phẦn mỘt cư sĩ: lý viên tịnh kết tập. Ấn quang Đại sư giám...

74
ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC 1 ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám định. Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa LỜI TỰA Pháp môn Tịnh Độ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh Độ là pháp tu của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn rốt ráo để mười phương tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu phụ tu được pháp này bèn coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải dùng mười đại nguyện vương hồi hướng Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Độ chẳng chịu tu là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Chỗ quy tông cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay nên coi thường đây? Có thái độ như vậy không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tự lực, Phật

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

1

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

PHẦN MỘT

Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập.

Ấn Quang Đại Sư giám định.

Việt dịch: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa

LỜI TỰA

Pháp môn Tịnh Độ lý cực cao sâu, sự cực giản dị. Do vậy, người

thiên tư thông mẫn, tri kiến cao siêu thường xem Tịnh Độ là pháp tu

của bọn ngu phu, ngu phụ, chẳng chịu tu trì. Nào biết đây là pháp môn

rốt ráo để mười phương tam thế hết thảy chư Phật, trên thành Phật đạo,

dưới độ chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Họ thấy kẻ ngu phu, ngu

phụ tu được pháp này bèn coi thường, sao chẳng xét trong hội Hoa

Nghiêm, bậc đã chứng bằng với Phổ Hiền, bằng với chư Phật, vẫn phải

dùng mười đại nguyện vương hồi hướng Vãng Sanh Tây Phương Cực

Lạc ngõ hầu viên mãn Phật Quả? Miệt thị pháp môn Tịnh Độ chẳng

chịu tu là coi những vị trong hội Hoa Nghiêm thuộc hạng người gì? Chỗ

quy tông cuối cùng của Kinh Hoa Nghiêm có đáng nên tôn trọng hay

nên coi thường đây?

Có thái độ như vậy không có gì khác hơn là do chưa xét kỹ nguyên

do của từng pháp môn thông thường và đặc biệt, cũng như tự lực, Phật

Page 2: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

2

lực, đại, tiểu, khó, dễ, nên mới đến nỗi như thế. Nếu đã xét kỹ, há chẳng

học đòi Hoa Nghiêm Hải Chúng, nhất trí tiến hành cùng cầu Vãng Sanh

ư? Ấn Quang tôi từ lúc búi tóc đọc sách, nhiễm ngay phải cái độc bài

Phật của Hàn, Âu, Trình, Chu, may là không có được cái tài như Hàn,

Âu, Trình, Chu. Nếu như có được chút tài như họ, ắt sẽ tự mình lầm,

khiến người lầm, thân còn sống mà đã hãm trong địa ngục A Tỳ mất

rồi. Từ năm mười bốn, mười lăm tuổi về sau, bệnh nặng nhiều năm. Từ

đấy chiêm nghiệm khắp xưa nay, xem kỹ Kinh sách, mới hay những

thuyết do Hàn, Âu, Trình, Chu lập đó đều là những tri kiến quẩn quanh

ngoài cửa ngõ, tuyệt chẳng đạt đến những sự huyền áo trong nhà.

Nhược quan được một năm, tôi liền xuất gia làm Tăng, chuyên tu

Tịnh nghiệp. Thề trọn một đời này làm một kẻ tự tu, chẳng lập môn

đình, rộng thâu đồ chúng đến nỗi con cháu đời sau làm Phật pháp bại

hoại, kéo cả Ấn Quang tôi vào trong địa ngục A Tỳ chịu khổ với chúng.

Đến năm Quang Tự 19 (Quý Tỵ - 1893), hòa thượng Hóa Văn Chùa

Pháp Vũ ở Phổ Đà Sơn lên Kinh đô thỉnh Đại Tạng Kinh, nhờ tôi coi

sóc việc ấn loát. Xong việc, Hòa Thượng mời tôi cùng về núi. Biết tôi

chẳng thích tham gia Tăng sự, Ngài cho tôi ở riêng một liêu, tùy ý tu

trì. Đến nay đã hơn ba mươi lăm năm rồi. Ở núi lâu ngày, có việc phải

dùng đến bút mực viết lách, tuyệt chẳng dùng đến tên gọi Ấn Quang.

Ngay cả những văn tự cần phải ký tên, cũng chỉ tùy tiện viết hai chữ là

xong. Vì thế trong hai mươi năm qua, không có người khách nào đến

thăm, cũng không có thư từ qua lại làm phiền.

Năm đầu Dân Quốc (1911), Cư sĩ Cao Hạc Niên đem mấy thiên

văn cảo đăng trên Phật Học Tùng Báo, chẳng dám dùng tên Ấn Quang,

mà dùng tên Ấn Quang thường tự xưng là Thường Tàm Quý Tăng. Vì

Page 3: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

3

thế, ký tên là Thường Tàm. Cư sĩ Từ Uất Như và Châu Mạnh Do tưởng

lầm là Kiến Thường, nghe nói lầm như vậy cả ba bốn năm chẳng hề

biết. Sau Mạnh Do lên núi bái yết, xin quy y, đem mấy thiên bản cảo tệ

hại gởi cho Uất Như, đưa in ở Kinh đô, đặt tên là Ấn Quang Pháp Sư

Văn Sao khiến cho văn tôi gai mắt khắp mọi người cao nhã nên càng

thêm hổ thẹn.

Năm Dân Quốc thứ bảy, thứ tám (1918-1919), họ lại lôi ra thêm

mấy thiên nữa, soạn thành sách Tục Biên, in chung với cuốn Sơ Biên.

Năm Dân Quốc thứ chín, giao cho Thượng Hải Thương Vụ Ấn Thư

Quán sắp chữ thành hai cuốn để làm bản lưu. Mùa Xuân năm Dân Quốc

thứ 10, sách in xong. Quang tôi lại qua Dương Châu, đem bản sắp chữ

năm Dân Quốc thứ 9 khắc thành một bản, chia làm bốn cuốn. Năm Dân

Quốc thứ 11, lại giao cho Thương Vụ Ấn Thư Quán in thành bốn cuốn.

Khi ấy, các Cư sĩ chỉ yêu cầu in hai vạn bộ, nhưng đến khi Thương Vụ

Ấn Thư Quán in xong, gởi ra bán, số ấy vẫn chẳng đủ!

Mùa Đông năm Dân Quốc thứ 14 (1925), lại giao cho Trung Hoa

Thư Cục in bản tăng quảng (bản mở rộng – do thêm vào những bài

mới), cũng chia thành bốn cuốn, dày hơn lần in trước một trăm tờ. Mùa

Hạ năm nay in sách, do phong trào công nhân đấu tranh, giá in rất cao,

chỉ in được hai ngàn bản. Bản gốc đã đem đánh máy ra thành bốn bản

sao thì nhà in giữ lại hai bản, trả về cho Quang hai bản. Tôi bèn giao

cho Hàng Châu Chiết Giang Ấn Loát Công Ty in trước một vạn bản,

sau đó sẽ in tiếp.

Một nhân duyên tình cờ nữa là Cư sĩ Viên Tịnh Lý Vinh Tường

trong mấy năm qua, chuyên tâm học Phật, đối với luận Khởi Tín, Kinh

Page 4: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

4

Lăng Nghiêm, Kinh Viên Giác đều viết sớ giải. Quang bảo: “Người

thanh niên nên thiết thực dụng công niệm Phật trước đã, đến khi nghiệp

tiêu trí rạng, chướng tận, phước dày rồi sẽ lại phát huy, tự có thể xiển

minh Phật ý truyền khắp vũ trụ”. Khi ấy, ông Lý chẳng chịu là đúng.

Sau vì dụng tâm quá độ, tinh thần, thân thể mỗi ngày một suy, mới hay

lời tôi nói chẳng sai.

Ông bèn đọc kỹ Văn Sao, hoan hỷ khôn xiết nên trích lục những

nghĩa trọng yếu, chia thành từng môn, từng loại, soạn thành một cuốn,

tính dùng giấy in báo in một ngàn cuốn để đáp ứng nhu cầu cần đọc

ngay của độc giả. Tháng Năm, ông đến thưa chuyện cùng Quang, rồi

cùng vợ thọ quy y. Tháng Tám sách in ra, chẳng lâu sau sách được thỉnh

hết. Thư yêu cầu nườm nượp gởi tới, tôi bèn bảo giám ngục Tào Hà

Kinh sắp đặt việc in sách. Cư sĩ Trần Địch Châu xin đảm nhiệm việc

trình bày, cũng như chịu phí tổn đánh máy bốn bản sao. Ông lại chịu

tiền in hai ngàn bản, một lúc bỏ ra gần hai vạn.

Với xuất xứ của mỗi câu trong bản này, thuộc quyển nào, trang

nào, ông Lý đều ghi kỹ để người đọc có thể đối chiếu với quyển Văn

Sao. Do chỉ chép lấy những nghĩa trọng yếu trong các bài văn, xếp vào

một loại nên trong mỗi thể loại, ý nghĩa từng đoạn trích khá giống nhau,

nhưng tôi chẳng lược bớt đi, ngõ hầu người đọc được khuyên đi, khuyên

lại nhiều lần sẽ đoạn ngay được lòng nghi, phát sanh lòng tin. Xuất xứ

từ quyển nào, trang số mấy đều dựa theo cách đánh số trong bản Tăng

Quảng Văn Sao để làm bản lưu thông vĩnh viễn, sau này không phải in

lại nữa.

Page 5: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

5

Lại vì Văn Sao ý nhiều, nghĩa lắm, có lẽ kẻ sơ cơ khó lòng phân

biệt, hiểu rõ dễ dàng được, nên tôi thuận theo cơ nghi, muốn cho họ

trước hết thấy được những điều trọng yếu của pháp môn, từ đấy sẽ thiết

thực tấn tu, tự đạt đến chỗ cùng cực, khỏi phải đến nỗi nhìn biển than

dài hoặc đến nỗi lui sụt. Nhân đây, chép cả mục lục cuốn Văn Sao

Tuyển Độc Biên vào sau mục lục cuốn Gia Ngôn Lục để người chưa

từng nghiên cứu Phật học dễ theo dõi. Tôi trình bày duyên do như thế

để mong người đọc đều biết rõ.

Nguyện người thấy, người nghe đừng cho lời tôi nói là tầm thường,

quê mùa rồi bỏ qua, chỉ toan cầu lấy điều cao thâm, huyền diệu. Đạo

của Nghiêu Thuấn chỉ là hiếu đễ mà thôi. Đạo của Như Lai chỉ là Giới

- Định - Huệ. Thực hành được việc tầm thường, quê mùa, hành đến

cùng cực thì lý cao thâm huyền diệu há còn phải cầu nơi nào khác nữa

ư? Nếu không thì chỉ cao thâm huyền diệu nơi đầu môi chót lưỡi, khi

sanh tử xảy đến chẳng dùng được mảy may! Xin độc giả hãy lưu tâm!

Mồng Tám tháng Chạp năm Đinh Mão, Dân Quốc 16 (1927), Cổ

Tân Thường Tàm Quý Tăng Thích Ấn Quang cẩn soạn.

(*) Gia có nghĩa là tốt, lành, đáng khen ngợi. Gia Ngôn là lời nói

tốt đẹp, tận thiện. Như vậy, Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục nghĩa là

cuốn sách tập hợp những pháp ngữ tận thiện, tận mỹ của Đại Sư Ấn

Quang.

Nhược quan: là 20 tuổi. Thời cổ, con trai đến 20 tuổi làm lễ đội

mũ (nhược quan), công nhận là một người trưởng thành. Theo Ấn

Quang Niên Phổ, Đại Sư trốn nhà đi xuất gia năm 21 tuổi, vào năm

Page 6: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

6

Quang Tự thứ 7 (Tân Tỵ - 1881) tại Chùa Nam Ngũ Đài Liên Hoa Động

Tự ở núi Chung Nam, thờ hòa thượng Đạo Thuần làm thầy.

DUYÊN KHỞI TÁI BẢN CUỐN

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

Cổ đức nói: “Pháp chẳng thể phát khởi một mình mà cần phải có

nhân duyên”. Rõ ràng là người có thể hoằng đạo, chứ đạo chẳng thể

hoằng người, pháp chẳng tự hoằng, đao chẳng thể tự sát thương, toàn là

phải nhờ vào con người hoằng dương, vận dụng. Nay muốn in hơn ngàn

cuốn ắt cũng phải có nhân duyên. Vì thế, tôi nay chia ra ba điều duyên

khởi để thuật rõ gốc ngọn, ngõ hầu độc giả biết được một đôi điều, sanh

ý tưởng khó gặp gỡ, sanh tâm khánh hạnh. Do Văn - Tư - Tu, khởi Tín

- Nguyện - Hạnh, nhập Niệm Phật Tam Muội, ai nấy cùng thấy Di Đà,

người người chứng địa vị Bất Thoái. Đấy chính là điều tôi thắp hương

cầu khẩn vậy.

Thứ nhất là thực hiện nguyện cũ: nhớ lúc năm Dân Quốc 57

(1968), tôi đến học tại Trung Quốc Phật Giáo Nghiên Cứu Viện, có dịp

đọc được trong thư viện cuốn Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, chẳng

ngăn nổi vỗ tay, giậm chân, hớn hở vô lượng, nhận thấy đây là một tác

phẩm ngàn đời khó thấy, ngàn kiếp khó gặp, chẳng gieo trồng cội đức

dễ đâu được gặp mà nay được gặp gỡ. Tôi bèn hạ quyết tâm đọc một

mạch, không dưới mấy mươi lần, ngộ được chẳng ít Phật lý. Trong tác

phẩm này có rất nhiều đạo lý tôi chưa từng bao giờ biết đến, và có cảm

Page 7: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

7

giác phải nghiền ngẫm phi thường. Tôi nhận ra hết thảy những Phật

pháp được nhắc đến trong Văn Sao đều là những của báu có sẵn trong

nhà mình, chẳng đến từ bên ngoài, khác nào đếm của gia bảo, với tay

liền được.

Nhân đó, tôi đọc đi đọc lại những Kinh Điển, Luận Tạng được

nhắc đến trong Văn Sao như ba Kinh Tịnh Độ, Tịnh Độ Thập Yếu, Tịnh

Độ Thánh Hiền Lục, Long Thư Tịnh Độ Văn, Tây Quy Trực Chỉ, Liên

Tông Bảo Giám, Niệm Phật Luận, Tịnh Nghiệp Chỉ Nam v.v... Trong

mỗi một cuốn ấy, câu câu đều là lời vàng, chữ chữ đều quy tông. Tu

theo đó thì đều do hữu niệm chứng nhập vô niệm, chuyển nhiễm niệm

thành tịnh niệm, tự chứng tối thượng thừa “tâm này làm Phật, tâm này

là Phật”.

Trong cuốn Gia Ngôn Lục, Đại Sư Ấn Quang đã giãi bày trọn vẹn

lẽ sai biệt giữa Tự Lực và Phật Lực, giới hạn của Thiền tông và Tịnh

tông, phân tích rõ ràng, khiến kẻ sơ học đoạn nghi sanh tín, biết nên lấy

bỏ những gì, càng vào càng sâu. Tu theo đó, ngàn người tu, ngàn người

được Vãng Sanh, vạn người tu vạn người Vãng Sanh.

Nhất là chữ “Tử” (chết) do đích thân Đại Sư Ấn Quang viết chính

là diệu dược vô thượng để tiêu phiền não, trừ khử vọng niệm. Mọi loài

chúng sanh dựa vào chữ Tử ấy, nghĩ đến địa ngục, phát tâm Bồ Đề,

dùng tín nguyện sâu xa trì danh hiệu Phật, lâm chung gặp Phật, Vãng

Sanh Tây Phương chẳng biết là bao nhiêu. Bởi thế, ngay khi ấy, tôi liền

phát nguyện rằng: “Trong tương lai, ngày nào đó, khi có nhân duyên

diễn giảng Phật pháp cho đại chúng, tôi nguyện sẽ đề xướng ấn loát và

giảng giải cuốn Gia Ngôn Lục hòng đại chúng hiểu rõ yếu nghĩa tâm

Page 8: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

8

này làm Phật, tâm này là Phật, tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ mới

thôi!” Đây chính là nhân duyên thứ nhất vậy.

Thứ hai là Kinh nghiệm niệm Phật: kể từ khi đọc được Văn Sao

Gia Ngôn Lục rồi tôi thường đọc đi, đọc lại, cơ hồ gần chán, nhưng vẫn

chưa hiểu hết ý nghĩa. Tiếp đó, đọc hai cuốn Văn Sao thượng hạ, những

chỗ chưa hiểu lại đem thỉnh vấn lão sư. Tư duy, thọ trì đôi ba lượt như

thế, đem những chữ Tử do Đại Sư viết dán đầy cả phòng, giờ giờ tự

Kinh hãi, khắc khắc tự răn nhắc mình. Lúc ấy tôi mới mười bảy tuổi,

suốt ngày chấp trì danh hiệu, có thể nói là Phật chẳng lìa tâm, tâm chẳng

rời Phật. Suốt ngày hiếm mở miệng nói năng một đôi câu. Nếu ai hỏi

đến cũng chỉ dùng tay ra hiệu mà thôi. Có lúc thậm chí cả hai ba ngày

tôi chẳng mở miệng nói câu nào; bởi thế, những người thường gặp mặt

tôi bèn hủy báng: “Đồ bệnh thần Kinh, đồ ma dựa”. Tôi nghe riết thành

quen, chẳng lưu tâm đến nữa, cho rằng đấy là một đại nhân duyên để

tiêu diệt tội nghiệp đời trước của mình, khiến cho mình càng thêm dũng

mãnh, tinh tấn, chẳng lười nhác.

Dụng công như thế mãi đến khi tôi tốt nghiệp ở Nghiên Cứu Viện

vào năm Dân Quốc 59 (1970). Lúc ấy tôi vừa 19 tuổi, thân thể yếu đuối,

lắm bệnh, nhưng luôn nhớ kỹ lời Đại Sư khai thị cho hành giả trong

Văn Sao: “Người niệm Phật chẳng sợ sanh bệnh, chỉ sợ chẳng thể thấy

Phật, niệm Phật. Khi thân thể trở bệnh thường nghĩ đến cái chết, vạn

duyên buông xuống, nhất tâm niệm Phật. Như thế thì nếu tuổi thọ chưa

hết sẽ chóng lành bệnh, nếu hết tuổi thọ sẽ mau được Vãng Sanh. Là do

tâm hợp với Phật, tâm hợp với đạo vậy!” Do đấy, tôi lập công khóa nhất

định, trong vòng một ngày, Phật sự phải làm là lễ bái bốn mươi tám

nguyện, trì tụng một trăm lẻ tám biến thần chú Đại Bi, niệm Phật hiệu

Page 9: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

9

vô số. Dụng công như thế suốt một năm, chẳng những thân thể không

khỏe hơn, lại càng thêm hư nhược. Lúc ấy, tôi đang ở Chùa Thập Phổ

đường Nam Xương tại Đài Bắc.

Khéo sao, có một vị pháp sư tên là Tánh Quán bị ung thư gan đến

thời kỳ thứ ba, phải đưa vào bệnh viện. Ít lâu sau, bác sĩ bảo không còn

cách nào chữa được, đưa sang thiền đường Chùa Lâm Tế chờ chết. Mấy

ngày sau, Sư Thượng thổ hạ tả, ói ra toàn là máu, được ít lâu thì chết.

Khi đó, tôi mới chỉ 20 tuổi, thân thể hư nhược đến cùng cực, thân như

cây khô, tinh thần yếu đuối. Người trong Chùa thấy tình cảnh ấy, không

ít người bảo tôi: “Tôi xem thầy chẳng mấy chốc cũng giống như pháp

sư Tánh Quán, nhất định phải chết thôi!” Hoặc bảo: “Tôi xem thầy

chẳng sống được bao lâu nữa!” Lúc ấy đúng là đạo cao một thước, ma

cao một trượng. Vừa phát tâm dụng công thì ma chướng càng nhiều.

Nghe toàn những lời nói như vậy, vạn phần hoảng sợ, chẳng sao diễn

tả nổi.

Sau cùng bất đắc dĩ chẳng biết làm sao, suốt ngày chỉ nghe băng

xướng niệm thánh hiệu A Di Đà Phật của pháp sư Sám Vân mà niệm

theo, nhất tâm đợi Phật tiếp dẫn Vãng Sanh. Suốt một năm như thế,

chẳng những chưa Vãng Sanh mà tình cờ sao, trong một lần đang niệm

Phật, niệm đến mức tâm không cảnh vắng, tâm tịnh Phật hiện, đích thân

thể hội mùi vị “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”.

Từ đó, thân thể của tôi ngày càng khang kiện, máy cassette tặng

cho người khác, đem hết thảy tiền bạc mình dành dụm hoặc đồ cúng

dường của tín đồ, mỗi mỗi đều dùng làm phương tiện khuyên người

khác niệm Phật, phỏng theo cách của Liên Tông Tứ Tổ Pháp Chiếu Đại

Page 10: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

10

Sư và Ngũ Tổ Thiếu Khang Đại Sư, xin tiền đem cho trẻ, dụ chúng niệm

Phật, hoặc mua tự điển, bút chì tặng cho trường tiểu học, hoặc mua bút

máy, sổ nhật ký tặng cho học trò bậc cao trung trở lên. Trước hết, dạy

chúng lễ Phật, niệm Phật, rồi mới tặng cho chúng thứ này, thứ nọ. Trong

vòng khoảng một cây số, không có trẻ nhỏ nào chưa từng nhận lãnh sự

giáo hóa, bố thí của tôi. Ai nấy thấy tôi đều kêu lên: “Tiểu Sư phụ! A

Di Đà Phật!” Sau hơn một năm như thế, lớn nhỏ đều biết niệm Phật.

