phẠm thỊ hỒng ngỌc -...

93
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ----------------------------------------- PHẠM THỊ HỒNG NGỌC ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC CA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Hà Nội- 2015

Upload: others

Post on 25-Sep-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------

PHẠM THỊ HỒNG NGỌC

ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC

CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội- 2015

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

------------------------------------------

PHẠM THỊ HỒNG NGỌC

ĐỀ TÀI QUÁ KHỨ TRONG SÁNG TÁC

CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HÀ VĂN ĐỨC

Hà Nội- 2015

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.

Công cuộc hiện đại hóa văn học Việt Nam diễn ra từ đầu thế kỉ XX đến Cách

mạng tháng Tám năm 1945 đã tạo ra những chuyển biến mang tính bước ngoặt cho

nền văn học dân tộc, tạo đà cho văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đạt được

những thành tựu rực rỡ. Trong khoảng thời gian gần nửa thế kỉ, nền văn học đã xuất

hiện một đội ngũ nhà văn đông đảo, có tài năng và tạo nên nhiều tác phẩm có giá trị.

Một trong số đó là Nguyễn Tuân- một nhà văn lớn, có phong cách tài hoa, độc đáo.

Cho đến nay và mãi nhiều năm về sau nữa, chắc chắn không ai nghi ngờ vị trí hàng

đầu trong làng văn Việt Nam hiện đại của Nguyễn Tuân. Ông là “một trong mấy

nhà nhà văn lớn mở đường, đắp nền cho văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX” (Nguyễn

Ðình Thi). Nói đến Nguyễn Tuân là nói đến một giá trị hiển nhiên, gợi nhắc một

vùng trời riêng, xôn xao thanh âm ngôn ngữ dân tộc. Sáng tác của ông tồn tại vừa

như những giá trị thẩm mỹ độc lập vừa gợi ý, kích thích tìm tòi, sáng tạo lên các giá

trị mới.

Trong hơn 50 năm cầm bút, với tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc, ông

đã để lại một di sản văn học đồ sộ, với nhiều thể loại từ tiểu thuyết, truyện ngắn,

phóng sự, tùy bút... làm phong phú, đa dạng cho nền văn học Việt Nam hiện đại.

Trên hành trình sáng tạo đầy nhọc nhằn nhưng cũng đầy vinh quang, Nguyễn Tuân

giống như một người “phu chữ” cần mẫn, kiên trì trên cánh đồng nghệ thuật để cho

ra đời những áng văn chương mà mỗi khi đọc nó, ta như được khai sáng về vẻ đẹp

của chữ nghĩa. Bởi vậy, văn của Nguyễn Tuân cũng rất kén độc giả, “chỉ người ưa

suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn

để người nông nổi thưởng thức” (Vũ Ngọc Phan).

Trước Cách mạng tháng Tám, sáng tác của Nguyễn Tuân tập trung ở ba đề tài

lớn: Đề tài xê dịch, giang hồ; đề tài viết về quá khứ và đề tài về cuộc sống hưởng

lạc. Dù viết về đề tài nào thì ở nơi mạch ngầm của các trang sách vẫn là lòng yêu

nước thiết tha, tinh thần dân tộc sâu sắc. Qua luận văn này, chúng tôi muốn tìm hiểu

một phần trong những đóng góp quan trọng của ông. Đó là Đề tài quá khứ trong

sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.

Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn, độc đáo và có cá tính mạnh nên từ trước đến

nay có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về Nguyễn Tuân. Ở đề tài viết về quá

khứ, nhiều nhà nghiên cứu đã có những bài viết khá sâu sắc, giúp người đọc khám

phá giá trị ẩn tàng trong từng trang viết của nhà văn. Tuy nhiên, đó chỉ là những bài

viết đơn lẻ, chưa thành hệ thống, chúng tôi nhận thấy chưa có công trình nào đi sâu

nghiên cứu về đề tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng.

Bản thân tôi luôn hứng thú, say sưa và yêu mến những trang viết tài hoa của ông. Đi

sâu tìm hiểu về đề tài này, tôi có cơ hội bổ sung, trau dồi kiến thức về Nguyễn Tuân

thêm phong phú, vững vàng; có thêm hiểu biết về vẻ đẹp văn hóa tinh thần của một

thời đã xa, thêm trân trọng và giữ gìn vẻ đẹp đó trong thời đại mới, cũng như mang

lại cái nhìn rộng mở hơn khi giảng dạy các tác phẩm của ông trong nhà trường.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.

Kể từ khi xuất hiện trên văn đàn, văn chương và con người Nguyễn Tuân luôn

trở thành đề tài gây sự chú ý cho người đọc nói chung và cho các nhà nghiên cứu

nói riêng. Đã có rất nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về cuộc đời, con người và

sáng tác của ông

2.1. Những bài báo, công trình nghiên cứu về Nguyễn Tuân nói chung

Những bài viết nghiên cứu về cuộc đời và tác phẩm nói chung: Có thể nói

người tiên phong đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu này chính là Nguyễn Đăng

Mạnh. Ông cũng là người nghiên cứu về Nguyễn Tuân một cách khá toàn diện và

sâu sắc. Từ bài tiểu luận in ở đầu Tuyển tập Nguyễn Tuân (2 tập, năm 1984-

1986) và bài giới thiệu trong Toàn tập Nguyễn Tuân (1988), bên cạnh đó ông còn

có bài viết Nguyễn Tuân- một phong cách độc đáo và tài hoa, Nguyễn Đăng

Mạnh đã giúp người đọc có sự nhìn nhận khách quan về nhà văn. Ông đã phân tích

một cách sâu sắc, thấu đáo sự nghiệp, quan điểm, phong cách nghệ thuật, đặc trưng

thể loại của nhà văn Nguyễn Tuân. Nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh đến nét nổi bật ở

nhà văn Nguyễn Tuân đó là cá tính Ngông: “Nguyễn Tuân bước vào nghề văn như

để chơi ngông với thiên hạ. Về căn bản đó là phản ứng của chủ nghĩa cá nhận kiêu

ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức sống nhưng bế tắc (…). Nhu cầu chơi

ngông buộc Nguyễn Tuân phải đẩy mọi cái thông thường tới cái cực đoan, thậm chí

tới mức trở thành những kỳ thuyết, nghịch thuyết” [34, tr. 288]. Nhà nghiên cứu còn

nhấn mạnh đến đến cái tôi của nhà văn Nguyễn Tuân như một yếu tố có tính quyết

định tới phong cách riêng của nhà văn. Ngoài ra, Nguyễn Đăng Mạnh còn có những

nhận xét rất sâu sắc về ngôn ngữ của nhà văn Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân có một

kho từ vựng hết sức phong phú… Không chỉ tích lũy những từ sẵn có, ông luôn luôn

có ý thức sáng tạo từ mới và cách dùng từ mới…”. Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ

cũng đánh giá cao về Nguyễn Tuân. Qua quá trình Lột xác đầy trăn trở của Nguyễn

Tuân sau Cách mạng, Phan Cự Đệ cũng đưa ra lý giải một cách sâu sắc: “Sau Cách

mạng nhà văn không đối lập hai yếu tố thẩm mĩ và xã hội nhưng anh vẫn nắm bắt

nhanh những mặt đẹp, nhạy cảm với cuộc sống mới từ góc độ thẩm mĩ”. Từ đó,

người ta thấy Nguyễn Tuân và văn chương của ông là một mảnh đất màu mỡ, đầy bí

ẩn mời gọi các nhà nghiên cứu đến tìm tòi và khám phá. Rất nhiều bài viết và công

trình nghiên cứu của nhiều tác giả khác ra đời: Nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyễn

Tuân- huyền thoại một thời của Vương Trí Nhàn; Nguyễn Tuân, ngƣời săn tìm

cái đẹp của Nguyễn Trung Thành. Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân trong

sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Thị Thanh Minh, Nguyễn Tuân và cái đẹp của

Hà Văn Đức. Những bài viết của các tác giả kể trên đều đi sâu vào quan niệm thẩm

mỹ của Nguyễn Tuân để phát hiện ra cái đẹp qua các tác phẩm của nhà văn ở cả hai

giai đoạn sáng tác. Bên cạnh đó là những bài viết ghi lại hồi ức, kỷ niệm về Nguyễn

Tuân của gia đình, bạn bè nhà văn. Đó là những tư liệu quý giá giúp ta hiểu thêm về

tài năng và nhân cách nhà văn.

Nhắc đến Nguyễn Tuân không thể không nói tới thể loại tùy bút. Ở đây, có thể

kể ra những bài nghiên cứu tiêu biểu: Nguyễn Tuân trong tùy bút của Phong Lê;

Nguyễn Đăng Mạnh có bài Thể tài tùy bút của Nguyễn Tuân (Trích trong lời giới

thiệu cuốn Tuyển tập Nguyễn Tuân. Những bài viết này làm rõ mối quan hệ giữa

chủ thể văn tùy bút với sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật và dấu ấn độc đáo cũng như

sở trường của nhà văn Nguyễn Tuân. Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định “cá tính

và phong cách của Nguyễn Tuân tự tìm đến thể tài tùy bút như là một tất yếu. Trong

văn học, có lẽ đây là thể tài chủ quan nhất và tự do nhất” . Nhà nghiên cứu Hà Văn

Đức có bài Tùy bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám (Một số đặc điểm

thể loại) in trong tập Năm mƣơi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng

Tám (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1996) đã đưa ra nhiều đánh giá và nhận định

sâu sắc về những đặc điểm của tùy bút Nguyễn Tuân xét về mặt thể loại.

2.2. Những bài báo, công trình nghiên cứu về đề tài quá khứ của Nguyễn Tuân.

Nhà văn Thạch Lam trong bài Đọc lại Vang bóng một thời (in trên tạp chí

Ngày nay, số 212, ngày 15 Juin 1940) đã phát hiện ra mảng đề tài quá khứ trong

sáng tác của Nguyễn Tuân ngay khi ông xuất hiện trên văn đàn. Thạch Lam cho

rằng: “Có lẽ thu nhặt và kể lại những truyện, việc ngày xưa là một việc đáng chú ý,

nhưng mà dễ. Nhưng phải yêu mến dĩ vãng, phải tiếc thương và muốn vớt lại những

vẻ đẹp đã qua, mới có thể làm sống lại cả một thời xưa được. Vì cái ý ấy, Nguyễn

Tuân cũng đáng cho chúng ta cảm ơn rồi. Tác phẩm của ông lại có một giá trị sáng

tác và văn chương đặt ông vào địa vị một nhà văn cho chúng ta nhiều hy vọng.

Vang bóng một thời là một sản phẩm đáng quý, đánh dấu bước đường trở lại tìm

những cái đẹp xưa mà các nhà văn ta thường xao nhãng” [24, tr. 91]. Thạch Lam

đã tỏ ra rất tinh tế khi phát hiện ra giá trị sáng tác và văn chương của Nguyễn Tuân

ngay từ buổi ban đầu. Năm 1971, Phan Cự Đệ trong bài viết Đọc lại Vang bóng

một thời của Nguyễn Tuân đã lần đầu tiên đề cập đến hệ thống nhân vật trong tập

truyện Vang bóng một thời. Còn Nguyễn Đăng Mạnh khi đánh giá về truyện ngắn

Nguyễn Tuân trước Cách mạng đã phát hiện ra “chất mĩ học hoài cựu”. Ông cho

rằng nhà văn đã biết dựng lại cái cổ xưa bằng khả năng của bút pháp, kỹ thuật hiện

đại. Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa tiểu sử và tác phẩm, ông chỉ ra “Nguyễn Tuân

đã sống Vang bóng một thời trước khi viết Vang bóng một thời” [34, tr. 260]. Tiếp

nối những người đi trước, nhà nghiên cứu Hà Văn Đức đã có một bài viết sâu sắc,

công phu và toàn diện về sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng ở Chương

XII của Giáo trình Văn học Việt Nam (1900- 1945), NXB Giáo dục, 1998. Ông

đồng quan điểm với các nhà nghiên cứu khác khi chỉ ra ba mảng đề tài lớn trong

sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng: đề tài xê dịch, đề tài quá khứ và đề tài

về cuộc sống trụy lạc. Khi nhận định về mảng đề tài quá khứ, nhà nghiên cứu cho

rằng: “Thất vọng trước hiện tại, Nguyễn Tuân lại quay ra tìm kiếm một con đường

khác- con đường tìm về quá khứ, tìm kiếm trong quá khứ những gì có thể mang lại

đôi chút hơi ấm, soi rọi ít nhiều tia nắng và niềm tin cho cuộc sống đang lạnh lẽo,

tối tăm” [8, tr. 605]. Nhận xét về những giá trị tích cực nhất trong sáng tác Nguyễn

Tuân trước Cách mạng tháng Tám, ông khẳng định: Đó là tinh thần dân tộc biểu

hiện qua việc khai thác và gìn giữ cái đẹp truyền thống, trong đó phải kể đến sự gắn

bó, trân trọng tiếng mẹ đẻ của nhà văn. Nghiên cứu Nguyễn Tuân theo hướng thi

pháp học có bài viết Chất thơ trong Vang bóng một thời trong cuốn Thi pháp

hiện đại (2000) của Đỗ Đức Hiểu. Ông đã cho rằng ở Vang bóng một thời có ba

motif: motif buổi chiều máu, motif sương mờ, motif liêu trai; và chỉ ra: “Vang bóng

là chất thơ bao trùm ba motif trên; một thời chỉ rõ một thời kỳ lịch sử cụ thể, lúc

giao thời. Nguyễn Tuân, con người lãng tử, khí phách, độc lập ấy đã nhìn sâu vào

lịch sử bằng con mắt nghệ sĩ, tìm thấy một phương diện cái đẹp, cái hào hùng và

cái thuần khiết của tâm hồn trong buổi giao thời nhập nhoạng, một thời kỳ lịch sử

bị bạo lực vi phạm thô bạo” [18, tr. 34]. Từ motif ông đi vào tìm hiểu không gian-

thời gian, nhân vật và ngôn ngữ của tác phẩm để đưa ra những luận giải, khái quát

rất tinh tế. Có thể thấy, những nghiên cứu của các tác giả kể trên đã đi tìm hiểu đề

tài quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng để phát hiện ra giá trị

nhân văn cùng bút pháp nghệ thuật đặc trưng của nhà văn. Kế thừa những phát hiện

của các nhà nghiên cứu đi trước, cùng sự hứng thú với những giá trị văn hóa cổ

truyền của dân tộc mà ngày nay đã mai một được miêu tả trong những sáng tác của

Nguyễn Tuân trước Cách mạng, trong luận văn này chúng tôi đi sâu tìm hiểu vẻ đẹp

quá khứ trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.

Nhìn chung, lịch sử nghiên cứu những vấn đề về Nguyễn Tuân cho đến nay đã

quá nửa thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, nhiều ý kiến trái chiều, người khen khen

không ngớt, người chê, chê không tiếc lời nhưng cùng với thời gian, vị trí và giá trị

văn chương của Nguyễn Tuân trên văn đàn ngày càng được khẳng định vững vàng.

Sự độc đáo, một “cái tôi ngông ngạo” của nhà văn ngày nào bị “ném đá” thì nay lại

trở thành niềm say mê, hứng thú với lớp hậu thế. Di sản văn chương của ông trở

thành mảnh đất mỡ màu, được nhiều nhà nghiên cứu “canh tác” và gặt hái được

những thành tựu to lớn. Công trình của các nhà nghiên cứu trên đã góp phần làm

sáng tỏ nhiều vấn đề trong sáng tác của Nguyễn Tuân và có nhận định chính xác về

những đóng góp của nhà văn với nền văn học dân tộc. Đồng thời, công trình của các

nhà nghiên cứu cũng gợi mở đề tài cho các thế hệ sinh viên, học viên cao học

chuyên ngành Ngữ văn trên con đường khởi đầu nghiên cứu khoa học.

3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài.

Trong luận văn này, chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích, lý giải Đề tài

quá khứ trong sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng. Đây là một đề tài

rất lý thú và hấp dẫn song cũng đầy thử thách. Song với niềm say mê đặc biệt với

nhà văn, chúng tôi góp phần làm nổi rõ thành công của Nguyễn Tuân ở cả hai

phương diện nội dung, nghệ thuật và cả hạn chế trong sáng tác của ông trước Cách

mạng.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu.

4.1. Đối tƣợng:

Các đề tài sáng tác của Nguyễn Tuân rất đa dạng nhưng ở luận văn này chúng

tôi nghiên cứu tìm hiểu những đóng góp của Nguyễn Tuân ở đề tài viết về quá khứ

trong những sáng tác của ông trước Cách mạng. Ở đề tài này, chúng tôi nhận thấy

nhà văn đã thể hiện một cách tài hoa, nghệ sĩ và phô diễn một pho hiểu biết sâu sắc

về vẻ đẹp của một thời đã xa nay dần phai loãng trước sự tấn công ào ạt của văn hóa

phương Tây, sự nô dịch văn hóa trong chính sách cai trị của thực dân Pháp cùng

những biến động của lịch sử. Những tác phẩm của ông như những thước phim tư

liệu quý tái hiện cho thế hệ sau hiểu biết rõ hơn về đời sống của ông cha ta trong

quá khứ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Dẫu biết khuôn khổ của một luận văn có những giới hạn nhất định về dung

lượng nhưng chúng tôi vẫn cố gắng khảo sát để bước đầu có một cái nhìn toàn diện

và sâu sắc hơn về toàn bộ những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, đặc

biệt là tập truyện ngắn Vang bóng một thời.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn kế thừa thành tựu của những công trình nghiên cứu đi trước, kết hợp

sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau:

- Phương pháp hệ thống: nhằm nghiên cứu những sáng tác trước Cách mạng của

nhà văn Nguyễn Tuân theo một hệ thống từ hành trình sáng tác, quan điểm nghệ

thuật, các đề tài chính và những đặc sắc nghệ thuật.

- Phương pháp phân tích- tổng hợp: nhằm tìm hiểu đặc sắc về nghệ thuật trong các

sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân từ chi tiết, cụ thể đến khái quát giúp cho việc

nghiên cứu có sức thuyết phục cao.

- Phương pháp so sánh: được tiến hành ở một số nét tiêu biểu về nghệ thuật sáng tác

trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân với các nhà văn, nhà thơ khác để tìm

ra nét riêng độc đáo của nhà văn này.

- Phương pháp loại hình: nhằm để khảo sát và phân loại sáng tác của Nguyễn Tuân

trước Cách mạng, giúp người nghiên cứu nắm bắt các hiện tượng trong mối quan hệ

tổng thể, bao quát; đồng thời phát hiện nét độc đáo, khác biệt, từ đó đánh giá được

những đóng góp và của Nguyễn Tuân vào quá trình hiện đại hóa văn học và thành

tựu của ông trong nền văn học Việt Nam.

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai trong

ba chương:

Chương 1: Hành trình sáng tác và quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước

Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Chương 2: Những cảm hứng lớn trong đề tài viết về quá khứ của Nguyễn Tuân

trước Cách mạng.

Chương 3: Những đặc sắc nghệ thuật.

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1

HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC VÀ QUAN ĐIỂM NGHỆ THUẬT

CỦA NGUYỄN TUÂN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945.

1.1. Hành trình sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng tháng Tám

Do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hán học, sáng tác của Nguyễn Tuân cho đến

trước năm 1937 hầu hết được viết theo bút pháp cổ điển. Những sáng tác buổi đầu

ấy chưa gây được tiếng vang. Tuy nhiên, có thể bắt gặp ở một số trang viết tiêu biểu

như Giang hồ hành (thơ), Vƣờn xuân lan tạ chủ (truyện ngắn) những tín hiệu của

một phong cách nghệ thuật lớn. Ðó là tinh thần hoài cựu, luôn chăm chút nhặt

nhạnh những vẻ đẹp xưa dù đã tàn tạ, cuối mùa; là hệ thống nhân vật tài hoa tài tử,

nhuốm chút ngông nghênh kiêu bạc; là lối văn cầu kỳ trúc trắc mà uyên bác hơn

người.

Ðến 1937, Nguyễn Tuân lại xuất hiện trên các báo với những truyện ngắn hiện

thực trào phúng, ở đó thường vỡ ra những tràng cười châm biếm thoải mái, đậm đà

phong vị dân gian (Ðánh mất ví, Một vụ bắt rƣợu lậu, Mƣời năm trời mới gặp

lại cố nhân). Tuy nhiên, do trào lưu hiện thực phê phán lúc bấy giờ đã phát triển rất

mạnh với nhiều tên tuổi lớn như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng,

Nam Cao,... cho nên thật không dễ dàng đối với Nguyễn Tuân trong việc tìm một vị

trí có hạng trên văn đàn. Vả chăng, có lẽ hơn ai hết, Nguyễn Tuân sớm nhận ra rằng

thể loại truyện ngắn vẫn chưa phù hợp với sở trường của mình.

Nguyễn Tuân chỉ thực sự được công nhận như một phong cách văn chương

độc đáo kể từ tùy bút - du ký Một chuyến đi (1938). Tác phẩm là tập hợp những

trang viết từ chuyến du lịch không mất tiền sang Hương Cảng để tham gia thực hiện

bộ phim Cánh đồng ma. Nét đặc sắc nhất ở Một chuyến đi chính là giọng điệu. Có

thể nói đến đây Nguyễn Tuân mới tìm được cách thể hiện giọng điệu riêng, một

giọng điệu hết sức phóng túng, linh hoạt đến kỳ ảo: “Khi thì trang nghiêm cổ kính,

khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như

là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất

đỗi tài hoa” [34, tr. 255]. Nhân vật chính trong tác phẩm là cái tôi ngông nghênh

kiêu bạc của nhà văn. Một cái tôi sau quá nhiều đắng cay tủi cực đã hầu như hoài

nghi tất cả, chỉ còn tin ở cái vốn tình cảm, ý nghĩ, cảm xúc sắc sảo và tinh tế của

mình tích lũy được trên bước đường xê dịch.

Một năm sau, 1939, với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã

vươn đến đỉnh cao của sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm góp phần đưa nghệ thuật văn

xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. Tác

phẩm được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

Từ sau Vang bóng một thời đến năm 1945, sáng tác của Nguyễn Tuân dần đi

vào ngõ cụt. Nếu như ở Thiếu quê hƣơng (1940), Chiếc lƣ đồng mắt cua (1941)

tuy mải mê với những lạc thú trần tục, cái Tôi vẫn còn đầy tự trọng và giữ được ý

thức về bản thân mình thì từ 1942, tình hình có khác đi. Vẫn cái Tôi ấy nhưng đã có

vẻ mất tự tin và niềm tin vào cuộc sống. Trong những năm đen tối này, đời sống

tinh thần của Nguyễn Tuân lâm vào tình trạng ngày càng khủng hoảng sâu sắc.

Những trang viết thưa dần. Bên cạnh những đề tài cũ (vẻ đẹp xưa, đời sống trụy

lạc), xuất hiện thêm các đề tài mới hướng về thế giới của yêu tinh, ma quỷ. Ngay

tiêu đề các tác phẩm Xác ngọc lam, Ðới roi, Rƣợu bệnh, Loạn âm cũng đủ nói lên

tình trạng bế tắc của ngòi bút Nguyễn Tuân thời kỳ này.

Dõi theo quá trình sáng tác của Nguyễn Tuân giai đoạn trước Cách mạng

tháng Tám, thật dễ nhận ra sự thay đổi rõ rệt về tư tưởng nghệ thuật, nhất là từ

Vang bóng một thời trở về sau. Ðiều này hoàn toàn có thể lý giải được nếu nhìn

vào quy luật của chủ nghĩa lãng mạn : bao giờ cũng khởi đầu thật ấn tượng bằng

việc khám phá và đề cao cái tôi cá nhân, để rồi sau giây phút choáng ngợp ấy tất cả

vụt trở nên nhỏ nhoi, trống vắng và buồn chán đến nao lòng. Dẫu sao, những trang

viết của Nguyễn Tuân vẫn luôn được đón nhận bằng thái độ trân trọng và thông cảm

sâu sắc bởi độc giả nhận ra ở đấy một tấm lòng chân thành, gắn bó tha thiết với quê

hương bằng biết bao sợi dây tình cảm tế nhị, cả trong những thời điểm khắc nghiệt

nhất.

1.2. Các đề tài chính trong các sáng tác của Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng

1.2.1. Đề tài giang hồ, xê dịch

Sự tiếp xúc với văn học phương Tây hồi đầu thế kỉ XX đã ảnh hưởng lớn đến

văn học Việt Nam. Nhiều trào lưu, chủ nghĩa có nguồn gốc từ phương Tây đã du

nhập vào nước ta và được các nhà văn, nhà thơ Việt Nam tiếp nhận nồng nhiệt. Chủ

nghĩa xê dịch của Nguyễn Tuân là một thứ lí thuyết vay mượn từ văn học phương

Tây mà các đại diện tiêu biểu là A. Gide, Pôn Môrăng, nhà triết học Đức Friedrich

Nietzsche…A. Gide (1869- 1951) là một trong những nhà văn xuất chúng nước

Pháp thế kỉ XX, từng đoạt giải Nobel Văn học năm 1947. Ông là người rất ham mê

du lịch khắp nơi trên thế giới. Câu nói nổi tiếng Pôn Môrăng đã được Nguyễn Tuân

lấy làm lời đề tựa cho tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng của mình: “Ta chỉ muốn rằng

sau khi ta chết đi, người ta lột da ta để làm một chiếc va li”. Thêm vào đó, phong

trào dịch thuật phát triển đã tạo điều kiện cho lớp công chúng văn học thành thị,

trong đó có các nhà văn được biết đến các tiểu thuyết phiêu lưu giả tưởng của các

nhà văn phương Tây như: Robinson Crusoe của nhà văn Anh Daniel Defoe (1660-

1731); Hai vạn dặm dƣới biển của nhà văn Pháp Jules Verne (xuất bản ở Pháp

năm 1870); các nhân vật trong tiểu thuyết của Satôbriăng du lịch sang châu

Mỹ…Còn ở phương Đông là tiểu thuyết Tây du ký của Ngô Thừa Ân (1506?-

1581), hình ảnh tài tử, lãng mạn của những thi nhân thích du lịch trong thơ ca đời

Đường như Lý Bạch (701- 762), Đỗ Phủ (712- 770); cùng với đó là ý thức về cái

“tôi”- con người cá nhân giữa cuộc đời trở thành những động lực mạnh mẽ thôi thúc

các nhà văn Việt Nam lên đường sau khi đọc xong và gửi gắm niềm đam mê trong

các tác phẩm của chính mình. Còn văn học Việt Nam, nhiều tác giả thích cuộc sống

lãng du và say mê thể hiện vẻ đẹp của non sông đất nước trong tác phẩm của mình

như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Chu Mạnh Trinh, đặc biệt là

lối sống phóng túng của Tản Đà đã ảnh hưởng rất lớn tới sự hình thành tính cách và

sở thích xê dịch ở Nguyễn Tuân.

Trong dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, giang hồ xê dịch còn trở

thành thứ “bệnh” của nhiều nhà văn, nhà thơ. Trong các nhà văn của nhóm Tự Lực

Văn Đoàn, Nhất Linh đã dành tình cảm ưu ái cho nhân vật Dũng- người khách

chinh phu có chí khí, gác tình riêng để dấn thân vào “cuộc đời phiêu lưu hoạt động”

trong tiểu thuyết luận đề Đoạn tuyệt và Đôi bạn. Thế Lữ (1907- 1989) là nhà thơ

Mới nổi danh trên văn đàn vào những năm 1930 với hình ảnh người khách chinh

phu đưa “gót lãng du” khắp “chốn hải hồ” trong Giây phút chạnh lòng(1937) và

các truyện ngắn kinh dị như Vàng và máu, truyện ngắn lãng mạn núi rừng như Gió

trăng ngàn, Trại Bồ Tùng Linh; hình ảnh li khách trong Tống biệt hành (1944)

của Thâm Tâm; hình ảnh người lãng tử giang hồ với những mùa xuân tha hương

trong thơ Nguyễn Bính; hình ảnh cậu bé đa cảm, chớm ôm mộng giang hồ trong bài

thơ Những ngày nghỉ học (1938) của Tế Hanh… Bên cạnh đó, các bạn văn cùng

thời với Nguyễn Tuân như Nam Cao, Tô Hoài cũng rất thích cuộc sống xê dịch, nửa

đêm nghe tiếng còi tàu hỏa đã gợi hứng lên đường. Chính những chuyến “giang hồ

vặt” này đã giúp các nhà văn, nhà thơ có nguồn tư liệu thực tế phong phú để phục

vụ công việc viết lách của mình. Khác với các nhà văn cùng thời, Nguyễn Tuân

giang hồ chỉ để chơi, đi không vì mục đích nào cả, đi chỉ là đi, đi không xác định

địa điểm trước. Trong những người ưa xê dịch, có lẽ Nguyễn Tuân là người đi xa

nhất, viết nhiều nhất, đam mê nhất. Sáng tác của ông mang tính chất điển hình, sâu

đậm, đỉnh cao hơn cả về chủ nghĩa xê dịch.

Không chỉ chịu ảnh hưởng của phương Tây và nền văn học phương Đông mà

sở thích này xuất phát từ chính Nguyễn Tuân bởi ông là người có cá tính độc đáo và

ý thức cá nhân phát triển cao. Ham mê xê dịch còn là một “gen trội” mà Nguyễn

Tuân được thừa hưởng từ gia đình khi ông nội và bố ông đều là những người có một

dĩ vãng “lang bạt kì hồ”. Là người tự do, phóng túng, ông quan niệm “đời là một

trường du hý”, sống là chơi mà viết cũng là chơi. Nếu nói “văn là người” thì điều

này rất đúng với Nguyễn Tuân. Ông viết văn như để chơi ngông với đời. Những gì

người khác cho là nghịch lí, nghịch thuyết thì ông đẩy nó lên thành chủ nghĩa tới

mức cực đoan. Ham du lịch, Nguyễn Tuân đã nâng niềm ham thích này thành lý

thuyết- “chủ nghĩa xê dịch”. Học theo chủ nghĩa xê dịch, nhà văn thể hiện khát khao

thích phiêu lưu, thèm khát những cảm giác mới lạ, những nẻo đường, những miền

đất mới, được gặp gỡ muôn mặt người trên con đường giang hồ mê mải. Những

điều này đã cùng gặp gỡ nhau nơi con người Nguyễn Tuân để rồi những trang viết

được thăng hoa qua ngòi bút của ông. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân

đã viết một loạt những tác phẩm thể hiện niềm đam mê cuộc sống giang hồ lãng du

của mình như Một chuyến đi (1938), Thiếu quê hƣơng (1943), Tùy bút I (1941),

Tùy bút II (1943)…

Là một nhà văn có cá tính mạnh mẽ, phóng túng, trước sự ngột ngạt của xã

hội thực dân nửa phong kiến “ối a ba phèng” đương thời, đi và viết với Nguyễn

Tuân là một sự giải thoát khỏi những bế tắc, chán chường trong cuộc sống. Đó cũng

là phản ứng của chủ nghĩa cá nhân kiêu ngạo ở một thanh niên trí thức giàu sức

sống nhưng không tìm được lối thoát. Hơn nữa, là nhà văn của những tính cách độc

đáo, những cảm giác mãnh liệt, Nguyễn Tuân không thích cái gì bằng phẳng, nhợt

nhạt, khuôn phép, yên ổn, cầu toàn. Với Nguyễn, đi là để “thay đổi thực đơn cho

giác quan”, hồ hưởng cho hết những sinh thú bất thình lình và những cảm xúc

không chờ đợi. Ông thích khám phá những phong cảnh tuyệt mĩ của gió bão, núi

cao, rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội…

Trước Cách mạng, hình tượng những cơn gió được nói đến khá nhiều trong tác

phẩm của Nguyễn Tuân về đề tài xê dịch. Trong tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng, hình

ảnh những cơn gió giục khách lên đường, khích lệ con người sống mạnh mẽ: “Có

những trận gió nó bảo người ta rằng cái lối sống câu dầm là một điều thất sách và

những hy vọng tự chế ra để giữ mình chỉ là một cách chết mòn. Tất cả, hoặc là

không có gì. Gió chỉ thổi một chiều” [34, tr. 423]. Đối với những con người lấy sự

đi lại làm mục đích của cuộc đời như Bạch, Vi, Sương, Hoàng,… thì những cơn gió

có một sức hấp dẫn kì lạ, khó có thể cưỡng lại được “cũng như mùi vị gió lúc này

trên sông mưa, khói tẩu thuốc buổi lữ hành này có một hương vị cuốn rũ” và “thấy

gió đã khởi, người ta liền lên đường”. Gió ở vùng mỏ Vàng Danh bị quẩn trong

vùng thung lũng, xung quanh là những ngọn núi bao vây nên muốn tìm con đường

để thoát, nên nó dữ tợn, phá phách và nổi loạn. Trong cái gió vùng mỏ ấy người ta

nhận ra chính con người “bất đắc chí” của Nguyễn Tuân. Có lúc gió là hình tượng

mà nhà văn gửi gắm tâm trạng cô đơn, buồn nản: “Gió sông rộng có cả sức tò mò

của một trận gió vàng. Mỗi đợt gió lọt vào khoang thuyền là một sự tọc mạch đến

chuyện riêng của lòng. Tôi trằn trọc, thèm muốn một tấm chăn đơn” (Cửa Đại).

