phÇn ii.vietnamdoc.net/data/file/2015/thang01/23/khoa-luan... · web viewvai trò quan trọng...
TRANSCRIPT
Trường đại học ngoại thương Khoa kinh tế ngoại thương
Khoá luận tốt nghiệp
Vấn đề tiêu chuẩn chất lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hoá xuất khẩu
sang EU
Giáo viên hướng dẫn :Th.s Nguyễn Thanh BìnhSinh viên thực hiện : Nghiêm Quỳnh Nga
Lớp A2 – K38A – KTNT
Hà Nội, năm 2003
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Th.s Nguyễn Thanh Bình - người đã nhiệt
tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em trong quá trình viết khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường Đại học Ngoại Thương đã dạy dỗ em kiến
thức, cách nghiên cứu, giúp em có thể hiểu và xử lý đề tài với khả năng của mình.
Đồng thời, xin chân thành cảm ơn các cán bộ thư viện, các cán bộ chuyên môn trong ngành và
các bạn cùng khóa đã giúp tôi thu thập tài liệu để hoàn thành khóa luận này
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Mục lục
Danh mục cụm từ viết tắt
Lời nói đầu
Chương I: Các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với hàng hoá lưu
thông trên thị trường........................................................................................................................1
I. Giới thiệu chung về thị trường EU.........................................................................................1
1. Liên minh Châu Âu (EU)...............................................................................................1
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU.....................................................2
II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường EU đối với hàng hoá lưu thông
trên thị trường..................................................................................................................................5
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN................................................................5
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000.....................................................................7
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng..........................9
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường.............18
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường...................................................................................18
2. Bao bì và phế thải bao bì............................................................................................21
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label).............................................................................23
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo vệ môi trường....25
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các doanh nghiệp xuất khẩu ................
28
1. Các bộ quy tắc ứng xử...............................................................................................28
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000...............................................................................................30
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá việt nam sang eu dưới tác động của các tiêu chuẩn
về chất lượng, môi trường, và xã hội.............................................................................................32
I. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU dưới tác động của các
quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội...............................................32
1. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU.........................................................32
2. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc đáp ứng
các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường & xã hội................................................40
II. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU dưới tác
động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội.........................58
1. Hàng giày dép.............................................................................................................58
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
2. Hàng dệt may..............................................................................................................64
3. Hàng nông sản............................................................................................................70
4. Hàng thuỷ sản.............................................................................................................74
Chương III: Một số giải pháp nhằm đáp ứng các quy định/tiêu chuẩn của eu về chất lượng, môi
trường & xã hội..............................................................................................................................78
I. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU............................................78
1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2001- 2010.........................78
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU...................................82
II. Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU về chất lượng,
môi trường và xã hội.....................................................................................................................90
1. Giải pháp về phía Nhà nước.......................................................................................90
2. Giải pháp về phía các doanh nghiệp..........................................................................95
Kết luận........................................................................................................................................100
Danh mục tàI liệu trích dẫn và tham khảo
Phụ lục
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Danh mục cụm từ viết tắt
Ký hiệu Tiếng Anh Tiếng Việt Nam
BS British Standard Tiêu chuẩn của Anh
CE European Conformity Nhãn hiệu CE
CEEC Centre and Eastern European Countries Các nước Trung và Đông Âu
CEN Comité Européen de Normalisation - European Committee for Standardization
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá châu Âu
CENELEC Comité Européen de Normalisation - European Committee for Electrotechnical Standardization Electrotechnique
Uỷ ban tiêu chuẩn hoá kỹ thuật điện tử châu Âu
CODEX Theo tiếng Latin là “Food Code” ủy ban quốc tế về thực phẩm
CoC Code of Conduct Quy tắc ứng xử
CSR Corporation Social Responsibility Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
DIN (Deutsches Institut fuer Normung - German Institute for Standardisation)
Tiêu chuẩn của Đức
ECB European Central Bank Ngân hàng Trung Ương châu Âu
ECSC European Coal and Steel Community Cộng đồng than thép châu Âu
EEA European Economic Area Khu vực kinh tế châu Âu
EEC European Economic Community Cộng đồng kinh tế châu Âu
EFTA European Free Trade Association Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu
EMAS Ecological Management and Audit Scheme Chương trình kiểm định và quản lý sinh thái.
EMU European Monetary Union Liên minh tiền tệ châu Âu
EN European Standard Tiêu chuẩn châu Âu
ETSI the European Telecommunications Standards Institute
Viện tiêu chuẩn viễn thông châu Âu
EU European Union Liên minh châu Âu
EURATOM European Atomic Energy Community Cộng đồng nguyên tử châu Âu
EUREP Euro-Retailer Produce Working Group Tổ chức các nhà bán lẻ hàng đầu châu Âu
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
EVA Ethyl Vinyl Acetate Nhựa EVA
FRZ Frizzy Kháng sinh FRZ
FAO Food and Agriculture Organization Tổ chức nông lương quốc tế
GAP Good Agriculture Practice Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo
GMP Good Manufacturing Practice Hệ thống thực hành sản xuất tốt.
GOST Gosstandart of Russia Tiêu chuẩn của Liên Xô
GSP Generalised Scheme of Preferences Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập
HACCP Hazard Analysis and Critical Control Point Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng yếu.
IEC International Electrotechnical Commission Uỷ ban điện quốc tế
ILO International Labour Organization Tổ chức lao động quốc tế
ISO International Organisation for Standardization
Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá.
ITU International Telecommunication Union Tiêu chuẩn quốc tế về viễn thông.
LEFASO Vietnam Leather and Footwear Association Hiệp hội da giày Việt Nam
NAFTA North American Free Trade Agreement Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
NF Necrotizing Fasciitis Kháng sinh NF
PU Polyurethane Nhựa PU
SAI Social Accountability International Tổ chức về tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SAI
TPU Thermoplastic Polyurethane Nhựa TPU
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Lời nói đầu
Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Chủ
trương này đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết
01 NQ/TW của Bộ Chính trị và một lần nữa khẳng định trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX, nhằm thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Để thực hiện chủ trường của Đảng, chúng ta cần phải tiếp tục tăng cường mở rộng
và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
Liên minh châu Âu hiện là một trong những đối tác thương mại quan trọng, là khu vực thị
trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam sau Mỹ (theo số liệu ước tính năm 2003, xuất khẩu
sang EU chiếm 19,2% kim ngạch xuất khẩu của cả nước) [1]. Tuy nhiên quy mô buôn bán giữa
Việt Nam - EU hiện nay vẫn còn nhỏ (mới chiếm 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU và
chiếm 13,7% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam) [2]. Đặc biệt trong những năm gần đây,
tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU lại có xu hướng giảm sút. Một trong những
nguyên nhân là do hàng xuất khẩu của Việt Nam còn nghèo nàn về chủng loại, tập trung cao vào
một số ít mặt hàng, chất lượng hàng thấp, không đạt độ đồng đều... Đồng thời EU lại là một
trong những thị trường khó tính trên thế giới với hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật rất cao và nghiêm
ngặt.
Hơn nữa trong xu thế hiện nay, việc tiếp cận thị trường châu Âu sẽ còn khó khăn hơn do
số lượng các yêu cầu của thị trường về an toàn, sức khoẻ, chất lượng, môi trường và các vấn
đề xã hội đang tăng lên nhanh chóng, thay thế cho các biện pháp bảo hộ bằng thuế quan, hạn
ngạch... đang dần bị cắt giảm với quá trình tự do hoá thương mại diễn ra sôi nổi khắp mọi nơi.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, em đã chọn “Vấn đề tiêu chuẩn chất lượng, môi trường và xã hội đối với hàng hoá xuất khẩu sang EU” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của
mình.
Mục tiêu nghiên cứu của khoá luận:
- Mục tiêu tổng quát: Nghiên cứu các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội đối
với hàng hoá khi nhập khẩu vào thị trường EU
- Mục tiêu cụ thể:
+ Làm rõ các yêu cầu về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với hoạt động sản
xuất và xuất khẩu hàng hoá của các nước thứ ba (trong đó có Việt Nam) vào thị trường EU
+ Đánh giá khả năng đáp ứng các quy định trên của hàng Việt Nam xuất khẩu sang EU.
+ Đề xuất giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội
của EU nhằm nâng cao sức cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị
trường này.
Đối tượng nghiên cứu:
Việc tuân thủ các quy định về chất lượng, môi trường và xã hội của hàng Việt Nam khi xuất
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
khẩu sang EU
Phạm vi nghiên cứu:
Hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu sang EU (giới hạn đi sâu vào 4 nhóm hàng chủ lực:
giày dép, dệt may, nông sản và thuỷ sản)
Nội dung của khoá luận:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và các phụ lục, khoá luận được chia làm 3 chương:
Chương I: Các quy định/ tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với
hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang EU dưới tác động của các quy
định/tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, và xã hội.
Chương III: Một số giải pháp đáp ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường
và xã hội.
Đây là một đề tài có tính thời sự và mới mẻ cả về lý luận cũng như thực tiễn, đồng thời do
kinh nghiệm và trình độ bản thân còn hạn chế nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót
về nội dung cũng như hình thức. Em rất mong nhận được sự đánh giá góp ý của các thầy cô
giáo, bạn bè và những ai quan tâm đến vấn đề này để đề tài nghiên cứu được hoàn chỉnh hơn.
Hà Nội, tháng 12 năm 2003
Nghiêm Quỳnh Nga
Khoa Kinh Tế Ngoại Thương
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Chương I: Các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường
I. Giới thiệu chung về thị trường EU
1. Liên minh Châu Âu (EU)
Ngày 18/4/1951 tại Paris, 6 nước: Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hà Lan, Lúcxămbua đã ký Hiệp
ước thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) điều hành việc sản xuất và tiêu thụ than
thép của các nước thành viên nhằm đẩy mạnh tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, phân
phối, tiêu thụ và nâng cao năng suất lao động.
Dựa vào kết quả hợp tác đạt được, các quốc gia này đã mở rộng liên kết sang các lĩnh vực
khác. Tháng 7 năm 1957, Cộng đồng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng kinh tế
châu Âu (EEC) được chính thức thành lập, trong đó EURATOM điều hành sản xuất năng lượng
nguyên tử và EEC điều hành toàn bộ các lĩnh vực sản xuất ở 6 nước. Tuy nhiên, nhằm tránh sự
chống chéo trong hoạt động của 3 cộng đồng, đến năm 1967, các quốc gia này lại nhất trí hợp
nhất các thiết chế của cả 3 cộng đồng trên thành Cộng đồng châu Âu (EC)
Trong quá trình hoạt động, EC lần lượt kết nạp thêm 6 thành viên nữa là Anh, Ailen, Đan
Mạch, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hy Lạp. EC cũng đã xúc tiến việc phát triển sâu hơn nữa
liên kết kinh tế và ký Hiệp ước Maastricht vào tháng 2/1992 nhằm làm châu Âu thay đổi một
cách căn bản, đồng thời đổi tên EC thành Liên Minh Châu Âu (EU). Năm 1995, EU kết nạp thêm
3 thành viên mới: áo, Phần Lan và Thụy Điển, trở thành cộng đồng 15 quốc gia. Các quốc gia
thành viên EU chia sẻ chính sách chung về Nông nghiệp, An ninh, Đối ngoại, Hợp tác tư pháp và
Nội vụ, áp dụng một chế độ thương mại chung. Ngoài ra còn có 12 quốc gia thành viên tham gia
Liên minh tiền tệ (EMU) với đồng tiền chung Euro được chính thức lưu hành từ 1/1/2000.
Hiện nay, EU là một trung tâm kinh tế hùng mạnh trên thế giới với GDP chiếm khoảng 20%
GDP toàn thế giới, đứng sau Mỹ (~ 11.200 tỷ USD) và trên Nhật Bản (~ 4.500 tỷ USD). Từ 1997
đến nay, EU vẫn giữ được ổn định và duy trì tăng trưởng GDP ở mức độ tương đối cao (8.700 tỷ
USD năm 2002) [3]. Giá trị thương mại của EU cũng chiếm khoảng 22.6% giá trị thương mại thế
giới (nếu tính cả thương mại trong khối, EU chiếm 40% lượng hàng hoá xuất nhập khẩu trên
toàn thế giới), vượt chỉ tiêu tương ứng của Mỹ và Nhật Bản (20,47% và 8,1%). Vai trò quan
trọng của EU như một khối thương mại sẽ còn tăng lên với việc mở rộng diễn ra trong vòng 5 -
10 năm tới, khi mà một vài nước Đông Âu được kết nạp làm thành viên mới của EU.
2. Đặc điểm và tập quán tiêu dùng của thị trường EU
EU là một thị trường rộng lớn bao gồm 15 quốc gia với khoảng 380 triệu dân. Điều này có
nghĩa rằng thị trường EU lớn gấp ba lần thị trường Nhật Bản (với ~ 127 triệu dân), lớn hơn thị
trường Mỹ khoảng 40% (với ~ 280 triệu dân) và xấp xỉ toàn bộ khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), với khoảng 400 triệu dân [3]. Thêm vào đó, thị trường này còn mở rộng sang các nước
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thuộc “Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu”(EFTA) gồm Na Uy, Ai-len, Thụy Sĩ và Liechtenstein, tạo
thành khu vực kinh tế châu Âu (EEA).
EU là một thị trường thống nhất cho phép tự do di chuyển hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao
động giữa các nước thành viên. Trong thị trường thống nhất này, hàng hoá được sản xuất tại
hoặc được nhập khẩu vào một quốc gia thành viên thì cũng có thể được di chuyển sang các
quốc gia thành viên khác mà không gặp phải một hạn chế nào. Tiền đề cho sự di chuyển tự do
này là sự thống nhất về luật lệ và quy định liên quan đến hàng hoá sản xuất trong nước hoặc
hàng hoá nhập khẩu. Với đặc điểm trên, không chỉ thương mại nội khối có điều kiện phát triển
mà các nước bên ngoài cũng gặp nhiều thuận lợi hơn trong việc thâm nhập thị trường của các
nước thành viên EU. Bên cạnh đó, đồng tiền chung Euro và các chính sách tiền tệ do Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) chỉ đạo cho thấy sự hội nhập và gắn kết vững chắc ở đỉnh cao của
nền kinh tế châu Âu.
Mặc dù Liên minh châu Âu được xem là một thị trường thống nhất nhưng về phương diện
địa lý, khí hậu, nhân khẩu học, các nét đặc trưng văn hoá xã hội, nhu cầu tiêu dùng và hành vi
tiêu dùng thì lại hoàn toàn không phải là như vậy. Khu vực bên trong và xung quanh vùng Rhine-
Ruhr thường được coi là trung tâm kinh tế của EU - gồm Hà Lan, Pháp, Bỉ và Đức - là nơi tập
trung chủ yếu dân số, công nghiệp và cơ sở hạ tầng. Một số khu công nghiệp được đặt tại các
khu vực khác như: miền trung và nam nước Đức, miền bắc Tây Ban Nha, miền bắc nước ý,
trung tâm nước Anh (bên trong và xung quanh Luân Đôn). ở những vùng khác như miền nam
Tây Ban Nha, miền nam nước ý, nước Hy Lạp, nước Bồ Đào Nha.... có nền sản xuất công
nghiệp tương đối thấp, hoạt động chủ yếu là nông nghiệp và du lịch. Về mặt khí hậu cũng có sự
khác biệt đáng kể. Các nước vùng Scandinavia có khí hậu lạnh, trong khi các nước Địa Trung
Hải lại có khí hậu cận nhiệt đới. Giữa hai vùng này là các nước tây bắc EU nằm trong vùng khí
hậu ôn hoà. Những đặc điểm về khí hậu là yếu tố ảnh hưởng đến hành vi mua hàng của người
tiêu dùng EU, đặc biệt đối với những mặt hàng như may mặc, đồ đạc nội thất...
Một sự khác biệt lớn về dân số và quy mô thị trường cũng đang tồn tại ngay chính trong
bản thân EU. Các khu vực có mật độ dân số cao nằm ở vùng tây bắc của nước Đức, Hà Lan,
tây nam nước Anh và miền bắc nước ý. Các quốc gia vùng tây bắc EU đồng thời là những quốc
gia được đô thị hoá cao độ, với mật độ dân số tại thủ đô khá lớn. Trái lại, Bồ Đào Nha và áo là
hai quốc gia có mật độ dân số ở nông thôn cao nhất.
Thị trường EU đa văn hoá, đa sắc tộc. Hiện tại có tất cả khoảng 10 triệu người không có
nguồn gốc EU, phần lớn đến từ Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ và Nam Tư cũ, đang sinh sống tại đây. Sự
đa dạng tương đối về văn hoá không chỉ giữa các quốc gia thành viên mà còn nằm trong chính
nội bộ mỗi quốc gia. Ví dụ như những người ở miền Nam nước Đức có nếp sống và tư duy khác
với người sống ở vùng công nghiệp Ruhr, và những người này lại khác với người ở vùng Đông
Đức cũ. Tại Tây Ban Nha cũng vậy, người xứ Bascơ miền bắc có nền văn hoá khác căn bản với
những người ở các xứ khác....
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Cùng với sự khác biệt về nhân khẩu học và văn hoá, thói quen tiêu dùng và hành vi mua
sắm cũng khác nhau giữa các nước thành viên EU. Tại những khu vực ở phần tây bắc EU, do
sung túc hơn nên người dân có thường sử dụng phần lớn thu nhập vào việc mua sắm nhà cửa,
các đồ dùng đắt tiền, giải trí, du lịch, chăm sóc y tế. Vì thế mà chất lượng của hàng hoá và dịch
vụ cung cấp cho các quốc gia thuộc vùng này thường được chú trọng hơn. Tính đa dạng trong
sự thống nhất của thị trường EU cho chúng ta hiểu cụm từ “người tiêu dùng châu Âu”nói chung
không tồn tại. Các quốc gia bên ngoài khối muốn thâm nhập hiệu quả vào các thị trường thành
viên EU không thể không tính đến những nét đặc trưng của từng thị trường.
EU là thị trường có mức sống cao, yếu tố chất lượng, sức khoẻ và an toàn cho người tiêu
dùng luôn được đặt lên hàng đầu thông qua việc đặt ra những yêu cầu rất nghiêm ngặt đối với
hàng hoá lưu thông trên thị trường. Có thể lấy ví dụ về quy chế đảm bảo an toàn của EU đối với
một số sản phẩm tiêu dùng như: các loại thuỷ hải sản phải được kiểm tra chặt chẽ thành phần
tạp chất và dư lượng kháng sinh, đồng thời quá trình nuôi trồng, khai thác, chế biến và vận
chuyển cũng phải tuân thủ các quy định nhằm không gây tác động xấu đến môi trường; đối với
vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các loại sợi cấu thành nên loại vải
hay lụa được bán ra trên thị trường, và khi đó bất cứ loại vải hay lụa nào được lưu hành cũng
phải ghi rõ mã hiệu của những loại sợi chủ yếu kèm theo tỷ lệ % hoặc cấu thành chi tiết của sản
phẩm..v..v..
Trong xu thế hiện nay, các khía cạnh môi trường và xã hội liên quan đến sản xuất hàng
hoá ngày càng được các nước phát triển chú trọng, đặc biệt là thị trường EU. Thị phần hàng
thực phẩm thân thiện với môi trường trên cả hai phương diện (giảm lượng hoá chất trong thực
phẩm và không gây ô nhiễm môi trường) dự kiến sẽ tăng lên nhanh chóng. Bao bì có khả năng
tái sinh và ngay cả việc quảng cáo được tiến hành theo cách thức thân thiện với môi trường luôn
giành được sự ưu ái của người tiêu dùng. Bên cạnh đó, người tiêu dùng châu Âu còn trở nên
khắt khe hơn trong việc lựa chọn hàng hoá xuất phát từ quan điểm đạo đức. Hàng hoá có được
sản xuất với sự phân chia thu nhập công bằng cho người lao động thực sự, trong những điều
kiện lao động phù hợp, không lạm dụng lao động trẻ em... đang là mối quan tâm lớn của thị
trường .
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
II. Các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng của thị trường EU đối với hàng hoá lưu
thông trên thị trường.
1. Vấn đề tiêu chuẩn hoá và bộ tiêu chuẩn EN
“Thông thường chúng ta không nghĩ đến tiêu chuẩn, trừ khi việc thiếu vắng tiêu chuẩn gây
ra những bất lợi. Nhưng trong thực tế rất khó có thể hình dung được cuộc sống hàng ngày lại
không có tiêu chuẩn. Hãy thử lấy bất kỳ tình huống nào và bạn sẽ ngạc nhiên thấy được nhiều
tiêu chuẩn hỗ trợ như thế nào đối với cuộc sống hàng ngày... Ví dụ, hãy tưởng tượng rằng bạn
không thể lấy được tiền từ máy rút tiền tự động do thẻ ngân hàng của bạn không thể cho vừa
vào được, pin không thể lắp được vào các thiết bị điện của bạn, các cửa hàng không có mã vạch
để kiểm kê và xác định giá hàng hoá...”[4]
Ngày nay không còn ai nghi ngờ khi nói rằng tiêu chuẩn đem lại lợi ích to lớn cho cuộc
sống, góp phần làm cuộc sống đơn giản hơn, tăng độ tin cậy và hiệu quả của hàng hoá dịch vụ
mà chúng ta sử dụng. Trình độ khoa học công nghệ càng phát triển, nền sản xuất xã hội càng
đạt đến trình độ cao, nhu cầu của con người càng phức tạp... thì vấn đề tiêu chuẩn hoá lại càng
trở nên cần thiết hơn. Chính vì vậy mà hoạt động tiêu chuẩn hoá ở các quốc gia phát triển
thường được tiến hành rất quy củ và chặt chẽ.
1.1 Hoạt động tiêu chuẩn hoá tại thị trường EU
Với thị trường EU, tiêu chuẩn hoá có ý nghĩa mới từ khi Cộng đồng châu Âu bắt đầu quá
trình hoà hợp các tiêu chuẩn liên quan đến pháp luật để đảm bảo sự an toàn, sức khoẻ người
tiêu dùng, đảm bảo sản xuất thân thiện với môi trường và trách nhiệm xã hội. Kết quả là việc đáp
ứng các tiêu chuẩn đã trở thành một điều kiện quan trọng để thâm nhập thị trường. Để thực hiện
nguyên tắc tự do thương mại, tự do lưu thông hàng hoá thì làm hoà hợp các tiêu chuẩn giữa các
quốc gia trở nên cực kỳ cần thiết. Bởi vậy, EU đang tạo ra những tiêu chuẩn thống nhất cho toàn
châu Âu trong các khu vực sản xuất sản phẩm mũi nhọn để thay thế hàng ngàn các tiêu chuẩn
khác nhau của các quốc gia. Nhìn chung các mức độ yêu cầu tối thiểu cho toàn châu Âu đang và
sẽ được đặt ra trong các năm tới. Mỗi nước thành viên đều được phép đặt ra các quy định bổ
sung để bảo vệ cho nền công nghiệp trong nước. Tuy nhiên bất cứ sản phẩm nào phù hợp với
các quy định tối thiểu đều được phép tự do lưu thông trong EU.
Có thể lấy ví dụ về mức độ hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn EU ở Đức - một nền
kinh tế phát triển cao trong EU. ở Đức, tất cả các tiêu chuẩn châu Âu (EN) đều tự động trở thành
tiêu chuẩn DIN EN (Deutsches Institut fuer Normung) của nước này. Các tiêu chuẩn quốc gia lần
lượt bị cắt giảm dần, thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1: Số lượng tiêu chuẩn của đức so sánh với tiêu chuẩn eu
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
(Nguồn: Mr. Johannes Weber - “Globalisation of Standardisation work in Germany”- Hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002)
Như vậy là đến năm 2003, tổng số tiêu chuẩn của EU đạt con số khoảng 22.000 tiêu
chuẩn. Điều đó cũng có nghĩa rằng 80% (22.000 trong số 27.500) các tiêu chuẩn của Đức là tiêu
chuẩn châu Âu.
1.2 Bộ tiêu chuẩn EN
Bộ tiêu chuẩn EN của Liên minh châu Âu do ba cơ quan tiêu chuẩn hoá châu Âu cùng
nhau xây dựng, đó là: CEN (Uỷ ban Tiêu chuẩn hoá châu Âu), CENELEC (Uỷ ban Tiêu chuẩn
hoá Kỹ thuật điện tử châu Âu), và ETSI (Viện Tiêu chuẩn Viễn thông châu Âu). Hàng chục ngàn
tiêu chuẩn chung của châu Âu được tập hợp tại đây, quy định các đặc tính kỹ thuật, quy trình
sản xuất, bao gói, phương pháp bảo quản, vận chuyển, phương pháp thử... đối với các mặt
hàng được sản xuất và tiêu thụ trên thị trường. Hàng hoá nhập khẩu từ các nước bên ngoài Liên
minh châu Âu không phải là đối tượng điều chỉnh của bộ tiêu chuẩn EN, tuy nhiên vì bộ tiêu
chuẩn này phản ánh yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá tiêu thụ, nên việc đáp ứng các tiêu
chuẩn EN sẽ tạo thuận lợi cho hàng hoá nước ngoài muốn thâm nhập và cạnh tranh được trên
thị trường EU.
Việc hoà hợp tiêu chuẩn EN với tiêu chuẩn quốc tế cũng được tiến hành mạnh mẽ trong
khối Liên minh châu Âu. “90% tiêu chuẩn của EU trong lĩnh vực kỹ thuật điện đã được xây dựng
trên cơ sở của Tiêu chuẩn Quốc tế IEC, 40% tiêu chuẩn EU là phù hợp với tiêu chuẩn ISO, còn
các tiêu chuẩn EU về viễn thông thì hầu như hoàn toàn phù hợp với ITU” [5]. Những tiêu chuẩn
quốc tế mà EU lấy lại nguyên thành tiêu chuẩn của mình mà không sửa đổi sẽ mang các tên
như EN ISO, EN IEC....cùng với số hiệu của tiêu chuẩn. Còn các quốc gia thành viên khi đưa
nguyên các tiêu chuẩn này vào thành tiêu chuẩn của mình thì các tiêu chuẩn này lúc đó sẽ mang
tên như DIN EN ISO (Đức), BS EN ISO (Anh)... cùng với số hiệu tiêu chuẩn. Qua đó có thể thấy
rằng hài hoà tiêu chuẩn với quốc tế đã và đang trở thành xu hướng trong việc xây dựng tiêu
chuẩn châu Âu. Và như vậy, con đường đúng đắn và lâu bền cho các quốc gia muốn đẩy mạnh
phát triển thương mại thông qua việc đáp ứng được các tiêu chuẩn của các quốc gia khác nói
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
chung và khối EU nói riêng là hoà hợp tiêu chuẩn trong nước với các tiêu chuẩn quốc tế, đồng
thời đẩy mạnh việc đưa các tiêu chuẩn đó áp dụng trong thực tiễn. Tiêu chuẩn Quốc tế có thể
được coi như một cái đích chung và càng trở nên quan trọng khi xu thế khu vực hoá, toàn cầu
hoá đang diễn ra sôi nổi.
2. Tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000
“Chất lượng là khả năng của tập hợp các đặc tính của một sản phẩm, hệ thống hay quá
trình để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng và các bên có liên quan” [6]. Chất lượng không tự
sinh ra, chất lượng không phải là một kết quả ngẫu nhiên, nó là kết quả của sự tác động của
hàng loạt yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau. Muốn đạt được chất lượng mong muốn cần
phải quản lý một cách đúng đắn các yếu tố này, và hoạt động đó được gọi là “quản lý chất
lượng”. Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 do Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hoá (ISO) ban hành nhằm
mục đích đưa ra một mô hình được chấp nhận ở mức độ quốc tế về hệ thống đảm bảo chất
lượng và có thể áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và dịch vụ.
Tại thị trường EU, tổ chức sản xuất kinh doanh tuân thủ bộ tiêu chuẩn ISO 9000 không
phải là một điều kiện bắt buộc đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên, lợi ích thiết thực mà việc
thực hiện theo ISO 9000 cũng như chứng chỉ ISO 9000 đem lại cho các doanh nghiệp đã khiến
tiêu chuẩn này trở nên rất phổ biến. Các nhà sản xuất được cấp chứng chỉ ISO 9000 thực sự sở
hữu một tài sản quan trọng vì chứng chỉ này là một đặc điểm hỗ trợ bán hàng cơ bản trong kinh
doanh vốn rất cạnh tranh tại thị trường EU. Điều này còn có nghĩa, ISO 9000 cũng cần thiết cho
những doanh nghiệp nước ngoài muốn tăng thêm lòng tin của bạn hàng EU vào năng lực quản
lý chất lượng, tính chuyên nghiệp và do đó vào chất lượng hàng hoá của mình.
Bộ tiêu chuẩn ISO 9000 hiện có 3 tiêu chuẩn:
- ISO 9000: 2000 (Quy định cơ bản và các thuật ngữ)
- ISO 9001: 2000 (Các quy định)
- ISO 9004: 2000 (Hướng dẫn cải tiến hoạt động)
Trong đó ISO 9001: 2000 là tiêu chuẩn cốt lõi nhất.
Nội dung cơ bản của tiêu chuẩn ISO 9001: 2000
Nội dung của tiêu chuẩn ISO có thể được tóm tắt bằng một câu ngắn gọn, đó là phương
châm: “Ghi rõ quy trình sản xuất và thực hiện đúng điều đã cam kết”. Các yêu cầu cụ thể của
tiêu chuẩn này bao gồm:
1. Hệ thống quản lý chất lượng:
- Các yêu cầu chung: xây dựng, lập văn bản, thực hiện, duy trì và cải tiến liên tục hệ
thống quản lý chất lượng...
- Các yêu cầu chung về tài liệu.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
2. Trách nhiệm của lãnh đạo:
- Cam kết triển khai và cải tiến hệ thống QLCL.
- Xác định và đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
- Đảm bảo có chính sách chất lượng phù hợp.
- Lập kế hoạch để đạt được mục tiêu về chất lượng (hoạch định chất lượng)
- Các hoạt động quản trị của lãnh đạo về: thông tin nội bộ, sổ tay chất lượng, kiểm soát
tài liệu, kiểm soát hồ sơ chất lượng...
- Xem xét của lãnh đạo: xem xét định kỳ hệ thống quản lý chất lượng để đảm bảo hệ
thống luôn thích hợp, thoả đáng và có hiệu lực.
3. Quản lý nguồn lực
- Tổ chức phải xác định và cung cấp các nguồn lực cần thiết để triển khai, cải tiến các
quá trình và thoả mãn khách hàng.
- Đảm bảo cho nguồn nhân lực được phân công lao động hợp lý; được đào tạo, cung
cấp các phương tiện làm việc môi trường làm việc phù hợp.
4. Tạo sản phẩm
- Hoạch định các quá trình tạo sản phẩm
- Các quá trình liên quan đến khách hàng
- Kiểm soát quá trình mua hàng, kiểm tra xác nhận sản phẩm mua vào
- Kiểm soát hoạt động sản xuất và dịch vụ
- Kiểm soát phương tiện đo lường và theo dõi
5. Đo lường, phân tích và cải tiến
- Xác định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đo lường
- Đo lường,theo dõi sự thoả mãn của khách hàng, các quá trình và sản phẩm
- Kiểm soát sự không phù hợp với các yêu cầu
- Phân tích dữ liệu để xác định sự phù hợp hay không phù hợp.
- Cải tiến: hoạch định các quá trình cải tiến, tiến hành khắc phục và có các hành động
phòng ngừa.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
3. Các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng
3.1 Nhãn hiệu CE đối với các sản phẩm công nghiệp chế tạo
Nhãn hiệu CE là nhãn hiệu dành cho các sản phẩm trong nội bộ thị trường hoặc bên ngoài
EU được nhập vào thị trường này. Nhãn hiệu CE biểu trưng cho sự phù hợp của hàng hoá được
gắn nhãn với các yêu cầu mà EU đặt ra cho người sản xuất loại hàng hoá đó. Đến nay, quy định
không bắt buộc tất cả các sản phẩm nhập vào EU đều phải có nhãn
CE mà gắn nhãn CE chỉ bắt buộc đối với 23 nhóm sản phẩm có tên
trong danh sách của “Cách tiếp cận mới”- New Approach Guide - bao
gồm: các hệ thống và thiết bị quản lý không lưu, dụng cụ đốt cháy
nhiên liệu gas, sản phẩm xây dựng, thiết bị điện, thiết bị an toàn cá
nhân, thiết bị dùng cho giải trí, đồ chơi ... với mục tiêu áp đặt một quy định chung cho các nhà
sản xuất để chỉ cho phép sản phẩm an toàn mới vào được thị trường. Còn trong đa số các
trường hợp, có gắn CE lên sản phẩm hay không là quyền của doanh nghiệp.
Gắn dấu hiệu CE trên sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp tuyên bố với người tiêu dùng
rằng sản phẩm của họ phù hợp với tiêu chuẩn châu Âu ấn định cho từng loại sản phẩm cụ thể.
Do đó nhãn hiệu CE có thể được coi như một loại hộ chiếu cho phép các nhà sản xuất lưu thông
hàng hoá của mình trong nội bộ thị trường châu Âu một cách dễ dàng hơn. Thậm chí với một số
sản phẩm có nguồn gốc từ nước ngoài, nếu không có dấu hiệu CE thì người tiêu dùng hoàn
toàn không lựa chọn.
Tiêu chuẩn CE và việc công bố tiêu chuẩn CE tương tự quy định tự công bố tiêu chuẩn
chất lượng mà Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường của Việt Nam (nay là Bộ Khoa học và
Công nghệ) ban hành năm 2001 dựa trên Pháp lệnh chất lượng hàng hoá, theo đó TCVN là dấu
hiệu của sản phẩm hợp chuẩn theo quy định của Việt Nam. Mặc dù dấu hiệu CE do nhà sản
xuất tự công bố nhưng việc này được giám sát rất chặt chẽ bởi các cơ quan chức năng của Liên
minh châu Âu cũng như ở các nước thành viên. Nếu bị phát hiện vi phạm, toàn bộ sản phẩm sẽ
bị thu hồi và cấm lưu thông.
Thủ tục dán nhãn CE
Thủ tục dán nhãn CE có thể khác nhau đối với mỗi sản phẩm, phụ thuộc vào độ rủi ro nội
tại khi sử dụng sản phẩm. Uỷ ban châu Âu đã đưa ra một hệ thống Modul với 8 chủng loại khác
nhau từ A đến H. Modul A bao gồm những sản phẩm có độ rủi ro nội tại thấp nhất, trong khi sản
phẩm thuộc Modul H là rủi ro cao nhất.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm Modul A, tức là có độ rủi ro nội tại thấp, nhà sản xuất có
thể quyết định sản phẩm của mình có tuân thủ các chỉ thị, quy định và tiêu chuẩn của châu Âu
đối với hàng hoá đó hay không. Khi đó, nhà sản xuất có thể tự công bố tiêu chuẩn và gắn nhãn
CE lên sản phẩm của mình theo các bước như sau:
- Thứ nhất, xác định các yêu cầu về tiêu chuẩn EN đối với sản phẩm
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
- Thứ hai, xác định nội dung tiêu chuẩn sản phẩm dựa trên yêu cầu ở bước thứ nhất. Ví
dụ, sản phẩm quạt trần cần đáp ứng tối thiểu hai yêu cầu về hiệu điện thế (LVD) và sự
tương thích điện từ (EMC). Đối với hai yêu cầu này, tiêu chuẩn mà sản phẩm quạt trần
cần đáp ứng là EN 60335-1 hoặc EN 60335-2-80 (đối với LVD) và EN 55014-1 (đối với
EMC).
