phẠm thỊ hỒng ngỌc -...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------
PHẠM THỊ HỒNG NGỌC
ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Hà Nội- 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
PHẠM THỊ HỒNG NGỌC
ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC
CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ VĂN ĐỨC
Hà Nội- 2015
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra từ đầu thế kỉ XX đến Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo ra những chuyển biến mang tính bước ngoặt cho
nền văn học dân tộc, tạo đà cho văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đạt được
những thành tựu rực rỡ. Trong khoảng thời gian gần nửa thế kỉ, nền văn học đã xuất
hiện một đội ngũ nhà văn đông đảo, có tài năng và tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị.
Một trong số đó là Nguyễn Tuân- một nhà văn lớn, có phong cách tài hoa, độc đáo.
Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng
đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. Ông là “một trong mấy
nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX” (Nguyễn
Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một
vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa
như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo lên các giá
trị mới.
Trong hơn 50 năm cầm bút, với tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, ông
đã để lại một di sản văn học đồ sộ, với nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn,
phóng sự, tùy bút... làm phong phú, đa dạng cho nền văn học Việt Nam hiện đại.
Trên hành trình sáng tạo đầy nhọc nhằn nhưng cũng đầy vinh quang, Nguyễn Tuân
giống như một người “phu chữ” cần mẫn, kiên trì trên cánh đồng nghệ thuật để cho
ra đời những áng văn chương mà mỗi khi đọc nó, ta như được khai sáng về vẻ đẹp
của chữ nghĩa. Bởi vậy, văn của Nguyễn Tuân cũng rất kén độc giả, “chỉ người ưa
suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn
để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan).
Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung ở ba đề tài
lớn: Đề tài xê dịch, giang hồ; đề tài viết về quá khứ và đề tài về cuộc sống hưởng
lạc. Dù viết về đề tài nào thì ở nơi mạch ngầm của các trang sách vẫn là lòng yêu
nước thiết tha, tinh thần dân tộc sâu sắc. Qua luận văn này, chúng tôi muốn tìm hiểu
một phần trong những đóng góp quan trọng của ông. Đó là Đề tài quá khứ trong
sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, độc đáo và có cá tính mạnh nên từ trước đến
nay có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về Nguyễn Tuân. Ở đề tài viết về quá
khứ, nhiều nhà nghiên cứu đã có những bài viết khá sâu sắc, giúp người đọc khám
phá giá trị ẩn tàng trong từng trang viết của nhà văn. Tuy nhiên, đó chỉ là những bài
viết đơn lẻ, chưa thành hệ thống, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu
nghiên cứu về đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.
Bản thân tôi luôn hứng thú, say sưa và yêu mến những trang viết tài hoa của ông. Đi
sâu tìm hiểu về đề tài này, tôi có cơ hội bổ sung, trau dồi kiến thức về Nguyễn Tuân
thêm phong phú, vững vàng; có thêm hiểu biết về vẻ đẹp văn hóa tinh thần của một
thời đã xa, thêm trân trọng và giữ gìn vẻ đẹp đó trong thời đại mới, cũng như mang
lại cái nhìn rộng mở hơn khi giảng dạy các tác phẩm của ông trong nhà trường.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Kể từ khi xuất hiện trên văn đàn, văn chương và con người Nguyễn Tuân luôn
trở thành đề tài gây sự chú ý cho người đọc nói chung và cho các nhà nghiên cứu
nói riêng. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con người và
sáng tác của ông
2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung
Những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm nói chung: Có thể nói
người tiên phong đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu này chính là Nguyễn Đăng
Mạnh. Ông cũng là người nghiên cứu về Nguyễn Tuân một cách khá toàn diện và
sâu sắc. Từ bài tiểu luận in ở đầu Tuyển tập Nguyễn Tuân (2 tập, năm 1984-
1986) và bài giới thiệu trong Toàn tập Nguyễn Tuân (1988), bên cạnh đó ông còn
có bài viết Nguyễn Tuân- một phong cách độc đáo và tài hoa, Nguyễn Đăng
Mạnh đã giúp người đọc có sự nhìn nhận khách quan về nhà văn. Ông đã phân tích
một cách sâu sắc, thấu đáo sự nghiệp, quan điểm, phong cách nghệ thuật, đặc trưng
thể loại của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến nét nổi bật ở
nhà văn Nguyễn Tuân đó là cá tính Ngông: “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như
để chơi ngông với thiên hạ. Về căn bản đó là phản ứng của chủ nghĩa cá nhận kiêu
ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc (…). Nhu cầu chơi
ngông buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cái cực đoan, thậm chí
tới mức trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết” [34, tr. 288]. Nhà nghiên cứu còn
nhấn mạnh đến đến cái tôi của nhà văn Nguyễn Tuân như một yếu tố có tính quyết
định tới phong cách riêng của nhà văn. Ngoài ra, Nguyễn Đăng Mạnh còn có những
nhận xét rất sâu sắc về ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân có một
kho từ vựng hết sức phong phú… Không chỉ tích lũy những từ sẵn có, ông luôn luôn
có ý thức sáng tạo từ mới và cách dùng từ mới…”. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ
cũng đánh giá cao về Nguyễn Tuân. Qua quá trình Lột xác đầy trăn trở của Nguyễn
Tuân sau Cách mạng, Phan Cự Đệ cũng đưa ra lý giải một cách sâu sắc: “Sau Cách
mạng nhà văn không đối lập hai yếu tố thẩm mĩ và xã hội nhưng anh vẫn nắm bắt
nhanh những mặt đẹp, nhạy cảm với cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ”. Từ đó,
người ta thấy Nguyễn Tuân và văn chương của ông là một mảnh đất màu mỡ, đầy bí
ẩn mời gọi các nhà nghiên cứu đến tìm tòi và khám phá. Rất nhiều bài viết và công
trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác ra đời: Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn
Tuân- huyền thoại một thời của Vương Trí Nhàn; Nguyễn Tuân, ngƣời săn tìm
cái đẹp của Nguyễn Trung Thành. Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong
sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Thị Thanh Minh, Nguyễn Tuân và cái đẹp của
Hà Văn Đức. Những bài viết của các tác giả kể trên đều đi sâu vào quan niệm thẩm
mỹ của Nguyễn Tuân để phát hiện ra cái đẹp qua các tác phẩm của nhà văn ở cả hai
giai đoạn sáng tác. Bên cạnh đó là những bài viết ghi lại hồi ức, kỷ niệm về Nguyễn
Tuân của gia đình, bạn bè nhà văn. Đó là những tư liệu quý giá giúp ta hiểu thêm về
tài năng và nhân cách nhà văn.
Nhắc đến Nguyễn Tuân không thể không nói tới thể loại tùy bút. Ở đây, có thể
kể ra những bài nghiên cứu tiêu biểu: Nguyễn Tuân trong tùy bút của Phong Lê;
Nguyễn Đăng Mạnh có bài Thể tài tùy bút của Nguyễn Tuân (Trích trong lời giới
thiệu cuốn Tuyển tập Nguyễn Tuân. Những bài viết này làm rõ mối quan hệ giữa
chủ thể văn tùy bút với sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật và dấu ấn độc đáo cũng như
sở trường của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “cá tính
và phong cách của Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tùy bút như là một tất yếu. Trong
văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan nhất và tự do nhất” . Nhà nghiên cứu Hà Văn
Đức có bài Tùy bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám (Một số đặc điểm
thể loại) in trong tập Năm mƣơi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng
Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996) đã đưa ra nhiều đánh giá và nhận định
sâu sắc về những đặc điểm của tùy bút Nguyễn Tuân xét về mặt thể loại.
2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân.
Nhà văn Thạch Lam trong bài Đọc lại Vang bóng một thời (in trên tạp chí
Ngày nay, số 212, ngày 15 Juin 1940) đã phát hiện ra mảng đề tài quá khứ trong
sáng tác của Nguyễn Tuân ngay khi ông xuất hiện trên văn đàn. Thạch Lam cho
rằng: “Có lẽ thu nhặt và kể lại những truyện, việc ngày xưa là một việc đáng chú ý,
nhưng mà dễ. Nhưng phải yêu mến dĩ vãng, phải tiếc thương và muốn vớt lại những
vẻ đẹp đã qua, mới có thể làm sống lại cả một thời xưa được. Vì cái ý ấy, Nguyễn
Tuân cũng đáng cho chúng ta cảm ơn rồi. Tác phẩm của ông lại có một giá trị sáng
tác và văn chương đặt ông vào địa vị một nhà văn cho chúng ta nhiều hy vọng.
Vang bóng một thời là một sản phẩm đáng quý, đánh dấu bước đường trở lại tìm
những cái đẹp xưa mà các nhà văn ta thường xao nhãng” [24, tr. 91]. Thạch Lam
đã tỏ ra rất tinh tế khi phát hiện ra giá trị sáng tác và văn chương của Nguyễn Tuân
ngay từ buổi ban đầu. Năm 1971, Phan Cự Đệ trong bài viết Đọc lại Vang bóng
một thời của Nguyễn Tuân đã lần đầu tiên đề cập đến hệ thống nhân vật trong tập
truyện Vang bóng một thời. Còn Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về truyện ngắn
Nguyễn Tuân trước Cách mạng đã phát hiện ra “chất mĩ học hoài cựu”. Ông cho
rằng nhà văn đã biết dựng lại cái cổ xưa bằng khả năng của bút pháp, kỹ thuật hiện
đại. Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa tiểu sử và tác phẩm, ông chỉ ra “Nguyễn Tuân
đã sống Vang bóng một thời trước khi viết Vang bóng một thời” [34, tr. 260]. Tiếp
nối những người đi trước, nhà nghiên cứu Hà Văn Đức đã có một bài viết sâu sắc,
công phu và toàn diện về sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng ở Chương
XII của Giáo trình Văn học Việt Nam (1900- 1945), NXB Giáo dục, 1998. Ông
đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu khác khi chỉ ra ba mảng đề tài lớn trong
sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng: đề tài xê dịch, đề tài quá khứ và đề tài
về cuộc sống trụy lạc. Khi nhận định về mảng đề tài quá khứ, nhà nghiên cứu cho
rằng: “Thất vọng trước hiện tại, Nguyễn Tuân lại quay ra tìm kiếm một con đường
khác- con đường tìm về quá khứ, tìm kiếm trong quá khứ những gì có thể mang lại
đôi chút hơi ấm, soi rọi ít nhiều tia nắng và niềm tin cho cuộc sống đang lạnh lẽo,
tối tăm” [8, tr. 605]. Nhận xét về những giá trị tích cực nhất trong sáng tác Nguyễn
Tuân trước Cách mạng tháng Tám, ông khẳng định: Đó là tinh thần dân tộc biểu
hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống, trong đó phải kể đến sự gắn
bó, trân trọng tiếng mẹ đẻ của nhà văn. Nghiên cứu Nguyễn Tuân theo hướng thi
pháp học có bài viết Chất thơ trong Vang bóng một thời trong cuốn Thi pháp
hiện đại (2000) của Đỗ Đức Hiểu. Ông đã cho rằng ở Vang bóng một thời có ba
motif: motif buổi chiều máu, motif sương mờ, motif liêu trai; và chỉ ra: “Vang bóng
là chất thơ bao trùm ba motif trên; một thời chỉ rõ một thời kỳ lịch sử cụ thể, lúc
giao thời. Nguyễn Tuân, con người lãng tử, khí phách, độc lập ấy đã nhìn sâu vào
lịch sử bằng con mắt nghệ sĩ, tìm thấy một phương diện cái đẹp, cái hào hùng và
cái thuần khiết của tâm hồn trong buổi giao thời nhập nhoạng, một thời kỳ lịch sử
bị bạo lực vi phạm thô bạo” [18, tr. 34]. Từ motif ông đi vào tìm hiểu không gian-
thời gian, nhân vật và ngôn ngữ của tác phẩm để đưa ra những luận giải, khái quát
rất tinh tế. Có thể thấy, những nghiên cứu của các tác giả kể trên đã đi tìm hiểu đề
tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng để phát hiện ra giá trị
nhân văn cùng bút pháp nghệ thuật đặc trưng của nhà văn. Kế thừa những phát hiện
của các nhà nghiên cứu đi trước, cùng sự hứng thú với những giá trị văn hóa cổ
truyền của dân tộc mà ngày nay đã mai một được miêu tả trong những sáng tác của
Nguyễn Tuân trước Cách mạng, trong luận văn này chúng tôi đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp
quá khứ trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Nhìn chung, lịch sử nghiên cứu những vấn đề về Nguyễn Tuân cho đến nay đã
quá nửa thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, nhiều ý kiến trái chiều, người khen khen
không ngớt, người chê, chê không tiếc lời nhưng cùng với thời gian, vị trí và giá trị
văn chương của Nguyễn Tuân trên văn đàn ngày càng được khẳng định vững vàng.
Sự độc đáo, một “cái tôi ngông ngạo” của nhà văn ngày nào bị “ném đá” thì nay lại
trở thành niềm say mê, hứng thú với lớp hậu thế. Di sản văn chương của ông trở
thành mảnh đất mỡ màu, được nhiều nhà nghiên cứu “canh tác” và gặt hái được
những thành tựu to lớn. Công trình của các nhà nghiên cứu trên đã góp phần làm
sáng tỏ nhiều vấn đề trong sáng tác của Nguyễn Tuân và có nhận định chính xác về
những đóng góp của nhà văn với nền văn học dân tộc. Đồng thời, công trình của các
nhà nghiên cứu cũng gợi mở đề tài cho các thế hệ sinh viên, học viên cao học
chuyên ngành Ngữ văn trên con đường khởi đầu nghiên cứu khoa học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.
Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích, lý giải Đề tài
quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng. Đây là một đề tài
rất lý thú và hấp dẫn song cũng đầy thử thách. Song với niềm say mê đặc biệt với
nhà văn, chúng tôi góp phần làm nổi rõ thành công của Nguyễn Tuân ở cả hai
phương diện nội dung, nghệ thuật và cả hạn chế trong sáng tác của ông trước Cách
mạng.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tƣợng:
Các đề tài sáng tác của Nguyễn Tuân rất đa dạng nhưng ở luận văn này chúng
tôi nghiên cứu tìm hiểu những đóng góp của Nguyễn Tuân ở đề tài viết về quá khứ
trong những sáng tác của ông trước Cách mạng. Ở đề tài này, chúng tôi nhận thấy
nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa, nghệ sĩ và phô diễn một pho hiểu biết sâu sắc
về vẻ đẹp của một thời đã xa nay dần phai loãng trước sự tấn công ào ạt của văn hóa
phương Tây, sự nô dịch văn hóa trong chính sách cai trị của thực dân Pháp cùng
những biến động của lịch sử. Những tác phẩm của ông như những thước phim tư
liệu quý tái hiện cho thế hệ sau hiểu biết rõ hơn về đời sống của ông cha ta trong
quá khứ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Dẫu biết khuôn khổ của một luận văn có những giới hạn nhất định về dung
lượng nhưng chúng tôi vẫn cố gắng khảo sát để bước đầu có một cái nhìn toàn diện
và sâu sắc hơn về toàn bộ những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, đặc
biệt là tập truyện ngắn Vang bóng một thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kế thừa thành tựu của những công trình nghiên cứu đi trước, kết hợp
sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp hệ thống: nhằm nghiên cứu những sáng tác trước Cách mạng của
nhà văn Nguyễn Tuân theo một hệ thống từ hành trình sáng tác, quan điểm nghệ
thuật, các đề tài chính và những đặc sắc nghệ thuật.
- Phương pháp phân tích- tổng hợp: nhằm tìm hiểu đặc sắc về nghệ thuật trong các
sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân từ chi tiết, cụ thể đến khái quát giúp cho việc
nghiên cứu có sức thuyết phục cao.
- Phương pháp so sánh: được tiến hành ở một số nét tiêu biểu về nghệ thuật sáng tác
trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân với các nhà văn, nhà thơ khác để tìm
ra nét riêng độc đáo của nhà văn này.
- Phương pháp loại hình: nhằm để khảo sát và phân loại sáng tác của Nguyễn Tuân
trước Cách mạng, giúp người nghiên cứu nắm bắt các hiện tượng trong mối quan hệ
tổng thể, bao quát; đồng thời phát hiện nét độc đáo, khác biệt, từ đó đánh giá được
những đóng góp và của Nguyễn Tuân vào quá trình hiện đại hóa văn học và thành
tựu của ông trong nền văn học Việt Nam.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai trong
ba chương:
Chương 1: Hành trình sáng tác và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước
Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Chương 2: Những cảm hứng lớn trong đề tài viết về quá khứ của Nguyễn Tuân
trước Cách mạng.
Chương 3: Những đặc sắc nghệ thuật.
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT
CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945.
1.1. Hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám
Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của Nguyễn Tuân cho đến
trước năm 1937 hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu
ấy chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu
như Giang hồ hành (thơ), Vƣờn xuân lan tạ chủ (truyện ngắn) những tín hiệu của
một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt
nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử,
nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn
người.
Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện
thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà
phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rƣợu lậu, Mƣời năm trời mới gặp
lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển rất
mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng,
Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm một vị
trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng
thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình.
Nguyễn Tuân chỉ thực sự được công nhận như một phong cách văn chương
độc đáo kể từ tùy bút - du ký Một chuyến đi (1938). Tác phẩm là tập hợp những
trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện
bộ phim Cánh đồng ma. Nét đặc sắc nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu. Có
thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một
giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo: “Khi thì trang nghiêm cổ kính,
khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như
là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất
đỗi tài hoa” [34, tr. 255]. Nhân vật chính trong tác phẩm là cái tôi ngông nghênh
kiêu bạc của nhà văn. Một cái tôi sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài
nghi tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của
mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.
Một năm sau, 1939, với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã
vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm góp phần đưa nghệ thuật văn
xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. Tác
phẩm được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.
Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi
vào ngõ cụt. Nếu như ở Thiếu quê hƣơng (1940), Chiếc lƣ đồng mắt cua (1941)
tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái Tôi vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý
thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái Tôi ấy nhưng đã có
vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống
tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc.
Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy
lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay
tiêu đề các tác phẩm Xác ngọc lam, Ðới roi, Rƣợu bệnh, Loạn âm cũng đủ nói lên
tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.
Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng
tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ
Vang bóng một thời trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn
vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng
việc khám phá và đề cao cái tôi cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả
vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang
viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm
sâu sắc bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, gắn bó tha thiết với quê
hương bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị, cả trong những thời điểm khắc nghiệt
nhất.
1.2. Các đề tài chính trong các sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng
1.2.1. Đề tài giang hồ, xê dịch
Sự tiếp xúc với văn học phương Tây hồi đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng lớn đến
văn học Việt Nam. Nhiều trào lưu, chủ nghĩa có nguồn gốc từ phương Tây đã du
nhập vào nước ta và được các nhà văn, nhà thơ Việt Nam tiếp nhận nồng nhiệt. Chủ
nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân là một thứ lí thuyết vay mượn từ văn học phương
Tây mà các đại diện tiêu biểu là A. Gide, Pôn Môrăng, nhà triết học Đức Friedrich
Nietzsche…A. Gide (1869- 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng nước
Pháp thế kỉ XX, từng đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Ông là người rất ham mê
du lịch khắp nơi trên thế giới. Câu nói nổi tiếng Pôn Môrăng đã được Nguyễn Tuân
lấy làm lời đề tựa cho tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng của mình: “Ta chỉ muốn rằng
sau khi ta chết đi, người ta lột da ta để làm một chiếc va li”. Thêm vào đó, phong
trào dịch thuật phát triển đã tạo điều kiện cho lớp công chúng văn học thành thị,
trong đó có các nhà văn được biết đến các tiểu thuyết phiêu lưu giả tưởng của các
nhà văn phương Tây như: Robinson Crusoe của nhà văn Anh Daniel Defoe (1660-
1731); Hai vạn dặm dƣới biển của nhà văn Pháp Jules Verne (xuất bản ở Pháp
năm 1870); các nhân vật trong tiểu thuyết của Satôbriăng du lịch sang châu
Mỹ…Còn ở phương Đông là tiểu thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân (1506?-
1581), hình ảnh tài tử, lãng mạn của những thi nhân thích du lịch trong thơ ca đời
Đường như Lý Bạch (701- 762), Đỗ Phủ (712- 770); cùng với đó là ý thức về cái
“tôi”- con người cá nhân giữa cuộc đời trở thành những động lực mạnh mẽ thôi thúc
các nhà văn Việt Nam lên đường sau khi đọc xong và gửi gắm niềm đam mê trong
các tác phẩm của chính mình. Còn văn học Việt Nam, nhiều tác giả thích cuộc sống
lãng du và say mê thể hiện vẻ đẹp của non sông đất nước trong tác phẩm của mình
như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, đặc biệt là
lối sống phóng túng của Tản Đà đã ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành tính cách và
sở thích xê dịch ở Nguyễn Tuân.
Trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, giang hồ xê dịch còn trở
thành thứ “bệnh” của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong các nhà văn của nhóm Tự Lực
Văn Đoàn, Nhất Linh đã dành tình cảm ưu ái cho nhân vật Dũng- người khách
chinh phu có chí khí, gác tình riêng để dấn thân vào “cuộc đời phiêu lưu hoạt động”
trong tiểu thuyết luận đề Đoạn tuyệt và Đôi bạn. Thế Lữ (1907- 1989) là nhà thơ
Mới nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930 với hình ảnh người khách chinh
phu đưa “gót lãng du” khắp “chốn hải hồ” trong Giây phút chạnh lòng(1937) và
các truyện ngắn kinh dị như Vàng và máu, truyện ngắn lãng mạn núi rừng như Gió
trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh; hình ảnh li khách trong Tống biệt hành (1944)
của Thâm Tâm; hình ảnh người lãng tử giang hồ với những mùa xuân tha hương
trong thơ Nguyễn Bính; hình ảnh cậu bé đa cảm, chớm ôm mộng giang hồ trong bài
thơ Những ngày nghỉ học (1938) của Tế Hanh… Bên cạnh đó, các bạn văn cùng
thời với Nguyễn Tuân như Nam Cao, Tô Hoài cũng rất thích cuộc sống xê dịch, nửa
đêm nghe tiếng còi tàu hỏa đã gợi hứng lên đường. Chính những chuyến “giang hồ
vặt” này đã giúp các nhà văn, nhà thơ có nguồn tư liệu thực tế phong phú để phục
vụ công việc viết lách của mình. Khác với các nhà văn cùng thời, Nguyễn Tuân
giang hồ chỉ để chơi, đi không vì mục đích nào cả, đi chỉ là đi, đi không xác định
địa điểm trước. Trong những người ưa xê dịch, có lẽ Nguyễn Tuân là người đi xa
nhất, viết nhiều nhất, đam mê nhất. Sáng tác của ông mang tính chất điển hình, sâu
đậm, đỉnh cao hơn cả về chủ nghĩa xê dịch.
Không chỉ chịu ảnh hưởng của phương Tây và nền văn học phương Đông mà
sở thích này xuất phát từ chính Nguyễn Tuân bởi ông là người có cá tính độc đáo và
ý thức cá nhân phát triển cao. Ham mê xê dịch còn là một “gen trội” mà Nguyễn
Tuân được thừa hưởng từ gia đình khi ông nội và bố ông đều là những người có một
dĩ vãng “lang bạt kì hồ”. Là người tự do, phóng túng, ông quan niệm “đời là một
trường du hý”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Nếu nói “văn là người” thì điều
này rất đúng với Nguyễn Tuân. Ông viết văn như để chơi ngông với đời. Những gì
người khác cho là nghịch lí, nghịch thuyết thì ông đẩy nó lên thành chủ nghĩa tới
mức cực đoan. Ham du lịch, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này thành lý
thuyết- “chủ nghĩa xê dịch”. Học theo chủ nghĩa xê dịch, nhà văn thể hiện khát khao
thích phiêu lưu, thèm khát những cảm giác mới lạ, những nẻo đường, những miền
đất mới, được gặp gỡ muôn mặt người trên con đường giang hồ mê mải. Những
điều này đã cùng gặp gỡ nhau nơi con người Nguyễn Tuân để rồi những trang viết
được thăng hoa qua ngòi bút của ông. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân
đã viết một loạt những tác phẩm thể hiện niềm đam mê cuộc sống giang hồ lãng du
của mình như Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hƣơng (1943), Tùy bút I (1941),
Tùy bút II (1943)…
Là một nhà văn có cá tính mạnh mẽ, phóng túng, trước sự ngột ngạt của xã
hội thực dân nửa phong kiến “ối a ba phèng” đương thời, đi và viết với Nguyễn
Tuân là một sự giải thoát khỏi những bế tắc, chán chường trong cuộc sống. Đó cũng
là phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức
sống nhưng không tìm được lối thoát. Hơn nữa, là nhà văn của những tính cách độc
đáo, những cảm giác mãnh liệt, Nguyễn Tuân không thích cái gì bằng phẳng, nhợt
nhạt, khuôn phép, yên ổn, cầu toàn. Với Nguyễn, đi là để “thay đổi thực đơn cho
giác quan”, hồ hưởng cho hết những sinh thú bất thình lình và những cảm xúc
không chờ đợi. Ông thích khám phá những phong cảnh tuyệt mĩ của gió bão, núi
cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội…
Trước Cách mạng, hình tượng những cơn gió được nói đến khá nhiều trong tác
phẩm của Nguyễn Tuân về đề tài xê dịch. Trong tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng, hình
ảnh những cơn gió giục khách lên đường, khích lệ con người sống mạnh mẽ: “Có
những trận gió nó bảo người ta rằng cái lối sống câu dầm là một điều thất sách và
những hy vọng tự chế ra để giữ mình chỉ là một cách chết mòn. Tất cả, hoặc là
không có gì. Gió chỉ thổi một chiều” [34, tr. 423]. Đối với những con người lấy sự
đi lại làm mục đích của cuộc đời như Bạch, Vi, Sương, Hoàng,… thì những cơn gió
có một sức hấp dẫn kì lạ, khó có thể cưỡng lại được “cũng như mùi vị gió lúc này
trên sông mưa, khói tẩu thuốc buổi lữ hành này có một hương vị cuốn rũ” và “thấy
gió đã khởi, người ta liền lên đường”. Gió ở vùng mỏ Vàng Danh bị quẩn trong
vùng thung lũng, xung quanh là những ngọn núi bao vây nên muốn tìm con đường
để thoát, nên nó dữ tợn, phá phách và nổi loạn. Trong cái gió vùng mỏ ấy người ta
nhận ra chính con người “bất đắc chí” của Nguyễn Tuân. Có lúc gió là hình tượng
mà nhà văn gửi gắm tâm trạng cô đơn, buồn nản: “Gió sông rộng có cả sức tò mò
của một trận gió vàng. Mỗi đợt gió lọt vào khoang thuyền là một sự tọc mạch đến
chuyện riêng của lòng. Tôi trằn trọc, thèm muốn một tấm chăn đơn” (Cửa Đại).
Ngay cả những lúc bế tắc nhất, Nguyễn cũng xem gió như một người bạn tri âm,
chia sẻ khỏa lấp nỗi buồn: “Gió biển giục tôi nghĩ đến một việc gì nên làm ngay đi
kẻo lại muộn lỡ mất” (Võng ngô đồng). Gió Vàng Danh kết hợp với thứ gió giang
hồ kêu gọi người ta chống gậy lên đường, tạo thành một hệ thống các hình tượng về
gió trước Cách mạng của Nguyễn Tuân. Nó biểu hiện một trạng thái mất cân bằng,
bế tắc, quẩn quanh, một thái độ phá phách, nổi loạn với cái xã hội “ối a ba phèng”
lúc bấy giờ.
Cùng với hình tượng gió, Nguyễn Tuân cũng hay nói đến những con đường vô
định. Bút kí Một chuyến đi đã ghi lại những hình ảnh và cảm xúc của một kẻ lữ
hành nơi chân trời, góc bể, nơi lạ người lạ cảnh. Đi đã trở thành một lí tưởng, một
triết lí sống của Nguyễn Tuân. Chính vì vậy mà nhà văn nguyện được lăn mãi vỏ
mình trên con đường vô định: “Tôi sống với ngoài đường, với những con người đi
trên đường, với cái luân lí của người khách bộ hành” (Chiếc va li mới). Với
Nguyễn, bất kể là thứ đường gì, xê dịch bằng phương tiện gì, dẫu có phải ngồi trên
một chiếc hồ lô lăn đường cũng là một thứ cứu cánh tốt đẹp cho một tâm hồn cô
đơn, bất lực, quẩn quanh và bế tắc. Trong Thiếu quê hƣơng, nhân vật Bạch chỉ
luôn thèm muốn được đổi chỗ, được rong ruổi trên những con đường dài hun hút,
không có chỗ bắt đầu mà cũng chẳng có điểm kết thúc. Họ tha lê cái đầu rỗng tuếch,
cái thân tàn tạ trên đường đời, cái phẫn uất ngàn năm không gột rửa, chỉ biết lấy xê
dịch làm cứu cánh.
Hình tượng nhân vật hay những hình ảnh trở đi trở lại trong văn Nguyễn Tuân
chính là lăng kính phản ánh chính con người ông. Hình ảnh chàng Nguyễn trước
Cách mạng có phần nào đó sống vô trách nhiệm, kiêu bạc, chán chường, không lối
thoát trước cuộc đời. Tuy nhiên, trong cách phản ứng có phần tiêu cực của người
thanh niên có cá tính mạnh mẽ ấy, ta cũng nhận ra tình yêu đất nước thầm kín, là lời
bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết với cảnh sắc và phong vị đất nước bằng một ngòi
bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa, tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ sống giữa
quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương. Không chỉ thế, Nguyễn Tuân đã
thực sự sống xê dịch trước khi viết về xê dịch. Những quan niệm về xê dịch của nhà
văn cũng không giống thái độ mục đích du lịch thông thường mà thực sự đã trở
thành một hệ thống tư tưởng, lý thuyết chủ nghĩa độc đáo. Sở thích lãng du, thậm
chí dám vượt biên giới để tìm kiếm và trải nghiệm những cảm giác khác lạ của nhà
văn đã thắp lên ngọn lửa sự sống đang lụi tàn trong tâm hồn không ít thanh niên tâm
huyết với đất nước mà bất lực trước thời cuộc đương thời.