Một hôm, tôi nhận được công văn kêu đi nhập ngũ, ngày trình diện

là mồng Một tháng Năm năm Dân Quốc sáu mươi ba (1974), trong lòng

thầm nghĩ: “Lần này đi quân dịch, chuyện sanh tử khó lòng đảm bảo,

vạn nhất chết trận thì biết làm sao, chẳng bằng lúc còn sống phải dự bị

ổn thỏa mới nên!” Nhân đó, bèn đem bộ Tịnh Độ Tùng Thư 20 quyển

mới mua chưa lâu (lúc ấy, còn đang trong thời kỳ ấn hành, chưa in xong

toàn bộ) tặng cho Truyền Đạo học trưởng, đem các tự điển Từ Hải và

Khang Hy tặng cho pháp sư Minh Quảng. Cố lão sư có tặng cho tôi một

bản Thánh Giáo Tự của Vương Hy Chi, mang từ Đại Lục qua, thật là

của báu vô giá, tôi cũng tặng luôn cho bạn đồng học là Ngộ Khiết. Áo

hải thanh và y ca sa tặng luôn cho bạn đồng học là Ngộ Quán. Còn thì

đồ đạc trong ngoài, dù lớn hay nhỏ đều tặng hết cho đại chúng, chỉ còn

mỗi một cái túi da xấu xí là chưa tặng ai cả. Lòng nghĩ nếu như trong

quân đội, vạn nhất mình may mắn bỏ xác cũng là nguyện vọng của mình

đã thành đạt. Vì sao vậy? Vì tôi đã sớm chuẩn bị, nhớ Kinh Địa Tạng

có dạy: “Hết thảy công đức đã làm khi còn sống, đều thọ được hết cả.

Nhưng chết đi, làm hết thảy công đức thì bảy phần chỉ được hưởng một

phần”. Cho nên những điều mình có thể làm được trong khả năng của

mình thì đều làm hết.

Page 11: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

11

Vì thế, một hai ngày trước khi nhập ngũ, tôi đem số tiền tín đồ

cúng dường là bảy ngàn đồng, chia thành ba phần: Một phần là năm

ngàn đồng tặng cho công trình xây dựng Tịnh Giác Dục Ấu Viện (viện

nuôi trẻ Tịnh Giác). Một phần là sáu trăm đồng cúng dường cho huynh

đệ đồng tu. Còn tự mình chỉ mang 1.400 đồng đi nhập ngũ mà thôi.

Sau đấy, suốt ba tháng tại trung tâm huấn luyện, chịu cam khổ như

mọi người. Có tháng, tiền chỉ còn ba trăm năm mươi đồng, lại cần phải

mua thức ăn chay. Lúc ấy mới hay tiền chẳng đủ dùng, tiền là trọng yếu.

Xong hai năm quân dịch, chẳng những không chết, thân thể còn càng

thêm cường tráng, khang kiện. Thế mới biết công đức Niệm Phật chẳng

thể nghĩ bàn, quả báo cũng chẳng thể nghĩ bàn. Hiện tại tôi đã giải ngũ

hơn năm năm rồi, phải làm lại hết thảy từ đầu. Muốn mua Kinh sách gì,

hoặc là thành lập đạo tràng và những thứ cần dùng hằng ngày đều hoàn

toàn cậy vào sự nỗ lực của chính mình. Do đó, đến nay đã ba mươi tuổi

đầu rồi mới bắt đầu xây dựng đạo tràng, ngoài việc giảng Kinh, thuyết

pháp, chẳng quên đề xướng ấn loát bộ Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục.

Đấy là nhân duyên thứ hai.

Thứ ba chính là để kết duyên lành. Kinh dạy: “Lúc chưa thành Phật

nên rộng kết nhân duyên”. Kinh còn dạy: “Phật đạo kiến lập trên thân

chúng sanh. Nếu không có chúng sanh nào để độ thì chư Phật chẳng thể

thành Chánh Giác”. Bởi thế, sau khi giải ngũ, tôi liền đối trước Phật

phát nguyện: “Phàm là ai có lòng muốn học Phật pháp thì nghĩa vụ của

con là phải dạy dỗ họ cho đến khi họ học hiểu mới thôi!”

Tiếp đó, duyên khởi in cuốn Gia Ngôn Lục là do Cư sĩ Kim Bích

Hoa và Cư sĩ Ngô Cẩm Hoàng giới thiệu nên tôi được quen biết Cư sĩ

Page 12: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

12

Khưu Bính Lân và vợ là Cư sĩ Khưu Ngô Sắc. Họ nói trước đây đã từng

học hiểu cuốn Tứ Kinh Hợp Đính Bổn, hiện tại muốn học Tam Muội

Thủy Sám, xin tôi phát tâm giảng dạy cho họ. Tôi liền đáp: “Được”.

Lúc đó Ngô Cư sĩ và tín đồ của họ đang có mặt đều phát tâm muốn học,

muốn đến Chùa tôi, xin tôi mỗi một tuần chọn một ngày nhất định đến

chỗ họ giảng dạy. Tôi nói: “Trước mắt, Phật Quang Viện chưa lạc

thành, dự định ngày 19 tháng Sáu năm nay, đúng ngày thành đạo của

Quán Thế Âm Bồ Tát sẽ làm lễ khai quang thánh tượng (khéo sao, ngày

ấy lại đúng vào Chủ Nhật). Hiện tại trong Phật Tổ Hội đang tích cực

quyên góp. Hội này do hai vị Cư sĩ Kim Bích Hoa và Ngô Bảo Ngọc

cùng phát khởi. Một hội chọn ra tên hai người, lần lượt chia phiên nhau

xuất ra năm trăm đồng trong một tháng nào đó, định hạn là hai mươi

tháng, cho đủ một vạn đồng. Trong ấy có người thanh toán trong một

lần, có người chia ra hai lần đóng góp tùy sức mỗi người (mục đích là

đại chúng hóa, phổ biến hóa, để người hữu duyên có cơ hội tham dự

công đức đúc kim thân Phật)”.

Khưu Cư sĩ nghe xong liền phát nguyện đúc tượng Tây Phương

Tam Thánh, ngoài ra thì tham gia một hội hoặc hai hội khác nhau. Kinh

nói: “Lục độ vạn hạnh, bố thí làm đầu, trong các nhiệm vụ cấp bách của

việc phát tâm thì hỷ xả là bậc nhất”. Chúa trời Đao Lợi xưa làm Cư sĩ,

trông thấy tượng Phật bị hư nát không chịu nổi, bèn phát tâm rủ rê bè

bạn ba mươi hai người, tạo kim thân Phật. Do nhân duyên ấy, sau khi

mạng chung, sanh làm Đế Thích Thiên Chúa, tục gọi là Ngọc Hoàng

Đại Đế. Ba mươi hai người kia mỗi người làm chúa một cõi Trời, thống

trị nhân dân trong nước mình, phước đức, trí huệ vô lượng, được người

đời lễ bái.

Page 13: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

13

Bởi vậy, kính mong chư vị Đại Đức đều sanh lòng hoan hỷ hớn

hở, phát lòng tùy hỷ, xuất tiền, xuất lực, tam luân không tịch (4), vô trụ

sanh tâm, công đức vô lượng. Hiện tại muốn ấn loát hơn một ngàn cuốn

Gia Ngôn Lục, riêng Khưu Cư sĩ đã phát tâm xin in một ngàn cuốn.

Đem công đức này hồi hướng pháp giới chúng sanh cùng sanh Tịnh Độ.

Đấy là nhân duyên thứ ba.

Ba điều duyên khởi vừa lược thuật trên đây đều nói đúng theo sự

thực, chứ chẳng phải là lời thêu dệt, cốt để bày tỏ những điều ấp ủ trong

lòng tôi, nhằm nói lên nguyện lực Phật Di Đà rộng sâu, công đức niệm

Phật thù thắng, đọc Văn Sao lợi ích vô tận. Chỉ nguyện bậc trưởng bối

xem đến, phát lòng từ bi chỉ dạy, người ngang hàng nghe đến, sanh ý

niệm tham khảo, tùy hỷ. Kẻ vãn bối biết đến sẽ sanh lòng hỗ trợ, tăng

trưởng pháp. Từ một truyền mười, mười truyền trăm, trăm truyền ngàn,

ngàn truyền vạn, cha mẹ dạy bảo con cái, thầy dạy trò, quan trên dạy

bảo cấp dưới, từ gần lan ra xa, phổ độ hữu tình, chỉ mong mình lẫn

người cùng dự trong Liên Trì Hải Hội, chúng u minh cùng nhập Di Đà

Nguyện Hải, đều thành Chánh Giác, cùng hóa độ chúng sanh.

Con chỉ mong mười phương Tam Bảo, hộ pháp long thiên cùng

xét soi tấm lòng thành khẩn của con đỏ, cùng rủ lòng từ mẫn gia bị. Phổ

nguyện thập phương thiện tín, chư vị Đại Đức, đều sanh tâm từ bi hỷ

xả, cùng khởi ý niệm ủng hộ Tam Bảo. Chỉ mong những ai thấy nghe

đều phát Bồ Đề tâm, hết một báo thân này, cùng sanh về Cực Lạc. Nếu

được như thế thì pháp môn may mắn lắm, chúng sanh may mắn lắm!

Page 14: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

14

Trung Hoa Dân Quốc năm thứ 71 (1982), tháng Giêng âm lịch, tiết

Nguyên Tiêu, Bản Kiều Thường Tàm Quý Tăng Thích Ngộ Tông kính

soạn

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

PHẦN I

I. TỊNH ĐỘ THÙ THẮNG

* Lớn lao thay! Điều được pháp môn Tịnh Độ chỉ dạy là “tâm này

làm Phật, tâm này là Phật”, chỉ thẳng tâm người. Nếu vẫn cho là kém

kỳ lạ, đặc biệt thì mỗi niệm niệm Phật chính là thành Phật ngay trong

niệm ấy. Độ khắp ba căn, thống nhiếp Thiền, Luật, Giáo. Như mưa đúng

thời nhuần thấm vạn vật; giống như biển cả dung nạp trăm sông.

Hết thảy pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm, không pháp nào chẳng phát

xuất từ pháp giới này. Hết thảy hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thiệt, không

hạnh nào chẳng quy về nơi pháp giới này. Chẳng đoạn Hoặc nghiệp,

liền được dự vào hàng Bổ Xứ, viên mãn Bồ Đề ngay trong một đời này.

Chúng sanh trong cửu giới lìa môn này thì trên là chẳng thể viên thành

Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới là chẳng

thể lợi khắp quần manh. Bởi đó, trọn Hoa Nghiêm hải chúng cùng tuân

theo mười đại nguyện vương; Pháp Hoa vừa xưng một tiếng liền chứng

Thật Tướng các pháp.

Page 15: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

15

Tịnh Độ là hạnh phương tiện tối thắng nên trong luận Khởi Tín,

Ngài Mã Minh bảo là dễ hành mau đến; Ngài Long Thọ xiển dương

pháp này trong luận Tỳ Bà Sa. Hậu thân của đức Thích Ca là Ngài Trí

Giả nói ra Thập Nghi Luận chuyên chí Tây Phương. Sư Vĩnh Minh là

Phật Di Đà thị hiện, soạn Tứ Liệu Giản, chung thân niệm Phật dẫn tam

thừa ngũ tánh cùng chứng Chân Thường, đưa thượng thánh hạ phàm

cùng lên bờ kia.

Vì thế pháp môn này cả cửu giới cùng hướng về, mười phương

cùng khen ngợi. Ngàn Kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên

thuyết. Thật có thể nói là pháp cực đàm của một đời giáo hóa của Đức

Phật, là đại giáo Nhất Thừa vô thượng. Chẳng trồng cội đức thì trải bao

kiếp khó gặp được. Đã được thấy nghe phải siêng tu tập.

* Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật,

niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả

bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ. Còn đời này nếu bỏ Tịnh Độ thì

hoàn toàn chẳng chứng được đạo quả. Ấy là vì cách biệt thánh đã xa,

căn tánh con người hèn kém, nếu chẳng cậy vào Phật lực, quyết khó

được giải thoát.

Như đã nói: “Pháp môn Tịnh Độ nhiếp khắp căn cơ thượng, trung,

hạ; cao trỗi hơn Luật, Giáo, Thiền Tông, thực là lòng từ bi triệt để của

chư Phật, chỉ bày thể tánh sẵn có của chúng sanh, dẫn tam thừa ngũ tánh

đồng quy cõi tịnh, đưa thượng thánh hạ phàm cùng chứng Chân

Thường. Cửu giới chúng sanh lìa pháp này thì trên chẳng thể viên thành

Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn này thì dưới chẳng thể

lợi khắp quần manh”.

Page 16: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

16

Thế nên, vãng Thánh tiền Hiền (thánh hiền đời trước) ai nấy đều

hướng về. Ngàn Kinh vạn luận đâu đâu cũng chỉ quy. Từ sau hội Hoa

Nghiêm dẫn khởi quy hướng, các đại Bồ Tát tận khắp mười phương

Thế Giới không vị nào chẳng cầu sanh Tịnh Độ; kể từ khi diễn thuyết

tại Kỳ Viên đến nay, cuối hết thảy các trước thuật của Tây Thiên, Đông

Độ đều quy kết Liên Bang.

* Cổ nhân nói: “Thân người khó được, trung quốc (1) khó sanh,

Phật pháp khó nghe, sanh tử khó xong”. Chúng ta may mắn được thân

người, sanh ở trung quốc, được nghe Phật pháp. Điều bất hạnh là tự

thẹn nghiệp chướng sâu nặng, không sức đoạn Hoặc để mau thoát khỏi

Tam Giới, liễu sanh thoát tử; nhưng lại may mắn được nghe đức Như

Lai ta tâm bi triệt để nói ra pháp môn Tịnh Độ là pháp đại quyền xảo,

phương tiện lạ lùng, khiến hàng phàm phu lè tè sát đất được đới nghiệp

Vãng Sanh, thật không còn gì may mắn hơn nữa! Nếu chẳng phải là từ

vô lượng kiếp đến nay đã trồng thiện căn sâu dày, làm sao nghe được

pháp chẳng thể nghĩ bàn này? Chẳng nên gấp sanh lòng tin chân thành,

phát nguyện cầu sanh ư?

* Trộm nghe Tịnh Độ chính là pháp tỏ bày rốt ráo bổn hoài của

Phật, cao vượt hết thảy Thiền - Giáo - Luật, thống nhiếp hết thảy Thiền

- Giáo - Luật. Nói gọn thì một lời, một câu, một kệ, một sách đều có thể

gồm trọn không còn sót. Nói rộng ra, dù huyền ngôn của Tam Tạng

mười hai bộ Kinh, diệu nghĩa của chư Tổ năm tông cũng chẳng thể diễn

giảng trọn pháp môn Tịnh Độ này.

Giả sử khắp cả đại địa chúng sanh đều thành Chánh Giác, hiện

tướng lưỡi rộng dài, dùng sức thần thông, sức trí huệ, vi trần nói, cõi

Page 17: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

17

nước nói, nói hăm hở, nói không gián đoạn, vẫn còn chưa thể tận nổi!

Bởi lẽ Tịnh Độ vốn là chẳng thể nghĩ bàn.

Hãy thử nghĩ xem: Hoa Nghiêm đại Kinh là vua trong Tam Tạng,

trong phẩm cuối cùng quy trọng nơi nguyện vương. Áo điển Pháp Hoa

mầu nhiệm đứng đầu các Kinh, nghe Kinh liền Vãng Sanh, địa vị ngang

với Đẳng Giác. Vậy thì ngàn Kinh muôn luận đâu đâu đều chỉ quy Tịnh

Độ là có nguyên do vậy.

Văn Thù phát nguyện, Phổ Hiền khuyến khích. Trong hội Đại Tập,

đức Như Lai thọ ký rằng: Trong đời Mạt Pháp, không do pháp này

chẳng thể đắc độ. Trong luận Tỳ Bà Sa, Ngài Long Thọ phán định là

pháp dễ hành, mau thoát sanh tử. Thế nên, vãng Thánh tiền hiền người

người hướng đến, nào phải phí công toi! Thật có thể nói là cả một đời

giáo hóa đều chỉ là để đặt cơ sở cho pháp môn Niệm Phật!

Chẳng phải chỉ có thế! Phàm hết thảy cảnh giới đối ứng sáu căn,

tức là: núi, sông, đại địa, sáng, tối, sắc, không, thấy, nghe, hay, biết,

thanh, hương, vị v.v... không gì chẳng phải là văn tự để phô diễn, xiển

dương Tịnh Độ đó sao? Lạnh - nóng đắp đổi, già - bệnh chen nhau, lụt,

hạn, chiến tranh, tật dịch, bạn ma, tà kiến, không gì chẳng phải là để răn

nhắc cảnh tỉnh con người mau cầu sanh Tịnh Độ đó ư? Nói rộng ra, há

có thể trọn hết được sao?

Còn như bảo “một lời đã gộp hết cả” thì lời đó là “Tịnh”. Tịnh đến

cùng cực thì sáng tỏ, thông suốt. Nếu chưa đạt Diệu Giác, há dễ đảm

đương nổi một lời này ư? Nghiên cứu bài tụng Lục Tức Thành Phật thì

sẽ biết.

Page 18: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

18

“Một câu” là “Tín, Nguyện, Hạnh”. Với Tín - Nguyện - Hạnh thì

không Tín chẳng đủ để khởi Nguyện. Không Nguyện thì chẳng đủ để

dẫn dắt Hạnh. Không có diệu hạnh Trì Danh thì chẳng đủ để viên mãn

điều mình Nguyện, chứng điều mình tin. Hết thảy Kinh Luận Tịnh Độ

đều phát minh ý chỉ này.

“Một kệ” là kệ tán Phật: Nêu chánh báo để gồm thâu y báo, thuật

Hóa Chủ để bao gồm đồ chúng; tuy chỉ gồm tám câu nhưng đã nêu trọn

đại cương của cả ba Kinh Tịnh Độ.

Một cuốn sách là cuốn Tịnh Độ Thập Yếu. Chữ chữ đều là bến cầu

cho đời Mạt Pháp. Lời lời đều là gương báu của Liên Tông. Buốt lòng

trào lệ, phanh tim vẩy máu, xứng tánh phát huy, chỉ bày cốt tủy. Dù

dùng những thí dụ như cứu người chết đuối, cứu người bị lửa cháy vẫn

chẳng thể diễn tả lòng thống thiết của chư Tổ được. Bỏ qua sách này thì

chánh tín không do đâu mà sanh được, tà kiến không do đâu mà diệt

được!

* Nên biết rằng chúng ta từ vô thỉ đến nay đã tạo ác nghiệp vô

lượng, vô biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng

thì mười phương hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Lẽ đâu tu trì lơ

mơ, hời hợt, lại tiêu nổi được nghiệp ư? Bởi vậy, Thích Ca, Di Đà, giáo

chủ hai cõi, đau đáu nghĩ đến chúng sanh không sức đoạn Hoặc, riêng

mở ra một pháp môn nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp Vãng

Sanh. Lòng hoằng từ đại bi ấy dù trời đất, cha mẹ cũng chẳng thể bằng

được một phần Hằng hà sa. Chỉ nên phát lòng thẹn hổ, phát tâm sám

hối mới tự có thể được Phật gia bị, nghiệp tiêu, thân an thôi!

Page 19: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

19

* Hòa Thượng Thiện Đạo nói: “Nếu muốn học về Giải thì hết thảy

các pháp từ địa vị phàm phu cho đến địa vị Phật, không pháp nào chẳng

nên học. Nếu muốn học về Hạnh, nên chọn lấy một pháp khế lý, khế

cơ, chuyên tinh tận sức mới mau chứng được lợi ích chân thật. Nếu

không thì từ kiếp này qua kiếp nọ vẫn khó xuất ly!” Pháp khế lý, khế

cơ Ngài nói đó không gì hơn là Tín Nguyện Trì Danh Cầu Sanh Tây

Phương!

* Kinh A Di Đà, Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ

gọi là “Tịnh Độ Tam Kinh”, chuyên luận về sự lý duyên khởi của Tịnh

Độ. Các Kinh Đại Thừa khác đều nói kèm về Tịnh Độ. Nhưng Kinh

Hoa Nghiêm chính là khi đức Như Lai mới thành Chánh Giác, vì bốn

mươi mốt địa vị Pháp Thân Đại Sĩ mà xứng tánh giảng thẳng diệu pháp

Nhất Thừa. Cuối Kinh, Thiện Tài đi tham học khắp các thiện tri thức.

Sau khi chứng ngộ như chư Phật, Thiện Tài đồng tử được Phổ Hiền Bồ

Tát giảng cho nghe mười đại nguyện vương. Ngài dạy Thiện Tài và

khắp Hoa Nghiêm hải chúng hồi hướng Vãng Sanh Tây Phương Cực

Lạc Thế Giới ngõ hầu được viên mãn Phật Quả.