Ngay cả những lúc bế tắc nhất, Nguyễn cũng xem gió như một người bạn tri âm,

chia sẻ khỏa lấp nỗi buồn: “Gió biển giục tôi nghĩ đến một việc gì nên làm ngay đi

kẻo lại muộn lỡ mất” (Võng ngô đồng). Gió Vàng Danh kết hợp với thứ gió giang

hồ kêu gọi người ta chống gậy lên đường, tạo thành một hệ thống các hình tượng về

gió trước Cách mạng của Nguyễn Tuân. Nó biểu hiện một trạng thái mất cân bằng,

bế tắc, quẩn quanh, một thái độ phá phách, nổi loạn với cái xã hội “ối a ba phèng”

lúc bấy giờ.

Cùng với hình tượng gió, Nguyễn Tuân cũng hay nói đến những con đường vô

định. Bút kí Một chuyến đi đã ghi lại những hình ảnh và cảm xúc của một kẻ lữ

hành nơi chân trời, góc bể, nơi lạ người lạ cảnh. Đi đã trở thành một lí tưởng, một

triết lí sống của Nguyễn Tuân. Chính vì vậy mà nhà văn nguyện được lăn mãi vỏ

mình trên con đường vô định: “Tôi sống với ngoài đường, với những con người đi

trên đường, với cái luân lí của người khách bộ hành” (Chiếc va li mới). Với

Nguyễn, bất kể là thứ đường gì, xê dịch bằng phương tiện gì, dẫu có phải ngồi trên

một chiếc hồ lô lăn đường cũng là một thứ cứu cánh tốt đẹp cho một tâm hồn cô

đơn, bất lực, quẩn quanh và bế tắc. Trong Thiếu quê hƣơng, nhân vật Bạch chỉ

luôn thèm muốn được đổi chỗ, được rong ruổi trên những con đường dài hun hút,

không có chỗ bắt đầu mà cũng chẳng có điểm kết thúc. Họ tha lê cái đầu rỗng tuếch,

cái thân tàn tạ trên đường đời, cái phẫn uất ngàn năm không gột rửa, chỉ biết lấy xê

dịch làm cứu cánh.

Hình tượng nhân vật hay những hình ảnh trở đi trở lại trong văn Nguyễn Tuân

chính là lăng kính phản ánh chính con người ông. Hình ảnh chàng Nguyễn trước

Cách mạng có phần nào đó sống vô trách nhiệm, kiêu bạc, chán chường, không lối

thoát trước cuộc đời. Tuy nhiên, trong cách phản ứng có phần tiêu cực của người

thanh niên có cá tính mạnh mẽ ấy, ta cũng nhận ra tình yêu đất nước thầm kín, là lời

bày tỏ tấm lòng gắn bó tha thiết với cảnh sắc và phong vị đất nước bằng một ngòi

bút đầy trìu mến, yêu thương và tài hoa, tình yêu của một thế hệ nghệ sĩ sống giữa

quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương. Không chỉ thế, Nguyễn Tuân đã

thực sự sống xê dịch trước khi viết về xê dịch. Những quan niệm về xê dịch của nhà

văn cũng không giống thái độ mục đích du lịch thông thường mà thực sự đã trở

thành một hệ thống tư tưởng, lý thuyết chủ nghĩa độc đáo. Sở thích lãng du, thậm

chí dám vượt biên giới để tìm kiếm và trải nghiệm những cảm giác khác lạ của nhà

văn đã thắp lên ngọn lửa sự sống đang lụi tàn trong tâm hồn không ít thanh niên tâm

huyết với đất nước mà bất lực trước thời cuộc đương thời.

1.2.2. Đề tài viết về vẻ đẹp quá khứ

Chủ nghĩa lãng mạn thường biểu hiện ở sự chối bỏ thực tại, vượt lên thực tại

buồn chán, bế tắc, hoặc hướng về tương lai hay ngoảnh lại quá khứ, hoặc khao khát,

bay bổng với hiện tại được mộng ảo hóa. Trong khi văn học Việt Nam 1930- 1945

phân hóa thành nhiều xu hướng, nhiều dòng văn học với những đề tài, chủ đề khác

nhau thì dòng văn học lãng mạn xuất hiện đề tài viết về quá khứ. Đề tài viết về quá

khứ nằm trong phong trào phục cổ, phong trào suy tôn Khổng giáo và bảo tồn quốc

túy mà Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, các tạp chí Nam phong, Đông Dương tạp

chí và Nhà xuất bản Alechxandre de Rhodes của thực dân Pháp phát động. Trở về

quá khứ cũng là một trong những con đường thoát ly của chủ nghĩa lãng mạn. Bên

cạnh đó, ta thấy lúc này ý thức cá nhân phát triển, các nhà văn, nhà thơ thất vọng

trước cuộc sống hiện tại ngột ngạt, bế tắc nên có xu hướng trở về quá khứ.

Người ta trở về quá khứ với nhiều tâm trạng phức tạp. Huy Thông muốn tìm

trong lịch sử một giấc mộng anh hùng (Hạng Vũ, Kinh Kha). Chế Lan Viên quay về

quá khứ để nhớ tiếc một dân tộc điêu tàn (Trên đƣờng về, Chiến tƣợng). Vũ Đình

Liên trở về xu hướng hoài cổ mong tìm lại chút “hồn xưa” của dân tộc. Thế Lữ đã

mượn lời của con hổ trong vườn Bách Thú để thể hiện sự khác biệt giữa quá khứ và

hiện tại trong bài thơ Nhớ rừng. Huy Cận trở về với nét Đẹp xƣa với chút buồn

man mác. Nguyễn Nhược Pháp tươi tắn và hồn nhiên hướng về Ngày xƣa với bao

huyền thoại đẹp đẽ. Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu- một người luôn nghĩ đến cuộc đời

hiện tại, cũng có lúc chán nản với “cuộc thế ao tù” lại trở về “chiêu hồn sương quá

khứ”. Còn nhà văn Ngô Tất Tố lại trở về quá khứ bằng việc tái hiện chế độ khoa cử

phong kiến qua tiểu thuyết Lều chõng.

Cũng nằm trong khuynh hướng phục cổ, Nguyễn Tuân không giống với các nhà

văn, nhà thơ khác, ông trở về quá khứ theo cách của riêng mình. Nhà văn không tìm

thấy cái đẹp hiện hữu trong cuộc đời, nên đã trở về quá khứ, với cội nguồn dân tộc.

Là nhà văn thuộc khuynh hướng lãng mạn hoài niệm, ông chắt chiu, gạn lọc tất cả

những gì là tinh hoa trong quá khứ để thể hiện trong tác phẩm của mình. Có lẽ, sống

giữa thời cuộc Tây Tàu nhố nhăng, Nguyễn Tuân đã nhận thức được rằng một cá

nhân mình không thể phủ định được thực tại để hướng tới tương lai tốt đẹp, bởi vậy

ông phải vin vào quá khứ vàng son của dân tộc để sống và để nhấm nháp dư vị của

một thời không bao giờ trở lại. Các tác phẩm viết về đề tài quá khứ của Nguyễn

Tuân đăng rải rác trên các tạp chí Tao đàn, Tiểu thuyết thứ bảy, Thanh nghị và hai

tập tùy bút Tùy bút I và Tùy bút II nhưng tập trung đậm nét hơn cả vẫn là trong

tập truyện ngắn Vang bóng một thời- tác phẩm được tặng giải thưởng của Nhà

xuất bản Alechxandre de Rhodes- một nhà xuất bản có khuynh hướng phục cổ của

thực dân Pháp.

Có thể nói trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân dường như cố quên đi

cái hiện thực mà ông đang sống, cái hiện thực mà theo ông đầy những xấu xa, bon

chen, đố kỵ. Ông thực sự say sưa tỉa tót, tô đậm thêm cái nét xưa đã mờ nhạt, nét vẻ

của những ngày đã qua, một thời đã tàn. Nguyễn Tuân cũng hiểu rằng, cái thời đó

đã qua và không bao giờ trở lại nữa, vì vậy ông không khỏi biểu lộ niềm tiếc nuối

của mình. Tuy nhiên, Nguyễn Tuân viết về thời đã qua không phải vì muốn khôi

phục lại thời phong kiến suy tàn mà thực chất là phản ứng của ông trước hiện tại

nhố nhăng mà ông đang sống. Việc làm sống lại cái đẹp xưa, Nguyễn Tuân đã thể

hiện một cách giữ thiên lương, tỏ thái độ bất hợp tác với thực dân, một lòng thiết

tha với những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Giữa làn sóng Âu hóa mạnh

mẽ, thái độ đó của Nguyễn Tuân thật đáng trân trọng.

1.2.3. Đề tài cuộc sống hƣởng lạc

Chủ nghĩa lãng mạn thường thoát ly hiện thực. Họ thoát ly bằng nhiều con

đường khác nhau: trốn vào tình yêu, trốn vào quá khứ và trốn vào trụy lạc để quên

lãng, để tìm những cảm giác lạ. Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, đan xen với chủ

đề giang hồ xê dịch là chủ đề về cuộc sống hưởng lạc. Bản thân cuộc sống giang hồ

phần nào đã gợi lên trong những trang viết của Nguyễn Tuân một cuộc sống phóng

túng, chơi bời ở những tiệm rượu, tiệm hút, nhà chứa, xóm cô đầu. Hai chủ đề này

vì thế có mối quan hệ khăng khít, bổ sung cho nhau.

Trước Nguyễn Tuân, văn học Việt Nam có không ít cây bút đề cập đến đề tài

này. Vũ Trọng Phụng đã phơi bày cuộc sống bỉ ổi, đồi bại của tầng lớp thượng lưu

trong xã hội nhố nhăng trong tiểu thuyết trào phúng Số đỏ (1936). Nguyễn Công

Hoan, Nguyên Hồng… mô tả cuộc sống trụy lạc như một tệ nạn xã hội cần phê

phán. Còn các cây bút văn xuôi lãng mạn như: Nhất Linh, Khái Hưng… đi ra ngoài

quỹ đạo phê phán xã hội khi viết về đề tài này để hướng đến sự đề cao tự do, giải

phóng cá nhân và đề cao giá trị ẩn chứa bên trong những gì bị cho là nhơ nhuốc tận

cùng. Không chỉ trong văn xuôi, thơ ca lãng mạn giai đoạn 1930- 1945 cũng có

nhiều thi sĩ viết về đề tài này. Năm 1939, trong Tinh huyết, Bích Khê có lúc thi vị

hóa và thanh khiết hóa cái đẹp nhục thể (Tranh lõa thể), có lúc diễn tả những cảm

giác điên cuồng, ngất ngư trong khoái lạc. Trong thơ Thế Lữ cũng nói đến “khói

huyền lên” và Lưu Trọng Lư, ngoài Mộng và Tình lại thêm “Quẩy theo với rượu

một vừng giai nhân”. Đến Vũ Hoàng Chương thì rượu, thuốc phiện và gái giang hồ

đã trở thành đề tài thú vị của thi ca! Thơ ông nói nhiều đến cái say: say rượu, say

tình, say nhạc, say thơ. Cái say của Vũ Hoàng Chương là cái say trong bến bờ siêu

thực, nơi mọi ràng buộc của lý trí và hiện thực trơ lì, đen tối không bén mảng đến.

Cái say ấy làm sống dậy bản năng sáng tạo và thiên tính nghệ thuật thi ca vĩnh hằng.

Tất cả những trạng thái say sưa, điên đảo đó là sự nổi loạn của tâm hồn uất ức, chán

ngán với thời cuộc.

Viết về đề tài thuốc phiện, cô đầu, Nguyễn Tuân khác với các nhà văn hiện

thực và có phần đồng cảm với các nhà văn, nhà thơ lãng mạn. Nhưng nếu các nhà

văn, nhà thơ lãng mạn thi vị hóa thú vui hưởng lạc, hoặc thể hiện trạng thái thăng

hoa của cảm xúc để đến gần hơn với thi ca thì Nguyễn Tuân viết về thuốc phiện và

cô đầu như một lời thú tội về quãng đời “phóng túng hình hài”, chơi bời, lêu lổng

của nhà văn. Các tác phẩm: Chiếc lƣ đồng mắt cua, Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn

dầu lạc… là những tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân về đề tài này.

Chiếc lƣ đồng mắt cua (1941) là một tập tùy bút có tiếng vang không kém gì

Vang bóng một thời. Ở đây, sự trụy lạc, sa đọa, muốn được hưởng mọi hương vị,

màu sắc trần thế cùng những thèm khát phi lý, phi đạo đức: “Chỉ thèm chơi… Chơi

cảnh, chơi người. Cảnh bất cứ chỗ nào của thiên nhiên. Người, bất cứ là ai, bất cứ

hạng nào, chơi xong rồi bỏ có định giữ gìn đâu mà phải lựa chọn” không hẳn là

một thái độ sống vị kỷ, vô trách nhiệm, phá phách, thiếu lương tâm. Qua những

biểu hiện bên ngoài, ta nhận ra cái cốt lõi bên trong: tâm trạng khủng hoảng cực độ

của một thanh niên trí thức bất mãn với xã hội, muốn “nổi loạn”, muốn chống đối

nhưng hèn yếu, bất lực vì “Thiếu quê hương”, không có lý tưởng cao đẹp. Nhân vật

Tôi lao mình vào cái trò truy hoan tửu sắc nhằm tiêu sầu, hoang phí thời gian, tự

mình “quấy ngầu ngày tháng của mình lên” để lấp đi cái trống rỗng, nhạt nhẽo, vô

vị của tâm hồn. Nội dung tác phẩm vì thế đậm nét tiêu cực. Nó không ca ngợi cuộc

sống trụy lạc nhưng ở đây tác giả chưa thể hiện một thái độ phê phán nghiêm khắc

lối sống vô trách nhiệm, buông thả theo những ham muốn cá nhân ích kỷ. Điều này

không có nghĩa là tác phẩm hoàn toàn vô giá trị. Bên cạnh mặt trái của cuộc đời lăn

lóc, đàng điếm ô nhục ta vẫn bắt gặp những trang viết toát lên chất khoáng đạt, bay

bổng, trong trẻo của những tâm hồn, những con người tài hoa, tài tử bị xô đẩy vào

con đường cùng nhưng vẫn ý thức được mình, được người. Căm ghét xã hội trưởng

giả, tầng lớp con buôn ngu dốt, bất tài chỉ biết có tiền, họ nâng đỡ, an ủi nhau trên

đôi cánh nghệ thuật, vui với lời ca, điệu hát cho qua ngày đoạn tháng và tẩy rửa vết

nhơ nhớp của hình hài:. “Một giọng hát hay và run run là một bài kệ ngâm lên để

rửa hết tội lỗi trong đời Tâm; trước cái thuần túy của đàn hát, nàng và tôi đang

cùng nói chung một thứ tiếng của tâm hồn” (Chiếc lƣ đồng mắt cua)

Ngoài Chiếc lƣ đồng mắt cua, chủ đề viết về cuộc sống hưởng lạc còn xuyên

suốt hai thiên phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939) và Tàn đèn dầu lạc (1941). Hai

thiên phóng sự này đã miêu tả cụ thể tình cảnh và tâm trạng của những người

nghiện thuốc phiện đến mức không làm chủ được bản thân để rồi rơi vào tình cảnh

khốn cùng, sống cuộc đời cô đơn, buồn tẻ. Tuy vậy, qua các tác phẩm ta vẫn nhận

ra những người này dù có thời sa chân vào cô đầu, thuốc phiện nhưng chưa hoàn

toàn mất hết nhân cách. Bởi lẽ, mỗi khi nhìn lại, họ tự thẹn với mình, đau đớn, xót

xa khi thấy mình trở nên đồi bại.

Có thể nói, viết về đề tài cuộc sống hưởng lạc là một cách để lãng quên hiện

thực đen tối, cũng là để tìm những cảm giác nồng cháy mới lạ của một con người ưa

xê dịch như Nguyễn Tuân. Những tác phẩm của ông ở đề tài này cho thấy sự bế tắc,

chán nản của một thế hệ thanh niên chưa tìm thấy lối thoát cho hiện tại, đằng sau

đó là khao khát đổi thay để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Phải chăng, chính điều này đã

thúc đẩy người nghệ sĩ Nguyễn Tuân sớm đến với Cách mạng và có những tác

phẩm ngợi ca cuộc sống, chiến đấu, lao động của quân và dân trong thời đại mới.

1.3. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân

1.3.1. Quan niệm của Nguyễn Tuân về cái đẹp

Socrate (469?- 399. TCN)- nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh

là bậc thầy về truy vấn, đề cao lí trí và sự thật từng phát biểu quan niệm của mình

về cái đẹp qua mệnh đề: “Tất cả cái đẹp đều phải hợp lý”. Tsecnưsepxki (1828-

1889)- nhà dân chủ cách mạng Nga, người phát ngôn cho quan điểm mỹ học duy

vật trước Mác từng viết: “Cái đẹp là cuộc sống. Một sinh thể đẹp là qua chúng, ta

nhìn thấy cuộc sống hoặc làm cho chúng ta nghĩ đến cuộc sống”. Còn đại văn hào

Nga Phê-đo Mi-khai-lô-vích Đốt-xtôi-ép-xki (1821-1881) trong tiểu thuyết Thằng

ngốc (1868) đã thể hiện quan điểm thẩm mỹ của mình qua một câu nói mang đậm

chất nhân văn “Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Trên tinh thần ấy mà M.Goóc-ki (1868-

1936), nhà văn lớn nước Nga nói: Bẩm sinh con người là một nghệ sĩ. Chỉ có con

người, vị chúa tể của muôn loài mới biết coi cái đẹp là phương tiện, là mục đích

cũng là nội dung của cuộc sống. Như vậy, mỗi người mỗi thời đại và ở những đất

nước khác nhau nhưng tất cả họ gặp nhau ở một điểm là đề cao cái đẹp và cho rằng

cái đẹp phải là cái có ích.

Văn học Việt Nam giai đoạn 1930- 1945 được hiện đại hóa mạnh mẽ. Các

luồng tư tưởng mới từ phương Tây du nhập vào nước ta và ảnh hưởng lớn tới tư

tưởng và quan niệm của các nhà văn, nhà thơ thời kì này. Khái Hưng (1896- 1947)-

một trong những cây bút chủ lực của nhóm Tự Lực Văn Đoàn, đã lặp lại quan niệm

nghệ thuật là vô tư lợi, là không cần phục vụ một mục đích nào cả của Theophile

Gautier (1811- 1872)- một nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, nhà báo và nhà

phê bình văn học người Pháp trong cuốn tiểu thuyết Đẹp (1941). Còn nhà thơ Thế

Lữ tự ví mình như người khách bộ hành phiêu lãng xuôi ngược trần gian để vui chơi

và kiếm tìm vẻ Đẹp trong Cây đàn muôn điệu

...“Tôi chỉ là một khách tình si

Ham vẻ Đẹp có muôn hình, muôn thể”

Như vậy, Khái Hưng, Thế Lữ... đều đề cao cái đẹp gắn với tiềm thức và trực giác,

cái đẹp bản năng.

Là một nhà văn lãng mạn, lại xuất hiện muộn trên văn đàn nửa đầu thế kỷ XX,

Nguyễn Tuân chịu ảnh hưởng của những người đi trước và tư tưởng của những tác

giả, triết gia phương Tây. Bên cạnh đó, ông là người có cá tính mạnh mẽ và ý thức

rõ về cái tôi của mình nên quan niệm về cái đẹp của ông mang tính chủ quan rất rõ.

Với Nguyễn Tuân, cái đẹp chỉ nhằm thỏa mãn, đáp ứng những khoái cảm thẩm mỹ

của cá nhân. Ông thường được biết đến như một nhà văn có quan điểm duy mỹ, chủ

trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Ông chủ trương cái đẹp không có nội dung xã

hội, không có nội dung giai cấp và thời đại. Đối với Nguyễn Tuân, văn chương và

nghệ thuật đứng trên mọi thiện, ác ở đời. Ông tách rời cái đẹp khỏi cái có ích, đề

cao một cái đẹp thuần túy, không vụ lợi. Tư tưởng này được Nguyễn Tuân bộc lộ

qua nhiều tác phẩm trước Cách mạng, mà rõ nhất là Vang bóng một thời, Thiếu

quê hƣơng, Chiếc lƣ đồng mắt cua, Tóc chị Hoài...

Có thể nói, quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân mang màu sắc chủ quan và

có phần cực đoan rất rõ. Ông rất coi trọng cảm giác của con người cá nhân hơn là

lô- gic mỹ học và đạo đức thông thường của cuộc sống. Chủ nghĩa duy mỹ mà ta

quan niệm ở Nguyễn Tuân không phải bộc lộ yếu tố tiêu cực mà theo Lại Nguyên

Ân trong Từ điển thuật ngữ văn học là: “Tinh thần duy mỹ ở Nguyễn Tuân chỉ bộc

lộ ở thời hậu lãng mạn, khi năng lực tự phản xạ vốn có ở chủ nghĩa lãng mạn thời

đầu bị yếu đi; lối miêu tả mang tính trò chơi nghệ thuật đối với thực tại thay cho xu

hướng không tưởng của cách trình bày thực tại theo quan điểm tự do và nhân văn

chủ nghĩa” [2, tr. 97]. Như vậy, quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân đã phần

nào phản ánh ý thức về cái tôi của người nghệ sĩ và hướng tới giá trị nhân văn cao

đẹp.

1.3.2. Quan niệm nghệ thuật

Những năm 1930- 1945 là giai đoạn văn học Việt Nam phát triển rất mạnh và

phân hóa làm nhiều dòng, nhiều xu hướng khác nhau. Ban đầu, dòng văn học lãng

mạn thống trị trên văn đàn, các nhà văn bước vào văn chương đều sáng tác văn học

lãng mạn. Nhưng đến 1936- 1939, văn học hiện thực phát triển mạnh và chiếm ưu

thế trên văn đàn. Trong đời sống văn học lúc này xuất hiện cuộc tranh luận giữa hai

phái “nghệ thuật vị nghệ thuật” (do Hoài Thanh đứng đầu) và “nghệ thuật vị nhân

sinh” (do Hải Triều đứng đầu) kéo dài dai dẳng từ 1935- 1939. Từ sau 1940 trở đi,

đời sống xã hội Việt Nam đầy biến động kéo theo những biến động trong văn học.

Giai đoạn này, văn học lãng mạn đi vào thời kỳ bế tắc và suy thoái. Tiêu biểu là hai

nhà thơ Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương ca ngợi rượu và thuốc phiện. Đây cũng

chính là thời kỳ mà Nguyễn Tuân đến với văn chương nghệ thuật. Nguyễn Tuân đến

với văn chương khi cuộc tranh luận giữa hai trường phái nghệ thuật đã ngã ngũ và

ngả về phía “vị nhân sinh”. Sự xuất hiện của Nguyễn Tuân ở giai đoạn văn học lãng

mạn đang đi vào thoái trào có phần đem đến cho văn chương một sinh khí mới

nhưng cũng không phủ nhận ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn thời kỳ

khủng hoảng. Điều này thể hiện ở việc chọn quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật làm

quan điểm sáng tác. Nếu Nam Cao quan niệm: “Nghệ thuật không thể là ánh trăng

lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối. Nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau

khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than” (Trăng sáng) thì Nguyễn Tuân có nhiều

điểm gặp gỡ với Thạch Lam và các nhà văn Tự Lực Văn Đoàn khi quan niệm: Văn

chương là văn chương, văn chương chỉ vì nghệ thuật, vì cái Đẹp mà thôi. Đó là

nghề viết, trong sự tận tụy hết mình, dốc cạn mình - để đến với cái đẹp, đúng như

một quan niệm văn chương của Hoài Thanh: “Tìm cái đẹp trong tự nhiên là nghệ

thuật. Tìm cái đẹp trong nghệ thuật là phê bình” (Tiểu thuyết thứ bảy, số 35,

26/1/1935). Dĩ nhiên đây là cái đẹp trong quan niệm của mỹ học, chứ không phải ở

bất cứ lĩnh vực nào khác, như chính trị, hoặc luân lý, đạo đức; và dĩ nhiên là muốn

tới cái đẹp thì phải loại bỏ cái xấu, cũng như cái ác, cái bất lương; và với Nguyễn

Tuân trước 1945 thì đó là bọn người bất tài, mà hợm hĩnh về tiền của, quyền lực; là

đám “con buôn quen sống với đủ thứ hàng họ và buôn Tần, bán Sở”. Nguyễn Tuân

căm ghét bọn người này, coi họ là những kẻ “ngồi xổm lên nghệ thuật”. Ông lên án

“những cuộc tàn sát thi ca của những ông lãnh binh sính làm thơ”. Ông cũng thất

vọng bao nhiêu khi một người bạn tri kỷ của mình trước đây say mê văn chương là

thế, mỗi lần nhìn mưa rơi lại “buồn rúm cả người, tưởng chết ngay được dưới cuốn

sách mở” [34, tr. 506]. Thế rồi con người mơ mộng ấy đã bị cuốn vào guồng quay

tiền bạc để thấy mỗi lần mưa là lại mừng ra mặt vì đó là cơ hội đánh hàng không bị

phát hiện. Mưa bây giờ không phải là của riêng tứ thơ nữa mà mưa lại ra tiền.

Nguyễn Tuân là nhà văn chú trọng vào những sự trải nghiệm chủ quan của

bản thân. Ở ông luôn có cuộc đấu tranh thầm lặng trong nội tâm để chống lại sự vô

nghĩa của cuộc sống và việc sử dụng sự giải trí để tránh khỏi nỗi buồn chán, thất

vọng. Khi phải lựa chọn giữa trách nhiệm xã hội với tự do của bản thân, ông thiên

về sự lựa chọn tự do cá nhân với ý thức về giá trị tồn tại thực sự của con người.

Điều này, thể hiện qua thế giới nhân vật trong những sáng tác của Nguyễn trước

Cách mạng. Đó là những người nghệ sĩ tài hoa, tài tử hay những con người thích

cuộc sống giang hồ, xê dịch.

Nguyễn Tuân tán thành chủ trương nghệ thuật đứng lên trên mọi mối quan hệ

hiện thực, dẫn đến tách rời nghệ thuật khỏi ngọn nguồn của nó là cuộc sống và lao

động. Nghệ thuật biến thành nơi tái hiện những cảm giác chủ quan của nhà nghệ sĩ

và tạo nên những vẻ đẹp thuần túy không có gốc rễ ở cuộc đời. Chìm sâu vào quan

điểm duy tâm siêu hình cho rằng nghệ thuật vượt ra khỏi sự chi phối của chính trị,

của cuộc đấu tranh giai cấp Nguyễn đã cổ vũ cho nó rất nhiệt thành: “Mỹ thuật vốn

không là bà con với luân lý của thời đại. Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô

cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh” (Chuyến xe tình). Với phát biểu

này, Nguyễn phủ nhận yếu tố đạo đức, luân lý có trong nghệ thuật. Ông cho nghệ

thuật là sản phẩm của sự thôi thúc nội tâm và có một giá trị tự thân, vô tư lợi, mục

đích cao quý nhất của nghệ thuật nằm ngay trong bản thân nó, đó là cái đẹp. Cái đẹp

ấy, đối với Nguyễn nhiều khi gọi trọn trong một mớ tóc mây óng ả, buông dài và

được phóng to lên thành khả năng cảm thụ thẩm mỹ rất chủ quan, phiến diện: “Cái

người nào trong suốt một đời người mà không được ngắm một mớ tóc cho tử tế, thì

cái thẩm mỹ quan của người ấy còn lung lay lắm, chưa lấy gì làm định” (Tóc chị

Hoài). Do đó, quan điểm duy mỹ và chủ nghĩa hình thức chiếm ưu thế trong ý thức

nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Nhìn chung thì như vậy nhưng đi vào cụ thể, một số

tác phẩm như Cửa Đại, Thiếu quê hƣơng... vẫn mang hơi thở của hiện thực, một

hiện thực u uất, tù túng, xám xịt không khác gì địa ngục ở khu mỏ Vàng Danh,

Uông Bí. Nhưng hiện thực ở đây được nhìn nhận với lời lẽ bi quan: “Cảnh ở đây thì

đen và lòng người thì bạo. Tro muội ở trong lòng người cũng nhiều như tro muội

ngoài trời” [34, tr. 433]. Điều này phản ánh sự mâu thuẫn trong ý thức nghệ thuật

của Nguyễn Tuân. Ông muốn thoát ly hiện thực, nương náu trong nghệ thuật thuần

túy nhưng không sao dứt khỏi tơ vương với cuộc đời. Điều này làm cho văn chương

của Nguyễn Tuân tuy xa rời hiện thực nhưng vẫn toát lên giá trị nhân bản sâu sắc.

Tính phức tạp, đầy mâu thuẫn trong quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân

còn thể hiện ở khuynh hướng thoát ly hiện thực để trốn vào quá khứ của một thời

vàng son đã qua hay giang hồ xê dịch để “thay đổi thực đơn cho giác quan”.

Nhưng quá khứ qua đi không bao giờ trở lại dẫu lòng người luôn hoài tưởng, xê

dịch mãi cũng có lúc phải dừng chân, Nguyễn Tuân lại trốn vào cuộc sống ăn chơi,

hưởng lạc với bàn đèn thuốc phiện và cô đầu. Các khuynh hướng này in đậm dấu ấn

qua một loạt các tác phẩm: Một chuyến đi, Tùy bút I và II, Thiếu quê hƣơng,

Vang bóng một thời, Chiếc lƣ đồng mắt cua, Tàn đèn dầu lạc...

Có thể giải thích những mâu thuẫn, phức tạp trong thế giới quan và quan điểm

nghệ thuật của Nguyễn Tuân là xuất phát từ mối bất hòa sâu sắc giữa một cái Tôi-

nghệ sĩ với hoàn cảnh xã hội cũ. Người nghệ sĩ vốn thích cuộc sống tự do, phóng

túng khó gò mình vào khuôn khổ của chế độ thuộc địa ngột ngạt. Tuy nhiên, ông

không thể làm gì trước bộ máy cai trị hà khắc của thực dân, vì thế viết văn và thể

hiện quan niệm nghệ thuật riêng của mình trong văn chương chính là một cách phản

đối của ông với xã hội đương thời.