- Thứ ba, chuẩn bị hồ sơ kỹ thuật để minh hoạ sự phù hợp tiêu chuẩn của sản phẩm
bao gồm: tài liệu thiết kế, sản xuất, báo cáo kiểm tra...
- Thứ tư, chuẩn bị bản công bố phù hợp tiêu chuẩn.
- Thứ năm, gắn dấu hiệu CE lên sản phẩm.
Nếu một sản phẩm rơi vào nhóm cao hơn Modul A, thủ tục dán nhãn phức tạp hơn vì phải
có một tổ chức chuyên nghiệp (tổ chức kiểm định) kiểm tra xem sản phẩm có tuân thủ với các
quy định căn bản không, có được dán nhãn CE lên không.
3.2 Hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng
yếu (HACCP) trong quá trình sản xuất, chế biến thực phẩm:Hiện nay, một phong trào rộng lớn bảo vệ người tiêu dùng đang phát triển ở châu Âu.
Phong trào này dựa vào việc phòng ngừa các rủi ro, bảo đảm vệ sinh an toàn và chất lượng
thực phẩm. Liên minh châu Âu đã yêu cầu các cơ sở chế biến thực phẩm nhập khẩu vào EU từ
đầu thập niên 90 phải áp dụng hệ thống thực hành sản xuất tốt GMP (cấp độ thấp hơn HACCP)
và từ năm 1996 phải áp dụng HACCP qua Chỉ thị về vệ sinh thực phẩm 93/43/EC: “các công ty
thực phẩm phải xác định từng khía cạnh trong hoạt động của họ đều có liên quan tới an toàn
thực phẩm và việc đảm bảo thủ tục an toàn thực phẩm phải được thiết lập, áp dụng, duy trì và
sửa đổi trên cơ sở của hệ thống HACCP”. Riêng với thuỷ sản, từ năm 1992 đã buộc phải tuân
thủ GMP và sau đó Chỉ thị 94/356/EC ngụ ý rằng họ phải thực hiện HACCP
Đây là quy định của EU đối với các nhà sản xuất trong nước. Tuy nhiên, vì HACCP là một
quy trình đảm bảo vệ sinh an toàn từ khâu đầu đến khâu cuối nên các nhà sản xuất EU khi nhập
khẩu nguyên liệu đầu vào cho hoạt động sản xuất của họ thường yêu cầu nhà xuất khẩu cũng
phải tuân thủ HACCP.
HACCP (Hazard Analysis and Critical Control Point) là một phương pháp cho phép xác
định các mối nguy đặc thù trong quá trình sử dụng một sản phẩm thực phẩm, định giá chúng và
xác định các biện pháp phòng ngừa để kiểm soát và hạn chế chúng. Hiện đang tồn tại nhiều tài
liệu khác nhau của hệ thống HACCP xuất phát từ các hướng dẫn của các tổ chức quốc tế (FAO,
WHO, CODEX...), khu vực (EU, APEC...) và các quốc gia phát triển (Mỹ, Canada, úc...). Mặt
khác, công tác chuyển dịch đôi khi cũng làm cho sự khác biệt này tăng lên, tuy nhiên về cốt lõi
của nội dung hệ thống HACCP (các nguyên tắc và các bước thực hiện) thì luôn thống nhất giữa
các tài liệu trên).
HACCP gồm hai giai đoạn:
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
- Phân tích mối nguy: Các mối nguy gắn liền với các giai đoạn khác nhau trong quá trình
sản xuất thực phẩm.
- Kiểm soát mối nguy và hạn chế chúng: Kiểm soát các mối nguy và xác định biện pháp
hạn chế và phòng ngừa. Giám sát các điều kiện để thực hiện một cách có hiệu quả
các biện pháp đó. Sau đó kiểm tra lại hiệu quả của cả hệ thống.
HACCP không loại trừ được tất cả các mối nguy, tuy nhiên nó cho phép hạn chế các rủi ro
tại các điểm trọng yếu, nghĩa là những giai đoạn quyết định tính an toàn thực phẩm trong quá
trình sản xuất.
7 nguyên tắc của HACCP:
- Nguyên tắc 1: Tiến hành phân tích và xác định tất cả các nguy cơ có thể xảy ra đối với
sản phẩm tại tất cả các khâu của dây chuyền sản xuất.
- Nguyên tắc 2: Xác định các ‘điểm kiểm soát tới hạn’ (CCP - Critical Control Point) có
khả năng xuất hiện rủi ro để hạn chế chúng hoặc giám sát chúng.
- Nguyên tắc 3: Xác định độ sai lệch được phép tối đa theo tiêu chuẩn của mỗi ‘điểm
kiểm soát tới hạn’.
- Nguyên tắc 4: Thiết lập một hệ thống theo dõi, bao gồm cả lịch biểu, cho phép hạn chế
rủi ro một cách có hiệu quả tại từng điểm kiểm soát tới hạn.
- Nguyên tắc 5: Thiết kế và thực hiện các hành động điều chỉnh khi phát hiện ra một mối
nguy không thể hạn chế và kiểm soát nổi.
- Nguyên tắc 6: Xây dựng những biện pháp đặc hiệu đối với việc kiểm tra hiệu quả và
tác dụng của hệ thống HACCP
- Nguyên tắc 7: Xây dựng một hệ thống tài liệu thích hợp về việc áp dụng 6 nguyên tắc
trên cho phép đảm bảo toàn bộ hệ thống HACCP hoạt động tốt và hợp thức hoá.
Dựa trên 7 yếu tố đã nêu, người ta xây dựng 12 bước áp dụng cụ thể, từ việc thành lập
nhóm công tác chịu trách nhiệm chính trong việc việc áp dụng hệ thống HACCP tại cơ sở, đến
việc thiết lập các thủ tục thẩm định, thiết lập hệ thống hồ sơ, tài liệu (xem chi tiết ở phụ lục). Có
thể thấy rằng các yêu cầu đảm bảo an toàn của HACCP rất khắt khe.
3.3 Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo (GAP) đối với các sản phẩm
trồng trọtĐể đáp ứng mối quan tâm ngày càng tăng từ phía khách hàng đối với tác động của sản
xuất nông nghiệp đối với an toàn thực phẩm và môi trường, Tổ chức các nhà sản xuất bán lẻ
(EUREP - một hệ thống hợp tác các tổ chức bán lẻ hàng đầu của châu Âu) đã và đang xây dựng
các hướng dẫn về Quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo (GAP) đối với các sản phảm trồng
trọt. GAP bao gồm các tiêu chuẩn về quản lý ruộng vường, sử dụng phân bón, bảo vệ mùa
màng và sử dụng thuốc trừ sâu, thu hoạch và sau thu hoạch, sức khoẻ và an toàn công nhân.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Trong tương lai gần các nhà xuất khẩu hoa quả và rau tươi, những người muốn cung cấp cho
các dây chuyền siêu thị châu Âu sẽ phải chứng minh rằng sản phẩm của họ được sản xuất theo
quy trình GAP. Vì thế các nhà xuất khẩu của các nước đang phát triển nên tự có các bước
chuẩn bị tìm hiểu các hướng dẫn của GAP và tiến tới tuân thủ các quy trình này.
3.4 Hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau, quả
Nhằm kiểm soát hàm lượng thuốc trừ sâu có trong sản phẩm nông nghiệp để đảm bảo sức
khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi trường, Uỷ ban châu Âu đã ban hành Chỉ thị 76/895/EEC ngày
23/11/76. Chỉ thị này quy định việc sử dụng các loại thuốc trừ sâu và hàm lượng tối đa cho phép
trong rau, quả. Theo Chỉ thị, các cơ sở trồng trọt, chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại
thuốc trừ sâu với hàm lượng tối đa cho phép theo đúng quy định (Phụ lục 1). Nếu các sản phẩm
nông nghiệp sản xuất trong khu vực EU mà sử dụng không đúng các loại thuốc trừ sâu có trong
danh mục hoặc vượt mức cho phép, Uỷ ban châu Âu sẽ không cho phép lưu thông trên thị
trường. Nếu Uỷ ban châu Âu phát hiện thấy sản phẩm vi phạm quy định có mặt trong mạng lưới
phân phối hàng trên thị trường thì sẽ lập tức thu hồi, huỷ và có biện pháp trừng phạt đối với cơ
sở sản xuất, kinh doanh sản phẩm.
Chỉ thị 76/895/EEC không chỉ được EU áp dụng đối với các sản phẩm nông nghiệp sản
xuất trong khối EU mà áp dụng đối với cả sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu. Các nước bên
ngoài muốn xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang thị trường EU thì trong quá trình trồng
trọt và chăm sóc cây trồng phải sử dụng các loại thuốc trừ sâu với hàm lượng tối đa cho phép.
Những sản phẩm nông nghiệp nào nhập khẩu vào EU vi phạm quy định trên, Uỷ ban châu Âu sẽ
đưa ra lệnh tạm dừng nhập khẩu, trả lại hàng, hoặc tiêu huỷ lô hàng (biện pháp áp dụng sẽ tuỳ
thuộc vào mức độ vi phạm). Thời hạn dừng nhập khẩu dài hay ngắn còn phụ thuộc chủ yếu vào
việc chấp hành quy định này trong sản xuất nông nghiệp của các nước xuất khẩu sang thị
trường EU. Kể từ khi Chỉ thị 76/895/EEC có giá trị hiệu lực thi hành, chưa có một lô hàng nhập
khẩu nào vào EU vi phạm những quy định đề ra trong Chỉ thị.
3.5 Kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản nhằm đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm được cụ thể hoá trong sáu Chỉ thị và Quyết định sau: (1) Chỉ thị 97/78/EEC; (2)
Chỉ thị 91/493/EEC; (3) Chỉ thị 91/492/EEC; (4) Chỉ thị 96/22/EEC; (5) Chỉ thị 96/23/EEC; và (6)
Quyết định 97/296/EEC. Những Chỉ thị và Quyết định này đang có giá trị hiệu lực thi hành.
Sáu Chỉ thị và Quyết định từ (2) đến (6) bao gồm những quy định mà các nước ngoài khối
khi xuất khẩu sang EU phải tuân thủ, ví dụ như: cơ quan chức năng của các nước xuất khẩu
phải tiến hành kiểm tra hàng trước khi xuất khẩu sang thị trường EU... Chỉ có một Chỉ thị duy
nhất (Chỉ thị 97/78/EEC) buộc các nước thành viên EU phải tuân thủ và chịu trách nhiệm kiểm
tra hàng nhập khẩu tại cửa khẩu trước khi cho nhập khẩu vào lãnh thổ của mình.
Chị thị 91/493/EEC ngày 22.7.1991 đề ra các điều kiện vệ sinh đối với việc sản xuất và
đưa vào thị trường các sản phẩm thuỷ sản cho người tiêu dùng (điều 11 được sửa đổi bằng Chỉ
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thị 97/79/EEC) và Chỉ thị 91/492/EEC ngày 15.7.1991 về những điều kiện vệ sinh trong việc sản
xuất và đưa vào thị trường nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống. Theo hai Chỉ thị này, nước thứ Ba xuất
khẩu thuỷ sản sang EU phải chịu trách nhiệm kiểm tra điều kiện vệ sinh của hàng thuỷ sang
trước khi xuất khẩu, gồm 2 bước: (1) Giám sát chung: tiến hành ở tất cả các khâu từ đánh bắt,
sản xuất, vận chuyển; (2) Kiểm tra đặc biệt: tiến hành kiểm tra cảm quan, kiểm tra ký sinh trùng,
kiểm tra hoá học và phân tích vi sinh. Hai Chỉ thị trên chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo vệ sinh
thực phẩm thuỷ sản và bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng EU.
Chỉ thị 96/22/EEC ngày 29.4.1996 quy định các doanh nghiệp nước ngoài phải chịu trách
nhiệm kiểm tra và ngăn cấm việc sử dụng các chất kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi. Hiện
EU tiếp tục phản đối việc nhập khẩu thịt đã qua xử lý với hormone.
Chỉ thị 96/23/EEC ngày 29.4.1996 quy định các doanh nghiệp nước ngoài phải tuân thủ
các biện pháp giám sát một số hoạt chất và dư lượng của chúng trong nuôi trồng thuỷ sản và gia
súc, gia cầm thì được xuất khẩu sản phẩm sang thị trường EU. Hoạt chất được chia làm 2
nhóm: Nhóm A - Các hoạt chất có tác dụng đồng hoá và các chất cấm sử dụng - gồm 5 chất.
Nhóm B - Thuốc thú y và các chất ô nhiễm môi trường (Veterinary drugs and environmental
contaminants) - gồm: (1) Các chất kháng thể kể cả Sulfonamide và Quinolone; (2) Các thuốc thú
y khác (có 6 loại); (3) Các chất gây ô nhiễm môi trường: Các hợp chất Chlor hữu cơ kể cà PcBs
(Chloramphenocol, Chloroform, Chlorpromazine,...), các hợp chất nhóm phốt pho hữu cơ, các
nguyên tố hoá học, các độc tố nấm, thuốc nhuộm. Luật thực phẩm của EU hiện nay cấm hoàn
toàn 10 chất kháng sinh (dư lượng bằng 0) và hạn chế 10 chất (Phụ lục 2) do dư lượng những
kháng sinh này có khả năng gây ung thư, hoại tuỷ, thiếu máu ác tính và nhờn thuốc. Tới năm
2005, số lượng chất kháng sinh bị cấm hoàn toàn sẽ tăng lên 26.
Chỉ thị 93/43/EEC ngày 14.6.1993 về vệ sinh thực phẩm. Chỉ thị này đề ra những luật lệ
chung về vệ sinh thực phẩm và các thủ tục thẩm tra việc chấp hành các luật lệ ấy. Việc chuẩn bị,
chế biến, sản xuất, bao gói, bảo quản, vận chuyển, phân phối, lưu trữ, bán buôn và bán lẻ cần
phải được tiến hành một cách vệ sinh, được giám sát theo các nguyên tắc của HACCP.
Quyết định 97/296/EEC ngày 22/4/1997 thành lập danh sách các nước thứ Ba được phép
xuất khẩu sản phẩm thuỷ sản dùng làm thực phẩm vào Cộng đồng châu Âu. Quyết định này
được sửa đổi bằng Quyết định 2002/863/EC ngày 29.10.2002, trong đó, danh sách các nước
được nhập khẩu thuỷ sản vào EU được chia làm hai nhóm: (1) Nhóm I - gồm 72 nước (ở châu á
có: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Indonesia, ấn Độ, Malaysia, Thailand, Việt Nam) được EU
áp dụng chế độ kiểm tra thông thường ; (2) Nhóm II - gồm 35 nước (ở châu á có: Hồng Kông,
Myanmar) bị EU áp dụng chế độ kiểm tra 100% các lô hàng thuy sản nhập khẩu vào EU. Tuy
nhiên, nếu các nước thuộc Nhóm I vi phạm Quy định kiểm tra thú y ở mức độ nhất định (gây ảnh
hưởng tới thị trường EU) EU sẽ áp dụng biện pháp kiểm tra 100% các lô hàng thuỷ sản nhập
khẩu, thời hạn áp dụng dài hay ngắn tuỳ thuộc vào việc chấp hành quy định kiểm tra thú y của
các doanh nghiệp thuỷ sản nước đó. Nếu vi phạm nặng, EU sẽ đưa nước đó trở lại Nhóm II và
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
áp dụng trở lại chế độ kiểm tra 100%.
Chỉ thị 97/78/EEC được đưa ra để tổ chức kiểm tra thú y các sản phẩm nhập khẩu nhằm
cung cấp một nguồn thực phẩm an toàn và ổn định, bảo vệ sức khoẻ cho cộng đồng. Theo đó,
các sản phẩm nhập khẩu từ nước thứ Ba phải được các nước thành viên EU kiểm tra và cấp
giấy chứng nhận trước đưa vào lãnh thổ của EU.
Tóm lại, Luật thực phẩm và các Chỉ thị, Quyết định của EU đã nêu rất cụ thể các quy định
về kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản. Đây là những quy định bắt buộc mà
các doanh nghiệp ở những nước thứ Ba muốn xuất khẩu sang EU phải thực hiện, do đó các
doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý và thực thi triệt để nhằm thoả mãn tối đa yêu cầu của thị
trường này.
3.6 Chất phụ gia trong thực phẩm
Phụ gia thực phẩm là các loại nguyên liệu khác nhau dùng để thêm vào thực phẩm với
mục đích làm tăng thêm sự lôi cuốn của sản phẩm, hoặc làm đông đặc thực phẩm. ở các nước
thuộc Liên minh châu Âu, các phụ gia thực phẩm được chấp nhận đều mang số hiệu nhận biết,
trước số hiệu là chữ E. Trên bao bì sản phẩm, người ta nêu thành phần các chất phụ gia dưới
dạng tên chất hay số hiệu E của nó.
EU đã ban hành các chỉ thị đặt ra yêu cầu đối với các chất phụ gia thực phẩm. Quy định
của EU về phụ gia thực phẩm là phẩm màu được nêu trong Chỉ thị 94/36/EEC (Phụ lục 3). Quy
định của EU về chất làm ngọt được nêu trong Chỉ thị 94/35/EEC. Với quy định này, việc sản
xuất, chế biến thực phẩm chỉ được sử dụng các chất làm ngọt có thành phần là những chất
không gây hại cho sức khoẻ và môi trường, hạn chế những chất làm ngọt có nguồn gốc từ hoá
học.
Hương liệu được sử dụng trong thực phẩm làm cho thực phẩm ngon và có mùi vị hấp dẫn
hơn. Hương liệu được chế biến từ các nguồn khác nhau và được chia làm hai loại : (1) Loại
được coi như thực phẩm - hương liệu làm từ thực phẩm, thảo mộc, gia vị; (2) Loại không được
coi là thực phẩm - hương liệu được làm từ rau, nguyên liệu thô từ động vật. Quy định chi tiết về
hai loại hương liệu này (theo Chỉ thị 88/388/EEC) có thể tham khảo ở phụ lục 3.
Ngoài chất làm ngọt, phẩm màu và hương liệu, trong chế biến thực phẩm người ta còn sử
dụng một số phụ gia khác (theo Chỉ thị 95/2/EC), ví dụ như tác nhân làm đông đặc thực phẩm.
Trong các chất phụ gia đó có những chất chỉ không đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu
dùng mà không gây hại môi trường, còn một số khác không những không đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm mà còn có tác động xấu đến môi trường nữa. Chính vì vậy, EU yêu cầu sự giám
sát việc sử dụng các loại phụ gia thực phẩm rất chặt chẽ. Các nước thành viên EU cũng đã và
đang hợp nhất các Chỉ thị này với luật thực phẩm của họ.
Trên đây là các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng chung nhất, phổ biến nhất của EU
đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường. Ngoài ra còn nhiều tiêu chuẩn và yêu cầu cụ thể khác
đối với từng ngành hàng, từng loại mặt hàng riêng biệt mà trong khuôn khổ khoá luận này không
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
thể nêu hết được. Đối tượng áp dụng của một số tiêu chuẩn chỉ là hàng hoá được sản xuất trong
nội khối (ví dụ như hệ thống HACCP...), một số quy định khác lại là bắt buộc đối với cả hàng hoá
sản xuất trong khối và hàng nhập khẩu (ví dụ như các quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu
trong rau quả, chất phụ gia thực phẩm...). Tuy nhiên, con đường đúng đắn nhất để các nước
đang phát triển thâm nhập được vào thị trường khó tính này là thu hẹp khoảng cách về chất
lượng giữa hàng xuất khẩu của nước mình và hàng hoá do các nước EU sản xuất bằng cách
tìm hiểu và đáp ứng tối đa các yêu cầu chất lượng của họ.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
III. Các tiêu chuẩn về môi trường của EU đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Từ những năm 80, các nước có nền kinh tế phát triển và công nghiệp hoá đã không ngừng
gia tăng các mối lo ngại của xã hội về các vấn đề môi trường. Cùng thời gian đó các nước đang
phát triển đang đạt được tốc tăng trưởng kinh tế cao nhờ hoạt động đầu tư nước ngoài, sự phát
triển nhanh nguồn tài nguyên, triển khai đô thị hoá. Sự tăng trưởng kinh tế này cũng đã đem lại
các hậu quả nghiêm trọng cho môi trường, ảnh hưởng đến tính đa dạng sinh học của các hệ
sinh thái tự nhiên, chất lượng nước, tình trạng thoái hoá đất và lượng khí quyển ở đô thị.
Chính từ bối cảnh này mà khái niệm về “sự phát triển có thể chịu đựng - sustainable
development”đã nổi bật trên trường quốc tế khi báo cáo Brundtlant được đệ trình lên Uỷ ban Thế
giới về Môi trường và Phát triển của Liên Hiệp Quốc vào năm 1987. Báo cáo đòi hỏi phải có sự
cân bằng giữa yêu cầu phát triển kinh tế và việc bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên. Báo
cáo đã đưa ra chiều hướng mới đối với tất cả các nước đã phát triển và đang phát triển nhằm
tạo nền móng cho sự phát triển kinh tế trong điều kiện môi trường được đảm bảo an toàn.
1. Tiêu chuẩn quản lý môi trường
Uỷ ban châu Âu là một trong những bộ phận lập chính sách đầu tiên khởi xướng các sáng
kiến bảo vệ môi trường khi đưa ra bản dự thảo về Luật Kiểm định và Quản lý sinh thái vào năm
1990. Bộ luật này bao gồm “Chương trình kiểm định và Quản lý sinh thái”(EMAS - Ecological
Management and Audit Scheme) trong các ngành công nghiệp hoạt động trong khối thị trường
chung châu Âu. EMAS được phát triển như một chương trình tự nguyện, đặc biệt nhằm khuyến
khích các ngành công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm môi trường cao phát triển các hệ thống
quản lý.
Tiêu chuẩn quản lý môi trường của Anh, BS7750, là tiêu chuẩn quản lý môi trường đầu
tiên được ban hành để đáp ứng EMAS. Cùng lúc đó, người ta thúc đẩy việc hình thành một tiêu
chuẩn quốc tế về quản lý môi trường chung cho cộng đồng thế giới. Tháng 9/1996, Tổ chức
Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO) công bố tiêu chuẩn quốc tế về quản lý môi trường ISO 14001
với các quy định cụ thể có hướng dẫn sử dụng. Như vậy, các doanh nghiệp EU hiện nay có thể
lựa chọn áp dụng hai tiêu chuẩn quản lý môi trường trên. Tuy nhiên, tiêu chuẩn ISO 14001 là
tiêu chuẩn phổ biến và đáng quan tâm nhiều hơn đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang
phát triển vì chỉ các doanh nghiệp có trụ sở tại EU mới được đăng ký EMAS. Cũng cần lưu ý
rằng các tiêu chuẩn quản lý môi trường được khuyến khích áp dụng tại các cơ sở sản xuất trong
khối EU, nhưng nếu doanh nghiệp nước ngoài đáp ứng được các tiêu chuẩn đó thì sẽ rất thuận
lợi khi xâm nhập vào thị trường này - nơi mà việc giữ gìn và bảo vệ môi trường đang trở thành
mối quan tâm lớn.
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Những nội dung cơ bản của ISO 14001:
1. Các yêu cầu chung: Tổ chức phải thiết lập và duy trì một hệ thống quản lý môi trường
tuân thủ các yêu cầu của tiêu chuẩn này.
2. Chính sách môi trường: Lãnh đạo của tổ chức phải:
- Đề ra chính sách môi trường cho tổ chức
- Cam kết tuân thủ các luật lệ và quy định về môi trường;
- Đặt ra lịch trình thiết lập, rà soát các mục tiêu về môi trường, đồng thời đảm bảo cho
chính sách môi trường được thực hiện, duy trì và được từng nhân viên trong công ty
năm vững một cách đầy đủ....
3. Lập kế hoạch:
- Xác định các khía cạnh môi trường liên quan đến hoạt động, sản phẩm hàng hoá và
dịch vụ của tổ chức mình;
- Nắm rõ các quy định pháp lý;
- Đặt ra và duy trì các mục tiêu về môi trường cho mỗi cấp trong tổ chức;
- Lên chương trình quản lý môi trường nhằm đạt được các mục tiêu đề ra...
4. Thực hiện chương trình bao gồm:
- Phân bổ nguồn lực cần thiết để triển khai và quy rõ trách nhiệm;
- Đào tạo cán bộ, nhận thức của từng nhân viên về tầm quan trọng và vai trò, trách
nhiệm của họ trong việc thực hiện chính sách môi trường.
- Tạo điều kiện trao đổi kiến thức và tài liệu về chính sách môi trường giữa các cấp, các
phòng ban bộ phận trong tổ chức
- Lập hệ thống tài liệu về quản lý môi trường
- Quản lý tài liệu sao cho việc cất trữ, tra cứu định kỳ... được thuận tiện nhất
5. Hoạt động kiểm tra và cải tiến
- Theo dõi và đo lường để xác định xem các hoạt động của tổ chức có tác động tốt đến
môi trường hay không
- Kiểm soát sự không phù hợp và xác định trách nhiệm trong trường hợp đó.
- Lập báo cáo về quá trình thực hiện và kết quả sau khi kiểm tra, đo lường.
- Lên kế hoạch, tiến hành sửa đổi, khắc phục.
6. Lãnh đạo cấp cao nhất xem xét lại toàn hệ thống.
Những lợi điểm của việc áp dụng hệ thống quản lý môi trường
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
Chúng ta có thể lấy dẫn chứng về hiệu quả của việc có một hệ thống quản lý môi trường
qua lời tuyên bố của hai công ty lớn ở Anh như sau:
“Từ khi hoàn tất BS 7750 vào 1994, nhà máy chúng tôi đã xác định được những khu vực
cần phải cải tiến về môi trường; chương trình này đã đạt được sự tiết kiệm chi phí đáng kể, mà
duy chỉ năm đầu tiên, dự án thực hiện BS 7750 đã được hoàn vốn. Những cải tiến đáng kể là đã
giảm 18% năng lượng sử dụng tại nhà máy, giảm 28% rác rưởi thải từ trong nhà ra ngoài và vào
cuối năm 1997, giảm 90% lượng chất thải hoá học từ trong nhà máy. Nhà máy đã được chứng
nhận ISO 14001 và đã đăng ký với EMAS kể từ tháng 08/1995”.
(Akzo Nobel Chemical Ltd., UK) [7]
“Đa số các khách hàng lớn của chúng tôi yêu cầu một lời tuyên bố về chính sách môi
trường. Việc đạt được chứng nhận đã đóng cái dấu của giới thẩm quyền trên sự cam kết của
chúng tôi về sự cải tiến không ngừng trong công tác môi trường. Sự chứng nhận đó đã cho thấy
các lợi ích. Các khách hàng tương lai cảm thấy tự tin vì chứng tôi đã thiết lập và đang vận hành
một Hệ thống quản trị Môi trường đúng đắn và đã qua đánh giá.
Gần đây IBM đã thắng một hợp đồng nhiều triệu Pound về máy tính cá nhân - yếu tố quyết
định giữa chúng tôi và các đối thủ cạnh tranh là giấy chứng nhận ISO 14001.”
(IBM UK Ltd.) [7]
2. Bao bì và phế thải bao bì
Bao bì là một bộ phận không thể thiếu của hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất nhập khẩu
và vấn đề xử lý phế thải bao bì sau khi sản phẩm được sử dụng đang được đặt ra một cách cấp
thiết nhằm mục đích hạn chế tối thiểu phế thải bao bì từ nguồn rác sinh hoạt để bảo vệ môi
trường.
Trong vấn đề quản lý bao bì và phế thải bao bì, Liên minh châu Âu quy định rất chặt chẽ
trong Chỉ thị 94/62/EEC bao gồm các quy định về thành phần của bao bì (quan tâm chủ yếu đến
tỷ lệ kim loại nặng tối đa trong bao bì) và những yêu cầu cụ thể đối với việc sản xuất bao bì. Chỉ
thị đã được chuyển vào luật quốc gia của các nước thành viên, đồng thời cũng được áp dụng
cho cả hàng nhập khẩu.
Phế thải bao bì là các loại bao bì hay vật liệu làm bao bì được bỏ ra sau khi kết thúc quá
trình vận chuyển, chuyên chở, phân phối hay tiêu dùng. Chẳng hạn như container thải ra sau khi
kết thúc quá trình vận chuyển hàng hoá, túi nilông loại ra sau khi dùng sản phẩm.
Quá trình sản xuất và thành phần của bao bì phải tuân theo các yêu cầu sau:
- Bao bì phải được sản xuất sao cho thể tích và khối lượng được giới hạn đến mức tối
thiểu để duy trì mức an toàn, vệ sinh cần thiết đối với sản phẩm chứa trong bao bì và
đối với người tiêu dùng.
- Bao bì phải được thiết kế, sản xuất, buôn bán theo cách thức cho phép tái sử dụng
hay thu hồi, bao gồm tái chế và hạn chế đến mức tối thiểu tác động đối với môi trường
Khoá luận tốt nghiệp Nghiêm Quỳnh Nga – Anh2 K38
khi chất phế thải bao bì bị bỏ đi.
- Bao bì sẽ được sản xuất theo cách có thể hạn chế tối đa sự có mặt của nguyên liệu và
các chất độc hại do sự phát xạ, tro tàn khi đốt cháy hay chôn bao bì, chất cặn bã (bảng
1).
- Trên bao bì phải ghi rõ thành phần nguyên liệu sử dụng được sử dụng chế tạo bao bì
để thuận tiện hơn trong việc thu gom, tái chế và tái sử dụng
Bảng 1: Mức giới hạn đối với một số hoá chất trong bao bì
Các chất bị cấm hoặc hạn chế Giới hạn
1 Pentachlorophenol (PCP) ≤ 0.01%
2 Benzene ≤ 0.01%
3 TEPA, TRIS, PBB Cấm
4 Polychlorinated Biphenyles (PCBs), Terphenyles (PCTs) Cấm
5 Asbestos Cấm
6 Cadmium (Cd) ≤ 0.01%
7 Formaldehyde 1500 ppm (Đức)
8 Nickel (Ni) 0.5 mg/cm2
9 Thuỷ ngân Cấm
10 Zinc (Zn) Cấm
11 CFC Cấm
12 Bao bì bằng gỗ rừng không tái sinh Cấm
(Nguồn: Chỉ thị 94/62/EEC của Liên minh châu  u về bao bì và phế thải bao bì - www.cbi.nl)
Đối với bao bì có thể tái sử dụng (Reusable nature of Packaging), ngoài việc tuân thủ các
yêu cầu nêu trên còn phải đáp ứng các yêu cầu dưới đây:
- Tính vật lý và các đặc trưng của bao bì phải cho phép sử dụng lại một số lần nhất định
trong điều kiện sử dụng được dự đoán trước là bình thường.
- Quá trình sản xuất bao bì phải đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người lao động.
- Phải đáp ứng yêu cầu đặc biệt về thu hồi bao bì khi bao bì không được tái sử dụng
trong thời gian dài và thành phế thải.
Đối với việc thu hồi và tái chế bao bì phải tuân theo các quy định sau:
- Bao bì thu hồi ở dạng vật liệu tái có thể tái sử dụng thì phải được dùng vào việc sản
xuất ra những sản phẩm có thể bán được theo một tỷ lệ phần trăm nhất định trong
tổng khối lượng vật liệu dùng để sản xuất ra sản phẩm đó, miễn sao phù hợp với các
tiêu chuẩn hiện hành của châu Âu. Việc định ra tỷ lệ này có thể khác nhau, phụ thuộc
vào loại vật liệu làm bao bì.
- Loại bao bì thu hồi dạng phế phẩm năng lượng phải thu được tổi thiểu lượng calo cho
phép.
- Từ 50-60% bao bì tính theo khối lượng phải được tái chế hay đốt để thu lại năng
lượng.
- Loại bao bì không thể tái sử dụng hoặc tái sinh, phải đem đốt thì phải đảm bảo các khí
độc hại thải ra không làm ảnh hưởng đến môi trường.
Đây là những yêu cầu chung nhất của Liên minh châu Âu về vấn đề bao bì và phế thải bao
bì. Tuy nhiên việc thi hành Chỉ thị trên thực tế ở các nước khác nhau có thể dưới những hình
thức khác nhau, mà điển hình nhất là chương trình “Green Dot”được áp dụng ở Đức, Bỉ, và
Pháp. ở Đức, ngành thương mại và công nghiệp buộc phải thu hồi lại các nguyên liệu bao bì để
tái sử dụng hay tái chế. Quy định này còn áp dụng cho cả hàng hoá nhập khẩu, tức là các công
ty nước ngoài cũng phải tuân thủ như các công ty của Đức. Các bao bì có in ký hiệu xanh
“Green Dot”là những bao bì có thể được sử dụng lại hoặc tái chế, và nhà sản xuất/nhập khẩu
sản phẩm đựng trong bao bì đó đã tham gia vào hệ thống quản lý bao bì phế thải, đã trả phí cho
việc tái chế bao bì.
Với những quy định của thị trường EU về bao bì và phế thải bao bì, các doanh nghiệp Việt
Nam muốn xuất khẩu sang EU cũng cần phải đặc biệt lưu tâm. Việc tuân thủ các quy định này
không những giúp các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu sang EU mà còn góp phần hạn chế ô
nhiễm môi trường ở Việt Nam từ rác thải sinh hoạt.
3. Nhãn hiệu sinh thái EU (Eco-label)
Hiện nay EU đang thực hiện Chương trình dán nhãn sinh thái (Eco-labelling) cho sản
phẩm. Mục đích của chương trình này là phát triển các sản phẩm thân thiện với môi trường (sản
phẩm có ảnh hưởng bất lợi ở mức thấp nhất tới môi trường). Các nhãn hiệu sinh thái được gắn
lên sản phẩm dựa trên sự đánh giá đầy đủ vòng đời của sản phẩm để đảm bảo rằng sản phẩm
được thiết kế, sản xuất, đóng gói bao bì... sao cho có thể bị vứt bỏ khi kết thúc vòng đời mà
không làm ảnh hưởng đến môi trường. Các nhà nhập khẩu và sản xuất sử dụng dấu xác nhận
tiêu chuẩn môi trường châu Âu trên cơ sở tình nguyện. Chi phí trả cho việc được sử dụng các
biểu tượng môi trường này phụ thuộc vào doanh thu của sản phẩm đối với công ty nhập khẩu
hay sản xuất sản phẩm đó và có thể thay đổi đối với mỗi quốc gia thành viên. Việc sử dụng các
biểu tượng như vậy cũng khuyến khích các ngành chế biến và sản xuất phải duy trì việc sử dụng
bền vững các nguồn tài nguyên.
Đến nay đã có 14 nhóm sản phẩm nằm trong phạm vi chương trình gắn nhãn hiệu sinh
thái của EU, đó là các nhóm: (1) Bột giặt; (2) Bóng điện; (3) Máy giặt; (4) Giấy copy; (5) Tủ lạnh;
(6) Giày dép; (7) Máy tính cá nhân; (8) Giấy ăn; (9) Máy rửa bát; (10) Máy làm màu đất; (11)
Nệm trải giường; (12) Sơn và vécni; (13) Sản phẩm dệt; (14) Nước rửa bát. Uỷ ban châu Âu
cũng đang xây dựng tiêu chuẩn để bổ sung thêm 7 nhóm sản phẩm khác vào danh sách này và
có dự định mở rộng thêm cho nhiều nhóm sản phẩm nữa.