Trong Quán Kinh, phần nói về hạ phẩm hạ sanh, kẻ ngũ nghịch -

thập ác đủ các điều bất thiện, lúc lâm chung tướng địa ngục hiện, có

thiện tri thức dạy cho niệm Phật. Kẻ ấy liền vâng lời dạy, xưng niệm

Phật danh, chưa đầy mười tiếng liền thấy Hóa Thân Phật đưa tay tiếp

dẫn Vãng Sanh.

Kinh Đại Tập dạy: “Đời Mạt Pháp ức ức người tu hành, hiếm có

một người đắc đạo. Chỉ có nương vào Niệm Phật mới thoát khỏi sanh

tử”. Do đấy, ta biết rằng pháp niệm Phật là đạo để thượng thánh hạ

Page 20: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

20

phàm cùng tu, là pháp dù trí hay ngu đều hành được. Hạ thủ dễ, thành

công cao, dùng sức ít nhưng được hiệu quả nhanh. Do chuyên cậy vào

Phật lực nên lợi ích thù thắng, vượt trội những giáo pháp thông thường.

Người xưa nói: “Các môn khác học đạo như kiến bò lên núi cao. Niệm

Phật Vãng Sanh như căng buồm thuận gió, nước xuôi”, thật rất khéo

hình dung vậy!

* Đại Giác Thế Tôn thương các chúng sanh mê trái tự tâm, luân

hồi lục đạo, trải bao kiếp dài lâu chưa thể thoát ra. Do vậy, Ngài hưng

khởi Vô Duyên Từ, vận lòng bi đồng thể, thị hiện sanh trong thế gian,

thành Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi nói rộng các pháp. Nói đại

cương, gồm có năm tông. Năm tông gì? Là Luật, là Giáo, là Thiền, là

Mật, là Tịnh.

Luật là thân Phật, Giáo là lời Phật, Thiền là tâm Phật. Sở dĩ Phật

được gọi là Phật chỉ là do ba pháp này mà thôi. Sở dĩ đức Phật độ sanh

cũng chỉ là do ba pháp này. Nếu chúng sanh thật sự có thể nương theo

Luật, Giáo, Thiền tu trì thì ba nghiệp của chúng sanh sẽ chuyển thành

ba nghiệp của chư Phật. Ba nghiệp đã chuyển thì phiền não chính là Bồ

Đề, sanh tử chính là Niết Bàn.

Lại sợ túc nghiệp sâu nặng chẳng thể dễ chuyển nên dùng sức đà-

ra-ni tam mật gia trì để un đúc. Hoặc lại sợ rằng căn khí kém cỏi, chưa

được giải thoát, phải thọ sanh lần nữa sẽ khó tránh khỏi mê lầm; vì thế

đặc biệt mở ra một môn tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ, ngõ

hầu dù thánh hay phàm đều cùng Vãng Sanh Tây Phương ngay trong

đời này. Bậc thánh thì mau chứng Vô Thượng Bồ Đề, kẻ phàm thì vĩnh

Page 21: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

21

viễn thoát khỏi sanh tử trói buộc. Do dựa vào từ lực của Phật nên công

đức, lợi ích chẳng thể nghĩ bàn.

Nên biết rằng: Luật là nền tảng của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật. Nếu

chẳng nghiêm trì giới cấm sẽ chẳng thể đạt được lợi ích chân thật nơi

Giáo, Thiền, Tịnh, Mật. Như lầu cao vạn trượng, nếu nền móng chẳng

vững thì chưa cất xong đã sụp. Tịnh là chỗ quy túc của Giáo, Thiền,

Tịnh, Mật, như trăm sông, vạn dòng đều đổ vào biển cả.

Bởi lẽ, pháp môn Tịnh Độ là pháp môn để mười phương chư Phật

trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh, thành thỉ, thành chung. Vì thế

trong phẩm Nhập Pháp Giới Kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài được Ngài

Phổ Hiền gia bị, khai thị, chứng được Đẳng Giác. Đức Phổ Hiền lại

khuyên Thiện Tài nên phát mười đại nguyện vương, hồi hướng Vãng

Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới ngõ hầu mau viên mãn Phật Quả.

Ngài lại dùng pháp này phổ khuyến toàn bộ Hoa Tạng đại chúng nên tu

tập như thế.

Trong Quán Vô Lượng Thọ Phật Kinh, phần nói về Hạ Phẩm Hạ

Sanh, hạng người ngũ nghịch thập ác, sắp đọa địa ngục A Tỳ, được

thiện tri thức dạy cho niệm Phật, niệm mười tiếng hoặc chỉ niệm mấy

tiếng là mạng chung, cũng vẫn được Phật tiếp dẫn Vãng Sanh Tây

Phương.

Xem đó thì trên từ bậc Đẳng Giác Bồ Tát chẳng thể ra khỏi pháp

này, dưới đến kẻ tội ngũ nghịch, thập ác cũng có thể chứng nhập pháp

này. Công đức, lợi ích của pháp môn đây vượt trỗi hơn các giáo pháp

khác trong cả một đời giáo hóa của Đức Phật. Bởi lẽ, các giáo pháp

khác toàn dạy dùng tự lực để thoát ly sanh tử. Kẻ chưa đoạn Hoặc,

Page 22: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

22

nương vào từ lực của Phật liền có thể đới nghiệp Vãng Sanh. Kẻ đã

đoạn Hoặc nếu nương theo từ lực của Phật sẽ chóng chứng được phẩm

vị cao.

Vì thế, đây là một pháp môn đặc biệt nhất trong cả một đời giáo

hóa của Đức Phật, chẳng thể dùng những giáo pháp thông thường để

bàn luận pháp này được! Do đó, các Kinh Đại Thừa như Kinh Hoa

Nghiêm, Pháp Hoa v.v..., các đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền...; các

Đại Tổ Sư như Long Thọ, Mã Minh... đều hiển thị, xiển dương, khen

ngợi, chỉ dạy, phổ khuyến Vãng Sanh.

* Đức Di Đà, đức Thích Ca trong những kiếp xưa, phát đại thệ

nguyện độ thoát chúng sanh. Vị này thì thị hiện sanh trong uế độ, dùng

nhơ, dùng khổ chiết phục, hòng đưa chúng sanh đi. Vị kia thì an cư Tịnh

Độ, dùng tịnh, dùng vui nhiếp thọ để lôi kéo, uốn nắn.

Ông chỉ thấy ngu phu, ngu phụ cũng niệm Phật được bèn coi

thường Tịnh Độ; sao chẳng thấy trong phẩm Nhập Pháp Giới của Kinh

Hoa Nghiêm, sau khi Thiện Tài đã chứng ngộ ngang với chư Phật thì

Phổ Hiền Bồ Tát bèn chỉ dạy phát khởi mười đại nguyện vương, hồi

hướng Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới hòng viên mãn Phật

Quả? Huống hồ Bồ Tát còn đem pháp này khuyên khắp cả Hoa Tạng

hải chúng nữa? Hoa Tạng Hải Chúng không một ai là phàm phu, nhị

thừa, toàn là Pháp Thân Đại Sĩ thuộc bốn mươi mốt địa vị, cùng phá vô

minh, cùng chứng pháp tánh, đều có thể do bổn nguyện hiện làm Phật

trong Thế Giới không có Phật.

Hơn nữa, trong biển Hoa Tạng, tịnh độ vô lượng, nhưng ai nấy đều

hồi hướng Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới, đủ biết là Vãng

Page 23: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

23

Sanh Cực Lạc chính là huyền môn để thoát khổ, là đường tắt để thành

Phật. Vì thế, từ xưa tới nay, trong tất cả tùng lâm Thiền, Giáo, Luật,

không đâu chẳng sớm chiều trì danh hiệu Phật cầu sanh Tây Phương

vậy.

* Hết thảy chúng sanh vốn sẵn có trí huệ, đức tướng Như Lai. Chỉ

do mê chân theo vọng, quay lưng với Giác, xuôi theo trần lao, nên toàn

thể chuyển thành phiền não, ác nghiệp. Vì thế phải trải bao kiếp dài lâu,

luân hồi sanh tử. Như Lai thương xót giảng ra các pháp khiến họ bỏ

vọng quy chân, ngoảnh mặt với trần lao, xuôi theo giác ngộ, khiến cho

toàn thể phiền não ác nghiệp lại trở thành trí huệ, đức tướng. Từ đây

cho đến cùng tột đời vị lai, an trụ trong cõi Thường Tịch Quang. Khác

nào nước đóng thành băng, băng lại tan thành nước, thể vốn chẳng khác,

nhưng công dụng thực khác nhau một trời một vực.

Nhưng căn cơ chúng sanh có Tiểu, có Đại, mê có cạn, có sâu; Phật

tùy thuận cơ nghi của mỗi người khiến ai nấy đều được lợi ích. Pháp

môn Ngài nói ra mênh mông như Hằng sa, nhưng cầu lấy pháp chí viên,

chí đốn, tối diệu, tối huyền, hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít được

hiệu quả nhanh, độ khắp ba căn, thống nhiếp các pháp, thượng thánh hạ

phàm cùng chung tu, đại cơ cùng tiểu căn cùng lãnh thọ được thì không

gì thù thắng, siêu tuyệt bằng pháp môn Tịnh Độ. Vì sao nói thế?

Hết thảy pháp môn tuy đốn - tiệm khác nhau, quyền - thật đều

khác, nhưng đều phải dụng công tu tập sâu xa mới hòng đoạn Hoặc,

chứng chân, xuất ly sanh tử, siêu phàm nhập thánh. Đó gọi là cậy vào

tự lực, không nương dựa vào điều gì khác cả. Nếu như còn chút Hoặc

chưa tận thì vẫn bị luân hồi như cũ. Đấy đều là các pháp phải thấu đạt

Page 24: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

24

lý rất sâu, chẳng dễ tu tập. Nếu chẳng phải hạng sẵn có linh căn từ trước,

đời này thật khó lòng chứng nhập.

Chỉ có mình pháp môn Tịnh Độ, chẳng luận là phú quý hay bần

tiện, già, trẻ, gái, trai, trí, ngu, tăng, tục, sĩ, nông, công, thương, hết thảy

hạng người đều tu tập được là do đại bi nguyện lực của đức A Di Đà

Phật nhiếp thủ chúng sanh khổ não cõi Sa Bà. Vì thế, so với các pháp

môn khác, tu Tịnh Độ đắc quả dễ dàng hơn.

* Một niệm tâm tánh của chúng sanh và một niệm tâm tánh của

Phật chẳng hai. Tuy còn mê chưa giác, khởi Hoặc tạo nghiệp, gây đủ

các tội, Phật tánh sẵn có vẫn không bị tổn thất. Ví như ma-ni bảo châu

vứt nhà xí, sánh cùng phẩn uế trọn chẳng khác gì. Kẻ ngu chẳng biết là

báu, coi hệt như phẩn uế. Người trí biết là diệu bảo vô giá, chẳng hiềm

ô uế, vào trong nhà xí nhặt lên, dùng đủ mọi cách gột rửa cho sạch. Sau

đó, treo lên tràng cao, liền phóng đại quang minh, tùy lòng người muốn

gì đều tuôn khắp các thứ báu. Bởi đó kẻ ngu mới biết là quý báu.

Đại Giác Thế Tôn thấy các chúng sanh cũng giống như vậy: do

hôn mê, đảo, Hoặc, gây đủ ngũ nghịch, thập ác, vĩnh viễn đọa trong

đường ác tam đồ; Phật không hề có tâm niệm vứt bỏ, luôn tìm kiếm cơ

duyên, hiển nhiên hoặc ngầm gia bị cho, vì họ thuyết pháp, mong họ

giũ sạch Hoặc nghiệp huyễn vọng, ngộ Phật tánh chân thường, mãi cho

đến khi viên chứng Vô Thượng Bồ Đề mới thôi. Đối với kẻ tội tày đình,

ác cùng cực cũng vẫn như vậy. Với kẻ tội nghiệp ít, dạy cho tu Giới và

Thiện. Với người có sức thiền định sâu, không một ai là chẳng được

Phật hóa độ như vậy.

Page 25: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

25

Phàm là trong tam giới, người nhiếp được tâm, chế ngự được các

phiền hoặc, nhưng còn chấp thân, tình chủng vẫn còn; một khi phước

báo hết, sanh xuống cõi dưới, gặp cảnh, đụng duyên, lại khởi Hoặc tạo

nghiệp. Do nghiệp cảm khổ, luân hồi lục đạo không lúc nào xong. Vì

thế Kinh Pháp Hoa bảo: “Ba cõi không an giống như nhà cháy. Các khổ

đầy dẫy, thật đáng sợ hãi”. Nếu chẳng phải là kẻ nghiệp tận, tình không,

đoạn Hoặc chứng chân thì chẳng có hy vọng thoát khỏi tam giới.

Nay chỉ có mỗi pháp môn Tịnh Độ, cốt sao lòng tin chân thành,

nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, liền có thể nương Phật từ lực Vãng

Sanh Tây Phương. Đã được Vãng Sanh liền nhập Phật cảnh giới, thọ

dụng như Phật, phàm tình, thánh kiến thứ gì cũng chẳng sanh. Thật là

ngàn phần ổn thỏa, vạn phần thích đáng, là pháp môn vạn phần chẳng

thể bỏ sót vậy. Nay đang lúc Mạt Pháp, bỏ pháp môn này thì không còn

có cách nào khác cả.

* Phật quang chính là trí huệ có sẵn ngay trong tâm của phàm,

thánh, chúng sanh và Phật trong mười pháp giới. Tâm ấy thể lộ quang

minh chiếu suốt, trạm tịch, thường hằng, bất sanh, bất diệt, vô thỉ, vô

chung, theo chiều dọc tột cùng ba đời nhưng ba đời bởi đó mà mất hết,

theo chiều ngang trọn khắp mười phương nhưng mười phương bởi đó

tiêu sạch. Nếu bảo là Không thì vạn đức cùng hiển bày trọn vẹn. Nếu

bảo là Có thì một trần chẳng lập. Chính là hết thảy pháp nhưng lìa hết

thảy tướng. Tại phàm chẳng giảm, nơi thánh chẳng tăng. Dù có ngũ

nhãn cũng chẳng thấy được, có tứ biện tài cũng chẳng diễn tả được;

nhưng pháp nào cũng phải nương vào sức nó, chỗ nào cũng gặp nó cả.

Page 26: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

26

Nhưng do chúng sanh chưa triệt ngộ nên chẳng những không thọ

dụng được, trái lại còn dùng sức chẳng thể nghĩ bàn ấy để khởi Hoặc

tạo nghiệp. Do nghiệp cảm khổ đến nỗi sanh tử, luân hồi không lúc nào

xong, dùng chân tâm thường trụ để lãnh huyễn báo sanh diệt. Ví như

đang say thấy nhà cửa quay cuồng, nhà thật sự chẳng quay; mê bảo là

phương vị di chuyển, phương vị thật sự chẳng dời động! Toàn là do

vọng nghiệp hóa hiện, trọn không có pháp nào để được cả.

Vì thế, Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn thị hiện thành Phật đạo, lúc Ngài

chứng ngộ triệt để Phật quang bèn than:

“Lạ thay! Lạ thay! Hết thảy chúng sanh đều có đủ Như Lai trí huệ,

đức tướng, chỉ do vọng tưởng, chấp trước nên chẳng thể chứng đắc.

Nếu lìa được vọng tưởng thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí

sẽ được hiện tiền”.

Kinh Lăng Nghiêm chép: “Diệu tánh viên minh lìa các danh tướng,

vốn chẳng có Thế Giới, chúng sanh. Do vọng mà có sanh, do sanh nên

có diệt. Sanh diệt gọi là Vọng. Diệt vọng gọi là Chân. Đấy gọi là Như

Lai Vô Thượng Bồ Đề hay Đại Niết Bàn, hai danh hiệu sử dụng lẫn

nhau”.

Ngài Bàn Sơn nói: “Một mảnh trăng tâm lưỡi liềm, nuốt mất ánh

sáng muôn vật. Tâm chẳng chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn. Tâm, cảnh

cùng mất, còn là vật gì?”

Ngài Quy Sơn nói: “Linh quang riêng chiếu, thoát khỏi căn - trần.

Thể lộ chân thường, chẳng phiền văn tự. Tâm tánh chẳng nhiễm, vốn tự

viên thành. Chỉ lìa vọng niệm tức Như Như Phật”.

Page 27: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

27

Do đấy, biết rằng mọi ngôn giáo của Phật, Tổ, không lời nào chẳng

phải là nhằm chỉ bày tâm tánh sẵn có của chúng sanh, khiến họ bỏ mê

quy ngộ, phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn gốc) đó thôi! Nhưng

chúng sanh căn cơ có sâu cạn, mê có dày, mỏng, nếu chẳng nhọc nhằn

dùng mọi thứ ngôn giáo để khai thị, chỉ dẫn, dùng các thứ pháp môn để

đối trị thì mỗi người nhờ đâu mới nhìn xuyên được mây mê che lấp tánh

không, thấy được vầng tâm nguyệt?

Bởi thế, lúc Như Lai mới thành đạo, trước hết Ngài diễn giảng Đại

Hoa Nghiêm, luận thẳng vào đại pháp vượt ngoài cửu giới, chẳng xen

lẫn với pháp Quyền - Tiểu, hòng những hàng đại cơ túc căn thành thục

đều chứng Chân Thường, vượt lên bến Giác. Lại do độn căn chúng sanh

chưa được hưởng lợi ích, Phật liền khéo dẫn dụ dần dần, tùy cơ diễn

thuyết: hoặc dùng Ngũ Giới, Thập Thiện để nhiếp phục hai thừa nhân -

thiên khiến họ gieo nhân Phật đạo thù thắng; hoặc là dùng Tứ Đế, Thập

Nhị Nhân Duyên, Lục Độ Vạn Hạnh nhiếp phục ba thừa Thanh Văn,

Duyên Giác, Bồ Tát khiến họ chứng được cận duyên của Phật đạo.

Bắt đầu từ thời A Hàm cho đến thời Bát Nhã, không Kinh nào là

chẳng tuyên thuyết thuận theo căn tánh của chúng sanh, khiến họ lần

lượt tiến dần trên đường về nhà. Bổn hoài của Phật vẫn giữ kín chưa

nói. Mãi đến thời Pháp Hoa, Phật mới khai Quyền hiển Thật, khai Tích

hiển Bổn, nhân - thiên - quyền - tiểu đều là Nhất Thừa, khách làm thuê

thật là con ông trưởng giả! Ba căn đều được thọ ký, diễn bày trọn vẹn

bổn hoài xuất thế, cùng hội Hoa Nghiêm ban sơ, đầu cuối chiếu rọi lẫn

nhau. Có thể nói là một đại sự nhân duyên đem giao phó trọn vẹn, không

còn giấu diếm chút gì.

Page 28: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

28

Lại vì chúng sanh đời Mạt căn cơ hèn kém, thật chẳng ai có thể

đoạn Hoặc chứng chân. Vì thế, Phật đặc biệt mở ra một môn Tịnh Độ

hòng thượng, trung, hạ căn, dù phàm hay Thánh cùng lìa khỏi Sa Bà,

sanh về Cực Lạc ngay trong đời này, chứng dần dần vô lượng quang -

thọ. Lòng thâm từ đại bi ấy thật là chí cực không còn gì hơn được nữa!

* Phật pháp rộng sâu như biển cả. Kẻ phàm phu sát đất nào lại có

thể một hơi hút sạch tận nguồn, cạn đáy được? Tuy nhiên, nếu có thể

sanh tâm chánh tín sẽ tự có thể tùy theo sức mình được hưởng lợi ích.

Ví như Tu La, hương tượng và các loài muỗi mòng uống nước biển cả;

loài nào, loài nấy uống no mới thôi. Đức Như Lai xuất thế tùy thuận

chúng sanh thuyết pháp khiến mỗi loài được lợi ích cũng giống như thế.

Chúng sanh đời mạt nghiệp chướng sâu dày, thiện căn cạn mỏng, tâm

trí hẹp kém, thọ mạng ngắn ngủi. Đã thế, tri thức ít ỏi, ma tà, ngoại đạo

tung hoành. Tu các pháp môn khác muốn ngay trong hiện đời đoạn

Hoặc chứng chân, liễu sanh thoát tử thật là một việc hy hữu cực khó.

Chỉ mỗi mình pháp Tịnh Độ chuyên cậy vào Phật lực. Thế nên

chẳng cần biết đến Đoạn, Chứng, chỉ trọng Tín - Nguyện. Nếu có đủ tín

- nguyện, dẫu là hạng tội ác cực đại sắp đọa A Tỳ địa ngục vẫn có thể

nương vào sức thập niệm, mau chóng được Phật từ tiếp dẫn Vãng Sanh.

Ôi! Như Lai đại từ phổ độ chẳng bỏ sót một ai. Chỉ mình pháp này thật

là tóm thâu trọn khắp.

* Pháp môn Niệm Phật nguyên lai ra sao? Do một niệm tâm tánh

của chúng ta giống như hư không thường hằng, bất biến. Tuy thường

chẳng biến, nhưng lại niệm niệm tùy duyên. Nếu chẳng duyên theo Phật

giới sẽ duyên theo cửu giới. Chẳng duyên theo tam thừa sẽ duyên theo

Page 29: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

29

lục đạo. Chẳng duyên theo nhân thiên, ắt sẽ duyên theo tam đồ. Do

duyên theo nhiễm - tịnh sai khác thành ra quả báo sướng - khổ khác xa.