Một lí do nữa là sự mâu thuẫn giằng xé giữa lòng yêu nước, tinh thần dân tộc,

thể hiện khuynh hướng phê phán xã hội thực dân phong kiến và chủ nghĩa cá nhân

cực đoan, hưởng lạc mà ông chịu ảnh hưởng của các nhà văn phương Tây. Sự mâu

thuẫn giữa con người bổn phận, trách nhiệm của nền giáo dục Nho giáo và Hán học

mà ông thấm nhuần từ nhỏ với con người cá nhân được giải phóng khỏi mọi ràng

buộc với đời mà ông sớm chịu ảnh hưởng từ văn học phương Tây qua Andre Gide,

triết học của Niezsche. Trong ông còn lưu lại chút lòng tự trọng, tự thẹn của người

Việt Nam mất nước muốn giữ gìn, lưu tồn và phát triển giá trị văn hóa tinh thần của

dân tộc chống lại làn gió mưa Âu gió Mỹ từ phương Tây. Và cách xây dựng những

nhân vật tài hoa nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình phải chăng cũng là cách thể hiện

niềm tự hào về con người Việt Nam. Chính điều này đã là sợi dây bền vững kéo

Nguyễn Tuân ra khỏi chủ nghĩa cá nhân ích kỷ và xu hướng văn học tiêu cực, suy

đồi để rồi ta nhận ra bao vẻ đẹp của người, của cảnh, của ngôn ngữ văn chương

trong từng trang văn của ông.

1.3.3. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời

Quan niệm nghệ thuật về con người là một trong những phạm trù quan trọng

nhất của thi pháp học. Vì vậy thi pháp học đưa ra khái niệm: “Quan niệm nghệ

thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con người đã được hóa thân

thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo

nên giá trị thẩm mỹ cho các hình tượng trong đó” [28, tr. 59]. Mỗi nhà văn có quan

niệm nghệ thuật riêng vì vậy hình tượng nghệ thuật (nhân vật- con người) xuất hiện

trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm của tác giả. Con người trong văn

học thực chất là sự cắt nghĩa và quan niệm về con người được thể hiện bằng hình

tượng nghệ thuật, trong cách miêu tả con người, trong các hệ thống, các hình ảnh

tượng trưng, các nguyên tắc miêu tả tính cách, tâm lý... Nhà văn sáng tạo ra nhân

vật bao giờ cũng theo những cách hình dung, cũng như cách cảm nhận của riêng

mình. Bởi trong nghệ thuật, sự miêu tả bao giờ cũng nhằm hai mục đích. Thứ nhất,

gợi ra khách thể, sự vật được hiện diện trước mắt; thứ hai, gợi ra chủ thể, sự cảm

thụ, cách nhìn chủ quan với chúng. Như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận

định: “Chính phương diện cảm thụ này (tức là bản thân nhà văn), cách nhìn này là

quan niệm nghệ thuật về con người đối với nhân vật, mà muốn cảm thụ nhân vật

một cách chỉnh thể, toàn vẹn thì không thể bỏ qua được” [28, tr. 60]. Quan niệm

nghệ thuật đang được nói đến ở đây thuộc phạm vi ý thức và nó gắn liền với ý thức

về chức năng, nhiệm vụ, khả năng của văn học. Để hiểu một tác phẩm, một tác giả,

một trào lưu, một giai đoạn văn học, không thể không xem xét đến quan niệm nghệ

thuật về con người. Hiểu được nguyên tắc cắt nghĩa và cảm nhận con người, sẽ hiểu

được vai trò sáng tạo của nhà văn trong việc thâm nhập và chiếm lĩnh đời sống.

Tiếp cận con người ở phương diện thẩm mĩ, các nhân vật của Nguyễn Tuân đều

là những con người tài hoa nghệ sĩ trong lĩnh vực của mình. Nếu Nguyễn Minh

Châu trong cuộc đời sáng tác của mình cố đi tìm những hạt ngọc ẩn giấu trong mỗi

người thì Nguyễn Tuân cũng vậy, qua từng trang viết của mình, ông cố gắng đi tìm

chất tài hoa nghệ sĩ trong mỗi con người mà mình miêu tả. Kiểu nhân vật tài hoa

nghệ sĩ được tập trung chủ yếu trong tập Vang bóng một thời và một số truyện

ngắn được sáng tác trước đó.

Tiếp cận con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ nên tiêu chí để phân biệt

nhân vật của Nguyễn Tuân cũng là tiêu chí thẩm mỹ. Điều này khiến Nguyễn Tuân

khác hẳn với các nhà văn cùng thời như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nam Cao

vì cơ bản họ là những nhà văn hiện thực. Các nhà văn hiện thực thường đứng trên

quan điểm đạo đức xã hội để phê phán cái xấu. Còn Nguyễn Tuân về cơ bản là một

nhà văn lãng mạn, ông đứng trên quan điểm cái đẹp để phê phán xã hội. Vì vậy lớp

nhân vật tài hoa nghệ sĩ trong các tác phẩm của ông đều được lí tưởng hóa đến mức

cao độ. Với những con người này, Nguyễn Tuân viết về họ với tất cả niềm say mê

và ngưỡng mộ dù đó là những kẻ chuyên nghề cờ bạc, phường trộm cướp, những

tên đao phủ hay những bọn thực dân, tay sai... Ông nhìn nhận họ ở cái tài và

phương diện của cái đẹp nên hễ họ có cử chỉ, hành động đẹp đối với nhà văn đều

đáng được đề cao. Đó là nhân vật Phó Sứ trong Thả thơ, “đáng mặt làm nhà cái

cho những buổi thả thơ rất nên thơ”, là cụ Phủ “một người mà học lực và chính tích

chấp cả bạn đồng liêu một thời” (Đánh thơ). Ông ca ngợi cái đẹp của một thằng ăn

cắp: “Một thằng ăn cắp đã trở nên đẹp đẽ vô cùng khi hắn cắt túi người ta rất gọn

và rất nhanh” (Chuyến xe tình). Hay viên quan Công Sứ Trung Bắc lưỡng kỳ kiêm

chủ đồn điền cà phê vùng Hoài Hoan người Tây tên là Rê-Bit-Xê (với cái tên đã

được đông phương hóa là Lê Bích Xa)- một người say mê những bức tranh cổ họa

Tàu tới mức dồn hết cả tiền thu về rất nhiều sau mỗi vụ cà phê để đi mua tranh, với

mục đích cuối cùng là mở được một bảo tàng tranh họa Trung Hoa (Lửa nến trong

tranh). Ông miêu tả Bát Lê với lối Chém treo ngành rất nhanh, rất ngọt hay ngón

đòn “ném bút chì” chuẩn xác của Những kẻ bất đắc chí như những nghệ sĩ tài hoa

trong nghề đao phủ, trộm cướp. Đặc biệt trong thế giới của Vang bóng một thời ta

thấy hiện lên nhân vật Huấn Cao- một người nghệ sĩ tài hoa đồng thời là một trang

anh hùng dũng liệt có khí phách hiên ngang và cái tâm hơn người. Ông hiện lên như

một người có tài năng phi thường ở lĩnh vực thi pháp và cũng là người có tài bẻ

khóa và vượt ngục, nhưng hơn hết Huấn Cao là một bậc trượng phu “phú quý bất

năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Nguyễn Tuân xây dựng

những nhân vật tài hoa xuất chúng để đối lập với những kẻ phàm tục, thô lỗ, phản

thẩm mĩ. Đó là đám viên chức, thị dân tỉnh lị không biết xấu hổ về sự sống tầm

thường tẻ nhạt của mình lại còn lấy làm “hả hê với số phận” (Đôi tri kỷ gƣợng)

hay những ông chánh sứ thích làm thơ và “chạy tuột vào nghệ thuật, ngồi xổm lên

cái đẹp Nguyễn Tuân xây dựng những nhân vật tài hoa xuất chúng để đối lập với

những kẻ phàm tục, thô lỗ, phản thẩm mĩ.

Tiểu kết chƣơng 1: Qua chương này chúng tôi tiến hành tìm hiểu hành trình

sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, các đề tài chính và quan điểm nghệ

thuật chi phối sáng tác của ông, đặc biệt là những yếu tố tác động, ảnh hưởng đến

các sáng tác về đề tài quá khứ. Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ không ngừng khám phá

bản thân và có sức sáng tạo dồi dào. Ông đã để lại cho nền văn học một di sản văn

chương đáng quý, một phong cách nghệ thuật độc đáo. Là một nhà văn lãng mạn,

chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây nên ý thức về cái tôi của Nguyễn Tuân rất

mạnh mẽ. Sống vào thời buổi Tây Tàu nhố nhăng, cái tôi ấy bị bủa vây bởi một môi

trường xã hội quẩn đọng, buồn tẻ, sống giữa quê hương mà luôn thấy thiếu quê

hương, ông tìm đến xê dịch để giải tỏa tâm hồn. Trên đường giang hồ, xê dịch, ông

đã từng lăn lộn với đời sống trụy lạc ở những tiệm hút, nhà chứa, xóm cô đầu. Thực

tế ấy đã đi vào những sáng tác của ông ở đề tài xê dịch và đề tài về cuộc sống

hưởng lạc. Xê dịch hay hưởng lạc vẫn không giúp Nguyễn Tuân thoát khỏi nỗi cô

đơn, trống trải, những dằn vặt đau đớn trong tâm hồn của một trí thức có nhân cách,

ông tìm về thời quá khứ vàng son như một hướng thoát li, giải thoát khỏi những bế

tắc của hiện tại. Trở về quá khứ, Nguyễn Tuân được sống lại một thời đẹp đẽ đã qua

nay chỉ còn vang bóng với những con người tài hoa, cao thượng cùng với những thú

vui chơi tao nhã di dưỡng tinh thần cho con người trong thời buổi lẫn lộn. Những

trang viết của ông cho dù về đề tài nào cũng luôn luôn thể hiện một quan niệm nghệ

thuật nhất quán: đề cao cái đẹp. Viết về vẻ đẹp cuộc sống trong quá khứ chính là

biểu hiện của một tấm lòng thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân

tộc, bộc lộ lòng yêu nước kín đáo của Nguyễn Tuân. Qua những trang văn của ông,

người đọc được sống với một thời đã qua để thêm yêu mến, tự hào về vẻ đẹp truyền

thống dân tộc. Vang bóng một thời trở thành bức thông điệp từ quá khứ giúp con

người hôm nay biết trân trọng, nâng niu, giữ gìn những giá trị tốt đẹp đã làm nên

hồn cốt dân tộc trong chiều dài lịch sử.

CHƢƠNG 2

BỨC TRANH THIÊN NHIÊN, CON NGƢỜI VÀ CUỘC SỐNG

2.1. Lí tƣởng hóa cuộc sống quá khứ

2.1.1. Giới thuyết vấn đề

Theo Từ điển tiếng Việt, “lý tưởng hóa” là “tôn lên đến mức thành lý tưởng”.

Còn Lại Nguyên Ân giải thích trong thuật ngữ “Lý tưởng hóa” là: “Một trong

những kiểu khái quát hóa nghệ thuật, nhấn mạnh đến mức tối đa các giá trị tích cực

hoặc các mặt tiêu cực của thực tại; lý tưởng hóa thiên về việc đề cao các đối tượng

tích cực, trình bày nó một cách phấn hứng, đề nó lên thành mẫu mực, thành lý

tưởng, gán cho nó một diện mạo hoàn thiện (…). Mặt khác, do chỗ lý tưởng hóa là

kết quả của ý đồ làm cho các hình thức và giá trị đáng mong muốn trở nên năng

động trong ý thức xã hội, vì vậy lý tưởng hóa bộc lộ những khả năng tiềm tàng của

con người trong việc dự cảm hoặc thúc đẩy những biến đổi xã hội; khi đó nghệ

thuật hướng tới cái cần có trong thực tại hơn là cái vốn có trong thực tại…” [2,

tr.195]. Như vậy, khi nói Nguyễn Tuân lý tưởng hóa cuộc sống quá khứ tức là trong

những trang viết của mình, ông đặc biệt đề cao, tôn vinh vẻ đẹp của cuộc sống trong

quá khứ như là một cách phủ nhận xã hội ô trọc đương thời, đưa ra một hình mẫu

chuẩn mà hiện tại cần phải có.

Chủ nghĩa lãng mạn thường có xu hướng thoát ly thực tại để hướng về quá

khứ hay ước vọng ở tương lai. Không gian tồn tại của con người, không gian cả tinh

thần lẫn vật chất đều chia làm ba miền: quá khứ, hiện tại và tương lai. Quá khứ là

miền thật, tương lai là miền ảo, miền tưởng tượng, còn hiện tại là ranh giới của hai

miền vừa nói. Đấy là cấu trúc của không gian sống của con người. Mọi thành tựu có

thật của con người đều nằm ở quá khứ, vậy hiện tại là một vùng đất mà con người

nhìn vào quá khứ để phóng tác, để kéo dài, để chuẩn bị cho tương lai của mình. Hay

nói cách khác, đối với tương lai thì quá khứ là miền nguyên liệu. Không có sáng tạo

nào không lấy nguyên liệu từ quá khứ. Phong trào văn hóa Phục Hưng diễn ra ở các

nước Tây Âu thời hậu kỳ Trung đại (thế kỷ XIV- XVII) với những thành tựu lớn lao

và tỏa ánh hào quang suốt nhiều thế kỷ cũng xuất phát từ việc làm sống lại những

giá trị văn hóa xán lạn của Hy Lạp và La Mã cổ đại. Phục cổ, hay hoài cổ tức là con

người yêu cuộc sống cũ của mình, yêu lịch sử của mình, yêu ấn tượng cũ của mình.

Cái gọi là chủ nghĩa hoài cổ ấy cũng là một sản phẩm tinh thần của con người, họ đi

tìm lại chính họ, họ đi tìm lại vẻ đẹp họ trót bỏ quên trong quá khứ. Nói như nhà

nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt: “Người ta hoài cổ không phải để nhặt lại cái vô lý

của quá khứ, mà nhặt lại cái hợp lý của quá khứ” [4].

Xét về mặt triết học, khôi phục những giá trị trong quá khứ là một tất yếu,

xét về mặt phát triển, nó là một khuynh hướng. Nguyễn Tuân đến với văn chương

giữa lúc thực dân Pháp đang dấy lên phong tào phục cổ nhằm lôi cuốn trí thức văn

nghệ sĩ vào con đường thoát ly thực tế đấu tranh cách mạng. Chủ nghĩa phục cổ kêu

gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, với những giá trị tinh thần và tôn ti trật tự

của giáo lý Khổng Mạnh, với những hủ tục ở chốn hương thôn, với quan trường và

đại gia đình phong kiến. Khuynh hướng phục cổ xuất hiện trong sáng tác của nhiều

nhà văn, nhà thơ như: Thế Lữ, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên, Ngô Tất Tố,

Trần Trọng Kim…Khuynh hướng này được chính quyền thực dân Pháp ủng hộ,

được ông chủ tờ báo Nam Phong là Phạm Quỳnh và Trương Văn Vĩnh ra sức hô

hào, cổ vũ. Nhà xuất bản Alechxandre de Rodhe đã trao giải cho các tác phẩm xuất

sắc về đề tài phục cổ, trong đó có tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân.

Thiên chức của người nghệ sĩ là phát hiện cái đẹp tiềm ẩn trong cuộc sống và

tôn vinh nó. Là một nghệ sĩ với đúng nghĩa của từ này, Nguyễn Tuân khao khát đi

tìm cái đẹp nhưng xã hội mà ông đang sống là một xã hội thực dân nửa phong kiến

Tây Tàu nhố nhăng, thật giả lẫn lộn. Thất vọng với hiện tại, Nguyễn Tuân quay trở

về với cái đẹp trong quá khứ của một thời còn vang bóng hay tìm cái đẹp trên bước

đường giang hồ, xê dịch. Lý do khiến Nguyễn Tuân phải đi tìm cái đẹp trong quá

khứ hay trong cuộc đời xê dịch theo Nguyễn Đình Thi là vì: “Trong cuộc đời ông

sống trước Cách mạng, cái đẹp và cái thật không bao giờ khớp được với nhau mà

thường trái lại” [25, tr. 533]. Bởi vậy, thân xác ở hiện tại nhưng tâm hồn ông lại

hướng về quá khứ vàng son. Việc quay lưng với hiện tại, tìm về vẻ đẹp lấp lánh của

cuộc sống quá khứ là cách bày tỏ thái độ phủ định của ông với xã hội thực tại. Trở

về quá khứ qua những trang văn, đó cũng là cách ông giải tỏa nỗi buồn, cô đơn của

một cái tôi cá nhân có cá tính mạnh mẽ.

Viết về quá khứ cũng là một cách Nguyễn Tuân thể hiện quan niệm nghệ thuật

vị nghệ thuật, đề cao cái đẹp lên trên hết. Các nhà văn của nhóm Tự Lực Văn Đoàn

viết về xã hội phong kiến xưa nhằm phê phán những hủ tục, những mặt xấu xa, lạc

hậu, kìm hãm hạnh phúc và tự do của con người. Ngô Tất Tố viết về khoa cử thời

phong kiến với thái độ phê phán trong Lều chõng, hay phê phán những tục lệ hà

khắc, cổ hủ của bọn thống trị phong kiến qua phóng sự Tập án cái đình. Còn

Nguyễn Tuân viết avề thời phong kiến với tất cả vẻ đẹp văn hiến, nho nhã, mực

thước. Tiếp cận đời sống ở phương diện cái đẹp, nên Nguyễn Tuân đề cao tất cả

những gì đẹp đẽ của đời sống: lối sống đẹp, uống đẹp, chơi đẹp… bất kể chủ nhân

của cái đẹp đó thuộc giai tầng nào trong xã hội. Ông lên án bọn người xấu xa vì

chúng không biết trân trọng, nâng niu cái đẹp chứ không phải vì chúng áp bức bóc

lột nhân dân. Ông đứng trên quan điểm thẩm mỹ để phê phán chứ không phải đứng

trên lập trường giai cấp như nhiều nhà văn hiện thực cùng thời khác.

Như vậy, vẻ đẹp quá khứ trong những sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách

mạng mang tính lý tưởng hóa. Đó là ưu điểm, mà cũng là mặt hạn chế xuất phát từ

chính quan điểm nghệ thuật của nhà văn.

2.1.2. Vẻ đẹp của những bức tranh thiên nhiên

Nguyễn Tuân là người suốt đời săn tìm cái đẹp. Trên bước đường xê dịch và

trong bước đường sáng tác, ông luôn làm công việc của người đãi cát tìm vàng là đi

tìm cái đẹp trong cuộc sống, trong con người và cảnh sắc thiên nhiên để phô bày nó

trên trang văn của mình. Nghệ sĩ vốn là những người luôn nhạy cảm với cái đẹp của

thiên nhiên, tạo vật. Trong muôn vàn vẻ đẹp của thiên nhiên, ta phải kể đến hình

ảnh vầng trăng. Trong Vang bóng một thời, hình ảnh ánh trăng luôn gắn liền với

vẻ đẹp của thi ca hay những thú vui tao nhã của những nhà nho tài tử. Có lẽ, trong ý

thức của chúng ta về nền thi ca, nghệ thuật phương Đông thời cổ, hình ảnh ánh

trăng luôn là người bạn muôn đời của những tao nhân mặc khách. Bởi vậy, khi tái

hiện hình ảnh ánh trăng trong những áng văn chương viết về vẻ đẹp của thời quá

vãng, Nguyễn Tuân đã gắn cho nó vẻ đẹp thật tao nhã. Đó là vầng trăng trên sông

trong cuộc Thả thơ của cha con cụ Nghè Móm: “Vừng trăng mười bốn lúc chếch về

đoài đã in một cục bóng thẫm và dài lên mặt con sông trắng và lạnh như thỏi thiếc

vừa nguội” [4, tr. 48]. Nghệ thuật so sánh làm cho ánh trăng hiện lên với hình khối rõ

nét như một bức tranh được vẽ bởi chất liệu ngôn từ. Hình ảnh vầng trăng trên sông

tỏa lan cùng tiếng ngâm thơ làm thành một sân khấu có sự hòa phối của âm thanh và

ánh sáng đong đầy cảm xúc trong lòng người. Cái sân khấu trên mặt nước đầy hữu

tình ấy ta bắt gặp trở lại trong truyện Đánh thơ: “… dưới chân một nếp hoàng thành,

bên bờ một con sông nước không bao giờ có sóng, mỗi ngày vẫn có ba người đàn bà

ca hát từ lúc mặt trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc. Tiếng đàn hát trên mặt nước một

con sông nông lòng và không gợn chút tăm cá, đã vẳng đưa ra rất rộng” [37, tr. 51].

Mặc cho những giọt lệ của người già rơi xuống thấm vào cát nơi bãi sông, cái còn lại

mãi với dòng Hương giang vẫn là tiếng hát của giai nhân- điều làm nên nét đẹp và

thơ của xứ Huế. Hình ảnh vầng trăng có hai cái sừng nhọn được nhìn qua tâm hồn

ngây thơ, thơ mộng của một đứa trẻ sớm bộc lộ nét tài tử trong Một cảnh thu muộn

mang trong nó cả một triết lí sâu sắc về nhân sinh. Cái đẹp của vầng trăng khuyết

luôn hấp dẫn con người bởi sự chờ đợi, trông ngóng một ngày kia sẽ tròn đầy, khi

trăng kết thành một khối viên mãn cũng là lúc nó mất đi vẻ đẹp. Trông trăng mà biết

thời gian trôi: “Hai cái sừng trăng đã nở to, đã đầy dần. Rồi vừng trăng tròn vẽ lên

trời, lần thì cái quầng, lần thì cái tán. Thế rồi nó khuyết ở đầu ngọn tre, những lúc

gió sớm giục canh gà gọi nước bể dâng lên” (Ngôi mả cũ).

Không chỉ có trăng, hình ảnh bóng nắng trong truyện của Nguyễn Tuân cũng

đầy ẩn ý. Ông miêu tả cảnh lão bộc nhà cụ Sáu gánh nước chùa Đồi Mai về nhà

trong một buổi trưa hè với những nét bút giàu chất hội họa, nhuốm màu cổ tích thần

tiên: “Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của

tên lão bộc đánh rỏ xuống mặt đường những hình sao ướt và thẫm màu. Những

hình sao ướt nối nhau trên một quãng đường dài và ngoằn ngoèo như lối đi của loài

rắn. Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng dãi lạnh lùng và ví cổng chùa

Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị của một cuộc

đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động”

[37, tr. 27]. Và khi đứng trong cổng chùa cao nhìn xuống cảnh “Ánh nắng già dặn

buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc

từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vờn qua những màu xanh bóng loáng của

một dãy xóm làng cây cối im lìm” [37, tr. 28], sư cụ chùa Đồi Mai gửi vào đó nỗi

niềm tiếc thương cho một kiếp chúng sinh vướng phải vòng nghiệp chướng. Cái

nắng tháng tư đổ xuống giàn bầu nậm xanh rờn hắt lên màu áo trắng của cậu Chiêu

trong truyện Ngôi mả cũ gợi lên cả một trường liên tưởng thú vị: “một áo lụa áo

lụa màu xanh của người công tử phong lưu và đa tình; đấy là cái màu dịu mắt của

chất ngọc bích; đấy là cái thứ áo xanh của ông quan tư mã đất Giang Châu dùng

lau nước mắt khi thương đến một người con hát giữ một khoang thuyền trống trải

trôi trong đám lau sậy ven sông; đó là màu xanh của những cánh đồng lúa non ngút

ngàn của những xứ yên ổn không bao giờ có nạn binh lửa” [37, tr. 74]. Hình ảnh

thiên nhiên và con người hòa sắc vào nhau làm nên vẻ đẹp lãng mạn, giàu chất thơ.

Có lúc, thiên nhiên còn được Nguyễn Tuân nhân hóa như mang cả tâm tính của con

người. Hình ảnh “gió nồm thổi mạnh, nhiều cơn, đã đem cả mảnh bụi trần kia vào

lọt cổng ngôi chùa cao ráo” gợi một cái gì thanh cao đã có chút nhuốm bụi trần ai.

Gió cũng biết trêu ngươi cụ Kép làng Mọc khi mặc quá trịnh trọng để tiếp loài hoa

cỏ, và như để thử thách lòng kiên nhẫn của ông già nguyện đem cái quãng đời xế

chiều của mình phụng sự cho lũ hoa thơm cỏ quý. Hình ảnh mùa mưa dầm tháng

chín trong truyện Báo oán vừa tả thật cảnh vùng quê chiêm trũng, vừa gợi nỗi ai

oán, buồn thương: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt triền miên

than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ” [37, tr. 155].

Không chỉ vẽ lên bức tranh thiên nhiên mang vẻ đẹp của cuộc sống đời

thường, Nguyễn Tuân còn dựng lên bức tranh thiên nhiên đậm chất thần tiên, hư ảo

qua truyện ngắn Trên đỉnh non Tản. Đó là cảnh vách đá, núi non kì vĩ, dữ dội như

cái nước non xứ Ba Thục vô cùng lợi hại cho người làm tướng biết dùng binh hiện

lên qua ánh mắt của ông phó Sần. Hay cảnh cây cối, chim chóc trên đỉnh non Tản

hiện ra như một khu vườn cổ tích, thần tiên: “Loài cây ăn quả, nhiều nhất hai bên

suối là một giống hồ đào, trông như quả roi dưới ta. Giống đào rợ Hồ màu vàng

huỳnh và xanh hay chính, trái nào cũng có má hồng”, “Trái đào rợ Hồ, nhân hột có

dáng đứa hài nhi bó gối gục đầu ngủ quên. Rớt xuống thảm cỏ, hột hồ đào hóa

thành luống cúc tần có bảy lá mốc (..) Chim ngàn giật mình, bay bổng” [37, tr.

200]. Phải là một người có nhiều trải nghiệm và có trí tưởng tượng phong phú mới

tạo dựng được những cảnh sắc như thế.

Nếu cảnh sắc thiên nhiên trong những tác phẩm về đề tài xê dịch như Thiếu

quê hƣơng, Cửa Đại, Chiếc va li mới thường được Nguyễn Tuân miêu tả với vẻ

dữ dội, gay gắt, hoành tráng thì những bức tranh thiên nhiên trong những tác phẩm

về đề tài quá khứ được miêu tả thật bình dị, xinh xắn nhưng thơ mộng, lãng mạn, có

hồn. Vẻ đẹp thiên nhiên đã góp phần tái hiện một không gian bình yên, thơ mộng

của một thời chưa xa làm nền cho cuộc sống sinh hoạt của con người.

2.1.3. Vẻ đẹp thể hiện trong lối sống sinh hoạt

2.1.3.1. Nghệ thuật ẩm thực

Đề tài ẩm thực trong văn chương cổ nước ta không nhiều. Các nhà Nho quan

niệm “quân tử ăn không cầu no”, họ xem nhẹ cái ăn cái uống. Vì thế mà trong văn

học trung đại, đề tài này ít khi được nói tới. Nó chỉ được Lê Hữu Trác nhắc tới

thoáng qua trong Thƣợng kinh ký sự nhằm phơi bày cuộc sống xa hoa của nhà

Chúa. Phạm Đình Hổ cũng ghi lại “những điều trông thấy” về xã hội thời ông đang

sống, trong đó có nhắc tới những thú ăn chơi phong lưu, đài các của tầng lớp

thượng lưu như thú uống trà, chơi hoa lan… trong Vũ Trung tùy bút.

Trong văn học Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, ta thấy nhiều nhà văn

viết về miếng ăn trong sáng tác của mình như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ

Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Thạch Lam v.v…

Trong khi các nhà văn hiện thực chủ yếu viết về miếng ăn của dân nghèo bằng

những trang văn đầy xót xa, cay đắng, “miếng ăn là miếng nhục” thì Nguyễn Tuân,

Thạch Lam đã thi vị hóa, lãng mạn hóa miếng ăn, nâng nó lên ở một cấp độ khác,

trang trọng và thành kính như một thứ tôn giáo: “ăn uống cũng phải có đầy đủ phép

tắc, nghi lễ”. Còn Nguyễn Tuân, bên cạnh việc tiếp cận ăn uống ở góc độ thẩm mỹ,

ông còn nâng thú ẩm thực lên thành đạo- đạo của con người trong mối quan hệ với

trầm tích văn hóa dân tộc. Ông viết về ẩm thực với một thái độ thành kính, thiêng

liêng. Ẩm thực không chỉ là nghệ thuật mà nó còn là hiện thân của bề dày văn hóa

với bao tri thức phong phú về sản vật của quê hương, đất nước, qua đó con người

thể hiện nhân cách của mình. Trong truyện Hƣơng cuội, cụ Kép cẩn thận lựa chọn,

chuẩn bị tiệc rượu thạch lan hương với tâm thanh bạch của mình. Loại rượu được

chọn phải là rượu tăm, uống vào lúc thanh tịnh. Thức nhắm cũng rất đặc biệt, không

giống thông thường là cá, thịt… mà ở đây là kẹo mạch nha bọc những hòn cuội-

những viên đá cuội đã được lựa chọn sẵn, được kì cọ sạch sẽ, kẹo mạch nha được

chính gia chủ tự tay ủ mầm lúa và nấu cẩn thận. Những viên đá tẩm kẹo mạch nha

được đặt nhẹ nhàng lên trên lượt lá lót trên nền đất chậu hoa. Những chậu hoa lan

được bọc kín trong lồng bàn phất giấy. Như vậy, viên kẹo sẽ có vị ngọt của mầm

lúa, mùi thơm của hương hoa lan. Cụ Kép và những người bạn già uống rượu,

thưởng hoa, ngâm vịnh thơ phú trong không khí thanh tịnh của buổi sáng xuân với

hương hoa lan tỏa khắp khu vườn. Quả là một tuyệt thú!

Đó là thú uống rượu, còn thú thưởng trà cũng không kém phần công phu.

Trong tập Vang bóng một thời, có hai thiên truyện viết về thú thưởng trà rất độc

đáo, thể hiện chiều sâu văn hóa của nhà văn là Những chiếc ấm đất và Chén trà

trong sƣơng sớm. Trong hai thiên truyện này, Nguyễn Tuân gọi thú uống trà là

“thú chơi thanh đạm”. Thú uống trà có ở hầu hết các dân tộc phương Đông, trong

đó phải kể đến Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Người Trung Hoa coi trà không

chỉ là một thức uống mà còn là thú vui của hạng phong lưu, thậm chí còn được dùng

như là phương thuốc chữa bệnh. Họ không chỉ chế biến chè khéo léo mà những đồ

dùng để pha trà đều sắm sửa lịch sự. Ở Nhật Bản, trà được tôn sùng như một tôn

giáo, được gọi là trà đạo. Sự uống trà được đặt vào vòng giao tế và được coi là một

nghi lễ đáng quý, phải hành lễ ở một nhà riêng thật tôn nghiêm gọi là “trà thất”.

