quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

73
1 Chương 1. KHÁI NIM VÙNG VEN BVÀ QUN LÝ TNG HP VÙNG VEN BVùng ven bluôn là nơi được con người quan tâm do ngun tài nguyên ca nó. Đây là nơi có vùng đồng bng màu mvà tài nguyên bin phong phú, vùng ven bcũng là nơi ddàng cho stiếp cn ca thtrường quc tế. Nó to ra không gian sng, các tài nguyên sinh vt và phi sinh vt cho các hot động ca con người và có chc năng điu hoà đối vi môi trường tnhiên cũng như môi trường nhân to. Vùng ven blà trng tâm ca nhiu ngành kinh tế quc gia, là nơi mà phn ln các hot động vkinh tế, xã hi din ra và cũng là nơi mà tác động ca các hot động này nhiu nht. Đối vi nhng nước có vùng b, hơn mt na dân ssng ti đây và tm quan trng ca vùng ven bcòn gia tăng trong tương lai do sgia tăng không ngng ca vic di dân tcác vùng sâu trong lãnh thti đây. Do vy, không ngc nhiên khi có sxung đột sâu sc gia nhu cu tiêu dùng hin nay đối vi tài nguyên và vic đảm bo cho vic tiêu thtài nguyên đó trong tương lai. Trong mt squc gia, sxung đột đó đã đạt đến mc nguy cp do phn ln vùng ven bđã bô nhim do các ngun khác nhau. Rt nhiu hot động phát trin đô th, công nghip và nông nghip trên vùng ven bin là nm trong vùng đất ngp nước ven bin có năng sut cao và các dán phát trin đang làm biến đổi hsinh thái ven bin trên mt qui mô rt ln. Nước thi thu hết các đô thvà khu công nghip trên thế gii đổ trc tiếp vào bin hoc gián tiếp qua các hthng sông mà không được xlý hoc xlý rt ít. Nghcá bsa sút, đất ngp nước bkhô, các rn san hô bphá hy, các bãi bin bxung cp,... Để các vùng ven bđược duy trì và bo v, cn phi có hành động hiu quvà kp thi. Để gii quyết cho yêu cu này, mt hthng qun lý đã được hình thành: Qun lý tng hp vùng ven b: (ICZM, Integrated Coastal Zone Management). Qun lý tng hp vùng ven b(QLTHVB) có thcho phép gii quyết các vn đề ny sinh trong phát trin như: Tăng dân svùng ven bin, đô thhoá, cnh tranh đất đai, ngun nước và các vn đề liên quan đến ô nhim. Sdâng cao ca mc nước bin làm cho nhiu quc gia ven bin dbnh hưởng ca lt li và đe da cuc sng và các hot động kinh tế. Qun lý tài nguyên kém làm tăng phm vi nh hưởng và tính khc lit ca các tai biến thiên nhiên như bão lt, xói lbbin,... đối vi cuc sng và dân cư. Tài nguyên bkhai thác quá mc và sdng không hp lý, ví dnhư vn đề khai thác cn kit các loài thuhi sn, khai thác san hô làm vt liu xây dng, phá rng ngp mn để nuôi tôm. I. Khái nim vùng ven bHu hết các hướng dn QLTHVB được xut bn đều đồng ý rng vùng ven blà khu vc có giao din khá hp gia bin và đất lin. Đó là nơi các quá trình sinh thái phthuc vào stác động ln nhau gia đất lin và bin, các tác động này din ra khá phc tp và nhy cm. Vùng ven bthường được hiu như là nơi tương tác gia đất và bin, bao gm các môi trường ven bcũng như vùng nước kế cn. Các thành phn ca nó bao gm các vùng châu th, vùng đồng bng ven bin, các vùng đất ngp nước, các bãi bin và cn cát, các rn san hô, các vùng rng ngp mn, đầm phá, và các đặc trưng ven bkhác. Khái nim vùng ven bthường được xác định mt cách tùy tin, hơi khác nhau gia các quc gia và thường da vào gii hn pháp lý và ranh gii hành chánh. Ngoài ra, còn có nhng sai khác vđịa văn

Upload: maimainheanh

Post on 02-Jul-2015

33 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

1

Chương 1.

KHÁI NIỆM VÙNG VEN BỜ VÀ QUẢN LÝ TỔNG HỢP VÙNG VEN BỜ

Vùng ven bờ luôn là nơi được con người quan tâm do nguồn tài nguyên của nó. Đây là nơi có vùng đồng bằng màu mỡ và tài nguyên biển phong phú, vùng ven bờ cũng là nơi dễ dàng cho sự tiếp cận của thị trường quốc tế. Nó tạo ra không gian sống, các tài nguyên sinh vật và phi sinh vật cho các hoạt động của con người và có chức năng điều hoà đối với môi trường tự nhiên cũng như môi trường nhân tạo.

Vùng ven bờ là trọng tâm của nhiều ngành kinh tế quốc gia, là nơi mà phần lớn các hoạt động về kinh tế, xã hội diễn ra và cũng là nơi mà tác động của các hoạt động này nhiều nhất. Đối với những nước có vùng bờ, hơn một nữa dân số sống tại đây và tầm quan trọng của vùng ven bờ còn gia tăng trong tương lai do sự gia tăng không ngừng của việc di dân từ các vùng sâu trong lãnh thổ tới đây. Do vậy, không ngạc nhiên khi có sự xung đột sâu sắc giữa nhu cầu tiêu dùng hiện nay đối với tài nguyên và việc đảm bảo cho việc tiêu thụ tài nguyên đó trong tương lai. Trong một số quốc gia, sự xung đột đó đã đạt đến mức nguy cấp do phần lớn vùng ven bờ đã bị ô nhiễm do các nguồn khác nhau. Rất nhiều hoạt động phát triển đô thị, công nghiệp và nông nghiệp trên vùng ven biển là nằm trong vùng đất ngập nước ven biển có năng suất cao và các dự án phát triển đang làm biến đổi hệ sinh thái ven biển trên một qui mô rất lớn. Nước thải từ hầu hết các đô thị và khu công nghiệp trên thế giới đổ trực tiếp vào biển hoặc gián tiếp qua các hệ thống sông mà không được xử lý hoặc xử lý rất ít. Nghề cá bị sa sút, đất ngập nước bị khô, các rạn san hô bị phá hủy, các bãi biển bị xuống cấp,...

Để các vùng ven bờ được duy trì và bảo vệ, cần phải có hành động hiệu quả và kịp thời. Để giải quyết cho yêu cầu này, một hệ thống quản lý đã được hình thành: Quản lý tổng hợp vùng ven bờ: (ICZM, Integrated Coastal Zone Management).

Quản lý tổng hợp vùng ven bờ (QLTHVB) có thể cho phép giải quyết các vấn đề nảy sinh trong phát triển như:

• Tăng dân số ở vùng ven biển, đô thị hoá, cạnh tranh đất đai, nguồn nước và các vấn đề liên quan đến ô nhiễm.

• Sự dâng cao của mức nước biển làm cho nhiều quốc gia ven biển dễ bị ảnh hưởng của lụt lội và đe dọa cuộc sống và các hoạt động kinh tế.

• Quản lý tài nguyên kém làm tăng phạm vi ảnh hưởng và tính khốc liệt của các tai biến thiên nhiên như bão lụt, xói lở bờ biển,... đối với cuộc sống và dân cư.

• Tài nguyên bị khai thác quá mức và sử dụng không hợp lý, ví dụ như vấn đề khai thác cạn kiệt các loài thuỷ hải sản, khai thác san hô làm vật liệu xây dựng, phá rừng ngập mặn để nuôi tôm.

I. Khái niệm vùng ven bờ Hầu hết các hướng dẫn QLTHVB được xuất bản đều đồng ý rằng vùng ven bờ là khu

vực có giao diện khá hẹp giữa biển và đất liền. Đó là nơi các quá trình sinh thái phụ thuộc vào sự tác động lẫn nhau giữa đất liền và biển, các tác động này diễn ra khá phức tạp và nhạy cảm.

Vùng ven bờ thường được hiểu như là nơi tương tác giữa đất và biển, bao gồm các môi trường ven bờ cũng như vùng nước kế cận. Các thành phần của nó bao gồm các vùng châu thổ, vùng đồng bằng ven biển, các vùng đất ngập nước, các bãi biển và cồn cát, các rạn san hô, các vùng rừng ngập mặn, đầm phá, và các đặc trưng ven bờ khác. Khái niệm vùng ven bờ thường được xác định một cách tùy tiện, hơi khác nhau giữa các quốc gia và thường dựa vào giới hạn pháp lý và ranh giới hành chánh. Ngoài ra, còn có những sai khác về địa văn

Page 2: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

2

(physiography), sinh thái và kinh tế giữa các vùng khác nhau, do đó không có một định nghĩa được chấp nhận rộng rãi về vùng ven bờ. Thay vào đó, có nhiều định nghĩa bổ sung phục vụ cho những mục đích quản lý khác nhau, trong đó vấn đề ranh giới cần được xem xét. Ví dụ ở một số nước Châu Âu, vùng ven bờ mở rộng ra tới vùng lãnh hải, một số nước khác thì lấy đường đẳng sâu làm giới hạn. Còn về ranh giới đất liền thì cũng rất mơ hồ do tác động của biển vào khí hậu có thể vào đến vùng nội địa bên trong cũng như vùng đồng bằng ngập lụt rộng lớn.

Vấn đề ranh giới vùng ven bờ có thể được xác định một cách thực tế bao gồm các khu vực và các hoạt động liên quan đến vấn đề quản lý mà chương trình sẽ nhắm vào. Trong nhiều trường hợp, ranh giới vùng đất và biển được chọn thường có một khoảng cách nhất định với một mốc tự nhiên chẳng hạn như là mức nước thấp trung bình (MLWM, Mean Low Water Mark) hay mức nước cao trung bình (MHWM, Mean High Water Mark).

Bảng 1. Một số ví dụ về ranh giới vùng ven bờ

Nước, bang Ranh giới đất liền Ranh giới biển

Rhode Island 200 bộ kể từ bờ biển Vùng lãnh hải (3 dặm)

Hawaii Tất cả đất liền trừ vùng các khu rừng bảo vệ

Vùng nước của Bang

Brunei Tất cả vùng đất liền và nước cách MHWM 1 km

Từ MHWM đến 200 m nước sâu

Singapore Toàn bộ đất liền Vùng lãnh hải và các đảo xa bờ

Sri Lanka 300 m từ MHWM 2 km từ MLWM

Malaysia Ranh giới huyện 20 km từ bờ

Theo IUCN (1986), vùng ven bờ được định nghĩa như sau: "là vùng ở đó đất và biển tương tác với nhau, trong đó ranh giới về đất liền được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởng của biển đến đất và ranh giới về biển được xác định bởi giới hạn các ảnh hưởng của đất và nước ngọt đến biển."

Theo World Bank, vùng ven bờ được hiểu là "... dựa vào những mục tiêu thực tiễn, mà vùng ven bờ là một vùng đặc biệt có những thuộc tính đặc biệt, mà ranh giới được xác định, thường dựa vào những vấn đề được giải quyết"

Ngoài ra còn có một số thuật ngữ khác được sử dụng trong QLTHVB bao gồm:

• Vùng ven biển (Coastal area): về mặt địa lý thì rộng hơn vùng ven bờ, đường biên của nó mở rộng về phía đất liền hơn. Vùng ven bờ chỉ là một phần của khu vực ven biển. Điều này rất quan trọng, đứng trên phương diện chức năng, bởi trong nhiều quy trình về môi trường, nhân khẩu, kinh tế và xã hội trên thực tế bắt nguồn từ vùng ven biển rộng lớn, tuy nhiên những biểu hiện của chúng chỉ thấy rõ được trong phạm vi vùng ven bờ.

• Vùng nước ven biển (Coastal water): vành đai hẹp gần bờ có nước biển và nước cửa sông.

• Vùng gian triều (Intertidal area): vùng giữa đường ngập triều khi triều thấp nhất và đường ngập triều khi triều cao nhất (phần đất liền chịu tác động của thủy triều).

• Vùng bờ biển (Coastline): đường tiếp xúc tại điểm chia cắt đất liền với các vùng nước ven biển.

• Vùng đất ven bờ (Shore lands): vùng đất liền xuống tới đường biên cao nhất bị ảnh hưởng bởi thủy triều

Page 3: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

3

Do có nhiều sự khác nhau trong định nghĩa về khái niệm vùng ven bờ, có một số vấn để thường nảy sinh trong quá trình thực thi quản lý tổng hợp vùng ven bờ. Thứ nhất, pháp luật quốc gia liên quan tới giải quyết vấn đề này, nếu nó tồn tại, thường không rõ ràng trong việc đưa ra những định nghĩa và tiêu chí biên giới vùng ven bờ một cách chính xác. Thứ hai, thường các ranh giới được xác định theo qui định của hành chính không đồng nhất với ranh giới của hệ sinh thái. Thứ ba, việc quản lý các vùng ven bờ xuyên quốc gia thường rất khó khăn do nó liên quan tới lợi ích từng quốc gia. Ngoài ra, pháp chế và sự phân định đới bờ có thể có sự khác nhau rất lớn giữa các quốc gia cận kề nhau.

Như vậy có thể thấy là định nghĩa về vùng ven bờ thường phục vụ và hỗ trợ cho các kế hoạch chính trị, chính sách để cân bằng nhu cầu đối với tài nguyên và giải quyết các xung đột nhiều mặt trong vấn đề sử dụng tài nguyên.

Do vậy, định nghĩa vùng ven bờ phải phản ảnh các tiếp cận tổng hợp bao gồm (a) vùng ven bờ được quản lý là một hệ tổng hợp về tài nguyên và sử dụng tài nguyên và (b) chức năng quản lý phối hợp giữa các tổ chức khác nhau liên quan đến qui hoạch và thực thi.

Để định nghĩa về vùng ven bờ tiếp tục được chuẩn bị kỹ lưỡng và cập nhật trong các dự án của các quốc gia, các yếu tố sau đây cần phải được tính đến:

• Phạm vi phần đất bên trong vùng ven bờ phải được thoả thuận cũng như phần nước thuộc lãnh thổ quản lý.

• Định nghĩa vùng ven bờ phải xuất phát từ các đặc điểm tự nhiên (địa mạo) và chức năng sinh thái.

• Xác định ranh giới hành chính dựa vào pháp luật quốc gia, các vùng đặc trưng và các qui hoạch chi tiết.

• Sử dụng các kỹ thuật bản đồ để phác họa ranh giới đường bờ và đường vùng ven bờ trên các bản đồ

II. Đặc tính của vùng ven bờ 1. Vùng ven bờ bao gồm sự đa dạng lớn về nơi ở và các hệ sinh thái (như vùng cửa

sông, rạn san hô, thảm cỏ biển, rừng ngập mặn, đầm phá, vũng biển,..)

2. Các hệ sinh thái trên có các đặc điểm vốn có được mô tả như là các chức năng khi chú ý đến phạm vi hệ thống tài nguyên ven bờ. Đối với các vùng đất ngập nước, các chức năng đó bao gồm năng suất sơ cấp và năng suất thứ cấp để duy trì khu hệ động, thực vật; dự trữ trầm tích và các chất carbon hữu cơ để nâng cao săng suất sinh học; liên kết các hệ sinh thái cần thiết để duy trì chuỗi thức ăn, tuyến di cư và gia tăng sản lượng. Đối với các rạn san hô các chức năng đó sẽ bao gồm năng suất sinh học cao và tỷ lệ cố định carbon cao dẫn đến sự phát triển đáng kể các rạn san hô và sự ăn mòn vật lý và sinh học dẫn đến sự tạo thành trầm tích đá vôi.

3. Lần lượt, các chức năng đó sản sinh ra "hàng hoá" (ví dụ như cá, dầu khí, khoáng sản,...) và các dịch vụ có ích (ví dụ như chống lại sóng, bão, sự giải trí và vận chuyển,..). Các hàng hoá và dịch vụ như thế có giá trị kinh tế, một số có thể trao đổi theo cơ chế thị trường, nhưng số khác không thể đánh giá trực tiếp. Ví dụ tốt nhất là giá trị của san hô về nơi ở, giá trị giải trí như bơi lội, chèo thuyền, câu cá giải trí hay đơn giản chỉ là ngắm nhìn đại dương. Đối với các rừng ngập mặn, sự quan tâm đối với các nguồn tài nguyên này không được mua bán và cũng không được đánh giá như hàng hoá hay như dịch vụ và thường bị loại trừ khi phân tích về giá trị của rừng ngập mặn khi phát triển thành giá trị sử dụng thay thế khác (ví dụ như chuyển đổi thành vùng nuôi tôm). Các giá trị thường buôn bán là cọc chống, than củi, cua, tôm rừng ngập mặn; các giá trị có thể buôn bán là cá, thân mềm 2 mảnh bắt trong vùng kế cận; các giá trị ít khi tính đến là dược liệu, chất đốt trong gia đình, thức ăn trong những lúc nghèo đói, chổ ở cho cá con, bãi thức ăn đối với các loài cá, tôm vùng cửa sông, quan sát và

Page 4: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

4

nghiên cứu động vật hoang dã; các giá trị thường bị bỏ qua là dòng dinh dưỡng cho vùng cửa sông, vùng đệm đối với tác hại của gió bão.

4. Có một mối liên hệ trực tiếp giữa các chức năng môi trường và việc sản sinh ra các hàng hoá để có thể sử dụng được nhiều dạng hơn chỉ là một dạng trong các hoạt động của con người (ví dụ như đá san hô được sử dụng trong việc xây dựng và sản xuất vôi).

5. Trong vùng ven bờ, nơi mà có sự cạnh tranh giữa các bên liên quan khác nhau (các bên liên quan được xác định là các nhóm trong cộng đồng có những mối quan tâm đặc biệt hay là liên quan đến việc sử dụng các nguồn tài nguyên như là tài sản chung) đối với việc sử dụng đất và biển thường dẫn đến những xung khắc mãnh liệt và phá huỷ sự thống nhất của hệ thống tài nguyên.

6. Các hoạt động ở vùng ven bờ trong nhiều nước đã góp phần đáng kể vào GDP của kinh tế quốc gia. Ví dụ như ở Sry Lanka, vùng ven bờ chiếm 24% diện tích đất cả nước, nhưng đã đóng góp 40% GDP của quốc gia với 50% dân số sống ở đây. Nhiều cộng đồng trong vùng Đông Nam Á phụ thuộc vào công nghiệp dầu lửa và tàu thuyền, du lịch ven bờ,...

7. Vùng ven bờ là nơi tập trung cao sự định cư của con người và là nơi thích hợp cho sự đô thị hoá. Hầu hết các thành phố lớn của các nước vùng Đông Nam Á, cũng như các nước khác trên thế giới nằm ở vùng ven bờ.

8. Vùng ven bờ là sẽ tâm điểm cho sự phát triển trong tương lai trong vòng 50 năm tới với sự gia tăng dân số và mở rộng các ngành công nghiệp. Những sự phát triển như thế sẽ dẫn đến sự gia tăng những xung đột về môi trường và xã hội, đòi hỏi cần phải có việc thực hiện kế hoạch quản lý tổng hợp.

III. Các yếu tố sinh thái môi trường vùng ven bờ 1. Vị trí địa lý

Nằm tiếp giáp với đường bờ biển, có thể có các dạng địa hình:

Đồng bằng thấp trũng thuộc khu vực các sông lớn, chịu ảnh hưởng của thủy triều

Núi cao ăn ra tận biển, địa hình không bằng phẳng, cao hoặc là những gò đá sát biển và ít chịu ảnh hưởng của thủy triều

Vùng đầm lầy hoặc đầm phá.

2. Khí hậu

Tần suất xuất hiện gió và bão cao, nhất là vùng ven biển nhiệt đới.

Có chế độ gió mùa và ảnh hưởng rõ của chế độ này.

Biên độ nhiệt độ dao động ngày và đêm không lớn như ở lục địa.

Lượng mưa và độ ẩm không khí thường cao hơn các vùng khác. Đây cũng là vùng dễ có các sự cố môi trường như bão lốc, sóng thần.

3. Môi trường đất

Có thể có các dạng đất như đất mặn, đất phèn, phèn mặn hoặc đất cát, cồn cát ven biển.

Dễ mẫn cảm với các điều kiện biến đổi của môi trường như dễ bị xói lở do tác động của sóng gió.

Môi trường đất bị ảnh hưởng mạnh của cả độ mặn trong nước biển và thủy triều.

Môi trường sinh thái ở đây không có tính ổn định, dễ phát triển nhưng cũng dễ bị phá hủy, thay đổi.

4. Môi trường nước

Nước từ mặn cho đến lợ, độ mặn giảm từ biển vào đất liền, điều kiện nước cũng thay đổi theo chế độ thủy văn ở các cửa sông đổ ra biển. Trong nước biển, nước sông và nhất là

Page 5: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

5

nước lợ, hàm lượng chất dinh dưỡng cao, có nhiều chất phù sa lơ lững và nhiều hạt sét mịn tạo nên trầm tích nhiều sét.

Chế độ thủy triều ảnh hưởng mạnh đến hệ sinh thái thể hiện qua mức triều cực đại hay cực tiểu của chế độ nhật triều hay bán nhật triều.

Chế độ nước ngọt rất khan hiếm, chỉ thấy từ các nguồn nước mưa hoặc giếng sâu từ tầng nước ngầm.

5. Môi trường không khí

Thường chất lượng không khí ở các vùng ven biển rất tốt nếu không có các hoạt động công nghiệp. Trong những vùng hoạt động công nghiệp ven biển thì môi trường không khí sẽ bị ảnh hưởng. Tuy nhiên khả năng đảo nhiệt thường ít xảy ra hơn. Hàm lượng muối trong không khí cao dễ gây ăn mòn kim loại, các công trình xây dựng, vật liệu.

6. Đa dạng sinh học

Được chia làm hai phần: phần dưới nước và trên cạn. Phần trên cạn lại được chia ra sinh vật ở vùng cao và sinh vật ở vùng ngập và bán ngập. Phần dưới nước chia ra sinh vật tầng mặt, sinh vật tầng nước nông và sinh vật tầng nước sâu.

Nhìn chung đa dạng sinh học ở vùng ven biển rất phong phú và đa dạng. Tính đa dạng này phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường tự nhiên như nhiệt độ, chế độ nước, môi trường đất. Đối với vùng đất cao, ít ngập triều và không có nước ngọt, đất dễ nhiễm mặn và khô hạn thì đa dạng sinh học nghèo nàn. Đối với vùng ngập nước và bán ngập triều hay còn gọi là đất ngập nước, thì đa dạng sinh học phong phú hơn nhiều.

7. Ô nhiễm môi trường vùng ven biển

Ngày nay với tốc độ phát triển kinh tế mạnh mẽ, hoạt động sản xuất và sinh hoạt của con người đã tác động mạnh mẽ đến môi trường sinh thái ven biển theo hướng ngày một xấu đi. Nguyên nhân của ô nhiễm xuất phát từ:

Nguồn nước thải sinh hoạt được thải trực tiếp từ các khu dân cư ven biển;

Nước thải công nghiệp;

Nguồn nước thải từ các cống rãnh đô thị;

Chất thải rắn từ công nghiệp, nông nghiệp.

8. Các dạng năng lượng trong môi trường ven biển

Năng lượng sóng biển: vô cùng lớn nhưng đến nay con người chỉ mới khai thác, sử dụng được khoảng 1-2%. Một số nước trên thế giới đã sử dụng một phần năng lượng sóng biển để phát điện, tuy nhiên vấn đề này còn có nhiều khó khăn trong thiết kế, xử lý công trình.

Năng lượng gió: là loại năng lượng có tiềm năng rất lớn dùng để phát điện, bơm nước, quay các động cơ,... Tuy nhiên nguồn năng lượng này cũng chưa được khai thác nhiều.

Năng lượng ánh sáng mặt trời: sinh vật sử dụng năng lượng này cho quang hợp, sinh trưởng và phát triển, con người sử dụng để sấy khô nguyên liệu, làm muối

IV. Khái niệm về Quản lý tổng hợp vùng ven bờ Tại Hội nghị Quốc tế về Vùng bờ, QLTHVB được định nghĩa như sau: QLTHVB bao

gồm việc đánh giá toàn diện, đặt ra các mục tiêu, quy hoạch và quản lý các hệ thống tài nguyên ven biển, có xét đến các yếu tố lịch sử, văn hóa và truyền thống, và các lợi ích trong mâu thuẩn sử dụng; là quá trình liên tục tiến triển nhằm đạt được sự phát triển bền vững.

Quản lý tổng hợp vùng ven bờ là một cơ cấu để tập hợp những người sử dụng, các chủ thể và những người ra quyết định tại vùng ven bờ nhằm đảm bảo quản lý hệ sinh thái có hiệu quả hơn đồng thời phát triển được kinh tế và phân chia quyền lợi hợp lý giữa các thế hệ và trong cùng thế hệ, thông qua việc áp dụng những nguyên tắc có tính bền vững. Pháp chế và quy hoạch ở lãnh hải và nội địa thường là công cụ thuận lợi để thực thi QLTHVB.

Page 6: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

6

Mặc dù có rất nhiều định nghĩa khác nhau về QLTHVB nhưng sự khác nhau giữa chúng là rất ít. Hầu hết các định nghĩa đều thừa nhận rằng QLTHVB là một quy trình có tính liên tục, tính tiên phong trong thực hiện và có khả năng thích nghi cao nhằm quản lý nguồn tài nguyên cho sự phát triển bền vững vùng ven bờ. QLTHVB phải đạt được mục tiêu của nó trong các điều kiện hạn chế về môi trường, kinh tế, xã hội và tự nhiên cũng như trong hạn chế của các hệ thống và thể chế về pháp lý, tài chính và hành chính.

QLTHVB không thay thế cho các việc kế hoạch và quản lý của từng ngành. Đúng hơn là nó tập trung vào sự liên kết giữa hoạt động của các ngành, cũng cố và điều hòa quản lý ngành để đạt được mục tiêu một cách bền vững và đầy đủ.

QLTHVB là một quy trình tuần hoàn thường bao gồm 3 giai đoạn cơ bản: 1. khởi xướng, 2. lập kế hoạch và 3. thực thi, giám sát và đánh giá. Tuy nhiên nó cũng phải hoạt động như một quy trình lặp lại trong đó việc lập kế hoạch và thực thi cần phải được tiến hành xem xét đánh giá và điều chỉnh thường xuyên.

Các biện pháp tổng hợp đối với quản lý vùng ven bờ được biết đến dưới nhiều tên gọi và chữ viết tắt khác nhau, trong đó gồm có Quản lý tổng hợp vùng ven bờ (ICZM, Integrated Coastal Zone Management), Quản lý tổng hợp vùng ven biển (ICAM, Integrated Coastal Area Management), Quản lý tổng hợp ven biển (ICM, Integrated Coastal Management) và Quản lý tổng hợp vùng biển và ven biển (IMCAM, Integrated Marine and Coastal Area Management).

Vấn đề quan trọng nhất trong quản lý tổng hợp vùng ven bờ là quản lý cái gì và như thế nào? Có rất nhiều dạng của quản lý tổng hợp, theo NetCoast 2001, có thể phân biệt các dạng sau:

• Tổng hợp giữa các chính quyền: tổng hợp giữa các thể chế và cấp độ hành chính theo các mức độ như địa phương, tỉnh, quốc gia. Đây cũng được gọi là tổng hợp theo ngành dọc. Mục đích của sự tổng hợp này là hoà hợp chính sách của quốc gia và việc thực hiện cuối cùng ở các địa phương.

• Tổng hợp giữa các lĩnh vực: tổng hợp giữa các ngành khác nhau tại cùng một cấp độ hành chính, ví dụ như giữa các bộ với nhau. Đây cũng gọi là tổng hợp theo chiều ngang. Một dạng đặc biệt là tổng hợp theo không gian, do vùng đất và biển kế bên vùng ven bờ được quản lý bởi các ngành khác nhau (ví dụ du lịch và nghề cá), nhưng các hoạt động thì lại ảnh hưởng lẫn nhau.

• Tổng hợp giữa các tổ chức phi chính phủ và tổ chức chính phủ: ví dụ như giữa các chính quyền địa phương và các tổ chức tự nhiên ở địa phương và các công nghiệp nhỏ.

• Tổng hợp giữa khoa học và quản lý: tổng hợp giữa các lĩnh vực khoa học khác nhau và chuyển giao khoa học tới những người sử dụng và những người lập kế hoạch. Rõ ràng là khoa học xã hội, khoa học công nghệ và tự nhiên có nhiệm vụ cung cấp tài liệu cho các nhà quản lý vùng ven biển. Tuy nhiên, thông tin của họ thường không tối ưu nhất.

• Tổng hợp quốc tế: có thể xảy ra vấn đề khi một vùng diện tích lại nằm trong biên giới của hai nước. Do tác động của việc sử dụng tài nguyên giữa hai nước là không biết được, do vậy sự hợp tác quốc tế là điều kiện tiên quyết.

Mc Glashan đề nghị 4 phương diện quản lý tổng hợp: đó là hệ thống quản lý theo không gian, theo thời gian, theo chiều dọc và theo chiều ngang.

• Tổng hợp theo không gian: bao gồm những vấn đề liên quan đến ranh giới, xa vào đất liền như thế nào và xa ra tới biển bao nhiêu cần phải được xem xét trong các dự án quản lý. Vấn đề đất liền và biển cần phải được coi trọng như nhau, các quá trình tự nhiên không quan hệ đến các ranh giới hành chính.

Page 7: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

7

• Tổng hợp theo thời gian: vấn đề thời gian phải được coi trọng, để các quyết định trong hiện tại cần phải xem xét đến tác động của nó trong tương lai để bảo đảm cho sự bền vững.

• Tổng hợp theo chiều dọc: tất cảc các mức độ của các mối liên hệ, hợp tác, kế hoạch tại các điểm ở địa phương phải gắn với kế hoạch của vùng ven bờ, với chiến lược của quốc gia và quốc tế. Cũng trong lĩnh vực này, khi áp dụng các chính sách trong các tổ chức, thông tin cần phải được thông qua từ thấp đến cao trong các tổ chức cũng như trong các cấp (ví như văn phòng qui hoạch, hội đồng địa phương, chính quyền quốc gia,..).

• Tổng hợp theo chiều ngang: thể hiện nỗ lực nhằm điều phối các ngành kinh tế tư nhân cũng như nhà nước, nhờ đó giảm được sự chắp vá và chồng chéo trong quản lý. Các chủ đề khác nhau trong phạm vi vùng bờ cần được đưa ra khi thành lập các quyết định (ví dụ như bảo vệ vùng ven bờ, phát triển kinh tế, bảo tồn thiên nhiên,...); các ban ngành, các tổ chức khác nhau phải cùng làm việc với nhau hơn là làm việc riêng lẻ nhau.

Một vấn đề nữa trong quản lý tổng hợp vùng ven bờ là tính toàn bộ. Đây là một phần của mô hình bền vững bao gồm cả người dân, đặc biệt là người dân địa phương. Điều này đã được nhận thấy trong hầu hết các bước khởi đầu thành công về quản lý tổng hợp vùng ven bờ ở nhiều quốc gia, trong đó có sự tham gia nhiệt tình của cộng đồng địa phương.

Từ các thảo luận trên, có thể thấy là có nhiều quan điểm khác nhau về quản lý tổng hợp vùng ven bờ. Tuy vậy, rõ ràng là một chương trình quản lý vùng bờ miêu tả một số dạng hợp tác giữa các cơ quan hoặc tổ chức khác nhau để cố gắng giải quyết những mâu thuẩn có khả năng sinh ra. Cũng cần phải nhớ rằng các quốc gia khác nhau có các phương pháp tiếp cận vùng ven bờ theo các đường lối khác nhau. Không có một cơ chế nào phù hợp cho tất cả, do sự thành công của việc thực thi QLTHVB phụ thuộc vào các điều kiện địa phương, kinh nghiệm, đặc điểm của hệ sinh thái, áp lực phát triển cũng như vào các khung chính sách, pháp lý khu vực và quốc gia, cùng nhiều yếu tố khác nữa. Điều đó có nghĩa rằng mỗi một vùng cần có một phương pháp tiếp cận của chính mình. Không có một khuôn mẫu chung đối với tất cả các vùng khác nhau.

Tuy nhiên, kinh nghiệm trong thực thi QLTHVB cho đến nay, đã thấy có một số nhân tố quan trọng cần phải được kết hợp chặt chẻ trong bất kỳ hoạt động nào của QLTHVB để đạt được thành công. Chúng bao gồm:

• Đạt được sự thống nhất và hợp tác giữa các ban ngành chính phủ tại mọi cấp độ khác nhau;

• Đảm bảo sự ủng hộ của các thể chế chính trị cho việc thực thi dự án;

• Đảm bảo sự tham gia và tham vấn đầy đủ của cộng đồng và các chủ thể địa phương;

• Đạt được sự nhất trí trong việc quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên ven bờ;

• Đinh hướng các phương pháp quản lý có tính linh hoạt và thích ứng khi các điều kiện thay đổi;

• Làm cho quy trình QLTHVB phù hợp với thể chế, tổ chức và môi trường xã hội của quốc gia và khu vực.

V. Chức năng của QLTHVB QLTHVB hoàn thiện các dạng quy hoạch phát triển truyền thống theo 4 khía cạnh sau:

• Tăng cường nhận thức đầy đủ về các hệ tài nguyên thiên nhiên quý giá của vùng bờ và tính bền vững của chúng đối với các hoạt động đa dạng của con người;

Page 8: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

8

• Tối ưu hóa việc sử dụng đa mục tiêu các hệ tài nguyên vùng bờ thông qua việc tổng hợp các thông tin sinh thái, xã hội và kinh tế;

• Triển khai các cách tiếp cận đa ngành, hợp tác và phối hợp liên ngành nhằm giải quyết những vấn đề phát triển phức tạp, đồng thời xây dựng các chiến lược tổng hợp nhằm mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế;

• Giúp chính quyền nâng cao năng suất và hiệu quả của việc đầu tư tài chính và nhân lực, nhằm đạt các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, thực hiện được các cam kết quốc tế liên quan đến môi trường biển và ven bờ.

Khác với các cách thức quy hoạch phát triển khác, QLTHVB giúp tối ưu hóa các lợi ích kinh tế và hội do việc sử dụng tài nguyên đem lại. Nơi mà sự phát triển bền vững phụ thuộc vào nguồn tài nguyên ven bờ có khả năng phục hồi. QLTHVB sẽ giúp quản lý việc sử dụng đa đa mục tiêu, duy trì được tính tổng hợp về chức năng của các hệ ven bờ và sự ổn định của các nguồn tài nguyên. Tất các các dạng phát triển đều tác động đến chất lượng và năng suất của các hệ sinh thái ven bờ. Do đó, sự phát triển kinh tế, xã hội bền vững của vùng bờ không thể tách rời quy hoạch và quản lý môi trường. Điều này rất quan trọng đối với các ngành kinh tế đang phát triển mà phụ thuộc nhiều vào chất lương môi trường và tài nguyên thiên nhiên trong việc bảo đảm an toàn thực phẩm, cũng như đối với các ngành kinh tế đã phát triển với mô hình phát triển vùng ven bờ tiên tiến.

QLTHVB cũng là một công cụ để giải quyết các vấn đề quốc tế xuyên biên giới như ô nhiễm biển, khai thác quá mức các nguồn tài nguyên chung và bảo vệ đa dạng sinh học.

VI. Các mục tiêu của quản lý tổng hợp vùng ven bờ Mục tiêu chung của một chương trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ là đảm bảo sử

dụng bền vững, tốt nhất các tài nguyên thiên nhiên vùng bờ và duy trì lợi ích nhiều nhất từ môi trường tự nhiên. Về mặt thực tế, chương trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ hỗ trợ các mục tiêu quản lý thông qua việc đưa ra cơ sở cho việc sử dụng bền vững các tài nguyên, bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn ngừa thiên tai, kiểm soát ô nhiễm, tăng cường lợi ích, phát triển bền vững nền kinh tế và tối ưu hóa việc sử dụng đa mục tiêu.

Các mục tiêu cụ thể bao gồm: hỗ trợ ngành thủy sản, thu hút khách du lịch, nâng cao sức khỏe cộng đồng, tăng cường nhận thức cộng đồng, duy trì sản lượng sản phẩm có được từ các vùng ngập mặn,... Tất cả các điều này đòi hỏi các hành động của cộng đồng phải được điều phối tốt. Đó chính là cái mà quản lý tổng hợp vùng ven bờ cần làm. Các mục tiêu cụ thể đó là:

• Hướng dẫn mức độ sử dụng và can thiệp đối với nguồn tài nguyên ven biển để chúng không bị sử dụng hoặc can thiệp quá sức mang cho phép bằng cách phân định ra các nguồn tài nguyên nào có thể khai thác mà không gây ra suy thoái hoặc cạn kiệt, hay nguồn tài nguyên nào cần phải cải tạo hoặc khôi phục lại để cho những mục đích sử dụng truyền thống và các mục đích khác sau này;

• Duy trì môi trường vùng bờ với chất lượng cao nhất, xác định và bảo vệ các loài có giá trị, xác định và bảo tồn các sinh cảnh vùng bờ quan trọng;

• Giải quyết các mâu thuẩn giữa các hoạt động tác động đến tài nguyên vùng bờ và việc sử dụng không gian;

• Tôn trọng các quy trình tự nhiên, khuyến khích các qui trình có lợi và ngăn chặn những sự can thiệp có hại;

• Xác định và kiểm soát các hoạt động gây tác hại lên môi trường vùng bờ;

• Kiểm soát các ô nhiễm từ nguồn, từ dòng chảy tràn và từ việc tràn hóa chất do sự cố;

• Phục hồi các hệ sinh thái bị phá hủy;

Page 9: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

9

• Khuyến khích các hoạt động có tính kết hợp hơn là những hoạt động có tính cạnh tranh;

• Đảm bảo rằng các mục tiêu kinh tế, xã hội, môi trường đạt được với mức chi phí có thể chấp nhận được với xã hội;

• Bảo đảm các quyền và sử dụng truyền thống và các cách tiếp cận hợp lý đối với tài nguyên;

• Nâng cao nhận thức, phát triển cộng đồng.

Một điều quan trọng sống còn đối với sự thành công của quy trình QLTHVB là việc bảo đảm sự tham gia và cam kết đầy đủ của các cộng đồng địa phương từ những giai đoạn đầu tiên. Điều này đặc biệt quan trọng trong trường hợp nhiều hoặc toàn bộ vùng ven bờ thuộc quyền quản lý của địa phương, bởi nhiều khi địa phương có sự chiếm hữu truyền thống và có các quyền khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

VII. Các nhân tố thiết yếu của việc tổng hợp vùng ven bờ. Nhân tố cơ bản của quá trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ là sự thống nhất và hợp

tác. Bất kỳ một chính sách và hành động quản lý tổng hợp nào được thiết kế để giải quyết các xung đột trong phát triển vùng bờ phải căn cứ vào những hiểu biết có cơ sở của các quá trình tự nhiên và những cách thức mà các quá trình này có thể bị nhiễu động. Đó là các hiểu biết về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội; các nhu cầu hiện tại và tương lai; cũng như bao gồm chi phí xã hội.