Dù bản thể trọn chẳng biến đổi, nhưng Tướng và Dụng dĩ nhiên

khác biệt một trời, một vực! Ví như hư không, mặt trời chiếu thì sáng,

mây đùn thì tối. Tuy bản thể của hư không chẳng vì mặt trời hay mây

mà tăng, giảm, nhưng tướng trạng hiện rõ hay ngăn che cố nhiên chẳng

thể nói là cá mè một lứa. Do nghĩa này, Như Lai dạy mọi chúng sanh

duyên niệm nơi Phật.

Vì thế mới nói: “Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật, niệm Phật thì hiện

tại, tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật chẳng xa”.

Lại nói: “Chư Phật Như Lai là pháp giới thân vào trong tâm tưởng

của hết thảy chúng sanh. Vì thế, lúc tâm các ngươi tưởng Phật thì tâm

ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp phụ. Tâm này làm Phật,

tâm này là Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật từ tâm tưởng sanh”.

Hễ duyên theo Phật giới thì tâm này làm Phật, tâm này là Phật.

Nếu duyên theo các giới chúng sanh thì tâm này làm chúng sanh, tâm

này là chúng sanh. Đã hiểu vậy rồi mà vẫn chẳng niệm Phật, thật là

chuyện chưa từng có! Một pháp Niệm Phật lấy vạn đức hồng danh của

Như Lai làm duyên, mà vạn đức hồng danh ấy chính là Vô Thượng Giác

Đạo do đức Như Lai đã chứng khi Ngài đắc quả. Do lấy Quả Địa Giác

(sự giác ngộ khi đã chứng quả) làm Nhân Địa Tâm (cái tâm dùng để tu

nhân), cho nên Nhân trùm biển Quả, Quả thấu tột nguồn Nhân. Như

người nhiễm hương, thân có mùi thơm; như tò vò nuôi nhện, lâu ngày

hóa tò vò con (3). Thành Phật ngay trong đời này, chuyển phàm thành

Thánh; công năng, lực dụng của pháp này vượt xa hết thảy các pháp

Page 30: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

30

môn khác trong cả một đời giáo hóa của Đức Phật. Bởi lẽ, các pháp

môn khác đều cậy vào Tự Lực, phải đoạn Hoặc chứng chân mới hòng

liễu sanh thoát tử.

Pháp môn Niệm Phật: Tự Lực và Phật Lực cả hai cùng đủ. Bởi thế,

người đã đoạn Hoặc Nghiệp sẽ mau chứng Pháp Thân. Người đầy dẫy

Hoặc Nghiệp thì đới nghiệp Vãng Sanh. Pháp này cực kỳ bình thường,

dù là kẻ ngu phu, ngu phụ cũng được hưởng lợi ích; nhưng lại cực kỳ

huyền diệu, dẫu là Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thoát khỏi phạm vi

của pháp này. Vì thế, không một ai là chẳng tu được. Hạ thủ dễ, thành

công cao. Dùng sức ít, hiệu quả nhanh chóng. Thật là pháp môn đặc

biệt trong cả một đời giáo hóa của Như Lai. Vì thế, chẳng thể dùng

những giáo lý thông thường để bình luận, phán đoán được! Mạt Pháp

chúng sanh phước mỏng, huệ cạn, chướng dày, nghiệp sâu, chẳng tu

pháp này, toan cậy Tự Lực để đoạn Hoặc chứng chân hòng liễu sanh tử

thật là vạn nan, vạn nan!

* Kể từ Đại Giáo truyền sang Đông (ý nói: Phật Giáo truyền sang

Trung Hoa), Lô Sơn hưng khởi Liên Xã, một xướng trăm hòa, không

đâu chẳng thuận theo. Nhưng những vị có đại công làm rạng rỡ Tịnh

tông thì đời Bắc Ngụy có Ngài Đàm Loan. Ngài Đàm Loan là bậc chẳng

thể suy lường nổi. Do có việc, Ngài phải xuống Nam gặp Lương Vũ

Đế; sau trở về Bắc, Vũ Đế thường hướng về Bắc cúi lạy, nói: “Loan

Pháp Sư là bậc nhục thân Bồ Tát!”.

Đời Trần - Tùy có Ngài Trí Giả. Đời Đường có Ngài Đạo Xước,

noi theo giáo pháp của Ngài Đàm Loan, chuyên tu Tịnh nghiệp, cả đời

giảng ba Kinh Tịnh Độ hơn hai trăm lượt. Từ cửa Ngài Đạo Xước, có

Page 31: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

31

Ngài Thiện Đạo. Cho đến các vị Thừa Viễn, Pháp Chiếu, Thiếu Khang,

Đại Hạnh thì liên phong đã thổi khắp cả trung ngoại (trong và ngoài

Trung Hoa). Do vậy, tri thức các tông không ai là chẳng dùng đạo này

để mật tu hoặc hiển hóa, tự lợi, lợi tha.

Với nhà Thiền, nếu chỉ đề cao hướng thượng thì một pháp chẳng

lập, Phật còn chẳng thèm bận tâm tới, huống là niệm Phật cầu sanh Tịnh

Độ? Đấy là Chân Đế: một pháp đã mất thì hết thảy đều mất. Nói: “Thật

Tế Lý Địa chẳng nhận một mảy trần” là nói về Tánh thể. Nếu luận đích

xác về mặt tu trì thì lại chẳng bỏ một pháp nào, chẳng làm việc thì chẳng

ăn, huống hồ niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ! Đấy là Tục Đế: một pháp đã

lập thì hết thảy đều lập.

Nói: “Trong cửa Phật sự chẳng bỏ một pháp” là nói về Tánh sẵn

đủ vậy. Nếu toan bỏ Tục Đế để luận Chân Đế thì chẳng phải là Chân

Đế, khác nào bỏ tứ đại, ngũ uẩn đi tìm tâm tánh. Thân đã chẳng còn,

tâm gởi vào đâu? Nếu dùng Tục Đế để hiển Chân Đế thì đích thực là

Chân Đế. Như ở nơi mắt thì bảo là thấy, ở tai gọi là nghe; tức là dùng

tứ đại, ngũ uẩn để hiển tâm tánh.

Những điều vừa nói trên đây chính là ý chỉ lớn lao của việc chư

Tổ ngầm tu Tịnh Độ; nhưng các Ngài chẳng giảng rộng, thuật rõ, nên

nếu chẳng hiểu sâu xa ý Tổ sẽ chẳng biết được. Cứ như quy chế kỳ đảo

cho những vị Tăng mắc bệnh và quy cách thiêu hóa, tống táng những

vị đã mất do Ngài Bách Trượng xác lập, ta thấy đều quy về Tịnh Độ.

Có vị nói: “Tu hành dùng niệm Phật là ổn thỏa, thích đáng”. Ngài

Chân Hiệt Liễu bảo: “Pháp môn Tịnh Độ chính là để tiếp dẫn căn khí

thượng thượng, chỉ kiêm tiếp dẫn căn khí trung hạ”. Ngài còn bảo:

Page 32: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

32

“Trong cả tông Tào Động hết thảy đều ngầm tu. Do vì tu Tịnh Độ thấy

Phật giản dị hơn Tông môn rất nhiều”. Ngài cũng bảo: “Dù Phật hay

Tổ, dù Giáo hay Thiền đều tu Tịnh Độ, đồng quy một nguồn”. Những

lời ấy đủ cho ta thấy được đại khái quan điểm của các Thiền Sư thời ấy.

Kịp đến Ngài Vĩnh Minh Đại Sư, bản thân là Cổ Phật, do nguyện

xuất thế mới lưu lại ngôn giáo rõ ràng, soạn sách lưu truyền, hoằng

dương. Ngài lại sợ người học chẳng rõ đường nẻo, lẫn lộn lợi hại, nên

cực lực xướng ra bài kệ Tứ Liệu Giản, có thể nói là cương tông của cả

Đại Tạng. Ngài làm bậc hướng đạo nơi đường rẽ, khiến cho người học

chỉ trong tám mươi chữ đốn ngộ yếu đạo xuất sanh tử, chứng Niết Bàn.

Tấm lòng đau đáu cứu thế của Ngài thật là thiên cổ chưa từng có.

Sau đấy, các Tông Sư đều lưu lại ngôn giáo rõ ràng, chuyên khen

ngợi pháp này như các Đại Tổ Sư: Trường Lô Trách, Thiên Y Hoài,

Viên Chiếu Bổn, Đại Thông Bổn, Trung Phong Bổn, Thiên Như Tắc,

Sở Thạch Kỳ, Không Cốc Long v.v... tuy hoằng dương Thiền Tông, vẫn

chú trọng khen ngợi Tịnh Độ.

Đến khi Liên Trì Đại Sư tham học với Tiếu Nham Đại Ngộ xong,

cân nhắc mọi bề, đề xướng: “Nếu Tịnh nghiệp đã thành, Thiền Tông sẽ

tự chứng. Giống như tắm nơi biển cả là đã dùng nước của cả trăm sông.

Thân đã đến điện Hàm Nguyên, cần gì hỏi Trường An đâu nữa!” Sau

đấy, các Đại Tổ Sư: Ngẫu Ích, Triệt Lưu, Tỉnh Am, Mộng Đông v.v...

không vị nào chẳng xướng như vậy. Bởi lẽ, lập cách hóa độ theo thời,

pháp phải phù hợp căn cơ. Nếu không như thế, chúng sanh chẳng thể

đắc độ!

Page 33: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

33

Từ đấy về sau, Phật pháp suy dần, lại thêm quốc gia lắm biến cố,

pháp luân cơ hồ ngừng chuyển. Dù có bậc trí thức ra sức chống chọi,

nhưng chẳng đủ sức, đến nỗi chẳng ai hỏi đến đạo này. Nếu có ai bàn

đến pháp này, người nghe cứ như đang bị làm phiền. May còn có một

hai vị Tăng, Tục đại tâm, in khắc lưu truyền, khiến cho những lời giáo

huấn của chư Tổ chẳng bị diệt, khiến cho người ta được tạm nghe đến

thì thật không còn gì may mắn hơn!

* Cho đến khi đại giáo truyền sang Đông, Viễn công Đại Sư (tổ

Huệ Viễn) bèn dùng pháp này lập tông. Lúc đầu, Ngài muốn cùng đồng

học là Huệ Vĩnh qua La Phù, nhưng bị pháp sư Đạo An lưu lại. Ngài

Huệ Vĩnh bèn một mình đi trước qua Tầm Dương. Thứ sử Đào Phạm

ngưỡng mộ đạo phong của Sư, bèn lập Chùa Tây Lâm cho Ngài ở. Đấy

là năm Đinh Sửu niên hiệu Thái Nguyên thứ hai (377) đời Hiếu Vũ Đế

nhà Đông Tấn. Đến năm Thái Nguyên thứ 9 (Giáp Thân - 384), Viễn

công mới đến Lô Sơn.

Thoạt đầu, Ngài trụ tại Tây Lâm, nhưng bạn tu tìm đến quá đông,

Chùa Tây Lâm chật hẹp không chứa nổi. Thứ sử Hoàn Y bèn bắt đầu

dựng Chùa tại phía Đông núi, đặt tên là Đông Lâm. Đến ngày 28 tháng

Bảy năm Canh Dần (390 - Thái Nguyên thứ 15), Viễn công bèn cùng

tăng, tục 123 người, kết Liên Xã niệm Phật, cầu sanh Tây Phương, sai

ông Lưu Di Dân soạn bài văn khắc vào đá để minh thệ.

Pháp Sư Huệ Vĩnh cũng dự vào Liên Xã. Vĩnh công sống tại Tây

Lâm, trong gian nhà tranh biệt lập trên đảnh núi. Khi ấy có người đi

Thiền hành, đến bên thất Ngài, liền ngửi thấy mùi hương lạ, nhân đó

đặt tên là Hương Cốc (hang thơm) để người khác suy ra thì biết.

Page 34: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

34

Lúc Viễn công mới kết xã, có một trăm hai mươi ba người đều là

bậc long tượng trong pháp môn, Thái Sơn - Bắc Đẩu trong làng Nho.

Do đạo phong của Viễn công lan tỏa nên đều rủ nhau tìm tới. Nếu tính

suốt cả hơn ba mươi năm trong đời Ngài thì số người dự vào Liên Xã

tu Tịnh nghiệp, được tiếp dẫn Vãng Sanh rất nhiều không thể tính nổi.

Sau này, các vị Đàm Loan, Trí Giả, Đạo Xước, Thiện Đạo, Thanh

Lương, Vĩnh Minh... không vị nào chẳng như thế cả: tự hành, dạy

người. Ngài Đàm Loan soạn Vãng Sanh Luận Chú diệu tuyệt cổ kim.

Ngài Trí Giả viết Thập Nghi Luận diễn giải đến tột cùng lẽ được mất.

Ngài soạn Quán Kinh Sớ giảng sâu xa cách quán tưởng đúng đắn. Ngài

Đạo Xước giảng ba Kinh Tịnh Độ gần hai trăm lượt. Ngài Thiện Đạo

sớ giải ba Kinh Tịnh Độ, cực lực khuyên chuyên tu. Ngài Thanh Lương

sớ giải Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm phát huy đạo rốt ráo thành Phật.

Ngài Vĩnh Minh nói Tứ Liệu Giản chỉ thẳng pháp liễu thoát ngay trong

đời này.

Từ xưa, các bậc cao nhân trong các tông, không vị nào lại chẳng

hướng lòng về Tịnh Độ, chỉ có các tông sư nhà Thiền lại chuyên ngầm

tu nên không xiển dương rõ rệt. Từ sau khi Ngài Vĩnh Minh xướng xuất,

các vị mới lưu lại ngôn giáo rõ rệt, thiết tha khuyên tu trì. Vì thế, bài

Khuyến Tu Tịnh Độ Văn của Tử Tâm Tân Thiền Sư có câu: “Di Đà rất

dễ niệm, Tịnh Độ thật dễ sanh”. Còn viết: “Người tham thiền rất nên

niệm Phật. Nếu căn cơ độn, chỉ e đời này chưa thể đại ngộ, phải nhờ Di

Đà nguyện lực tiếp dẫn Vãng Sanh”. Ngài còn viết: “Nếu ông niệm Phật

mà chẳng sanh Tịnh Độ thì lão tăng sẽ đọa trong địa ngục kéo lưỡi”.

Page 35: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

35

Tác phẩm Tịnh Độ Thuyết của Chân Hiết Liễu Thiền Sư có câu:

“Cả một tông Tào Động thảy đều chú trọng ngầm tu. Là vì sao vậy? Là

vì pháp môn Niệm Phật là đường tắt tu hành, thật dựa vào Đại Tạng,

tiếp dẫn căn khí thượng thượng kiêm tiếp dẫn căn cơ trung, hạ”.

Ngài còn viết: “Bậc đại tượng trong Tông môn đã ngộ pháp bất

hữu bất không bèn quyết chí khăng khăng nơi Tịnh nghiệp. Do Tịnh

nghiệp thấy được Phật giản dị hơn Tông môn rất nhiều”.

Ngài còn nói: “Dù Phật hay Tổ, dù Giáo hay Thiền đồng quy một

nguồn. Nhập được pháp môn này thì vô lượng pháp môn thảy đều chứng

nhập”.

Trường Lô Trách Thiền Sư kết Liên Hoa Thắng Hội phổ khuyến

đạo, tục niệm Phật cầu Vãng Sanh, cảm hai vị Bồ Tát Phổ Hiền, Phổ

Huệ trong mộng đến xin dự hội. Sư liền để tên hai vị Bồ Tát đứng đầu

hội. Đủ thấy pháp này khế lý, khế cơ, chư thánh ngầm khen ngợi.

Trong hai triều Tống Thái Tông và Tống Chân Tông, Pháp Sư Tỉnh

Thường trụ trì Chùa Chiêu Khánh ở Chiết Giang, hâm mộ đạo phong

của tổ Lô Sơn Huệ Viễn, lập Tịnh Hạnh Xã. Ông Vương Văn Chánh

Công Đán quy y đầu tiên, làm người chủ xướng. Những bậc tể quan,

châu mục, học sĩ, đại phu đều xưng là đệ tử, tham dự Tịnh Hạnh Xã đến

hơn một trăm hai mươi người. Hàng sa môn tham dự đến hơn ngàn

người, còn hàng sĩ thứ chẳng thể tính nổi số.

Sau lại có Lộ Công Văn Ngạn Bác làm quan suốt bốn triều Nhân

Tông, Anh Tông, Thần Tông, Triết Tông, xuất tướng nhập tướng hơn

năm mươi năm, quan phẩm đến chức Thái Sư, được phong là Lộ Quốc

Page 36: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

36

Công. Ông bình sinh dốc lòng tin Phật pháp, tuổi già càng tận lực hỗ

trợ đạo pháp, chuyên niệm A Di Đà Phật. Sáng, chiều, đi, đứng, chưa

từng thiếu lười. Ông cùng với pháp sư Tịnh Nghiêm kết xã 10 vạn người

ở Kinh đô để cầu sanh Tịnh Độ. Phần lớn các sĩ đại phu thời ấy đều

được ông giáo hóa. Ông có bài tụng như sau:

Tri quân khí đảm đại như thiên,

Nguyện kết Tây Phương thập vạn duyên,

Bất vị tự thân cầu kế hoạt,

Đại gia tề thượng độ đầu thuyền.

(Tạm dịch:

Biết Ngài lớn mật bằng trời,

Xin cùng Tịnh Độ kết mười vạn duyên

Cứu thân nào tính kế riêng,

Ai ai đều đã bước lên thuyền rồi!)

Ông thọ đến chín mươi hai tuổi, niệm Phật qua đời.

Đời Nguyên - Minh thì có các Ngài Trung Phong, Thiên Như, Sở

Thạch, Diệu Hiệp. Mỗi vị để lại thi ca, hoặc tạo luận giải thích, không

vị nào là chẳng cực lực xiển dương pháp khế lý, khế cơ, suốt trên, tột

dưới này. Nhưng các vị Liên Trì, U Khê, Ngẫu Ích là những người thành

khẩn, thiết tha tột bực nhất.

Page 37: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

37

Đời Thanh có Ngài Phạm Thiên Tư Tề, Hồng Loa Triệt Ngộ đều

tận lực hoằng dương đạo này. Các tác phẩm Khuyến Phát Bồ Đề Tâm

Văn của Ngài Phạm Thiên, Thị Chúng Pháp Ngữ của Ngài Hồng Loa

có thể nói là những tác phẩm tiếp nối chí nguyện cổ thánh, khai phát kẻ

học hậu lai, Kinh thiên địa, động quỷ thần. Nếu người học thật có thể

hành theo đó thì không ai là chẳng giã biệt Sa Bà, cao đăng Cực Lạc,

làm đệ tử của Phật Di Đà, làm bạn hiền trong Hải Hội.

* Cho đến khi nào căn cơ của chúng sanh hết sạch, đức Như Lai

mới nghỉ ngơi, nhưng lòng đại bi lợi sanh của Phật chẳng bao giờ cùng

tận. Do đó, các vị đại đệ tử phân phát xá lợi, kết tập Kinh Tạng mong

được lưu thông khắp mọi cõi, ngõ hầu tất cả đều được Phật pháp thấm

nhuần. Mãi đến đời Đông Hán, đại giáo mới bắt đầu truyền đến Trung

Quốc. Nhưng do phong khí chưa mở nên chỉ lưu thông ở phương Bắc.

Đến đời Tôn Ngô, vào năm Xích Ô thứ tư (241), tôn giả Khang Tăng

Khải sang giáo hóa tại Kiến Nghiệp, cảm được xá lợi của Như Lai giáng

lâm khiến cho Tôn Quyền sanh lòng tin tưởng tột bậc. Họ Tôn bèn sửa

Chùa, dựng tháp để hoằng dương pháp hóa. Nam phương bắt đầu được

thọ hưởng giáo pháp từ đấy.

Đến đời Tấn, giáo pháp lan khắp các nước Cao Ly, Nhật Bản, Miến

Điện, An Nam, Tây Tạng, Mông Cổ. Từ đấy về sau, ngày càng hưng

thịnh. Đến đời Đường, các tông đã thành lập đầy đủ, có thể nói là cực

thịnh. Các tông Thiên Thai, Hiền Thủ, Từ Ân hoằng Giáo. Lâm Tế, Tào

Động, Quy Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn hoằng Tông. Nam Sơn thì

nghiêm tịnh Tỳ Ni (Luật). Liên Tông thì chuyên tu Tịnh Độ. Giống như

các bộ chia nhau coi sóc công việc, hệt như sáu căn hỗ trợ nhau. Ấy là

vì Giáo là lời Phật, Tông là tâm Phật, Luật là hạnh Phật. Tâm, ngữ, hạnh

Page 38: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

38

ba thứ khó thể tách rời, chỉ là ước trên phương diện chú trọng vào mặt

nào mà lập danh.