Trong cuốn Sách Trà (Le Livre du Thé) của Okakura Kakuzo, nhà văn Nhật đã

viết: “Trong thứ nước thơm ngát rót trong cái chén ngà ấy, người uống có thể nếm

được cái đậm đà thú vị của Khổng Tử, cái chan chát của Lão Tử và cái hương mát

rượi của Thích Già Mầu Ni”. Ở Việt Nam, thú uống trà tàu phổ biến trong những

gia đình quyền quý, phong lưu thuở trước. Họ không chỉ cầu kỳ trong việc chọn trà

ngon mà còn kén chọn ấm chén để thưởng trà. Phạm Đình Hổ cho rằng người ta ưa

chuộng trà tàu là vì: “Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch sẽ, hương nó thơm tho. Buổi

sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với bạn rượu nàng thơ cùng chủ khách mà ung

dung pha ấm chè tàu ra thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng

tục” [17, tr. 40]. Nếm trà phải ở nơi thanh cao chứ không thể “ở trong đám ruồi

nhặng, ở cửa chợ bụi lầm, lúc ồn ào đinh óc, vơ vẩn rộn lòng thì dẫu ấm cổ đẹp đẽ,

chè ngon mát lừng thì uống trà như vậy cũng chả còn gì thú vị nữa”. Nguyễn Tuân

là một người sành ẩm thực trước khi viết về nghệ thuật ẩm thực nên trong truyện

ngắn của mình, Nguyễn Tuân đã làm sống lại cái tính cách tôn giáo trong buổi uống

trà của cha ông ta. Việc uống trà của của cụ Ấm trong truyện Chén trà trong

sƣơng sớm là một hành vi đặc biệt, có nghi lễ và nhịp điệu rõ ràng phảng phất tục

uống trà của người Nhật. Cổ nhân quan niệm: việc uống trà đòi hỏi cần tìm đến

những nơi yên tĩnh, tránh những nơi ồn ào, gây xáo động tinh thần. Bên cạnh việc

uống trà lúc sáng sớm, các nhà nho còn ngâm thơ lúc mới tỉnh giấc khi vạn vật còn

yên lặng như một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất cho đời sống nội tâm. Nếu

các nhà quyền môn phú hộ khi uống trà lại không muốn pha lấy mà thường giao cho

tiểu đồng pha chế thì các bậc thức giả thường tự tay pha trà thưởng thức và đãi

khách quý. Mỗi buổi sớm, cụ Ấm uống có hai chén trà nhưng cụ rất sợ chén pha

hỏng lúc sớm mai. Vì thế cụ bỏ ra bao nhiêu công sức chi chút cho hai chén nước

này: “Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha

cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đó nhiều công phu. Những

công phu đó đã trở nên lễ nghĩa. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một

mùi thơ và một vị triết lý” [37, tr.128]. Pha trà và uống trà với cụ Ấm như vậy là cả

một nghệ thuật và dưới góc nhìn của Nguyễn Tuân, người thưởng thức, người pha

cũng chính là người nghệ sĩ. Trà ngon ấy phải được uống một cách lễ nghi với

những người tri kỷ: “Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như

bây giờ. Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên

một ấm trà” [37, tr.129]. Uống trà không chỉ là để thỏa cái khát phàm tục mà còn

gắn với nhiều ý vị triết học, gắn với thú vui ngâm thơ, gắn với một lối sống thanh

cao trong tinh thần: “Một buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết ra hết ngoài những cái

nặng nề trong cơ thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một

quan niệm và một phép vệ sinh của thời cũ. Và người xưa uống trà là để giữ mình

cho lành mạnh” [37, tr.131].

Một người “cùng một thanh khí”, có chung sở thích trà đạo như cụ Ấm là cụ

Sáu trong Những chiếc ấm đất. Trong Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, ông cho cái

thú thưởng trà không chỉ nằm ở vị ngọt của trà mà chọn nước và cách pha trà là cả

một giá trị nghệ thuật. Trong Chén trà trong sƣơng sớm chúng ta thấy cụ Ấm rất

công phu trong việc pha trà: “nước pha trà không gì thơm lành bằng cái thứ nước

đọng trên lá sen. Mỗi lá sen chỉ có một ít thôi. Phải gạn vét ở nhiều lá mới đủ uống

một ấm” [37, tr.132]. Đọc đến chi tiết này, người đọc lại nhẩn nha thấy như váng

vất mùi sen Tịnh Tâm từ hoàng thành Huế với những buổi sớm chèo đò lấy cho

được cái cầu kỳ trong giọt sương mai châm trà cung kính dâng vua. Còn cụ Sáu

trong Những chiếc ấm đất cũng không kém cầu kỳ, phải có nước giếng chùa Đồi

Mai cụ mới chịu pha vì chỉ có thứ nước ấy trà mới không bị mất vị. Niềm đam mê

lớn nhất và duy nhất của ông cụ dồn vào chén trà tàu này: “Danh và lợi, ông ta

không màng. Phá gần hết cơ nghiệp của ông cha để lại, ông ta thự đã coi cái phú

quý nhỡn tiền không bằng một ấm trà tàu” [37, tr.30]. Con người tài hoa trong nghệ

thuật thưởng thức trà đạo ấy khi bị sa sút cũng vấn giữ phong thái đặc biệt cá tính.

Cụ bán chiếc ấm đất quý giá làm hai lớp. Bán thân ấm rẻ, rồi đến lúc bán nắp ấm,

mới là lúc nên bán giá đắt. Đây không còn là một cuộc thương lượng, đấu xảo, mua

bán tầm thường nữa mà dường như đó là một cuộc chuyển giao và đi tìm bằng được

người tri kỷ để trao lại vật báu. Nguyễn Tuân đã cho chúng ta thấy vẻ đẹp tinh thần

trong những con người giản dị mà thanh cao, nghèo mà vẫn rất đỗi sang trọng, lịch

lãm với đời.

Uống rượu, thưởng trà của nhà nho xưa không chỉ được Nguyễn Tuân miêu tả

như những thú vui lúc nhàn nhã, mà còn mang theo quan niệm về phép dưỡng sinh

của người xưa. Mấy câu thơ mà quan Đốc học- thầy dạy của cụ Ấm thường ngâm

vào mỗi sớm mai cho thấy điều đó.

Bán dạ tam bôi tửu,

Bình minh sổ chản trà.

Mỗi nhật y như thử,

Lương y bất đáo gia.

(Mai sớm một tuần trà,

Canh khuya dăm chén rượu.

Mỗi ngày mỗi được thế,

Thày thuốc xa nhà ta).

Uống rượu, thưởng trà đúng cách không phải ai cũng làm được. Đôi khi ranh

giới giữa cái đẹp thanh cao với cái phàm tục chỉ mong manh như sợi tóc. Chỉ có

những nhà nho có bản lĩnh và văn hóa mới làm được. Điều này thể hiện qua tâm sự

của cụ Ấm sau mỗi lần gặp phải một ông khách tạp, uống trà rất tục: “Có lẽ tôi phải

mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới thì

đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ

có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tàu không thể ồn ào được.

Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ” [37, tr.129].

Nguyễn Tuân đã phát hiện và đề cao cái đẹp ở trong lĩnh vực bình thường nhất

của đời sống là cái ăn cái uống. Ông đã nâng nó lên thành nghệ thuật và người

thưởng thức cũng trở thành nghệ sĩ. Đề cao nghệ thuật ẩm thực cầu kỳ, đài các của

một lớp nhà nho thất thế giữa thời buổi thực dân xô bồ là một cách tỏ thái độ bất

bình với hiện tại của nhà văn. Đó cũng là cách ông thể hiện tình yêu với nền văn

hóa lâu đời, lòng ngưỡng mộ với thái độ sống giản dị mà sâu sắc, thanh đạm mà

tinh tế, tài hoa của dân tộc mình, cùng những con người đẹp đẽ mà ta ít có cơ hội

gặp lại trong đời. Đó cũng là giá trị nhân văn đáng quý trong những tác phẩm của

Nguyễn Tuân.

2.1.3.2. Thú vui chơi tao nhã

Khoảng những năm 1940- 1945, trên văn đàn Việt Nam truyện ngắn rất phát

triển, một loạt cây bút trẻ và tài năng xuất hiện và có xu hướng viết nghiêng về

phong tục và chủ đề hoài cổ, một trong số đó là Nguyễn Tuân. Khác với Tô Hoài,

Bùi Hiển, Tam Kính… thường viết về những phong tục trong quan hệ xã hội, Kim

Lân hay viết về những thú chơi dân dã của người nhà quê miền Bắc, Nguyễn Tuân

lại viết về những thú vui đài các, tài tử phong lưu của những ông nghè, ông cử thời

phong kiến. Nếu Kim Lân viết về những thú chơi của những người nông dân tài

hoa, những tâm hồn đam mê nghệ thuật, dồn hết tâm trí vào việc chăm sóc một chú

gà chọi, một đôi bồ câu, sống hết mình với một vùng trời đất, núi sông, cây cỏ, thu

lại trong một hòn non bộ và thực sự là những nghệ sĩ của đồng quê thì Nguyễn Tuân

viết về những nho sĩ tài hoa, tài tử sống hết mình với những “sở thích cao quý” như

chơi hoa, chơi chữ, chơi cờ, chơi thả thơ, đánh thơ, chơi đèn kéo quân…

Thực ra uống trà, thưởng hoa, chơi chữ, uống rượu, ngâm thơ… là những thú

vui chơi tao nhã, đầy thanh khí của các nhà nho thuở trước. Trong tập Vũ trung tùy

bút, Phạm Đình Hổ cũng đã nói đến. Đó là một nét sinh hoạt văn hóa truyền thống

của dân tộc gắn với tâm tư của người tài tử. Quan án Trần, chủ nhân của “Túy lan

trang”, trong Vƣờn xuân lan tạ chủ, thường sai con gái yêu là cô chiêu Tần đi mua

thứ rượu khê ở làng Vĩnh Trị, vùng cất rượu ngon có tiếng về “bón hoa”, rồi cậu ấm

Hai “giữa buổi loạn ly mà chỉ biết có ngón đàn có hồn hoa”. Cụ Hồ Viễn, vốn là

một viên tướng Cờ Đen oai phong lẫm liệt một thời, nay thất thế lui về hành nghề

địa lí nhưng có lối sống sinh hoạt khá kỳ lạ. Hai móng tay út lá lan của cụ uốn vòm

như râu rồng luôn luôn phải rửa bằng chanh, mỗi ngày hai bữa rượu và mỗi phiên

chợ lại một bữa thuốc phiện trong Ngôi mả cũ. Cách cụ chơi cờ cũng khác người và

cũng rất thú vị: không phải ngồi một chỗ đánh với quân và bàn cờ mà vừa nằm cáng

đi đường vừa chơi cờ bằng miệng. “Khi mỗi người đi một nước thêm cho ván cờ

tưởng, họ lại vén cái rèm cáng, nghển cổ ra ngoài nói chõ sang cái cáng đồng hành

đi ngang hàng” [37, tr. 82]. Không chỉ giỏi chơi cờ bàn mà cụ còn biết chơi cờ đất.

Cờ đất khó hơn cờ bàn, phải tinh lắm mới đánh nổi. Cụ Thượng Nam Ninh về trí sĩ

ở Hà Nội, cùng người con thứ là ông Cử Hai say mê với việc làm đèn kéo quân cho

trẻ chơi trăng ngày rằm Trung thu trong Một cảnh thu muộn. Họ đã mất hơn mười

hôm để hoàn tất cho một cái đèn xẻ rãnh lấy tên “Ngô vương cự gián nạp Tây Thi”.

Họ đã để cả tài năng, tâm huyết của mình vào một thú chơi vừa dân dã vừa cầu kì

đang dần mai một. Viết về thú chơi tao nhã, cầu kì, Nguyễn Tuân như đang làm

người đọc được sống lại với một phong tục đẹp của người Tràng An. Còn cụ Kép

làng Mọc trong truyện Hƣơng cuội lại có sở nguyện “đem cái quãng đời xế chiều

của một nhà nho để phụng sự lũ hoa thơm cỏ quý. Gọi là kiếm một công việc nhàn

nhã cho quãng chót một kiếp dư sinh”. Mỗi khi ra thăm vườn lan quý, cụ không

quên mặc chiếc áo lông cừu xứ Bắc. Đó không phải là cách phô phang cuộc sống

phong lưu mà là một thói quen, thể hiện thái độ trân trọng của cụ với lũ hoa cỏ.

“Thế rồi trong cái vườn cây nhỏ, trong đám cỏ xây xanh rờn, những buổi sớm tinh

mơ, và những buổi chiều tàn nắng, người ta thường thấy một ông già lông mày bạc,

tóc bạc, râu bạc, mặc áo lông trắng, lom khom tỉa những lá vàng trong đám lá

xanh”. Hình ảnh cụ Kép hòa lẫn trong đám cỏ cây làm nên cái hài hòa của cảnh sắc

thiên nhiên và con người. Phạm Đình Hổ cho rằng: “người xưa cũng thường cho

thần du vật ngoại, trong cách chơi mà vẫn ngụ cái ý về thế giáo thiên luân” [17, tr.

30]. Vậy nên, người xưa mượn khóm hoa, tảng đá để ký thác vào đó hoài bão cao cả

của mình. Do đó, được vui với thiên nhiên, cây cỏ, cụ Kép như được trải lòng mình

với gấm vóc non sông. Điều đó cũng giúp con người xa lánh với những bon chen

danh lợi, trở về với tính bản thiện của mình.

Cặp đôi tài tử- giai nhân Phó Sứ và Mộng Liên trong truyện Đánh thơ lại có

sở thích đàn hát, thơ ca. Họ làm nghề đánh thơ, mang túi thơ của mình đi khắp thế

gian. Niềm vui của họ không phải là sự được hơn trong canh bạc mà được cùng

nhau đi khắp thế gian với hành trang là nghệ thuật. Nhân vật quản ngục trong truyện

Chữ ngƣời tử tù lại có sở thích chơi chữ. Ước nguyện của ông là xin được chữ ông

Huấn Cao. Vì sở thích cao quý này mà quản ngục bỏ qua sự an nguy tính mạng của

bản thân để biệt đãi một tử tù. Huấn Cao là một nghệ sĩ sáng tạo ra cái đẹp. Nhưng

chính quản ngục mới là người làm cho cái đẹp ấy trở nên vô giá bởi nó khiến con

người bước qua bóng tối để vươn tới ánh sáng của thiên lương.

Viết về những thú vui tao nhã của người xưa, Nguyễn Tuân thể hiện tình cảm

đặc biệt của mình với những giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc. Ông đã tìm hiểu

nghiêm túc và yêu mến thật sự những giá trị văn hóa đó. Ông say đắm, hòa nhập cả

linh hồn mình vào từng thú vui tao nhã, điệu hát, câu thơ để rồi qua trang văn mà

lan tỏa tình yêu mến đó đến người đọc. Đó là biệt tài của Nguyễn Tuân và cũng là

tấm lòng của ông với đất nước.

2.1.3.3. Lối ứng xử tinh tế

Truyền thống ứng xử là một trong những di sản văn hóa phi vật thể được

truyền từ đời này qua đời khác. Trong những tác phẩm viết về vẻ đẹp quá khứ,

Nguyễn Tuân đã tái hiện lối ứng xử tinh tế giữa con người với con người. Trong

truyện Ngôi mả cũ, Nguyễn Tuân chỉ xây dựng có ba nhân vật là chị em cô Tú, cậu

Chiêu và cụ Hồ Viễn- thầy địa lý cũng là người bạn của quan Án sát, cha của họ

nhưng thật ấm áp tình người. Tác phẩm gợi lên vẻ đẹp của một lối sống, lối ứng xử

nhịp nhàng, tinh tế giữa con người với con người. Đó là tấm lòng hiền dịu, tảo tần,

giàu đức hi sinh như một người mẹ của cô Tú với em khi sớm phải chịu cảnh mồ

côi; là sự hiếu thuận của hai chị em với người cha đã mất; là tình cảm kính trọng

của họ với cụ Hồ Viễn- một tướng Cờ Đen đã từng vào sinh ra tử nay lỡ vận phải

làm thầy địa lý, đem cái tài chót của mình ra xem mồ mả, đất cát làm phúc cho

người; là tình cảm thương yêu của cụ dành cho đôi chị em côi cút. Tình cảm gia

đình, tình nghĩa bạn bè, tình yêu thương con người hòa quyện với nhau làm nên vẻ

đẹp mẫu mực của lối ứng xử trong gia đình, ngoài xã hội. Tình cảm hiếu thuận của

người con với cha, làm mọi thứ chiều theo sở thích của cha già, thậm chí từ bỏ lối

sống của kẻ lãng tử giang hồ để làm tròn trách nhiệm với gia đình; dành thời gian

và tâm huyết của mình để tự tay làm đèn chơi trăng cho con trẻ của ông Cử Hai

trong truyện Một cảnh thu muộn cũng gợi lên nét đẹp của lối sống nho nhã, tài

hoa, tinh tế. Truyện Hƣơng cuội lại gợi lên cho ta cái ấm áp của tình người trong

một gia đình nề nếp, gia phong. Hai vợ chồng ông Ấm Cả và ông Ấm Hai sống hòa

thuận với nhau cùng chăm lo săn sóc con cháu và lo toan công việc giỗ chạp của gia

đình. Họ cùng nhau chuẩn bị tiệc rượu thạch lan hương chiều theo sở thích của cha

già. Một nhân vật cũng được Nguyễn Tuân nhắc đến khá nhiều trong truyện này là

người bõ già. Bõ già đã ở hầu cụ Kép từ khi cụ Kép còn là một thày khóa sinh hai

mươi tuổi cho đến lúc cụ Kép con đàn cháu đống. Bõ đã vác lều chõng cho cụ Kép

đi thi tú tài. Việc nhớn, việc nhỏ trong nhà, bõ đều nhớ hết và nếu mợ Ấm Cả lơ

đãng, bõ lại nhắc cho mợ khỏi quên. Bõ già tính toán, xếp đặt việc nhà chủ y như

một kẻ có quyền lợi dấp dính vào đấy. Lối cư xử kính trên nhường dưới trong gia

đình xóa nhòa ranh giới chủ- tớ, chỉ còn thấy tấm lòng tận tụy chân thành của người

bõ già và tấm lòng yêu mến, biết ơn của gia đình cụ Kép với bõ.

Không chỉ gợi ra lối ứng xử đẹp trong gia đình, Nguyễn Tuân còn cho thấy vẻ

đẹp trong cách xử thế của những kẻ tri âm tri kỷ ở đời. Đó là tình bạn chân thành

giữa cụ Sáu với sư cụ chùa Đồi Mai trong truyện Những chiếc ấm đất. Chùa Đồi

Mai vốn ở xa làng mạc nên ít bị phiền nhiễu bởi đám tạp khách. Nhưng khi có

khách đến chơi, ông cụ Sáu bao giờ cũng được sư cụ biệt đãi nhất. Mỗi tháng một

lần, nhà sư già lại giữ cụ Sáu ở lại ăn một bữa cơm chay và khi từ biệt nhà sư chân

thành tặng khách một giò Chu Mặc Lan. Mỗi lần gặp gỡ, thể nào hai ông già cũng

kéo nhau ra cái giếng nước chuyện vãn rất lâu. Và mỗi lần cụ Sáu cho người lên xin

nước chùa về pha trà bao giờ cũng cho con đem biếu nhà sư già một bình trà đầu

xuân. Có lẽ, khởi phát của mối nhân duyên giữa cụ Sáu và nhà chùa chính là nước

giếng chùa Đồi Mai. Nhưng chính tình cảm tri âm tri kỷ, sự đồng điệu về tâm hồn

của những con người biết thưởng thức thú vui tao nhã của cuộc đời, sống không

màng danh lợi mới là sợi dây gắn kết tình bạn giữa họ. Tấm lòng “biệt nhỡn liên

tài”, biết trọng người ngay của quản ngục với Huấn Cao và tấm lòng khẳng khái của

Huấn Cao với quản ngục trong Chữ ngƣời tử tù thật đáng ca ngợi. Vẻ đẹp của

người nọ tôn lên vẻ đẹp của người kia. Nếu Huấn Cao là người sáng tạo ra cái đẹp

thì quản ngục là người biết thưởng thức cái đẹp. Nếu Huấn Cao là người trọng

nghĩa khinh tài thì quản ngục biết giá người, biết trọng người ngay. Trên bình diện

xã hội, họ là kẻ thù của nhau nhưng trên bình diện của cái đẹp, họ là tri âm tri kỷ.

Bằng lối hành văn nhịp nhàng, tinh tế, Nguyễn Tuân đã đề cao lối sống đẹp,

làm chuẩn mực cho lối ứng xử xã hội giàu tình nghĩa của người Việt. Vang bóng

một thời của Nguyễn Tuân không chỉ là cuốn sách lưu giữ những nét đẹp của

phong tục tập quán, những nét văn hóa truyền thống mà còn là nơi lưu giữ những vẻ

đẹp trong văn hóa ứng xử của người xưa. Đọc mỗi trang văn của Nguyễn Tuân, ta

như được tắm trong suối nguồn tươi mát của dân tộc để gạt bỏ bụi trần, trở nên

thánh thiện, thanh tân.

2.1.3.4. Nét tài hoa nghề nghiệp

Nguyễn Tuân là nhà văn có một phong cách nghệ thuật hết sức độc đáo. Với

quan điểm nghệ thuật thiên về cái đẹp, ông luôn tiếp cận thiên nhiên và con người

chủ yếu ở phương diện văn hóa nghệ thuật, góc độ tài hoa nghệ sĩ. Nhân vật trong

sáng tác của Nguyễn Tuân thường là những con người tài hoa, thực sự là nghệ sĩ

trong nghề nghiệp của mình. Trong thế giới nhân vật ở đề tài quá khứ, ta bắt gặp

không ít những nghệ sĩ như thế. Những người thợ mộc làng Tràng Thôn trong

truyện Trên đỉnh non Tản của tập Vang bóng một thời với cái tràng, cái đục của

mình đã trở nên nức tiếng khắp vùng. Tài hoa trong nghề mộc của họ “không những

được người trần biết đến mà thỉnh thoảng cứ vài năm năm một, lại có người tiên

trên núi hạ sơn cầu đến, sau những vụ lụt tháng tám rất to, đánh đắm hết những

làng ở rải rác dưới chân núi Tản Viên”. Bởi sự tài hoa, điêu luyện trong nghề mà

hai lần đích thân Thần Non Tản đến tận nhà mời hiệp thợ của cụ phó Sần lên đỉnh

non Tản để sửa chữa lại đền Thượng do những lần vua Thủy dâng nước lên chọc

phá để trả mối hận tình. Khi hiệp thợ mộc theo Thần Non Tản vào đền, họ đã nhanh

chóng phát hiện ra mấy hàng cột con, cột hàng ba, cột quyết không đủ sức chống cái

mái đền lợp ngói vai bò tráng men ngũ sắc; còn ở đất nền mất nhiều chân cột mẹ

được làm từ gỗ chò vẩy và thiếu nhiều miếng đá hoa lát nền. Họ tâu với Chúa Ngàn

Cao Cả cách thức sửa đền mỗi khi không đủ gỗ cột mẹ: “bắt mấy cái quá giang rồi

xoay ra kiểu thượng thực hạ hư”. Cách sửa này vừa đảm bảo nét thẩm mỹ vừa tiết

kiệm nguyên liệu quý cho gia chủ. Qua việc đề xuất cách sửa đền, ta có thể thấy sự

tinh thông nghề nghiệp và kĩ thuật cao siêu của những người thợ mộc tài hoa làng

Tràng Thôn. Qua bàn tay của họ, đền Thượng đã được tái sinh như mới: “Những

đầu kèo vai và câu đầu, đều chạm tứ quý tứ linh. Bức trần gỗ thì chạm bát bửu cổ

đồ. Nét chạm tỉ mỉ công phu gấp mấy lần công thợ điêu khắc ở các đền đài ở dưới

núi. Họ chia nhau ra mà chạm, người thì tỉa hình thư kiếm, quạt và phất trần, kẻ thì

gọt dáng tù và với túi roi hoặc là túi thơ cùng bầu rượu, cái nọ ghép vào với cái kia

thành một bộ đôi bằng những sợi cẩm đới nét dẻo như tung bay được” [37, tr. 205].

Miêu tả sự tài hoa nghề nghiệp của những người thợ mộc, Nguyễn Tuân đã thể hiện

niềm trân trọng của mình với người lao động cần lao. Bằng tài hoa và sự khéo léo

của đôi bàn tay, họ đã góp phần tô điểm cho cõi trần và cõi tiên thêm đẹp đẽ. Hơn

thế, bằng cách phủ cho câu chuyện một màu sắc huyền ảo, thần tiên, Nguyễn Tuân

thể hiện sự công nhận và đánh giá cao tài năng nghề nghiệp sánh ngang thần thánh

của người thợ nước Việt.

Gần như đối lập với việc ca ngợi tài hoa của người thợ mộc trong truyện

Trên đỉnh non Tản, ở truyện ngắn có cái tên rờn rợn Chém treo ngành (sau đổi là

Bữa rƣợu máu), Nguyễn Tuân đã viết về tài chém treo ngành của một kẻ làm nghề

đao phủ tên là Bát Lê. Cái nghề của Bát Lê khiến ai cũng phải kinh sợ nhưng quả

thật tài chém đầu tử tù của hắn độc đáo, có nguy cơ thất truyền. Nguyễn Tuân miêu

tả trước khi vào cuộc chém mười hai tử tù- những nghĩa quân Bãi Sậy, Bát Lê đã

luyện lại tay đao trong vườn chuối để khi vào cuộc sẽ trình diễn thật hoàn hảo trước

mặt tên quan Công sứ người Tây và làm hài lòng quan Đổng lý Quân vụ. Nguyễn

Tuân đã miêu tả rất chi tiết lối chém treo ngành của Bát Lê: “Bát Lê múa lượn giữa

hai hàng tử tù và múa hát đến đâu thì những cái đầu tội nhân bị quỳ kia chẻ gục

đến đấy (…). Trên áng cỏ hoen ố, không một chiếc thủ cấp nào rụng xuống”, nó

vẫn còn dính với thân người bởi làn da cổ và trên quần áo trắng của Bát Lê không

có một giọt máu phun tới. Vào những lúc nhộn nhạo quá đông tử tù, việc chém đầu

người sẽ được tiến hành theo một cách còn “tài tình” hơn và tất nhiên cũng rùng rợn

hơn. Người ta sẽ “Chẻ đôi cây tre đực dài ra, cặp vào cổ từ tù xếp hàng và nối đuôi

quỳ hướng về một chiều. Đại để cũng giống như là cái lối cắp gắp chả chim mà

nướng ấy”. Rồi đao phủ sẽ cầm gươm mà róc ngang như người ta “róc mắt mía”.

Đọc những trang văn này, người đọc không khỏi cảm thấy rùng rợn trước lối viết

quá lạnh của Nguyễn Tuân. Nhiều người đã phê phán Nguyễn Tuân là thiếu cái tâm.

Tuy nhiên, xét theo quan niệm thẩm mỹ của nhà văn, ta vẫn thấy ông nhất quán

trong cách tiếp cận con người ở phương diện tài hoa. Bát Lê làm cái nghề đáng bị

lên án, nhưng cái tài của y trong công việc cho thấy y chính là nghệ sĩ trong nghề

đao phủ của mình.

Có thể thấy, Nguyễn Tuân là nhà văn tuy có phần cực đoan trong quan niệm

thẩm mỹ nhưng hơn hết, ta vẫn thấy ông là một người nhất quán với lối viết của

mình. Luôn kiếm tìm cái đẹp, cái tài hoa ở mọi bình diện của cuộc sống. Có lẽ,

không phải ai cũng được trời phú cho cái tài hoa hơn, vì thế dù trong bất cứ nghề

nghiệp nào, cái tài cũng đáng được trân trọng. Phải là một nghệ sĩ yêu cái đẹp thực

thụ, Nguyễn Tuân mới có thể bỏ ngoài tai mọi tiếng chê bai để trung thành với

phong cách của mình như thế.

2.2. Những kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác về đề tài quá khứ của

Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng

2.2.1. Giới thuyết vấn đề

Đối tượng trung tâm của mọi tác phẩm văn học là con người. Miêu tả con

người, đó chính là việc xây dựng nhân vật của nhà văn. Văn học không thể thiếu

nhân vật, vì đó chính là phương tiện cơ bản để nhà văn khái quát hóa hiện thực một

cách hình tượng. Nhà văn sáng tạo nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một

cá nhân nào đó, về một loại người nào đó, về một nhân vật nào đó của hiện thực.

Nhân vật chính là người dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống

trong một thời kỳ lịch sử nhất định. Nhân vật trong văn học không phải là sự sao

chụp những chi tiết biểu hiện của con người mà chỉ là sự thể hiện con người qua

những đặc điểm về tiểu sử, nghề nghiệp, hình dáng, tính cách, tâm hồn… Nhân vật

là những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu đậm hoặc chỉ xuất

hiện thoáng qua trong tác phẩm. Các loại hình nhân vật tât đa dạng. Xét về vai trò

nhân vật trong tác phẩm, có thể nói tới nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung

tâm. Xét về phương diện hệ tư tưởng, về quan hệ đối với lý tưởng xã hội của nhà

văn, lại có thể nói tới nhân vật chính diện, nhân vật phản diện. Sau nữa, có thể nói

tới lại nhân vật tư tưởng, thường được nhà văn sáng tạo ra để minh họa cho một

quan điểm tư tưởng của mình, hoặc thể hiện một tư tưởng nào đó của thời đại.

Bên cạnh khái niệm nhân vật là khái niệm tính cách. Trong nghiên cứu văn

học, theo nghĩa rộng nhất của nó, khái niệm nhân vật mới là hình ảnh về con người,

khái niệm tính cách là hình tượng về con người. Tính cách được hiểu là những đặc

điểm, những phẩm chất nào đó của nhân vật được thể hiện tương đối rõ nét. Khái

niệm tính cách có thể được hiểu theo cách sau: tính cách cũng là nhân vật, nhưng là

nhân vật được thể hiện với một chất lượng tư tưởng và nghệ thuật cao hơn.

Như vậy, ta có thể thấy thế giới nhân vật trong văn học rất sinh động. Trong

các tác phẩm của Nguyễn Tuân, thế giới nhân vật của ông cũng rất đa dạng, độc

đáo. Trong phần này, người nghiên cứu chỉ đề cập đến thế giới nhân vật trong sáng

tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám.

Nguyễn Tuân là một nhà văn có cái Tôi độc đáo, khác người. Ông chịu ảnh

hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau. Về triết học, ông ảnh hưởng của triết

học Niezsche về quan niệm con người siêu đẳng: Nguyễn Tuân chia con người

thành hai loại; nhóm nhỏ những con người đặc biệt- những con người đề cao sức

mạnh phi thường có quyền chà đạp lên người khác; loại thứ hai là số đông những

con người tầm thường và tẻ nhạt. Về văn học, ông ảnh hưởng của nhà văn Pháp

A.Gide khi đề cao vai trò của cá nhân với cộng đồng xã hội: con người càng khác

biệt, đối lập với cộng đồng xã hội bao nhiêu, con người ấy càng khẳng định được

mình bấy nhiêu. Trong quan điểm về cuộc đời và con người, Nguyễn Tuân tiếp cận

tư tưởng Lão Trang một cách sâu sắc và ảnh hưởng từ người cha- cụ Tú kép

Nguyễn An Lan xem cuộc đời như một cuộc chơi. Bởi vậy, cái tôi trong tác phẩm

của nhà văn Nguyễn Tuân rất đặc biệt, nói như Phan Cự Đệ: “Đó là một cái tôi lập

dị, ngang bướng, đi lù lù giữa cuộc đời, ném đá vào những kẻ xung quanh, khiêu

khích với xung quanh” [6, tr. 103]. Nguyễn Tuân thổi phồng cái tôi của mình lên.

Ông tâm sự trong tiểu thuyết Thiếu quê hƣơng: “Người lỗi lạc sống một cách đặc

biệt không giống ai và không cho ai bắt chước được mình, chết là mang cả cái bản

chính đi, chứ không để lại một bản sao nguyên cảo nào” Nhà nghiên cứu Hà Văn

Đức có nhận xét về các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân: “Nhiều nhân vật

trong tác phẩm, Nguyễn Tuân sử dụng đại từ nhân xưng thứ nhất tôi và thậm chí

các nhân vật khác của ông mặc dù tên gọi có khác nhau: Vi, Bạch, Hoàng,

Nguyễn… thì thực chất vẫn mang rõ hình bóng chủ quan của tác giả”. Như vậy,

nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Tuân chính là biểu hiện của chính con người

cá nhân tác giả.

Như đã nói ở trên, quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Tuân là vươn tới cái đẹp.

Hay nói cách khác, cái tôi cá nhân nhà văn là một cái Tôi nghệ sĩ. Trong tác phẩm

của mình, ông nhìn sự vật bằng con mắt thẩm mỹ, những nhân vật mà ông xây dựng

đều là những bậc tài hoa, nghệ sĩ. Điều này ta không chỉ thấy trong trang sách mà

trong cuộc đời, Nguyễn Tuân đều thể hiện một cách rất nhất quán.