1.2.2. Đề tài viết về vẻ đẹp quá khứ
Chủ nghĩa lãng mạn thường biểu hiện ở sự chối bỏ thực tại, vượt lên thực tại
buồn chán, bế tắc, hoặc hướng về tương lai hay ngoảnh lại quá khứ, hoặc khao khát,
bay bổng với hiện tại được mộng ảo hóa. Trong khi văn học Việt Nam 1930- 1945
phân hóa thành nhiều xu hướng, nhiều dòng văn học với những đề tài, chủ đề khác
nhau thì dòng văn học lãng mạn xuất hiện đề tài viết về quá khứ. Đề tài viết về quá
khứ nằm trong phong trào phục cổ, phong trào suy tôn Khổng giáo và bảo tồn quốc
túy mà Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, các tạp chí Nam phong, Đông Dương tạp
chí và Nhà xuất bản Alechxandre de Rhodes của thực dân Pháp phát động. Trở về
quá khứ cũng là một trong những con đường thoát ly của chủ nghĩa lãng mạn. Bên
cạnh đó, ta thấy lúc này ý thức cá nhân phát triển, các nhà văn, nhà thơ thất vọng
trước cuộc sống hiện tại ngột ngạt, bế tắc nên có xu hướng trở về quá khứ.
Người ta trở về quá khứ với nhiều tâm trạng phức tạp. Huy Thông muốn tìm
trong lịch sử một giấc mộng anh hùng (Hạng Vũ, Kinh Kha). Chế Lan Viên quay về
quá khứ để nhớ tiếc một dân tộc điêu tàn (Trên đƣờng về, Chiến tƣợng). Vũ Đình
Liên trở về xu hướng hoài cổ mong tìm lại chút “hồn xưa” của dân tộc. Thế Lữ đã
mượn lời của con hổ trong vườn Bách Thú để thể hiện sự khác biệt giữa quá khứ và
hiện tại trong bài thơ Nhớ rừng. Huy Cận trở về với nét Đẹp xƣa với chút buồn
man mác. Nguyễn Nhược Pháp tươi tắn và hồn nhiên hướng về Ngày xƣa với bao
huyền thoại đẹp đẽ. Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu- một người luôn nghĩ đến cuộc đời
hiện tại, cũng có lúc chán nản với “cuộc thế ao tù” lại trở về “chiêu hồn sương quá
khứ”. Còn nhà văn Ngô Tất Tố lại trở về quá khứ bằng việc tái hiện chế độ khoa cử
phong kiến qua tiểu thuyết Lều chõng.
Cũng nằm trong khuynh hướng phục cổ, Nguyễn Tuân không giống với các nhà
văn, nhà thơ khác, ông trở về quá khứ theo cách của riêng mình. Nhà văn không tìm
thấy cái đẹp hiện hữu trong cuộc đời, nên đã trở về quá khứ, với cội nguồn dân tộc.
Là nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn hoài niệm, ông chắt chiu, gạn lọc tất cả
những gì là tinh hoa trong quá khứ để thể hiện trong tác phẩm của mình. Có lẽ, sống
giữa thời cuộc Tây Tàu nhố nhăng, Nguyễn Tuân đã nhận thức được rằng một cá
nhân mình không thể phủ định được thực tại để hướng tới tương lai tốt đẹp, bởi vậy
ông phải vin vào quá khứ vàng son của dân tộc để sống và để nhấm nháp dư vị của
một thời không bao giờ trở lại. Các tác phẩm viết về đề tài quá khứ của Nguyễn
Tuân đăng rải rác trên các tạp chí Tao đàn, Tiểu thuyết thứ bảy, Thanh nghị và hai
tập tùy bút Tùy bút I và Tùy bút II nhưng tập trung đậm nét hơn cả vẫn là trong
tập truyện ngắn Vang bóng một thời- tác phẩm được tặng giải thưởng của Nhà
xuất bản Alechxandre de Rhodes- một nhà xuất bản có khuynh hướng phục cổ của
thực dân Pháp.
Có thể nói trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân dường như cố quên đi
cái hiện thực mà ông đang sống, cái hiện thực mà theo ông đầy những xấu xa, bon
chen, đố kỵ. Ông thực sự say sưa tỉa tót, tô đậm thêm cái nét xưa đã mờ nhạt, nét vẻ
của những ngày đã qua, một thời đã tàn. Nguyễn Tuân cũng hiểu rằng, cái thời đó
đã qua và không bao giờ trở lại nữa, vì vậy ông không khỏi biểu lộ niềm tiếc nuối
của mình. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân viết về thời đã qua không phải vì muốn khôi
phục lại thời phong kiến suy tàn mà thực chất là phản ứng của ông trước hiện tại
nhố nhăng mà ông đang sống. Việc làm sống lại cái đẹp xưa, Nguyễn Tuân đã thể
hiện một cách giữ thiên lương, tỏ thái độ bất hợp tác với thực dân, một lòng thiết
tha với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Giữa làn sóng Âu hóa mạnh
mẽ, thái độ đó của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng.
1.2.3. Đề tài cuộc sống hƣởng lạc
Chủ nghĩa lãng mạn thường thoát ly hiện thực. Họ thoát ly bằng nhiều con
đường khác nhau: trốn vào tình yêu, trốn vào quá khứ và trốn vào trụy lạc để quên
lãng, để tìm những cảm giác lạ. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, đan xen với chủ
đề giang hồ xê dịch là chủ đề về cuộc sống hưởng lạc. Bản thân cuộc sống giang hồ
phần nào đã gợi lên trong những trang viết của Nguyễn Tuân một cuộc sống phóng
túng, chơi bời ở những tiệm rượu, tiệm hút, nhà chứa, xóm cô đầu. Hai chủ đề này
vì thế có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau.
Trước Nguyễn Tuân, văn học Việt Nam có không ít cây bút đề cập đến đề tài
này. Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cuộc sống bỉ ổi, đồi bại của tầng lớp thượng lưu
trong xã hội nhố nhăng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ (1936). Nguyễn Công
Hoan, Nguyên Hồng… mô tả cuộc sống trụy lạc như một tệ nạn xã hội cần phê
phán. Còn các cây bút văn xuôi lãng mạn như: Nhất Linh, Khái Hưng… đi ra ngoài
quỹ đạo phê phán xã hội khi viết về đề tài này để hướng đến sự đề cao tự do, giải
phóng cá nhân và đề cao giá trị ẩn chứa bên trong những gì bị cho là nhơ nhuốc tận
cùng. Không chỉ trong văn xuôi, thơ ca lãng mạn giai đoạn 1930- 1945 cũng có
nhiều thi sĩ viết về đề tài này. Năm 1939, trong Tinh huyết, Bích Khê có lúc thi vị
hóa và thanh khiết hóa cái đẹp nhục thể (Tranh lõa thể), có lúc diễn tả những cảm
giác điên cuồng, ngất ngư trong khoái lạc. Trong thơ Thế Lữ cũng nói đến “khói
huyền lên” và Lưu Trọng Lư, ngoài Mộng và Tình lại thêm “Quẩy theo với rượu
một vừng giai nhân”. Đến Vũ Hoàng Chương thì rượu, thuốc phiện và gái giang hồ
đã trở thành đề tài thú vị của thi ca! Thơ ông nói nhiều đến cái say: say rượu, say
tình, say nhạc, say thơ. Cái say của Vũ Hoàng Chương là cái say trong bến bờ siêu
thực, nơi mọi ràng buộc của lý trí và hiện thực trơ lì, đen tối không bén mảng đến.
Cái say ấy làm sống dậy bản năng sáng tạo và thiên tính nghệ thuật thi ca vĩnh hằng.
Tất cả những trạng thái say sưa, điên đảo đó là sự nổi loạn của tâm hồn uất ức, chán
ngán với thời cuộc.
Viết về đề tài thuốc phiện, cô đầu, Nguyễn Tuân khác với các nhà văn hiện
thực và có phần đồng cảm với các nhà văn, nhà thơ lãng mạn. Nhưng nếu các nhà
văn, nhà thơ lãng mạn thi vị hóa thú vui hưởng lạc, hoặc thể hiện trạng thái thăng
hoa của cảm xúc để đến gần hơn với thi ca thì Nguyễn Tuân viết về thuốc phiện và
cô đầu như một lời thú tội về quãng đời “phóng túng hình hài”, chơi bời, lêu lổng
của nhà văn. Các tác phẩm: Chiếc lƣ đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn
dầu lạc… là những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân về đề tài này.
Chiếc lƣ đồng mắt cua (1941) là một tập tùy bút có tiếng vang không kém gì
Vang bóng một thời. Ở đây, sự trụy lạc, sa đọa, muốn được hưởng mọi hương vị,
màu sắc trần thế cùng những thèm khát phi lý, phi đạo đức: “Chỉ thèm chơi… Chơi
cảnh, chơi người. Cảnh bất cứ chỗ nào của thiên nhiên. Người, bất cứ là ai, bất cứ
hạng nào, chơi xong rồi bỏ có định giữ gìn đâu mà phải lựa chọn” không hẳn là
một thái độ sống vị kỷ, vô trách nhiệm, phá phách, thiếu lương tâm. Qua những
biểu hiện bên ngoài, ta nhận ra cái cốt lõi bên trong: tâm trạng khủng hoảng cực độ
của một thanh niên trí thức bất mãn với xã hội, muốn “nổi loạn”, muốn chống đối
nhưng hèn yếu, bất lực vì “Thiếu quê hương”, không có lý tưởng cao đẹp. Nhân vật
Tôi lao mình vào cái trò truy hoan tửu sắc nhằm tiêu sầu, hoang phí thời gian, tự
mình “quấy ngầu ngày tháng của mình lên” để lấp đi cái trống rỗng, nhạt nhẽo, vô
vị của tâm hồn. Nội dung tác phẩm vì thế đậm nét tiêu cực. Nó không ca ngợi cuộc
sống trụy lạc nhưng ở đây tác giả chưa thể hiện một thái độ phê phán nghiêm khắc
lối sống vô trách nhiệm, buông thả theo những ham muốn cá nhân ích kỷ. Điều này
không có nghĩa là tác phẩm hoàn toàn vô giá trị. Bên cạnh mặt trái của cuộc đời lăn
lóc, đàng điếm ô nhục ta vẫn bắt gặp những trang viết toát lên chất khoáng đạt, bay
bổng, trong trẻo của những tâm hồn, những con người tài hoa, tài tử bị xô đẩy vào
con đường cùng nhưng vẫn ý thức được mình, được người. Căm ghét xã hội trưởng
giả, tầng lớp con buôn ngu dốt, bất tài chỉ biết có tiền, họ nâng đỡ, an ủi nhau trên
đôi cánh nghệ thuật, vui với lời ca, điệu hát cho qua ngày đoạn tháng và tẩy rửa vết
nhơ nhớp của hình hài:. “Một giọng hát hay và run run là một bài kệ ngâm lên để
rửa hết tội lỗi trong đời Tâm; trước cái thuần túy của đàn hát, nàng và tôi đang
cùng nói chung một thứ tiếng của tâm hồn” (Chiếc lƣ đồng mắt cua)
Ngoài Chiếc lƣ đồng mắt cua, chủ đề viết về cuộc sống hưởng lạc còn xuyên
suốt hai thiên phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939) và Tàn đèn dầu lạc (1941). Hai
thiên phóng sự này đã miêu tả cụ thể tình cảnh và tâm trạng của những người
nghiện thuốc phiện đến mức không làm chủ được bản thân để rồi rơi vào tình cảnh
khốn cùng, sống cuộc đời cô đơn, buồn tẻ. Tuy vậy, qua các tác phẩm ta vẫn nhận
ra những người này dù có thời sa chân vào cô đầu, thuốc phiện nhưng chưa hoàn
toàn mất hết nhân cách. Bởi lẽ, mỗi khi nhìn lại, họ tự thẹn với mình, đau đớn, xót
xa khi thấy mình trở nên đồi bại.
Có thể nói, viết về đề tài cuộc sống hưởng lạc là một cách để lãng quên hiện
thực đen tối, cũng là để tìm những cảm giác nồng cháy mới lạ của một con người ưa
xê dịch như Nguyễn Tuân. Những tác phẩm của ông ở đề tài này cho thấy sự bế tắc,
chán nản của một thế hệ thanh niên chưa tìm thấy lối thoát cho hiện tại, đằng sau
đó là khao khát đổi thay để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Phải chăng, chính điều này đã
thúc đẩy người nghệ sĩ Nguyễn Tuân sớm đến với Cách mạng và có những tác
phẩm ngợi ca cuộc sống, chiến đấu, lao động của quân và dân trong thời đại mới.
1.3. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân
1.3.1. Quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp
Socrate (469?- 399. TCN)- nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh
là bậc thầy về truy vấn, đề cao lí trí và sự thật từng phát biểu quan niệm của mình
về cái đẹp qua mệnh đề: “Tất cả cái đẹp đều phải hợp lý”. Tsecnưsepxki (1828-
1889)- nhà dân chủ cách mạng Nga, người phát ngôn cho quan điểm mỹ học duy
vật trước Mác từng viết: “Cái đẹp là cuộc sống. Một sinh thể đẹp là qua chúng, ta
nhìn thấy cuộc sống hoặc làm cho chúng ta nghĩ đến cuộc sống”. Còn đại văn hào
Nga Phê-đo Mi-khai-lô-vích Đốt-xtôi-ép-xki (1821-1881) trong tiểu thuyết Thằng
ngốc (1868) đã thể hiện quan điểm thẩm mỹ của mình qua một câu nói mang đậm
chất nhân văn “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Trên tinh thần ấy mà M.Goóc-ki (1868-
1936), nhà văn lớn nước Nga nói: Bẩm sinh con người là một nghệ sĩ. Chỉ có con
người, vị chúa tể của muôn loài mới biết coi cái đẹp là phương tiện, là mục đích
cũng là nội dung của cuộc sống. Như vậy, mỗi người mỗi thời đại và ở những đất
nước khác nhau nhưng tất cả họ gặp nhau ở một điểm là đề cao cái đẹp và cho rằng
cái đẹp phải là cái có ích.
Văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 được hiện đại hóa mạnh mẽ. Các
luồng tư tưởng mới từ phương Tây du nhập vào nước ta và ảnh hưởng lớn tới tư
tưởng và quan niệm của các nhà văn, nhà thơ thời kì này. Khái Hưng (1896- 1947)-
một trong những cây bút chủ lực của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đã lặp lại quan niệm
nghệ thuật là vô tư lợi, là không cần phục vụ một mục đích nào cả của Theophile
Gautier (1811- 1872)- một nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, nhà báo và nhà
phê bình văn học người Pháp trong cuốn tiểu thuyết Đẹp (1941). Còn nhà thơ Thế
Lữ tự ví mình như người khách bộ hành phiêu lãng xuôi ngược trần gian để vui chơi
và kiếm tìm vẻ Đẹp trong Cây đàn muôn điệu
...“Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể”
Như vậy, Khái Hưng, Thế Lữ... đều đề cao cái đẹp gắn với tiềm thức và trực giác,
cái đẹp bản năng.
Là một nhà văn lãng mạn, lại xuất hiện muộn trên văn đàn nửa đầu thế kỷ XX,
Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng của những người đi trước và tư tưởng của những tác
giả, triết gia phương Tây. Bên cạnh đó, ông là người có cá tính mạnh mẽ và ý thức
rõ về cái tôi của mình nên quan niệm về cái đẹp của ông mang tính chủ quan rất rõ.
Với Nguyễn Tuân, cái đẹp chỉ nhằm thỏa mãn, đáp ứng những khoái cảm thẩm mỹ
của cá nhân. Ông thường được biết đến như một nhà văn có quan điểm duy mỹ, chủ
trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Ông chủ trương cái đẹp không có nội dung xã
hội, không có nội dung giai cấp và thời đại. Đối với Nguyễn Tuân, văn chương và
nghệ thuật đứng trên mọi thiện, ác ở đời. Ông tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề
cao một cái đẹp thuần túy, không vụ lợi. Tư tưởng này được Nguyễn Tuân bộc lộ
qua nhiều tác phẩm trước Cách mạng, mà rõ nhất là Vang bóng một thời, Thiếu
quê hƣơng, Chiếc lƣ đồng mắt cua, Tóc chị Hoài...
Có thể nói, quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân mang màu sắc chủ quan và
có phần cực đoan rất rõ. Ông rất coi trọng cảm giác của con người cá nhân hơn là
lô- gic mỹ học và đạo đức thông thường của cuộc sống. Chủ nghĩa duy mỹ mà ta
quan niệm ở Nguyễn Tuân không phải bộc lộ yếu tố tiêu cực mà theo Lại Nguyên
Ân trong Từ điển thuật ngữ văn học là: “Tinh thần duy mỹ ở Nguyễn Tuân chỉ bộc
lộ ở thời hậu lãng mạn, khi năng lực tự phản xạ vốn có ở chủ nghĩa lãng mạn thời
đầu bị yếu đi; lối miêu tả mang tính trò chơi nghệ thuật đối với thực tại thay cho xu
hướng không tưởng của cách trình bày thực tại theo quan điểm tự do và nhân văn
chủ nghĩa” [2, tr. 97]. Như vậy, quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân đã phần
nào phản ánh ý thức về cái tôi của người nghệ sĩ và hướng tới giá trị nhân văn cao
đẹp.
1.3.2. Quan niệm nghệ thuật
Những năm 1930- 1945 là giai đoạn văn học Việt Nam phát triển rất mạnh và
phân hóa làm nhiều dòng, nhiều xu hướng khác nhau. Ban đầu, dòng văn học lãng
mạn thống trị trên văn đàn, các nhà văn bước vào văn chương đều sáng tác văn học
lãng mạn. Nhưng đến 1936- 1939, văn học hiện thực phát triển mạnh và chiếm ưu
thế trên văn đàn. Trong đời sống văn học lúc này xuất hiện cuộc tranh luận giữa hai
phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” (do Hoài Thanh đứng đầu) và “nghệ thuật vị nhân
sinh” (do Hải Triều đứng đầu) kéo dài dai dẳng từ 1935- 1939. Từ sau 1940 trở đi,
đời sống xã hội Việt Nam đầy biến động kéo theo những biến động trong văn học.
Giai đoạn này, văn học lãng mạn đi vào thời kỳ bế tắc và suy thoái. Tiêu biểu là hai
nhà thơ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương ca ngợi rượu và thuốc phiện. Đây cũng
chính là thời kỳ mà Nguyễn Tuân đến với văn chương nghệ thuật. Nguyễn Tuân đến
với văn chương khi cuộc tranh luận giữa hai trường phái nghệ thuật đã ngã ngũ và
ngả về phía “vị nhân sinh”. Sự xuất hiện của Nguyễn Tuân ở giai đoạn văn học lãng
mạn đang đi vào thoái trào có phần đem đến cho văn chương một sinh khí mới
nhưng cũng không phủ nhận ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thời kỳ
khủng hoảng. Điều này thể hiện ở việc chọn quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật làm
quan điểm sáng tác. Nếu Nam Cao quan niệm: “Nghệ thuật không thể là ánh trăng
lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau
khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng) thì Nguyễn Tuân có nhiều
điểm gặp gỡ với Thạch Lam và các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn khi quan niệm: Văn
chương là văn chương, văn chương chỉ vì nghệ thuật, vì cái Đẹp mà thôi. Đó là
nghề viết, trong sự tận tụy hết mình, dốc cạn mình - để đến với cái đẹp, đúng như
một quan niệm văn chương của Hoài Thanh: “Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ
thuật. Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình” (Tiểu thuyết thứ bảy, số 35,
26/1/1935). Dĩ nhiên đây là cái đẹp trong quan niệm của mỹ học, chứ không phải ở
bất cứ lĩnh vực nào khác, như chính trị, hoặc luân lý, đạo đức; và dĩ nhiên là muốn
tới cái đẹp thì phải loại bỏ cái xấu, cũng như cái ác, cái bất lương; và với Nguyễn
Tuân trước 1945 thì đó là bọn người bất tài, mà hợm hĩnh về tiền của, quyền lực; là
đám “con buôn quen sống với đủ thứ hàng họ và buôn Tần, bán Sở”. Nguyễn Tuân
căm ghét bọn người này, coi họ là những kẻ “ngồi xổm lên nghệ thuật”. Ông lên án
“những cuộc tàn sát thi ca của những ông lãnh binh sính làm thơ”. Ông cũng thất
vọng bao nhiêu khi một người bạn tri kỷ của mình trước đây say mê văn chương là
thế, mỗi lần nhìn mưa rơi lại “buồn rúm cả người, tưởng chết ngay được dưới cuốn
sách mở” [34, tr. 506]. Thế rồi con người mơ mộng ấy đã bị cuốn vào guồng quay
tiền bạc để thấy mỗi lần mưa là lại mừng ra mặt vì đó là cơ hội đánh hàng không bị
phát hiện. Mưa bây giờ không phải là của riêng tứ thơ nữa mà mưa lại ra tiền.
Nguyễn Tuân là nhà văn chú trọng vào những sự trải nghiệm chủ quan của
bản thân. Ở ông luôn có cuộc đấu tranh thầm lặng trong nội tâm để chống lại sự vô
nghĩa của cuộc sống và việc sử dụng sự giải trí để tránh khỏi nỗi buồn chán, thất
vọng. Khi phải lựa chọn giữa trách nhiệm xã hội với tự do của bản thân, ông thiên
về sự lựa chọn tự do cá nhân với ý thức về giá trị tồn tại thực sự của con người.
Điều này, thể hiện qua thế giới nhân vật trong những sáng tác của Nguyễn trước
Cách mạng. Đó là những người nghệ sĩ tài hoa, tài tử hay những con người thích
cuộc sống giang hồ, xê dịch.
Nguyễn Tuân tán thành chủ trương nghệ thuật đứng lên trên mọi mối quan hệ
hiện thực, dẫn đến tách rời nghệ thuật khỏi ngọn nguồn của nó là cuộc sống và lao
động. Nghệ thuật biến thành nơi tái hiện những cảm giác chủ quan của nhà nghệ sĩ
và tạo nên những vẻ đẹp thuần túy không có gốc rễ ở cuộc đời. Chìm sâu vào quan
điểm duy tâm siêu hình cho rằng nghệ thuật vượt ra khỏi sự chi phối của chính trị,
của cuộc đấu tranh giai cấp Nguyễn đã cổ vũ cho nó rất nhiệt thành: “Mỹ thuật vốn
không là bà con với luân lý của thời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô
cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh” (Chuyến xe tình). Với phát biểu
này, Nguyễn phủ nhận yếu tố đạo đức, luân lý có trong nghệ thuật. Ông cho nghệ
thuật là sản phẩm của sự thôi thúc nội tâm và có một giá trị tự thân, vô tư lợi, mục
đích cao quý nhất của nghệ thuật nằm ngay trong bản thân nó, đó là cái đẹp. Cái đẹp
ấy, đối với Nguyễn nhiều khi gọi trọn trong một mớ tóc mây óng ả, buông dài và
được phóng to lên thành khả năng cảm thụ thẩm mỹ rất chủ quan, phiến diện: “Cái
người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm một mớ tóc cho tử tế, thì
cái thẩm mỹ quan của người ấy còn lung lay lắm, chưa lấy gì làm định” (Tóc chị
Hoài). Do đó, quan điểm duy mỹ và chủ nghĩa hình thức chiếm ưu thế trong ý thức
nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nhìn chung thì như vậy nhưng đi vào cụ thể, một số
tác phẩm như Cửa Đại, Thiếu quê hƣơng... vẫn mang hơi thở của hiện thực, một
hiện thực u uất, tù túng, xám xịt không khác gì địa ngục ở khu mỏ Vàng Danh,
Uông Bí. Nhưng hiện thực ở đây được nhìn nhận với lời lẽ bi quan: “Cảnh ở đây thì
đen và lòng người thì bạo. Tro muội ở trong lòng người cũng nhiều như tro muội
ngoài trời” [34, tr. 433]. Điều này phản ánh sự mâu thuẫn trong ý thức nghệ thuật
của Nguyễn Tuân. Ông muốn thoát ly hiện thực, nương náu trong nghệ thuật thuần
túy nhưng không sao dứt khỏi tơ vương với cuộc đời. Điều này làm cho văn chương
của Nguyễn Tuân tuy xa rời hiện thực nhưng vẫn toát lên giá trị nhân bản sâu sắc.
Tính phức tạp, đầy mâu thuẫn trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân
còn thể hiện ở khuynh hướng thoát ly hiện thực để trốn vào quá khứ của một thời
vàng son đã qua hay giang hồ xê dịch để “thay đổi thực đơn cho giác quan”.
Nhưng quá khứ qua đi không bao giờ trở lại dẫu lòng người luôn hoài tưởng, xê
dịch mãi cũng có lúc phải dừng chân, Nguyễn Tuân lại trốn vào cuộc sống ăn chơi,
hưởng lạc với bàn đèn thuốc phiện và cô đầu. Các khuynh hướng này in đậm dấu ấn
qua một loạt các tác phẩm: Một chuyến đi, Tùy bút I và II, Thiếu quê hƣơng,
Vang bóng một thời, Chiếc lƣ đồng mắt cua, Tàn đèn dầu lạc...
Có thể giải thích những mâu thuẫn, phức tạp trong thế giới quan và quan điểm
nghệ thuật của Nguyễn Tuân là xuất phát từ mối bất hòa sâu sắc giữa một cái Tôi-
nghệ sĩ với hoàn cảnh xã hội cũ. Người nghệ sĩ vốn thích cuộc sống tự do, phóng
túng khó gò mình vào khuôn khổ của chế độ thuộc địa ngột ngạt. Tuy nhiên, ông
không thể làm gì trước bộ máy cai trị hà khắc của thực dân, vì thế viết văn và thể
hiện quan niệm nghệ thuật riêng của mình trong văn chương chính là một cách phản
đối của ông với xã hội đương thời.
Một lí do nữa là sự mâu thuẫn giằng xé giữa lòng yêu nước, tinh thần dân tộc,
thể hiện khuynh hướng phê phán xã hội thực dân phong kiến và chủ nghĩa cá nhân
cực đoan, hưởng lạc mà ông chịu ảnh hưởng của các nhà văn phương Tây. Sự mâu
thuẫn giữa con người bổn phận, trách nhiệm của nền giáo dục Nho giáo và Hán học
mà ông thấm nhuần từ nhỏ với con người cá nhân được giải phóng khỏi mọi ràng
buộc với đời mà ông sớm chịu ảnh hưởng từ văn học phương Tây qua Andre Gide,
triết học của Niezsche. Trong ông còn lưu lại chút lòng tự trọng, tự thẹn của người
Việt Nam mất nước muốn giữ gìn, lưu tồn và phát triển giá trị văn hóa tinh thần của
dân tộc chống lại làn gió mưa Âu gió Mỹ từ phương Tây. Và cách xây dựng những
nhân vật tài hoa nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình phải chăng cũng là cách thể hiện
niềm tự hào về con người Việt Nam. Chính điều này đã là sợi dây bền vững kéo
Nguyễn Tuân ra khỏi chủ nghĩa cá nhân ích kỷ và xu hướng văn học tiêu cực, suy
đồi để rồi ta nhận ra bao vẻ đẹp của người, của cảnh, của ngôn ngữ văn chương
trong từng trang văn của ông.
1.3.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
Quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những phạm trù quan trọng
nhất của thi pháp học. Vì vậy thi pháp học đưa ra khái niệm: “Quan niệm nghệ
thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân
thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo
nên giá trị thẩm mỹ cho các hình tượng trong đó” [28, tr. 59]. Mỗi nhà văn có quan
niệm nghệ thuật riêng vì vậy hình tượng nghệ thuật (nhân vật- con người) xuất hiện
trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm của tác giả. Con người trong văn
học thực chất là sự cắt nghĩa và quan niệm về con người được thể hiện bằng hình
tượng nghệ thuật, trong cách miêu tả con người, trong các hệ thống, các hình ảnh
tượng trưng, các nguyên tắc miêu tả tính cách, tâm lý... Nhà văn sáng tạo ra nhân
vật bao giờ cũng theo những cách hình dung, cũng như cách cảm nhận của riêng
mình. Bởi trong nghệ thuật, sự miêu tả bao giờ cũng nhằm hai mục đích. Thứ nhất,
gợi ra khách thể, sự vật được hiện diện trước mắt; thứ hai, gợi ra chủ thể, sự cảm
thụ, cách nhìn chủ quan với chúng. Như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận
định: “Chính phương diện cảm thụ này (tức là bản thân nhà văn), cách nhìn này là
quan niệm nghệ thuật về con người đối với nhân vật, mà muốn cảm thụ nhân vật
một cách chỉnh thể, toàn vẹn thì không thể bỏ qua được” [28, tr. 60]. Quan niệm
nghệ thuật đang được nói đến ở đây thuộc phạm vi ý thức và nó gắn liền với ý thức
về chức năng, nhiệm vụ, khả năng của văn học. Để hiểu một tác phẩm, một tác giả,
một trào lưu, một giai đoạn văn học, không thể không xem xét đến quan niệm nghệ
thuật về con người. Hiểu được nguyên tắc cắt nghĩa và cảm nhận con người, sẽ hiểu
được vai trò sáng tạo của nhà văn trong việc thâm nhập và chiếm lĩnh đời sống.