Chỉ mỗi mình pháp Tịnh Độ mới nhìn thì là phương tiện để phàm

phu nhập đạo, nhưng thực ra nó là chỗ quy túc rốt ráo của các tông. Bởi

thế, kẻ sắp đọa A Tỳ được dự vào phẩm chót, bậc đã chứng ngộ ngang

với chư Phật vẫn cầu Vãng Sanh. Lúc đức Như Lai còn tại thế, ngàn

căn cơ cùng được nuôi dưỡng, vạn mạch đều quy hướng. Phật diệt độ

rồi, bậc đại sĩ hoằng pháp ai nấy chỉ hoằng dương một pháp để mong

thâm nhập được một môn.

Chư pháp dung thông, ví như ngàn hạt châu nơi cái lưới của Đế

Thích, mỗi hạt châu chẳng lẫn vào nhau, nhưng ánh sáng mỗi châu lại

chiếu vào hàng ngàn hạt châu khác, ánh sáng của ngàn hạt châu chiếu

vào một hạt châu. Soi rọi lẫn nhau nhưng chẳng tạp, riêng biệt nhưng

chẳng thể phân khai. Kẻ câu nệ vào Tích thì bảo: “Hết thảy pháp, mỗi

pháp đều sai khác”. Kẻ khéo hiểu sẽ nói: “Hết thảy pháp, các pháp viên

thông”. Như bốn cửa thành, gần cửa nào theo cửa đó mà vào. Cửa tuy

khác nhau, nhưng vào thành chẳng khác. Nếu biết ý này thì chẳng phải

chỉ có những giáo lý rất sâu do chư Phật, chư Tổ đã nói mới là pháp để

“quy chân đạt bổn” (thấu hiểu một cách chân thật, thông đạt tận nguồn

cội), minh tâm kiến tánh, mà hết thảy Ấm, Nhập, Xứ, Giới, Đại v.v...

trong khắp thế gian cũng đều là pháp để quy chân đạt bổn, minh tâm

kiến tánh! Mà mỗi một pháp cũng chính là chân, là bổn, là tâm, là tánh!

Bởi vậy, Kinh Lăng Nghiêm coi Ngũ Ấm, Lục Nhập, Thập Nhị

Xứ, Thập Bát Giới, Thất Đại đều là Như Lai Tạng Diệu Chân Như

Tánh. Vì thế bảo rằng: Hết thảy pháp không một pháp nào chẳng phải

Page 39: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

39

là Phật pháp, cũng như không một ai chẳng phải là Phật. Tiếc thay

chúng sanh châu đeo trong vạt áo trọn chẳng biết hay, ôm của báu đi ăn

xin, chịu khốn cùng oan uổng. Dùng tâm Như Lai tạo nghiệp chúng

sanh, dùng pháp giải thoát chịu khổ luân hồi, đáng thương lắm thay! Vì

thế, bậc đại sĩ hoằng pháp chẳng nề gian nan, cay đắng, dùng đủ mọi

phương tiện để khai ngộ, dẫn dắt khiến chúng sanh hiểu đúng sự lý,

nhân quả của mười pháp giới, triệt ngộ tự tánh của tâm, ngõ hầu viên

chứng rốt ráo.

Từ Đường, sang Tống, sang Nguyên, sang Minh, đến Thanh, cả

một ngàn năm, thanh giáo chẳng khuất lấp. Dẫu chẳng hưng thịnh bằng

thời Đường, nhưng cũng có thể nói là suýt soát. Từ đời Hàm Phong,

Đồng Trị trở đi, binh hỏa liên miên, đói kém liên tiếp, cao nhân ngày

một hiếm hoi, kẻ dung tục ngày càng nhiều, quốc gia chẳng bận tâm đề

xướng, tăng lữ không sức chấn hưng. Do đó, hàng cao nhân tại gia vì

chưa từng nghiên cứu Phật pháp, chuộng lầm khuôn sáo cũ của Âu -

Hàn (Âu Dương Tu, Hàn Dũ), đến nỗi đạo pháp suy sụp sát đất. Mãi

đến cuối đời Thanh, học vấn phát triển, những người thiên tư cao tìm

đọc Kinh Phật mới hay gốc đạo chính là đây, mới bèn quyết chí nghiên

cứu.

II. KHUYÊN TÍN HẠNH NGUYỆN NÊN CHÂN THÀNH, THA THIẾT

1. GIẢNG VỀ LÒNG TIN CHÂN THÀNH, TÂM NGUYỆN THA THIẾT

Page 40: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

40

* Nói đến Tín là nói phải tin Sa Bà thật là khổ, Cực Lạc thật là vui.

Sa Bà khổ vô lượng, vô biên. Nói chung, chẳng ngoài tám nỗi khổ, tức

là: sanh, già, bệnh, chết, ân ái biệt ly, oán ghét nhưng vẫn phải gặp mặt,

cầu chẳng được thỏa ý, năm ấm lừng lẫy. Tám nỗi khổ này dù người cả

đời giàu sang tột bực hay kẻ nghèo đến nỗi phải ăn mày, ai nấy đều có.

Bảy thứ đầu là quả báo do đời quá khứ cảm thành, cứ suy nghĩ kỹ ắt tự

biết, chẳng cần phải nói rõ. Nói rõ sẽ phải tốn nhiều giấy mực.

Nỗi khổ thứ tám (năm ấm lẫy lừng) là do hiện tại khởi tâm động

niệm cũng như những hành động, nói năng. Đây chính là nhân thọ khổ

trong đời sau. Nhân quả vấn vít lôi kéo liên tục từ kiếp này sang kiếp

khác chẳng thể giải thoát.

Ngũ Ấm là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc chính là cái thân do

nghiệp báo cảm thành. Thọ, Tưởng, Hành, Thức là những thứ do tâm

huyễn vọng khởi lên khi tiếp xúc với cảnh. Do các pháp thân tâm huyễn

vọng này bèn đối với sáu trần cảnh khởi Hoặc tạo nghiệp như lửa cháy

hừng hực chẳng thể dập tắt, nên bảo là “xí thạnh” (lừng lẫy).

Thêm nữa, Ấm có nghĩa là ngăn che. Do năm pháp này ngăn che

nên chân tánh chẳng thể hiển hiện, như mây dầy che khuất mặt trời. Tuy

vầng thái dương rực rỡ trọn chẳng bị tổn giảm, nhưng vì mây che lấp

nên chẳng soi thấu được. Cũng giống như thế, phàm phu chưa đoạn

Hoặc nghiệp bị năm pháp này che phủ, bầu trời chân tánh và vầng mặt

trời trí huệ chẳng thể hiển hiện được. Đấy là nỗi khổ thứ tám, chính là

cội gốc của hết thảy các khổ.

Người tu đạo sức Thiền Định sâu, đối với cảnh giới sáu trần trọn

không chấp trước, chẳng khởi oán ghét. Từ đây lại gia công dụng hạnh,

Page 41: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

41

tiến lên chứng đắc Vô Sanh thì Hoặc nghiệp hết sạch, cắt đứt căn bản

sanh tử. Nhưng công phu này thật chẳng dễ dàng gì, trong đời mạt thật

khó có ai đạt được. Vì thế phải chuyên tu Tịnh nghiệp cầu sanh Cực

Lạc, nương Phật từ lực Vãng Sanh Tây Phương.

Đã được Vãng Sanh thì liên hoa hóa sanh, chẳng còn các nỗi khổ,

thuần mang hình dáng bé trai, thọ ngang hư không, thân không tai biến.

Những danh từ lão, khổ, bệnh v.v... còn chẳng nghe đến, huống là thật

có! Kề cận thánh chúng, chầu hầu Di Đà. Chim, nước, rừng cây đều

diễn pháp âm. Tùy theo căn tánh nghe xong liền chứng, người thân còn

chẳng thấy, huống là oán thù? Mong áo được áo, tưởng ăn liền ăn. Lầu

các, đền đài đều do bảy báu tạo thành, chẳng nhọc sức người, chỉ là hóa

hiện. Vậy thì bảy nỗi khổ cõi Sa Bà biến thành bảy điều vui.

Nơi thân có đại thần thông, có đại oai lực, chẳng rời chỗ mình đang

ở mà ngay trong một niệm ở khắp các Thế Giới của chư Phật trong

mười phương, làm các Phật sự, thượng cầu, hạ hóa. Tâm có đại trí huệ,

đại biện tài; nơi một pháp biết Thật Tướng của hết thảy pháp. Tùy cơ

thuyết pháp chẳng hề lầm lạc. Tuy nói những lời thuộc về Thế Đế nhưng

đều khế hợp diệu lý Thật Tướng. Không có nỗi khổ Ngũ Ấm Xí Thạnh,

hưởng niềm vui thân tâm tịch diệt. Bởi thế Kinh dạy: “Không có các

nỗi khổ, chỉ hưởng các sự vui, nên gọi là Cực Lạc”.

Sa Bà khổ, khổ chẳng thể nói. Cực Lạc vui, vui chẳng gì ví nổi.

Tin sâu lời Phật, trọn chẳng nghi hoặc mới gọi là Chân Tín. Đừng nên

dùng tri kiến ngoại đạo, phàm phu để so lường lầm lạc, cho rằng mọi

thứ trang nghiêm thắng diệu chẳng thể nghĩ bàn của Tịnh Độ đều là

chuyện ngụ ngôn, là thí dụ, là tâm pháp, chẳng phải cảnh thật. Nếu có

Page 42: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

42

các thứ tà kiến, hiểu biết sai lạc như vậy sẽ đánh mất điều lợi ích thực

sự là được Vãng Sanh Tịnh Độ. Cái hại ấy rất lớn, chẳng thể chẳng biết.

* Đã biết Sa Bà là khổ, Cực Lạc là vui thì hãy nên phát thệ nguyện

thiết thực, nguyện lìa khổ Sa Bà, nguyện hưởng vui Cực Lạc. Nguyện

ấy phải tha thiết như bị rớt xuống hầm xí, cầu được thoát ra gấp. Lại

như bị giam cầm trong ngục, đau đáu nghĩ đến quê nhà. Sức mình chẳng

thể tự thoát, ắt phải cầu người có đại thế lực cứu cho thoát khỏi.

Hết thảy chúng sanh trong Thế Giới Sa Bà đối với cảnh thuận -

nghịch, khởi tham, sân, si, tạo giết, trộm, dâm, ô uế diệu giác minh tâm

sẵn có. Đấy chính là hầm xí không đáy. Đã tạo nghiệp ác, ắt phải chịu

ác báo, qua nhiều kiếp dài lâu luân hồi sáu nẻo. Đấy chính là chốn lao

ngục chẳng hề phóng thích tội nhân. A Di Đà Phật trong nhiều kiếp quá

khứ, phát bốn mươi tám nguyện độ thoát chúng sanh. Có một nguyện

là: “Nếu có chúng sanh nghe danh hiệu ta, cầu sanh về nước ta, dẫu chỉ

mười niệm mà nếu chẳng sanh, chẳng lấy Chánh Giác”. A Di Đà Phật

thệ nguyện độ sanh; nhưng nếu chúng sanh chẳng cầu tiếp dẫn, Phật

cũng chẳng biết làm cách nào! Nếu như chí tâm xưng danh, thề cầu xuất

ly Sa Bà thì không một ai chẳng được Phật rủ lòng từ nhiếp thọ. A Di

Đà Phật có đại thế lực, cứu được người đang ở trong hầm phân không

đáy, trong lao ngục chẳng hề phóng thích, khiến họ thoát ngay những

chốn ấy, đặt yên họ nơi quê nhà sẵn có là cõi Cực Lạc, khiến họ nhập

cảnh giới Phật, được thọ dụng giống như Phật.

* Phật Di Đà vì chúng ta phát nguyện, lập hạnh để mong chúng ta

thành Phật. Chúng ta bội nghịch hạnh nguyện của đức Di Đà nên bao

kiếp dài lâu ngụp lặn mãi trong lục đạo, vĩnh viễn làm chúng sanh. Hiểu

Page 43: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

43

rõ Di Đà chính là đức Phật ở ngay trong tâm chúng ta, ta chính là chúng

sanh trong tâm Phật Di Đà. Tâm đã là một, nhưng phàm và thánh cách

nhau một trời một vực là do ta cứ một bề mê muội, trái nghịch nên mới

đến nỗi thế. Tín tâm như vậy mới đáng là Chân Tín. Dùng tín tâm này

phát nguyện quyết định Vãng Sanh, hành hạnh quyết định niệm Phật

mới hòng thâm nhập Tịnh tông pháp giới, thành tựu ngay trong một đời,

một phen siêu thăng liền vào thẳng ngay địa vị Như Lai như mẹ con

gặp gỡ, vui sướng vĩnh viễn thường hằng vậy!

* Trong sự niệm Phật, điều trọng yếu nhất là để liễu sanh thoát tử.

Đã vì liễu sanh tử thì với nỗi khổ sanh tử, tự sanh tâm chán nhàm; với

sự vui Tây phương, tự sanh tâm ưa thích. Như thế thì hai pháp Tín -

Nguyện sẽ được đầy đủ, trọn vẹn ngay trong khoảnh khắc ấy. Rồi lại

thêm chí thành, khẩn thiết như con nhớ mẹ mà niệm thì Phật lực, tự lực,

tự tâm tín nguyện công đức lực, cả ba pháp cùng hiển hiện trọn vẹn,

khác nào mặt trời rực rỡ trên không. Dù cho mây đùn, băng đóng tầng

tầng, không lâu cũng sẽ tan hết cả.

* Hãy thử hỏi: Ngoài tâm không Phật, ngoài Phật không tâm.

Chẳng khẩn thiết thì có đạt được như thế chăng? Không Tín - Nguyện

có đạt được như thế chăng?

* Phàm là bọn hữu tình chúng ta hễ nghe nói đến pháp môn Tịnh

Độ thì phải tin Sa Bà cực khổ, Tây Phương cực vui, phải tin rằng từ

nhiều đời đến nay, nghiệp chướng sâu nặng, chẳng cậy vào Phật lực,

khó thể xuất ly. Phải nên tin rằng cầu được Vãng Sanh thì ngay trong

đời này sẽ được Vãng Sanh. Phải tin niệm Phật nhất định được Ngài từ

bi nhiếp thọ. Dùng một lòng kiên định này, nguyện lìa Sa Bà như kẻ tù

Page 44: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

44

muốn thoát khỏi lao ngục, trọn chẳng có tâm lưu luyến. Nguyện sanh

Tây Phương như lữ khách mong quay về cố hương, chẳng hề có ý niệm

do dự. Từ đó, tùy phận, tùy lực, chí tâm trì niệm thánh hiệu A Di Đà

Phật, chẳng luận là nói năng, im lặng, động, tịnh, đi, đứng, nằm, ngồi,

đón tiếp khách khứa, mặc áo, ăn cơm, giữ sao Phật hiệu chẳng lìa tâm,

tâm chẳng lìa Phật.

* Kinh A Di Đà nói: “Từ đây đi qua Tây Phương khỏi mười vạn

ức cõi có Thế Giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có Phật hiệu A Di Đà, nay

hiện đang thuyết pháp”. Kinh còn dạy: “Cõi ấy vì sao tên là Cực Lạc?

Chúng sanh cõi ấy không có các điều khổ, chỉ hưởng những điều vui,

nên gọi là Cực Lạc”. Không có các điều khổ, chỉ hưởng những điều vui

là do được trang nghiêm bởi phước đức, trí huệ, thần thông đạo lực của

A Di Đà Phật.

Thế Giới chúng ta đang sống có đủ cả ba khổ, tám khổ, vô biên

các nỗi khổ, hoàn toàn chẳng vui. Vì thế gọi là Sa Bà. Tiếng Phạn Sa

Bà, Hán dịch là Kham Nhẫn, ý nói: chúng sanh trong Thế Giới này có

thể kham chịu được các thứ khổ. Trong Thế Giới này chẳng phải là

không có điều vui, nhưng những điều được coi là vui ấy lại đều là khổ.

Chúng sanh mê muội lại coi đấy là vui, như mê rượu đắm sắc, săn bắn,

bẫy rập, có gì là vui? Một lũ ngu phu đắm đuối chẳng bỏ được, thích

đến quên mệt, thật đáng xót thương!

Những điều dù thật sự là vui cũng khó lâu bền. Chẳng hạn như cha

mẹ cùng còn sống, anh em không xảy ra chuyện gì; chuyện như vậy

làm sao thường hằng được mãi? Vì thế cảnh vui vừa thoáng qua, tâm

buồn liền tiếp theo ngay, nên bảo là “trọn chẳng có gì vui”, chẳng cần

Page 45: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

45

phải bàn nữa! Sự khổ trong Thế Giới chẳng thể nói hết, nhưng có thể

dùng tam khổ, bát khổ để bao quát không sót.

Ba khổ là:

- Khổ Khổ.

- Vui (lạc) là Hoại Khổ.

- Chẳng khổ chẳng vui là Hành Khổ.

1) Khổ Khổ là nói thân tâm ngũ ấm này thể tánh bức bách nên gọi

là Khổ. Lại còn phải luôn chịu đựng các nỗi khổ: sanh, già, bệnh, chết

v.v... nên gọi là Khổ Khổ.

2) Hoại Khổ là bất cứ sự gì trong thế gian cũng chẳng được bền

lâu. Mặt trời giữa Ngọ phải chếch về Tây. Trăng đầy rồi khuyết, đạo

trời còn phải như thế, huống là việc người? Cảnh vui vừa chớm, cảnh

khổ đã đến ngay. Nỗi khổ ấy chẳng diễn tả được nổi! Vì thế gọi Lạc là

Hoại Khổ.

3) Hành Khổ là tuy chẳng khổ, chẳng vui, tựa hồ phải chăng,

nhưng tánh nó dời đổi, có gì là thường trụ? Vì thế gọi là Hành Khổ.

Nêu lên ba thứ khổ ấy (Khổ Khổ, Hoại Khổ, Hành Khổ) thì không

có nỗi khổ nào chẳng gộp trong ấy. Ý nghĩa tám khổ trong các sách đã

thuật rõ. Nếu biết cõi này là là khổ thì tâm chán nhàm Sa Bà sẽ bừng

bừng phát sanh. Nếu biết cõi kia là vui thì ý niệm ưa thích, mong cầu

Cực Lạc sẽ hừng hực phát khởi. Do vậy, chẳng làm các điều ác, vâng

làm các điều lành để bồi đắp nền tảng. Lại dùng tâm chí thành, khẩn

thiết trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương thì thoát được cõi Sa Bà

Page 46: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

46

này, sanh về cõi Cực Lạc kia, làm con đích thực của đấng Di Đà, làm

bạn hiền trong Hải Hội vậy!

* Xem cõi Sa Bà này nhơ xấu còn hơn nhà xí. Tin cõi Cực Lạc kia

chính là quê nhà mình vốn sẵn có. Chẳng cầu phước lạc cõi trời, cõi

người trong đời này hay đời sau, chỉ nguyện khi báo chung mạng tận,

được Phật tiếp dẫn Vãng Sanh. Sáng tối như thế, niệm đâu chú trọng

đấy, niệm cực công thuần, cảm ứng đạo giao, lúc lâm chung, ắt được

thỏa nguyện. Đã sanh về Tịnh Độ sẽ đốn ngộ Vô Sanh, nhìn lại phú quý

thế gian khác nào ánh dương diệm, hoa đốm trên không, thật đúng là

nhà ngục, biển độc mà thôi!

2. KHUYÊN TRỪ NGHI SANH TÍN

* Pháp môn Tịnh Độ nếu tin cho tới, còn gì tốt lành hơn! Nếu trí

mình chưa quyết thì phải nên tin tưởng lời chân thành của chư Phật, chư

Tổ, trọn chẳng được một niệm nghi tâm. Nghi sẽ chẳng tương ứng chư

Phật, lâm chung nhất định khó thể cảm thông. Cổ nhân bảo: “Pháp môn

Tịnh Độ chỉ có Phật với Phật mới có thể hiểu trọn vẹn. Hàng Đăng Địa

Bồ Tát chẳng biết được ít phần”. Hàng Đăng Địa Đại Sĩ còn chẳng thể

biết hết, huống hồ là hạng phàm phu lè tè sát đất lại vọng sanh ức đoán

ư?

* Nếu tâm sanh tử thật sự thiết tha, tin tới nơi, tâm chẳng sanh một

niệm ngờ vực thì dù chưa ra khỏi Sa Bà, đã chẳng còn là khách trọ lâu

ngày trong chốn Sa Bà; chưa sanh Cực Lạc, nhưng đã là khách quý cõi

Cực Lạc. Thấy người hiền mong mình được bằng, gặp điều nhân đừng

Page 47: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

47

để lỡ. Há có nên do dự, lười nhác, sao nhãng, để đến nỗi một phen lầm

lỡ khiến mình bị lỡ làng mãi mãi ư? Là trang nam nhi có huyết tánh,

dứt khoát chẳng chịu sống làm thây đi, thịt chạy, chết mục nát như cỏ

cây. Hãy gắng lên, cố lên!

* Trong các pháp môn khác, tiểu pháp thì đại căn chẳng cần tu, đại

pháp thì tiểu căn chẳng tu nổi. Chỉ có một pháp Tịnh Độ này thích ứng

khắp ba căn, gồm thâu lợi độn. Trên thì Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù,

Phổ Hiền, không vị nào vượt ra ngoài pháp này; dưới thì ngũ nghịch,

thập ác, chủng tánh A Tỳ cũng được dự vào. Nếu Như Lai chẳng mở ra

pháp này thì chúng sanh đời mạt muốn liễu sanh thoát tử ngay trong đời

này tuyệt chẳng có chút hy vọng gì!