Riêng đối với thực phẩm có tính bảo vệ môi trường thì không thuộc chương trình nhãn
hiệu sinh thái EU mà thuộc chương trình “nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ”. Xuất
phát điểm là từ thập kỷ 80, ở nhiều nước và khu vực trên thế giới đã xuất hiện phương pháp sản
xuất lượng thực, thực phẩm mới: Sản xuất lượng thực, thực phẩm chỉ dùng phân bón hữu cơ đã
qua chế biến, thuốc trừ sâu hữu cơ, không dùng hoặc chỉ dùng rất ít phân bón hoá học, thuốc
trừ sâu hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, kháng sinh, hoá chất... nhằm tạo ra thực phẩm hữu cơ
đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm (ATTP) và bảo vệ môi trường (BVMT) như: an toàn với sức
khoẻ người tiêu dùng, chống thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí và giữ gìn
sự trong lành của vùng nông thôn. Phương pháp sản xuất nông nghiệp này được gọi là phương
pháp sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Những thực phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ
phải là những sản phẩm đang và sẽ đưa ra dấu hiệu về phương pháp sản xuất hữu cơ: (1) sản
phẩm nông nghiệp chưa qua chế biến, động vật và sản phẩm từ động vật chưa chế biến; (2) sản
phẩm tiêu dùng có trên một thành tố có nguồn gốc động vật, thực vật.
Tháng 6/1991, Cộng đồng châu Âu thông qua quyết định số 2092/91/EC về tiêu chuẩn của
nông nghiệp hữu cơ nhằm thúc đẩy sự phát triển của loại hình sản xuất này. Như vậy, EU là nơi
đi tiên phong trong sản xuất nông nghiệp hữu cơ, đồng thời cũng là thị trường tiêu thụ loại sản
phẩm này lớn nhất hiện nay trên thế giới. Các nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ
cũng đang nhanh chóng trở nên phổ biến ở thị trường EU, là những nhãn hiệu đảm bảo cho
người tiêu dùng về nguồn gốc hữu cơ và chất lượng của sản phẩm nông nghiệp. Cho đến nay
vẫn chưa có nhãn hiệu chung của EU cho các sản phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu
cơ, mà mới chỉ có tiêu chuẩn và nhãn hiệu riêng của từng quốc gia thành viên, ví dụ như ở Đức
là KRAV, ở Hà Lan là EKO... Tuy nhiên Uỷ ban châu Âu đã có quy định cụ thể về dán nhãn cho
sản phẩm được sản xuất theo phương pháp hữu cơ, theo đó các nhãn hiệu phải đáp ứng các
yêu cầu sau:
- Những dấu hiệu trên nhãn mác thể hiện một cách rõ ràng rằng sản phẩm được sản
xuất theo phương pháp hữu cơ. Điều đó có nghĩa là trên nhãn mác phải ghi rõ: (1)
những thành phần cấu thành sản phẩm tuân theo nguyên tắc của sản xuất hữu cơ; (2)
những thành phần cấu thành sản phẩm được nhập khẩu từ nước thứ Ba thì phải có
nguồn gốc từ nước thứ Ba và có chứng nhận của một cơ quan có thẩm quyền về việc
áp dụng các nguyên tắc của phương pháp sản xuất nông nghiệp hữu cơ.
- Sản phẩm phải được sản xuất, nhập khẩu từ nước thứ Ba theo quy định;
- Sản phẩm được sản xuất, hay nhập khẩu bởi chủ thể kinh doanh là người sản xuất,
nhập khẩu từ nước thứ Ba;
- Thể hiện rõ ràng hướng dẫn sử dụng và hạn sử dụng.
Các nhãn hiệu môi trường (nhãn hiệu sinh thái và nhãn hiệu cho thực phẩm có nguồn gốc
hữu cơ) được in trên bao bì sản phẩm chứng minh đặc tính thân thiện với môi trường của sản
phẩm đang trở thành một quy định quan trọng của thị trường EU, một mặt tạo ra thách thức đối
với hàng xuất khẩu của Việt Nam, mặt khác lại tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển cao hơn nữa
quy trình sản xuất không gây hại đến môi trường trong nước cũng như quốc tế.
4. Các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo vệ môi
trường Quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả:
Đây là quy định về an toàn thực phẩm với mục đích bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Khi xét
về khía cạnh môi trường, quy định này cũng nhằm bảo vệ môi trường vì sản xuất nông nghiệp
nếu sử dụng các loại thuốc trừ sâu an toàn và với một hàm lượng cho phép không những sẽ
cung cấp một nguồn thực phẩm an toàn và đảm bảo cho sức khoẻ người dân mà còn đảm bảo
không gây ô nhiễm môi trường không khí, nguồn nước sinh hoạt. Đồng thời, quy định về hàm
lượng thuốc trừ sâu tối đa không chỉ bảo vệ môi trường ở quốc gia sản xuất sản phẩm mà còn
bảo vệ môi trường ở cả quốc gia nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm. Thực tế là nếu trong sản phẩm
nông nghiệp có chứa hàm lượng thuốc trừ sâu quá mức cho phép, các chất này sau quá trình
tiêu dùng sản phẩm sẽ thải ra môi trường ở nước nhập khẩu và lượng thuốc trừ sâu không phân
huỷ sẽ gây ô nhiễm môi trường nơi đây (thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt...). Dư
lượng thuốc trừ sâu không phân huỷ đang là một trong những vấn đề nhạy cảm trong hoạt động
bảo vệ môi trường mà EU đặc biệt quan tâm.
Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản
Cũng giống như quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả, quy định này là
quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, nhưng lại liên quan gián tiếp đến môi trường. Cụ thể,
một số khâu trong quá trình nuôi trồng, chế biến và đưa các sản phẩm thịt gia súc, gia cầm, thuỷ
sản vào thị trường EU có ảnh hưởng tới môi trường (nuôi trồng, khai thác, chế biến, vận
chuyển). Sử dụng quá nhiều kháng sinh, hoá chất, thuốc bảo vệ thực vật trong chăn nuôi gia
súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản, dùng nhiều kháng sinh trong bảo quản hải sản đánh bắt và
xử lý chất thải của các nhà máy chế biến thực phẩm chưa tốt sẽ gây ô nhiễm môi trường.
Cụ thể, chương VI “Những điều kiện đặc biệt để xử lý thuỷ sản trên bờ”ở Phụ lục I thuộc
Chỉ thị 91/493/EEC, phần “Điều kiện đối với sản phẩm tươi”có nêu: “Trừ trường hợp có những
phương tiện chuyên biệt để loại bỏ liên tục phế liệu, các loại phế liệu cần được bỏ vào những
thùng chứa không rò rỉ, có nắp đậy, dễ làm sạch, dễ khử trùng. Không được để phế liệu tích tụ
trong khu làm việc. Phế liệu phải được chuyển đi thường xuyên, hoặc mỗi khi đầy thùng chứa,
hay ít nhất sau mỗi ngày làm việc. Các thùng, vật, hoặc phòng chứa dành riêng cho chất phế
thải phải luôn được giữ sạch, và nếu có thể, được khử trùng sau khi sử dụng. Phế thải tồn trữ
không được tạo nguồn gây nhiễm bẩn cho cơ sở sản xuất hoặc gây ô nhiễm môi trường.”
Điều 9, Chương III “Nhập khẩu từ nước thứ Ba”thuộc Chỉ thị 91/492/EEC có nêu: “Các
nước thứ Ba xuất khẩu sang EU phải đảm bảo điều kiện vệ sinh thực tế trong quá trình sản xuất
và đưa nhuyễn thể hai mảnh vỏ sống vào thị trường, đặc biệt phải tiến hành giám sát các khu
vực sản xuất về mặt nhiễm vi sinh và gây ô nhiễm môi trường và về sự có mặt của các độc tố
sinh học biển.”
Chỉ thị 96/23/EEC ngày 29.4.1996 quy định về các biện pháp giám sát một số hoạt chất và
dư lượng của chúng trong động vật sống và các sản phẩm động vật. Theo Chỉ thị này, các
doanh nghiệp muốn xuất khẩu vào EU phải tuân thủ các biện pháp giám sát một số hoạt chất và
dư lượng của chúng trong nuôi trồng thuỷ sản và gia súc, gia cầm. Trong số các hoạt chất cần
giám sát có những chất gây ô nhiễm môi trường như: các hợp chất Chlor hữu cơ kể cả PcBs
(Chloramphenicol, Chloroform, Chlorpromazine,...), các hợp chất nhóm phốt pho hữu cơ, các
nguyên tố hoá học, các độc tố nấm, thuốc nhuộm (Phụ lục 2)
Ngoài ra, EU còn thực hiện chính sách “dư lượng = 0”đối với 10 chất kháng sinh bị cấm
hoàn toàn vì trong đó có 07 chất gây ô nhiễm môi trường là CAP, Chloroform, Chlorpromazine,
Dimetridazole, Ronidazole, Metronidazole, FRZ hoặc NF có chứa FRZ.
Chất phụ gia trong thực phẩm:
EU đưa ra các quy định về sử dụng chất phụ gia trong thực phẩm cũng một phần nhằm
bảo vệ môi trường. Tác động tới môi trường trong việc sử dụng chất phụ gia nằm ở chỗ: nếu
không sử dụng các chất phụ gia an toàn và đúng mức cho phép thì chất phụ gia được thải ra
môi trường trong quá trình sản xuất hoặc dư lượng phụ gia thực phẩm không phân huỷ sau khi
tiêu dùng sẽ gây thoái hoá đất, ô nhiễm nguồn nước, làm giảm đa dạng sinh học. Vì vậy chỉ có
những loại phụ gia (bao gồm cả chất làm ngọt, phẩm màu, hương liệu và các phụ gia khác) an
toàn cho sức khoẻ của con người và môi trường mới được phép sử dụng (Phụ lục 3). Cũng cần
lưu ý thêm là trong 10 chất kháng sinh bị EU hoàn toàn cấm sử dụng (theo Luật thực phẩm) có 4
chất mang màu (Dimetridazole, Metronidazole, Ronidazole, FRZ hoặc NF có chứa FRZ) hay
được sử dụng trong chế biến thực phẩm để làm cho thực phẩm có màu sắc hấp dẫn hơn. Đây là
những chất rất độc, vừa không đảm bảo an toàn thực phẩm, vừa gây ô nhiễm môi trường. Chính
vì vậy nếu sử dụng 04 chất này trong chế biến thực phẩm, hàng hoá sẽ bị coi là vi phạm quy
định về bảo vệ môi trường.
IV. Vấn đề trách nhiệm xã hội của thị trường EU đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
Bên cạnh các tiêu chí quan trọng về chất lượng, vệ sinh, độ an toàn và môi trường đã đề
cập ở trên, các vấn đề xã hội ngày càng có tầm quan trọng cao hơn trong thương mại. Các vấn
đề xã hội được nêu ra xuất phát từ quan điểm của người tiêu dùng về đạo đức kinh doanh. Tại
Liên minh châu Âu nói riêng và các nước phát triển nói chung, ngày càng có nhiều người cho
rằng các doanh nghiệp - với tư cách là những thực thể quan trọng trong xã hội - phải có trách
nhiệm về đạo đức đối với nhân viên của họ nói riêng và toàn xã hội nói chung thông qua sản
phẩm mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường. Dần dần, họ đưa vấn đề đạo đức kinh doanh
trở thành tiêu chí để lựa chọn sản phẩm và bạn hàng. Các doanh nghiệp do đó hiểu rõ là mình
sẽ được đánh giá không chỉ bởi sản phẩm và dịch vụ cung cấp mà còn bởi trách nhiệm của
doanh nghiệp về mặt xã hội.
1. Các bộ quy tắc ứng xử
Theo định nghĩa của Uỷ ban châu Âu, “Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp - CSR
(Corporate Social Responsibilitíe) - là khái niệm để chỉ việc các công ty đưa ra những mối quan
tâm về xã hội và môi trường vào các hoạt động kinh doanh của mình trong mối quan hệ với các
bên có liên quan, trên cơ sở tự nguyện” [8]. Những mối quan tâm này thường được cụ thể hoá
trong các bộ quy tắc ứng xử (Code of Conduct - CoC). Các bộ quy tắc ứng xử có thể do một tổ
chức đưa ra, hoặc do các công ty tự đưa ra bộ của CoC của riêng mình (hiện có khoảng trên
1000 bộ CoC loại này). Tuy nhiên không có một bộ CoC nào mang tính quốc tế hay quốc gia cả.
Các CoC có những đặc điểm sau:
- Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp được quy định trong các CoC được hiểu là trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với toàn xã hội thông qua sản phẩm của mình chứ không
phải chỉ là trợ giúp một số nhóm người yếu thế nhất định trong xã hội như người tàn
tật, trẻ mồ côi, nạn nhân lũ lụt... và đây là việc làm thường xuyên, liên tục chủ yếu
ngay tại nơi làm việc chứ không phải là công tác hỗ trợ nhân đạo làm theo phòng trào,
mang tính chất thời điểm và ở ngoài xã hội (ngoài nơi làm việc là chính).
- Các bộ CoC không phải là các Công ước Quốc tế, không phải quy định bắt buộc của
bất cứ quốc gia nào, không phải thoả thuận giữa chính phủ với chính phủ mà chỉ là
thoả thuận giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp (bên bán và bên mua hàng hoá, dịch
vụ). Do vậy, việc thực hiện các CoC là tự nguyện, hoàn toàn không mang tính bắt
buộc. Tuy vậy phải hiểu rõ hai điểm trong tính tự nguyện. Một là những quy định nào
nằm trong CoC mà trùng với những quy định của luật pháp quốc gia thì việc thực hiện
những nội dung đó nghiễm nhiên mang tính bắt buộc. Hai là, tự nguyện ở đây được
hiểu theo nghĩa thị trường, tức là do doanh nghiệp tự quyết định có nên cam kết áp
dụng một bộ CoC nào đó không sau khi cân nhắc giữa lợi ích và chi phí bỏ ra.
- Tuy các CoC không phải là công ước quốc tế, không phải luật quốc gia, nhưng phần
lớn nội dung của các CoC lại được chắt lọc, tóm tắc từ các công ước và thông lệ quốc
tế và luật quốc gia. Bởi vậy, thực chất các CoC không đưa ra nhiều quy định mới. Tuy
nhiên, những nội dung cần tìm hiểu ở các CoC là cách thức quản lý, theo dõi, kiểm tra
và ai sẽ là người đánh giá việc thực hiện những quy định này. Việc kiểm tra, đánh giá
việc thực hiện các CoC phần lớn do bên thứ hai, tức bên mua hàng tiến hành hoặc
bên thứ ba, tức một công ty đánh giá độc lập tiến hành.
- Khi các CoC do các công ty đa quốc gia nước ngoài hay các tổ chức tư nhân đưa ra
được đem vào áp dụng ở một quốc gia nào đó thì các CoC này không thay thế, không
đứng trên luật quốc gia. Việc thực hiện các CoC ở bất cứ quốc gia nào phải phù hợp
với luật quốc gia và hỗ trợ việc thực hiện luật quốc gia tại nước sở tại.
Nội dung cơ bản của các CoC:
Hiện nay có rất nhiều bộ quy tắc ứng xử hoặc của các công ty, tổ chức độc lập đưa ra như
WRAP, SA 8000, WWW, CCC, PLA,...., hoặc của chính bản thân các công ty kinh doanh tự đưa
ra để áp dụng riêng như tập đoàn Adidas, NIKE, Levis Strauss, GAPS, MalMart,... (Phụ lục 4).
Đặc biệt ở Châu Âu, “Chiến dịch quần áo sạch - CCC”và quy tắc hành xử
“EURATEX-ETUC/TCL Code”do Nghiệp đoàn dệt Châu Âu và Tổ chức giới chủ thoả thuận đang
được triển khai rộng rãi.
Về cơ bản, các CoC đều đề cập đến khoảng 10 nội dung chính: cấm sử dụng lao động trẻ
em; cấm sử dụng lao động cưỡng bức; chống phân biệt đối xử tại nơi làm việc; đảm bảo cho
người lao động quyền tham gia công đoàn và thoả ước lao động tập thể; tiền lương - tiền công;
thời gian làm việc; an toàn vệ sinh lao động; khen thưởng và kỷ luật ; đào tạo, việc làm; an sinh
xã hội. Tuy nhiên những quy định chi tiết bên trong của mỗi nội dung trên có thể khác nhau.
2. Bộ tiêu chuẩn SA 8000
SA 8000 do một công ty tư nhân của Mỹ có tên là Social Accountability International (SAI)
đưa ra từ năm 1997. Cũng như các bộ quy tắc ứng xử khác, đây là một tiêu chuẩn mang tính
chất tự nguyện và có thể được áp dụng cho bất cứ doanh nghiệp hay tổ chức nào không kể quy
mô hay ngành nghề. Tiêu chuẩn này có thể được các doanh nghiệp lựa chọn để thay thế hay bổ
sung cho các quy định riêng của ngành hay của của doanh nghiệp về trách nhiệm xã hội.
Sở dĩ SA 8000 được ưu tiên giới thiệu riêng và kỹ hơn các bộ quy tắc ứng xử khác là vì
vấn đề áp dụng tiêu chuẩn này đang nổi cộm trong các doanh nghiệp của Việt Nam. Kể từ khi
Hiệp định thương mại Việt Mỹ được ký kết, một chiến dịch quảng bá cho SA 8000 đã được tung
ra với lý lẽ rằng SA 8000 là giấy thông hành cho các doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh
nghiệp sử dụng nhiều lao động) thâm nhập vào thị trường Mỹ và EU. Xét riêng với thị trường EU
thì nếu doanh nghiệp nào có chứng chỉ SA 8000, tức là chứng tỏ được trách nhiệm của doanh
nghiệp về mặt xã hội, doanh nghiệp đó sẽ dễ dàng giành được sự ưu tiên từ phía đối tác và do
đó việc xuất khẩu hàng hoá sẽ thuận lợi hơn. Tuy nhiên cũng phải nhắc lại rằng, SA 8000 không
phải là bộ quy tắc ứng xử duy nhất và các doanh nghiệp cũng không bị bắt buộc phải lựa chọn.
Những nội dung cơ bản của SA 8000:
Bản thân các yêu cầu trong tiêu chuẩn SA 8000 dựa trên Khuyến cáo của Tổ chức lao
động quốc tế (ILO) và các Thoả thuận và Hiệp định của Liên hợp quốc (Nhân quyền, Quyền trẻ
em), bao gồm 9 yêu cầu:
1 - Không được sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng lao động trẻ em
2 - Không được sử dụng hoặc khuyến khích sử dụng lao động cưỡng bức.
3 - Đảm bảo sức khoẻ, vệ sinh an toàn lao động
4 - Đảm bảo quyền thành lập, tham gia công đoàn và quyền thoả ước tập thể của người
lao động.
5 - Không phần biệt đối xử về chủng tộc, đẳng cấp, dân tộc, tôn giáo, sự ốm yếu tàn tật,
giới tính, tính dục, sự tham gia nghiệp đoàn, khuynh hướng chính trị hoặc tuổi tác
6 - Không áp dụng sự trừng phạt mang tính nhục hình, sự cưỡng bức về tinh thần hoặc
thể xác và sự lăng mạ bằng lời nói.
7 - Đảm bảo thời gian làm việc theo luật và tiêu chuẩn ngành nghề hiện hành. Tổng số giờ
làm việc trong một tuần không được thường xuyên vượt quá 48 giờ, phải có ít nhất 1 ngày nghỉ
trong mỗi tuần.
8 - Đảm bảo tiền lương tối thiểu theo quy định của pháp luật và đủ để đáp ứng nhu cầu cơ
bản của người lao động.
9 - Hệ thống quản lý việc thực hiện tiêu chuẩn: phải có sự cam kết của công ty về trách
nhiệm xã hội và điều kiện lao động, hình thành một cơ chế thực thi kiểm soát sự đáp ứng đòi hỏi
trên suốt quá trình.
Chứng chỉ SA 8000 chỉ cấp cho một cơ sở sản xuất (không phải cho toàn công ty) và có
giá trị trong 3 năm. Việc thanh tra, giám sát sẽ được tiến hành sáu tháng một lần.
Tóm lại, tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội được đặt ra như một điều kiện thương mại đang
ngày càng trở nên phổ biến ở các nước phát triển nói chung và Liên minh châu Âu nói riêng. Tác
động của xu hướng này đối với các nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển là rất rõ ràng. Vì
vậy, các doanh nghiệp này phải chú trọng đến yếu tố xã hội trong đạo đức kinh doanh của họ,
hoặc phải tuân thủ các yêu cầu theo tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội
.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng hoá việt nam sang eu dưới tác động của các tiêu chuẩn về chất lượng, môi trường, và xã hội.
I. Đánh giá thực trạng chung của hàng xuất khẩu Việt Nam sang EU dưới tác động của
các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội
3. Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - EU
Mở đầu cho quan hệ hợp tác về thương mại giữa khối EU và Việt Nam là Hiệp định buôn
bán hàng dệt may được ký tắt ngày 15/12/1992 có hiệu lực trong 5 năm bắt đầu từ năm 1992
(mà hạn ngạch và các điều khoản về tiếp cận thị trường được điều chỉnh vào năm 1995 và Hiệp
định bổ sung ký năm 1996). Bước phát triển tiếp theo trong quan hệ hợp tác về thương mại của
Việt nam và EU là việc hai bên ký kết Hiệp định khung về hợp tác vào 17/1/1995, có hiệu lực bắt
đầu vào tháng 6/1996. Các điều khoản thương mại trong Hiệp định có quy định rõ: Việt Nam và
EU sẽ cho nhau hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN), đặc biệt là chế độ ưu đãi thuế quan phổ
cập (GSP). Các bên cam kết phát triển, đa dạng hoá trao đổi thương mại và cải thiện quá trình
tiếp cận thị trường của nhau đến mức cao nhất có thể được, có tính đến hoàn cảnh kinh tế của
mỗi bên. Hai Hiệp định này cùng với những thành tựu đạt được từ việc thực hiện kế hoạch 5
năm 1991-1995 của Việt Nam đã là động lực thúc đẩy việc phát triển hoạt động xuất khẩu hàng
hoá của Việt nam vào thị trường EU, đặc biệt kể từ năm 1995 đến nay.
1.1 Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam sang EU từ 1995 - nay
Thời kỳ trước Hiệp định khung hợp tác được ký kết (1995), kim ngạch xuất nhập khẩu giữa
Việt Nam và EU chỉ đạt ở mức độ khiêm nhường và nhập siêu luôn nghiêng về phía Việt Nam.
Buôn bán thương mại hai chiều năm 1990 mới chỉ đạt 295,2 triệu USD, dù có tăng dần qua từng
năm nhưng chưa năm nào lên được tới 1 tỷ USD. Tuy nhiên, từ năm 1995 Việt Nam đã có xuất
siêu và mức xuất siêu ngày càng lớn do đã biết xúc tiến nhiều hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu
sang thị trường EU. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều không ngừng tăng lên hàng năm, tuy
mức tăng trưởng chưa ổn định (bảng 2).
Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam - EUĐơn vị: Triệu USD
Năm
Kim ngạch XK của Việt Nam sang EU
Kim ngạch NK của Việt Nam từ EU
Kim ngạch XNK Việt Nam - EU Trị giá
Xuất siêuTrị giá
Tốc độtăng (%)
Trị giáTốc độ
tăng (%)Trị giá
Tốc độtăng (%)
1990 141,6 - 153,6 - 295,2 - -12
1991 112,2 -20,8 274,5 78,7 386,7 31,0 -162,3
1992 227,9 103,1 233,2 -15 461,1 19,2 -5,3
1993 216,1 5,2 419,5 79,9 635,6 37,8 -203,4
1994 383,8 77,6 476,6 13,6 860,4 35,4 -92,8
1995 720,0 87,6 688,3 44,4 1.408,3 63,7 31,7
1996 900,5 25,1 1.134,2 64,8 2.034,7 44,5 -233,7
1997 1.608,4 78,6 1.324,4 16,8 2.032,8 44,1 284,0
1998 2.125,8 32,2 1.307,6 -1,3 3.433,4 17,1 818,2
1999 2.506,3 17,9 1.052,8 -19,5 3.559,1 3,7 1.453,5
2000* 2.845,1 13,5 1.317,4 25,1 4.153,9 16,7 1.527,7
2001* 3.002,9 5,6 1.506,3 14,3 4.509,2 8,6 1.496,6
2002* 3.149,9 4,9 1.841,1 22,2 4.991,0 10,7 1,308.8
2003# 3.840,0 21,9 - - - - -
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Qua bảng số liệu có thể thấy quy mô buôn bán giữa Việt Nam và EU giai đoạn sau 1995
đã tăng lên nhanh chóng so với giai đoạn trước, đặc biệt trong ba năm 1995-1997 tốc độ tăng
trưởng bình quân là 50,8%/năm. Từ năm 1998 đến tăng trưởng thương mại bình quân đạt
11,36%/năm, tuy có thấp hơn giai đoạn 1995-1997 nhưng vì giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu đã
lớn hơn nên con số trên vẫn được đánh giá là tích cực. Năm 2002, tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hai chiều đạt gần 5 tỷ USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu hơn 3,1 tỷ USD, nhập khẩu gần
1,9 tỷ USD. Ước tính năm 2003, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang EU đạt khoảng 3,84 tỷ USD
(tăng 21,9% so với năm 2002) [1], cùng với tốc độ tăng nhập khẩu khá đều đặn trong những năm
trước thì dự đoán tổng kim ngạch xuất khẩu giữa Việt Nam và EU trong năm 2003 sẽ còn cao
hơn nữa. Đây là minh chứng cho sự phát triển thương mại giữa hai bên. Tuy nhiên, bước tiến
này sẽ vẫn còn gặp nhiều trắc trở và nhất là còn cách xa tiềm năng kinh tế của cả hai bên. Trị
giá thương mại Việt Nam - EU mới chiếm khoảng 0,12% tổng kim ngạch ngoại thương của EU,
và chiếm 13,7% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam [2].
1.2 Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ 1995-nay
Như đã nói ở trên, kể từ năm 1995, Việt Nam liên tục đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang
thị trường EU, làm chuyển dịch cán cân xuất nhập khẩu với thị trường này từ chỗ nhập siêu
sang xuất siêu. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng mạnh, nếu như trong 5 năm (1990-
1995) tăng 5 lần thì sang giai đoạn 5 năm tiếp theo, kim ngạch xuất khẩu năm 2000 đã tăng lên
gấp 4 lần năm 1995, tức là gấp 20 lần năm 1990. Số liệu mới đây nhất, trong 9 tháng đầu năm
2003, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt được 80,7% kế hoạch cả năm, tăng 25% so với
cùng kỳ năm ngoái, trong đó thị trường EU chiếm một vị trí đáng kể. Ước tính năm 2003, kim
ngạch xuất khẩu sang EU sẽ đạt 3,84 tỷ USD (bảng 3).
Bảng 3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ 1995-nayĐơn vị : Triệu USD
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
(1) Kim ngạch XK
của Việt Nam sang EU
720,0 900,5 1608,4 2125,8 2506,3 2845,1 3002,9 3149,9 3840
Tốc độ tăng hàng năm của (1) (%)
87,6 25,1 78,6 32,2 17,9 13,5 5,6 4,9 21,9
(2) Tổng kim ngạch XK
của Việt Nam5448,9 7255,
9 9185,0 9361,0 11135,9 14483,0 15029,0 16705,8 19950
Tỷ trọng (1) trong (2) (%) 13,2 12,4 17,5 22,7 22,5 19,6 20,0 18,9 19,2
(3) Tổng kim ngạch NK của EU **
713252,4
738505
757852,2
809569,3
864536,1
923241,3
957435,1
987695,7 -
Tỷ trọng (1) trong (3) (%) 0,10 0,12 0,21 0,26 0,29 0,31 0,31 0,32 -
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002)
(**) European Union and World Trade, European Commission, 1997, Tr 41
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Bảng 3 cho thấy, mặc dù nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn
1995-2003 tăng đáng kể, nhưng tốc độ tăng hàng năm lại không ổn định. Năm 1995, tốc độ
tăng trưởng xuất khẩu tăng 87,6% so với năm 1994, sang năm 1996, con số này chỉ đạt 25,1%
để rồi năm 1997 lại tăng lên đến 78,6%. Kể từ năm 1998, tốc độ tăng trưởng giảm dần, đỉnh
điểm là hai năm 2001 và 2002 chỉ đạt trên dưới 5%.
Những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng này là:
- Vào năm 1996 một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam xuất sang EU giảm
mạnh như: hàng thuỷ sản giảm do lượng tôm đông lạnh giảm vì ở nhiều khu vực trong nước tôm
bị dịch bệnh, hàng cà phê giảm do giá thị trường thế giới giảm mạnh...
- Sang năm 1998, tất cả các mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam đều gặp trở
ngại trên thị trường EU do các quy định quản lý nhập khẩu của EU gây ra. Dệt may phải chịu
mức hạn ngạch dành cho Việt Nam quá thấp, thuỷ sản gặp nhiều khó khăn do EU chưa cho
nhập nhuyễn thể hai mảnh của Việt Nam và chưa chấp nhận đưa các nhà máy chế biến thuỷ
sản của Việt Nam vào danh sách nhóm I...
- Nguyên nhân làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong 2 năm 2001,
2002 tăng trưởng thấp hơn nhiều so với những năm trước đó là vì Hiệp định thương mại Việt-Mỹ
ký ngày 14/7/2000 và có giá trị hiệu lực vào năm 2001 đã đem lại cơ hội xuất khẩu lớn cho nước
ta nên các doanh nghiệp Việt Nam đã tận dụng cơ hội này đẩy mạnh xuất khẩu hàng vào Mỹ khi
mà công suất sản xuất hàng xuất khẩu không tăng hoặc tăng không đáng kể. Các mặt hàng xuất
khẩu của Việt Nam sang EU giảm mạnh phải kể đến thuỷ sản, dệt may, nông sản - là những
nhóm hàng thị trường Mỹ có nhu cầu lớn. Đồng thời, giá một số mặt hàng của Việt Nam sang
EU (chủ yếu là nông sản) sụt giảm cũng góp phần làm giảm kim ngạch xuất khẩu sang thị
trường này. Ngoài ra, sự kiện tôm xuất khẩu của Việt Nam vào EU kể từ 27/3/2002 phải chịu chế
độ kiểm tra hệ thống toàn bộ 100% theo quyết định 2002/250/EC khiến các doanh nghiệp xuất
khẩu thuỷ sản Việt Nam đã gặp không ít khó khăn, dẫn đến xuất khẩu giảm đáng kể.
Trung bình giai đoạn 1995 - nay, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Việt Nam
sang EU là 32%, nhanh hơn số tương ứng thời kỳ 1990-1994 là 28,31%.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam từ năm 1995 đến năm 2000 cũng tăng lên và khá ổn định. Mức tăng này lớn hơn nhiều nếu
so sánh với tỷ trọng của các thị trường Trung Quốc, úc, Mỹ (bảng 4). Năm 2000, 2001, 2002, EU
đã vượt qua ASEAN trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên tác động
của Hiệp định thương mại Việt-Mỹ mở đường hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt
Nam sang Mỹ đã nâng cao tầm quan trọng của thị trường này trong quan hệ thương mại với Việt
Nam khiến EU hiện nay chỉ đứng ở vị trí thứ hai. (Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, xuất khẩu
5 tháng đầu năm 2003 sang Hoa Kỳ đạt trên 1,6 tỷ USD, tăng 185% so với cùng kỳ năm 2002,
trong khi xuất khẩu sang EU thấp hơn, đạt trên 1,5 tỷ USD, tăng 29% so với cùng kỳ năm ngoái).
Song, xu hướng chung là thị trường EU vẫn đóng vai trò ngày càng quan trọng trong hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam.
Bảng 4: Tỷ trọng của các thị trường xuất khẩu chínhtrong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam thời kỳ 1995-nay
Đơn vị: %
95 - 03 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
ASEAN 19,7 18,3 22,8 19,5 24,3 27,0 18,7 16,9 14,5 15,4
EU 18,5 13,2 12,4 17,5 22,7 22,5 20,0 19,9 18,9 19,2
Nhật Bản 17,9 26,8 21,3 17,6 15,8 16,0 18,8 16,7 14,6 13,8
T.Quốc 7,4 6,6 4,7 5,7 5,1 7,7 11,0 9,4 9,0 7,7
úc 5,2 1,0 0,9 2,0 5,0 7,3 9,1 6,9 8,0 7,0
Mỹ 7,4 3,1 2,8 3,0 5,0 4,5 5,3 7,1 14,5 21,0
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Từ một góc nhìn khác có thể thấy tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU trong
tổng kim ngạch nhập khẩu của EU cũng trong xu thế gia tăng (xem bảng 2). Chẳng hạn năm
1995 tỷ trọng này là 0,10%, năm 2000 đã tăng lên thành 0,31%. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng
thị phần đó còn quá nhỏ bởi thị trường EU được đánh giá là “khó tính”vào loại nhất nhì thế giới,
trong khi hàng hoá của Việt Nam có chất lượng chưa ổn định và đôi khi không đáp ứng được
yêu cầu của bạn hàng EU.
Về bạn hàng, trong thời kỳ 1990-1994 chỉ có 6 trong số 12 nước thành viên EU có quan hệ
buôn bán với Việt Nam là Pháp, Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia, Anh. Kể từ năm 1995, khi EU mở rộng
thành 15 nước thì tất cả 15 nước thành viên đều có quan hệ buôn bán với Việt Nam ở mức độ ít
nhiều khác nhau, thể hiện ở bảng 5:
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU phân theo nướcĐơn vị: triệu USD
Tên nước 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001* 2002* 2003#
Đức 218,0 228,0 411,4 587,9 654,3 730,1 721,8 720,7 840
Anh 74,6 125,1 265,2 333,5 421,2 479,3 511,6 570,8 700
Pháp 169,1 145,0 238,1 307,4 354,9 379,8 467,5 438,5 500
Hà Lan 79,7 147,4 266,8 306,9 342,9 390,2 364,5 404,3 510
Bỉ 34,6 61,3 124,9 211,7 306,7 311,6 341,2 335,1 390
Italia 57,1 49,8 118,2 144,1 59,4 218,0 237,9 263,8 340
Tây Ban Nha 46,7 62,8 70,3 85,5 108,0 137,2 158,5 178,5 234
Đan Mạch 12,8 23,7 33,2 43,3 43,7 58,2 49,7 62,5 70
Thuỵ Điển 4,7 31,8 47,1 58,3 45,2 55,1 53,2 62,4 70
Hy Lạp 1,6 2,1 5,7 8,1 3,8 7,9 - 30,3 40
Aó 9,3 5,6 11,4 8,5 34,9 23,6 28,9 29,5 36
Phần Lan 4,9 10,1 13,4 20,2 16,9 22,4 - 24,2 33
Bồ Đào Nha 3,8 4,1 4,2 4,4 5,2 8,9 - 5,5 10
Ai len 2,8 3,1 3,3 3,9 6,9 12,1 - 19,0 20
Luxembourg 0,3 0,6 1,5 2,1 2,3 2,5 - 4,8 5
Tổng 720,0 900,5 1608,4 2125,8 2506 2836,9 3002,9 3149,9 3840
(Nguồn: Trung tâm Tin học & Thống kê - Tổng cục Hải quan
(*) Niên giám thống kê 2002
(#) Số liệu ước tính (Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003))
Có thể thấy rằng hàng năm, xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thuộc EU nhìn chung
đều tăng. Những nước có nhịp độ tăng cao là Thuỵ Điển, Anh, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan, Đan Mạch,
Đức và Italia. Thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong khối EU là Đức, chiếm 22,9%
kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang EU. Kể từ năm 1998 đến nay, Anh đã vượt Pháp và Hà
Lan, vươn lên chiếm vị trí thứ hai sau Đức, tiếp theo là Pháp: 13,9%, Hà Lan: 12,8%, Bỉ: 10,64%
v..v..