Tiếp cận con người ở phương diện thẩm mĩ, các nhân vật của Nguyễn Tuân đều
là những con người tài hoa nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình. Nếu Nguyễn Minh
Châu trong cuộc đời sáng tác của mình cố đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong mỗi
người thì Nguyễn Tuân cũng vậy, qua từng trang viết của mình, ông cố gắng đi tìm
chất tài hoa nghệ sĩ trong mỗi con người mà mình miêu tả. Kiểu nhân vật tài hoa
nghệ sĩ được tập trung chủ yếu trong tập Vang bóng một thời và một số truyện
ngắn được sáng tác trước đó.
Tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ nên tiêu chí để phân biệt
nhân vật của Nguyễn Tuân cũng là tiêu chí thẩm mỹ. Điều này khiến Nguyễn Tuân
khác hẳn với các nhà văn cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao
vì cơ bản họ là những nhà văn hiện thực. Các nhà văn hiện thực thường đứng trên
quan điểm đạo đức xã hội để phê phán cái xấu. Còn Nguyễn Tuân về cơ bản là một
nhà văn lãng mạn, ông đứng trên quan điểm cái đẹp để phê phán xã hội. Vì vậy lớp
nhân vật tài hoa nghệ sĩ trong các tác phẩm của ông đều được lí tưởng hóa đến mức
cao độ. Với những con người này, Nguyễn Tuân viết về họ với tất cả niềm say mê
và ngưỡng mộ dù đó là những kẻ chuyên nghề cờ bạc, phường trộm cướp, những
tên đao phủ hay những bọn thực dân, tay sai... Ông nhìn nhận họ ở cái tài và
phương diện của cái đẹp nên hễ họ có cử chỉ, hành động đẹp đối với nhà văn đều
đáng được đề cao. Đó là nhân vật Phó Sứ trong Thả thơ, “đáng mặt làm nhà cái
cho những buổi thả thơ rất nên thơ”, là cụ Phủ “một người mà học lực và chính tích
chấp cả bạn đồng liêu một thời” (Đánh thơ). Ông ca ngợi cái đẹp của một thằng ăn
cắp: “Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn
và rất nhanh” (Chuyến xe tình). Hay viên quan Công Sứ Trung Bắc lưỡng kỳ kiêm
chủ đồn điền cà phê vùng Hoài Hoan người Tây tên là Rê-Bit-Xê (với cái tên đã
được đông phương hóa là Lê Bích Xa)- một người say mê những bức tranh cổ họa
Tàu tới mức dồn hết cả tiền thu về rất nhiều sau mỗi vụ cà phê để đi mua tranh, với
mục đích cuối cùng là mở được một bảo tàng tranh họa Trung Hoa (Lửa nến trong
tranh). Ông miêu tả Bát Lê với lối Chém treo ngành rất nhanh, rất ngọt hay ngón
đòn “ném bút chì” chuẩn xác của Những kẻ bất đắc chí như những nghệ sĩ tài hoa
trong nghề đao phủ, trộm cướp. Đặc biệt trong thế giới của Vang bóng một thời ta
thấy hiện lên nhân vật Huấn Cao- một người nghệ sĩ tài hoa đồng thời là một trang
anh hùng dũng liệt có khí phách hiên ngang và cái tâm hơn người. Ông hiện lên như
một người có tài năng phi thường ở lĩnh vực thi pháp và cũng là người có tài bẻ
khóa và vượt ngục, nhưng hơn hết Huấn Cao là một bậc trượng phu “phú quý bất
năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nguyễn Tuân xây dựng
những nhân vật tài hoa xuất chúng để đối lập với những kẻ phàm tục, thô lỗ, phản
thẩm mĩ. Đó là đám viên chức, thị dân tỉnh lị không biết xấu hổ về sự sống tầm
thường tẻ nhạt của mình lại còn lấy làm “hả hê với số phận” (Đôi tri kỷ gƣợng)
hay những ông chánh sứ thích làm thơ và “chạy tuột vào nghệ thuật, ngồi xổm lên
cái đẹp Nguyễn Tuân xây dựng những nhân vật tài hoa xuất chúng để đối lập với
những kẻ phàm tục, thô lỗ, phản thẩm mĩ.
Tiểu kết chƣơng 1: Qua chương này chúng tôi tiến hành tìm hiểu hành trình
sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, các đề tài chính và quan điểm nghệ
thuật chi phối sáng tác của ông, đặc biệt là những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến
các sáng tác về đề tài quá khứ. Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ không ngừng khám phá
bản thân và có sức sáng tạo dồi dào. Ông đã để lại cho nền văn học một di sản văn
chương đáng quý, một phong cách nghệ thuật độc đáo. Là một nhà văn lãng mạn,
chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây nên ý thức về cái tôi của Nguyễn Tuân rất
mạnh mẽ. Sống vào thời buổi Tây Tàu nhố nhăng, cái tôi ấy bị bủa vây bởi một môi
trường xã hội quẩn đọng, buồn tẻ, sống giữa quê hương mà luôn thấy thiếu quê
hương, ông tìm đến xê dịch để giải tỏa tâm hồn. Trên đường giang hồ, xê dịch, ông
đã từng lăn lộn với đời sống trụy lạc ở những tiệm hút, nhà chứa, xóm cô đầu. Thực
tế ấy đã đi vào những sáng tác của ông ở đề tài xê dịch và đề tài về cuộc sống
hưởng lạc. Xê dịch hay hưởng lạc vẫn không giúp Nguyễn Tuân thoát khỏi nỗi cô
đơn, trống trải, những dằn vặt đau đớn trong tâm hồn của một trí thức có nhân cách,
ông tìm về thời quá khứ vàng son như một hướng thoát li, giải thoát khỏi những bế
tắc của hiện tại. Trở về quá khứ, Nguyễn Tuân được sống lại một thời đẹp đẽ đã qua
nay chỉ còn vang bóng với những con người tài hoa, cao thượng cùng với những thú
vui chơi tao nhã di dưỡng tinh thần cho con người trong thời buổi lẫn lộn. Những
trang viết của ông cho dù về đề tài nào cũng luôn luôn thể hiện một quan niệm nghệ
thuật nhất quán: đề cao cái đẹp. Viết về vẻ đẹp cuộc sống trong quá khứ chính là
biểu hiện của một tấm lòng thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân
tộc, bộc lộ lòng yêu nước kín đáo của Nguyễn Tuân. Qua những trang văn của ông,
người đọc được sống với một thời đã qua để thêm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp truyền
thống dân tộc. Vang bóng một thời trở thành bức thông điệp từ quá khứ giúp con
người hôm nay biết trân trọng, nâng niu, giữ gìn những giá trị tốt đẹp đã làm nên
hồn cốt dân tộc trong chiều dài lịch sử.
CHƢƠNG 2
BỨC TRANH THIÊN NHIÊN, CON NGƢỜI VÀ CUỘC SỐNG
2.1. Lí tƣởng hóa cuộc sống quá khứ
2.1.1. Giới thuyết vấn đề
Theo Từ điển tiếng Việt, “lý tưởng hóa” là “tôn lên đến mức thành lý tưởng”.
Còn Lại Nguyên Ân giải thích trong thuật ngữ “Lý tưởng hóa” là: “Một trong
những kiểu khái quát hóa nghệ thuật, nhấn mạnh đến mức tối đa các giá trị tích cực
hoặc các mặt tiêu cực của thực tại; lý tưởng hóa thiên về việc đề cao các đối tượng
tích cực, trình bày nó một cách phấn hứng, đề nó lên thành mẫu mực, thành lý
tưởng, gán cho nó một diện mạo hoàn thiện (…). Mặt khác, do chỗ lý tưởng hóa là
kết quả của ý đồ làm cho các hình thức và giá trị đáng mong muốn trở nên năng
động trong ý thức xã hội, vì vậy lý tưởng hóa bộc lộ những khả năng tiềm tàng của
con người trong việc dự cảm hoặc thúc đẩy những biến đổi xã hội; khi đó nghệ
thuật hướng tới cái cần có trong thực tại hơn là cái vốn có trong thực tại…” [2,
tr.195]. Như vậy, khi nói Nguyễn Tuân lý tưởng hóa cuộc sống quá khứ tức là trong
những trang viết của mình, ông đặc biệt đề cao, tôn vinh vẻ đẹp của cuộc sống trong
quá khứ như là một cách phủ nhận xã hội ô trọc đương thời, đưa ra một hình mẫu
chuẩn mà hiện tại cần phải có.
Chủ nghĩa lãng mạn thường có xu hướng thoát ly thực tại để hướng về quá
khứ hay ước vọng ở tương lai. Không gian tồn tại của con người, không gian cả tinh
thần lẫn vật chất đều chia làm ba miền: quá khứ, hiện tại và tương lai. Quá khứ là
miền thật, tương lai là miền ảo, miền tưởng tượng, còn hiện tại là ranh giới của hai
miền vừa nói. Đấy là cấu trúc của không gian sống của con người. Mọi thành tựu có
thật của con người đều nằm ở quá khứ, vậy hiện tại là một vùng đất mà con người
nhìn vào quá khứ để phóng tác, để kéo dài, để chuẩn bị cho tương lai của mình. Hay
nói cách khác, đối với tương lai thì quá khứ là miền nguyên liệu. Không có sáng tạo
nào không lấy nguyên liệu từ quá khứ. Phong trào văn hóa Phục Hưng diễn ra ở các
nước Tây Âu thời hậu kỳ Trung đại (thế kỷ XIV- XVII) với những thành tựu lớn lao
và tỏa ánh hào quang suốt nhiều thế kỷ cũng xuất phát từ việc làm sống lại những
giá trị văn hóa xán lạn của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Phục cổ, hay hoài cổ tức là con
người yêu cuộc sống cũ của mình, yêu lịch sử của mình, yêu ấn tượng cũ của mình.
Cái gọi là chủ nghĩa hoài cổ ấy cũng là một sản phẩm tinh thần của con người, họ đi
tìm lại chính họ, họ đi tìm lại vẻ đẹp họ trót bỏ quên trong quá khứ. Nói như nhà
nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt: “Người ta hoài cổ không phải để nhặt lại cái vô lý
của quá khứ, mà nhặt lại cái hợp lý của quá khứ” [4].
Xét về mặt triết học, khôi phục những giá trị trong quá khứ là một tất yếu,
xét về mặt phát triển, nó là một khuynh hướng. Nguyễn Tuân đến với văn chương
giữa lúc thực dân Pháp đang dấy lên phong tào phục cổ nhằm lôi cuốn trí thức văn
nghệ sĩ vào con đường thoát ly thực tế đấu tranh cách mạng. Chủ nghĩa phục cổ kêu
gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, với những giá trị tinh thần và tôn ti trật tự
của giáo lý Khổng Mạnh, với những hủ tục ở chốn hương thôn, với quan trường và
đại gia đình phong kiến. Khuynh hướng phục cổ xuất hiện trong sáng tác của nhiều
nhà văn, nhà thơ như: Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Ngô Tất Tố,
Trần Trọng Kim…Khuynh hướng này được chính quyền thực dân Pháp ủng hộ,
được ông chủ tờ báo Nam Phong là Phạm Quỳnh và Trương Văn Vĩnh ra sức hô
hào, cổ vũ. Nhà xuất bản Alechxandre de Rodhe đã trao giải cho các tác phẩm xuất
sắc về đề tài phục cổ, trong đó có tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.
Thiên chức của người nghệ sĩ là phát hiện cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc sống và
tôn vinh nó. Là một nghệ sĩ với đúng nghĩa của từ này, Nguyễn Tuân khao khát đi
tìm cái đẹp nhưng xã hội mà ông đang sống là một xã hội thực dân nửa phong kiến
Tây Tàu nhố nhăng, thật giả lẫn lộn. Thất vọng với hiện tại, Nguyễn Tuân quay trở
về với cái đẹp trong quá khứ của một thời còn vang bóng hay tìm cái đẹp trên bước
đường giang hồ, xê dịch. Lý do khiến Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá
khứ hay trong cuộc đời xê dịch theo Nguyễn Đình Thi là vì: “Trong cuộc đời ông
sống trước Cách mạng, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp được với nhau mà
thường trái lại” [25, tr. 533]. Bởi vậy, thân xác ở hiện tại nhưng tâm hồn ông lại
hướng về quá khứ vàng son. Việc quay lưng với hiện tại, tìm về vẻ đẹp lấp lánh của
cuộc sống quá khứ là cách bày tỏ thái độ phủ định của ông với xã hội thực tại. Trở
về quá khứ qua những trang văn, đó cũng là cách ông giải tỏa nỗi buồn, cô đơn của
một cái tôi cá nhân có cá tính mạnh mẽ.
Viết về quá khứ cũng là một cách Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm nghệ thuật
vị nghệ thuật, đề cao cái đẹp lên trên hết. Các nhà văn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn
viết về xã hội phong kiến xưa nhằm phê phán những hủ tục, những mặt xấu xa, lạc
hậu, kìm hãm hạnh phúc và tự do của con người. Ngô Tất Tố viết về khoa cử thời
phong kiến với thái độ phê phán trong Lều chõng, hay phê phán những tục lệ hà
khắc, cổ hủ của bọn thống trị phong kiến qua phóng sự Tập án cái đình. Còn
Nguyễn Tuân viết avề thời phong kiến với tất cả vẻ đẹp văn hiến, nho nhã, mực
thước. Tiếp cận đời sống ở phương diện cái đẹp, nên Nguyễn Tuân đề cao tất cả
những gì đẹp đẽ của đời sống: lối sống đẹp, uống đẹp, chơi đẹp… bất kể chủ nhân
của cái đẹp đó thuộc giai tầng nào trong xã hội. Ông lên án bọn người xấu xa vì
chúng không biết trân trọng, nâng niu cái đẹp chứ không phải vì chúng áp bức bóc
lột nhân dân. Ông đứng trên quan điểm thẩm mỹ để phê phán chứ không phải đứng
trên lập trường giai cấp như nhiều nhà văn hiện thực cùng thời khác.
Như vậy, vẻ đẹp quá khứ trong những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách
mạng mang tính lý tưởng hóa. Đó là ưu điểm, mà cũng là mặt hạn chế xuất phát từ
chính quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
2.1.2. Vẻ đẹp của những bức tranh thiên nhiên
Nguyễn Tuân là người suốt đời săn tìm cái đẹp. Trên bước đường xê dịch và
trong bước đường sáng tác, ông luôn làm công việc của người đãi cát tìm vàng là đi
tìm cái đẹp trong cuộc sống, trong con người và cảnh sắc thiên nhiên để phô bày nó
trên trang văn của mình. Nghệ sĩ vốn là những người luôn nhạy cảm với cái đẹp của
thiên nhiên, tạo vật. Trong muôn vàn vẻ đẹp của thiên nhiên, ta phải kể đến hình
ảnh vầng trăng. Trong Vang bóng một thời, hình ảnh ánh trăng luôn gắn liền với
vẻ đẹp của thi ca hay những thú vui tao nhã của những nhà nho tài tử. Có lẽ, trong ý
thức của chúng ta về nền thi ca, nghệ thuật phương Đông thời cổ, hình ảnh ánh
trăng luôn là người bạn muôn đời của những tao nhân mặc khách. Bởi vậy, khi tái
hiện hình ảnh ánh trăng trong những áng văn chương viết về vẻ đẹp của thời quá
vãng, Nguyễn Tuân đã gắn cho nó vẻ đẹp thật tao nhã. Đó là vầng trăng trên sông
trong cuộc Thả thơ của cha con cụ Nghè Móm: “Vừng trăng mười bốn lúc chếch về
đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc
vừa nguội” [4, tr. 48]. Nghệ thuật so sánh làm cho ánh trăng hiện lên với hình khối rõ
nét như một bức tranh được vẽ bởi chất liệu ngôn từ. Hình ảnh vầng trăng trên sông
tỏa lan cùng tiếng ngâm thơ làm thành một sân khấu có sự hòa phối của âm thanh và
ánh sáng đong đầy cảm xúc trong lòng người. Cái sân khấu trên mặt nước đầy hữu
tình ấy ta bắt gặp trở lại trong truyện Đánh thơ: “… dưới chân một nếp hoàng thành,
bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn có ba người đàn bà
ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng đàn hát trên mặt nước một
con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vẳng đưa ra rất rộng” [37, tr. 51].
Mặc cho những giọt lệ của người già rơi xuống thấm vào cát nơi bãi sông, cái còn lại
mãi với dòng Hương giang vẫn là tiếng hát của giai nhân- điều làm nên nét đẹp và
thơ của xứ Huế. Hình ảnh vầng trăng có hai cái sừng nhọn được nhìn qua tâm hồn
ngây thơ, thơ mộng của một đứa trẻ sớm bộc lộ nét tài tử trong Một cảnh thu muộn
mang trong nó cả một triết lí sâu sắc về nhân sinh. Cái đẹp của vầng trăng khuyết
luôn hấp dẫn con người bởi sự chờ đợi, trông ngóng một ngày kia sẽ tròn đầy, khi
trăng kết thành một khối viên mãn cũng là lúc nó mất đi vẻ đẹp. Trông trăng mà biết
thời gian trôi: “Hai cái sừng trăng đã nở to, đã đầy dần. Rồi vừng trăng tròn vẽ lên
trời, lần thì cái quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở đầu ngọn tre, những lúc
gió sớm giục canh gà gọi nước bể dâng lên” (Ngôi mả cũ).
Không chỉ có trăng, hình ảnh bóng nắng trong truyện của Nguyễn Tuân cũng
đầy ẩn ý. Ông miêu tả cảnh lão bộc nhà cụ Sáu gánh nước chùa Đồi Mai về nhà
trong một buổi trưa hè với những nét bút giàu chất hội họa, nhuốm màu cổ tích thần
tiên: “Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của
tên lão bộc đánh rỏ xuống mặt đường những hình sao ướt và thẫm màu. Những
hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài và ngoằn ngoèo như lối đi của loài
rắn. Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng dãi lạnh lùng và ví cổng chùa
Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị của một cuộc
đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động”
[37, tr. 27]. Và khi đứng trong cổng chùa cao nhìn xuống cảnh “Ánh nắng già dặn
buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc
từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng loáng của
một dãy xóm làng cây cối im lìm” [37, tr. 28], sư cụ chùa Đồi Mai gửi vào đó nỗi
niềm tiếc thương cho một kiếp chúng sinh vướng phải vòng nghiệp chướng. Cái
nắng tháng tư đổ xuống giàn bầu nậm xanh rờn hắt lên màu áo trắng của cậu Chiêu
trong truyện Ngôi mả cũ gợi lên cả một trường liên tưởng thú vị: “một áo lụa áo
lụa màu xanh của người công tử phong lưu và đa tình; đấy là cái màu dịu mắt của
chất ngọc bích; đấy là cái thứ áo xanh của ông quan tư mã đất Giang Châu dùng
lau nước mắt khi thương đến một người con hát giữ một khoang thuyền trống trải
trôi trong đám lau sậy ven sông; đó là màu xanh của những cánh đồng lúa non ngút
ngàn của những xứ yên ổn không bao giờ có nạn binh lửa” [37, tr. 74]. Hình ảnh
thiên nhiên và con người hòa sắc vào nhau làm nên vẻ đẹp lãng mạn, giàu chất thơ.
Có lúc, thiên nhiên còn được Nguyễn Tuân nhân hóa như mang cả tâm tính của con
người. Hình ảnh “gió nồm thổi mạnh, nhiều cơn, đã đem cả mảnh bụi trần kia vào
lọt cổng ngôi chùa cao ráo” gợi một cái gì thanh cao đã có chút nhuốm bụi trần ai.
Gió cũng biết trêu ngươi cụ Kép làng Mọc khi mặc quá trịnh trọng để tiếp loài hoa
cỏ, và như để thử thách lòng kiên nhẫn của ông già nguyện đem cái quãng đời xế
chiều của mình phụng sự cho lũ hoa thơm cỏ quý. Hình ảnh mùa mưa dầm tháng
chín trong truyện Báo oán vừa tả thật cảnh vùng quê chiêm trũng, vừa gợi nỗi ai
oán, buồn thương: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên
than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ” [37, tr. 155].
Không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp của cuộc sống đời
thường, Nguyễn Tuân còn dựng lên bức tranh thiên nhiên đậm chất thần tiên, hư ảo
qua truyện ngắn Trên đỉnh non Tản. Đó là cảnh vách đá, núi non kì vĩ, dữ dội như
cái nước non xứ Ba Thục vô cùng lợi hại cho người làm tướng biết dùng binh hiện
lên qua ánh mắt của ông phó Sần. Hay cảnh cây cối, chim chóc trên đỉnh non Tản
hiện ra như một khu vườn cổ tích, thần tiên: “Loài cây ăn quả, nhiều nhất hai bên
suối là một giống hồ đào, trông như quả roi dưới ta. Giống đào rợ Hồ màu vàng
huỳnh và xanh hay chính, trái nào cũng có má hồng”, “Trái đào rợ Hồ, nhân hột có
dáng đứa hài nhi bó gối gục đầu ngủ quên. Rớt xuống thảm cỏ, hột hồ đào hóa
thành luống cúc tần có bảy lá mốc (..) Chim ngàn giật mình, bay bổng” [37, tr.
200]. Phải là một người có nhiều trải nghiệm và có trí tưởng tượng phong phú mới
tạo dựng được những cảnh sắc như thế.
Nếu cảnh sắc thiên nhiên trong những tác phẩm về đề tài xê dịch như Thiếu
quê hƣơng, Cửa Đại, Chiếc va li mới thường được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ
dữ dội, gay gắt, hoành tráng thì những bức tranh thiên nhiên trong những tác phẩm
về đề tài quá khứ được miêu tả thật bình dị, xinh xắn nhưng thơ mộng, lãng mạn, có
hồn. Vẻ đẹp thiên nhiên đã góp phần tái hiện một không gian bình yên, thơ mộng
của một thời chưa xa làm nền cho cuộc sống sinh hoạt của con người.
2.1.3. Vẻ đẹp thể hiện trong lối sống sinh hoạt
2.1.3.1. Nghệ thuật ẩm thực
Đề tài ẩm thực trong văn chương cổ nước ta không nhiều. Các nhà Nho quan
niệm “quân tử ăn không cầu no”, họ xem nhẹ cái ăn cái uống. Vì thế mà trong văn
học trung đại, đề tài này ít khi được nói tới. Nó chỉ được Lê Hữu Trác nhắc tới
thoáng qua trong Thƣợng kinh ký sự nhằm phơi bày cuộc sống xa hoa của nhà
Chúa. Phạm Đình Hổ cũng ghi lại “những điều trông thấy” về xã hội thời ông đang
sống, trong đó có nhắc tới những thú ăn chơi phong lưu, đài các của tầng lớp
thượng lưu như thú uống trà, chơi hoa lan… trong Vũ Trung tùy bút.
Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, ta thấy nhiều nhà văn
viết về miếng ăn trong sáng tác của mình như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ
Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam v.v…
Trong khi các nhà văn hiện thực chủ yếu viết về miếng ăn của dân nghèo bằng
những trang văn đầy xót xa, cay đắng, “miếng ăn là miếng nhục” thì Nguyễn Tuân,
Thạch Lam đã thi vị hóa, lãng mạn hóa miếng ăn, nâng nó lên ở một cấp độ khác,
trang trọng và thành kính như một thứ tôn giáo: “ăn uống cũng phải có đầy đủ phép
tắc, nghi lễ”. Còn Nguyễn Tuân, bên cạnh việc tiếp cận ăn uống ở góc độ thẩm mỹ,
ông còn nâng thú ẩm thực lên thành đạo- đạo của con người trong mối quan hệ với
trầm tích văn hóa dân tộc. Ông viết về ẩm thực với một thái độ thành kính, thiêng
liêng. Ẩm thực không chỉ là nghệ thuật mà nó còn là hiện thân của bề dày văn hóa
với bao tri thức phong phú về sản vật của quê hương, đất nước, qua đó con người
thể hiện nhân cách của mình. Trong truyện Hƣơng cuội, cụ Kép cẩn thận lựa chọn,
chuẩn bị tiệc rượu thạch lan hương với tâm thanh bạch của mình. Loại rượu được
chọn phải là rượu tăm, uống vào lúc thanh tịnh. Thức nhắm cũng rất đặc biệt, không
giống thông thường là cá, thịt… mà ở đây là kẹo mạch nha bọc những hòn cuội-
những viên đá cuội đã được lựa chọn sẵn, được kì cọ sạch sẽ, kẹo mạch nha được
chính gia chủ tự tay ủ mầm lúa và nấu cẩn thận. Những viên đá tẩm kẹo mạch nha
được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt lá lót trên nền đất chậu hoa. Những chậu hoa lan
được bọc kín trong lồng bàn phất giấy. Như vậy, viên kẹo sẽ có vị ngọt của mầm
lúa, mùi thơm của hương hoa lan. Cụ Kép và những người bạn già uống rượu,
thưởng hoa, ngâm vịnh thơ phú trong không khí thanh tịnh của buổi sáng xuân với
hương hoa lan tỏa khắp khu vườn. Quả là một tuyệt thú!
Đó là thú uống rượu, còn thú thưởng trà cũng không kém phần công phu.
Trong tập Vang bóng một thời, có hai thiên truyện viết về thú thưởng trà rất độc
đáo, thể hiện chiều sâu văn hóa của nhà văn là Những chiếc ấm đất và Chén trà
trong sƣơng sớm. Trong hai thiên truyện này, Nguyễn Tuân gọi thú uống trà là
“thú chơi thanh đạm”. Thú uống trà có ở hầu hết các dân tộc phương Đông, trong
đó phải kể đến Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Người Trung Hoa coi trà không
chỉ là một thức uống mà còn là thú vui của hạng phong lưu, thậm chí còn được dùng
như là phương thuốc chữa bệnh. Họ không chỉ chế biến chè khéo léo mà những đồ
dùng để pha trà đều sắm sửa lịch sự. Ở Nhật Bản, trà được tôn sùng như một tôn
giáo, được gọi là trà đạo. Sự uống trà được đặt vào vòng giao tế và được coi là một
nghi lễ đáng quý, phải hành lễ ở một nhà riêng thật tôn nghiêm gọi là “trà thất”.
Trong cuốn Sách Trà (Le Livre du Thé) của Okakura Kakuzo, nhà văn Nhật đã
viết: “Trong thứ nước thơm ngát rót trong cái chén ngà ấy, người uống có thể nếm
được cái đậm đà thú vị của Khổng Tử, cái chan chát của Lão Tử và cái hương mát
rượi của Thích Già Mầu Ni”. Ở Việt Nam, thú uống trà tàu phổ biến trong những
gia đình quyền quý, phong lưu thuở trước. Họ không chỉ cầu kỳ trong việc chọn trà
ngon mà còn kén chọn ấm chén để thưởng trà. Phạm Đình Hổ cho rằng người ta ưa
chuộng trà tàu là vì: “Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi
sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu nàng thơ cùng chủ khách mà ung
dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng
tục” [17, tr. 40]. Nếm trà phải ở nơi thanh cao chứ không thể “ở trong đám ruồi
nhặng, ở cửa chợ bụi lầm, lúc ồn ào đinh óc, vơ vẩn rộn lòng thì dẫu ấm cổ đẹp đẽ,
chè ngon mát lừng thì uống trà như vậy cũng chả còn gì thú vị nữa”. Nguyễn Tuân
là một người sành ẩm thực trước khi viết về nghệ thuật ẩm thực nên trong truyện
ngắn của mình, Nguyễn Tuân đã làm sống lại cái tính cách tôn giáo trong buổi uống
trà của cha ông ta. Việc uống trà của của cụ Ấm trong truyện Chén trà trong
sƣơng sớm là một hành vi đặc biệt, có nghi lễ và nhịp điệu rõ ràng phảng phất tục
uống trà của người Nhật. Cổ nhân quan niệm: việc uống trà đòi hỏi cần tìm đến
những nơi yên tĩnh, tránh những nơi ồn ào, gây xáo động tinh thần. Bên cạnh việc
uống trà lúc sáng sớm, các nhà nho còn ngâm thơ lúc mới tỉnh giấc khi vạn vật còn
yên lặng như một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất cho đời sống nội tâm. Nếu
các nhà quyền môn phú hộ khi uống trà lại không muốn pha lấy mà thường giao cho
tiểu đồng pha chế thì các bậc thức giả thường tự tay pha trà thưởng thức và đãi
khách quý. Mỗi buổi sớm, cụ Ấm uống có hai chén trà nhưng cụ rất sợ chén pha
hỏng lúc sớm mai. Vì thế cụ bỏ ra bao nhiêu công sức chi chút cho hai chén nước
này: “Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha
cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đó nhiều công phu. Những
công phu đó đã trở nên lễ nghĩa. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một
mùi thơ và một vị triết lý” [37, tr.128]. Pha trà và uống trà với cụ Ấm như vậy là cả
một nghệ thuật và dưới góc nhìn của Nguyễn Tuân, người thưởng thức, người pha
cũng chính là người nghệ sĩ. Trà ngon ấy phải được uống một cách lễ nghi với
những người tri kỷ: “Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như
bây giờ. Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên
một ấm trà” [37, tr.129]. Uống trà không chỉ là để thỏa cái khát phàm tục mà còn
gắn với nhiều ý vị triết học, gắn với thú vui ngâm thơ, gắn với một lối sống thanh
cao trong tinh thần: “Một buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết ra hết ngoài những cái
nặng nề trong cơ thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một
quan niệm và một phép vệ sinh của thời cũ. Và người xưa uống trà là để giữ mình
cho lành mạnh” [37, tr.131].