Việc quản lý hệ thống tài nguyên ven bờ được liên kết bởi 3 mặt của một hình khối hổ trợ nhau. Đó là các tiến trình, các vấn đề và các hành động, mỗi một mặt như thế là một trục của hình khối. Ba khía cạnh này quyện chặt vào nhau và việc chỉ xem xét một trong 3 khía cạnh này có thể làm sụp đổ toàn bộ hệ thống quản lý (Hình 1).

Theo mô hình này:

Các tiến trình quản lý bao gồm 3 thành phần thiết yếu đó là kế hoạch, thực thi, quan trắc và đánh giá.

• Kế hoạch bao gồm sự khởi đầu, nghiên cứu, phân tích, hình thành các chương trình, thông qua và các thủ tục.

• Sự thực thi đòi hỏi kinh phí và nhân lực và bước đầu phụ thuộc vào thiết kế dự án và năng lực của các cơ quan thực thi.

• Quan trắc là phần quan trọng của quá trình quản lý và kết hợp chặt chẽ vào giai đoạn sớm của chương trình. Mục tiêu của quan trắc là xem xét dự án tiến triển như thế nào, thăm dò các cơ hội có thể mở rộng, đánh giá tác động và bài học rút ra.

Đánh giá là cấp thiết do nó có khă năng sửa đổi các hoạt động nếu như kế hoạch quản lý không tạo được những kết quả như mong đợi. Kết quả của đánh giá làm thay đổi những kế hoạch và chiến lược quản lý để có thể sửa chữa những sai sót ngay từ giai đoạn đầu của quá trình quản lý. Theo cách này, quản lý tổng hợp vùng ven bờ được lập lại với các bài học rút ra từ những sai sót ngay từ những giai đoạn đầu của chương trình quản lý.

Các vấn đề bao gồm việc xử dụng tài nguyên (đánh bắt quá mức, tiềm năng du lịch, phá huỷ nơi ở,...); chất lượng môi trường (ô nhiễm, xói lở vùng bờ) và các liên quan đến các tổ chức (ví dụ những xung đột trong pháp chế, xung đột giữa các ngành, việc thi hành luật kém hiệu quả,...)

Các hành động quản lý tạo nên mặt quan trọng nhất của chương trình quản lý vùng ven bờ do liên quan đến việc áp dụng các biện pháp trực tiếp hướng tới các thành quả mong muốn đạt được. Ví dụ như duy trì chức năng thống nhất của hệ sinh thái, nâng cao chất lượng nước và thay đổi hành vi của con người. Các hành động bao gồm:

Page 10: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

10

• Sắp xếp các tổ chức và thể chế để làm rõ các quyền hạn và nghĩa vụ, tăng cường sức mạnh cho việc tuân theo pháp luật và nhiệm vụ quan trắc và đánh giá.

• Khuyến khích và điều chỉnh để thay đổi các hành vi của con người bao gồm việc hình thành quỹ trợ cấp, giấy phép đánh bắt, cấm khai thác mỏ và đánh bắt cá, điều chỉnh tàu thuyền và các hoạt động đánh bắt.

• Đầu tư công cộng trực tiếp, bao gồm các đầu tư của chính phủ trong việc nâng cao nhận thức của cộng đồng, các nghiên cứu thích đáng về quản lý, tạo ra cơ sở hạ tầng căn bản (ví dụ như hệ thống thải chất thải) và các hổ trợ kỹ thuật nếu cần thiết.

Hình 1. Hệ thống quản lý vùng bờ

Mặc dù vậy, có nhiều có rất nhiều trở ngại thường xuyên gặp phải trong quá trình thực thi hiệu quả QLTHVB. Sự trì trệ về hành chính, sự bảo thủ trước các thay đổi, xung đột với các lợi ích kinh tế cá nhân, thiếu sự quyết tâm về mặt chính trị khi bắt đầu qui trình, thiếu các nguồn tài chính tối thiểu, sự phức tạp của các vấn đề pháp lý trong định nghĩa vùng ven bờ, thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nhà khoa học và các nhà quy hoạch sử dụng đất thường là những rào cản quan trọng.

Những rào cản này có thể phá bỏ nếu thực thi các bước sau:

• Đặt các chương trình QLTHVB vào đúng hoàn cảnh xã hội tại thời điểm sớm nhất có thể;

• Hướng dẫn một cách rõ ràng cho càng nhiều chủ thể càng tốt thế nào là QLTHVB và những gì nó có thể và không thể đạt được;

• Gia tăng mức độ minh bạch của quá trình ra quyết định thông qua các bộ máy của QLTHVB;

• Nâng cao sự tham gia của các chủ thể và

• Tập hợp các đại diện của các cơ quan chịu trách nhiệm thực thi và quản lý tại vùng ven bờ vào trong quy trình QLTHVB.

VIII. Cơ cấu tổ chức hệ thống QLTHVB Quản lý tài nguyên vùng ven bờ đòi hỏi sự tham gia của tất cả các cấp. Cấp

chính quyền địa phương tham gia vì họ quyết định chổ nào dự định phát triển, nơi nào tài nguyên được tìm thấy và nơi nào cần khai thác lợi ích. Chính phủ cũng tham gia vì

Thu hút cộng đồng đầu tư

Tiến trình

- Kế hoạch

- Thực thi

- Quan trắc và đánh giá

Hành động

Vấn đề

-Ô nhiễm -Mất nơi ở

-Khai thác quá mức

Khuyến khích thi hành pháp luật, thay đổi thái độ

Sắp xếp các thể chế, tổ chức

Page 11: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

11

một số trách nhiệm và quyền hạn khác đối với các lĩnh vực về biển ở đó (hàng hải, an ninh quốc gia, cá di cư, quan hệ quốc tế,...).

Cần thấy rõ rằng QLTHVB là một chương trình tổng thể, bao trùm, nó không thay thế thể chế hiện tại, trong phần lớn trường hợp, mà cũng cố chúng.

Sự tổng hợp các lợi ích đa ngành vào trong một chương trình là rất khó khăn. Việc có được một cơ chế điều phối các hoạt động đa ngành, hướng tới mục tiêu của QLTHVB, chứ không phải một cơ quan đơn lẻ thực hiện, là một trong những công việc tối cần thiết của chương trình QLTHVB.

Đối với một chương trình có phạm vi lớn và toàn diện, có thể xem xét và hình thành một cơ quan mới, chẳng hạn như một cơ quan lãnh đạo chung, được chính phủ trợ giúp các nguồn lực, tài chính cần thiết để hoạt động. Trong trường hợp khác, một cơ quan đang hoạt động cũng có thể trở thành cơ quan trọng trách thực hiện chương trình; nó được tăng cường để quản lý, bảo tồn, với các mục tiêu rõ ràng và phù hợp với luật pháp và được trao trách nhiệm, nguồn lực, tiện ích hành chính và kỹ thuật cần thiết.

Không có câu trả lời duy nhất cho câu hỏi quyền hạn QLTHVB sẽ đặt vào chổ nào trong cơ cấu thể chế nhà nước hiện hành. Nó sẽ rất khác biệt đối với mỗi quốc gia, phụ thuộc vào những câu trả lời cho các câu hỏi như: liệu một cơ quan điều phối có đủ không? Nếu đủ thì nó phải đặt ở bộ nào? Hoặc là có cần một cơ quan có quyền lực tiến hành QLTHVB một cách độc lập không? Kỹ năng cần thiết của nhân viên là gì? Cơ quan này lồng ghép vai trò của một số cơ quan, ngành liên quan nhiều đến vùng ven bờ như thế nảo? Đó là các vấn đề quan trọng cần phải xem xét. Về mặt thể chế, hầu hết các quốc gia sẽ tìm thấy rằng chương trình QLTHVB của họ có thể được quản lý bằng cơ chế quản lý hiện hành, với ít sự thay đổi nhất trong các sắp xếp về thể chế. Ưu tiên về chính trị của một số quốc gia trong việc thành lập một cơ quan mới cho các chương trình QLTHVB thường khó thực hiện được, do vậy cơ quan QLTHVB có lẽ nên đặt trong một cơ quan có quyền lực pháp lý phù hợp nhất như là Cơ quan quản lý tài nguyên, môi trường hoặc là cơ quan mà có quyền lực đối với nhiều cơ quan khác, nếu như nó có chức năng điều phối mạnh.

Vì QLTHVB đòi hỏi sự tổng hợp hoạt động của nhiều ngành liên quan vào chung một chương trình, và điều này có thể xảy ra nếu có một sự điều phối đa ngành mạnh, cho nên sẽ rất cần thiết, nếu như không phải là bắt buộc, thiết lập một Ủy ban điều phối đa ngành, tham gia xây dựng kế hoạch chiến lược. Ủy ban này sau đó cũng tham gia trong việc hình thành kế hoạch tổng thể với nhiệm vụ kiểm tra tiến độ, xem xét các thay đổi của chương trình, thảo luận các quy định đề xuất và cung cấp các thông tin, tư vấn kỹ thuật. Sau này, khi triển khai chương trình, Ủy ban này sẽ xem xét các đề cương cụ thể về phát triển và quản lý tài nguyên.

Cơ quan QLTHVB cũng cần phải xây dựng nhiệm vụ, đội ngũ, có nguồn tài chính và ít nhất phải hoàn thành 3 nhiệm vụ sau:

• Điều phối liên ngành về phát triển vùng bờ và các vấn đề bảo tồn nguồn lợi;

• Đánh giá môi trường và cấp phép cho các hoạt động chính trong phát triển vùng ven bờ;

• Đạt được sự tuân thủ của các ngành với các điều lệ và quyết định của QLTHVB.

Có thể có thêm một số nhiệm vụ khác như là xây dựng các dịch vụ về QLTHVB. Sẽ rất hữu ích nếu trao cho một Bộ cụ thể triển khai giai đoạn lập kế hoạch và chiến lược và Bộ khác thực hiện kế hoạch, bao gồm cả xây dựng và quản lý chương trình.

Page 12: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

12

Câu hỏi ôn tập chương 1 1. Vì sao cần có một chương trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ? 2. Khái niệm vùng ven bờ. 3. Đặc tính của vùng ven bờ. 4. Các yếu tố sinh thái của vùng ven bờ. 5. Khái niệm về quản lý tổng hợp vùng ven bờ. 6. Chức năng của quản lý tổng hợp vùng ven bờ. 7. Các mục tiêu của quản lý tổng hợp vùng ven bờ. 8. Các nhân tố thiết yếu của việc tổng hợp vùng ven bờ.

Page 13: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

13

Chương 2.

CÁC HỆ SINH THÁI VÙNG VEN BỜ I. Hệ sinh thái cửa sông 1. Các kiểu cửa sông

Cửa sông (estuary) là thuỷ vực ven bờ tương đối kín, nơi mà nước ngọt và nước biển gặp nhau và trộn lẫn vào nhau. Các đặc trưng về địa mạo, lịch sử địa chất và điều kiện khí hậu tạo nên sự khác biệt về tính chất vật lý và hoá học của các kiểu cửa sông. Kiểu tiêu biểu nhất là cửa sông châu thổ ven bờ (coastal plain estuary). Các cửa sông thuộc kiểu này được hình thành vào cuối kỷ băng hà muộn, khi nước biển dâng lên ngập các châu thổ sông ven bờ biển. Kiểu cửa sông thứ hai là vịnh nửa kín (semi-enclose bay) hoặc đầm phá (lagoon). Ở đây các doi cát song song với đường bờ hình thành và ngăn cản một phần sự trao đổi nước từ biển. Độ muối trong các đầm khác nhau nhiều, phụ thuộc vào điều kiện khí hậu. Kiểu cửa sông cuối cùng là vịnh hẹp. Các thung lũng này bị trũng bởi hoạt động băng hà và sau đó bị ngập bởi nước biển. Chúng đặc trưng bởi cửa nông làm hạn chế trao đổi nước trong vịnh với biển.

Các kiểu cửa sông còn được phân chia bằng cơ sở khác dựa trên xu thế biến thiên của độ muối.

Nước ngọt có tỷ trọng nhỏ hơn nước biển, khi gặp nhau nước ngọt sẽ nổi trên nước biển. Chúng sẽ trộn lẫn khi tiếp xúc, quá trình này khác nhau do nhiều yếu tố. Khi cột nước thẳng đứng có độ muối cao nhất ở đáy và thấp nhất ở tầng mặt, ngưới ta gọi là kiểu cửa sông dương (positive estuary). Ở vùng khô hạn, lượng nước ngọt từ sông nhỏ và tốc độ bay hơi cao, hình thành kiểu cửa sông âm (negative estuary). Đặc trưng của nó là nước mặn đi vào bề mặt và đôi khi được pha loãng bởi lượng nước ngọt nhỏ. Kiểu cửa sông mang tính chất mùa (seasonal estuary) hình thành ở vùng có mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Độ muối ở đây thay đổi theo thời gian chứ không phải thay đổi theo không gian.

2. Các đặc trưng môi trường

Chế độ thuỷ lý hoá ở vùng cửa sông thay đổi trong giới hạn lớn làm cho môi trường gây ra nhiều áp lực đối với sinh vật.

Sự thay đổi chế độ muối là đặc trưng cơ bản ở cửa sông và phụ thuộc vào mùa, địa hình, thuỷ triều và lượng nước ngọt.

Hầu hết các vùng cửa sông đều có nền đáy bùn. Trầm tích được mang đến từ nước ngọt và nước biển. Vai trò của vật chất từ sông hoặc từ biển trong quá trình hình thành nền đáy bùn khác nhau giữa các cửa sông. Thành phần cơ học của trầm tích cũng bị chi phối bởi dòng chảy, nơi dòng chảy mạnh, chất đáy thô hơn; còn nơi nước tĩnh, chất đáy rất mịn. Các tai biến như lũ lội, bão lớn có thể làm thay đổi lớn đặc điểm trầm tích và gây chết hàng loạt sinh vật.

Nhiệt độ ở vùng cửa sông thay đổi lớn hơn so với các thuỷ vực ven bờ lân cận. Biến thiên của giá trị này mang tính mùa vụ và theo điều kiện khí quyển. Nhiệt độ còn khác nhau giữa các tầng nước. Bề mặt có dao động cao hơn do trao đổi với khí quyển.

Cửa sông được đất liền che chắn 3 phía, nên ảnh hưởng tạo sóng của gió được giảm thiểu và vì vậy chỉ có sóng nhỏ. Hoạt động yếu của sóng tạo điều kiện cho nền đáy mịn hơn, cho phép thực vật có rễ phát triển và nền đáy ổn định. Dòng chảy ở cửa sông do triều và nước sông chi phối. Tốc độ dòng chảy mạnh nhất đạt được ở giữa luồng. Ở một số vùng nơi cửa sông bị đóng vào mùa khô, sự vận chuyển nước giảm nghiêm trọng có thể dẫn đến ứ đọng nước, hàm lượng O2 giảm, tảo nở hoa và cá chết. Hầu hết các cửa sông đều có lượng nước ngọt chảy ra liên tục từ nguồn. Một lượng nước ngọt vận chuyển ra cửa sông trộn lẫn vào nước biển theo mức độ khác nhau, thể tích của lượng nước này được tải ra khỏi cửa sông hoặc bay hơi để bù cho thể tích nước tương tự chảy ra từ nguồn. Thời gian cần thiết để đo khối nước ngọt đã cho được tải ra khỏi cửa sông được gọi là thời gian chảy. Khoảng thời gian này

Page 14: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

14

có thể định lượng được tính ổn định của hệ cửa sông. Thời gian chảy kéo dài rất quan trọng cho sự duy trì quần xã sinh vật nổi.

Do có số lượng lớn vật lơ lững trong nước vùng cửa sông, ít nhất là vào một thời kỳ nào đó trong năm, độ đục của thuỷ vực thường rất cao. Độ đục có giá trị cao nhất khi lượng nước ngọt chảy ra nhiều nhất và giảm dần khi ra phía cửa, nơi lượng nước biển ưu thế. Ảnh hưởng sinh thái chính của độ đục là làm giảm đáng kể độ chiếu sáng, vì thế giảm quang hợp của thực vật phù du và thực vật đáy làm giảm năng suất sinh học. Trong điều kiện độ đục quá cao, sinh khối thực vật phù du gần như không có và khối lượng vật chất hữu cơ được tạo thành chủ yếu bởi thực vật bãi lầy nổi.

Sự hoà tan oxy trong nước giảm theo quá trình tăng nhiệt độ và độ muối. Vì vậy lượng oxy thay đổi khi các thông số này biến thiên. Ở các cửa sông có độ sâu lớn, thường xuất hiện lớp đẳng nhiệt vào mùa hè và tồn tại sự phân tầng độ muối. Trong điều kiện đó, trao đổi khí giữa lớp mặt giàu oxy và tầng đáy sâu diễn ra rất kém. Hiện tượng này cùng với hoạt động sinh học tích cực, sự trao đổi nước chậm gây ra sự thiếu oxy ở tầng đáy.

3. Quần xã sinh vật

Động vật biển là nhóm lớn nhất ở vùng cửa sông khi xét về phương diện số lượng loài và được xếp vào hai phân nhóm. Các động vật hẹp muối (stenohaline) không thể chịu được sự biến thiên độ muối và chỉ sống được ở vùng cửa sông với độ muối lớn hơn 250/00. Đây thực sự là những động vật sống ở biển. Phân nhóm rộng muối (euryhaline) có thể thích nghi được với độ muối 15 - 180/00, thậm chí một số loài chịu được muối nhạt đến 50/00.

Các loài nước lợ hay còn gọi là các loài cửa sông điển hình, có chu kỳ sống hoàn toàn ở vùng cửa sông, sống chủ yếu ở vùng có độ muối trong khoảng từ 5-180/00 nhưng không xuất hiện trong nước ngọt hay nước biển thực sự. Một số giống loài nước lợ có thể hạn chế phân bố về phía biển không phải vì yếu tố sinh lý mà do các mối quan hệ sinh học như cạnh tranh hoặc vật dữ.

Nhóm động vật nước ngọt không thể chịu được độ muối trên 50/00 và chỉ sống ở phần trên cửa sông. Ngoài ra, vùng cửa sông còn có nhóm sinh vật quá độ gồm những loài như cá di cư. Chúng có thể đi qua cửa sông trên đường đến bãi đẻ ngoài biển hoặc trong sông. Ví dụ thông thường là cá hồi hoặc cá chình. Một số sinh vật chỉ trải qua một phần cuộc đời trong cửa sông, thường gặp là giai đoạn ấu trùng.

Số lượng loài động vật cửa sông thường nghèo hơn các quần cư biển hoặc các vùng nước ngọt lân cận. Đây là vùng khắc nghiệt mà nhiều sinh vật biển hoặc nước ngọt không thể chịu đựng được. Các sinh vật cửa sông thực sự chủ yếu có nguồn gốc biển. Sinh vật biển chịu sự giảm độ muối tốt hơn sinh vật nước ngọt chịu đựng độ muối tăng, vì vậy sinh vật cửa sông có ưu thế bởi động vật biển.

Tính đa dạng kém của thành phần loài ở cửa sông được giải thích bởi vài lý do. Ý kiến phổ biến nhất cho rằng điều kiện môi trường biến động chỉ cho phép những loài với sự chuyên hoá chức năng sinh lý đặc biệt để thích nghi. Cách giải thích thứ hai đề cập đến thời gian địa chất của quá trình hình thành các cửa sông. Sự tồn tại của chúng không đủ dài để khu hệ cửa sông phát triển đầy đủ. Lý do cuối cùng có thể là do hình thái vùng cửa sông kém đa dạng nên có ít nơi sống và có ít loài động vật.

Thành phần loài thực vật lớn ở cửa sông kém phong phú. Hầu hết các vùng ngập nước thường xuyên đều có đáy mùn không phù hợp để rong bám. Hơn nữa, nước đục hạn chế độ chiếu sáng, vì vậy vùng nước sâu hầu như không có thực vật. Vùng triều và vùng nước nông cho phép phân bố một số loài rong lục, cỏ biển và đặc biệt là thực vật ngập mặn ở vùng nhiệt đới.

Tảo Silic khá phổ phong phú trên các bãi triều gần bùn vùng cửa sông. Chúng có thể di động lên bề mặt hoặc vào trong bùn phụ thuộc vào độ chiếu sáng. Bùn cửa sông cũng là nơi

Page 15: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

15

sống thích hợp của tảo lam sợi. Vi khuẩn là thành phần phong phú cả trong nước và trong bùn, nơi giàu có vật chất hữu cơ.

Sinh vật phù du ở vùng cửa sông khá nghèo về thành phần loài. Tảo Silic thường chiếm ưu thế trong mùa nóng và thậm chí quanh năm ở một số khu vực. Động vật phù du cũng nghèo về thành phần cũng như biến động lớn theo mùa. Các loài cửa sông thực sự chỉ tồn tại ở các cửa sông lớn và ổn định. Ở các cửa sông nông, thành phần động vật phù du biển điển hình chiếm ưu thế.

4. Các quá trình sinh thái

Năng suất sinh học sơ cấp ở vùng cửa sông chủ yếu do tảo Silic sống đáy. Tuy nhiên, cửa sông lại có một lượng lớn chất hữu cơ và năng suất thứ cấp cao. Nguồn năng suất sơ cấp chủ yếu được cung cấp bởi thảm thực vật vùng triều bao quanh cửa sông. Ngoài ra, cửa sông còn nhận vật chất hữu cơ từ sông và từ biển với lượng đáng kể. Vùng cửa sông có rất ít động vật ăn thực vật và vì vậy, vật chất có nguồn gốc thực vật phải được phân huỷ thành mùn bả để đi vào chuỗi thức ăn. Quá trình này có sự tham gia của vi khuẩn.

Mùn bã hữu cơ lắng đọng hình thành nền đáy giàu vi khuẩn và tảo. Đây là những nguồn thức ăn quan trọng cho các động vật ăn mùn bã và chất lơ lững. Về phương diện nguồn thức ăn, khái niệm mùn bã được hiểu với nghĩa rộng bao gồm các mãnh hữu cơ, vi khuẩn, tảo và thậm chí cả động vật đơn bào. Lương vật chất hữu cơ rất giàu ở cửa sông, có thể đạt giá trị 110 mg/l cao hơn nhiều so với vùng biển ngoài 1-3 mg/l.

Năng suất sơ cấp của cột nước thấp, nghèo động vật ăn thực vật và sự phong phú của mùn bã cho thấy mùn bã là cơ sở của chuỗi thức ăn cửa sông. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là tất cả động vật ăn mùn bã có thể tiêu hoá các mãnh hữu cơ. Hầu như chúng chỉ tiêu hoá vi khuẩn và các vi sinh vật khác sống trên các mãnh hữu cơ và bài tiết nguyên vẹn các mảnh này.

Nhìn chung, nhờ giàu dinh dưỡng và tương đối ít các vật dữ, cửa sông trở thành nơi nuôi dưỡng ấu trùng của nhiều loài động vật mà khi trưởng thành chúng sống ở vùng khác. Đây cũng là bãi kiếm ăn của nhiều loài động vật di cư. Bên cạnh đó, nhờ sự bảo vệ tự nhiên của đầm phá và vùng cửa sông mà nó có giá trị lớn cho sự phát triển cảng và cảng biển, tiếp đến là các khu công nghiệp và dân cư lân cận. Cửa sông cũng được xem như là môi trường tiếp nhận các loại rác thải công nghiệp và sinh hoạt dân cư. Hoạt động đánh bắt thủy sản thường dựa trên hệ sinh thái cửa sông đầm phá. Cuối cùng thì cửa sông, đầm phá còn được sử dụng cho mục đích nghỉ ngơi, du lịch giải trí.

II. Hệ sinh thái vùng triều Vùng triều là vùng không ngập nước một khoảng thời gian trong ngày với các yếu tố tự

nhiên thay đổi do nước và không khí chi phối. Quần xã sinh vật thích nghi môi trường này và sự liên kết giữa sinh vật và môi trường tạo nên hệ sinh thái vùng triều.

1. Môi trường vùng triều

Thuỷ triều là yếu tố quan trọng nhất tác động lên mọi sinh vật vùng triều. Thiếu sự hoạt động của thuỷ triều với sự lên xuống theo chu kỳ của mực nước biển hệ sinh thái này sẽ không tồn tại và các yếu tố khác hết bị chi phối. Có ba chế độ thuỷ triều khác nhau gồm nhật triều, bán nhật triều và hỗn hợp triều. Độ cao thuỷ triều khác nhau từ ngày này sang ngày khác do so sánh giữa vị trí mặt trời và mặt trăng.

Thuỷ triều cùng với thời gian có thể ảnh hưởng trực tiếp lên sự tồn tại và cấu trúc quần xã sinh vật vùng triều. Ảnh hưởng đầu tiên là thời gian vùng triều phơi ra không khí và thời gian ngập nước. Trong thời gian phơi bãi, sinh vật phải chịu đựng sự dao động nhiệt lớn và dễ bị mất nước. Do hầu hết sinh vật vùng triều phải chờ ngập nước mới bắt mồi, thời gian phơi bãi càng dài cơ hội kiếm ăn và tích luỹ năng lượng càng ngắn. Động thực vật khác nhau về khả năng chống chịu với thời gian phơi bãi và sự chuyên hóa này là một trong những lý do tạo

Page 16: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

16

nên sự phân vùng phân bố. Ảnh hưởng thứ hai lên đời sống sinh vật là thời gian phơi bãi vào ban ngày. Triều thấp vùng nhiệt đới diễn ra lúc trời tối thuận lợi hơn đối với sinh vật do nhiệt độ thấp hơn và ít mất nước hơn. Thuỷ triều là chu kỳ có thể dự báo trước và hình thành nhịp điệu của nhiều loài sinh vật. Nhịp điệu này liên quan đến các quá trình sinh sản, dinh dưỡng,...

Nhờ đặc trưng vật lý, môi trường nước, nhất là các thuỷ vực lớn như đại dương có biến thiên nhiệt độ không lớn. Giới hạn nhiệt độ ở biển hiếm quá ngưỡng gây chết đối với sinh vật. Tuy nhiên, vùng triều thường phải chịu chế độ nhiệt của không khí. Trong thời gian khác nhau, nhiệt độ có thể vượt quá ngưỡng gây chết hoặc có ảnh hưởng gián tiếp làm cho sinh vật suy yếu và không thể duy trì hoạt động bình thường.

Sóng biển ảnh hưởng đến các cá thể và quần thể sinh vật ở vùng triều nhiều hơn các thuỷ vực khác. Tác động đầu tiên với sinh vật là đập vỡ hoặc xé nát vật thể. Sự chịu sóng là giới hạn phân bố của các sinh vật không thích nghi sóng và là nhu cầu đối với các sinh vật ưa sóng. Sóng còn có tác động mở rộng vùng triều nhờ đẩy nước lên cao so với độ cao của triều. Nhờ vậy, nhiều sinh vật có thể sống cao hơn ở vùng có sóng so với vùng che chắn trong cùng một mức triều.

Độ muối ở vùng cũng thay đổi lớn. Khi triều thấp, mưa lớn hoặc dòng nước từ đất liền làm giảm độ muối, có thể làm chết sinh vật do khả năng chống chịu hạn chế của chúng.

2. Thích nghi của sinh vật vùng triều

Các sinh vật vùng triều chủ yếu có nguồn gốc biển. Sự thích nghi cơ bản là tránh sức ép của điều kiện khí quyển.

Sự mất nước là quá trình diễn ra ngay sau khi sinh vật biển ra khỏi môi trường nước. Sinh vật vùng triều sống sót được khi phơi bãi khi sự mất nước ở mức tối thiểu hoặc cấu tạo cơ thể thích nghi với sự mất nước trong một thời gian nhất định. Cơ chế đơn giản nhất là trốn chạy trong các hang hốc, rãnh hoặc tìm nơi trú ẩn ở vùng ẩm ướt phủ rong tảo. Rong biển chịu đựng sự mất nước nhờ cấu tạo mô. Sau khi bị khô do triều rút, chúng nhanh chóng lấy nước và phục hồi hoạt động bình thường lúc triều lên. Nhiều động vật vùng triều có cơ chế thích nghi khác thông qua cấu trúc, tập tính hoặc cả hai.

Để thích nghi với nhiệt độ dao động lớn, sinh vật vùng triều phải duy trì cân bằng nhiệt trong cơ thể. Sinh vật tránh nhiệt độ cao bằng cách giảm sự tăng nhiệt từ môi trường nhờ kích thước cơ thể lớn hơn. Kích thước lớn có nghĩa là vùng bề mặt tiếp xúc trên thể tích nhỏ hơn và vùng thoát nhiệt nhỏ hơn.

Nhằm chống lại tác động cơ học của sóng, nhiều sinh vật sống cố định vào nền đáy như hà, hầu,... Một số sinh vật khác có cơ quan bám tạm thời nhưng vững chắc và vận động hạn chế như ví dụ về tơ bám của vẹm. Vỏ dày hoặc thấp và dẹt cũng là một cách chống sóng.

Hầu hết sinh vật vùng triều có cơ quan hô hấp thích nghi với hấp thụ O2 từ nước. Chúng có xu thế dấu bề mặt hô hấp trong khoang kín để chống khô. Một số động vật thân mềm có mang trong màng áo và được vỏ bảo vệ. Các thân mềm ở triều cao giảm mang và hình thành khoang áo với nhiều mao mạch có chức năng như phổi để hấp thu khí. Để bảo toàn O2 và nước, hầu hết động vật nằm yên lặng khi triều rút. Cá vùng triều đặc trưng bởi hô hấp qua da do tiêu giảm mang và nảy nở nhiều mạch máu trên da.

Động vật vùng triều trên nền đáy cứng chỉ kiếm ăn khi ngập triều. Điều này đúng với tất cả các nhóm ăn thực vật, ăn lọc, ăn mùn bã và ăn thịt. Sinh vật sống trên nền đáy mềm có thể kiếm ăn khi triều thấp nhờ trong đáy có nước.

Sự thay đổi độ muối lớn là một sức ép cho sinh vật vùng triều bởi lẽ hầu hết sinh vật vùng triều không có khả năng thích nghi tốt như sinh vật cửa sông. Chúng không có cơ chế kiểm soát hàm lượng muối trong dịch cơ thể. Do vậy chúng là sinh vật có khả năng thẩm thấu. Chính vì vậy, mưa lớn có thể gây ra những tai biến lớn.

Page 17: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

17

Do rất nhiều sinh vật vùng triều sống định cư hoặc sống bám, trứng đã thụ tinh và ấu trùng của chúng phải trôi nổi tự do như sinh vật nổi để phát tán. Do vậy, chu trình sinh sản của hầu hết các sinh vật này phải đồng bộ với chu kỳ triều nào đó để bảo đảm hiệu suất thụ tinh. Ví dụ ở vẹm Mytilus edilis thành thục sinh dục trong thời kỳ triều cường và đẻ trứng vào thời kỳ triều kiệt sau đó.

3. Đặc trưng của các loại bãi triều

Bãi triều đá: So với các loại bãi triều, bờ triều đá, đặc biệt ở vùng ôn đới có nhiều sinh vật có kích thước lớn cư trú và đạt tính đa dạng về thành phần loài động thực vật cao nhất. Đặc trưng nổi bật ở tất cả bãi triều đá là sự phân vùng của sinh vật tức hình thành các dãi theo chiều ngang rõ rệt.

Bãi triều cát: yếu tố môi trường quan trọng nhất chi phối đời sống sinh vật ở các bãi triều cát là không được che chắn sóng biển và mối liên quan của nó đến độ hạt và độ dốc của bãi. Sóng gây ra sự di chuyển của bãi, làm nền đáy không ổn định. Sinh vật có hai con đường để thích nghi, chúng có thể vùi vào cát ở độ sâu lớn hơn nơi mà trầm tích không còn bị sóng xô đẩy. Khả năng này được quan sát thấy ở các loài sò. Cách thích nghi thứ hai là tốc độ vùi nhanh của một số động vật thuộc nhóm giun, giáp xác.

Bãi triều bùn: sự phân biệt giữa bãi triều cát và bãi triều bùn là không rõ ràng. Vùng triều càng được che chắn càng có trầm tích mịn hơn và tích luỹ nhiều chất hữu cơ hơn. Đáy bùn cũng là đặc trưng của hệ sinh thái cửa sông và quần xã sinh vật của hai hệ có những nét tương đồng. Bãi triều bùn chỉ xuất hiện ở vùng được che chắn, không bị sóng vỗ như trong các vịnh kín, đầm và đặc biệt là cửa sông. Bãi triều bùn tích luỹ nhiều chất hữu cơ, tạo nên tiềm năng thức ăn lớn cho sinh vật. Sinh vật sống ở bãi triều bùn chủ yếu thuộc nhóm sống trong đáy với các ống, hang thông lên bề mặt. Kiểu dinh dưỡng ưu thế trong môi trường này là ăn chất lắng đọng và chất lơ lững.

4. Vai trò của hệ sinh thái vùng triều

Hệ sinh thái vùng triều có vai trò rất quan trọng trong hệ sinh thái nước mặn, bao gồm các chức năng sau:

• Là nơi cư trú, sinh sống của các loài sinh vật biển, như các loài hai mảnh vỏ, các loài rong tảo,...

• Là nơi cung cấp nguồn lợi kinh tế và cũng là nơi diễn ra sự trao đổi vật chất, năng lượng, tạo nên nguồn sinh khối lớn trong hệ sinh thái;

• Là nơi cung cấp năng suất sơ cấp cho vùng cửa sông, chủ yếu là thảm thực vật bao quanh cửa sông, làm tăng sự đa dạng vùng cửa sông;

• Hệ sinh thái vùng triều góp phần vào việc điều hòa khí hậu nhờ vào sự hình thành các thảm thực vật, ngoài ra thảm thực vật còn góp phân hình thành nên hệ sinh thái rừng ngập mặn;

• Chức năng quan trọng của hệ sinh thái vùng triều đóng vai trò quan trọng trong chu trình dinh dưỡng cũng như góp phần hình thành các khu du lịch, khu vui chơi giải trí cho con người.

Hệ sinh thái vùng triều có vai trò quan trọng, to lớn trong việc duy trì và bảo vệ tính đa dạng sinh học. Có thể nói rằng, vùng triều là nguồn gốc, là nền tảng cho việc hình thành và phát triển các hệ sinh thái vùng ven bờ. Do vậy, cần phải có chính sách hợp lý trong việc quản lý cũng như khai thác tài nguyên vùng triều, từ đó có sự khai thác đúng mức nguồn lực to lớn này góp phần thúc đẩy nền kinh tế vùng biển một cách bền vững.

Page 18: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

18

III. Hệ sinh thái rừng ngập mặn 1. Phân bố và đặc trưng môi trường

Rừng ngập mặn (mangroves) là thuật ngữ mô tả một hệ sinh thái thuộc vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới hình thành trên nền các thực vật vùng triều với tổ hợp động, thực vật đặc trưng. Trong hệ sinh thái này, các động, thực vật, vi sinh vật trong đất và môi trường tự nhiên được liên kết với nhau thông qua thông qua quá trình trao đổi và đồng hoá năng lượng. Các quá trình nội tại như cố định năng lượng, tích luỹ sinh khối, phân huỷ vật chất hữu cơ và chu trình dinh dưỡng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhân tố bên ngoài gồm cung cấp nước, thuỷ triều, nhiệt độ và lượng mưa.

Theo lịch sử tiến hoá, thực vật ngập mặn có lẽ đã hình thành từ các thực vật sống trên cạn dần dần thích nghi với điều kiện ngập mặn qua các đợt biển tiến và biển lùi. Tổng diện tích rừng ngập mặn trên thế giới lên đến trên 16 triệu ha trong đó có hơn 6 triệu ha thuộc Châu Á nhiệt đới và khoảng 3,5 triệu ha thuộc châu Phi.

Đất ngập nước rất quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của hệ sinh thái. Thành phần cơ học trầm tích cũng ảnh hưởng trực tiếp lên thành phần loài và tăng trưởng của cây ngập mặn. Các hợp phần sét, bùn, cát cùng với kích thước hạt điều khiển tính thấm nước của đất, chi phối độ muối và lượng nước trong đất. Để thích nghi, các thực vật ngập mặn có cấu tạo rễ rất đa dạng và đặc biệt nhằm giúp chúng bám chặt vào nền đáy. Cấu trúc của rễ còn có tác dụng tăng cường trao đổi khí và thúc đẩy quá trình lắng đọng phù sa.

Nguồn nước cung cấp cho động, thực vật rừng ngập mặn phụ thuộc vào tần số và khối lượng của các đợt triều cũng như nước ngọt chảy tới và lượng bốc hơi của khí quyển. Cây ngập mặn có khả năng thích nghi với môi trường nước mặn nhờ có cấu tạo nhằm giảm sự thoát hơi nước như lá dày có lông che phủ hoặc lỗ thoát khí nằm ở mặt dưới lá, nhiều mô tích luỹ nước trong cây và nhờ áp suất thẩm thấu của tế bào, cây luôn cao hơn dung dịch nước trong đất (thường cách biệt từ 7-9 atmosphe). Ngoài ra, cây ngập mặn còn có cơ chế loại bỏ lượng muối quá nhiều trong lá sau khi thoát hơi nước. Một số loài có tuyến bài tiết muối trực tiếp qua bề mặt lá. Các loài khác có thể phát triển mô tích nước ở hạ bì để pha loãng nồng độ muối. Tuy nhiên, trong điều kiện thiếu nước ngọt bổ sung thì nồng độ muối trong đất có thể vượt quá sức chịu đựng sinh lí của các loài thực vật. Khi đó, thảm thực vật sẽ trở nên kém phát triển. Sự phát triển tốt nhất của hệ sinh thái rừng ngập mặn đạt được ở những nơi mà vùng triều cao được cung cấp nước ngọt thường xuyên nhờ lượng mưa cao hơn lượng bốc hơi, nhiều nước ngọt thấm từ vùng nội địa hoặc có nguồn nước đầu nguồn phong phú. Rừng ngập mặn phát triển tốt nhất ở những vùng có nồng độ muối thích hợp nhất nằm trong khoảng 15-250/00, tuy nhiên, khoảng thích nghi cũng khác nhau lớn giữa các loài.

Cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây rất quan trọng trong việc duy trì hệ sinh thái rừng ngập mặn. Nguồn khoáng vô cơ từ bên ngoài được đưa vào hệ bằng quá trình trao đổi nước từ sông và biển hoặc nhờ gió cuốn bờ biển. Sự phân huỷ chất hữu cơ do vi sinh vật kết hợp với hoạt động của những động vật lớn hơn (đặc biệt là cua) tạo ra chất dinh dưỡng dưới dạng dung dịch vô cơ. Sự chế biến chất dinh dưỡng nội tại này làm cho chất dinh dưỡng được bảo tồn trong hệ.

