phân tích nhân vật chuyện người con gái nam xương
TRANSCRIPT
NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
Hình ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lòng người trong mọi thời đại. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “Miếu vợ chàng Trương”:
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nước chi cho lụy đến nàng”
Câu chuyện kể về người thiếu phụ Nam Xương là một minh chứng cụ thể điển hình cho những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa kia. Nhân vật chính là Vũ Nương, một phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình. Cảm thông trước cuộc đời đau khổ và bi thảm, số phận nghiệt ngã của nàng, tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ từ đó ra đời. Tác phẩm là một kiệt tác văn chương cổ, được ca ngợi là “thiên cổ tùy bút”, trích trong Truyền kì mạn lục. Truyện được viết bằng chữ Hán vào thế kỉ XVI gồm hai mươi truyện viết theo lối văn xuôi. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động trước nhân vật Vũ Nương trong truyện.
Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ
Nương và dễ dàng nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ
nết na, đức hạnh, đảm đang, trong trắng, hiếu nghĩa, thủy chung. Vũ
Nương một mình nuôi dạy con chờ chồng suốt những tháng ngày
Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con côi cút
Phạm Nguyễn Thục Linh 1
đùm bọc, gắn bó bên nhau, nàng vừa làm mẹ, vừa phải làm cha. Cậu
Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên
tường gọi là cha. Chồng và vợ như bóng với hình, nàng đã mượn
chiếc bóng của mình để an ủi con, muốn đứa con luôn nghĩ rằng mình
cũng là đứa trẻ có cha. Đứa con mà Vũ Nương dứt mực yêu thương
chính là niềm vui, hạnh phúc ngày đêm nàng mong đợi. Nàng luôn
giữ tròn chữ hiếu, đạo làm con đối với cha mẹ đôi bên. Nàng vâng lời
cha mẹ ruột, lấy Trương Sinh làm chồng. Khi mẹ chồng đau ốm, Vũ
Nương “hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào
khôn khéo” để chăm sóc cho mẹ. Nàng coi mẹ chồng như mẹ đẻ, điều
đó còn được thể hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng trước khi bà qua
đời: “xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
Khi mẹ chồng mất, nàng “ hết lời thương xót”, lo “việc ma chay tế
lễ như đối với cha mẹ đẻ mình”. Người phụ nữ ấy thay chồng làm tất
cả mà không một tiếng kêu than, quả thật hiếm có. Đạo làm con, làm
mẹ luôn được Vũ Nương chu toàn, thực hiện trọn vẹn. Chẳng những
thế, Vũ Nương còn là người vợ trong trắng, thủy chung. Có tư dung
tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng cam tâm làm một
người vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”.
Trước khi Trường Sinh đi lính, nàng dùng lời lẽ tha thiết của người
vợ hiền đưa tiễn chồng: “thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong
hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về được hai chữ bình
Phạm Nguyễn Thục Linh 2
yên thế là đủ rồi”. Rồi nàng “ lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, lại
thổn thức tâm tình thương người đất thú.”. Qua lời nói và hành động
chân thành ấy, thể hiện rõ tình yêu thương chồng da diết của Vũ
Nương. Trong những tháng ngày xa cách chồng, nàng chẳng dám “ tô
son điểm phấn”, “ ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”, “ cách biệt ba
năm giữ gìn một tiết”, nỗi nhớ mong khắc khoải, sự lo lắng cho
chồng, giữ gìn tiết hạnh của người vợ trẻ càng khiến chúng ta phải
khâm phục, ca ngợi. Cứ ngỡ rằng, một người phụ nữ dịu dàng, có
nhiều phẩm chất tốt đẹp, “đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng”
như vậy lẽ ra phải được hưởng niềm hạnh phúc. Thế nhưng, cuộc đời
luôn chứa đựng sự bất công, ngang trái. Vũ Nương là một người phụ
nữ chịu nhiều đau khổ, phải lấy cái chết để minh oan. Sau ba năm đi
lính, Trương Sinh trở về. Vì nghe lời con trẻ nên Trương Sinh tỏ thái
độ ngờ vực, nghi oan cho vợ. Vũ Nương đã nhiều lần thanh minh,
được “họ hàng, làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng”, hầu
mong hàn gắn hạnh phúc gia đình, mong được chồng bảo vệ nhưng
Trương Sinh một mực không tin, “mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi
đi”. Khi nhận thấy không thể nào xóa tan được mối nghi ngờ, bị hạ
thấp phẩm giá, nàng quyết định lấy cái chết để minh oan cho sự trong