1.3 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu
Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EU gồm: giày dép, dệt may, nông sản,
sản phẩm bằng da thuộc, thuỷ sản, đồ gỗ, đồ gốm sứ, đồ chơi và dụng cụ thể thao,... hàng năm
chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này. Như vậy, hàng xuất
khẩu của ta sang EU chủ yếu là sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao
động, hoặc là hàng có mức độ gia công chế biến thấp, nguyên nhiên liệu và nông sản. Đứng đầu
là hàng giày dép và nguyên phụ liệu, tiếp theo là dệt may, rồi đến cà phê và chè (năm 2002
chiếm tỷ lệ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU lần lượt là 45%, 15%,
4,8% ...). Tuy nhiên các thứ tự và tỷ lệ này còn chưa thật ổn định qua các năm (biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: Biến động Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của việt nam sang EU theo thời gianĐơn vị: %
0%10%20%30%40%50%60%70%80%90%
100%
1995 1999 2002
Năm
Tỷ tr
ọng
trong
tổng
kim
ngạ
ch x
uất
khẩu
san
g EU
Các mặt hàng khác
Thiết bị điện tử
Thuỷ sản
Sản phẩm da thuộc
Đồ gỗ
Cà phê, chè
Dệt may
Giày dép
(Nguồn: Cục thống kê của Liên minh Châu Âu (Eurostat) - www.eu.int/eurostat.html)
Những năm gần đây đã có một vài thay đổi xuất hiện trong cơ cấu xuất khẩu vào EU.
Những mặt hàng chế biến sâu (các thiết bị điện tử, các phương tiện xe cộ...) đã xuất hiện, đặc
biệt là mặt hàng điện tử mới xuất khẩu được vài năm nhưng đến năm 2000 đã đạt kim ngạch
khích lệ (hơn 100 triệu USD). Tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng lên chiếm khoảng 70%
kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU và tỷ trọng hàng nguyên liệu thô giảm xuống còn 30%.
Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của Việt Nam sang EU, kim ngạch xuất
khẩu các mặt hàng chính đã tăng tương đối nhanh, rõ rệt nhất trong giai đoạn 1995-2000. Đặc
biệt phải kể đến mặt hàng máy móc, thiết bị điện và phụ tùng tăng trung bình 107%/năm, mặc dù
sang hai năm 2001 và 2002 lại giảm cùng với sự tăng trưởng chậm của tổng kim ngạch xuất
khẩu sang EU. Các mặt hàng khác có những năm tăng trưởng cao nhưng lại không ổn định
(bảng 6).
Bảng 6: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang EUĐơn vị: triệu USD
TT Tên hàng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
01 Giày dép, và các bộ phận của chúng 481,3 664,6 1.032,3 1.043,1 1.310,5 1.683,5 1.692,1 1.730,8
02 Quần áo và hàng may sẵn, không
273,9 335,8 440,2 436,9 499,7 580,9 422,2 416,2
thuộc hàng dệt kim
03 Cà phê, chè và các loại gia vị 234,7 146,9 277,9 366,8 357,9 293,5 224,0 102,5
04 Đồ gỗ, trang thiết bị nội thất và y tế 28,2 60,5 101,3 108,1 145,5 219,3 221,3 285,6
05 Các sản phẩm bằng da thuộc 92,2 116,7 166,6 157,0 164,0 189,4 97,6 138,4
06 Quần áo dệt kim 39,6 70,0 85,8 78,5 88,4 157,2 97.5 79,3
07 Đồ gốm, sứ 34,4 36,6 47,9 55,0 77,8 155,2 156,8 89,5
08 Thuỷ hải sản 29,1 36,1 71,3 98,2 83,1 94,7 112,3 42,4
09 Máy móc thiết bị điện tử và phụ tùng 3,4 10,3 24,1 46,6 65,9 108,4 92,5 80,4
10 Đồ chơi và dụng cụ thể thao 20,2 28,4 53,0 58,0 59,9 78,6 57,4 57,6
(Nguồn: Số liệu thống kê của Phái đoàn EU tại Hà nội - www.delvnm.cec.eu.int)
Qua đó có thể thấy rằng:
Mặt hàng giày dép xuất khẩu năm 1997/1996 tăng 55,3% nhưng năm 1998/1997 chỉ tăng
hơn 1%. Tốc độ tăng trưởng trung bình của hai năm 1999 và 2000 đạt khoảng 26%, tuy nhiên
sang đến năm 2001 và 2002 lại giảm xuống còn khoảng một đến hai phần trăm.
Tương tự như giày dép, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may (chủ yếu gồm hai nhóm hàng:
quần áo may sẵn không thuộc hàng dệt kim và quần áo dệt kim) tăng dần từ 1995 đến 1997,
giảm mạnh vào 1998, phục hồi vào hai năm 1999 và 2000 rồi lại xuống dốc trong hai năm kế tiếp
2001, 2002 (hai năm này tăng trưởng âm).
Mặt hàng thuỷ hải sản tuy tăng trưởng khá cao trong ba năm 1996, 1997 và 1998 nhưng
những năm tiếp theo lại giảm sút, thậm chí tăng trưởng âm vào năm 1999 và 2002, do vi phạm
các quy định của EU về dư lượng kháng sinh và các chất bị cấm đối với thuỷ hải sản khiến EU
áp dụng các biện pháp tiêu huỷ, kiểm tra ngặt nghèo hơn, gạt bỏ một số doanh nghiệp ra khỏi
danh sách các doanh nghiệp được phép xuất khẩu sang EU.
Hàng nông sản tăng trưởng từ 1995-1998, song liên tục giảm sút từ 1998 đến nay, đặc
biệt là cà phê do giá thị trường thế giới giảm.
Tốc độ tăng xuất khẩu của các mặt hàng còn lại cũng rất thất thường, ví dụ như đồ gốm
sứ năm 2000 tăng gần gấp đôi so với 1999, sang năm 2001 hầu như không tăng, rồi lại giảm
còn một nửa vào năm 2002; đồ chơi và dụng cụ thể thao chỉ tăng mạnh năm 1997, các năm sau
tăng chậm và có năm tăng trưởng âm....
4. Đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam trong việc đáp
ứng các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường & xã hội.
1.4 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng
Từ năm 1996, Việt Nam đã nhận thức được rõ hơn tầm quan trọng của các vấn đề thương
mại đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Cũng như nhiều quốc gia khác, xuất khẩu mạnh là
mục tiêu hướng tới của Việt Nam, do đó Việt nam đã và đang cố gắng mở rộng thị trường xuất
khẩu của mình thông qua việc đề ra và thực hiện các biện pháp nhằm đáp ứng các yêu cầu
thương mại của các nước nhập khẩu nói chung và của thị trường EU nói riêng. Trải qua một thời
kỳ kinh tế non yếu và khủng hoảng, các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt nam hiện nay đang đứng
trước những yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng - yếu tố hết sức cần thiết cho mục tiêu mở rộng
thị trường và đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu một cách bền vững.
Hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc gia:
Thông thường, yêu cầu của các nước nhập khẩu đối với một loại sản phẩm nào đó rất
khác nhau, mỗi nước có một hệ thống tiêu chuẩn riêng và các doanh nghiệp Việt Nam muốn
xuất khẩu được hàng hoá phải tuân thủ để đáp ứng yêu cầu thị trường. Tuy nhiên trong nhiều
năm gần đây, với xu thế hội nhập và liên kết, nhiều thị trường và khu vực thị trường đã dần đưa
ra các bộ tiêu chuẩn áp dụng chung cho khu vực, hoặc hài hoà tiêu chuẩn nước mình/khu vực
của mình với tiêu chuẩn quốc tế. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá do
hàng hoá sẽ được kiểm tra, đánh giá về mặt chất lượng căn cứ vào một hệ thống tiêu chuẩn duy
nhất.
Như đã nêu trong chương I, bộ tiêu chuẩn EN của Liên minh châu Âu do ba cơ quan tiêu
chuẩn hoá châu Âu hợp tác xây dựng có mức độ hài hoà, thống nhất cao với hệ tiêu chuẩn quốc
tế. Không chỉ có vậy mà việc cải tiến và xây dựng tiêu chuẩn mới của khu vực thị trường này
cũng sẽ theo xu thế chung là thống nhất với các tiêu chuẩn quốc tế, nhằm tạo điều kiện cho
thương mại phát triển hơn nữa. Trước bối cảnh đó, việc chấp nhận các tiêu chuẩn quốc tế, khu
vực và nước ngoài thành tiêu chuẩn Việt Nam hoặc hài hoà tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn
quốc tế là một bước đi thích hợp để tiến tới xoá bỏ các rào cản về kỹ thuật trong thương mại,
làm cho các cơ sở sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của nước ta dễ dàng tiếp cận với thị trường
nước ngoài nói chung và thị trường EU nói riêng.
Thực tế cho thấy từ năm 1990 trở về trước, các Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) chủ yếu
được xây dựng dựa trên sự tham khảo tiêu chuẩn GOST của Liên Xô hoặc theo tiêu chuẩn SEV
của Hội đồng tương trợ kinh tế theo phương pháp có sửa đổi, điều chỉnh các thông số và yêu
cầu kỹ thuật (thường là bỏ hoặc hạ thấp) cho phù hợp với điều kiện thực tế nước ta. Các tiêu
chuẩn này đã kịp thời phục vụ yêu cầu quản lý, sản xuất, tiêu dùng theo cơ chế tập trung, bao
cấp. Trong giai đoạn này, việc xây dựng TCVN được tiến hành theo phương pháp “cơ quan biên
soạn”, tức là hầu hết do các nhà máy, xí nghiệp, các Viện nghiên cứu thuộc các Bộ biên soạn dự
thảo tiêu chuẩn trong đó Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng giúp họ về nghiệp vụ biên soạn tiêu
chuẩn. Tuy nhiên kể từ khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới, cải
cách kinh tế và hội nhập khu vực, việc xây dựng và ban hành tiêu chuẩn theo cách cũ cũng như
hệ thống TCVN không còn phù hợp nữa. Chính vì vậy, công tác rà soát, cải tiến, xây dựng lại hệ
tiêu chuẩn và vấn đề hài hoà tiêu chuẩn quốc gia với tiêu chuẩn quốc tế đã được chú trọng, và
do đó đã đạt được những kết quả khả quan như sau:
Tính đến hết năm 2002, tổng số TCVN được xây dựng và ban hành là khoảng 8.000, trong
đó có gần 5.200 TCVN hiện hành [9, tr 41]. Cơ cấu của hệ thống TCVN đã có những thay đổi đáng
kể. Nếu như năm 1990 trong hệ thống TCVN có 75% TCVN là chính thức áp dụng và 25%
khuyến khích áp dụng, thì trong tổng số hơn 5.000 TCVN hiện hành, số lượng TCVN bắt buộc
áp dụng chỉ chiếm dưới 5%, còn lại là tự nguyện áp dụng. Đến tháng 10/2002, Bộ Khoa học,
Công nghệ và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) đã công bố danh sách 95 TCVN
bắt buộc áp dụng trong phạm vi cả nước bao gồm các TCVN liên quan đến an toàn, vệ sinh và
môi trường [9, tr 41]. Các Bộ quản lý chuyên ngành cũng ra quyết định bắt buộc áp dụng đối với các
TCVN khác trong các lĩnh vực quản lý của ngành. Đây là một bước tiến đáng kể trong hoạt động
tiêu chuẩn hoá của Việt Nam, nhưng nếu so sánh với số tiêu chuẩn chung của EU hoặc tiêu
chuẩn của mỗi nước thành viên EU (khoảng hơn 22.000 tiêu chuẩn) và nội dung yêu cầu của
mỗi tiêu chuẩn thì Việt Nam còn thua xa. Điều này nói lên rằng mức độ bao quát của hệ thống
tiêu chuẩn Việt Nam và các yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá tiêu thụ còn thấp, do đó việc
hàng hoá Việt Nam đáp ứng tốt các tiêu chuẩn của thị trường EU sẽ vẫn còn gặp nhiều trở ngại.
Cũng đến cuối năm 2002, đã có 1.273 TCVN hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn quốc
tế (ISO, IEC, CODEX), tiêu chuẩn châu Âu EN và các tiêu chuẩn nước ngoài tiên tiến khác như
(ASTM, JIS, BS, AS,...) [9, tr 41] (Phụ lục 5). Tuy số lượng TCVN được ban hành trên cơ sở chấp
nhận tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu vực và tiêu chuẩn nước ngoài tăng nhanh trong những
năm gần đây song vẫn còn chiếm tỷ lệ chưa cao (24%) trong tổng số TCVN hiện hành.
Bên cạnh đó, hoạt động phổ biến, khuyến khích và kiểm tra áp dụng các tiêu chuẩn cũng
chưa thực sự đem lại nhiều hiệu quả. Cụ thể là hiện nay trên cả nước mới có trên 200 doanh
nghiệp với khoảng 20 chủng loại sản phẩm, hàng hoá được chứng nhận và cấp dấu chất lượng
phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam TCVN (bao gồm cả những sản phẩm, hàng hoá liên quan đến an
toàn, sức khoẻ... được quy định trong danh mục sản phẩm, hàng hoá bắt buộc phải chứng nhận
phù hợp tiêu chuẩn). Đến cuối năm 2002 cũng mới chỉ có 258 sản phẩm, hàng hoá của 82
doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phố được công bố phù hợp tiêu chuẩn[9, tr 56].
Qua đó có thể thấy rằng, mặc dù số lượng tiêu chuẩn Việt Nam ít hơn và nội dung quy
định trong các tiêu chuẩn thường ít khắt khe hơn so với tiêu chuẩn quốc tế cũng như tiêu chuẩn
Châu Âu nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cũng mới chỉ đạt đến sự phù hợp tiêu chuẩn với tỷ
lệ khiêm tốn. Bên cạnh đó, việc công bố hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn để thể hiện trách nhiệm
của doanh nghiệp đối với chất lượng hàng hoá của mình và tạo ra thế mạnh cạnh tranh vẫn còn
chưa được các doanh nghiệp chú trọng. Về phần các doanh nghiệp xuất khẩu, điều này cũng là
nguyên nhân khiến họ chưa có thói quen khẳng định chất lượng hàng hoá của mình phù hợp với
tiêu chuẩn của nước nhập khẩu.
Tình hình áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 tại Việt Nam:
Tiêu chuẩn quản lý chất lượng không phải là tiêu chuẩn bắt buộc đối với sản phẩm thâm
nhập thị trường EU, nhưng việc tuân thủ bộ tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ giúp cải thiện cách
nhìn nhận về doanh nghiệp trên thị trường. Theo số liệu thống kê của Tổ chức quốc tế về Tiêu
chuẩn hoá (ISO), đến cuối năm 2002, số doanh nghiệp đạt được chứng chỉ phù hợp tiêu chuẩn
ISO 9000 tại 15 nước EU đạt 245.596 chứng chỉ, chiếm 43,72% tổng số chứng chỉ trên toàn thế
giới. Trong khi đó, số lượng chứng chỉ này tại 3 nước Bắc Mỹ (Canada, Hoa Kỳ, Mexico) chiếm
9,58%, còn tại 17 nước Viễn Đông chỉ chiếm 26,45% [10]. Điều này nói lên rằng, ISO 9000 là một
đặc điểm hỗ trợ bán hàng cơ bản trong kinh doanh với thị trường nước ngoài, đặc biệt là với thị
trường EU - nơi mà ISO 9000 trở nên cực kỳ phổ biến.
Nhận thức được tầm quan trọng của bộ tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9000 (không
chỉ nhằm phục vụ cho mục tiêu đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu mà còn đem lại hiệu quả
cho quản lý kinh tế trong nước), bắt đầu từ cuối năm 1995, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường với sự hỗ trợ tích cực của các tổ chức quốc tế đã đưa bộ tiêu chuẩn ISO vào Việt Nam
thông qua các khoá đào tạo và việc thành lập nhiều cơ quan tư vấn. Kể từ doanh nghiệp đầu
tiên được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000 vào năm 1996, đến nay đã có
trên 600 doanh nghiệp có chứng chỉ này, trong đó có 354 chứng chỉ ISO 9001:2000 (phiên bản
mới nhất của chứng chỉ ISO 9000 - kể từ năm 2004 sẽ trở thành chứng chỉ duy nhất khi áp dụng
hệ thống ISO 9000) [10].
Vậy là trong vòng 7 năm, số lượng doanh nghiệp Việt Nam được cấp chứng chỉ áp dụng
hệ thống ISO 9000 đã tăng với tốc độ khá nhanh: Năm 1998/1997 tăng 2,2 lần, 1999/1998 tăng
5,7 lần, 2000/1999 tăng 1,2 lần, 2001/2000 tăng 1,3 lần và 2002/2001 tăng 2,5 lần. Tuy nhiên về
mặt số lượng, nếu mới chỉ so sánh với một số nước trong khu vực như Singapore, Thailand,
Malaysia... chứ chưa cần so sánh với những nước phát triển cao thì chúng ta sẽ gặp phải những
con số gây sốt ruột (biểu đồ 3).
Biểu đồ 3: Số lượng doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 9000 của một số nước Đông Nam Á.
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000Số
doa
nh n
ghiệ
p đạ
t chứ
ng c
hỉ IS
O 9
000
Singapore
Thailand
Malaysia
Indonesia
Philippines
Vietnam
Singapore 2909 3000 3140 3900 3513 5379
Thailand 1104 1236 1527 2553 3870 4556
Malaysia 1610 1707 1921 2355 3195 3733
Indonesia 1273 1442 1525 1860 1395 1947
Philippines 629 668 723 1027 961 766
Vietnam 13 29 164 184 245 612
Dec-97 Dec-98 Dec-99 Dec-00 Dec-01 Dec-02
(Nguồn: "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org)
Thậm chí trong thực tế tại Việt Nam, sự hiểu biết về ISO 9000 trong các doanh nghiệp vẫn
còn hạn chế. Theo nghiên cứu của Trung tâm hỗ trợ các doanh nghiệp SMEDEC, cơ quan đang
tư vấn cho khoảng 12 đơn vị về ISO 9000 thì kiến thức về quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp tư nhân hầu như không có. Các doanh nghiệp nhà nước hiểu biết nhiều hơn nhưng số
đông lại lo chạy theo những mục tiêu trước mắt nên chưa nghĩ đến. Đồng thời, kinh phí cũng
đang là vấn đề lớn đối với các doanh nghiệp muốn áp dụng ISO. Chỉ riêng tiền tư vấn, đối với
các hãng tư vấn nước ngoài đã mất khoảng 40.000 USD (áp dụng cho một công ty khoảng 500
người), còn các công ty tư vấn trong nước thì thấp hơn, khoảng 150 triệu VND.
Cũng phải lưu ý rằng, trong số các doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng chỉ nói trên chỉ có
một bộ phận là các doanh nghiệp xuất khẩu. Vì vậy có thể khẳng định số lượng doanh nghiệp
xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 vẫn
còn nhỏ, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Khả năng đáp ứng các quy định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng:
a. Nhãn hiệu CE
Với thực trạng cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là sản phẩm công
nghiệp nhẹ gia công và nguyên nhiên liệu, nông sản, còn các sản phẩm công nghiệp chế tạo
mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (mặt hàng điện tử tăng trưởng nhanh cũng mới chiếm khoảng 2.5%
tổng kim ngạch, đồ chơi khoảng 2%...) nên quy định về gắn nhãn hiệu CE không phải là một yêu
cầu cấp bách. Trên thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu sản phẩm công nghiệp
chế tạo sang EU đã nhận thức được tầm quan trọng của nhãn hiệu này nên xúc tiến sản xuất
hàng hoá theo tiêu chuẩn EN của châu Âu để được gắn nhãn CE chứng minh sự phù hợp tiêu
chuẩn. Trên thị trường châu Âu đã xuất hiện các sản phẩm của Việt Nam có gắn mác CE như
sản phẩm bóng đèn của công ty Bóng đèn Điện Quang, sản phẩm đồ chơi, thú nhồi bông của
công ty Chosun International Inc.... tuy nhiên nhìn chung thì CE vẫn còn khá lạ lẫm với nhiều
doanh nghiệp Việt Nam. Chính vì vậy mà tháng 7 vừa qua, hơn 50 doanh nghiệp Tp. HCM đã dự
hội thoả về nhãn CE và các tiêu chuẩn nhập khẩu của châu Âu do công ty TUV Rheinland
Vietnam tổ chức tại Trung tâm Thông tin thương mại châu Âu (EBIC) nhằm cung cấp những hiểu
biết cơ bản cho các doanh nghiệp về tiêu chuẩn này.
b. Thực tế áp dụng hệ thống phân tích, xác định và tổ chức kiểm soát các mối nguy trọng
yếu (HACCP) tại các doanh nghiệp Việt Nam
Với thị trường EU, các yêu cầu về việc thực hiện hệ thống HACCP được nêu trong Chỉ thị
về vệ sinh thực phẩm của EU (93/43/EC), đặc biệt đối với các cơ sở chế biến thuỷ sản, HACCP
được nêu trong Chỉ thị 91/493/EEC. Đối tượng áp dụng của những quy định này là các doanh
nghiệp sản xuất và chế biến thực phẩm, thuỷ hải sản trong khối Liên minh châu Âu. Bên cạnh
đó, để hỗ trợ cho hoạt động thương mại, nhiều nước thuộc EU cũng xem xét các hệ thống kiểm
soát thực phẩm của những nước xuất khẩu xem hệ thống an toàn thực phẩm có bảo đảm
không, có tương đương với nước mình không, nhằm đảm bảo chu trình kiểm soát và hạn chế
mối nguy được tiến hành từ khâu đầu đến khâu cuối.
Có thể nói chính yêu cầu khắt khe từ phía thị trường (trước hết là thị trường EU) là áp lực
quan trọng đầu tiên buộc các doanh nghiệp chế biến thực phẩm và thuỷ sản của Việt Nam phải
nâng cấp điều kiện sản xuất và đến với chương trình quản lý chất lượng dựa trên cơ sở
HACCP. HACCP đã được đưa vào giới thiệu ở Việt Nam từ tháng 10 năm 1990 và từng bước
mở rộng phạm vi ảnh hưởng (chủ yếu trong ngành thuỷ sản). Việc triển khai áp dụng quản lý
chất lượng theo HACCP ở Việt Nam được tiến hành theo 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: áp dụng thử ở một số doanh nghiệp để đánh giá và rút kinh nghiệm
+ Giai đoạn 2: Bắt buộc áp dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường EU,
Mỹ... Định hướng và khuyến khích áp dụng HACCP đối với các doanh nghiệp khác.
+ Giai đoạn 3: Bắt buộc áp dụng ở tất cả các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản trong phạm
vi cả nước.
Theo tiến trình này, chương trình thử nghiệm quản lý chất lượng dựa trên HACCP được
bắt đầu tại 5 xí nghiệp ở cả ba miền theo đề tài cấp Nhà nước giai đoạn 1991-1995 mang mã số
KN 04-15 “Nâng cấp chất lượng sản phẩm thuỷ sản đông lạnh”. Hiện nay, theo yêu cầu của
nước nhập khẩu và các quy định của Bộ Thuỷ Sản, tất cả các doanh nghiệp đăng ký xuất hàng
sang EU và Mỹ đều có kế hoạch HACCP được phê duyệt và áp dụng trên thực tiễn khá hiệu
quả, điều này đã được cơ quan thẩm quyền kiểm soát chất lượng của các nước nhập khẩu ghi
nhận. Tính đến hết năm 2002, khoảng hơn 100 doanh nghiệp đã đăng ký chứng chỉ áp dụng hệ
thống HACCP và sản phẩm của những doanh nghiệp này chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch
xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam [11] . Đây là một bước tiến bộ đáng kể mà các doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam đã đạt được dưới sự chỉ đạo của Bộ Thuỷ Sản nói riêng và các Bộ, ngành,
cơ quan của Việt Nam nói chung.
Nhìn nhận một cách khách quan, bên cạnh các thành tựu còn là những hạn chế mà các
doanh nghiệp có nhu cầu xuất hàng sang EU chưa khắc phục được, đó là:
Thứ nhất, với quan niệm quản lý chất lượng là kiểm tra chất lượng ở khâu cuối cùng đã ăn
sâu vào nếp nghĩ (cụ thể là doanh nghiệp nào cũng có một bộ phận quản lý chất lượng mang tên
KCS), vẫn còn nhiều doanh nghiệp chưa thích ứng được với việc chuyển sang quản lý chất
lượng ngay từ khâu đầu thông qua việc theo dõi, phân tích các mối nguy với những biện pháp
kiểm soát, phòng ngừa... Thậm chí đối với các cơ quan kiểm tra chất lượng, họ coi hoạt động
kiểm tra chất lượng sản phẩm chỉ là gây phiền hà, khó dễ cho họ.
Thứ hai, những doanh nghiệp đã nhận thức được sự cần thiết phải áp dụng chương trình
quản lý chất lượng theo HACCP (nhận thức này đương nhiên bắt nguồn từ yêu cầu bắt buộc
của các nước nhập khẩu) tuy đã cố gắng nâng cấp nhằm đạt các yêu cầu tiên quyết để áp dụng
HACCP nhưng một số xí nghiệp lại gặp khó khăn do thiếu nguồn vốn cần thiết cho việc nâng cấp
mặt bằng nhà xưởng, xử lý nước, trang bị máy sản xuất đá vảy.... Còn nếu tính trung bình để
đầu tư cho một dây chuyền sản xuất mới đạt tiêu chuẩn HACCP phải cần từ 7-12 triệu USD. Đây
là một con số lớn mà nhiều doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân) còn e ngại.
Thứ ba, ban giám đốc và cán bộ kiểm soát chất lượng tại phần lớn xí nghiệp chưa có sự
hiểu biết sâu sắc cần thiết về HACCP. Lực lượng kiểm soát chất lượng có hiểu biết đầy đủ về
HACCP còn mỏng. Việc cung cấp cho công nhân những hiểu biết cơ bản phục vụ cho chương
trình HACCP còn yếu.
Nói tóm lại, thực tế áp dụng HACCP tại các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang EU đã
có nhiều dấu hiệu khả quan. Riêng trong lĩnh vực thuỷ sản, các doanh nghiệp có tên trong danh
sách xuất hàng vào EU (đến tháng 8/2003 có 100 doanh nghiệp được phép xuất hàng sang EU [12]) hiện là những doanh nghiệp đi đầu trong việc xây dựng và áp dụng chương trình quản lý
chất lượng này. Mặc dù vậy, hoàn tất giai đoạn 3 trong kế hoạch chỉ đạo áp dụng HACCP nói
trên nhằm nâng cao năng lực xuất khẩu của hàng hoá và đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm
trong nước vẫn còn là vấn đề gian nan đối với Việt Nam.
b. Đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo sức khoẻ và an toàn khác
Ngoài những tiêu chuẩn chung về chất lượng như đã nêu ở trên thì đối với những nhóm
hàng riêng biệt, EU lại có các quy định riêng. Những nhóm sản phẩm chứa đựng nhiều khả năng
gây ảnh hưởng tới sức khoẻ và an toàn của người tiêu dùng nhất là nhóm hàng nông thuỷ sản,
thực phẩm, rau quả, trong đó các quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả;
kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản; và chất phụ gia trong thực phẩm được
xem là các quy định cơ bản, điển hình nhất.
Trước khi đánh giá khả năng đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm của các
doanh nghiệp xuất khẩu sang EU, hãy nhìn qua thực trạng quản lý chất lượng vệ sinh an toàn
thực phẩm tại thị trường nội địa Việt Nam vì thực trạng này tác động đến thói quen sản xuất của
người Việt Nam, đồng thời ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cung cấp nguồn hàng cho xuất
khẩu:
+ Tình hình quản lý thuốc bảo vệ thực vật [13]: Theo số liệu thống kê của Cục Bảo vệ Thực
vật (BVTV) năm 2002, trên toàn quốc có 17.679 cửa hàng kinh doanh thuốc BVTV, qua kiểm tra
phát hiện 3.285 cửa hàng vi phạm (18,5%). Các vụ vi phạm bao gồm: 1.182 trường hợp (35,9%)
không đủ điều kiện kinh doanh; 4.111 trường hợp (12,5%) kinh doanh thuốc quá hạn sử dụng,
kém phẩm chất. Kết quả thanh tra năm 2002 của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn cho
thấy, trong 6.840 hộ nông dân được kiểm tra đã phát hiện 151 hộ sử dụng thuốc BVTV đã bị
cấm sử dụng, 126 hộ sử dụng ngoài danh mục, 244 hộ không đảm bảo thời gian cách ly (3,5%),
1.020 hộ sử dụng thuốc không đúng kỹ thuật (14,9%), 1.105 hộ phun thuốc nhiều lần trong vụ
sản xuất (12,6%). Thuốc nhập lậu ngoài danh mục quản lý, nhãn mác bằng tiếng nước ngoài
vẫn được lén lút lưu hành... Do đó, riêng qua điều tra tại một số huyện ngoại thành Hà Nội, trong
số các rau quả kiểm nghiệm thì có tới 81% số mẫu có từ một chỉ tiêu trở lên về dư lượng hoá
chất BVTV, cao hơn tiêu chuẩn cho phép của FAO và WHO... [14]
+ Tình hình quản lý vệ sinh thú y, vệ sinh giết mổ gia súc [13]: Theo kết quả thanh tra, kiểm
tra của Cục Thú y, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm 2001 ở 43 tỉnh, thành phố với
4.703 cơ sở giết mổ gia súc chỉ có 14,22% cơ sở đạt tiêu chuẩn. Về kiểm soát giết mổ thú y thì
trong 593 cơ sở ở 9 tỉnh, thành phố chỉ có 20,4% cơ sở được kiểm tra. Còn người giết mổ gia
súc thì chỉ có 10% được khám và có giấy chứng nhận sức khoẻ.
+ Tình hình ô nhiễm thực phẩm [13]: Qua giám sát của Bộ Y tế cho thấy, ô nhiễm vi sinh vật
dao động từ 10%-100% tuỳ loại thực phẩm, gặp nhiều nhất là các loại thực phẩm chế bién sẵn.
Về ô nhiễm hoá học, chủ yếu là sử dụng các phụ gia ngoài danh mục, quá giới hạn cho phép
dao động từ 2,2% - 100% tuỳ loại thực phẩm, gặp nhiều là các loại thực phẩm chế biến sẵn, ăn
ngay. Ô nhiễm kim loại nặng gặp nhiều ở các tươi và rau tươi (16%-60% số mẫu). Tồn dư thuốc
thú y trọng thịt: 45,7%, thuốc BVTV trong thịt: 7,6% và kim loại nặng là 21%.
Điểm qua những con số trên cho thấy nước ta có một nền công nghiệp thực phẩm lạc hậu,
vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được quản lý chặt chẽ, và quan trọng hơn cả là sự thiếu ý thức
của người nuôi trồng, sản xuất thuộc ngành hàng này. Chính vì vậy mà hàng nông sản, thuỷ sản
và thực phẩm ở nước ta lại càng khó có thể đáp ứng được các quy định về vệ sinh an toàn thực
phẩm của thị trường EU - nơi mà chất lượng cuộc sống luôn được đặt lên hàng đầu.
Cũng chính bởi sự yếu kém trong khả năng đáp ứng các quy định về sức khoẻ và an toàn
đối với các nhóm hàng nông sản, thuỷ sản, thực phẩm... nên xuất khẩu sang thị trường EU chủ
yếu chỉ tập trung vào một số mặt hàng như cà phê và một phần không lớn là cao su và rau quả.
Thực phẩm chế biến khó vượt qua rào cản vệ sinh an toàn thực phẩm của EU; trong chăn nuôi
gia súc, gia cầm và thuỷ sản sử dụng khá phổ biến các chất kháng sinh bị EU cấm nên thịt gia
súc, gia cầm cũng không xuất khẩu được vào EU; còn các loại quả nhiệt đới và hạt có dầu của
Việt Nam như thanh long, xoài, hạt điều, lạc.... rất được thị trường EU ưa chuộng nhưng thực
trạng sản xuất và trồng trọt chưa tuân thủ quy định hàm lượng thuốc bảo vệ thực vật tối đa trong
rau quả đã khiến nhóm hàng này chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông
sản sang EU.
Tóm lại, khó khăn chủ yếu đối với hoạt động xuất khẩu nông sản, thuỷ sản, thực phẩm của
Việt Nam sang EU là do các nhà sản xuất và xuất khẩu Việt Nam chưa thực sự cố gắng hoặc
chưa đủ điều kiện vật chất để tuân thủ các yêu cầu về vệ sinh an toàn của thị trường.
1.5 Khả năng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về môi trường
ý thức về vấn đề môi trường ở các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu, môi trường hầu
như mới chỉ được các cấp vĩ mô quan tâm, do vậy khả năng các doanh nghiệp xuất khẩu của
Việt Nam đáp ứng những quy định của EU phụ thuộc nhiều vào luật pháp và các chính sách bảo
vệ môi trường của Nhà nước.
Pháp luật về môi trường của Việt Nam - cơ sở cho việc đáp ứng các quy định về môi
trường của EU của các doanh nghiệp xuất khẩu
Để đảm bảo phát triển bền vững, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường (BVMT)
và đối phó với các quy định về môi trường của các khu vực thị trường phát triển (EU, Mỹ, Nhật
Bản...), nước ta đã ban hành Luật bảo vệ môi trường và một số văn bản liên quan để áp dụng
trong nước (Nghị định, Pháp lệnh Thú y, Pháp lệnh Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản,
Thông tư, Quyết định...). Các quy định pháp luật về môi trường hiện hành đã điều chỉnh hoạt
đồng sản xuất và xuất khẩu hàng hoá của ta theo hướng bảo vệ môi trường và có nhiều điểm
giống với quy định về môi trường của EU.
Các yêu cầu của EU về môi trường như: (1) quá trình nuôi trồng, khai thác, vận chuyển và
chế biến hàng nông sản, thuỷ sản tại Việt Nam không được gây ô nhiễm môi trường; (2) quá
trình tiêu dùng sản phẩm nhập khẩu tại EU cũng không được gây ô nhiễm môi trường; (3) những
quy định về hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong sản phẩm nông nghiệp, chất phụ gia trong
thực phẩm chế biến, nuôi trồng và khai thác nông thuỷ sản không được sử dụng các chất kháng
sinh bị cấm, vận chuyển động vật thuỷ sản phải có thiết bị thay nước hiệu quả đảm bảo an toàn
cho môi trường...v..v. có thể thấy trong Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam (điều 14, 16, 19),
Nghị định 175-CP hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường (điều 8), Pháp lệnh thú y, Thông
tư số 02/TS-TT ngày 25/6/1996 của Bộ Thuỷ sản và Dự án Luật Thuỷ sản (Điều 33, 36, 38, 45,
49).
