) nhờ chí thú làm ăn

đã có thu nhập tiền tỷ mỗi năm. Tiền dư dả, hàng chục gia đình đã mạnh tay mua xe hơi

để phục vụ nhu cầu đi lại của gia đình và hàng ngày lái xe đi… thăm rẫy.

Page 41: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 39 ~

Linh hoạt đa canh đa cây

Thuận Hạnh là một xã

biên giới có khí hậu thuận

lợi và đất đai màu mỡ, đời

sống của người dân phụ

thuộc vào nông nghiệp.

Người dân sử dụng tài

nguyên đất vô cùng hợp lí,

xen canh gối vụ, mang lại

hiệu quả kinh tế cao.

Ông Nguyễn Cao Trí -

Chủ tịch Hội Nông dân xã

cho biết: Thuận Hạnh là một

xã thuần nông với hồ tiêu và

cà phê là hai loại cây trồng

chủ lực. Tuy nhiên, những

năm gần đây các mô hình

kinh tế đa canh, đa cây được

hàng trăm hộ nông dân ra sức

thực hiện, mang lại hiệu quả

kinh tế vô cùng cao.

Dễ thấy nhất là cây cà phê,

trên nhiều diện tích cà phê già

cỗi, năng suất, chất lượng

kém, nông dân đã chủ động

thực hiện việc tái canh cà phê

hoặc chuyển đổi sang các loại

cây trồng khác có hiệu quả

kinh tế vượt trội như: Hồ tiêu,

Sầu riêng, Bơ Booth, Bí ngô,

Khoai lang tím…

Chúng tôi tham quan mô

hình kinh tế đa canh, đa cây

của anh Vũ Hồng Ánh, thôn

Thuận Nam, một nông dân đi

đầu trong việc linh hoạt thực

hiện xen canh, gối vụ các loại

cây trồng có thu nhập

“khủng”. Anh Ánh chia sẻ:

“Cách làm là tận dụng tối đa, linh hoạt xen canh các loại cây

trồng trên một đơn vị diện tích để có thu nhập cao nhất có thể”.

Minh chứng cho điều này, anh Ánh dẫn chúng tôi ra khu vườn

rộng chừng 2 ha nhưng xen canh tới 4 loại cây trồng khác nhau,

loại cây nào cũng cực kỳ tươi tốt gồm: Bí đỏ, Chanh dây, Hồ tiêu,

Bơ Booth.

Cách làm của anh cũng vô vùng đơn giản. Đầu tiên anh xuống

giống bí đỏ, sau đó chôn trụ bê tông, làm giàn cho chanh dây leo.

Tại các trụ bê tông, anh tiếp tục thả dây tiêu vào, cuối cùng nơi

giao nhau giữa 4 trụ tiêu anh trồng một gốc bơ Booth. Như vậy

trên một đơn vị diện tích anh trồng tới 4 loại cây với phương

châm lấy ngắn nuôi dài.

Chia sẻ bí quyết thành công của mình, anh cho biết: thông

thường thời vụ bí đỏ chỉ kéo dài có 4 tháng, chanh dây 6 tháng

cho thu hoạch, thời gian thu hoạch kéo dài lên đến trên 2 năm,

hồ tiêu và bơ Booth thì phải 3 năm trở lên mới có thu.

Như vậy, sau khi anh thu hoạch bí đỏ xong thì dọn vườn, tiếp

tục chuẩn bị thu hái chanh dây. Sau khi chanh dây già cỗi lại tập

trung chăm sóc hồ tiêu và bơ Booth để sang năm tiếp tục có

nguồn thu ngay.

“Việc xen canh, gối vụ cần tính toán thời vụ hợp lý và phải

đặc biệt chú trọng đến khâu chăm sóc, xử lý BVTV cho cây trồng,

tránh tình trạng bệnh dịch lây lan”, anh Ánh nói.

Theo anh Ánh, nhờ thực hiện xen canh, gối vụ hợp lý các loại

cây trồng nên dù đang trong giai đoạn kiến thiết vườn hồ tiêu

nhưng năm nào 2ha vườn của anh cũng cho thu lãi trên 2 tỷ đồng.