2.2.2. Những kiểu nhân vật tiêu biểu trong sáng tác về đề tài quá khứ của

Nguyễn Tuân trƣớc Cách mạng

2.2.2.1. Những nhà nho cuối mùa bi quan, chán nản trƣớc thời cuộc.

Nhân vật chính trong các truyện ngắn của tập Vang bóng một thời chủ yếu là

các nhà nho cuối mùa- khi Hán học đang suy tàn nhường chỗ cho thời đại “mưa Âu

gió Mỹ”. Nguyễn Tuân ảnh hưởng nét tính cách tài hoa, phóng khoáng từ người cha

của ông là cụ Tú Kép làng Mọc Nguyễn An Lan và hình ảnh các nhà nho tài tử

trong lịch sử như Cao Bá Quát. Từ những nguyên mẫu có thực này, ông đã xây

dựng trong tác phẩm của mình những nhân vật tiêu biểu cho lớp nho sĩ cuối mùa,

tuy khoanh tay bất lực trước thời cuộc nhưng vẫn giữ nhân cách bằng những thú vui

tao nhã, coi đó như lớp rào bảo vệ họ khỏi những hạt bụi của làn gió Âu hóa. Hình

ảnh lớp nhà nho này cũng là những tâm sự mà Nguyễn Tuân gửi gắm về thời cuộc.

Là một nhà văn có cá tính và ý thức về cái tôi, giữa thời buổi nhiễu nhương

“làm lạc mất cả quan niệm cũ”, Nguyễn Tuân cảm thấy bất hòa sâu sắc. Ông không

tìm thấy cái đẹp ở hiện tại. Với ông, cái đẹp, chất thơ thuộc về những cái của ngày

xưa còn vương sót lại. Cuộc đời đối với ông là một khu vườn tàn tạ khi mùa xuân

đã hết. Ông buồn rầu đi tìm kiếm, lượm lặt những nhành hoa cuối mùa, những cánh

hoa tàn rụng. Ông đối lập xưa với nay, cổ với kim. Ông tự cho mình thuộc lớp

người “sinh lầm thế kỷ”, lạc lõng giữa thời đại- ông thường gọi là thời đại cơ khí

khiến người ta bị cơ khí hóa đến cả tâm hồn. Không ai tri kỷ, ông dựng lên những

nhân vật nhà nho , những con người của thời cũ còn sót lại, để làm nơi ẩn dật của

tâm hồn khi cảm thấy quá mệt mỏi với hiện tại. Ông gọi đấy là những bến nước

thiên nhiên khuất nẻo, yên tĩnh cho tâm óc ông tìm đến thả neo. Với hiện tại, ông

chỉ dành cho những lời khinh bạc. Nhưng đối với những cái của ngày xưa, giọng

văn của ông bao giờ cũng đôn hậu. Đôn hậu nhưng biết bao buồn tủi, ngậm ngùi.

Nó tiêu biểu cho “mỹ học hoài cựu” của nhà văn. Hình ảnh lớp nhà nho cuối mùa là

nhân vật chính trong tập Vang bóng một thời, nhưng thể hiện rõ nhất là qua các tác

phẩm: Thả thơ, Hƣơng cuội, Chén trà trong sƣơng sớm, Một cảnh thu muộn.

Các nhân vật nho sĩ cuối mùa hầu hết cuộc đời đã sang buổi xế chiều và đều là

thuộc loại người tài hoa, tài tử, bất đắc chí. Cụ Phủ Ông trong Thả thơ vốn là một

người mà học lực và đức độ, chính tích chấp được cả bạn đồng liêu một thời, và khi

cụ Phủ già cáo lão về hưu, người làng chỉ gọi là quan Nghè Móm. Cụ Phủ Bà mất

hồi đầu xuân, cỏ xanh chưa kịp che kín hết mộ thì cuối xuân, cậu Chiêu- con trai

duy nhất của cụ Phủ cũng sớm cướp công sinh thành, để lại trần thế một gia đình

đang lúng túng vì sự hiu quạnh và cảnh gà trống nuôi con. Cụ Nghè Móm già gần

kề miệng lỗ sống cùng cô con gái lỡ thì trong cảnh thanh bạch. Hàng ngày, cụ Nghè

móm dạy học vào buổi sớm, thời gian nhàn rỗi, cụ sao lá số, gieo quẻ bói hay kê

một đơn thuốc cho người làng, còn cô Tú lo săn sóc việc nhà và phụng dưỡng cha

già. Mặc dù gia cảnh bần hàn và cả nỗi buồn vì cô Tú đã quá lứa mà vẫn chưa yên

bề gia thất vì kém nhan sắc, cụ Nghè Móm vẫn giữ thói quen uống trà tàu, rượu cúc,

chơi cây cảnh và thắp nến bạch lạp để đọc Đường thi sách thạch bản coi đó như

những thú vui nhằm xua tan đi cảnh thê lương lúc tuổi xế chiều. Cụ là một đại diện

của lớp nhà nho cuối mùa mà cuộc đời đang tàn lụi dần. Nghe lời mách nước của

người bạn đồng song cùng quê, cụ Nghè Móm tháng tháng tổ chức những cuộc thả

thơ trên mặt nước. Trong cái nhà bè lợp lá gồi trên dòng sông, cụ Nghè Móm ngồi

làm nhà cái, thả thơ cho đến một chục người con đánh và cô Tú ngồi bên cạnh cha

già, lúc bận đỡ cái túi thơ của cha lấy ra từng lá thơ đặt vào lòng chiếu cho làng

chọn chữ đặt tiền, lúc thì cô lại bấm mấy tiếng tơ mà tô vẽ cho buổi đố chữ lấy tiền.

Người ta đánh bạc bằng thơ, đem cái may rủi vào tận cõi văn chương. Thế nhưng ở

đây không có sự cay cú được thua của những kẻ trót mê trò may rủi mà “trên mặt

nước sông thu, tiếng ngâm một câu thơ được cuộc, tiếng ngâm một câu thơ thua

cuộc mất ăn tiền, những tiếng đó đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe

trong trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn chân chính”

[37. tr. 48]. Nhân vật cụ Phủ phảng phất nét giống với nhân vật ông Đồ trong bài

thơ cùng tên của thi sĩ Vũ Đình Liên. Cả hai đã trở thành lớp người của quá khứ, trở

nên lạc lõng giữa hiện tại, họ phải đem cái tài hoa ra phục vụ đám đông quanh mình

để mưu sinh. Hai nhân vật dẫu cảnh ngộ mỗi người khác nhau nhưng cái đọng lại

trong tâm trí chúng ta chính là sự tàn tạ của một lớp người mà tài năng và nhân cách

của họ đã làm nên hồn cốt dân tộc trong nhiều thế kỷ. Đọng lại vẫn là vẻ đẹp của

thơ ca được thăng hoa trong một đêm trăng với cảnh sông nước thanh bình. Có thể

nói, trong cái tàn lụi của một lớp trí thức phong kiến còn sót lại, ta vẫn thấy ánh lên

vẻ đẹp lấp lánh của những tâm hồn đẹp đẽ. Dẫu cuộc sống có khắc nghiệt, họ phải

bày trò cho thiên hạ để kiếm cớ mưu sinh thì mục đích của họ không phải là tiền

bạc mà chính là những giây phút được cùng nhau ngâm một khúc Đường thi. Tâm

hồn của họ vẫn hướng về giá trị đẹp đẽ của nghệ thuật và văn hóa. Không chỉ có

vậy, họ còn trân trọng, gìn giữ danh tiết và phẩm giá của mình. Khi có kẻ ác miệng

phao tin cụ Nghè Móm định mượn cuộc thả thơ để tìm lựa khách đồng sàng cho cô

con gái gần quá lứa, cụ Nghè Móm đã không cho cô Tú theo mình đi thả thơ nữa.

Cụ Nghè Móm đại diện cho những nhà nho yếm thế, bất lực trước thời cuộc nhưng

vẫn kiên quyết giữ vững tiết tháo của bản thân.

Khác với gia cảnh neo đơn, thanh bạch của cụ Nghè Móm, cụ Kép làng Mọc

thượng trong truyện Hƣơng cuội có gia cảnh khá hơn, con cháu đề huề và đã thành

danh. Cụ Kép là người thích uống rượu, ngâm thơ và chơi hoa lan. Cụ đã tới cái

tuổi được hoàn toàn nhàn rỗi để dưỡng lấy tính tình. Xưa kia, cụ cũng muốn có một

vườn cảnh để sớm chiều ra đấy tự tình nhưng phải đến khi rời xa danh lợi, cảm thấy

đủ tư cách để chơi cây cảnh, cụ Kép mới gây lấy một vườn lan nho nhỏ đến sớm

chiều làm bạn. Cụ Kép là đại diện cho lớp nhà nho chán nản trước thời cuộc, đành

lui về sống với quan niệm “độc thiện kỳ thân” bằng thú điền viên, đem quãng đời xế

chiều của mình phụng sự lũ cỏ hoa. Với cụ Kép, người chơi hoa cũng phải là người

có đủ tư cách, phải dành toàn tâm toàn ý, lấy chí thành, chí tình ra mà đối đãi với

cái đẹp không bao giờ lên tiếng nói thì mới phải đạo, đạo của người tài tử. Những

người bạn của cụ, những cụ Cử Lủ, cụ Tú, cũng là những người có cùng sở thích

thanh cao giống cụ. Trong không khí ấm áp của chiều xuân sớm, họ cùng ngồi lại

với nhau trong tiệc rượu hoa, cùng nhắm rượu Thạch Lan Hương và ngâm thơ cho

tàn hết buổi chiều. Tìm cho mình một lối sống thanh cao trong lúc thời cuộc rối ren,

đó cũng là cách để những nhà nho này giữ gìn nhân cách, đồng thời thể hiện khao

khát gìn giữ những giá trị văn hóa đẹp đẽ của cha ông.

Cụ Ấm trong truyện Chén trà trong sƣơng sớm là đại diện cho lớp hàn nho,

hết thời, bất lực nhìn thời gian trôi qua không gì cứu vãn được: “Trong cảnh trời

đất lờ mờ chưa đủ phân rõ phần đêm và phần ngày, ông cụ Ấm có cả phong thái

một triết nhân ngồi rình bước đi của thời gian” [37, tr.126]. Hình ảnh ông cụ ngồi

lặng lẽ trong không gian bảng lảng khói sương của trời đất lúc sớm mai như một

bức họa tạc vào thời gian, hằn bóng quá khứ trai trẻ. Tuổi tác đã cao, lại sống vào

thời buổi dở Tây dở ta, cụ Ấm để tháng ngày tàn còn lại trôi qua với những công

việc vụn vặt nhưng có ích: đi xem bệnh cho người làng trên xóm dưới, giữ thói

quen thưởng trà sớm với tất cả nghi lễ thiêng liêng. Với cụ, chỉ có người tao nhã,

cùng một thanh khí mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Cụ đã từng phàn nàn

với người bạn nhà nho còn về loại khách tạp, uống trà rất tục, loại người này chỉ có

thể uống nước chế từ bình tích pha sẵn chứ không thể hợp với lối giao du thanh đạm

của cổ nhân. Tỏ thái độ bất bình với loại người phàm tục, tìm về với thú thưởng trà,

ngâm thơ thanh tao chính là cách di dưỡng tinh thần cho con người trong buổi giao

thời đầy huyên náo.

Cũng có gia cảnh khá giả và con cháu đề huề giống với cụ Kép làng Mọc là cụ

Thượng Nam Ninh trong truyện Một cảnh thu muộn. Cụ Thượng đã ở tuổi lục

thập. Trước đây, cụ từng là Tổng đốc vùng xuôi, sau đó về trí sĩ ở Hà Nội trong một

cái nhà ngói chật hẹp phố Hàng Gai ở cùng với người con thứ- ông Cử Hai, chứ

nhất định không chịu vào ở nơi rộng rãi, có người hầu kẻ hạ với người con cả- ông

huyện Thọ Xương. Tình cảm dành cho hai người con của cụ có phần thiên lệch về

người con thứ, bởi ông tìm thấy ở Cử Hai một quan niệm và lối sống của một người

tri kỷ, có tâm hồn lãng tử, coi sống cuộc đời như người ta rong chơi nơi cõi thế,

“không có lấy một giây phút trịnh trọng đối với nhân sinh” [37, tr.141]. Tất cả niềm

vui lúc tuổi xế chiều là mỗi buổi rượu sớm, mỗi tuần trà trưa hay lễ tết đều có con

cháu kề bên, cùng chia hưởng thú vui tao nhã cùng cụ. Cùng là con cả, nhưng cụ

Thượng đã thấy rõ Cử Cả, tức ông huyện Thọ Xương đương chức kia là một người

có tâm thuật hèn kém mà thường cụ vẫn hạ mấy chữ “vô sở bất chí”. Cụ tin rằng,

khi cụ trăm tuổi thì ông huyện Thọ Xương dám làm chuyện phương hại đến gia

thanh, làm mất hết những chính tích hay trong một đời làm quan của mình. Thất

vọng với người trưởng nam có lối sống thực dụng, gió chiều nào che chiều ấy, sớm

thích nghi với thời cuộc nhiễu nhương bao nhiêu cụ lại càng nghĩ thương yêu người

con thứ bấy nhiêu. Ông huyện Thọ Xương kiểu cách, hách dịch thì ông Cử Hai lại

đơn giản như ngày còn để chỏm. Cũng có thân danh là một ông cử, nhưng ông Cử

Hai chỉ có khoa mà không có hoạn. Bản tính của một nghệ sĩ lãng tử, “không chịu

sống cho người khác và hùa theo với người chung quanh” [37, tr.142] nên ông khó

hòa hợp với thời buổi hỗn loạn giao thời. Ông tỏ ra bất đắc chí và phẫn uất với thời

cuộc mà tha phương cho thỏa ý của người tài tử. Việc xây dựng hai nhân vật cụ

Thượng và ông Cử Hai đối lập với ông Cử Cả là một dụng ý của Nguyễn Tuân. Cái

trịch thượng, phàm tục, xu thời nịnh thế của ông huyện Thọ Xương càng làm tôn lên

cốt cách thanh cao của ông Cử Hai. Hai nhân vật này cũng chính là đại diện cho hai

loại người trong thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân. Cụ Thượng, ông Cử Hai chính

là những nhà nho bất đắc chí, chán nản với buổi giao thời hỗn tạp, họ giữ cho mình

một đời sống tâm hồn thanh sạch bằng những giây phút đầm ấm, nề nếp bên gia đình,

chăm lo cho con trẻ. Ông Cử Hai và cụ Thượng đã mất nhiều thời gian và dành tất cả

sự khéo léo và tâm huyết của mình để làm đèn xẻ rãnh và đèn kéo quân cho con trẻ

chơi tết trung thu. Sống tận tâm cho gia đình và hết mình cho niềm vui của con trẻ, đó

cũng là nền tảng văn hóa cổ truyền cần gìn giữ. Đây cũng chính là những dòng tâm

huyết của chính Nguyễn Tuân với giá trị văn hóa đẹp đẽ của dân tộc.

Hình ảnh những nhà nho như những ông Phủ, ông Nghè, ông Ấm, ông Cử

trong các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Tuân là hình ảnh tiêu biểu cho một lớp

người trong xã hội phong kiến có tâm huyết với cuộc đời, với nhân sinh nhưng họ

đều rơi vào tâm trạng chán nản, bi quan, bất lực trước cuộc đời đầy biến động. Bởi

lẽ, họ không đủ sức để làm thay đổi diện mạo xã hội, lập lại trật tự xã hội dù họ có

tâm huyết đến đâu. Thất vọng trước cuộc sống hiện tại, họ chỉ biêt đi tìm những thú

vui tao nhã, những trò thả thơ, đánh thơ, nhấm nháp chén trà buổi sớm, uống rượu

Thạch Lan Hương… Đây là những thú vui của các nhà nho cuối mùa, dù có thất thế

nhưng họ vẫn sống cuộc sống nhàn hạ, thanh tao và biết giữ gìn, chắt chiu cái đẹp

trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.

2.2.2.2. Những con ngƣời lãng tử thích cuộc sống giang hồ, xê dịch.

Khác với lớp nhà nho cuối mùa bi quan, chán nản trước thời cuộc, những nhân

vật lãng tử thích cuộc sống giang hồ, xê dịch hầu hết là những người trẻ, tràn đầy

sinh lực và khát vọng tự do giải phóng cái tôi cá nhân, đam mê xê dịch và muốn tận

hưởng no say mọi hương sắc cuộc sống trần thế trong hiện tại. Kiểu nhân vật này, ta

thấy xuất hiện trong một số truyện ngắn của Nguyễn Tuân trong tập Vang bóng

một thời

Lãng tử là những con người có tài, có nhân cách, không chịu cuộc sống gò bó,

không chịu luồn cúi trong vòng danh lợi, thích đi nay đây mai đó và ham chơi. Có

điều cách chơi của họ rất khác người, khác đời. Đối với họ, sống ở đời giống như

một cuộc chơi, đâu vui thì đến đâu buồn thì đi. Đi là một phương tiện, là cứu cánh

của cuộc đời. Có thể lấy đôi câu đối của bậc thời sĩ quê vùng Ngũ Quảng điếu đôi

giai nhân- tài tử Mộng Liên- Phó Sứ để định nghĩa về cách sống của người lãng tử:

Ra Bắc vào Nam, trăng gió đề huề thơ một túi;

Lên đèo xuống ải, mây mưa đánh đổ cuộc trăm năm.

Đôi tài tử Phó Sứ- Mộng Liên trong truyện Đánh thơ của Nguyễn Tuân đã

từng đặt chân khắp dải đất Trung Kỳ với túi thơ bầu bạn: “Suốt một dải Trung Kỳ,

họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ lại mở một cái túi

đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu bạc văn chương Mộng

Liên lại đàn lại ca để là vui cho cuộc đỏ đen rất trí thức này” [37, tr. 53]. Và mỗi

tuần trăng đôi tài tử Phó Sứ- Mộng Liên lại ở một tỉnh: “Bất kể lúc lên voi, lúc

xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giày trên mọi chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi

thơ và cái túi phách ăn người của họ (…) Quê hương của họ là Cờ bạc và Đàn hát.

Nhà cửa của đôi lưu đãng ấy gửi vào trong cái truy hoan của thiên hạ” [37, tr. 54].

Người xưa nói giống tài tình thường mệnh mỏng. Và số phận của đôi tài tử này

cũng không nằm ngoài định mệnh nghiệt ngã ấy. Ông Phó Sứ đã bỏ mạng giữa một

vùng trời nước bao la ngay dưới chân Hoành Sơn quan vì trúng cơn gió độc trong

lúc tức cảnh sinh tình để lại Mộng Liên lúng túng tìm người để trao gửi cây đàn. Cả

khi sống lẫn khi chết, những con người này đều đi đến tận cùng của kiếp sống giang

hồ, lãng tử, sẵn sàng chấp nhận số mệnh mà tạo hóa đã định cho họ.

Trong truyện Một cảnh thu muộn, Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng

nhân vật ông Cử Hai là một kẻ lãng tử, tài hoa, “sống cuộc đời mình như người ta

chơi chơi vậy thôi”. Ông đi dạy học để mưu sinh, cái công việc phải cố định một

chỗ ấy đã không ghìm giữ nổi bước chân của nghệ sĩ ưa xê dịch. Ông đi dạy học mà

như đi ngoạn cảnh hoặc dâng hương ở các đền chùa cổ tích. Khi ngừng chân ở một

thôn ổ hay lúc ngừng miệng giảng sách, chấm quyển, ông Cử Hai lại hóa thân thành

một nghệ sĩ tài hoa bằng việc đề bức châm lên lá quạt, hoặc khắc chữ triện và chạm

trổ một hòn đá xù xì thành con thạch ấn, dúng ngón tay vào chậu mực vẽ một bộ tứ

bình thủy mặc. Thế nhưng, con người coi cuộc đời như một trường du hý ấy cũng

có lúc quay về bên nghĩa vụ và trách nhiệm với gia đình. Tưởng đâu nét tài hoa,

lãng tử ấy sẽ phôi pha theo thời gian nhưng nét anh hoa vẫn phát tiết ra ngoài. Ông

Cử đã dành trọn vẹn tài khéo léo và tâm huyết của mình để làm đèn kéo quân và

đèn xẻ rãnh cho con chơi trông trăng ngày rằm tháng Tám. Đã có lúc, ta tưởng ông

Cử Hai là người vị kỷ, vô trách nhiệm nhưng có thể thấy thẳm sâu trong tâm hồn

người nghệ sĩ lãng tử ấy đã thấy được giá trị của gia đình, của việc lưu giữ những

truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp cho thế hệ sau. Ở ông, cái tài và cái tâm

hài hòa, trọn vẹn.

Xây dựng các nhân vật lãng tử thích lối sống giang hồ, xê dịch và đề cao lối

sống của họ là cách Nguyễn Tuân thể hiện sự trân trọng với tài năng, nhân cách của

những con người có tâm hồn nghệ sĩ. Họ là những con người nhạy cảm với thời

cuộc và thế thái nhân tình, đã chọn cho mình một lối sống riêng. Phải chăng đó

cũng là cách thể hiện thái độ không chấp nhận cuộc sống tù túng, không chút sinh

thú. Điều này góp phần làm nên giá trị văn chương của Nguyễn Tuân.

2.2.2.3. Những con ngƣời nghệ sĩ tài hoa, tài tử

Khái niệm “người tài tử”, “nhà nho tài tử” được nhà nghiên cứu Trương Tửu

đưa ra trong công trình Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (tạp chí Văn mới, Hà

Nội năm 1944) và được Trần Đình Hượu sử dụng để nghiên cứu về Nho giáo và

văn học trung cận đại Việt Nam. Sau này, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương tiếp

tục kế thừa và làm rõ hơn quan niệm của Trần Đình Hượu trong luận án Tiến sĩ và

in thành sách Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam (NXB ĐHQG, 2003). Theo ý

chung của các nhà nghiên cứu, người tài tử là danh từ dùng để chỉ những nhà nho lơ

đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên về văn học, về sự vui sống

cầu kỳ (hành lạc). Họ sống vì nghệ thuật, vì cái đẹp. Cái ý vị cuộc sống với họ

không phải ở chỗ phụng sự mà ở chỗ hưởng thụ những thú vui như uống rượu, làm

thơ, gẩy đàn, đánh cờ, chơi giăng gió sông núi… Cách chơi của họ rất khác đời. Sự

say sưa khi cầm trên tay quân bài lá bạc, hoặc chén rượu ngon đối với họ không

phải là mục đích cuối cùng. Giữa một xã hội phong kiến cào bằng nhân cách, trói

buộc người ta trong những quy ước tẻ nhạt, cách chơi của những bậc tài tử này là

lối chơi của kẻ thạo đời, đã đọc đủ sách thánh hiền nhưng vẫn chán, đành lấy việc

chơi đùa để khẳng định chỗ hơn người và cả khát vọng tự do của mình. Phẩm chất

quan trọng của người tài tử là Tài và Tình. Nhiều nhà nho tài tử trong văn học trung

đại Việt Nam đã sống và viết với hai chữ Tài, Tình như Nguyễn Du, Nguyễn Công

Trứ, Cao Bá Quát...

Phong kiến suy tàn, nhường chỗ cho thời thực dân nửa phong kiến cùng với

đó là sự xâm lấn ồ ạt của văn hóa Tây phương đẩy Hán học dần lui vào dĩ vãng.

Lớp nhà nho được tôn làm chuẩn mực cho con người một thời nay trở thành lớp

người hiếm hoi còn vương sót lại. Văn học 1930- 1945 cũng có nhiều nhà văn viết

về lớp người cũ này bằng nhiều cách tiếp cận và thế giới quan đa dạng như: Nhà

Nho (Chu Thiên), Thanh đạm (Nguyễn Công Hoan), đặc biệt là tiểu thuyết Lều

chõng của Ngô Tất Tố. Trong tác phẩm của mình, Ngô Tất Tố đứng trên lập trường

của một nhà văn hiện thực phê phán đã ném ra một bức tranh màu xám với những

đường nét tối sẫm về chế độ khoa cử mục nát dưới triều Nguyễn, đồng thời miêu tả

tấn bi kịch đau xót của những nhà nho có tài trong xã hội phong kiến. Cũng viết về

quá khứ, với nhân vật chính là các nhà nho nhưng Vang bóng một thời của Nguyễn

Tuân không giống với các tác giả kể trên. Nguyễn Tuân đã lật lớp vải phủ bụi lên để

lộ ra màu vàng son rực rỡ của quá khứ với hình ảnh của một lớp nho sĩ tài hoa, tài

tử mà lối sống và tài năng của họ là tiêu biểu cho những giá trị văn hóa tinh thần đã

bị mai một trước biến thiên của lịch sử. Từ góc độ thẩm mỹ, văn hóa, Nguyễn Tuân

đã xây dựng lên những người tài tử, sống bằng nghề ca hát, mua vui cho thiên hạ

bằng thanh sắc của mình. Bản thân Nguyễn Tuân đã từng lui tới rất nhiều cao lâu,

quán trọ, nhà hát cô đầu nên ông thấu hiểu tài năng và hoàn cảnh của họ. Kiểu nhân

vật này được tập trung chủ yếu trong tập truyện Vang bóng một thời và một số tác

phẩm được sáng tác trước đó. Trong truyện Đánh thơ, ông kể về cuộc sống của

Mộng Liên, Mộng Huyền, Mộng Thu: “Bằng cái sắc, bằng tiếng ca, bằng tài tiểu

xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người đàn bà đẹp đã thừa tô điểm

cho xứ Huế trong một thời”. Họ sống không toan tính cho bản thân, chỉ biết dùng

lời ca, tiếng hát của mình mà làm nên nét riêng cho đất Thần Kinh. Trong Chiếc lƣ

đồng mắt cua, Nguyễn Tuân đã kể về cuộc sống của những kiếp tài tử, giang hồ

như nhân vật Tôi, ông Thông Phu, cô Đào Tâm… Họ là những con người tài hoa, lỡ

bước sa chân vào cuộc sống trụy lạc nhưng trong tâm hồn họ vẫn ẩn chứa những

đốm sáng lương thiện và khao khát có một cuộc sống tốt đẹp. Ông Thông Phu chính

là người đã tặng tác giả chiếc lư đồng mắt cua mà ông dùng làm nhan đề quyển

sách. Đó là nhân vật rất lạ. Ông ta là một tay chủ cô đầu rất hiếu thắng, đánh trống

chầu thì tự khen mình là hay nhất nước Nam, cờ thì tự cho là quán cả Trung Bắc

lưỡng kỳ, và về thơ thì thường vén đùi lên, mình ngâm văn mình và kêu rằng gieo

được một chữ như thế tức là thừa xuất nhập cổ kim, là quỷ khốc thần kinh rồi. Đây

là đoạn tác giả tác tả ông Thông Phu đánh cờ: “Trông ông gò một nước cờ lắm lúc

thật là tử công phu. Cờ đất cũng vậy mà cờ bàn cũng vậy. Bao nhiêu đau khổ mệt

nhọc hiện cả lên trên mặt ông” với “…những đường gân hằn hai bên thái dương

mỗi lúc ông đi con cờ hoặc suy nghĩ im lặng trên bàn cờ (...) cho những cái quằn

quại giày vò thắc mắc ấy hiện lên khuôn mặt cho đến hết!”. Nhìn ông Thông Phu

chơi cờ, tác giả liên tưởng như người nghệ sĩ đang thai nghén tác phẩm của mình

vậy. Một người tài hoa có tính hiếu thắng và có những sự gắng sức như thế mà phải

thua một ván cờ trong khi đấu với một kẻ tầm thường, rồi vừa uất, vừa trúng phong

ngay giữa lúc thua, ông Thông Phu đã trở nên một phế nhân phải nằm một chỗ và

bạn bè thân lánh xa dần dần. Còn giọng hát của cô Đào Tâm, một người vừa có sắc

vừa có tài đàn hát. Tiếng hát có tinh thần, kỹ thuật điêu luyện khi được cất lên đủ

gột rửa những nhơ nhớp trát vào người từ khi sa chân vào kiếp sống trụy lạc. Hình

ảnh cô Đào Tâm phảng phất bóng dáng của những kiếp hồng nhan bạc mệnh trong

tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du. Phải cảm nhận được cái chất nghệ sĩ đau

đớn trong kiếp người giữa sự ghét nhau của tài và mệnh, Nguyễn Tuân mới viết lên

những trang văn xúc động lòng người đến thế.

Trong thế giới nhân vật của Vang bóng một thời, ông Huấn Cao trong Chữ

ngƣời tử tù nổi bật lên như một nhân vật đẹp nhất. Con người ấy là một nghệ sĩ thư

pháp, một trang anh hùng dũng liệt, có khí phách hiên ngang. Nét chữ tài hoa của

Huấn Cao nức tiếng khắp một vùng tỉnh Sơn, thậm chí nó còn vượt qua hàng rào

song sắt tối tăm của nhà ngục để trở thành niềm ngưỡng mộ và ao ước của viên

quản ngục và thơ lại, khiến họ vượt qua cả phép tắc, sự an nguy của tính mạng để

biệt đãi một tử tù chỉ với mục đích cuối cùng là được ông Huấn cho chữ. Đề cao thú

chơi chữ, Nguyễn Tuân cũng đề cao vẻ đẹp của văn hóa, nghệ thuật, của nhân cách

con người. Cái đẹp luôn đi cùng cái thiện. Chừng nào con người còn biết yêu cái

đẹp thì người đó dù ở hoàn cảnh tối tăm nhất vẫn ánh lên vẻ đẹp của thiên lương.

Với tác phẩm này, Nguyễn Tuân đã xua đi ấn tượng về một nhà văn duy mỹ để hiện

ra một nhà văn thiết tha với giá trị cổ truyền của dân tộc, là nhà văn có tâm.

Kiểu nhân vật tài hoa, nghệ sĩ là kiểu nhân vật đáng chú ý nhất tạo nên phong

cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Kiểu nhân vật này như tấm gương phản chiếu

chính người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân. Biết yêu quý cái đẹp, luôn tìm cái đẹp

trong mọi ngóc ngách của đời sống đã trở thành mục đích trong suốt cuộc đời cầm

bút của nhà văn. Đó cũng là cách thể hiện quan điểm nghệ thuật vị nghệ thuật của

ông. Qua đó, Nguyễn Tuân thể hiện thái độ khinh bỉ của mình đối với cái xấu xa,

hèn kém của xã hội, đề cao cái đẹp muôn hình muôn vẻ trong cuộc sống.

Tiểu kết chƣơng 2: Khi viết về cuộc sống hiện tại, Nguyễn Tuân luôn tỏ thái

độ bất hòa sâu sắc, phủ nhận thực tại xấu xa đương thời bằng một giọng điệu khinh

bạc. Nhưng khi viết về quá khứ vang bóng một thời, Nguyễn Tuân kể lại bằng một

giọng thán phục, luyến tiếc và mến yêu vô cùng. Đọc Vang bóng một thời, chúng

ta có cảm giác nhẹ nhàng, êm dịu như xem một tập tranh cổ họa. Qua đó, vẻ đẹp

của cuộc sống quá khứ cứ dần dần hiện lên với những bức tranh thiên nhiên thơ

mộng, hiền hòa, những bức tranh về lối sống sinh hoạt vật chất và tinh thần tao nhã,

tinh tế. Ca ngợi những thú ăn chơi tao nhã của các cụ ta thuở trước như cầm, kỳ, thi,

tửu, Nguyễn Tuân muốn đem ra đối chiếu với cách ăn chơi tục tằn của bọn hãnh

tiến đương thời, cậy có của mà trác táng, thô bỉ. Trong thế giới của một thời đã xa

nay chỉ còn vang bóng, ta thấy hiện lên thế giới nhân vật tiêu biểu mà Nguyễn Tuân

yêu mến, ngưỡng mộ. Đó là những nhà nho cuối mùa nhưng vẫn giữ trọn giá trị bản

thân bằng nghệ thuật hành lạc hơn đời; là những lãng tử thích cuộc sống giang hồ,

xê dịch; là những nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Họ chính là biến thân khác nhau của con

người nghệ sĩ, lãng tử Nguyễn Tuân. Ông đã được sống trong thế giới vang bóng

một thời trước khi viết Vang bóng một thời. Do đó, những gì ông viết ra thể hiện

sự am hiểu sâu sắc những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, là tấm lòng

ngưỡng mộ với những con người tài hoa, khí phách hơn đời. Đặt trong hoàn cảnh

lúc bấy giờ, ta thấy được tấm chân tình của Nguyễn Tuân với quê hương, đất nước.