Kể từ sau khi Luật bảo vệ môi trường và các văn bản pháp luật liên quan có hiệu lực thi
hành, các doanh nghiệp Việt Nam đã quan tâm hơn đến công tác bảo vệ môi trường. Nhiều
doanh nghiệp lớn đã trang bị hệ thống xử lý môi trường, nhưng do quản lý Nhà nước còn kém
hiệu quả nên một số doanh nghiệp khác chưa nghiêm túc thực hiện các quy định này của pháp
luật. Chính vì vậy, hiệu quả xử lý môi trường còn thấp.
Các doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường EU cũng rơi vào tình trạng chung của doanh
nghiệp Việt Nam, tức là đa phần chưa thực hiện tốt các quy định pháp luật môi trường của Nhà
nước. Nếu các doanh nghiệp Việt Nam thực hiện tốt các quy định pháp luật môi trường của Nhà
nước thì cũng sẽ không gặp mấy khó khăn trong việc đáp ứng quy định của EU vì các quy định
về môi trường của Việt Nam phần lớn cũng tương tự các quy định về môi trường của EU.
Tình hình áp dụng tiêu chuẩn quản lý môi trường ISO 14000
Mặc dù “môi trường”ở các quốc gia phát triển không còn là một khuynh hướng nữa mà đã
trở thành vấn đề tiêu chuẩn, nhưng việc áp dụng Hệ thống quản lý môi trường đối với các nước
đang phát triển trong đó có Việt Nam vẫn còn là một vấn đề mới mẻ. Các chuyên gia cho rằng ở
nước ta hiện nay vẫn đang trong quá trình phân tích các lợi ích của ISO 14001 trong mối quan
hệ với kết quả hoạt động kinh doanh bởi trong thực tế, đảm bảo môi trường với những chi phí
không nhỏ có thể trở thành các
rào cản thương mại đối với việc
xuất khẩu. Tuy nhiên, Chính phủ
và các ban ngành đã có những
chỉ đạo và hỗ trợ tích cực, tạo
điều kiện cho việc bước đầu phát
triển hệ thống tại Việt Nam. Biểu
đồ 4 cho thấy từ năm 1998 mới
có 2 doanh nghiệp đạt chứng chỉ
ISO 14001, đến nay đã có hơn
30 doanh nghiệp áp dụng hệ
thống quản lý môi trường ISO 14000 và có chứng chỉ [15]. Đây là một con số đáng khích lệ,
nhưng nếu so sánh với các nước phát triển (thuộc khối EU và ngoài EU) hoặc chỉ cần với một số
nước trong khu vực ta đã thấy có sự chênh lệch lớn, qua bảng 7 dưới đây:
02
9 9
33 33
05
101520253035
Số lư
ợng
DN
1997 1998 1999 2000 2001 2002
Tính đến hết năm
Biểu đồ 4: Số lượng các doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng chỉ ISO 14001 tính đến hết năm 2002
Bảng 7: Số Doanh nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14001 tại một số nước
12/1997 12/1998 12/1999 12/2000 12/2001 12/2002
Nhật Bản 713 1.542 3.015 5.556 8.123 10.620
Đức 352 651 962 1.260 3.380 3.700
Tây Ban Nha 92 164 573 600 2.064 3.228
Anh 644 921 1.492 2.534 2.722 2.917
Trung Quốc 22 94 222 510 1.085 2.803
Thailand 61 126 229 310 483 671
Singapore 65 78 87 100 298 441
Malaysia 36 86 117 174 367 367
Indonesia 45 55 55 77 199 229
Philippines 11 27 39 46 120 124
(Nguồn: Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003)
Một điều khác cũng đáng chú ý là hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đạt chứng chỉ ISO
14001 đều là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Chỉ một số ít doanh nghiệp trong
nước như Công ty Vật tư và bảo vệ thực vật I, Công ty May 10, Công ty Giày Thuỵ Khuê... có
được chứng chỉ trên. Qua đó cũng nói lên rằng phần đông các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt
Nam sang EU chưa có chứng chỉ ISO 14001. Sở dĩ có điều này vì nhận thức của các doanh
nghiệp về hệ thống quản lý môi trường còn chưa cao, hơn thế nữa khi chọn và áp dụng ISO
14000, các doanh nghiệp cũng còn gặp nhiều khó khăn cả về bộ máy nhân sự lẫn trình độ công
nghệ (công nghệ trong vấn đề xử lý môi trường) và đặc biệt là khó khăn về tài chính. Chi phí áp
dụng một hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14000 khoảng 150 triệu đồng trở lên trong khi
việc áp dụng này chưa thể đem về ngay lợi nhuận. Nhiều nhà quản lý doanh nghiệp đã lúng túng
khi cân nhắc có nên đầu tư chiều sâu, phát triển bền vững bằng cách chọn và áp dụng ISO
14000 hay không. Và trong sự cân nhắc đó, nhiều vị lãnh đạo chưa chắc đã nhận ra được
những thuận lợi.
Bao bì, phế thải bao bì và nhãn hiệu sinh thái (Eco-label)
Vấn đề bao bì và phế thải bao bì mới chỉ bắt đầu được các doanh nghiệp Việt Nam quan
tâm. Các nhà sản xuất cho rằng tiêu chuẩn về bao bì và đóng gói ảnh hưởng tới khả năng cạnh
tranh của hàng hoá, đặc biệt là hàng xuất khẩu và tán thành việc áp dụng các tiêu chuẩn môi
trường về nguyên liệu đóng gói. Tuy nhiên, phần lớn các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
mới chỉ quan tâm đến vấn đề bao bì bởi chất lượng bao bì ảnh hưởng đến giá cả và thị hiếu tiêu
dùng của thị trường xuất khẩu, mà chưa quan tâm đến khía cạnh môi trường (bao bì dễ thu
gom, dễ tái chế). Một thực tế khá phổ biến hiện nay, rất ít doanh nghiệp xuất khẩu sang thị
trường EU có được thông tin về quy định bao bì và phế thải bào bì của EU. Từ trước tới nay, đa
phần các doanh nghiệp của ta đóng gói và sử dụng bao bì theo yêu cầu của đối tác EU, chứ
chưa hề hiểu quy định bao bì và phế thải bao bì của EU cụ thể là như thế nào.
Mặc dù vậy, thực tế cho thấy là chưa có một trường hợp nào các lô hàng xuất khẩu của
Việt Nam bị trả lại do bao bì không phù hợp với yêu cầu bảo vệ môi trường. Có thể do hầu hết
hàng xuất khẩu của Việt Nam được đóng gói trong những loại bao bì đơn giản như thùng carton,
bao PE (tại EU, bao PE cũng đang là vấn đề cần khắc phục)... nên các doanh nghiệp xuất khẩu
không vi phạm quy định bao bì và phế thải bao bì của EU. Tuy nhiên, với mối quan tâm ngày một
gia tăng của EU đối với việc gìn giữ và bảo vệ môi trường, đồng thời xu hướng bảo hộ thương
mại bằng hàng rào kỹ thuật khắt khe và nghiêm ngặt, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh
chóng nắm bắt và hiểu rõ hơn nữa các yêu cầu cụ thể của EU đối với bao bì và phế thải bao bì
để có các biện pháp ứng phó thích hợp.
Tiêu chuẩn về dán nhãn sinh thái cho sản phẩm ít được các nhà sản xuất cũng như các
nhà quản lý quan tâm. Kết quả khảo sát ở một số doanh nghiệp chế biến hàng nông sản xuất
khẩu cho thấy họ biết rất ít hoặc không biết về tiêu chuẩn này của EU, đặc biệt là yêu cầu dán
nhãn cho thực phẩm có nguồn gốc hữu cơ [16, tr 66]... Đây là khái niệm khá mới mẻ đối với nhiều
doanh nghiệp chế biến nông sản xuất khẩu Việt Nam sang EU. Hơn nữa, sản xuất nông nghiệp
hữu cơ là một phương pháp sản xuất mới, mới được áp dụng ở nước ta trên phạm vi hẹp.
Việc tuân thủ các quy định về an toàn vệ sinh thực phẩm có liên quan đến bảo vệ môi
trường
Như đã nêu ở Chương I, mục III.4, một số quy định của EU về an toàn vệ sinh thực phẩm
(như quy định hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa trong rau quả, kiểm tra thú y đối với thịt gia súc,
gia cầm, thuỷ sản và quy định chất phụ gia trong thực phẩm...) được đưa ra cũng nhằm mục
đích bảo vệ môi trường. Cụ thể, một số hoá chất như thuốc bảo vệ thực vật, chất phụ gia, kháng
sinh... được sử dụng trong quá trình nuôi trồng rau quả, gia súc, gia cầm, thuỷ sản và chế biến
thực phẩm sau khi thải ra sẽ gây ô nhiễm môi trường không chỉ ở nước sản xuất mà còn đối với
nước nhập khẩu.
Theo phân tích trong Chương II, mục I.2.2.1, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn rất yếu
kém trong khả năng đáp ứng các yêu cầu về vệ sinh an toàn của thị trường, vì vậy cũng có thể
coi là chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường. Để vượt qua rào cản này, chúng ta cần
sự nỗ lực lớn từ cả hai phía Nhà nước và doanh nghiệp.
1.6 Thực trạng đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội:
Trong những năm qua, chính sách đổi mới, hội nhập kinh tế của Đảng và Nhà nước đã tạo
điều kiện, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam diễn ra với tốc độ ngày càng
nhanh, mạnh. Tiến trình này mang lại cho các doanh nghiệp Việt Nam nhiều cơ hội cũng như
thách thức cùng với những “luật chơi”mới, mà một trong số đó là “trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp”. Tại Việt Nam, khái niệm này vẫn còn rất lạ lẫm, mới mẻ, chưa được nhiều tổ chức và cá
nhân biết đến mà mới chỉ được giới thiệu chủ yếu trong 2 ngành dệt may và sản xuất giày dép
xuất khẩu với tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội SA 8000. Cho đến nay, SA 8000 là tiêu chuẩn trách
nhiệm xã hội duy nhất được cấp chứng chỉ tại Việt Nam mặc dù trên thực tế có rất nhiều bộ tiêu
chuẩn trách nhiệm xã hội khác cho các doanh nghiệp lựa chọn.
Dở dĩ có hiện tượng như vậy là vì sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực, một
chiến dịch quảng bá cho SA 8000 đã được tung ra rầm rộ, trước hết nhằm vào các cơ sở sản
xuất kinh doanh sử dụng nhiều lao động như dệt may và giày dép. Tính đến hết tháng 9/2003,
tại Việt Nam đã có 23 doanh nghiệp đạt được chứng chỉ này, trong đó có 17 doanh nghiệp dệt
may xuất khẩu, 2 doanh nghiệp sản xuất giày dép, túi xách, vali, 4 doanh nghiệp còn lại hoạt
động trong các lĩnh vực sản xuất hoá chất, giấy, đồ chơi, và phụ kiện cho ngành công nghiệp tự
động. 23 doanh nghiệp này chiếm 8,1% tổng số doanh nghiệp đạt chứng chỉ SA 8000 trên thế
giới [17]. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã rất nhanh chân trong hoạt động xin
cấp chứng chỉ về trách nhiệm xã hội.
Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam có những luồng ý kiến trái chiều về bộ tiêu chuẩn SA 8000.
Nhiều người cho rằng “hiện tiêu chuẩn SA 8000 là một trong 3 tiêu chuẩn (ISO 9000, ISO 14000,
SA 8000) được xem là bắt buộc để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng (đặc biệt là hàng
dệt may) sang thị trường Mỹ và châu Âu. Một trong những nguyên nhân khiến các doanh nghiệp
dệt may, da giày Việt nam không xuất khẩu trực tiếp được vào Mỹ là do không có chứng chỉ SA
8000” [18]. Một số công ty dệt may phản ánh nhiều đối tác nước ngoài sang làm ăn đề nghị họ
phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn SA 8000, do đó “Tổng công ty Dệt may Việt nam đã đề nghị
các đơn vị thành viên xem xét, nghiên cứu và tìm cách có được SA 8000, đồng thời phấn đấu
đến hết năm 2003, ít nhất tất cả các doanh nghiệp làm hàng dệt may xuất khẩu sẽ có chứng chỉ
này” [18]. Cũng giống như ngành dệt may, nhiều doanh nghiệp da giày trong cả nước đang tất bật
chuẩn bị để có chứng chỉ SA 8000 vì họ cho rằng, ngay cả những hãng nổi tiếng thế giới như
Adidas, Nike... cũng đang áp dụng hệ thống đó.
Bên cạnh các ý kiến ủng hộ cho SA 8000 cũng có những ý kiến trái ngược, cho rằng các
doanh nghiệp không nhất thiết phải có chứng chỉ này vì những tiêu chuẩn này về cơ bản đã có
trong quy định của bộ luật Lao động Việt Nam - khi chưa có chứng chỉ SA 8000 thì các doanh
nghiệp cũng phải tuân theo - đồng thời SA 8000 không thể thay thế việc tìm hiểu đánh giá riêng
của các công ty nước ngoài với doanh nghiệp. Hơn nữa, để có được chứng chỉ này, các doanh
nghiệp phải bỏ ra những khoản chi phí khá tốn kém, có thể ảnh hưởng đến lợi ích kinh doanh.
Trước những mâu thuẫn nói trên, điều quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu là
cân nhắc kĩ càng cả chi phí và lợi ích mà chứng chỉ SA 8000 mang lại, căn cứ vào những thực tế
dưới đây:
Thứ nhất, SA 8000 chỉ là một trong những bộ tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội của một công
ty tư nhân có tên là Social Accountabilities International (SAI) của Mỹ ban hành từ năm 1997 và
nó đang được công ty này cố gắng xây dựng uy tín. Tại Mỹ cũng như nhiều nước khác, chứng
chỉ SA 8000 chưa được phổ biến rộng rãi. Theo số liệu của SAI , tính đến ngày 30/9/2003 mới
chỉ có 258 cơ sở sản xuất trên toàn thế giới có chứng chỉ SA 8000, trong đó: [17]
Thứ hai, + Mỹ: 2 chứng chỉ (chiếm 0,7%) + Thuỵ Sĩ: 3 (1,1%)
+ Pháp: 5 (1,8%) + Đức: 1 (0,4%)
+ Tây Ban Nha: 5 (1.8%) + Bỉ: 1 (0,4%)
+ Anh: 3 (1,1%) + Phần Lan: 1 (0,4%)
các điều khoản chủ yếu trong SA 8000 về cơ bản cũng được quy định trong Bộ luật Lao động
(Phụ lục 6) của Việt Nam nên các doanh nghiệp nếu không xin chứng chỉ cũng phải áp dụng.
Mặt khác, khi áp dụng SA 8000, các doanh nghiệp sẽ gặp phải một số khó khăn như:
+ Quy định giờ làm thêm không quá 12 giờ/tuần gây khó khăn rất nhiều cho các
doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong ngành dệt, da, may mặc.
+ Hiện nay, mức lương tối thiểu áp dụng cho các doanh nghiệp tư nhân (100% vốn
Việt Nam) và nhà nước là 290.000đ/tháng, hay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là
khoảng 45 USD/tháng. Tuy vậy, mức lương 290.000đ/tháng lại không đáp ứng được yêu cầu
của SA 8000. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp (theo công ty SGS Vietnam Ltd., thì có khoảng
50% số các doanh nghiệp được điều tra) còn không bảo đảm được mức lương này cho người
lao động [19].
+ Hiện tại, về vấn đề an toàn và sức khoẻ Luật lao động Việt Nam và các quy định bổ
sung của Việt Nam rất hay, lý tưởng, nhưng để áp dụng đúng với các quy định này thì rất hiếm
các doanh nghiệp đạt được (ví dụ quy định về Phòng cháy chữa cháy...)
+ Việc kiểm soát các nhà cung cấp: Đây là một khó khăn lớn nhất và khó vượt qua
của các doanh nghiệp khi xây dựng và áp dụng SA 8000. Vì nhận thức của xã hội nói chung còn
hạn chế nên việc các doanh nghiệp yêu cầu các nhà cung cấp của mình cam kết tuân thủ theo
các yêu cầu của SA 8000 là một điều hết sức khó khăn, đôi khi còn làm ảnh hưởng đến lợi
nhuận của doanh nghiệp.
Thứ ba, chi phí để có được chứng chỉ SA 8000 khá lớn, trên dưới 10.000 USD cho nhà tư
vấn đánh giá, thẩm định, chưa kể phí duy trì thường xuyên vì theo nguyên tắc SA 8000 chỉ có
hiệu trong 3 năm, sau đó doanh nghiệp muốn xin cấp lại thì phải làm thủ tục lại từ đầu [20]. Đồng
thời, chứng chỉ này không cấp cho công ty mà chỉ cấp cho cơ sở sản xuất, nghĩa là một công ty
nếu có 10 cơ sở sản xuất thì sẽ phải mua 10 chứng chỉ.
Thứ tư, có chứng chỉ SA 8000 sẽ là một lợi thế cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tuy nhiên,
các đối tác EU (và Mỹ) không đòi hỏi doanh nghiệp phải trình diện chứng chỉ này. Chứng chỉ SA
8000 không thay thế được việc các doanh nghiệp nhập khẩu nước ngoài tự kiểm tra đánh giá
thực tế việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Ngay cả với thị
trường Mỹ (thị trường mà nhiều người cho rằng yêu cầu về chứng chỉ SA 8000 hiện là vấn đề
bức xúc) thì theo lời bà phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may và Da giày Mỹ: “các doanh nghiệp Mỹ khi
làm ăn với đối tác Việt nam quan tâm chủ yếu tới chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng.
Chứng chỉ SA 8000 khiến doanh nghiệp được đánh giá cao hơn nhưng đó không phải là điều
kiện bắt buộc để xuất hàng sang Mỹ. Khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp nào, chúng tôi sẽ
sang thẩm định tình hình thực tế tại công ty. Nếu bạn có bất cứ chứng chỉ nào trong tay, nhưng
khi chúng tôi đến kiểm tra thấy điều kiện lao động của nhà xưởng tồi tàn, lao động bị đối xử
không tốt... thì tất cả chỉ là con số 0. Vì thế, có chứng chỉ hay không là không quan trọng.” [18]
V. Đánh giá thực trạng của một số ngành xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang EU
dưới tác động của các quy định/ tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội.Theo nhận định ở Chương II, mục I.1, khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang EU rơi vào một ngành hàng chính như giày dép, dệt may, nông sản, sản phẩm làm từ da
thuộc, thuỷ sản, đồ gỗ, đồ gốm sứ, đồ... trong đó giày, dép, dệt may, nông sản và thuỷ sản là 4
nhóm hàng xuất khẩu cơ bản, hàng năm đem về một khối lượng ngoại tệ đáng kể cho Việt Nam.
Mặc dù trong những năm gần đây, do sự sụt giá trên thế giới và các quy định ngặt nghèo từ phía
EU mà kim ngạch xuất khẩu sang EU của hai ngành hàng nông sản và thuỷ sản giảm, song tiềm
năng xuất khẩu của hai ngành này vẫn rất lớn nếu chúng ta vượt qua được những trở ngại trên.
Trong giới hạn của khoá luận, xin được đánh giá thực trạng của 4 ngành xuất khẩu chính này
dưới tác động của các tiêu chuẩn của EU về chất lượng, môi trường và xã hội.
Cũng cần lưu ý rằng, hai ngành dệt may và giày dép là hai ngành công nghiệp nhẹ, xuất
khẩu chủ yếu dưới dạng gia công cho đối tác EU vì tận dụng được ưu thế lao động rẻ. Vì vậy,
các quy định về chất lượng và trách nhiệm xã hội có tác động trực tiếp nhất đến năng lực xuất
khẩu của hai ngành này. Trong khi hàng nông sản và thuỷ sản xuất khẩu, do tính chất đặc trưng
là ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, an toàn của người tiêu dùng đồng thời quá trình nuôi trồng và
chế biến có thể gây tác động xấu đến môi trường, nên chủ yếu được đánh giá khả năng đáp ứng
các tiêu chuẩn về chất lượng và môi trường.
1. Hàng giày dép
1.7 Tình hình xuất khẩu giày dép sang EU từ 1995-nay
Ngành công nghiệp giày dép ở Việt nam kể từ 10 năm nay đã và đang trên đà phát triển
vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Hiện tại, đây là một trong những ngành mang lại nguồn
ngoại tệ chính cho quốc gia. Kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam lớn thứ tư trên thế giới, chỉ
đứng sau Trung Quốc, Hồng Kông, và Italia.
Cũng trong những năm qua, EU là thị trường nhập khẩu hàng giày dép của Việt Nam lớn
nhất. Giày dép Việt Nam trước kia phải xin phép trước khi xuất khẩu sang EU, nhưng kể từ sau
hiệp định khung hợp tác năm 1995, nhóm hàng này được nhập khẩu tự do vào EU. Chính vì vậy
mà kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU kể từ đó tăng nhanh, năm 1995 đạt
481,3 triệu USD, 1996: 664,6 triệu USD, 1997: 1.032,3 triệu USD (mỗi năm gấp rưỡi năm trước).
Vào năm 1998, tuy xuất khẩu giày dép cũng chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính-
tiền tệ khu vực nhưng vẫn tiếp tục tăng và đạt 1.043,1 triệu USD, đến năm 1999 đạt 1.310,5
triệu USD và năm 2000 lên tới 1.683,5 triệu USD, vượt xa mặt hàng dệt may đã từng giữ vị trí
thống soái trong thời kỳ 1992-1995. Năm 2001 và 2002, kim ngạch xuất khẩu giày dép tiếp tục
tăng (tuy tốc độ tăng trưởng thấp hơn các năm trước), đạt mức trung bình trên dưới 1,7 tỷ
USD/năm [21]. Theo số liệu gần đây nhất của LEFASO, xuất khẩu 5 tháng đầu năm 2003 đạt
khoảng 900 triệu USD, trong đó xuất sang EU chiếm 80%, tức đạt khoảng 720 triệu USD - tăng
23% so với cùng kỳ năm 2002 [22].
Giá trị xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU chiếm chừng 79% tổng giá trị xuất khẩu
của ngành, 21% còn lại xuất khẩu sang khoảng 40 nước và khu vực thị trường khác trong đó có
Mỹ và Nhật Bản [21]. Qua đó có thể thấy thị trường EU đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với
ngành hàng này. Những nước nhập khẩu chính gồm Anh, Đức, Pháp, Bỉ và Hà Lan.
Nếu xét trong thị trường EU, Việt Nam là một trong năm nước có số lượng giày dép tiêu
thụ nhiều nhất ở đây do giá rẻ, chất lượng và mẫu mã chấp nhận được với loại sản phẩm chủ
yếu là giày thể thao. Năm 1996, EU chính thức thông báo Việt Nam đứng thứ 3 (sau Trung Quốc
và Indonesia) trong số các nước xuất khẩu giày dép nhiều nhất vào EU, với số lượng 92,8 triệu
đôi. Đến nay, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 2 (chỉ sau Trung Quốc) về xuất khẩu giày dép
sang EU [21].
Các sản phẩm giày dép của Việt Nam xuất sang EU chủ yếu là giày thể thao, chiếm trên
40% kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang thị trường này, giày vải gần 20%, giày nữ
xấp xỉ 15%, dép khoảng 17% và giày da hơn 1,5% [23].
Tuy kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang EU tăng nhanh, nhưng có đến 70%
kim ngạch là hàng gia công với giá trị gia tăng rất thấp, vì thế hiệu quả thực tế rất nhỏ (25%-30%
tổng doanh thu xuất khẩu) [23].
1.8 Năng lực sản xuất và khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn của EU
Năng lực sản xuất giày dép của Việt Nam:
Hàng năm chỉ có khoảng 7- 8 triệu đôi giày dép da và 30 triệu đôi giày nữ, giày vải, giày
thể thao... được tiêu thụ trong nước [24,tr.12]. Vì thế hoạt động sản xuất và cơ cấu sản xuất các mặt
hàng giày dép của ta đều nhằm vào đáp ứng cầu của thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, những
mặt hàng giày dép đòi hỏi nguyên vật liệu cao cấp, độ tinh xảo lớn, kỹ thuật phức tạp (như giày
da), chúng ta lại không có khả năng cung cấp. Do vậy, sản lượng giày dép Việt Nam chủ yếu
gồm giày thể thao và giày vải. Lượng giày ra xưởng mỗi năm ngày một tăng, đặc biệt là sau năm
1998 (bảng 8).
Bảng 8: Năng lực sản xuất giày dép của Việt Nam theo chủng loạiĐơn vị: triệu đôi
Chủng loại Đến năm 1998 1999 2000 2001 2002
1. Giày thể thao 204,39 108,70 126,47 138,30 145,42
2. Giày vải 57,28 37,27 34,08 37,79 39,16
3. Giày nữ 44,45 43,26 54,71 69,50 75,58
4. Các loại khác 56,610 51,58 75,22 76,43 79,27
Tổng số: 362,72 240,81 290,48 322,02 339,43
(Nguồn: Thống kê của Hiệp hội da giày Việt Nam LEFASO1999-2002 - www.lefaso.org.vn)
Với sản lượng cao như vậy, Việt Nam hiện nay đứng hàng thứ 8 trên thế giới về sản xuất
giày dép [21], nhưng so với năng lực thực tế thì giày vải chỉ đạt 60,57% công suất, giày thể thao
đạt 67,5% công suất, giày nữ đạt 80,7% công suất [24,tr.18]. Đồng thời, sản lượng này tập trung vào
giày thể thao gia công xuất khẩu nên hiệu quả sản xuất và xuất khẩu chưa cao. Các loài giày
dép hợp thời trang, chất lượng cao vẫn do các nhà sản xuất châu Âu chiếm lĩnh như Italia, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha... Điều cần thiết cho các doanh nghiệp sản xuất giày của Việt Nam là dần
chuyển đổi định hướng sản xuất để sớm bắt kịp với trình độ của thế giới.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về chất lượng:
Do tính chất của giày dép là mặt hàng tiêu dùng cá nhân phụ thuộc rất nhiều vào thị hiếu
và xu thế mốt, nên khó có thể đặt ra những tiêu chuẩn chung cho các sản phẩm này. Tại thị
trường EU cũng như ở Việt Nam, tiêu chuẩn quốc gia cho giày dép chung chung rất ít (ví dụ như
ngành giày ở Việt Nam chỉ đưa ra 3 tiêu chuẩn Việt Nam cho giày vải xuất khẩu, đó là các tiêu
chuẩn TCVN 1677-86 về “Yêu cầu kỹ thuật”, TCVN 1678-86 về “Phương pháp thử”và TCVN
1679-75 về “Bao gói, ghi nhãn, vận chuyển và bảo quản”). Vì thế, việc đánh giá chất lượng chủ
yếu được tiến hành theo từng lô hàng trên cơ sở phù hợp với mẫu đặt gia công. Khả năng gia
công sao cho các lô hàng đạt yêu cầu giống mẫu phụ thuộc nhiều vào trình độ lành nghề của
công nhân, trình độ máy móc thiết bị, công nghệ, năng lực quản lý chất lượng sản phẩm..., vì
vậy bức tranh tổng quát chứa đựng các yếu tố này (đã nêu ở trên) có thể toát lên khả năng đáp
ứng các yêu cầu về chất lượng của EU đối với giày dép gia công xuất khẩu:
- Năng lực sản xuất nguyên vật liệu, phụ liệu cho ngành giày:
Trong giá thành sản phẩm của ngành hiện nay, giá trị nguyên vật liệu chiếm tới 70- 80%.
Thế nhưng năng lực sản xuất nguyên vật liệu ngành giày ở Việt Nam hiện nay lại rất yếu, là một
trong những nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam bị lệ thuộc vào đối tác nước
ngoài.
+ Đế giày: Các loại đế giày thể thao, đế dép và đế giày nữ có giá trị cao (giày da) đi từ cao
su biến tính, từ PU hay TPU, đế rời EVA đều phải nhập chủ yếu của Nhật Bản, Đài Loan... mà
hiện nay do đối tác nước ngoài cung cấp.
+ Các phụ liệu khác: Việt Nam mới chỉ có thể sản xuất các loại vải làm lót giày thể thao và
dép đi trong nhà. Để sản xuất những đôi giày cao cấp, Việt Nam vẫn phải nhập vải của nước
ngoài. Vải dệt dùng trong công nghiệp giày, đồ da trong nước mới đáp ứng được 25% nhu cầu [24,tr.21]. Da thuộc để làm hàng xuất khẩu gần như hoàn toàn nhập ngoại.
Tại Việt Nam chưa hình thành các công ty quốc doanh chuyên cung ứng tổng hợp nguyên
phụ liệu cho ngành giày. Các doanh nghiệp tư nhân trong nước mới chỉ sản xuất các phụ liệu có
vốn đầu tư nhỏ như dệt mark, in mark, khoen tán, dây giày, sản xuất bao bì.... Các phụ liệu khác
như keo dán, chỉ may, khuy khoá, các vật liệu trang trí, pho mũi, pho hậu, chất trau chuốt, dung
môi đều phải nhập ngoài [24,tr.21].
Với phom giày, trừ Công ty giày Thượng Đình tự thiết kế phom cho giày vải và một số
công ty khác sao chép phom của nước ngoài, còn lại phần lớn các doanh nghiệp gia công khác
thì đối tác trung gian nước ngoài cung cấp phom [24,tr.21].
- Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị:
Do những hạn chế về trình độ quản lý, về khả năng tài chính và trình độ tay nghề của lực
lượng lao động, hầu hết các dây chuyền và máy móc để sản xuất giày hiện nay nhập của Hàn
Quốc và Đài Loan theo công nghệ băng tải dài, tốc độ chậm và ít kết hợp nhiều nguyên công
trên một đầu máy.
Thiết bị trong công đoạn pha cắt nguyên liệu thuộc loại trung bình tiên tiến của khu vực,
chủ yếu sử dụng máy chặt thuỷ lực khổ rộng, máy lạng, máy in các loại của Đài Loan và Hàn
Quốc được chế tạo từ 5- 15 năm trở lại đây [24,tr.26]. Thiết bị trong công đoạn may ráp cũng đều
chủ yếu của Đài Loan và Hàn Quốc chế tạo từ 5- 10 năm trở lại đây, có tuổi thọ thấp. Mới chỉ có
một số công ty có sử dụng máy may của Nhật Bản có bộ phận cắt chỉ tự động, may xén lót tự
động, máy may vi tính để nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động [24,tr.27]. Thiết bị
trong công đoạn gò ráp: các máy gò, máy ép, máy phun đúc... chủ yếu của Đài Loan và Hàn
quốc [24,tr.27]. Công đoạn hoàn thiện được thực hiện hoàn toàn bằng thủ công. Các thiết bị kiểm tra
thì còn thiếu về số lượng, sơ sài và lạc hậu về chủng loại (trừ một số doanh nghiệp lớn và liên
doanh) nên sản phẩm làm ra chỉ được kiểm tra bằng phương pháp cảm quan.
- Công tác quản lý chất lượng sản phẩm:
Trong ngành giày dép, hệ thống tiêu chuẩn quốc gia như đã nói hầu như không có gì, còn
hệ thống tiêu chuẩn ngành cũng chưa được kiện toàn. Đa số các cơ sở sản xuất giày chưa có
điều kiện và trang thiết bị để đo lường kiểm nghiệm tiêu chuẩn chất lượng cho sản phẩm, việc
kiểm tra, nghiệm thu giày xuất khẩu theo sự đánh giá cảm nhận của các cán bộ kiểm tra có kinh
nghiệm nghề nghiệp. Do đó, khâu kiểm tra kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm đang phụ
thuộc nhiều vào phía đối tác nước ngoài và lợi thế cũng thuộc về họ. Hiện nay mới chỉ có 9
doanh nghiệp đã thực hiện và được cấp chứng chỉ ISO 9000, gồm : công ty giày Thượng Đình,
Bình Tiên, Hiệp Hưng, Thuỵ Khuê, công ty cổ phần may thêu giày dép WEC Sài gòn, công ty dệt
may và giày An Phước, công ty da giày Hà Nội, công ty da giày Sagoda [25]. Qua đó có thể thấy
rằng công tác quản lý chất lượng sản phẩm chưa được các doanh nghiệp xuất khẩu giày dép
của ta quan tâm đúng mức, các doanh nghiệp còn đang ở thời kỳ học hỏi và thụ động, phụ thuộc
vào sự giám sát của đối tác nước ngoài.
Tóm lại, với hiện trạng trên, khả năng giày dép xuất khẩu của Việt Nam đáp ứng các tiêu
chuẩn chất lượng của thị trường EU chắc chắn còn chưa cao. Mặc dù Việt Nam xếp thứ 2 trong
số các nước xuất khẩu giày dép vào thị trường EU nhưng xuất khẩu của ta phụ thuộc lớn vào
đối tác nước ngoài về gần như mọi mặt: nguyên nhiên liệu, máy móc, kiểu dáng thiết kế... nên
điều đó chưa nói lên năng lực thực tế của các doanh nghiệp.
Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn về trách nhiệm xã hội
Theo đánh giá của tổ chức BVQI Việt Nam tại hội thảo “An sinh xã hội - SA 8000 &
OHSAS 18001”, hầu như ở tất cả các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt nam đều đã thực
hiện một số yêu cầu về quản lý sức khoẻ và an toàn nghề nghiệp, ví dụ như ban hành chính
sách an toàn và sức khoẻ, một số các biện pháp để kiểm soát an toàn trong công việc như đào
tạo an toàn lao động, thực hiện kiểm tra an toàn lao động, hoặc tổ chức khám chữa bệnh nghề
nghiệp định kỳ. Tuy nhiên, đấy là những công việc cơ bản, có thể nói là tự phát hay chỉ để đáp
ứng những yêu cầu cơ bản của bộ luật lao động và tất nhiên, đó chưa thể coi là một hệ thống
“sống”thực hiện trong một hệ thống quản lý hoàn chỉnh đầy đủ.
Điều đáng mừng là vài năm gần đây, nhờ có các cuộc hội thảo giới thiệu đề tài trách nhiệm
xã hội (đặc biệt là giới thiệu tiêu chuẩn SA 8000) do Hiệp hội da giày Việt Nam (LEFASO) tổ
chức mà các doanh nghiệp da giày cũng đã nhận thức được trách nhiệm của mình đối với người
lao động nói riêng và xã hội nói chung. Vì thế mà cùng với ngành dệt may và chỉ đạo từ phía
trên, nhiều doanh nghiệp giày dép xuất khẩu của Việt Nam hiện đang rục rịch chuẩn bị để có
được chứng chỉ SA 8000. Tính đến 30/9/2003, trong 23 doanh nghiệp Việt Nam có chứng chỉ SA
8000 mới có một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất giày dép, đó là công ty
Legamex [17]. Tuy nhiên để có được chứng chỉ này đối với các doanh nghiệp sản xuất giày dép
hoàn toàn không đơn giản. Nguyên nhân là họ chưa đủ tiêu chuẩn về nhà xưởng, điều kiện lao
động để áp dụng. Thêm vào đó, quan niệm sai lệch coi SA 8000 như một yêu cầu tất yếu để
thâm nhập thị trường Mỹ và EU cũng đang gây ra tâm lý bất ổn cho các doanh nghiệp một cách
không cần thiết.
