pon
DESCRIPTION
PONTRANSCRIPT
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................................1
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ , BẢNG BIỂU...................................................2
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT.........................................................................3
LỜI NÓI ĐẦU.....................................................................................................4
Chương 1: Mạng quang thụ động PON............................................................5
1.1. Giới thiệu chung về mạng quang thụ động PON......................................6
1.2. Kiến trúc của PON....................................................................................9
1.3. Đặc điểm của PON.................................................................................11
1.4. Thành phần cơ bản của mạng quang thụ động PON..............................12
1.4.1 Sợi quang và cáp quang....................................................................12
1.4.2 Bộ tách/Ghép quang.........................................................................14
1.4.3 Đầu cuối đường quang OLT ( Optical Line Terminal)....................15
1.4.4 Đơn vị mạng quang ONU ( Optical Network Unit).........................18
1.4.5 ODN.................................................................................................19
1.4.6 Bộ chia (Splitter)..............................................................................20
1.5 Phân loại PON.......................................................................................21
1.5.1 TDM PON........................................................................................21
1.5.2 WDM-PON.......................................................................................23
1.5.3 CDMA-PON.....................................................................................25
1.6 So sánh PON với công nghệ mạng quang thụ động AON.....................25
Chương 2: Các hệ thống PON đang được triển khai.....................................28
2.1 APON/BPON..........................................................................................28
2.2 GPON......................................................................................................28
2.3 EPON......................................................................................................30
2.4 WDM-PON.............................................................................................34
2.5 Nhận xét chung về các hệ thống PON....................................................34
KẾT LUẬN........................................................................................................37
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................38
Lê Minh Liêm - 509102041 1
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ , BẢNG BIỂU
Hình 1.1 Mô hình mạng quang thụ động
Hình 1.2 Các kiểu kiến trúc của PON
Hình 1.3 Mô hình cây sử dụng bộ chia
Hình 1.4 Mô hình bus sử dụng tapcoupler
Hình 1.5 Mô hình vòng
Hình 1.6 Mô hình cây
Hình 1.7 Cấu tạo của sợi quang
Hình 1.8 Cấu hình cơ bản các loại Coupler
Hình 1.9 Coupler 8x8 được tạo ra từ nhiều coupler
Hình 1.10 Các khối chức năng trong OLT
Hình 1.11 Các khối chức năng trong ONU
Hình 1.12 Các giao diện quang
Hình 1.13 Liệt kê suy hao của các bộ chia (splitter) tương ứng
Hình 1.14 Mạng PON sử dụng một sợi quang
Hình 1.15 Cấu trúc của WDM-PON
Hình 1.16 So sánh mạng quang chủ động và mạng thụ động
Hình 2.1 Dòng dữ liệu đường lên trong EPON
Hình 2.2 Cấu trúc khung đường xuống trong EPON
Hình 2.3 Cấu trúc khung đường lên trong EPON
Bảng 2.1 So sánh EPON và GPON
Lê Minh Liêm - 509102041 2
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
PON Passive Optical Network Mạng quang thụ động
OLT Optical Line Terminal Thiết bị đầu cuối kênh
ONT Optical Network Terminal Thiết bị đầu cuối mạng
ONU Optical Network Unit Đơn vị mạng quang
GPON Gigabit Passive Optical
Network
Mạng quang thụ động tốc độ Gigabit
APON ATM Passive Optical
Network
PON trên nền ATM
BPON Broadband Passive Optical
Network
Mạng quang thụ động băng thong
rộng
EPON Ethernet Passive Optical
Network
Mạng quang thụ động dùng Ethernet
WDM Wavelength Division
Multiplexing
Ghép kênh phân chia theo bước sóng
FTTH Fiber to the Home Cáp quang nối tận nhà
FTTB Fiber To The Building Cáp quang tới tòa nhà
FTTC Fiber To The Curt Cáp quang tới khu dân cư
CO Centre Office Văn phòng trung tâm
Lê Minh Liêm - 509102041 3
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, hạ tầng mạng Viễn thông đã phát triển
nhanh cả về công nghệ và chất lượng cung cấp dịch vụ. Viễn thông đã
trải qua một quá trình phát triển lâu dài với nhiều bước ngoặt trong
phát triển công nghệ và phát triển mạng lưới. Việt Nam cũng như các
nước trên thế giới, hiện nay có rất nhiều nhà khai thác Viễn thông
khác nhau với sự đa dạng của công nghệ và cấu hình mạng cũng như
cung cấp dịch vụ.
Ngày nay, cùng với sự phát triển chóng mặt của khoa học kỹ thuật
đã và đang gặt hái được rất nhiều những thành công rực rỡ thì những
nhu cầu về giải trí, học tập và nắm bắt thông tin của con người cũng
ngày một tăng lên. Do vậy để đáp ứng được hầu hết các nhu cầu ấy
đòi hỏi các nhà khai thác Viễn thông ở Việt Nam cần phải nâng cao cả
về chất lượng và công nghệ. Trong đó, công nghệ PON có thể được
coi là một giải pháp hàng đầu cho mạng truy nhập với tốc độ cao.
Bằng kiến thức trên lớp và kiến thức tích lũy được, em đã nghiên
cứu về đề tài “Mạng quang thụ động PON”, với các nội dung chính
sau:
Chương 1: Giới thiệu chung về mạng quang thụ động PON
Chương 2: Các hệ thống PON đang được triển khai
Do khả năng và thời gian chuẩn bị còn hạn chế nên bài tiểu luận
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được
những lời góp ý chân thành của giáo viên bộ môn.
Em chân thành cảm ơn!
Lê Minh Liêm - 509102041 4
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Chương 1
Mạng quang thụ động PON
PON là từ viết tắt của Passive Optical Network hay còn gọi là mạng quang
thụ động. Công nghệ mạng quang thụ động PON còn được hiểu là mạng công
nghệ quang truy nhập giúp tăng cường kết nối giữa các nốt mạng truy nhập của
nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng. Công nghệ PON được biết tới đầu tiên
đó là TPON (Telephony PON) được triển khai vào những năm 90, tiếp đó năm
1998, mạng BPON (Broadband PON) được chuẩn hóa dựa trên nền ATM. Hai
năm 2003 và 2004 đánh dấu sự ra đời của hai dòng công nghệ Ethernet PON
(EPON) và Gigabit PON (GPON), có thể nói hai công nghệ này mở ra cơ hội
mới cho các nhà cung cấp dịch vụ giải quyết hàng loạt vấn đề truy nhập băng
thông rộng tới người sử dụng đầu cuối. Thành viên mới nhất trong gia đình
PON đó là WDM PON (Wavelength Division Multiplexer PON). Trong công
nghệ PON, tất cả thành phần chủ động giữa tổng đài CO (Central Office) và
người sử dụng sẽ không còn tồn tại mà thay vào đó là các thiết bị quang thụ
động, để điều hướng các lưu lượng trên mạng dựa trên việc phân chia năng
lượng tới các điểm đầu cuối trên đường truyền. Vì vậy mà người ta gọi là công
nghệ mạng quang thụ động (PON).
Vị trí của hệ thống PON trong mạng truyền dẫn: Mạng quang thụ động
PON là một dạng của mạng truy nhập quang. Mạng truy nhập hỗ trợ các kết nối
đến khách hàng. Nó được đặt gần đầu cuối khách hàng và triển khai với số
lượng lớn.
Mạng truy nhập tồn tại ở nhiều dạng khác nhau do nhiều lí do khác nhau
và PON là một trong những dạng đó. So với mạng truy nhập cáp đồng truyền
thống, sợi quang hầu như không giới hạn băng thông (hàng THz). Việc triển
khai sợi quang đến tận nhà thuê bao sẽ là mục đích phát triển trong tương lai.
Lê Minh Liêm - 509102041 5
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Với những ưu điểm vượt trội, mạng quang thụ động PON( Passive Optical
Network) là một sự lựa chọn thích hợp nhất cho mạng truy nhập.
1.1. Giới thiệu chung về mạng quang thụ động PON
Mạng viễn thông thường được cấu thành bởi ba mạng chính: mạng đường
trục, mạng phía khách hàng và mạng truy nhập. Trong những năm gần đây,
mạng đường trục có những bước phát triển nhảy vọt do sự xuất hiện của các
công nghệ mới, như công nghệ ghép kênh theo bước sóng (WDM). Cũng trong
khoảng thời gian này, mạng nội hạt (LAN) cũng đã được cải tiến và nâng cấp từ
tốc độ 10 Mb/s lên 100 Mb/s, và đến 1 Gb/s. Thậm chí, các sản phẩm Ethernet
10 Gb/s cũng đã bắt đầu xuất hiện trên thị trường. Điều này đã dẫn đến một sự
chênh lệch rất lớn về băng thông giữa một bên là mạng LAN tốc độ cao và mạng
đường trục và một bên là mạng truy nhập tốc độ thấp, mà chúng ta vẫn thường
gọi đó là nút cổ chai (bottleneck) trong mạng viễn thông. Việc bùng nổ lưu
lượng Internet trong thời gian vừa qua càng làm trầm trọng thêm các vấn đề của
mạng truy nhập tốc độ thấp. Các báo cáo thống kê cho thấy lưu lượng dữ liệu đã
tăng 100% mỗi năm kể từ năm 1990. Thậm chí, sự kết hợp giữa các yếu tố kinh
tế và công nghệ đã tạo ra những thời điểm mà tốc độ phát triển đạt tới 1000%
trong một năm (vào những năm 1995 và 1996). Xu hướng này vẫn sẽ còn tiếp
tục trong tương lai, tức là càng ngày sẽ càng có nhiều người sử dụng trực tuyến
và những người sử dụng đã trực tuyến thì thời gian trực tuyến sẽ càng nhiều
hơn, do vậy nhu cầu về băng thông lại càng tăng lên. Các nghiên cứu thị trường
cho thấy rằng, sau khi nâng cấp lên công nghệ băng rộng, thời gian trực tuyến
của người sử dụng đã tăng lên 35% so với trước khi nâng cấp. Lưu lượng thoại
cũng tăng lên, nhưng với tốc độ thấp hơn nhiều, khoảng 8% mỗi năm. Theo hầu
hết các báo cáo phân tích, lưu lượng của dữ liệu hiện nay đã vượt trội hơn rất
nhiều so với lưu lượng thoại. Càng ngày sẽ càng có nhiều dịch vụ và các ứng
dụng mới được triển khai khi băng thông dành cho người sử dụng tăng lên.