Một người “cùng một thanh khí”, có chung sở thích trà đạo như cụ Ấm là cụ
Sáu trong Những chiếc ấm đất. Trong Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, ông cho cái
thú thưởng trà không chỉ nằm ở vị ngọt của trà mà chọn nước và cách pha trà là cả
một giá trị nghệ thuật. Trong Chén trà trong sƣơng sớm chúng ta thấy cụ Ấm rất
công phu trong việc pha trà: “nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước
đọng trên lá sen. Mỗi lá sen chỉ có một ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống
một ấm” [37, tr.132]. Đọc đến chi tiết này, người đọc lại nhẩn nha thấy như váng
vất mùi sen Tịnh Tâm từ hoàng thành Huế với những buổi sớm chèo đò lấy cho
được cái cầu kỳ trong giọt sương mai châm trà cung kính dâng vua. Còn cụ Sáu
trong Những chiếc ấm đất cũng không kém cầu kỳ, phải có nước giếng chùa Đồi
Mai cụ mới chịu pha vì chỉ có thứ nước ấy trà mới không bị mất vị. Niềm đam mê
lớn nhất và duy nhất của ông cụ dồn vào chén trà tàu này: “Danh và lợi, ông ta
không màng. Phá gần hết cơ nghiệp của ông cha để lại, ông ta thự đã coi cái phú
quý nhỡn tiền không bằng một ấm trà tàu” [37, tr.30]. Con người tài hoa trong nghệ
thuật thưởng thức trà đạo ấy khi bị sa sút cũng vấn giữ phong thái đặc biệt cá tính.
Cụ bán chiếc ấm đất quý giá làm hai lớp. Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm,
mới là lúc nên bán giá đắt. Đây không còn là một cuộc thương lượng, đấu xảo, mua
bán tầm thường nữa mà dường như đó là một cuộc chuyển giao và đi tìm bằng được
người tri kỷ để trao lại vật báu. Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy vẻ đẹp tinh thần
trong những con người giản dị mà thanh cao, nghèo mà vẫn rất đỗi sang trọng, lịch
lãm với đời.
Uống rượu, thưởng trà của nhà nho xưa không chỉ được Nguyễn Tuân miêu tả
như những thú vui lúc nhàn nhã, mà còn mang theo quan niệm về phép dưỡng sinh
của người xưa. Mấy câu thơ mà quan Đốc học- thầy dạy của cụ Ấm thường ngâm
vào mỗi sớm mai cho thấy điều đó.
Bán dạ tam bôi tửu,
Bình minh sổ chản trà.
Mỗi nhật y như thử,
Lương y bất đáo gia.
(Mai sớm một tuần trà,
Canh khuya dăm chén rượu.
Mỗi ngày mỗi được thế,
Thày thuốc xa nhà ta).
Uống rượu, thưởng trà đúng cách không phải ai cũng làm được. Đôi khi ranh
giới giữa cái đẹp thanh cao với cái phàm tục chỉ mong manh như sợi tóc. Chỉ có
những nhà nho có bản lĩnh và văn hóa mới làm được. Điều này thể hiện qua tâm sự
của cụ Ấm sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp, uống trà rất tục: “Có lẽ tôi phải
mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì
đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ
có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tàu không thể ồn ào được.
Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ” [37, tr.129].
Nguyễn Tuân đã phát hiện và đề cao cái đẹp ở trong lĩnh vực bình thường nhất
của đời sống là cái ăn cái uống. Ông đã nâng nó lên thành nghệ thuật và người
thưởng thức cũng trở thành nghệ sĩ. Đề cao nghệ thuật ẩm thực cầu kỳ, đài các của
một lớp nhà nho thất thế giữa thời buổi thực dân xô bồ là một cách tỏ thái độ bất
bình với hiện tại của nhà văn. Đó cũng là cách ông thể hiện tình yêu với nền văn
hóa lâu đời, lòng ngưỡng mộ với thái độ sống giản dị mà sâu sắc, thanh đạm mà
tinh tế, tài hoa của dân tộc mình, cùng những con người đẹp đẽ mà ta ít có cơ hội
gặp lại trong đời. Đó cũng là giá trị nhân văn đáng quý trong những tác phẩm của
Nguyễn Tuân.
2.1.3.2. Thú vui chơi tao nhã
Khoảng những năm 1940- 1945, trên văn đàn Việt Nam truyện ngắn rất phát
triển, một loạt cây bút trẻ và tài năng xuất hiện và có xu hướng viết nghiêng về
phong tục và chủ đề hoài cổ, một trong số đó là Nguyễn Tuân. Khác với Tô Hoài,
Bùi Hiển, Tam Kính… thường viết về những phong tục trong quan hệ xã hội, Kim
Lân hay viết về những thú chơi dân dã của người nhà quê miền Bắc, Nguyễn Tuân
lại viết về những thú vui đài các, tài tử phong lưu của những ông nghè, ông cử thời
phong kiến. Nếu Kim Lân viết về những thú chơi của những người nông dân tài
hoa, những tâm hồn đam mê nghệ thuật, dồn hết tâm trí vào việc chăm sóc một chú
gà chọi, một đôi bồ câu, sống hết mình với một vùng trời đất, núi sông, cây cỏ, thu
lại trong một hòn non bộ và thực sự là những nghệ sĩ của đồng quê thì Nguyễn Tuân
viết về những nho sĩ tài hoa, tài tử sống hết mình với những “sở thích cao quý” như
chơi hoa, chơi chữ, chơi cờ, chơi thả thơ, đánh thơ, chơi đèn kéo quân…
Thực ra uống trà, thưởng hoa, chơi chữ, uống rượu, ngâm thơ… là những thú
vui chơi tao nhã, đầy thanh khí của các nhà nho thuở trước. Trong tập Vũ trung tùy
bút, Phạm Đình Hổ cũng đã nói đến. Đó là một nét sinh hoạt văn hóa truyền thống
của dân tộc gắn với tâm tư của người tài tử. Quan án Trần, chủ nhân của “Túy lan
trang”, trong Vƣờn xuân lan tạ chủ, thường sai con gái yêu là cô chiêu Tần đi mua
thứ rượu khê ở làng Vĩnh Trị, vùng cất rượu ngon có tiếng về “bón hoa”, rồi cậu ấm
Hai “giữa buổi loạn ly mà chỉ biết có ngón đàn có hồn hoa”. Cụ Hồ Viễn, vốn là
một viên tướng Cờ Đen oai phong lẫm liệt một thời, nay thất thế lui về hành nghề
địa lí nhưng có lối sống sinh hoạt khá kỳ lạ. Hai móng tay út lá lan của cụ uốn vòm
như râu rồng luôn luôn phải rửa bằng chanh, mỗi ngày hai bữa rượu và mỗi phiên
chợ lại một bữa thuốc phiện trong Ngôi mả cũ. Cách cụ chơi cờ cũng khác người và
cũng rất thú vị: không phải ngồi một chỗ đánh với quân và bàn cờ mà vừa nằm cáng
đi đường vừa chơi cờ bằng miệng. “Khi mỗi người đi một nước thêm cho ván cờ
tưởng, họ lại vén cái rèm cáng, nghển cổ ra ngoài nói chõ sang cái cáng đồng hành
đi ngang hàng” [37, tr. 82]. Không chỉ giỏi chơi cờ bàn mà cụ còn biết chơi cờ đất.
Cờ đất khó hơn cờ bàn, phải tinh lắm mới đánh nổi. Cụ Thượng Nam Ninh về trí sĩ
ở Hà Nội, cùng người con thứ là ông Cử Hai say mê với việc làm đèn kéo quân cho
trẻ chơi trăng ngày rằm Trung thu trong Một cảnh thu muộn. Họ đã mất hơn mười
hôm để hoàn tất cho một cái đèn xẻ rãnh lấy tên “Ngô vương cự gián nạp Tây Thi”.
Họ đã để cả tài năng, tâm huyết của mình vào một thú chơi vừa dân dã vừa cầu kì
đang dần mai một. Viết về thú chơi tao nhã, cầu kì, Nguyễn Tuân như đang làm
người đọc được sống lại với một phong tục đẹp của người Tràng An. Còn cụ Kép
làng Mọc trong truyện Hƣơng cuội lại có sở nguyện “đem cái quãng đời xế chiều
của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý. Gọi là kiếm một công việc nhàn
nhã cho quãng chót một kiếp dư sinh”. Mỗi khi ra thăm vườn lan quý, cụ không
quên mặc chiếc áo lông cừu xứ Bắc. Đó không phải là cách phô phang cuộc sống
phong lưu mà là một thói quen, thể hiện thái độ trân trọng của cụ với lũ hoa cỏ.
“Thế rồi trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ xây xanh rờn, những buổi sớm tinh
mơ, và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc,
tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá vàng trong đám lá
xanh”. Hình ảnh cụ Kép hòa lẫn trong đám cỏ cây làm nên cái hài hòa của cảnh sắc
thiên nhiên và con người. Phạm Đình Hổ cho rằng: “người xưa cũng thường cho
thần du vật ngoại, trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân” [17, tr.
30]. Vậy nên, người xưa mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác vào đó hoài bão cao cả
của mình. Do đó, được vui với thiên nhiên, cây cỏ, cụ Kép như được trải lòng mình
với gấm vóc non sông. Điều đó cũng giúp con người xa lánh với những bon chen
danh lợi, trở về với tính bản thiện của mình.
Cặp đôi tài tử- giai nhân Phó Sứ và Mộng Liên trong truyện Đánh thơ lại có
sở thích đàn hát, thơ ca. Họ làm nghề đánh thơ, mang túi thơ của mình đi khắp thế
gian. Niềm vui của họ không phải là sự được hơn trong canh bạc mà được cùng
nhau đi khắp thế gian với hành trang là nghệ thuật. Nhân vật quản ngục trong truyện
Chữ ngƣời tử tù lại có sở thích chơi chữ. Ước nguyện của ông là xin được chữ ông
Huấn Cao. Vì sở thích cao quý này mà quản ngục bỏ qua sự an nguy tính mạng của
bản thân để biệt đãi một tử tù. Huấn Cao là một nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Nhưng
chính quản ngục mới là người làm cho cái đẹp ấy trở nên vô giá bởi nó khiến con
người bước qua bóng tối để vươn tới ánh sáng của thiên lương.
Viết về những thú vui tao nhã của người xưa, Nguyễn Tuân thể hiện tình cảm
đặc biệt của mình với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông đã tìm hiểu
nghiêm túc và yêu mến thật sự những giá trị văn hóa đó. Ông say đắm, hòa nhập cả
linh hồn mình vào từng thú vui tao nhã, điệu hát, câu thơ để rồi qua trang văn mà
lan tỏa tình yêu mến đó đến người đọc. Đó là biệt tài của Nguyễn Tuân và cũng là
tấm lòng của ông với đất nước.
2.1.3.3. Lối ứng xử tinh tế
Truyền thống ứng xử là một trong những di sản văn hóa phi vật thể được
truyền từ đời này qua đời khác. Trong những tác phẩm viết về vẻ đẹp quá khứ,
Nguyễn Tuân đã tái hiện lối ứng xử tinh tế giữa con người với con người. Trong
truyện Ngôi mả cũ, Nguyễn Tuân chỉ xây dựng có ba nhân vật là chị em cô Tú, cậu
Chiêu và cụ Hồ Viễn- thầy địa lý cũng là người bạn của quan Án sát, cha của họ
nhưng thật ấm áp tình người. Tác phẩm gợi lên vẻ đẹp của một lối sống, lối ứng xử
nhịp nhàng, tinh tế giữa con người với con người. Đó là tấm lòng hiền dịu, tảo tần,
giàu đức hi sinh như một người mẹ của cô Tú với em khi sớm phải chịu cảnh mồ
côi; là sự hiếu thuận của hai chị em với người cha đã mất; là tình cảm kính trọng
của họ với cụ Hồ Viễn- một tướng Cờ Đen đã từng vào sinh ra tử nay lỡ vận phải
làm thầy địa lý, đem cái tài chót của mình ra xem mồ mả, đất cát làm phúc cho
người; là tình cảm thương yêu của cụ dành cho đôi chị em côi cút. Tình cảm gia
đình, tình nghĩa bạn bè, tình yêu thương con người hòa quyện với nhau làm nên vẻ
đẹp mẫu mực của lối ứng xử trong gia đình, ngoài xã hội. Tình cảm hiếu thuận của
người con với cha, làm mọi thứ chiều theo sở thích của cha già, thậm chí từ bỏ lối
sống của kẻ lãng tử giang hồ để làm tròn trách nhiệm với gia đình; dành thời gian
và tâm huyết của mình để tự tay làm đèn chơi trăng cho con trẻ của ông Cử Hai
trong truyện Một cảnh thu muộn cũng gợi lên nét đẹp của lối sống nho nhã, tài
hoa, tinh tế. Truyện Hƣơng cuội lại gợi lên cho ta cái ấm áp của tình người trong
một gia đình nề nếp, gia phong. Hai vợ chồng ông Ấm Cả và ông Ấm Hai sống hòa
thuận với nhau cùng chăm lo săn sóc con cháu và lo toan công việc giỗ chạp của gia
đình. Họ cùng nhau chuẩn bị tiệc rượu thạch lan hương chiều theo sở thích của cha
già. Một nhân vật cũng được Nguyễn Tuân nhắc đến khá nhiều trong truyện này là
người bõ già. Bõ già đã ở hầu cụ Kép từ khi cụ Kép còn là một thày khóa sinh hai
mươi tuổi cho đến lúc cụ Kép con đàn cháu đống. Bõ đã vác lều chõng cho cụ Kép
đi thi tú tài. Việc nhớn, việc nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết và nếu mợ Ấm Cả lơ
đãng, bõ lại nhắc cho mợ khỏi quên. Bõ già tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như
một kẻ có quyền lợi dấp dính vào đấy. Lối cư xử kính trên nhường dưới trong gia
đình xóa nhòa ranh giới chủ- tớ, chỉ còn thấy tấm lòng tận tụy chân thành của người
bõ già và tấm lòng yêu mến, biết ơn của gia đình cụ Kép với bõ.
Không chỉ gợi ra lối ứng xử đẹp trong gia đình, Nguyễn Tuân còn cho thấy vẻ
đẹp trong cách xử thế của những kẻ tri âm tri kỷ ở đời. Đó là tình bạn chân thành
giữa cụ Sáu với sư cụ chùa Đồi Mai trong truyện Những chiếc ấm đất. Chùa Đồi
Mai vốn ở xa làng mạc nên ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Nhưng khi có
khách đến chơi, ông cụ Sáu bao giờ cũng được sư cụ biệt đãi nhất. Mỗi tháng một
lần, nhà sư già lại giữ cụ Sáu ở lại ăn một bữa cơm chay và khi từ biệt nhà sư chân
thành tặng khách một giò Chu Mặc Lan. Mỗi lần gặp gỡ, thể nào hai ông già cũng
kéo nhau ra cái giếng nước chuyện vãn rất lâu. Và mỗi lần cụ Sáu cho người lên xin
nước chùa về pha trà bao giờ cũng cho con đem biếu nhà sư già một bình trà đầu
xuân. Có lẽ, khởi phát của mối nhân duyên giữa cụ Sáu và nhà chùa chính là nước
giếng chùa Đồi Mai. Nhưng chính tình cảm tri âm tri kỷ, sự đồng điệu về tâm hồn
của những con người biết thưởng thức thú vui tao nhã của cuộc đời, sống không
màng danh lợi mới là sợi dây gắn kết tình bạn giữa họ. Tấm lòng “biệt nhỡn liên
tài”, biết trọng người ngay của quản ngục với Huấn Cao và tấm lòng khẳng khái của
Huấn Cao với quản ngục trong Chữ ngƣời tử tù thật đáng ca ngợi. Vẻ đẹp của
người nọ tôn lên vẻ đẹp của người kia. Nếu Huấn Cao là người sáng tạo ra cái đẹp
thì quản ngục là người biết thưởng thức cái đẹp. Nếu Huấn Cao là người trọng
nghĩa khinh tài thì quản ngục biết giá người, biết trọng người ngay. Trên bình diện
xã hội, họ là kẻ thù của nhau nhưng trên bình diện của cái đẹp, họ là tri âm tri kỷ.
Bằng lối hành văn nhịp nhàng, tinh tế, Nguyễn Tuân đã đề cao lối sống đẹp,
làm chuẩn mực cho lối ứng xử xã hội giàu tình nghĩa của người Việt. Vang bóng
một thời của Nguyễn Tuân không chỉ là cuốn sách lưu giữ những nét đẹp của
phong tục tập quán, những nét văn hóa truyền thống mà còn là nơi lưu giữ những vẻ
đẹp trong văn hóa ứng xử của người xưa. Đọc mỗi trang văn của Nguyễn Tuân, ta
như được tắm trong suối nguồn tươi mát của dân tộc để gạt bỏ bụi trần, trở nên
thánh thiện, thanh tân.
2.1.3.4. Nét tài hoa nghề nghiệp
Nguyễn Tuân là nhà văn có một phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Với
quan điểm nghệ thuật thiên về cái đẹp, ông luôn tiếp cận thiên nhiên và con người
chủ yếu ở phương diện văn hóa nghệ thuật, góc độ tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật trong
sáng tác của Nguyễn Tuân thường là những con người tài hoa, thực sự là nghệ sĩ
trong nghề nghiệp của mình. Trong thế giới nhân vật ở đề tài quá khứ, ta bắt gặp
không ít những nghệ sĩ như thế. Những người thợ mộc làng Tràng Thôn trong
truyện Trên đỉnh non Tản của tập Vang bóng một thời với cái tràng, cái đục của
mình đã trở nên nức tiếng khắp vùng. Tài hoa trong nghề mộc của họ “không những
được người trần biết đến mà thỉnh thoảng cứ vài năm năm một, lại có người tiên
trên núi hạ sơn cầu đến, sau những vụ lụt tháng tám rất to, đánh đắm hết những
làng ở rải rác dưới chân núi Tản Viên”. Bởi sự tài hoa, điêu luyện trong nghề mà
hai lần đích thân Thần Non Tản đến tận nhà mời hiệp thợ của cụ phó Sần lên đỉnh
non Tản để sửa chữa lại đền Thượng do những lần vua Thủy dâng nước lên chọc
phá để trả mối hận tình. Khi hiệp thợ mộc theo Thần Non Tản vào đền, họ đã nhanh
chóng phát hiện ra mấy hàng cột con, cột hàng ba, cột quyết không đủ sức chống cái
mái đền lợp ngói vai bò tráng men ngũ sắc; còn ở đất nền mất nhiều chân cột mẹ
được làm từ gỗ chò vẩy và thiếu nhiều miếng đá hoa lát nền. Họ tâu với Chúa Ngàn
Cao Cả cách thức sửa đền mỗi khi không đủ gỗ cột mẹ: “bắt mấy cái quá giang rồi
xoay ra kiểu thượng thực hạ hư”. Cách sửa này vừa đảm bảo nét thẩm mỹ vừa tiết
kiệm nguyên liệu quý cho gia chủ. Qua việc đề xuất cách sửa đền, ta có thể thấy sự
tinh thông nghề nghiệp và kĩ thuật cao siêu của những người thợ mộc tài hoa làng
Tràng Thôn. Qua bàn tay của họ, đền Thượng đã được tái sinh như mới: “Những
đầu kèo vai và câu đầu, đều chạm tứ quý tứ linh. Bức trần gỗ thì chạm bát bửu cổ
đồ. Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài ở dưới
núi. Họ chia nhau ra mà chạm, người thì tỉa hình thư kiếm, quạt và phất trần, kẻ thì
gọt dáng tù và với túi roi hoặc là túi thơ cùng bầu rượu, cái nọ ghép vào với cái kia
thành một bộ đôi bằng những sợi cẩm đới nét dẻo như tung bay được” [37, tr. 205].
Miêu tả sự tài hoa nghề nghiệp của những người thợ mộc, Nguyễn Tuân đã thể hiện
niềm trân trọng của mình với người lao động cần lao. Bằng tài hoa và sự khéo léo
của đôi bàn tay, họ đã góp phần tô điểm cho cõi trần và cõi tiên thêm đẹp đẽ. Hơn
thế, bằng cách phủ cho câu chuyện một màu sắc huyền ảo, thần tiên, Nguyễn Tuân
thể hiện sự công nhận và đánh giá cao tài năng nghề nghiệp sánh ngang thần thánh
của người thợ nước Việt.
Gần như đối lập với việc ca ngợi tài hoa của người thợ mộc trong truyện
Trên đỉnh non Tản, ở truyện ngắn có cái tên rờn rợn Chém treo ngành (sau đổi là
Bữa rƣợu máu), Nguyễn Tuân đã viết về tài chém treo ngành của một kẻ làm nghề
đao phủ tên là Bát Lê. Cái nghề của Bát Lê khiến ai cũng phải kinh sợ nhưng quả
thật tài chém đầu tử tù của hắn độc đáo, có nguy cơ thất truyền. Nguyễn Tuân miêu
tả trước khi vào cuộc chém mười hai tử tù- những nghĩa quân Bãi Sậy, Bát Lê đã
luyện lại tay đao trong vườn chuối để khi vào cuộc sẽ trình diễn thật hoàn hảo trước
mặt tên quan Công sứ người Tây và làm hài lòng quan Đổng lý Quân vụ. Nguyễn
Tuân đã miêu tả rất chi tiết lối chém treo ngành của Bát Lê: “Bát Lê múa lượn giữa
hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ gục
đến đấy (…). Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống”, nó
vẫn còn dính với thân người bởi làn da cổ và trên quần áo trắng của Bát Lê không
có một giọt máu phun tới. Vào những lúc nhộn nhạo quá đông tử tù, việc chém đầu
người sẽ được tiến hành theo một cách còn “tài tình” hơn và tất nhiên cũng rùng rợn
hơn. Người ta sẽ “Chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ từ tù xếp hàng và nối đuôi
quỳ hướng về một chiều. Đại để cũng giống như là cái lối cắp gắp chả chim mà
nướng ấy”. Rồi đao phủ sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta “róc mắt mía”.
Đọc những trang văn này, người đọc không khỏi cảm thấy rùng rợn trước lối viết
quá lạnh của Nguyễn Tuân. Nhiều người đã phê phán Nguyễn Tuân là thiếu cái tâm.
Tuy nhiên, xét theo quan niệm thẩm mỹ của nhà văn, ta vẫn thấy ông nhất quán
trong cách tiếp cận con người ở phương diện tài hoa. Bát Lê làm cái nghề đáng bị
lên án, nhưng cái tài của y trong công việc cho thấy y chính là nghệ sĩ trong nghề
đao phủ của mình.
Có thể thấy, Nguyễn Tuân là nhà văn tuy có phần cực đoan trong quan niệm
thẩm mỹ nhưng hơn hết, ta vẫn thấy ông là một người nhất quán với lối viết của
mình. Luôn kiếm tìm cái đẹp, cái tài hoa ở mọi bình diện của cuộc sống. Có lẽ,
không phải ai cũng được trời phú cho cái tài hoa hơn, vì thế dù trong bất cứ nghề
nghiệp nào, cái tài cũng đáng được trân trọng. Phải là một nghệ sĩ yêu cái đẹp thực
thụ, Nguyễn Tuân mới có thể bỏ ngoài tai mọi tiếng chê bai để trung thành với
phong cách của mình như thế.
2.2. Những kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác về đề tài quá khứ của
Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng
2.2.1. Giới thuyết vấn đề
Đối tượng trung tâm của mọi tác phẩm văn học là con người. Miêu tả con
người, đó chính là việc xây dựng nhân vật của nhà văn. Văn học không thể thiếu
nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hóa hiện thực một
cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một
cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một nhân vật nào đó của hiện thực.
Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống
trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Nhân vật trong văn học không phải là sự sao
chụp những chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua
những đặc điểm về tiểu sử, nghề nghiệp, hình dáng, tính cách, tâm hồn… Nhân vật
là những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất
hiện thoáng qua trong tác phẩm. Các loại hình nhân vật tât đa dạng. Xét về vai trò
nhân vật trong tác phẩm, có thể nói tới nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung
tâm. Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lý tưởng xã hội của nhà
văn, lại có thể nói tới nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Sau nữa, có thể nói
tới lại nhân vật tư tưởng, thường được nhà văn sáng tạo ra để minh họa cho một
quan điểm tư tưởng của mình, hoặc thể hiện một tư tưởng nào đó của thời đại.
Bên cạnh khái niệm nhân vật là khái niệm tính cách. Trong nghiên cứu văn
học, theo nghĩa rộng nhất của nó, khái niệm nhân vật mới là hình ảnh về con người,
khái niệm tính cách là hình tượng về con người. Tính cách được hiểu là những đặc
điểm, những phẩm chất nào đó của nhân vật được thể hiện tương đối rõ nét. Khái
niệm tính cách có thể được hiểu theo cách sau: tính cách cũng là nhân vật, nhưng là
nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn.
Như vậy, ta có thể thấy thế giới nhân vật trong văn học rất sinh động. Trong
các tác phẩm của Nguyễn Tuân, thế giới nhân vật của ông cũng rất đa dạng, độc
đáo. Trong phần này, người nghiên cứu chỉ đề cập đến thế giới nhân vật trong sáng
tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám.
Nguyễn Tuân là một nhà văn có cái Tôi độc đáo, khác người. Ông chịu ảnh
hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Về triết học, ông ảnh hưởng của triết
học Niezsche về quan niệm con người siêu đẳng: Nguyễn Tuân chia con người
thành hai loại; nhóm nhỏ những con người đặc biệt- những con người đề cao sức
mạnh phi thường có quyền chà đạp lên người khác; loại thứ hai là số đông những
con người tầm thường và tẻ nhạt. Về văn học, ông ảnh hưởng của nhà văn Pháp
A.Gide khi đề cao vai trò của cá nhân với cộng đồng xã hội: con người càng khác
biệt, đối lập với cộng đồng xã hội bao nhiêu, con người ấy càng khẳng định được
mình bấy nhiêu. Trong quan điểm về cuộc đời và con người, Nguyễn Tuân tiếp cận
tư tưởng Lão Trang một cách sâu sắc và ảnh hưởng từ người cha- cụ Tú kép
Nguyễn An Lan xem cuộc đời như một cuộc chơi. Bởi vậy, cái tôi trong tác phẩm
của nhà văn Nguyễn Tuân rất đặc biệt, nói như Phan Cự Đệ: “Đó là một cái tôi lập
dị, ngang bướng, đi lù lù giữa cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung quanh, khiêu
khích với xung quanh” [6, tr. 103]. Nguyễn Tuân thổi phồng cái tôi của mình lên.
Ông tâm sự trong tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng: “Người lỗi lạc sống một cách đặc
biệt không giống ai và không cho ai bắt chước được mình, chết là mang cả cái bản
chính đi, chứ không để lại một bản sao nguyên cảo nào” Nhà nghiên cứu Hà Văn
Đức có nhận xét về các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân: “Nhiều nhân vật
trong tác phẩm, Nguyễn Tuân sử dụng đại từ nhân xưng thứ nhất tôi và thậm chí
các nhân vật khác của ông mặc dù tên gọi có khác nhau: Vi, Bạch, Hoàng,
Nguyễn… thì thực chất vẫn mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả”. Như vậy,
nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân chính là biểu hiện của chính con người
cá nhân tác giả.
Như đã nói ở trên, quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân là vươn tới cái đẹp.
Hay nói cách khác, cái tôi cá nhân nhà văn là một cái Tôi nghệ sĩ. Trong tác phẩm
của mình, ông nhìn sự vật bằng con mắt thẩm mỹ, những nhân vật mà ông xây dựng
đều là những bậc tài hoa, nghệ sĩ. Điều này ta không chỉ thấy trong trang sách mà
trong cuộc đời, Nguyễn Tuân đều thể hiện một cách rất nhất quán.
2.2.2. Những kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác về đề tài quá khứ của
Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng
2.2.2.1. Những nhà nho cuối mùa bi quan, chán nản trƣớc thời cuộc.
Nhân vật chính trong các truyện ngắn của tập Vang bóng một thời chủ yếu là
các nhà nho cuối mùa- khi Hán học đang suy tàn nhường chỗ cho thời đại “mưa Âu
gió Mỹ”. Nguyễn Tuân ảnh hưởng nét tính cách tài hoa, phóng khoáng từ người cha
của ông là cụ Tú Kép làng Mọc Nguyễn An Lan và hình ảnh các nhà nho tài tử
trong lịch sử như Cao Bá Quát. Từ những nguyên mẫu có thực này, ông đã xây
dựng trong tác phẩm của mình những nhân vật tiêu biểu cho lớp nho sĩ cuối mùa,
tuy khoanh tay bất lực trước thời cuộc nhưng vẫn giữ nhân cách bằng những thú vui
tao nhã, coi đó như lớp rào bảo vệ họ khỏi những hạt bụi của làn gió Âu hóa. Hình
ảnh lớp nhà nho này cũng là những tâm sự mà Nguyễn Tuân gửi gắm về thời cuộc.
Là một nhà văn có cá tính và ý thức về cái tôi, giữa thời buổi nhiễu nhương
“làm lạc mất cả quan niệm cũ”, Nguyễn Tuân cảm thấy bất hòa sâu sắc. Ông không
tìm thấy cái đẹp ở hiện tại. Với ông, cái đẹp, chất thơ thuộc về những cái của ngày
xưa còn vương sót lại. Cuộc đời đối với ông là một khu vườn tàn tạ khi mùa xuân
đã hết. Ông buồn rầu đi tìm kiếm, lượm lặt những nhành hoa cuối mùa, những cánh
hoa tàn rụng. Ông đối lập xưa với nay, cổ với kim. Ông tự cho mình thuộc lớp
người “sinh lầm thế kỷ”, lạc lõng giữa thời đại- ông thường gọi là thời đại cơ khí
khiến người ta bị cơ khí hóa đến cả tâm hồn. Không ai tri kỷ, ông dựng lên những
nhân vật nhà nho , những con người của thời cũ còn sót lại, để làm nơi ẩn dật của
tâm hồn khi cảm thấy quá mệt mỏi với hiện tại. Ông gọi đấy là những bến nước
thiên nhiên khuất nẻo, yên tĩnh cho tâm óc ông tìm đến thả neo. Với hiện tại, ông
chỉ dành cho những lời khinh bạc. Nhưng đối với những cái của ngày xưa, giọng
văn của ông bao giờ cũng đôn hậu. Đôn hậu nhưng biết bao buồn tủi, ngậm ngùi.