2. Hàng dệt may
1.9 Tình hình xuất khẩu dệt may sang EU từ 1995-nay
Cho đến nay, dệt may vẫn là ngành hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn thứ hai của Việt
Nam sang EU. Kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU được ký kết
năm 1992, kim ngạch xuất khẩu dệt may không ngừng tăng lên với tỷ lệ bình quân là 40%/năm
thời kỳ 1993- 2000 [26, tr.180]. Đây cũng được xem như là bước phát triển nhảy vọt đưa hàng dệt
may Việt Nam xâm nhập vào thị trường dệt may thế giới. Sang năm 2001 và 2002, tổng kim
ngạch xuất khẩu dệt may sang EU lại liên tiếp giảm, chỉ đạt mức 634 triệu USD và 608 triệu USD
(tăng trưởng âm). Năm 2003, xuất khẩu 6 tháng đầu năm sang EU đạt trên 208,2 triệu USD, tiếp
tục giảm 23% so với cùng kỳ [27]. Sở dĩ có hiện tượng như vậy vì sau khi Hiệp định thương mại
Việt Mỹ được ký kết, thị trường Mỹ với các yêu cầu về chất lượng và mẫu mã đơn giản hơn, đa
dạng hơn đã mở ra một hướng đi mới cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.Tuy nhiên điều
này không có nghĩa là thị trường EU mất đi tầm quan trọng của nó. Kể từ tháng 8 năm 2003, với
sự kiện EU tăng thêm hạn ngạch dệt may cho các doanh nghiệp Việt Nam, hoạt động xuất nhập
khẩu của ngành sang EU được dự báo là sẽ dần nóng lên.
Bảng 9: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang euĐơn vị: Triệu USD
Năm Xuất khẩu vào EU Tăng (%)
1995 355
1996 428 20,6
1997 460 7,5
1998 546 18,7
1999 605 10,8
2000 650 7,4
2001 609 - 6,3
2002 560 - 8,1
2003 (6 tháng đầu năm) 208 - 23% so với cùng kỳ năm 02(Nguồn: Bộ Thương mại và Tổng cục Hải Quan)
Thị trường EU hiện chiếm khoảng 40% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Thế
nhưng nếu nhìn từ phía EU, thì Việt Nam chỉ là nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm 0,5% kim
ngạch nhập khẩu của EU. Trong đó, Đức là nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam lớn
nhất, chiếm 41% tổng giá trị xuất khẩu, bỏ xa các nước khác như Pháp (14%), Hà Lan (12%),
Italia (9%),...[26, tr.180]
Về cơ cấu hàng xuất khẩu, các sản phẩm chủ lực chiếm tới 70% giá trị kim ngạch là những
hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận như: áo Jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%), áo len
và áo dệt kim (3,9%), T-shirt và Polo shirt (3,4%). Các sản phẩm có yêu cầu kỹ thuật phức tạp,
chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, hoặc sản xuất với tỷ lệ rất nhỏ [26, tr.180].
Cũng giống như mặt hàng giày dép, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
EU chủ yếu theo hình thức gia công (chiếm tỷ trọng gần 80%), tức là nhà nhập khẩu EU đặt
hàng với một bên trung gian (các nước Đông á như Đài Loan, Hồng Kông...), sau đó những
nước này cung cấp nguyên vật liệu, máy móc, thậm chí cả chuyên gia và phương tiện quản lý
cho các doanh nghiệp Việt Nam gia công. Vì thế mà lợi nhuận Việt Nam thu về thường rất nhỏ.
Nguyên nhân của thực trạng này là do: (1) ngành dệt vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về
nguyên phụ liệu cho ngành may; (2) sự dễ dãi và ít rủi ro của phương thức gia công nên ngành
may tuy phát triển rất nhanh song vẫn là một khu vực sản xuất thiếu tác phong công nghiệp và
thiếu khả năng cạnh tranh; (3) phương thức phân bổ hạn ngạch chưa hợp lý cũng đã kìm hãm
tính năng động và sáng tạo của các doanh nghiệp may; (4) những rào cản trong thương mại dệt
may tại thị trường EU.
1.10 Những khó khăn trong việc đáp ứng các tiêu chuẩn của EU
Về chất lượng:
Cũng như giày dép xuất khẩu, để đưa ra các tiêu chí đánh giá chung về chất lượng cho tất
cả các mặt hàng dệt may là không thể thực hiện được bởi chất lượng của những sản phẩm này
tốt hay xấu phụ thuộc nhiều vào thị hiếu và xu hướng mốt. Đồng thời, thị hiếu của khách hàng về
đồ may mặc lại thay đổi thường xuyên nên chuẩn mực về ngành hàng này nếu có cũng sẽ
không tồn tại lâu được. Chính bởi lý do này mà việc đánh giá chất lượng hàng dệt may cũng chủ
yếu được tiến hành theo từng lô hàng trên cơ sở phù hợp với mẫu đặt gia công. Song, nếu chỉ
mải mê tập trung vào làm hàng gia công mà không chú ý phát triển toàn diện ngành thì Việt Nam
sẽ tiếp tục thua thiệt trên thị trường quốc tế. Đồng thời, ngay cả việc đáp ứng các yêu cầu gia
công cũng sẽ trở nên khó khăn nếu không được chú ý đúng mức. Sau đây là những khó khăn
mà các doanh nghiệp dệt may hiện đang gặp phải khi đáp ứng các yêu cầu về chất lượng của
các đối tác nước ngoài, đặc biệt là EU - thị trường khó tính vào loại bậc nhất trên thế giới.
- Về nguyên phụ liệu ngành dệt may
Ngành dệt may Việt nam trong những năm qua đã có những bước tiến đáng kể, tốc độ
tăng trưởng giá trị xuất khẩu luôn đạt 25- 30%/năm, tạo công ăn việc làm cho khoảng 1,6 triệu
lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp trong sản xuất nguyên liệu như trồng bông,
trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên phụ liệu lại chưa được chú trọng đúng mức
đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của ngành trong thời gian qua.
Đối với ngành dệt (mức độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành này kém ngành may rất
nhiều), nguyên liệu phục vụ có rất nhiều loại như bông xơ, tơ, sợi... trong đó hai loại nguyên liệu
chủ yếu là bông xơ và tơ tằm. Trong vài năm gần đây, diện tích và sản lượng bông tăng lên
đáng kể nhưng nguyên liệu bông trong nước mới chỉ đáp ứng 11% nhu cầu của ngành dệt may.
Từ năm 1997 đến nay, trung bình hàng năm chúng ta phải chi từ 91- 110 triệu USD để nhập
khẩu từ 80- 90% nguyên liệu bông từ Trung Quốc vào Lào [26, tr.48]. Thực trạng trong ngành nuôi
tằm dệt tơ cũng vậy, với diện tích dâu tằm hiện này vào khoảng 25.000 ha, đứng thứ 2 trên thế
giới (chỉ sau Trung Quốc), hiệu quả trồng dâu ở nước ta lại rất thấp. Hiện nay Việt Nam vẫn phải
nhập tơ sống từ Trung Quốc để se tơ và dệt lụa với số lượng lên đến trên 200 tấn/năm, do kén
tằm trong nước phần lớn chỉ có độ dài chưa tới 700m nên không đảm bảo tiêu chuẩn để sản
xuất tơ chất lượng cao xuất khẩu [26, tr.48].
Cũng như nguyên liệu, ngành sản xuất gia công phụ liệu cũng không được chú ý đầu tư.
Chủ một doanh nghiệp tư nhân may thuê cho biết: “Khách hàng yêu cầu rất tỷ mỉ từng cái khuy,
màu sắc và cỡ từng loại chỉ màu. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng yêu cầu của khách là mất
hợp đồng ngay”[26, tr.49]. Hiện nay ở nước ta chỉ một vài doanh nghiệp và làng nghề như: Dây khoá
kéo Nha Trang, chỉ màu của Hợp tác xã Triều Khúc, Cơ khí Gia Lâm và một số ít doanh nghiệp
sản xuất chỉ khâu và khuy bấm ở thành phố Hồ Chí Minh. Lực lượng như vậy quá mỏng, trong
khi Trung Quốc - nước láng giềng và cũng là một cường quốc xuất khẩu hàng dệt may thế giới -
hàng năm sản xuất gần một vạn sản phẩm phụ liệu cho ngành may.
Còn với mặt hàng vải nguyên liệu cho ngành may, theo những báo cáo mới đây của Hiệp
hội Dệt may Việt Nam, các doanh nghiệp trong ngành chỉ mới sản xuất được một số chủng loại
như vải cotton, jean, vải dệt kim... nhưng chất lượng không ổn định, giá thành lại rất cao do năng
suất lao động thấp và chi phí sản xuất lớn. Chẳng hạn, giá vải kaki trong nước là 2,5USD/mét
trong khi nhập khẩu chỉ có 1,5$USD/mét [26, tr.49].
Như vậy, bức tranh toàn cảnh của ngành sản xuất phụ liệu cho ngành may ở Việt Nam có
thể nói gọn trong 4 chữ: “vừa thiếu, vừa yếu”. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài khi nghiên cứu thị
trường phụ liệu cho ngành may đã kết luận rằng: “các sản phẩm vải, dây khoá, kéo, cúc, nhãn
mác do các doanh nghiệp trong nước sản xuất... mới đáp ứng được 10- 15% nhu cầu”[26, tr.49]. Do
bị động về phụ liệu mà nhiều doanh nghiệp may trong nước đã phải chi ngoại tệ mạnh để nhập
khẩu, khiến giá thành sản phẩm đội lên từ 10 đến 15% so với cùng loại của các nước trong khu
vực. Không những thế, nhiều doanh nghiệp may trong nước ký được hợp đồng gia công rồi phải
săn tìm phụ liệu đúng với mẫu mã chào hàng. Có doanh nghiệp tìm không đủ phụ liệu, phải thay
đổi mẫu mã khiến khách hàng đặt mua không hài lòng, yêu cầu giảm giá hoặc đòi huỷ hợp đồng
đã ký.
- Trình độ trang thiết bị, công nghệ
Kể từ những năm đổi mới quản lý nền kinh tế, ngành Dệt may được bổ sung thêm các
thiết bị hiện đại, công nghệ mới. Song, do vốn có hạn nên trang bị chưa được đồng bộ, một số
doanh nghiệp còn lúng túng chưa huy động máy móc vào sản xuất được tốt. Khu vực may công
nghiệp có khá hơn, các doanh nghiệp may xuất khẩu đều đổi đã mới thiết bị chất lượng tốt nên
cơ sở vật chất tăng lên nhanh chóng.
+ Dệt thoi [28, tr.4]:
Khu vực phía Bắc: Máy Trung Quốc chiếm đa số (Dệt Nam Định, Vĩnh Phú, 8/3) trang bị từ
những năm 1950, khổ hẹp, nay chỉ còn sử dụng được 2.300 máy.
Khu vực miền Trung: Hoà Thọ có 200 máy dệt cũ của Nhật đã sử dụng 30 năm, Công ty
Dệt 29/3, Công ty Dệt Hoà Khánh có 591 máy thuộc loại tự động thay thoi, thay suốt cơ khí, nên
chất lượng sản phẩm không đáp ứng được yêu cầu thị trường.
Khu vực phía Nam: Chủ yếu là máy Nhật, Mỹ, Hàn Quốc đã qua sử dụng nhiều năm từ
1964- 1974.
+ Dệt kim [26, tr.5]:
Ngành dệt kim còn mới mẻ với nước ta, trước năm 1986, thiết bị hầu hết của Trung Quốc,
Tiệp Khắc, CHDC Đức thuộc loại lạc hậu thời đó. Đến nay số thiết bị đó phần lớn đã thanh lý và
được thay bằng các thiết bị thế hệ mới nhập từ Nhật Bản, Hàn quốc, Đài Loan, CHLB Đức có
trang bị linh kiện điện tử... nên năng suất cao, chất lượng tốt, tính năng sử dụng rộng.
Công nghệ Dệt kim cũng tiến bộ nhanh, sản xuất được nhiều mặt hàng mới như Polo Shirt,
T-Shirt, quần áo thể thao. Tuy nhiên, công nghệ dệt các loại vải trang trí, vải bọc đệm, đồ lót nữ
cao cấp... chưa được quan tâm đầu tư đầy đủ.
+ Ngành may [26, tr.5]:
Từ năm 1990 đến nay, ngành may được đầu tư mới, đổi mới thiết bị khá mạnh. Các xí
nghiệp may do Trung Ương quản lý và một số nhà máy địa phương đến nay đã thay thế 100%
bằng thiết bị của Nhật, CHLB Đức, Hàn quốc, Đài loan... nhiều thiết bị chuyên dùng được sử
dụng: máy may trang thiết bị điện tử tự động dừng kim lại mũi, tự động cắt chỉ, các máy chuyên
dùng cho các đường may 2 kim, 4 kim, máy vừa may vừa vắt sổ, máy thùa bằng, thùa tròn, đính
hệ là hơi tự động, hệ giặt mài đá, các thiết bị thêu tự động 12- 20 đầu thêu, máy may tự động
một số chi tiết (may cổ, bác tay)... bước đầu sử dụng Computer trong thiết kế, giác sơ đồ may,
thay thế lao động thủ công. Những doanh nghiệp đi đầu trong quá trình đổi mới, đầu tư công
nghệ phải kể đến là May 10, Việt Tiến, Nhà Bè... Tuy vậy, khả năng tự động hoá trong quá trình
sản xuất vẫn chỉ đạt mức trung bình. Công nghệ phục vụ, các công đoạn phụ trợ (ví dụ như khâu
giặt...) còn nhiều bất cập.
- Những vấn đề trong thiết kế mẫu mã
Hiện nay ở nước ta, các trường đào tạo về thiết kế không ít như trường ĐH Mỹ Thuật
Công nghiệp, ĐH Bách Khoa, Viện ĐH Mở, trường Cao Đẳng Nghệ Thuật Hà nội... Mặc dù
những sinh viên tốt nghiệp từ các trường này, tuy được đào tạo rất tốt về chuyên môn nhưng ít
có thực tế, do đó, khoảng cách giữa thời trang sàn diễn đến thời trang ứng dụng là khá lớn. Bên
cạnh đó, sự thiếu vắng thông tin đã dẫn đến việc thời trang Việt nam thiếu tính hội nhập với xu
thế thế giới.
Tại các công ty may xuất khẩu, khâu yếu nhất chính là thiết kế. Trong khi chúng ta có một
đội ngũ các nhà thiết kế trẻ tuổi được phát hiện hàng năm từ các cuộc thi thiết kế thời trang
trong nước như Việt Nam Collection Grand Prix do Tạp chí Mốt tổ chức hay cuộc thi Thiết kế
Mẫu thời trang do tạp chí Thời trang Trẻ tiến hành... thì các công ty may mặc dường như vẫn
thờ ơ với các hoạt động chuyên nghiệp này. Nhà sản xuất ngày càng đầu tư cho chất liệu, kỹ
thuật cắt may, nâng cao chất lượng sản phẩm, nhưng mẫu mã vẫn chưa hề có dấu ấn của
những nhà thiết kế. Trong khi đó, kiểu dáng mẫu mã quyết định 50% đến việc mua hay không
mua của khách hàng. Và dĩ nhiên, khi các công ty may mặc vẫn chưa nắm được cơ hội khám
phá và sử dụng các nhà thiết kế trong việc tạo mẫu hàng may sẵn thì ngành công nghiệp may
mặc Việt Nam chỉ có thể có những “nhà may”và những đơn đặt hàng gia công theo mẫu nước
ngoài. Rất lâu nữa chúng ta mới có các đơn đặt hàng có thiết kế riêng.
Mới nhìn qua như vậy có thể nhận thấy năng lực sản xuất của các doanh nghiệp Dệt May
Việt Nam hiện nay còn thấp. Để nâng cao tính cạnh tranh lâu dài trên thị trường, các doanh
nghiệp cần phải tăng năng suất khoảng 50%. Các doanh nghiệp, nhà kinh doanh nước ngoài khi
nhập hàng đều nhập với số lượng lớn, vì thế với năng lực sản xuất như hiện này, các doanh
nghiệp Dệt may Việt nam khó có thể đáp ứng được
Về trách nhiệm xã hội:
Vấn đề trách nhiệm xã hội được các doanh nghiệp dệt may Việt Nam tiếp cận sớm và sâu
rộng hơn các doanh nghiệp sản xuất giày dép. Nguyên nhân ở chỗ nhiều doanh nghiệp dệt may
xuất khẩu đã phản ánh lên Tổng công ty Dệt may việt Nam rằng “trước khi ký kết hợp đồng, một
số đối tác nước ngoài đã đến kiểm tra trực tiếp điều kiện, môi trường làm việc, lượng công
nhân... của công ty họ. Không ít đối tác yêu cầu họ phải có chứng chỉ SA 8000” [18]. Do đó lãnh
đạo Tổng công ty Dệt may Việt Nam ngay từ đầu năm 2002 đã yêu cầu 51 doanh nghiệp thành
viên nghiên cứu, xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn này. Hướng phấn đấu của ngành dệt may là
đến hết 2003, ít nhất tất cả các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu sẽ có chứng chỉ này.
Tuy nhiên tính cho đến nay, cả nước có 12 cơ sở may (của 12 công ty) và 5 cơ sở dệt
(thuộc 3 công ty) có chứng chỉ SA 8000, trong tổng số 23 cơ sở sản xuất của Việt Nam có chứng
chỉ này [17]. Như vậy là chỉ tiêu phấn đấu của Tổng công ty Dệt may vẫn chưa đạt được. Song,
đây cũng không phải là một điều đáng buồn vì ngay cả ở các nước trong khối EU, chứng chỉ này
cũng chưa được phổ biến. Chỉ có 3 cơ sở may trên toàn EU có chứng chỉ SA 8000, con số này
đối với ngành dệt cũng chỉ là 4 [17]. Hơn nữa, khi quyết định làm ăn với doanh nghiệp nào, đối tác
EU sẽ trực tiếp sang kiểm tra điều kiện nhà xưởng và lao động chứ không chỉ dựa vào chứng chỉ
mà doanh nghiệp được cấp. Theo nhận định của Bộ lao động và thương binh xã hội, chưa có
trường hợp nào đơn hàng xuất khẩu dệt may bị huỷ bỏ vì điều kiện lao động chưa đáp ứng tiêu
chuẩn của khách hàng nước ngoài. Như vậy, có thể nói rằng tiêu chuẩn trách nhiệm xã hội hiện
chưa gây ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
3. Hàng nông sản
1.11 Tình hình xuất khẩu nông sản sang EU từ 1995-nay
Nông sản là nhóm hàng xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, đồng thời cũng là nhóm hàng
xuất khẩu chủ yếu sang thị trường EU. Theo số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Việt Nam,
kim ngạch xuất khẩu nông sản sang thị trường EU tăng lên hàng năm trong thời kỳ 1996 - 1998,
nhưng kể từ năm 1999 bắt đầu giảm sút, ngày càng giảm sút mạnh, năm 2002 còn thấp hơn cả
năm 1996.
Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang thị trường EU còn được
thể hiện ở chỗ tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt nam cũng tăng
trong thời kỳ 1996- 1998 và giảm trong thời kỳ 1999- 2002. Đồng thời, nhu cầu nhập khẩu nông
sản của EU vẫn tiếp tục tăng trong khi tỷ trọng nhập khẩu nông sản từ Việt Nam lại ngày càng
giảm (bảng 10).
Bảng 10: Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang EU từ 1996- 2002Đơn vị: Triệu USD
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(1) Kim ngạch XK nông sản của VN sang EU 191,1 341,7 431,7 417,0 379,7 319,5 162,0
Tốc độ tăng trưởng của (1) (%) - 78,81 26,34 -3,41 -8,94 - 15,85 - 49,30
(2) Tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của VN 2159,6 2231,4 2274,3 2545,9 2563,3 2186,6 2119,6*
(3) Tổng kim ngạch nhập khẩu nông sản của EU (**)
251987 256796 257825 249869 241790 247918 259378
Tỷ trọng (1)/(2) (%) 8,84 15,31 18,98 16,37 14,81 14,61 7,64
Tỷ trọng (1)/(3) (%) 0,07 0,13 0,16 0,16 0,15 0,12 0,06
(Nguồn: Tổng cục thống kê; (*) Số liệu của Tổng cục Hải quan; (**) Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Hà Nội)
Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang EU chủ yếu là cà phê, chè, hạt tiêu, gạo,
đường, cao su và một số mặt hàng khác, trong đó nhóm hàng cà phê, chè, gia vị chiếm tuyệt đại
bộ phận. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản sang EU, tỷ trọng bình quân hàng năm của
nhóm hàng này là 78,90% [16, tr.46]. Tuy những năm gần đây tỷ trọng này có giảm nhưng không có
nghĩa là EU giảm nhập khẩu cà phê của ta mà thực chất do giá cà phê xuất khẩu của ta liên tục
giảm mạnh, còn khối lượng cà phê xuất sang EU vẫn tăng, thậm chí tăng nhanh. Đến nay, Việt
Nam hầu như chưa xuất khẩu được thực phẩm chế biến sang EU, mới chỉ xuất được sang Đông
Âu. Thịt gia súc, gia cầm cũng không xuất khẩu được vì EU là thị trường khó tính và gần như
khắt khe nhất thế giới về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) và môi
trường.
Sự sụt giảm kim ngạch xuất khẩu trong những năm vừa qua xuất phát từ nhiều nguyên
nhân, trong đó có rào cản kỹ thuật ngày càng cao mà các nước EU đặt ra. Thịt lợn xuất khẩu
của Việt Nam rất có triển vọng thâm nhập thị trường châu ÂU nhưng không thể vào được EU do
không đáp ứng quy định môi trường và VSATTP. Các mặt hàng nông sản khác cũng khó vượt
qua những quy định này. Một số doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam khi giao hàng đã không
đúng như cam kết trong hợp đồng về chất lượng hàng và thời gian làm cho uy tín của cộng đồng
Việt Nam bị giảm sút, ảnh hưởng tới các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc. Đồng thời chất lượng
hàng lại chưa cao, nguồn cung cấp không ổn định...
1.12 Khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về chất lượng và môi trường
Dưới tác động của các yêu cầu về chất lượng và môi trường của EU, nhiều mặt hàng nông
sản của Việt Nam lẽ ra rất có tiềm năng xuất khẩu lại không vào được thị trường này:
Thứ nhất, thực phẩm chế biến là nhóm hàng mang lại kim ngạch xuất khẩu đáng kể cho
Việt Nam nhưng lại không xuất được sang EU vì phải tuân thủ những quy định rất chặt chẽ về
VSATTP và môi trường. Rào cản khó vượt qua nhất hiện nay đối với hàng thực phẩm là Quy
định kiểm tra thú y. Bên cạnh đó, quy định bao bì và phế thải bao bì, nhãn hiệu cho thực phẩm
có nguồn gốc hữu cơ, hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa có trong rau quả, thực phẩm cũng là
những yêu cầu khó thực hiện đối với ngành hàng này.
Thứ hai, thịt gia súc, gia cầm đông lạnh của Việt nam cũng không thể xuất khẩu được vào
thị trường EU, mặc dù hiện nay chất lượng đã được nâng lên. Lý do chính vẫn là không đáp ứng
được quy định về VSATTP và môi trường, hơn nữa chúng ta vẫn chưa ký Hiệp định Thú ý với
EU. Quy định kiểm tra thú y đối với thịt gia súc, gia cầm và thuỷ sản nêu rõ: cấm sử dụng chất
kích thích và kháng sinh bị cấm trong chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong khi đó ở Việt Nam, từ
năm 2000 bà con nông dân sử dụng khá phổ biến các chất kháng sinh bị EU cấm trong chăn
nuôi gia súc, gia cầm và thuỷ sản.
Thứ ba, các loại quả nhiệt đới và hạt có dầu của Việt Nam như thanh long, xoài, hạt điều,
lạc... rất được thị trường EU ưa chuộng nhưng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này lại rất
nhỏ. Lý do là sản xuất nông nghiệp của ta sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá liều lượng và
không đúng kỹ thuật đã gây tác động xấu đến môi trường (diệt sinh vật có lợi, giảm đa dạng sinh
học...) đồng thời để lại dư lượng các chất độc hại trong sản phẩm.
Ngay cả với những mặt hàng đã và đang xuất khẩu được sang EU, vấn đề đảm bảo chất
lượng và không gây ô nhiễm môi trường vẫn còn rất nan giải. Thực tế là:
- Để thực hiện sản xuất thâm canh tăng vụ, bà con nông dân sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật quá liều lượng (1,34kg/ha diện tích gieo trồng trong cả nước năm 2002), sử dụng tập trung ở
một số vùng thâm canh cao như Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và không
đúng kỹ thuật canh tác [16, tr.65].
- Hàng năm lượng phân bón sử dụng trong cả nước khoảng 5 triệu tấn phân vô cơ, trong
đó hơn 3 triệu tấn là nhập khẩu. Quá trình cung ứng và sử dụng phân bón có thể thường xuyên
phát tán ra môi trường xung quanh các chất độc như: SO2, SO3, H2SO4, F, CO, H2S, NH3. ở Việt
Nam, 1 ha gieo trồng bình quân sử dụng 80- 90 kg phân vô cơ. Sử dụng phân vô cơ không theo
đúng chỉ dẫn khoa học và phân hữu cơ không qua chế biến là tình trạng phổ biến, trở thành
nguồn gây ô nhiễm môi trường đáng kể [16, tr.65].
- Cà phê nước ta hiện được chế biến theo hai phương pháp ướt và khô. Chế biến theo
phương pháp khô (chiếm trên 90% sản lượng cà phê) hầu như ít tác động xấu đến môi trường.
Chế biến theo phương pháp ướt (chỉ chiếm khoảng 10% sản lượng) nhưng lại gây tác động xấu
đến môi trường vì hiện nay hầu hết các cơ sở chế biến cà phê theo phương pháp ướt có năng
suất thấp, chưa hoặc chưa có điều kiện để xử lý nước thải.
- Ngành chế biến cao su gây nhiều ô nhiễm đến môi trường bởi các tác nhân và phụ gia
hoá chất được sử dụng trong quá trình chế biến. Hiện tại tất cả các cơ sở chế biến cao su công
nghiệp đều đã trang bị hệ thống xử lý chất thải và nhìn chung đang hoạt động có hiệu quả. Tuy
nhiên, các cơ sở chế biến nhỏ vẫn chưa quan tâm xử lý môi trường.
- Ngành chế biến rau quả và chế biến tinh bột đều có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
cao. Ngay cả các cơ sở chế biến lớn, quốc doanh hoặc liên doanh, có cơ sở thiết bị lạc hậu, có
cơ sở đầu tư mới hệ thống xử lý môi trường song chưa triệt để và hiệu quả.
Ngoài ra, các quy định của EU về bao bì và phế thải bao bì, hoặc dán nhãn sinh thái... vẫn
còn là những khái niệm mơ hồ đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản. Rất ít doanh
nghiệp có được thông tin về quy định bao bì và phế thải bao bì của EU, mà từ trước đến này đa
phần doanh nghiệp đóng gói và sử dụng bao bì theo tập quán hoặc theo yêu cầu của đối tác
nhập khẩu chứ không nắm được chính xác quy định đó bao gồm những cái gì. Tiêu chuẩn về
dán nhãn sinh thái cũng ít được các nhà sản xuất quan tâm vì đây còn là một hình thức hết sức
mới mẻ.
Việc áp dụng hệ thống HACCP hoặc hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 cũng rất hạn
chế. Đặc biệt là HACCP (tiêu chuẩn được các nước EU hết sức chú trọng), số doanh nghiệp sản
xuất hàng nông sản và chế biến thực phẩm xuất khẩu áp dụng hệ thống này còn ít, ít hơn nhiều
so với ngành thuỷ sản.
4. Hàng thuỷ sản
1.13 Tình hình xuất khẩu thuỷ sản sang EU từ 1995-nay
EU là một trong những thị trường xuất khẩu thuỷ sản quan trọng của Việt nam trong những
năm gần đây (cùng với Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc...) Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu tăng
trưởng chậm (2,73%/năm) và tăng giảm thất thường (bảng 11)
Bảng 11: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang EU từ 1996-2002Đơn vị: Triệu USD
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
(1) Kim ngạch XK thuỷ sản của VN sang EU
(**)36,1 71,3 98,2 83,1 94,7 112,3 42,4
Tốc độ tăng trưởng của (1) (%) - 97,51 37,73 -15,38 13,96 18,59 - 62,24
(2) Tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản
của VN696,5 782,0 858,0 973,6 1478,5 1777,6 2022,8*
(3) Tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản
14251,7 14613,7 16784,6 16340,3 15681,5 15591,1 15798,2
của EU (**)
Tỷ trọng (1)/(2) (%) 5,18 9,11 11,44 8,53 6,40 6,32 2,09
Tỷ trọng (1)/(3) (%) 0,25 0,48 0,58 0,50 0,60 0,72 0,26
(Nguồn: Tổng cục thống kê; (*) Số liệu của Tổng cục Hải quan; (**) Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Hà Nội)
Như vậy, căn cứ vào mức độ tăng trưởng, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam
sang thị trường EU giai đoạn 1996- 2002 được chia làm 2 thời kỳ: (1) 1996- 2001, kim ngạch
tăng trưởng khá mạnh (25,49%/năm); (2) năm 2002 kim ngạch sụt giảm mạnh (giảm 62,24% so
với năm 2001).
Sự biến động thất thường nói trên còn biểu hiện ở chỗ tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sang của
Việt Nam sang EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam và như tỷ trọng xuất
khẩu thuỷ sản sang EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của EU cũng diễn biến thất
thường (bảng 11). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là:
Thứ nhất, hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã mở ra cơ hội thuận lợi cho hàng xuất khẩu của
Việt Nam, đặc biệt là thuỷ sản.
Thứ hai, các quy định ngặt nghèo về VSATTP và môi trường của EU đang là rào cản khó
vượt qua đối với thuỷ sản Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường EU, đặc biệt là quy định kiểm
tra thú y. Chính quy định này đã làm cho các doanh nghiệp điêu đứng trong thời kỳ 2001- 2002,
khi mà 72 lô hàng thuỷ sản của ta vi phạm quy định trên, có dư lượng kháng sinh bị cấm quá
mức cho phép và đã bị EU tiêu huỷ, trả lại hàng.
Ngoài ra, còn có các nguyên nhân khác như nguồn nguyên liệu không ổn định và chưa
đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng; giá thuỷ sản nguyên liệu trong nước còn khá cao so với các đối
thủ cạnh tranh như Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc nên kém khả năng cạnh tranh; thiếu kinh
nghiệm trong kinh doanh nên nhiều doanh nghiệp vi phạm hợp đồng.
Các mặt hàng thuỷ sản chính Việt Nam xuất khẩu sang EU phải kể đến tôm đông lạnh, cá
đông lạnh và nhuyễn thể, ngoài ra còn một số mặt hàng thủy sản khác (cua, ghẹ, cá rô đồng...).
Tôm đông lạnh chiếm tỷ trọng lớn nhất (khoảng 60%). 3 mặt hàng tôm đông lạnh, cá đông lạnh
và nhuyễn thể thường chiếm trên 80% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị
trường này [21].
Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang EU chỉ tập trung chủ yếu vào một số thị trường thành
viên. Tỷ trọng các thị trường thành viên trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang EU năm 2002
như sau: Bỉ (18,6%), Đức (16,97%), Pháp (16,52%), Italia (14,65%), Hà Lan (9,99%), và 9 thị
trường còn lại chỉ chiếm 7,27% [29].
1.14 Khả năng đáp ứng các yêu cầu của EU về chất lượng và môi trường
Theo quy định kiểm tra thú y, muốn xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU, các doanh
nghiệp Việt Nam phải tuân thủ các yêu cầu đề ra trong quy định: nuôi trồng thuỷ sản không được
sử dụng các chất kháng sinh bị cấm; khai thác hải sản không được sử dụng đá có chất CAP để
bảo quản sản phẩm; vận chuyển thuỷ sản pải có thiết bị để thay nước; chế biến thuỷ sản phải có
hệ thống xử lý chát thải.... Trong thực tế, các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam chưa thực hiện
được các yêu cầu của EU. Cụ thể, nuôi trồng sử dụng quá nhiều kháng sinh bị cấm; đánh bắt
hải sản dùng đá có quá nhiều CAP để làm tươi sản phẩm; vận chuyển, nhiều trường hợp có
thiết bị thay nước nhưng không đáp ứng yêu cầu, một số trường hợp không có; chế biến tính
đến 31/12/2002 cả nước chỉ có 152/364 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đông lạnh có điều kiện
sản xuất tốt [30]. Chính vì những lý do này mà 72 lô hàng thuỷ sản Việt Nam đã bị EU tiêu huỷ và
trả lại, dẫn đến tình trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường này năm 2002 giảm
sút mạnh.
Sự việc cụ thể là tháng 9/2001, EU bắt đầu kiểm tra việc tuân thủ Quy định kiểm tra thú y
của hàng thuỷ sản Việt Nam và phát hiện ra hàng của ta vi phạm quy định. EU đã đưa ra cảnh
báo và tuyên bố tiêu huỷ các lô hàng thuỷ sản vi phạm Quy định. Từ tháng 9/2001- 12/2001, qua
kiểm tra EU đã phát hiện ra 23 lô hàng thuỷ sản của Việt Nam vi phạm. Tháng 1/2002- 12/2002,
EU lại phát hiện thêm 49 lô. Kể từ 1/2003- 7/2003, EU chỉ phát hiện thêm 4 lô hàng bị vi phạm.
Như vậy, tổng cộng EU đã phát hiện ra 76 lô hàng thuỷ sản của ta vi phạm quy định kiểm tra thú
y trong vòng 2 năm. 76 lô hàng vi phạm quy định này đều chứa dư lượng kháng sinh bị cấm quá
mức cho phép. Trong 76 lô, chỉ có 9 lô chứa FRZ, 8 lô chứa NF (NF bao gồm FRZ), 59 lô còn lại
chứa CAP. Năm 2001 và 2003 hàng thuỷ sản Việt Nam chỉ bị nhiễm CAP, nhưng năm 2002 bị
nhiễm cả CAP, NF và FRZ [16, tr.57].
Sau sự việc trên, điều đáng mừng là các Bộ, các ngành liên quan đã kịp thời đưa ra các
biện pháp quản lý chặt chẽ thông qua các chỉ thị, quyết định... nhằm lấy lại niềm tin trong đối tác
EU. Vì thế mà EU chưa đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước thuộc nhóm I (là những nước
được áp dụng chế độ kiểm tra thông thường) mà cấm một số doanh nghiệp được xuất khẩu vào
EU. Cho đến nay, các doanh nghiệp bị cấm xuất khẩu cũng đã 100% được xuất khẩu lại vào EU,
đưa con số doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang EU lên 100 doanh nghiệp. Phải nói đây là
một nỗ lực rất lớn của Bộ Thuỷ sản nói riêng cũng như các cơ quan liên quan khác.