sạch của mình. Mặc dù nàng được cứu sống và sống sung sướng dưới
thủy cung nhưng với lòng yêu chồng, thương con sâu sắc, lòng nàng
lúc nào cũng mong ngóng được gặp lại chồng con của mình, dù chỉ Phạm Nguyễn Thục Linh 3
trong chốc lát. Nỗi đau không được quyền làm mẹ, làm vợ đó chính
là nỗi đau lớn nhất của người phụ nữ. Thật là oan hơn Thị Kính. Bởi
vì Thị Kính biết rõ nguyên nhân mình bị oan. Còn Vũ Nương chỉ
biết mình bị chồng kết tội mà không rõ nguyên cớ. Thật là thương
tâm, thật là đau lòng khi nghe lời nguyện thống thiết của Vũ
Nương :“ Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con ruồng
bỏ, tiếng chịu nhuốc nhơ,…”. Thật là môt tiếng khóc nghẹn ngào ai
oán của Vũ Nương hay là tiếng kêu chung cho những kẻ hồng nhan
bạc mệnh thời bấy giờ. Tuy rơi vào cảnh bất hạnh, thương tâm nhưng
người phụ nữ xưa kia vẫn luôn khao khát khẳng định phẩm chất của
mình, vẫn muốn mình được giải oan, vẫn “phải tìm về có ngày”. Tại
sao một người phụ nữ như Vũ Nương lại phải chịu quá nhiều đau
khổ, và oan ức đến như thế? Trương Sinh vốn “con nhà hào phú
nhưng không có học” lại có tính đa nghi, ghen tuông vô cớ. Cái chết
của Vũ Nương là lời tố cáo sự bất công của xã hội phong kiến, xã hội
nam quyền độc đoán và lên án chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi niềm
hạnh phúc của biết bao nhiêu người. Gía như không có cuộc đi lính
và Trương Sinh chịu lắng nghe, biết quan sát, biết nhìn nhận vấn đề
từ nhiều phía, khách quan thì có lẽ Vũ Nương đã không bị đẩy tới
bước đường cùng của vực thẳm dẫn đến cái chết. Cảm thông được
nỗi đau khổ, oan ức, đắng cay của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến, Nguyễn Dữ đã tạo thêm yếu tố kì ảo hoang đường để nâng cao
Phạm Nguyễn Thục Linh 4
giá trị tư tưởng của tác phẩm. Chính nhờ chi tiết thần kì như trong
chuyện cổ tích đã giúp cho Trương Sinh nhận ra ân tình của vợ dành
cho mình, nhận ra nỗi oan ức của vợ, còn Vũ Nương thì gặp được
chồng để giải mối oan nhục nhã nhất của đời làm vợ. Các yếu tố
hoang đường xen kẽ với yếu tố địa danh lịch sử từ sự kiện đến nhân
vật làm cho thế giới huyền ảo mơ hồ trở nên gần gũi với cuộc sống
thực. Đó là sự sáng tạo trong việc xây dựng cốt truyện của tác giả.
Tác phẩm có sự kết hợp giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả,
giữa văn xuôi và văn biền ngẫu, lời văn cô đọng, xúc tích tạo sự xúc
động nơi người đọc. Cách dẫn dắt các tình tiết câu chuyện hấp dẫn,
cách thắt nút bất ngờ (câu nói của bé Đản), cách gỡ nút thật tự nhiên
( cũng chính là câu nói của bé Đản). Các chi tiết trong truyện được
tác giả liên kết theo kiểu quan hệ nhân quả nên rất chặt chẽ, các tình
tiết diễn ra một cách tự nhiên và hợp lí. Vì nước có loạn binh đao nên
chàng mới ra trận. Vì chàng ra nơi biên thùy nên nàng phải lo toan,
nặng gánh gia đình chồng. Vì con thơ hỏi mẹ về cha nên mẹ đã
mượn cái bóng của mình thay thế, để cho con đỡ tủi. Vì nghe lời con
trẻ nên Trương Sinh mới nghi ngờ vợ… Tất cả những chuỗi sự việc
ấy diễn ra đầy kịch tính và kết thúc một cách có hậu. Truyện “ Người
con gái Nam Xương” không những có giá trị đạo lí, lịch sử mà nó còn
có giá trị nghệ thuật xây dựng cốt truyện.
Phạm Nguyễn Thục Linh 5
Thật vậy hình tượng nhân vật Vũ Nương là một hình ảnh tiêu
biểu cho xã hội phong kiến cũ. Họ là những người chị, người vợ,
người mẹ đảm đang nhưng lại có số phận nghiệt ngã, đầy bi kịch, rất
thương tâm trong xã hội cũ. Họ luôn bị ràng buộc trong giáo điều
phong kiến hà khắc, bởi quan niệm trọng nam khinh nữ. Vì thế họ
không nói lên được tiếng nói của mình về quyền được sống, quyền
được tự do, được đấu tranh cho những quyền lợi của mình. Mặc dù
bị xã hội chà đạp, nam quyền lên ngôi thống trị nhưng Vũ Nương,
Thúy Kiều, Kiều Nguyệt Nga,… vẫn luôn toát lên phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ Việt Nam… Ngày nay, sống giữa xã hội nam nữ
bình quyền, thì truyện “ Người con gái Nam Xương” là cột mốc để so
sánh vai trò của phụ nữ trong văn học xưa và nay. Nội dung của
truyện là một bài học đạo đức truyền thống tốt mà phụ nữ Việt Nam
luôn gìn giữ và phát huy: yêu chồng, thương con, chung thủy, hiếu
thảo... Chính vì thế mà cho tới nay, truyện “Người con gái Nam
Xương” vẫn còn lôi cuốn được người đọc.
Phạm Nguyễn Thục Linh 6