Lê Minh Liêm - 509102041 6
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Đứng trước tình hình đó, một số công nghệ mới đã được đưa ra nhằm đáp ứng
những đòi hỏi về băng tần.
Hiện tại, các nhà cung cấp dịch vụ đã triển khai cung cấp dịch vụ Internet
bằng công nghệ đường dây thuê bao số DSL. DSL sử dụng đôi dây giống như
dây điện thoại, và yêu cầu phải có một modem DSL đặt tại thuê bao và DSLAM
đặt tại tổng đài. Tốc độ dữ liệu của DSL nằm trong khoảng từ 128 Kb/s đến 1,5
Mb/s. Mặc dù tốc độ của nó đã tăng đáng kể so với modem tương tự, nhưng khó
có thể được coi là băng rộng do không cung cấp được các dịch vụ video, thoại,
dữ liệu cho các thuê bao ở xa. Khoảng cách từ tổng đài đến theo bao chỉ trong
phạm vi 5,5 km. Ta có thể tăng khoảng cách này bằng giải pháp triển khai thêm
nhiều DSLAM đến gần thuê bao, nhưng đây là một giải pháp không hiệu quả do
chi phí quá cao.
Một giải pháp khác được đưa ra là sử dụng cáp modem. Các công ty cáp
TV cung cấp các dịch vụ Internet bằng cách triển khai các dịch vụ tích hợp dữ
liệu trên mạng cáp đồng trục, mà ban đầu được thiết kế để truyền dẫn tín hiệu
video tương tự. Ví dụ, mạng HFC sẽ có sợi quang nối từ các đầu dẫn hay các
hub đến các nút quang, và từ các nút quang sẽ phân chia đến các thuê bao thông
qua cáp đồng trục, bộ lặp và các bộ ghép/tách. Tuy nhiên, mô hình kiến trúc này
có nhược điểm là thông lượng hiệu dụng của các nút quang không quá 36 Mb/s,
vì vậy tốc độ thường rất thấp vào những giờ cao điểm.
Như vậy, chúng ta thấy rằng cả công nghệ DSL và cáp modem đều không
đáp ứng được những yêu cầu về băng thông cho mạng truy nhập. Hầu hết các
nhà công nghệ mạng hiện nay đều đang tiến tới một công nghệ mới, tập trung
chủ yếu vào truyền tải dữ liệu, đặc biệt là dữ liệu IP. Trong bối cảnh đó, công
nghệ PON sẽ là một giải pháp tối ưu cho mạng truy nhập băng rộng. Người ta
trông đợi mạng PON sẽ giải quyết được các vấn đề tắc nghẽn băng thông của
mạng truy nhập trong kiến trúc mạng viễn thông, giữa một bên là các nhà cung
Lê Minh Liêm - 509102041 7
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
cấp dịch vụ CO, các điểm kết cuối, các điểm truy nhập và một bên là các công ty
được cung cấp dịch vụ, hay một khu vực tập trung các thuê bao.
Mạng quang thụ động có thể định nghĩa một cách ngắn gọn như sau:
“Mạng quang thụ động (PON) là một mạng quang không có các phần tử điện
hay các thiết bị quang điện tử”.
Như vậy với khái niệm này, mạng PON sẽ không chứa bất kỳ một phần tử
tích cực nào mà cần phải có sự chuyển đổi điện - quang. Thay vào đó, PON sẽ
chỉ bao gồm: sợi quang, các bộ chia, bộ kết hợp, bộ ghép định hướng, thấu kính,
bộ lọc,... Điều này giúp cho PON có một số ưu điểm như: không cần nguồn điện
cung cấp nên không bị ảnh hưởng bởi lỗi nguồn, có độ tin cậy cao và không cần
phải bảo dưỡng do tín hiệu không bị suy hao nhiều như đối với các phần tử tích
cực.
Mạng PON ngoài việc giải quyết các vấn đề về băng thông, nó còn có ưu
điểm là chi phí lắp đặt thấp do nó tận dụng được những sợi quang trong mạng đã
có từ trước. PON cũng dễ dàng và thuận tiện trong việc ghép thêm các ONU
theo yêu cầu của các dịch vụ, trong khi đó việc thiết lập thêm các nút trong
mạng tích cực khá phức tạp do việc cấp nguồn tại mỗi nút mạng, và trong mỗi
nút mạng đều cần có các bộ phát lại.
PON có thể hoạt động vớ chế độ không đối xứng. Chẳng hạn, một mạng
PON có thể truyền dẫn theo luồng OC-12 (622 Mbits/s) ở đường xuống và truy
nhập theo luồng OC-3 (155 Mbits/s) ở đường lên. Một mạng không đối xứng
như vậy sẽ giúp cho chi phí của các ONU giảm đi rất nhiều, do chỉ phải sử dụng
các bộ thu phát giá thành thấp hơn..
PON còn có khả năng chống lỗi cao (cao hơn SONET/SDH). Do các nút
của mạng PON nằm ở bên ngoài mạng, nên tổn hao năng lượng trên các nút này
không gây ảnh hưởng gì đến các nút khác. Khả năng một nút mất năng lượng mà
không làm ngắt mạng là rất quan trọng đối với mạng truy nhập, do các nhà cung
cấp không thể đảm bảo được năng lượng dự phòng cho tất cả các đầu cuối ở xa.
Lê Minh Liêm - 509102041 8
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Với những lý do như trên, công nghệ PON có thể được coi là một giải pháp
hàng đầu cho mạng truy nhập. PON cũng cho phép tương thích với các giao diện
SONET/SDH và có thể được sử dụng như một vòng thu quang thay thế cho các
tuyến truyền dẫn ngắn trong mạng đô thị hay mạch vòng SONET/SDH đường
trục.
1.2. Kiến trúc của PON
Các phần tử thụ động của PON đều nằm trong mạng phân bố quang (hay
còn gọi là mạng ngoại vi) bao gồm các phần tử như sợi quang, các bộ tách/ghép
quang thụ động, các đầu nối và các mối hàn quang. Các phần tử tích cực như
OLT và các ONU đều nằm ở đầu cuối của PON. Tín hiệu trong PON có thể
được phân ra và truyền đi theo nhiều sợi quang hoặc được kết hợp lại và truyền
trên một sợi quang thông qua bộ ghép quang, phụ thuộc vào tín hiệu đó là đi
theo hướng lên hay hướng xuống của PON. PON thường được triển khai trên sợi
quang đơn mode, với cấu hình cây là phổ biến. PON cũng có thể được triển khai
theo cấu hình vòng ring cho các khu thương mại hoặc theo cấu hình bus khi
triển khai trong các khu trường sở,... Mô hình mạng quang thụ động với các
phần tử của nó được biểu diễn như hình dưới đây
Hình 1.1 Mô hình mạng quang thụ động
Lê Minh Liêm - 509102041 9
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Về mặt logic, PON được sử dụng như mạng truy nhập kết nối điểm - đa
điểm, với một CO phục vụ cho nhiều thuê bao. Có một số cấu hình kết nối điểm-
đa điểm phù hợp cho mạng truy nhập như cấu hình cây, cây và nhánh, vòng
ring, hoặc bus như trong Hình 1.2: Các kiểu kiến trúc của PON.
Bằng cách sử dụng các bộ ghép 1:2 và bộ chia quang 1:N, PON có thể triển
khai theo bất cứ cấu hình nào trong các cấu hình trên. Ngoài ra, PON còn có thể
thu gọn lại thành các vòng ring kép, hay hình cây, hay một nhánh của cây. Tất
cả các tuyến truyền dẫn trong PON đều được thực hiện giữa OLT và ONU. OLT
nằm ở CO và kết nối mạng truy nhập quang với mạng đô thị (MAN) hay mạng
diện rộng (WAN), được biết đến như là những mạng đường trục. ONU nằm tại
vị trí đầu cuối người sử dụng (FTTH hay FTTB hoặc FTTC).