Tăng tốc đầu tư nông nghiệp

Chăm chỉ làm ăn, tích góp nhiêu nông dân trở thành tỷ phú, mạnh tay

xây nhà lầu, sắm xe hơi

Page 42: NTM tháng 6-2016.pdf

Nông thôn đổi mới Nhà nông làm giàu

~ 40 ~

Một điều đáng mừng ở xã

Thuận Hạnh là dù đời sống

kinh tế không ngừng được

nâng lên, nhưng người dân

vẫn luôn ý thức rất cao với

việc gắn bó làm nông

nghiệp, chăm chỉ làm ăn,

không có tư tưởng xa hoa, ăn

chơi hưởng thụ.

Đi khắp một vòng quanh

xã những ngày đầu mùa mưa

này, ở bất kỳ nơi nào cũng

thấy nông dân hăm hở bắt

tay làm đất, mua giống, phân

bón, chuẩn bị đầu tư cho

những mùa vụ mới.

Gia đình anh Vũ Xuân

Lợi, thôn Thuận Nam, vừa

mới ra ngân hàng huyện rút

hơn 500 triệu đồng để về trả

tiền vật tư nông nghiệp, tất

bật chôn trụ, chuẩn bị xuống

giống hơn 1,5ha hồ tiêu

trong mùa mưa năm nay.

Anh Lợi cho biết: Nếu xuống

giống xong 1,5ha hồ tiêu này,

cùng với 2,5ha tiêu đang kinh

doanh, anh Lợi sẽ có tổng

cộng 4ha tiêu trong tay.

Tuy nhiên, chưa bằng

lòng với thành quả đã có,

anh tiếp tục sẽ đầu tư trồng

thêm 2ha cây ăn quả là sầu

riêng và bơ Booth. Suy nghĩ

của anh Lợi cũng là hướng

đi chung của hàng trăm hộ

nông dân Thuận Hạnh.

Ông Nguyễn Cao Trí cho biết: Theo thống kê sơ bộ của

UBND xã, chỉ trong vòng 2 năm trở lại đây, lượng vốn mà nông

dân trong xã bỏ ra để đầu tư phát triển nông nghiệp đã lên đến

trên 300 tỷ đồng.

Chưa kể, nhiều nông dân mạnh dạn đầu tư mở các cửa hàng

vật tư phân bón, thuốc BVTV, sắm sửa xe ô tô tải chở hàng, xe

hơi để đi giao dịch làm ăn, máy móc, thiết bị phục vụ làm nông

nghiệp. Nếu đúng như kỳ vọng, chỉ vài năm nữa, đa số nông dân

Thuận Hạnh sẽ trở thành tỷ phú, triệu phú.

Bên cạnh đó, việc áp dụng các tiến bộ KHKT vào trong sản

xuất nông nghiệp được người dân thực hiện rất khoa học. Nông

dân chịu khó tham dự các cuộc hội thảo khoa học nông nghiệp,

cũng như tìm tòi sách báo, tài liệu để tham khảo. Đi dọc con

đường liên xã có đến 70% hộ nông dân kết nối mạng Internet chỉ

để tìm hiểu thông tin về nông nghiệp.

Nhờ chịu khó tích cóp, chăm chỉ làm ăn, hàng trăm hộ nông

dân trong xã đã vươn lên trở thành hộ có thu nhập khá, tỷ phú.

Chỉ tính trong năm 2015, Thuận Hạnh có đến 300 hộ đạt danh

hiệu nông dân kinh doanh sản xuất giỏi. Công việc thuận lợi, thu

nhập ở mức cao nên nhiều nông dân mạnh tay đầu tư xây dựng

nhà ở khang trang, sạch đẹp. Việc mua sắm xe hơi không còn là

điều lạ lẫm ở vùng biên giới xa xôi, hẻo lánh này.

THANH SA

http://www.hoinongdan.org.vn

Trồng và chăm sóc cây hồ tiêu ở Thuận Hạnh