Nó tiêu biểu cho “mỹ học hoài cựu” của nhà văn. Hình ảnh lớp nhà nho cuối mùa là
nhân vật chính trong tập Vang bóng một thời, nhưng thể hiện rõ nhất là qua các tác
phẩm: Thả thơ, Hƣơng cuội, Chén trà trong sƣơng sớm, Một cảnh thu muộn.
Các nhân vật nho sĩ cuối mùa hầu hết cuộc đời đã sang buổi xế chiều và đều là
thuộc loại người tài hoa, tài tử, bất đắc chí. Cụ Phủ Ông trong Thả thơ vốn là một
người mà học lực và đức độ, chính tích chấp được cả bạn đồng liêu một thời, và khi
cụ Phủ già cáo lão về hưu, người làng chỉ gọi là quan Nghè Móm. Cụ Phủ Bà mất
hồi đầu xuân, cỏ xanh chưa kịp che kín hết mộ thì cuối xuân, cậu Chiêu- con trai
duy nhất của cụ Phủ cũng sớm cướp công sinh thành, để lại trần thế một gia đình
đang lúng túng vì sự hiu quạnh và cảnh gà trống nuôi con. Cụ Nghè Móm già gần
kề miệng lỗ sống cùng cô con gái lỡ thì trong cảnh thanh bạch. Hàng ngày, cụ Nghè
móm dạy học vào buổi sớm, thời gian nhàn rỗi, cụ sao lá số, gieo quẻ bói hay kê
một đơn thuốc cho người làng, còn cô Tú lo săn sóc việc nhà và phụng dưỡng cha
già. Mặc dù gia cảnh bần hàn và cả nỗi buồn vì cô Tú đã quá lứa mà vẫn chưa yên
bề gia thất vì kém nhan sắc, cụ Nghè Móm vẫn giữ thói quen uống trà tàu, rượu cúc,
chơi cây cảnh và thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản coi đó như
những thú vui nhằm xua tan đi cảnh thê lương lúc tuổi xế chiều. Cụ là một đại diện
của lớp nhà nho cuối mùa mà cuộc đời đang tàn lụi dần. Nghe lời mách nước của
người bạn đồng song cùng quê, cụ Nghè Móm tháng tháng tổ chức những cuộc thả
thơ trên mặt nước. Trong cái nhà bè lợp lá gồi trên dòng sông, cụ Nghè Móm ngồi
làm nhà cái, thả thơ cho đến một chục người con đánh và cô Tú ngồi bên cạnh cha
già, lúc bận đỡ cái túi thơ của cha lấy ra từng lá thơ đặt vào lòng chiếu cho làng
chọn chữ đặt tiền, lúc thì cô lại bấm mấy tiếng tơ mà tô vẽ cho buổi đố chữ lấy tiền.
Người ta đánh bạc bằng thơ, đem cái may rủi vào tận cõi văn chương. Thế nhưng ở
đây không có sự cay cú được thua của những kẻ trót mê trò may rủi mà “trên mặt
nước sông thu, tiếng ngâm một câu thơ được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua
cuộc mất ăn tiền, những tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe
trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn chân chính”
[37. tr. 48]. Nhân vật cụ Phủ phảng phất nét giống với nhân vật ông Đồ trong bài
thơ cùng tên của thi sĩ Vũ Đình Liên. Cả hai đã trở thành lớp người của quá khứ, trở
nên lạc lõng giữa hiện tại, họ phải đem cái tài hoa ra phục vụ đám đông quanh mình
để mưu sinh. Hai nhân vật dẫu cảnh ngộ mỗi người khác nhau nhưng cái đọng lại
trong tâm trí chúng ta chính là sự tàn tạ của một lớp người mà tài năng và nhân cách
của họ đã làm nên hồn cốt dân tộc trong nhiều thế kỷ. Đọng lại vẫn là vẻ đẹp của
thơ ca được thăng hoa trong một đêm trăng với cảnh sông nước thanh bình. Có thể
nói, trong cái tàn lụi của một lớp trí thức phong kiến còn sót lại, ta vẫn thấy ánh lên
vẻ đẹp lấp lánh của những tâm hồn đẹp đẽ. Dẫu cuộc sống có khắc nghiệt, họ phải
bày trò cho thiên hạ để kiếm cớ mưu sinh thì mục đích của họ không phải là tiền
bạc mà chính là những giây phút được cùng nhau ngâm một khúc Đường thi. Tâm
hồn của họ vẫn hướng về giá trị đẹp đẽ của nghệ thuật và văn hóa. Không chỉ có
vậy, họ còn trân trọng, gìn giữ danh tiết và phẩm giá của mình. Khi có kẻ ác miệng
phao tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để tìm lựa khách đồng sàng cho cô
con gái gần quá lứa, cụ Nghè Móm đã không cho cô Tú theo mình đi thả thơ nữa.
Cụ Nghè Móm đại diện cho những nhà nho yếm thế, bất lực trước thời cuộc nhưng
vẫn kiên quyết giữ vững tiết tháo của bản thân.
Khác với gia cảnh neo đơn, thanh bạch của cụ Nghè Móm, cụ Kép làng Mọc
thượng trong truyện Hƣơng cuội có gia cảnh khá hơn, con cháu đề huề và đã thành
danh. Cụ Kép là người thích uống rượu, ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái
tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Xưa kia, cụ cũng muốn có một
vườn cảnh để sớm chiều ra đấy tự tình nhưng phải đến khi rời xa danh lợi, cảm thấy
đủ tư cách để chơi cây cảnh, cụ Kép mới gây lấy một vườn lan nho nhỏ đến sớm
chiều làm bạn. Cụ Kép là đại diện cho lớp nhà nho chán nản trước thời cuộc, đành
lui về sống với quan niệm “độc thiện kỳ thân” bằng thú điền viên, đem quãng đời xế
chiều của mình phụng sự lũ cỏ hoa. Với cụ Kép, người chơi hoa cũng phải là người
có đủ tư cách, phải dành toàn tâm toàn ý, lấy chí thành, chí tình ra mà đối đãi với
cái đẹp không bao giờ lên tiếng nói thì mới phải đạo, đạo của người tài tử. Những
người bạn của cụ, những cụ Cử Lủ, cụ Tú, cũng là những người có cùng sở thích
thanh cao giống cụ. Trong không khí ấm áp của chiều xuân sớm, họ cùng ngồi lại
với nhau trong tiệc rượu hoa, cùng nhắm rượu Thạch Lan Hương và ngâm thơ cho
tàn hết buổi chiều. Tìm cho mình một lối sống thanh cao trong lúc thời cuộc rối ren,
đó cũng là cách để những nhà nho này giữ gìn nhân cách, đồng thời thể hiện khao
khát gìn giữ những giá trị văn hóa đẹp đẽ của cha ông.
Cụ Ấm trong truyện Chén trà trong sƣơng sớm là đại diện cho lớp hàn nho,
hết thời, bất lực nhìn thời gian trôi qua không gì cứu vãn được: “Trong cảnh trời
đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái
một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian” [37, tr.126]. Hình ảnh ông cụ ngồi
lặng lẽ trong không gian bảng lảng khói sương của trời đất lúc sớm mai như một
bức họa tạc vào thời gian, hằn bóng quá khứ trai trẻ. Tuổi tác đã cao, lại sống vào
thời buổi dở Tây dở ta, cụ Ấm để tháng ngày tàn còn lại trôi qua với những công
việc vụn vặt nhưng có ích: đi xem bệnh cho người làng trên xóm dưới, giữ thói
quen thưởng trà sớm với tất cả nghi lễ thiêng liêng. Với cụ, chỉ có người tao nhã,
cùng một thanh khí mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Cụ đã từng phàn nàn
với người bạn nhà nho còn về loại khách tạp, uống trà rất tục, loại người này chỉ có
thể uống nước chế từ bình tích pha sẵn chứ không thể hợp với lối giao du thanh đạm
của cổ nhân. Tỏ thái độ bất bình với loại người phàm tục, tìm về với thú thưởng trà,
ngâm thơ thanh tao chính là cách di dưỡng tinh thần cho con người trong buổi giao
thời đầy huyên náo.
Cũng có gia cảnh khá giả và con cháu đề huề giống với cụ Kép làng Mọc là cụ
Thượng Nam Ninh trong truyện Một cảnh thu muộn. Cụ Thượng đã ở tuổi lục
thập. Trước đây, cụ từng là Tổng đốc vùng xuôi, sau đó về trí sĩ ở Hà Nội trong một
cái nhà ngói chật hẹp phố Hàng Gai ở cùng với người con thứ- ông Cử Hai, chứ
nhất định không chịu vào ở nơi rộng rãi, có người hầu kẻ hạ với người con cả- ông
huyện Thọ Xương. Tình cảm dành cho hai người con của cụ có phần thiên lệch về
người con thứ, bởi ông tìm thấy ở Cử Hai một quan niệm và lối sống của một người
tri kỷ, có tâm hồn lãng tử, coi sống cuộc đời như người ta rong chơi nơi cõi thế,
“không có lấy một giây phút trịnh trọng đối với nhân sinh” [37, tr.141]. Tất cả niềm
vui lúc tuổi xế chiều là mỗi buổi rượu sớm, mỗi tuần trà trưa hay lễ tết đều có con
cháu kề bên, cùng chia hưởng thú vui tao nhã cùng cụ. Cùng là con cả, nhưng cụ
Thượng đã thấy rõ Cử Cả, tức ông huyện Thọ Xương đương chức kia là một người
có tâm thuật hèn kém mà thường cụ vẫn hạ mấy chữ “vô sở bất chí”. Cụ tin rằng,
khi cụ trăm tuổi thì ông huyện Thọ Xương dám làm chuyện phương hại đến gia
thanh, làm mất hết những chính tích hay trong một đời làm quan của mình. Thất
vọng với người trưởng nam có lối sống thực dụng, gió chiều nào che chiều ấy, sớm
thích nghi với thời cuộc nhiễu nhương bao nhiêu cụ lại càng nghĩ thương yêu người
con thứ bấy nhiêu. Ông huyện Thọ Xương kiểu cách, hách dịch thì ông Cử Hai lại
đơn giản như ngày còn để chỏm. Cũng có thân danh là một ông cử, nhưng ông Cử
Hai chỉ có khoa mà không có hoạn. Bản tính của một nghệ sĩ lãng tử, “không chịu
sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh” [37, tr.142] nên ông khó
hòa hợp với thời buổi hỗn loạn giao thời. Ông tỏ ra bất đắc chí và phẫn uất với thời
cuộc mà tha phương cho thỏa ý của người tài tử. Việc xây dựng hai nhân vật cụ
Thượng và ông Cử Hai đối lập với ông Cử Cả là một dụng ý của Nguyễn Tuân. Cái
trịch thượng, phàm tục, xu thời nịnh thế của ông huyện Thọ Xương càng làm tôn lên
cốt cách thanh cao của ông Cử Hai. Hai nhân vật này cũng chính là đại diện cho hai
loại người trong thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân. Cụ Thượng, ông Cử Hai chính
là những nhà nho bất đắc chí, chán nản với buổi giao thời hỗn tạp, họ giữ cho mình
một đời sống tâm hồn thanh sạch bằng những giây phút đầm ấm, nề nếp bên gia đình,
chăm lo cho con trẻ. Ông Cử Hai và cụ Thượng đã mất nhiều thời gian và dành tất cả
sự khéo léo và tâm huyết của mình để làm đèn xẻ rãnh và đèn kéo quân cho con trẻ
chơi tết trung thu. Sống tận tâm cho gia đình và hết mình cho niềm vui của con trẻ, đó
cũng là nền tảng văn hóa cổ truyền cần gìn giữ. Đây cũng chính là những dòng tâm
huyết của chính Nguyễn Tuân với giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc.
Hình ảnh những nhà nho như những ông Phủ, ông Nghè, ông Ấm, ông Cử
trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân là hình ảnh tiêu biểu cho một lớp
người trong xã hội phong kiến có tâm huyết với cuộc đời, với nhân sinh nhưng họ
đều rơi vào tâm trạng chán nản, bi quan, bất lực trước cuộc đời đầy biến động. Bởi
lẽ, họ không đủ sức để làm thay đổi diện mạo xã hội, lập lại trật tự xã hội dù họ có
tâm huyết đến đâu. Thất vọng trước cuộc sống hiện tại, họ chỉ biêt đi tìm những thú
vui tao nhã, những trò thả thơ, đánh thơ, nhấm nháp chén trà buổi sớm, uống rượu
Thạch Lan Hương… Đây là những thú vui của các nhà nho cuối mùa, dù có thất thế
nhưng họ vẫn sống cuộc sống nhàn hạ, thanh tao và biết giữ gìn, chắt chiu cái đẹp
trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
2.2.2.2. Những con ngƣời lãng tử thích cuộc sống giang hồ, xê dịch.
Khác với lớp nhà nho cuối mùa bi quan, chán nản trước thời cuộc, những nhân
vật lãng tử thích cuộc sống giang hồ, xê dịch hầu hết là những người trẻ, tràn đầy
sinh lực và khát vọng tự do giải phóng cái tôi cá nhân, đam mê xê dịch và muốn tận
hưởng no say mọi hương sắc cuộc sống trần thế trong hiện tại. Kiểu nhân vật này, ta
thấy xuất hiện trong một số truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong tập Vang bóng
một thời
Lãng tử là những con người có tài, có nhân cách, không chịu cuộc sống gò bó,
không chịu luồn cúi trong vòng danh lợi, thích đi nay đây mai đó và ham chơi. Có
điều cách chơi của họ rất khác người, khác đời. Đối với họ, sống ở đời giống như
một cuộc chơi, đâu vui thì đến đâu buồn thì đi. Đi là một phương tiện, là cứu cánh
của cuộc đời. Có thể lấy đôi câu đối của bậc thời sĩ quê vùng Ngũ Quảng điếu đôi
giai nhân- tài tử Mộng Liên- Phó Sứ để định nghĩa về cách sống của người lãng tử:
Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi;
Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.
Đôi tài tử Phó Sứ- Mộng Liên trong truyện Đánh thơ của Nguyễn Tuân đã
từng đặt chân khắp dải đất Trung Kỳ với túi thơ bầu bạn: “Suốt một dải Trung Kỳ,
họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ lại mở một cái túi
đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu bạc văn chương Mộng
Liên lại đàn lại ca để là vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức này” [37, tr. 53]. Và mỗi
tuần trăng đôi tài tử Phó Sứ- Mộng Liên lại ở một tỉnh: “Bất kể lúc lên voi, lúc
xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giày trên mọi chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi
thơ và cái túi phách ăn người của họ (…) Quê hương của họ là Cờ bạc và Đàn hát.
Nhà cửa của đôi lưu đãng ấy gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ” [37, tr. 54].
Người xưa nói giống tài tình thường mệnh mỏng. Và số phận của đôi tài tử này
cũng không nằm ngoài định mệnh nghiệt ngã ấy. Ông Phó Sứ đã bỏ mạng giữa một
vùng trời nước bao la ngay dưới chân Hoành Sơn quan vì trúng cơn gió độc trong
lúc tức cảnh sinh tình để lại Mộng Liên lúng túng tìm người để trao gửi cây đàn. Cả
khi sống lẫn khi chết, những con người này đều đi đến tận cùng của kiếp sống giang
hồ, lãng tử, sẵn sàng chấp nhận số mệnh mà tạo hóa đã định cho họ.
Trong truyện Một cảnh thu muộn, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng
nhân vật ông Cử Hai là một kẻ lãng tử, tài hoa, “sống cuộc đời mình như người ta
chơi chơi vậy thôi”. Ông đi dạy học để mưu sinh, cái công việc phải cố định một
chỗ ấy đã không ghìm giữ nổi bước chân của nghệ sĩ ưa xê dịch. Ông đi dạy học mà
như đi ngoạn cảnh hoặc dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Khi ngừng chân ở một
thôn ổ hay lúc ngừng miệng giảng sách, chấm quyển, ông Cử Hai lại hóa thân thành
một nghệ sĩ tài hoa bằng việc đề bức châm lên lá quạt, hoặc khắc chữ triện và chạm
trổ một hòn đá xù xì thành con thạch ấn, dúng ngón tay vào chậu mực vẽ một bộ tứ
bình thủy mặc. Thế nhưng, con người coi cuộc đời như một trường du hý ấy cũng
có lúc quay về bên nghĩa vụ và trách nhiệm với gia đình. Tưởng đâu nét tài hoa,
lãng tử ấy sẽ phôi pha theo thời gian nhưng nét anh hoa vẫn phát tiết ra ngoài. Ông
Cử đã dành trọn vẹn tài khéo léo và tâm huyết của mình để làm đèn kéo quân và
đèn xẻ rãnh cho con chơi trông trăng ngày rằm tháng Tám. Đã có lúc, ta tưởng ông
Cử Hai là người vị kỷ, vô trách nhiệm nhưng có thể thấy thẳm sâu trong tâm hồn
người nghệ sĩ lãng tử ấy đã thấy được giá trị của gia đình, của việc lưu giữ những
truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp cho thế hệ sau. Ở ông, cái tài và cái tâm
hài hòa, trọn vẹn.
Xây dựng các nhân vật lãng tử thích lối sống giang hồ, xê dịch và đề cao lối
sống của họ là cách Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng với tài năng, nhân cách của
những con người có tâm hồn nghệ sĩ. Họ là những con người nhạy cảm với thời
cuộc và thế thái nhân tình, đã chọn cho mình một lối sống riêng. Phải chăng đó
cũng là cách thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống tù túng, không chút sinh
thú. Điều này góp phần làm nên giá trị văn chương của Nguyễn Tuân.
2.2.2.3. Những con ngƣời nghệ sĩ tài hoa, tài tử
Khái niệm “người tài tử”, “nhà nho tài tử” được nhà nghiên cứu Trương Tửu
đưa ra trong công trình Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (tạp chí Văn mới, Hà
Nội năm 1944) và được Trần Đình Hượu sử dụng để nghiên cứu về Nho giáo và
văn học trung cận đại Việt Nam. Sau này, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương tiếp
tục kế thừa và làm rõ hơn quan niệm của Trần Đình Hượu trong luận án Tiến sĩ và
in thành sách Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (NXB ĐHQG, 2003). Theo ý
chung của các nhà nghiên cứu, người tài tử là danh từ dùng để chỉ những nhà nho lơ
đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên về văn học, về sự vui sống
cầu kỳ (hành lạc). Họ sống vì nghệ thuật, vì cái đẹp. Cái ý vị cuộc sống với họ
không phải ở chỗ phụng sự mà ở chỗ hưởng thụ những thú vui như uống rượu, làm
thơ, gẩy đàn, đánh cờ, chơi giăng gió sông núi… Cách chơi của họ rất khác đời. Sự
say sưa khi cầm trên tay quân bài lá bạc, hoặc chén rượu ngon đối với họ không
phải là mục đích cuối cùng. Giữa một xã hội phong kiến cào bằng nhân cách, trói
buộc người ta trong những quy ước tẻ nhạt, cách chơi của những bậc tài tử này là
lối chơi của kẻ thạo đời, đã đọc đủ sách thánh hiền nhưng vẫn chán, đành lấy việc
chơi đùa để khẳng định chỗ hơn người và cả khát vọng tự do của mình. Phẩm chất
quan trọng của người tài tử là Tài và Tình. Nhiều nhà nho tài tử trong văn học trung
đại Việt Nam đã sống và viết với hai chữ Tài, Tình như Nguyễn Du, Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát...
Phong kiến suy tàn, nhường chỗ cho thời thực dân nửa phong kiến cùng với
đó là sự xâm lấn ồ ạt của văn hóa Tây phương đẩy Hán học dần lui vào dĩ vãng.
Lớp nhà nho được tôn làm chuẩn mực cho con người một thời nay trở thành lớp
người hiếm hoi còn vương sót lại. Văn học 1930- 1945 cũng có nhiều nhà văn viết
về lớp người cũ này bằng nhiều cách tiếp cận và thế giới quan đa dạng như: Nhà
Nho (Chu Thiên), Thanh đạm (Nguyễn Công Hoan), đặc biệt là tiểu thuyết Lều
chõng của Ngô Tất Tố. Trong tác phẩm của mình, Ngô Tất Tố đứng trên lập trường
của một nhà văn hiện thực phê phán đã ném ra một bức tranh màu xám với những
đường nét tối sẫm về chế độ khoa cử mục nát dưới triều Nguyễn, đồng thời miêu tả
tấn bi kịch đau xót của những nhà nho có tài trong xã hội phong kiến. Cũng viết về
quá khứ, với nhân vật chính là các nhà nho nhưng Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân không giống với các tác giả kể trên. Nguyễn Tuân đã lật lớp vải phủ bụi lên để
lộ ra màu vàng son rực rỡ của quá khứ với hình ảnh của một lớp nho sĩ tài hoa, tài
tử mà lối sống và tài năng của họ là tiêu biểu cho những giá trị văn hóa tinh thần đã
bị mai một trước biến thiên của lịch sử. Từ góc độ thẩm mỹ, văn hóa, Nguyễn Tuân
đã xây dựng lên những người tài tử, sống bằng nghề ca hát, mua vui cho thiên hạ
bằng thanh sắc của mình. Bản thân Nguyễn Tuân đã từng lui tới rất nhiều cao lâu,
quán trọ, nhà hát cô đầu nên ông thấu hiểu tài năng và hoàn cảnh của họ. Kiểu nhân
vật này được tập trung chủ yếu trong tập truyện Vang bóng một thời và một số tác
phẩm được sáng tác trước đó. Trong truyện Đánh thơ, ông kể về cuộc sống của
Mộng Liên, Mộng Huyền, Mộng Thu: “Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng tài tiểu
xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp đã thừa tô điểm
cho xứ Huế trong một thời”. Họ sống không toan tính cho bản thân, chỉ biết dùng
lời ca, tiếng hát của mình mà làm nên nét riêng cho đất Thần Kinh. Trong Chiếc lƣ
đồng mắt cua, Nguyễn Tuân đã kể về cuộc sống của những kiếp tài tử, giang hồ
như nhân vật Tôi, ông Thông Phu, cô Đào Tâm… Họ là những con người tài hoa, lỡ
bước sa chân vào cuộc sống trụy lạc nhưng trong tâm hồn họ vẫn ẩn chứa những
đốm sáng lương thiện và khao khát có một cuộc sống tốt đẹp. Ông Thông Phu chính
là người đã tặng tác giả chiếc lư đồng mắt cua mà ông dùng làm nhan đề quyển
sách. Đó là nhân vật rất lạ. Ông ta là một tay chủ cô đầu rất hiếu thắng, đánh trống
chầu thì tự khen mình là hay nhất nước Nam, cờ thì tự cho là quán cả Trung Bắc
lưỡng kỳ, và về thơ thì thường vén đùi lên, mình ngâm văn mình và kêu rằng gieo
được một chữ như thế tức là thừa xuất nhập cổ kim, là quỷ khốc thần kinh rồi. Đây
là đoạn tác giả tác tả ông Thông Phu đánh cờ: “Trông ông gò một nước cờ lắm lúc
thật là tử công phu. Cờ đất cũng vậy mà cờ bàn cũng vậy. Bao nhiêu đau khổ mệt
nhọc hiện cả lên trên mặt ông” với “…những đường gân hằn hai bên thái dương
mỗi lúc ông đi con cờ hoặc suy nghĩ im lặng trên bàn cờ (...) cho những cái quằn
quại giày vò thắc mắc ấy hiện lên khuôn mặt cho đến hết!”. Nhìn ông Thông Phu
chơi cờ, tác giả liên tưởng như người nghệ sĩ đang thai nghén tác phẩm của mình
vậy. Một người tài hoa có tính hiếu thắng và có những sự gắng sức như thế mà phải
thua một ván cờ trong khi đấu với một kẻ tầm thường, rồi vừa uất, vừa trúng phong
ngay giữa lúc thua, ông Thông Phu đã trở nên một phế nhân phải nằm một chỗ và
bạn bè thân lánh xa dần dần. Còn giọng hát của cô Đào Tâm, một người vừa có sắc
vừa có tài đàn hát. Tiếng hát có tinh thần, kỹ thuật điêu luyện khi được cất lên đủ
gột rửa những nhơ nhớp trát vào người từ khi sa chân vào kiếp sống trụy lạc. Hình
ảnh cô Đào Tâm phảng phất bóng dáng của những kiếp hồng nhan bạc mệnh trong
tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Phải cảm nhận được cái chất nghệ sĩ đau
đớn trong kiếp người giữa sự ghét nhau của tài và mệnh, Nguyễn Tuân mới viết lên
những trang văn xúc động lòng người đến thế.
Trong thế giới nhân vật của Vang bóng một thời, ông Huấn Cao trong Chữ
ngƣời tử tù nổi bật lên như một nhân vật đẹp nhất. Con người ấy là một nghệ sĩ thư
pháp, một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang. Nét chữ tài hoa của
Huấn Cao nức tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn, thậm chí nó còn vượt qua hàng rào
song sắt tối tăm của nhà ngục để trở thành niềm ngưỡng mộ và ao ước của viên
quản ngục và thơ lại, khiến họ vượt qua cả phép tắc, sự an nguy của tính mạng để
biệt đãi một tử tù chỉ với mục đích cuối cùng là được ông Huấn cho chữ. Đề cao thú
chơi chữ, Nguyễn Tuân cũng đề cao vẻ đẹp của văn hóa, nghệ thuật, của nhân cách
con người. Cái đẹp luôn đi cùng cái thiện. Chừng nào con người còn biết yêu cái
đẹp thì người đó dù ở hoàn cảnh tối tăm nhất vẫn ánh lên vẻ đẹp của thiên lương.
Với tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã xua đi ấn tượng về một nhà văn duy mỹ để hiện
ra một nhà văn thiết tha với giá trị cổ truyền của dân tộc, là nhà văn có tâm.
Kiểu nhân vật tài hoa, nghệ sĩ là kiểu nhân vật đáng chú ý nhất tạo nên phong
cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Kiểu nhân vật này như tấm gương phản chiếu
chính người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Biết yêu quý cái đẹp, luôn tìm cái đẹp
trong mọi ngóc ngách của đời sống đã trở thành mục đích trong suốt cuộc đời cầm
bút của nhà văn. Đó cũng là cách thể hiện quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật của
ông. Qua đó, Nguyễn Tuân thể hiện thái độ khinh bỉ của mình đối với cái xấu xa,
hèn kém của xã hội, đề cao cái đẹp muôn hình muôn vẻ trong cuộc sống.
Tiểu kết chƣơng 2: Khi viết về cuộc sống hiện tại, Nguyễn Tuân luôn tỏ thái
độ bất hòa sâu sắc, phủ nhận thực tại xấu xa đương thời bằng một giọng điệu khinh
bạc. Nhưng khi viết về quá khứ vang bóng một thời, Nguyễn Tuân kể lại bằng một
giọng thán phục, luyến tiếc và mến yêu vô cùng. Đọc Vang bóng một thời, chúng
ta có cảm giác nhẹ nhàng, êm dịu như xem một tập tranh cổ họa. Qua đó, vẻ đẹp
của cuộc sống quá khứ cứ dần dần hiện lên với những bức tranh thiên nhiên thơ
mộng, hiền hòa, những bức tranh về lối sống sinh hoạt vật chất và tinh thần tao nhã,
tinh tế. Ca ngợi những thú ăn chơi tao nhã của các cụ ta thuở trước như cầm, kỳ, thi,
tửu, Nguyễn Tuân muốn đem ra đối chiếu với cách ăn chơi tục tằn của bọn hãnh
tiến đương thời, cậy có của mà trác táng, thô bỉ. Trong thế giới của một thời đã xa
nay chỉ còn vang bóng, ta thấy hiện lên thế giới nhân vật tiêu biểu mà Nguyễn Tuân
yêu mến, ngưỡng mộ. Đó là những nhà nho cuối mùa nhưng vẫn giữ trọn giá trị bản
thân bằng nghệ thuật hành lạc hơn đời; là những lãng tử thích cuộc sống giang hồ,
xê dịch; là những nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Họ chính là biến thân khác nhau của con
người nghệ sĩ, lãng tử Nguyễn Tuân. Ông đã được sống trong thế giới vang bóng
một thời trước khi viết Vang bóng một thời. Do đó, những gì ông viết ra thể hiện
sự am hiểu sâu sắc những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, là tấm lòng
ngưỡng mộ với những con người tài hoa, khí phách hơn đời. Đặt trong hoàn cảnh
lúc bấy giờ, ta thấy được tấm chân tình của Nguyễn Tuân với quê hương, đất nước.
CHƢƠNG 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật
Trong văn học nghệ thuật, thời gian và không gian có sự đan xen hòa quyện
không thể tách rời nhau. Về thời gian nghệ thuật, thi pháp học chỉ ra rằng: thời gian
nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, cho nên chúng ta có thể
nhận thấy thời gian nghệ thuật là một phương tiện nghệ thuật cần thiết để xây dựng
nên tác phẩm văn học và là một phương thức để phản ánh đời sống. Không giống
như thời gian tự nhiên, thời gian nghệ thuật vận động trên cả ba chiều: quá khứ,
hiện tại, tương lai. Thời gian nghệ thuật không tuân theo trật tự tuyến tính của thời
gian tự nhiên mà có thể đảo ngược trình tự thời gian, thay đổi nhịp độ thời gian.