Tuy pháp môn này rộng lớn như thế, nhưng cách tu lại cực giản dị.

Bởi lẽ đó, chẳng phải là người kiếp trước có thiện căn Tịnh Độ sẽ khó

thể tin chắc chẳng nghi. Chẳng riêng phàm phu không tin, phần nhiều

hàng Nhị Thừa cũng nghi. Chẳng những Nhị Thừa chẳng tin, quyền vị

Bồ Tát vẫn có người còn nghi. Chỉ có các vị Bồ Tát Đại Thừa địa vị cao

sâu mới có thể triệt để tin tưởng không nghi.

Người sanh lòng tin sâu xa nơi pháp này, dù là phàm phu đầy dẫy

triền phược nhưng chủng tánh đã vượt qua Nhị Thừa, khác nào Thái Tử

ngã xuống đất vẫn quý hơn quần thần. Tuy tài đức chưa lập, nhưng cậy

vào thế lực của cha, cảm được báo như thế. Người tu Tịnh Độ cũng

giống như vậy. Do dùng tín nguyện trì danh hiệu Phật nên có thể đem

tâm phàm phu gieo vào biển giác của Phật. Bởi thế, ngầm được Phật trí,

ám hợp đạo mầu.

Page 48: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

48

Muốn bàn về pháp tu trong Tịnh Độ mà chẳng nói lược qua sự khó

khăn của các pháp cậy vào tự lực để liễu thoát và sự dễ dàng của pháp

cậy vào Phật lực này thì người nghe nếu chẳng nghi pháp cũng sẽ nghi

chính mình. Nếu tâm có chút mảy may nào nghi ngờ, sẽ do nghi thành

chướng; đừng nói là không tu, dù tu cũng chẳng được lợi ích thật sự.

Do vậy phải nói rằng Tín là một pháp chẳng thể không gấp gáp giảng

giải để mong gây dựng sâu xa đến cùng cực vậy!

* Pháp môn Tịnh Độ do Phật Thích Ca và Di Đà kiến lập, do Văn

Thù, Phổ Hiền chỉ quy, do Mã Minh, Long Thọ hoằng dương, do các vị

Khuông Lư (Huệ Viễn), Thiên Thai (Trí Khải), Thanh Lương, Vĩnh

Minh, Liên Trì, Ngẫu Ích phát huy, xướng suất để khuyên khắp dù phàm

hay thánh, dù ngu hay trí. Các vị Bồ Tát đại sĩ ấy trăm ngàn năm trước,

sớm đã vì ta nghiên cứu khắp các giáo pháp trong Đại Tạng, đặc biệt

chọn ra pháp chẳng cần đoạn Hoặc mà được dự ngôi Bổ Xứ này, ngay

trong một đời này quyết định xổ lồng, chí viên, chí đốn, cực kỳ giản dị,

thống nhiếp Thiền - Giáo - Luật, lại vượt xa Thiền Giáo Luật cho dù

căn cơ cạn hay sâu, dù Quyền hay Thật. Thật là một diệu pháp thật đặc

biệt, siêu việt lẽ thường.

Chúng ta chẳng tin tưởng Phật, Tổ là những bực thầy từ xưa bằng

những vị tri thức cận thời hay sao? Kinh Hoa Nghiêm là vua trong Tam

Tạng, cuối Kinh quy kết chú trọng nguyện vương. Hoa Tạng hải chúng

đều đã chứng Pháp Thân, đều cầu Vãng Sanh hòng viên mãn Phật Quả.

Bọn ta là hạng gì mà lại dám chẳng bắt chước theo? Hãy bỏ tâm cuồng

ấy, tận lực thực hành đạo này. Công đức lợi ích sẽ tự chứng biết. Nào

đợi phải tham học khắp cả rồi mới thành hạng biết pháp ư?

Page 49: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

49

* Luận bàn xác thực thì pháp môn Đại Thừa, pháp nào cũng viên

diệu. Nhưng căn cơ có sống, chín, duyên có cạn, sâu. Bởi thế, xét về

mặt lợi ích thì có “khó được” và “dễ được”. Tổ Thiện Đạo, hóa thân

của Phật Di Đà, đã dạy chuyên tu. Ngài chỉ e hành nhân tâm chí bất

định, bị các thầy trong những pháp môn khác lung lạc, nên bảo: Cho dù

thánh nhân Sơ Quả, Nhị Quả, Tam Quả, Tứ Quả, và Thập Trụ, Thập

Hạnh, Thập Hồi Hướng, Đẳng Giác Bồ Tát cho đến thập phương chư

Phật tận hư không, trọn pháp giới hiện thân, phóng quang, khuyên ta bỏ

pháp Tịnh Độ, giảng cho pháp thù thắng nhiệm mầu nào khác, ta cũng

chẳng chịu nhận. Thưa là do lúc ban đầu đã phát tâm chuyên tu Tịnh

Độ, chẳng dám trái nghịch nguyện ấy.

Hòa Thượng Thiện Đạo đã sớm thấy người đời sau đứng núi này

trông núi nọ, chẳng có kiến giải nhất định. Vì thế Ngài nói như vậy để

kiệt lực xoay chuyển cái tâm ngấm nghé cuồng vọng, ưa ham cầu. Ai

đã biết Ngài Thiện Đạo là thầy mà lại chẳng tuân theo? Thế mà người

tuân theo lời Ngài thật chẳng được mấy! Có phải là do túc thế ác nghiệp

sai khiến đến nỗi ngoảnh mặt bỏ lỡ pháp khế lý, khế cơ bậc nhất này,

không Thiền, không Tịnh Độ, nghiệp thức mang mang, làm kẻ không

cội rễ trong nẻo luân hồi đó chăng? Áo não thay!

Tu hành Tịnh Độ có cái lẽ quyết định chẳng nghi. Chẳng cần phải

hỏi han người khác hiệu nghiệm hay không! Dù khắp cả người đời

không ai được hiệu nghiệm, cũng chẳng sanh nhất niệm nghi tâm, cứ

lấy lời lẽ chân thành của Phật, Tổ làm căn cứ. Nếu hỏi người khác về

sự hiệu nghiệm, chính là tin Phật chưa đến mức cùng cực, tâm vẫn còn

so đo, chưa thể trọn vẹn mọi sự. Nam nhi anh liệt quyết chẳng đến nỗi

bỏ lời Phật để tin lời người, trong tâm không chủ ý, chỉ muốn cậy vào

Page 50: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

50

lời người khác khoe hiệu nghiệm để hướng dẫn tiền đồ của chính mình.

Thật chẳng đáng buồn ư?

* Do tập khí, mỗi chúng sanh có điểm riêng thiên trọng. Kẻ ngu

thiên về cái tầm thường, hèn kém. Người trí thiên về điều cao thượng.

Nếu kẻ ngu cam phận ngu, chẳng tạp dụng tâm, chuyên tu Tịnh nghiệp

sẽ ngay trong đời này quyết định được Vãng Sanh. Như vậy dù ngu

nhưng chẳng ai bằng được. Nếu là người trí, nhưng chẳng tự đắc, vẫn

từ Sự hướng đến pháp môn cậy vào Phật từ lực, cầu sanh Tịnh Độ thì

có thể nói là bậc đại trí. Còn như cậy vào kiến giải của mình, miệt thị

Tịnh Độ; sẽ thấy kẻ đó từ kiếp này đến kiếp khác, trầm luân ác đạo,

muốn học đòi theo kiểu ngu phu ngày hôm nay cũng trọn chẳng thể

được!

Những người thông hiểu Tánh Tướng Tông Giáo, tôi thực sự ái

mộ, nhưng chẳng dám học theo. Vì sao? Là vì dây ngắn chẳng kéo được

nước sâu, túi nhỏ chẳng thể chứa vật lớn. Tôi chẳng bảo là hết thảy mọi

người đều nên phỏng theo việc tôi làm. Nhưng nếu cũng hèn kém như

tôi mà lại toan học theo hành vi của bậc đại thông gia, toan thẳng vào

diệu ngộ tự tâm, vẫy vùng biển giáo, tôi chỉ e chẳng thành bậc đại thông

gia, trái lại còn bị hàng ngu phu, ngu phụ già giặn, chắc thật niệm Vãng

Sanh Tây Phương thương xót! Há có phải là biến khéo thành vụng to,

toan bay lên không nhưng lại bị rớt xuống vực sâu thăm thẳm đó chăng?

Một lời đủ để bao quát hết: Hãy tự xét kỹ căn cơ của chính mình mà

thôi!

* Ông La Đài Sơn chẳng được Vãng Sanh, lại bị đọa vào nơi phước

báo là do tập khí văn chương quá nặng. Tập khí ấy đã nặng, dù nói là

Page 51: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

51

niệm Phật, nhưng thực ra niệm niệm đặt nơi công phu sáng tác văn

chương. Công phu niệm Phật chỉ là chống đỡ mặt ngoài đó thôi. Đấy là

bệnh chung của văn nhân, chẳng phải chỉ riêng Đài Sơn thôi đâu! Phật

bảo thế trí biện thông là một trong tám nạn, chính là vì lẽ này.

* Người sống trong cõi đời, nhất nhất phải theo đúng bổn phận của

mình, chẳng thể vọng tưởng tính toán ra ngoài bổn phận. Tức là như

thường nói: “Quân tử chẳng vượt ngoài phận vị của mình”. Cũng như

nói: “Quân tử chỉ làm đúng theo phận vị của mình”. Tuy đối với pháp

môn Tịnh Độ đã sanh tín tâm, nhưng ý niệm ưa cao, chuộng trội vẫn

còn chưa buông xuống được, chưa chịu đặt mình vào hàng ngu phu,

ngu phụ. Phải biết rằng ngu phu, ngu phụ dễ liễu thoát sanh tử bởi tâm

họ chẳng có dị kiến.

Nếu hiểu Tông, thông Giáo, toàn thân có thể buông xuống hết,

thực hành công phu của hạng ngu phu, ngu phụ thì cũng dễ liễu thoát

sanh tử. Nếu không thì bậc cao nhân thông Tông, thông Giáo lại chẳng

bằng ngu phu, ngu phụ đới nghiệp Vãng Sanh! Pháp môn Tịnh Độ lấy

Vãng Sanh làm chủ, tùy duyên tùy phận chuyên tinh chí mình, Phật

quyết chẳng dối người. Nếu không, mong bay lên hóa ra lại rớt xuống;

đấy là tự mình lầm lẫn, nào phải lỗi của Phật đâu!

* Một pháp Tịnh Độ chính là pháp môn tối huyền, tối diệu, chí

viên, chí đốn trong giáo pháp của cả một đời Đức Phật (một pháp có đủ

hết thảy pháp là Viên, ngay trong đời này tu sẽ chứng đắc ngay trong

đời này nên bảo là Đốn). Hạng phàm phu lè tè sát đất cũng vào được

pháp này, bậc Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng ra khỏi pháp này. Thực là

Page 52: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

52

một con đường tắt để thượng thánh hạ phàm chóng thành Phật đạo, là

một chiếc thuyền từ phổ độ chúng sanh của chư Phật, chư Tổ.

Chẳng sanh tín tâm nơi pháp này, hoặc tin chẳng chân thành, thiết

tha, chính là do nghiệp chướng sâu nặng, chẳng kham liễu sanh thoát

tử, siêu phàm nhập thánh, đời đời kiếp kiếp vĩnh viễn thường luân hồi

lục đạo trong Thế Giới này, chẳng có kỳ ra. Dẫu được làm thân trời,

người, thời gian ấy rất ít, như khách chỉ ở trọ. Một phen đọa trong tam

đồ, thời gian ấy dài lâu như ở yên nơi quê nhà. Mỗi lần nghĩ đến tâm

Kinh sợ, dựng đứng lông tóc, chẳng nề rát miệng khẩn cáo đồng nhân.

* Xem kỹ thơ Ngài gởi đến, bàn luận nhiều điều, nhưng có thể nói

gọn một lời là “chỉ dùng tri kiến phàm phu để suy lường xằng bậy Phật

trí mà thôi”! Vả như chúng ta từ sống đến chết, trong là thân tâm, ngoài

là cảnh giới, có một ai biết rõ được nguyên do mọi sự chăng? Từ khi

mình có hiểu biết đến nay, thấy tiền nhân làm sao mình cũng bắt chước

làm đúng như thế thì thân thể mới được thành lập, mọi sự mới thuận

tiện, thích đáng, thân tâm an lạc, từ sống đến chết hưởng thọ tự tại. Đối

với những lời khuyên dụ của đức Như Lai, các hạ cho rằng vì chẳng

biết ngọn ngành Phật trí và ngọn ngành Tịnh Độ như thế nào, nên dù

Phật, Tổ nói lời thành thực, cũng chẳng thể nhân đó sanh lòng tin.

Xin lấy chuyện này để xét: Các hạ suốt ngày ăn cơm, suốt ngày

mặc áo, thì có biết hay là không biết nguồn gốc của việc chống đói,

ngăn lạnh chăng? Nếu nói là biết thì ai là người biết, xin chỉ đích xác

ra. Nếu chỉ không được, vẫn là theo quy củ của tiền nhân đã lập mà ăn

cơm, mặc áo! Sao lại đối với diệu pháp liễu sanh thoát tử bậc nhất, cứ

Page 53: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

53

đòi phải biết trước cội nguồn rồi mới sanh lòng tin, trọn chẳng chịu do

lời thành thực của chư Phật, chư Tổ mà sanh lòng tin vậy?

Hơn nữa, nếu các hạ có bệnh cần phải uống thuốc thì trước hết sẽ

mở sách Bản Thảo, Mạch Quyết ra xem để biết dược tánh, nguồn gốc

căn bệnh rồi căn cứ trên bệnh chứng mà kê toa, sau đấy mới uống thuốc;

hay là lập tức mời thầy lang chẩn mạch, lập tức uống thuốc? Nếu lập

tức uống thuốc thì việc trị bệnh và học Phật mâu thuẫn nhau quá!

Dù cho có mở sách Bản Thảo, Mạch Quyết ra xem để biết dược

tánh, gốc bệnh, cũng vẫn mâu thuẫn với việc học Phật. Vì sao vậy? Bản

Thảo, Mạch Quyết đều là lời để đời của tiền nhân. Ông chưa thể tận

mắt thấy, làm sao tin được? Nếu bảo những câu trong Bản Thảo, Mạch

Quyết chẳng thể không tin thì lời của Phật, Tổ, thiện tri thức sao lại đều

chẳng tin, cứ phải chính mình thấy mới tin?

Với tri kiến của ông, nếu cứ thực tình mà luận thì trước hết phải

thấy thuốc ấy chạy vào Kinh lạc nào, trị được bệnh nào, rồi mới kê toa,

uống thuốc; quyết chẳng chịu dựa theo những điều nói trong Bản Thảo,

Mạch Quyết để lập toa, uống thuốc. Vì sao vậy? Vì chưa từng thấy.

Nay nguồn gốc của việc chống đói, ngăn lạnh, trị bệnh chưa từng

thấy nhưng vẫn cứ ăn cơm, mặc áo, uống thuốc; thế thì ngọn nguồn của

Phật và Tịnh Độ chưa từng thấy, dù có lời thành thực của Phật, của Tổ

cũng chẳng tin là vì lẽ gì? Với điều này thì coi là chuyện liên quan đến

tánh mạng, tuy không biết vẫn chẳng dám không làm đúng như thế. Còn

với chuyện kia lại cậy mình cao minh, đòi phải thấy tột cùng mới chịu

tu trì pháp ấy. Xưa nay được mấy kẻ hào kiệt phi thường như thế? Do

tri kiến đó, rốt cục chẳng hưởng lợi ích thật sự của Phật pháp.

Page 54: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

54

Những kẻ bị coi là ngu phu, ngu phụ kia, thoạt đầu cũng chẳng biết

gì, nhưng y theo quy củ của tiền nhân, cắm đầu niệm Phật. Bởi đó, ngầm

thông Phật trí, thầm hợp đạo mầu, liền được đới nghiệp Vãng Sanh,

cùng kẻ đoạn Hoặc Vãng Sanh đều chứng Phật Quả, có hơn kẻ chỉ biết

xuông rồi thôi chăng? Loại người tự dán nhãn mình là hạng xuất cách,

do nghi sanh báng, sẽ từ kiếp này sang kiếp khác, đọa mãi trong ác đạo,

dù hàng ngu phu, ngu phụ niệm Phật Vãng Sanh thương xót muốn cứu

vớt giùm cũng chẳng biết làm sao! Vì sao? Vì hạng này bị ác nghiệp

bất tín đời trước chướng ngại.

Trí của các hạ như bảo kiếm Can Tương, Mạc Gia, chặt ngọc như

chém bùn. Do chẳng khéo dùng trí ấy, khác nào dùng thanh Can Tương,

Mạc Gia để chém bùn, bùn không việc gì, uổng phí kiếm sắc, chẳng

đáng buồn sao?

* Phật pháp là tâm pháp. Hết thảy pháp thế gian chẳng sánh ví

được. Có sánh ví chẳng qua là để khiến người ta lãnh hội được ý nghĩa.

Chẳng được chấp chết vào sự để bàn ngang. Dùng cái quạt để ví cho

mặt trăng, rung cây dạy gió. Nếu cứ do cái quạt tìm lấy quang minh, từ

nơi cây tìm ra sự phất phơ thì có còn gọi được là trí hay chăng? Tuy

mộng cảnh là giả, nhân quả là chân, cũng chẳng ngại dùng mộng cảnh

để ví dụ nhân quả, cốt sao chúng phù hợp nhau.

Là sao? Vọng tâm là Nhân, mộng cảnh là Quả. Nếu không vọng

tâm chắc chắn chẳng có mộng cảnh. Điều này nhất định chẳng dễ luận.

Tâm thiện ác và việc tu trì là Nhân, được quả báo thiện ác và quả báo

tu trì là Quả. Các hạ phải tin; nếu không, do vọng tâm là nhân của mộng

sẽ được mộng cảnh. Tâm niệm Phật là nhân thành Phật, gần là được

Page 55: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

55

Vãng Sanh Tây Phương, xa là rốt ráo viên thành Phật đạo. Đấy chính

là điều Ngài đang nghi, ngăn trở Ngài phát khởi lòng tin vậy!

* Hãy để chuyện Phật rốt ráo là có hay không lại đó. Các hạ cứ

muốn cật vấn Phật là có hay là không thì hãy tự hỏi chính các hạ rốt ráo

là có hay là không? Nếu bảo là không thì mối ràng buộc này đây, ai là

người thuật nói? Nếu bảo là có, xin hãy chỉ đích xác! Lời lẽ của người

nói chỉ là do yết hầu và thức tâm hợp lại mà có. Văn tự cũng do thức

tâm, tay, bút vận động mà hiện. Mỗi mỗi đều chẳng ngoài Ngũ Uẩn:

Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, đều chẳng phải là các hạ! Rời ngoài năm

pháp này có chỉ được ai là các hạ để hỏi Phật rốt ráo là có hay không,

mà cho đó là câu hỏi đại trí huệ?

Nếu chẳng chỉ ra được chính mình là có hay không, nhưng lại

muốn biết Phật là có hay không trước đã thì đấy chỉ là câu hỏi cuồng

vọng, không đáng luận tới, chẳng phải câu hỏi thấu đạt lý đến cùng tận!

Phật rốt ráo là có. Vì phàm tình của ông chưa sạch, nên Phật chẳng thể

hiện. Chính các hạ cũng là có. Do Ngũ Uẩn của ông chưa là không nên

cũng chẳng thể chỉ ra ngoài Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức được!

* Kinh Kim Cang dạy hàng Bồ Tát phát tâm Bồ Đề, phát tâm độ

hết thảy chúng sanh khiến họ đều chứng Vô Dư Niết Bàn, nhưng chẳng

thấy có một chúng sanh được diệt độ. Chẳng trụ vào Sắc, Thanh,

Hương, Vị, Xúc, Pháp để hành bố thí. Bố thí đứng đầu trong lục độ vạn

hạnh. Nêu lên bố thí thì trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ,

cho đến vạn hạnh cũng đều chẳng trụ vào Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc,

Pháp để tu. Văn Kinh này giản lược, chỉ nêu bố thí để nói chung tất cả

các pháp kia.

Page 56: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

56

Hãy nên không trụ vào đâu để sanh tâm. Không có các tướng ngã,

nhân, chúng sanh, thọ giả mà tu hết thảy thiện pháp. Nói như vậy thì

bảo là hữu tướng hay vô tướng?

Tướng quang minh rộng lớn như thế chật kín thái hư mà bảo là

không thì khác gì mù lòa từ lúc mới sanh? Nói “không có một chúng

sanh được độ” là chẳng trụ vào tướng, vô tướng. “Vô sở trụ” là muốn

cho con người chẳng vướng mắc trong phàm tình, thánh kiến, rồi chấp

trước tướng.