Trong các quy định về VSATTP và môi trường thì quy định kiểm tra thú y vừa trình bày là
quy định khó vượt qua nhất đối với hàng thuỷ sản Việt Nam khi xâm nhập vào thị trường EU,
cũng là quy định tác động mạnh mẽ nhất tới hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của ta sang thị trường
này. Quy định này đã gây cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam một phen chao
đảo. Những quy định còn lại như hệ thống HACCP, bao bì và phế thải bao bì, hàm lượng chất
phụ gia trong thực phẩm, hàm lượng thuốc trừ sâu tối đa trong rau quả, tiêu chuẩn quản lý môi
trường... hầu như không tác động tới xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Nguyên nhân là việc áp
dụng hệ thống HACCP trong các doanh nghiệp thuỷ sản được triển khai khá mạnh mẽ (mạnh
mẽ nhất trong các ngành, nhờ có chủ trương của Bộ Thuỷ sản) nên nhiều doanh nghiệp chế
biến thuỷ sản xuất khẩu đã có xây dựng được hệ thống này. (chi tiết tại Chương II, mục I.2.2.2).
Chúng ta lại chủ yếu xuất khẩu thuỷ sản đông lạnh nên chưa sử dụng gì nhiều đến chất phụ gia.
Bao gói sản phẩm khá đớn giản (túi PE, thùng carton...) theo yêu cầu của Trung tâm Kiểm tra
chất lượng và vệ sinh thuỷ sản nên không bị vi phạm quy định bao bì và phế thải bao bì. Đồng
thời, kể từ khi bị cấm sử dụng kháng sinh, hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, người nuôi mới
bắt đầu chuyển sang nuôi thuỷ sản sạch, do vậy chưa thể dán nhãn hiệu cho thuỷ sản có nguồn
gốc hữu cơ.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đáp ứng các quy định/tiêu chuẩn của eu về chất lượng, môi trường & xã hội
VI. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU
1. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam sang EU giai đoạn 2001- 2010
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế, trong thời gian tới công tác xuất nhập khẩu đóng
một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển xuất
nhập khẩu thời kỳ 2001-2010”. Đây là điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang
thị trường EU.
Về xuất khẩu hàng hóa:
- Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm, trong đó thời kỳ
2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm. Giá trị xuất khẩu tăng từ khoảng
13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4
lần năm 2000.
- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu
sau: (1) Trước mắt huy động mọi nguồn lực hiện có để có thể đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn
việc làm, thu ngoại tệ; (2) Đồng thời cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế
tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia
tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần
tỷ trọng hàng thô; (3) Mặt hàng, chất lượng và mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Cơ cấu thị trường xuất khẩu: tiếp tục củng cố và tăng cường chỗ đứng tại các thị trường
đã có, tới năm 2010 tỷ trọng các thị trường xuất khẩu được dự kiến như sau: Châu á (46-50%),
trong đó Nhật Bản (17-18%), ASEAN (15-16%), v.v... ; Châu Âu (27-30%), trong đó EU (25-27%)
SNG và Đông Âu (3-5%); Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ) là 15-20%; úc và Newzealand là 5-7%; và các
khu vực khác (2-3%). Tại Tây Âu, trọng tâm sẽ là EU mà chủ yếu là các thị trường lớn như Đức,
Anh, Pháp và Italia
Căn cứ vào mục tiêu xuất khẩu trong Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-
2010 (đã trình bày tóm tắt ở trên), đối với thị trường EU - thị trường mà Chiến lược đã xác định
là rất quan trọng (hơn cả thị trường ASEAN, Nhật Bản và Bắc Mỹ), để khẳng định được vai trò
của thị trường này đối với xuất khẩu của Việt Nam trong 10 năm tới, hay nói cách khác là muốn
đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này giai đoạn 2001-2010, trước hết cần phải định hướng
đúng mặt hàng xuất khẩu và từng thị trường xuất khẩu cụ thể trong khối EU trong giai đoạn này.
1.15 Định hướng phát triển mặt hàng xuất khẩu vào thị trường EU
Đối với cơ cấu hàng xuất khẩu của một quốc gia, việc duy trì những mặt hàng xuất khẩu
chủ lực là cần thiết. Song, việc mở rộng cơ cấu hàng xuất khẩu rất quan trọng vì nó đánh dấu sự
phát triển của một nền kinh tế, đặc biệt đối với Việt Nam vì bấy lâu nay cơ cấu xuất khẩu chủ
yếu là hàng nông sản và một số hàng công nghiệp nhẹ. Vì thế, để mở rộng và nâng cao hiệu
quả xuất khẩu của Việt Nam sang EU, chúng ta phải mở rộng và củng cố thị phần của các mặt
hàng hiện có, đồng thời mở rộng danh mục mặt hàng.
Cụ thể với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực:
Giày dép và sản phẩm da: 80% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm da giày của Việt Nam sang
EU là làm gia công cho nước ngoài nên hiệu quả kinh tế rất thấp. Để khắc phục tình trạng này
cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Từng bước chuyển dần sang phương thức bán
trực tiếp để thu được hiệu quả cao hơn và ổn định hơn; (2) Chú trọng đầu tư phát triển sản xuất
các loại nguyên phụ liệu cho ngành da giày để vừa nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang EU, vừa
đảm bảo chủ động trong sản xuất, chào hàng và thiết kế mẫu mã; (3) Cần có ưu đãi cho đầu tư
mở rộng và tạo cơ chế thông thoáng trong việc cho vay đầu tư.
Hàng dệt may: Cũng như giày dép, phần lớn khối lượng hàng dệt may của Việt Nam xuất
sang EU là làm gia công cho nước ngoài, khả năng xuất khẩu trực tiếp rất khó khăn. Để duy trì
chỗ đứng hiện có và mở ra triển vọng phát triển trên thị trường EU, Nhà nước cần phải thực hiện
một số biện pháp sau: (1) Đổi mới phương thức quản lý hạn ngạch, điều chỉnh lại cơ chế phân
bổ hạn ngạch để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn nữa nguyên liệu sản xuất trong
nước; (2) Xác lập chế độ thuế hợp lý để thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ
trợ, đặc biệt là ngành dệt; (3) Tập trung nỗ lực để đàm phán với EU tăng thêm hạn ngạch; (4) Hỗ
trợ các doanh nghiệp trong việc khảo sát, tìm hiểu và thâm nhập thị trường EU; (5) Hợp lý hoá
công tác cấp C/O: thực hiện chế độ một cửa, giảm chi phí hành chính cho doanh nghiệp và tăng
cường công tác chống gian lận thương mại theo yêu cầu của EU. Về phía các doanh nghiệp,
cần nghiên cứu biện pháp chuyển dần sang phương thức bán trực tiếp và phải có những nỗ lực
cần thiết để nâng cao và ổn định chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, lưu ý hơn đến các
quy định về an toàn sức khoẻ và môi trường của EU.
Thủy hải sản: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản sang EU không ổn định và còn cách
xa tiềm năng xuất khẩu của ta. Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu chưa ổn định, hàng thủy
hải sản chưa đáp ứng tốt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm của EU, và còn bị sức ép
cạnh tranh rất mạnh từ phía Thái Lan. Cần có các biện pháp khắc phục như: (1) Xây dựng
chương trình phát triển nguồn nguyên liệu ổn định, tăng nhanh tỷ trọng của nguyên liệu nuôi; (2)
Chú trọng đầu tư để tăng cường năng lực chế biến và cải thiện điều kiện sản xuất, đảm bảo an
toàn vệ sinh thực phẩm (nâng cấp điều kiện sản xuất và thực hiện quản lý chất lượng theo tiêu
chuẩn HACCP để tăng thêm số lượng nhà máy chế biến đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào EU); (3)
Cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu để thu hút vốn, nâng cao hiệu quả
đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng động trong việc đa dạng hoá sản
phẩm và tìm hiểu thị trường tiêu thụ;
Nông sản: hiện nay xuất khẩu nhóm hàng này vào thị trường EU đang có xu hướng
chững lại. Nguyên nhân là do chất lượng hàng và nguồn cung cấp chưa ổn định. Phần lớn xuất
khẩu qua trung gian nên hiệu quả thấp. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhóm
hàng này sang EU, ta cần phải phát triển những vùng trồng chuyên canh để đảm bảo nguồn
nguyên liệu lớn, ổn định và chú trọng đầu tư công nghệ sau thu hoạch để nâng cao chất lượng
và giá trị gia tăng của sản phẩm. Đặc biệt, các doanh nghiệp nên cố gắng đưa thực phẩm chế
biến vào EU bằng cách chú trọng công tác nghiên cứu nắm bắt thị hiếu tiêu dùng của thị trường,
đầu tư vốn, công nghệ vào sản xuất để tạo ra những sản phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng và
thoả mãn các tiêu chuẩn vể thực phẩm của EU. Nên đầu tư sản xuất mặt hàng này cung cấp
cho thị trường EU theo hai hướng: (1) Sản phẩm phục vụ cộng đồng người Việt Nam sống ở
EU, như mì ăn liền, dầu thực vật, gia vị, nước chấm,v.v...; (2) Sản phẩm phục vụ người dân EU.
Ngoài ra, các nhóm hàng khác như hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ gia dụng, máy móc
thiết bị điện tử.... cũng cần chú trọng phát triển vì đây là những mặt hàng mà thị trường EU có
nhu cầu khá lớn. Như vậy mới có thể đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu của Việt Nam
sang EU, đồng thời góp phần thực hiện mục tiêu “Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp vào
năm 2020”.
1.16 Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối EU
Hiện tại, thị trường chung Châu Âu gồm 15 quốc gia, tuy có nhiều điểm tương đồng về
kinh tế và văn hoá, nhưng mỗi quốc gia vẫn có những nét đặc thù riêng về thị hiếu tiêu dùng.
Muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào EU trong những năm tới thì ngay bây giờ cần phải có định hướng
phát triển của từng thị trường xuất khẩu. Đối với một số thị trường chính, định hướng như sau:
Thị trường Đức: là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong EU. Các mặt hàng
truyền thống bao gồm: giày dép; hàng may mặc (trừ len); cà phê; chè, các sản phẩm bằng da,
đồ gốm, sứ, cao su và các sản phẩm từ cao su; các sản phẩm mây tre đan; đồ gỗ gia dụng; thủy
hải sản... Đặc biệt, hai năm trở lại đây Đức có nhu cầu nhập khẩu rất lớn về giày dép và dụng cụ
thể thao từ Việt Nam. Thị trường Anh: là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam trong EU. Hiện tại, các
mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như: giày dép; hàng dệt may; đồ gốm sứ; xe có động cơ
không thuộc loại xe điện hoặc xe lu; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ; sợi dệt; các
sản phẩm bằng da thuộc; thủy hải sản; ngọc trai thiên nhiên, đá quý..v.v. đang được tiêu thụ
mạnh ở Anh. Bên cạnh đó, Anh cũng là một thị trường đầy triển vọng cho việc tiêu thụ các mặt
hàng tiêu dùng khác như: đồ gốm sứ, đồ chơi, đồ gỗ gia dụng, thực phẩm, rau quả và đồ hộp.
Thị trường Pháp: là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam trong EU. Người tiêu
dùng Pháp ưa chuộng các mặt hàng: đồ gỗ gia dụng, bột ngũ cốc và bột sữa; lụa, sợi dệt; hàng
dệt may; kính và đồ dùng thủy tinh; các sản phẩm bằng da thuộc... Từ năm 1998, Pháp có nhu
cầu rất lớn về gốm sứ, dụng cụ thể thao, nhiên liệu khoáng, cà phê, sản phẩm da thuộc, giày
dép và đồ gỗ gia dụng Việt Nam.
Thị trường Hà Lan: là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam trong khối với những
sản phẩm như: hàng điện máy; thực phẩm chế biến; rau, quả và hạt đã qua chế biến; sợi dệt;
nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ nội thất... Đặc biệt mấy năm gần đây, Hà Lan có
nhu cầu rất lớn về các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; thực phẩm chế biến; đồ gỗ gia
dụng, các sản phẩm gốm của Việt Nam.
Các thị trường còn lại cũng cần phải phân tích cơ cấu để có những biện pháp đẩy mạnh
xuất khẩu hợp lý. Thêm vào đó, với kế hoạch mở rộng sang phía Đông của Liên minh châu Âu
(ngày 1/5/2004, EU sẽ chính thức kết nạp thêm 10 nước Trung và Đông Âu - gọi tắt là CEEC, trở
thành EU25), định hướng phát triển đối với các thị trường mới này ngay từ bây giờ là rất cần
thiết. Thuế suất của các mặt hàng cà phê, chè, gia vị ở dạng thô của EU15 rất thấp (0%), nhưng
thuế suất với CEEC là 10%. Như vậy, CEEC trở thành thành viên EU sẽ là thuận lợi lớn với các
doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm này của Việt Nam. Linh kiện điện tử và máy tính có rất nhiều
triển vọng bởi các nước CEEC có tiềm năng tiêu thụ lớn để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế
khi gia nhập vào EU.
2. Triển vọng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường EU
1.17 Những nhân tố tác động tới khả năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam
vào EU Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế:
Tác động tích cực của xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế
là tạo ra cơ hội lớn cho tất cả các nước, nhất là những nước đang phát triển đẩy mạnh công
nghiệp hoá trên cơ sở ứng dụng thành quả của cách mạng khoa học công nghệ và đẩy mạnh xuất
khẩu hàng hoá, tăng doanh thu ngoại tệ làm tiền đề phát triển kinh tế. Tuy nhiên bên cạnh những
tác động tích cực, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế cũng đặt ra
nhiều thách thức cho các nước này như: làm tăng sức ép cạnh tranh, dẫn tới sự lệ thuộc ngày
càng nhiều của các nước đang phát triển vào sự ổn định của nền kinh tế thế giới và dần dần rơi
vào tầm ảnh hưởng của các nước phát triển, cả về kinh tế và chính trị...
Chính vì vậy, xu thế này sẽ tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU nơi
thuế suất thấp và đỡ bị các hàng rào phi quan thuế ngăn cản, đồng thời hàng xuất khẩu của ta
sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường EU.
Sự phát triển của Diễn đàn Hợp tác Á - Âu (ASEM):
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu (ASEM) là cơ chế đối thoại và hợp tác cấp cao giữa Châu Âu và
Châu á, với sự tham dự của 10 nước Châu Á (là Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan,
Philippines, Bruney, Malaysia, Indonesia, Singapore, Việt Nam) và 15 nước thành viên của EU.
Diễn đàn Hợp tác Á-Âu đã được tổ chức 4 lần vào những năm 1996, 1998, 2000, 2002.
Trong Hội nghị ASEM II, III và IV, các nước EU đã đưa ra cam kết về thương mại và đầu
tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. Riêng về thương mại, các nước
EU đã cam kết nâng mức hạn ngạch cho hàng xuất khẩu của các nước ASEAN vào EU và
giảm các loại hàng chịu giới hạn quota. Do vậy có thể nói rằng sự phát triển của ASEM góp
phần không nhỏ làm tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU.
Phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và EU:
Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam-EU (1997-2000) đạt được kết quả sau:
EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam, là bạn hàng thương
mại lớn thứ hai, chiếm khoảng 14% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Cơ sở để phát triển
quan hệ hợp tác giữa hai bên là:
Thứ nhất, chính sách đổi mới cho đến nay đã cho phép Việt Nam thu được nhiều thành
quả trong các lĩnh vực kinh tế và ngoại giao. Tỷ lệ tăng trưởng và trao đổi thương mại đã tăng
lên, lạm phát đã giảm, đất nước đang hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế, xã hội phát triển
và đời sống nhân dân được nâng lên.
Thứ hai, với nhu cầu đòi hỏi từ quá trình phát triển kinh tế cao, EU rất cần những thị
trường đang phát triển và giàu tiềm năng như Việt Nam. Ngược lại, EU lại có tiềm lực rất mạnh
về vốn và công nghệ- cái mà Việt Nam đang rất cần để phát triển kinh tế.
Thứ ba, cơ cấu kinh tế của Việt Nam và các nước thành viên EU hoàn toàn bổ sung cho
nhau. Do vậy, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà EU có
nhu cầu nhập khẩu lớn và ngược lại.
Thứ tư, Việt Nam tự mình đang dần dần hoàn thiện cơ chế và chính sách quản lý kinh tế,
mở cửa thị trường nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước để hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Đây chính là cơ sở bền vững cho quá
trình đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và EU.
Trung Quốc gia nhập WTO và sức ép cạnh tranh:
Kể từ 9/5/2000, EU ký Hiệp định Thương mại song phương với Trung Quốc, hàng Trung
Quốc vào thị trường này được hưởng nhiều ưu đãi hơn là do EU giảm thuế từ 8%-10% cho
khoảng 100 mặt hàng xuất khẩu của Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc đã chính thức gia nhập
WTO vào tháng 12/2001 khiến cho sức ép cạnh tranh từ hàng hoá Trung Quốc lại càng thêm
khốc liệt. Tại thời điểm này, hàng Trung Quốc không những được hưởng ưu đãi hơn hàng của
ta về thuế mà khả năng cạnh tranh mạnh hơn (hàng đa dạng và phong phú về chủng loại, chất
lượng tốt, giá lại rẻ, nguồn cung cấp lớn và rất ổn định, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường EU.
Chiến lược mở rộng EU:
Kể từ ngày1/5/2004, 10 nước Hungary, Ba Lan, Czech, Slovakia, Slovenia, Cyprus,
Estonia, Latvia, Litva và quốc đảo Manta (gọi tắt là CEEC) sẽ chính thức trở thành thành viên
của Liên minh Châu Âu. Việc mở rộng này trước hết sẽ đem lại những thuận lợi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Nếu tính gộp cả 10 nước thành viên mới thì EU sẽ trở thành thị
trường thống nhất lớn nhất thế giới với sức mua của gần 500 triệu dân, GDP sẽ đạt hơn 10.000
tỷ USD, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cũng sẽ lên tới 1.800 tỷ USD/năm, chiếm
21,9% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trên toàn thế giới [31]. Tại thị trường này,
tầng lớp giàu nghèo đa dạng hơn nên nhu cầu tiêu dùng sẽ phong phú hơn. Ngoài việc hầu hết
các nước CEEC đều là bạn hàng truyền thống của Việt Nam thời bao cấp, có thể sử dụng như
một khu vực kết nối để tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, thì mức thuế nhập khẩu của
các nước CEEC sau khi gia nhập EU sẽ thấp hơn mức thuế hiện tại cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho các doanh nghiệp xuất khẩu của ta.
Song, bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều thách thức. Khi là thành viên chính thức của
EU, các nước CEEC buộc phải thực hiện theo cơ chế chính sách thương mại của EU nên
những hình thức buôn bán tiểu ngạch sẽ không thể tồn tại. Đồng thời, toàn bộ các cam kết song
phương giữa Việt Nam với những nước này sẽ bị huỷ bỏ có thể gây nhiều lúng túng cho những
DN Việt Nam bấy lâu nay chỉ quen quan hệ với khu vực này mà chưa có kinh nghiệm và hiểu
biết luật lệ của EU. Hàng hoá của Việt Nam vào Trung, Đông Âu trước không bị đòi hỏi quá cao
về chất lượng, không gặp các hàng rào phi thuế quan nghiêm ngặt như tiêu chuẩn an toàn vệ
sinh thực phẩm, các tiêu chuẩn môi trường, lao động... tới đây sẽ phải tuân thủ các tiêu chuẩn
thống nhất của EU. Một số loại hàng vào thị trường 10 nước CEEC trước đây không bị ấn định
hạn ngạch thì nay sẽ bị quản lý theo hạn ngạch như dệt may, hoặc áp dụng hạn ngạch thuế
quan cao như gạo, đường...
Chương trình mở rộng hàng hoá của EU:
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá với nội dung là đẩy mạnh tự do hoá
thương mại thông qua việc giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu, xoá bỏ chế
độ hạn ngạch vào cuối năm 2004 và tiến tới bãi bỏ GSP. Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt
giai đoạn 2 thực hiện GSP và tới nay EU vẫn chưa có chương trình cụ thể thực hiện GSP cho
giai đoạn sau, nhưng GSP của EU dành cho các nước đang phát triển có xu hướng giảm dần.
Do vậy, nếu các doanh nghiệp Việt Nam không có chính sách cụ thể để cải tiến, đa dạng
hoá, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và có chiến lược thâm nhập thị trường EU một cách
thấu đáo ngay từ bây giờ thì hàng xuất khẩu Việt Nam khó có thể đứng vững và có cơ hội xâm
nhập sâu hơn vào thị trường này.
Nền kinh tế Việt Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mở
cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới, trong đó chủ trương là thực hiện quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu.
Với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu, hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ được cải thiện về chất lượng và mẫu mã. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể cung cấp
ra thị trường thế giới một khối lượng lớn hàng hoá và tương đối ổn định. Quá trình này sẽ giúp
cho hàng Việt Nam khắc phục được những nhược điểm về chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng và
đáp ứng được nhu cầu thị hiếu khắt khe của thị trường EU, do đó làm tăng khả năng xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn tới.
Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế:
Hiện nay, Việt Nam đã tham gia vào các Diễn đàn Quốc tế như: Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn
Hợp tác Á-Âu (ASEM), và đang đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam sẽ làm tăng sự cạnh tranh, cọ sát giữa các
doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp ASEAN, APEC, ASEM, từ đó tạo cơ hội để các
doanh nghiệp nước ta vươn lên và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Đồng thời, những
lợi thế hiện có của Việt Nam do quá trình hội nhập quốc tế mang lại sẽ thúc đẩy các doanh
nghiệp của ta và các doanh nghiệp nước ngoài gia tăng mạnh đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng
xuất khẩu tại Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với năng lực sản xuất hàng xuất khẩu của Việt
Nam sẽ tăng mạnh và khả năng xuất khẩu là khá lớn.
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ:
Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại song phương với Mỹ vào ngày 14/7/2000. Hiệp định
này mở ra một chương mới trong quan hệ thương mại song phương và từ nay hàng xuất khẩu
của Việt Nam sang Mỹ sẽ được hưởng chế độ ưu đãi tối huệ quốc. Theo Hiệp định, thuế suất
đánh vào hàng hóa của Việt Nam nhập khẩu vào thị trường Mỹ sẽ giảm rất đáng kể, từ mức
40% hiện nay xuống còn 3% và do đó nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ chĩa mũi nhọn sang thị
trường Mỹ. Việc tập trung lực đẩy mạnh xuất khẩu sang EU khi đó bị phân tán, lực bị chia sẻ nên
có ảnh hưởng ít nhiều đến xuất khẩu sang EU.
1.18 Đánh giá triển vọng phát triển xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào
thị trường EU giai đoạn 2005 - 2010Từ nay đến năm 2004 (năm cuối cùng của giai đoạn 2000 - 2004), hàng xuất khẩu của Việt
Nam vào thị trường EU tiếp tục được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan (GSP) và chỉ riêng hàng
dệt may bị quản lý bằng hạn ngạch. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường này
hàng năm gần như phụ thuộc hoàn toàn vào hạn ngạch do phía EU ấn định. Tuy nhiên, theo
Hiệp định bổ sung hàng dệt may với EU được chính thức ký kết tại Hà Nội vào tháng 9/2003, EU
đã đồng ý tăng hạn ngạch dệt may cho Việt Nam từ 55% đối với các hạng mục nhạy cảm nhất
(như quần âu, áo sơ mi) đến 70% [32]. Ngoài ra, trong những tới đây, Việt Nam có khả năng tiếp
tục xin được hạn ngạch dệt may của Singapore và Indonesia trị giá 6%-10% hạn ngạch của Việt
Nam. Hiện nay, một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam vào EU như giày dép, dệt may và thủy
hải sản đang có ưu thế hơn so với các mặt hàng cùng loại của các nước ASEAN khác có trình
độ phát triển kinh tế cao hơn Việt Nam như Thái Lan, Indonesia,v.v... vì những mặt hàng của họ
đã bị loại khỏi danh sách được hưởng GSP. Thế nhưng nguy cơ đe dọa đối với hàng xuất khẩu
Việt Nam trên thị trường EU lúc này là cực kỳ lớn bởi đối thủ “nặng ký”nhất của ta lại là Trung
Quốc và sự quay trở lại của các nước ASEAN sau thời kỳ khủng hoảng. Tuy có lợi thế về thuế
quan để đẩy mạnh xuất khẩu vào EU, nhưng chúng ta lại đang ở vào tình trạng không mấy
thuận lợi trong cạnh tranh.
Đến cuối năm 2004, EU sẽ chấm dứt thực hiện giai đoạn 2 của chương trình ưu đãi thuế
quan phổ cập (GSP) và xoá bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của các nước là thành viên
WTO, còn đối với những nước không phải là thành viên WTO như Việt Nam thì chưa có chính
sách cụ thể. Cho đến nay, EU vẫn chưa đưa ra chương trình thực hiện GSP cho thời kỳ từ 2005
trở đi, nhưng họ đang tiến dần từng bước giảm thuế quan và giảm ưu đãi GSP. Tới một thời
điểm nhất định, hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển khi xâm nhập vào thị trường EU
sẽ không được hưởng GSP nữa và phải cạnh tranh bình đẳng với hàng của các nước phát triển,
chịu cùng một mức thuế như hàng của những nước này và không được hưởng các ưu đãi khác.
Như vậy, thời kỳ 2005 - 2010 có thể xảy ra hai trường hợp: (1) Việt Nam tiếp tục được
hưởng GSP và riêng hàng dệt may vẫn chịu sự quản lý bằng hạn ngạch của EU; (2) Hàng Việt
Nam không được hưởng GSP nữa và hàng dệt may cũng không bị quản lý bằng hạn ngạch. Nếu
xảy ra trường hợp (1) thì theo chương trình mở rộng hàng hoá của EU, ưu đãi thuế quan dành
cho các nước đang phát triển sẽ ngày càng giảm và tiến tới chấm dứt. Do đó, được hưởng GSP
hay không được hưởng GSP và hàng dệt may vẫn bị quản lý bằng hạn ngạch thì những năm
này cũng chẳng dễ dàng gì đối với xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU. Thời kỳ 2005-
2010, hàng xuất khẩu của Việt Nam khi thâm nhập vào EU sẽ gặp khó khăn hơn nhiều so với
thời kỳ 2000-2004. Nếu Việt Nam gia nhập WTO trong thời kỳ này thì hàng xuất khẩu của ta sẽ
thuận lợi hơn khi thâm nhập vào EU so với thời kỳ 2000-2004.
EU là thị trường lớn, sức tiêu thụ ổn định, lại hứa hẹn có những khởi sắc về kinh tế trong
thời kỳ 2004-2010 nên việc đẩy mạnh xuất khẩu vào EU đang là một trong những trọng điểm của
chính sách thị trường xuất khẩu của Việt Nam. Bên cạnh những nỗ lực của Chính phủ, các
ngành chủ đạo như da giày, dệt may và thủy sản đang có những chương trình cụ thể để phát
triển sản xuất và tăng cường xuất khẩu sang EU. Còn các doanh nghiệp là nhân tố có ý nghĩa
quyết định cho sự thành công của xuất khẩu cũng đang nỗ lực vươn lên để thâm nhập và đứng
vững trên thị trường EU (cải tiến sản xuất: đẩy mạnh việc áp dụng tiêu chuẩn HACCP, ISO
9000, ISO 14000 để nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các tiêu chuẩn về vệ sinh thực
phẩm và môi trường; phát huy tính năng động..v.v...). Giai đoạn 2004-2010 tuy không mấy thuận
lợi, nhưng với những cố gắng của Chính phủ và các doanh nghiệp, xuất khẩu của Việt Nam
sang EU sẽ vẫn trên đà phát triển, quy mô buôn bán không ngừng gia tăng, tuy nhiên tốc độ
tăng trưởng có thể sẽ giảm chút ít (tăng 30%/năm) so với thời kỳ 1995-2003 (tăng 36,6%/năm).
Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam-EU sẽ chuyển biến theo hướng tích cực: tăng nhanh tỷ trọng
hàng chế biến lên 90% (có nhiều mặt hàng xuất khẩu chế biến sâu và tinh) và giảm mạnh hàng
nguyên liệu thô xuống 10%. Trong nhóm hàng công nghệ phẩm, sẽ giảm mạnh tỷ lệ hàng gia
công và tăng tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp (mua nguyên liệu của nước ngoài về sản xuất và xuất
khẩu), và tăng tỷ lệ sản phẩm sản xuất bằng nguyên liệu nội địa.
Cụ thể với ba nhóm hàng xuất khẩu truyền thống: giày dép, dệt may và nông sản, kim
ngạch xuất khẩu sẽ tăng trưởng chậm lại. Riêng thủy hải sản sẽ có tốc độ tăng trưởng kim
ngạch cao hơn so với thời kỳ 1995-2003 vì mặt hàng này đang có cơ hội thuận lợi để xâm nhập
và chiếm lĩnh thị trường EU (Mới đây, EU đã công nhận 100 doanh nghiệp chế biến thủy hải sản
của ta đạt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh, được xuất khẩu sang EU). Trong nhóm hàng nông
sản xuất khẩu sang EU, hạt điều sẽ có tốc độ tăng trưởng cao vì vùng nguyên liệu đang được
phát triển mạnh; còn chè, cà phê và một số mặt hàng khác sẽ tăng trưởng chậm hơn so với
những năm trước. Hai mặt hàng giày dép và dệt may sẽ có tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp tăng lên và
tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm tăng nhanh.
Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường quốc tế thuận lợi, xu thế tự do
hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế và nỗ lực của Việt Nam, hoạt động xuất
khẩu hàng hoá của ta vào thị trường EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh
mẽ hơn trong những năm đầu thế kỷ mới. Quy mô xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này sẽ
được mở rộng tương xứng với tiềm lực kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Thị
trường EU có thể sẽ chiếm tỷ trọng 21%-25% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thời
kỳ 2004-2010.
VII.Những giải pháp chủ yếu nhằm đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU về chất
lượng, môi trường và xã hội
1. Giải pháp về phía Nhà nước
1.19 Tổ chức xây dựng và củng cố lại hệ thống tiêu chuẩn quốc gia
Đổi mới hệ thống tiêu chuẩn Việt Nam là một nhiệm vụ trọng tâm trong hội nhập với quốc
tế nhằm đẩy chất lượng hàng hoá trong nước lên mức ngang tầm với các nước khác. Trước hết
là việc loại bỏ các tiêu chuẩn Việt Nam đã quá lạc hậu hay không phù hợp với đối tượng của tiêu
chuẩn hoá theo yêu cầu mới. Mặc dù trong thời gian qua, đến 80% TCVN mới được ban hành là
hoàn toàn tương đương với tiêu chuẩn Quốc tế, nâng tỷ lệ TCVN được hài hoà từ 15% năm
1995 đến 24% năm 2003. Tuy nhiên con số này vẫn còn khiêm tốn nếu so sánh với mức độ hài
hoà tiêu chuẩn của các nước phát triển, đặc biệt là với Liên minh châu Âu.
Để thực hiện được mục tiêu này, Nhà nước cần tổ chức, xây dựng các ban Kỹ thuật, cấp
kinh phí đào tạo và hỗ trợ cho các nhà khoa học, các chuyên gia từ các Viện nghiên cứu, các
trường Đại học, các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp tiến hành triển khai những đề tài về
hài hoà tiêu chuẩn Việt Nam với tiêu chuẩn Quốc tế.
Bên cạnh công tác xây dựng và củng cố hệ thống TCVN, công tác phổ biến, khuyến khích
và quản lý việc áp dụng các tiêu chuẩn cũng không kém phần quan trọng. Nếu như hoạt động hô
hào kêu gọi sự hưởng ứng của các ngành, các doanh nghiệp không đem lại nhiều hiệu quả thì
nên sử dụng các biện pháp thiết thực hơn như: đẩy mạnh hoạt động trao giải thưởng chất lượng
cho các doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ, thẩm định chất lượng và áp dụng chế tài nghiêm ngặt
đối với các doanh nghiệp không đáp ứng các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc... Hoạt động kiểm
tra chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu cũng phải cải tiến (trước đây chỉ chú trọng kiểm tra chất
lượng hàng nhập khẩu) để đảm bảo ốn định và nâng cao uy tín của hàng Việt Nam trên trường
Quốc tế.
1.20 Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà
nước về chất lượng, môi trường và xã hộiQuản lý Nhà nước về chất lượng đã được thể chế hoá trong Pháp lệnh Chất lượng hàng
hoá được Quốc hội thông qua năm 1999 và có hiệu lực thi hành từ năm 2000. Năm 2000, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội cũng đã thông qua Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đồng
thời, tại những thời điểm thích hợp, Chính phủ cũng ban hành hàng loạt các Chỉ thị, Quyết định
nhằm khắc phục tình trạng vi phạm quy định về chất lượng của đối với hàng xuất khẩu của ta.
Sự ra đời của các văn bản pháp quy này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đổi mới công
tác quản lý chất lượng trên toàn quốc, từ đó có thể nâng cao ý thức của các doanh nghiệp xuất
khẩu để cung cấp các sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao. Tuy nhiên, việc đưa các quy định
này vào thực tiễn vẫn còn là một điều khó khăn, và thường là chỉ có tác dụng trong ngày một
ngày hai. Chính vì vậy mà tình trạng hàng hoá không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vẫn còn phổ biến.
Với tình thế như vậy, Nhà nước cần mạnh tay hơn nữa, ban hành các quy định về xử phạt các
doanh nghiệp vi phạm Pháp lệnh và các chỉ thị, quy định đã đặt ra; đồng thời xúc tiến công tác
tuyên truyền giáo dục ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức, doanh nghiệp.
Đối với công tác Bảo vệ môi trường, hệ thống Pháp luật về Bảo vệ môi trường của Việt
Nam còn chưa thật hoàn chỉnh nền không khuyến khích được doanh nghiệp thực hiện tốt công
tác này. Vì thế, Nhà nước cần:
+ Trong Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175-CP hướng dẫn thi hành Luật, cần có
nhiều quy định cụ thể hơn nữa về Bảo vệ môi trường đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp. Thực tế là những quy định chung trong Luật bảo vệ môi trường và Nghị định nói
trên á dụng với mọi đối tượng, moi tầng lớp xã hội. Riêng đói với hoạt động sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp thì sự điều chỉnh và quản lý thông qua các quy định cụ thể còn rất hạn
chế. Một số biện pháp hữu hiệu có thể tham khảo là: (1) Thu phí, thuế và các khoản thu khác
liên quan đến môi trường; (2) Hạn ngạch/giấy phép môi trường có thể trao đổi được; (3) Đặt cọc
phí tái chế đối với một số loại sản phẩm (ví dụ: các loại vỏ đồ hộp); (4) Các biện pháp kiểm dịch
động, thực vật và các tiêu chuẩn, quy định kỹ thuật đối với sản phẩm; (5) Các yêu cầu về bao gói
(hiện nay chưa có); (6) Các yêu cầu về hàm lượng nguyện liệu được tái chế; (7) Giới thiệu và
đưa ra nhãn mác sinh thái như một dấu hiệu bảo vệ môi trường. Đồng thời củng cố nhiệm vụ và
chức năng của Nhà nước trong lĩnh vực Bảo vệ môi trường, đặc biệt là trong khâu giám sát thực
hiện các quy định.
+ Ban hành Luật Thuỷ sản và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật để thay thế Pháp lệnh
bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản (1989) do Pháp lệnh này đã bộc lộ những hạn chế, ảnh
hưởng đến quản lý và phát triển ngành.