CHƢƠNG 3

NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN

3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật

Trong văn học nghệ thuật, thời gian và không gian có sự đan xen hòa quyện

không thể tách rời nhau. Về thời gian nghệ thuật, thi pháp học chỉ ra rằng: thời gian

nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật, cho nên chúng ta có thể

nhận thấy thời gian nghệ thuật là một phương tiện nghệ thuật cần thiết để xây dựng

nên tác phẩm văn học và là một phương thức để phản ánh đời sống. Không giống

như thời gian tự nhiên, thời gian nghệ thuật vận động trên cả ba chiều: quá khứ,

hiện tại, tương lai. Thời gian nghệ thuật không tuân theo trật tự tuyến tính của thời

gian tự nhiên mà có thể đảo ngược trình tự thời gian, thay đổi nhịp độ thời gian.

Thời gian tự nhiên một đi không trở lại. Nhưng nghệ thuật có thể làm tái hiện thời

gian đã qua bằng cách để con người tìm về quá khứ, hòa mình với hiện tại và hướng

về tương lai. Cũng giống như thời gian, không gian nghệ thuật vừa là hình thức tồn

tại của hình tượng vừa là một phương thức thể hiện đặc điểm tư duy nghệ thuật và

khả năng chiếm lĩnh thế giới của văn học. Trong những sáng tác trước Cách mạng,

Nguyễn Tuân đã tạo dựng được bối cảnh thời gian và không gian nghệ thuật sống

động, mỗi tác phẩm là không gian nghệ thuật hấp dẫn riêng: có không gian rộng,

không gian hẹp, không gian tâm tưởng, không gian quá khứ, không gian hiện tại...

Ở tập truyện Vang bóng một thời, ta thấy quá khứ hiện lên từ điểm nhìn của

hiện tại. Ta có thể thấy những chi tiết về thời gian cụ thể được tác giả nhắc đến

thoáng qua trong một số truyện. Trong Chữ ngƣời tử tù, nhân vật chính là ông

Huấn Cao được tác giả lấy nguyên mẫu là Cao Bá Quát, người nổi tiếng văn hay

chữ tốt. Từ nhân vật lịch sử có thật này, ta có thể hình dung câu chuyện diễn ra vào

khoảng năm Tự Đức thứ 7 (1854) là năm Cao Bá Quát bị tội vì tham gia cuộc khởi

nghĩa Mĩ Lương chống lại triều đình. Ở truyện Ngôi mả cũ, nhân vật cụ Hồ Viễn

vốn là tướng Cờ Đen. Cụ Án ông, cụ Án bà chạy giặc vào rừng Hưng Hóa tránh

giặc Khách là vào những năm 1869- 1870. Gần nhất là những chuyện trong Bữa

rƣợu máu có mặt quan Công sứ; truyện Một cảnh thu muộn với chi tiết về đức

Thành Thái ngự du ra khánh thành cầu Bồ Đề với quan Toàn quyền Đô Mỹ; Đánh

thơ vào khoảng đời vua Thành Thái, đầu Duy Tân, tức là những năm đầu thế kỷ

XX. Đó là những câu chuyện xảy ra không cùng thời với Nguyễn Tuân. Cái tài của

Nguyễn Tuân ở chỗ ông đã làm sống lại không khí của thời trước như bản thân ông

đã từng sống ở thời đó. Nếu không có vốn sống, vốn hiểu biết phong phú, Nguyễn

Tuân không thể thành công như vậy.

Nếu việc tái hiện thời gian cho thấy vốn sống, vốn hiểu biết phong phú của

Nguyễn Tuân thì việc tái hiện không gian quá khứ lại cho thấy một sức tưởng tượng

vô cùng khoáng đạt của ông. Có lúc là không gian sinh hoạt hạn hẹp nơi thôn quê

của những người thợ Tràng Thôn với thú vui thỉnh thoảng được nâng chén bất cứ ở

trường hợp nào. Nhưng cũng có khi là không gian bạt ngàn huyền ảo, lung linh

nhiều màu sắc của chốn thần tiên ở đỉnh non Tản (Trên đỉnh non Tản). Không

gian thực và ảo, hẹp và rộng như đưa người đọc đi lạc từ thế giới hiện thực của

mình sang thế giới thần tiên trong những câu chuyện cổ dân gian. Ở truyện Báo

oán, Nguyễn Tuân xây dựng một không gian hiện thực và ma quái xen kẽ. Đó là

không gian ảm đạm, thê lương của hiện thực với cảnh mưa gió, lụt lội của chốn

đồng chiêm Sơn Nam Hạ: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt nước mắt

triền miên than vãn của kỳ thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ” [37, tr.155].

Không gian ma quái, rùng rợn của buổi chiều tà: “Nền trời phương Đông đáng lẽ

phải hửng lên để đón lấy chiều dương. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây đục đùn

lên những hình Quỷ Đông và, nơi phía tây, một cái cầu vồng cụt một chân, tô lên

trên tạo vật có tang ma, những màu xanh đỏ rực rỡ và rờn rợn” [37, tr.160]. Đó còn

là cảnh phố hàng Giấy với những cô hàng bút mực sắc sảo đối đáp với những thầy

khóa đi thi. Cảnh lầy lội của trường thi với không gian lạnh lẽo, ma quái khiến ông

Đầu Xứ Em phải bỏ cuộc giữa chừng: “Khói bốc lên, tỏa xuống soai soải như

những vệt nước thời gian trượt trên đầu ngọn tường xuống lần vách gạch những

đền chùa xưa cũ có vẽ mốc hình, có rêu phong dấu”. [37, tr.179]

Có thể thấy rõ Vang bóng một thời không hiện diện những cảnh tượng huyên

náo, rực rỡ màu sắc mà dễ nhận ra một gam màu nhạt và ảm đạm bao trùm khắp

không gian. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: “Cái vang của thời đã qua, cái

bóng của thời đã qua, mà ngày nay người ta tưởng còn văng vẳng, và thấp thoáng

đó là tất cả cái thê lương nó khởi đầu những mẫu chuyện cổ thời” [25, tr. 16]. Gam

màu nhạt và ảm đạm này phù hợp một cách kỳ lạ với khung cảnh những buổi chiều

u ám. Đó là buổi chiều trong vườn chuối âm u báo trước sự chết chóc ở truyện

Chém treo ngành: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh

định tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ”; “Vào tiết mưa dầm, những trận mưa

Ngâu đổ lên vườn chuối một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu [37; tr.11].

Đến gần cuối truyện, khi Bát Lê chuẩn bị cho cuộc trình diễn nghệ thuật trong nghề

đao phủ trên pháp trường, không khí ảm đạm, u ám ấy còn được pha thêm màu sắc

dữ dội gây cảm giác bức bối, nặng nề báo hiệu chết chóc, đau buồn: “Trời chiều có

một vẻ dữ dội. Mặt đất thời sáng hơn là nền trời. Nền trời vẩn những đám mây tím

đỏ vẽ đủ mọi hình thù quái lạ. Những bức tranh mây chó màu thẫm hạ thấp thêm và

đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt” [37; tr.20]. Khi cuộc hành quyết

những tử tù đã xong, quan khách đang ra về, Nguyễn Tuân gợi lên một cảnh giữa

sân pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. “Trận gió xoắn

hút cát, bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi và đuổi theo các quan đang ra về. Cái

mũ trắng trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc dữ dội lật rơi xuống bãi cỏ, lăn lộn mấy

vòng” [37, tr.24]. Đây như một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn Tuân, báo trước một

cơn thịnh nộ của trời đất và con người trút lên đầu kẻ xâm lược.

Chẳng cứ gì buổi chiều, ngay cả một buổi trưa hè cũng được tả với sự buồn

vắng, im lìm: “Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đối mặt cánh đồng dưới chân đồi,

làm rung rinh lớn không khí bốc từ mặt đất và giống như vệt khói nhờ nhờ, vớn qua

những màu xanh bong loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm” (Những chiếc

ấm đất). Bên cạnh những đoạn văn tả cảnh này còn có những đoạn tả người cũng

vẫn với những “nét rầu rầu xanh xám” ấy: “Rồi cậu Chiêu lại vẫn không quên cái

cảnh màn trời triền miên những kinh động ngờ sợ, ánh sáng tối và ẩm ướt của rừng

tị nạn, đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chum túc mới vừa to mà đã nhuộm

màu tang” (Ngôi mả cũ).

Ấn tượng nhất có lẽ là những đoạn văn tả cảnh gắn liền với những thú tiêu

khiển thanh nhã. Cảnh vật ở đây trở nên thanh khiết, êm đềm đôi khi buồn bã đến

kỳ lạ thể hiện một cách gián tiếp thái độ yêu mến, trân trọng và nuối tiếc của nhà

văn. Đây là cảnh tượng trong một cuộc thả thơ trong truyện cùng tên: “Vầng trăng

mười bốn lúc chênh chếch và đoài đã in một cúc bóng thẫm và dài lên mặt con sông

trắng và lạnh như thỏi thiếc vừa nguội, ở đó tiếng ngâm một câu thơ được cuộc,

câu thơ thua cuộc ăn tiền đều âm hưởng trên làn nước lạnh, thanh âm nghe trong

trẻo, du dương và thái bình như tiếng vang của một hội tao đàn”. Còn đây là cảnh

vật buổi sớm mai trong lành nhưng vẫn gây cảm giác u hoài: “Trời rạng dần. Một

chút nắng đào lóng lánh trong đám cây đang rụng dần lá năm cũ, một chiếc lại một

chiếc” (Chén trà trong sƣơng sớm). Đánh thơ cũng gợi nhiều cảm tình nơi người

đọc bởi một bầu không khí thơm ngát hương hoa huệ trắng được tăng bốc lên bởi

hơn mười cây nến sáng, hương hoa tinh khiết bao bọc lấy những con bạc nhiều khi

đến với cuộc đánh thơ chỉ vì niềm yêu mến văn chương: “Hoa huệ mềm mại cuộn

cong đầu cánh trắng lại như những râu rồng và gặp tiết đêm, gặp sức nóng của nến

cháy, của người thở mạnh, cáng hết sức nhả mùi hương. Không khí đều là huệ hết

cả, có người rít mạnh mồi thuốc lào, đã lầm rằng thuốc của mình là ướp ủ bằng

hoa huệ” [37, tr. 60]. Bên cạnh, không gian chật hẹp của những đám sát phạt đỏ đen

bằng văn chương là khung cảnh phóng khoáng, rộng lớn của sông nước, núi non nơi

từng lưu dấu chân của cặp tài tử, giang hồ Phó Sứ- Mộng Liên gợi lên một cái gì

vừa trần tục lại vừa thanh cao. Trong truyện Ngôi mả cũ, Nguyễn Tuân tái hiện một

không gian sinh hoạt trong một gia đình nhà nho tuy sa sút nhưng vẫn giữ được nề

nếp, gia phong. Những con đường làng quê yên ả, thanh bình mà ở đó, người ta có

thể vừa đi trên đường bằng cáng hay võng, vừa đủng đỉnh đánh cờ tưởng tượng.

Không gian trong truyện Những chiếc ấm đất là cảnh thực nhưng qua ngòi bút

miêu tả của tác giả khiến ta liên tưởng đến cuộc chia tay của Lưu Thần, Nguyễn

Triệu từ giã chốn Đào nguyên trở về cõi thế tạo nên một cảm giác siêu thoát, đượm

màu sắc tôn giáo: “Ví buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng dài lạnh lùng và ví

cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một

cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa

động” [37, tr. 27].

Có lúc, thời gian và không gian hòa quyện làm một trong cảnh tượng Huấn

Cao cho chữ quản ngục. Thời gian vào đêm khuya tĩnh lặng gợi cái mênh mông của

vũ trụ và sự nhỏ bé của con người. Không gian sáng rực bởi ánh lửa ngọn đuốc.

Ánh sáng đẩy lùi bóng tối của đêm đen, giữa đêm tĩnh lặng vẫn vọng lên những lời

di huấn về thiên lương. Trong thế giới của bóng tối, cái đẹp vẫn sinh sôi. Thời gian

và không gian ở đây làm nền cho sự chiến thắng huy hoàng của cái đẹp.

Tấm lòng luyến tiếc quá khứ đã khiến Nguyễn Tuân miêu tả thời gian, không

gian giống như vầng mặt trời chiều trước khi tắt hẳn vẫn ánh lên những tia lửa rực

rỡ, huy hoàng, hắt bóng lên con người và cảnh vật. Với cách miêu tả này, ta thấy tác

phẩm có một không khí buồn mà thanh sạch, ảm đạm mà vẫn lịch lãm, cao sang.

3.2. Tình huống truyện đặc sắc

Hêghen, nhà triết học, mỹ học lỗi lạc người Đức (1770- 1831) quan niệm về

tình huống như sau: “Nói chung tình huống là một trạng thái có tính chất riêng biệt

và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần

biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện

nghệ thuật” [32]. Nhà văn Nguyễn Minh Châu cho rằng: tình huống là “cái tình thế

xảy ra chuyện”, là “một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất,

chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống…nhưng bắt buộc con

người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu

kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân

loại” [5, tr.258]. Như vậy, tình huống còn được gọi là tình thế và các nhà văn Việt

Nam quen dùng tình thế hơn là tình huống. Nhà văn Nguyễn Kiên đã hơn một lần

nói về bản chất và vai trò của tình huống: “Theo quan niệm của tôi, mỗi truyện

ngắn chỉ tập trung vào một tình thế nảy sinh trong cuộc sống. Nếu truyện ngắn có

đến hơn một tình thế thì truyện ngắn đó lập tức bị phá vỡ”. [28, tr.44]. Nhà văn

Nguyên Ngọc khi bàn về truyện ngắn đã đặc biệt chú ý đến vấn đề tình huống:

“Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của truyện ngắn là

thủ thuật điểm huyệt […] Truyện ngắn điểm huyệt thực hiện bằng cách nắm bắt

trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che giấu trong

muôn mặt cuộc sống hàng ngày”. [30, tr. 114].

Từ một số ý kiến trên, có thể khái quát về tình huống truyện như sau: Đối với

truyện ngắn, tình huống giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại, nó chính là cái

hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt khiến cho tại đó, cuộc sống

hiện lên đậm đặc nhất và ý đồ tư tưởng của tác giả cũng được bộc lộ sắc nét nhất.

Có người đã ví tình huống truyện giống như một tứ thơ, một thứ nước rửa ảnh làm

nổi bật hình sắc nhân vật, chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

Trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời, nhà văn đã sáng tạo nhiều tình

huống truyện khác nhau trong đó có những tình huống truyện đặc sắc. Truyện ngắn

Chữ ngƣời tử tù là một thành công nổi trội của Nguyễn Tuân. Tình huống truyện

xoay quanh cuộc gặp gỡ oái oăm của hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục. Oái oăm

ở chỗ không gian gặp gỡ là nhà tù và thời gian diễn ra cuộc gặp gỡ này là những

ngày cuối cùng trước khi Huấn Cao ra pháp trường chịu án. Không gian và thời

gian như thế đã góp phần tạo nên kịch tính cho tình huống. Oái oăm còn ở chỗ sự éo

le trong thân phận hai nhân vật. Trên bình diện xã hội, họ là hai kẻ đối địch : Huấn

Cao là "giặc"của triều đình - quản ngục lại là quan của triều đình. Ở bình diện nghệ

thuật, họ lại là tri kỉ, trên cả hai chiều của quan hệ. Chiều đã hiện hình : Huấn Cao

có tài hoa và khí phách còn quản ngục lại ngưỡng mộ khí phách và tài hoa. Chiều

tiềm năng : Huấn Cao chỉ cúi đầu trước Thiên lương cao khiết của con người, trong

khi đó quản ngục lại là “một tấm lòng trong thiên hạ”. Người nào cũng có những

phẩm chất cao quí mà người kia khát khao ngưỡng mộ. Sự éo le càng tăng gấp bội,

bởi vì, về hành động, quản ngục bị đẩy đến trước sự lựa chọn nghiệt ngã đầy tính

xung đột: Nếu làm tròn chức phận quan lại thì phải chà đạp lên lòng tri kỉ; nếu trọn

đạo tri kỉ thì phải phớt lờ chức phận quan lại. Hành động theo hướng thứ hai, quản

ngục là người cao quí vì dám thuỷ chung với những giá trị mình tôn thờ, ông ta đã

dám bất chấp sự thiệt thòi về quyền lợi lẫn sự an nguy đến tính mệnh. Đây còn là

cuộc gặp gỡ giữa hai loại tù nhân: Huấn Cao- tù nhân thân thể nhưng tự do về tinh

thần và quản ngục tuy tự do về thân thể nhưng tinh thần và nhân cách bị cầm tù.

Nguyễn Tuân đã dùng một so sánh rất đẹp để viết về quản ngục: “Trong cảnh đề

lao, người ta sống bằng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng và lòng biết giá

người, biết trọng người ngay của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong

trẻo chen vào bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ” [37, tr.102]. Nếu ban đầu,

khi chưa hiểu về quản ngục, Huấn Cao đã đánh đồng ông với những quản ngục khác

và tỏ thái độ khinh bạc. Nhưng khi hiểu được tấm lòng và sở thích cao quý của quản

ngục, Huấn Cao đã tự nguyện cho chữ. Cảnh cho chữ là cảnh tượng đẹp nhất mà ở

đó vị thế các nhân vật bị đảo lộn: Người có chức năng giáo dục tội phạm thì đang

khúm núm lắng nghe từng lời di huấn thiêng liêng của phạm nhân. Chính Cái Đẹp

đã chi phối sự đảo lộn này. Ở đây, không còn quản ngục và phạm nhân, chỉ còn hai

người tri kỷ đang quây tụ trong cái đẹp của tình người và nghệ thuật. Quản ngục

không cứu được Huấn Cao và cũng không tự cứu được mình. Còn Huấn Cao chẳng

những không cần giải cứu mà trước khi ra pháp trường còn cứu được quản ngục.

Cuộc kì ngộ đã trở thành cuộc hạnh ngộ. Việc sáng tạo ra tình huống truyện đặc sắc

đã chứa đựng một quan niệm sâu sắc của nhà văn: Cái đẹp là bất diệt. Dù thực tại có

hắc ám đến đâu cũng không tiêu diệt được cái đẹp. Nó mãi mãi là một lí tưởng nhân

văn cao cả của cõi người này. Tình huống như thế cũng khẳng định một niềm tin

mãnh liệt, rằng: Cái đẹp sẽ thanh lọc cuộc đời này; “Cái đẹp sẽ cứu vớt nhân loại”

(Đôtxtôiepxki).

Một số truyện ngắn khác như: Chém treo ngành, Báo oán, Trên đỉnh non

Tản cũng có tình huống truyện. Trong Chém treo ngành là tình huống đao phủ Bát

Lê đã nghỉ tay một thời gian vì già yếu, nay được quan Đổng lý Quân vụ gọi ra

hành hình mười hai tử tù vốn là quân Bãi Sậy bằng lối chém treo ngành độc đáo cho

quan Công sứ người Tây được thị kiến. Sáng tạo ra tình huống này, Nguyễn Tuân

có dịp kể về nghệ thuật của Bát Lê trong nghề đao phủ. Đó là lối chém đầu rất ngọt

để đầu tử tù vẫn còn dính vào thân mình bởi lần da cổ. Cách ông để đao phủ Bát Lê

chém thật ngọt và tài hoa những người tử tù Bãi Sậy phải chăng là sự ngưỡng mộ,

kính trọng của Nguyễn Tuân đối với những trang anh hùng nghĩa liệt. Cuộc đời họ

đã sống đẹp và khi chết, họ cũng được hưởng một cái chết thật nghệ thuật. Đó là

cách thể hiện tấm lòng theo kiểu của Nguyễn Tuân. Truyện ngắn Báo oán có tình

huống mang màu sắc liêu trai về hồn ma người đàn bà chết oan hiện lên quấy rối

anh em ông Đầu Xứ Ngoạt khiến cả hai vốn là những người văn hay chữ tốt nổi

tiếng làng Cổ Nguyệt đều phải bỏ dở trường thi và bay luôn kỳ kinh nghĩa. Qua tình

huống truyện này, Nguyễn Tuân cho ta thấy cái thời tàn của khoa cử Nho giáo và số

phận bi đát của những nhà nho cuối mùa. Nguyễn Tuân vốn là nhà văn lãng mạn,

nhưng truyện ngắn này của ông mang màu sắc hiện thực rõ nét. Tình huống truyện

ngắn Trên đỉnh non Tản là những người thợ làng Tràng Thôn được Đức Tản Viên

mời lên sửa đền Thượng cho mình. Sáng tạo ra tình huống truyện này, Nguyễn

Tuân đã đưa người đọc đến với một nơi bồng lai tiên cảnh và là nơi phô diễn tài hoa

của những người thợ mộc lành nghề tỉnh Sơn. Qua đó, nhà văn đã thể hiện niềm tự

hào về nét tài hoa của những người thợ xứ Việt.

Việc tạo ra được những tình huống truyện độc đáo làm cho mỗi tác phẩm của

Nguyễn Tuân trở nên đặc sắc, mang đậm dấu ấn cá tính nhà văn. Đây cũng là đóng

góp có giá trị của Nguyễn Tuân với thể loại truyện ngắn nói riêng và công cuộc hiện

đại hóa văn học dân tộc nói chung.

3.3. Ngôn ngữ và giọng điệu

3.3.1. Ngôn ngữ

Nguyễn Tuân là bậc thầy về sử dụng và sáng tạo ngôn ngữ. Sự sáng tạo ấy là

do tự học, tự tìm tòi trong trường đời, trong ngay nội tâm mình và trong văn hóa của

dân tộc ta và các dân tộc khác. Ông coi “nghề văn là nghề của chữ nghĩa”, viết văn

là “chơi một lối độc tấu”, không nhầm lẫn với ai và không để ai bắt chước được.

Với trí tuệ sắc sảo, uyên bác, vốn năng khiếu ngôn ngữ, Nguyễn Tuân đã sáng tạo

không ngừng trong văn chương và trong ngôn ngữ để tạo nên những áng văn

chương mang đậm phong cách, có một không hai. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ của

Nguyễn Tuân thể hiện ở việc sử dụng các từ Hán Việt tạo không khí cổ xưa và màu

sắc trang trọng; hệ thống từ láy phong phú cùng với ngôn ngữ giàu hình ảnh, âm

thanh và nhạc điệu. Ở đây, chúng tôi chủ yếu khảo sát qua tập Vang bóng một thời

và một số tác phẩm khác viết về đề tài quá khứ.

3.3.1.1. Ngôn ngữ kiểu cách, trang trọng

Trước hết phải thấy rằng, nhà văn đã sử dụng hệ thống từ cổ, từ Hán Việt một

cách đắc địa để tạo không khí cổ xưa. Những từ cổ này được kết hợp hài hòa, chặt

chẽ với những cảnh, những người trong quá khứ như dẫn người đọc mở cánh cửa

bước vào một nhà bảo tàng văn hóa dân tộc, nơi đó trưng bày những hiện vật của một

thời xa xưa. Ấn tượng về sự xưa cũ, cổ kính này một phần được tạo ra bởi hệ thống từ

cổ kết hợp với những địa danh, tên gọi, cách nói, cách xưng hô mang dấu ấn của một

thời xuất hiện dày đặc trong tác phẩm. Những cái tên: Chùa Đồi Mai, xứ Đồng Côn,

quan Công sứ, khoa thi Mậu Ngọ, nhà nước Bảo hộ, viên giám trảm, lính cơ, cụ Nghè

… giúp chúng ta rất nhiều trong hành trình trở về quá khứ. Nói về nghệ thuật uống

trà, nhà văn dùng một loạt từ ngữ: tuần nước, bữa trà sớm, hương trà, phong vị trà

tàu, trà đi hương, trà phát du, than tàu, hỏa lò, ấm Thế Đức gan gà, ấm Mạnh Thần,

ấm Lưu Bội, trà Vũ Di Sơn, trà Bạch Mao Hầu, trà Trảm mã, nước sủi, sôi già, ngư

nhãn, long nhãn... (Chén trà sƣơng, Những chiếc ấm đất). Về thơ xưa và lối đánh

bạc bằng thơ, ông có cả một trường từ vựng phong phú: cổ phong, gối hạc, cổ thi,

khổ độc, chữ trắc, chữ bằng, chữ lắt léo, chữ hiểm hóc, chữ ăn tiền, chọn chữ đặt

tiền, nhà cái, nhà con, tiếng bạc, tiền hồ… (Đánh thơ). Về việc thi cử ngày xưa, ông

dùng các từ: sĩ tử, người sĩ, sĩ phu, thư sinh, cậu khóa, văn nhân, cáo trục, tiến

trường, nộp quyển, cánh quyển, đổi quyển, ống quyển, đại khoa, chánh chủ khảo, phủ

phục, tam sinh, phạm húy, kỳ đệ nhất: kinh nghĩa, kỳ đệ nhị: thơ phú, kỳ đệ tam: văn

sách, tân khoa, đầu xứ, huynh đệ đồng khoa…(Báo oán).

Việc đặt tiêu đề cho tác phẩm cũng thể hiện tài năng chơi chữ của Nguyễn

Tuân. Viết về thú uống rượu với hòn đá cuội phết kẹo mạch nha và ủ trong hương

hoa lan, ông đặt cho truyện cái tên là Hƣơng cuội. Hương hoa gợi sự mềm mại,

thơm tho; cuội lại gợi cái cứng cỏi. Đá cuội vốn vô tri, vô hồn nhưng qua bàn tay và

khối óc của người có thú chơi cầu kì, lịch lãm, nó trở nên thật tinh tế, thanh tao. Cả

hai hòa quyện vào nhau một cách độc đáo. Cách đặt tiêu đề như vậy mang đậm dấu

ấn phong cách ngôn ngữ Nguyễn Tuân. Một ví dụ khác, cuối tác phẩm Chữ ngƣời

tử tù, sau khi ông Huấn Cao cho chữ và dặn dò những lời tâm huyết khiến quản

ngục cảm động, vái tử tù một vái mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn

ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. “Bái lĩnh” là một từ Hán Việt chỉ hành động

vừa vái, vừa ghi nhận lời dặn dò. Một từ này đã làm hiện lên tất cả sự thành kính,

ngưỡng mộ của quản ngục trước một nhân cách cao khiết như Huấn Cao. Câu nói

của quản ngục không chỉ để tạ ơn người cho chữ mà còn đánh dấu sự thức tỉnh về

nhân cách của ông. Trước khi gặp Huấn Cao, quản ngục bị mê muội bởi danh lợi

tầm thường che lấp mất tâm hồn lương thiện. Chính Huấn Cao là người đã khơi dậy

vẻ đẹp tâm hồn ấy. Một câu nói nhưng góp phần tô đậm thêm chủ đề của tác phẩm

và thông điệp của nhà văn: Cái đẹp có sức cảm hóa lớn lao, đưa con người vươn tới

cái thiện. Như vậy, việc sử dụng hệ thống ngôn từ độc đáo như trên vừa thể hiện

dụng ý của nhà văn lại vừa nói lên một cách đầy đủ nhất sự hiểu biết sâu rộng, cặn

kẽ của nhà văn về nhiều phương diện như lịch sử, văn hóa và xã hội.

Bắt nguồn từ tình yêu, say mê tiếng mẹ đẻ, Nguyễn Tuân có ý thức gom góp,

tích lũy, thu thập thành một kho từ vựng hết sức phong phú. Vì thế lúc sử dụng từ

ngữ, ông thường ít lặp lại từ. Điều này thể hiện sức sáng tạo ngôn từ mang đậm cá

tính nhà văn. Tên các nhân vật được Nguyễn Tuân gọi theo cách khác nhau: Thánh

Tản Viên là: Chúa Ngàn Cao Cả, Chúa ngàn thiêng, Thần Non Tản, Chúa Non

Xanh, Sơn chủ (Trên đỉnh non Tản). Ba cô gái đàn hay xứ Huế Mộng Liên, Mộng

Tuyết, Mộng Thu được gọi là “Ba cái Mộng”. Ấm Đái (Đới) làm nghề tuốt roi chầu

ông gọi là Đới Roi. Ông cụ uống rượu say mềm ở các Cửa Ô được các cô gái bán

rượu gọi là Bố Ô. Cùng với tên các nhân vật là tên các sự vật, hiện tượng quen

thuộc cũng được ông gọi bằng nhiều cái tên: ông gọi lưỡi mai là bút chì (Ném bút

chì), gọi vầng trăng là vừng trăng (Thả thơ), gọi vành trăng non là cái sừng trăng

(Ngôi mả cũ, Một cảnh thu muộn); gọi lối đánh bạc bằng thơ là thả thơ, đánh thơ,

cuộc đỏ đen trí thức. Cướp một đám thật to còn được Nguyễn Tuân gọi là “đánh

một tiếng bạc lớn” và những kẻ thực hiện đám cướp ấy được gọi là tay chơi, kẻ đàn

anh... Lối chém đầu người có một không hai của tên đao phủ Bát Lê được Nguyễn

Tuân gọi bằng những cách khác nhau: chém treo ngành, lối cặp gắp chả chim... Ở

những cấp độ có quy mô tổ chức lớn hơn, những tìm tòi của Nguyễn Tuân càng độc

đáo, nghịch dị. Nói về một buổi sớm mai: “Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần” (Chén

trà sƣơng); “ánh sáng ban ngày đi vắng mãi những đâu mà đến bây giờ vẫn chưa

thấy về” (Khoa thi cuối cùng). Về một hòn than cháy tàn trong lò: “Hòn than sống

hết một đời khoáng chất”; “cái hấp hối của lũ vô tri vô giác” (Chén trà

sƣơng). Về một ấm nước sắp sôi: “Có tiếng thở dài của khối nước sắp biến

thể” (Chén trà sƣơng). Về một chàng trai chết trẻ: “Cậu con trai không may cướp

công sinh thành” (Thả thơ). Về một đào nương đi lấy chồng: “Một cái miệng cười,

mười ngón tay tháp bút trước kia là của chung thiên hạ bởi nó không có sở cứ, bây

giờ đã trở nên của riêng một nhà” (Đánh thơ)… Lối diễn đạt như những ví dụ vừa

nêu có thể tìm thấy vô số trong lời văn trần thuật của Nguyễn Tuân. Theo Thụy

Khuê, lối nói tân kỳ này người ta gọi là biện pháp siêu thực và biện pháp đó có mặt

trong văn Nguyễn Tuân là do ông tự sáng tạo ra, phi trường phái, không vay mượn,

không chịu ảnh hưởng từ đâu hết [19]. Cách diễn đạt này bộc lộ rõ cả ưu điểm lẫn

nhược điểm. Bên cạnh những thú vị bất ngờ mà nó mang đến cho người đọc, trong

nhiều trường hợp, ngôn ngữ trần thuật của nhà văn không khỏi tỏ ra thiếu tự nhiên

bởi lối “phục sức” rườm rà, cầu kỳ quá mức cần thiết.

