phÁt triỂn khu vỰc kinh tẾ tƯ nhÂn Ở viỆt nam: nh ng...
TRANSCRIPT
![Page 1: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/1.jpg)
PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM:
Những rào cản và giải pháp khắc phục1
PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn
Trong hơn ba thập kỷ qua, khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam đã có bước
phát triển cả về lượng và chất. Từ chỗ chủ yếu chỉ có các hộ kinh doanh cá thể,
nhỏ lẻ Việt Nam đã có những doanh nghiệp tư nhân theo đúng nghĩa; một số ít
doanh nghiệp đã trở thành các tập đoàn kinh tế lớn. Từ chỗ chủ yếu hoạt động
trong khu vực phi chính thức, một bộ phận kinh tế tư nhân đã chuyển đổi sang
hoạt động trong khu vực chính thức của nền kinh tế, theo các quy định của pháp
luật. Đến nay, phạm vi kinh doanh của khu vực kinh tế tư nhân đã rộng khắp, ở
mọi ngành mà pháp luật không cấm, trong đó có những ngành công nghệ cao,
năng suất cao cho dù vẫn còn rất ít. Đặc biệt, trong những năm qua một làn sóng
khởi nghiệp đang diễn ra, đem lại một sức sống mới, năng động hơn cho nền
kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân đang góp phần tích cực giải quyết các vấn đề
kinh tế-xã hội cơ bản của đất nước. Từ chỗ xa lánh, coi nhẹ, xã hội đã ngày
càng tôn vinh những doanh nhân trên thương trường.
Tuy nhiên, sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn
đang phải đối mặt với nhiều rào cản, khiến cho khu vực này chưa phát huy được
hết được tiềm năng của mình để thực sự đóng vai trò là “động lực quan trọng
của nền kinh tế” cũng như đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong bối
cảnh phát triển mới cả trong nước và quốc tế.
Bài viết phân tích những đặc điểm phát triển cơ bản của khu vực kinh tế
tư nhân ở Việt Nam, những rào cản mà khu vực này đang phải đối mặt và đề
xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực này trong thời
gian tới.
1. Những đặc điểm phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam
1.1. Số lượng doanh nghiệp lớn và đa dạng về loại hình, tốc độ tăng
trưởng nhanh nhưng thiếu bền vững với tỷ lệ phá sản và ngưng hoạt động
cao
1 Bài viết được thực hiện dựa trên nội dung của Đề án:”Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tiếp tục đổi mới, cơ
chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tê tư nhân” do Hội đồng Lý luận Trung ương đặt
hàng và Nhóm nghiên cứu của Trường Đại học Kinh tế-ĐHQGHN thực hiện vào tháng 3 năm 2017.
![Page 2: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/2.jpg)
Về loại hình, khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam khá đa dạng về loại
hình doanh nghiệp từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh (doanh nghiệp tư nhân,
công ty hợp danh; công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty cổ phần tư
nhân và công ty cổ phần có vốn nhà nước với 50% vốn điều lệ trở xuống), tới
các hộ kinh doanh cá thể (hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp và hộ nông lâm
thủy sản).
Về số lượng, số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã tăng trưởng
ngoạn mục trong thời gian qua, từ con số 55.200 doanh nghiệp (bao gồm cả các
hợp tác xã), tăng lên 239.000 (gấp 4 lần) vào năm 2009 và lên 401.026 doanh
nghiệp đang hoạt động vào cuối năm 2014. Số liệu điều tra tính tới tháng
12/2014 cho thấy trong số các doanh nghiệp đang hoạt động, doanh nghiệp nhà
nước chỉ chiếm 0,8% tổng số doanh nghiệp, số doanh nghiệp có vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) chiếm 2,7% và còn lại là các doanh nghiệp ngoài nhà
nước chiếm 96,5% trên tổng số doanh nghiệp (Tổng cục Thống Kê, 2015b).
Số liệu thống kê từ Tổng điều tra các cơ sở kinh doanh cá thể phi nông
nghiệp năm 2015 cho thấy số lượng hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tăng
liên tục từ khoảng 2,26 triệu hộ năm 2002 lên tới 4,67 triệu hộ vào năm 2014 và
4,75 triệu hộ năm 2015 (GSO, 2016).
Theo kết quả tổng hợp nhanh từ Báo cáo sơ bộ kết quả tổng điều tra nông
thôn, nông nghiệp và thủy sản năm 2016 (Tổng Cục Thống Kê, 2016a) đến thời
điểm 01/7/2016, cả nước có 9,32 triệu hộ nông, lâm và thủy sản (NLTS) và
trong đó khu vực nông thôn là 8,61 triệu hộ, chiếm 92,4%. Cũng tại thời điểm
01/7/2016, cả nước có 33.488 trang trại.
Tuy có sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng
lớn nhưng tỷ lệ phá sản và ngưng hoạt động cũng rất cao và điều đó cho thấy sự
tăng trưởng thiếu bền vững của các doanh nghiệp này. Trong số hơn 10.400
doanh nghiệp chính thức phá sản năm 2016, có khoảng 9.700 doanh nghiệp có
quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm hơn 93,3% và tăng 23,3% so với cùng kỳ
năm trước. Đây tiếp tục là dấu hiệu đáng lo đối với khu vực kinh tế tư nhân,
trong đó khó khăn lớn nhất là khu vực sản xuất hộ gia đình, cá nhân nhỏ lẻ
(Tuyen, 2016). Thêm vào đó, có một thực tế là các hộ kinh doanh cá thể thiếu
động lực để phát triển trở thành những doanh nghiệp lớn. Khu vực phi chính
thức thiếu động lực chuyển sang hoạt động một cách chính thức.
![Page 3: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/3.jpg)
1.2. Quy mô doanh nghiệp còn rất nhỏ (xét theo các tiêu chí vốn và lao
động) trong tương quan so sánh với doanh nghiệp Nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, số liệu được công bố bởi Bộ Kế
hoạch và Đầu tư năm 2014 cho thấy có tới 97,6% doanh nghiệp đang hoạt động
tại Việt Nam là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV)2. Số liệu cũng cho thấy
tuyệt đại đa số các doanh nghiệp ngoài nhà nước (DNNNN) có quy mô nhỏ và
siêu nhỏ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2014). Kết quả Điều tra Chỉ số năng lực cạnh
tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2015 ở Việt Nam cũng cho thấy con số tương tự:
Trong số 8.335 doanh nghiệp dân doanh được lấy mẫu tại 63 tỉnh, thành phố ở
Việt Nam thì có tới 97,3% doanh nghiệp là các DNNVV (VCCI & USAID,
2015).3
So sánh với các loại hình doanh nghiệp khác, các DNNNN có quy mô
nhỏ hơn rất nhiều về vốn và lao động. Năm 2010, số lao động bình quân của
một doanh nghiệp Nhà nước là 516 lao động, doanh nghiệp FDI là 297 lao động
và DNNNN chỉ là 22 lao động. Số liệu tính tới tháng 12/2014 cho thấy bình
quân DNNNN chỉ sử dụng 18 lao động, doanh nghiệp FDI là 312 lao động và
doanh nghiệp nhà nước là 504 lao động (Tổng cục Thống Kê, 2015b). Đặc biệt,
các doanh nghiệp ngoài nhà nước có quy mô siêu nhỏ (dưới 10 người) chiếm tới
gần 70%. Xét về quy mô vốn, các doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng có quy
mô rất nhỏ. Năm 2014, có tới một nửa số DNNNN có quy vốn bình quân dưới 5
tỷ đồng và chỉ 6% có số vốn bình quân trên 50 tỷ đồng. Trong khi đó con số này
ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước là 5% và 66%, ở khu vực FDI là 2,0% và
41%.