Về vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Thực tế là Bộ luật lao động của Việt Nam
đã bao trùm các yêu cầu cơ bản của các bộ Quy tắc ứng xử mà nếu có thì phía nước ngoài sẽ
yêu cầu. Nhưng việc áp dụng đúng các quy định trong Bộ luật lại rất hiếm. Ví dụ đơn giản như
luật Phòng cháy chữa cháy. Khi các chuyên gia đánh giá phỏng vấn ban lãnh đạo các doanh
nghiệp về vấn đề kiểm tra của PCCC đối với các doanh nghiệp, đều phát hiện ra rằng ngay cả
PCCC cũng không áp dụng đúng luật. Một trường hợp cụ thể là thời hạn kiểm tra định kỳ hệ
thống PCCC, có những công ty cả 2 năm trời không đuợc gặp PCCC đến một lần. Còn các
trường hợp vi phạm an toàn vệ sinh lao động thì rất phổ biến. Như vậy, mấu chốt ở đây là việc
thực thi Bộ luật Lao động của Việt Nam cần được Bộ lao động-Thương binh-Xã hội giám sát
chặt chẽ hơn nữa, không chỉ để cải thiện cuộc sống và môi trường làm việc của người lao động
mà còn thể hiện trách nhiệm đạo đức trước các đối tác nước ngoài.
Ngoài ra trước hiện tượng nhiễu sóng thông tin về chứng chỉ SA 8000, Nhà nước cần có
biện pháp quản lý đối với các tổ chức môi giới, tư vấn và cấp phát chứng chỉ, không để các
doanh nghiệp rơi vào tình trạng lầm tưởng đây là chứng chỉ tất yếu phải có khi muốn thâm nhập
vào thị trường EU. Bộ Lao động-Thương binh-Xã hội nên tổ chức các cuộc hội thảo về chủ đề
này, giúp các doanh nghiệp có định hướng cụ thể sao cho phù hợp nhất với ngành nghề và điều
kiện của mình.
1.21 Hỗ trợ doanh nghiệp đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn về chất
lượng, môi trường và xã hội của EUHỗ trợ tài chính: Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(đặc biệt trong những ngành may mặc, chế biến nông sản, thuỷ sản, chế biến gỗ, sản xuất gốm
sứ....) nên rất hạn chế vốn trong việc đổi mới công nghệ sản xuất cũng như đầu tư trang thiết bị
xử lý môi trường. Chính vì vậy, nhà nước nên có các biện pháp hỗ trợ hơn nữa về mặt tài chính
như: (1) Miễn thuế thu nhập từ 2-4 năm cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu, đặc biệt với
các doanh nghiệp sản xuất hàng có hàm lượng giá trị gia tăng cao. Dành thuế ưu đãi đặc biệt
cho các doanh nghiệp thực hiện tốt công tác môi trường và xã hội; (2) Ưu tiên cho các doanh
nghiệp này vay vốn từ các nguồn tín dụng ưu đãi; (3) Nhà nước dành vốn ngân sách hỗ trợ đầu
tư hàng năm cho các chương trình quy hoạch vùng sản xuất, các trung tâm giống quốc gia để
tạo ra các giống sạch và có chát lượng (đối với các ngành nông nghiệp và thuỷ sản), đầu tư xây
dựng các trạm quan trắc cảnh báo môi trường...
Hỗ trợ thông tin: Thông tin về thị trường xuất khẩu có vai trò rất quan trọng giúp cho các
doanh nghiệp biết được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng về các chủng loại sản phẩm và
các quy định của thị trường để đáp ứng. Với hoạt động này, Nhà nước nên chỉ đạo tích cực tạo
ra nhiều kênh thông tin tới các doanh nghiệp, như các ấn phẩm, trang Web, trung tâm cung cấp
thông tin ..v.v. HIện nay đã có không ít ấn phẩm và trang Web của các cơ quan hữu quan được
xây dựng nhằm mục đích này (như Bộ Thuỷ sản, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam...) nhưng nội dung về thị trường vẫn
chưa đầy đủ, thiếu hệ thống và không mang tính cập nhật (đặc biệt là các thông tin trên Web).
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành chức năng cần phối hợp tổ chức các cuộc hội thảo giới thiệu
cho các doanh nghiệp về những quy định chất lượng, môi trường và xã hội của EU đối với từng
loại hàng hoá xuất khẩu, đặc biệt tập trung vào việc giải thích nhưng quy định, tiêu chuẩn mới,
đánh giá những ảnh hưởng của chúng đối với hàng xuất khẩu. Trên cơ sở đó đưa ra định
hướng, hướng dẫn cho các doanh nghiệp khắc phục các rào cản kỹ thuật này.
Xây dựng cơ chế phối hợp hợp lý giữa các doanh nghiệp với các cơ quan quản lý Nhà
nước. Một giải pháp hữu hiệu là xây dựng các hiệp hội ngành hàng (theo từng địa bàn hoặc theo
từng lĩnh vực kinh doanh) để có thể đại diện trực tiếp cho tiêng nói của các doanh nghiệp (đặc
biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ).
Hỗ trợ đào tạo nhân lực: Đầu tư cho việc đào tạo các chuyên gia về xây dựng và đánh giá
tiêu chuẩn chất lượng, xã hội và môi trường trong mỗi ngành nghề, nâng cấp các thiết bị chuyên
dụng phục vụ cho công tác đánh giá đó. Xây dựng các chương trình đào tạo thí điểm đối với các
doanh nghiệp xuất khẩu (có nhu cầu cấp thiết nhất). Chương trình thí điểm một mặt sẽ góp phần
nâng cao kiến thức, kỹ năng và ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp về quản lý chất lượng,
môi trường và xã hội, đồng thời cho phép đánh giá được nhu cầu và sự quan tâm của giới
doanh nghiệp đối với vấn đề này để có những giải pháp cụ thể hơn.
Hỗ trợ giải quyết tranh chấp vi phạm các quy định và tiêu chuẩn của EU, bảo vệ lợi ích của
các doanh nghiệp thông qua đàm phán thương mại: Với vị thế bất lợi trong thương mại quốc tế,
các doanh nghiệp thường bị thiệt thòi khi phải theo đuổi các vụ kiện hoặc tranh chấp phát sinh
do vi phạm của một trong các bên liên quan. Hơn nữa, các nước phát triển ngày càng tìm cách
tận dụng tối đa những công cụ được coi là hợp pháp trong thương mại quốc tế để gây khó dễ
cho các doanh nghiệp xuất khẩu từ các nước đang phát triển như: áp dụng các tiêu chuẩn và
các biện pháp hạn chế thương mại vì mục đích bảo vệ môi trường, vì mục đích đạo đức xã hội...
Vì thế, vai trò của Nhà nước là (1) Có tiếng nói chính thức bảo vệ doanh nghiệp trên trường
quốc tế trong các trường hợp như phía đối tác tuyên truyền bất lợi cho ta; (2) Tư vấn cho các
doanh nghiệp về mặt chuyên môn pháp lý, cung cấp hoặc giới thiệu những luật sư tin cậy
chuyên trách về giải quyết tranh chấp thương mại; (3) Trong quá trình đàm phán, yêu cầu các
đối tác mở cửa thị trường, ví dụ như gia tăng hạn ngạch dệt may, nâng cao ngưỡng phát hiện
dư lượng kháng sinh đối với nông, thuỷ sản...
1.22 Các giải pháp khác
Có chính sách quản lý chặt chẽ đối với hoạt động nhập khẩu theo hướng hạn chế nhập
khẩu những hàng hoá có khả năng gây ô nhiễm môi trường, không đảm bảo vệ sinh an toàn và
sức khoẻ của người lao động trong quá trình lao động như: hoá chất, phân bón, thuốc trừ sâu,
thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kháng sinh cấm sử dụng, dây chuyền chế biến lạc hậu... Đồng thời
khuyến khích nhập khẩu công nghệ chế biến sạch, công nghệ ít gâyô nhiễm môi trường, thiết bị
xử lý chất thải...
Cần có chính sách hình thành các tổ hợp sản xuất, chế biến khép kín (đặc biệt trong nông
nghiệp và thuỷ sản) để các doanh nghiệp có điều kiện thuận lợi áp dụng HACCP một cách triệt
để. Hiện nay ở Việt Nam rất khó áp dụng HACCP một cách triệt để và khép kín vì nuôi trồng tách
riêng với chế biến. Trong khi các doanh nghiệp áp dụng HACCP thì các hộ nông dân nuôi trồng
lại không tuân thủ quy định vì muốn thu lợi nhuận cao nên nguyên liệu cung cấp nhiều khi không
đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng, dẫn đến sản phẩm không đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu.
2. Giải pháp về phía các doanh nghiệp
1.23 Cập nhật và hiểu rõ các quy định và tiêu chuẩn về chất lượng, môi
trường và xã hội của EU đối với sản phẩm doanh nghiệp cung cấpHệ thống các quy định và tiêu chuẩn của EU đối hàng hoá nhập khẩu khá phức tạp và ngặt
nghèo. Ngoài những quy định chung về an toàn sản phẩm (Product Safety), Luật thực phẩm,
Luật bảo vệ môi trường... còn có vô số các chỉ thị riêng cho các nhóm sản phẩm khác nhau
(Directives). Đa phần mỗi quy định lại được điều chỉnh bởi nhiều chỉ thị. Vì vậy không thể chỉ đọc
01 chỉ thị trong số các chỉ thị điều chỉnh 1 quy định mà có thể hiểu được quy định đó. Ví dụ như:
quy định về chất phụ gia trong thực phẩm được điều chỉnh bởi 04 chỉ thị: Chỉ thị 94/35/EEC đối
với chất làm ngọt, Chỉ thị 94/36/EEC đối với phẩm màu, Chỉ thị 88/388/EEC đối với hương liệu,
Chỉ thị 95/2/EC đối với các p hụ gia thực phẩm khác. Vì vậy muốn hiểu rõ một quy định của EU
phải đọc kỹ tất cả các chỉ thị liên quan đến quy định đó. Chưa kể đến các tiêu chuẩn chất lượng
EN áp dụng cho sản phẩm sản xuất và lưu thông trong khối EU, nếu các doanh nghiệp Việt Nam
tìm hiểu và tuân thủ sẽ là thuận lợi lớn khi đưa hàng hoá vào thị trường này.
Một thực tế hiện nay là nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vẫn chỉ làm hàng theo
khả năng chứ chưa đón bắt nhu cầu từ phía đối tác. Vì vậy, công tác tìm hiểu thị trường vẫn còn
rất yếu kém, nhiều doanh nghiệp không nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này vì
sợ tốn kém chi phí. Do đó mà hiện tượng “có nghe nói về quy định này nhưng không biết rõ vì
chưa được đọc văn bản, chỉ biết rằng EU đưa ra yêu cầu rất khắt khe”là khá phổ biến.
1.24 Tăng cường áp dụng các hệ thống tiêu chuẩn quốc tế về chất lượng,
môi trường và xã hội.Các tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001, tiêu chuẩn quản lý
môi trường 14001, tiêu chuẩn HACCP... là những tiêu chuẩn chung được nhiều nước hưởng
ứng và khuyến khích áp dụng. Các doanh nghiệp Việt Nam - trước hết là các doanh nghiệp xuất
khẩu - cần phải nhận thức rõ được tầm quan trọng của các tiêu chuẩn này vì khi có các chứng
chỉ, doanh nghiệp không chỉ lấy được lòng tin của các bạn hàng mà còn cải thiện quy trình quản
lý sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động, đem lại lợi ích kinh tế về lâu
dài cho doanh nghiệp.
Cụ thể với hệ thống HACCP đòi hỏi phải áp dụng và tuân thủ triệt để các quy định ngay từ
khâu nuôi trồng, đánh bắt, cho đến khâu chế biến. Đây là một điều rất khó thực hiện đối với các
doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản của ta vì người nuôi trồng, khai thác nông, thủ sản là các
hộ nông dân rất phân tán. Vì vậy, các doanh nghiệp chế biến nên liên kết với các hợp tác xã
nông nghiệp, nông trường... để hình thành các tổ hợp sản xuất lớn và áp dụng hệ thống
HACCP. Chú trọng áp dụng hệ thống HACCP một cách thực sự, tránh tình trạng áp dụng tiêu
chuẩn này mang tính hình thức để đối phó với thị trường nhập khẩu như hiện nay đang diễn ra ở
các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Ngoài ra, nhằm vượt qua thách thức về yêu cầu ngày càng tăng của thị trường, việc áp
dụng phương pháp quản lý chất lượng tổng thể (TQM - Total Quality Management) có thể là một
giải pháp. TQM là một phương pháp quản lý giải quyết từng vấn đề trong đó cốt lõi là chất lượng
trong mọi khía cạnh và nhiệm vụ của quá trình hoạt động. Khi áp dụng TQM, nhà xuất khẩu
không những phải trải qua các giai đoạn như ISO 9000 và ISO 14000 và các vấn đề bắt buộc
như nhãn hiệu CE, HACCP mà còn phải chú ý tới tác động đối với xã hội. Tất nhiên, TQM không
phải là điều kiện để thành đạt ở thị trường châu Âu. Song, nó có thể cung cấp cho các doanh
nghiệp một công cụ quản lý hữu ích. Nó tạo ra một môi trường cho việc liên tục cải tiến hoạt
động mà các doanh nghiệp có thể cần để vượt qua đối thủ cạnh tranh và đáp ứng những kỳ
vọng của khách hàng và yêu cầu của thị trường ở mức độ cao.
1.25 Đổi mới công nghệ và phương thức sản xuất
Các ngành sản xuất xuất khẩu của Việt Nam sở dĩ yếu kém về chất lượng đều do những
hạn chế về trang thiết bị và công nghệ (như đã phân tích ở phần thực trạng). Do đó, đổi mới
trang thiết bị và công nghệ là một yêu cầu tất yếu nếu các doanh nghiệp xuất khẩu muốn vươn
xa trên trên thị trường quốc tế.
Đối với các ngành công nghiệp nhẹ (dệt may, giày dép, sản xuất đồ gỗ...), máy móc thiết bị
hiện chủ yếu là những loại đã lạc hậu, năng suất thấp. Để phát triển ngành sang một bước mới
cần nỗ lực đầu tư để bắt kịp với công nghệ trong khu vực và thế giới. Trường hợp các doanh
nghiệp chưa có điều kiện tài chính, có thể sử dụng hình thức thuê tài chính để đổi mới năng lực
sản xuất của mình, tạo dựng tên tuổi và uy tín với đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó, phương
thức gia công xuất khẩu kéo dài không những đem lại hiệu quả kinh doanh ít mà còn làm cùn
khả năng tự vận động, tự sáng tạo của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp trong lĩnh vực này
nên từng bước vươn tới đầu tư xây dựng một hệ thống hoạt động kỹ nghệ liên hoàn với 4 khâu:
sáng tạo thiết kế, thu mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất và thương mại trực tiếp.
Đối với các doanh nghiệp chế biến nông, thuỷ sản thì phương thức sản xuất và công nghệ
chế biến đóng vai trò quyết định trong việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Đồng thời, nếu
phương thức sản xuất và công nghệ chế biến không thích hợp còn gây ô nhiễm môi trường,
khiến cho các doanh nghiệp vi phạm quy định về môi trường của EU. Do vậy, việc cần thiết là
phải (1) cải tiến, nâng cao kỹ thuật các trang thiết bị dùng trong chế biến, (2) thay đổi các công
nghệ gây ô nhiễm môi trường bằng các công nghệ sạch (với các doanh nghiệp hạn chế về tài
chính không có khẳ năng thay thế toàn bộ dây chuyền lạc hậu thì có thể lắp đặt bổ sung các thiết
bị chống và xử lý ô nhiễm môi trường cho dầy chuyền đang vận hành), (3) tìm hiểu và từng
bước tuân theo quy trình canh tác nông nghiệp đảm bảo GAP để cung cấp các sản phẩm chế
biến sạch.
Ngoài ra, một trong những phương pháp thâm nhập thị trường EU hữu hiệu của hàng
nông, thuỷ sản Việt Nam hiện nay là nuôi gia công. Với trình độ nuôi trồng và chế biến của
ngành còn thấp như hiện nay thì khi nuôi gia công, các doanh nghiệp sẽ không chỉ được cả lợi
ích kinh tế mà còn học được phương pháp nuôi trồng nông, thuỷ sản đạt tiêu chuẩn chất lượng,
từ đó tạo dựng chỗ đứng ban đầu cho mình trên thị trường rộng lớn này. Theo phương pháp
này, giống nông thuỷ sản, kỹ thuật, chuyên gia, thức ăn và phương pháp nuôi do EU cung cấp
và hướng dẫn thực hiện. Phía EU sẽ cử chuyên gia sangViệt Nam để hướng dẫn phương pháp
nuôi, giám sát hoạt động nuôi và nghiệm thu sản phẩm, sau đó chuyên gia EU sẽ kiểm tra chất
lượng sản phẩm và dán nhãn mác hàng của EU trước khi xuất khẩu sang thị trường này. Hiện
nay, công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprodex đã tiến hành nuôi tôm gia công cho Nhật Bản,
kết quả thu được rất khả quan, giá tôm xuất khẩu và giá trị gia tăng của sản phẩm rất cao.
1.26 Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc giải quyết
vướng mắc thị trường Giải pháp này được đưa ra dựa trên trường hợp điển hình về xuất khẩu hàng thuỷ sản của
Việt Nam sang EU bị vi phạm quy định về dư lượng kháng sinh của EU trong thời gian gần đây.
Thời kỳ đầu chỉ có một số doanh nghiệp có lôhàng vi phạm, các doanh nghiệp này đã không báo
cáo với Bộ Thuỷ sản để được giúp đỡ mà tự tìm cách giải quyết với đối tác EU, nhưng cuối cùng
vẫn không thể giải quyết được (không lấy được tiền mà cũng không xin lại được hàng để xuất
sang các thị trường khác). Cho đến khi số lô hàng thuỷ sản Việt Nam vi phạm quy định của EU
nhiều hơn, Uỷ ban châu Âu đã chính thức thông báo cho Bộ Thuỷ sản về tình trạng này và kể từ
tháng 9/2001, EU áp dụng biện pháp kiểm tra tăng cường đối với hàng thuỷ sản xuất khẩu của
Việt Nam (kiểm tra 100% các lô hàng xuất khẩu, trong khi trước đây hàng thuỷ sản của ta chỉ bị
EU kiểm tra xác suất 5%). Như vậy, hàng thuỷ sản xuất khẩu của tất cả các doanh nghiệp (gồm
cả doanh nghiệp chưa có lô hàng bị vi phạm) đều bị kiểm tra 100%, gây bất lợi cho các doanh
nghiệp và mất uy tín đồng loạt trên các thị trường xuất khẩu.
Nếu như ngay từ đầu, các doanh nghiệp có lô hàng vi phạm phối hợp với các cơ quan
chức năng tỏng việc giải quyết vướng mắc thị trường (Bộ Thuỷ sản thực hiện các biện pháp hạn
chế sử dụng dư lượng kháng sinh bị cấm; Bộ Thương mại chủ động đàm phán với phía EU để
tìm cách giúp các doanh nghiệp tháo gỡ...) thì chúng ta đã sớm ngăn chặn được tình trạng các
lô hàng thủy sản liên tiếp bị EU từ chối và tiêu huỷ
1.27 Các giải pháp khác
Thứ nhất, tích cực tham gia các cuộc hội thảo do phía Việt Nam, Liên minh châu Âu hoặc
cả hai bên phối hợp tổ chức về đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, giới thiệu các quy định và tiêu
chuẩn về chất lượng, môi trường và xã hội của đối với hàng nhập khẩu. Trên cơ sở nguồn thông
tin này, đưa ra phương hướng thích hợp điều chỉnh hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình để
đảm bảo cung cấp cho thị trường này các sản phẩm phù hợp, đạt yêu cầu.
Thứ hai, chủ động tiếp cận với các quy định của EU bằng nhiều cách: Thông qua thương
vụ của Việt Nam ở các nước thành viên EU; Phái đoàn EC tại Hà Nội; Phòng Thương mại châu
Âu tại Việt Nam; Trung tâm xúc tiến thương mại; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam;
Trung tâm nghiên cứu châu Âu, đối tác EU; mạng Internet....
Thứ ba, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn có tính đến tác động của các quy định và
tiêu chuẩn của EU đối với hàng nhập khẩu vào thị trường này.
Thứ tư, thành lập các bộ phận quản lý chất lượng và môi trường với trách nhiệm kiểm tra
định kỳ, giám sát chất lượng, môi trường trong doanh nghiệp.
Thứ năm, rà soát lại hồ sơ kiểm soát nguyên liệu của các lô hàng đang trên đường tới các
nước EU để triệu hồi về nước những lô hàng được sản xuất bằng nguồn nguyên liệu không đảm
bảo.
Thứ sáu, tìm thị trường thay thế, hạn chế xuất khẩu vào EU những lô hàng chưa được
giám định chắc chắn về chất lượng và môi trường .
Kết luậnSố lượng hàng rào kỹ thuật trong thương mại đang tăng lên được coi là mối đe dọa chủ
yếu đối với nhà xuất khẩu ở các nước đang phát triển. Nhiều doanh nghiệp đang bị mất cơ hội
kinh doanh do những đòi hỏi ngày càng tăng về lượng, môi trường và trách nhiệm xã hội từ phía
đối tác nước ngoài. Vụ việc các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam trong hai năm 2001,
2002 liên tiếp bị phát hiện vi phạm quy định của EU về dư lượng kháng sinh, dẫn đến bị tiêu huỷ
và phải chịu chế độ kiểm tra 100% khiến ngành thuỷ sản gặp không ít khó khăn, đồng thời ảnh
hưởng đến uy tín tại các khu vực thị trường khác có thể coi là một bài học đắt giá. Do đó, đáp
ứng các tiêu chuẩn là điều kiện sống còn cho các doanh nghiệp Việt Nam để trụ vững và thành
công trên thị trường châu Âu.
Với quy mô giới hạn, khoá luận đã giải quyết được một số vấn đề sau:
Trình bày tóm gọn những quy định chung nhất (bắt buộc hoặc không bắt buộc) về chất
lượng, môi trường và xã hội mà EU hiện đang áp dụng cho hàng hoá lưu thông trên thị trường,
và do đó cho cả hàng hoá nhập khẩu
Đánh giá khái quát năng lực của Việt Nam đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn đó như:
mức độ hài hoà tiêu chuẩn của Việt Nam với EU nói riêng và quốc tế nói chung, tình hình áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và môi trường ISO 14000, thực tế áp dụng các quy
định về đảm bảo sức khoẻ và an toàn cho người tiêu dùng trong sản xuất hàng công nghiệp chế
tạo, nông thuỷ sản và thực phẩm... Đồng thời khoá luận cũng đi sâu vào phân tích khả năng đáp
ứng các quy định đó của 4 ngành hàng xuất khẩu chính: da giày, dệt may, nông sản, và thuỷ sản
Đề xuất một số giải pháp khắc phục tình trạng yếu kém của các doanh nghiệp Việt Nam
trong việc đáp ứng các quy định và tiêu chuẩn của EU, như: thu phí môi trường, đặt cọc phí tái
chế đối với một số loại sản phẩm; áp dụng phương pháp quản lý chất lượng tổng thể TQM; nuôi
gia công nông, thuỷ sản cho các đối tác EU...
Trên hết, các doanh nghiệp cần hiểu rằng đáp ứng các tiêu chuẩn này phải dựa trên chiến
lược lâu dài, chứ không chỉ là các biện pháp đối phó ngày một ngày hai.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
Danh mục tài liệu trích dẫn
[1] “Kim ngạch xuất khẩu năm 2002, ước năm 2003 và dự báo năm 2004 theo thị trường các
nước”- Tạp chí Ngoại Thương - Số 21-30/10/2003 - Trang 6.
[2] “Làm ăn với ngôi sao “mọc muộn”“- Thời báo kinh tế Sài Gòn -29/08/2002).
[3] “European Union and World Trade”- Basic Statistic for European Union Trade for years 2001,
2002.
[4] Liew Mun Leong (chủ tịch tổ chức ISO) - “Tiêu chuẩn trong cuộc sống hàng ngày”- Hội thảo
tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực - Tổng cục TCĐLCL - 2002.
[5] Dương Xuân Chung - “Hoà hợp về tiêu chuẩn với khu vực và thế giới”- Hội thảo “Tham gia
hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục TCĐLCL - 2002
[6] Định nghĩa của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (ISO), trong dự thảo DIS 9000:2000
[7] Ông I.J.Day (Chủ tịch BVQI, U.K) - “Chứng nhận EMS hệ thống quản lý môi trường”- Hội nghị
chất lượng Việt Nam lần thứ hai - Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng - 11/1997
[8] Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”- Hội thảo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR -
Bộ LĐ-TB-XH - 2002.
[9] “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất
lượng - NXB KH&KT
[10] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 -
Twelfth Cycle: up to and including December 2002" - www.iso.org - 2003
[11] Vietnam Investment Review - 21-27 December, 2002 - www.vir.com.vn
[12] “EU huỷ bỏ lệnh cấm nhập khẩu đối với 6 doanh nghiệp”- Tạp chí Thông tin Khoa học Công
nghệ Thuỷ sản - số tháng 8/2003 - www.fistenet.gov.vn
[13] Thanh Liêm - “Thực trạng, giải pháp quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm”- Tạp chí
TCĐLCL - Số 8(49)/2003 - Trang 16.
[14] Thanh Liêm - “Nông sản thực phẩm và hoạt động tiêu chuẩn hoá trong lĩnh vực NSTP ở Việt
Nam”- Tạp chí TCĐLCL - Số 7/2003 - Trang 42
[15] Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO 14000 - up
to and including December 2002”- www.iso.org - 2003.
[16] Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ môi trường:
“Các quy định về môi trường của Liên minh châu  u (EU) đối với nhập khẩu hàng nông,
thuỷ sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi trường đối với hàng xuất
khẩu Việt Nam vào thị trường EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003.
[17] Tổ chức SAI - “SA 8000 Certified Facilities, up dated September, 2003”-
www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm
[18] Bình Yên & Phong Lan - “Doanh nghiệp không buộc phải mua chứng chỉ SA 8000”- Báo
điện tử VnExpress ngày 24/8/2002 - www.vnexpress.net
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38[19] Cao Huệ Anh & Vũ Đức Thắng - “Đánh giá và chứng nhận SA 8000 - Một số thuận lợi và
khó khăn”- Hội nghị toàn quốc Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm 2 năm thành lập CLB -
02/2002
[20] Phi Hùng - “Có cần tốn tiền mua SA 8000?”- Báo Doanh nghiệp - Số 34 (22/8/02 - 28/8/02) -
Trang 5
[21] EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual Report”- the European
Commision’s Delegation in Vietnam - www.delvnm.cec.eu.int - May, 2003.
[22] “Tình hình sản xuất kinh doanh 5 tháng đầu năm 2003 của ngành da giày Việt Nam”- Bản tin
hàng tháng của Hiệp hội da giày Việt Nam, số tháng 6/2003 - www.lefaso.org.vn
[23] Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam và
EU”- Phòng thông tin tư liệu - Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2002
[24] Trần Khắc Kiên - “Thực trạng và định hướng phát triển ngành công nghiệp da giày Việt Nam
trong thời gian tới”- Hội thảo “Chương trình mục tiêu phát triển ngành da giày Việt Nam”-
Hiệp hội da giày Việt Nam - 5/2002
[25] Số liệu thống kê của Tổng Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng - www.tcvn.gov.vn - cập
nhật đến tháng 9/2003.
[26] Công ty cổ phần thông tin kinh tế đối ngoại (Chu Viết Luân chủ biên) - “Dệt may Việt Nam -
Cơ hội và thách thức”- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - 2003.
[27] “Xuất khẩu dệt may sang EU sẽ nóng dần lên”- Tạp chí Ngoại Thương Số 21-31/7/2003 -
Trang 14.
[28] Nguyễn Cao Bình (Tổng công ty dệt may Việt Nam) - “Thực trạng thiết bị và công nghệ
ngành dệt may Việt Nam”- Báo cáo tại Hội thảo xúc tiến xuất khẩu dệt may sang EU - Trung
tâm đầu tư và xúc tiến thương mại Tp. Hồ Chí Minh (ITPC) - 6/2003.
[29] Số liệu thống kê của phái đoàn EC tại Việt Nam (European Commission’s Delegation in
Vietnam) - www.delvnm.cec.eu.int - 2002.
[30] Thu Phương - “HACCP với việc mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản”- Tạp chí Thuỷ sản -
số tháng 1/2003 - www.fistenet.gov.vn
[31] Đình Chúc - “Liên minh châu  u mở rộng từ 15 lên 25 thành viên: Những thách thức mới
đối với doanh nghiệp Việt Nam”- Báo Lao động điện tử - www.laodong.com.vn - Số 282,
ngày 9/10/2003.
[32] “Hạn ngạch dệt may của Việt Nam vào EU sẽ tăng từ 55-70%”- Báo Lao động điện tử -
www.laodong.com.vn - Số ra ngày 9/9/2003.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K38
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Danh mục Tiếng Việt
1. Đinh thị Quỳnh Anh - Khoá luận tốt nghiệp “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU giai đoạn 2000 - 2010”- Trường Đại
học Ngoại Thương - 2001.
2. Nguyễn Mạnh Cường - “Nhận biết vấn đề trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong bối
cảnh Việt Nam hội nhập Quốc Tế”- Hội thảo về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp CSR
- Bộ LĐ-TB-XH - 2002.
3. Nguyễn Thái Hùng - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực thuỷ sản”- Trung tâm tiêu
chuẩn chất lượng - Tổng cục TCĐLCL - 2002
4. Phùng Thị Vân Kiều - Đề tài khoa học cấp Bộ “Các giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất
khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU giai đoạn 2000 - 2010”- Viện nghiên cứu
Thương mại - Bộ Thương mại - 2000.
5. Phùng Thị Vân Kiều - Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ của Nhà nước về bảo vệ môi trường:
“Các quy định về môi trường của Liên minh châu  u (EU) đối với nhập khẩu hàng nông,
thuỷ sản và các giải pháp đáp ứng các quy định, tiêu chuẩn môi trường đối với hàng xuất
khẩu Việt Nam vào thị trường EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - 09/2003.
6. Chu Viết Luân (chủ biên) - Sách “Dệt may Việt Nam - Cơ hội và thách thức”- Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia - 2003.
7. Đỗ Thị Ngọc - Luận án tiến sĩ khoa học kinh tế “Nghiên cứu xây dựng mô hình quản lý chất
lượng phù hợp với các doanh nghiệp Việt Nam”- Trường ĐH Thương Mại - 2000.
8. Trần Sửu & Nguyễn Chí Tụng (Trường Đại học Ngoại Thương) - “Quản lý chất lượng hàng
hoá và dịch vụ”- NXB Khoa học Kỹ thuật - 1996.
9. Nguyễn Văn Xuân - Báo cáo “Hài hoà tiêu chuẩn trong lĩnh vực nông sản thực phẩm”-
Trung tâm tiêu chuẩn chất lượng - Tổng cục TCĐLCL - 09/ 2002
10. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam & Trung tâm thông tin châu Âu tại Việt Nam
- Sách “Kinh doanh với thị trường EU”- 2002.
11. Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam - Sách “EU- thị trường xuất khẩu”- 2001.
12. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Thực trạng và tiềm năng trong quan hệ
thương mại giữa Việt Nam và EU”- Viện nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại - 2002
13. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Tình hình sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản
Việt Nam năm 2002”- Viện nghiên cứu Thương mại - 12/2002.
14. Phòng thông tin tư liệu - Thông tin chuyên đề “Quan hệ thương mại của Việt Nam với một
số nước và khu vực”-- Viện nghiên cứu Thương mại - 8/2002.
15. “Niên giám thông kê 2002”- NXB Thống kê - 2002.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K3816. “Kỷ yếu 40 năm hoạt động và phát triển 1962 - 2002”- Tổng cục tiêu chuẩn, đo lường, chất
lượng - NXB KH&KT - 2002
17. “Luật bảo vệ môi trường và Nghị định 175 CP hướng dẫn thi hành Luật”- NXB Chính trị
Quốc gia - 1997
18. “Bộ luật lao động Việt Nam”- NXB Chính trị Quốc gia - 2002
19. “Một số văn bản qui phạm pháp luật về tiêu chuẩn đo lường chất lượng”- Tổng cục
TCĐLCL - 2002.
20. “Hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 - Các yêu cầu”- 2000
21. Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 2”- Tổng cục TCĐLCL - 11/1997
22. Báo cáo “Hội nghị chất lượng Việt Nam lần thứ 4”- Tổng cục TCĐLCL - 2001
23. Báo cáo “Hội thảo về hệ thống quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm theo
HACCP”- Vụ kỹ thuật - Bộ thuỷ sản - 09/2001.
24. Báo cáo hội thảo “Tham gia hoạt động tiêu chuẩn hoá quốc tế và khu vực”- Tổng cục
TCĐLCL - 2002.
25. Báo cáo “Hội nghị toàn quốc - Câu lạc bộ ISO Việt Nam - kỷ niệm 2 năm thành lập CLB”-
02/2002
26. Báo cáo “Hội nghị tổng kết hoạt động uỷ ban tiêu chuẩn hoá thực phẩm Việt Nam”-
06/2003.
27. Tạp chí “Ngoại Thương”- Các số tháng 6, 7, 8, 9, 10 năm 2003
28. Tạp chí “Những vấn đề kinh tế thế giới”- Số 1(75) 2002; 2(82) 2003.
29. Tạp chí “Người lao động”- Số 08/2002.
30. Tạp chí “Doanh nghiệp”- Số 08/2002.
31. Tạp chí “Tạp chí TCĐLCL”- Các số 10(27) năm 2001; 3(44), 5(46), 6(47), 7(48), 8(49) năm
2003.
32. Tạp chí “Nghiên cứu châu  u ”- Số 3(51).2003
33. Các trang web www.europa.eu.int/eur-lex; www.newapproach.org;
www.eu.int/eurostat.html, www.tcvn.gov.vn; www.agroviet.gov.vn; www.fistenet.com.vn,
www.lefaso.org.vn, www.laodong.com.vn, www.vnn.vn
II. Danh mục Tiếng Anh
1. EU Economic and Commercial counsellors - “2003 Annual Report”- the European
Commision’s Delegation in Vietnam - www.delvnm.cec.eu.int - May, 2003.
2. International Organization for Standardardization (ISO) - “Environmental management
systems ISO 14001 - Specification with guidance for use”- First Edition 09/1996.
3. International Organization for Standardization - "The ISO Survey of ISO 9000 and ISO
14000 - up to and including December 2002”- www.iso.org - 2003.
4. Social Accountability International (SAI) - “SA8000”- www.sa-intl.org.
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng
Kho¸ luËn tèt nghiÖp Nghiªm Quúnh Nga – Anh2 K385. Social Accountability International (SAI) - “SA8000 Certified Facilities”- updated September
30, 2003 - www.sa-intl.org/Accreditation/Certification.htm
6. “Directive 92/2/EC on Food Additives”- www.cbi.nl
7. “Directive 94/62/EEC on Packaging and Packaging Waste”- www.cbi.nl
8. “Directive 2001/95/EEC on General Product Safety”- Official Journal of the European
Communities - 15/01/2002.
9. “Directive 91/493/EEC laying down the health conditions for the product and the placing on
the market of fishery products”- www.cbi.nl
10. “Guide to the implementation of Directive based on the New Approach and the Global
Approach - CE marking”- europa.eu.int/celex
11. “Pan-European Biological and Landscape Diversity Strategy: Good Agriculture Practice”-
Mrs Anneli Bamber-Jones, WWF - 2001
12. “White paper on Food Safety”- europa.eu.int/comm/
Khoa Kinh TÕ Ngo¹i Th¬ng