Thời gian tự nhiên một đi không trở lại. Nhưng nghệ thuật có thể làm tái hiện thời
gian đã qua bằng cách để con người tìm về quá khứ, hòa mình với hiện tại và hướng
về tương lai. Cũng giống như thời gian, không gian nghệ thuật vừa là hình thức tồn
tại của hình tượng vừa là một phương thức thể hiện đặc điểm tư duy nghệ thuật và
khả năng chiếm lĩnh thế giới của văn học. Trong những sáng tác trước Cách mạng,
Nguyễn Tuân đã tạo dựng được bối cảnh thời gian và không gian nghệ thuật sống
động, mỗi tác phẩm là không gian nghệ thuật hấp dẫn riêng: có không gian rộng,
không gian hẹp, không gian tâm tưởng, không gian quá khứ, không gian hiện tại...
Ở tập truyện Vang bóng một thời, ta thấy quá khứ hiện lên từ điểm nhìn của
hiện tại. Ta có thể thấy những chi tiết về thời gian cụ thể được tác giả nhắc đến
thoáng qua trong một số truyện. Trong Chữ ngƣời tử tù, nhân vật chính là ông
Huấn Cao được tác giả lấy nguyên mẫu là Cao Bá Quát, người nổi tiếng văn hay
chữ tốt. Từ nhân vật lịch sử có thật này, ta có thể hình dung câu chuyện diễn ra vào
khoảng năm Tự Đức thứ 7 (1854) là năm Cao Bá Quát bị tội vì tham gia cuộc khởi
nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình. Ở truyện Ngôi mả cũ, nhân vật cụ Hồ Viễn
vốn là tướng Cờ Đen. Cụ Án ông, cụ Án bà chạy giặc vào rừng Hưng Hóa tránh
giặc Khách là vào những năm 1869- 1870. Gần nhất là những chuyện trong Bữa
rƣợu máu có mặt quan Công sứ; truyện Một cảnh thu muộn với chi tiết về đức
Thành Thái ngự du ra khánh thành cầu Bồ Đề với quan Toàn quyền Đô Mỹ; Đánh
thơ vào khoảng đời vua Thành Thái, đầu Duy Tân, tức là những năm đầu thế kỷ
XX. Đó là những câu chuyện xảy ra không cùng thời với Nguyễn Tuân. Cái tài của
Nguyễn Tuân ở chỗ ông đã làm sống lại không khí của thời trước như bản thân ông
đã từng sống ở thời đó. Nếu không có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú, Nguyễn
Tuân không thể thành công như vậy.
Nếu việc tái hiện thời gian cho thấy vốn sống, vốn hiểu biết phong phú của
Nguyễn Tuân thì việc tái hiện không gian quá khứ lại cho thấy một sức tưởng tượng
vô cùng khoáng đạt của ông. Có lúc là không gian sinh hoạt hạn hẹp nơi thôn quê
của những người thợ Tràng Thôn với thú vui thỉnh thoảng được nâng chén bất cứ ở
trường hợp nào. Nhưng cũng có khi là không gian bạt ngàn huyền ảo, lung linh
nhiều màu sắc của chốn thần tiên ở đỉnh non Tản (Trên đỉnh non Tản). Không
gian thực và ảo, hẹp và rộng như đưa người đọc đi lạc từ thế giới hiện thực của
mình sang thế giới thần tiên trong những câu chuyện cổ dân gian. Ở truyện Báo
oán, Nguyễn Tuân xây dựng một không gian hiện thực và ma quái xen kẽ. Đó là
không gian ảm đạm, thê lương của hiện thực với cảnh mưa gió, lụt lội của chốn
đồng chiêm Sơn Nam Hạ: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt
triền miên than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ” [37, tr.155].
Không gian ma quái, rùng rợn của buổi chiều tà: “Nền trời phương Đông đáng lẽ
phải hửng lên để đón lấy chiều dương. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn
lên những hình Quỷ Đông và, nơi phía tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên
trên tạo vật có tang ma, những màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn” [37, tr.160]. Đó còn
là cảnh phố hàng Giấy với những cô hàng bút mực sắc sảo đối đáp với những thầy
khóa đi thi. Cảnh lầy lội của trường thi với không gian lạnh lẽo, ma quái khiến ông
Đầu Xứ Em phải bỏ cuộc giữa chừng: “Khói bốc lên, tỏa xuống soai soải như
những vệt nước thời gian trượt trên đầu ngọn tường xuống lần vách gạch những
đền chùa xưa cũ có vẽ mốc hình, có rêu phong dấu”. [37, tr.179]
Có thể thấy rõ Vang bóng một thời không hiện diện những cảnh tượng huyên
náo, rực rỡ màu sắc mà dễ nhận ra một gam màu nhạt và ảm đạm bao trùm khắp
không gian. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái vang của thời đã qua, cái
bóng của thời đã qua, mà ngày nay người ta tưởng còn văng vẳng, và thấp thoáng
đó là tất cả cái thê lương nó khởi đầu những mẫu chuyện cổ thời” [25, tr. 16]. Gam
màu nhạt và ảm đạm này phù hợp một cách kỳ lạ với khung cảnh những buổi chiều
u ám. Đó là buổi chiều trong vườn chuối âm u báo trước sự chết chóc ở truyện
Chém treo ngành: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh
định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ”; “Vào tiết mưa dầm, những trận mưa
Ngâu đổ lên vườn chuối một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu [37; tr.11].
Đến gần cuối truyện, khi Bát Lê chuẩn bị cho cuộc trình diễn nghệ thuật trong nghề
đao phủ trên pháp trường, không khí ảm đạm, u ám ấy còn được pha thêm màu sắc
dữ dội gây cảm giác bức bối, nặng nề báo hiệu chết chóc, đau buồn: “Trời chiều có
một vẻ dữ dội. Mặt đất thời sáng hơn là nền trời. Nền trời vẩn những đám mây tím
đỏ vẽ đủ mọi hình thù quái lạ. Những bức tranh mây chó màu thẫm hạ thấp thêm và
đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt” [37; tr.20]. Khi cuộc hành quyết
những tử tù đã xong, quan khách đang ra về, Nguyễn Tuân gợi lên một cảnh giữa
sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. “Trận gió xoắn
hút cát, bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang ra về. Cái
mũ trắng trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ, lăn lộn mấy
vòng” [37, tr.24]. Đây như một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Tuân, báo trước một
cơn thịnh nộ của trời đất và con người trút lên đầu kẻ xâm lược.
Chẳng cứ gì buổi chiều, ngay cả một buổi trưa hè cũng được tả với sự buồn
vắng, im lìm: “Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đối mặt cánh đồng dưới chân đồi,
làm rung rinh lớn không khí bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vớn qua
những màu xanh bong loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc
ấm đất). Bên cạnh những đoạn văn tả cảnh này còn có những đoạn tả người cũng
vẫn với những “nét rầu rầu xanh xám” ấy: “Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái
cảnh màn trời triền miên những kinh động ngờ sợ, ánh sáng tối và ẩm ướt của rừng
tị nạn, đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chum túc mới vừa to mà đã nhuộm
màu tang” (Ngôi mả cũ).
Ấn tượng nhất có lẽ là những đoạn văn tả cảnh gắn liền với những thú tiêu
khiển thanh nhã. Cảnh vật ở đây trở nên thanh khiết, êm đềm đôi khi buồn bã đến
kỳ lạ thể hiện một cách gián tiếp thái độ yêu mến, trân trọng và nuối tiếc của nhà
văn. Đây là cảnh tượng trong một cuộc thả thơ trong truyện cùng tên: “Vầng trăng
mười bốn lúc chênh chếch và đoài đã in một cúc bóng thẫm và dài lên mặt con sông
trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội, ở đó tiếng ngâm một câu thơ được cuộc,
câu thơ thua cuộc ăn tiền đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong
trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn”. Còn đây là cảnh
vật buổi sớm mai trong lành nhưng vẫn gây cảm giác u hoài: “Trời rạng dần. Một
chút nắng đào lóng lánh trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một
chiếc” (Chén trà trong sƣơng sớm). Đánh thơ cũng gợi nhiều cảm tình nơi người
đọc bởi một bầu không khí thơm ngát hương hoa huệ trắng được tăng bốc lên bởi
hơn mười cây nến sáng, hương hoa tinh khiết bao bọc lấy những con bạc nhiều khi
đến với cuộc đánh thơ chỉ vì niềm yêu mến văn chương: “Hoa huệ mềm mại cuộn
cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến
cháy, của người thở mạnh, cáng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết
cả, có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng
hoa huệ” [37, tr. 60]. Bên cạnh, không gian chật hẹp của những đám sát phạt đỏ đen
bằng văn chương là khung cảnh phóng khoáng, rộng lớn của sông nước, núi non nơi
từng lưu dấu chân của cặp tài tử, giang hồ Phó Sứ- Mộng Liên gợi lên một cái gì
vừa trần tục lại vừa thanh cao. Trong truyện Ngôi mả cũ, Nguyễn Tuân tái hiện một
không gian sinh hoạt trong một gia đình nhà nho tuy sa sút nhưng vẫn giữ được nề
nếp, gia phong. Những con đường làng quê yên ả, thanh bình mà ở đó, người ta có
thể vừa đi trên đường bằng cáng hay võng, vừa đủng đỉnh đánh cờ tưởng tượng.
Không gian trong truyện Những chiếc ấm đất là cảnh thực nhưng qua ngòi bút
miêu tả của tác giả khiến ta liên tưởng đến cuộc chia tay của Lưu Thần, Nguyễn
Triệu từ giã chốn Đào nguyên trở về cõi thế tạo nên một cảm giác siêu thoát, đượm
màu sắc tôn giáo: “Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng dài lạnh lùng và ví
cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một
cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa
động” [37, tr. 27].
Có lúc, thời gian và không gian hòa quyện làm một trong cảnh tượng Huấn
Cao cho chữ quản ngục. Thời gian vào đêm khuya tĩnh lặng gợi cái mênh mông của
vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Không gian sáng rực bởi ánh lửa ngọn đuốc.
Ánh sáng đẩy lùi bóng tối của đêm đen, giữa đêm tĩnh lặng vẫn vọng lên những lời
di huấn về thiên lương. Trong thế giới của bóng tối, cái đẹp vẫn sinh sôi. Thời gian
và không gian ở đây làm nền cho sự chiến thắng huy hoàng của cái đẹp.
Tấm lòng luyến tiếc quá khứ đã khiến Nguyễn Tuân miêu tả thời gian, không
gian giống như vầng mặt trời chiều trước khi tắt hẳn vẫn ánh lên những tia lửa rực
rỡ, huy hoàng, hắt bóng lên con người và cảnh vật. Với cách miêu tả này, ta thấy tác
phẩm có một không khí buồn mà thanh sạch, ảm đạm mà vẫn lịch lãm, cao sang.
3.2. Tình huống truyện đặc sắc
Hêghen, nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức (1770- 1831) quan niệm về
tình huống như sau: “Nói chung tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt
và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần
biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện
nghệ thuật” [32]. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: tình huống là “cái tình thế
xảy ra chuyện”, là “một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất,
chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống…nhưng bắt buộc con
người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu
kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân
loại” [5, tr.258]. Như vậy, tình huống còn được gọi là tình thế và các nhà văn Việt
Nam quen dùng tình thế hơn là tình huống. Nhà văn Nguyễn Kiên đã hơn một lần
nói về bản chất và vai trò của tình huống: “Theo quan niệm của tôi, mỗi truyện
ngắn chỉ tập trung vào một tình thế nảy sinh trong cuộc sống. Nếu truyện ngắn có
đến hơn một tình thế thì truyện ngắn đó lập tức bị phá vỡ”. [28, tr.44]. Nhà văn
Nguyên Ngọc khi bàn về truyện ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn đề tình huống:
“Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là
thủ thuật điểm huyệt […] Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng cách nắm bắt
trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong
muôn mặt cuộc sống hàng ngày”. [30, tr. 114].
Từ một số ý kiến trên, có thể khái quát về tình huống truyện như sau: Đối với
truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái
hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống
hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.
Có người đã ví tình huống truyện giống như một tứ thơ, một thứ nước rửa ảnh làm
nổi bật hình sắc nhân vật, chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
Trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời, nhà văn đã sáng tạo nhiều tình
huống truyện khác nhau trong đó có những tình huống truyện đặc sắc. Truyện ngắn
Chữ ngƣời tử tù là một thành công nổi trội của Nguyễn Tuân. Tình huống truyện
xoay quanh cuộc gặp gỡ oái oăm của hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục. Oái oăm
ở chỗ không gian gặp gỡ là nhà tù và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ này là những
ngày cuối cùng trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án. Không gian và thời
gian như thế đã góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống. Oái oăm còn ở chỗ sự éo
le trong thân phận hai nhân vật. Trên bình diện xã hội, họ là hai kẻ đối địch : Huấn
Cao là "giặc"của triều đình - quản ngục lại là quan của triều đình. Ở bình diện nghệ
thuật, họ lại là tri kỉ, trên cả hai chiều của quan hệ. Chiều đã hiện hình : Huấn Cao
có tài hoa và khí phách còn quản ngục lại ngưỡng mộ khí phách và tài hoa. Chiều
tiềm năng : Huấn Cao chỉ cúi đầu trước Thiên lương cao khiết của con người, trong
khi đó quản ngục lại là “một tấm lòng trong thiên hạ”. Người nào cũng có những
phẩm chất cao quí mà người kia khát khao ngưỡng mộ. Sự éo le càng tăng gấp bội,
bởi vì, về hành động, quản ngục bị đẩy đến trước sự lựa chọn nghiệt ngã đầy tính
xung đột: Nếu làm tròn chức phận quan lại thì phải chà đạp lên lòng tri kỉ; nếu trọn
đạo tri kỉ thì phải phớt lờ chức phận quan lại. Hành động theo hướng thứ hai, quản
ngục là người cao quí vì dám thuỷ chung với những giá trị mình tôn thờ, ông ta đã
dám bất chấp sự thiệt thòi về quyền lợi lẫn sự an nguy đến tính mệnh. Đây còn là
cuộc gặp gỡ giữa hai loại tù nhân: Huấn Cao- tù nhân thân thể nhưng tự do về tinh
thần và quản ngục tuy tự do về thân thể nhưng tinh thần và nhân cách bị cầm tù.
Nguyễn Tuân đã dùng một so sánh rất đẹp để viết về quản ngục: “Trong cảnh đề
lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá
người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong
trẻo chen vào bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” [37, tr.102]. Nếu ban đầu,
khi chưa hiểu về quản ngục, Huấn Cao đã đánh đồng ông với những quản ngục khác
và tỏ thái độ khinh bạc. Nhưng khi hiểu được tấm lòng và sở thích cao quý của quản
ngục, Huấn Cao đã tự nguyện cho chữ. Cảnh cho chữ là cảnh tượng đẹp nhất mà ở
đó vị thế các nhân vật bị đảo lộn: Người có chức năng giáo dục tội phạm thì đang
khúm núm lắng nghe từng lời di huấn thiêng liêng của phạm nhân. Chính Cái Đẹp
đã chi phối sự đảo lộn này. Ở đây, không còn quản ngục và phạm nhân, chỉ còn hai
người tri kỷ đang quây tụ trong cái đẹp của tình người và nghệ thuật. Quản ngục
không cứu được Huấn Cao và cũng không tự cứu được mình. Còn Huấn Cao chẳng
những không cần giải cứu mà trước khi ra pháp trường còn cứu được quản ngục.
Cuộc kì ngộ đã trở thành cuộc hạnh ngộ. Việc sáng tạo ra tình huống truyện đặc sắc
đã chứa đựng một quan niệm sâu sắc của nhà văn: Cái đẹp là bất diệt. Dù thực tại có
hắc ám đến đâu cũng không tiêu diệt được cái đẹp. Nó mãi mãi là một lí tưởng nhân
văn cao cả của cõi người này. Tình huống như thế cũng khẳng định một niềm tin
mãnh liệt, rằng: Cái đẹp sẽ thanh lọc cuộc đời này; “Cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại”
(Đôtxtôiepxki).
Một số truyện ngắn khác như: Chém treo ngành, Báo oán, Trên đỉnh non
Tản cũng có tình huống truyện. Trong Chém treo ngành là tình huống đao phủ Bát
Lê đã nghỉ tay một thời gian vì già yếu, nay được quan Đổng lý Quân vụ gọi ra
hành hình mười hai tử tù vốn là quân Bãi Sậy bằng lối chém treo ngành độc đáo cho
quan Công sứ người Tây được thị kiến. Sáng tạo ra tình huống này, Nguyễn Tuân
có dịp kể về nghệ thuật của Bát Lê trong nghề đao phủ. Đó là lối chém đầu rất ngọt
để đầu tử tù vẫn còn dính vào thân mình bởi lần da cổ. Cách ông để đao phủ Bát Lê
chém thật ngọt và tài hoa những người tử tù Bãi Sậy phải chăng là sự ngưỡng mộ,
kính trọng của Nguyễn Tuân đối với những trang anh hùng nghĩa liệt. Cuộc đời họ
đã sống đẹp và khi chết, họ cũng được hưởng một cái chết thật nghệ thuật. Đó là
cách thể hiện tấm lòng theo kiểu của Nguyễn Tuân. Truyện ngắn Báo oán có tình
huống mang màu sắc liêu trai về hồn ma người đàn bà chết oan hiện lên quấy rối
anh em ông Đầu Xứ Ngoạt khiến cả hai vốn là những người văn hay chữ tốt nổi
tiếng làng Cổ Nguyệt đều phải bỏ dở trường thi và bay luôn kỳ kinh nghĩa. Qua tình
huống truyện này, Nguyễn Tuân cho ta thấy cái thời tàn của khoa cử Nho giáo và số
phận bi đát của những nhà nho cuối mùa. Nguyễn Tuân vốn là nhà văn lãng mạn,
nhưng truyện ngắn này của ông mang màu sắc hiện thực rõ nét. Tình huống truyện
ngắn Trên đỉnh non Tản là những người thợ làng Tràng Thôn được Đức Tản Viên
mời lên sửa đền Thượng cho mình. Sáng tạo ra tình huống truyện này, Nguyễn
Tuân đã đưa người đọc đến với một nơi bồng lai tiên cảnh và là nơi phô diễn tài hoa
của những người thợ mộc lành nghề tỉnh Sơn. Qua đó, nhà văn đã thể hiện niềm tự
hào về nét tài hoa của những người thợ xứ Việt.
Việc tạo ra được những tình huống truyện độc đáo làm cho mỗi tác phẩm của
Nguyễn Tuân trở nên đặc sắc, mang đậm dấu ấn cá tính nhà văn. Đây cũng là đóng
góp có giá trị của Nguyễn Tuân với thể loại truyện ngắn nói riêng và công cuộc hiện
đại hóa văn học dân tộc nói chung.
3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu
3.3.1. Ngôn ngữ
Nguyễn Tuân là bậc thầy về sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ. Sự sáng tạo ấy là
do tự học, tự tìm tòi trong trường đời, trong ngay nội tâm mình và trong văn hóa của
dân tộc ta và các dân tộc khác. Ông coi “nghề văn là nghề của chữ nghĩa”, viết văn
là “chơi một lối độc tấu”, không nhầm lẫn với ai và không để ai bắt chước được.
Với trí tuệ sắc sảo, uyên bác, vốn năng khiếu ngôn ngữ, Nguyễn Tuân đã sáng tạo
không ngừng trong văn chương và trong ngôn ngữ để tạo nên những áng văn
chương mang đậm phong cách, có một không hai. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của
Nguyễn Tuân thể hiện ở việc sử dụng các từ Hán Việt tạo không khí cổ xưa và màu
sắc trang trọng; hệ thống từ láy phong phú cùng với ngôn ngữ giàu hình ảnh, âm
thanh và nhạc điệu. Ở đây, chúng tôi chủ yếu khảo sát qua tập Vang bóng một thời
và một số tác phẩm khác viết về đề tài quá khứ.
3.3.1.1. Ngôn ngữ kiểu cách, trang trọng
Trước hết phải thấy rằng, nhà văn đã sử dụng hệ thống từ cổ, từ Hán Việt một
cách đắc địa để tạo không khí cổ xưa. Những từ cổ này được kết hợp hài hòa, chặt
chẽ với những cảnh, những người trong quá khứ như dẫn người đọc mở cánh cửa
bước vào một nhà bảo tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày những hiện vật của một
thời xa xưa. Ấn tượng về sự xưa cũ, cổ kính này một phần được tạo ra bởi hệ thống từ
cổ kết hợp với những địa danh, tên gọi, cách nói, cách xưng hô mang dấu ấn của một
thời xuất hiện dày đặc trong tác phẩm. Những cái tên: Chùa Đồi Mai, xứ Đồng Côn,
quan Công sứ, khoa thi Mậu Ngọ, nhà nước Bảo hộ, viên giám trảm, lính cơ, cụ Nghè
… giúp chúng ta rất nhiều trong hành trình trở về quá khứ. Nói về nghệ thuật uống
trà, nhà văn dùng một loạt từ ngữ: tuần nước, bữa trà sớm, hương trà, phong vị trà
tàu, trà đi hương, trà phát du, than tàu, hỏa lò, ấm Thế Đức gan gà, ấm Mạnh Thần,
ấm Lưu Bội, trà Vũ Di Sơn, trà Bạch Mao Hầu, trà Trảm mã, nước sủi, sôi già, ngư
nhãn, long nhãn... (Chén trà sƣơng, Những chiếc ấm đất). Về thơ xưa và lối đánh
bạc bằng thơ, ông có cả một trường từ vựng phong phú: cổ phong, gối hạc, cổ thi,
khổ độc, chữ trắc, chữ bằng, chữ lắt léo, chữ hiểm hóc, chữ ăn tiền, chọn chữ đặt
tiền, nhà cái, nhà con, tiếng bạc, tiền hồ… (Đánh thơ). Về việc thi cử ngày xưa, ông
dùng các từ: sĩ tử, người sĩ, sĩ phu, thư sinh, cậu khóa, văn nhân, cáo trục, tiến
trường, nộp quyển, cánh quyển, đổi quyển, ống quyển, đại khoa, chánh chủ khảo, phủ
phục, tam sinh, phạm húy, kỳ đệ nhất: kinh nghĩa, kỳ đệ nhị: thơ phú, kỳ đệ tam: văn
sách, tân khoa, đầu xứ, huynh đệ đồng khoa…(Báo oán).
Việc đặt tiêu đề cho tác phẩm cũng thể hiện tài năng chơi chữ của Nguyễn
Tuân. Viết về thú uống rượu với hòn đá cuội phết kẹo mạch nha và ủ trong hương
hoa lan, ông đặt cho truyện cái tên là Hƣơng cuội. Hương hoa gợi sự mềm mại,
thơm tho; cuội lại gợi cái cứng cỏi. Đá cuội vốn vô tri, vô hồn nhưng qua bàn tay và
khối óc của người có thú chơi cầu kì, lịch lãm, nó trở nên thật tinh tế, thanh tao. Cả
hai hòa quyện vào nhau một cách độc đáo. Cách đặt tiêu đề như vậy mang đậm dấu
ấn phong cách ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Một ví dụ khác, cuối tác phẩm Chữ ngƣời
tử tù, sau khi ông Huấn Cao cho chữ và dặn dò những lời tâm huyết khiến quản
ngục cảm động, vái tử tù một vái mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn
ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. “Bái lĩnh” là một từ Hán Việt chỉ hành động
vừa vái, vừa ghi nhận lời dặn dò. Một từ này đã làm hiện lên tất cả sự thành kính,
ngưỡng mộ của quản ngục trước một nhân cách cao khiết như Huấn Cao. Câu nói
của quản ngục không chỉ để tạ ơn người cho chữ mà còn đánh dấu sự thức tỉnh về
nhân cách của ông. Trước khi gặp Huấn Cao, quản ngục bị mê muội bởi danh lợi
tầm thường che lấp mất tâm hồn lương thiện. Chính Huấn Cao là người đã khơi dậy
vẻ đẹp tâm hồn ấy. Một câu nói nhưng góp phần tô đậm thêm chủ đề của tác phẩm
và thông điệp của nhà văn: Cái đẹp có sức cảm hóa lớn lao, đưa con người vươn tới
cái thiện. Như vậy, việc sử dụng hệ thống ngôn từ độc đáo như trên vừa thể hiện
dụng ý của nhà văn lại vừa nói lên một cách đầy đủ nhất sự hiểu biết sâu rộng, cặn
kẽ của nhà văn về nhiều phương diện như lịch sử, văn hóa và xã hội.
Bắt nguồn từ tình yêu, say mê tiếng mẹ đẻ, Nguyễn Tuân có ý thức gom góp,
tích lũy, thu thập thành một kho từ vựng hết sức phong phú. Vì thế lúc sử dụng từ
ngữ, ông thường ít lặp lại từ. Điều này thể hiện sức sáng tạo ngôn từ mang đậm cá
tính nhà văn. Tên các nhân vật được Nguyễn Tuân gọi theo cách khác nhau: Thánh
Tản Viên là: Chúa Ngàn Cao Cả, Chúa ngàn thiêng, Thần Non Tản, Chúa Non
Xanh, Sơn chủ (Trên đỉnh non Tản). Ba cô gái đàn hay xứ Huế Mộng Liên, Mộng
Tuyết, Mộng Thu được gọi là “Ba cái Mộng”. Ấm Đái (Đới) làm nghề tuốt roi chầu
ông gọi là Đới Roi. Ông cụ uống rượu say mềm ở các Cửa Ô được các cô gái bán
rượu gọi là Bố Ô. Cùng với tên các nhân vật là tên các sự vật, hiện tượng quen
thuộc cũng được ông gọi bằng nhiều cái tên: ông gọi lưỡi mai là bút chì (Ném bút
chì), gọi vầng trăng là vừng trăng (Thả thơ), gọi vành trăng non là cái sừng trăng
(Ngôi mả cũ, Một cảnh thu muộn); gọi lối đánh bạc bằng thơ là thả thơ, đánh thơ,
cuộc đỏ đen trí thức. Cướp một đám thật to còn được Nguyễn Tuân gọi là “đánh
một tiếng bạc lớn” và những kẻ thực hiện đám cướp ấy được gọi là tay chơi, kẻ đàn
anh... Lối chém đầu người có một không hai của tên đao phủ Bát Lê được Nguyễn
Tuân gọi bằng những cách khác nhau: chém treo ngành, lối cặp gắp chả chim... Ở
những cấp độ có quy mô tổ chức lớn hơn, những tìm tòi của Nguyễn Tuân càng độc
đáo, nghịch dị. Nói về một buổi sớm mai: “Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần” (Chén
trà sƣơng); “ánh sáng ban ngày đi vắng mãi những đâu mà đến bây giờ vẫn chưa
thấy về” (Khoa thi cuối cùng). Về một hòn than cháy tàn trong lò: “Hòn than sống
hết một đời khoáng chất”; “cái hấp hối của lũ vô tri vô giác” (Chén trà
sƣơng). Về một ấm nước sắp sôi: “Có tiếng thở dài của khối nước sắp biến
thể” (Chén trà sƣơng). Về một chàng trai chết trẻ: “Cậu con trai không may cướp
công sinh thành” (Thả thơ). Về một đào nương đi lấy chồng: “Một cái miệng cười,
mười ngón tay tháp bút trước kia là của chung thiên hạ bởi nó không có sở cứ, bây
giờ đã trở nên của riêng một nhà” (Đánh thơ)… Lối diễn đạt như những ví dụ vừa
nêu có thể tìm thấy vô số trong lời văn trần thuật của Nguyễn Tuân. Theo Thụy
Khuê, lối nói tân kỳ này người ta gọi là biện pháp siêu thực và biện pháp đó có mặt
trong văn Nguyễn Tuân là do ông tự sáng tạo ra, phi trường phái, không vay mượn,
không chịu ảnh hưởng từ đâu hết [19]. Cách diễn đạt này bộc lộ rõ cả ưu điểm lẫn
nhược điểm. Bên cạnh những thú vị bất ngờ mà nó mang đến cho người đọc, trong
nhiều trường hợp, ngôn ngữ trần thuật của nhà văn không khỏi tỏ ra thiếu tự nhiên
bởi lối “phục sức” rườm rà, cầu kỳ quá mức cần thiết.
Nguyễn Tuân còn là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, am hiểu nhiều môn nghệ
thuật khác nhau: khảo cổ, hội họa, điện ảnh, âm nhạc... Ông đã phát huy sự hiểu biết
này của mình trong việc sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành nghệ thuật để miêu tả
và dựng cảnh trong các tác phẩm của mình. Miêu tả cuộc biểu diễn lối chém treo
ngành của Bát Lê, Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ của quân sự, xen với võ đạo, vũ
đạo và âm nhạc tạo nên cảnh tượng sống động: “Trước khi hoa thanh quất trong
mấy hàng chuối được chọn lựa kỹ càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào
thân mọi cây chuối khác, chém không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ
trong một cuộc huyết chiến để mở lấy một con đường máu lúc phá vòng vây” [37,
tr. 17]. “Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê hát hết
mười bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối” [37, tr. 19]. Trong Trên đỉnh non
Tản, ông vận dụng kiến thức về khảo cổ để đưa người đọc tới một vùng đất thiêng,
chứa đựng bao điều huyền bí về thế giới lúc sơ khai: “Ở nhiều chỗ không ngờ tới,
người ta thường còn đào thấy những cái hài cốt rất kỳ quái của loài động vật đời
thạch khí...” [37, tr. 182]. Am tường về hội họa, Nguyễn Tuân cũng thành thạo
trong việc sử dụng gam màu thật tài hoa. Ông tinh tế khi miêu tả sự chuyển đổi của
màu sắc qua đó thấy được bước đi của thời gian: “Đêm tờ mờ đen rầm hẳn lại, rồi
đen ngòm, rồi đen kịt, tối hơn cái hũ nút” [37, tr. 195]. Có lúc, Nguyễn Tuân huy
động kiến thức của văn học Tàu và kĩ thuật của nghề thủ công để miêu tả việc làm
đèn kéo quân chơi tết Trung thu trong Một cảnh thu muộn. Đặc biệt, Nguyễn Tuân
hay sử dụng ngôn ngữ của hội họa và điện ảnh để dựng lên những cảnh tượng đặc
biệt ấn tượng. Đó là cảnh ông Huấn Cao cho chữ quản ngục trong Chữ ngƣời tử tù.