Đối với các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, qui mô lao động của
các hộ kinh doanh này cũng rất thấp. Tính bình quân chung năm 2015 có gần
1,68 lao động làm việc trong 1 cơ sở. Số vốn kinh doanh bình quân là 150,6
triệu đồng/cơ sở trong đó giá trị tài sản cố định là 90,4 triệu đồng/cơ sở và điều
đó thể hiện sự hạn chế trong đầu tư cho sản xuất kinh doanh (SXKD) của các cơ
sở cá thể.
1.3. Lĩnh vực kinh doanh đa dạng, chủ yếu tập trung vào khu vực dịch
vụ, có với xu hướng tháo lui khỏi lĩnh vực công nghiệp và mất thị phần trong
2 Những doanh nghiệp có ít hơn 100 lao động nếu hoạt động trong ngành thương mại và dịch vụ, hoặc ít hơn
300 lao động nếu hoạt động ở ngành khác. 3 Số liệu trên được tính toán dựa vào số lượng doanh nghiệp phản hồi điều tra PCI 2015, với các tiêu chí phân
loại dựa theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
![Page 4: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/4.jpg)
lĩnh vực phân phối, bán lẻ vào tay các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, số liệu từ niên giám thống
kê các năm từ 2002-2015 cho thấy lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất là thương
mại, bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ôtô, xe máy và xe cơ giới khác. Trong giai đoạn
từ 2002-2014, lĩnh vực này chiếm tới 39-41% tổng số doanh nghiệp ngoài nhà
nước. Tiếp theo là lĩnh vực chế tạo và chế biến với tỷ trọng là 23,5% vào năm
2002, giảm xuống còn 16% vào năm 2014. Lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn thứ ba
là xây dựng (13,7%), lĩnh vực giao thông và vận tải chiếm tỷ trọng khoảng 5%
trong thời gian 2002-2014. Mặc dù tổng số lượng doanh nghiệp tăng nhanh
nhưng số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp gần như không đổi.
Do đó, tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp đã giảm
mạnh từ 5,4% năm 2002 xuống còn khoảng 1% vào năm 2014.
Đối với các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, các hộ này chủ yếu
hoạt động trong khu vực thương mại và dịch vụ (81%) và phần còn lại (19%)
hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng.
1.4. Hiệu quả hoạt động chưa cao, năng suất lao động thấp nhưng có
tiềm năng đạt được hiệu quả cao hơn nếu đạt được quy mô hợp lý và có được
môi trường hoạt động và kinh doanh phù hợp, thuận lợi.
Tính toán từ số liệu của Tổng cụ Thống kê (Tổng cục Thống Kê, 2016b)
cho thấy năng suất lao động (NSLĐ) của khu vực kinh tế tư nhân (bao gồm cả
doanh nghiệp và hộ cá thể) đạt mức thấp nhất so với các khu vực kinh tế khác.
Cụ thể, trong các khu vực kinh tế, NSLĐ của các doanh nghiệp FDI luôn dẫn
đầu, năm 2015 đạt 242,5 triệu đồng (theo giá hiện hành), gấp 1,36 lần khu vực
kinh tế Nhà nước (176,9 triệu đồng) và 7,8 lần khu vực kinh tế tư nhân (31,3
triệu đồng). Tuy nhiên, xu hướng tăng NSLĐ của các khu vực kinh tế trong thời
kỳ 2005-2015 cho thấy, khoảng cách về NSLĐ giữa khu vực Nhà nước và kinh
tế tư nhân với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang dần thu hẹp lại nhưng
chậm hơn đối với khu vực kinh tế tư nhân. Cụ thể, năm 2005, NSLĐ của khu
vực Nhà nước theo giá so sánh 2010 mới bằng 52,4% NSLĐ khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài, thì đến năm 2015 tỷ lệ này tăng lên bằng 73%; tương tự,
NSLĐ khu vực ngoài Nhà nước từ 9,8% lên 12,8%.
Có một điểm đáng lưu ý là mặc dù có mức NSLĐ thấp nhất nhưng khu
vực kinh tế tư nhân lại có tốc độ tăng trưởng năng suất lao động ổn định theo
xu hướng tăng dần trong vòng 10 năm qua. Ngược lại, khu vực kinh tế FDI có
![Page 5: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/5.jpg)
tốc độ tăng trưởng NSLĐ đạt mức thấp và tương đối thất thường. Bên cạnh đó,
tăng trưởng NSLĐ của khu vực kinh tế nhà nước lại có xu hướng giảm mạnh từ
7% năm 2006 xuống còn 2,1% năm 2014 và tăng lên 10,5% năm 2015. NSLĐ
của khu vực kinh tế nhà nước tăng lên trong năm 2015 là do quá trình sắp xếp
cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh và thực hiện tinh giảm
biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp (Tổng cục Thống kê, 2016b).
Kết quả tính toán của nhóm nghiên cứu cũng cho thấy NLSĐ của các
DNNNN thấp nhất trong khu vực doanh nghiệp năm 2014, chỉ đạt 168 triệu
đồng, so với 317 triệu đồng của các doanh nghiệp FDI và 732 triệu đồng của
DNNN. Tuy nhiên, trong thời gian từ 2001-2015, NSLĐ của các DNNNN đã
gia tăng đáng kể (5,6 lần), tăng cao hơn so với các doanh nghiệp FDI (3,1 lần)
nhưng thấp hơn so với các Doanh nghiệp Nhà nước (10,4 lần). Do vậy, khoảng
cách về NSLĐ giữa DNNNN được thu hẹp lại với các doanh nghiệp FDI nhưng
gia tăng so với các Doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian nói trên.
Số liệu tính toán mới nhất từ tổng điều tra doanh nghiệp 2014 cho thấy tỷ
suất lợi nhuận trên doanh thu của các doanh nghiệp tư nhân là 1,7% năm 2014,
thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp nhà nước (6%); Tỷ suất lợi nhuận trên
vốn của các doanh nghiệp tư nhân là 1,2% năm 2014, cũng thấp hơn so với
doanh nghiệp nhà nước (2,8%).
1.5. Thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau, giữa
các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp FDI; Khả năng hội nhập
quốc tế thấp (tham gia vào chuỗi giá trị ở công đoạn thấp hoặc không tham
gia) và ít gắn kết với đổi mới, sáng tạo (trình độ công nghệ thấp, thiếu đầu tư
cho nghiên cứu, đổi mới và sáng tạo).
Kết quả điều tra đổi mới kỹ thuật công nghệ của 8.000 doanh nghiệp
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo từ năm 2009-2013 cho thấy chỉ có 8% số
doanh nghiệp có hoạt động nghiên cứu đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ, trong
đó chủ yếu từ các doanh nghiệp lớn và vừa, DNNNN chủ yếu là quy mô nhỏ,
gần như không có điều kiện nghiên cứu đổi mới kỹ thuật công nghệ. Điều đó
cũng dễ lý giải bởi vốn bình quân 1 doanh nghiệp ngoài nhà nước năm 2014 chỉ
là 26 tỷ đồng, quá thấp, không đủ khả năng đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ
(Tổng cục Thống Kê, 2015a).
1.6. Có đóng góp lớn cho nền kinh tế về tạo việc làm, về ngân sách Nhà
nước, về tăng trưởng kinh tế và góp phần xóa đói, giảm nghèo nhưng chưa
thực sự tương xứng với tiềm năng.
![Page 6: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/6.jpg)
Về đóng góp về việc làm và xóa đói, giảm nghèo, số liệu thống kê cho
thấy tuyệt đại đa số lao động của Việt Nam trong 15 năm qua làm việc ở khu
vực kinh tế tư nhân (bao gồm các hộ gia đình và doanh nghiệp ngoài nhà nước).
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chỉ đóng góp 4% việc làm và khu
vực kinh tế Nhà nước là 10% trong năm 2015.