Nguyễn Tuân còn là một nghệ sĩ tài hoa, uyên bác, am hiểu nhiều môn nghệ

thuật khác nhau: khảo cổ, hội họa, điện ảnh, âm nhạc... Ông đã phát huy sự hiểu biết

này của mình trong việc sử dụng ngôn ngữ của nhiều ngành nghệ thuật để miêu tả

và dựng cảnh trong các tác phẩm của mình. Miêu tả cuộc biểu diễn lối chém treo

ngành của Bát Lê, Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ của quân sự, xen với võ đạo, vũ

đạo và âm nhạc tạo nên cảnh tượng sống động: “Trước khi hoa thanh quất trong

mấy hàng chuối được chọn lựa kỹ càng kia, Bát Lê đã múa đao chém lia lịa vào

thân mọi cây chuối khác, chém không tiếc tay, chém như một người hết sức tự vệ

trong một cuộc huyết chiến để mở lấy một con đường máu lúc phá vòng vây” [37,

tr. 17]. “Thế rồi vừa hát, vừa chém bên trái, vừa chém bên phải, Bát Lê hát hết

mười bốn câu, và đánh gục mười bốn cây chuối” [37, tr. 19]. Trong Trên đỉnh non

Tản, ông vận dụng kiến thức về khảo cổ để đưa người đọc tới một vùng đất thiêng,

chứa đựng bao điều huyền bí về thế giới lúc sơ khai: “Ở nhiều chỗ không ngờ tới,

người ta thường còn đào thấy những cái hài cốt rất kỳ quái của loài động vật đời

thạch khí...” [37, tr. 182]. Am tường về hội họa, Nguyễn Tuân cũng thành thạo

trong việc sử dụng gam màu thật tài hoa. Ông tinh tế khi miêu tả sự chuyển đổi của

màu sắc qua đó thấy được bước đi của thời gian: “Đêm tờ mờ đen rầm hẳn lại, rồi

đen ngòm, rồi đen kịt, tối hơn cái hũ nút” [37, tr. 195]. Có lúc, Nguyễn Tuân huy

động kiến thức của văn học Tàu và kĩ thuật của nghề thủ công để miêu tả việc làm

đèn kéo quân chơi tết Trung thu trong Một cảnh thu muộn. Đặc biệt, Nguyễn Tuân

hay sử dụng ngôn ngữ của hội họa và điện ảnh để dựng lên những cảnh tượng đặc

biệt ấn tượng. Đó là cảnh ông Huấn Cao cho chữ quản ngục trong Chữ ngƣời tử tù.

Cảnh tượng cứ dần dần hiện lên trước mắt người đọc như một thước phim quay

chậm, mà ở đó có sự vận động từ bao quát toàn cảnh trại giam tỉnh Sơn đến cận

cảnh là buồng giam ông Huấn, từ từ lướt qua cảnh chật chội, tối tăm, bẩn thỉu của

buồng giam đến hình ảnh ba cái đầu người chụm nhau trên vuông lụa bạch giữa

phòng, từ bóng tối đến ánh sáng tỏa ra ở đầu ngọn đuốc, từ xấu đến đẹp, từ ác đến

thiện. Nổi bật lên trong cảnh tượng ấy là hình tượng người tù nghệ sĩ như được

khắc chạm bằng ngôn từ. Toàn bộ cảnh cho chữ hiện lên như một bức tranh sơn mài

rực rỡ và huyền ảo. Cảnh những người thợ Tràng Thôn ngồi trên chiếc thuyền thoi

lao vun vút qua dòng sông vắng, vượt qua thác nước, rừng cây, núi đá để lên tới

đỉnh non Tản như một thước phim được lồng kỹ xảo điện ảnh. Hay cái cảnh báo oán

của oan hồn người đàn bà với ông Đầu Xứ Ngoạt và Đầu Xứ Em trong trường thi

có thể ví như những thước phim kinh dị của điện ảnh hiện đại.

Nguyễn Tuân là người có nhiều trải nghiệm phong phú trong cuộc đời ưa xê

dịch cùng khả năng hiểu biết và học hỏi không ngừng. Nhờ đó mà ông đã có cả một

kho ngôn từ hết sức phong phú, đa dạng. Với sức sáng tạo không ngừng, Nguyễn

Tuân đã góp phần không nhỏ vào nền văn học dân tộc.

3.3.1.2. Hệ thống từ láy phong phú và tinh tế.

Là một người yêu tiếng mẹ đẻ, Nguyễn Tuân cũng nắm rõ khả năng biểu cảm

của hệ thống từ láy trong tiếng Việt. Ông khai thác triệt để khả năng này của ngôn

ngữ trong tác phẩm của mình để tạo nên sự súc tích, cô đọng cho lời văn và các

hình ảnh, biểu tượng hiện lên sinh động và độc đáo. Lấy một đoạn văn trong Chữ

ngƣời tử tù làm ví dụ:

“...Nơi góc chiếc án thư cũ đã nhợt màu son, một cây đèn đẻ leo lét rọi vào

một khuôn mặt nghĩ ngợi. Ngục quan ngồi bóp thái dương một cách băn khoăn.

Tiếng trống thành phủ gần đấy đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh, ngục tốt

cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và tiếng

mõ rất đều đặn, rất thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng

từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con

song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm

nhấp nháy như muốn trụt xuống phía chân giời không định. [37, tr. 101]

Nhờ những từ láy được dùng một cách tinh tế, đoạn văn trên vẽ ra trước mắt người

đọc một họa phẩm thật tài hoa, có màu sắc, âm thanh, ánh sáng. Văn phong uyển

chuyển linh hoạt, phù hợp với cái nhìn khoáng đạt và sự liên tưởng thật phóng túng.

Mỗi câu văn tựa như những nốt nhạc trầm bổng trong một bản đàn, tạo nên âm

hưởng u hoài, ngân vang trong lòng người đọc. Một đoạn văn khác: “Lửa đóm cháy

rừng rực, lúc lụi, tàn lửa rụng xuống nền đất phòng giam, tiếng lửa tắt nghe xèo

xèo” [37, tr. 109]. Những từ láy tái hiện một cách sống động tàn lửa ngọn đuốc tẩm

dầu rơi xuống nền đất phòng giam ẩm ướt. Cách tả của Nguyễn Tuân không chỉ tác

động vào thị giác, thính giác mà còn gợi lên trong trí tưởng tượng của người đọc

như một thước phim sống động.

Có thể lấy ra rất nhiều những ví dụ về cách sử dụng từ láy phong phú và tinh tế

như vậy trong các trang truyện của Nguyễn Tuân. Điều này cho thấy trí tưởng tượng

phong phú cùng tài năng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân.

3.3.1.3. Ngôn ngữ so sánh, giàu hình ảnh, âm thanh và nhạc điệu

Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ say mê đi tìm cái đẹp, cái mới lạ, độc đáo.

Nguyễn Tuân cho rằng: “Cái thảm kịch ghê gớm nhất của người viết văn chuyên

nghiệp là khi tả đến chỗ tình cảnh dữ dội nhưng chữ thì không ra được”. Nói như

vậy để thấy Nguyễn Tuân sáng tạo không ngừng. Vì vậy, khi khám phá và miêu tả

đối tượng, nhà văn luôn có ý thức tạo cho người đọc ấn tượng sâu sắc về đối tượng

miêu tả. Một trong những cách tạo ấn tượng đó là việc dùng ngôn ngữ so sánh.

Nguyễn Tuân có lối ví von so sánh thật tài tình. Đọc văn ông ta thấy sự vật như có

hình có khối thật rõ nét. Miêu tả vóc dáng con người, ông có những so sánh thật

sinh động: “Thế Lữ, Tchya, Lưu Trọng Lư (…), ngực người nào cũng lép như cái

đồng hồ Omega trông nghiêng” (Một đêm họp đƣa ma Phụng). Lối ví von, cách

tạo hình bằng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật độc đáo: “Ông thử roi vào mặt trống

rồi uốn hai đầu xuống; thân roi ưỡn ngửa mãi lên như lúc người đàn bà tránh một

cái hôn bạo” (Đới Roi). Có lúc, ông vừa so sánh, vừa liên tưởng đầy mơ mộng,

giàu chất thơ: “Ví buổi trưa hè này là một đêm trăng có bóng trăng dãi lạnh lùng và

ví cổng chùa Đồi mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một

cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa

động” [37, tr. 28].

Viết về dĩ vãng xa xăm, Nguyễn Tuân thường tạo cho câu văn nhịp điệu đĩnh

đạc, thong thả, từ tốn, thoạt xem cứ tưởng như rề rà, diễn đạt quá ư cầu kì. Nhưng

nghiền ngẫm cho kĩ, mới thấy nhịp điệu cũng như kết cấu câu văn của Nguyễn Tuân

đã góp phần không nhỏ gợi không khí cho truyện tạo nên một sự cộng hưởng hài

hòa, “phục chế” nhịp sống chậm rãi, đầy nghi lễ, với tôn ti trật tự chặt chẽ của một

thời ngưng đọng đã qua. Mấy dòng mở đầu truyện ngắn Chữ ngƣời tử tù và những

lời dặn dò của quản ngục sau khi cho chữ ở cuối truyện cho ta thấy điều rõ đó.

Đồng thời, khá nhiều đoạn trong Chữ ngƣời tử tù “có thể làm đầu đề cho những

họa sĩ nào ưa vẽ những cảnh đặc biệt Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan). Trong truyện Bố

Ô, vua lưu linh, chết cháy vì rượu. Xác cháy trong hơi rượu cũng thơm như mùi

người ta nướng cá mực. Ông so sánh tiếng đàn của bộ tam tấu Bá Nhỡ- Cô Tơ-

Lãnh Út thật vô tiền khoáng hậu. Ranh giới giữa hình sắc và âm thanh nhòe đi, chỉ

còn những hình ảnh siêu thực, độc đáo. Đoạn tam tấu trong tác phẩm được viết toàn

bằng âm trắc, mỗi thanh âm đánh lên nghe cứa sắc, day dứt như những tiếng nấc.

Bá Nhỡ, kẻ tìa tử dám đi đến tận cùng của nghệ thuật, đã xẻ gan thịt mình trong

tiếng đàn, dùng mạng đổi lấy tiếng đàn, đã chịu cực hình tùng xẻo, để tiếng đàn đạt

tới tuyệt đỉnh nghệ thuật. Đó cũng là tuyệt đỉnh nghệ thuật ngôn ngữ biểu đạt của

Nguyễn Tuân.

3.3.2. Giọng điệu

Thế kỉ XX trong văn học được mệnh danh như là thế kỉ của những cách tân và

giọng điệu là một trong những mục tiêu để nhà sáng tạo hướng đến. Nhà khoa học M.

Batkhin nhận ra ngôn ngữ văn học có tính chất đa thanh, đa giọng điệu. Như vậy,

giọng điệu chính là một trong những “chìa khoá” quan trọng để giải mã bức thông

điệp thẩm mĩ của nhà văn. Nó là một yếu tố nghệ thuật nhưng lại mang tính nội dung

rất rõ. Do đó, trong quá trình đọc hiểu tác phẩm không thể không nghiên cứu giọng

điệu. Trong cuộc sống thường ngày, mỗi con người có giọng điệu riêng và bị chi phối

bởi âm sắc, ngữ điệu, cá tính, cảm xúc... Khác với giọng điệu thường ngày, giọng

điệu trong văn chương là “thái độ tình cảm của nhà văn đối với sự việc, hiện tượng

được miêu tả mà người đọc có thể cảm nhận qua sắc thái của lời văn”. “Giọng điệu

phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mĩ của tác giả, nó có

vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách của nhà văn…” [11, tr. 139]. Nhìn từ

phương diện này, giọng điệu là yếu tố cơ bản tạo thành phong cách nghệ thuật. Ngày

nay, phong cách nghệ thuật được hiểu như là một phạm trù thẩm mĩ “chỉ sự thống

nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ

thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng

lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc”. Giọng điệu là sự thể hiện lập trường

xã hội, thái độ, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ, sở trường ngôn ngữ của tác giả, nó gắn

chặt với đối tượng giao tiếp và cách thức tổ chức lời lẽ diễn đạt.

Giọng điệu vừa mang nhiều sắc thái biểu cảm khác nhau vừa mang những nét

rất đặc trưng của mỗi nhà văn. Tuy nhiên chỉ có ở những nhà văn có bản lĩnh, có tài

năng đích thực thì mới có đủ cơ sở để tạo ra cho mình một giọng điệu riêng. Trong

nền văn học Việt Nam hiện đại, nhiều nhà văn đã tạo cho mình một giọng điệu

riêng như: giọng văn châm biếm, mỉa mai của Nguyễn Công Hoan; giọng trào

phúng chua cay của Vũ Trọng Phụng; giọng tỉnh táo, sắc lạnh nhưng cũng đằm

thắm yêu thương của Nam Cao; chất giọng thủ thỉ tâm tình nhưng mà sâu sắc của

Thạch Lam… Còn Nguyễn Tuân đã tạo nên một giọng điệu riêng cho những sáng

tác ở đề tài quá khứ. Đó là giọng điệu khinh bạc nhiều khi pha chất trữ tình mang

màu sắc hoài niệm rất đặc sắc.

3.3.2.1. Giọng điệu khinh bạc

Xã hội Việt Nam trước Cách mạng mà Nguyễn Tuân gọi là “ối a ba phèng”

đầy những áp bức bất công. Ở đó, Nguyễn Tuân phải đối mặt với những trò lừa lọc,

xảo trá, những phường “giá áo túi cơm”… khiến một người có nhân cách và thiên

lương như ông phải quay lưng lại. Thể hiện thái độ với xã hội này, Nguyễn Tuân đã

dùng giọng điệu “khinh bạc đến điều” để đả kích, lên án và tố cáo những loại người

sống giả dối, hèn nhát, an phận, thiếu bản sắc, chà đạp lên cái đẹp. Đó là tư thế và

giọng điệu khinh bạc của ông Huấn Cao trong Chữ ngƣời tử tù. Mặc dù sa cơ lỡ

vận, cận kề cái chết nhưng ông Huấn vẫn thể hiện tính cách ngông nghênh, không

chịu khuất phục trước cường quyền và bạo ngược. Lời nói “Rệp đốt tôi, đỏ cả cổ

lên rồi. Phải dỗ gông đi” và hành động “chúc mũi gông nặng xuống thềm đá tảng,

khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đẩy đánh thuỳnh một cái” [37, tr.103]

trước mặt viên quan coi ngục và lời đe dọa của tên lính áp giải trong buổi đón nhận

tử tù vào nhà lao tỉnh Sơn thể hiện thái độ thách thức, khinh khi với kẻ cầm quyền.

Trước thái độ đầy thiện ý của quan coi ngục và thư lại khi hỏi ông có cần thêm gì

không, ông trả lời một giọng khinh bạc và sẵn sàng chấp nhận đòn trả thù của họ:

“Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là nhà ngươi đừng tới quấy rầy ta”

[37, tr. 105]. Hành động dỗ gông là hành động biểu thị tự do, bất chấp cường quyền

và bạo ngược của một con người chọc trời khuấy nước. Còn giọng điệu khinh bạc

bộc lộ thái độ kiên quyết không chấp nhận đội trời chung với cái xấu và cái ác của

Huấn Cao. Trong truyện Một cảnh thu muộn, giọng điệu khinh bạc của tác giả

được thể hiện qua thái độ và cách nói năng của cụ Thượng Nam Ninh với người con

trai lớn- ông Cử Cả. Khi ông Cử Cả cho quân lính ra đón cha về ở với mình trong

phủ huyện cho rộng rãi thoáng mát, cụ Thượng chỉ bảo: “Lần sau, anh được lúc

việc quan thanh thản, có ra chơi ngoài phố này với thầy, đừng có nên đem lính ra

nhé. Ồn lắm. Chúng nó có sinh vào đời vua Lê chúa Trịnh, thì cho gia nhập thêm

vào cái đám kiêu binh Tam phủ được đấy.” [37, tr. 138]. Một lần khác, cụ Thượng

cũng dùng lời lẽ khinh bạc như thế trả lời người con cả: “Anh cũng rõ cái tính tôi

vốn sợ cái bọn lính hầu cận và lại hay tránh sự giao thiệp. Tôi tưởng vào ở tư thất

một huyện nha nó phiền nhiễu lắm” [37, tr. 139]. So sánh lính trong phủ huyện Thọ

Xương của ông Cử Cả với đám kiêu binh nổi loạn ở thế kỷ XVIII, Nguyễn Tuân

ngầm bộc lộ thái độ khinh khi với những kẻ bon chen danh lợi, phá phách, chà đạp

lên cái đẹp. Ở một truyện ngắn khác là Chén trà trong sƣơng sớm, Nguyễn Tuân

đã thể hiện giọng điệu khinh bạc của cụ Ấm với những kẻ phàm phu tục tử, không

biết đến cái thú thanh tao khi thưởng trà mà chỉ độc một kiểu “ngưu ẩm”: “Có lẽ tôi

phải mua ít chén có đĩa ở hiệu Tây, để mỗi khi có mấy thày làm việc bên Bảo Hộ tới

thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà

chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tàu không có thể ồn ào

được” [37, tr. 129]. Giọng điệu nhẹ nhàng nhưng pha chút mỉa mai ấy của cụ Ấm

phản ánh thái độ không chấp nhận thói tục và lối sống xô bồ của cuộc sống hiện tại.

Có lúc cái giọng khinh bạc lại thể hiện kín đáo, ý nhị qua nụ cười tủm tỉm của cô Tú

trong Thả thơ khi nhìn những kẻ bất tài ăn may chọn một chữ rất quê kệch mà lại

ăn tiền: “Đấy ông xem, ở đời ăn nhau ở may rủi, chứ tài hoa mà làm gì, phải không

ông?” [37, tr. 48]. Đó là giọng khinh khi, mỉa mai những cụ Tuần chơi không được

lịch sự hay ông huyện Bình Khê “người trông đứng đắn thế vậy mà nhảm lạ” trong

truyện Đánh thơ. Họ mang danh là quan trên, là trí thức nhưng bản thân chỉ là

những kẻ cờ gian bạc lận, quấy nhiễu ăn tiền.

Trần Đình Sử trong cuốn Nguyễn Tuân toàn tập (xuất bản năm 2000) cho

rằng giọng văn của Nguyễn Tuân là “giọng văn mang nhiệt tình chống lại sự giả dối

trong mọi trường hợp”. Qua sáng tác của Nguyễn Tuân, ta có thể thấy, giọng điệu

khinh bạc ở đây chính là biểu hiện thái độ đả kích những thói xấu, thói tục để hướng

con người tới lối sống cao đẹp hơn.

3.3.2.2. Giọng điệu trữ tình mang màu sắc hoài niệm

Trong những tác phẩm về đề tài quá khứ, chúng tôi thấy Nguyễn Tuân còn có

giọng trữ tình mang màu sắc hoài niệm. Nhà phê bình Đỗ Đức Hiểu khi đọc tập

Vang bóng một thời nhận xét: “Có thể cảm nhận Vang bóng một thời như một bài

thơ- một bài thơ với những nhịp mạnh xen lẫn những nhịp nhẹ, với những trùng

điệp day dứt, những rung động mãnh liệt hay nhẹ nhàng, tỏa lan những đợt sóng dữ

và những làn sương mờ” [18, tr. 46].

Ở đây, cần phân biệt giọng điệu trữ tình và thể loại trữ tình. Giọng điệu trữ tình

là một bình diện của thi pháp học, còn thể loại trữ tình (có thể hiểu là thơ ca nói

chung) là thuộc lí luận văn học. Xét ở phương diện nào đó, giọng điệu trữ tình là

giọng điệu cơ bản nhất của thể loại trữ tình. Tuy nhiên không chỉ ở thể loại trữ tình

mới có giọng điệu trữ tình mà ở thể loại tự sự vẫn có sắc thái giọng điệu này. Tôn

Thảo Miên cho rằng, chất giọng trữ tình của Nguyễn Tuân chủ yếu bộc lộ ở thể loại

tùy bút. Còn Nguyễn Đăng Mạnh nhận xét: đối với hiện tại, Nguyễn Tuân thường

chỉ dành cho những lời hằn học và khinh bạc nhưng viết về cái ngày xưa, giọng văn

của ông bao giờ cũng đôn hậu. Đôn hậu nhưng biết bao buồn tủi ngậm ngùi. Trong

tập Vang bóng một thời, giọng điệu trữ tình, hoài niệm được Nguyễn Tuân sử

dụng rất phổ biến nhằm gợi lên quá khứ:

- “Cùng một buổi chiều ấy”, “Thế là từ hôm ấy”, “Nội cỏ trước dinh quan Đổng lý

quân vụ một buổi chiều thu đã quyết đổi màu”… (Bữa rƣợu máu).

- “Năm ấy nước sống Nhị Hà lên to”, “Năm sau”, “Ông khách năm nọ”, “Giá cái

lão ăn mày ấy sinh vào thời này”… (Những chiếc ấm đất)

- “Bỗng một buổi chiều năm ấy”… (Trên đỉnh non Tản)

- “Hồi cụ Thượng còn nhậm ở dưới Sơn Nam hạ” (Một cảnh thu muộn)

Nguyễn Tuân thường viết những câu văn dài, có sự phối hợp thanh bằng trắc

tạo âm hưởng đĩnh đạc, trầm buồn, thong thả, từ tốn. Nhịp điệu và kết cấu câu văn

của Nguyễn Tuân đã góp phần gợi không khí cho truyện và tạo nhạc điệu hài hòa,

phục chế nhịp sống chậm rãi, đầy nghi lễ, với tôn ti trật tự chặt chẽ của một thời

đã qua.

Nguyễn Tuân viết văn như là cách để chơi ngông với đời dựa trên sự tài hoa,

lịch lãm của bản thân. Mỗi nhân vật mà ông sáng tạo đều là những hóa thân của

chính nhà văn. Bởi vậy, giọng điệu trong truyện ngắn của ông mang dấu ấn cá nhân

rõ nét. Cũng là giọng điệu trữ tình, nhưng cái trữ tình của Nguyễn Tuân không

giống Nam Cao. Giọng điệu trong truyện ngắn của Nam Cao là giọng tỉnh táo, sắc

lạnh nhưng ẩn sâu bên trong là tấm lòng cảm thông, thương xót, chan chứa tình yêu

thương của ông dành cho những kiếp người đau khổ. Nam Cao thường hay dùng

những từ cảm thán, có ngữ điệu: “Đời. Chao ô! Đời” (Sống mòn), “Chao ôi! Hắn

đã viết những gì?” (Đời thừa), “Chao ôi, Hỡi ôi, Dì Hảo ơi” (Dì Hảo), “Ai cho tao

lương thiện?, Tao không thể là người lương thiện được nữa” (Chí Phèo), “Chao ôi.

Đối với những người ở xung quanh ta…(Lão Hạc)... tất cả đều gợi lên niềm chua

xót của ông với kiếp người đáng thương. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm của Nguyễn

Tuân cũng không giống với giọng điệu trữ tình của Thạch Lam. Thạch Lam thường

có giọng điệu nhỏ nhẹ, điềm đạm, tinh tế, đi sâu khai thác nội tâm nhân vật. Còn

Nguyễn Tuân rất ít dùng từ cảm thán mà dùng nhiều hình dung từ, từ láy cùng lối

diễn đạt cầu kỳ, sáng tạo để gợi lên những bức tranh có sự tác động mạnh đến giác

quan người đọc. Nguyễn Tuân ít miêu tả nội tâm, cũng ít quan tâm đến ngoại hình

nhân vật mà chủ yếu qua hành động và lời nói thể hiện tính cách nhân vật. Sự lựa

chọn này tạo nên phong cách riêng, nhất quán trong tất cả các sáng tác của Nguyễn

Tuân. Giọng điệu trữ tình, hoài niệm không chỉ bàng bạc khắp không gian của

Vang bóng một thời mà còn thể hiện rõ nét trong những thiên tùy bút viết về

phong cảnh quê hương, đất nước cả trước và sau Cách mạng như Một chuyến đi,

Cửa Đại, Tùy bút I, II, Ngƣời lái đò sông Đà, Tình rừng, Tờ hoa, Hà Nội ta

đánh Mỹ giỏi…

Giọng điệu khinh bạc, mỉa mai và giọng trữ tình, hoài niệm hòa quyện trong

những trang văn của Nguyễn Tuân tạo nên một nét bản sắc riêng, không lẫn với bất

cứ ai. Điều này nhất quán với phong cách nghệ thuật và cá tính của nhà văn.

3.4. Kết cấu

Các tác phẩm văn học không chỉ khác nhau về chất liệu hiện thực (với thơ đó

là hệ thống cảm xúc và suy nghĩ, là hình ảnh, hình tượng thơ; với văn xuôi và kịch

là hệ thống sự kiện, hệ thống tính cách…) mà còn khác nhau về cách bố trí, sắp xếp,

tổ chức các chất liệu hiện thực đó trong tác phẩm (với thơ đó là cách cấu tạo các câu

thơ, khổ thơ, đoạn thơ… với văn xuôi và kịch đó là cách dựng lớp, cảnh, chương,

phần, tập…) cách tổ chức các yếu tố bên trong và bên ngoài tác phẩm như vậy gọi

là kết cấu.

Theo Lý luận văn học (Nhà xuất bản Giáo dục, 2001) thì “kết cấu là sự tạo

thành và liên kết các bộ phận trong bố cục tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu

tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác phẩm trên cơ sở đời sống khách quan

và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định” [9, tr. 142- 143].

Theo Từ điển văn học (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 1983) thì kết cấu là:

“Toàn bộ tổ chức phức tạp gồm mọi mối quan hệ giữa chỉnh thể và bộ phận trong

một tác phẩm văn học”. Từ điển văn học còn phân định các hình thức kết cấu khác

nhau như: kết cấu theo trình tự thời gian, kết cấu theo tâm lí, kết cấu theo lối đi

thẳng vào giữa câu chuyện…

Trong sáng tác nghệ thuật, kết cấu là phương diện cơ bản tạo nên diện mạo tác

phẩm, là một yếu tố của hình thức vì vậy nó có vai trò quan trọng trong việc thực

hiện nhiệm vụ đối với các yếu tố của nội dung tác phẩm. Mục đích của kết cấu là

tạo thành một thế giới nghệ thuật mang tính khái quát của tác giả, giúp cho ngời đọc

thấy được hình tượng nghệ thuật với tất cả chiều rộng, chiều sâu, tất cả tính bức

thiết và ý nghĩa nhân sinh của nó đối với con người.

Trong cuốn Lý luận văn học, nhà nghiên cứu Đoàn Đức Phương cho rằng: “...

nhiệm vụ quan trọng nhất của kết cấu là phải tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập

trung, tư tưởng thống nhất, sao cho chủ đề- tư tưởng thấm sâu vào từng bộ phận

của tác phẩm, kể cả những chi tiết nhỏ nhất” [9, tr. 143].

Với những tác phẩm của Nguyễn Tuân, chúng tôi nhận thấy có rất nhiều hình

thức kết cấu khác nhau. Nhưng nổi bật và ấn tượng nhất là kiểu kết cấu tự do, linh

hoạt, phóng túng và kiểu kết cấu lồng ghép.

3.4.1. Kết cấu tự do, linh hoạt, phóng túng

Kết cấu tự do, dẫn chứng linh hoạt, phóng túng chính là đặc trưng nổi bật của

thể loại tùy bút. Có người nói: Tự do là phép tắc duy nhất của tùy bút. Ở thể loại

văn này, người viết có thể tùy cảm xúc của mình mà tả người, kể vật, đồng thời tự

do bộc lộ cảm xúc, suy ngẫm về cuộc sống. Đây là mảnh đất dung nạp những tài

năng có trí tuệ và tâm hồn. Nhưng không chỉ có ở tùy bút, Nguyễn Tuân mới sử

dụng kết cấu tự do, dẫn dắt linh hoạt, phóng túng mà ở truyện ngắn ta vẫn bắt gặp

kiểu kết cấu này. Những truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời đã được giản

lược tình tiết đi rất nhiều bởi dường như nhà văn đang viết theo cảm hứng nhiều

hơn. Văn chương như là nơi để Nguyễn Tuân phô bày sự tài hoa, uyên bác của mình

về các môn nghệ thuật cổ truyền của dân tộc. Mỗi câu chuyện giống như một bức

bích họa độc đáo về những thú chơi thanh cao của các bậc cổ nhân nước Việt: nghệ

thuật ẩm thực (Những chiếc ấm đất, Chén trà sƣơng, Hƣơng cuội), thú vui chơi

tao nhã (Thả thơ, Đánh thơ, Một cảnh thu muộn), lối ứng xử tinh tế (Ngôi mả

cũ, Chữ ngƣời tử tù), nét tài hoa nghề nghiệp (Trên đỉnh non Tản, Ném bút chì,

Chém treo ngành)…

Trong tập truyện này, ta thấy kết cấu tác phẩm khá lỏng lẻo, không có biến cố

và xung đột dữ dội giữa các nhân vật hay những giằng xé về nội tâm như vẫn

thường thấy trong thể loại truyện ngắn. Truyện của Nguyễn Tuân rất ít nhân vật,

ông cũng ít miêu tả ngoại hình hay nội tâm nhân vật, mà chủ yếu miêu tả cụ thể, tỉ

mỉ tài năng, sở thích của họ. Khảo sát qua truyện ngắn Một cảnh thu muộn, chúng

tôi thấy trong 18 trang truyện (từ trang 135 đến trang 153) Nguyễn Tuân đã dành 9

trang cuối (từ trang 145 đến trang 153), tức là dành một nửa truyện để miêu tả thật

tỉ mỉ cách làm đèn và chơi đèn kéo quân của ba thế hệ trong gia đình cụ Thượng

Nam Ninh. Nhìn chung, các truyện đều có nhân vật, nhưng dường như nhân vật chỉ

là cái cớ để nhà văn bộc lộ những cảm xúc chủ quan của mình, vì vậy các nhân vật

đều là những hóa thân của Nguyễn Tuân, dù họ mang những cái tên như Bát Lê, Cai

Xanh, Phó Sứ, Huấn Cao… Họ có thể là những nhân vật lãng tử giang hồ không

muốn dừng chân ở một chỗ nào nhất định hoặc là những nhà nho bất đắc chí.

Nhưng họ đều là những con người tài hoa, sự sống đối với họ chỉ để thi tài và khoe

tài, để thờ phụng cung kính cái đẹp mà thôi. Những nhân vật ấy chính là sự hóa thân

của Nguyễn Tuân, một cá tính độc đáo, cao ngạo, một con người tài hoa sống mà

như chỉ để trêu ngươi với đời.

Như vậy, với việc tìm hiểu các tác phẩm văn xuôi của Nguyễn Tuân, chúng ta

thấy những hình ảnh biểu cảm được ông xây dựng bằng kiểu kết cấu tự do, dẫn dắt

hết sức linh hoạt, phóng túng, không dựa trên một mô hình, một khuôn mẫu nào.

Nguyễn Tuân cũng từng lý giải: “Có anh nhận xét tôi hay lan man. Nhưng bài văn

đâu phải là bản báo cáo mà phải có những mục một, hai, ba, bốn… cũng không

phải bài luận học trò. Cái nói chỉ là hiện tượng bên ngoài, điều quan trọng là cái

mạch tư tưởng bên trong chứ”. Chính kiểu kết cấu này làm cho mỗi sáng tác của

Nguyễn Tuân đều chứa đựng những nét độc đáo, hết sức riêng biệt, không bị trùng

lặp và có sức hấp dẫn người đọc

3.4.2. Kết cấu lồng ghép

Nếu như kiểu kết cấu tự do dẫn dắt linh hoạt phóng túng thường gặp trong tùy

bút thì đến kiểu kết cấu lồng ghép lại chủ yếu thấy trong thể loại truyện ngắn của

Nguyễn Tuân.

Kết cấu lồng ghép được sử dụng chủ yếu trong các truyện ngắn gồm một tuyến

truyện chính và tuyến truyện phụ, trong đó tuyến truyện phụ đóng vai trò là đối

tượng quy chiếu, liên tưởng, giải thích cho tuyến truyện chính. Câu chuyện trong

tuyến truyện chính được thuật lại đầy đủ, còn câu chuyện trong tuyến truyện phụ

thường chỉ là những trích đoạn ngắn được ghép rải rác vào câu chuyện chính.