Cảnh tượng cứ dần dần hiện lên trước mắt người đọc như một thước phim quay
chậm, mà ở đó có sự vận động từ bao quát toàn cảnh trại giam tỉnh Sơn đến cận
cảnh là buồng giam ông Huấn, từ từ lướt qua cảnh chật chội, tối tăm, bẩn thỉu của
buồng giam đến hình ảnh ba cái đầu người chụm nhau trên vuông lụa bạch giữa
phòng, từ bóng tối đến ánh sáng tỏa ra ở đầu ngọn đuốc, từ xấu đến đẹp, từ ác đến
thiện. Nổi bật lên trong cảnh tượng ấy là hình tượng người tù nghệ sĩ như được
khắc chạm bằng ngôn từ. Toàn bộ cảnh cho chữ hiện lên như một bức tranh sơn mài
rực rỡ và huyền ảo. Cảnh những người thợ Tràng Thôn ngồi trên chiếc thuyền thoi
lao vun vút qua dòng sông vắng, vượt qua thác nước, rừng cây, núi đá để lên tới
đỉnh non Tản như một thước phim được lồng kỹ xảo điện ảnh. Hay cái cảnh báo oán
của oan hồn người đàn bà với ông Đầu Xứ Ngoạt và Đầu Xứ Em trong trường thi
có thể ví như những thước phim kinh dị của điện ảnh hiện đại.
Nguyễn Tuân là người có nhiều trải nghiệm phong phú trong cuộc đời ưa xê
dịch cùng khả năng hiểu biết và học hỏi không ngừng. Nhờ đó mà ông đã có cả một
kho ngôn từ hết sức phong phú, đa dạng. Với sức sáng tạo không ngừng, Nguyễn
Tuân đã góp phần không nhỏ vào nền văn học dân tộc.
3.3.1.2. Hệ thống từ láy phong phú và tinh tế.
Là một người yêu tiếng mẹ đẻ, Nguyễn Tuân cũng nắm rõ khả năng biểu cảm
của hệ thống từ láy trong tiếng Việt. Ông khai thác triệt để khả năng này của ngôn
ngữ trong tác phẩm của mình để tạo nên sự súc tích, cô đọng cho lời văn và các
hình ảnh, biểu tượng hiện lên sinh động và độc đáo. Lấy một đoạn văn trong Chữ
ngƣời tử tù làm ví dụ:
“...Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu son, một cây đèn đẻ leo lét rọi vào
một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan ngồi bóp thái dương một cách băn khoăn.
Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt
cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và tiếng
mõ rất đều đặn, rất thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng
từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con
song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm
nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định. [37, tr. 101]
Nhờ những từ láy được dùng một cách tinh tế, đoạn văn trên vẽ ra trước mắt người
đọc một họa phẩm thật tài hoa, có màu sắc, âm thanh, ánh sáng. Văn phong uyển
chuyển linh hoạt, phù hợp với cái nhìn khoáng đạt và sự liên tưởng thật phóng túng.
Mỗi câu văn tựa như những nốt nhạc trầm bổng trong một bản đàn, tạo nên âm
hưởng u hoài, ngân vang trong lòng người đọc. Một đoạn văn khác: “Lửa đóm cháy
rừng rực, lúc lụi, tàn lửa rụng xuống nền đất phòng giam, tiếng lửa tắt nghe xèo
xèo” [37, tr. 109]. Những từ láy tái hiện một cách sống động tàn lửa ngọn đuốc tẩm
dầu rơi xuống nền đất phòng giam ẩm ướt. Cách tả của Nguyễn Tuân không chỉ tác
động vào thị giác, thính giác mà còn gợi lên trong trí tưởng tượng của người đọc
như một thước phim sống động.
Có thể lấy ra rất nhiều những ví dụ về cách sử dụng từ láy phong phú và tinh tế
như vậy trong các trang truyện của Nguyễn Tuân. Điều này cho thấy trí tưởng tượng
phong phú cùng tài năng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân.
3.3.1.3. Ngôn ngữ so sánh, giàu hình ảnh, âm thanh và nhạc điệu
Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ say mê đi tìm cái đẹp, cái mới lạ, độc đáo.
Nguyễn Tuân cho rằng: “Cái thảm kịch ghê gớm nhất của người viết văn chuyên
nghiệp là khi tả đến chỗ tình cảnh dữ dội nhưng chữ thì không ra được”. Nói như
vậy để thấy Nguyễn Tuân sáng tạo không ngừng. Vì vậy, khi khám phá và miêu tả
đối tượng, nhà văn luôn có ý thức tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc về đối tượng
miêu tả. Một trong những cách tạo ấn tượng đó là việc dùng ngôn ngữ so sánh.
Nguyễn Tuân có lối ví von so sánh thật tài tình. Đọc văn ông ta thấy sự vật như có
hình có khối thật rõ nét. Miêu tả vóc dáng con người, ông có những so sánh thật
sinh động: “Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư (…), ngực người nào cũng lép như cái
đồng hồ Omega trông nghiêng” (Một đêm họp đƣa ma Phụng). Lối ví von, cách
tạo hình bằng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật độc đáo: “Ông thử roi vào mặt trống
rồi uốn hai đầu xuống; thân roi ưỡn ngửa mãi lên như lúc người đàn bà tránh một
cái hôn bạo” (Đới Roi). Có lúc, ông vừa so sánh, vừa liên tưởng đầy mơ mộng,
giàu chất thơ: “Ví buổi trưa hè này là một đêm trăng có bóng trăng dãi lạnh lùng và
ví cổng chùa Đồi mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một
cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa
động” [37, tr. 28].
Viết về dĩ vãng xa xăm, Nguyễn Tuân thường tạo cho câu văn nhịp điệu đĩnh
đạc, thong thả, từ tốn, thoạt xem cứ tưởng như rề rà, diễn đạt quá ư cầu kì. Nhưng
nghiền ngẫm cho kĩ, mới thấy nhịp điệu cũng như kết cấu câu văn của Nguyễn Tuân
đã góp phần không nhỏ gợi không khí cho truyện tạo nên một sự cộng hưởng hài
hòa, “phục chế” nhịp sống chậm rãi, đầy nghi lễ, với tôn ti trật tự chặt chẽ của một
thời ngưng đọng đã qua. Mấy dòng mở đầu truyện ngắn Chữ ngƣời tử tù và những
lời dặn dò của quản ngục sau khi cho chữ ở cuối truyện cho ta thấy điều rõ đó.
Đồng thời, khá nhiều đoạn trong Chữ ngƣời tử tù “có thể làm đầu đề cho những
họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc biệt Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện Bố
Ô, vua lưu linh, chết cháy vì rượu. Xác cháy trong hơi rượu cũng thơm như mùi
người ta nướng cá mực. Ông so sánh tiếng đàn của bộ tam tấu Bá Nhỡ- Cô Tơ-
Lãnh Út thật vô tiền khoáng hậu. Ranh giới giữa hình sắc và âm thanh nhòe đi, chỉ
còn những hình ảnh siêu thực, độc đáo. Đoạn tam tấu trong tác phẩm được viết toàn
bằng âm trắc, mỗi thanh âm đánh lên nghe cứa sắc, day dứt như những tiếng nấc.
Bá Nhỡ, kẻ tìa tử dám đi đến tận cùng của nghệ thuật, đã xẻ gan thịt mình trong
tiếng đàn, dùng mạng đổi lấy tiếng đàn, đã chịu cực hình tùng xẻo, để tiếng đàn đạt
tới tuyệt đỉnh nghệ thuật. Đó cũng là tuyệt đỉnh nghệ thuật ngôn ngữ biểu đạt của
Nguyễn Tuân.
3.3.2. Giọng điệu
Thế kỉ XX trong văn học được mệnh danh như là thế kỉ của những cách tân và
giọng điệu là một trong những mục tiêu để nhà sáng tạo hướng đến. Nhà khoa học M.
Batkhin nhận ra ngôn ngữ văn học có tính chất đa thanh, đa giọng điệu. Như vậy,
giọng điệu chính là một trong những “chìa khoá” quan trọng để giải mã bức thông
điệp thẩm mĩ của nhà văn. Nó là một yếu tố nghệ thuật nhưng lại mang tính nội dung
rất rõ. Do đó, trong quá trình đọc hiểu tác phẩm không thể không nghiên cứu giọng
điệu. Trong cuộc sống thường ngày, mỗi con người có giọng điệu riêng và bị chi phối
bởi âm sắc, ngữ điệu, cá tính, cảm xúc... Khác với giọng điệu thường ngày, giọng
điệu trong văn chương là “thái độ tình cảm của nhà văn đối với sự việc, hiện tượng
được miêu tả mà người đọc có thể cảm nhận qua sắc thái của lời văn”. “Giọng điệu
phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, nó có
vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách của nhà văn…” [11, tr. 139]. Nhìn từ
phương diện này, giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo thành phong cách nghệ thuật. Ngày
nay, phong cách nghệ thuật được hiểu như là một phạm trù thẩm mĩ “chỉ sự thống
nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ
thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng
lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc”. Giọng điệu là sự thể hiện lập trường
xã hội, thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, sở trường ngôn ngữ của tác giả, nó gắn
chặt với đối tượng giao tiếp và cách thức tổ chức lời lẽ diễn đạt.
Giọng điệu vừa mang nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau vừa mang những nét
rất đặc trưng của mỗi nhà văn. Tuy nhiên chỉ có ở những nhà văn có bản lĩnh, có tài
năng đích thực thì mới có đủ cơ sở để tạo ra cho mình một giọng điệu riêng. Trong
nền văn học Việt Nam hiện đại, nhiều nhà văn đã tạo cho mình một giọng điệu
riêng như: giọng văn châm biếm, mỉa mai của Nguyễn Công Hoan; giọng trào
phúng chua cay của Vũ Trọng Phụng; giọng tỉnh táo, sắc lạnh nhưng cũng đằm
thắm yêu thương của Nam Cao; chất giọng thủ thỉ tâm tình nhưng mà sâu sắc của
Thạch Lam… Còn Nguyễn Tuân đã tạo nên một giọng điệu riêng cho những sáng
tác ở đề tài quá khứ. Đó là giọng điệu khinh bạc nhiều khi pha chất trữ tình mang
màu sắc hoài niệm rất đặc sắc.
3.3.2.1. Giọng điệu khinh bạc
Xã hội Việt Nam trước Cách mạng mà Nguyễn Tuân gọi là “ối a ba phèng”
đầy những áp bức bất công. Ở đó, Nguyễn Tuân phải đối mặt với những trò lừa lọc,
xảo trá, những phường “giá áo túi cơm”… khiến một người có nhân cách và thiên
lương như ông phải quay lưng lại. Thể hiện thái độ với xã hội này, Nguyễn Tuân đã
dùng giọng điệu “khinh bạc đến điều” để đả kích, lên án và tố cáo những loại người
sống giả dối, hèn nhát, an phận, thiếu bản sắc, chà đạp lên cái đẹp. Đó là tư thế và
giọng điệu khinh bạc của ông Huấn Cao trong Chữ ngƣời tử tù. Mặc dù sa cơ lỡ
vận, cận kề cái chết nhưng ông Huấn vẫn thể hiện tính cách ngông nghênh, không
chịu khuất phục trước cường quyền và bạo ngược. Lời nói “Rệp đốt tôi, đỏ cả cổ
lên rồi. Phải dỗ gông đi” và hành động “chúc mũi gông nặng xuống thềm đá tảng,
khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đẩy đánh thuỳnh một cái” [37, tr.103]
trước mặt viên quan coi ngục và lời đe dọa của tên lính áp giải trong buổi đón nhận
tử tù vào nhà lao tỉnh Sơn thể hiện thái độ thách thức, khinh khi với kẻ cầm quyền.
Trước thái độ đầy thiện ý của quan coi ngục và thư lại khi hỏi ông có cần thêm gì
không, ông trả lời một giọng khinh bạc và sẵn sàng chấp nhận đòn trả thù của họ:
“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”
[37, tr. 105]. Hành động dỗ gông là hành động biểu thị tự do, bất chấp cường quyền
và bạo ngược của một con người chọc trời khuấy nước. Còn giọng điệu khinh bạc
bộc lộ thái độ kiên quyết không chấp nhận đội trời chung với cái xấu và cái ác của
Huấn Cao. Trong truyện Một cảnh thu muộn, giọng điệu khinh bạc của tác giả
được thể hiện qua thái độ và cách nói năng của cụ Thượng Nam Ninh với người con
trai lớn- ông Cử Cả. Khi ông Cử Cả cho quân lính ra đón cha về ở với mình trong
phủ huyện cho rộng rãi thoáng mát, cụ Thượng chỉ bảo: “Lần sau, anh được lúc
việc quan thanh thản, có ra chơi ngoài phố này với thầy, đừng có nên đem lính ra
nhé. Ồn lắm. Chúng nó có sinh vào đời vua Lê chúa Trịnh, thì cho gia nhập thêm
vào cái đám kiêu binh Tam phủ được đấy.” [37, tr. 138]. Một lần khác, cụ Thượng
cũng dùng lời lẽ khinh bạc như thế trả lời người con cả: “Anh cũng rõ cái tính tôi
vốn sợ cái bọn lính hầu cận và lại hay tránh sự giao thiệp. Tôi tưởng vào ở tư thất
một huyện nha nó phiền nhiễu lắm” [37, tr. 139]. So sánh lính trong phủ huyện Thọ
Xương của ông Cử Cả với đám kiêu binh nổi loạn ở thế kỷ XVIII, Nguyễn Tuân
ngầm bộc lộ thái độ khinh khi với những kẻ bon chen danh lợi, phá phách, chà đạp
lên cái đẹp. Ở một truyện ngắn khác là Chén trà trong sƣơng sớm, Nguyễn Tuân
đã thể hiện giọng điệu khinh bạc của cụ Ấm với những kẻ phàm phu tục tử, không
biết đến cái thú thanh tao khi thưởng trà mà chỉ độc một kiểu “ngưu ẩm”: “Có lẽ tôi
phải mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới
thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà
chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tàu không có thể ồn ào
được” [37, tr. 129]. Giọng điệu nhẹ nhàng nhưng pha chút mỉa mai ấy của cụ Ấm
phản ánh thái độ không chấp nhận thói tục và lối sống xô bồ của cuộc sống hiện tại.
Có lúc cái giọng khinh bạc lại thể hiện kín đáo, ý nhị qua nụ cười tủm tỉm của cô Tú
trong Thả thơ khi nhìn những kẻ bất tài ăn may chọn một chữ rất quê kệch mà lại
ăn tiền: “Đấy ông xem, ở đời ăn nhau ở may rủi, chứ tài hoa mà làm gì, phải không
ông?” [37, tr. 48]. Đó là giọng khinh khi, mỉa mai những cụ Tuần chơi không được
lịch sự hay ông huyện Bình Khê “người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ” trong
truyện Đánh thơ. Họ mang danh là quan trên, là trí thức nhưng bản thân chỉ là
những kẻ cờ gian bạc lận, quấy nhiễu ăn tiền.
Trần Đình Sử trong cuốn Nguyễn Tuân toàn tập (xuất bản năm 2000) cho
rằng giọng văn của Nguyễn Tuân là “giọng văn mang nhiệt tình chống lại sự giả dối
trong mọi trường hợp”. Qua sáng tác của Nguyễn Tuân, ta có thể thấy, giọng điệu
khinh bạc ở đây chính là biểu hiện thái độ đả kích những thói xấu, thói tục để hướng
con người tới lối sống cao đẹp hơn.
3.3.2.2. Giọng điệu trữ tình mang màu sắc hoài niệm
Trong những tác phẩm về đề tài quá khứ, chúng tôi thấy Nguyễn Tuân còn có
giọng trữ tình mang màu sắc hoài niệm. Nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu khi đọc tập
Vang bóng một thời nhận xét: “Có thể cảm nhận Vang bóng một thời như một bài
thơ- một bài thơ với những nhịp mạnh xen lẫn những nhịp nhẹ, với những trùng
điệp day dứt, những rung động mãnh liệt hay nhẹ nhàng, tỏa lan những đợt sóng dữ
và những làn sương mờ” [18, tr. 46].
Ở đây, cần phân biệt giọng điệu trữ tình và thể loại trữ tình. Giọng điệu trữ tình
là một bình diện của thi pháp học, còn thể loại trữ tình (có thể hiểu là thơ ca nói
chung) là thuộc lí luận văn học. Xét ở phương diện nào đó, giọng điệu trữ tình là
giọng điệu cơ bản nhất của thể loại trữ tình. Tuy nhiên không chỉ ở thể loại trữ tình
mới có giọng điệu trữ tình mà ở thể loại tự sự vẫn có sắc thái giọng điệu này. Tôn
Thảo Miên cho rằng, chất giọng trữ tình của Nguyễn Tuân chủ yếu bộc lộ ở thể loại
tùy bút. Còn Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: đối với hiện tại, Nguyễn Tuân thường
chỉ dành cho những lời hằn học và khinh bạc nhưng viết về cái ngày xưa, giọng văn
của ông bao giờ cũng đôn hậu. Đôn hậu nhưng biết bao buồn tủi ngậm ngùi. Trong
tập Vang bóng một thời, giọng điệu trữ tình, hoài niệm được Nguyễn Tuân sử
dụng rất phổ biến nhằm gợi lên quá khứ:
- “Cùng một buổi chiều ấy”, “Thế là từ hôm ấy”, “Nội cỏ trước dinh quan Đổng lý
quân vụ một buổi chiều thu đã quyết đổi màu”… (Bữa rƣợu máu).
- “Năm ấy nước sống Nhị Hà lên to”, “Năm sau”, “Ông khách năm nọ”, “Giá cái
lão ăn mày ấy sinh vào thời này”… (Những chiếc ấm đất)
- “Bỗng một buổi chiều năm ấy”… (Trên đỉnh non Tản)
- “Hồi cụ Thượng còn nhậm ở dưới Sơn Nam hạ” (Một cảnh thu muộn)
Nguyễn Tuân thường viết những câu văn dài, có sự phối hợp thanh bằng trắc
tạo âm hưởng đĩnh đạc, trầm buồn, thong thả, từ tốn. Nhịp điệu và kết cấu câu văn
của Nguyễn Tuân đã góp phần gợi không khí cho truyện và tạo nhạc điệu hài hòa,
phục chế nhịp sống chậm rãi, đầy nghi lễ, với tôn ti trật tự chặt chẽ của một thời
đã qua.
Nguyễn Tuân viết văn như là cách để chơi ngông với đời dựa trên sự tài hoa,
lịch lãm của bản thân. Mỗi nhân vật mà ông sáng tạo đều là những hóa thân của
chính nhà văn. Bởi vậy, giọng điệu trong truyện ngắn của ông mang dấu ấn cá nhân
rõ nét. Cũng là giọng điệu trữ tình, nhưng cái trữ tình của Nguyễn Tuân không
giống Nam Cao. Giọng điệu trong truyện ngắn của Nam Cao là giọng tỉnh táo, sắc
lạnh nhưng ẩn sâu bên trong là tấm lòng cảm thông, thương xót, chan chứa tình yêu
thương của ông dành cho những kiếp người đau khổ. Nam Cao thường hay dùng
những từ cảm thán, có ngữ điệu: “Đời. Chao ô! Đời” (Sống mòn), “Chao ôi! Hắn
đã viết những gì?” (Đời thừa), “Chao ôi, Hỡi ôi, Dì Hảo ơi” (Dì Hảo), “Ai cho tao
lương thiện?, Tao không thể là người lương thiện được nữa” (Chí Phèo), “Chao ôi.
Đối với những người ở xung quanh ta…(Lão Hạc)... tất cả đều gợi lên niềm chua
xót của ông với kiếp người đáng thương. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm của Nguyễn
Tuân cũng không giống với giọng điệu trữ tình của Thạch Lam. Thạch Lam thường
có giọng điệu nhỏ nhẹ, điềm đạm, tinh tế, đi sâu khai thác nội tâm nhân vật. Còn
Nguyễn Tuân rất ít dùng từ cảm thán mà dùng nhiều hình dung từ, từ láy cùng lối
diễn đạt cầu kỳ, sáng tạo để gợi lên những bức tranh có sự tác động mạnh đến giác
quan người đọc. Nguyễn Tuân ít miêu tả nội tâm, cũng ít quan tâm đến ngoại hình
nhân vật mà chủ yếu qua hành động và lời nói thể hiện tính cách nhân vật. Sự lựa
chọn này tạo nên phong cách riêng, nhất quán trong tất cả các sáng tác của Nguyễn
Tuân. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm không chỉ bàng bạc khắp không gian của
Vang bóng một thời mà còn thể hiện rõ nét trong những thiên tùy bút viết về
phong cảnh quê hương, đất nước cả trước và sau Cách mạng như Một chuyến đi,
Cửa Đại, Tùy bút I, II, Ngƣời lái đò sông Đà, Tình rừng, Tờ hoa, Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi…
Giọng điệu khinh bạc, mỉa mai và giọng trữ tình, hoài niệm hòa quyện trong
những trang văn của Nguyễn Tuân tạo nên một nét bản sắc riêng, không lẫn với bất
cứ ai. Điều này nhất quán với phong cách nghệ thuật và cá tính của nhà văn.
3.4. Kết cấu
Các tác phẩm văn học không chỉ khác nhau về chất liệu hiện thực (với thơ đó
là hệ thống cảm xúc và suy nghĩ, là hình ảnh, hình tượng thơ; với văn xuôi và kịch
là hệ thống sự kiện, hệ thống tính cách…) mà còn khác nhau về cách bố trí, sắp xếp,
tổ chức các chất liệu hiện thực đó trong tác phẩm (với thơ đó là cách cấu tạo các câu
thơ, khổ thơ, đoạn thơ… với văn xuôi và kịch đó là cách dựng lớp, cảnh, chương,
phần, tập…) cách tổ chức các yếu tố bên trong và bên ngoài tác phẩm như vậy gọi
là kết cấu.
Theo Lý luận văn học (Nhà xuất bản Giáo dục, 2001) thì “kết cấu là sự tạo
thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu
tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan
và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định” [9, tr. 142- 143].
Theo Từ điển văn học (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1983) thì kết cấu là:
“Toàn bộ tổ chức phức tạp gồm mọi mối quan hệ giữa chỉnh thể và bộ phận trong
một tác phẩm văn học”. Từ điển văn học còn phân định các hình thức kết cấu khác
nhau như: kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu theo tâm lí, kết cấu theo lối đi
thẳng vào giữa câu chuyện…
Trong sáng tác nghệ thuật, kết cấu là phương diện cơ bản tạo nên diện mạo tác
phẩm, là một yếu tố của hình thức vì vậy nó có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố của nội dung tác phẩm. Mục đích của kết cấu là
tạo thành một thế giới nghệ thuật mang tính khái quát của tác giả, giúp cho ngời đọc
thấy được hình tượng nghệ thuật với tất cả chiều rộng, chiều sâu, tất cả tính bức
thiết và ý nghĩa nhân sinh của nó đối với con người.
Trong cuốn Lý luận văn học, nhà nghiên cứu Đoàn Đức Phương cho rằng: “...
nhiệm vụ quan trọng nhất của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập
trung, tư tưởng thống nhất, sao cho chủ đề- tư tưởng thấm sâu vào từng bộ phận
của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất” [9, tr. 143].
Với những tác phẩm của Nguyễn Tuân, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều hình
thức kết cấu khác nhau. Nhưng nổi bật và ấn tượng nhất là kiểu kết cấu tự do, linh
hoạt, phóng túng và kiểu kết cấu lồng ghép.
3.4.1. Kết cấu tự do, linh hoạt, phóng túng
Kết cấu tự do, dẫn chứng linh hoạt, phóng túng chính là đặc trưng nổi bật của
thể loại tùy bút. Có người nói: Tự do là phép tắc duy nhất của tùy bút. Ở thể loại
văn này, người viết có thể tùy cảm xúc của mình mà tả người, kể vật, đồng thời tự
do bộc lộ cảm xúc, suy ngẫm về cuộc sống. Đây là mảnh đất dung nạp những tài
năng có trí tuệ và tâm hồn. Nhưng không chỉ có ở tùy bút, Nguyễn Tuân mới sử
dụng kết cấu tự do, dẫn dắt linh hoạt, phóng túng mà ở truyện ngắn ta vẫn bắt gặp
kiểu kết cấu này. Những truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời đã được giản
lược tình tiết đi rất nhiều bởi dường như nhà văn đang viết theo cảm hứng nhiều
hơn. Văn chương như là nơi để Nguyễn Tuân phô bày sự tài hoa, uyên bác của mình
về các môn nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Mỗi câu chuyện giống như một bức
bích họa độc đáo về những thú chơi thanh cao của các bậc cổ nhân nước Việt: nghệ
thuật ẩm thực (Những chiếc ấm đất, Chén trà sƣơng, Hƣơng cuội), thú vui chơi
tao nhã (Thả thơ, Đánh thơ, Một cảnh thu muộn), lối ứng xử tinh tế (Ngôi mả
cũ, Chữ ngƣời tử tù), nét tài hoa nghề nghiệp (Trên đỉnh non Tản, Ném bút chì,
Chém treo ngành)…
Trong tập truyện này, ta thấy kết cấu tác phẩm khá lỏng lẻo, không có biến cố
và xung đột dữ dội giữa các nhân vật hay những giằng xé về nội tâm như vẫn
thường thấy trong thể loại truyện ngắn. Truyện của Nguyễn Tuân rất ít nhân vật,
ông cũng ít miêu tả ngoại hình hay nội tâm nhân vật, mà chủ yếu miêu tả cụ thể, tỉ
mỉ tài năng, sở thích của họ. Khảo sát qua truyện ngắn Một cảnh thu muộn, chúng
tôi thấy trong 18 trang truyện (từ trang 135 đến trang 153) Nguyễn Tuân đã dành 9
trang cuối (từ trang 145 đến trang 153), tức là dành một nửa truyện để miêu tả thật
tỉ mỉ cách làm đèn và chơi đèn kéo quân của ba thế hệ trong gia đình cụ Thượng
Nam Ninh. Nhìn chung, các truyện đều có nhân vật, nhưng dường như nhân vật chỉ
là cái cớ để nhà văn bộc lộ những cảm xúc chủ quan của mình, vì vậy các nhân vật
đều là những hóa thân của Nguyễn Tuân, dù họ mang những cái tên như Bát Lê, Cai
Xanh, Phó Sứ, Huấn Cao… Họ có thể là những nhân vật lãng tử giang hồ không
muốn dừng chân ở một chỗ nào nhất định hoặc là những nhà nho bất đắc chí.
Nhưng họ đều là những con người tài hoa, sự sống đối với họ chỉ để thi tài và khoe
tài, để thờ phụng cung kính cái đẹp mà thôi. Những nhân vật ấy chính là sự hóa thân
của Nguyễn Tuân, một cá tính độc đáo, cao ngạo, một con người tài hoa sống mà
như chỉ để trêu ngươi với đời.
Như vậy, với việc tìm hiểu các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Tuân, chúng ta
thấy những hình ảnh biểu cảm được ông xây dựng bằng kiểu kết cấu tự do, dẫn dắt
hết sức linh hoạt, phóng túng, không dựa trên một mô hình, một khuôn mẫu nào.
Nguyễn Tuân cũng từng lý giải: “Có anh nhận xét tôi hay lan man. Nhưng bài văn
đâu phải là bản báo cáo mà phải có những mục một, hai, ba, bốn… cũng không
phải bài luận học trò. Cái nói chỉ là hiện tượng bên ngoài, điều quan trọng là cái
mạch tư tưởng bên trong chứ”. Chính kiểu kết cấu này làm cho mỗi sáng tác của
Nguyễn Tuân đều chứa đựng những nét độc đáo, hết sức riêng biệt, không bị trùng
lặp và có sức hấp dẫn người đọc
3.4.2. Kết cấu lồng ghép
Nếu như kiểu kết cấu tự do dẫn dắt linh hoạt phóng túng thường gặp trong tùy
bút thì đến kiểu kết cấu lồng ghép lại chủ yếu thấy trong thể loại truyện ngắn của
Nguyễn Tuân.
Kết cấu lồng ghép được sử dụng chủ yếu trong các truyện ngắn gồm một tuyến
truyện chính và tuyến truyện phụ, trong đó tuyến truyện phụ đóng vai trò là đối
tượng quy chiếu, liên tưởng, giải thích cho tuyến truyện chính. Câu chuyện trong
tuyến truyện chính được thuật lại đầy đủ, còn câu chuyện trong tuyến truyện phụ
thường chỉ là những trích đoạn ngắn được ghép rải rác vào câu chuyện chính.
Mặc dù Nguyễn Tuân không dành nhiều tâm lực trong việc xây dựng kết cấu
cho truyện ngắn của mình, nhưng ở một số tác phẩm ta vẫn thấy được dụng tâm của
nhà văn khi lồng ghép các truyện vào với nhau như trong truyện: Những chiếc ấm
đất, Chén trà sƣơng, Ngôi mả cũ, Trên đỉnh non Tản… Sự đan xen, lồng ghép
những chuyện như thế sẽ tăng cường thêm sức khêu gợi, liên tưởng và khái quát.