Sự phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp ngoài nhà nước trong những
ngành như xây dựng, dịch vụ (Bán buôn bán lẻ, sửa chữa xe, vận tải hàng hóa và
hành khách, du lịch lữ hành, kinh doanh bất động sản), ngành công nghiệp chế
biến thâm dụng lao động đã đáp ứng yêu cầu cấp bách về giải quyết việc làm cho
một bộ phận đông đảo lao động trẻ nông thôn không có việc làm, vì những ngành
này có tỷ suất đầu tư thấp, nhưng lại thu hút nhiều lao động phổ thông không đòi
hỏi tay nghề cao (Tổng cục Thống Kê, 2015b). Các doanh nghiệp ngoài nhà
nước phát triển khá nhanh ở tất cả các vùng và các địa phương cũng đã đem lại
tác động lan tỏa tích cực về mặt kinh tế cũng như xã hội.
Với số lượng trên 4,7 triệu, hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp đang
hoạt động ở khắp các địa bàn xã, phường trên phạm vi toàn quốc, không những
đã huy động được nguồn nội lực khá lớn cho phát triển kinh tế của đất nước mà
còn làm giúp giảm bớt sự chênh lệch về trình độ kinh tế và xã hội giữa các vùng,
miền, các địa bàn trong cả nước, nhất là những nơi mà các doanh nghiệp không
muốn hoặc không thể đầu tư, như miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa (GSO,
2016).
Với trên 7,9 triệu lao động làm việc, hộ sản xuất kinh doanh phi nông
nghiệp không chỉ tạo việc làm, tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo trực tiếp
cho chính những người sở hữu, quản lý và làm việc ở khu vực này mà còn gián
tiếp cải thiện cuộc sống cho những người có thu nhập thấp, người nghèo ở cả
khu vực thành thị và khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, số liệu cũng cho thấy
đóng góp tích cực của các trang trại đối với việc làm và xóa đói giảm nghèo ở
khu vực nông thôn trong thời gian qua. Theo Tổng cục Thống kê (2016) tính tới
1/7/2016, các trang trại đã sử dụng 134,7 nghìn lao động làm việc thường xuyên.
Trong đó, lao động của hộ chủ trang trại là 75,8 nghìn người, chiếm 56,3% tổng
số lao động, còn lại là lao động thuê mướn thường xuyên.
Về đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và ngân sách Nhà nước, số liệu
thống kê cho thấy khu vực kinh tế tư nhân, bao gồm cả các doanh nghiệp và hộ
kinh doanh cá thể, đóng góp khoảng 40% GDP trong thời gian 15 năm qua. Tuy
nhiên, phần lớn khoản đóng góp này đến từ khu vực kinh tế cá thể (30%) và chỉ
![Page 7: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/7.jpg)
khoảng 8%-10% GDP được đóng góp bởi các doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Điều đó cho thấy khu vực DNNNN còn rất nhỏ bé. Khu vực kinh tế Nhà nước
đóng góp vào GDP đã giảm gần 10 điểm phần trăm trong thời gian kể trên,
trong khi đó khu vực kinh tế FDI có đóng góp vào GDP khoảng 18% năm 2015,
tăng gần 3 điểm phần trăm trong thời gian từ 2005 tới 2015.
Bên cạnh đó, các DNNNN có đóng góp ngày càng tăng cho nguồn thu
ngân sách nhà nước. Tỷ trọng đóng góp của các DNNNN vào thu ngân sách từ
toàn bộ các doanh nghiệp đã tăng từ 10% vào năm 2000 lên 33% vào năm 2014.
Trong khi đó, tỷ trọng này của khối DNNN đã giảm từ 50,6% xuống còn 39%
trong cùng thời gian kể trên (GSO, 2015).
Tuy nhiên, nghiên cứu tác động của loại hình sở hữu đến hiệu quả kinh
doanh và việc làm của các doanh nghiệp ở Việt Nam dựa vào phân tích hồi quy
sử dụng bộ dữ liệu bảng về tổng điều tra doanh nghiệp từ 2007-2014 cho thấy
với quy mô vốn và lao động tương đương với doanh nghiệp nhà nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì các DNNNN không hề thua kém hơn về
hiệu quả tài chính, doanh thu và tạo việc làm mà thậm chí doanh nghiệp tư nhân
còn đạt hiệu quả cao hơn cả ở ba chỉ số này. Cụ thể, việc phân tích hồi quy cho
thấy các DNNNN có tỷ suất lợi nhuận trên tài sản cao hơn các doanh nghiệp
Nhà nước và doanh nghiệp FDI là 5,4% và 4,5%, và hiệu quả tạo việc làm cao
hơn doanh nghiệp Nhà nước là 1,6% và doanh nghiệp FDI là 6%. Điều đó cho
thấy, nếu khu vực doanh nghiệp này lớn mạnh về quy mô thì rất có thể các
doanh nghiệp này sẽ có hiệu quả vượt trội và đóng góp nhiều hơn nữa cho nền
kinh tế Việt Nam.
Nói tóm lại, mặc dù đã có sự phát triển không ngừng nhưng khu vực
kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn chưa chưa phát huy được hết được tiềm
năng của mình để thực sự đóng vai trò là động lực quan trọng của nền kinh
tế. Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng đó là do khu vực này vẫn đang
phải đối mặt với nhiều rào cản cả về tư duy lý luận lẫn khung khổ pháp luật,
điều tiết, cơ chế chính sách và thực thi cơ chế chính sách trên thực tế cũng
như môi trường kinh doanh và năng lực nội tại của chính khu vực này.
2. CÁC RÀO CẢN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ
NHÂN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Các rào cản có liên quan đến tư duy lý luận và nhận thức đối với
sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân
![Page 8: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/8.jpg)
Có thể khẳng định rằng, kể từ khi đổi mới đến nay, đường lối và quan
điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân luôn nhất quán, luôn được hoàn
thiện, đổi mới và những hoàn thiện đổi mới này đã đóng vai trò quyết định trong
việc thúc đẩy sự phát triển của khu vực này với những đóng góp lớn cho xã hội
và nền kinh tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu
và hoàn thiện nhằm đạt được sự thống nhất cao về tư tưởng và qua đó là chỉ đạo
thực hiện. Cụ thể là nội hàm của tính xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường,
kinh tế nhà nước là chủ đạo…nói rộng hơn là xác định rõ vai trò của nhà nước
và thị trường trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc chưa có được
sự thống nhất cao về nội hàm của những vấn đề kể trên sẽ dẫn đến nguy cơ thực
hiện sai lệch, thậm chí lạm dụng trên thực tế, tạo ra sự bất bình đẳng và lợi ích
nhóm cũng như khó xây dựng được một môi trường và hệ sinh thái khuyến
khích khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp.
2.2. Các rào cản có liên quan đến khung khổ pháp luật cho sự phát
triển khu vực kinh tế tư nhân
Việt Nam đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành nhiều đạo luật từ các bộ luật
dân sự, đến các luật Thương mại, Ngân hàng, Đầu tư nước ngoài, Doanh
nghiệp…Nhưng cho đến nay, hệ thống thể chế và pháp luật của Việt Nam theo
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế vẫn còn chưa hoàn
thiện và đầy đủ. Trong những năm qua số lượng văn bản pháp luật tăng nhanh
trong khi chất lượng của nhiều văn bản chưa đảm bảo; việc lấy ý kiến công
chúng tuy có được cải thiện nhưng chưa thực sự thay đổi về chất; bản thân nước
ta vẫn thiếu một cơ quan đầu mối, các công cụ, tiêu chí kiểm soát chất lượng
văn bản pháp luật. Trong khi đó, cơ quan Nhà nước vẫn thường áp dụng biện
pháp ban hành quy định hoặc biện pháp hành chính để xử lý phát sinh mà chưa
chú trọng tới các giải pháp thị trường, đặc biệt là vẫn tồn tại tình trạng luật
khung, luật ống nên khó đi vào cuộc sống.