2. Cấu trúc và chức năng

Thành phần cây ngập mặn được phân chia làm hai nhóm gồm cây ngập mặn chủ yếu (true mangroves) và cây tham gia rừng ngập mặn (associate mangroves). Hệ thực vật trong rừng ngập mặn ở Đông Nam Á đa dạng nhất thế giới với 46 loài chủ yếu thuộc 17 họ và 158 loài tham gia rừng ngập mặn thuộc 55 họ. Ở Việt Nam đã ghi nhận 35 loài chủ yếu và 40 loài tham gia rừng ngập mặn. Ngoài thành phần chủ đạo là cây ngập mặn, tổ hợp động thực vật trong hệ rất đa dạng. Một số sinh vật sống trong rừng ngập mặn chỉ một giai đoạn trong vòng đời hoặc dùng rừng ngập mặn như một quần cư tạm thời. Thành phần sinh vật sống thường xuyên trong hệ và có vai trò sinh thái quan trọng gồm vi khuẩn, nấm, tảo, đài tiên, dương xỉ,

Page 19: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

19

địa y, cây một và hai lá mầm, động vật nguyên sinh, ruột khoang, sứa lược, giun, giáp xác, côn trùng, thân mềm, da gai, hải quì, cá, bò sát, lưỡng thê, chim và thú.

Chức năng của hệ sinh thái rừng ngập mặn liên quan đến dòng năng lượng và chu trình vật chất có thể tóm tắt như sau:

• Lá của cây ngập mặn sử dụng năng lượng mặt trời để chuyển hoá khí CO2 thành các hợp phần hữu cơ nhờ quang hợp. Các chất này cùng chất dinh dưỡng từ đất cung cấp vật liệu thô cho cây sinh trưởng. Lá rụng và thối rữa phóng thích carbon và dinh dưỡng cho các sinh vật trong hệ sử dụng. Mùn bã từ lá được phân huỷ bởi nấm và vi khuẩn hoặc trở thành thức ăn cho cua nhỏ. Động vật thân mềm cua, tôm, cá ăn vật chất hữu cơ được phân huỷ và đến lượt chúng là thức ăn cho các động vật lớn hơn. Chất dinh duỡng phóng thích vào nước cũng là nguồn vật chất nuôi sống cây ngập mặn, sinh vật nổi và rong. Mùn bã hữu cơ còn đóng góp để nâng cao năng suất sinh học vùng ven bờ và biển khơi.

• Rừng ngập mặn là ngôi nhà của vô số sinh vật trên cạn và dười nước. Cá sấu và rắn biển vào rừng ngập mặn để kiếm ăn. Hầu hết các loài cá đều trải qua một phần trong vòng đời của mình ở rừng ngập mặn. Các loài giáp xác (hà, tôm, cua) thực sự phong phú. Nhiều loài thân mềm thường được gặp ở gốc của cây ngập mặn. Nhiều loài chim đến rừng ngập mặn theo mùa để kiềm ăn hoặc trú ẩn và có thể hình thành những đàn lớn. Hàng loạt tôm cá trải qua giai đoạn ấu trùng trong rừng ngập mặn và ra khơi khi trưởng thành. Một số động vật như cua lại sống chủ yếu ở rừng ngập mặn và chỉ đi ra biển khi sinh sản.

3. Tầm quan trọng

Công dụng của các loài thực vật rất đa dạng. Tỷ lệ các loài được sử dụng so với tổng số loài rất lớn. Đã từ lâu các loài thực vật này đã cung cấp những nhu cầu cấp thiết hàng ngày như gỗ xây dựng, lá lợp nhà, thực phẩm, chất đốt, thức ăn gia súc,... Ở Việt Nam, trong số 51 loài thực vật đã được thống kê chỉ một số loài ít giá trị, còn thì có thể xếp vào các nhóm chủ yếu sau:

• 30 loài cây cho gỗ, than, củi

• 14 loài cây cho tamin

• 24 loài cây làm phân xanh

• 21 loài cây dùng làm thuốc

• 9 loài cây chủ thả cánh kiến đỏ

• 21 loài cây cho mật nuôi ong

• 1 loài cho nhựa để sản xuất nước giải khát, đường, cồn

Ngoài ra còn có một số loài cây sử dụng cho công nghiệp như lie làm nút chai, cốt mũ, cho sợi. Cũng còn một số công dụng chưa được chú ý như làm giấy, ván ép,... Lợi ích của rừng ngập mặn mang lại không chỉ là những sản phẩm trực tiếp có thể khai thác được mà còn bao gồm nhiều tác dụng gián tiếp.

Một khi rừng ngập mặn hình thành, mùn bã do lá và các bộ phận khác của cây rụng xuống được vi sinh vật phân huỷ là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều động vật ở nước. Mặt khác, rừng với hệ thống rễ chằng chịt đã giữ phù sa, tạo ra môi trường sống thích hợp cho nhiều loài động vật đáy.

Rừng ngập mặn đóng vai trò quan trọng trong chu trình dinh dưỡng, là nguồn cung cấp chất hữu cơ để tăng năng suất vùng ven biển, là nơi sinh đẻ, nuôi dưỡng hoặc nơi sống lâu dài cho nhiều loài hải sản có giá trị như tôm, cá, cua, sò,...

Page 20: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

20

Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy rằng việc đánh bắt thuỷ sản cho năng suất cao chủ yếu ở các vùng nước sông, ven bờ, cửa sông có rừng ngập mặn. Có thể giải thích: vùng này là nơi tập trung chất dinh dưỡng do sông mang từ nội địa ra và do nước triều mang từ biển vào.

Điều đáng quan tâm là giống tôm, cua, cá trong rừng ngập mặn rất phong phú. So sánh thành phần các loài cá và tôm trong một vùng có rừng ngập mặn vào các mùa vụ trong năm, đều thấy lượng ấu trùng của chúng cao hơn hẳn vùng đất, cát ở ngoài biển và vùng có cỏ biển. Từ đó rút ra nhận xét rừng ngập mặn là nơi nuôi dưỡng chính cho ấu trùng của tôm, cua và một số loài sò, cá khác. Do đó kênh rạch trong rừng ngập mặn là nơi cung cấp nguồn giống chủ yếu cho nghề nuôi hải sản.

Rừng ngập mặn có tác động đến điều hoà khí hậu trong vùng Blasco (1975) nghiên cứu khí hậu và vi khí hậu rừng, đã có nhận xét: các quần xã rừng ngập mặn là một tác nhân làm cho khí hậu dịu mát hơn, giảm nhiệt độ tối đa và biên độ nhiệt. Trên thế giới có rất nhiều ví dụ điển hình về việc mất rừng ngập mặn kéo theo sự thay đổi vi khí hậu của khu vực. Sau khi thảm thực vật không còn thì cường độ bốc hơi nước tăng làm cho độ mặn của nước và đất tăng theo. Có nơi, sau khi rừng ngập mặn bị phá huỷ, tốc độ gió của khu vực tăng lên đột ngột, gây ra hiện tượng sa mạc hoá do hiện tượng cát di chuyển vùi lấp kênh rạch và đồng ruộng. Tốc độ gió tăng lên gây ra sóng lớn làm vỡ đê đập, xói lở bờ biển. Mất rừng ngập mặn sẽ ảnh hưởng đến lượng mưa của tiểu khu vực.

Sự phát triển của rừng ngập mặn và mở rộng diện tích đất bồi là hai quá trình luôn luôn đi kèm nhau, trừ một số trường hợp đặc biệt. Nhìn chung, những bãi bồi có điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu phù hợp, có nguồn giống và được bảo vệ đều có cây rừng ngập mặn. Các dải rừng ngập mặn đều có thể thấy trên đất bùn mềm, đất sét pha cát, cát và ngay cả trên các vỉa san hô. Ở những vùng đất mới bồi có độ mặn cao thường phân bố các thực vật tiên phong thuộc chi mắm, bần ổi.

4. Hiện trạng rừng ngập mặn

Trên thế giới có khoảng 16.670.000 ha rừng ngập mặn với hơn 100 loài cây, trong đó ở Châu Á nhiệt đới và Châu Úc là 8.487.000 ha và Châu Phi nhiệt đới là 3.402.000 ha. Hai nước có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất là Indonesia và Brazil. ở các nước Đông Nam Á như Malaysia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam,... rừng ngập mặn cũng phát triển vì nơi đây có nhiều điều kiện thuận lợi như nhiệt độ cao, ít biến động, lượng mưa dồi dào, bãi lầy rộng, giàu chất bùn và phù sa.

Hiện nay, do dân số gia tăng quá nhanh, nhất là ở các nước kém phát triển, rừng ngập mặn bị khai thác quá mức để dùng trong sinh hoạt hay trong các mục đích kinh tế khác, do vậy mà diện tích rừng ngập mặn trên thế giới bị thu hẹp dần. Rừng ngập mặn tự nhiên chỉ còn lại ở một số quốc gia. Một số nước cũng đã thành lập các vườn Quốc gia, Khu bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, Khu bảo vệ các loài động thực vật, nơi nghiên cứu, học tập, du lịch trong rừng ngập mặn.

Việt Nam với bờ biển dài 3200 km với nhiều cửa sông giàu phù sa, nên rừng ngập mặn sinh trưởng tốt, đặc biệt là ở bán đảo Cà Mau.

Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển vùng ven bờ, diện tích rừng ngập mặn trong cả nước đã bị giảm sút nghiêm trọng, trong đó hoạt động chuyển đổi rừng ngập mặn sang sản xuất nông nghiệp và nuôi tôm ở hầu hết các tỉnh ven biển đã làm rừng ngập mặn ở nước ta bị ảnh hưởng nhiều nhất.

Nếu như năm 1943, rừng ngập mặn của Việt Nam còn che phủ đến 400.000 ha, năm 1982 còn khoảng 252.000 ha thì năm 2002 chỉ còn lại trên 155.000 ha. Bên cạnh nguyên nhân lớn do bị Mỹ rải chất độc hoá học, việc khai hoang để sản xuất nông nghiệp và phá rừng chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản đã đóng góp không nhỏ vào xu hướng suy thoái này.

Page 21: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

21

Hiện nay, diện tích rừng ngập mặn Việt Nam được ước lượng là khoảng trên 250.000 ha, trong đó châu thổ sông Mêkong chiếm tới 191.800 ha.

Trong hơn năm thập kỷ qua, Việt Nam đã mất đi ít nhất 200.000 ha rừng đước. Hơn 80% rừng che phủ đã bị ảnh hưởng. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của tình trạng phá huỷ này là mở rộng các đầm nuôi tôm. Mặc dù việc mở rộng nông nghiệp, làm muối, sử dụng hóa chất trong chiến tranh trước đây là mối đe doạ lớn nhất cho các rừng đước, nhưng trong những thập kỷ qua mối đe doạ lớn nhất chính là nuôi tôm.

Trong vòng 38 năm (1954-1992), vùng ven bờ biển Hải Phòng, Quảng Ninh đã dùng 6.039 ha bãi triều ven biển, chủ yếu là các rừng ngập mặn để trồng lúa. Do thiếu nước nên phần lớn đất bị bỏ hoang, số ít vẫn trồng lúa nhưng năng suất thấp. Vào đầu năm 1960, tỉnh Quảng Ninh chủ trương phá hơn 2.000 ha rừng ngập mặn tự nhiên (Xã Hải Lạng, Tiên Yên) đắp đê sản xuât nông nghiệp nhưng do thiếu nước nên phải bỏ hoang, sau đó chuyển sang nuôi thủy sản nhưng không thành công.

Tỉnh Minh Hải trước đây (nay là Cà Mau và Bạc Liêu) là nơi có diện tích rừng ngập mặn lớn nhất, cũng là một trong những nơi rừng bị tàn phá để nuôi tôm nhiều nhất tại Việt Nam. Trong 2 năm 1980, 1981 diện tích nuôi tôm tại đây chỉ có 4.000 ha, đến năm 1992 đã tăng 20 lần là 80.000 ha. Cho đến năm 1995 thì Minh Hải chỉ còn lại 51.492 ha. Chỉ trong vòng 8 năm, từ 1983 – 1995 Minh Hải đã mất đi 66.253 ha rừng do làm đầm tôm, bình quân mỗi năm mất đi 8.280 ha.

Tại Cà Mau, diện tích nuôi tôm của tỉnh tăng gấp 3 lần trong năm 2003 và nay đã đạt 250.000 ha. Ước tính diện tích rừng đước ở đây đã giảm từ hơn 200.000 ha trước năm 1975 xuống chỉ còn 60 - 70.000 ha, và hầu hết diện tích mất đi là lấy chỗ để nuôi tôm.

Tại các tỉnh vùng cửa sông Cửu Long như Bến Tre, Trà Vinh và Sóc Trăng đã phá hầu hết diện tích rừng ngập mặn ven biển để làm đầm tôm nên diện tích rừng ngập mặn và tỷ lệ che phủ còn lại là rất thấp.

Rất nhiều rừng ngập mặn ở bán đảo Cam Ranh, các huyện Ninh Hòa, Vạn Ninh (Khánh Hòa) nay hầu như không còn do làm đầm ươm và nuôi tôm. Ở Đầm Nại (Ninh Thuận) hơn 200 ha rừng ngập mặn tạo vành đai rộng hàng trăm mét bảo vệ cho đầm khỏi bị xói lở, nay đã bị thay thế bằng đầm tôm bán thâm canh, chỉ còn lại 2 ha. Cồn Chim nằm giữa đầm Thị Nại (Qui Nhơn, Bình Định) trước đây có gần 200 ha rừng ngập mặn là nơi cư ngụ của nhiều loài hải sản và của nhiều loài chim thì nay đã bị triệt phá để nuôi tôm.

Theo Hội Bảo vệ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam (2004), vào thời gian trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, cả nước có 408.500 ha rừng ngập mặn, trong đó có 329.000 ha ở Nam Bộ. Bến Tre có 48.000 ha với độ che phủ là 29,29% nay chỉ còn 2,60%; Sóc Trăng có 41.000 ha, độ che phủ 12,72% nay chỉ còn 2,81%; Cà Mau có 140.000 ha độ che phủ 27% nay chỉ còn 11,21%.

Theo kế hoạch hành động cho hợp phần Rừng ngập mặn trong dự án Biển Đông, mục tiêu đặt ra đến 2010 là đạt diện tích rừng ngập mặn bằng 85% diện tích của năm 1982, đồng thời thay đổi cơ bản nhận thức của các nhà quản lý và dân cư về giá trị của hệ sinh thái rừng ngập mặn và sử dụng bền vững loại tài nguyên này. Để đạt mục tiêu đó, các chuyên gia đã đề xuất thành lập mới các khu bảo tồn và vườn quốc gia, như ở cửa sông Tiên Yên (Quảng Ninh), cửa sông Văn Úc (Hải Phòng), Thái Thuỵ (Thái Bình), Nghĩa Hưng (Nam Định).

IV. Hệ sinh thái thảm cỏ biển 1. Phân bố và cấu trúc

Hệ sinh thái cỏ biển tuy có số lượng loài không nhiều nhưng chúng đóng vai trò quan trọng trong biển và và đại dương. Với các chức năng quan trọng như điều chỉnh môi trường thủy vực, bảo tồn nguồn gen, cung cấp nơi ở cho các loài, cung cấp nguyên nhiên vật liệu, năng lượng và thông tin nghiên cứu khoa học, du lịch.

Page 22: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

22

Cỏ biển (seagrass) là một nhóm thực vật có hoa sống ở dưới nước ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Chúng phát triển mạnh ở vùng nước nông có khả năng thích nghi với môi trường nước mặn, chịu được sóng gió và có khả năng thụ phấn nhờ nước. Các thảm cỏ biển bao phủ một số vùng rộng lớn ở dải ven bờ với nhiều chức năng lý-sinh học và tạo nên một hệ sinh thái đặc thù.

Hầu hết các thảm cỏ biển xuất hiện ở các vùng nước trũng đến độ sâu 30 m. Cỏ biển là một đặc trưng của các hệ sinh thái vùng nhiệt đới, có năng suất ngang với các rạn san hô.

Các thảm cỏ biển tập trung ở Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, vịnh Caribbe và vùng bờ Thái Bình Dương thuộc Trung Mỹ. Vùng Đông Á có khu hệ cỏ biển đa dạng nhất thế giới và có thể đây là trung tâm phát tán của cỏ biển. Chính vì vậy, chúng rất phong phú ở dải ven biển thuộc vùng này.

Sự tồn tại và phát triển của các loài cỏ biển phụ thuộc chặt chẽ vào các nhân tố môi trường mà quan trọng nhất là độ muối, nhiệt độ, độ đục, độ sâu và hạt trầm tích. Sự đa dạng của loài cỏ biển chịu ảnh hưởng của các nhân tố tại chỗ. Số loài nhiều nhất được ghi nhận ở vùng có nền đáy bùn cát, được che chắn một phần tác động mạnh của sóng gió. Ngược lại, thành phần loài rất nghèo ở vùng đối sóng với nền đáy cứng hoặc không ổn định và ở những nơi hoàn toàn bị che chắn với nền đáy bùn.

Như khái niệm về hệ sinh thái cỏ biển, các thực vật có hoa này là thành phần quan trọng nhất trong hệ. Chúng bao gồm 58 loài được mô tả trên các đại dương thế giới; thuộc vào 12 giống, 4 họ và 2 bộ. Tuy nhiên, thảm cỏ biển chỉ có thể là một loài hoặc quần xã nhiều loài, tối đa là 12 loài. Từng thảm cỏ biển có tính phân đới từ vùng triều thấp đến vùng dưới triều. Mỗi đới có loài ưu thế và tổ hợp loài kèm theo trong mối quan hệ với dạng sinh trưởng của cây. Cấu trúc của quần hợp cỏ biển còn thay đổi theo mùa. Tuy nhiên, sự biến thiên cũng rất khác nhau giữa các loài. Tuỳ theo khả năng thích nghi với biến động điều kiện môi trường.

Sinh vật bám (periphyton) là thành phần quan trọng của thảm cỏ biển. Thuộc nhóm này là các sinh vật nhỏ như tảo, vi khuẩn, nấm, động vật và mùn bã vô cơ và hữu cơ. Chúng đóng góp một phần đáng kể cho dòng carbon tổng số trong thảm cỏ biển và trở nên có ý nghĩa sinh thái đối với vùng ven bờ nhiệt đới. Các nghiên cứu ở Đông Nam Á chỉ ra rằng rong đỏ (Phodophytes) chiếm ưu thế trong quần hợp sống bám. Tính ưu thế thấp hơn thuộc về rong lục (Chlorophytes) rong nâu (Phaeophytes) và vi khuẩn lam (Cyanobacteria). Tuy vậy, sự ưu thế thay đổi và phụ thuộc vào điều kiện tại chỗ. Tảo lam xanh (blue-green algae) thường gặp hơn ở thảm cỏ biển nước lợ, còn các nhóm khác nhiều hơn trong vùng biển mở.

Số lượng loài cá trong thảm cỏ biển nhiều hơn 5 lần so với trên nền đáy biển là bùn, xác sinh vật và cát.

Động vật đáy lớn thường gặp trong thảm cỏ biển gồm tôm, hải sâm, cầu gai, cua, điệp, vẹm và ốc. Một số trong chúng có thể đạt số lượng và mật độ cao. Trong khi đó, rong biển lớn tương đối kém phát triển do cỏ biển làm thay đổi trầm tích đáy và chiếm lĩnh thành công. Tuy vậy, một số ít loài rong cũng xuất hiện theo mùa vụ và có thể trở nên phong phú. Mặt khác, ở giai đoạn non, nhiều rong bám trên cỏ biển và chỉ bám đáy khi trưởng thành.

Một số sinh vật quý hiếm như bò sát và thú biển được ghi nhận là có mối quan hệ với thảm cỏ biển. Trong các loài bò sát, rùa Xanh Chelonia mydas, rùa Lepidochelys olivacea, Vích Caretta caretta, rùa Lưng dẹt Chelonia depressa và loài rắn Acrochirdus granulatus thường xuất hiện trong các thảm cỏ dày ở Thái Lan, Malaysia, Indonesia và Philippines. Đồi mồi cũng ăn cỏ biển, dù đây không phải là thức ăn chính. Phân bố của bò biển Dugong dugong trùng hợp với vùng có cỏ biển. Cỏ biển là thức ăn chính của loài thú quý hiếm và nhiều huyền thoại này.

2. Chu trình dinh dưỡng

Page 23: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

23

Vai trò sinh thái của thảm cỏ biển được quyết định bởi tốc độ thành tạo hữu cơ nhanh chóng của cỏ biển. Tính theo đơn vị diện tích, giá trị này cao hơn năng suất của Thực vật Phù du.

Các thảm cỏ biển có mật độ động vật và vi khuẩn cao hơn và độ đa dạng loài lớn hơn so với các thuỷ vực không có thực vật lân cận. Điều này có được là nhờ năng suất sinh học cao của chúng. Vào thời kỳ cao điểm của gió mùa hoặc khi cỏ biển phơi ra vào mùa hè, lá của chúng được bứt khơi cây. Một số bị dòng chảy đem đi xa, số còn lại chìm xuống đáy và bị phân hủy. Sinh vật ăn mùn bã, xé lá thành những mảnh nhỏ và sau đó được tiêu thụ bởi vi khuẩn và nấm. Nhiều động vật không xương sống cũng ăn cỏ biển thối rữa. Đến lượt chúng trở thành thức ăn cho bậc dinh dưỡng cao hơn như cá và cua. Do vậy, thảm cỏ biển kiểm soát tính phức tạp của quần cư, tính đa dạng loài và độ phong phú của động vật không xương sống liên quan và hình thành cấu trúc quần xã.

Điều cần chú ý là các sinh vật ăn tạp (omivorous) khá phong phú trong quần xã sinh vật của thảm cỏ biển. Nhóm này gồm nhiều nhóm giáp xác mười chân, ốc và một số da gai. Một loài có thể ăn cỏ biển hoặc rong thối rữa, mùn bã nhỏ trên lá và nền đáy và cả những động vật còn sống hay đã chết. Thậm chí một số cua bơi lớn còn ăn cả thân mềm, giáp xác, giun nhiều tơ và một phần đáng kể mô thực vật thối rữa và tảo sợi.

Quá trình thối rữa là một đặc trưng của thảm cỏ biển. Nhờ đó mà các bộ phận của cỏ biển khi chết đi đã giải phóng các chất hữu cơ. Các hợp phần carbon cấu trúc còn lại bị vi sinh vật (vi khuẩn và nấm) tấn công và các vật liệu được phân hủy chứa nhiều vi khuẩn và nấm trở thành thức ăn tiêu hoá được của động vật đáy. Hầu hết động vật đa bào chỉ tiêu hoá vi khuẩn và mô chết của lá thối rữa được thải ra cho quá trình phân hủy tiếp tục. Sự phá vỡ mùn bã thành các mảnh nhỏ hơn làm tăng bề mặt tiếp xúc và tăng cường hoạt động của vi sinh vật.

Quá trình trên đây cũng liên quan đến sự biến đổi theo mùa của quần xã sinh vật. Các động vật ăn mùn bã và ăn lọc tăng lên vào mùa cỏ biển thối rữa. Ngược lại động vật di chuyển ăn thực vật lại tăng vào mùa phát triển cỏ biển và giảm vào thời kỳ thối rữa. Hàm lượng oxy cũng thay đổi. Hàm lượng thường giảm vào mùa hè (mùa thối rữa), với số lượng lớn của vi sinh vật, mùa này thuận lợi cho sự phát triển của ấu trùng của sinh vật đáy ăn lọc và vì vậy là mùa đẻ của nhiều loài.

3. Chức năng

Nhờ sự cố định năng lượng mặt trời có hiệu quả và sản lượng sinh khối cao, cỏ biển có khả năng tăng cường và duy trì độ phì nhiêu của thủy vực. Điều này còn được bổ sung bởi quá trình trao đổi vật chất hữu cơ có hiệu quả diễn ra trên lá và nền đáy.

Một chức năng quan trọng khác của thảm cỏ biển là cầu nối trong con đường di cư của sinh vật và là quần cư ương giống cho biển. Các thảm cỏ biển thường phát triển ở vùng trung gian của rừng ngập mặn và rạn san hô hoặc là vùng đệm của hai hệ sinh thái khác nhau. Vì vậy, chúng trở thành điểm dừng chân của nhiều loài cá, động vật không xương sống, thú và bò sát. Bằng việc cung cấp nơi ẩn náu thông qua tán cây và hình thái, kích thước khác nhau của bóng khí cũng như nguồn dinh dưỡng giàu có, thảm cỏ biển trở thành bãi ương giống chất lượng cao của nhiều sinh vật. Nguồn giống sau khi được nuôi dưỡng ở đây sẽ phát tán đến các hệ xung quanh ra biển khơi.

Thảm cỏ biển dày với hệ rễ neo chặt vào nền đáy có tác dụng làm giảm năng lượng của sóng, dòng chảy và nhờ vậy chúng có khả năng chống xói lở, bảo vệ đường bờ. Ở những vùng chịu nhiều bão tố, cỏ biển có vai trò lưu giữ trầm tích nhờ hệ thống thân, rễ ngầm và nhờ vậy tạo nên vùng đệm chống sóng gió. Mặt khác, thảm cỏ biển là bộ máy có hiệu quả cao đối với việc hấp thụ chất dinh dưỡng, chất thải từ đất liền và có vai trò như những bẫy trầm tích làm giảm độ đục của nước.

Page 24: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

24

Hiện nay, các thảm cỏ biển đang cung cấp cho loài người những sản phẩm trực tiếp như vật liệu di truyền, thực phẩm; vật liệu thô cho công nghiệp và năng lượng. Ở các nước Philippines, Indonesia, các loài rong sống trong thảm cỏ biển như Caulerpa, Gracilaria, Coclidiela đang được khai thác làm thực phẩm, chế biến các chất dùng trong công nghiệp và phân bón cho nông nghiệp. Nhiều loài sinh vật đáy sống thường xuyên chỉ trải qua giai đoạn ấu trùng trong thảm cỏ biển được coi như là có giá trị thương mại cao. Thành phần của chúng khá đa dạng gồm: tôm, hải sâm, cầu gai, cua, vẹm và ốc. Tầm quan trọng của thảm cỏ biển đối với nghề cá thường được đánh giá trong mối quan hệ chặc chẽ với rạn san hô. Mặt khác, một số loài cá được khai thác ngay trên thảm cỏ biển mà sản lượng cao thuộc về các họ bống và dìa,... Ngoài ra, thảm cỏ biển còn được coi là môi trường thuận lợi cho nuôi trồng trên biển. Du lịch biển cũng lấy thảm cỏ biển làm nơi giải trí, câu cá.

Ở nước ta, cỏ biển thường phát triển ở vùng triều ven biển, ven đảo, các vùng cửa sông, rừng ngập mặn, đầm phá. Số liệu thống kê mặc dù chưa đầy đủ, diện tích phân bố thảm cỏ biển cho đến hiện nay đã biết khoảng 10.000 ha. Các loài cỏ biển phát triển hầu như quanh năm, nhưng tốt nhất là vào mùa xuân và đầu hè, phát triển kém vào mùa mưa bão. Chúng phân bố từ vùng triều đến độ sâu 3-15 m, thậm chí 28 m (Đảo Bạch Long Vĩ). Chúng thích nghi với độ muối từ 5 – đến 340/00, chất đáy là bùn bột nhỏ, bùn cát, cát san hô, cát thô và sỏi.

Ở một số vùng ven biển và đảo (Long Châu, Bạch Long, quần đảo Trường Sa, Côn Đảo, Phú Quốc, Phú Quý) đã xác định được 14 loài cỏ biển đó là Cỏ nàn (Halophila beccarii), Cỏ Xoan đơn (H. decipiens), Cỏ xoan (H. ovalis), Cỏ Xoan nhỏ (H. minor), Cỏ vích (Thalassia hemprichii), Cỏ lá dừa (Enhalus acoroides), Hẹ tròn (Halodule pinifolia), Hẹ Ba răng (H. uninervis), Năn biển (Syringodium isoetifolium), Kiệu tròn (Cymodocea rotundata), Kiệu răng cưa (C. serrulata), Cỏ đốt tre (Thalassodendron ciliatum), Cỏ lươn nhật (Zostera japonica) và Cỏ kim (Ruppia martirima).

Bảng 2.1. Biến đổi diện tích một số bãi cỏ biển trong thời kỳ 1996-2003

Stt Địa điểm Diện tích 1995 (ha)

Diện tích 2003 (ha)

Tỷ lệ % diện tích bị mất

1 Vùng Hà Cối (Quảng Ninh) 1.200 150 87,5

2 Bãi Đầm Hà (Quảng Ninh) 80 2 97,5

3 Đồng Rui (Quảng Ninh) 420 0 100

4 Tuần Châu (Quảng Ninh) 120 0 100

5 Gia Luận (Cát Bà, H. Phòng) 500 0 100

6 Sỏi Cỏ (Cát Bà, H Phòng) 2 0 100

7 Cửa Gianh (Quảng Bình) 500 300 40

8 Cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) 200 150 25

9 Tam Giang Cầu - Hai (TT Huế) 2.200 1.000 54,5

10 Đầm Lăng Cô (TT Huế) 500 120 76

11 Cửa Sông Hàn (Đà Nẵng) 300 200 33,3

12 Đầm Thị Nại (Bình Định) 300 120 50

13 Vịnh Cam Ranh (K. Hòa) 800 550 31,5

14 Côn Sơn (Bà Rịa-Vũng Tàu) 320 200 27,5

15 Hàm Ninh (Phú Quốc) 300 120 60

(Nguồn: Nguyễn Văn Tiến, Tạp chí Bảo vệ Môi trường, 2005)

Page 25: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

25

Hệ sinh thái cỏ biển là một trong 3 hệ sinh thái biển quan trọng (Cỏ biển, san hô, rừng ngập mặn), nhưng hiện nay chúng đang đứng trước nguy cơ tổn thương và suy thoái. Sự suy thoái hệ sinh thái cỏ biển thể hiện trên các khía cạnh như mất loài, mất diện tích phân bố, ô nhiễm, thoái hóa môi trường sống, giảm đa dạng sinh học và nguồn lợi kinh tế của các loài quý hiếm kèm theo.

Hệ sinh thái thảm cỏ biển là một trong những hệ sinh thái nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương khi môi trường sống thay đổi. Theo thống kê chung của cả nước thì hiện nay diện tích các bãi cỏ biển của Việt Nam bị giảm 40 - 60%. Trước năm 1995, cỏ biển Việt Nam chiếm diện tích là 10.770 ha. Năm 2003, diện tích này chỉ còn hơn 4.000 ha, nghĩa là mất đi 60%. Diện tích phân bố của các thảm cỏ biển Khánh Hòa giảm trên 30% so với 6 năm trước đây, nghĩa là từ 1.235 ha năm 1997, xuống còn 795 ha năm 2002, bình quân cứ một năm mất khoảng 80 ha. Đặc biệt, nhiều nơi đã bị mất hẳn như ở Đồng Rui, Tuần Châu (Quảng Ninh), Gia Luận, Sỏi Cỏ (Hải Phòng) hoặc gần mất hẳn như ở Đầm Hà, Hà Cối (Quảng Ninh). Sự suy giảm và mất các thảm cỏ biển ở nước ta đang có nguy cơ gia tăng, ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường sinh thái biển: suy giảm chất lượng môi trường nước và trầm tích, mất cân bằng dinh dưỡng, sinh thái và đa dạng sinh học, giảm trữ lượng cá và nguồn trứng cá, cá con trong hệ sinh thái này, giảm nguồn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và nông nghiệp, mất diện tích sa bồi các vùng cửa sông gây ảnh hưởng tới quá trình bồi tụ và mở rộng quỹ đất.

V. Hệ sinh thái rạn san hô 1. Cấu trúc

San hô là những sinh vật tương đối đơn giản, chúng tồn tại ở khắp các vùng biển nông cũng như sâu. Chúng là những cá thể hình trụ rất nhỏ có hàng xúc tu ở trên đầu để bắt mồi trong môi trường nước và được xếp vào lớp San Hô (Anthozoa), ngành Động vật ruột khoang (Coelenterata) trong hệ thống phân loại động vật. Một số lớn san hô phát triển dạng tập đoàn và hình thành nên bộ xương chung. San hô có 3 nhóm chính là san hô cứng, san hô mềm và san hô sừng.

San hô cứng có bộ xương bằng đá vôi và thường tăng trưởng rất chậm, có loại chỉ vào khoảng 1 cm/năm. Điều đó có nghĩa là một khối san hô với đường kính khoảng 1 m có thể đã trải qua cuộc đời hàng thế kỷ. Khi san hô chết, bộ xương có màu trắng. San hô cứng được xem là thành phần chính cấu tạo nên rạn san hô. Chúng chỉ phân bố hạn chế ở những vùng biển nông, ấm áp và cấu trúc đá vôi do chúng liên kết lại tạo thành rạn san hô. Tuy nhiên, chúng rất mảnh mai và có thể bị tàn phá do gió bão và neo tàu.

Thế giới hiện có hàng ngàn rạn san hô, giới hạn phân bố của chúng chỉ ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, trải dài từ khoảng 30o vĩ tuyến bắc đến 30o vĩ tuyến nam nơi mà nhiệt độ nước biển hiếm khi xuống dưới 18oC. Diện tích bao phủ rạn san hô lên đến 6 × 105 km2. Sự khác biệt về hình thái, thành phần sinh học, tính đa dạng và cấu trúc phản ánh địa - sinh học, tuổi, phân vùng địa động vật và điều kiện môi trường.

San hô sừng có thành phần đá vôi bao bọc lõi là vật liệu sừng và hoặc đá vôi. Tập đoàn san hô sừng có dạng như những chiếc quạt hoặc cành cây mềm mại. Khi chết đi, cái còn lại là bộ xương màu đỏ hoặc đen hay trắng. Loại san hô này cũng sinh trưởng rất chậm.

San hô mềm tiêu giảm bộ xương bên trong và chỉ còn lại các trâm xương đá vôi nhỏ. Một số rất mềm dẻo đến mức đu đưa theo dòng nước. Sẽ không còn gì để lại sau khi san hô mềm chết đi.

2. Hình thái

Ở những nơi mà tạo rạn tồn tại, kiểu phát triển của rạn tùy thuộc vào địa hình (độ sâu và hình dạng) của nền đáy, lịch sử phát triển địa chất của vùng và các nhân tố môi trường, đặt biệt là nhiệt độ và mức độ chịu đựng sóng gió.

Page 26: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

26

Như chúng ta đã biết, san hô tạo rạn chỉ sinh trưởng trong những vùng nước ấm, có chiếu sáng tốt và cần nền đáy rắn để bám vào. Những yếu tố này hạn chế sự phân bố của san hô tạo rạn ở những vùng biển nông đáy cứng. Bộ xương san hô đến lượt mình lại cung cấp nền đáy cứng cho sự phát triển của nhiều san hô hơn và các sinh vật khác. Sự phát triển lên phía trên của cấu trúc rạn có thể cho phép san hô tiếp tục tăng trưởng lên vùng nông hơn và thậm chí cả khi nền móng lún xuống hoặc nước biển dâng lên.

Qua nhiều quá trình biến động của địa chất biển, đã hình thành các kiểu rạn hô khác nhau:

- Rạn riềm (fringing reef): rất phổ biến xung quanh các đảo nhiệt đới và đôi khi dọc theo bờ đất liền. Đây là kiểu cấu trúc được coi là đơn giản nhất với sự phát triển đi lên của nền đá vôi từ sườn dốc thoải ven biển, ven đảo. Do tồn tại ở gần bờ, bị ảnh hưởng bởi sự đục nước, nên chúng hiếm khi vươn đến độ sâu lớn.

- Rạn dạng nền (platform reef): là một cấu trúc đơn giản đặc trưng bởi sự cách biệt vơi đường bờ và có thể thay đổi lớn về hình dạng. Kích thước của chúng có thể rất lớn, đến 20 km2 chiều ngang. Lịch sử địa chất của chúng cũng rất khác nhau với nguồn gốc hình thành khá đa dạng.

- Rạn chắn (barrier reef): được phát triển trên gờ của thềm lục địa. Rạn chắn là cấu trúc rạn nổi lên từ biển sâu và nằm xa bờ. Một số vồn nguyên thủy là dạng riềm nhưng do vùng bờ bị chìm xuống hay bị ngập nước khi biển dâng lên.

- Rạn san hô vòng (atoll): là những vùng rạn rộng lớn nằm ở vùng biển sâu. Mỗi một đảo san hô vòng là tập hợp của các đảo nổi và bãi ngầm bao bọc một lagoon rộng lớn với đường kính có thể lên đến 50 km. Kiểu rạn này chỉ có ở vùng biển sâu nằm ở ngoài thềm lục địa.

3. Môi trường tự nhiên

3.1. Ánh sáng

Tất cả san hô tạo rạn đòi hỏi đủ ánh sáng cho quang hợp của tảo cộng sinh trong nội bào của chúng. Theo độ sâu, ánh sáng thay đổi rất nhanh cả về cường độ và cả về thành phần. Giới hạn này kiểm soát độ sâu mà san hô sinh trưởng. Các loài khác nhau có sức chịu đựng khác nhau đối với mức độ chiếu sáng cực đại và cực tiểu. Đó cũng là một nguyên nhân chính của sự khác nhau về cấu trúc quần xã rạn.

3.2. Trầm tích

Nhiều kiểu trầm tích khác nhau bao phủ trên và xung quanh rạn bao gồm vụn san hô thô, các loại cát và cả bùn mịn. Kiểu trầm tích trên rạn ở một số nơi nào đó phụ thuộc vào dòng chảy, sóng và cả nguồn gốc trầm tích. Ở gần bờ trầm tích chủ yếu được cung cấp từ đất liền qua vận chuyển của sông. Những trầm tích như thế có thành phần hữu cơ cao dễ bị khuấy động bởi sóng và có thể giữ lại lơ lững trong nước một thời gian dài làm đục nước và hạn chế độ xuyên của ánh sáng. Sự lắng xuống của chúng có thể giết chết các sinh vật như san hô vùi chúng hoặc làm nghẹt các polyp không đủ khả năng đẩy chúng ra.

3.3. Độ muối

Ít khi độ muối nước biển trở nên quá cao để ảnh hưởng đến quần xã san hô. Độ muối thấp có ảnh hưởng quan trọng và thông thường hơn đối với phân bố rạn và phân vùng san hô. Rạn không thể phát triển ở những vùng mà từng thời kì nước sông tràn ngập, đó là nhân tố chính kiểm soát san hô dọc bờ. Ảnh hưởng chính của độ muối lên phân bố vùng san hô là do nước mưa. San hô ở mặt bằng nói chung có khả năng chịu đựng độ muối thấp trong một giai đoạn ngắn, nhưng khi mưa rất to cùng với triều thấp, mặt bằng rạn có thể bị hại, thậm chí bị phá hủy hoàn toàn.

3.4. Mức chênh triều

Page 27: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

27

Mức chênh triều khác nhau giữa các rạn ở các vùng khác nhau. Sự khác nhau đó ảnh hưởng đáng kể đến sự phân vùng của quần xã san hô. Triều càng cao, ảnh hưởng của sự ngập triều và khả năng vận chuyển chất dinh dưỡng tương ứng cũng như ảnh hưởng đến sự phơi khô càng lớn.