Hình 1.2 Các kiểu kiến trúc của PON
Trong các cấu hình trên, cấu hình cây 1:N như Error: Reference source not
found(a), hay cấu hình cây và phân nhánh Error: Reference source not found(b)
được sử dụng phổ biến nhất. Đây là những cấu hình rất mềm dẻo, phù hợp với
Lê Minh Liêm - 509102041 10
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
nhu cầu phát triển của thuê bao, cũng như những đòi hỏi ngày càng tăng về băng
thông.
Có một vài mô hình thích hợp cho mạng truy cập như mô hình cây, vòng
hoặc bus. Mạng quang thụ động PON có thể triển khai linh động trong bất kỳ
mô hình nào nhờ sử dụng một tapcoupler quang 1:2 và bộ tách quang 1:N
Ngoài những mô hình trên, PON có thể triển khai trong mô hình cây như là
vòng đôi hoặc cây đôi hay cũng có thể là một phần của mạng PON được gọi là
trung kế cây.
Tất cả sự truyền dẫn trong mạng PON đều được thực hiện giữa OLT và các
ONU. OLT ở tại tổng đài, kết nối truy nhập quang đến mạng đường trục (có thể
là mạng IP, ATM ). ONU ở tại đầu cuối người sử dụng (trong giải pháp
FTTH_Fiber To The Home, FTTB_Fiber To The Building) hoặc ở tại Curb
trong giải pháp FTTC_Fiber To The Curb và có khả năng cung cấp các dịch vụ
thoại, dữ liệu và video băng rộng.
Tuỳ theo điểm cuối của tuyến cáp quang xuất phát từ tổng đài mà các mạng
truy nhập thuê bao quang có tên gọi khác nhau như sợi quang đến tận nhà
FTTH, sợi quang đến khu dân cư FTTC, FTTB.
1.3. Đặc điểm của PON
Đặc trưng của hệ thống PON là thiết bị thụ động phân phối sợi quang đến
từng nhà thuê bao sử dụng bộ chia có thể lên tới 1:128.
PON hỗ trợ giao thức ATM, Ethernet. PON hỗ trợ các dịch vụ thoại, dữ
liệu và hình ảnh với tốc độ cao và khả năng cung cấp băng thông rộng.
Trong hệ thống PON, băng thông được chia sẻ cho nhiều khách hàng điều
này sẽ làm giảm chi phí cho khách hàng sử dụng. Cũng như khả năng tận dụng
công nghệ WDM, ghép kênh phân chia theo dải tần, TDMA và cung cấp băng
thông động để giảm thiểu số lượng cáp quang cần thiết để kết nối giữa OLT và
bộ chia.
Lê Minh Liêm - 509102041 11
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
PON thực hiện truyền dẫn 2 chiều trên 2 sợi quang hay 2 chiều trên cùng 1
sợi quang. PON có thể hỗ trợ mô hình: hình cây, sao, bus và ring.
PON là kiến trúc mạng điểm – nhiều điểm ( point to multipoint). Để giảm
chi phí trên mỗi thuê bao, đường truyền chính sẽ đi từ thiết bị trung tâm OLT
qua một thiết bị chia tín hiệu (Splitter) và từ thiết bị này kéo đến nhiều người
dùng (có thể chia từ 32-64 thuê bao). Splitter không cần nguồn cung cấp, có thể
đặt bất kỳ đâu. Do Splitter không cần nguồn nên hệ thống tiết kiệm điện hơn và
không gian chứa cáp cũng ít hơn.
Tuy nhiên, PON cũng có nhiều khuyết điểm như khó nâng cấp băng thông
khi thuê bao yêu cầu (do kiến trúc điểm đến nhiều điểm sẽ ảnh hưởng đến những
thuê bao khác trong trường hợp đã dùng hết băng thông) khó xác định lỗi hơn do
1 sợi quang chung cho nhiều người dùng, tính bảo mật cũng không cao.
1.4. Thành phần cơ bản của mạng quang thụ động PON
1.4.1 Sợi quang và cáp quang
Sợi quang là một thành phần quan trọng trong mạng, nó tạo sự kết nối giữa
các thiết bị. Hai thông số cơ bản của sợi quang là suy hao và tán sắc, tuy nhiên
sợi quang ứng dụng trong mạng PON thì chỉ cần quan tâm đến suy hao không
quan tâm đến tán sắc bởi khoảng cách truyền tối đa chỉ là 20 km và tán sắc thì
ảnh hưởng không đáng kể. Do đó, người ta sử dụng sợi quang có suy hao nhỏ,
chủ yếu là sử dụng sợi quang theo chuẩn G.652.
Trên thực tế, để khắc phục nhược điểm trong truyền dẫn thông tin của cáp
đồng, đã từ lâu người ta đã cho ra đời cáp quang cùng với những tính năng ưu
việt hơn. Không giống như cáp đồng truyền tín hiệu bằng điện, cáp quang dùng
ánh sáng để truyền tín hiệu đi. Chính vì sự khác biệt đó, mà cáp quang ít bị
nhiễu, tốc độ cao và có khả năng truyền xa hơn. Tuy vậy, phải đến giai đoạn
hiện nay thì cáp quang mới được phát triển bùng nổ, nhất là trong lĩnh vực kết
nối liên lục địa, kết nối xuyên quốc gia. Và việc sử dụng công nghệ truyền dẫn
Lê Minh Liêm - 509102041 12
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
hiện đại này cũng đang bắt đầu thay thế dần mạng cáp đồng ADSL phục vụ trực
tiếp đến người sử dụng.
Cáp quang dài, mỏng với thành phần của thủy tinh trong suốt và bằng
đường kính của một sợi tóc. Chúng được sắp xếp trong bó được gọi là cáp quang
và được sử dụng để truyền tín hiệu trong khoảng cách rất xa. Cáp quang có cấu
tạo gồm dây dẫn trung tâm là sợi thủy tinh hoặc plastic đã được tinh chế nhằm
cho phép truyền đi tối đa các tín hiệu ánh sáng. Sợi quang được tráng một lớp
lót nhằm phản chiếu tốt các tín hiệu.
Cáp quang gồm các thành phần được thể hiện như hình 1.1.
Lõi: Trung tâm phản chiếu của sợi quang nơi ánh sáng đi qua .
Cladding: Vật chất quang bên ngoài bao bọc lõi mà phản xạ ánh sáng trở lại
vào lõi.
Buffer coating: Lớp phủ dẻo bên ngoài bảo vệ sợi không bị hỏng và ẩm ướt.
Jacket: Hàng trăm hay hàng ngàn sợi quang được đặt trong bó gọi là cáp
quang. Những bó này được bảo vệ bởi lớp phủ bên ngoài của cáp được
gọi là jacket.
Hình 1.7 . Cấu tạo của sợi quang
Độ suy hao thấp hơn các loại cáp đồng (tín hiệu bị mất trong cáp quang ít
hơn trong cáp đồng), nên có thể tải các tín hiệu đi xa hàng ngàn km. Dung
lượng tải của cáp quang cao hơn, vì sợi quang mỏng hơn cáp đồng, nhiều sợi
Lê Minh Liêm - 509102041 13
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
quang có thể được bó vào với đường kính đã cho hơn cáp đồng. Điều này cho
phép nhiều kênh đi qua một sợi cáp.
Cáp quang cũng sử dụng điện nguồn ít hơn, bởi vì tín hiệu trong cáp quang
giảm ít, máy phát có thể sử dụng nguồn thấp hơn thay vì máy phát với điện thế
cao được dùng trong cáp đồng.
Cáp quang không cháy, vì không có điện xuyên qua cáp quang, do đó
không có nguy cơ hỏa hạn xảy ra. Tuy vậy, cáp quang và các thiết bị đi kèm lại
rất đắt tiền so với các loại cáp đồng
1.4.2 Bộ tách/Ghép quang
Một mạng quang thụ động sử dụng một thiết bị thụ động để tách một tín
hiệu quang từ một sợi quang sang một vài sợi quang và ngược lại. Thiết bị này
là Coupler quang. Để đơn giản, một Coupler quang gồm hai sợi nối với nhau. Tỷ
số tách của bộ tách có thể được điều khiển bằng chiều dài của tầng nối và vì vậy
nó là hằng số.
Hình 1.4a: có chức năng tách 1 tia vào thành 2 tia ở đầu ra, đây là Coupler
Y. Hình 1.4b là Coupler ghép các tín hiệu quang tại hai đầu vào thành một tín
hiệu tại đầu ra. Hình 1.4c vừa ghép vừa tách quang và gọi là Coupler X hoặc
Coupler phân hướng 2x2. Coupler có nhiều hơn hai cổng vào và nhiều hơn hai
cổng ra gọi là Coupler hình sao. Coupler NxN được tạo ra từ nhiều Couper 2x2
Coupler được đặc trưng bởi các thông số sau:
- Tổn hao tách: Mức năng lượng ở đầu ra của Coupler so với năng lượng
đầu vào (db). Đối với Coupler 2x2 lý tưởng, giá trị này là 3dB. Hình 1.4 minh
hoạ hai mô hình 8x8 Coupler dựa trên 2x2 Coupler. Trong mô hình 4 ngăn (hình
a), chỉ 1/6 năng lượng đầu vào được chia ở mỗi đầu ra. Hình(b) đưa ra mô hình
hiệu quả hơn gọi là mạng liên kết mạng đa ngăn. Trong mô hình này, mỗi đầu ra
nhận được 1/8 năng lượng đầu vào.