Nói “độ tận chúng sanh, hành bố thí, sanh tâm, tu thiện pháp” là

muốn cho con người xứng tánh tu tập pháp tự lợi, lợi tha, ngõ hầu mình

lẫn người cùng được viên mãn Bồ Đề mới thôi, đừng vướng vào đó,

vọng chấp vô tướng là rốt ráo, chia xẻ cùng một tri kiến với kẻ nhai bã

hèm, có đáng gọi là người có trí huệ chăng? Tín có gì là khó khởi, nghi

có gì là khó trừ? Ông quyết định chẳng chịu khởi, quyết định chẳng

chịu trừ. Dù Phật có đích thân thuyết pháp cho ông, cũng chẳng làm sao

được! Huống hồ tôi đây chỉ là kẻ phàm phu đầy dẫy triền phược?

* Muốn biết Phật là thật hay giả, sao chẳng đối với những lý được

bàn trong Tịnh Độ Văn, Tây Quy Trực Chỉ và những chuyện được chép

trong ấy mà phát khởi lòng tin, dứt lòng nghi, lại cho những ngôn luận,

sự tích ấy chỉ là chuyện bịa đặt, lời đồn, chẳng đáng để vào mắt vậy?

Nếu nghĩ như vậy thì nhất định linh hồn chẳng đọa trong năm đường

nào khác, chỉ ở ngay trong địa ngục A Tỳ đến hết đời vị lai. Cứ mãi mãi

hưởng thọ vạc sôi, lò than, rừng gươm, núi đao do tâm hiển hiện, cứ coi

chúng như các thứ lạc cảnh tự tại thọ dụng. Coi đó là vui thì chẳng thể

khuyên dụ được nữa!

Page 57: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

57

Ông cứ muốn biết Phật là thật hay giả, dù Tịnh Độ Văn, Tây Quy

Trực Chỉ nói gì đi nữa đều coi là chẳng thật; chỉ khi tự mình thấy, đích

thân chứng, mới nhận là thật; nay tôi lấy một sự tướng để hỏi, ông nên

thẳng thắn đáp lời, chẳng được hàm hồ, thoái thác.

Bắc Thông Châu Vương là Tiền San, thời nhà Thanh từng giữ chức

Phiên Đài ở Quảng Tây. Khi ấy, Quảng Tây thổ phỉ rất nhiều. Lúc ông

Tiền coi việc binh bị bèn bày kế diệt hết phỉ đảng, bắt giết rất nhiều.

Bốn năm trước đây, ông mắc bệnh rất nặng. Cứ chợp mắt liền thấy mình

ở trong căn nhà tối. Nhà đó rất lớn, lại rất tối, bọn quỷ vô số đều đến

bức bách ông, sợ quá tỉnh dậy. Một lát sau, chợp mắt lại thấy y như

cảnh cũ, lại hoảng sợ tỉnh dậy. Suốt ba ngày đêm chẳng dám chợp mắt.

Ông ta chỉ còn thở thoi thóp, vợ bèn khuyên dụ: “Ông cứ như thế chẳng

tốt đâu! Ông niệm nam mô A Di Đà Phật đi, niệm Phật sẽ ổn ngay!”

Tiền San nghe vậy liền gắng niệm. Được một chốc liền ngủ, ngủ đẫy

một giấc không mộng mị gì, mà bệnh cũng dần dần thuyên giảm. Nhân

đó, ông trường trai niệm Phật. Năm ngoái, Tiền San và Trần Tích Chu

lên núi, có trò chuyện cùng Quang.

Nếu các hạ lâm vào cảnh ấy, thì cứ phải biết trước là Phật là thật

hay giả rồi sau mới niệm chăng? Hay là nghe xong liền niệm? Nếu lúc

ấy chẳng nhọc công xét thật, giả, cứ niệm ngay, thì hiện tại sao lại cùng

người đời này bàn bạc ngôn luận, sự tích người đời trước là thật hay

hư? Cứ nhất loạt cho là vọng, chỉ cầu lấy chỗ đúng; cứ vin vào đó khiến

tâm cảnh mơ màng, mờ mịt, còn toan nhỏ lệ khóc cầu nữa ư? Đã có thể

coi phú quý như chiếc dép rách, sao không thể coi chấp trước giống như

chiếc dép rách để bỏ sạch cả đi? Ông tính dùng tri kiến ấy để làm cửa

Page 58: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

58

nhập đạo đấy ư? Chẳng biết nó chính là đường để đạt địa ngục A Tỳ

đấy!

Lấy mộng để ví cho Phật thì vọng tâm là Nhân, mộng cảnh là Quả.

Ví như niệm Phật là Nhân, Vãng Sanh gặp Phật là Quả. Vì sao có thể

lấy sáu thí dụ trong Kinh Kim Cang làm chứng? Ngôn ngữ, văn tự thế

gian, một chữ, một sự, chẳng ngại gì diễn tả cả sang lẫn hèn, giảng giải

cả tốt lẫn xấu. Chẳng hạn như chữ “Tử”, dùng để chỉ mình đức Phu Tử

cũng được, mà chỉ người bình thường cũng được, dùng để gọi con cái

cũng tốt. Đều phải dựa vào văn mạch để xác định ý nghĩa, quyết chẳng

thể đối với chữ Tử có nghĩa là Phu Tử, lại giảng là “nhi tử” (con cái)

được. Cõi Phật là mộng cảnh, đâu cần chờ các hạ thành Phật rồi mới

nói sau. Nói như vậy chỉ tự tổn hại, vô ích mà thôi!

* Sự, Lý, Tánh, Tướng, Không, Hữu, Nhân, Quả lẫn lộn chẳng

phân, chi bằng học theo ngu phu, ngu phụ, cắm cúi niệm Phật, cứ chí

cung, chí kính, một mực thành khẩn. Lâu ngày chầy tháng, nghiệp tiêu,

trí rạng, chướng tận, phước dày, mối nghi tâm ấy triệt để rơi rụng hết,

thì những chuyện Phật có hay là không, chính mình là có hay là không,

đường nẻo “vào cửa Phật, lên bờ kia” đã có xác cứ, nào phải đợi hỏi ai

nữa!

Nếu chẳng chuyên tâm, dốc chí niệm Phật, cứ cùng người khác

bàn xuông những hiểu biết chỉ mới được một phần thì cũng giống như

xem Kinh Kim Cang nhưng chẳng biết Thật Tướng. Xem Tịnh Độ Văn,

Tây Quy Trực Chỉ nhưng chẳng sanh tín tâm là do nghiệp ngăn chướng

tâm, chẳng thể lãnh hội. Như kẻ mù nhìn mặt trời, mặt trời ở ngay trên

không, mắt nhìn ngay vào mặt trời nhưng chẳng thấy được tướng sáng,

Page 59: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

59

nào khác lúc chẳng thấy. Nếu mắt được sáng lại, vừa nhìn liền thấy

ngay tướng sáng.

Một pháp Niệm Phật chính là một pháp tối thiết yếu để mắt được

sáng lại. Muốn thấy tướng trạng Thật Tướng, hãy nên dốc trọn lòng

thành nơi pháp này, ắt mau có ngày được thỏa nguyện lắm. Muốn tự

thấy Chân Ngã, nếu chẳng phải là bậc đại triệt đại ngộ sẽ chẳng thể làm

được. Muốn chứng ngộ mà chẳng đoạn Hoặc chứng chân sẽ không thể

được. Muốn viên chứng, nếu ba Hoặc chưa đoạn sạch, hai tử (phần đoạn

sanh tử và biến dịch sanh tử) chưa vĩnh viễn mất, sẽ chẳng thể được!

Luận trên thực tại, các hạ luân hồi bao kiếp dài lâu và nay đang cật

vấn những điều trái với giáo lý đều là do sức tác dụng của Chân Ngã.

Do các hạ quay lưng với giác, xuôi theo trần lao, nên chẳng thể thọ dụng

chân thật. Khác nào cái đầu của gã Diễn Nhã, hạt châu trong áo, từ đầu

đến cuối chưa hề mất, lầm sanh sợ hãi, lầm chịu khốn cùng vậy!

* Tất cả thế gian dù là căn thân hay là Thế Giới đều là do đồng

nghiệp, biệt nghiệp trong tâm của chúng sanh cảm thành, đều có thành

hoại, đều chẳng trường cửu. Thân có sanh, già, bệnh, chết; Thế Giới có

thành, trụ, hoại không. Câu nói: “Vật cực tắc phản, cực lạc sanh bi”

(mọi sự đến chỗ cùng cực sẽ chuyển biến theo chiều ngược lại, vui quá

hóa buồn) là nói về ý này. Do Nhân đã là sanh diệt, Quả cũng chẳng thể

không sanh diệt.

Thế Giới Cực Lạc là Thế Giới do Phật A Di Đà đã chứng ngộ triệt

để Phật tánh sẵn có trong tự tâm, tùy tâm biến hiện, xứng tánh trang

nghiêm. Vì thế, sự vui trong cõi ấy chẳng có lúc cùng tận. Ví như hư

Page 60: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

60

không rộng rãi to lớn, bao hàm hết thảy sâm la vạn tượng. Dù Thế Giới

nhiều lần thành, nhiều lần hoại, hư không rốt ráo chẳng bị tăng giảm.

Ông đem sự vui thế gian để nạn sự vui Cực Lạc, nhưng sự vui Cực

Lạc ông chưa thể thấy. Dẫu ông chưa thể thấy toàn bộ hư không, nhưng

với khoảng hư không trong vòng trời đất đây, ông có bao giờ thấy nó bị

biến cải hay chưa?

Phải biết rằng hết thảy chúng sanh đều có Phật Tánh. Vì thế Đức

Phật dạy con người niệm Phật cầu sanh Tây Phương để nhờ vào nguyện

lực đại từ bi của Phật Di Đà sẽ cũng được thọ dụng niềm vui bất sanh

bất diệt ấy. Do căn thân là liên hoa hóa sanh nên không có nỗi khổ sanh,

già, bệnh, chết. Thế Giới là do công đức xứng tánh hóa hiện nên không

có biến chuyển Thành, Trụ, Hoại, Diệt. Dù là Thánh Nhân vẫn có những

điều không biết, há nên vì những pháp sanh diệt trong thế gian mà khởi

nghi ư?

* Pháp môn Tịnh Độ là bi tâm triệt để của đức Như Lai, là pháp

môn phổ độ chúng sanh khiến cho những kẻ phàm phu đầy dẫy triền

phược, không có sức đoạn Hoặc, nhờ tín nguyện trì danh sẽ được liễu

thoát ngay trong đời này, cùng làm bè bạn với Quán Âm, Thế Chí. Trên

đến bậc Đẳng Giác Bồ Tát, địa vị gần kề Phật Quả vẫn còn phải Vãng

Sanh mới thành Chánh Giác. Chí viên, chí đốn, thông trên, suốt dưới,

vượt trội hết thảy các pháp môn đã được giảng trong cả một đời giáo

hóa. Vì thế, trong khi Đức Phật giảng Kinh A Di Đà, sáu phương chư

Phật hiện tướng lưỡi rộng dài đồng thanh tán thán, khen là Kinh Công

Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm.

Page 61: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

61

Phật lại nói: Ta là Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn làm được chuyện rất

khó, hiếm có. Đức Thế Tôn ta tự phô bày túc nhân, bảo: “Ta trong đời

ác ngũ trược, làm được chuyện khó làm sau đây: chứng đắc Bồ Đề, vì

hết thảy thế gian nói pháp khó tin này. Thật là rất khó” khiến cho người

nghe tin nhận, phụng hành, chỉ nhằm bày trọn bổn hoài xuất thế mà

thôi.

Nhưng pháp môn này rất sâu, khó lường, tuy đã được Bổn Sư và

chư Phật Thế Tôn cùng khuyên nên tin tưởng, nhưng đời vẫn còn rất

nhiều kẻ nghi. Chẳng những hạng thế trí phàm tình chẳng tin, ngay cả

hạng tri thức thông hiểu Tông, Giáo sâu xa cũng còn ngờ vực. Chẳng

những hạng tri thức chẳng tin, mà bậc Thanh Văn, Duyên Giác đã chứng

Chân Đế, nghiệp tận tình không hãy còn nghi ngờ. Chẳng những bậc

tiểu thánh chẳng tin, ngay cả Quyền Vị Bồ Tát cũng hãy còn ngờ. Ngay

đến bậc Pháp Thân Đại Sĩ dù đã tin chắc, nhưng vẫn chẳng thể thấu

hiểu tận cùng nguồn cội.

Ấy là vì pháp môn này lấy Quả Giác làm Nhân Tâm, toàn thể là

cảnh giới Phật, chỉ mình Phật với Phật mới có thể hiểu trọn, chẳng phải

trí con người thấu hiểu được nổi! Bọn phàm phu ta ngửa tin lời Phật, y

giáo phụng hành sẽ tự được lợi ích thật sự. Nếu được nghe pháp môn

chẳng thể nghĩ bàn này thì phải là trong nhiều kiếp đã gieo sâu căn lành,

huống hồ là tin nhận, phụng hành ư?

Kinh Hoa Nghiêm vua của Tam Tạng, là do đức Như Lai lúc tối

sơ thành Chánh Giác, vì các bậc Pháp Thân Đại Sĩ thuộc bốn mươi địa

vị đã vượt ngoài cửu giới, giảng ra pháp một đời thành Phật. Chỗ quy

tông kết đảnh của Thật Nghĩa rốt ráo là “dùng mười đại nguyện vương,

Page 62: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

62

hồi hướng Vãng Sanh Tây Phương Cực Lạc Thế Giới để mong viên

mãn Phật Quả”.

Cảnh sở chứng của Thiện Tài đã bằng với Phổ Hiền, bằng với chư

Phật, được gọi là bậc Đẳng Giác Bồ Tát. Đẳng Giác chỉ kém Phật một

chút vẫn còn phải hồi hướng Vãng Sanh. Toàn bộ các Bồ Tát trong Hoa

Tạng Thế Giới hải đều bẩm thọ giáo pháp này, cùng tu pháp này. Huống

nay kẻ thông Tông, thông Giáo, mức căn tánh thông lợi, mức chứng

nhập sâu xa có hơn nổi các vị Đẳng Giác Bồ Tát kia chăng? Ngàn Kinh,

vạn luận, đâu đâu cũng dạy quy hướng. Vãng Thánh tiền Hiền ai nấy

đều hướng về, những Kinh Luận ấy há chẳng đáng để tuân thủ, hành

theo ư? Các vị Thánh Hiền ấy đều là hạng ngu phu, ngu phụ ư?

Nói gọn một lời: Nghiệp sâu chướng nặng, chưa được giải thoát

nên đến nỗi đối với việc hằng ngày còn chẳng biết, cứ quen thói chẳng

suy xét đó thôi.

Nếu bảo: “A Di Đà Phật an cư Cực Lạc. Mười phương Thế Giới

vô lượng, vô biên. Trong một Thế Giới, chúng sanh niệm Phật đã nhiều

vô lượng, vô biên, A Di Đà Phật một thân làm sao tiếp dẫn khắp hết

thảy những chúng sanh niệm Phật trong mười phương vô lượng vô biên

Thế Giới được?”

Đáp: Sao ông lại dùng tri kiến phàm phu để suy lường Phật cảnh?

Tôi mượn thí dụ nói rõ cho ông khỏi lầm. Một vầng trăng sáng rực trên

không, hiện bóng trong vạn con sông, trăng có tâm chăng? Trên trời chỉ

có một vầng trăng, nhưng biển cả, sông ngòi, sông to, suối nhỏ, đều

hiện trọn vẹn khuôn trăng. Dù nhỏ như một chước (10), một giọt nước,

không nơi nào chẳng hiện toàn thể bóng trăng.

Page 63: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

63

Vả nữa, vầng trăng hiện nơi sông, rạch, một người nhìn thì có một

vầng trăng ở ngay trước người ấy. Trăm ngàn vạn ức người trong trăm

ngàn vạn ức chỗ cùng nhìn, không một ai là chẳng có một vầng trăng ở

ngay trước mặt. Nếu trăm ngàn vạn ức người ai nấy đi qua Đông, Tây,

Nam, Bắc; mỗi người đi đến đâu, luôn thấy trăng cũng đi theo đấy,

chẳng hề gần xa! Nếu trăm ngàn vạn ức người đứng yên chẳng động,

trăng cũng đứng yên chẳng động, thường ở bên người. Chỉ là nước trong

lặng, trăng sẽ hiện; nước đục chao động, trăng ẩn mất. Trăng vốn chẳng

lấy bỏ, trăng chẳng hiện là do nước đục ngầu, lay động, chẳng phản

chiếu được bóng trăng.

Tâm chúng sanh như nước, A Di Đà Phật như trăng. Chúng sanh

đầy đủ tín nguyện hạnh, chí thành cảm Phật thì Phật sẽ ứng như nước

trong trăng hiện. Nếu tâm chẳng thanh tịnh, chẳng chí thành, ứng với

tham, sân, si, trái nghịch Phật như nước vừa đục vừa xao động dù trăng

vẫn chiếu xuống nhưng chẳng thể hiện bóng rõ ràng.

Trăng là sắc pháp thế gian, còn diệu dụng như thế, huống hồ Phật

A Di Đà đã hết sạch phiền hoặc, phước huệ đầy đủ, tâm trùm thái hư,

lượng trọn pháp giới ư? Vì thế Kinh Hoa Nghiêm bảo: “Phật thân đầy

khắp pháp giới, hiện trước khắp hết thảy chúng sanh. Tùy duyên cảm

ứng không đâu là chẳng trọn khắp, nhưng luôn ngồi nơi tòa Bồ Đề này”.

Do đó, biết rằng Phật cảm khắp pháp giới, Phật ứng khắp pháp

giới. Phật thật sự chưa từng khởi tâm động niệm, có ý tưởng đến đi,

nhưng có thể khiến cho chúng sanh duyên đã thành thục thấy Ngài đến

đây tiếp dẫn Vãng Sanh Tây Phương. Cho nên Phật chẳng phải là một,

chẳng phải là hai. Chỉ nêu đại ý để sanh chánh tín mà thôi.

Page 64: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

64

Phải biết rằng pháp môn Tịnh Độ chính là để nhiếp phục người

thượng thượng căn. Vì thế, Thiện Tài đã chứng Đẳng Giác, Phổ Hiền

Bồ Tát vẫn dạy dùng mười đại nguyện vương hồi hướng Vãng Sanh

ngõ hầu viên mãn Phật Quả; nhân đó, khuyên khắp Hoa Tạng hải chúng.

Do vậy, ta biết rằng một pháp hồi hướng Vãng Sanh Tịnh Độ chính là

pháp tối hậu để viên mãn Phật Quả.

Đời có kẻ cuồng chẳng hiểu kỹ giáo lý, thấy ngu phu, ngu phụ đều

tu được pháp này bèn khinh rẻ, cho là pháp Tiểu Thừa, chẳng biết rằng

đây chính là pháp môn đệ nhất một đời thành Phật, thành thỉ, thành

chung của Hoa Nghiêm.

Cũng có kẻ ngu tri kiến hẹp kém, nghĩ mình công phu cạn mỏng,

nghiệp lực sâu dày, làm sao sanh ngay được; chẳng biết rằng tâm tánh

chúng sanh và tâm tánh của Phật chẳng hai. Ngũ nghịch, thập ác sắp

đọa địa ngục, gặp thiện tri thức dạy cho niệm Phật đủ cả mười tiếng

hoặc chỉ mấy tiếng rồi liền chết đi, còn được Vãng Sanh. Lời Quán Kinh

dạy cớ sao chẳng tin?

Bọn họ còn Vãng Sanh, huống hồ chúng ta dù còn tội nghiệp, dù

ít công phu, sánh với kẻ thập ác ngũ nghịch kia chỉ niệm mười tiếng

hay là mấy tiếng, còn vượt trội hơn rất nhiều, lẽ nào tự vội vàng bỏ qua

đến nỗi đánh mất lợi ích vô thượng này?

Như Lai gọi pháp môn Tịnh Độ này là pháp khó tin là vì hạ thủ dễ

lại thành công cao, dùng công ít được hiệu quả nhanh. Chí viên, chí

đốn, thẳng tắt, rộng lớn, giản dị, vượt trội hết thảy giáo lý thông thường.

Chẳng phải xưa vốn đã có thiện căn, quyết sẽ khó tin nhận, phụng hành.

Tôi thường nói: “Cửu giới chúng sanh lìa khỏi pháp môn này thì trên

Page 65: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

65

chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật bỏ pháp môn

này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần manh” là chuyện thực vậy.

Pháp môn Tịnh Độ độ khắp ba căn, chính là để tiếp độ căn khí

thượng thượng, kiêm tiếp dẫn hạng trung hạ căn. Kẻ ngu thường hay

chê là pháp thiển cận, Tiểu Thừa; nói chung là vì chẳng xem Kinh Luận

Đại Thừa, chưa phải là người thông suốt có đủ con mắt. Chỉ dùng cái

tâm điên đảo, chấp trước của mình để suy lường đạo nguyên thủy trọng

yếu, chung cục của Như Lai. Như kẻ mù ngó mặt trời, như người điếc

nghe sấm, đương nhiên chẳng thấy, chẳng nghe, chỉ đành suy luận vọng

tưởng!

Phải biết một pháp tín nguyện niệm Phật là do Như Lai vì bi tâm

triệt để phổ độ chúng sanh mà tuyên thuyết. Chỉ có các vị Bồ Tát như

Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền mới có thể rốt ráo đảm đương.