3.5. Thức ăn và các chất dinh dưỡng vô cơ

Cũng như những sinh vật khác, san hô đòi hỏi cả thức ăn và chất dinh dưỡng vô cơ. Đối với sinh vật rạn, cả hai được hoà tan trong nước biển. Thức ăn cũng có thể lơ lững trong nước biển như những mảnh nhỏ bao gồm cả sinh vật đang sống. Như những nơi khác, trên rạn một sinh vật ăn các sinh vật này và bị ăn bởi các sinh vật khác và như thế chuỗi thức ăn được hình thành, trong đó tất cả các động thực vật đều liên hệ với nhau. Khi quan tâm đến nhu cầu thức ăn của sinh vật rạn, một điều quan trọng là phải tách rời nhu cầu của một loài, nhóm loài với nhu cầu của toàn rạn, bởi vì để đạt được sự bền vững lâu dài, một cân bằng toàn thể của chu trình dinh dưỡng buộc phải đạt được. Rạn đồng thời vừa nhập vừa xuất các chất dinh dưỡng, nhưng trao đổi với vùng biển xung quanh thì nhỏ so với vật chất sản sinh bên trong từ chu trình liên tục. Các dinh dưỡng đi vào rạn thường là từ sông, nhưng nếu không có sông, đối với các rạn ở xa đất liền, chất dinh dưỡng chỉ đến qua dòng chảy bề mặt. Nhiều rạn có sự cung cấp dinh dưỡng vô cơ khác như là dưới một điều kiện nào đó, dòng chảy hướng vào rạn có thể làm cho nước ở tầng sâu chuyển lên bề mặt. Loại nước trồi này thường giàu phospho và các chất hoá học cơ bản khác. Nhiều rạn có sự thay đổi theo mùa về nguồn dinh dưỡng, đặc biệt là những rạn có vĩ độ cao nơi mà ảnh hưởng các mùa rõ rệt hơn.

3.6. Nhiệt độ và độ sâu

Các yếu tố trên đây là tất cả phương diện chính của môi trường tự nhiên kiểm soát cấu trúc quần xã. Một yếu tố khác đã kiểm chứng là nhiệt độ. Nó giới hạn sinh trưởng san hô và phát triển rạn. Cũng như vậy, độ sâu của một vùng kiểm soát chủ yếu hình dạng của rạn và các bậc cũng như độ sâu sườn dốc rạn.

4. Các mối quan hệ trong quần xã

Mỗi loài san hô có sự sắp xếp riêng về chiến lược sinh trưởng, nhu cầu thức ăn và khả năng sinh sản. Mỗi một loài cũng thích ứng riêng với sự tác động của bão tố, sinh vật ăn thịt, bệnh tật và vật ăn hại. Mỗi loài cạnh tranh với loài khác về không gian, ánh sáng và các lợi ích khác. Kết quả cuối cùng của tất cả các mối quan hệ và sự cân bằng làm cho quần xã san hô trở nên đa dạng nhất trong tất cả các quần xã trên trái đất. Với san hô những mối quan hệ cần được xem xét bao gồm: thức ăn, tương hỗ kẻ thù và sự cạnh tranh lãnh thổ giữa chúng với nhau.

4.1. Thức ăn

San hô tạo rạn có hai nguồn thức ăn chính: tự bắt mồi và các hợp phần hữu cơ được tạo ra và bài tiết bởi tảo cộng sinh Zooxanthellae trong mô san hô. Ngược lại, san hô cung cấp cho tảo nơi sống và các chất thải ra của động vật như phospho và nitrat. Tảo đáp ứng cho san hô tới 80% nhu cầu thức ăn tổng số của nó.

Những san hô sinh trưởng ở vùng nước nông trong suốt với độ chiếu sáng cao, thường có polyp nhỏ. Chúng có khả năng bắt các động vật nổi nhỏ. Một số san hô khác nhau thường sống ở các vùng nước đục có các polyp lớn. Chúng không có bộ tế bào gây độc trên các xúc tu như bọn ăn sinh vật nổi. Nguồn thức ăn của chúng chưa rõ, nhưng có thể chủ yếu là mùn bã hữu cơ.

Hầu hết các rạn san hô tồn tại trong môi trường nghèo chất dinh dưỡng vô cơ như phosphat, nitrat và sắt nhưng chúng có năng suất xấp xỉ như rừng nhiệt đới. Các cá thể san hô và tảo cộng sinh Zoothanllae có thể hấp thụ chất dinh dưỡng từ đại dương xung quanh, chúng buộc phải có khả năng lớn nhằm bảo tồn và xoay vòng chất dinh dưỡng.

4.2. Quan hệ hội sinh

Page 28: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

28

Nhiều sinh vật sống cùng với san hô mà không gây ra một tác hại nào trong điều kiện bình thường. Đó là những sinh vật hội sinh và bao gồm nhiều loài khác nhau như giun dẹt, giun nhiều tơ, tôm, cua, sao biển, rắn, thân mềm và cá. Trong hầu hết các trường hợp, mối quan hệ giữa san hô và sinh vật hội sinh là không bắt buộc và sinh vật hội sinh có thể sống với nhiều san hô khác nhau hoặc có thể sống độc lập. Trong một số trường hợp, mối liên hệ này là rất đặc hiệu, vật hội sinh có thể liên kết bắt buộc với một loài hoặc một nhóm loài riêng biệt và biến đổi màu sắc, tập tính, thậm chí cả chu trình sinh sản của san hô.

4.3. Kẻ thù của san hô

Từ giai đoạn ấu trùng sớm nhất đến tập đoàn trưởng thành san hô bị bao vây bởi một loạt các sinh vật ăn san hô. Nổi bật nhất trong chúng là Sao biển gai Acanthaster planci, nhiều khi trở thành dịch tiêu diệt những vùng san hô rộng lớn. Sao biển gai được ghi nhận khắp vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương vơi sự bùng nổ diễn ra gần như cùng một thời gian ở khắp vùng này. Cái gì gây ra sự bùng nổ này và thường diễn ra ở mức độ nào vẫn còn chưa được giải thích. Sự tăng lên số lượng ấu trùng sao biển gai có liên quan đến lượng mưa và sự tăng cao chất dinh dưỡng từ sông trong thời kì lụt lội. Rõ ràng là sự bùng nổ không phải là do con người, nhưng con người có thể làm tăng sự khốc liệt bởi khai thác các loại ốc mà một số trong chúng là vật dữ đối với sao biển gai, ngoài ra, sự bổ sung chất dinh dưỡng cho các dòng sông thông qua việc phá rừng và phân bón nông nghiệp làm tăng sức sống của ấu trùng sao biển.

Một số sinh vật khác có thể gây hại cho san hô. Trong đó đáng kể là một loài ốc nhỏ Drupella từng phá hoại nhiều rạn ở Tây Thái Bình Dương. Một số loài ốc ăn san hô khác cũng được ghi nhận. Các sinh vật đục lỗ (ví dụ như thân mềm Lithophaga, các loài giun như Spirobranchus gigianiteus và hải miên đục lỗ) cũng có thể gây ảnh hưởng lâu dài lên san hô. Tuy nhiên, vật dữ có hại nhất đối với san hô là cá. Nhiều loài có răng thích hợp để ăn các polyp san hô. Đây là một tác động lớn đối với cấu trúc quần xã san hô và có thể ảnh hưởng phân bố trong phạm vi rộng.

Cho đến nay, những hiểu biết về bệnh của san hô hãy còn rất ít. Bệnh phổ biến nhất gọi là tẩy trắng san hô (Bleaching). San hô trục xuất tảo cộng sinh hoặc tảo bị chết và trở nên trắng và chết một cách từ từ.

4.4. Cạnh tranh giữa các san hô

Vào ban ngày ít có dấu hiệu chứng tỏ các loài san hô xâm lấn lẫn nhau, ngoại trừ khi một tập đoàn phát triển trùm lên một tập đoàn khác. Tuy nhiên vào ban đêm, các xúc tu thò ra san hô có thể và thường tấn công lẫn nhau. Chúng có thể đẩy các sợi màng ruột ra và tiêu hóa mô của người láng giềng. Một loài khác phát triển vơi một số lượng nhỏ các xúc tu rất dài gọi là các xúc tu quét có khả năng tân công các tập đoàn lân cận đôi khi xa tới vài cm.

Sự xâm lấn thể hiện rõ ràng hơn khi các tập đoàn cạnh tranh về không gian bằng cách phát triển vượt lên nhau. San hô khối sinh trưởng chậm, dễ bị vượt lên nhất nhưng chúng cũng ít bị phá hủy do bão hoặc do các sinh vật đục lỗ. Những yếu tố này thường phá hủy các tập đoàn lân cận phát triển nhanh.

5. Tầm quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô

Các rạn san hô đa dạng và tuyệt mỹ đã tham gia hình thành và bảo vệ hàng ngàn hòn đảo. Chúng cũng có tầm quan trọng lớn ở nhiều đảo lớn và vùng bờ biển trong việc bảo tồn đất đai và sự tồn tại của con người. Rạn có ý nghĩa thật sự đối với cộng đồng ven biển và các quốc gia nhiệt đới. Do khác nhau về yếu tố kinh tế, xã hội, văn hóa, giá trị của rạn san hô được đánh giá khác nhau giữa các nước hoặc các cộng đồng. Đối với các cộng đồng kinh tế phát triển, rạn san hô được coi là tài nguyên về xã hội và văn hóa. Giá trị kinh tế được hiểu ở phương diện giải trí và du lịch. Các đặc sản cũng rất hấp dẫn nhưng không phải là thiết yếu. Nhiều cộng đồng như thế đã hỗ trợ cho chương trình nghiên cứu khoa học nhằm hiểu biết chức năng của các hệ rạn san hô và tổ hợp phức tạp này liên quan như thế nào đến môi trường

Page 29: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

29

biển và lục địa. Sau đây là những đặc tính của rạn san hô góp phần tạo nên giá trị về mặt xã hội và văn hoá và được coi là một nguồn lợi đặc biệt.

5.1. Sức sản xuất

Các rạn san hô được coi là hệ sinh thái có năng suất cao nhất trên thế giới. Chúng chiếm khoảng 0,1% diện tích bề mặt quả đất, nhưng nghề cá liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp với rạn san hô và được đánh giá là chiếm khoảng 10% sản lượng nghề cá thế giới. Sức sản xuất cao có được nhờ tính hiệu quả của chu trình chuyển hoá vật chất. Trong đó tảo cộng sinh Zooxanthellea, tảo có khả năng cố định N và vi khuẩn sống trong trầm tích đóng vai trò quyết định. Nhóm san hô tạo rạn do có tảo cộng sinh nội bào nên khác với các nhóm động vật khác, chúng có khả năng tự dưỡng. Trong điều kiện chiếu sáng thích hợp, quá trình tự dưỡng này đã cung cấp hơn 50% dòng năng lượng cho hệ sinh thái. Sức sản xuất sơ cấp của rạn san hô thường cao hơn vùng ngoài rạn đến hàng trăm lần. Nhiều tác giả đánh giá hệ sinh thái san hô là cơ sở dinh dưỡng hữu cơ, là nguồn cung cấp thức ăn không chỉ cho bản thân sinh vật sống trong rạn mà còn cho cả vùng biển chung quanh. Rạn san hô thường gắn bó chặt chẽ với rừng ngập mặn, thảm cỏ biển nên chúng tạo cho vực nước có năng suất cao. Hàng năm, rạn san hô cung cấp hầng triệu tấn carbon cho các vùng nước lận cận phục vụ cho quá trình sống trong đại dương.

5.2. Sinh vật rạn san hô

Rạn san hô cũng được coi là hệ sinh thái quan trọng nhất, chúng bao gồm nhiều loài đặc trưng đại diện cho hầu hết các nhóm động vật biển. Một số lượng lớn các hang hốc trên rạn cung cấp nơi trú ẩn cho cá, động vật không xương sống đặc biệt là cá con. Nhiều sinh vật rạn san hô như cá, rùa, tôm hùm, bạch tuộc, trai ốc và rong đỏ được khai thác làm thực phẩm. Nguồn khai thác nhiều nhất là cá. Sản lượng lớn nhất của cá khai thác quanh rạn thuộc về các nhóm cá di cư, chỉ vào rạn theo mùa như cá thu, cá ngừ,... Những cá này phân bố rộng trong đại dương nhưng trong một thời gian chúng đến gần các rạn để kiếm thức ăn và trong một số trường hợp là để sinh sản. Các loài cá trải qua cả cuộc đời trong rạn như cá Mú, cá Hồng,... có thể đánh bắt quanh năm nhưng sản lượng không lớn.

Tôm Hùm là một nhu cầu không bao giờ thỏa mãn và bị khai thác ở nhiều vùng. Các nguồn lợi khác như Bạch tuộc, Trai Tai tượng, trai ốc và các loại thực phẩm khác cũng được khai thác triệt để bằng các hình thức đơn giản và ít tốn kém. Các loại rong biển cũng được khai thác nhiều ở rạn san hô. Một số trong chúng có giá trị dinh dưỡng cao do chứa nhiều viatmin và muối khoáng.

Một số sinh vật khác được khai thác để làm đồ mỹ nghệ. San hô cứng được bán trong các cửa hàng lưu niệm và được sử dụng để trang trí hồ cá. Nhiều loài trai ốc được khai thác làm đồ lưu niệm, trang sức. Các loài rắn biển cũng đang được khai thác cho mục đích y học.

Trong những năm gần đây, cá cảnh biển trở thành một thị trường sôi động. Nhiều loài cá và động vật không xương sống trở thành đối tượng xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển ở Châu Âu, Mỹ, Nhật. Phương pháp đánh bắt cá cảnh thường bất cẩn và làm hư hại lớn sinh thái rạn san hô. Các chất độc như Cyanide, Quinallinne, Romote và Formalin đang được sử dụng để gây mê cá, chất độc cũng giết một phần các tập đoàn rạn san hô. Những hoạt động trên rạn để đánh bắt cá đã phá hủy nhiều ran hô cành vốn là ổ sinh thái của cá cảnh.

Một hoạt động trực tiếp nữa là khai thác san hô làm vật liệu xây dựng và nguyên liệu công nghiệp. Cả san hô chết và sống đều bị khai thác để lấy về nung vôi (Sri Lanka, Ấn Độ, Indonesia, Philippines, Việt Nam), để làm đường giao thông (Indonesia, Ấn Độ), để sản xuất calcium carbide và để làm cảng, chắn bờ. Cát san hô được nạo vét để làm vôi trong nông nghiệp và xi măng.

Page 30: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

30

Các rạn san hô còn được coi là kho dược liệu dưới đáy biển do có mặt nhiều nhóm sinh vật có hoạt tính sinh học hoặc độc tố có giá trị dược liệu. Các loài san hô sừng, san hô mềm cho nhiều hoạt chất có giá trị dược liệu quý. Các nhóm sinh vật khác như hải miên, rắn biển, cầu gai, hải sâm, cá độc và nhiều loài rong biển đều có những chất có hoạt tính sinh học cao có thể sử dụng làm dược liệu.

Tính đa dạng của các loài trên san hô cao đến mức nhiều loài: đặc biệt là động vật không xương sống như giun, tôm vẫn chưa được mô tả. Vì vậy rạn được coi là "kho dự trữ" gien. Chúng nắm giữ nhiều dấu vết để chúng ta có thể hiểu được các quần thể động thực vật phát triển như thế nào và có chức năng gì, cũng như chúng có thể có những giá trị tiềm ẩn trong tương lai.

5.3. Giải trí và phát triển du lịch

Sự phức tạp về quá trình hình thành, sự khác nhau về hình dạng, màu sắc và trạng thái của sinh vật đã làm cho rạn có vẻ đẹp hiếm có và lôi cuốn đối với con người. Rạn là nguồn cảm hứng và đối tượng cho các nhà nhiếp ảnh dưới nước và của các nhà tự nhiên học. Rạn cũng là nguồn lợi to lớn phục vụ cho giải trí và du lịch và được coi là một giá trị văn hóa hiện đại.

Bơi và lặn là một cơ sở cho việc phát triển kinh tế cho nhiều vùng đảo nhỏ, nơi mà tài nguyên thiên nhiên chủ yếu là ánh nắng mặt trời, biển và thủy sản. Trước đây, câu và đâm cá trên rạn là môn thể thao chính trên rạn, giờ đây xem và chụp ảnh sinh vật rạn trở nên hấp dẫn hơn. Cư dân tại chổ giải trí với rạn ít hơn là khách du lịch, tuy nhiên, khách mang lại lợi ích nhờ tạo ra buôn bán và việc làm.

Trong vài thập niên gần đây do nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí tăng cao, rạn trở thành nguồn thu lớn cho ngành du lịch sinh thái. Rạn san hô là nơi các du khách tham quan bơi lội và lặn, hàng năm một lượng lớn du khách đến các đảo và vùng ven biển nơi có các rạn san hô đẹp để thư giản và khám phá vẻ đẹp kỳ diệu của các rạn san hô. Các nguồn thu từ du lịch rạn san hô của rạn San hô lớn ở Úc (Great Barrier Reefs) hàng năm thu gần 2 tỷ đô la Úc, các rạn của Florida thu mỗi năm 1,6 tỷ USD, chỉ riêng du lịch lặn ở Caribbe và Hawaii thu khoảng 300 triệu USD.

Du lịch lặn ở Việt Nam bắt đầu khởi sắc từ cuối những năm 90. Thành phố Nha Trang đươc coi là trung tâm của du lịch biển Việt Nam, nơi có rạn san hô đa dạng và tuyệt đẹp. Năm 2003 khách du lịch đến Nha Trang mang về cho tỉnh Khánh Hòa khoảng 300 tỷ đồng Việt Nam. Khánh Hòa cũng là nơi đầu tiên ở Việt Nam khai thác rạn san hô như là nguồn cảm hứng cho các cuộc thi chụp ảnh. Tham quan rạn san hô cũng phát triển ở Côn Đảo, nhưng còn ở quy mô nhỏ và chưa trở thành hoạt động du lịch chính thức. Cù Lao Chàm đang định hướng phát triển du lịch biển song song với thiết lập khu bảo tồn biển. Khách du lịch cũng góp phần quan trọng cho sự phát triển của huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang trong những năm gần đây. Khách du lịch Phú Quốc chủ yếu đi thăm khu rừng tự nhiên ở phía Bắc đảo và bơi lội ở các bãi tắm ở các đảo.

5.4. Các giá trị gián tiếp

Giá trị trực tiếp mà nghề cá và du lịch được coi là khá lớn. Theo ước tính của các nhà khoa học cứ trung bình 1 km2 rạn có thể mang lại 108.000 USD từ nghề cá và 400.000 USD từ hoạt động du lịch. Bên cạnh đó, rạn san hô còn gián tiếp mang lại cho con người nhiều lợi ích khác với giá trị không thể tính hết.

Rạn san hô có thể đóng vai trò quan trọng về phát triển kinh tế, tạo việc làm và phúc lợi xã hội. Nghề cá tạo ra việc làm cho phần lớn cư dân ở các đảo và ven biển trong hoạt động đánh bắt và một số công việc khác liên quan đến biển, các nhà máy chế biến sản phẩm từ biển là một ví dụ.

Page 31: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

31

Rạn san hô được sử dụng cho giáo dục chính thức và không chính thức. Giáo dục không chính thức thông qua hoạt động của các công viên biển và các khu bảo tồn, bao gồm cả xuất bản tài liệu và phát hành phim ảnh. Các bể nuôi (aquarium) là một hình thức giáo dục không chính thức. Các chuyến thực địa cho sinh viên, học sinh đến các rạn san hô và trạm nghiên cứu ở các vùng biển là một ví dụ về việc sử dụng rạn san hô để giáo dục chính thức. Rạn san hô là phòng thí nghiệm tự nhiên với các ví dụ sống về các nguyên lý sinh học để dạy trong trường học.

Rạn san hô còn được coi là nơi nuôi dưỡng và bảo vệ nhiều loài sinh vật quý hiếm, đồng thời là phòng thí nghiệm sống phục vụ nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng về giá trị văn hóa của môi trường biển. Rạn cung cấp một ngân hàng gen của những loài có giá trị cho nghiên cứu bản chất của sự sống. Chúng còn có giá trị không thể đánh giá hết đối với y học và dược học.

Trong nhiều trường hợp rạn còn là rào chắn bảo vệ bờ chống xói lở. Những đê tự nhiên này còn bảo vệ cho vùng nước sau rạn khỏi sóng bão. Ước tính mỗi km2 rạn san hô cho phép tiết kiệm 190.000 USD chi phí cho việc bảo vệ vùng bờ hàng năm. Các đầm phá (lagoon) phía trong rạn có thể khá sâu và có kênh thông với biển đã trở thành các bến đậu của tàu thuyền và là cơ sở để hình thành các cụm dân cư ven bờ.

Ở một mức độ nhất định, hệ thống rạn san hô có khả năng tiếp nhận và xử lý chất thải nhờ sự phân hủy nhanh bởi vi khuẩn và các thành phần khác của nó. Khi vượt quá giới hạn sẽ xảy ra sự tăng số lượng các loại tảo, trầm tích hoặc cầu gai ăn mùn bã và như thế cá cũng như các loài nhạy cảm khác cũng giảm xuống.

6. Rạn san hô Việt Nam

Rạn san hô là một trong những hệ sinh thái đặc sắc của biển Việt Nam, nơi có đa dạng sinh học rất cao, năng suất sơ cấp lớn, cảnh quan kỳ thú. Các rạn san hô của Việt Nam phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên diện tích khoảng 1.222 km2, tập trung nhiều ở vùng biển Nam Trung bộ, Quần đảo Hoàng Sa và Trường sa. San hô Việt Nam rất đa dạng và phong phú với khoảng 350 loài tạo rạn kèm theo khoảng 3.000 loài sinh vật khác có đời sống liên quan và gắn bó với vùng rạn san hô. Trong đó, có khoảng 2.000 loài sinh vật đáy, cá (500) loài và nhiều loài có giá trị kinh tế cao như tôm hùm (Panulirus), bào ngư (Haliotis diversicolor), trai ngọc (Pteria martensi), hải sâm (Holothuria),... sống gắn bó trực tiếp với san hô. Ở vịnh Hạ Long, phát hiện được 205 loài san hô cứng, 27 loài san hô mềm. Ở Côn Đảo, có 219 loài san hô, tập trung thành khu vực lớn kèm theo 160 loài cá san hô.

Bảng 2.2. Sự suy giảm độ che phủ san hô ở một số vùng ven biển Việt Nam

TT Vùng nghiên cứu Độ phủ san hô bị suy giảm (%) Thời gian

1 Hạ Long - Cát Bà - 7,1 1993-1998

2 Cù Lao Chàm - 1,9 1994 - 2002

3 Vịnh Nha Trang - 21,2 1994 - 2002

4 Côn Đảo - 32,3 1994 - 2004

5 Phú Quốc - 3.3 -

Nguồn: Viện Hải Dương học Nha Trang, 2003

Hệ sinh thái rạn san hô có cấu trúc phức tạp, rất nhạy cảm với sự đe dọa của môi trường, đặc biệt là những de dọa từ con người như đánh bắt cá bằng thuốc nổ, hóa chất độc, khai thác san hô bừa bãi, hoạt động du lịch và các hoạt động phát triển kinh tế xã hội khác. Trong 15 năm trở lại đây, khoảng 15-20% diện tích các rạn san hô bị mất, tập trung chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như vịnh Hạ Long, cát tỉnh ven biển miền trung và một số đảo có người sinh sống thuộc quần đảo Trường Sa.

Page 32: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

32

Độ phủ trên rạn san hô đang bị giảm dần theo thời gian, nhiều nơi độ phủ giảm trên 30% (Bảng 2.2.). Điều này cho thấy rạn san hô đang bị phá hủy và có chiều hướng suy thoái mạnh. Sự biến đổi diện tích và những tổn thương của nhiều rạn san hô gây nhiều thiệt hại: giảm đa dạng sinh học, sinh thái và chất lượng môi trường biển; mất nguồn lợi sinh sống của cộng đồng vùng ven biển và thiệt hại cho ngành du lịch và thủy sản.

Câu hỏi ôn tập chương 2. 1. Các đặc trưng môi trường của hệ sinh thái cửa sông. 2. Quần xã sinh vật và các quá trình sịnh thái cửa sông. 3. Sự thích nghi của sinh vật vùng triều. 4. Vai trò của hệ sinh thái vùng triều. 5. Phân bố và đặc trưng môi trường của hệ sinh thái rừng ngập mặn. 6. Cấu trúc cà chức năng của hệ sinh thái rừng ngập mặn. 7. Tầm quan trọng của hệ sinh thái rừng ngập mặn. 8. Hiện trạng rừng ngập mặn Việt Nam. 9. Phân bố và cấu trúc của thảm cỏ biển. 10. Chức năng của thảm cỏ biển. 11. Các mối quan hệ trong quần xã ở hệ sinh thái rạn san hô. 12. Tầm quan trọng của hệ sinh thái rạn san hô.

Page 33: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

33

Chương 3.

TÁC ĐỘNG CỦA CON NGƯỜI ĐẾN MÔI TRƯỜNG VÙNG VEN BỜ

Các tác động của con người đến môi trường vùng ven bờ có thể xếp vào 3 loại:

• Các tác động vào cấu trúc: bắt nguồn từ việc biến đổi và phá huỷ nơi ở

• Các tác động vào quá trình: kết quả của việc tác động chủ động và không chủ động vào các nhân tố vật lý hoá học và sinh học.

• Các tác động tiện ích: thay đổi môi trường làm giảm cơ hội hiện tại và tương lai đối với việc sử dụng một vùng thiên nhiên bao gồm cả việc sử dụng mà hiện nay không biết trước.

CON NGƯỜI

Khai hoang

Chất thải

Khai thác

Bảo vệ bờ

Phát triển nơi nghĩ

Đập nước Công nghiệp

Loại bỏ chất thải

Nông trại, cảng biển

Bảo vệ nhà cửa, khu công nghiệp

Cát và đá xây dựng

Nghỉ ngơi, phong cảnh

Cấp nước, chất thải, vận chuyển

Cấp điện, chống lũ

MÔI TRƯỜNG

Khai hoang Chất thải

Khai thác

Bảo vệ bờ

Phát triển nơi nghĩ

Đập nước Công nghiệp

Ô nhiễm Mất nơi cư

trú, tăng việc bảo vệ

Mất nơi ở, tăng xói mòn, ảnh hưởng tới trầm tích

Mất nơi ở, thay đổi chế độ sóng,

Nơi ở mất (rạn san hô) gia tăng áp lực với cộng đồng

Ô nhiễm, mất nơi ở, gia tăng nhu cầu bảo vệ

Mất nơi ở , thay đổi chế độ triều

Hình 3.1. Phát triển vùng ven bờ nhìn từ khía cạnh môi trường

Hình 3.1. Phát triển vùng ven bờ nhìn từ khía cạnh con người

Page 34: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

34

Nhìn chung, các tác động phối hợp đối với vùng ven biển trong các đô thị cũng như vùng ven biển nông thôn bao gồm:

• Phát triển xây dựng như các bến du thuyền và các đê chắn sóng có thể gây nên sự phá huỷ nơi ở và gia tăng sự xói mòn bờ biển.

• Kết hợp ô nhiễm với các loại hình công nghiệp khác nhau

• Thay đổi việc sử dụng đất (ví dụ chuyển đổi nông thôn thành thành thị) gây ra sự suy thoái vùng ven bờ và cửa sông và làm xáo trộn hàm lượng muối sulphát trong đất.

• Cải tạo đất cho bến cảng, kho hàng và phát triển đô thị gây ra sự mất vùng triều và tài nguyên nước.

• Nông nghiệp góp phần vào việc phát tán chất các chất hoá học và chất dinh dưỡng theo dòng nước làm tăng sự lắng đọng trầm tích do đất bị xói mòn.

• Du lịch và giải trí dẫn đến việc thay đổi môi trường ven bờ và sử dụng quá mức tài nguyên.

I. Đô thị hoá Đô thị hóa là quá trình mở rộng các điểm dân cư đô thị và phổ cập lối sống thành thị

trên lãnh thổ nhằm phát triển mạng lưới đô thị hoàn chỉnh phục vụ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời mở ra những cơ hội đầu tư lớn mạnh về mọi phương diện cho các thành phần kinh tế.

Các vùng ven biển là nơi sinh sống thuận lợi của con người từ thời tiền sử. Vùng ven biển thuận lợi vì một loạt lý do, trong đó có sự điều hoà ảnh hưởng đại dương đến các điều kiện khí hậu khác nghiệt; gần với vùng đất nông nghiệp màu mỡ, dễ dàng tiếp cận với tài nguyên sinh vật biển và dễ dàng vận chuyển bằng đường thuỷ. Kết quả là khoảng 70% các thành phố lớn trên thế giới có dân số trên 2,5 triệu dân nằm dọc theo bờ biển. Sự gia tăng dân số vùng ven biển đang vượt quá tốc độ gia tăng dân số toàn cầu do hậu quả của sự di cư ra vùng ven biển. Sự di cư này đặc biệt lớn ở các nước đang phát triển nơi mà sự chuyển dịch ra các trung tâm đô thị ven biển có liên quan tới sự tìm kiếm việc làm, giáo dục, y tế và các dịch vụ khác.

Đô thị hoá có những tác động sâu sắc đến các nguồn tài nguyên ven biển. Có thể là từ việc ô nhiễm vùng nước ven bờ do ảnh hưởng của nước chảy tràn bề mặt và nước thải, suy thoái các bãi biển và các môi trường tự nhiên khác do sử dụng không đúng hay quá mức; giảm thiểu diện tích các vùng đất cỏ hoang bụi rậm ven bờ, các vùng đất ngập nước, suy thoái nơi ở. Khi các vùng định cư đô thị được thành lập, thường ít có các nghiên cứu về các tác động của đô thị đến môi trường xung quanh. Kết quả là nước chảy tràn bề mặt và các hệ thống chất thải thải trực tiếp vào sông và các nguồn nước mà không chú ý đến ảnh hưởng của các chất thải này đến chất lượng nguồn nước nhận. Thêm vào đấy, nhiều khu vực tập trung dân số xung quanh khai thác quá mức các hoạt động giải trí.

Trong hầu hết các trường hợp, sự phát triển các khu đô thị mới đều gây nên những sự chuyển đổi các nguồn tài nguyên từ dạng này sang dạng khác. Ví dụ sự chuyển đổi các vùng cây bụi còn sót lại thành các vùng ruộng đất. Trong một số trường hợp, các mục tiêu bảo tồn cũng bị bỏ qua trong quá trình phát triển, tạo ra sự mất nơi cư trú và chất lượng môi trường nói chung. Phát triển các đô thị mới mà quá trình quản lý không hiệu quả cũng làm nới rộng các tác động không mong muốn về các nguồn tài nguyên.

Đất đai bị thu hẹp, hệ thống giao thông thủy lợi, các hệ thống phục vụ sinh hoạt tăng lên gây ra những khó khăn về môi trường sinh thái. Tốc độ đô thị hóa càng nhanh thì những vấn

Page 35: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

35

đề về đất đai là rất cần thiết, là nguyên nhân gây nên các vấn đề môi trường ở vùng ven bờ như là các bãi rác. Ngoài ra các bãi đất trống bị xâm chiếm một cách nghiêm trọng.

Khi tốc độ đô thị hóa tăng thì dân số tập trung cao và để phục vụ nhu cầu của con người, công nghiệp phát triển để đáp ứng việc làm và các nhu cầu khác. Với sự đô thị hóa này nó gây ra áp lực trong quản lý, từ đó nảy sinh những vấn đề ảnh hưởng đến môi trường như sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với số lượng nhỏ nên không có các biện pháp xử lý nước thải, chất thải rắn,... Hệ sinh thải thủy vực bị ô nhiễm mạnh, ô nhiễm đại dương, bờ biển và sông hiện nay là mối quan tâm của con người.

Quá trình đô thị hóa dẫn đến nhu cầu mở rộng đất ở vùng triều và vùng ven bờ tăng nhanh, chủ yếu sử dụng cho nông nghiệp, thủy sản và dùng cho xây dựng nhà ở, xí nghiệp, mở rộng mạng lưới giao thông, bền cảng,...

Nguồn nước thải sinh hoạt được thải trực tiếp từ các khu dân cư ven biển. Chất lượng nước thải chủ yếu là giàu chất hữu cơ, phân rác, cùng với chất thải từ các nền công nghiệp ven biển. Lượng chất thải này được thải trực tiếp vào biển không qua xử lý hoặc thải vào sông rồi qua biển gây ô nhiễm hữu cơ, làm giảm lượng oxy trong nước, mất nơi cư trú của các loài sinh vật biển. Thêm vào đó sự ô nhiễm biển còn do chế phẩm phục vụ nuôi tôm, dư lượng các loại thuốc kích thích, trừ sâu, bảo vệ thực vật,... góp phần làm gia tăng tần suất xuất hiện ‘thủy triều đỏ’ gây ô nhiễm nghiêm trọng đến nền kinh tế biển, mất cân bằng sinh thái biển.

Xây dựng các cơ sở hạ tầng ở đô thị tiềm ẩn các nguy cơ ô nhiễm môi trường do nước thải, khí thải, chất thải rắn. Các công viên cây xanh, các khu vui chơi giải trí bị thu hẹp lấn chiếm, ảnh hưởng đến môi trường sống của dân cư vùng ven bờ.

Do dân cư tập trung đông đúc ở các đô thị ven bờ nên nhu cầu về nước ngọt sử dụng cho công nghiệp, nông nghiệp, sinh hoạt tăng lên, dẫn đến việc khai thác nước ngầm ven biển quá mức gây ô nhiễm nước ngầm, gia tăng lún sụt ở vùng ven bờ.

Quá trình đô thị hóa làm nhiều ao hồ bị san lấp, nhiều sông mương bị thu hẹp, đây là nguyên nhân làm giảm khả năng chứa, giảm dòng chảy từ sông đổ ra biển làm mất cân bằng hệ sinh thái sông và cửa sông.

Quá trình xây dựng nhà ở, công trình ven bờ đã gây ra lắng đọng trầm tích, bùn cát làm kìm hãm sự phát triển của san hô, cỏ biển.

Do tăng nhanh dân số, cùng với sự phát triển của các khu công nghiệp, đô thị,... đòi hỏi phải gia tăng nhu cầu lương thực, thực phẩm, chất đốt, nguyên vật liệu xây dựng, nơi ở,... vì vậy nhiều nơi đã phá hủy rừng ngập mặn để lấy đất sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, xây dựng thành phố mới, bến cảng,... Hậu quả là thu hẹp diện tích rừng ngập mặn nhanh chóng, tài nguyên lâm, thủy sản cạn kiệt dần, nạn xói lở bờ sông, bờ biển tăng làm cho môi trường ngày càng xấu đi.

Một tác động kết hợp phát sinh khi việc sử dụng đất ở các vùng kế cận xảy ra để mở rộng diện tích đô thị. Các dạng sử dụng đất cho các vùng "gọi là đô thị" này có thể tạo ra những áp lực cho việc cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng. Mật độ thấp có nghĩa là giá trên mỗi đơn vị cao đối với việc cung cấp và duy trì các dịch vụ và cơ sở hạ tầng như đường sá, cấp nước và giáo dục. Ngoài ra, cư dân ở các vùng này thường trông đợi cao hơn về các dịch vụ sẽ được cung cấp. Sự trông đợi như vậy thường biến thành các yêu cầu đối với chính quyền địa phương và các người cung cấp các dịch vụ khác đáp ứng tăng thêm các điều kiện vật chất.

II. Nông nghiệp Cũng như các nơi khác, nông nghiệp ở vùng ven bờ có vai trò quan trọng trong việc

chiếm dụng đất. Vùng ven bờ có các điều kiện khí hậu và đất đai thuận lợi cho nông nghiệp. Ngoài chức năng hết sức rõ ràng là cung cấp lương thực cho cộng đồng ven bờ, nông nghiệp cũng tạo ra nguyên vật liệu cho công nghiệp ở các thành phố cảng. Sản phẩm nông nghiệp có

Page 36: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

36

thể tìm thấy trong các thị trường du lịch, mặc dù các sản phẩm này không phải luôn luôn chiếm vị trí ưu thế. Nông nghiệp cũng tạo ra kế sinh nhai cho cộng đồng địa phương và bao gồm cả cư dân ở các thành phố ven bờ.

Nông nghiệp vùng ven bờ thường có những lợi ích từ các điều kiện môi trường thuận lợi, từ các vùng đất tốt và sự giao thông liên lạc của biển cũng như từ sự phát triển của công nghiệp và du lịch ven bờ. Tuy nhiên, nông nghiệp ven bờ cũng phải chịu áp lực liên quan đến trạng thái ở gần với biển bao gồm nguy cơ của việc mặn hoá không khí và nước; chất lượng nước kém và không an toàn xuất phát từ các hoạt động ở vùng thượng lưu; sự cạnh tranh gay gắt về đất ở vùng ven bờ.

Lĩnh vực nông nghiệp cũng ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng của các lĩnh vực khác. Các mối tương tác này có thể tích cực nhưng thường là tiêu cực và xoay quanh các cạnh tranh về đất, nước, nguồn vốn và lao động.

Tác động tiêu cực của nông nghiệp đối với các lĩnh vực khác bao gồm: việc làm ô nhiễm nghề cá thông qua các hoá chất dùng trong nông nghiệp và làm nghẽn bùn đối với các rạn san hô và các cảng do việc xói mòn đất. Mất nơi ở và suy giảm đa dạng sinh học vùng ven bờ cũng có thể xảy ra. Ngược lại, nông nghiệp ven bờ cũng có thể bị ảnh hưởng từ các ô nhiễm xuất phát từ các hoạt động ở vùng ven bờ hay thậm chí có thể gây ra các tác động tiêu cực do chính các hoạt động của nó, ví dụ như hoạt động tưới tiêu không thích hợp có thể dẫn đến việc nhiễm mặn nước biển.

Để có thể có kế hoạch thống nhất của nông nghiệp trong kế hoạch tổng thể của vùng ven bờ, giai đoạn đầu tiên là thu thập các thông tin thích đáng và hữu ích. Các thông tin này bao gồm các đặc điểm môi trường kinh tế xã hội, sinh học, vật lý; mối tương tác giữa các lĩnh vực, sự quản lý và sự cưỡng ép, các cơ hội và khả năng lựa chọn trong các lĩnh vực. Giai đoạn tiếp theo là vạch ra kế hoạch liên quan đến các đặc điểm đặc biệt của nền nông nghiệp ven bờ, trong khi vẫn bảo đảm kế hoạch này phù hợp với mục tiêu tổng thể của quốc gia về nông nghiệp. Trong giai đoạn này, các biện pháp giảm thiểu hay tránh các tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác phải được trình bày. Điều đó có thể phải rà xét lại kinh phí, việc đánh thuế và các qui định trong khi trình bày các dịch vụ hổ trợ và xem lại cơ cấu hành chính. Kết quả có thể thay đổi về mô hình sản xuất và phương pháp canh tác. Trong quá trình thực hiện, các người cùng tham gia và các bên liên quan sẽ được thăm dò và cần duy trì mối liên lạc thích đáng với các Bộ, Ngành của các lĩnh vực khác.