Lê Minh Liêm - 509102041 14
Hình 1.8: Cấu hình cơ bản các loại Coupler
a)
c)
b)
I1
I1
I2
I1
I2
O2
O3
O2
O2
O3
a) Coupler 4 ngăn 8x8 b) Coupler 3 ngăn 8x8
Hình 1.9: Coupler 8x8 được tạo ra từ nhiều coupler cccocCoupler
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
- Tổn hao chèn: Năng lượng tổn hao do sự chưa hoàn hảo của quá trình xử
lý. Giá trị này nằm trong khoảng 0,1dB đến 1dB.
- Định hướng: Lượng năng lượng đầu vào bị rò rỉ từ một cổng đầu vào đến
các cổng đầu vào khác. Coupler là thiết bị định hướng cao với thông số định
hướng trong khoảng 40-50dB.
Thông thường, các Coupler được chế tạo chỉ có một cổng vào hoặc một bộ
kết hợp. Các Coupler loại này được sử dụng để tách một phần năng lượng tín
hiệu, ví dụ với mục đích định lượng. Các thiết bị như thế này được gọi là “tap
coupler”.
Lê Minh Liêm - 509102041 15
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
1.4.3 Đầu cuối đường quang OLT ( Optical Line Terminal)
OLT cung cấp giao diện quang về phía mạng phối quang ODN và cung cấp
ít nhất một giao diện quang trên mạng ở phía mạng truy nhập quang. OLT có thể
được đặt ở bên trong tổng đài hay tại một trạm từ xa. Sơ đồ khối chức năng của
OLT được mô tả ở Hình 1.5.
OLT có chức năng quản lý tất cả các hoạt động của PON. ONU và OLT
cung cấp các dịch vụ truyền dẫn một cách trong suốt giữa UNI và SNI thông qua
PON.
Phần lõi OLT
Phần lõi OLT bao gồm các chức năng sau đây:
- Chức năng kết nối chéo được số hóa cung cấp các kết nối giữa phần mạng
lõi/metro với phần mạng phối quang ODN.
- Chức năng ghép kênh truyền dẫn cung cấp kết nối VP giữa chức năng cổng
dịch vụ SPF và giao diện ODN. Các VP khác nhau được gán vào các dịch vụ
khác nhau tại giao diện PON. Các thông tin khác như báo hiệu, OAM được trao
đổi nhờ các VC trong VP.
- Chức năng ghép kênh truyền dẫn cung cấp việc truyền và ghép các kênh
trên mạng phối quang ODN. Ví dụ như: dữ liệu đi từ mạng lõi/metro đến mạng
phối quang ODN thì nó có nhiệm vụ là truyền, còn dữ liệu đi từ mạng phối
quang ODN đến mạng lõi/metro thì nó phải được ghép kênh trước khi truyền
đến mạng lõi/metro.
- Chức năng giao diện ODN cung cấp môi trường truyền dẫn quang kết nối
OLT với một hoặc nhiều ONU bằng việc sử dụng thiết bị thụ động. Nó điều
khiển quá trình chuyển đổi quang/điện và điện/quang. Để có thể thực hiện cơ
chế chuyển mạch bảo vệ và làm dễ dàng cho việc xử lí thiết bị thụ động bộ chia
thì ở OLT sẽ có các chức năng giao diện ODN giống như phần mạng phối
quang ODN.
Giao diện ODN
Lê Minh Liêm - 509102041 16
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Đầu cuối đường dây PON xử lý chuyển đổi quang điện. Giao diện ODN chèn
các tế bào ATM vào
Phần dịch vụ OLT
Phần dịch vụ OLT thì có chức năng cổng dịch vụ. Các cổng dịch vụ sẽ
truyền ít nhất tốc độ ISDN và sẽ có thể cấu hình một số dịch vụ hay có thể hỗ
trợ đồng thời hai hay nhiều dịch vụ khác nhau ví dụ như dịch vụ truyền hình độ
phân giải cao (HDTV- high definition TV), game online, truyền dữ liệu... Bất kì
khối TU (tributary unit) cũng đều cung cấp hai hay nhiều port có tốc độ 2 Mbps
phụ thuộc vào cách cấu hình trên mỗi port. Khối TU có nhiều port có thể cấu
hình mỗi port một dịch vụ khác nhau.
Chức năng cổng dịch vụ SPF đóng vai trò giao tiếp với node dịch vụ. Chức
năng cổng dịch vụ thực hiện chèn tế bào ATM vào tải trọng SDH đường lên, và
tách tế bào ATM từ tải trọng SDH đường xuống. Chức năng này phải được dự
phòng, do đó chuyển mạch bảo vệ là cần thiết.
Hình1.10 Các khối chức năng trong OLT
Phần chung OLT
Phần chung OLT bao gồm chức năng cấp nguồn và chức năng hoạt động,
quản lí và bảo dưỡng (OAM-Operation, Administration and Maintenance). Chức
năng cấp nguồn chuyển đổi nguồn ngoài thành nguồn mong muốn. Chức năng
OAM cung cấp các phương tiện để điều khiển hoạt động, quản lí và bảo dưỡng
Lê Minh Liêm - 509102041 17
Mạng lõiMUX
Giao diện ODN
Giao diện ODN
Phần lõi Phần dịch vụ
SPF
SPF
.
.
.
...
.
.
Cấp nguồn OAM
.
.
.
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
cho tất cả khối OLT. Trong điều khiển nội bộ, một giao diện có thể được cung
cấp cho mục đích chạy thử và giao diện Q3 cho mạng truy nhập đến hệ thống
đang hoạt động thông qua chức năng sắp xếp.
1.4.4 Đơn vị mạng quang ONU ( Optical Network Unit)
ONU đặt tại phía khách hàng, ONU cung cấp các phương tiện cần thiết để
phân phối các dịch vụ khác nhau được điều khiển bởi OLT.
Một ONU có thể chia làm 3 phần: phần lõi, phần dịch vụ và phần chung.
Phần lõi ONU
ONU gồm giao diện ODN, cổng người dùng, chức năng ghép kênh/phân kênh
truyền dẫn, dịch vụ và khách hàng, và cấp nguồn.
Giao diện ODN
Giao diện ODN xử lý các quá trình chuyển đổi quang điện. Giao diện ODN
trích các tế bào ATM từ tải trọng PON đường xuống và chèn các tế bào ATM
vào tải trọng đường lên trên cơ sở đồng bộ từ sự định thời khung đường xuống.
Ghép kênh
Chỉ các tế bào ATM có hiệu lực mới có thể đi qua bộ phận ghép kênh do đó
nhiều VP có thể chia sẻ băng thông đường lên một cách hiệu quả.
Phần lõi ONU bao gồm:
Chức năng ghép khách hàng và dịch vụ có nhiệm vụ nếu ở về phía khách
hàng thì dữ liệu sẽ đựơc ghép trước khi truyền đến ODN còn nếu về phía ODN
thì các dịch vụ sẽ tách ra phù hợp cho từng user đã yêu cầu dịch vụ.
Chức năng ghép kênh truyền dẫn cung cấp các chức năng phân phối tín
hiệu giữa ODN và khách hàng.
Chức năng giao diện ODN cung cấp các chức năng chuyển đổi quang/điện
hay điện/quang
Phần dịch vụ ONU
Phần dịch vụ ONU cung cấp các chức năng cổng của người dùng. Chức
năng cổng của người dùng cung cấp cho các giao diện dịch vụ của khách hàng
Lê Minh Liêm - 509102041 18
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
và bộ thích nghi của chúng là 64 kbps hay n×64 kbps. Chức năng này có thể
được cấp bởi một khách hàng hay một nhóm khách hàng. Nó cũng cung cấp các
chức năng chuyển đổi tín hiệu tùy thuộc giao diện vật lí (ví dụ như rung chuông,
báo hiệu, chuyển đổi A/D và D/A).
Chức năng cổng người dùng UPF tương thích các yêu cầu UNI riêng biệt.
OAM có thể hỗ trợ một số các truy nhập và các UNI khác nhau. Các UNI này
yêu cầu các chức năng riêng biệt phụ thuộc vào các đặc tả giao diện có liên
quan. Tách các tế bào ATM đường xuống và chèn các tế bào ATM ở đường lên.
Hình 1.11 Các khối chức năng trong ONU
Phần chung ONU
Phần chung ONU bao gồm chức năng cấp nguồn và chức năng hoạt động,
quản lí và bảo dưỡng OAM. Chức năng cấp nguồn cung cấp nguồn cho ONU (ví
dụ như chuyển đổi xoay chiều thành một chiều hay ngược lại). Nguồn có thể
được cấp tại chỗ hay từ xa. Nhiều ONU có thể chia sẻ nguồn. ONU có thể hoạt
động bằng nguồn dự phòng. Chức năng OAM cung cấp các phương tiện để điều
khiển các chức năng hoạt động, quản lí và bảo dưỡng cho tất cả khối của ONU.