Bọn họ thấy ngu phu, ngu phụ đều niệm Phật được bèn coi là pháp Tiểu

Thừa thiển cận, khác nào ngôi sao bé chỉ chiếm lãnh được khoảng trời

nhỏ, con trùng bé chỉ bò được khoảng đất hẹp!

Nếu tin tưởng được pháp này thì là nhiều kiếp đã trồng sâu thiện

căn. Nếu có thể dùng tín nguyện sâu trì danh hiệu Phật, nhiếp trọn sáu

căn, tịnh niệm tiếp nối thì cái tâm phàm phu đó biến thành Như Lai

Tạng, như người nhiễm hương, thân có mùi thơm. Hiện tại đã tiếp xúc

với khí phận của Phật thì lúc lâm chung lại chẳng cảm ứng đạo giao,

được Phật tiếp dẫn hay sao?

3. KHUYÊN ĐẦY ĐỦ TÍN NGUYỆN

Page 66: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

66

* Dù kính cẩn tu trì Ngũ Giới, Thập Thiện, được thân trời người,

nhưng phước lạc nhân gian lại chính là cội rễ đọa lạc. Dù trên trời phiền

hoặc chẳng mãnh liệt như trong nhân gian, nhưng một khi phước trời

đã tận, nhất định sẽ đọa xuống. Do túc phước chưa tận, nên được hưởng

phước. Do hưởng phước nên tạo nghiệp. Đã tạo nghiệp rồi thì đọa lạc

ác đạo chỉ trong khoảng nháy mắt, một hơi thở thôi! Huống hồ có kẻ

khi mạng trời đã hết, vì sức ác nghiệp đời trước đã chín, liền đọa ngay

vào ác đạo!

Vì thế, Cổ đức bảo người tu hành nhưng không có chánh niệm tu

trì Tịnh nghiệp, chỉ được phước báo trời người thì gọi là oán thù đời thứ

ba. Kinh Pháp Hoa nói: “Tam giới không yên, giống như nhà lửa. Thật

đáng sợ hãi”. Người biết tốt xấu phải gấp cầu xuất ly để được yên ổn

mới là kế sách bậc thượng vậy.

* Một pháp Niệm Phật là cậy vào Phật lực để thoát tam giới, sanh

về Tịnh Độ. Nay đã chẳng phát nguyện thì có tín chăng? (Người tin thật

sự ắt sẽ phát nguyện tha thiết). Tín nguyện đều không, chỉ niệm Phật

danh thì thuộc về Tự Lực. Vì không tín nguyện nên chẳng thể cảm ứng

đạo giao cùng hoằng thệ của đức Di Đà. Nếu đã hết Kiến Tư Hoặc, có

lẽ được Vãng Sanh. Còn nếu hoàn toàn chưa đoạn hay chưa đoạn hết

sạch thì nghiệp căn vẫn còn, làm sao thoát ngay khỏi luân hồi cho được?

Ngũ Tổ Giới Diễn, Thảo Đường Thanh v.v... chính là những chứng cớ

xác thực.

Phải biết rằng không có tín nguyện mà niệm Phật sẽ chẳng khác gì

tham cứu bên Tông, bên Giáo. Dù có được Vãng Sanh nhưng nhân quả

chẳng phù hợp với nhau! Ngài Ngẫu Ích nói: “Được Vãng Sanh hay

Page 67: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

67

không toàn là do có tín nguyện hay không. Phẩm vị cao hay thấp toàn

là do trì danh sâu hay cạn”. Đấy chính là phán định chắc như sắt vậy.

* Bình sinh tuyệt chẳng có tín nguyện thì khi lâm chung nhất định

khó cậy vào Phật lực. Đã bảo là “thiện ác đồng thời cùng hiện ngay” thì

chẳng luận là bốn chữ A Di Đà Phật chẳng hiện nên chẳng được Vãng

Sanh, mà dù có hiện cũng chẳng được Vãng Sanh! Vì sao vậy? Do

chẳng nguyện Vãng Sanh, do chẳng cầu Phật, nên chẳng được Phật tiếp

dẫn. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười

phương hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Cổ đức nói: “Như người

mắc nợ, chủ nợ nào mạnh sẽ kéo đi trước”. Tâm tình đa đoan, đặt nặng

nơi nào sẽ rơi về đó. Nay thiện ác đều hiện, do không có tín nguyện,

chẳng thể làm gì ác nghiệp được! Phải biết rằng: Cậy vào tự lực thì nếu

còn một mảy ác nghiệp sẽ chẳng thể xuất ly sanh tử, huống là nhiều ác

nghiệp?

Lại nếu không tín nguyện, dù niệm đến Nhất Tâm thì trong vô

lượng vô biên người như thế, may ra có một hai người được Vãng Sanh.

Quyết chẳng thể lấy đó làm gương để cắt đứt thiện căn của hết thảy

người Vãng Sanh Tịnh Độ trong đời sau.

Vì cớ sao? Người có thể cậy vào tự lực, niệm đến mức nghiệp tận

tình không, chứng Vô Sanh Nhẫn, trong cả cõi đời ít có được một, hai.

Nếu ai nấy tu hành theo cách đó, bỏ Tín Nguyện chẳng theo, thì những

chúng sanh bình thường sẽ ở mãi trong biển khổ, không cách nào xuất

ly, đều là do bị một lời này chèn ép cả. Thế mà kẻ ấy vẫn dương dương

đắc ý, cho mình là thật cao, chẳng biết mình bị đoạn Phật huệ mạng, là

chúng sanh ngu si nói cuồng. Buồn thay!

Page 68: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

68

Với pháp Tịnh Độ, phải tránh nhìn bằng một mắt, chẳng được đem

những giáo nghĩa thông thường để so bì. Nếu Như Lai chẳng mở ra

pháp này thì sự liễu sanh thoát tử của chúng sanh đời mạt sẽ chẳng thể

thấy được.

* Hãy thường nên phát tâm quyết định, lâm chung quyết định

muốn được sanh về Tây Phương. Đừng nói là chẳng muốn thọ lại thân

người tầm thường, ngay cả thân vua trong cõi trời người và xuất gia làm

Tăng, nghe một ngộ cả ngàn, đắc đại tổng trì, hoằng hóa đại pháp, làm

thân cao tăng lợi khắp chúng sanh cũng coi như chỗ chất chứa tội lỗi,

độc hại, tâm quyết định chẳng sanh một niệm muốn thọ. Quyết định

như thế thì tín nguyện hạnh của mình mới cảm được thệ nguyện của

Phật, mới được Phật nhiếp thọ. Cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn,

thẳng lên cửu phẩm, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi.

* Phải biết rằng: Tây phương Cực Lạc Thế Giới, đừng nói là phàm

phu chẳng đến được, ngay cả thánh nhân Tiểu Thừa cũng chẳng đến

được vì nơi ấy thuộc về cảnh giới Đại Thừa chẳng thể nghĩ bàn. Tiểu

thánh hồi tâm hướng đại thì liền đến được. Phàm phu nếu không có tín

nguyện để cảm Phật, dù tu hết thảy các hạnh thù thắng khác lẫn hạnh

trì danh thù thắng cũng chẳng thể Vãng Sanh. Vì thế, Tín - Nguyện là

tối khẩn yếu. Ngài Ngẫu Ích nói: “Được Vãng Sanh hay chăng toàn là

do có tín nguyện hay không, phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh

sâu hay cạn”. Dù ngàn đức Phật xuất thế cũng chẳng thay đổi được lời

phán định chắc như sắt này. Hễ tin cho tới, dám chắc Tây Phương ông

phải có phần.

Page 69: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

69

* Nếu luận về pháp môn Niệm Phật thì chỉ có ba pháp Tín -

Nguyện - Hạnh là tông yếu. Đầy đủ ba pháp, quyết định Vãng Sanh.

Nếu không có tín thật, nguyện thiết, dù có chân hạnh cũng chẳng thể

Vãng Sanh, huống là kẻ tu hành hời hợt, qua loa ư? Ngài Ngẫu Ích từng

bảo: “Được Vãng Sanh hay chăng toàn là do có tín nguyện hay không,

phẩm vị cao hay thấp toàn là do trì danh sâu hay cạn”. Bởi lẽ, pháp này

cả ba đời chẳng dễ thường bàn, là đạo mầu độ khắp ba căn. Hãy nên

dốc trọn toàn thân nương về tu tập, mới hòng chứng được lợi ích thật

sự.

Ba thứ Tín - Nguyện - Hạnh sách Thập Yếu đã giảng rõ từng thứ.

Nhưng trọng yếu nhất là trong phần giảng về Ngũ Trùng Huyền Nghĩa

của sách Yếu Giải, phần thứ ba là Minh Tông (minh định tông thú của

Kinh) đã phát huy ba pháp này tinh tường bậc nhất. Tiếp đó, trong mỗi

một đoạn văn, Tổ đều giảng giải về Tín - Nguyện - Hạnh. Hãy nên đọc

thật kỹ cuốn sách chẳng thể thiếu này.

* Muốn sanh Tây Phương, trước hết phải có tín thật, nguyện thiết.

Nếu không có lòng tin chân thật, nguyện thiết tha, dù cho tu hành vẫn

chẳng thể cảm ứng đạo giao cùng Phật, chỉ được phước báo nhân thiên

và tạo thành cái nhân đắc độ trong đời vị lai mà thôi. Nếu đầy đủ Tín -

Nguyện thì được Vãng Sanh vạn người chẳng sót một ai. Tổ Vĩnh Minh

bảo: “Vạn người tu, vạn người đến” là nói về Tín Nguyện Hạnh đấy!

* Phàm lễ bái, đọc tụng Kinh Điển Đại Thừa và làm hết những

việc lợi ích người đời thảy đều đem hồi hướng Tây Phương, chẳng cứ

gì niệm Phật mới hồi hướng Tây Phương được. Nếu đem các công đức

khác hồi hướng về phước báo thế gian thì niệm chẳng quy một mối,

Page 70: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

70

càng khó Vãng Sanh. Phải biết rằng nếu thật sự niệm Phật sẽ chẳng cầu

phước báo thế gian, nhưng tự được hưởng phước báo thế gian. Nếu cầu

phước báo thế gian, chẳng chịu hồi hướng Vãng Sanh thì phước báo thế

gian đạt được đó sẽ trở thành tệ kém. Tâm chẳng chuyên nhất nên càng

khó quyết định Vãng Sanh!

* Người niệm Phật chỉ nên chân thành, thiết tha niệm Phật, tự có

thể nương vào Phật tự lực tránh khỏi nạn đao binh, lửa, nước. Chỉ khi

nào vì túc nghiệp lôi kéo hoặc do trọng báo địa ngục chuyển thành báo

nhẹ trong hiện đời thì mới mắc phải những nạn ấy. Nhưng do thường

ngày lòng tin chân thành, nguyện thiết tha, nên ngay khi ấy được Phật

tiếp dẫn. Dù hiện tại chưa chứng Tam Muội nhưng đã dự vào dòng

thánh. Tự thân như hình bóng, đao binh thủy hỏa chẳng trở ngại chi. Dù

hiện tại gặp phải tai ương, thật chẳng bị khổ. Cả Thế Giới mênh mông,

mấy ai được như vậy chăng?

* Nguyện lìa Sa Bà như tù nhân mong thoát lao ngục. Nguyện sanh

Cực Lạc như cùng tử mong về lại cố hương. Nếu trước khi chưa sanh

về Tịnh Độ mà phải nhận lấy ngôi vua trong cõi trời người thì cũng phải

coi đó là nhân duyên đọa lạc, trọn không có một niệm mong cầu, hâm

mộ. Dẫu đời sau chuyển nữ thành nam, xuất gia từ thơ ấu, nghe một

ngộ cả ngàn, đắc đại tổng trì, cũng phải coi đó là đường quanh nẻo rẽ,

trọn không có tâm niệm nào mong mỏi cả. Chỉ mong lúc lâm chung,

được Phật tiếp dẫn, Vãng Sanh Tây Phương.

Đã được Vãng Sanh sẽ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập Thánh,

ở vào địa vị Bổ Xứ, chứng Vô Sanh Nhẫn, nhìn lại những sự như làm

vua trong cõi trời người, xuất gia làm Tăng v.v... nào bằng Tịnh Độ. Tu

Page 71: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

71

các pháp môn khác trải bao kiếp khó nhọc, chuyên cần, nào được giải

thoát! Như lửa đóm sánh với vầng mặt trời rạng rỡ, như gò mối sánh

cùng Thái Sơn, khó ngăn buồn thương, khó kìm run rẩy! Bởi vậy, người

tu Tịnh Độ trọn chẳng thể cầu những sự như hưởng phước lạc nhân

thiên trong đời sau và đời sau xuất gia làm Tăng!

Nếu có chút mảy may mong cầu đời sau thì là chẳng có lòng tin

chân thành, nguyện thiết tha, đối với thệ nguyện của đức Di Đà sẽ bị

cách trở, chẳng thể cảm ứng đạo giao, được Phật tiếp dẫn! Như vậy là

đã dùng diệu hạnh thù thắng chẳng thể nghĩ bàn tạo thành phước nhân

hữu lậu trong cõi nhân thiên.

Vả nữa, lúc hưởng phước ắt sẽ tạo nghiệp. Đã tạo ác nghiệp ắt khó

tránh ác báo. Như bỏ chất độc vào đề hồ khiến người uống vào phải

chết. Kẻ chẳng khéo dụng tâm, mắc họa như thế. Phải nên triệt để cắt

đứt ý niệm ấy mới hòng được lợi ích hoàn toàn nơi Tịnh Độ, toàn thân

thọ dụng vậy!

* Dù thọ cả trăm năm, chỉ trong khoảng khảy ngón tay, thở hắt ra

một hơi là chẳng còn nữa! Hãy tìm đường thoát; chớ để đến lúc lâm

chung, hối cũng chẳng kịp! Thường nhớ Kinh dạy: “Thân người khó

được, trung quốc khó sanh, Phật pháp khó nghe, tín tâm khó khởi”. Nay

may đủ cả bốn điều, càng phải nên nỗ lực như đã lên được núi báu, phải

tìm cho được ngọc Ma Ni.

Chúng sanh vì còn trong địa vị phàm phu, chưa đoạn Hoặc Nghiệp,

sanh tử giải quyết chưa xong, khó tránh đọa lạc; cho nên, đức Như Lai

cực lực khuyên chúng sanh phát tâm chân tín và nguyện tâm thiết tha,

trì danh hiệu Phật cầu sanh Tịnh Độ. Đem hết thảy công đức đã tạo:

Page 72: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

72

cúng dường Tam Bảo, giữ giới cả đời... chẳng cầu phước báo đời sau

trong cõi nhân thiên, chẳng cầu đời này trường thọ, khỏe mạnh, yên vui,

chỉ cầu lâm chung Vãng Sanh Tịnh Độ thì phù hợp với thệ nguyện của

Phật, cảm ứng đạo giao, chắc chắn được mãn nguyện. Như người rớt

xuống biển, có thuyền đến cứu, nếu chịu lên thuyền sẽ lên được bờ kia.

Cầu phước nhân thiên, chẳng cầu Vãng Sanh như chẳng lên

thuyền, khó khỏi chết chìm. Phật muốn ông siêu phàm nhập thánh, ông

lại chỉ nguyện được phước hữu lậu. Một khi phước báo đã hết, vĩnh

viễn đọa trong đồ. Khác nào dùng ngọc Ma Ni để ném chim sẻ, được

thì ít, mất quá nhiều. Chẳng tiếc lắm ư? Hãy nên tự cảnh tỉnh!

Nếu muốn trong đời này được hưởng lợi ích chân thật, hãy nên

nương vào pháp môn Tịnh Độ, tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây

Phương thì quyết định được liễu sanh thoát tử. Nếu chẳng y vào pháp

môn Niệm Phật, đừng kể chi kẻ chưa được chân truyền Phật giáo, ngay

cả kẻ đã được chân truyền cũng chẳng thể liễu sanh thoát tử. Vì sao thế?

Dù được chân truyền, đại triệt, đại ngộ, nhưng vẫn chưa thật chứng. Có

chứng mới liễu sanh thoát tử được, chứ chỉ ngộ thì chẳng thể liễu!

Tu các pháp môn khác đều phải đoạn Hoặc chứng chân mới có thể

liễu sanh thoát tử. Tu pháp môn Tịnh Độ chỉ cần đủ tín thật, nguyện

thiết, trì danh hiệu Phật, đừng làm các điều ác, vâng làm các điều lành,

Chánh -Trợ cùng hành, chẳng những được Vãng Sanh mà phẩm vị còn

ưu thắng nữa. Chẳng riêng kẻ tin tưởng thuần thành, siêng tu được Vãng

Sanh, mà hạng ngũ nghịch thập ác sanh lòng hổ thẹn lớn lao, chí tâm

niệm Phật mấy tiếng thì ngay lúc mạng chung nhất định được Vãng

Sanh. Do lòng từ rộng lớn của Phật, chuyên vì sự nghiệp độ sanh, nhất

Page 73: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

73

niệm hồi quang liền được nhiếp thọ. Như thế gọi là “nương Phật từ lực,

đới nghiệp Vãng Sanh”.

Chúng sanh đời mạt chẳng nương theo Tịnh Độ, tu các pháp môn

khác chỉ được phước báo nhân thiên và tạo nhân duyên đắc độ cho đời

vị lai mà thôi. Do không sức đoạn Hoặc, gốc sanh tử vẫn còn, dễ hồ

chẳng nảy mầm mộng sanh tử nữa ư?

* Pháp Niệm Phật trọng tại tín - nguyện. Tín nguyện chân thiết, dù

trong tâm chưa thanh tịnh cũng được Vãng Sanh. Vì sao vậy? Do chí

tâm niệm Phật là năng cảm, nên A Di Đà Phật liền năng ứng. Như nước

trong sông, biển, chưa thể dứt sạch tướng động; nhưng nếu không gió

cuồng, sóng to thì vầng trăng rạng ngời trên không sẽ hiện bóng lồ lộ.

Cảm ứng đạo giao như mẹ con nhớ nhau. Pháp khác chuyên trọng tự

lực, chẳng nhờ vào Phật lực. Cứ do đấy mà hiểu được nghĩa này vậy.

* Ước theo những cách giảng dạy thông thường thì còn trong địa

vị phàm phu muốn liễu sanh thoát tử thật chẳng phải chuyện dễ. Nếu

ước theo pháp môn đặc biệt tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ thì

ngay trong hiện đời ắt được liễu thoát. Nếu như đầy đủ tín thật, nguyện

thiết thì trong vạn người nhất định chẳng sót một ai. Chúng sanh đời

mạt chỉ có mỗi một pháp này đáng để nương cậy. Bởi thế, khi vận mạng

đạo pháp ngày càng suy giảm thì pháp này càng thích đáng căn cơ, thiện

tri thức càng đề xướng thiết tha. Chân thật tu trì liền được Vãng Sanh,

là điều chứng nghiệm từng thấy.

* Pháp môn Tịnh Độ lấy ba pháp Tín - Nguyện - Hạnh làm tông.

Có tín nguyện thì chẳng luận tu hành nhiều - ít, cạn - sâu đều được Vãng

Page 74: PHẦN MỘT Cư sĩ: Lý Viên Tịnh kết tập. Ấn Quang Đại Sư giám ...phapmontinhdo.vn/Uploads/files/1 BÀI PDF - WORD/02 BÀI WORD/09 PHÁP...ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA

ẤN QUANG ĐẠI SƯ GIA NGÔN LỤC

74

Sanh. Không tín nguyện dẫu đạt đến địa vị cả Năng lẫn Sở cùng mất,

hồi thoát căn trần thì cũng khó được Vãng Sanh.

Nếu như thật sự đạt được Thật Lý Năng lẫn Sở cùng mất, hồi thoát

căn trần, có thể cậy vào tự lực để liễu sanh thoát tử thì chẳng phải bàn

đến nữa. Nhưng nếu công phu chưa thấy được lý này, vẫn còn chưa thật

chứng, nếu không có tín nguyện, cũng khó Vãng Sanh.

Thiền gia giảng Tịnh Độ quy về Thiền tông, bỏ qua tín nguyện.

Nếu thật sự y theo đó mà tu, họa may được khai ngộ, nhưng chưa đoạn

Hoặc nghiệp, muốn liễu sanh tử thì có mơ cũng mơ chẳng được. Bởi

phàm phu Vãng Sanh là do tín nguyện cảm Phật, nên có thể nương vào

Phật từ lực đới nghiệp Vãng Sanh. Nay đã chẳng sanh tín nguyện, lại

toan đem Phật lẫn cõi nước quy hết vào tự tâm, làm sao cảm Phật được?

Cảm ứng chẳng phù hợp thì chúng sanh là chúng sanh, Phật là Phật,

biến pháp Hoành Siêu (siêu việt tam giới theo chiều ngang) thành pháp

Thụ Xuất (thoát tam giới theo chiều dọc), được lợi thì ít nhưng lại bị

tổn hại rất sâu! Chẳng thể không biết điều này!

Được lợi là do tuân theo thuyết ấy, họa chăng được khai ngộ. Còn

bị tổn hại là do bỏ đi tín nguyện sẽ không cách chi nhờ vào Phật từ lực

được. Bởi vậy, tôi bảo: “Người thực sự tu Tịnh Độ chẳng được dùng

đến lời khai thị của nhà Thiền, vì tông chỉ của pháp môn bất đồng vậy”.