Các kế hoạch phát triển nông nghiệp vùng ven bờ sẽ trình bày các đặc điểm đặc biệt về nông nghiệp của vùng, mối tương tác với các lĩnh vực khác và tầm quan trọng của các hoạt động bền vững.

III. Du lịch và giải trí Du lịch là một ngành kinh doanh tổng hợp không những chứa đựng trong đó những giá

trị kinh tế đơn thuần mà cả những giá trị về lịch sử, văn hóa của một vùng miền. Du lịch ở những vùng ven bờ đang là nguồn thu nhập cao cho các nước có vùng ven bờ. Tại đây, người ta sẽ được thưởng thức những phong cảnh đẹp ở những vùng cửa sông ven biển, những bãi biển tuyệt vời, các đảo đá với đầy hang động, bờ cát mịn, vùng đầm phá, rừng ngập mặn, các rạn san hô,... Vùng ven bờ là điều kiện lý tưởng để phát triển tiềm năng du lịch, nghĩ mát và điều dưỡng. Đi cùng theo các hoạt động dịch vụ phục vụ cho du lịch giải trí như là bơi thuyền thưởng ngoạn, lặn, lướt sóng, câu cá tắm biển, ngắm san hô,... Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích đem lại, thì du lịch giải trí đang gây ra những tác động ảnh hưởng đến môi trường ven bờ. Các hoạt động của con người trong lĩnh vực này đã góp phần làm cho môi trường ven bờ bị suy thoái. Các tác động tiêu cực của du lịch đến môi trường vùng ven bờ có thể kể là :

• Khai thác quá mức và không hợp lý hải sản phục vụ nhu cầu thưởng thức đặc sản biển cho du khách. Trong những năm gần đây, năng suất đánh bắt một số nghề bị

Page 37: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

37

giảm sút nghiêm trọng (nhất là các nghề hoạt động ven bờ có độ sâu dưới 30 m), sản lượng khai thác các loại hải sản chưa đến tuổi trưởng thành chiếm khá cao, đặc biệt một số tôm cá, nhuyễn thể, các sinh vật quý hiếm. Việc phá hủy san hô thông qua sử dụng thuốc nổ và lấy san hô làm cạn kiệt nguồn tôm giống và các đàn cá gần bờ.

• Buôn bán các hàng mỹ nghệ từ hải sản phục vụ khác du lịch: đây là nguyên nhân dẫn đến cạn kiệt một số loài san hô, trai ốc, tôm hùm và đồi mồi. Việc buôn bán cá cảnh biển phát triển ở một số trung tâm du lịch kéo theo việc đánh bắt cá quá mức trên các rạn san hô. Sự khai thác quá mức và không hợp lý ở vùng biển ven bờ đang là mối đe dọa lớn cho nhiều loài sinh vật biển, đó cũng là nguyên nhân làm mất cân bằng tự nhiên của các quần xã ven bờ.

• Xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ cho các hoạt động du lịch giải trí: lợi thế kinh tế trực tiếp cũng được tạo ra bởi các hoạt động du lịch và theo đó đã có sự bùng nổ về du lịch với việc xây dựng hàng loạt khách sạn, nhà nghỉ, cửa hàng ăn uống và các bãi biển nhân tạo dọc bờ biển đã được cảnh báo là mối đe dọa lớn nhất đối với môi trường ven biển thế giới. Các diện tích đất hay mặt nước vùng ven bờ sẽ được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng, làm giảm dần diện tích đất và mặt nước. Hiện tại các rừng đước che phủ trên 16 triệu ha ven bờ biển, song diện tích đang thu hẹp hàng năm với tốc độ 2%. Chỉ trong mấy thập kỷ cuối cùng lại đây, hoạt động đánh bắt và nuôi hải sản của con người (phục vụ cho nhu cầu hàng ngày và du lịch, giải trí,...) đã phá hủy và làm thay đổi tới 50% diện tích các rừng đước trên thế giới. Điều tồi tệ hơn là trong tổng diện tích các rừng đước còn tồn tại hiện nay trên phạm vi toàn cầu chỉ có 1% được bảo vệ.

• Hoạt động tham quan, du lịch cũng làm ảnh hưởng đến số lượng, nơi cư trú và sinh sản của một số loài chim sinh sống ở các khu rừng ngập mặn, vùng đất ngập nước ven bờ: các hoạt động du lịch ở rừng ngập mặn như tham quan đi bộ trong rừng, ngắm cảnh, chụp ảnh, săn bắn, khám phá,... gây ra tiếng động mạnh hay phá hủy một số nơi cư trú của một số loài động, thực vật ở nơi đây, làm thay đổi tập tính và đời sống của chúng. Việc khai phá và chuyển đổi mục đích sử dụng của các vùng đất ven biển làm mất đi khu hệ cư trú của các loài hoang dã, phá vỡ các nhân tố sinh sản, nuôi dưỡng, làm tuyệt chủng cục bộ, làm chết các cá thể sinh vật.

• Môi trường ven bờ cũng đang chịu sự tác động của những nguồn ô nhiễm từ đất liền do chất thải sinh hoạt của du khách vãng lai: các chất thải này có nguy cơ làm thay đổi chất lượng nước, các hệ sinh thái vùng ven bờ. Từ đó dẫn đến mất đa dạng sinh học do ô nhiễm và phá hủy môi trường sống. Sự thay đổi của một số hợp phần tự nhiên hoặc sự mất đi của một số loài sinh vật cấu thành nên hệ sinh thái nào đó dưới tác động của con người sẽ là nguyên nhân làm thay đổi, thậm chí mất đi hệ sinh thái đó và kết quả là tài nguyên sẽ bị ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau. Các chất thải rắn từ hoạt động du lịch nếu không được quản lý tốt sẽ làm ô nhiễm môi trường vùng ven bờ.

• Ô nhiễm không khí ở các khu công nghiệp gần vùng biển hay do hoạt động vận chuyển khách du lịch cũng sẽ tác động đến sự sinh trưởng của nhiều loài sinh vật, làm di chuyển nơi cư trú của một số loài nhạy cảm với môi trường không khí.

• Khách du lịch và phương tiện vận chuyển khách du lịch có thể có thể đem đến một số loài sinh vật ngoại lai, ảnh hưởng đến sự phát triển của một số hệ sinh thái ven bờ.

• Việc xây dựng các công trình du lịch trên cát cồn cát nhạy cảm thường gây ra xói mòn, thay đổi tính chất đới bờ và dần dần mất đi một số loài sinh vật phát triển trên một số hệ sinh thái cát ven biển.

Page 38: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

38

• Chất thải từ các tàu thuyền du lịch, gồm cả máy dầu, tiếng ồn của động cơ sẽ trực tiếp làm ô nhiễm các thủy vực, môi trường biển. Neo đậu tàu thuyền không đúng nơi quy định cũng phá hủy nhiều rạn san hô có giá trị.

• Những hành vi thiếu ý thức của khách du lịch khi khám phá các rạn san hô và việc khai thác san hô làm quà lưu niệm của người dân địa phương, ngoài việc phá hủy trực tiếp rạn san hô còn góp phần làm xói mòn nghiêm trọng vùng bờ, làm mất đi lớp bảo vệ bờ biển.

• Việc sử dụng nước thiếu tính toán cho nhu cầu du lịch dẫn đến tình trạng thiếu nước cục bộ và làm tăng khả năng bị nhiễm mặn ở khu vực ven biển, làm chết cây cối.

• Việc xây dựng các khách sạn, đường sá dẫn đến việc san ủi đất gây ra sự xói mòn và trôi chảy trầm tích gây tác hại đến vùng cửa sông và rạn san hô.

• Nước thải từ các nhà hàng và khách sạn chưa được xử lý đầy đủ gây thêm tình trạng ô nhiễm vùng ven bờ cũng như làm ô nhiễm nguồn nước dùng cho sinh hoạt, là nguyên nhân gây bệnh và làm chết các nhiều loài động vật nước.

Tóm lại, tác động của du lịch ở vùng ven bờ có thể gây ra những thảm hoạ đối với môi trường và cộng đồng địa phương. Giải pháp cho các vấn đề này là phát triển du lịch dựa vào các nguyên lý của sự bền vững. Trước khi thực hiện phát triển du lịch ven bờ, cần phải đánh giá và phân loại cẩn thận các khu vực ven bờ cũng như tính nhạy cảm về sinh thái, xã hội và văn hoá của nó. Cần phải có các kế hoạch và mục tiêu quản lý đối với từng vùng. Những vùng có nhạy cảm cao, có đặc thù về mặt môi trường cũng như có ý nghĩa về văn hoá cần phải thường xuyên bảo vệ, đó là các vùng bảo vệ không phát triển. Ở những vùng phát triển, cần phải có sự cân đối giữa phát triển du lịch và thiên nhiên. Công nghệ, vật liệu và thiết kế phải ở mức tác động thấp nhất tới sự suy thoái môi trường di sản văn hoá để du lịch học được kinh nghiệm và duy trì với cộng đồng địa phương.

IV. Nuôi trồng thuỷ sản Vùng ven bờ là nơi thích hợp cho việc nuôi trồng các loài thuỷ sản biển cũng như các

loài nước ngọt. Việc nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa lớn trong việc cung cấp protein và giảm thiểu đói nghèo cho người dân sống vùng ven bờ. Tuy nhiên hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng đem lại nhiều tác hại về mặt môi trường ở đây.

Trước hết hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cạnh tranh về không gian với các lĩnh vực khác như du lịch, giải trí và nông nghiệp,... Để có thể phát triển, nuôi trồng thuỷ sản cần phải có nước sạch, không có các sinh vật lạ du nhập; xây dựng cơ sở hạ tầng, như xây dựng nhà cửa, kho hàng, đường sá,... Các vùng đất thấp ven bờ như rừng ngập mặn, đất nông nghiệp, các bãi triều đã bị chuyển đổi thành các ao nuôi tôm.

Tác động rõ ràng nhất và được quan tâm nhiều nhất là rừng ngập mặn đã bị biến đổi thành các ao nuôi. Sự suy thoái rừng ngập mặn cùng với sự phát triển của nuôi tôm xảy ra ở Châu Á, Trung Mỹ. Có khoảng 1-1,5 triệu ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm trên phạm vi toàn thế giới, trong đó, riêng ở Châu Á, đã có hơn 500.000 ha rừng ngập mặn đã bị chuyển đổi thành ao nuôi tôm nước lợ. Việc nuôi tôm gia tăng ngoại tệ cho các nước phát triển, nhưng việc mất mát nơi ở nhạy cảm là khó bù đắp. Rừng ngập mặn có vai trò trong việc chống xói mòn, duy trì chất lượng nước ven bờ và là nơi sinh sản của nhiều loài sinh vật. Rừng ngập mặn cung cấp các nguồn tài nguyên tái tạo như gỗ, sợi, than đá,.. cho cộng đồng người dân địa phương. Chuyển đổi thành ao nuôi tôm, sinh cảnh này bị phá trụi và rất khó để phục hồi. Tiếc rằng các ao nuôi tôm thường chỉ sinh lợi trong thời gian ngắn do đấy chính là đối tượng của mầm bệnh và giá tôm hạ xuống trên thị trường. Việc quay trở lại sự đánh bắt truyền thống không phải luôn luôn dễ dàng do mất đi các khu rừng ngập mặn, có nghĩa là mất đi môi trường nuôi dưỡng, là nguồn bổ sung quan trọng cho các loài thuỷ sản tự nhiên.

Page 39: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

39

Một tác động thường gặp của việc nuôi tôm thâm canh đó là sự thấm rỉ của nước mặn từ các ao nuôi đến nguồn nước ngầm và các vùng đất nông nghiệp trồng lúa kế cận. Trong một số vùng ở Thái lan, việc sử dụng nước ngầm để bơm cho các ao nuôi tôm đã làm cho nguồn nước ngầm bị nhiễm mặn. Điều đó có thể dẫn tới những tổn thất về mặt xã hội như giảm việc cung cấp nước cho nông nghiệp và sinh hoạt, chuyển đổi lao động,... Một tác động khác đã được báo cáo ở một số vùng ở Châu Á liên quan đến việc sử dụng nước ngầm cho nuôi tôm là làm cho đất bị lún sụt.

Trong quá trình hoạt động, nuôi trồng thuỷ sản tạo ra các tác động tiêu cực đối với môi trường như việc dư thừa thức ăn nhân tạo trong quá trình nuôi, làm thay đổi cấu trúc chuỗi thức ăn tự nhiên của môi trường; làm thay đổi cấu trúc quần xã động vật đáy do một số nhóm ưa các thức ăn dư thừa này hơn một số nhóm khác; thêm vào đấy, một số nhóm sinh vật đáy sống cố định có thể bị chết do hàm lượng oxygen trong tầng đáy bị suy giảm do quá trình phân huỷ của vi sinh vật.

Một trong những tác động lớn của việc nuôi trồng thâm canh các loài thuỷ sản đối với môi trường nước xung quanh là hiện tượng phú dưỡng. Các chất bài tiết, chất thải của vật nuôi cùng với các chất dinh dưỡng trong quá trình phân huỷ thức ăn dư thừa đã làm cho hàm lượng các chất dinh dưỡng trong nước cao hơn mức bình thường gây ra hiện tượng nở hoa của các loài tảo. Sự phát triển quá mức của một số loài tảo giáp có gai có thể cản trở quá trình ăn lọc của một số loài cá. Mặc dù một số loài tảo phát triển tốt khi hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước cao, tuy nhiên một số loài tảo độc hại khi nở hoa, gây ra hiện tượng thuỷ triều đỏ (red tides) có thể gây độc cho các sinh vật khác. Các chất độc của các loài tảo này có thể được tích tụ trong quá trình ăn lọc của các loài hai mảnh vỏ, có thể gây nguy hiểm đối với sức khoẻ của con người.

Để giảm thiểu các tác động của các chất ô nhiễm từ các ao nuôi đến chất lượng nước ven bờ có thể nuôi ghép các loài 2 mảnh vỏ, cá và tôm; sử dụng nước ao tôm để nuôi các loài hàu, vẹm và cỏ biển là những giải pháp tích cực. Tương tự, việc sử dụng nước trong ao tôm để tưới cho các loài cây trồng chịu mặn cũng đã được quan tâm. Glenn 1991 và Brown 1999 đã thấy rằng các loài cây chịu mặn thấp (Salicornia bigelovii, Atrilplex, Distichlis) và chịu mặn cao (Suaeda esteroa) có khả năng loại nitơ trong nước ao nuôi tôm rất hiệu quả. Cải tiến phương pháp cung cấp thức ăn và thành phần chất dinh dưỡng trong thức ăn là chiến lược hiệu quả để làm giảm tải lượng nitơ và photpho vào môi trường. Thức ăn sống như các loài tảo và Chironomid mặc dù có hàm lượng protein cao nhưng làm giảm việc bài tiết nitơ do đó ít có tác động xấu tới chất lượng nước so với thức ăn nhân tạo.

Một biện pháp khác là sử dụng rừng ngập mặn như là bộ máy lọc các chất ô nhiễm từ ao nuôi. Alongsi, 1991 và Boto 1992 đã thấy rằng, rừng ngập mặn rất có hiệu qủa trong việc loại chất thải rắn và các chất dinh dưỡng thải từ ao nuôi. Monoroy 1999 đánh giá rằng 0,04 - 0,12 ha rừng ngập mặn có khả năng loại bỏ hoàn toàn nitơ vô cơ trong nước thải từ 1 ha ao tôm nuôi bán thâm canh.

Chất thải trầm tích đáy: một tác động khác rất quan trọng trong quá trình nuôi ở các ao cao triều là các chất thải từ nền đáy ao nuôi. Vào thời điểm kết thúc vụ nuôi, một khối lượng lớn bùn trong ao, khoảng 200 tấn/ha/vụ không qua xử lý đã được thải ra ngoài. Lượng bùn đáy này chứa một lượng lớn các chất ô nhiễm, thức ăn dư thừa, các sản phẩm bài tiết của vật nuôi thường thải ra ngoài môi trường không theo qui hoạch hay thường dùng để bồi đắp các đê bao ao nuôi. Các chất thải trong lượng bùn này sau đó sẽ theo nước mưa đi vào môi trường nước, làm ô nhiễm môi trường nước tự nhiên hay cả nước trong các ao nuôi.

Nuôi trồng thuỷ sản vùng ven biển đòi hỏi một lượng lớn nước ngọt cần thiết cho các hoạt động sinh hoạt, và vận hành nuôi. Thêm vào đó, ở vùng ven biển miền Trung, nơi có đất cát và nhiệt độ cao, lượng nước bốc hơi bề mặt và thẩm thấu qua đất có thể lên tới 1-3% thể tích ao nuôi. Phần lớn các ao nuôi cao triều ở vùng ven biển cần phải bổ sung một lượng lớn

Page 40: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

40

nước ngọt để điều hoà độ muối thích hợp cho vật nuôi trong khoảng 150/00. Theo tính toán của các chuyên gia, cứ 1 ha nuôi tôm trên cát cần từ 16.000 đến 27.000 m3 nước, nếu chỉ tính mỗi năm nuôi 2 vụ, thì lượng nước ngọt phải sử dụng cho cả hàng ngàn ha nuôi tôm trên cát ở khu vực Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung đã lên tới hàng tỷ m3 năm. Vì vậy, một lượng lớn thể tích nước ngầm cần phải được bơm lên để có được môi trường nuôi thích hợp, điều đó đã làm cho mức nước ngầm bị hạ thấp dẫn đến việc nhiễm mặn các vùng đất và các dòng nước kế cận. Ngay cả khi không bơm nước ngọt lên thì việc thải nước thải có nồng độ muối cao có thể làm nhiễm mặn đất nông nghiệp. Việc thiếu nước ngọt, nhiễm mặn không chỉ làm giảm nước cung cấp cho nông nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nước uống và các nhu cầu khác của người dân và của các hệ sinh thái ven bờ. Tại Ninh Thuận, các nhà khoa học đã ghi nhận được hiện tượng rừng cây phi lao ven biển chết do thiếu nước ngọt. Có nơi rừng phòng hộ bị suy kiệt, gió cát vùi lấp cả ao nuôi tôm.

Ao nuôi bị bỏ hoang: tuổi thọ trung bình của một ao nuôi trồng thuỷ sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như chế độ quản lý, chất lượng nước, trầm tích đáy,... và thường dao động trong vòng 7-15 năm. Tại một số vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, do thiếu hệ thống thuỷ lợi hợp lý hoặc hệ thống xử lý chất thải không đảm bảo làm cho chất lượng nước trong ao nuôi biến đổi theo chiều hướng xấu, dẫn đến hiện tượng “thối ao” và sau một số năm sử dụng, năng suất nuôi giảm đáng kể, sau đó ao sẽ bị bỏ hoang. Việc hoàn thổ các vùng đất được sử dụng làm ao nuôi này rất tốn kém và phức tạp phần lớn do điều kiện môi trường gốc ban đầu đã bị thay đổi nghiêm trọng. Hệ thống dòng chảy bị gián đoạn, thay đổi; khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây cối của lớp đất bề mặt đã bị mất đi,... chuyển đổi hình thức sử dụng các vùng đất này về mặt môi trường hoàn toàn là một vấn đề nan giải.

Ngoài ra, việc du nhập các đối tượng nuôi mới (thường là các loài biến đổi gen) và một số bệnh phát sinh trong quá trình nuôi của các này có thể gây bệnh cho các loài địa phương. Mặc dù hầu hết các bệnh từ cá không gây hại cho con người, tuy nhiên một số bệnh cũng như có thể lan truyền cho con người (ví dụ như vi khuẩn Streptococcus).

Để hạn chế các tác động bất lợi của nuôi trồng và chế biến thuỷ sản đối với môi trường, cần thực hiện một số biện pháp sau đây:

- Bảo đảm nguyên tắc Đánh giá tác động môi trường cần thiết cho các chương trình và dự án mới trong ngành nuôi tôm.

- Cấm xây dựng các ao nuôi tôm ở những vùng đước lâu năm. Phát triển cơ chế đồng quản lý rừng đước trên cơ sở cộng đồng.

- Xúc tiến chương trình giáo dục cho tất cả các bên liên quan từ cán bộ quản lý đến cá nhân những người nuôi tôm về khái niệm phát triển bền vững và làm thế nào để đạt được điều đó trong nuôi trồng thuỷ sản.

- Quản lý chặt chẻ việc sử dụng thức ăn và thuốc kháng sinh trong nuôi trồng thuỷ sản.

- Đánh giá tác động môi trường của các cơ sở chế biến tôm đồng thời xử lý nghiêm ngặt đối với các cơ sở vi phạm vệ sinh môi trường.

- Khẩn trương xây dựng quy hoạch vùng nuôi tôm, nhất là nuôi tôm trên cát, rà soát lại diện tích nuôi trồng để có biện pháp quản lý thích hợp.

V. Khai thác khoáng sản và dầu mỏ Khoáng sản là vật liệu của vỏ trái đất, được hình thành từ quá trình tự nhiên mà con

người có thể khai thác, sử dụng một cách trực tiếp hay gián tiếp cho các nhu cầu của cuộc sống.

Quá trình phát triển văn minh của nhân loại gắn liền với quá trình phát triển khả năng sử dụng nguyên liệu khoáng. Sự phân chia các thời đại văn minh đã thể hiện rất rõ vấn đề này ở các thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt,... và đặc biệt trong điều kiện phát triển cao độ của khoa học kỹ thuật trong thời đại ngày nay thì khả năng khai thác khoáng sản ngày một

Page 41: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

41

nâng cao. Việc khai thác sử dụng sử dụng tài nguyên khoáng sản đã thúc đẩy sự phát triển của các nền văn minh nhân loại, đem lại sự thịnh vượng cho nhiều lãnh thổ. Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên cũng gây ra nhiều vấn đề môi trường nghiêm trọng ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Môi trường vùng ven bờ là thành phần chịu nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng nhất của việc khai thác khoáng sản đặc biệt là các sự cố do khai thác dầu đem lại.

a. Những tác động của việc khai thác khoáng sản đến môi trường vùng ven bờ có thể kể như sau:

Tùy theo từng loại khoáng sản mà con người có phương thức khai thác, chế biến và tàng trữ cho thích hợp để đưa lại hiệu suất cao nhất. Cho dù khai thác khoáng sản bằng công nghệ nào đi nữa thì hậu quả mà môi trường vùng ven bờ phải gánh chịu cũng rất nghiêm trọng. Các tác động đến vùng ven bờ có thể kể là:

• Các hợp chất khí CO2, SO2, CO, bụi,... được sinh ra do các công đoạn nổ mìn, các phương tiện vận chuyển là rât lớn. Các khí này sẽ tạo nên mưa axít làm ảnh hưởng đến môi trường nước, sinh vật.

• Hoạt động chảy tràn đem các chất ô nhiễm trên mặt đất và một số lượng lớn các vật liệu trầm tích vào vùng nước mặt làm suy thoái chất lượng nguồn nước, các chất ô nhiễm theo nước chảy tràn mang theo xăng dầu, nước làm lạnh máy,... của các phương tiện thi công, các hóa chất liên quan đến chất nổ và các chất thải sinh hoạt khác làm ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước mặt.

• Các hoạt động khai khoáng và nấu chảy kim loại đã tạo ra một lượng bùn lớn Sự quản lý các phế phẩm và các tồn dư khác từ khai khoáng có thể dẫn tới một loạt các vấn đề ở vùng hạ lưu ven biển do những thay đổi về nơi cư trú, chất lắng đọng và hoá chất.

• Việc khai thác nước ngầm ở vùng ven biển đã gây ra một số vấn đề nghiêm trọng và dài hạn, đặc biệt trong điều kiện nước biển dâng lên thể hiện qua việc xâm nhập mặn ở vùng cửa sông và nhiễm mặn nước ngầm.

• Khai thác cát sạn ở vùng ven bờ một cách bất hợp lý đã ảnh hưởng đến các hệ sinh thái vùng bờ.

• Trong khai thác vàng, người ta đã sử dụng một lượng lớn thủy ngân để trích ly vàng trên cát dòng sông làm cho nước bị ô nhiễm Hb. Thủy ngân rất bền vững trong môi trường do vậy tồn lưu trong đất, nước và sinh vật rất lâu gây hậu quả thứ cấp một cách lâu dài.

• Nhiều vùng trên thế giới có các dãi trầm tích lớn về thiếc, crôm và các khoáng chất khác ở ven biển hay kế cận rừng ngập mặn. Việc khai thác các khoáng sản này đã làm mất đi các vùng rừng ngập mặn.

• Ở một số nước, việc khai thác san hô để xây dựng và làm đồ trang trí trong các tiểu cảnh đã gây ra các tác hại đáng kể không chỉ nằm trong sự phá huỷ san hô mà còn ở việc mất đi khả năng bảo vệ của các rạn san hô đối với vùng bờ.

b. Những tác động của việc khai thác dầu mỏ đến môi trường vùng ven bờ là:

Hoạt động khai thác các nguồn tài nguyên không tái tạo như dầu khí các các loại khoáng sản khác ở vùng biển thường tạo ra những thay đổi về đặc tính trầm tích, phá huỷ các quần xã sinh vật đáy; việc xây dựng các giàn khoan ngoài khơi thường xung đột với các mục đích khác trong khu vực đặc biệt là đánh cá và hàng hải.

Tác động tiêu cực của việc khai thác dầu mỏ và khí đốt đã được minh chứng ở các vùng nước nội địa và ven bờ. Các tác động này có thể là những thảm hoạ từ việc tràn dầu, việc thải các chất dầu mỏ từ việc sản xuất và các hoạt động vận chuyển.

Page 42: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

42

- Các tác động trực tiếp:

• Khi nước bị nhiễm bẩn bởi dầu, giữa mặt thoáng của nước và không khí hình thành một lớp dầu làm thay đổi quá trình trao đổi khí của nước, thay đổi sức căng bề mặt, pH, nhiệt độ,... từ đó ảnh hưởng đến sinh hoạt và sự sống của các quần thể chim biển, các loài cá, giáp xác, thân mềm, hải cẩu, san hô, các loài thực vật của rừng ngập mặn,... Lớp dầu ngăn cản không cho tia sáng mặt trời qua nước, làm chậm quá trình làm giàu oxy của nước biển, trước hết làm ngừng sự sinh sản hay giết chết các loài sinh vật nổi là nguồn thức ăn quan trọng cho các loài động vật biển.

• Đối với các loài chim biển, mặc dù lông của chúng chống được sự thấm nước nhưng không chống được sự thấm dầu làm cho trọng lượng cơ thể của chim tăng lên, làm cho chúng không thể bay lên được nữa để đến nơi khác kiếm ăn. Dầu làm cho da, niêm mạc mắt bị tổn thương cùng cái đói làm cho chim kiệt sức và chết.

• Dầu có thể giết chết các rạn san hô ở độ sâu 6 m. Ở những vùng bị ô nhiễm dầu, người ta thấy đến 76% san hô bị hủy diệt.

• Dầu bám vào các loài thực vật của rừng ngập mặn làm cho cây ngạt thở và chết thành từng đám làm mất môi trường sống của các loài tảo, hàu, vẹm và các động vật không có xương sống khác sống tập trung ở vùng rễ của sú, vẹt,... cuối cùng hủy diệt cả hệ sinh thái rừng ngập mặn.

• Dầu ngoài việc làm chết nhiều loài hải sản, nó còn làm mất môi trường sống và xua đuổi các loài hải sản di cư đến những vùng khác, sẽ ảnh hưởng đến nghề cá.

• Dầu và các sản phẩm của chúng thải ra trong quá trình khai thác dầu mỏ sẽ tích tụ lại trong cơ thể sinh vật biển, làm cho thịt của chúng có mùi dầu. Khi con người ăn phải các loài hải sản này có thể bị ngộ độc hay bị ung thư do rối loạn các thông tin di truyền.

• Ngoài các tác động kể trên, việc ô nhiễm do dầu có thể ảnh hưởng tới khí hậu khu vực do giảm sự bốc hơi nước của đại dương dẫn đến giảm lượng mưa; thu hẹp khả năng dịch vụ trong lĩnh vực du lịch giải trí ven biển; việc đánh đắm các giàn khoan quá hạn, sẽ hủy hoại hệ sinh thái đáy ở khu vực đó và làm thay đổi cấu trúc nền đáy.

- Tác động gián tiếp: từ các tác động trực tiếp như đã nêu ở trên sẽ dấn đến hàng loạt các tác động gián tiếp như:

• Gây xói mòn do giảm diện tích rừng ngập mặn, rạn san hô

• Làm mất nơi cư trú của sinh vật biển

• Giảm khả năng bồi tụ bờ biển, các chất dinh dưỡng trong đất.

VI. Nghề cá: Việc khai thác, sử dụng nguồn lợi sinh vật biển ngày càng tăng góp phần tăng trưởng

kinh tế quốc gia, nâng cao đời sống, tăng thu nhập và giải quyết công ăn việc làm cho đa phần dân cư ven biển.

Song song với sự gia tăng các mối đe doạ do suy thoái chất lượng môi trường ven biển, thì việc đánh bắt hải sản trên thế giới cũng tăng lên trong thời gian qua.

Gia tăng dân số sẽ dẫn tới sự gia tăng nhu cầu về các sản phẩm biển đặc biệt là cá, do đó có thể thấy rằng tốc độ khai thác đánh bắt cá sẽ tăng tới mức mà trữ lượng các đàn cá có thể bị suy giảm hoàn toàn. Hiện nay, do hậu quả của gia tăng dân số, nhu cầu trên thế giới đã vượt quá sản lượng, gây nên sự tăng giá và giảm nguồn cá, đặc biệt đối với các nước nghèo.

Áp lực đánh bắt tăng do sự gia tăng phương tiện và các cải tiến về kỹ thuật đánh bắt. Sự khai thác quá mức đã làm sản lượng của nhiều ngư trường xuống dưới mức thu hoạch, dưới ngưỡng nền của lý thuyết. Vì áp lực đánh bắt tăng lên dẫn tới sự suy giảm kích thước quần thể, tính đa dạng gen và tính thích nghi của đàn cá cũng giảm theo. Hầu hết các đàn cá ăn đáy

Page 43: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

43

đã bị đánh bắt và nhiều đàn đang bị suy giảm. Do bị khai thác, đánh bắt quá mức, nên một số đàn cá di cư không còn khả năng phục hồi số lượng quần thể và lâm vào tình trạng bị đe dọa diệt vong.

Việc buôn bán cá cảnh biển phát triển mạnh kéo theo việc đánh bắt cá quá mức trên các rạn san hô, các bãi đá ngầm.

Như vậy, phương thức thương mại quốc tế đã dẫn đến sự gia tăng sản lượng cá xuất khẩu từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển, dẫn đến mức độ không bền vững của việc khai thác tài nguyên, làm mất cân bằng tự nhiên các quần xã sinh vật biển ven bờ. Rõ ràng là ngành đánh bắt cá quy mô nhỏ phục vụ nhu cầu và nguyện vọng của địa phương là bền vững và có tính bảo tồn hơn là các ngành đánh bắt quy mô lớn có định hướng xuất khẩu.

Việc quản lý nghề cá hiện nay trên thế giới cũng là vấn đề phức tạp liên quan đến phương tiện và kỹ thuật đánh bắt. Một số nơi trên thế giới sử dụng một số ngư cụ có thể có những ảnh hưởng có hại đối với các loài không phải là đối tượng khai thác như các loài rùa biển, các loài chim, các loài thú biển và các loài động vật không xương sống khác. Việc sử dụng các loại nghề, ngư cụ đánh bắt cá có tính hủy diệt hoặc ảnh hưởng lớn đến khả năng phục hồi quần thể còn đang phổ biến nhiều nơi như dùng chất nổ, xung điện, hóa chất độc, các nghề te, đăng đáy, lưới với mắt lưới bé,...

Bên cạnh mối đe doạ trực tiếp của việc khai thác quá mức các đàn cá, nhiều ngư trường đang gặp rủi ro do sự suy thoái nơi cư trú gây ra bởi ô nhiễm và các can thiệp khác của con người. Mối đe doạ lớn nhất đối với sản lượng nghề cá sẽ nảy sinh khi đánh bắt quá mức và sự suy thoái môi trường cư trú kết hợp nhau. Việc phát triển vùng ven biển và sự huỷ hoại nơi cư trú tự nhiên có vai trò là những bãi đẻ, nơi kiếm ăn của nhiều loài sinh vật ngoài khơi cũng là những yếu tố cần phải quan tâm. Các loài cá có các giai đoạn ban đầu trước trưởng thành, sống ở vùng nước ngọt hoặc nước lợ ven bờ, ví dụ rừng ngập mặn hay đầm lầy nước mặn, đặc biệt bị đe doạ bởi việc phát triển không hạn chế vùng ven biển.

VII. Vận tải biển. Cùng với sự phát triển của xã hội, giao thông đường thủy không còn bó hẹp trong phạm

vi một vùng mà đã phát triển thành hệ thống vận tải biển rộng lớn trên toàn thế giới, đem lại sự thịnh vượng cho mọi vùng đất. Tuy nhiên, cũng như mọi hoạt động khác, vận tải biển cũng có mặt trái của nó, ảnh hưởng trực tiếp lên các hệ sinh thái vùng ven bờ, hệ sinh thái biển và đại dương.

Ngày nay vận tải biển được sử dụng nhiều nhất là ở các ngành thương mại, quân sự, và du lịch với chức năng chuyên chở hàng hóa và người từ nơi này sang nơi khác. Để phục vụ cho các chức năng trên, ngành vận tải biển đòi hỏi phải có các cơ sở hạ tầng như các bến cảng, vũng vịnh kín, các xi nghiệp đóng tàu, sửa tàu và các vùng biển. Các tác động của vận tải biển đến môi trường vùng ven bờ có thể kể như sau:

- Xây dựng các công trình phục vụ vận tải biển:

• Mất các hệ sinh thái vùng bờ, dẫn đến mất đất, mất đa dạng sinh học và mất các nguồn lợi do các hệ sinh thái này đem lại. Làm thay đổi chế độ phù sa;

• Việc nạo vét và uốn nắn dòng sông để phục vụ giao thông đã làm phá vỡ dòng chảy, giảm chiều dài sông, tăng tốc độ dòng chảy và hạ thấp mức nước ngầm;

• Việc mở rộng mạng lưới kênh rạch dẫn đến sự xâm nhập của nước biển vào sâu trong đất liền gây mặn hóa, kết quả là làm suy thoái hệ thực vật thuỷ sinh nước ngọt.

- Những tác động do vận tải biển gây ra:

• Ô nhiễm nhiệt: do việc dùng nước biển để làm mát các thiết bị máy móc. Tác hại của ô nhiễm nhiệt có thể ảnh hưởng đến các loại trứng và ấu trùng của các

Page 44: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

44

sinh vật biển; sự tăng cao của nhiệt độ nước biển có thể làm thay đổi sự di cư của các loài động vật biển nhạy cảm với yếu tố nhiệt, làm giảm sản lượng hải sản đánh bắt hay nuôi trồng trong khu vực bị ảnh hưởng. Nước biển nóng lên là điều kiện cho sự phát triển của một số loài sinh vật biển có hại.

• Ô nhiễm hóa học: xảy ra do các hoạt động thau rửa tàu thuyền sẽ thải ra rác rưởi, dầu mở và nước thải; quá trình bốc dở hàng hóa và tiếp nhiên liệu cũng gây rơi vãi và thất thoát ra môi trường. Việc sử dụng sơn có chứa kim loại nặng và các loại dung môi trong việc đóng mới và tu sửa tàu thuyền gây nhiễm độc tại chổ đất, nước và các hệ sinh thái. Các sự cố xảy ra trên biển như đắm tàu, tai nạn,... sẽ ảnh hưởng đến cả một khu vực rộng lớn. Tác hại của ô nhiễm hóa học bao gồm ô nhiễm do kim loại nặng, các chất hữu cơ dinh dưỡng và ô nhiễm dầu.

• Ô nhiễm sinh học: bao gồm hai dạng là sự phú dưỡng và sự du nhập các sinh vật ngoại lai. Trong quá trình vận chuyển, một lượng lớn các chất hữu cơ dinh dưỡng có chứa nitơ và phospho (như phân bón, nguyên liệu sản xuất,...) bị thất thoát ra biển. Các chất này gây ô nhiễm biển, gây ra hiện tượng thủy triều đỏ, làm chết các loài sinh vật biển.Một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến vận tải biển là việc kiểm tra nước dùng để dằn tàu. Nước dùng để dằn tàu là đặc điểm cần thiết đối với sự vận hành của các tàu lớn. Việc thải khối nước này sau khi bốc dở hàng ở các bến cảng là một trong những nguyên nhân gây ra sự du nhập của các sinh vật lạ gây hại trên toàn thế giới. Các sinh vật bám gây rỉ thân tàu cũng có khả năng trở thành các sinh vật lạ. Để chống lại sự du nhập của các sinh vật bám này, hoạt động chống rỉ thân tàu có thể gây ra những vấn đề ô nhiễm, qua việc sử dụng các loại sơn chống rỉ.

Câu hỏi ôn tập chương 3 1. Tác động của đô thị hóa đến môi trường vùng ven bờ.

2. Tác động của nông nghiệp đến môi trường vùng ven bờ.

3. Tác động của hoạt động du lịch giải trí đến môi trường vùng ven bờ.

4. Tác động của nuôi rồng thủy sản đến môi trường vùng ven bờ.

5. Tác động của khai thác khoáng sản và dầu mỏ đến môi trường vùng ven bờ.

6. Tác động của nghề cá đến môi trường vùng ven bờ.

7. Tác động của vận tải biển đến môi trường vùng ven bờ.

Page 45: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

45

Chương 4.

QUẢN LÝ VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

VÙNG VEN BỜ I. Nhu cầu quản lý tổng hợp vùng ven bờ Vùng ven bờ rất quan trọng đối với việc phát triển kinh tế xã hội vì những tài nguyên

hiếm có của nó. Vùng ven bờ thực chất là một hệ thống gồm nhiều tài nguyên. Nó cho không gian, cung cấp các tài nguyên sinh học và phi sinh học, cho hoạt động của con người và chức năng điều hòa môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo. Đồng thời vùng ven bờ cũng là hệ thống được nhiều người sử dụng. Con người sử dụng các nguồn tài nguyên cho sự sống (như nước và thức ăn), cho các hoạt động kinh tế (như không gian, các tài nguyên sinh học và phi sinh học) và cho nghĩ ngơi, giải trí (các bãi biển, rạn san hô).

Quá trình công nghiệp hóa, phát triển thương mại và áp lực của sự gia tăng dân số liên tục ở nhiều nơi đã làm tăng xói mòn, lũ lụt, mất các vùng đất ngập nước, ô nhiễm, gia tăng việc khai thác bừa bãi đất đai và nguồn nước ven bờ.

Tháng 6 năm 1992, Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCED) đã được tổ chức ở Rio de Janeiro, Braxin. Lần đầu tiên trong lịch sử có một hội nghị lớn gắn trực tiếp, rõ ràng các vấn đề về môi trường và phát triển. UNCED được tổ chức để đáp ứng nhận thức ngày một gia tăng trên thế giới là không thể coi môi trường và phát triển là hai lĩnh vực chính sách tách biệt, mà sự phát triển bền vững chính là sự lồng ghép chúng.