1.4.5 ODN
ODN cung cấp phương tiện truyền dẫn quang cho kết nối vật lý giữa OLT
và ONU. Các ODN riêng lẻ có thể được kết hợp và mở rộng nhờ các bộ khuếch
đại quang.ODN bao gồm các thành phần quang thụ động:
Cáp và sợi quang đơn mode, Connector quang, thiết bị rẽ nhánh quang thụ
động, bộ suy hao quang thụ động và mối hàn.
Lê Minh Liêm - 509102041 19
Giao diện ODNMUX
Phần lõi
Cấp nguồn OAM
ODN
Phần dịch vụ
UPF
UPF
.
.
.
.
.
.
.
.
Phần chung
Khách hàng
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
* Giao diện quang
ODN cung cấp đường quang giữa OLT và ONU, mỗi đường quang được
định nghĩa là khoảng ở giữa các điểm tham chiếu tại một cửa sổ bước sóng nhất
định.
Các giao diện quang ở trong Hình 1.8 là:
Oru, Ord Giao diện quang tại điểm tham chiếu S/R giữa ONU và ODN cho
đường lên và đường xuống tương ứng.
Olu, Old Giao diện quang tại điểm tham chiếu R/S giữa OLT và ODN cho
đường lên và đường xuống tương ứng.
Hình 1.12 Các giao diện quang
1.4.6 Bộ chia (Splitter)
Bộ chia/ghép quang thụ động (Splitter): Dùng để chia/ghép thụ động tín
hiệu quang từ nhà cung cấp dịch vụ đến khách hàng và ngược lại giúp tận dụng
hiệu quả sợi quang vật lý. Thành phần được nhắc chủ yếu trong mạng PON là
bộ chia. Bộ chia là thiết bị thụ động, công dụng của nó là để chia công suất
quang từ một sợi ra nhiều sợi khác nhau. Từ OLT đến ONU có thể sử dụng
nhiều dạng bộ chia có tỉ bộ chia là 1:2; 1:4; 1:8; 1:16;1:32; 1:64; 1:128. Sử dụng
một bộ chia có tỉ lệ chia lớn như 1:32 hay 1:64 hay có thể sử dụng bộ chia nhiều
lớp với lớp thứ nhất sử dụng bộ chia 1:2 và lớp thứ 2 sử dụng 2 bộ chia 1:4. Hầu
hết hệ thống PON sử dụng bộ chia bộ chia là 1:16 và 1:32. Tỉ lệ chia trực tiếp
Lê Minh Liêm - 509102041 20
OLTODN
ONU1
ONUn
.
.
.
R/S
Oru , Ord
R/S
Oru , Ord
Olu , Old
R/S
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
ảnh hưởng quỹ suy hao của hệ thống và suy hao truyền dẫn. Tỉ lệ của bộ chia
càng cao cũng có nghĩa là công suất truyền đến mỗi ONU sẽ giảm xuống do suy
hao của bộ chia splitter 1:N tính theo công thức 10×logN (dB), nên nếu tỉ lệ bộ
chia mà tăng lên gấp đôi thì suy hao sẽ tăng lên 3 dB. Cho phép gắn bên trong
giá phân phối quang ODF, hay măng xông.
Số cổng Suy hao splitter (db)
2 3
4 6
8 9
16 12
32 15
64 18
Hình 1.13 Liệt kê suy hao của các bộ chia (splitter) tương ứng.
1.5 Phân loại PON
Ở hướng xuống (từ OLT đến ONU), mạng PON là mạng điểm-đa điểm.
OLT chiếm toàn bộ băng thông hướng xuống. Trong hướng lên, mạng PON là
mạng đa điểm-điểm: Nhiều ONU truyền tất cả dữ liệu của nó đến một OLT. Đặc
tính hướng của các bộ tách ghép thụ động là việc truyền thông của một ONU sẽ
không được nhận biết bởi các ONU khác. Tuy nhiên, các luồng dữ liệu từ các
ONU khác nhau được truyền cùng một lúc cũng có thể bị xung đột. Vì vậy,
trong hướng lên, PON sẽ sử dụng một vài cơ chế riêng biệt trong kênh để tránh
xung đột dữ liệu và chia sẻ công bằng tài nguyên và dung lượng trung kế.
1.5.1 TDM PON
Trong TDM PON, việc truyền đồng thời từ vài ONU sẽ gây ra xung đột khi
đến bộ kết hợp. Để ngăn chặn xung đột dữ liệu, mỗi ONU phải truyền trong cửa
sổ (khe thời gian) truyền của nó. Một thuận lợi lớn của TDM PON là tất cả các
ONU có thể hoạt động cùng một bước sóng, OLT cũng chỉ cần một bộ thu đơn.
Lê Minh Liêm - 509102041 21
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Bộ thu phát ONU hoạt động ở tốc độ đường truyền, thậm chí băng thông có thể
dùng của ONU thấp hơn. Tuy nhiên, đặc tính này cũng cho phép TDM PON đạt
hiệu quả thay đổi băng thông được dùng cho từng ONU bằng cách thay đổi kích
cở khe thời gian được ấn định hoặc thậm chí sử dụng ghép kênh thống kê để tận
dụng hết băng thông được dùng của mạng PON.
Trong mạng truy cập thuê bao, hầu hết các luồng lưu lượng lên và xuống
không phải là khách hàng đến khách hàng. Vì vậy, điều này dường như là hợp lý
để tách kênh lên và xuống. Một phương pháp tách kênh đơn giản có thể dựa trên
ghép kênh phân chia không gian mà nó tách, PON được cung cấp theo hướng
truyền lên xuống. Để tiết kiệm cho sợi quang và giảm chi phí sửa chữa và bảo
quản, một sợi quang có thể được sử dụng cho truyền theo hai hướng. Trong
trường hợp này, hai bước sóng được dùng là: hướng lên là 1310nm, hướng
xuống là 1550nm. Dung lượng kênh ở mỗi bước sóng có thể phân phối linh
động giữa các ONU.
Hình 1.14 Mạng PON sử dụng một sợi quang
Các thuật ngữ trong hình được chú thích như sau:
ONU: Offtical Network Unit-Đơn vị mạng quang
Data transmitsion: Dữ liệu vào
Data Receiver: Dữ liệu ra
WDM: Ghép kênh phân chia theo bước sóng
Lê Minh Liêm - 509102041 22
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Ghép kênh phân chia theo thời gian là phương pháp được ưu tiên hiện nay
cho việc chia sẻ kênh quang trong mạng truy cập khi mà nó cho phép một bước
sóng đơn ở hướng lên và bộ thu phát đơn ở OLT đã làm cho giải pháp này có ưu
thế hơn về chi phí đầu tư.
1.5.2 WDM-PON
WDM-PON là mạng quang thụ động sử dụng phương thức đa ghép kênh
phân chia theo bước sóng thay vì theo thời gian như trong phương thức TDMA.
OLT sử dụng một bước sóng riêng rẽ để thông tin với mỗi ONT theo dạng điểm
điểm. Mỗi một ONU có một bộ lọc quang để lựa chọn bước sóng tương thích
với nó, OLT cũng có một bộ lọc cho mỗi ONU. Nhiều phương thức khác đã
được tìm hiểu để tạo ra các bước sóng ONU như là:
Sử dụng các khối quang có thể lắp đặt tại chỗ lựa chọn các bước sóng
ONU, Dùng các laser điều chỉnh được, và cắt phổ tín hiệu.
Các phương thức thụ động mà theo đó OLT cung cấp tín hiệu sóng mang
tới các ONU. Sử dụng tín hiệu hướng xuống để điều chỉnh bước sóng đầu ra của
laser ONU.
Cấu trúc của WDM-PON được mô tả như trong Hình 2.9. Trong đó, WDM-
PON có thể được sử dụng cho nhiều ứng dụng khác nhau như là FTTx, các ứng
dụngcho đường dây thuê bao số tốc độ rất cao VDSL và các điểm truy nhập vô
tuyến từ xa. Các bộ thu WDM-PON sử dụng kỹ thuật lọc quang mảng ống dẫn
sóng. Một bộ lọc quang ống dẫn sóng có thể được đặt ở môi trường trong nhà
hoặc ngoài trời.
Giải pháp WDM yêu cầu một bộ thu điều khiển được hoặc là một mảng bộ
thu ở OLT để nhận các kênh khác nhau. Thậm chí nhiều vấn đề khó khăn cho
các nhà khai thác mạng là kiểm kê từng bước sóng của ONU: thay vì chỉ có một
loại ONU, thì có nhiều loại ONU dựa trên các bước sóng Laser của nó. Mỗi
ONU sẽ sử dụng một laser hẹp và độ rộng phổ điều khiển được cho nên rất đắt
tiền. Mặc khác, nếu một bước sóng bị sai lệch sẽ gây ra nhiễu cho các ONU
Lê Minh Liêm - 509102041 23
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
khác trong mạng PON. Việc sử dụng Laser điều khiển được có thể khắc phục
được vấn đề này nhưng quá đắt cho công nghệ hiện tại. Với những khó khăn
như vậy thì WDM không phải là giải pháp tốt cho môi trường hiện nay.
Ưu điểm chính của WDM-PON là nó khả năng cung cấp các dịch vụ dữ
liệu theo các cấu trúc khác nhau (DS1/E1/DS3, 10/100/1000Base Ethernet) tùy
theo yêu cầu về băng thông của khách hàng. Tuy nhiên, nhược điểm chính của
WDM-PON là chi phí khá lớn cho các linh kiện quang để sản xuất bộ lọc ở
những bước sóng khác nhau. WDM-PON cũng được triển khai kết hợp với các
giao thức TDMA PON để cải thiện băng thông truyền tin. WDM-PON được
phát triển mạnh ở Hàn Quốc.
Hình 1.15 Cấu trúc của WDM – PON
Các thuật ngữ được chú thích trong hình:
CO :Center office : Văn phòng trung tâm
FTTH: Fiber to the home-Cáp quang thuê bao
FTTB : Fiber to the building- Cáp quang tới tòa nhà
FTTC : Fiber to the curt- cáp quang tới khu dân cư
VDSL switch: Thiết bị định tuyến đường dây thuê bao số tốc độ cao
Wireless Access point : Điểm truy câp Wireless
Lê Minh Liêm - 509102041 24
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
1.5.3 CDMA-PON
Công nghệ đa truy nhập phân chia theo mã CDMA cũng có thể triển khai
trong các ứng dụng PON. Cũng giống như WDM-PON, CMDA-PON cho phép
mỗi ONU sử dụng khuôn dạng và tốc độ dữ liệu khác nhau tương ứng với các
nhu cầu của khách hàng. CDMA PON cũng có thể kết hợp với WDM để tăng
dung lượng băng thông.
CDMA PON truyền tải các tín hiệu khách hàng với nhiều phổ tần truyền
dẫn, trải trên cùng một kênh thông tin. Các ký hiệu từ các tín hiệu khác nhau
được mã hóa và nhận dạng thông qua bộ giải mã. Phần lớn công nghệ ứng dụng
trong TDMA PON tuân theo phương thức trải phổ chuổi trực tiếp. Trong
phương thức này mỗi ký hiệu 0, 1 (tương ứng với mỗi tín hiệu) được mã hóa
thành chuỗi ký tự dài hơn và có tốc độ cao hơn.
Mỗi ONU sử dụng trị số chuỗi khác nhau cho kí tự của nó. Để khôi phục lại
dữ liệu, OLT chia nhỏ tín hiệu quang thu được sau đó gửi tới các bộ lọc nhiễu xạ
để tách lấy tín hiệu của mỗi ONU.
Ưu điểm chính của CDMA PON là cho phép truyền tải lưu lượng cao và có
tính năng bảo mật nổi trội so các chuẩn PON khác. Tuy nhiên, một trở ngại lớn
trong CDMA-PON là các bộ khuếch đại quang đòi hỏi phải được thiết kế sao
cho đảm bảo tương ứng với tỷ số tín hiệu/tạp âm (S/N). Với hệ thống CDMA-
PON không có bộ khuếch đại quang thì tùy thuộc vào tổn hao bổ sung trong các
bộ chia, bộ xoay vòng, các bộ lọc mà hệ số chia OLT/ONU chỉ là 1:2 hoặc 1:8.
Trong khi đó, với bộ khuyếch đại quang hệ số này có thể đạt 1:32 hoặc cao hơn.
Bên cạnh đó, các bộ thu tín hiệu trong CDMA-PON là khá phức tạp và giá
thành tương đối cao. Chính vì những nhược điểm này nên hiện tại CDMA-PON
chưa được phát triển rộng rãi.
1.6 So sánh PON với công nghệ mạng quang thụ động AON
Mạng quang chủ động (AON): Để phân phối tín hiệu, mạng quang chủ
động sử dụng các thiết bị sử dụng điện để phân tích dữ liệu như một chuyển
Lê Minh Liêm - 509102041 25
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
mạch, router hoặc multiplexer. Dữ liệu từ phía nhà cung cấp của khách hàng nào
sẽ chỉ được chuyển đến khách hàng đó. Dữ liệu từ phía khách hàng sẽ tránh
xung đột khi truyền trên đường vật lý chung bằng việc sử dụng các bộ đệm của
các thiết bị chủ động.
Từ năm 2007, hầu hết các các hệ thống mạng quang chủ động được gọi là
ethernet chủ động. Ethernet chủ động sử dụng các chuyển mạch ethernet quang
để phân phối tín hiệu, do đó sẽ kết nối các căn hộ khách hàng với nhà cung cấp
thành một hệ thống mạng Ethernet khổng lồ giống như một mạng máy tính
ethernet thông thường ngoại trừ mục đích của chúng là kết nối các căn hộ và các
tòa nhà với nhà cung cấp dịch vụ Mỗi tủ chuyển mạch có thể quản lý tới 1000
khách hàng, thông thường là 400-500 khách hàng. Các thiết bị chuyển mạch này
thực hiện chuyển mạch và định tuyến dựa vào lớp 2 và lớp 3. Một nhược điểm
rất lớn của mạng quang chủ động chính là ở thiết bị chuyển mạch.
Với công nghệ hiện tại, thiết bị chuyển mạch bắt buộc phải chuyển tín hiệu
quang thành tín hiệu điện để phân tích thông tin rồi tiếp tục chuyển ngược lại để
truyền đi. Điều này sẽ làm giảm tốc độ truyền dẫn tối đa có thể trong hệ thống
FTTX. Ngoài ra, do đây là những chuyển mạch có tốc độ cao nên các thiết bị
này rất đắt, không phù hợp với việc triển khai đại trà cho mạng truy cập.
Phân tích ưu nhược điểm và lựa chọn công nghệ: nhiều chuẩn mạng truy
nhập FTTx khác nhau và không tương thích với nhau. Vì thế có sự linh hoạt về
lựa chọn công nghệ, tuy nhiên nó cũng mang lại rất nhiều rủi ro khi quyết định
đầu tư vào FTTx. Vì đây là một dịch vụ mạng tính chất kỹ thuật cao nên yếu tố
công nghệ mang tính chất quyết định sống còn. Việc lựa chọn công nghệ nào sẽ
phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: giá thành, độ phức tạp, khả năng và quy mô triển
khai, sự chuẩn hóa về thiết bị. Giữa hai công nghệ mạng quang trực tiếp và
mạng quang chia sẻ ta sẽ dùng mạng quang chia sẻ do mạng quang trực tiếp có
chi phí rất lớn. Hơn nữa việc triển khai mạng quang trực tiếp tại thời điểm này
còn gặp một số vấn đề cả về kỹ thuật và tài chính.Trong mạng quang chia sẻ ta
Lê Minh Liêm - 509102041 26
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
dùng công nghệ mạng thụ động (PON) do công nghệ mạng chủ động (AON) có
những hạn chế về thiết bị chuyển mạch dẫn đến hạn chế về tốc độ của toàn
mạng. Hiện tại những chuyển mạch quang tốc độ cao có giá thành rất cao chỉ
phù hợp cho thiết kế mạng lõi.
Hình 1.16 So sánh mạng quang chủ động và mạng quang thụ động
Lê Minh Liêm - 509102041 27
PON: Mạng quang chủ động
AON: Mạng quang bị động
OLT: Đầu cuối đường quang
ONT: Đầu cuối đường quang
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Chương 2
Các hệ thống PON đang được triển khai
2.1 APON/BPON
Từ năm 1995, 7 nhà khai thác mạng hàng đầu thế giới đã lập nên nhóm
FSAN (Full Service Access Network) với mục tiêu là thống nhất các tiêu chí
cho mạng truy nhập băng rộng. Hiện nay các thành viễn của FSAN đã tăng lên
đến trên 40 trong đó có nhiều hãng sản xuất và cung cấp thiết bị viễn thông lớn
trên thế giới.
Các thành viên của FSAN đã phát triển một tiêu chí cho mạng truy nhập
PON sử dụng công nghệ ATM và giao thức lớp 2 của nó. Hệ thống này được gọi
là APON (viết tắt của ATM PON). Cái tên APON sau đó được thay thế bằng
BPON với ý diễn đạt PON băng rộng. Hệ thống BPON có khả năng cung cấp
nhiều dịch vụ băng rộng như Ethernet, Video, đường riêng ảo (VPL), kênh thuê
riêng, v.v… Năm 1997 nhóm FSAN đưa các đề xuất chỉ tiêu BPON lên ITU-T
để thông qua chính thức. Từ đó, các tiêu chuẩn ITU G.983.x cho mạng BPON
lần lượt được thông qua
Hệ thống BPON hỗ trợ tốc độ không đối xứng 155 Mbps hướng lên và 622
Mbps hướng xuống hoặc tốc độ đối xứng 622 Mbps. Các hệ thống BPON đã
được sử dụng nhiều ở nhiều nơi, tập trung ở Bắc Mỹ, Nhật Bản và một phần
Châu Âu.
2.2 GPON
Do đặc tính cấu trúc của BPON khó có thể nâng cấp lên tốc độ cao hơn 622
Mbps và mạng PON trên cở sở nền ATM không tối ưu đối với lưu lượng IP,
nhóm FSAN phát triển một hệ thống mạng PON mới từ năm 2001 với tốc độ
1Gbps hỗ trợ cả lưu lượng ATM và IP. Dựa trên các khuyến nghị của FSAN, từ
năm 2003-2004, ITU-T đã chuẩn hóa một loạt các tiêu chuẩn cho mạng PON
Gigabit (GPON) bao gồm G.984.1,G.984.2 và G.984.3.