Các câu chuyện lồng ghép, đan xen thường mở đầu ở thời điểm hiện tại để trở về
một thời điểm trong quá khứ:
- “Tôi nhớ hồi còn nhỏ…” (Chén trà sƣơng)
- “Có lẽ hồi nhỏ, những lúc ở trong thành xây đá tổ ong tỉnh Sơn, hồi thầy còn ở
chức…” (Ngôi mả cũ)
- “Tục truyền có những trận hồng thủy dữ dội tàn khốc…” hay “người ta truyền lại
rằng…” (Trên đỉnh non Tản)
- “Ngày xưa có một người ăn mày cổ quái…” (Những chiếc ấm đất)
Trong truyện Những chiếc ấm đất, Nguyễn Tuân viết về thú uống trà, đam mê
cái phong vị của trà tàu đến nhiều khi lầm lỗi của ông cụ Sáu. Thú uống trà của ông
đã thành sành điệu và tinh tế. Để tăng cái tinh tế của người đam mê trà, Nguyễn
Tuân đã lồng ghép vào câu chuyện về người ăn mày cổ quái sành trà, chỉ chọn
những nhà đại gia để xin và chỉ xin được uống trà tàu với! Trong cái bị ăn mày của
hắn lúc nào cũng mang một cái ấm độc ẩm để tự tay pha trà xin được để thưởng
thức. Ông lão ăn mày đó thưởng thức trà với tất cả khoái cảm của mình nhưng vẫn
tinh tế phát hiện ra trong trà bị lẫn tạp chất của những mảnh trấu khiến hương vị của
trà lạc mất cái thanh tao. Mọi người ban đầu tưởng ông lão điên nhưng sau đó phát
hiện ra dưới đáy lọ trà đổ vung vãi là mươi mảnh trấu, lúc đó họ mới kinh ngạc và
thán phục. Trước cái người ăn mày trà kì lạ đó, ông cụ Sáu phải thốt lên: “Tôi chắc
cái lão ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn
mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị, gậy” [37, tr. 33] và ao ước: “giá lão ăn mày ấy
sinh vào thời này, thì tôi dám mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà
thưởng thức trà ngon” [37, tr. 33]. Câu chuyện thêm thắt làm gia tăng sức hấp cho
truyện ngắn này. Đồng thời, đó như là lối phục bút của Nguyễn Tuân báo trước hậu
vận bi đát của ông cụ Sáu sành trà tàu. Kết cấu truyện lồng trong truyện này làm
cho người đọc cảm nhận cái thê lương, tàn lụi của một lớp nhà nho đang đi vào thời
mạt vận kéo theo sự mai một dần của một trong những nhã thú của người xưa. Sự
luyến tiếc cái đẹp xưa qua giọng kể đầy khinh bạc của nhà văn làm nên chất trữ tình
của thiên truyện.
Truyện Ngôi mả cũ cũng có cái kết cấu kiểu truyện lồng trong truyện. Có một
câu chuyện tác giả kể về hai chị em cô Tú- cậu Chiêu mời thầy địa lý Hồ Viễn về
nhà để xem đất đặt phần mộ cho cha mình, vốn là quan Án Sát và một câu chuyện
về cuộc đời oai phong, lẫm liệt của cụ Hồ Viễn- nguyên là tướng Cờ Đen hồi còn
đánh nhau với Tây được cô Tú kể cho cậu Chiêu nghe. Kiểu kết cấu truyện như thế
này làm nổi bật lên hình tượng nhân vật cụ Hồ Viễn. Người đọc có cảm giác ngạc
nhiên, thích thú giống như cậu Chiêu khi phát hiện ra chung quanh thân thế một ông
thày địa lý khó tính chỉ đáng trọng một cách vừa phải thôi và lại nhiều khi gượng ép
nữa, là cả một huyền sử bọc chung quanh một lão tướng võ nghệ cao cường và bí
mật. Phải chăng, Nguyễn Tuân muốn truyền tải thông điệp: không nên nhìn vẻ bề
ngoài để đánh giá một con người. Rất nhiều người bình thường xung quanh ta,
nhiều khi ta cảm thấy phiền hà với họ nhưng chính cuộc đời họ là một pho sử sống
khiến ta phải nghiêng mình kính nể.
Trong truyện Trên đỉnh non Tản, để làm nổi rõ hơn quang cảnh sau trận đánh
ghen của Vua Thủy và thánh Tản Viên ở các làng mạc tỉnh Đoài, Nguyễn Tuân đã
đưa vào truyện những hình ảnh kỳ quái về hài cốt của loài động vật thời thạch khí
như xác mai của con giải to như cái hồ nước, những loài chim khổng lồ, hài cốt của
nhiều giống thủy quái… tất cả những hình ảnh ấy là của câu chuyện về những trận
đại hồng thủy từ hồi thánh Tản Viên gây thù kết án với Tiểu Long Hầu con vua Thủy
Tề vì một nàng công chúa xinh đẹp. Mối thù oán ấy cứ kéo dài mãi cho đến ngày sau:
“Mỗi kỳ đánh ghen, nước các vùng lại đổ về như thác và dâng cao mãi lên, đỉnh non
Tản muốn cho khỏi ngụp dưới làn nước ghen oán, lại có dịp để ngoi lên cao thêm
nữa, thêm mãi” [37, tr. 184], để rồi cứ mấy năm Thánh Tản lại mời những người mộc
tài hoa tỉnh Sơn Tây lên đền Thượng trùng tu lại. Những câu chuyện huyền bí đan
xen này đã góp phần làm nên không khí linh thiêng, kỳ ảo cho câu chuyện trên đỉnh
non Tản. Bên cạnh đó, lối kể chuyện mà như phô diễn kiến thức cho thấy nét uyên
bác của nhà văn, đồng thời làm mờ nhòa ranh giới giữa truyện ngắn và tùy bút. Đây
là nét phong cách riêng trong truyện ngắn Nguyễn Tuân.
Truyện Khoa thi cuối cùng gợi lên không khí huyền thoại, huyền bí khi tác
giả lồng ghép vào câu chuyện anh em ông Đầu Xứ Ngoạt hỏng thi là câu chuyện lúc
sinh thời cụ Huấn, cha của hai ông đã “mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết
của một nàng hầu tài tình nổi tiếng một thời. Người thiếp đó lúc tự ải đã có mang
được sáu, bảy tháng”. Chính vì vậy mà khi ông Đầu Xứ Anh đi thi đã bị oan hồn
người phụ nữ kia hiện lên phá rối đánh bay kỳ kinh nghĩa. Đến lượt ông Đầu Xứ
Em đi thi cũng bị oan hồn làm cho mê man và cũng bị trượt ngay vòng đầu. Kiểu
kết cấu lồng ghép này tiếp tục gợi lên vẻ tiều tụy, đáng thương của lớp nhà nho cuối
mùa. Ẩn sau giọng điệu ngang tàng, khinh bạc, Nguyễn Tuân đã bộc lộ một niềm
xót thương kín đáo với một lớp người trong quá khứ chưa xa.
Nói chung, kiểu kết cấu lồng ghép này làm gia tăng yếu tố sự việc cho câu
chuyện. Nó vừa là cách để Nguyễn Tuân phô ra sự tài hoa, uyên bác của mình, vừa
thể hiện sự luyến tiếc của ông với vẻ đẹp của của một lớp nhà nho trong quá khứ,
nay chỉ còn vẻ thê lương, ảm đạm. Chính điều này làm nên nét đặc sắc cho mỗi
truyện ngắn của ông và cũng là yếu tố làm cho những tác phẩm của Nguyễn Tuân
kén độc giả. Còn với người yêu mến văn chương Nguyễn Tuân lại thích thú bởi qua
mỗi trang văn họ lại có thêm tri thức và hiểu biết, góp phần làm phong phú thế giới
tinh thần.
3.5. Thủ pháp nghệ thuật tƣơng phản, đối lập
Theo nhận xét của các nhà phê bình, nghệ thuật lãng mạn có khả năng dung
nạp rộng rãi các phương tiện thể hiện. Trong đó, tương phản, đối lập là thủ pháp đặc
thù. “Tinh thần lãng mạn chính là sự nối kết liên tục các yếu tố đối kháng nhau : Tự
nhiên và nghệ thuật, thơ ca và văn xuôi, sự nghiêm túc và thú vui, kỷ niệm và dự
cảm, tư tưởng trừu tượng và những cảm giác sống động, sự sống và cái chết… hòa
lẫn với nhau một cách mật thiết trong thể loại lãng mạn” (A. W. Sleigel). Trong
sáng tác của Nguyễn Tuân, ta luôn thấy có sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và
bóng tối, thiện và ác, đẹp và xấu, cao cả và thấp hèn, tài và bất tài,… Truyện ngắn
Chữ ngƣời tử tù có lẽ là nơi các đường ranh giới đối lập thiện- ác được giăng ra
nhiều nhất. Bản thân mối quan hệ giữa Huấn Cao với ngục quan đã có tới hai lần
đối lập. Nhìn từ phía này, ngục quan là mệnh quan triều đình, đại diện cho trật tự,
luân lí và đạo đức còn Huấn Cao là tử tù, giặc của triều đình, kẻ bất trung, vô đạo.
Nhìn từ phía khác, từ lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn, Huấn Cao là bậc kì tài, cũng là
trang anh hùng đội trời đạp đất, khí phách ngang tàng, cuộc đời như được bao bọc
trong một thiên huyền sử. Nói cách khác, ông là hiện thân của cái tận mĩ, chí
thiện. Trong khi đó, quản ngục và thơ lại chỉ là lũ phàm phu, bọn tiểu tốt vô danh,
đại diện cho trật tự thối tha mà Huấn Cao chống lại. Đối lập gay gắt nhất vẫn là đối
lập giữa một bên là cái “thiên lương” không hề suy suyển ở những kẻ như quản
ngục và viên thơ lại, với một bên là “hoàn cảnh đề lao”, nơi “người ta sống bằng
tàn nhẫn, bằng lừa lọc”. Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đầy ải những cái thuần
khiết trong một đống cặn bã, những người tốt nhiều khi lại phải ăn đời ở kiếp với lũ
quay quắt. Sống trong môi trường đầy cám dỗ và sự bủa vây của cái ác, người thiếu
bản lĩnh và không có lí tưởng sống của riêng mình rất dễ sa đọa. Rơi vào hoàn cảnh
ấy, tấm lòng biết giá người, biết trọng người ngay của quản ngục được Nguyễn
Tuân ca ngợi là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật
đều hỗn loạn xô bồ” [37, tr. 102]. Vẻ đẹp của quản ngục giống như hoa sen mọc lên
giữa bùn nhơ để tỏa sắc khoe hương. Bút pháp tương phản, đối lập được vận dụng
cao độ trong việc tả cảnh tượng Huấn Cao cho chữ quản ngục. Đây là “một cảnh
tượng xưa nay chưa từng có”. Chưa từng có bởi người ta thường cho chữ ở những
nơi thư phòng, thư sảnh sạch sẽ, thanh tao thì ở đây lại là nơi phòng giam chật hẹp,
ẩm ướt, bẩn thỉu, hôi hám. Người cho chữ thường phải trong tâm thế sáng tạo hoàn
toàn tự do cả về tinh thần và thể xác thì ở đây lại là một người tử tù, cổ đeo gông
chân vướng xiềng và ngày mai phải vào kinh chịu án chém. Người nhận chữ lại là
viên quan coi ngục. Người tử tù nghệ sĩ hiện lên đẹp lồng lộng và đang dặn dò quản
ngục từng lời di huấn thiêng liêng còn quản ngục thì khúm núm, khiêm nhường đón
nhận như nuốt từng câu chữ của lời di huấn. Có một cuộc đổi thay ngoạn mục về vị
thế giữa hai nhân vật. Nhưng hơn hết, với thủ pháp “vẽ mây nảy trăng”, Nguyễn
Tuân đã xây dựng hai nhân vật trong thế đối sánh nhau, người này làm nổi bật vẻ
đẹp của người kia. Hiệu quả của nghệ thuật này góp phần làm cho một truyện ngắn
chưa đầy 3000 chữ mà ý nghĩa phong phú, sâu sắc và đầy dư vị. Như vậy, thủ pháp
đối lập được vận dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển linh hoạt trong Chữ ngƣời tử tù
làm nổi bật lên giá trị nhân văn của tác phẩm.
Trong một số truyện khác của Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân cũng sử
dụng nghệ thuật tương phản một cách có hiệu quả trong việc thể hiện dụng ý của
mình. Ông Cử Hai và ông Cử Cả trong Một cảnh thu muộn là hai anh em cùng cha
mẹ nhưng họ khác nhau từ quan niệm nhân sinh đến nhất cử nhất động nhỏ nhặt
hàng ngày. Ông Cử Cả chọn cho mình con đường quan lộ nhiều bon chen, thủ đoạn
thì ông Cử Hai lại chọn cho mình lối sống của một lãng tử coi thường danh lợi, coi
kiếp sống của mình như một cuộc dạo chơi bất tận. Khi đối lập hai nhân vật cũng là
hai loại người tiêu biểu trong xã hội lúc đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện thái độ đồng
tình, ủng hộ quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tinh thần của con người và coi thường
lối sống của bọn người cơ hội, hãnh tiến trong xã hội.
Trong sáng tác của Nguyễn Tuân có hai đề tài quan trọng là vẻ đẹp cuộc sống
quá khứ và thú xê dịch giang hồ. Viết về những đề tài ấy, Nguyễn Tuân muốn đối
lập chúng với đời sống tẻ nhạt của thời đại máy móc, hoặc sự xô bồ, hỗn độn đầy
chất văn xuôi của xã hội đô thị đương thời. Không chỉ dừng lại ở đó, ý nghĩa tư
tưởng của những tác phẩm viết về hai đề tài này còn sâu sắc và lí thú hơn nhiều.
Riêng ở đề tài viết về quá khứ, ta thấy Nguyễn Tuân không chỉ là tác giả của Vang
bóng một thời mà còn là chủ nhân của một loạt tác phẩm: Chiếc lƣ đồng mắt
cua, Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc... Ông không chỉ viết về những cái thú
của lớp người thất thế thuộc về thời đã qua như trồng hoa cây cảnh, làm đèn kéo
quân, đánh cờ, uống trà, “đánh thơ”, “thả thơ”, mà còn viết cả về thú uống rượu, hút
thuốc phiện, thú nhà trò, con hát, thú “hàng viện” của người đương thời. Chỉ cần
đọc mấy tác phẩm như Chiếc lƣ đồng mắt cua, Cửa Đại hay Chiếc va li mới, ta
sẽ nhận ra ngay trục đối lập của Nguyễn Tuân. Ở những tác phẩm ấy, ông thường
đối lập hai thế giới: trong này và ngoài kia. Trong này là thế giới của khuôn viên,
nhà cửa; ngoài kia là thế giới của thiên nhiên bao la, xã hội rộng lớn. Trong này là
thế giới của công sở, của gia đình, cha mẹ, vợ con; ngoài kia là thế giới của nhà hát,
“hàng viện”, cao lâu, tửu quán, của nhân tình, nhân ngãi. Mỗi thế giới có không
gian riêng, luân lí riêng. Trong này là thế giới của bổn phận, ngoài kia là thế giới
của những cuộc kì duyên, kì ngộ, thế giới tri kỉ, tri âm, “biệt nhỡn liên tài”. Trong
này là thế giới tri thức kinh viện chết cứng của nhà phê bình, ngoài kia là cuộc đời
sống động, kì thú của nghệ sĩ. Có thể khái quát, trong này là thế giới chính
thống, quan phương, ngoài kia là vương địa của cái ngoại biên, bên lề. Không phải
ngẫu nhiên, trong Chiếc lƣ đồng mắt cua, Nguyễn Tuân gọi thế giới gia đình, thế
giới trong nhà là “ban ngày”, còn thế giới ngoài kia, thế giới cao lâu, nhà trò, tửu
quán thuộc về “ban đêm”. “Ban đêm” là cả một thế giới sống động. “Ban ngày” chỉ
là thế giới đông lạnh, chết cứng.
Trong văn học trước 1945, viết về những người dưới đáy xã hội là đề tài riêng
của văn học hiện thực phê phán. Đó là đối tượng phản ánh chủ yếu của các cây bút
hiện thực nổi tiếng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam
Cao,…Trong khi đó văn học lãng mạn ít người đề cập tới. Thạch Lam, Nguyễn
Tuân là những cây bút lãng mạn đi đầu về đề tài kẻ bên lề, dân ngoại biên. Gần như
không có ngoại lệ, thế giới nhân vật đông đúc của Nguyễn Tuân đều là dân cư của
vùng ngoại biên, bên lề. Trong sáng tác của ông, chỉ ở thế giới bên lề mới có các
bậc kì nhân, kì tài, những người chí thành,, chí tình, mới diễn ra những chuyện kì
duyên, kì ngộ. Quan trọng hơn, chỉ khi nào phiêu dạt sang bên lề, ra ngoại biên,
sáng tạo nghệ thuật mới tìm thấy sự kì thú để thăng hoa. Các nhân vật như vợ chồng
Phó Sứ- Mộng Liên, ông Huấn Cao, ông Cử Hai, ông Thông Phu, cô Đào Tâm,
Nguyễn, Bát Lê… là những nhân vật như thế.
Việc sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập trong sáng tác cho thấy Nguyễn
Tuân đặt cái đẹp lên trên hết. Những cái thấp hèn, phàm tục được miêu tả để tôn lên
cái cao cả, phi thường. Qua đó, ta thấy được tính chất nhất quán trong quan niệm và
phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
Tiểu kết chƣơng 3: Những thành công trên phương diện nghệ thuật như tạo
dựng thời gian, không gian quá khứ từ điểm nhìn hiện tại, xây dựng được tình
huống truyện đặc sắc cùng sự sáng tạo tài hoa về ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu và
vận dụng các thủ pháp tương phản, đối lập không chỉ góp phần thể hiện chân thực,
tinh tế đề tài viết về quá khứ mà còn làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, tài
hoa của Nguyễn Tuân. Nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng
tạo là công việc quý báu thiêng liêng. Thành công của những sáng tác viết về đề tài
quá khứ chẳng những nhờ người viết đã am hiểu, đã sống và yêu mến, nâng niu thật
sự những điều mình thuật tả, mà còn do ông biết dựng lại cái cổ xưa bằng khả năng
phân tích tinh vi từ cảm giác, ý nghĩ của nhân vật đến đường nét màu sắc của cảnh
vật, và khả năng vận dụng cách quan sát của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau.
Qua đó, ta thấy những tình cảm đặc biệt tha thiết của ông đối với những giá trị văn
hóa cổ truyền của dân tộc, mà trước hết là sự gắn bó với tiếng nói của cha ông.
Trong hoàn cảnh mất nước mà chưa có gan đứng lên cứu nước, con người ấy đã dồn
tất cả lòng yêu tổ quốc vào tình yêu tiếng mẹ đẻ: “mỗi khi cầm bút ướm thử nó lên
tờ giấy trắng trong tinh khiết, tôi thấy sung sướng vô vàn, sung sướng đến chảy
nước mắt ra, đến nỗi có thể tưởng rằng mình sẽ chết ngay được nếu bị mất cái
quyền viết” [34, tr. 509]. Quả thực, trên mỗi trang sách, ta thấy Nguyễn Tuân đã
sống thật sự với từng câu, từng chữ của mình. Điều đó làm nên cái chất riêng của
Nguyễn Tuân trong nền văn học dân tộc.
PHẦN KẾT LUẬN
Với đề tài hoài cổ và xê dịch, Nguyễn Tuân đã tạo nên một ấn tượng nổi trội,
khác biệt trong làng văn ngay từ khi xuất hiện. Những trang văn rất mực tài hoa, độc
đáo đã đưa ông xứng đáng tầm cỡ nhà văn lớn. Vẻ đẹp trang viết của Nguyễn Tuân là
kết quả tất yếu của con người có chiều sâu văn hóa, chiều rộng của tri thức. Đó còn là
biểu hiện của tấm lòng yêu nước, thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền của
dân tộc, là sự gắn bó với con người và cuộc sống của một nhà văn tâm huyết.
Về phương diện nội dung, những sáng tác ở đề tài viết về quá khứ thể hiện nét
tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Với quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, đề cao
cái đẹp nên Nguyễn Tuân luôn say mê kiếm tìm cái đẹp ở mọi nơi, ở mọi loại
người. Giữa cuộc đời ô trọc lúc đó, việc ca ngợi cái đẹp là một phản ứng của người
thanh niên trí thức Nguyễn Tuân với hiện thực xấu xa đương thời và là biểu hiện
của một con người có nhân cách cao đẹp. Giữa lúc xã hội thực dân nửa phong kiến
đương thời đàn áp, hạn chế tự do của con người, viết văn là cách Nguyễn Tuân đấu
tranh và bày tỏ thái độ bất mãn của mình với thực tại. Ông không tìm được cái đẹp
ở hiện tại, vì vậy ông trở về tìm tòi cái đẹp trong quá khứ với những con người tài
hoa hơn người, với những thú vui tinh tế, với nhịp sống khoan thai, nho nhã. Thế
giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân đều ít nhiều mang bóng dáng của
chính nhà văn. Ông gửi gắm vào họ biết bao yêu mến, cảm phục. Với tài năng và
tâm huyết của mình, ông đã làm sống lại cả một quá khứ đẹp đẽ một đi không trở
lại. Khác với bề ngoài luôn ngông nghênh, kiêu bạc, “đi lù lù giữa cuộc đời và ném
đá ra xung quanh”, chúng ta khám phá ra một thế giới nội tâm phong phú, phức tạp,
không dễ nắm bắt của nhà văn.
Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Tuân thể hiện một bút pháp già dặn, sức
sáng tạo không ngừng. Nguyễn Tuân bộc lộ nét tài hoa khi tái hiện không gian và
thời gian quá khứ, sử dụng thủ pháp tương phản đối lập cùng những sáng tạo miệt
mài về ngôn ngữ và diễn đạt. Đọc những trang văn của Nguyễn Tuân, người đọc có
thêm hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, làm phong phú tâm hồn mình. Nguyễn
Tuân trở thành sứ giả mang bức thông điệp từ quá khứ đến với bạn đọc mai sau:
Hãy biết trân trọng tài hoa của con người, hãy giữ gìn nét đẹp văn hóa tinh thần, hãy
yêu tiếng nói của cha ông. Trong cuộc sống hiện đại, xu hướng hội nhập quốc tế
ngày càng mạnh mẽ, bức thông điệp của Nguyễn Tuân càng có giá trị to lớn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về nội dung và nghệ thuật kể trên,
sáng tác của Nguyễn Tuân về đề tài quá khứ cũng bộc lộ những hạn chế nhất định.
Về nôi dung: Với quan niệm nghệ thuật thuần túy cùng việc đề cao cảm giác chủ
quan của cá nhân, Nguyễn Tuân có lúc sa vào chủ nghĩa hình thức, coi trọng cái đẹp
thuần túy mà tách rời nó khỏi đạo đức và luân lí của xã hội. Chính điều này mà có
thời Nguyễn Tuân đã bị hiểu lầm và bị đánh giá sai lệch. Nguyễn Tuân là con người
ý thức về cái tôi cá nhân của mình rõ nét, và hình ảnh con người cá nhân nhà văn in
dấu trong những trang văn của ông. Nguyễn Tuân khai thác những đề tài mà ít nhà
văn đề cập đến như đánh bạc, hút thuốc phiện, ca lâu, tửu quán, nhân ngãi nhân
nghì… và thể hiện bằng chính sự trải nghiệm của bản thân mình. Về nghệ thuật: Kết
cấu trong truyện ngắn của ông khá lỏng lẻo, ranh giới thể loại không rõ nét. Truyện
ngắn của Nguyễn Tuân có sự pha trộn tùy bút và tùy bút của Nguyễn Tuân đôi khi
lại đan xen yếu tố truyện. Đây là nét đặc sắc riêng trong phong cách nghệ thuật của
nhà văn. Tuy nhiên, nhà văn thiên về lối phô diễn kiến thức nên truyện ngắn của
ông ít đi sâu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, ít phản ánh số phận cá nhân.
Nhân vật của Nguyễn Tuân thường là đại diện cho một lớp người nào đó trong xã
hội. Bởi điều này, có lúc ta thấy Nguyễn Tuân như thoát li cuộc sống để say sưa với
thế giới yêu thích của riêng mình. Là một nhà văn yêu mến tiếng mẹ đẻ, Nguyễn
Tuân đã có những sáng tạo vô cùng phong phú về ngôn ngữ và diễn đạt. Tuy nhiên,
chính sự phong phú, cầu kỳ trong cách sử dụng ngôn ngữ và diễn đạt khiến văn
chương Nguyễn Tuân kén bạn đọc. Người yêu thích văn Nguyễn Tuân không thể là
người nông nổi mà phải có hiểu biết và sở thích nhất định mới tiếp nhận đầy đủ giá
trị tác phẩm.
Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đi sâu tìm hiểu
đề tài quá khứ trong sáng tác của ông trước Cách mạng, chúng tôi không chỉ khám
phá thế giới nội tâm sâu sắc của nhà văn, những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà còn
là một cách thể hiện sự yêu mến với tài năng và nhân cách nhà văn, là sự đồng cảm
của chúng tôi với những vẻ đẹp mà ông đã say sưa ca ngợi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1995), Từ điển Văn học Việt Nam,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (2004), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Đại học Quốc gia,
Hà Nội, Hà Nội.
3. Bakhtin. M (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội.
4. Nguyễn Trần Bạt, “Biện chứng của quá khứ”.
http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/bien_chung_cua_qua_khu_7.html
5. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội,
Hà Nội.
6. Phan Cự Đệ, 1992, Văn học Việt Nam thế kỷ XX- Những vấn đề lịch sử và lý
luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.
7. Phan Cự Đệ (1999), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
8. Phan Cự Đệ- Trần Đình Hượu- Nguyễn Trác- Nguyễn Hoành Khung- Lê Chí
Dũng- Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900- 1945), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
9. Hà Minh Đức- Đỗ Văn Khang- Phạm Quang Long- Phạm Thành Hưng-
Nguyễn Văn Nam- Đoàn Đức Phương- Trần Khánh Thành- Lý Hoài Thu
(2001), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Hà Văn Đức (1991), “Nguyễn Tuân- một bậc thầy về ngôn ngữ”, Tạp chí
Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội (số 4), tr. 31- 35.
11. Hà Văn Đức (1994), “Nguyễn Tuân và cái đẹp”, Tạp chí Khoa học, Đại học
Quốc gia Hà Nội (số 5), tr. 48- 52.
12. Hà Văn Đức (1996), “Tùy bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám (Một
số đặc điểm thể loại)”, Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng
tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội
13. Hà Văn Đức (1997), Ngô Tất Tố- nhà văn của nông dân, Các nhà văn được
giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
14. Hà Văn Đức (1998), “Nguyễn Tuân và quá trình nhận đường trong văn học
của ông”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội (số 2), tr. 7- 11.
15. Hà Văn Đức (tháng 4- 2003), “Quan điểm thẩm mĩ qua một số hình tượng nghệ
thuật trong tùy bút Nguyễn Tuân”, Tạp chí Văn học, tập 374 (số 4), tr. 8- 15.
16. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ Văn
học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
17. Phạm Đình Hổ (2001), Vũ Trung tùy bút, NXB Văn học, Hà Nội.
18. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
19. Thụy Khuê, “Thi pháp Nguyễn Tuân”.
http://thuykhue.free.fr/stt/n/nguyentuan.html
20. Mã Giang Lân- Hà Văn Đức- Bùi Việt Thắng- Phạm Xuân Thạch (2000),
Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900- 1930, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
21. Đặng Lưu, “Hai thao tác đối nghịch trong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân”
http://khoaspnv.vinhuni.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/ly-luan-ngon-ngu/seo/hai-
thao-tac-doi-nghich-trong-cach-su-dung-tu-ngu-cua-nguyen-tuan-54470
22. Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.
23. Nguyễn Thị Thanh Minh (2004), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân
trong sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội.
24. Vương Trí Nhàn, “Ba bài viết ngắn và một phác thảo chân dung nhà văn
Nguyễn Tuân”.
http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://vuongtrinhan.blog
spot.com/2010/07/nguyen-tuan.html
25. Nhiều tác giả (1997), Nguyễn Tuân người đi tìm cái đẹp (Hoàng Xuân tuyển
chọn), NXB Văn học, Hà Nội.
26. Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Tuân về tác gia tác phẩm (Tôn Thảo Miên
tuyển chọn và giới thiêu), NXB Giáo dục, Hà Nội.
27. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, tập 3, NXB Văn học, Hà Nội.
28. Trần Đình Sử (2002), Nhà văn với đời sống và cá tính sáng tạo, NXB Văn
học, Hà Nội.
29. Hoài Thanh- Hoài Chân (1995), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
30. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể
loại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
31. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
32. Thư viện giáo án, “Khái quát về tình huống truyện trong truyện ngắn”.
http://thuviengiaoan.vn/giao-an/khai-quat-ve-tinh-huong-truyen-trong-
truyen- ngan
33. Ngọc Trai (1991), Nhà văn Nguyễn Tuân con người và văn nghiệp, NXB Hội
nhà văn, Hà Nội.
34. Nguyễn Tuân (2001), Chùa đàn- Tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội.
35. Nguyễn Tuân (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh,
Quyển I, NXB Văn học, Hà Nội.
36. Nguyễn Tuân (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh,
Quyển II, NXB Văn học, Hà Nội.
37. Nguyễn Tuân (2014), Vang bóng một thời, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
38. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
39. Hoàng Yến, “Nguyễn Tuân- Bậc thầy sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt”.
http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Nguyen-Tuan--Bac-thay-su-dung-ngon-ngu
ieng-Viet/20107/2092.vnplus