Mục tiêu chung của UNCED là xây dựng các chiến lược và biện pháp nhằm đấu tranh chống suy thoái môi trường trong sự phát triển bền vững và lành mạnh đối với môi trường ở tất cả các nước. Hội nghị tập trung vào những lĩnh vực cụ thể sau:

• Bảo vệ bầu khí quyển bằng cách hạn chế sự thay đổi khí hậu, sự suy yếu tầng ôzôn và ô nhiễm không khí xuyên biên giới;

• Bảo vệ và quản lý tài nguyên đất bằng cách đấu tranh chống nạn phá rừng, sa mạc hóa và hạn hán;

• Bảo tồn đa dạng sinh học;

• Thúc đẩy công nghệ sinh học lành mạnh với môi trường;

• Bảo vệ chất lượng và cung cấp nguồn nước ngọt

• Bảo vệ đại dương và tất cả các loài sinh vật biển

• Quản lý các chất thải, đặc biệt là các chất thải độc hại và các chất độc hóa học, cấm vận chuyển trái phép các sản phẩm và chất thải độc hại giữa các quốc gia.

Thành công của Hội nghị được phản ảnh trong nhiều sản phẩm của hội nghị này. Các chính phủ đã nhất trí về các công ước, về các vấn đề môi trường toàn cầu quan trọng. Tuyên bố Rio có 27 nguyên tắc hướng dẫn chính sách quốc gia và quốc tế về môi trường và Chương trình nghị sự 21 đã mô tả chi tiết các hành động cần thiết để đạt được phát triển bền vững. Chương 17 của Chương trình nghị sự 21 đề cập đến các vấn đề đại dương và vùng ven bờ, nêu rõ nhu cầu cần xây dựng và thực hiện các chương trình quản lý tổng hợp vùng bờ.

Quản lý tổng hợp vùng ven bờ đến nay được thừa nhận là quá trình thích hợp nhất để giải quyết các thách thức tại vùng ven bờ hiện tại cũng như lâu dài. QLTHVB tạo cơ hội cho các vùng ven biển hướng tới sự phát triển bền vững, cho phép tính đến các giá trị tài nguyên và lợi ích hiện nay và trong tương lai của vùng bờ.

Thông qua việc tính đến các lợi ích ngắn hạn, trung hạn và dài hạn, QLTHVB có thể kích thích sự phát triển vùng ven biển, phát triển tài nguyên và hạn chế sự suy thoái các hệ

Page 46: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

46

thống tự nhiên của chúng. QLTHVB có thể cung cấp khung sườn cho các phản ứng linh hoạt nhằm đối phó với sự không chắc chắn của các dự báo về tương lai, kể cả về thay đổi khí hậu. Tóm lại QLTHVB có thể cung cấp cho các nước ven biển quy trình thúc đẩy sự phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống.

Mục tiêu chính của bất kỳ chương trình QLTHVB nào về cơ bản là khuyến khích sự thay đổi ứng xử của con người để đạt mục tiêu mong muốn. Mục đích của việc quản lý là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển liên quan đến các sản phẩm, dịch vụ và giá trị mong muốn, liên quan đến sản xuất, tiêu thụ hoặc bảo tồn. QLTHVB có thể dự báo và đáp ứng được các nhu cầu của xã hội vùng ven biển. Sự tham gia của công chúng vào việc xây dựng và thực thi QLTHVB, do đó, là rất cần thiết.

Để thành công, QLTHVB cần có các yếu tố sau:

• Lồng ghép các chương trình và kế hoạch phát triển kinh tế, quản lý chất lượng môi trường và sử dụng đất;

• Lồng ghép các chương trình trong các lĩnh vực sản xuất thực phẩm (ngành nông nghiệp và nghề cá), năng lượng, giao thông vận tải, tài nguyên nước, xử lý chất thải và du lịch;

• Lồng ghép tất cả các nhiệm vụ quản lý vùng bờ, từ quy hoạch và phân tích, thực thi, điều hành và duy trì, giám sát và đánh giá, được tiến hành liên tục theo thời gian;

• Thống nhất các trách nhiệm đối với các nhiệm vụ quản lý khác nhau của các cấp chính quyền: địa phương, khu vực, quốc gia, quốc tế và giữa khu vực nhà nước và tư nhân;

• Sử dụng chung các nguồn lực quản lý có sẵn, tức là các nguồn nhân lực, vốn, nguyên vật liệu và trang thiết bị;

• Liên kết các ngành, ví dụ các ngành khoa học như Sinh thái học, Địa mạo học, Sinh học biển, Kinh tế học, Kỹ thuật (Công nghệ), Chính trị và Pháp luật.

Phương pháp quản lý nói chung bao gồm một loạt các nhiệm vụ có liên quan nhau, cần được thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra. Các bước cơ bản trong chu trình quản lý là nhận thức vấn đề, phân tích và lập kế hoạch, triển khai thực hiện, điều hành và duy trì, giám sát và đánh giá hiệu quả các biện pháp liên quan đến mục tiêu đề ra. Việc thực hiện quy trình này sẽ phụ thuộc nhiều vào các điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa và do vậy, nó sẽ khác nhau giữa các quốc gia và trong một quốc gia.

Thống nhất các hoạt động quản lý vùng ven biển là rất thích hợp trong việc phòng chống sự suy thoái của các hệ sinh thái tại đó (việc suy thoái này kéo theo việc giảm giá trị kinh tế và gia tăng khả năng bị tổn thương của chúng đối với những tác động của sự thay đổi khí hậu). Mặc dù việc quản lý tổng hợp đòi hỏi sự phân tích và lập kế hoạch kỹ lưỡng hơn là quản lý theo ngành, tổng chi phí của nó cuối cùng sẽ thấp hơn nhiều so với phương pháp tổng chi phí theo từng ngành riêng lẻ. Ngoài ra, đẩy mạnh QLTHVB ngay từ giai đoạn đầu sẽ tạo thuận lợi tài chánh về lâu dài. Do thời gian cần thiết để thực hiện các biện pháp đáp ứng thường kéo dài, nên tiến hành các biện pháp phòng ngừa trong QLTHVB (tức là hành động trước để hạn chế các tổn hại không tránh khỏi xảy ra) không chỉ theo quan điểm môi trường mà còn theo quan điểm kinh tế, vì cách tiếp cận này có thể giảm thiểu tổn hại và có thể tối đa hóa các lợi ích đạt được.

Những quyết định về quản lý và lập kế hoạch cho việc sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên có thể đạt được thông qua sự xem xét hài hòa những phương án và nhu cầu phát triển khác nhau của khu vực. Đây là tính thống nhất của QLTHVB. Do vậy, QLTHVB cần được coi là một quá trình tiến hóa, phù hợp với sự phát triển bền vững, mà theo định nghĩa, có phạm vi lâu dài.

Page 47: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

47

II. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ và phòng chống thiên tai Biện pháp phù hợp nhất đối với việc bảo tồn các nguồn tài nguyên sinh thái chính là các

biện pháp cần cho việc duy trì các hệ thống tự nhiên vốn có chống lại thiên tai (như bão, lũ, nước dâng, xói lở,...). Các hoạt động của con người thường gây ra những thay đổi tại các vùng đất cần được bảo vệ như lấy cát bờ biển, làm suy thoái các rạn san hô, san phẳng các cồn cát, phá hủy rừng ngập mặn, do đó làm giảm khả năng tự bảo vệ của bờ biển. Ví dụ nếu những độn cát bị mất đi do khai thác cát, hoặc vì một hoạt động gì đó trên biển, thì rủi ro đối với sự phát triển của vùng bờ sau của đụn cát sẽ tăng rất nhanh. Tương tự, rừng ngập mặn đóng vai trò tiêu tán năng lượng sóng, giữ cho những vùng đất phía sau chúng khỏi bị xói mòn khi có bão. Giá trị mà những tài nguyên thiên nhiên này có trong việc ngăn ngừa thiên tai cho thấy cần phải xem xét chúng như những đối tượng quan trọng và phải đưa ra các biện pháp rất cứng rắn để bảo vệ chúng.

Trong thực tế, một chương trình giảm thiểu thiệt hại do thiên tai cần phải triển khai cùng với việc bảo tồn các sinh cảnh ven bờ - lá chắn tự nhiên, ngăn cản các tác động của sóng, lũ và xói lở. Nhiều cộng đồng dân cư đã nhận thức được rằng cách tiếp cận quản lý tài nguyên và thiên tai như vậy làm đơn giản hóa quá trình quản lý vùng ven bờ và giúp đưa ra các quyết định mang tính dự báo nhiều hơn về những vấn đề liên quan đến phát triển bền vững. Ví dụ việc lùi sâu vào trong đất liền để bảo vệ cộng đồng dân cư khỏi sự xói lở bờ biển và gió bão có thể lại bảo tồn được loài rùa biển sinh nở ở vùng đó. Tương tự, những quy định khắt khe trong phân vùng liên quan đến phát triển các đầm ngập mặn không chỉ bảo tồn được các tài nguyên có giá trị về mặt kinh tế, mà còn giúp duy trì các rào cản tự nhiên chống lại sóng bão. Cuối cùng, một bờ biển hoặc một công viên san hô có thể bảo vệ vùng tự nhiên này khỏi tác động của cả thiên tai lẫn sự suy giảm tài nguyên thủy sinh. Như vậy, cách tiếp cận đơn giản và hiệu quả để phòng chống thiên tai là kết hợp mối quan tâm ngăn ngừa thiên tai với quản lý tài nguyên và môi trường. Một số quốc gia đã bắt đầu thử nghiệm cách tiếp cận kết hợp này thông qua các chương trình QLTHVB, đáp ứng cả hai mục tiêu cùng một lúc.

III. QLTHVB và Bảo tồn đa dạng sinh học Nhu cầu và các phương pháp triển khai bảo tồn đa dạng sinh học được hình thành từ

trên đất liền. Chúng cần được điều chỉnh để phù hợp với các sinh cảnh trên biển và vùng ven bờ. Các vấn đề càng liên quan đến biển nhiều hơn thì các lý thuyết về bảo tồn càng ít hơn. Ví dụ, nhiều loài sinh vật biển thuộc loại bị đe dọa tuyệt chủng do việc phá hủy các sinh cảnh không được ghi nhận nhiều như các loài rùa biển, chim biển. Có 5 khía cạnh quan trọng liên quan đến đa dạng sinh học biển cần phải được bảo tồn bao gồm:

• Đa dạng loài động vật biển cao hơn nhiều so với động vật trên cạn;

• Hệ động vật biển ít được biết rõ hơn

• Hầu hết các loài động vật biển sống phân tán rộng

• Hầu hết các quần xã động vật biển rất khác nhau và thay đổi nhiều về thành phần loài

• Thời gian để ứng xử với những nhiễu động về môi trường của các động vật biển ngắn hơn

Một mục tiêu chiến lược của QLTHVB là bảo tồn các sinh cảnh của các loài được đánh giá là có giá trị đặc biệt và bị đe dọa tuyệt chủng. Do vây, điều quan trọng trong việc thiết kế vùng sinh thái cho việc bảo tồn đặc biệt là phải bảo vệ các loài. Các mục tiêu khác có thể là bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên với cảnh quan đẹp và có khả năng sinh lợi cao. Đôi khi những điều này được thực hiện nhằm đáp ứng một chương trình quốc tế nào đó, ví dụ như là Chương trình dự trữ sinh quyển của UNESCO hoặc là Công ước RAMSAR đối với các vùng đất ngập nước quan trọng, song chúng thường được thực hiện trong khuôn khổ các hoạt động

Page 48: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

48

độc lập quốc gia, liên quan đến việc thiết lập các công viên quốc gia hay khu bảo tồn thiên nhiên.

IV. Tìm kiếm sản lượng bền vững Ủy ban Brundtland của Liên Hiệp Quốc đã đưa ra khái niệm phát triển bền vững, là loại

phát triển mà không mà tổn hại tới tương lai. Tuy nhiên, Ủy ban đã không đưa ra được những hướng dẫn thực tế về việc áp dụng khái niệm này vào trong các kế hoạch/chương trình cụ thể. Nghĩa chung của nó nói lên rằng sử dụng bền vững đòi hỏi phải điều chỉnh mức độ sử dụng các tài nguyên có thể tái tạo được để chúng không bị suy thoái hoặc cạn kiệt.

Liên quan đến tính bền vững, các tài nguyên phải được duy trì sao cho khả năng tự phục hồi của chúng không bao giờ bị mất đi. Hình thức quản lý này duy trì các tiềm năng sinh học và cũng cố các tiềm năng về kinh tế lâu dài của các nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể tái tạo được. Việc tuân thủ sự phát triển trên cơ sở sử dụng bền vững phải được nhận rõ như một điều kiện cần thiết tuyệt đối để duy trì việc nâng cao sức khỏe, an toàn thực phẩm nhà ở và các nhu cầu khác của con người.

Khai thác bền vững có nghĩa là sử dụng khôn khéo (phát triển) và quản lý chặt chẽ (bảo tồn) các loài sinh vật và hệ sinh thái mà chúng phụ thuộc vào, sao cho lợi ích hiện tại tiềm tàng của chúng đối với con người không bị xâm phạm. Tài nguyên không thể khai thác hoặc sử dụng quá mức, để chúng có thể tái sinh sau một khoảng thời gian nào đó. Thực tế, tài nguyên có thể được xem là một nguồn vốn đầu tư thông qua sản lượng hàng năm; đó chính là sản phẩm để dùng, chứ không phải là nguồn vốn thông thường.

Cần nhận thức rằng việc duy trì sản lượng từ một nguồn tài nguyên cụ thể nào đó, khi thiếu mô hình lập kế hoạch và quản lý tổng hợp, sẽ gặp nhiều khó khăn. Ví dụ, ở Ecuado nuôi tôm có lợi đến mức mà người ta đã phá hơn một nửa rừng ngập mặn để làm đầm nuôi tôm. Điều này đã dẫn đến kết quả là năm 1986, phần rừng ngập mặn còn lại không đủ khả năng để tạo ra những nguồn tôm giống để cung cấp cho các đầm nuôi và khoảng 60% số đầm đã phải ngừng hoạt động. Không có chính sách hoặc chương trình bảo tồn nào được triển khai để hướng dẫn cho ngành công nghiệp nuôi tôm ở Ecuado là ngành đã tạo ra 44% thu nhập ngoại tệ và cung cấp hơn 100.000 việc làm. Không tồn tại một cơ chế hợp tác giữa các ngành nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt, với việc lập kế hoạch kinh tế. Trong bối cảnh đó, các cơ sở kinh doanh ngắn hạn tự do phát triển, làm tổn hại đến nền kinh tế lâu dài của nước này. Vay mượn ngoại tệ quá nhiều để làm đầm nuôi và mua sắm trang thiết bị liên quan đã góp phần tạo nên món nợ ngoại tệ lớn của Ecuado.

Trong khi tồn tại của một quy hoạch tổng hợp và chương trình quản lý loại QLTHVB chưa đảm bảo được sản lượng bền vững từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên vùng bờ của bất kỳ quốc gia nào, thì sự thiếu chúng sẽ dẫn đến việc suy giảm các nguồn tài nguyên đó. Rất ít khi lợi ích kinh tế dài hạn lại có được từ sự phát triển với việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên vùng ven bờ. Sự ổn định về kinh tế sẽ có được từ sự phát triển liên quan mật thiết với việc bảo tồn tài nguyên, quy hoạch tổng hợp và các yếu tố quản lý khác của QLTHVB.

V. Các bước của quá trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ Mỗi quốc gia khi tiến hành đánh giá tiềm năng của một chương trình Quản lý tổng hợp

vùng ven bờ, đều có cách tiếp cận riêng của mình đến việc bảo tồn tài nguyên và sẽ đối mặt vói những đặc thù riêng của vùng ven bờ. Tốt nhất là làm sao cho chương trình QLTHVB trở thành nhiệm vụ chính trị của các chính quyền trung ương hoặc địa phương và có được những hoạt động phù hợp trong nhiệm vụ bảo tồn tài nguyên.

Các giai đoạn cụ thể của chương trình QLTHVB phụ thuộc vào các vấn đề cần giải quyết, cho nên chúng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, tất cả chúng đều cần một cơ chế điều phối liên ngành và một hệ thống quy định nhằm tăng cường khả năng sử dụng bền vững, đa mục tiêu các nguồn tài nguyên có thể tái tạo được trong vùng ven bờ đã xác định. Như vậy, mặc dù có

Page 49: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

49

chương trình QLTHVB của mỗi nước riêng, vẫn có một số bước cơ sở chung trong việc thiết lập chương trình.

Có 7 yếu tố cần được thực hiện nhằm đem lại một khuôn khổ qui hoạch và quản lý trong đó có tính đến sự phức tạp của mỗi vùng ven biển và tình trạng qui hoạch. Các qui mô không gian khác nhau về chính trị, thể chế và các lĩnh vực có liên quan đến vùng ven bờ đều có thể đưa vào trong khuôn khổ. Đồng thời khuôn khổ này sẽ cung cấp sự hợp nhất hay phân tích các lợi ích có tính cạnh tranh trong phát triển bền vững của bất kỳ vùng ven biển nào.

Điều quan trọng cần biết là quá trình được dự kiến là không tuyến tính, trong đó không có điểm cuối mà tại đó quá trình được coi như là đã kết thúc. Quá trình này là liên tục, lặp đi lặp lại với các đường phản hồi nội tại không những cho phép các thay đổi trong tương lai về điều kiện của vùng ven biển đang quan tâm, mà còn cho phép đánh giá lại và xác định lại các bước hành động cần thiết trong 7 yếu tố của khuôn khổ.

1. Xác định vấn đề

Có rất nhiều yêu cầu ban đầu trong việc xác định một kế hoạch quản lý vùng ven biển. Trước hết, cần định rõ các mục tiêu phát triển và phạm vi trong đó các mục tiêu này không được thoả mãn. Cần phải nắm vững các mục tiêu phát triển quốc gia, khi không có những mục tiêu tổng thể như vậy, các mục tiêu cụ thể có thể được đặt ra cho sự phát triển của một vùng ven biển nhất định song những mục tiêu này có thể không liên quan hoặc xung đột với thành tựu cuối cùng của các mục tiêu quốc gia rộng lớn hơn. Đối với các mục tiêu phát triển vùng ven biển cụ thể, điều quan trọng là phải đảm bảo có xem xét tới các ranh giới của vùng qui hoạch trên phương diện các quá trình tự nhiên cũng như nhân văn mà thực tế đã xảy ra trong vùng, và mức độ vượt quá ranh giới vùng qui hoạch của chúng.

Thứ hai là phạm vi của hoạt động qui hoạch vùng ven biển cần được quyết định. Phạm vi này cần bao gồm:

• Việc xác định các yếu tố ngành như ngư nghiệp, du lịch hay phát triển đô thị cần được quan tâm đến.

• Các giới hạn về không gian của vùng ven biển đang xem xét (ví dụ như phát triển cảng, chương trình và kế hoạch quản lý vùng ven biển quốc gia, việc quản lý song phương hay đa phương của một vùng biển và ven biển thường có giới hạn nằm ngoài phạm vi một nước)

• Mức độ sẵn có của các nguồn lực, cả về thể chế lẫn tài chính, để giải quyết được mục tiêu qui hoạch đã xác định.

2. Xem xét và phân tích

Sau khi đã thống nhất về các mục tiêu phát triển và phạm vi qui hoạch, thì tiếp đó cần xác định xem liệu những mục tiêu ban đầu này có thể biến thành hiện thực hay không trong phạm vi vùng qui hoạch đã xác định.

Có 3 yếu tố cần bao hàm trong sự xem xét như vậy. Yếu tố đầu tiên là các nguồn tài nguyên biển và ven biển được phát triển và các điều kiện môi trường mà chúng tồn tại trong đó; yếu tố thứ hai là các điều kiện kinh tế xã hội và sự phù hợp của chúng trong phát triển tài nguyên; và yếu tố thứ ba là bối cảnh luật pháp, thể chế và hành chính mà hoạt động phát triển được tiến hành trong bối cảnh đó.

2.1. Các nguồn tài nguyên và Môi trường

Điều cần thiết là phải xác định được độ phong phú, sự phân bố, sản lượng bền vững của nguồn tài nguyên biển và ven biển được phát triển; mức độ sử dụng của những tài nguyên này; những tác động môi trường của việc sử dụng đó và các tác động của những hoạt động hiện tại cũng như tương lai lên tài nguyên. Ví dụ, việc kéo lưới đánh bắt các sinh vật đáy như tôm chẳng hạn có thể sẽ hủy hoại chính môi trường sống của tôm; đồng thời chất lượng của

Page 50: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

50

nước và trầm tích mà tôm phụ thuộc vào cũng sẽ bị suy thoái và trở nên không thích hợp nếu các chất ô nhiễm được đổ vào từ một nguồn ở xa, ngoài nơi cư trú của loài tôm được phát triển.

2.2. Các điều kiện kinh tế xã hội

Để có được một sự phân tích và đánh giá hoàn thiện tình hình của một vùng ven biển nào đó cần phải xác định và đánh giá những hạn chế hoặc những cơ hội kinh tế xã hội đang tồn tại. Các thí dụ về sự thất bại trong qui hoạch tài nguyên ven biển có liên quan đến khía cạnh xã hội có thể tìm thấy trên khắp thế giới.

2.3. Các điều kiện luật pháp, thể chế và hành chính

Việc quản lý sự phát triển của các tài nguyên ven biển một cách không thỏa đáng hiện nay là do việc xây dựng luật pháp, các điều lệ và thể chế đều dựa trên nguyên tắc cho rằng các đại dương và nguồn tài nguyên của nó là tài nguyên chung. Nguyên tắc như thế có thể chấp nhận được vào các thế kỷ trước do số người thực hiện cũng như công nghệ lúc đó còn hạn chế. Những thay đổi lớn lao về dân số và công nghệ, đặc biệt trong vòng 100 năm qua đã dẫn đến việc phải đặt lại câu hỏi cho nguyên tắc trên và công nhận rằng, hiện nay việc hạn chế tiếp cận với tài nguyên biển là cần thiết. Đáng tiếc là việc phát triển luật pháp, các pháp chế và thể chế để thi hành các kiểm soát đó là không theo kịp với tốc độ phát triển tài nguyên ven biển.

3. Các vấn đề và các khả năng lựa chọn

Thông qua các phân tích vừa được mô tả, có thể xác định xem nơi nào sự phát triển các nguồn tài nguyên khác nhau là có thể tương thích. Ví dụ dự kiến phát triển một khu bảo vệ biển có thể được tiến hành tại một vị trí mà không có ảnh hưởng tới sự phát triển đô thị bởi vì chúng được cách xa một khoảng nhất định. Song cũng có thể nhận biết các khu vực có khả năng xung đột. Ví dụ như dự kiến phát triển bến cảng lại tình cờ diễn ra tại một vùng ngập mặn mà được biết là nơi ươm nuôi tôm, và vì thế vùng này có tầm quan trọng về phương diện phát triển kinh tế của các chương trình ngư nghiệp quốc gia.

Theo cách tương tự, cả các tác động trực tiếp và gián tiếp của việc sử dụng môi trường biển hiện nay đều có thể được phân tích nhằm xác định những mâu thuẩn và các tương thích. Ví dụ, việc chặt phá rừng ngập mặn để xây dựng các khu nuôi tôm có thể sẽ làm giảm hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước tới mức mà nó sẽ không còn đủ khả năng hổ trợ cho sự phát triển của loài tôm được nhân nuôi: đó là tác động trực tiếp. Tác động gián tiếp có thể là việc phát hiện ra rằng các cách thải bỏ chất thải tận trong đất liền đã dẫn tới sự ô nhiễm các con sông chảy qua rừng ngập mặn, mà điều này đã dẫn đến sự suy thoái chất lượng nước lợ của hệ rừng ngập mặn. Điều này có thể dẫn đến việc cả sản phẩm tôm cá tự nhiên và nuôi trồng đều không phù hợp với sự tiêu dùng của con người. Trong trường hợp này, việc sử dụng sông và nước lợ của rừng ngập mặn để hấp thụ các chất thải rõ ràng là mâu thuẩn và không tương thích với sự phát triển hơn nữa nghề cá rừng ngập mặn.

Ngoài việc xác định các vấn đề hiện tại cần giải quyết, các bước khởi đầu trong quá trình cũng sẽ dẫn đến xác định các khả năng lựa chọn hay các chiến lược thay thế cho sự phát triển nguồn tài nguyên vùng ven biển. Nếu phát triển ngư nghiệp không được ưu tiên trong các mục tiêu phát triển ban đầu song sau đó, trong giai đoạn đánh giá, các đàn cá được xác định là chưa được khai thác đáng kể thì điều này có thể dẫn đến quyết định là bao gồm cả phát triển ngư nghiệp trong các mục tiêu tương lai.

4. Trình bày-xây dựng kế hoạch

Bước này trong quá trình kéo theo việc tổng hợp dữ liệu, dùng các kết quả của các bước từ 1 đến 3 của quá trình để thống nhất về mặt tổng thể cũng như chi tiết nội dung của các kế hoạch và các chương trình quản lý vùng ven biển.

Trong bước này có hai đặc điểm quan trọng:

Page 51: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

51

Thứ nhất cần phải có sự phản hồi nội tại giữa các thành phần cơ bản trong trong chương trình qui hoạch. Giả sử một mục tiêu phát triển quốc gia là "phát triển nguồn tôm cá vì lợi ích của tất cả mọi người" song không phát triển du lịch dựa vào nước ngoài bởi vì đánh giá ban đầu đã cho thấy ít có tiềm năng về khía cạnh này; hoặc bởi vì lý do tôn giáo và văn hoá khiến cho du lịch không phải là mối quan tâm lớn. Nếu như sau đó trong các bước phân tích và đánh giá lại lộ ra rằng các bãi cá đã bị khai thác gần tới mức giới hạn và có những bãi biển rất hấp dẫn có thể tạo nên cơ sở cho sự phá triển du lịch, thì quốc gia này có thể quyết định thay đổi hướng hoạt động và đầu tư theo cách mà ngành du lịch có thể phát triển trong chừng mực công chúng có thể chấp nhận được. Như vậy, cơ chế phản hồi (feed back) trở nên quan trọng cho mọi yếu tố trong quá trình.

Đặc điểm quan trọng thứ hai của quá trình là động lực của các mối tương tác và sự đồng lòng giữa mọi đối tượng quan tâm đến việc xây dựng các kế hoạch hay chính sách cho vùng ven biển. Những người hưởng lợi cuối cùng của quá trình phát triển phải là công chúng, mặc dù thực tế hiện nay không phải luôn luôn là như vậy. Trong khi đề xuất các chính sách quốc gia, các chương trình và kế hoạch quản lý vùng ven bờ cho các hoạt động phát triển tại một địa điểm nhất định nào đó thì công chúng cần phải là trung tâm của quá trình tư vấn. Vì vậy việc xây dựng sự đồng tâm nhất trí về các mục tiêu chính sách, nội dung của các chương trình và tính thích hợp của các kế hoạch là một phần không thể thiếu trong qui hoạch thành công vùng ven bờ.

5. Thông qua

Một khi chính sách, chương trình hay kế hoạch đã được soạn thảo, nó thường phải được thông qua bởi một thủ tục có tính chính thức để có thể đưa vào thực hiện. Thủ tục này có thể là sự tán thành chính thức của một số cơ quan chịu trách nhiệm ở cấp quản lý thích hợp; là sự thông qua về mặt luật pháp ở cấp vùng hoặc cấp quốc gia; hoặc trong trường hợp của các kế hoạch đặc thù cho một vùng mà các kế hoạch này đang trong quá trình lược duyệt thì có thể cần tới sự tán thành hay thông qua của cộng đồng có liên quan. Việc đảm bảo rằng có các cơ chế thích hợp cho phép phản hồi cho giai đoạn đề xuất là rất quan trọng bởi vì trong nhiều trường hợp luật pháp dự kiến là có thể phải sửa đổi lại nếu, giả dụ như nó mâu thuẩn một cách không cần thiết với pháp luật hiện hành. Vì vậy, điều quan trọng là đề ra được một kế hoạch hành động trong đó có đưa ra các hành động cần thực hiện; thời gian thực hiện và một phân tích có tính phê bình để kế hoạch có thể thông qua và thực hiện.

6. Thực thi

Trong các bước đề ra kế hoạch và thông qua của quá trình, điều quan trọng là lường trước được các chính sách, chương trình hay kế hoạch có thể được thực thi như thế nào trong bối cảnh của tình hình hiện tại. Đặc biệt cần thiết ở những nơi mà thể chế mới được hình thành hoặc thể chế đang tồn tại cần phải có sự chuyển đổi quan trọng. Tượng tự, sự lường trước là quan trọng trong trường hợp có pháp chế mới mà điều này có thể thay thế hoặc làm thay đổi các bộ luật, các tiêu chuẩn môi trường hoặc các đường hướng chỉ đạo hiện hành. Trong cả hai trường hợp, thời gian thực thi là tối quan trọng và có thể được tiến hành với quy mô lớn dần sao cho sự điều chỉnh lại hiện trạng có thể thực hiện song song chứ không phải trở ngại cho sự phát triển.

6.1. Chấp hành kế hoạch

Để chương trình đi vào hoạt động cần phải chấp hành lịch trình của các kế hoạch. Việc chấp hành lịch trình trong trường hợp này có nghĩa là các tổ chức phải được thực hiện một cách có hiệu quả các kế hoạch trong chương trình.

• Tổ chức về cơ quan: thiết lập cấu trúc hành chính để đảm bảo cho việc quản lý thống nhất theo chiều ngang và chiều dọc;

Page 52: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

52

• Tổ chức về luật pháp: các bộ luật, công ước, nghị định và các tiêu chuẩn để làm cho việc quản lý có thể thực hiện;

• Tổ chức về tài chính: phân phối kinh để chi trả cho các chi tiêu trong quá trình.

6.2. Quá trình hoạt động

Việc vận hành chương trình QLTHVB sẽ được bắt đầu để đạt được những kết quả mong muốn nếu quá trình hoạt động tốt và thông suốt. Tuy nhiên việc quản lý một quá trình phức tạp như QLTHVB, không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Các phản hồi trong quá trình quan trắc và đánh giá có thể dẫn tới những thay đổi trong chương trình hiện hành và những xung đột về quyền lợi có thể nảy sinh những vấn đề không mong đợi.

6.3. Giải quyết xung đột

Vấn đề chính trong quá trình vận hành của QLTHVB đó là giải quyết các xung đột về lợi ích. Để có thể giải quyết các xung đột này, cần phải nhận rõ nguyên nhân và hậu quả của các xung đột, thiết lập một phương pháp rõ ràng để có được quyết định và có khả năng ngăn chặn các tác động tiêu cực bằng các biện pháp thích hợp.

Các xung đột có thể bắt nguồn theo "chiều dọc" ví dụ xảy ra giữa các bên sử dụng ở các mức độ khác nhau; hoặc theo chiều ngang, ví dụ các bên sử dụng cùng mức độ ở các lĩnh vực khác nhau. Ví dụ ở trường hợp thứ nhất đó là sự xung đột giữa chính quyền quốc gia, muốn thiết lập một khu bảo tồn thiên nhiên trong chính sách quốc gia và cộng đồng địa phương, muồn đầu tư vào việc phát triển công nghiệp để nâng cao thu nhập cho người dân địa phương. Ví dụ về trường hợp thứ hai là xung đột giữa những người khai thác cát từ bờ biển để xây dựng nhà cửa trong vùng đất liền và những người sống gần bờ biển, phản đối việc khai thác cát vì cho rằng việc khai thác cát dẫn đến mối đe doạ nhà cửa của họ do xói lở bờ biển.

Để giải quyết những xung đột lớn hơn, chương trình QLTHVB cần phải có một hệ thống hoà giải. Một hệ thống như vậy có thể tạo ra một phương pháp luận rõ ràng để giải quyết các xung đột và đưa ra cách giải quyết. Có thể phân biệt các thủ tục hành chính và pháp luật. Thủ tục hành chính dựa vào sự hợp tác tự nguyện của tất cả bên. Đối với mỗi một xung đột, một thủ tục có thể được biến đổi phù hợp với tình cảnh của nó. Ví dụ đối với một nhiệm vụ không lường trước, một hội đồng, hay một tổ chức khoa học có thể được thành lập để tìm kiếm một giải pháp cho một vấn đề đặc thù. Một chính sách đối thoại cũng có thể thành lập để tập hợp các bên xung đột lại với nhau và để cho họ thảo luận dưới sự lãnh đạo của một người hoà giải. Tiến trình hoà giải có thể bắt đầu khi không có khả năng tìm ra giải pháp qua đàm phán. Nếu tất cả đều thất bại, thủ tục luật pháp phải được sử dụng để bắt buộc phải tuân theo một giải pháp. Một thủ tục như vậy tốn thời gian và tiền của, vì vậy nên tránh.

7. Quan trắc và đánh giá

Các chính sách mới, các chương trình hoặc kế hoạch tuy đã được đàm phán và cân nhắc kỹ lưỡng song vẫn khi hiếm khi chứng tỏ một cách đúng như là chúng được dự tính hoặc ít khi hoàn thiện thích hợp. Điều này xuất phát từ thực tế rằng thường là không thể dự tính và lập kế hoạch cho mọi sự bất ngờ bắt gặp trong quá trình thực thi. Ngoài ra, khoảng thời gian gián đoạn giữa giai đoạn xác định và giai đoạn thực thi của quá trình là đủ để các tình hình môi trường, kinh tế xã hội và hoặc thể chế có thể thay đổi. Cách tốt nhất để chuẩn bị cho tình huống có thể xảy ra như thế là khởi xướng và thực hiện một qui trình đánh giá liên tục các thành công cũng như thất bại của các chính sách và các hoạt động khi chúng được đưa vào thực hiện.

Sản phẩm của bước quan trắc và đánh giá là khả năng đánh giá sự thành công hay thất bại chung của các chính sách hay chương trình đã được thông qua. Trên cơ sở của các kết quả này, điều cần thiết là phải xác định được hành động sửa chữa nào là thích hợp hoặc phải đánh giá lại các mục đích ban đầu của bài tập. Nơi nào đòi hỏi phải có hành động sửa chữa thì hành động này cần được xác định và tiến hành trong khuôn khổ của quá trình đã được vạch ra,

Page 53: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

53

được lồng vào và được đánh giá tại bước thích hợp. Nơi nào đòi hỏi phải có sự đánh giá lại các mục tiêu ban đầu thì cần phải tiến hành bằng cách bắt đầu quá trình lại từ đầu và đi qua đầy đủ các bước như trước đó. Vì vậy điều chủ yếu là các kết quả của các bước quan trắc và đánh giá phải được phản ảnh lại vào trong các bước trước đó của quá trình.

7.1. Quan trắc

Chương trình quan trắc bắt đầu ngay sau khi chương trình QLTHVB đi vào hoạt động. Tiến trình quan trắc thường xuyên thu thập thông tin từ kết quả của việc đánh giá và phản hồi trong các giai đoạn và có thể dẫn đến quan điểm là chính sách phải thay đổi. Dạng quan trắc phụ thuộc phần lớn vào mục tiêu của chương trình, do vậy cần phải rõ ràng.

Một chương trình quan trắc tốt bao trùm toàn bộ khu vực liên quan và trong một quãng thời gian kéo dài. Ngân sách thường giới hạn và cần nhấn mạnh rằng tốt hơn là có nhiều số liệu (bao gồm toàn bộ hệ thống ven bờ) dù chất lượng thấp, hơn là một ít số liệu có chất lượng nhưng chỉ tập trung ở một vài điểm.

Các dạng số liệu để quan trắc là:

• Xã hội: tỷ lệ sinh, sức khoẻ, chất lượng cuộc sống;

• Kinh tế: thu nhập, số lượng công ty công nghiệp, khối lượng chuyên chở giữa hai vùng;

• Sinh thái: số loài động, thực vật, sức khoẻ của quần thể, số con sinh ra,...

• Tự nhiên: vị trí của vùng bờ, chiều sâu của lòng sông, eo biển, kích thước của các đụn cát.,...

Các dữ liệu có thể được sắp xếp ở các viện nghiên cứu. Trong trường hợp này, bước đầu là tập hợp các số liệu này vào một mối để có thể sử dụng để đánh giá. Nếu số liệu chưa được sắp xếp, các chương trình quan trắc cần được thiết lập và thực hiện. Sau đó, phải tạo điều kiện cho các nhà nghiên cứu khoa học và các viện nghiên cứu của họ. Các chuyên gia này có thể được huấn luyện các kỹ năng thích hợp. Trong giai đoạn này, kỹ thuật không ảnh và viễn thám có vai trò quan trọng do các kỹ thuật này có khả năng cung cấp và xử lý số liệu chất lượng cao mà giá thành lại rẻ.

7.2. Đánh giá

Các số liệu thu thập được sử dụng để phân tích để đánh giá kết quả của chương trình QLTHVB hay giải quyết các vấn đề được xác định trong mục tiêu của chương trình. Nếu đánh giá dẫn đến việc sửa đổi việc vận hành của chương trình QLTHVB, cần phải xem xét lại các thông tin này hay các chính sách được sửa đổi phải được đánh giá ở mức cao hơn.

Một số mục tiêu có thể được xác định là:

1. Chính thức hoá các tổ chức hành chính (ví dụ thành lập các cơ quan);

2. Giảm thiểu các hành vi có hại và thực hiện các hành động phát triển; 3. Làm tốt hơn các chỉ thị môi trường và xã hội;

4. Sử dụng bền vững tài nguyên và nâng cao chất lượng cuộc sống (ví dụ khai thác bền vững tài nguyên thiên nhiên).

Mục tiêu cao nhất (thứ tư) có thể không đạt được trong một thời gian ngắn và có thể không mong đợi trong quá trình đánh giá lần đầu.

Có thể phân biệt hai dạng đánh giá. Liên tục để có thể cải thiện việc quản lý và các chính sách. Theo thời gian - ví dụ 2 năm lần - là dạng đánh giá lớn hơn có thể thực hiện để chỉ rõ cho cộng đồng chương trình được hoạt động như thế nào. Điều này có thể đạt được các hổ trợ để chương trình QLTHVB được tiếp tục.

Page 54: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

54

Hình 4.1. Các bước của quá trình quản lý vùng ven bờ

VI. Quản lý vùng ven bờ Việt Nam 1. Dự thảo chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và vùng ven bờ Việt Nam

1.1. Tính cấp thiết

Việt Nam là quốc gia có vùng biển rộng khoảng 1 triệu km2 và bờ biển dài trên 3.200 km, với 29 tỉnh và thành phố tiếp giáp với biển. Vùng biển và vùng bờ Việt Nam có vai trò quan trọng to lớn đối với công cuộc phát triển chung của đất nước. Với các đặc điểm nổi bật như: các huyện ven biển của Việt Nam chiếm 17% diện tích đất đai, là nơi sinh sống của 23% dân số cả nước; hai nguồn tài nguyên chỉ tìm thấy ở vùng biển và ven bờ là dầu khí và hải sản, đóng góp hơn 23% tổng giá trị xuất khẩu; Đa dạng sinh học vùng biển và ven biển đem lại nhiều lợi ích quan trọng cho cộng đồng địa phương và cho cả nước. Hàng năm các hệ sinh thái biển và ven biển quan trọng nhất của Việt Nam đem lại giá trị ước tính khoảng 38 triệu USD.