Lê Minh Liêm - 509102041 28
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Chuẩn GPON hiện nay được định nghĩa dựa trên các giao thức cơ bản của
chuẩn SONET/SDH ITU. Các giao thức của nó khá đơn giản và đòi hỏi rất ít thủ
tục. Chính vì thế mà hiệu suất băng thông của GPON đạt tới hơn 90%.
Các ưu điểm của GPON : Cung cấp dịch vụ bộ ba: hỗ trợ các dịch vụ âm
thanh, dữ liệu và video truyền theo định dạng gốc của nó. Rất nhiều các dịch vụ
Ethernet như QoS, VLAN, IGMP (Internet Group Management Protocol) và
RSTP (Rapid SpanningTree Protocol) cũng được hỗ trợ. Hiệu suất và tốc độ
đường truyền cao nhất: GPON hỗ trợ tốc độ bít cao nhất từ trước tới nay với tốc
độ hướng xuống/ hướng lên tương ứng 2,488/1,244 Gbit/s. GPON cung cấp độ
rộng băng lớn chưa từng có từ trước tới nay và là công nghệ tối ưu cho các ứng
dụng của FTTH và FTTB.
Hiện nay cũng như trong tương lai GPON là công nghệ phù hợp cho việc
truyền thông Ethernet/IP với việc hỗ trợ truyền tiếng nói và video qua PON bằng
việc sử dụng giao thức SONET/SDH
Hệ thống GPON sử dụng truyền dẫn bất đối xứng với tốc độ đường truyền
cho hướng xuống là 2,5Gb/s và hướng lên là 1,25Gb/s. Hiệu suất đạt được trên
cả hai hướng là khoảng 92%. Do đó, GPON có thể cung cấp băng tần hướng
xuống cho mỗi ONT là khoảng 2300Mb/s, tức là tốc độ dữ liệu lớn nhất đồng
thời là khoảng 72Mb/s cho mỗi ONT. Ở hướng lên, một ONT có thể truyền gần
1150Mb/s, tức là khoảng 35Mb/s cho mỗi endpoint khi 32 ONT đồng thời gửi
dữ liệu. Hiện nay, phần lớn các hệ thống EPON đều bị giới hạn chỉ có thể hỗ trợ
32 ONT với khoảng cách lớn nhất là 20km, trong khi đó các hệ thống GPON
được chuẩn hoá có thể hỗ trợ 64 ONT với khoảng cách phục vụ là 35 km.
GPON có thể cung cấp băng tần lớn hơn khoảng 56% so với EPON. Hơn
nữa, GPON cải thiện được băng tần hướng xuống do tốc độ đường truyền cao
hơn (2,5Gb/s của GPON so với 1,25Gb/s của EPON)
Lê Minh Liêm - 509102041 29
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
EPON GPON
Dung lượng 1,244Gbps 622Mbps đến 2,488Gbps
Băng tần 600Mbps 2300Mbps
Truyền tải TDM Hạn chế và chưa được
chuẩn hoá
Có và đã chuẩn hoá
Số ONT 16 (IEEE 802.3ah) 32/64/128
Chiều dài PON lớn
nhất
20km 35km
Phân mức nguồn Không Được chuẩn hoá cho 3
mức
Bảo vệ Không Thời gian bảo vệ sợi
50ms
Bước sóng thứ 3 cho
dịch vụ video
Không Đã chuẩn hoá
Bảng 2.1 So sánh EPON và GPON
2.3 EPON
Năm 2001, IEEE thành lập một nhóm nghiên cứu Ethernet in the First Mile
(EFM) với mục tiêu mở rộng công nghệ Ethernet hiện tại sang mạng truy nhập
vùng, hướng tới các mạng các mạng đến nhà thuê bao hoặc các doanh nghiệp
với yêu cầu vẫn giữ các tính chất của Ethernet truyền thống. Ethernet PON được
bắt đầu nghiên cứu trong thời gian gian này.
Sự phát triển của EPON là do các nhà khai thác cảm thấy rằng tiêu chuẩn
APON là một giải pháp không thích hợp với mạch vòng thuê bao vì nó thiếu khả
năng cung cấp dịch vụ video, không đủ độ rộng băng, phức tạp và đắt. EPON
cho phép băng thông cao hơn, chi phí thấp hơn, khả năng cung cấp dịch vụ rộng
hơn APON.
Điểm khác nhau chính giữa EPON và APON là ở EPON dữ liệu được
truyền trong các gói có độ dài thay đổi lên tới 1,518 byte theo giao thức IEEE
Lê Minh Liêm - 509102041 30
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
802.3 cho Ethernet, trong khi đó với APON, dữ liệu được truyền trong những tế
bào có độ dài cố định là 53 byte (với 48 byte tải trọng và 5 byte mào đầu). Định
dạng này gây khó khăn cho APON khi mang dữ liệu có định dạng theo IP. Dữ
liệu IP được phân đoạn thành những gói có độ dài khác nhau lên tới 65,535 byte.
Khi một APON mang dữ liệu IP, các gói phải được chia nhỏ thành những
đoạn 48 byte cùng với 5 byte mào đầu được thêm vào. Quá trình này tốn thời
gian, phức tạp và phát sinh thêm chi phí cho OLT và ONU. Hơn nữa phải tốn
băng thông 5 byte cho mỗi đoạn 48 byte, tạo ra phần mào đầu nặng nề (thường
gọi là “ thuế tế bào ATM”). Ngược lại, Ethernet được thiết kế để mang dữ liệu
IP và giảm mạnh phần mào đầu so với ATM.
Quản lý dữ liệu luồng lên/luồng xuống trong EPON
Trong EPON, quá trình truyền dữ liệu luồng xuống từ OLT tới các ONU
khác cơ bản với việc truyền dữ liệu đường lên từ các ONU tới OLT.
Trong dữ liệu được phát quảng bá từ OLT tới các ONU trong các gói có độ
dài thay đổi lên đến 1.518 byte. Mỗi gói mang một phần mào đầu (header), chỉ
ra duy nhất rằng nó dành cho ONU1, ONU2 hoặc ONU3. Hơn nữa, một số gói
có thể được dành cho tất cả các ONU (gói quảng bá) hoặc chỉ cho một nhóm
ONU (multicast). ở bộ chia, dữ liệu được chia thành 3 tín hiệu riêng, mỗi tín
hiệu mang tất cả các gói cho từng ONU. Khi dữ liệu tới ONU, nó nhận các gói
dành cho nó và loại bỏ những gói dành cho các ONU khác.
Lê Minh Liêm - 509102041 31
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
Hình 2.1. Dòng dữ liệu đường lên trong EPON
Cấu trúc khung EPON
Dữ liệu đường xuống được chia thành các khung có độ dài cố định, mỗi
khung mang nhiều gói có độ dài thay đổi. Thông tin đồng hồ, dưới dạng các con
trỏ đồng bộ được bao gồm trong phần bắt đầu của mỗi khung. Con trỏ đồng bộ
làm một mã 1byte được truyền mỗi 2 ms để đồng bộ các ONU với OLT.
Hình 2.2 Cấu trúc khung đường xuống trong EPON
Mỗi gói có độ dài thay đổi được đánh địa chỉ tới một ONU xác định như
được chỉ ra bằng số, từ 1 tới N. Các gói được định dạng theo tiêu chuẩn IEEE
802.3 và được truyền xuống với tốc độ lên tới 1 Gb/s. Chi tiết của một gói có độ
dài thay đổi cho thấy nó gồm có header, tải trọng có độ dài thay đổi và phần
phát hiện lỗi.
Hình 2.3 trình bày ví dụ của dữ liệu đường lên được ghép kênh theo thời
gian vào đường quang chung để tránh xung đột giữa dữ liệu đường lên từ mỗi
ONU. Dữ liệu đường lên được chia thành những khung, mỗi khung được chia
tiếp thành các ONU- các khe thời gian xác định. Các khung đường lên được
Lê Minh Liêm - 509102041 32
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
hình thành bởi các khoảng truyền 2 ms liên tiếp. Phần header của khung xác
định sự bắt đầu của mỗi khung đường lên.
Hình 2.3. Cấu trúc khung đường lên trong EPON
Các khe thời gian của ONU là các khoảng truyền trong mỗi khung đường
lên mà được dành để truyền các gói có độ dài thay đổi từ các ONU xác định.
Mỗi ONU có một khe thời gian dành riêng trong khung đường lên. Ví dụ, như
trong trong hình 1.9, mỗi khung đường lên được chia thành N khe thời gian, mỗi
khe thời gian tương ứng với một ONU của nó, từ 1 tới N.
Phần điều khiển TDM cho mỗi ONU, trong sự liên kết với thông tin đồng
bộ từ OLT, điều khiển việc định thời truyền dẫn đường lên của các gói có độ dài
biến đổi trong các khe thời gian rành riêng. Hình 1.9 cho thấy chi tiết một khe
thời gian của một ONU (ONU số 4), bao gồm hai gói có độ dài thay đổi và một
số mào đầu khe thời gian. Phần mào đầu khe thời gian gồm 1 băng bảo vệ, các
chỉ thị định thời và các chỉ thị công suất tín hiệu. Khi không có lưu lượng truyền
từ ONU, một khe thời gian có thể được điền bằng các tín hiệu giả ngẫu nhiên.