Mặc dù Nguyễn Tuân không dành nhiều tâm lực trong việc xây dựng kết cấu

cho truyện ngắn của mình, nhưng ở một số tác phẩm ta vẫn thấy được dụng tâm của

nhà văn khi lồng ghép các truyện vào với nhau như trong truyện: Những chiếc ấm

đất, Chén trà sƣơng, Ngôi mả cũ, Trên đỉnh non Tản… Sự đan xen, lồng ghép

những chuyện như thế sẽ tăng cường thêm sức khêu gợi, liên tưởng và khái quát.

Các câu chuyện lồng ghép, đan xen thường mở đầu ở thời điểm hiện tại để trở về

một thời điểm trong quá khứ:

- “Tôi nhớ hồi còn nhỏ…” (Chén trà sƣơng)

- “Có lẽ hồi nhỏ, những lúc ở trong thành xây đá tổ ong tỉnh Sơn, hồi thầy còn ở

chức…” (Ngôi mả cũ)

- “Tục truyền có những trận hồng thủy dữ dội tàn khốc…” hay “người ta truyền lại

rằng…” (Trên đỉnh non Tản)

- “Ngày xưa có một người ăn mày cổ quái…” (Những chiếc ấm đất)

Trong truyện Những chiếc ấm đất, Nguyễn Tuân viết về thú uống trà, đam mê

cái phong vị của trà tàu đến nhiều khi lầm lỗi của ông cụ Sáu. Thú uống trà của ông

đã thành sành điệu và tinh tế. Để tăng cái tinh tế của người đam mê trà, Nguyễn

Tuân đã lồng ghép vào câu chuyện về người ăn mày cổ quái sành trà, chỉ chọn

những nhà đại gia để xin và chỉ xin được uống trà tàu với! Trong cái bị ăn mày của

hắn lúc nào cũng mang một cái ấm độc ẩm để tự tay pha trà xin được để thưởng

thức. Ông lão ăn mày đó thưởng thức trà với tất cả khoái cảm của mình nhưng vẫn

tinh tế phát hiện ra trong trà bị lẫn tạp chất của những mảnh trấu khiến hương vị của

trà lạc mất cái thanh tao. Mọi người ban đầu tưởng ông lão điên nhưng sau đó phát

hiện ra dưới đáy lọ trà đổ vung vãi là mươi mảnh trấu, lúc đó họ mới kinh ngạc và

thán phục. Trước cái người ăn mày trà kì lạ đó, ông cụ Sáu phải thốt lên: “Tôi chắc

cái lão ăn mày này đã tiêu cả một cái sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn

mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị, gậy” [37, tr. 33] và ao ước: “giá lão ăn mày ấy

sinh vào thời này, thì tôi dám mời anh ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau mà

thưởng thức trà ngon” [37, tr. 33]. Câu chuyện thêm thắt làm gia tăng sức hấp cho

truyện ngắn này. Đồng thời, đó như là lối phục bút của Nguyễn Tuân báo trước hậu

vận bi đát của ông cụ Sáu sành trà tàu. Kết cấu truyện lồng trong truyện này làm

cho người đọc cảm nhận cái thê lương, tàn lụi của một lớp nhà nho đang đi vào thời

mạt vận kéo theo sự mai một dần của một trong những nhã thú của người xưa. Sự

luyến tiếc cái đẹp xưa qua giọng kể đầy khinh bạc của nhà văn làm nên chất trữ tình

của thiên truyện.

Truyện Ngôi mả cũ cũng có cái kết cấu kiểu truyện lồng trong truyện. Có một

câu chuyện tác giả kể về hai chị em cô Tú- cậu Chiêu mời thầy địa lý Hồ Viễn về

nhà để xem đất đặt phần mộ cho cha mình, vốn là quan Án Sát và một câu chuyện

về cuộc đời oai phong, lẫm liệt của cụ Hồ Viễn- nguyên là tướng Cờ Đen hồi còn

đánh nhau với Tây được cô Tú kể cho cậu Chiêu nghe. Kiểu kết cấu truyện như thế

này làm nổi bật lên hình tượng nhân vật cụ Hồ Viễn. Người đọc có cảm giác ngạc

nhiên, thích thú giống như cậu Chiêu khi phát hiện ra chung quanh thân thế một ông

thày địa lý khó tính chỉ đáng trọng một cách vừa phải thôi và lại nhiều khi gượng ép

nữa, là cả một huyền sử bọc chung quanh một lão tướng võ nghệ cao cường và bí

mật. Phải chăng, Nguyễn Tuân muốn truyền tải thông điệp: không nên nhìn vẻ bề

ngoài để đánh giá một con người. Rất nhiều người bình thường xung quanh ta,

nhiều khi ta cảm thấy phiền hà với họ nhưng chính cuộc đời họ là một pho sử sống

khiến ta phải nghiêng mình kính nể.

Trong truyện Trên đỉnh non Tản, để làm nổi rõ hơn quang cảnh sau trận đánh

ghen của Vua Thủy và thánh Tản Viên ở các làng mạc tỉnh Đoài, Nguyễn Tuân đã

đưa vào truyện những hình ảnh kỳ quái về hài cốt của loài động vật thời thạch khí

như xác mai của con giải to như cái hồ nước, những loài chim khổng lồ, hài cốt của

nhiều giống thủy quái… tất cả những hình ảnh ấy là của câu chuyện về những trận

đại hồng thủy từ hồi thánh Tản Viên gây thù kết án với Tiểu Long Hầu con vua Thủy

Tề vì một nàng công chúa xinh đẹp. Mối thù oán ấy cứ kéo dài mãi cho đến ngày sau:

“Mỗi kỳ đánh ghen, nước các vùng lại đổ về như thác và dâng cao mãi lên, đỉnh non

Tản muốn cho khỏi ngụp dưới làn nước ghen oán, lại có dịp để ngoi lên cao thêm

nữa, thêm mãi” [37, tr. 184], để rồi cứ mấy năm Thánh Tản lại mời những người mộc

tài hoa tỉnh Sơn Tây lên đền Thượng trùng tu lại. Những câu chuyện huyền bí đan

xen này đã góp phần làm nên không khí linh thiêng, kỳ ảo cho câu chuyện trên đỉnh

non Tản. Bên cạnh đó, lối kể chuyện mà như phô diễn kiến thức cho thấy nét uyên

bác của nhà văn, đồng thời làm mờ nhòa ranh giới giữa truyện ngắn và tùy bút. Đây

là nét phong cách riêng trong truyện ngắn Nguyễn Tuân.

Truyện Khoa thi cuối cùng gợi lên không khí huyền thoại, huyền bí khi tác

giả lồng ghép vào câu chuyện anh em ông Đầu Xứ Ngoạt hỏng thi là câu chuyện lúc

sinh thời cụ Huấn, cha của hai ông đã “mang lấy trách nhiệm tinh thần về cái chết

của một nàng hầu tài tình nổi tiếng một thời. Người thiếp đó lúc tự ải đã có mang

được sáu, bảy tháng”. Chính vì vậy mà khi ông Đầu Xứ Anh đi thi đã bị oan hồn

người phụ nữ kia hiện lên phá rối đánh bay kỳ kinh nghĩa. Đến lượt ông Đầu Xứ

Em đi thi cũng bị oan hồn làm cho mê man và cũng bị trượt ngay vòng đầu. Kiểu

kết cấu lồng ghép này tiếp tục gợi lên vẻ tiều tụy, đáng thương của lớp nhà nho cuối

mùa. Ẩn sau giọng điệu ngang tàng, khinh bạc, Nguyễn Tuân đã bộc lộ một niềm

xót thương kín đáo với một lớp người trong quá khứ chưa xa.

Nói chung, kiểu kết cấu lồng ghép này làm gia tăng yếu tố sự việc cho câu

chuyện. Nó vừa là cách để Nguyễn Tuân phô ra sự tài hoa, uyên bác của mình, vừa

thể hiện sự luyến tiếc của ông với vẻ đẹp của của một lớp nhà nho trong quá khứ,

nay chỉ còn vẻ thê lương, ảm đạm. Chính điều này làm nên nét đặc sắc cho mỗi

truyện ngắn của ông và cũng là yếu tố làm cho những tác phẩm của Nguyễn Tuân

kén độc giả. Còn với người yêu mến văn chương Nguyễn Tuân lại thích thú bởi qua

mỗi trang văn họ lại có thêm tri thức và hiểu biết, góp phần làm phong phú thế giới

tinh thần.

3.5. Thủ pháp nghệ thuật tƣơng phản, đối lập

Theo nhận xét của các nhà phê bình, nghệ thuật lãng mạn có khả năng dung

nạp rộng rãi các phương tiện thể hiện. Trong đó, tương phản, đối lập là thủ pháp đặc

thù. “Tinh thần lãng mạn chính là sự nối kết liên tục các yếu tố đối kháng nhau : Tự

nhiên và nghệ thuật, thơ ca và văn xuôi, sự nghiêm túc và thú vui, kỷ niệm và dự

cảm, tư tưởng trừu tượng và những cảm giác sống động, sự sống và cái chết… hòa

lẫn với nhau một cách mật thiết trong thể loại lãng mạn” (A. W. Sleigel). Trong

sáng tác của Nguyễn Tuân, ta luôn thấy có sự tương phản đối lập giữa ánh sáng và

bóng tối, thiện và ác, đẹp và xấu, cao cả và thấp hèn, tài và bất tài,… Truyện ngắn

Chữ ngƣời tử tù có lẽ là nơi các đường ranh giới đối lập thiện- ác được giăng ra

nhiều nhất. Bản thân mối quan hệ giữa Huấn Cao với ngục quan đã có tới hai lần

đối lập. Nhìn từ phía này, ngục quan là mệnh quan triều đình, đại diện cho trật tự,

luân lí và đạo đức còn Huấn Cao là tử tù, giặc của triều đình, kẻ bất trung, vô đạo.

Nhìn từ phía khác, từ lí tưởng thẩm mĩ của nhà văn, Huấn Cao là bậc kì tài, cũng là

trang anh hùng đội trời đạp đất, khí phách ngang tàng, cuộc đời như được bao bọc

trong một thiên huyền sử. Nói cách khác, ông là hiện thân của cái tận mĩ, chí

thiện. Trong khi đó, quản ngục và thơ lại chỉ là lũ phàm phu, bọn tiểu tốt vô danh,

đại diện cho trật tự thối tha mà Huấn Cao chống lại. Đối lập gay gắt nhất vẫn là đối

lập giữa một bên là cái “thiên lương” không hề suy suyển ở những kẻ như quản

ngục và viên thơ lại, với một bên là “hoàn cảnh đề lao”, nơi “người ta sống bằng

tàn nhẫn, bằng lừa lọc”. Ông trời nhiều khi chơi ác, đem đầy ải những cái thuần

khiết trong một đống cặn bã, những người tốt nhiều khi lại phải ăn đời ở kiếp với lũ

quay quắt. Sống trong môi trường đầy cám dỗ và sự bủa vây của cái ác, người thiếu

bản lĩnh và không có lí tưởng sống của riêng mình rất dễ sa đọa. Rơi vào hoàn cảnh

ấy, tấm lòng biết giá người, biết trọng người ngay của quản ngục được Nguyễn

Tuân ca ngợi là “một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật

đều hỗn loạn xô bồ” [37, tr. 102]. Vẻ đẹp của quản ngục giống như hoa sen mọc lên

giữa bùn nhơ để tỏa sắc khoe hương. Bút pháp tương phản, đối lập được vận dụng

cao độ trong việc tả cảnh tượng Huấn Cao cho chữ quản ngục. Đây là “một cảnh

tượng xưa nay chưa từng có”. Chưa từng có bởi người ta thường cho chữ ở những

nơi thư phòng, thư sảnh sạch sẽ, thanh tao thì ở đây lại là nơi phòng giam chật hẹp,

ẩm ướt, bẩn thỉu, hôi hám. Người cho chữ thường phải trong tâm thế sáng tạo hoàn

toàn tự do cả về tinh thần và thể xác thì ở đây lại là một người tử tù, cổ đeo gông

chân vướng xiềng và ngày mai phải vào kinh chịu án chém. Người nhận chữ lại là

viên quan coi ngục. Người tử tù nghệ sĩ hiện lên đẹp lồng lộng và đang dặn dò quản

ngục từng lời di huấn thiêng liêng còn quản ngục thì khúm núm, khiêm nhường đón

nhận như nuốt từng câu chữ của lời di huấn. Có một cuộc đổi thay ngoạn mục về vị

thế giữa hai nhân vật. Nhưng hơn hết, với thủ pháp “vẽ mây nảy trăng”, Nguyễn

Tuân đã xây dựng hai nhân vật trong thế đối sánh nhau, người này làm nổi bật vẻ

đẹp của người kia. Hiệu quả của nghệ thuật này góp phần làm cho một truyện ngắn

chưa đầy 3000 chữ mà ý nghĩa phong phú, sâu sắc và đầy dư vị. Như vậy, thủ pháp

đối lập được vận dụng nhuần nhuyễn, uyển chuyển linh hoạt trong Chữ ngƣời tử tù

làm nổi bật lên giá trị nhân văn của tác phẩm.

Trong một số truyện khác của Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân cũng sử

dụng nghệ thuật tương phản một cách có hiệu quả trong việc thể hiện dụng ý của

mình. Ông Cử Hai và ông Cử Cả trong Một cảnh thu muộn là hai anh em cùng cha

mẹ nhưng họ khác nhau từ quan niệm nhân sinh đến nhất cử nhất động nhỏ nhặt

hàng ngày. Ông Cử Cả chọn cho mình con đường quan lộ nhiều bon chen, thủ đoạn

thì ông Cử Hai lại chọn cho mình lối sống của một lãng tử coi thường danh lợi, coi

kiếp sống của mình như một cuộc dạo chơi bất tận. Khi đối lập hai nhân vật cũng là

hai loại người tiêu biểu trong xã hội lúc đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện thái độ đồng

tình, ủng hộ quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tinh thần của con người và coi thường

lối sống của bọn người cơ hội, hãnh tiến trong xã hội.

Trong sáng tác của Nguyễn Tuân có hai đề tài quan trọng là vẻ đẹp cuộc sống

quá khứ và thú xê dịch giang hồ. Viết về những đề tài ấy, Nguyễn Tuân muốn đối

lập chúng với đời sống tẻ nhạt của thời đại máy móc, hoặc sự xô bồ, hỗn độn đầy

chất văn xuôi của xã hội đô thị đương thời. Không chỉ dừng lại ở đó, ý nghĩa tư

tưởng của những tác phẩm viết về hai đề tài này còn sâu sắc và lí thú hơn nhiều.

Riêng ở đề tài viết về quá khứ, ta thấy Nguyễn Tuân không chỉ là tác giả của Vang

bóng một thời mà còn là chủ nhân của một loạt tác phẩm: Chiếc lƣ đồng mắt

cua, Ngọn đèn dầu lạc, Tàn đèn dầu lạc... Ông không chỉ viết về những cái thú

của lớp người thất thế thuộc về thời đã qua như trồng hoa cây cảnh, làm đèn kéo

quân, đánh cờ, uống trà, “đánh thơ”, “thả thơ”, mà còn viết cả về thú uống rượu, hút

thuốc phiện, thú nhà trò, con hát, thú “hàng viện” của người đương thời. Chỉ cần

đọc mấy tác phẩm như Chiếc lƣ đồng mắt cua, Cửa Đại hay Chiếc va li mới, ta

sẽ nhận ra ngay trục đối lập của Nguyễn Tuân. Ở những tác phẩm ấy, ông thường

đối lập hai thế giới: trong này và ngoài kia. Trong này là thế giới của khuôn viên,

nhà cửa; ngoài kia là thế giới của thiên nhiên bao la, xã hội rộng lớn. Trong này là

thế giới của công sở, của gia đình, cha mẹ, vợ con; ngoài kia là thế giới của nhà hát,

“hàng viện”, cao lâu, tửu quán, của nhân tình, nhân ngãi. Mỗi thế giới có không

gian riêng, luân lí riêng. Trong này là thế giới của bổn phận, ngoài kia là thế giới

của những cuộc kì duyên, kì ngộ, thế giới tri kỉ, tri âm, “biệt nhỡn liên tài”. Trong

này là thế giới tri thức kinh viện chết cứng của nhà phê bình, ngoài kia là cuộc đời

sống động, kì thú của nghệ sĩ. Có thể khái quát, trong này là thế giới chính

thống, quan phương, ngoài kia là vương địa của cái ngoại biên, bên lề. Không phải

ngẫu nhiên, trong Chiếc lƣ đồng mắt cua, Nguyễn Tuân gọi thế giới gia đình, thế

giới trong nhà là “ban ngày”, còn thế giới ngoài kia, thế giới cao lâu, nhà trò, tửu

quán thuộc về “ban đêm”. “Ban đêm” là cả một thế giới sống động. “Ban ngày” chỉ

là thế giới đông lạnh, chết cứng.

Trong văn học trước 1945, viết về những người dưới đáy xã hội là đề tài riêng

của văn học hiện thực phê phán. Đó là đối tượng phản ánh chủ yếu của các cây bút

hiện thực nổi tiếng như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Nam

Cao,…Trong khi đó văn học lãng mạn ít người đề cập tới. Thạch Lam, Nguyễn

Tuân là những cây bút lãng mạn đi đầu về đề tài kẻ bên lề, dân ngoại biên. Gần như

không có ngoại lệ, thế giới nhân vật đông đúc của Nguyễn Tuân đều là dân cư của

vùng ngoại biên, bên lề. Trong sáng tác của ông, chỉ ở thế giới bên lề mới có các

bậc kì nhân, kì tài, những người chí thành,, chí tình, mới diễn ra những chuyện kì

duyên, kì ngộ. Quan trọng hơn, chỉ khi nào phiêu dạt sang bên lề, ra ngoại biên,

sáng tạo nghệ thuật mới tìm thấy sự kì thú để thăng hoa. Các nhân vật như vợ chồng

Phó Sứ- Mộng Liên, ông Huấn Cao, ông Cử Hai, ông Thông Phu, cô Đào Tâm,

Nguyễn, Bát Lê… là những nhân vật như thế.

Việc sử dụng thủ pháp tương phản, đối lập trong sáng tác cho thấy Nguyễn

Tuân đặt cái đẹp lên trên hết. Những cái thấp hèn, phàm tục được miêu tả để tôn lên

cái cao cả, phi thường. Qua đó, ta thấy được tính chất nhất quán trong quan niệm và

phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.

Tiểu kết chƣơng 3: Những thành công trên phương diện nghệ thuật như tạo

dựng thời gian, không gian quá khứ từ điểm nhìn hiện tại, xây dựng được tình

huống truyện đặc sắc cùng sự sáng tạo tài hoa về ngôn ngữ, giọng điệu, kết cấu và

vận dụng các thủ pháp tương phản, đối lập không chỉ góp phần thể hiện chân thực,

tinh tế đề tài viết về quá khứ mà còn làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, tài

hoa của Nguyễn Tuân. Nhà văn kính trọng và yêu mến cái đẹp, coi công việc sáng

tạo là công việc quý báu thiêng liêng. Thành công của những sáng tác viết về đề tài

quá khứ chẳng những nhờ người viết đã am hiểu, đã sống và yêu mến, nâng niu thật

sự những điều mình thuật tả, mà còn do ông biết dựng lại cái cổ xưa bằng khả năng

phân tích tinh vi từ cảm giác, ý nghĩ của nhân vật đến đường nét màu sắc của cảnh

vật, và khả năng vận dụng cách quan sát của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau.

Qua đó, ta thấy những tình cảm đặc biệt tha thiết của ông đối với những giá trị văn

hóa cổ truyền của dân tộc, mà trước hết là sự gắn bó với tiếng nói của cha ông.

Trong hoàn cảnh mất nước mà chưa có gan đứng lên cứu nước, con người ấy đã dồn

tất cả lòng yêu tổ quốc vào tình yêu tiếng mẹ đẻ: “mỗi khi cầm bút ướm thử nó lên

tờ giấy trắng trong tinh khiết, tôi thấy sung sướng vô vàn, sung sướng đến chảy

nước mắt ra, đến nỗi có thể tưởng rằng mình sẽ chết ngay được nếu bị mất cái

quyền viết” [34, tr. 509]. Quả thực, trên mỗi trang sách, ta thấy Nguyễn Tuân đã

sống thật sự với từng câu, từng chữ của mình. Điều đó làm nên cái chất riêng của

Nguyễn Tuân trong nền văn học dân tộc.

PHẦN KẾT LUẬN

Với đề tài hoài cổ và xê dịch, Nguyễn Tuân đã tạo nên một ấn tượng nổi trội,

khác biệt trong làng văn ngay từ khi xuất hiện. Những trang văn rất mực tài hoa, độc

đáo đã đưa ông xứng đáng tầm cỡ nhà văn lớn. Vẻ đẹp trang viết của Nguyễn Tuân là

kết quả tất yếu của con người có chiều sâu văn hóa, chiều rộng của tri thức. Đó còn là

biểu hiện của tấm lòng yêu nước, thiết tha với những giá trị văn hóa cổ truyền của

dân tộc, là sự gắn bó với con người và cuộc sống của một nhà văn tâm huyết.

Về phương diện nội dung, những sáng tác ở đề tài viết về quá khứ thể hiện nét

tài hoa, uyên bác của Nguyễn Tuân. Với quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật, đề cao

cái đẹp nên Nguyễn Tuân luôn say mê kiếm tìm cái đẹp ở mọi nơi, ở mọi loại

người. Giữa cuộc đời ô trọc lúc đó, việc ca ngợi cái đẹp là một phản ứng của người

thanh niên trí thức Nguyễn Tuân với hiện thực xấu xa đương thời và là biểu hiện

của một con người có nhân cách cao đẹp. Giữa lúc xã hội thực dân nửa phong kiến

đương thời đàn áp, hạn chế tự do của con người, viết văn là cách Nguyễn Tuân đấu

tranh và bày tỏ thái độ bất mãn của mình với thực tại. Ông không tìm được cái đẹp

ở hiện tại, vì vậy ông trở về tìm tòi cái đẹp trong quá khứ với những con người tài

hoa hơn người, với những thú vui tinh tế, với nhịp sống khoan thai, nho nhã. Thế

giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân đều ít nhiều mang bóng dáng của

chính nhà văn. Ông gửi gắm vào họ biết bao yêu mến, cảm phục. Với tài năng và

tâm huyết của mình, ông đã làm sống lại cả một quá khứ đẹp đẽ một đi không trở

lại. Khác với bề ngoài luôn ngông nghênh, kiêu bạc, “đi lù lù giữa cuộc đời và ném

đá ra xung quanh”, chúng ta khám phá ra một thế giới nội tâm phong phú, phức tạp,

không dễ nắm bắt của nhà văn.

Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Tuân thể hiện một bút pháp già dặn, sức

sáng tạo không ngừng. Nguyễn Tuân bộc lộ nét tài hoa khi tái hiện không gian và

thời gian quá khứ, sử dụng thủ pháp tương phản đối lập cùng những sáng tạo miệt

mài về ngôn ngữ và diễn đạt. Đọc những trang văn của Nguyễn Tuân, người đọc có

thêm hiểu biết sâu sắc về văn hóa dân tộc, làm phong phú tâm hồn mình. Nguyễn

Tuân trở thành sứ giả mang bức thông điệp từ quá khứ đến với bạn đọc mai sau:

Hãy biết trân trọng tài hoa của con người, hãy giữ gìn nét đẹp văn hóa tinh thần, hãy

yêu tiếng nói của cha ông. Trong cuộc sống hiện đại, xu hướng hội nhập quốc tế

ngày càng mạnh mẽ, bức thông điệp của Nguyễn Tuân càng có giá trị to lớn.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành công về nội dung và nghệ thuật kể trên,

sáng tác của Nguyễn Tuân về đề tài quá khứ cũng bộc lộ những hạn chế nhất định.

Về nôi dung: Với quan niệm nghệ thuật thuần túy cùng việc đề cao cảm giác chủ

quan của cá nhân, Nguyễn Tuân có lúc sa vào chủ nghĩa hình thức, coi trọng cái đẹp

thuần túy mà tách rời nó khỏi đạo đức và luân lí của xã hội. Chính điều này mà có

thời Nguyễn Tuân đã bị hiểu lầm và bị đánh giá sai lệch. Nguyễn Tuân là con người

ý thức về cái tôi cá nhân của mình rõ nét, và hình ảnh con người cá nhân nhà văn in

dấu trong những trang văn của ông. Nguyễn Tuân khai thác những đề tài mà ít nhà

văn đề cập đến như đánh bạc, hút thuốc phiện, ca lâu, tửu quán, nhân ngãi nhân

nghì… và thể hiện bằng chính sự trải nghiệm của bản thân mình. Về nghệ thuật: Kết

cấu trong truyện ngắn của ông khá lỏng lẻo, ranh giới thể loại không rõ nét. Truyện

ngắn của Nguyễn Tuân có sự pha trộn tùy bút và tùy bút của Nguyễn Tuân đôi khi

lại đan xen yếu tố truyện. Đây là nét đặc sắc riêng trong phong cách nghệ thuật của

nhà văn. Tuy nhiên, nhà văn thiên về lối phô diễn kiến thức nên truyện ngắn của

ông ít đi sâu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, ít phản ánh số phận cá nhân.

Nhân vật của Nguyễn Tuân thường là đại diện cho một lớp người nào đó trong xã

hội. Bởi điều này, có lúc ta thấy Nguyễn Tuân như thoát li cuộc sống để say sưa với

thế giới yêu thích của riêng mình. Là một nhà văn yêu mến tiếng mẹ đẻ, Nguyễn

Tuân đã có những sáng tạo vô cùng phong phú về ngôn ngữ và diễn đạt. Tuy nhiên,

chính sự phong phú, cầu kỳ trong cách sử dụng ngôn ngữ và diễn đạt khiến văn

chương Nguyễn Tuân kén bạn đọc. Người yêu thích văn Nguyễn Tuân không thể là

người nông nổi mà phải có hiểu biết và sở thích nhất định mới tiếp nhận đầy đủ giá

trị tác phẩm.

Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đi sâu tìm hiểu

đề tài quá khứ trong sáng tác của ông trước Cách mạng, chúng tôi không chỉ khám

phá thế giới nội tâm sâu sắc của nhà văn, những sáng tạo nghệ thuật độc đáo mà còn

là một cách thể hiện sự yêu mến với tài năng và nhân cách nhà văn, là sự đồng cảm

của chúng tôi với những vẻ đẹp mà ông đã say sưa ca ngợi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (1995), Từ điển Văn học Việt Nam,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (2004), Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Đại học Quốc gia,

Hà Nội, Hà Nội.

3. Bakhtin. M (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn

Du, Hà Nội.

4. Nguyễn Trần Bạt, “Biện chứng của quá khứ”.

http://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/bien_chung_cua_qua_khu_7.html

5. Nguyễn Minh Châu (1994), Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học xã hội,

Hà Nội.

6. Phan Cự Đệ, 1992, Văn học Việt Nam thế kỷ XX- Những vấn đề lịch sử và lý

luận, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Phan Cự Đệ (1999), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930- 1945, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

8. Phan Cự Đệ- Trần Đình Hượu- Nguyễn Trác- Nguyễn Hoành Khung- Lê Chí

Dũng- Hà Văn Đức (1998), Văn học Việt Nam (1900- 1945), NXB Giáo dục,

Hà Nội.

9. Hà Minh Đức- Đỗ Văn Khang- Phạm Quang Long- Phạm Thành Hưng-

Nguyễn Văn Nam- Đoàn Đức Phương- Trần Khánh Thành- Lý Hoài Thu

(2001), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Hà Văn Đức (1991), “Nguyễn Tuân- một bậc thầy về ngôn ngữ”, Tạp chí

Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội (số 4), tr. 31- 35.

11. Hà Văn Đức (1994), “Nguyễn Tuân và cái đẹp”, Tạp chí Khoa học, Đại học

Quốc gia Hà Nội (số 5), tr. 48- 52.

12. Hà Văn Đức (1996), “Tùy bút Nguyễn Tuân sau Cách mạng tháng Tám (Một

số đặc điểm thể loại)”, Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách mạng

tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội

13. Hà Văn Đức (1997), Ngô Tất Tố- nhà văn của nông dân, Các nhà văn được

giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

14. Hà Văn Đức (1998), “Nguyễn Tuân và quá trình nhận đường trong văn học

của ông”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội (số 2), tr. 7- 11.

15. Hà Văn Đức (tháng 4- 2003), “Quan điểm thẩm mĩ qua một số hình tượng nghệ

thuật trong tùy bút Nguyễn Tuân”, Tạp chí Văn học, tập 374 (số 4), tr. 8- 15.

16. Lê Bá Hán- Trần Đình Sử- Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ Văn

học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

17. Phạm Đình Hổ (2001), Vũ Trung tùy bút, NXB Văn học, Hà Nội.

18. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

19. Thụy Khuê, “Thi pháp Nguyễn Tuân”.

http://thuykhue.free.fr/stt/n/nguyentuan.html

20. Mã Giang Lân- Hà Văn Đức- Bùi Việt Thắng- Phạm Xuân Thạch (2000),

Quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam 1900- 1930, NXB Văn hóa thông

tin, Hà Nội.

21. Đặng Lưu, “Hai thao tác đối nghịch trong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Tuân”

http://khoaspnv.vinhuni.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/ly-luan-ngon-ngu/seo/hai-

thao-tac-doi-nghich-trong-cach-su-dung-tu-ngu-cua-nguyen-tuan-54470

22. Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà

văn, NXB Giáo dục, Hà Nội.

23. Nguyễn Thị Thanh Minh (2004), Quan niệm về cái đẹp của Nguyễn Tuân

trong sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn học, Hà Nội.

24. Vương Trí Nhàn, “Ba bài viết ngắn và một phác thảo chân dung nhà văn

Nguyễn Tuân”.

http://webcache.googleusercontent.com/search?q=cache:http://vuongtrinhan.blog

spot.com/2010/07/nguyen-tuan.html

25. Nhiều tác giả (1997), Nguyễn Tuân người đi tìm cái đẹp (Hoàng Xuân tuyển

chọn), NXB Văn học, Hà Nội.

26. Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Tuân về tác gia tác phẩm (Tôn Thảo Miên

tuyển chọn và giới thiêu), NXB Giáo dục, Hà Nội.

27. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, tập 3, NXB Văn học, Hà Nội.

28. Trần Đình Sử (2002), Nhà văn với đời sống và cá tính sáng tạo, NXB Văn

học, Hà Nội.

29. Hoài Thanh- Hoài Chân (1995), Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.

30. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể

loại, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.

31. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

32. Thư viện giáo án, “Khái quát về tình huống truyện trong truyện ngắn”.

http://thuviengiaoan.vn/giao-an/khai-quat-ve-tinh-huong-truyen-trong-

truyen- ngan

33. Ngọc Trai (1991), Nhà văn Nguyễn Tuân con người và văn nghiệp, NXB Hội

nhà văn, Hà Nội.

34. Nguyễn Tuân (2001), Chùa đàn- Tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, Hà Nội.

35. Nguyễn Tuân (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh,

Quyển I, NXB Văn học, Hà Nội.

36. Nguyễn Tuân (2006), Tác phẩm văn học được giải thưởng Hồ Chí Minh,

Quyển II, NXB Văn học, Hà Nội.

37. Nguyễn Tuân (2014), Vang bóng một thời, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

38. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

39. Hoàng Yến, “Nguyễn Tuân- Bậc thầy sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt”.

http://hanoi.vietnamplus.vn/Home/Nguyen-Tuan--Bac-thay-su-dung-ngon-ngu

ieng-Viet/20107/2092.vnplus