Đa dạng sinh học biển và vùng bờ đem lại nhiều lợi ích cho các hộ dân và cộng đồng địa phương. Vùng ven biển là nơi thu hút nhiều khách du lịch nhất với số khách du lịch ngày càng gia tăng. Khoảng 65% hàng xuất khẩu của Việt Nam qua các hải cảng và tỷ lệ hàng nhập khẩu vào Việt Nam qua các hải cảng cũng tương tự.

Tuy vậy, vùng ven bờ Việt Nam vẫn chưa đặt đúng vị trí trong hệ thống khu bảo tồn quốc gia: các khu bảo tồn vùng bờ chỉ chiếm 11% tổng diện tích được bảo tồn cả nước. Vùng bảo tồn biển Việt Nam chưa có tên trong hệ thống các khu bảo tồn. Mặc dù đông dân hơn, đầu tư vào vùng ven biển Việt Nam vẫn tụt hậu so với đầu tư vào các vùng khác. Lấy đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) làm chỉ số đầu tư chung, thì 125 huyện ven biển với khoảng 23% dân số cả nước, chỉ nhận được 13% số dự án FDI được phê chuẩn cho cả nước giai đoạn 1993 đến 1997. Đầu tư vào vùng ven biển Việt Nam lại phân bố không đều: các địa phương của một số ít tỉnh ven biển (Quảng Ninh, Hải Phòng, Thanh Hóa và Bà Rịa Vũng Tàu) nhận được hầu hết các đầu FDI rót vào tỉnh. Ngược lại, các huyện ven biển của 8 trong số 29 tỉnh ven biển chưa hề nhận một chút đầu tư FDI nào. Sự bất bình đẳng như vậy có thể thấy khắp ở Việt Nam, nhưng đặc biệt rõ rệt ở các vùng ven biển, vì mức đầu tư chung vào các vùng này luôn thấp hơn so với phần còn lại của đất nước.

Page 55: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

55

Theo số liệu của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, 14% các xã nghèo nhất và 6% các xã thiếu các cơ sở hạ tầng cơ bản thuộc các huyện ven biển. Hầu hết các xã nghèo nhất duyên hải Việt Nam đều tập trung ở các tỉnh phía Bắc và Bắc Trung Bộ, cũng như các tỉnh vùng ven biển thuộc châu thổ sông Mê Kông.

1.2. Cơ sở lý luận của dự thảo Chiến lược

Việt Nam nằm ở vị trí địa lý đầu mối quan trọng. Tầm quan trọng và đóng góp của các nguồn lợi môi trường biển và vùng bờ Việt Nam đối với thế giới được thừa nhận ngày càng nhiều hơn. Nhiều hệ sinh thái biển và ven bờ của Việt Nam được đánh giá cao ở trong nước cũng như trên toàn thế giới nhờ giá trị đa dạng sinh học cũng như giá trị văn hóa và lịch sử. Nguồn lợi môi trường biển và vùng bờ Việt Nam cũng có tầm quan trọng trực tiếp đối với hơn 17 triệu dân cư vùng ven biển của đất nước.

Người dân dựa vào nguồn lợi tài nguyên biển và vùng bờ để giải quyết rất nhiều nhu cầu cơ bản của cuộc sống và cuộc sống của họ phụ thuộc vào những nguồn lợi môi trường như rừng, nước sạch và thủy sản biển và vùng bờ để sinh sống và phòng chống nhiều hiện tượng thiên tai khác nhau như bão lụt.

Việt Nam cố gắng tận dụng vị thế của mình là một quốc gia ven biển lớn ở khu vực Đông Nam Á để tiếp tục phát triển kinh tế và trên thực tế, một số lợi ích của chính sách này đã trở thành hiện thực, nhất là trong lĩnh vực nghề cá và năng lượng. Những thành công này rất đáng kể và kết quả là cuộc sống của người dân vùng ven biển cũng như dân trong cả nước được cải thiện rõ rệt.

Nguồn tài nguyên thiên nhiên tái tạo ở vùng biển và vùng ven bờ Việt Nam vốn rất phong phú và quan trọng, thế nhưng nhiều loại hình nguồn tài nguyên trong số này đang nhanh chóng bị suy thoái. Bốn nguyên nhân chính gây ra tình trạng này là:

• Khung chính sách, pháp lý và thể chế hiện hành của Việt Nam cho phép tự do tiếp cận vùng biển, không có sự quản lý phù hợp;

• Tình trạng này còn nghiêm trọng hơn do chưa tiến hành khoanh vùng chức năng để sử dụng và yếu kém trong việc thực thi các quy định hiện hành liên quan đến việc tiếp cận vùng khai thác. Dựa vào nhà nước để thực thi các quy định hiện hành chỉ thành công một phần nhất định, do các cơ quan quản lý địa phương thiếu cán bộ, trang thiết bị, phương tiện năng lực, như trường hợp các ban quản lý các khu bảo tồn, các chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản và quản lý môi trường địa phương;

• Phương thức quản lý và quy hoạch theo ngành không cho phép so sánh cân nhắc thiệt hơn khi phân chia nguồn lợi vùng biển và vùng bờ cho các ngành kinh tế khác nhau để khai thác, sử dụng (như ngành kinh tế cảng, du lịch, nghề cá, đô thị hóa, công nghiệp hóa);

• Đời sống ở vùng biển và vùng bờ Việt Nam còn nghèo, nhất là các vùng nông thôn. Khả năng hình thành vốn cho đầu tư của các hộ gia đình nông thôn còn bị hạn chế do cơ sở hạ tầng yếu kém, hoạt động tín dụng chưa đáp ứng được nhu cầu và phương tiện tiếp cận thị trường còn chưa đủ. Các hộ nông thôn giải quyết nhu cầu cơ bản của mình bằng cách khai thác những nguồn lợi tự nhiên và môi trường quan trọng vượt cả giới hạn khai thác bền vững và mở rộng hoạt động khai thác của mình sang những vùng nhạy cảm về mặt môi trường.

Kết quả là các hệ sinh thái quan trọng vùng biển và vùng bờ không được bảo vệ một cách thích đáng, trong khi đó chúng là nguồn cung cấp những lợi ích về đa dạng sinh học, tài chính và kinh tế quan trọng cho các cộng đồng ven biển cũng như cho cả nước.

Ngoài ra, hàng năm vùng bờ Việt Nam lại phải chịu tổn thất nặng nề do thiên tai, chủ yếu là bão nhiệt đới và lũ lụt. Đây là một nguyên nhân làm kiệt quệ nền kinh tế quốc gia và khiến cư dân vùng ven bờ, vốn dễ bị tổn thương, phải hạn chế các hoạt động kinh tế của mình

Page 56: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

56

vì quá mạo hiểmvà rủi ro. Trong khi đó, quá trình đô thịhóa và công nghiệp hóa vẫn diễn ra ở vùng ven biển Việt Nam, mà các biện pháp kiểm soát ô nhiễm công nghiệp và ô nhiễm đô thị nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra.

Các hoạt động khai thác ở vùng biển và vùng bờ cho đến nay thu được rất nhiều lợi ích. Tuy nhiên, muốn tiếp tục có được thành công như vậy, cần phải tập trung tiến hành một số hoạt động sau:

• Cũng cố khung chính sách, pháp lý và thể chế liên quan đến nguồn lợi biển và ven bờ;

• Đầu tư thích đáng vào công tác bảo tồn và quản lý nguồn lợi tự nhiên và môi trường vùng biển và ven bờ;

• Đầu tư cải thiện cuộc sống cho cư dân và cộng đồng vùng ven biển theo những phương thức do họ tự xác định và quyết định cho bản thân mình.

Dự thảo Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường biển và vùng bờ Việt Nam được đề xuất nhằm loại bỏ các hạn chế, hướng tới phát triển bền vững ở vùng biển và vùng bờ Việt Nam.

1.3. Mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường biển và vùng bờ

Mục tiêu bao trùm của Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường ở vùng bờ Việt Nam thông qua giảm nghèo và bảo vệ và quản lý bền vững các nguồn tài nguyên tái tạo ở vùng biển và vùng bờ.

Mục tiêu cụ thể của chién lược gồm 6 hợp phần chính là:

Hợp phần số 1 – Quy hoạch quản lý tổng hợp vùng biển và vùng bờ cho các tỉnh duyên hải.

Xây dựng các kế hoạch trên cơ sở từng vùng, kết hợp với việc phân vùng chức năng cho tất cảcác địa phương ven biển và vùng ven bờ của Việt Nam.

Hợp phần số 2 – Các khu bảo tồn vùng biển và ven bờ.

Bảo vệ, bảo tồn và kiểm soát tính đa dạng sinh học ở vùng biển và ven biển Việt Nam thông qua hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển hiện có và thu hút thêm các vùng biển và ven biển có ý nghĩa về mặt đa dạng sinh học khác.

Hợp phần số 3 – Quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ.

Thiết lập một hệ thống quản lý chức năng trên cơ sở cộng đồng cho việc khai thác nguồn lợi hải sản ven bờ, nhờ thế giảm bớt đáng kể các hoạt động khai thác quá mức và không được điều tiết, bảo vệ môi trường vùng biển và đẩy mạnh việc phát triển kinh tế ven biển.

Hợp phần số 4 – Phát triển và cải thiện sinh kế cho các cộng đồng ven biển dễ bị tổn thương.

Trong những xã ven biển nghèo nhất (theo xác định của Bộ lao Động, Thương binh và Xã hội), cung cấp giải pháp sinh kế bền vững cho dân cư và cộng đồng địa phương bằng cách khôi phục cơ sở hạ tầng, bảo vệ nguồn lợi tự nhiên có sự tham gia của người dân, nâng cao năng lực cho các cộng đồng địa phương và tạo việc làm.

Hợp phần số 5 – Phòng chống thiên tai và xói lở bờ biển ở duyên hải Việt Nam

Xây dựng các công trình bờ biển và các giải pháp sinh học (ví dụ: chắn gió cát ven biển và ổn định các đụn cát), đồng thời nâng cao khả năng đối phó với tình trạng khẩn cấp để giảm thiệt hại kinh tế do thiên tai và nâng cao an ninh kinh tế cho dân cư ven biển. Đảm bảo việc giảm thiểu các thiệt hại từ thiên tai vào chiến lược phát triển cho các vùng ven biển.

Hợp phần số 6 – Tăng cường khung hành động môi trường quốc gia, nâng cao nhận thức, đánh giá ô nhiễm và giám sát.

Page 57: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

57

Đây là một hợp phần chung, hỗ trợ cho chiến lược quốc gia, bao gồm: cũng cố khung pháp lý quốc gia cho các vấn đề môi trường chủ yếu, tăng cường thu nhập, phân tích và cung cấp dữ liệu, thông tin về môi trường biển và vùng bờ và giám sát, kiểm soát ô nhiễm đô thị và công nghiệp, đánh giá và thanh tra nếu cần thiết và nâng cao nhận thức về môi trường cho tất cả các đối tượng có liên quan đến quản lý môi trường biển và vùng bờ.

1.4. Các ưu tiên trong chiến lược

Gợi ý cho việc thực hiện Chiến lược, các ưu tiên đối với mỗi hợp phần được đề xuất bởi những ưu tiên chung cấp tỉnh chỉ ra rằng vùng Bắc Trung bộ và Trung Trung bộ của Việt Nam là cùng được ưu tiên cao nhất cho việc thực hiện chiến lược quốc gia. Miền duyên hải Việt Nam này có hàng loạt ưu tiên trong nhiều hợp phần, đặc biệt là giảm nghèo, phòng chống thiên tai và quản lý tổng hợp nghề cá ven bờ. Hơn nữa, các vấn đề ưu tiên về quản lý môi trường ở các tỉnh này do chính quyền tỉnh xác định cũng trùng hợp với những hợp phần ưu tiên được đề xuất.

Hai nguyên tắc cơ bản để tổ chức thực hiện chiến lược đã được đưa ra:

Một là, nguyên tắt đối tác và quản lý. Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục chịu trách nhiệm chung đối với việc quản lý môi trường biển và vùng bờ. Nhưng cần phải có sáng tạo khi sắp xếp về thể chế giữa các thành phần khác nhau sao cho việc thực hiện kế hoạch này (hay một kế hoạch tương tự) đem lại lợi ích tối đa cho cư dân ven biển nói riêng và cả nước nói chung. Đó có thể là những việc như khắc phục những trở ngại về mặt năng lực, phạm vi hoạt động của các cơ quan chức năng chính phủ mở rộng tới tận cấp địa phương, khả năng có sẵn nguồn lực tài chính và tận dụng lợi thế so sánh của địa phương. Tất cả đều có thể đạt được thành công tối đa nếu có sự hợp tác giữa các thành phần chủ chốt, bao gồm:

• Chính phủ - có chủ quyền đối với đất, nguồn lợi và xây dựng khung pháp lý, chính sách và điều tiết cơ bản cho hoạt động của các thành phần;

• Các cộng đồng địa phương – sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng thời là những người phải chịu hậu quả của các quyết định đầu tư và phân bổ nguồn lợi;

• Các cơ quan cho vay quốc tế - cung cấp nguồn đầu tư cần thiết ban đầu;

• Các nhà tài trợ - cung cấp và hỗ trợ kỹ thuật;

• Khu vực tư nhân – là nguồn cung cấp vốn, ảnh hưởng, và trình độ chuyên môn, đặc biệt có tính thực tiễn ở vùng ven biển nước ta, cụ thể cho hoạt động du lịch, sản xuất và chế biến thủy sản và có thể cho cả các doanh nghiệp nhỏ hoạt động bền vững;

• Các tổ chức phi chính phủ và các cơ quan khoa học – có trách nhiệm chuyển tải thông tin đến quần chúng, cho ý kiến tư vấn về kỹ thuật, tạo dựng mối liên hệ giữa các nơi tham gia và giám sát, theo dõi.

Kinh nghiệm ở các nước cho thấy rằng tất cả các thành phần liên quan đều quan trọng và điều này cũng có thể đúng cho công tác quản lý môi trường vùng biển và ven biển Việt Nam. Ở những nơi có thể, cần tạo ra những động cơ thúc đẩy các thành phần liên quan để họ tiếp tục tham gia và đem hết năng lực thực hiện các nhiệm vụ của mình.

Hai là, cấp tỉnh là cấp thực hiện phù hợp nhất. Do tính chất đa ngành của Chiến lươc quốc gia và do nhu cầu quy hoạch bao gồm cả việc khoanh vùng chức năng cho vùng biển và ven biển, khuyến nghị rằng nên để tỉnh duyên hải là đơn vị cơ sở thực hiện Chiến lược quốc gia. Rõ ràng cần phải lập quy hoạch, xếp thứ tự và theo dõi ở cấp quốc gia để bảo đảm rằng Chiến lược này luôn được thực hiện phù hợp với các mục tiêu phát triển quốc gia trong khi vẫn đạt được mục tiêu của mình. Tương tự, Chiến lược này có một số khuyến nghị về việc nên để chính quyền và cộng đồng địa phương là đối tác cùng thực hiện kế hoạch. Việc thực hiện Chiến lược ở cấp tỉnh ở vùng ven biển có thể có nhiều thuận lợi như sau:

Page 58: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

58

• Việc quy hoạch theo khu vực và khoanh vùng chức năng biển và vùng bờ, cân bằng phát triển ở cấp tỉnh là tiền đề để tiếp tục đầu tư và trợ giúp kỹ thuật liên quan;

• Tiếp theo có thể đề ra một chương trình đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật trọn gói đa lĩnh vực, bao gồm một tập hợp các hoạt động phù hợp nhất với yêu cầu của tỉnh;

• Các huyện ven biển có thể gần hơn với toàn bộ quá trình thực hiện và rất có khả năng xem xét nhu cầu thật sự của địa phương, các lợi thế so sánh cũng như các giải pháp;

• Vùng quy hoạch cần đủ lớn (trong hầu hết các trường hợp) để các yếu tố bên ngoài (như ô nhiễm vùng thượng nguồn, trách nhiệm quản lý chung đối với các vùng đánh cá, khu bảo tồn,...) không thể chi phối các quyết định đã được đưa ra.

2. Dự án quản lý tổng hợp ven bờ Việt Nam – Hà Lan

Dự án Quản lý Tổng hợp Vùng bờ Việt Nam - Hà Lan được thực hiện trong 3 năm (từ tháng 9/2000 - 8/2003) với mục tiêu thiết lập một chương trình dài hạn về quản lý tổng hợp vùng ven biển Việt Nam gọi là "Chương trình QLTHVB Việt Nam" và tập trung vào việc tư vấn cho chính phủ Việt Nam trong việc lập kế hoạch và phát triển vùng ven biển, phát triển cộng đồng và các nguồn tài nguyên ở đó một cách bền vững. Dự án do Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường Việt Nam (MOSTE) điều phối thông qua Cục Môi trường (NEA).

Các công tác của Dự án được triển khai ở Hà Nội và 3 tỉnh ven biển là Nam Định, Thừa Thiên – Huế và Bà Rịa – Vũng Tàu đại diện cho ba miền Bắc, Trung và miền Nam. Ba tỉnh này với những vấn đề đặc trưng của vùng bờ từng khu vực của Việt Nam được chọn làm thí điểm để giới thiệu và triển khai QLTHĐB

Mục tiêu Dự án VNICZM hướng tới các mục tiêu cơ bản sau đây:

- giới thiệu và hỗ trợ áp dụng phương thức tiếp cận tổng hợp vào quản lý, quy hoạch và phát triển đới bờ Việt Nam, qua đó góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và đảm bảo an toàn cho cộng đồng dân cư sinh sống ở đới bờ trước thiên tai và tai biến môi trường;

- triển khai mô hình ứng dụng phương thức tiếp cận tổng hợp vào thực tiễn quản lý vùng bờ ở ba tỉnh thí điểm;

- nâng cao nhận thức về QLTHĐB cho các cấp có thẩm quyền, các cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương, các bên liên quan và cộng đồng dân cư ở đới bờ;

- tăng cường năng lực quản lý và điều phối cho các cấp có thẩm quyền ra quyết định liên quan đến đới bờ;

- hỗ trợ việc thiết lập chương trình QLTHĐB dµi hạn và hình thành cơ quan đầu mối cho các hoạt động QLTHĐB ở Việt Nam.

Nhiệm vụ Phục vụ cho việc đạt được các mục tiêu nêu trên, Dự án đã đề ra 8 nhiệm vụ cụ thể, là

khung sườn cho việc triển khai các hoạt động của Dự án.

Các nhiệm vụ này gồm:

Nhiệm vụ 1: Thiết lập văn phòng và cơ sở vật chất cho hoạt động của Dự án và hỗ trợ các hoạt động điều chỉnh, sắp xếp về thể chế và hành chính phù hợp cho triển khai QLTHĐB ở Việt Nam.

Nhiệm vụ 2: Thống kê các dự án của Việt Nam và các dự án được quốc tế hỗ trợ liên quan đến vùng ven biển, và các kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng ven biển Việt Nam.

Nhiệm vụ 3: Lập chiến lược và kế hoạch hành động QLTHĐB cho các tỉnh thí điểm, tiến tới xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động QLTHĐB quốc gia, phục vụ cho việc triển khai QLTHĐB trong tương lai lâu dài.

Page 59: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

59

Nhiệm vụ 4: Cải thiện công tác quản lý và khả năng truy cập số liệu thông qua việc thu thập, xử lý, đánh giá, cập nhật và lưu trữ các cơ sở dữ liệu và thông tin được thiết lập theo tiêu chuẩn thống nhất, đặt dưới sự quản lý của các cơ quan đầu mối về QLTHĐB, nhằm phục vụ cho công tác QLTHĐB.

Nhiệm vụ 5: Đào tạo, tăng cường năng lực về QLTHĐB cho các cán bộ quản lý và chuyên gia kỹ thuật của Việt Nam thông qua một chương trình đào tạo thích hợp với các khóa đào tạo trong nước, trong khu vực và tại Hà Lan.

Nhiệm vụ 6: Xác định và tổ chức nghiên cứu một số vấn đề trọng điểm liên quan đến vùng ven biển, ở cấp trung ương và địa phương, từ đó đề xuất các biện pháp giải quyết vấn đề.

Nhiệm vụ 7: Tổ chức hội thảo khoa học chuyên đề với trọng tâm lµ các vấn đề nghiên cứu được thực hiện trong nhiệm vụ 6, nhằm tham vấn các chuyên gia và các bên liên quan về kết quả nghiên cứu và các biện pháp đề xuất, từ đó lập đề cương dự án về nội dung liên quan để gửi tới các cấp có thẩm quyền và các nhà tài trợ.

Nhiệm vụ 8: Triển khai giới thiệu và áp dụng mô hình QLTHĐB phù hợp vào thực tế tại 3 tỉnh thí điểm là Nam Định, Thừa Thiên – Huế để xem xét và giải quyết những vấn đề đặc thù của từng tỉnh, ví dụ như xói lở bờ biển và đê biển đi kèm với việc di dời và tái định cư của cộng đồng dân cư ở ven bờ ở Nam Định; lũ lụt nghiêm trọng và mâu thuẫn trong sử dụng, khai thác vùng đầm phá ở Thừa Thiên – Huế; hoạt động kinh tế cường độ cao và những vấn đề phát sinh về môi trường và sinh thái ở Bà Rịa – Vũng Tàu.

Căn cứ vào các mục tiêu và nhiệm vụ của Dự án, có thể thấy nếu việc xây dựng và triển khai QLTHĐB là một chu trình gồm các bước chính (i) Chuẩn bị, (ii) Lập kế hoạch, (iii) Phê chuẩn, (iv) Thực hiện, và (v) Đánh giá và Hiệu chỉnh, thì Dự án VNICZM trong giai đoạn 3 năm mới chỉ tập trung vào các bước (i), (ii) và (iii) của chu trình này.

3. Các khu bảo tồn biển Việt Nam

3.1. Tính cấp thiết của việc thiết lập MPA

Khu bảo tồn biển là một phương thức hiệu quả, ít tốn kém để duy trì và quản lý nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ đa dạng sinh học và và đáp ứng nhu cầu sinh kế của con người.

Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, mật độ sinh vật trong các khu bảo tồn biển tăng gấp đôi sau một thời gian thiết lập (thường là 5 năm), cung cấp ấu trùng và bổ sung hải sản non vào vùng biển xung quanh nhờ các dòng hải lưu. Hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển và hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng sẽ được khôi phục. Do vậy, nguồn lợi thuỷ sản không bị sụt giảm, dẫn đến tăng năng suất nghề cá. Ngoài ra, khu bảo tồn biển còn có sức hấp dẫn đối với du khách, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du lịch sinh thái, nghiên cứu khoa học và giáo dục cộng đồng

Trên thế giới có hơn 1.300 khu bảo tồn biển, trong đó 640 khu đã được xác định là ưu tiên quốc gia về mặt bảo tồn đa dạng sinh học. Khu bảo tồn biển đầu tiên trên thế giới được thành lập ở Florida (Mỹ) vào năm 1935 với 18.850 ha diện tích mặt biển và 35 ha vùng đất ven bờ. Khu bảo tồn biển lớn nhất thế giới là Great Coral Reef ở Australia với diện tích 34,4 triệu ha. Khu bảo tồn biển nhỏ nhất là khu dự trữ san hô đỏ ở Monaco và khu Doctor's Gully ở Australia (1ha).

Tính tới năm 2002, Đông Nam Á có 310 khu bảo tồn biển và ven biển, trong đó Philippines có 280 khu. Khoảng 46% số khu bảo tồn biển không được quản lý hoặc quản lý lỏng lẻo, 28% được quản lý dưới mức trung bình, còn số khu được quản lý tốt chỉ đếm trên đầu ngón tay. Không ít khu bảo tồn biển đã bị đóng cửa vì nhiều lý do khác nhau: thiếu kinh phí để duy trì hoạt động, thiếu sự hợp tác của cộng đồng địa phương hoặc do những thiếu sót về mặt khoa học trong việc chọn lựa địa điểm, chuyển đổi cơ cấu nghề nghiệp, thể chế, pháp luật,...

Page 60: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

60

Việt Nam trải dài qua 13 vĩ tuyến theo hướng Bắc - Nam với khoảng 3250 km bờ biển và 2.700 đảo lớn nhỏ. Vị trí địa lý của vùng biển rất thuận lợi để có tính đa dạng sinh học cao. Các hệ sinh thái nhiệt đới điển hình như rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển phân bố rộng ở vùng ven biển và các đảo xa. Biển Việt Nam còn được coi là nơi có thành phần loài sinh vật khá cao. Mức độ đa dạng loài cũng không đồng nhất giữa các vùng do sự chi phối của điều kiện tự nhiên.

Biển Việt Nam cung cấp nhiều nguồn lợi đáng kể. Theo tính toán trữ lượng cá có thể đạt tới 2,7 triệu tấn. Sản lượng cá khai thác năm 1995 là khoảng 1.344.000 tấn, trong đó đánh bắt là 829.860 tấn và sản lượng nuôi trồng là 415.280 tấn. Nghề cá ở nước ta mang tính đa loài, giá trị các loài khác nhau nhiều. Ngoài nghề cá truyền thống, nhiều nguồn lợi mới mang lại lợi ích lớn.

Biển và vùng ven biển nước ta còn cho một tiềm năng lớn về du lịch. Cảnh quan trên bờ và dưới nước ở vịnh Hạ long, Nha Trang,... đang thu hút du khách từ bốn phương.

Nguồn lợi biển đã và đang được sử dụng với cường độ ngày càng cao. Cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, hoạt động của con người đã gây ra nhiều tác động đối với tài nguyên và môi trường biển. Sau đây có thể kể đến một số tác động chính.

Khai thác quá mức: Nhờ các cải tiến về phương pháp đánh bắt và tăng số lượng, công suất tàu thuyền, sản

lượng khai thác mỗi năm tăng. Tuy vậy, hiệu quả đánh bắt lại đang giảm. Theo thống kê, sản lượng đánh bắt dường như thấp hơn khả năng cho phép, nhưng dấu hiệu khai thác quá mức thể hiện rõ đối với nhiều loài và ở nhiều vùng. Những nguồn lợi có giá trị cao như tôm hùm, cá mú, hải sâm, bào ngư, cá ngựa,... được khai thác rất triệt để ở vùng nước nông. Các loài hiếm như du gong, rùa biển cũng bị khai thác làm thực phẩm. Sử dụng san hô làm mỹ nghệ rất phổ biến ở Hải Phòng, Nha Trang, Vũng Tàu. Buôn bán cá cảnh biển phát triển ở Nha Trang, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu kéo theo đánh bắt quá mức cá rạn san hô. Như vậy "sự huỷ diệt thương mại" (một thuật ngữ trong sách đỏ của IUCN) đang thực sự trở thành mối đe doạ lớn cho nhiều loại sinh vật biển. Sự biến mất của một số loài có thể gây ra mất cân bằng sinh thái của các quần xã sinh vật biển.

Đánh cá huỷ diệt : Đánh cá bằng chất nổ đã trở lên phổ biến trong nhiều năm qua. Hiện nay, tính trạng này

đã phần nào được cải thiện nhưng vẫn còn rất nghiêm trọng ở Quảng Ninh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Ngãi, Khánh Hoà. Chất độc gây mê cá bắt đầu được nhập khẩu qua các thương gia kinh doanh thuỷ sản sống ở Hồng Kông, Đài Loan.

Phá hoại các quần xã: Nghề nuôi tôm phát triển mạnh trong thời gian qua gắn liền với quá trình khai hoang

rừng ngập mặn. Bên cạnh những tác động cơ học do hoạt động chủ động của con người, rạn san hô còn bị suy thoái do tăng lượng thải từ sông. Hoạt động trên đất liền làm tăng quá trình lắng đọng trầm tích và gây hại cho các rạn san hô ở các vùng khác. Nguyên nhân chính là việc phá rừng với diện tích giảm 9% hàng năm. Lắng đọng trầm tích còn do đánh cá bằng giả cào, nạo vét và xây dựng công trình ven biển. Hơn nữa, quần xã rạn san hô còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của du lịch biển - một ngành mới phát triển. Ở vịnh Hạ Long, Nha Trang nhiều rạn đang bị phá huỷ do thả neo, bơi lặn và thu thập san hô, thân mềm làm lưu niệm.

Sự suy thoái các quần xã không chỉ làm giảm các nguồn lợi và chất lượng môi trường mà còn liên quan đến tính bền vững của nguồn lợi vùng khơi. Trữ lượng của nhiều loài ở vùng xa bờ phụ thuộc chặt chẽ vào nguồn giống được cung cấp từ các bãi sinh sản, ương giống ven bờ.

Page 61: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

61

Nhiễm bẩn: Nhiễm bẩn biển chưa đến mức nghiêm trọng đối với tính đa dạng sinh học ở vùng ven

bờ, ngoại trừ những nơi chịu ảnh hưởng lớn của sản xuất nông nghiệp hay công nghiệp. Tuy nhiên, sự giàu dinh dưỡng (chủ yếu là hàm lượng NO3 cao) đã được ghi nhận ở nhiều nơi. Sự nở hoa của tảo (trong đó có các loài tảo độc) cũng là một hệ quả của sự giàu dinh dưỡng và đã được quan sát thấy ở nhiều vùng ven biển ở Khánh Hoà, Bình Thuận, cửa sông Đồng Nai.

Tính đa dạng sinh học và nguồn lợi biển nước ta đang chịu những tác động có hại. Vì vậy, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và sử dụng lâu bền đang được các nhà quản lý, khoa học và cộng đồng quan tâm. Hướng dẫn khai thác hợp lý nguồn lợi sinh vật biển đang được đề cập trong quy định Bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản. Trong đó, mùa vụ kích thước đánh bắt của nhiều loài cá, tôm hùm, hải sâm, trai ngọc đã được quy định, các kiểu khai thác huỷ diệt như đánh cá bằng chất nổ, chất độc phải chịu nhiều hình phạt nghiêm khắc. Luật bảo vệ môi trường đặc biệt nhấn mạnh đến bảo tồn các hệ sinh thái và nghiêm cấm các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trên thực tế, các luật lệ có hiệu lực rất thấp và tài nguyên biển đang suy giảm nghiêm trọng, các hệ sinh thái ven bờ tiếp tục bị huỷ diệt. Trong tình hình đó việc thiết lập các MPA bao gồm các hệ sinh thái tiêu biểu với tính đa dạng sinh học cao là hết sức cần thiết nhằm giữ gìn một phần các quần thể sinh vật nguồn lợi và bảo tồn một phần các hệ sinh thái.

3.2. Hoạt động thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển

Tính đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật biển Việt Nam đang chịu những tác động có hại và bị suy thoái ở nhiều vùng. Vì vậy, vấn đề bảo tồn thiên nhiên và sử dụng lâu bền đang được các nhà quản lý, khoa học và cộng đồng quan tâm. Hướng dẫn khai thác hợp lý nguồn lợi sinh vật biển đang được đề cập trong Luật Thủy sản và quy định Bảo vệ Nguồn lợi Thủy sản. Trong đó, mùa vụ và kích thước đánh bắt của nhiều loài cá, tôm hùm, hải sâm, trai ngọc đã được quy định. Các kiểu khai thác hủy diệt như đánh bắt cá bằng chất nổ, chất độc phải chịu nhiều hình phạt nghiêm khắc. Luật Bảo vệ Môi trường đặc biệt nhấn mạnh đến việc bảo tồn các hệ sinh thái, trong đó có các rạn san hô và nghiêm cấm các hoạt động gây ảnh hưởng xấu đến môi trường. Trên thực tế, các luật có hiệu lực rất thấp và tài nguyên biển đang bị suy giảm nghiêm trọng, các hệ sinh thái ven bờ tiếp tục bị hủy diệt. Trong tình hình đó, việc thiết lập các khu bảo tồn biển bao gồm các hệ sinh thái tiêu biểu với tính đa dạng sinh học cao là hết sức cần thiết nhằm giữ gìn một phần các quần thể sinh vật nguồn lợi và bảo tồn một phần các hệ sinh thái.

Mỗi rạn san hô ở biển Đông thường có tới hàng ngàn loài động vật, thực vật sinh sống trú ngụ, đồng thời là bãi đẻ, nuôi dưỡng ấu trùng của các loài sinh vật biển, nên san hô trở thành vùng có vai trò quan trọng trong việc duy trì tính đa dạng sinh học của các loài sinh vật biển và làm giàu cho biển bằng chính tiềm năng nguồn lợi của chúng. Vì lẽ này, việc xây dựng các khu bảo tồn biển thường dựa trên sự đa dạng sinh học cao của rạn san hô, nơi dự trữ nguồn gen cho toàn bộ vùng biển.

Lịch sử các Khu bảo tồn biển và ven biển Việt Nam có thể coi bắt đầu từ năm 1986, khi mà các khu dự trữ thiên nhiên với các hệ sinh thái ưu tiên là rừng ngập mặn như Cà Mau, Bạc Liêu được hình thành. Vấn đề thiết lập các khu bảo tồn biển đã được đề cập từ những năm 1980 trong khuôn khổ của Chương trình biển Nhà nước với các đề xuất hình thành khu bảo tồn biển ở Côn Đảo, Cát Bà và Sinh Tồn. Trong thời kỳ 1992-1994, với sự hỗ trợ của Quỹ Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên (WWF) và Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia; Viện hải dương học đã tiến hành các nghiên cứu về tính đa dạng sinh học, hiện trạng sử dụng nguồn lợi và tiềm năng bảo tồn thiên nhiên ở một số vùng và đề xuất các khu vực ưu tiên để thiết lập các khu bảo tồn biển. Đó là Cát Bà (Hải Phòng). CôTô (Quảng Ninh), Cù Lao Chàm (Quảng Nam), Hòn Mun (Nha Trang), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu) và An Thới (Kiên Giang). Tất cả các khu vực đề xuất đều lấy rạn san hô làm trọng tâm vì tầm quan trọng của chúng về tài nguyên và môi trường. Sau đó, các Vườn Quốc gia trên biển như Cát Bà, Côn

Page 62: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

62

Đảo từng bước quản lý cá vùng nước xung quanh các đảo. Tiếp theo với đầu tư của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hải Dương học tiếp tục xây dựng cơ sở khoa học cho việc thiết lập mạng lưới các khu bảo tồn biển Việt Nam. Những nghiên cứu này là cơ sở cho những kế hoạch phát triển hệ thống khu bảo tồn biển sau này. Một số hoạt động thực tiễn theo tiêu chí bảo tồn biển cũng đang được thực hiện tại các khu bảo tồn hiện có như Côn Đảo, Phú Quốc,... Bên cạnh đó, nhiều khu vực rừng ngập mặn đã được quy hoạch trong hệ thống bảo tồn rừng thuộc sự quản lý của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.

Với sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, nhiều lớp đào tạo về khu bảo tồn biển đã được tiến hành. INTROMARC (Australia) hỗ trợ tổ chức 3 khoá ở Hải Phòng, Nha Trang. Một số nhà quản lý và khoa học được CIDA (Canada) tài trợ để dự các hội thảo trong và ngoài nước. Trong khuôn khổ của "Sáng kiến Quốc tế về Rạn san hô", đại diện của Cục môi trường và Viện hải dương học đã tham gia thảo luận về chiến lược bảo tồn rạn san hô ở Đông Nam Á. HIện nay, nhà nước Việt Namvà các tổ chức quốc tế như WWF, IUCN đang xúc tiến các dự án nhằm hình thành hệ thống bảo tồn biển ở Việt Nam.

Dự án ADB 5712 – REG (phase 2) đã đề nghị hệ thống quốc gia gồm 30 khu bảo tồn biển và ven bờ. Trong đó ưu tiên cho 6 khu hiện tại cần ưu tiên quản lý, 8 khu cần mở rộng và tăng cường quản lý và 6 khu thiết lập mới hoàn toàn. Hiện nay chính phủ giao cho Bộ Thủy sản sọan thảo kế hoạch phát triển các khu bảo tồn biển. Các kết quả riêng về phần biển của dự án ADB được kế thừa cào trong kế hoạch này. 15 khu vực đã được liệt kê với các hệ sinh thái ưu tiên là rạn san hô và thảm cỏ biển. Trong đó, một khu vực ở Trường Sa cũng đưa vào kế hoạch. Với sự tài trợ của Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF), DANIDA và chính phủ Việt Nam, dự án trình diễn khu bảo tồn biển Hòn Mun đang hoạt động theo chiến lược bảo tồn thiên nhiên biển. Chương trình hổ trợ DANIDA cho mạng lưới bảo tồn biển Việt Nam cũng bắt đầu từ 2002 với điểm ưu tiên là Cù Lao Chàm.

Khu bảo tồn biển Hòn Mun - Bích Đầm là khu bảo tồn biển đầu tiên của Việt Nam, có đa dạng sinh học mang tầm quan trọng quốc tế. Khu bảo tồn được thành lập từ tháng 6/2001, do Bộ Thủy sản hợp tác thực hiện với Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN). Thời gian qua tại Hòn Mun, Ban quản lý dự án đã tiến hành nâng cao nhận thức cho ngư dân về việc bảo tồn và phát triển bền vững các nguồn lợi biển, đồng thời tạo nguồn thu nhập thêm cho họ, tránh để các ngư dân khai thác trái phép hải sản. Ban quản lý dự án đã thử nghiệm nuôi trồng một số loài hải sản như vẹm xanh, hải sâm cát, rong sụn,... hướng tới phổ biến cho dân nuôi trồng tăng thu nhập; mua sắm thiết bị lắp đặt phao neo tàu để tránh phá hủy rạn san hô, nhân rộng hệ thống theo dõi dầu tràn, hút lại lượng dầu tràn để tái sử dụng,... Những hoạt động đó đã đem lại lợi ích lớn, là cơ sở để nhân rộng loại hình bảo tồn này.

Hoạt động du lịch đang được phát triển mạnh mẽ ở các địa điểm ven biển là các khu bảo tồn hoặc những khu vực đề nghị bảo tồn. Cát Bà, Nha Trang, Côn Đảo và Phú Quốc cùng với các đảo trong vịnh Hạ Long là những khu vực quan trọng chủ yếu đang được nhán mạnh và phát triển du lịch. Du lịch có thể đóng góp một vai trò ngày càng quan trọng trong việc phát triển kinh tế vùng duyển hải Việt Nam. Đây cũng là hoạt động có thể đóng góp lớn cho phát triển hệ thống bảo tồn nếu có quy hoạch tốt và điều hành hợp lý theo quan điểm du lịch sinh thái.