Ích lợi của EPON
EPON đơn giản, hiểu quả và ít đắt tiền hơn các giải pháp truy nhập đa dịch
vụ khác. Các ưu điểm chính của EPON như sau:
- Độ rộng băng cao hơn: lên tới độ rộng băng 1,25 Gb/s.
- Giá thành thấp hơn: giá thành của các thiết bị trong EPON có thể so sánh với
thiết bị DSL.
Lê Minh Liêm - 509102041 33
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
- Nhiều lợi nhuận: Việc có thể triển khai mềm dẻo nhiều loại dịch vụ tạo cơ có
lợi nhuận cao hơn.
2.4 WDM-PON
Công nghệ mạng quang thụ động sử dụng ghép kênh phân chia theo bước
sóng Wavelength Division Multiplexing Passive Optical Network (WDM PON)
là thế hệ kế tiếp của mạng truy nhập quang và cho băng thông lớn nhất.
TDMPON (bao gồm BPON, GPON và GEPON) sử dụng các bộ chia công suất
quang thụ động, hướng xuống là quảng bá và ONU nhận dữ liệu của mình thông
qua nhãn địa chỉ nhúng, hướng lên sử dụng ghép kênh trong miền thời gian.
WDMPON sử dụng các bộ ghép sóng WDM thụ động, hướng xuống mỗi ONU
nhận dữ liệu trên một bước sóng, hướng lên các bước sóng khác nhau được ghép
thông qua bộ ghép sóng WDM tới ONU. Do sử dụng một bước sóng cho mỗi
ONU nên WDMPON có tính bảo mật và tính mềm dẻo tốt hơn. Công nghệ
WDMPON sẽ là sự lựa chọn của tương lai và là bước phát triển kế tiếp cho các
công nghệ mạng truy nhập quang PON.
2.5 Nhận xét chung về các hệ thống PON
Vào giữa những năm 90 của thế kỷ này, công nghệ APON (ATM - PON)
đã được áp dụng để truyền tải dữ liệu và tiếng nói. Chậm hơn một chút là
BPON, nó sử dụng cấu trúc chuyển đổi ATM ở các đường biên mạng. Tuy nhiên
hiện nay mạng APON/BPON không được quan tâm phát triển do chỉ hỗ trợ dịch
vụ ATM và tốc độ truy nhập thấp hơn nhiều so với các công nghệ hiện hữu khác
như GPON hay EPON.
Các nghiên cứu hiện nay đang tập trung vào GPON và EPON/GEPON vì
đây là các công nghệ mới hứa hẹn sẽ được triển khai rộng rãi trong mạng truy
nhập băng rộng do các đặc điểm vượt trội của chúng so với các công nghệ khác.
Trong khi GEPON chỉ cung cấp tốc độ truyền là 1,25 Gbit/s thì GPON lại
cho phép đạt tới tốc độ 2.448 Gbit/s. Và thậm chí, khi càng ngày các nhà cung
cấp dịch vụ càng cố tiết kiệm chi phí bằng việc tận dụng tối đa băng thông thì có
Lê Minh Liêm - 509102041 34
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
vẻ như GEPON đang dần trở thành một sự lựa chọn không được đánh giá cao.
Với hiệu suất từ 50% – 70%, băng thông của GEPON bị giới hạn trong khoảng
600Mbps đến 900Mbps, trong khi đó GPON với việc tận dụng băng thông tối đa
nó có thể cho phép các nhà cung cấp dịch vụ phân phối với băng thông lên đến
2300 Mbps.
Trong một nghiên cứu điển hình, hệ thống mạng GPON của Flexlight có
thể đạt tới hiệu suất mạng 93%, điều đó có nghĩa là chỉ có 7% độ rộng băng tần
được sử dụng cho việc quy định các thủ tục của giao thức truyền thông. Hiệu
suất lớn, độ rộng băng tần lớn, GPON hứa hẹn mang lại nhiều lợi nhuận cho các
nhà cung cấp dịch vụ. Trong khi đó APON, BPON, hay EPON lại tốn khá nhiều
băng thông cho việc quy định các thủ tục truyền thông. Chính vì thế mà hiệu
suất băng thông giảm đi đáng kể. Cụ thể là APON và BPON còn 70% và EPON
còn 50%.
Đã được chuẩn hoá theo ITU – T G.984, GPON cho phép cung cấp đường
truyền với các định dạng gốc như IP và TDM, đây thực sự là một giải pháp công
nghệ PON đạt hiệu quả kinh tế có thể sử dụng cho cả các dịch vụ gia đình cũng
như là cho các doanh nghiệp. Với những đặc tính hỗ trợ cao nhất và độ rộng
băng tiêu dùng được nâng từ 10 MHz lên 100 MHz cho truyền dữ liệu Internet,
đáp ứng được các yêu cầu cho nhiều dòng IPTV (Internet Protocol Television),
và có thể hỗ trợ truyền thông cả SDTV (Standard Definition Television) và
HDTV (High Definition TeleVision), GPON đã thực sự được đánh giá là kinh tế
hơn EPON.
Mặt khác trong khi tiêu chuẩn IEEE 803.2ah chỉ hỗ trợ 2 lớp ODN : lớp A
và lớp B thì ITU-GT.984.2 GPON GPM hỗ trợ cả lớp C, lớp cấp cao hơn. Lớp C
cho phép mạng PON mở rộng cự ly tới 20 Km, cung cấp cho số lượng lớn người
dùng cuối, đạt tới 64 thậm chí 128 ONU/ONT.
Bên cạnh đó trong khi EPON chỉ hỗ trợ duy nhất một tốc độ truyền dẫn đối
xứng 1,25/1,25 Gbps. ITU- T G.984.2 GPON GPM linh hoạt và biến đổi được
Lê Minh Liêm - 509102041 35
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
hơn nhiều hơn, cho phép các tốc độ hướng xuống 1,25 và 2,5 Gbps, hướng lên
cho phép 155 Mbps, 622 Mbps hay 1,25 và 2,5 Gbps. Cả hai công nghệ đều
nhắm tới thị trường truy nhập, bao gồm các ứng dụng Fiber-To-The-Home và
Fiber-To-The Building/Curb với đặc trưng là tốc độ truy nhập không đối xứng
giữa hướng lên và hướng xuống. Thậm chí với sự phát triển của các ứng dụng
dữ liệu thì cũng không có nhu cầu đến 1,25 Gbps trong hướng lên. Trong khi
GPON cho phép các nhà cung cấp dịch vụ để thiết lập những tốc độ kết nối theo
nhu cầu thực tế, EPON không thực hiện được điều này. Mặc dù đây không là
một vấn đề lớn về chi phí đối với kết nối tốc độ cao, tuy nhiên để hỗ trợ 1.25
Gbps hướng lên, đòi hỏi phải cung cấp laser DFP ở đầu cuối và điôt thác quang
APD đắt tại trung tâm mạng quang CO.
Từ những so sánh trên có thể thấy rằng GPON thích hợp hơn so với EPON
trong việc lắp đặt các hệ thống mạng để cung cấp các khả năng dự phòng cần
thiết hỗ trợ cho O&M, khả năng tương thích cũng như là bảo mật. Đây là những
điều kiện cần thiết để điều hành một mạng kích cỡ lớn.
Lê Minh Liêm - 509102041 36
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
KẾT LUẬN
Qua đó nhóm em đã phần nào nắm được tổng quan về mạng
quang thụ động PON và các hệ thống PON đang được triển khai.
PON là mạng truy nhập có nhiều ưu điểm để triển khai các dịch
vụ băng rộng (thoại, dữ liệu, video) giữa các khối kết cuối đường dây
ở xa (ONUs) và kết cuối mạng (OLT). Một mạng PON có thể tập
trung lưu lượng từ 64 ONU đến một OLT được đặt tổng đài nội hạt
(CO) theo kiến trúc hình cây, bus, hoặc vòng ring chống lỗi. Giống
như mạng SONET/SDH, PON là công nghệ truyền tải của lớp một,
hoạt động với chế độ không đối xứng và có khả năng chống lỗi cao
hơn SONET/SDH
Mạng PON ngoài việc giải quyết các vấn đề về băng thông, nó
còn có ưu điểm là chi phí lắp đặt thấp do nó tận dụng được những sợi
quang trong mạng đã có từ trước. PON cũng dễ dàng và thuận tiện
trong việc ghép thêm các ONU theo yêu cầu của các dịch vụ, trong
khi đó việc thiết lập thêm các nút trong mạng tích cực khá phức tạp do
việc cấp nguồn tại mỗi nút mạng, và trong mỗi nút mạng đều cần có
các bộ phát lại. Mạng PON cho phép triển khai các dịch vụ băng rộng
và có tính tương tác.
Lê Minh Liêm - 509102041 37
Trường Đại Học Phương Đông Khoa Công Nghệ Thông Tin
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].Báo cáo thực tập tốt nghiệp, Nguyễn Việt Thắng
[2].Cẩm nang hỗ trợ kỹ thuật FTTH, Viettel
Lê Minh Liêm - 509102041 38