Theo Báo cáo Việt Nam 2035 (Ngân hàng Thế giới, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, 2016), trở ngại lớn nhất đối với khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn là
môi trường pháp lý vẫn chưa thực sự hoàn thiện theo nguyên tắc pháp quyền.
Còn nhiều quy định chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo, dẫn
tới tình trạng các cơ quan thừa hành và các doanh nghiệp lúng túng trong việc
chấp hành luật.
2.3. Các rào cản liên quan đến môi trường đầu tư và kinh doanh
![Page 9: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/9.jpg)
Một là, rào cản về gia nhập thị trường, quyền tự do kinh doanh chưa
được tôn trọng đầy đủ4; môi trường kinh doanh chưa thực sự bảo đảm cạnh
tranh công bằng, lành mạnh; việc gia nhập, hoạt động và rút khỏi thị trường còn
nhiều rào cản. Mặc dù đang có nhiều cải thiện trong những năm gần đây nhưng
môi trường Kinh doanh Việt Nam vẫn chưa đạt trung bình ASEAN 4 về điểm
số và thứ hạng.
Hai là, rào cản đối với tiếp cận thông tin và nguồn lực (vốn, đất đai).
Doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ thường gặp khó khăn hơn trong tiếp cận
thông tin so với các doanh nghiệp ngoài nhà nước với quy mô lớn.5 Các doanh
nghiệp tư nhân cũng luôn gặp phải vấn đề khó khăn trong tiếp cận đất đai và
mặt bằng cho sản xuất kinh doanh. Một tỷ lệ đáng kể doanh nghiệp chưa nhận
được giấy chứng nhận quyển sử dụng đất.6
2.4. Các rào cản có liên quan đến việc thực thi các quy định đối với
hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân
Mặc dù thời gian qua, một số Bộ, ngành đã có những cải cách tích cực về
các quy định liên quan như thành lập doanh nghiệp, tiếp cận điện năng, thuế, hải
quan, bảo hiểm xã hội,... nhưng thực tế cho thấy vẫn còn khoảng cách lớn giữa
quy định và thực thi các luật này. Ví dụ cụ thể là mặc dù luật Doanh nghiệp và
Luật Đầu tư 2014 đã có nhiều bước cải cách nhưng vẫn còn khá nhiều rào cản
dưới luật gắn với các quy định về điều kiện kinh doanh như các “giấy phép con”.
Trong số 5.826 điều kiện đầu tư kinh doanh áp dụng đối với 267 ngành, nghề
đầu tư kinh doanh có điều kiện theo quy định của Luật Đầu tư thì có đến 2.833
điều kiện hiện đang được quy định tại các văn bản được ban hành không đúng
thẩm quyền, bao gồm cả các văn bản được ban hành trước và sau khi Luật Đầu
tư có hiệu lực thi hành. Đáng lưu ý là sau khi Luật Đầu tư có hiệu lực thi hành,
một số Bộ vẫn tiếp tục ban hành, soạn thảo các Thông tư quy định về điều kiện
kinh doanh. Chính vì lý do trên, Trong báo cáo môi trường kinh doanh 2017,
đáng chú ý là chỉ số Khởi sự kinh doanh giảm 10 bậc và ở thứ hạng thấp (từ vị
trí 111 xuống vị trí 121), là chỉ số có mức giảm bậc nhiều nhất trong bảng xếp
hạng môi trường kinh doanh 2017 của Việt Nam.
4 Ví dụ việc quán cà phê “xin chào” đã bị hình sự hóa quan hệ kinh doanh, đi kèm với đó là những biểu hiện
gây khó dễ, ngăn cản quyền đăng ký kinh doanh và tổ chức kinh doanh đối với chủ doanh nghiệp này của các cơ
quan chính quyền địa phương. 5Trung bình, giai đoạn 2011-2015, chỉ có 40% doanh nghiệp tư nhân siêu nhỏ tiếp cận được nguồn vốn ngân
hàng; tỷ lệ này ở doanh nghiệp tư nhân nhỏ là 62%, vừa là 74% và lớn là 81%. 6năm 2015,54% doanh nghiệp siêu nhỏ, 56% doanh nghiệp nhỏ và 71% doanh nghiệp quy mô vừa; còn với các
doanh nghiệp quy mô lớn 87% có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
![Page 10: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/10.jpg)
Một trong những vướng mắc, bất cập lớn hiện nay trong thể chế, pháp
luật gắn với hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp là về quy định quản lý,
kiểm tra chuyên ngành còn rất phiền hà cho doanh nghiệp, thời gian thực hiện
các thủ tục này vẫn còn kéo dài, chi phí tuân thủ của doanh nghiệp tăng cao.
Điều này đặc biệt đã gây trở ngại cho các doanh nghiệp tư nhân trong việc đầu
tư, mở rộng các hoạt động sản xuất, kinh doanh và làm tăng chi phí của doanh
nghiệp7. Chính vì các vấn đề trên, các chỉ số liên quan đến thể chế hỗ trợ hoạt
động hiệu quả của doanh nghiệp trong Báo cáo môi trường kinh doanh 2017 của
Việt Nam không những không tăng mà còn có xu hướng giảm, cụ thể là các chỉ
số Cấp phép xây dựng và các thủ tục liên quan, và Tiếp cận tín dụng (mỗi chỉ
số giảm 3 bậc).
Theo kết quả điều tra PCI 2015, có tới 74% doanh nghiệp từng đón tiếp
các đoàn thanh kiểm tra trong tất cả các lĩnh vực trong năm vừa qua. Điều đó
làm gia tăng lo ngại rằng: Các doanh nghiệp có quy mô càng lớn, gánh nặng về
thanh kiểm tra càng cao. Chi phí thực hiện thủ tục hành chính tăng, rủi ro tăng
lên khi quy mô tăng có thể là một nguyên nhân khiến các DNNNN nhỏ và vừa ở
Việt Nam “ngại lớn” và chuyển sang các hoạt động phi chính thức (Đậu, 2016).
2.5. Các rào cản liên quan đến chi phí không chính thức
Việc phải trả các khoản chi phí không chính thức là một gánh nặng lớn
mà các DNNNN phải đối mặt ở Việt Nam.8 Giá trị của các khoản chi phí không
chính thức so với doanh thu của các DNNNN cũng tương đối lớn. Bên cạnh đó,
một tỉ lệ tương đối lớn doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ (khoảng 65%) và doanh
nghiệp vừa (62%) cho rằng có “tình trạng nhũng nhiễu khi giải quyết thủ tục
hành chính cho doanh nghiệp”.
2.6. Các rào cản có liên quan đến sự bất bình đẳng trong cơ chế
chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân trong tương quan so sánh với
khu vực kinh tế Nhà nước và khu vực FDI
Các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn được hưởng nhiều những ưu ái từ
Nhà nước. Những ưu ái này tạo ra những méo mó thị trường, hậu quả là nguồn
7 Một ví dụ cụ thể là theo một doanh nghiệp tư nhân nhập khẩu mặt hàng bột mì, phụ gia thực phẩm để sản xuất
hàng thủy sản XK, tổng chi phí cho kiểm tra chuyên ngành đối với những mặt hàng này khoảng 1 tỷ đồng/năm,
chiếm 2- 3% giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, các chi phí thử nghiệm hiệu suất năng lượng hàng chục triệu
đồng/mặt hàng và hàng trăm triệu đồng/lô hàng có nhiều mặt hàng; chi phí vận chuyển hàng hóa (có mặt hàng
Bộ quản lý chuyên ngành chỉ quy định duy nhất 01 tổ chức kiểm định); chi phí lưu kho, lưu bãi; chi phí thời
gian thử nghiệm (hàng tháng) và thực hiện thủ tục dán nhãn năng lượng và các chi phí cơ hội khác,…
862% doanh nghiệp siêu nhỏ, 68% doanh nghiệp nhỏ thấy chi trả chi phí không chính thức là thường xuyên. Với
các doanh nghiệp quy mô vừa và lớn, con số này lần lượt là 70% và 69%.
![Page 11: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/11.jpg)
lực chưa được bố trí vào nơi sử dụng hiệu quả nhất. Doanh nghiệp nhà nước,
ngoài ưu thế được cấp vốn từ ngân sách nhà nước, vẫn được tạo điều kiện thuận
lợi hơn nhiều so với doanh nghiệp tư nhân trong việc tiếp nhận các nguồn vay
từ các tổ chức tín dụng, ngân hàng; có ưu thế lớn hơn nhiều trong việc tiếp cận
đất đai và mặt bằng sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp nhà nước ở các lĩnh vực
độc quyền nhà nước như điện, nước, xăng dầu, dịch vụ công ích thiết yếu, cơ
chế định giá chưa theo cơ chế thị trường, và tính minh bạch trong cơ chế giá còn
thấp, tạo ra sự bất bình đẳng với các doanh nghiệp tư nhân muốn tham gia vào
các thị trường này. Các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam cũng được hưởng
rất nhiều ưu đãi về cả yếu tố đầu ra (ưu đãi thuế quan) và yếu tố đầu vào (ưu đãi
về đất đai, tiếp cận vốn, v.v.); chưa có doanh nghiệp tư nhân Việt Nam nào
được hưởng mức miễn giảm vượt những ưu đãi này9.
Trong khi đó, khu vực kinh tế tư nhân trong nước lại chịu áp lực
cạnh tranh gay gắt từ phía các doanh nghiệp nước ngoài trong bối cảnh hội
nhập đang diễn ra mạnh mẽ. Các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn vẫn hoạt
động ở thị trường nội địa; năng lực cạnh tranh yếu chưa tham gia được vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Năm 2015, chỉ có 3% doanh nghiệp siêu nhỏ, 4% doanh
nghiệp nhỏ và gần 9% doanh nghiệp quy mô vừa có khách hàng nước ngoài.
Một nghiên cứu định lượng của các giảng viên trường Đại học Kinh tế-
ĐHQGHN10 đã chỉ ra rằng áp lực cạnh tranh với hàng nhập khẩu từ Trung Quốc
đã làm phá sản hoặc buộc các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam phải lui
về các ngành thâm dụng lao động với năng suất thấp.
2.7. Các rào cản có liên quan đến hoạt động của bộ máy quản lý nhà
nước đối với khu vực kinh tế tư nhân
Bộ máy quản lý nhà nước đối với hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân
còn nhiều bất cập, chưa thực sự hiệu quả và nặng về cơ chế xin-cho. Theo bộ
chỉ số xếp hạng quản trị quốc gia của Ngân hàng thế giới, chỉ số Hiệu quả chính
quyền của Việt Nam dù có sự cải thiện nhưng vẫn luôn nằm dưới điểm trung
9Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam (SEV) có vốn đầu tư khoảng 670 triệu USD, sản xuất điện
thoại di động tại tỉnh Bắc Ninh hưởng thuế thu nhập doanh nghiệp 10%, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong
4 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Tỉnh Bắc Ninh tiếp tục giảm 50% thuế thu nhập doanh
nghiệp trong 3 năm sau đó (ưu đãi vượt khung), giải phóng mặt bằng và đảm bảo điện nước. Ưu đãi trên tiếp tục
được áp dụng cho dự án của Samsung tại Thái Nguyên. Trong khi đó, Tập đoàn Viettel của Việt nam cũng đề
xuất được hưởng ưu đãi thuế 10% cho thu nhập từ sản xuất điện thoại nhưng lại bị các cơ quan chức năng từ
chối. 10 Doan, Tinh, Nguyen, Son, Vu, Huong, Tran, Tuyen, & Lim, Steven. (2015). Does rising import competition
harm local firm productivity in less advanced economies? Evidence from the Vietnam's manufacturing sector.
The Journal of International Trade & Economic Development(ahead-of-print), 1-24.
![Page 12: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/12.jpg)
bình của thế giới. Xét về tổng thể, Việt Nam vẫn xếp hạng dưới mức trung bình
của thế giới về năng lực quản trị quốc gia.
2.8. Các rào cản do năng lực nội tại thấp và trong nhiều trường hợp,
văn hóa kinh doanh còn nhiều bất cập
Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân trong nước cũng bộc lộ nhiều hạn chế là: các doanh nghiệp chủ yếu có quy
mô nhỏ và vừa, nguồn lực tài chính, trình độ trang bị kỹ thuật và năng lực cạnh
tranh thấp kém; nhiều doanh nghiệp ngoài nhà nước và hộ tiểu chủ, cá thể thực
hiện kinh doanh theo kiểu tình huống ngắn hạn, chưa có tầm nhìn, chiến lược
kinh doanh dài hạn; ý thức tự giác chấp hành pháp luật của Nhà nước còn hạn
chế. Các doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa có được một đội ngũ doanh nhân
lớn mạnh; mới chỉ được phát triển mạnh trong những năm đổi mới vừa qua,
thiếu kinh nghiệm trong thương trường quốc tế và chưa được đào tạo cơ bản về
quản lý sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, một bộ phận doanh nhân còn hạn chế
về kiến thức, sự am hiểu pháp luật và năng lực kinh doanh, kinh nghiệm quản lý,
khả năng cạnh tranh và hội nhập. Một số doanh nhân còn thiếu văn hóa kinh
doanh và trách nhiệm với xã hội, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, làm tăng thêm
các tiêu cực xã hội (Nguyễn & Trần, 2014a).
Ngoài ra, hoạt động của các hiệp hội doanh nghiệp tư nhân chưa thực sự
hiệu quả, chưa thực sự giúp đỡ được các doanh nghiệp phát triển. Tuy nhiên,
theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), 70%
doanh nghiệp còn chưa tham gia hiệp hội thấy không thật sự cần thiết phải tham
gia do hiệp hội chưa làm tốt vai trò đại diện của mình, chưa bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của các doanh nghiệp, bảo vệ môi trường kinh doanh, quyền
tự do kinh doanh, bảo vệ cạnh tranh, xúc tiến mậu dịch.
3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM XÓA BỎ CÁC RÀO CẢN VÀ THÚC
ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG
THỜI GIAN TỚI
3.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện lý luận và thống nhất về nhận thức
Một là, nhận thức rõ hơn về chức năng của Nhà nước và thị trường trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng XHCN là điều kiện tiên quyết để tạo lập môi trường thuận lợi cho kinh
tế tư nhân phát triển. Trước hết, cần phân định rõ vai trò của Nhà nước và thị
trường cũng như làm rõ mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường trong nền kinh
tế. Vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế - xã hội không phải là sự tranh
![Page 13: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/13.jpg)
chấp với thị trường, mà là kiến tạo thị trường qua việc xây dựng hạ tầng kinh tế, kỹ
thuật “cứng” và hạ tầng kinh tế, kỹ thuật “mềm” cho nền kinh tế, làm cho thị
trường hoạt động tốt hơn. Thước đo tốt nhất để đánh giá vai trò của nhà nước là
mức độ lành mạnh của thị trường.
Hai là, phân định rõ hơn chức năng, vai trò của khu vực kinh tế nhà nước
và khu vực kinh tế tư nhân. Đại hội lần thứ XII đã khẳng kinh tế tư nhân là “một
động lực quan trọng của nền kinh tế”11; nếu xét về số lượng doanh nghiệp, giải
quyết việc làm, giá trị tài sản cố định, doanh thu và nguồn vốn, đến nay kinh tế tư
nhân đã là khu vực lớn nhất của nền kinh tế. Mục tiêu đặt ra là tạo điều kiện, dỡ
bỏ các rào cản, thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển, thực sự đóng vai trò là
một động lực quan trọng của nền kinh tế, tiến tới trở thành động lực quan trọng
nhất của nền kinh tế nước ta. Nếu được khẳng định một cách chính thức, luận
điểm này sẽ cổ vũ mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp, tạo sức sống và đột phá phát
triển đất nước ta trong giai đoạn tới.
Cần nhấn mạnh và làm rõ rằng, việc xác định: “kinh tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”12
không hàm ý sự phân biệt đối xử: “vai trò chủ đạo” so với “động lực quan
trọng”, mà với ý nghĩa là tùy thuộc vào chức năng của mỗi khu vực kinh tế để
xác định vị trí, chỗ đứng của chúng. Cần thực hiện nguyên tắc: những gì tư
nhân có thể làm tốt thì để cho khu vực tư nhân làm; Nhà nước cần thoái vốn tối
đa trong lĩnh vực kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Khu vực kinh tế tư nhân cần
trở thành động lực quan trọng nhất trong tất cả lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
trên thị trường – những nơi khu vực kinh tế nhà nước không nên tham gia hoặc
chỉ nên tham gia rất hạn chế (theo nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng với khu vực
kinh tế tư nhân) vì không thuộc chức năng chính của mình. Điều này hoàn toàn
phù hợp với chủ trương: “khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô
trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”.13
Ba là, trong 30 năm đổi mới,việc hình thành và đa dạng hóa các hình thức
sở hữu đã quy định các thành phần kinh tế tương ứng. Tuy nhiên, nhận thức về chế
độ sở hữu và thành phần kinh tế hiện còn chưa thật phù hợp với nền kinh tế thị
11 Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội lần thứ XII, Văn phòng trung ương đảng, Hà nội, Tr.103 12Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội lần thứ XII, Văn phòng trung ương đảng, Hà nội, Tr.103 13Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X),
Phần II, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 149
![Page 14: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/14.jpg)
trường hiện đại.14 Cách phân chia “thành phần kinh tế” mang nặng tư duy phân
biệt đối xử và suy nghĩ của thời kỳ kế hoạch hóa tập trung tỏ ra không còn phù hợp
với thực tiễn, trong chính sách quản lý và điều hành nền kinh tế và với tiến trình
hội nhập quốc tế của đất nước ta.
3.2. Nhóm giải pháp thiết lập nền tảng cơ bản cho khu vực kinh tế tư
nhân phát triển
Một là, tiếp tục đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới
mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, cơ cấu lại
nền kinh tế, dịch chuyển từ phát triển các lĩnh như khai thác tài nguyên, bất
động sản,…sang các lĩnh vực sản xuất công nghệ, nông nghiệp và dịch vụ mà
Việt Nam có thế mạnh, như du lịch… Cần tạo điều kiện cho khu vực tư nhân
tham gia vào quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, tham gia rộng rãi vào quá trình cổ
phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, hưởng các ưu đãi về lãi suất, vay vốn, đào
tạo, thuế, thuê mặt bằng, thủ tục hành chính…khi tham gia vào những lĩnh vực
sản xuất, kinh doanh mới.
Hai là, hoàn thiện thể chế phân bổ nguồn lực để các nguồn lực được huy
động và sư dụng có hiệu quả cao, nhất là các nguồn lực của nhà nước. Cần có
những giải pháp đột phá để chấm dứt cơ chế xin–cho trong phân bổ nguồn lực nhà
nước; quản lý ngân sách nhà nước một cách chặt chẽ minh bạch từ trung ương tới
địa phương và giám sát chặt chẽ quá trình thực hiện các dự án phát triển của nhà
nước; tăng cường trách nhiệm của người đề xuất, người phê duyệt và người quản
lý, thực hiện dự án, công khai minh bạch trong quá trình đấu thầu, tránh việc lợi
dụng các quan hệ thân hữu để đạt được gói thầu, vay vốn nhà nước; đơn giản hóa
các thủ tục hành chính trong khoa học, thực hiện cải cách hệ thống và nội dung
giáo dục một cách cơ bản theo hướng gắn với thực tiễn; hoàn thiện thị trường các
yếu tố sản xuất.
Ba là, tạo lập môi trường thực sự bình đẳng, dỡ bỏ các rào cản cho khu vực
kinh tế tư nhân phát triển. Đoạn tuyệt hoàn toàn những phân biệt đối xử trên thực
tế với khu vực kinh tế tư nhân; không để tiếp diễn tình trạng “vừa đá bóng, vừa
thổi còi”, một bộ dành những ưu đãi về mặt chính sách cho các doanh nghiệp nhà
nước do mình quản lý. Đẩy mạnh cổ phần hóa tất cả các doanh nghiệp nhà nước
đang thực hiện chức năng “kinh doanh”, để tạo cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân 14Nước ta khẳng định có ba chế độ sở hữu: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Trong khi đó về
lý luận, cũng như về thực tiễn thế giới chỉ có hai chế độ sở hữu là công hữu và tư hữu, tồn tại với nhiều hình
thức khác nhau.
![Page 15: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/15.jpg)
tham gia. Bảo vệ hữu hiệu quyền sở hữu tư nhân về tài sản để các doanh nghiệp tư
nhân yên tâm kinh doanh lâu dài, phát triển một cách lành mạnh. Đặc biệt, cần tập
trung xử lý những vướng mắc trong quyền sử dụng đất đai đang tạo ra tình trạng
tham nhũng, trục lợi trong quản lý đất công, điểm nghẽn trong tích tụ ruộng đất để
phát triển nông nghiệp, giải phóng mặt bằng để phát triển kết cấu hạ tầng, định giá
tài sản trong cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, xử lý nợ xấu và thế chấp vay
vốn ngân hàng.v.v... chấm dứt việc hình sự hóa các vụ tranh chấp kinh doanh trái
pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, dỡ bỏ các bất cập, cản trở đối
với hoạt động kinh doanh, giảm gánh nặng về thuế, phí, gánh nặng chi phí không
chính thức cho doanh nghiệp;cải thiện chất lượng dịch vụ công đáp ứng các tiêu
chí về tính minh bạch, có trách nhiệm, tích hợp liên ngành, có sự đánh giá thường
xuyên của khách hàng. Tháo gỡ rào cản về vốn cho doanh nghiệp, phát triển thị
trường chứng khoán trở thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho các
doanh nghiệp; đa dạng hoá các sản phẩm và mở rộng cơ hội cho các nhà đầu tư tài
chính nước ngoài trên thị trường.
Bốn là, nâng cao chất lượng thể chế và quản trị của khu vực kinh tế tư nhân.
Phát triển văn hóa doanh nghiệp lành mạnh, hình thành một đội ngũ doanh nhân có
trách nhiệm với xã hội, chấp nhận những chuẩn mực trong sạch, minh bạch, nói
“không” với nạn hối lộ, tham nhũng trong kinh doanh. Ngoài ra, cần thông qua các
chương trình đào tạo doanh nhân về kiến thức và kỹ năng quản lý doanh nghiệp để
có thể thực hành được những mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại.
Năm là, xây dựng và thực hiện chính sách công nghiệp quốc gia đặt trọng
tâm vào phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích áp dụng công nghệ và nuôi dưỡng
đổi mới sáng tạo. Chính sách công nghiệp cần tạo ra bầu không khí hợp tác giữa
Chính phủ và khu vực tư nhân hơn là chỉ đơn thuần cung cấp các ưu đãi tài chính;
cần phải dựa vào cả ‘cà rốt’ (các ưu đãi) và ‘cây gậy’ (các biện pháp hành chính)
để hướng khu vực tư nhân vào những lĩnh vực được xác định cần ưu tiên phát triển
và cần được thực hiện một cách minh bạch và có trách nhiệm giải trình, và mở
rộng cho tất cả các bên có liên quan có thể tham gia. Có các chính sách giúp tăng
cường liên kết giữa các doanh nghiệp tư nhân trong nước và khu vực nước ngoài
sư dụng nhiều công nghệ. Để kết nối được với các tập đoàn đa quốc gia (TNC),
Việt Nam cần thúc đẩy các hoạt động phát triển công nghệ, tạo điều kiện cho sự
hình thành và phát triển hệ sinh thái cho đổi mới sáng tạo. Cần hướng khu vực
kinh tế tư nhân tập trung phát triển vào: nhóm ngành công nghệ như công nghệ
thông tin và truyền thông, các lĩnh vực ứng dụng số hóa và tự động hóa; nhóm
![Page 16: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/16.jpg)
ngành dịch vụ như hậu cần, du lịch, đào tạo nghề online, một số lĩnh vực y tế, điều
dưỡng; nhóm ngành nông nghiệp như nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chế
biến nông sản, các loại hình dịch vụ mới như nông nghiệp kết hợp với du lịch và
nhóm ngành năng lượng tái tạo (năng lượng mặt trời, hải lưu, năng lượng gió…).
Sáu là, Phát triển kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực để nâng cao tính sẵn
sàng về công nghệ cho khu vực tư nhân, thúc đẩy khởi nghiệp. Phát triển các hệ
thống kết cấu hạ tầng xương sống như mạng thông tin, internet, giao thông, v.v...;
xây dựng các trung tâm kiểm định, hệ thống thương hiệu và cấp chứng chỉ sản
phẩm cho khu vực kinh tế tư nhân; xây dựng những “thành phố đáng sống”, những
đặc khu kinh tế có mức độ tự do và tự chủ cao, kết nối với hệ thống đô thị toàn
cầu, là nơi thu hút nhân tài đến sinh sống, khởi nghiệp và làm việc. Đổi mới căn
bản hệ thống giáo dục và đào tạo, trong đó gắn giáo dục-đào tạo với hoạt động
thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp, có định hướng
ưu tiên về chính sách và các nguồn lực cho các ngành khoa học, công nghệ, cơ khí,
toán (STEM); đặc biệt chú trọng đào tạo nghề và đào tạo nhân tài. Việt Nam cần
có những trường đại học kỹ thuật và công nghệ có đẳng cấp, kết nối tốt với khu
vực doanh nghiệp, tập trung vào đào tạo các ngành nghề liên quan đến các công
nghệ mũi nhọn như STEM, robotic, kinh tế xanh, internet kết nối vạn vật, thiết kế
trí tuệ nhân tạo, tự động hoá, năng lượng và vật liệu mới...; cần tạo dựng văn hóa
sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, hình thành ý chí tự thân lập nghiệp, giúp giới trẻ có năng lực sáng tạo để
sẵn sàng cho tương lai.
Bảy là, thiết lập nền quản trị quốc gia tốt, thực hiện chính phủ liêm chính,
kiến tạo và phục vụ phát triển. Xây dựng hệ thống dịch vụ công hiệu quả; cải cách
mô hình cung ứng dịch vụ công theo hướng tăng cường sự tham gia của khu vực tư
nhân và cộng đồng. Hoàn thiện hệ thống giải quyết tranh chấp, xét xư, bảo vệ
quyền sở hữu tài sản, tạo điều kiện cho tiến hành các thủ tục phá sản doanh nghiệp
theo tinh thần thượng tôn pháp luật; đảm bảonguyên tắc toà án độc lập có hiệu
lực trên thực tế, bảo vệ công lý. Tiếp tục đa dạng hoá, mở rộng các dịch vụ như:
luật sư, tư vấn kinh doanh, trọng tài...
Tám là, xây dựng bộ máy hành chính có trách nhiệm giải trình đối với
công chúng, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu cực của vấn đề lợi ích nhóm đối với
chính sách. Áp dụng mạnh mẽ chính phủ số ở mọi lĩnh vực để giảm thiểu và
hiện đại hóa thủ tục hành chính, hạn chế tham nhũng, tăng cường tính minh
bạch và tiếp nhận được sự phản hồi của người dân. Thiết lập các cơ chế đối
![Page 17: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/17.jpg)
thoại liên tục nhằm giám sát nền hành chính công và dỡ bỏ những rào cản, bất
cập xuất hiện trong quá trình thực thi chính sách. Đảm bảo nguyên tắc hoạt
động độc lập của kiểm toán, thanh tra, ngân hàng trung ương, thống kê... Xử lý
nạn tham nhũng, quan liêu một cách quyết liệt.
3.3. Nhóm giải pháp đối với từng nhóm đối tượng của khu vực kinh
tế tư nhân
3.3.1. Đối với nhóm doanh nghiệp lớn. Cần một chính sách công nghiệp phù
hợp với vai trò kiến tạo, định hướng của nhà nước để tạo môi trường cho việc hình
thành các doanh nghiệp tư nhân lớn hoạt động trong những ngành nghề mới, đặc
biệt là các lĩnh vực dựa vào công nghệ. Bên cạnh việc hỗ trợ các doanh nghiệp tư
nhân lớn đã có như FPT, cần đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước
như Viettel và VNPT; các doanh nghiệp tư nhân lớn của Việt Nam cần xây dựng
một lộ trình để phát hành cổ phiếu thành công trên thị trường chứng khoán quốc tế
và cần một chiến lược hướng vào xuất khẩu thay vì tập trung vào một số ngành
then chốt được bảo hộ nội địa, mua lại một số thương hiệu có tiếng ở nước ngoài.
3.3.2. Đối với nhóm doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cần thiết lập các cụm liên
kết ngành sản xuất linh kiện đòi hỏi quy mô đầu tư vốn vừa phải và độ tinh vi công
nghệ ở mức trung bình. Chính phủ và chính quyền địa phương cần định hướng, tập
trung nguồn lực hỗ trợ xây dựng cụm liên kết ngành điện tử, công nghệ thông tin,
chế biến lương thực, thực phẩm, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ
trong những lĩnh vực này. Mở rộng quy mô, hoàn thiện quy chế của các quỹ hỗ trợ
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ; mở rộng đối tượng, phạm vi của cơ chế bảo
lãnh tín dụng. Chuẩn hoá các tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán, các tiêu chí đánh giá
và định mức tín nhiệm doanh nghiệp để giảm mức độ rủi ro của các khoản cho vay
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Phát huy vai trò tích cực của các hiệp hội doanh nghiệp
trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt trong các hoạt động liên
kết doanh nghiệp, đào tạo, chia sẻ kinh nghiệm,...
3.3.3. Đối với nhóm doanh nghiệp khởi nghiệp: Khuyến khích, động viên, cổ
vũ tinh thần khởi nghiệp; thúc đẩy khởi nghiệp trở thành phong trào sâu, rộng
trong xã hội, coi trọng tính hiệu quả, tránh hình thức, coi trọng chất lượng hơn số
lượng. Thúc đẩy xây dựng, hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, giúp các doanh
nhân vượt qua rào cản về vốn, rủi ro, nguồn nhân lực...để hiện thực hóa các ý
tưởng. Nhà nước tập trung xây dựng, hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo thuận lợi
cho việc thành lập, hoạt động của Quỹ đầu tư mạo hiểm; thực hiện nhiều hình thức
đối tác công-tư, kết hợp nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước với nguồn vốn đầu tư của
![Page 18: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/18.jpg)
tư nhân để cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Cần giảm thiểu
thủ tục hành chính, giảm thuế, tạo điều kiện cho các khu vực làm việc chung, vườn
ươm doanh nghiệp và các tổ chức cung ứng dịch vụ tư vấn pháp luật, kế toán, kiểm
toán, định giá tài sản, chuyển giao công nghệ, xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương
mại... cho doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển mạnh.
3.3.4. Đối với khu vực phi chính thức15.
Các cơ quan nhà nước, một mặt, không thúc ép các cơ sở sản xuất kinh
doanh phi chính thức phải chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân bằng biện
pháp hành chính thay vì tự nguyện, xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của bản thân
các cơ sở này; mặt khác, cần cải thiện môi trường kinh doanh hỗ trợ khu vực
này phát triển. Phải giảm gánh nặng về thủ tục hành chính, thanh tra, kiểm tra,
chi phí không chính thức, thuế cho các hộ sản xuất kinh doanh; tạo thuận lợi
cho các hộ thuê mướn, tuyển dụng, sa thải và chấm dứt hợp đồng lao động, bảo
hiểm thất nghiệp, hỗ trợ thích đáng khu vực phi chính thức trong đào tạo nghề,
nhất là đào tạo ngắn hạn, đào tạo gắn với nhu cầu công việc.
3.3.5. Đối với nhóm doanh nghiệp trong nông nghiệp và ở nông thôn.
Để tạo đột phá phát triển, phải chuyển từ mô hình sản xuất nông nghiệp
khép kín, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, chủ yếu ở quy mô hộ gia đình sang mô hình sản
xuất nông nghiệp quy mô lớn, dựa vào doanh nghiệp và trang trại, hoạt động theo
cơ chế thị trường và đủ sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Để tạo điều kiện cho
tích tụ ruộng đất, cần dỡ bỏ hạn điền, có cơ chế tạo thuận lợi để người nông dân
cho thuê đất nông nghiệp một cách lâu dài; chính quyền địa phương cần hỗ trợ các
doanh nghiệp trong việc thuê đất từ các hộ nông dân nhỏ lẻ. Cần có sự liên kết,
hợp tác chặt chẽ giữa chính quyền địa phương với doanh nghiệp, nhà khoa học và
người nông dân để giúp tháo gỡ, xử lý những khó khăn mà tự người nông dân hoặc
tự doanh nghiệp khó làm được. Tiếp tục đổi mới mô hình kinh tế tập thể trong
nông nghiệp và nông thôn theo hướng quy tụ nguồn lực, chia sẻ kinh nghiệm, phối
hợp trong các khâu dịch vụ, ứng dụng công nghệ để nâng cao hiệu quả và hoạt
động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh liên kết nông nghiệp – công nghiệp; xây
dựng các cụm nông nghiệp – công nghiệp – dịch vụ ở nông thôn, chú trọng vai trò
của công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ xanh và công nghệ sạch,
nâng cao chất lượng và giá trị của các sản phẩm nông nghiệp.
15 gồm tất cả các doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân, sản xuất ít nhất một hoặc một vài sản phẩm và dịch
vụ để bán hoặc trao đổi, không đăng kí kinh doanh (không có giấy phép kinh doanh) và không thuộc ngành
nông, lâm nghiệp và thủy sản; nói một cách khác khu vực này gồm các hộ sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp,
phi chính thức
![Page 19: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/19.jpg)
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư. (2014). Sách trắng về doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam. Hà
Nội: NXB Thống Kê.
2. CIEM. (2010). Phát triển kinh tế tư nhân. Hà Nôi, Việt Nam: Viện Nghiên cứu và Quản
lý kinh tế Trung Ương.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương khóa VII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới
(khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đậu, Tuấn Anh. (2016). Doanh nghiệp nhỏ và vừa tư nhân Việt Nam kinh doanh trong
chật vật. Paper presented at the Diễn đành Kinh tế Việt Nam 2016, Hà Nội, Việt Nam.
8. Doan, Tinh, Nguyen, Son, Vu, Huong, Tran, Tuyen, & Lim, Steven. (2015). Does rising
import competition harm local firm productivity in less advanced economies? Evidence from
the Vietnam's manufacturing sector. The Journal of International Trade & Economic
Development(ahead-of-print), 1-24.
9. GSO. (2016). RESULTS OF A SURVEY ON NON-FARM INDIVIDUAL BUSINESS
ESTABLISHMENTS 2015. Hanoi, Vietnam: Statistical Publishing House.
10. H Thanh. (2016). Vì sao 70% doanh nghiệp không muốn tham gia hiệp hội?, from
http://cand.com.vn/doanh-nghiep/Vi-sao-70-doanh-nghiep-khong-muon-tham-gia-hiep-hoi-
343998/
11. Nguyễn Xuân Thắng (2016), Một số luận điểm mới về phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, số 19 tháng 9
12. Nguyễn, Sơn Hồng, & Trần, Tuyến Quang. (2014a). Báo cáo tổng kết 30 năm công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Hà Nội, Việt Nam: Trường Đại học Kinh tế, ĐHQG Hà
Nội.
13. Nguyễn, Sơn Hồng, & Trần, Tuyến Quang. (2014b). Nâng cao mức sống dân cư trong
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam: thành tựu và những thách thức đặt ra.
Tạp chí Kinh tế và Kinh doanh, 30(1), 10-18.
14. Tổng cục Thống Kê. (2015a). Hiệu quả của các doanh nghiệp trong nước giai đoạn 2005
– 2014. Hà Nội, Việt Nam: NXB Thống Kê.
15. Tổng cục Thống Kê. (2015b). Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Việt Nam
giai đoạn 2010-2014. Hà Nội, Việt Nam: NXB Thống Kê.
16. Tổng Cục Thống Kê. (2016a). Báo cáo kết quả điều tra sơ bộ nông thôn, nông nghiệp và
thủy sản. Hà Nội, Việt Nam: Tổng Cục Thống Kê.
17. Tổng cục Thống Kê. (2016b). Năng suất lao động Việt Nam: Thực trạng và Giải pháp. Hà
Nội, Việt Nam: Tổng cục Thống Kê.
18. Tran, Tuyen Quang, Vu, Huong Van, Doan, Tinh Thanh, & Tran, Hiep Duc. (2016).
Corruption, provincial institutions and firm performance: evidence from Vietnam. Estudios
de Economia, 43(2), 1-23.
19. Tuyen, Nguyen. (2016). Hơn 93% doanh nghiệp phá sản có quy mô vốn 10 tỷ đồng. from
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/hon-93-doanh-nghiep-pha-san-co-quy-mo-von-10-ty-dong-
20161128132950874.htm
![Page 20: PHÁT TRIỂN KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM: Nh ng …bcsi.edu.vn/upload/17912/20170601/3__Phat_trien_khu_vuc_kinh_te_tu... · trong khu vực phi chính thức, một](https://reader031.vdocuments.pub/reader031/viewer/2022011810/5dd11b52d6be591ccb6440dc/html5/thumbnails/20.jpg)
20. Van, Huong Vu. (2014). Export participation, employee benefits and firm performance:
the evidence from Vietnam's manufacturing SMEs. (PhD), The University of Waikato,
Hamilton, New Zealand.
21. VCCI & USAID. (2015) Báo cáo năng lực cạnh tranh cấp tỉnh năm 2015. Hà Nội: Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ
22. Vu, Huong, Tran, Tuyen Quang, Nguyen, Tuan, & Lim, Steven. (2016). Corruption,
Types of Corruption and Firm Financial Performance: New Evidence from a Transitional
Economy. Journal of Business Ethics, 1-12. doi: 10.1007/s10551-016-3016-y
23. WB. (2012). 2012 Vietnam poverty assessment - Well begun, not yet done : Vietnam's
remarkable progress on poverty reduction and the emerging challenges. Washington DC: The
World Bank.