Việt Nam hiện đang ở thời điểm cấp bách để phát triển hệ thống khu bảo tồn biển của mình. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề phức tạp liên quan đến những khiếm khuyết lớn trong hệ thống khu bảo tồn hiện nay. Ngoại trừ một vài khu bảo tồn có kế hoạch quản lý, Việt Nam thiếu một chương trình dành cho các khu bảo tồn biển và ven biển. Phần biển được quy hoạch bảo tồn của những khu bảo tồn trên các đảo hiện nay như Vườn Quốc gia Cát Bà và Côn Đảo mới chỉ được công nhận gần đây là một phần của những khu bảo tồn này, và ngay cả như vậy vẫn phải mở rộng hơn nữa để chứa đựng được những sinh cảnh biển quan trọng. Hiện nay, chỉ

Page 63: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

63

một phần mang tính hình thức các nguồn tài nguyên biển và ven biển Việt Nam được nằm trong hệ thống khu bảo tồn hiện tại.

3.3. Một số trở ngại khi triển khai khu bảo tồn biển

Việt Nam là một nước đang phát triển có tốc độ tăng trưởng nhanh (GDP tăng 8 -9%/năm), phát triển kinh tế đang là ưu tiên của Chính phủ và cộng đồng. Đồng thời với mức sống được nâng cao, sức ép đối với tài nguyên và môi trường cũng gia tăng. Là một quốc gia biển với 70% dân cư sống ở vùng ven biển và các châu thổ, hoạt động kinh tế chủ yếu tập trung ở vùng ven biển và trên biển. Các khu vực đề xuất bảo tồn biển đang đứng trước các mối đe doạ với mức độ khác nhau. Tác động lớn nhất gây ra bởi khai thác nguồn lợi và du lịch biển thiếu kiểm soát. Sự nghèo đói đang là một vấn đề không dễ khắc phục. Tuy nhiên, điều đáng buồn là nhiều hành động vô ý thức cũng góp phần làm suy giảm tính đa dạng sinh học.

Hiểu biết về bảo tồn thiên nhiên biển của cộng đồng và các nhà quản lý còn rất hạn chế. Dưới tầm nhìn của một số người, mục tiêu lợi nhuận vẫn được coi trọng hơn so với mục tiêu bảo tồn ngay cả trong kế hoạch thiếp lập khu bảo tồn biển. Các dự án phát triển ít khi quan tâm đến bảo tồn thiên nhiên và làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn. Ví dụ rõ ràng là hiện đang song song tồn tại 2 dự án cảng thương mại lớn ở Vịnh Hạ Long và Côn Đảo. Đây là những nơi đã được xác định ưu tiên cho bảo tồn thiên nhiên biển. Việc dung hoà hai mục tiêu trên là việc không đơn giản và đòi hỏi sự hợp tác chặt chẻ giữa các nhà lập chính sách, quản lý và khoa học.

Khó khăn về tài chính đã hạn chế đầu tư của Nhà nước cho việc nghiên cứu thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển. Hơn nữa, các mục tiêu dài hạn về bảo tồn thiên nhiên (ví dụ như giáo dục ý thức) ít khi nhận được sự hỗ trợ lớn của các nhà hoạch định chính sách.

Cạnh tranh trong nội bộ và giữa các cộng đồng cũng làm tăng sức ép với các vùng đề xuất bảo tồn biển. Do hạn chế về năng lực tàu thuyền, vùng ven bờ thường là các ngư trường chính. Ngư dân không muốn mất đi khu vực khai thác hàng ngày của họ. Sự cạnh tranh cũng là một hậu quả của sự ứng xử lạc hậu đối với biển của ngư dân. Điều này không thuận lợi cho kiểu quản lý dựa trên cơ sở cộng đồng. Đây được xem như một giải pháp quản lý khu bảo tồn biển có hiệu quả ở một số nước trong khu vực.

Một trở ngại khác là thiếu thông tin cần thiết liên quan đến việc thiết lập và quản lý khu bảo tồn biển. Các nghiên cứu cho đến nay chủ yếu tập trung về tính đa dạng sinh học mà chưa quan tâm nhiều đến các phương diện kinh tế-xã hội, tính hợp lý của hoạt động khai thác tài nguyên và đánh giá tác động môi trường. Cơ sở cho việc quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển chưa mang tính sinh thái cao do thiếu thông tin về các đặc trưng đa dạng sinh học và tài nguyên của các vùng biển.

Đồng thời những khác biệt trong phân vùng chức năng giữa bảo tồn biển và trên cạn chưa được thống nhất. Thực chất, quản lý khu bảo tồn biển là quản lý tài nguyên và người sử dung tài nguyên. Tài nguyên nằm dưới nước, nhưng người sử dụng tài nguyên lại ở trên cạn. Vì vậy, không thể áp dụng máy móc nguyên tắc cho rằng bảo tồn biển chỉ lo phần dưới nước. Khái niệm vùng đệm đang sử dụng cho bảo tồn trên cạn cũng phải được hiểu rằng, đây chính là vùng sinh sống của cộng đồng trên các đảo và vùng ven bờ.

Vấn đề duy trì sự tồn tại của các khu bảo tồn biển sau khi thành lập cũng cần được suy nghĩ ngay từ bây giờ. Rõ ràng là đầu tư từ Nhà nước và các tổ chức quốc tế chỉ có được đáng kể ở giai đoạn đầu. Duy trì hoạt động bảo tồn trên biển chắc chắn sẽ khó khăn và tốn kém hơn nhiều so với trên đất liền.

Giải quyết sinh kế cho cộng đồng ngư dân nghèo cũng là một vấn đề bức xúc của hoạt động bảo tồn biển. Cần phải xác định rõ rằng, xóa đói giảm nghèo là chiến lược chung của Nhà nước và là trách nhiệm của toàn xã hội. Các dự án bảo tồn chỉ có thể đóng góp bằng

Page 64: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

64

những hoạt động trong khuôn khổ bảo tồn biển. Trong đó, việc làm giàu nguồn lợi tự nhiên nếu quản lý tốt sẽ làm tăng nguồn thu nhập cho cộng đồng thông qua khai thác hợp lý. Những hổ trợ trực tiếp chỉ có thể đối với số ít ngư dân nghèo chịu ảnh hưởng do quy hoạch vùng không đánh bắt trong khu bảo tồn.

Mặc dù việc thiết lập các khu bảo tồn biển đã được đề xuất vài năm trước đây, khả năng hiện thực hoá bị hạn chế do thiếu một cơ quan điều hành thống nhất cấp trung ương và chính sách quốc gia về bảo tồn thiên nhiên biển. Sự quan tâm riêng lẻ của các bộ, ngành, địa phương khó có thể dẫn đến thành công nếu không muốn nói là còn có tác dụng ngược lại.

Một thách thức lớn là phải duy trì, quản lý và cải tạo những sinh cảnh quan trọng về đa dạng sinh học có vai trò chủ đạo đối với kinh tế địa phương và quốc gia, đặc biệt là những khu bảo tồn quan trọng cả về bảo tồn đa dạng sinh học cũng như đối với các cộng đồng ven biển mà phúc lợi và nguồn kiếm sống của họ phụ thuộc vào một môi trường biển và ven biển. Đầu tư vào hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở Việt Nam có thể và nên được coi là những bước quan trọng để bảo đảm sự ổn định kinh tế tại miền duyên hải và là chất xúc tác cho những hoạt động cải thiện hơn nữa chất lượng môi trường, đồng thời tạo ra một cộng đồng bảo tồn và một công chúng được thông tin tốt hơn và ủng hộ hoạt động bảo tồn thiên nhiên.

Như vậy, để hình thành hệ thống các khu bảo tồn biển ở Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm và sẽ gặp không ít trở ngại. Theo các chuyên gia bảo tồn biển quốc tế, thực trạng ở nước ta hiện nay tương tự với Australia cách đây 20 năm hay với Indonesia 5-10 năm trước. Với nỗ lực của ngành thủy sản và phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế, các cộng đồng ven biển, hy vọng rằng việc thiết lập hệ thống bảo tồn biển và ven bờ sẽ được triển khai có hiệu quả, góp phần vào việc bảo vệ và duy trì bền vững nguồn lợi thủy sản của nước ta.

VII. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ Tỉnh Thừa Thiên-Huế 1. Vấn đề vùng ven bờ Tỉnh Thừa Thiên-Huế

Vùng bờ Thừa Thiên Huế với 126 km bờ biển, bao gồm dãi đồng bằng và đất cát ven biển, vùng đầm phá và vùng ven bờ tới độ sâu 40 mét nước thuộc 6 huyện Phong Điền, Quãng Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc và Thành phố Huế.

Vùng bờ TT Huế chiếm 34% tổng diện tích và 81% dân số toàn tỉnh. Là vùng trọng điểm, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, nhất là với các ngành nông nghiệp, thủy sản, du lịch-dịch vụ và kinh tế biển. Giữ vai trò trọng yếu trong việc duy trì, bảo tồn, phát triển các nguồn gen và đa dạng sinh học. Đồng thời đây cũng là vùng có địa hình dốc, với vùng đồng bằng thấp trũng, có dãi cát mỏng, ngăn cách giữa biển và đầm phá; cũng là vùng có lượng mưa lớn, tập trung 70% lượng mưa cả năm trong thời gian 3 tháng, do vậy đây là vùng xung yếu về môi trường, là vùng nhạy cảm, dễ mất cân bằng sinh thái.

Chiếm phần lớn khu vực này là hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai, hệ đầm phá lớn nhất Việt Nam. Với tổng diện tích 21.600 ha thuộc địa phận Hành chính của 5 huyện và có khoảng 300.000 người sống phụ thuộc trực tiếp vào tài nguyên của mình, hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động kinh tế của tỉnh. Có thể nói, hệ đầm phá này quyết định tốc độ và hình thái phát triển kinh tế – xã hội của TT Huế. Việc phát triển đô thị ngày càng mạnh ở Huế cũng gây áp lực ngày càng lớn đối với hệ đầm phá, bởi các hoạt động sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản, giao thông vận tải bị hạn chế trong một diện tích ngày càng bị thu hẹp. Áp lực này xuất phát từ những nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thường dẫn đến xung đột về sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Hơn nữa, đôi khi sử dụng lơn hơn khả năng chịu đựng của hệ sinh thái đầm phá sẽ dẫn đến các kiẹt cácc nguồn tài nguyên đó.

Yêu cầu bảo vệ môi trường hệ đầm phá có tính đa dạng sinh học cao và có một không hai này ngày càng trở nên cấp bách. Cộng đồng quốc tế cũng như phía Việt Nam đều quan

Page 65: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

65

tâm đến việc xem xét xác định khu vực đầm phá là một khu bảo tồn đất ngập nước theo Công Ước Ramsar. Bên cạnh đó, vì du lịch là một thế mạnh đặc thù của TT Huế, được coi là ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh, nên việc phát triển du lịch sinh thái ở khu vực đất ngập nước ngày càng được quan tâm. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có biện pháp thực tiễn nào được áp dụng để tránh sự suy thoái các giá trị tự nhiên của khu vực này. Hiện nay, toàn bộ vùng đầm phá và khu vực lân cận thuộc vùng bờ của TT Huế chưa được coi là khu vực được bảo vệ theo các quy định chính thức của nhà nước. Điều đáng chú ý là, các hoạt động phát triển kinh tế – xã hội nêu trên, ngoài mâu thuẫn lẫn nhau trong việc sử dụng không gian và tài nguyên, còn diễn ra tại một khu vực cực kỳ nhạy cảm và dễ bị tác động bởi thiên tai. Bản thân các hoạt động này còn làm trầm trọng thêm nguy cơ đời sống con người và giá trị thiên nhiên ở khu vực này bị thiên tai tác động. Các hoạt động của dự án Giảm thiểu Thiên tai với trọng tâm là đảm bảo an toàn cho nhân dân đã đề ra những yêu cầu nhất định về phát triển và sử dụng vùng bờ của tỉnh.

Tóm lại, vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn thiên nhiên và an toàn cho nhân dân cần phải được xem xét và cân nhắc theo cách tổng hợp. Thực tiễn đòi hỏi phải có các hướng dẫn sử dụng tài nguyên vùng ven bờ và một kế hoạch tổng hợp về việc sử dụng vùng bờ có sự điều phối hợp lý cho Tỉnh TT Huế.

2. Cơ hội và triển vọng của vùng bờ TT Huế

Nằm trong vùng trọng điểm kinh tế của miền Trung, đã được chính phủ ưu tiên đầu tư xây dựng, phát triển cơ cấu hạ tầng; đặc biệt là mạng lưới giao thông vận tải cả đường sắt, đường bộ, đường hàng không, đường biển là đòn bẫy quan trọng tạo cơ hội cho vùng ven bờ phát triển nhanh với tốc độ cao trong những năm tới. Ngoài ra còn có những vũng, vịnh có điều kiện để xây dựng những cảng biển như Thuận An, Chân Mây. Đặc biệt cảng Chân Mây có đủ điều kiện để xây dựng thành cảng sâu lớn của khu vực miền Trung.

Hiện nay, tỉnh và Trung ương đã và đang triển khai thực hiện các chương trình dự án lớn như: Dự án đường hầm xuyên đèo Hải Vân, Chương trình phát triển các khu du lịch Lăng Cô-Bạch Mã-Cảnh Dương - Hải Vân; Khu du lịch Tân Mỹ-Thuận An, Chương trình xây dựng đô thị mới và Khu khuyến khích phát triển kinh tế - thương mại Chân Mây, Dự án Xây dựng cảng nước sâu Chân Mây; Chương trình phát triển thủy sản và các dự án lớn khác đã, đang và sẽ xây dựng như Cầu Trường Hà, Cầu Thuận An,... sẽ tạo ra những cơ hội và triển vọng mới thúc đẩy kinh tế xã hội vùng ven bờ phát triển

3. Các đe dọa và thách thức vùng ven bờ

Đồng thời với cơ hội và phát triển vọng vùng ven bờ cũng là nơi tiềm ẩn các nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do nước thải, chất thải công nghiệp, chất thải từ các khu du lịch dịch vụ và đô thị, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản,... nơi chịu ảnh hưởng trực tiếp của thiên tai và các sự cố môi trường: như xói lở, lũ lụt, hạn mặn,... Việc thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội sẽ có tác động lớn làm thay đổi môi trường sinh thái và ảnh đến nguồn tài nguyên vùng ven bờ. Vì vậy, trong quá trình phát triển cần lưu ý các đe dọa và thách thức sau:

* Các đe dọa:

• Khả năng gây ô nhiễm môi trường từ đất liền, đầm phá và biển

• Khai thác quá mức và sử dụng không hợp lý các nguồn tài nguyên

• Thiên tai và các sự cố môi trường

• Mâu thuẩn sử dụng tài nguyên giữa các ngành

* Các thách thức

• Cơ hội tạo việc làm cho cư dân trong vùng để giảm đói nghèo còn ít và trình độ dân trí còn thấp

Page 66: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

66

• Hạn chế về kiến thức và nhận thức của cộng đồng trong việc bảo vệ và bảo tồn các giá trị tài nguyên, môi trường và khái niệm phát triển bền vững

• Tồn tại lợi mâu thuẩn giữa lợi ích của các nhân và cộng đồng

• Quản lý tài nguyên môi trường còn mang tính đơn ngành và theo lãnh thổ

• Chưa có qui hoạch tổng hợp việc sử dụng các nguồn tài nguyên vùng ven bờ. Năng lực quản lý và các phương tiện quản lý còn nhiều bất cập

Để bảo đảm thúc đẩy kinh tế-xã hội của tỉnh TT Huế trong thời gian đến phát triển bền vững với nhịp độ cao hơn đòi hỏi phải có cơ chế điều hành và quản lý tốt nhằm sử dụng hợp lý, có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường, hạn chế và giảm nhẹ tác động của thiên tai góp phần cải thiện và nâng cao điều kiện sống cho cộng đồng.

Trong những năm qua, nhiều công trình điều tra và nghiên cứu đã được tiến hành bằng nguồn kinh phí địa phương và nhà nước, thường được hỗ trợ từ các nguồn vốn quốc tế. Các dự án này đã cung cấp nhiều báo cáo và số liệu hiện đuợc lưu trữ các cơ quan nhà nước và các viện nghiên cứu. Dự án thí điểm VNICZM Thừa Thiên - Huế sẽ xây dựng trên cơ sở những thông tin sẵn có đó. Với phương thức tiếp cận tổng hợp và sử dụng các công cụ bổ trợ cho việc lập kế hoạch, vùng ven bờ Thừa Thiên - Huế chắc hẳn sẽ tiến thêm một bước trong việc đưa phát triển bền vững thành hiện thực.

4. Dự án thí điểm VNICZM tại Thừa Thiên Huế

Ngay từ ban đầu, Dự án thí điểm ở TT Huế đã được chọn là trọng điểm trong số 3 nghiên cứu thí điểm thuộc Dự án VNICZM. Dự án thí điểm TT Huế được khởi động và bắt đầu triển khai sớm nhất. Các hoạt động của Dự án thí điểm được kết nối với các hoạt động chung của Dự án VNICZM thông qua vai trò “hỗ trợ và điều phối” của Văn phòng Dự án VNICZM ở Hà Nội. Tại Huế, việc triển khai Dự án thí điểm đã mang lại rất nhiều kinh nghiệm quý báu về các khía cạnh thực tế, các hoạt động, các vấn đề liên quan đến QLTHVB, về việc xây dựng chiến lược và kế hoạch Hành động QLTHVB. Những kinh nghiệm này được hai Dự án thí điểm ở Nam Định và Bà Rịa – Vũng Tàu tham khảo và học tập, đồng thời góp phần tác động vào việc hình thành các hoạt động hỗ trợ QLTHVB từ cấp trung ương như xây dựng cơ sở dữ liệu tổng hợp, thành lập đơn vị đầu mối về QLTHVB cấp quốc gia tại Hà Nội.

Trong Giai đoạn Khởi động diễn ra từ tháng 3 đến tháng 6 năm 2001, với sự hỗ trợ của các chuyên gia Hà Lan và tham vấn các cấp lãnh đạo cùng đông đảo các bên liên quan, các mục tiêu và nhiệm vụ của Dự án thí điểm đã được xác định. Đồng thời, Báo cáo Khởi động Dự án cũng được lập vào tháng 6/2001 và sau đó được chính thức phê chuẩn trong phiên họp đặc biệt giữa Dự án thí điểm với UBND tỉnh và lãnh đạo các sở, ban, ngành liên quan vào ngày 13/9/2001.

Vào tháng 2/2002, NEDECO đã cử một chuyên gia đến công tác thường trú tại Dự án thí điểm và giữ chức cụ Cố vấn thường trú cấp tỉnh. Nhân dịp này, Dự án tiến Hành đánh giá giữa kỳ các công tác đã được thực hiện từ khi bắt đầu Dự án cho đến thời điểm đó, với sự tham gia của đoàn chuyên gia ngắn hạn của NEDECO đến từ Hà Lan. Kết quả đánh giá được báo cáo và trao đổi với Ban Chỉ đạo Dự án thí điểm (PSC) và các bên liên quan khác ở cấp tỉnh.

Mục tiêu của dự án theo sự nhất trí của tất cả các bên liên quan là: “Mục tiêu tổng thể là cải thiện đời sống nhân dân nhờ khai thác lâu dài, bền vững tài nguyên khu vực đầm phá và vùng bờ thông qua áp dụng quản lý tổng hợp vùng ven bờ ở TT Huế. Thực hiện mục tiêu này bằng cách cung cấp cho Ủy ban Nhân dân Tỉnh những kiến thức và công cụ cần thiết để áp dụng quản lý tổng hợp vùng ven bờ một cách phù hợp, nhằm duy trì sự toàn vẹn của vùng bờ và khu vực đầm phá và giải quyết một cách toàn diện những mẫu thuẫn nảy sinh giữa các mục đích sử dụng với sự quan tâm thích đáng đến các giá trị sinh thái.”

Page 67: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

67

Các nhiệm vụ của dự án VNICZM ở T.T. Huế tập trung vào các nội dung sau:

• Nâng cao nhận thức cho các em học sinh tiểu học về vai trò của cả nước ngọt và nước biển, về những cơ hội và thách thức liên quan đến nước, và về các phương thức phục vụ quản lý tổng hợp và phát triển, giúp cho các thầy cô giáo, các phụ huynh và các em học sinh có nhận thức về các vấn đề và các quyết định mà chính họ là người phải đưa ra trong tương lai;

• Ứng dụng Viễn thám làm công cụ (i) lập bản đồ chuyên đề, (ii) dự tính sơ bộ những thay đổi theo thời gian của độ phủ (rừng) ở khu vực đồi núi có tác động đến mức độ xói mòn đất và dự báo về mức độ trầm tích xảy ra ở khu vực đầm phá, và (iii) xác định những thay đổi của đường bờ biển, có xem xét đến các điều kiện thủy động lực ở vùng bờ;

• Quan trắc chất lượng môi trường khu vực đầm phá và chế độ thủy động lực của vùng bờ: bao gồm việc đặt vấn đề mang tính chiến lược: “tại sao phải quan trắc” và khởi động một chương trình quan trắc thực sự về chất lượng nước, đa dạng sinh học (chim chóc, các loài 2 mảnh vỏ và cá) và số đo các mặt cắt theo bờ biển và mức triều lên xuống tại hai lạch triều thuộc vùng đầm phá;

Mô hình STREAM: một mô hình toán với ứng dụng GIS trong việc xác định mực nước biến thiên thuộc khu vực tỉnh TT Huế, trong đó nêu dự đoán cho các thời điểm năm 2010, 2040 và 2070, với các kịch bản tác động của sự biến đổi khí hậu đói với lượng nước ở các lưu vực sông và độ ẩm của đất theo ô mắt lưới cỡ 1 km2, là bước khởi đầu hữu ích cho việc tiến tới lập một bộ mô hình thuật toán cho khu vực sông và đầm phá của tỉnh TT Huế.

5. Chiến lược QLTHVB của Tỉnh TT Huế

Dự án VNICZM ở cả cấp Trung ương lẫn địa phương đã hổ trợ các bên liên quan chính tại các vùng ven biển làm quen, nắm vững và lồng ghép khái niệm QLTHVB vào các nhiệm vụ và hoạt động thường xuyên của mình. Chiến lược QLTHVB đã được các bên liên quan của TT Huế xây dựng từ năm giữa năm 2002 đến đầu năm 2003, dưới sự chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh và nhờ sự hỗ trợ của Văn phòng dự án thí điểm VNICZM tại TT Huế.

Chiến lược đã được các viên chức hàng đầu của 16 cơ quan, ban ngành khác nhau của tỉnh trực tiếp xây dựng. Những viên chức này làm việc trong ba nhóm, tập trung vào ba chủ đề chính là sử dụng nước, sử dụng đất và các vấn đề về thể chế.

Chiến lược quản lý tổng hợp vùng ven bờ là định hướng cơ bản cho các chương trình hành động trước mắt và lâu dài để giải quyết những vấn đề phức tạp trong quản lý tài nguyên, môi trường vùng bờ, thông qua cơ chế hợp tác đa ngành.

Chiến lược bảo đảm cho tất cả các bên liên quan hợp tác chặt chẻ với nhau nhằm khai thác, sử dụng một cách hợp lý tài nguyên và môi trường phù hợp với đặc thù sinh thái vùng bờ tỉnh TT Huế vì các mục tiêu phát triển bền vững.

Chiến lược thể hiện quyết tâm và ý chí của Chính quyền và nhân dân tỉnh TT Huế trong việc quản lý, bảo vệ và khai thác bền vững tài nguyên, môi trường vùng ven bờ.

Chiến lược QLTHVB đã xác định rõ mục tiêu tổng quát là: Sử dụng tối ưu nguồn tài nguyên thiên nhiên của Tỉnh theo cách bền vững, bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, giảm thiểu các tác động tiêu cực do thảm họa tự nhiên, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải thiện và nâng cao điều kiện sống của cộng đồng địa phương.

Các mục tiêu cụ thể là:

• Nâng cao nhận thức và tăng cường năng lực quản lý tài nguyên và môi trường cho chính quyền và cộng đồng địa phương;

• Phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm môi trường;

• Sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo tồn và phục hồi đa dạng sinh học;

• Ổn định và nâng cao đời sống nhân dân vùng đầm phá ven biển;

Page 68: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

68

• Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về Quản lý tổng hợp vùng bờ.

Các nội dung của chiến lược:

1. Xây dựng năng lực QLTHVB/ Tăng cường thể chế: xây dựng, hoàn thiện và chuẩn bị các điều kiện nhằm thực hiện cơ chế QLTHVB trong khối hành chính TT Huế.

Chương trình hành động: � Tuyên truyền và nâng cao nhận thức về quản lý tổng hợp vùng bờ cho

cộng đồng và cán bộ chính quyền địa phương;

� Xây dựng triển khai chương trình đào tạo, tập huấn năng lực QLTHVB cho đội ngũ cán bộ của sở, ban, ngành, các địa phương;

� Tiến hành rà soát để đề xuất chỉnh lý, bổ sung, sửa đổi các văn bản, quy phạm pháp luật để bảo đảm phương thức quản lý tổng hợp xuyên suốt quá trình từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến tổ chức thực hiện các dự án trên vùng bờ;

� Nâng cao năng lực, tăng cường trang thiết bị, ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của các tổ chức bảo vệ tài nguyên và môi trường;

� Xây dựng quy trình hành chính bắt buộc về QLTHVB, nêu rõ mối quan hệ chủ trì, phối hợp trong quá trình thực hiện các công việc liên quan đến vùng bờ giữa các cơ quan quản lý nhà nước trên địa bàn tỉnh;

� Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong việc bảo vệ tài nguyên, môi trường vùng bờ.

2. Bảo vệ môi trường: gắn kết phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ tài nguyên môi trường, sử dụng các biện pháp quản lý tổng hợp với mục đích bảo vệ tài nguyên và môi trường vùng ven bờ theo cách bền vững.

Chương trình hành động: � Nâng cao nhận thức bảo vệ tài nguyên, môi trường và xây dựng nếp sống

văn hóa môi trường;

� Xác định các khu vực cần bảo vệ và phục hồi đa dạng sinh học, triển khai xây dựng các khu bảo tồn thiên nhiên vùng bờ;

� Tăng cường kiểm soát, quản lý các nguông ô nhiễm, đặc biệt là nguồn chất thải rắn ở các khu đô thị mới ven biển và nguồn thải nông nghiệp, thủy sản đổ vào đầm phá;

� Tăng cường kiểm tra và giám sát môi trường đối với tất cả các dự án đầu tư, từ khâu lập quy hoạch, kế hoạch đến triển khai xây dựng và vận hành dự án;

� Xây dựng các khu sản xuất tập trung với đầy đủ hệ thống công trình làm sạch môi trường, từng bước di chuyển các nhà máy, xí nghiệp ở các khu đông dân cư, khu vực nhạy cảm đến khu tập trung mới; khuyến khích xây dựng và phát triển các làng nghề sản xuất sinh thái.

3. Kết hợp giảm thiểu thiên tai với quản lý tài nguyên vùng bờ: tăng cường quản lý tổng hợp lưu vực sông, quản lý sông, phát triển rừng đầu nguồn và ven biển, nhận diện các vùng dễ bị thương tổn và dễ bị ảnh hưởng, cải tiến các biện pháp giảm thiểu lũ hiện có và xây dựng các biện pháp mới, nâng cao nhận thức, tăng cường năng lực và nâng cao khả năng cho các cộng đồng địa phương thích nghi với các điều kiện sống nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực từ các thảm họa tự nhiên.

Chương trình hành động:

Page 69: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

69

� Kết hợp việc xác định các vùng dễ tổn thương, nhạy cảm và đe dọa bởi thiên tai với nghiên cứu và thực hiện các biện pháp phòng ngừa nhằm khắc phục và bảo đảm an toàn cho đời sống và hoạt động sản xuất của cộng đồng địa phương;

� Tiến hành các biện pháp nhằm thực hiện nghiêm việc đánh giá tác động môi trường liên quan đến giảm nhẹ thiên tai của tất cả các dự án, công trình kinh tế dân sinh trên địa bàn tỉnh cũng như ảnh hưởng của các công trình phòng chống thiên tai đến hoạt động sản xuất của cộng đồng;

� Quy hoạch các lưu vực sông, xây dựng và từng bước hiện đại hóa hệ thống dự báo và cảnh bảo thiên tai, tổ chức phòng ngừa và giảm nhẹ thiên tai bằng các biện pháp công trình và phi công trình và phát huy kinh nghiệm sống thích nghi với thiên tai của cộng đồng địa phương.

4. Sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiên (phục vụ phát triển kinh tế - xã hội): sử dụng hợp lý tài nguyên ven biển, đặc biệt ở vùng đầm phá, trên cơ sở thỏa mãn hài hòa lợi ích của các ngành liên quan để phát triển bền vững.

Chương trình hành động: � Song song với tiến hành nghiên cứu năng lực chuyển tải của hệ sinh thái,

cần hạn chế những hoạt động có nguy cơ đe dọa đến suy thoái tài nguyên và môi trường đầm phá;

Về phát triển thủy sản:

� Điều chỉnh và bổ sung các chính sách phát triển hoạt động khai thác thủy sản nhằm giữ được cân đối hài hòa giữa khai thác và nuôi trồng thủy sản, giữa hoạt động thủy sản vùng đầm phá và biển, giữa hoạt động thủy sản với nông nghiệp vùng ven phá, giữa hoạt động thủy sản và giao thông trên phá để bảo đảm sự bền lâu tài nguyên vùng bờ.

� Đa dạng hóa và thực hiện luân canh các đối tượng nuôi trồng thủy sản, chú trọng và khuyến khích phát triển loại hình nuôi trồng sinh thái, xây dựng làng nuôi trồng sinh thái và khu nuôi trồng công nghiệp sạch. Đồng thời triển khai áp dụng hình thức tổ chức cộng đồng quản lý thực hiện quy chế cho từng vùng nuôi trồng thủy sản để giữ tốt môi trường nuôi, bảo đảm cho sản xuất ổn định, lâu bền và giảm thiểu ô nhiễm lên môi trường.

Về phát triển nông nghiệp:

� Xây dựng hệ canh tác hợp lý để khai thác hiệu quả và bèn vững tài nguyên đất, nước và nguồn lao động củ vùng bờ, đặc biệt quan tâm đến mô hình sản xuất nông nghiệp sạch nhằm giảm ảnh hưởng chất thải đến môi trường ven biển nhất là môi trường đầm phá;

� Quy hoạch phát triển mô hình sản xuất nông nghiệp trang trại ở vùng đất cát ven biển, đặc biệt là vùng cát ven đầm phá.

Từ những vấn đề trên có thể thấy rằng, về nguyên tắc, Chiến lượng QLTHVB bao trùm lên 3 trụ cột của phát triển bền vững: môi trường, sự an toàn và kinh tế (vì mục đích cải thiện cuộc sống của các cộng đồng địa phương), cùng với việc xây dựng năng lực và sắp xếp tổ chức để đạt được sự cân bằng giữa các trụ cột này.

VIII. Các công ước quốc tế liên quan đên các khu bảo tồn biển và phát triển vùng ven bờ.

1. Agenda 21, 1992 Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về Môi trường và Phát triển

Công ước này không phải là sự liên kết mà ký kết để có một tinh thần trách nhiệm cao, bảo đảm cho việc thực hiện đầy đủ lịch trình. Chương 17 của lịch trình qui định: "các nước

Page 70: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

70

phải xác định các hệ sinh thái biển có các mức độ đa dạng và năng suất sinh học cao và các diện tích nơi ở nguy cấp khác để tạo ra những hạn chế cần thiết trong việc sử dụng các vùng này, không kể các khu bảo vệ đã được chỉ định"

2. Công ước quốc tế về luật biển (UNCLOS)

Trong khi hiệp ước này chỉ giới hạn thẩm quyền về các khu bảo tồn biển, việc bảo tồn và bảo vệ môi trường biển và bảo tồn các tài nguyên sinh vật biển trong và ngoài phạm vi quốc gia là nghĩa vụ cơ bản. Ví dụ bao gồm các điều khoản về các phần khác nhau của thềm 3. Công ước về đa dạng sinh học (CBD)

Công ước được thông qua ở Nairobi từ năm 1992. Đến tháng 01 năm 2004 đã có 188 nước ký vào công ước, trong đó Mỹ là một trong số những nước ký sau cùng. Công ước bao gồm 42 điều và 2 phụ lục và có 3 mục tiêu tổng quát:

• Bảo tồn đa dạng sinh học

• Sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học

• Phân chia công bằng và hợp lý các nguồn lợi từ đa dạng sinh học.

Công ước cũng yêu cầu mỗi một thành viên theo khả năng có thể và ở những nơi thích hợp cần phải:

• Thiết lập một hệ thống các khu bảo vệ hay những vùng mà cần thiết phải có những biện pháp đặc biệt để bảo tồn đa dạng sinh học.

• Phát triển các hướng dẫn đối với việc lựa chọn, thiết kế và quản lý các khu bảo vệ như thế.

4. Bộ luật Liên hiệp quốc về quản lý nghề cá

Bộ luật này không phải là sự trói buộc mà là một sự tự nguyện nhằm vào việc sử dụng bền vững tài nguyên nghề cá với sự bảo tồn các hệ sinh thái. Nguyên tắc chung là kêu gọi việc bảo vệ và phục hồi tất cả các nơi ở nguy cấp của cá, xác định các vùng đất ngập nước, rừng ngập mặn, rạn san hô, đầm phá đặc trưng và các nơi sinh sản và nuôi dưỡng con non.

5. Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu thuyền .

Công nước này có những qui định nghiêm ngặt liên quan đến việc việc thải dầu mỡ, chất lõng độc hại, rác thải ở các nước vùng ven biển. Các vùng đặc biệt đã được chỉ định là Biển Bantic, Biển Địa trung Hải, Biển Đỏ, Biển Bắc, Biển Đen, Vịnh Aden, Vùng Caribê,.. Công ước này cũng chỉ định những vùng nhạy cảm cần phải bảo vệ đặc biệt do tầm quan trọng của nó về sinh thái, kinh tế xã hội và khoa học và cũng bởi vì nó dễ bị thương tổn bởi các hoạt động liên quan đến hàng hải.

6. Công ước về các vùng đất ngập nước (Công ước Ramsar)

Công ước Ramsar bao gồm cả hệ sinh thái nước ngọt và biển. Công ước này định rõ diện tích vùng biển không quá 6 mét chiều sâu khi triều thấp. Đến năm 1996 danh sách các vùng đất ngập nước quan trọng trên thế giới đã lên đến hơn 800 vùng với diện tích khoảng 500.000 km2. Khoảng 270 vùng trong số này là các vùng biển và ven biển

7. Công ước về bảo vệ các di sản thiên nhiên và văn hoá thế giới

Mục tiêu của công ước là bảo vệ các di sản thiên nhiên và văn hoá đặc biệt của thế giới. Ơ những nơi mà các thành viên có yêu cầu sự giúp đở quốc tế để bảo vệ sự thống nhất của di sản, thì di sản sẽ được đưa vào danh sách Di sản văn hoá thế giới bị đe doạ. Tiềm năng đe doạ được làm rõ trong "Hướng dẫn thực hiện" và nằm trong các đề án qui mô lớn, phát triển đô thị và du lịch, các thiên tai và sự thay đổi của mực nước biển. Các vùng biển có thể là di sản văn hoá hay thiên nhiên. Trong số 108 di sản thế giới, thì có 14 là ở biển và 17 là ở vùng ven bờ.

Page 71: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

71

Câu hỏi ôn tập chương 4 1. Nhu cầu quản lý tổng hợp vùng ven bờ. 2. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ và phòng chống thiên tai. 3. Quản lý tổng hợp vùng ven bờ và Bảo tồn đa dạng sinh học. 4. Tìm kiếm sản lượng bền vững. 5. Các bước của quá trình quản lý tổng hợp vùng ven bờ. 6. Tính cấp thiết của chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và vùng ven bờ Việt

Nam. 7. Cơ sở lý luận của dự thảo Chiến lược quốc gia về quản lý môi trường biển và vùng ven bờ

Việt Nam. 8. Mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về Quản lý Môi trường biển và vùng bờ. 9. Các ưu tiên trong chiến lược gia về Quản lý Môi trường biển và vùng bờ. 10. Tính cấp thiết của việc thiết lập các khu bảo tồn biển. 11. Hoạt động thiết lập và quản lý các khu bảo tồn biển Việt Nam.

Page 72: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

72

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Cục Môi trường. Cơ sở Khoa học Quy hoạch hệ thống bảo tồn Biển Việt Nam. Hà Nội, 2001.

2. Bộ Tài nguyên và Môi trường. Quản lý tổng hợp đới bờ - Kinh nghiệm và thực tế ở Việt Nam. Hà Nội, 2003.

3. Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường, 2001. Quy hoạch tổng hợp liên ngành vùng ven biển. Hà Nội.

4. Barbara E. Brown. Integrated Coastal Management: South Asia. United Kingdom, 1997.

5. David Briggs. Marine and Coastal Environments Protection. The University of Queensland, 2002.

6. Environmental Justice Foundation, 2003. Risky Bussiness: Vietnamese Shrimp Aquaculture-Impacts and Improvements. London UK.

7. Environmental Justice Foundation, 2003. Draft Protocol for Sustainable Shrimp Production. Internal Report. Internet.

8. Jan C. Post and Carl G. Lundin, 1996. Guidelines for Integrated Coastal Zone Management. Washington D.C. U.S.A.

9. Federico Paez, 2001. The Environmental Impacts of Shrimp Aquaculture: Causes, Effects, and Mitigating Aternatives. Environmental Management Journal. Vol. 28, No. 1, pp. 131-140. Springer.

10. NetCoast 2001. Principles of ICZM. http://www.netcoast.nl/

11. Richard Kenchington. Integrated Coastal Zone Management. Bangkok, 1996.

12. Stephen B. Olsen, Kem Lowry and James Tobey. A Manual for Assessing Progress in Coastal Management. The University of Rhode Island, 1999.

13. Võ Sĩ Tuấn, Nguyễn Huy Yết & Nguyễn Văn Long, 2005. Hệ sinh thái rạn san hô Biển Việt Nam. Nhà Xuất bản Khoa học Kỹ thuật. Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh

Page 73: Quan ly tong hop vung ven bo_svthanhdo.com

1. Giáo trình: Quản lý tổng hợp vùng ven bờ

2. Thông tin về tác giả của giáo trình:

− Họ và tên: Nguyễn Mộng − Sinh năm 1954 − Cơ quan công tác: Khoa Môi Trường, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế − Địa chỉ email: [email protected]

3. Phạm vi và đối tượng sử dụng giáo trình:

− Giáo trình có thể dùng để tham khảo cho những ngành: các ngành Khoa học Môi trường, Sinh học, Địa lý Môi trường.

− Có thể dùng cho các trường: đại học tự nhiên − Các từ khóa: ICZM, Vùng ven bờ, Quản lý tổng hợp, Các hệ sinh thái vùng ven bờ,

Rừng ngập mặn, rạn san hô, Tác động của con người, nuôi trồng thủy sản, tài nguyên thiên nhiên, khu bảo tồn biển.

− Yêu cầu kiến thức trước khi học môn này: Cơ sở khoa học môi trường, Sinh thái học, Bảo tồn đa dạng sinh học. Tài nguyên thiên nhiên.

− Đã xuất bản hay chưa: chưa.

4. Thông tin khác: