quan niỆm vỀ con ngƢỜi trong triẾt hỌc hiỆn sinh cỦa...

47
ĐẠI HC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN DƢƠNG THỊ LAN QUAN NIM VCON NGƢỜI TRONG TRIT HC HIN SINH CA ALBERT CAMUS LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIT HC Hà Nội - 2016

Upload: others

Post on 03-Sep-2019

12 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THỊ LAN

QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC

HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

DƢƠNG THỊ LAN

QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC

HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS

Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Triết học

Mã số: 60 22 03 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Trần Thị Điểu

Chủ tịch hội đồng Ngƣời hƣớng dẫn

PGS.TS Nguyễn Vũ Hảo TS. Trần Thị Điểu

Hà Nội – 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn Thạc sĩ Triết học: “Quan niệm về con người

trong triết học hiện sinh của Albert Camus” là công trình nghiên cứu của cá

nhân tôi.

Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2016

Tác giả luận văn

Dương Thị Lan

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn

sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Thu Nghĩa - người đã tận tình hướng dẫn tôi

trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Triết học,

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội

những người đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình

học tập, nghiên cứu tại trường.

Đồng thời tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp

những người đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong thời gian học tập và

hoàn thành luận văn Thạc sĩ.

Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2016

Tác giả luận văn

Dương Thị Lan

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 2

Chƣơng 1. ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI

TRONG TRIẾT HỌC HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS ............................ 14

1.1. Những điều kiện và tiền đề lý luận ra đời quan niệm về con ngƣời trong

triết học hiện sinh của Albert Camus .................................................................... 14

1.1.1. Điều kiện kinh tế và xã hội .................................................................... 14

1.1.2. Tiền đề lý luận ....................................................................................... 20

1.2. Giới thiệu về Albert Camus – cuộc đời và các tác phẩm tiêu biểu .... 34

1.2.1. Giới thiệu chung về Albert Camus ........................................................ 34

1.2.2. Các tác phẩm tiêu biểu của Albert Camus ............................................ 37

Chƣơng 2. NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM VỀ CON NGƢỜI TRONG

TRIẾT HỌC HIỆN SINH CỦA ALBERT CAMUS ............................................... 44

2.1. Quan niệm về con ngƣời tồn tại trong phi lý của Albert Camus ...... 44

2.1.1. Vấn đề phi lý .......................................................................................... 44

2.1.2. Sự tồn tại phi lý và nhận thức phi lý ..................................................... 48

2.2. Quan niệm về con ngƣời nổi loạn của Albert Camus ......................... 61

2.2.1. Vấn đề nổi loạn ..................................................................................... 61

2.2.2. Hình thức nổi loạn ................................................................................ 67

2.3. Một số đánh giá quan niệm về con ngƣời trong triết học hiện sinh của

Albert Camus .................................................................................................. 70

2.3.1. Về mặt giá trị ................................................................................................... 71

2.3.2. Về mặt hạn chế ................................................................................................ 75

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 82

2

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Triết học hiện sinh không theo đuổi việc tìm những nguyên nhân cao

nhất của vạn vật nữa, không bàn về những lẽ huyền vi của tạo hóa, mà chỉ chú

trọng đến thân phận con người, tìm hiểu ý nghĩa của cuộc sống và cái chết.

Không có gì tha thiết với con người bằng chính con người, những con người

sinh hoạt trong xã hội loài người. Triết học hiện sinh là triết học về ý nghĩa

cuộc nhân sinh, nói cách khác là triết học về con người, là triết học dạy ta suy

nghĩ về thân phận con người, vạch ra vẻ buồn nôn của con người tầm thường,

nhằm thức tỉnh con người trỗi dậy, bỏ cách sống của sự vật để khai mạc cho một

đời sống nhân vị, nhân vị cao cả của con người tự do. Theo các nhà hiện sinh,

tồn tại người không thể tiếp cận bằng con đường duy lý và các phương tiện của

lý tính. Nền tảng của tồn tại người là hiện sinh với tính cách là một thái độ sống

độc đáo, có một không hai, và hiện sinh chỉ có ở con người. Người hiện sinh

không chấp nhận sống theo một khuôn mẫu định sẵn, mà đòi hỏi phải vượt qua

nó để kiến tạo nên chính bản thân mình, khẳng định bản sắc đặc trưng và tính

độc đáo của mình.

Hiện thực bối cảnh toàn cầu hóa, nền kinh tế thị trường ngày nay đã tác

động đến con người theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Đặc biệt, khi xã

hội hóa diễn ra mạnh mẽ, khi quá trình công nghiệp hóa đang trên đà phát triển

cực thịnh thì sự tác động ảnh hưởng lên mỗi con người càng rõ rệt hơn. Bên

cạnh việc thúc đẩy tạo nên một lớp người năng động, tích cực và sáng tạo, phù

hợp với xu thế phát triển của xã hội mới thì cũng xuất hiện một bộ phận người

thích sống hưởng thụ, thụ động, ỷ lại, sống theo kiểu nước chảy bèo trôi, anh

sống sao thì tôi sống vậy, không có chính kiến, không có lý tưởng sống cho

riêng mình. Xã hội hiện đại, chúng ta đã phải đối mặt không ít nguy cơ trong

đó có nguy cơ phai nhạt bản chất dân tộc của một bộ phận dân cư, đặc biệt là

3

lớp trẻ dễ đánh mất bản thân mình, đánh mất năng lực cá nhân mà nguy hiểm

hơn là đánh mất nhân cách của mình. Bài học kinh nghiệm của chủ nghĩa hiện

sinh đã chỉ rõ nếu con người chỉ chạy theo giá trị vật chất, quá tin đến mức

giao phó cuộc đời của mình cho những tiến bộ của công nghệ kỹ thuật thì sớm

muộn sẽ có nguy cơ rơi vào tình trạng tha hóa, con người bị phụ thuộc vào

chính những lực lượng mà con người sáng tạo ra. Con người trong chúng ta sẽ

không có bản sắc riêng.

Khai thác tính độc đáo và bản sắc riêng mỗi con người là tinh thần

chung của triết học hiện sinh. Trong đó, quan niệm về con người nổi loạn của

Albert Camus là sự khác biệt mang dấu ấn cá nhân trong tinh thần chung đó.

Nổi loạn là tư tưởng rất đáng tìm hiểu để thấu hiểu sâu sắc hơn và tìm thấy

giải pháp cho đời sống nội tâm, tinh thần con người thời hiện đại. Tuy nhiên

việc tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề này tại Việt Nam dưới góc độ triết học

chưa được rộng rãi.

Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Quan niệm về con

ngƣời trong triết học hiện sinh của Albert Camus” làm đề tài luận văn

chuyên ngành triết học của mình.

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Albert Camus là một nhà văn lớn có sức ảnh hưởng sâu rộng những năm

của thế kỷ XX, sáng tạo văn học và triết học của Camus đã được nghiên cứu

rộng rãi. Quan niệm về con người phi lý và con người nổi loạn của Albert

Camus đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu trên thế giới, nhưng do hạn chế

về ngoại ngữ, tác giả của luận văn chỉ khảo cứu một số tác phẩm tiêu biểu

được dịch sang Tiếng Việt. Ở đây, tác giả chỉ xin trình bày khái quát những

tư liệu sau:

4

Trên thế giới.

Đầu tiên, ngay sau khi tiểu thuyết Người xa lạ và tập tiểu luận Huyền

thoại Sisyphe được công bố (tháng 6 - 1942), Jean - Paul Sartre đã viết Cắt

nghĩa “Người xa lạ” đăng trên tạp chí Cahier du Sud tháng 3 - 1943. Bài viết

có những nhận xét tinh tế, sâu sắc, cho đến nay vẫn được đánh giá là bài viết

hay nhất về Người xa lạ, và có thể xem ý kiến của Sartre như một sự gợi dẫn

khi tìm hiểu tác phẩm này. Qua bài viết của Sartre, chúng ta biết Người xa lạ

được dư luận đương thời đánh giá là “cuốn sách hay nhất kể từ thời đình

chiến” [35; 188]. Sartre nhận định cái phi lý vừa là một tình trạng sự vật, vừa

là ý thức sáng suốt của một số người trong tình trạng đó; “Nó không phải là

đối tượng của một khái niệm đơn giản, nó được chiếu sáng bởi một sự bừng

tỉnh đầy luyến tiếc” [35; 190]. Camus không thể hiện cái nhìn khắc khoải như

Kafka, “ông hoàn toàn bình thản giữa những hỗn độn, sự mù quáng bướng

bỉnh của tự nhiên là chỗ dựa cho nó, bảo đảm cho nó, sự bất hợp lý của nó chỉ

là một nghịch âm; người phi lý là người yêu một cái gì mang giá trị nhân bản,

anh ta chỉ biết những điều tốt đẹp của thế giới này” [35; 198]. Người xa lạ đặt

chúng ta trong trạng thái bất an trước sự phi nhân tính của con người. Theo

Sartre, Người xa lạ là một tác phẩm cổ điển, một tác phẩm viết cho sự phi lý

và chống lại sự phi lý. “Khi đọc cuốn sách, người ta không có cảm giác cùng

hiện hữu với cuốn tiểu thuyết mà như chìm trong một điệu hát buồn tẻ, một

khúc hát bằng giọng mũi của người Ả Rập. Người ta có thể tin rằng cuốn sách

giống như một trong những điệu nhạc mà Courteline nói đến, nó đi mất và

không bao giờ trở lại và nó dừng lại bất thình lình mà người ta không hiểu tại

sao” [35; 206].

Alain Robbe - Grillet, thủ lĩnh nhóm Tiểu thuyết Mới những năm 60

của thế kỉ XX ở Pháp, đánh giá rất cao cuốn Người xa lạ, coi đó là một tác

phẩm lớn, bởi vì trong cuốn sách đó Camus đã tạo nên một thế giới mà ông

5

hoàn toàn tin [70; 90]. Nói về cái phi lý trong tác phẩm của A. Camus, Robbe

- Grillet khẳng định: “Sự phi lý là vực thẳm không vượt qua được tồn tại giữa

con người và thế giới, giữa các khát vọng của tinh thần con người và sự bất

lực của thế giới trong việc thỏa mãn chúng. Cái phi lý không ở trong con

người, cũng như trong các sự vật mà ở trong việc không có khả năng thiết lập

giữa chúng một mối quan hệ nào khác ngoài cái xa lạ” [70; 94-95]. Robbe -

Grillet nhận thấy cái phi lý “luôn kéo theo thất vọng, sự rút lui, sự nổi loạn” và nó

chính là “hình thức của chủ nghĩa nhân văn mang tính bi kịch” [70; 95- 96].

Trong tiểu luận Cuộc phiêu lưu tư tưởng văn học Âu châu thế kỉ XX

1900- 1959 của R.M. Alberes. Tất nhiên Albert Camus đã được nhắc đến

nhiều khi nói về tâm trạng chung của con người trong giai đoạn 1942 - 1959.

R.M. Alberes nhậnxét: “Camus đã mô tả con người mất hướng trong một thế

giới hầu như không phải làm ra cho con người. Ông muốn đạp đổ những ảo

tưởng cổ kính tôn nghiêm đã quả quyết một cách sai lầm rằng đời sống trả lời

đúng ý muốn mà người ta có về cuộc đời. Người xa lạ là cuộc phiêu lưu của

một người cảm thấy rằng con người không thỏa hiệp được với đời sống, rằng

có sự hiểu lầm giữa con người và đời sống” [49; 329]. Cuộc sống không còn

mạch lạc, sáng sủa, cuộc đời vâng theo một mãnh lực phi lý rời rạc, lý trí con

người không thể thấu được sự không trật tự nằm ngoài mọi quy luật ấy.

Ở Việt Nam

Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu con người hiện sinh của Albert

Camus xuất hiện khá nhiều. Căn cứ vào bối cảnh lịch sử ảnh hưởng đến những

đánh giá về tư tưởng, tác giả luận văn khảo cứu tài liệu theo hai giai đoạn trước

năm 1986 và sau năm đổi mới 1986.

Trước hết, phải kể đến các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện

sinh và văn học hiện sinh ở miền Nam trước 1986 từ góc nhìn phê phán.

6

Bùi Ngọc Dung trong bài viết Albert Camus với nền văn chương triết

học (1963) đã khái quát “Camus không thuộc một trường phái hay một chủ

nghĩa nào, nhưng ông đề cập đến mọi khía cạnh của mọi vấn đề trong tiểu

thuyết và văn chương”. Với Camus, sự phi lý của nhân loại ngày nay mỗi lúc

một tăng thêm nhiều “chỉ vì con người quá đại lượng và quá chú trọng đến

những khoái lạc về thể xác”. Camus đã đặt vào các nhân vật của ông “một sứ

mạng để phổ biến triết học. Thân phận con người được ông đào sâu tỉ mỉ hơn

lúc nào hết, ông dùng triết học để giải đáp tâm hồn con người thời hậu chiến

vì họ chưa ra khỏi cơn thảm hoạ của chiến tranh. Ta phải công nhận ở Albert

Camus một điều như các nhà văn đồng thời với ông là dùng văn chương để

chở những triết thuyết: thân phận của con người trước vấn đề phi lý, vấn đề tự

tử, vấn đề nổi loạn” [2; 35-41].

Bùi Giáng, đã dịch rất nhiều các tác phẩm của Camus như Ngộ nhận,

Mùa hè sa mạc, Con người nổi loạn, các truyện ngắn in trong tập Sương Tỳ

Hải, các nhận định về Camus của ông chủ yếu nằm trong tập khảo luận và

phê bình Martin Heidegger và tư tưởng hiện đại. Ông cho rằng, với câu trả lời

cho những câu hỏi không mới: Vũ trụ này, thế giới này là phi lý hay hữu lý?

Cuộc đời chúng ta giữa thế giới này có ý nghĩa gì không? Camus đã “vừa đi

sát với thời đại, vừa bắt tay với những triết gia của nhân loại đã xao xuyến đi

tìm ý nghĩa của vũ trụ và đời người. Không một trang văn nào của Camus

không mang nặng những ưu tư xao xuyến của một đời người, trải qua những

kinh nghiệm gì thì viết văn và bàn chuyện tư tưởng theo những kinh nghiệm

xương máu đó. “Camus là một triết gia chân chính và cương chính, vì thế

giữa ông và những triết gia nhà nghề có một hố thẳm, một bên sử dụng ngôn

từ tài tình du dương trong một hệ thống rành rẽ, logic, phân minh. Một bên

vừa ngập ngừng, vừa mâu thuẫn, cầu mong tìm ra giữa đau thương một niềm

vui” [12; 205].

7

Nguyễn Nam Châu với Tập Sứ mệnh văn nghệ (Đại học xuất bản), đã

bình luận tư tưởng của một số triết gia, nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến

thời đại. Trong đó bài viết về Camus có tựa “Albert Camus, con người công

phẫn”. Tác giả nhấn mạnh, thế hệ của Camus đã tuyệt đối từ chối hết mọi thứ

giá trị luân lý, tôn giáo, chính trị, xã hội, họ công phẫn với cái châu Âu đó,

như lời Camus nói: “Ác thần của châu Âu ngày nay mang danh các triết gia,

họ là Hegel, Marx, Nietzsche, v.v… chúng ta đang sống trong châu Âu của họ

Ông cho rằng: Công phẫn trước thời cuộc nhưng chính Camus cũng đi vào

ngõ bí: Một đằng nói rằng cuộc đời vô nghĩa và người ta được phép làm mọi

sự; một đằng bảo rằng con người đừng làm hại kẻ khác, phải thương hại nó,

tức kìm hãm tự do của mình. Nhưng ta sẽ nhân danh cái gì để thương xót con

người trong khi mà chính con người cũng chẳng có ý nghĩa gì hết. Mặc dù

niềm công phẫn của Camus là không lối thoát, nhưng dẫu sao Camus cũng

như Sartre đã thức tỉnh nhân loại trước một vấn đề căn bản, bắt họ phải thoát

ly ra ngoài cuộc sống hời hợt, vô tư, qua ngày đoạn tháng của họ, buộc mình

phải đi tìm một lẽ sống trước khi quyết định một thái độ sống.

Ở miền Bắc, trước 1986, sự tiếp xúc với những tác giả, tác phẩm lớn

không sáng tác theo chủ nghĩa hiện thực rất hạn chế. Albert Camus cùng với

bậc tiền bối Franz Kafka và những nhà văn hiện sinh chủ nghĩa, những tác gia

kịch phi lý được giới thiệu trong những chuyên luận dùng cho các trường đại

học chủ yếu dưới góc nhìn cực đoan, đưa ra để phê phán và tránh xa. Tinh

thần ấy được thể hiện rõ nét trong công trình Phê phán văn học hiện sinh chủ

nghĩa (1978), nhà xuất bản Văn học Hà Nội. Tác giả Đỗ Đức Hiểu, đã phê

phán triết học hiện sinh là một triết học thần bí, một triết học tinh thần hóa

con người và tự nhiên, tách con người khỏi thế giới vật chất khách quan, một

triết học của chủ thể duy tâm, coi sự vận động của bản thân ý thức là tất cả,

sáng tạo ra tất cả. Tác giả khái lược tư tưởng Camus: Khởi điểm của học

8

thuyết Camus là cái phi lý. Cái phi lý diễn tả mối quan hệ giữa con người và

xã hội. Nổi loạn là sắc thái đáng chú ý nhất của chủ nghĩa hiện sinh của

Camus. Và “về cơ bản, nổi loạn Camus là nổi loạn siêu hình và vô nguyên

tắc”. Tuy nhiên Đỗ Đức Hiểu đã ghi nhận những đóng góp tích cực trong tác

phẩm của Camus, “nó đứng ở bên kia chủ nghĩa phát xít, nó không đồng tình

với bất công và tội ác, với chiến tranh phi nghĩa, với khủng bố dã man” [17;

119]. “Camus phản kháng bạo lực phi nghĩa mà ông gọi là lịch sử phi lý tính,

song đồng thời ông cũng cự tuyệt bạo lực chính nghĩa mà ông gọi là lịch sử lý

tính; và ông đánh giá ngang bằng hai thứ bạo lực ấy; sai lầm nghiêm trọng

của Camus là ở chỗ ấy. Ông tìm đến con đường ôn hoà, nhiều khi có nghĩa là

thoả hiệp với kẻ thù của loài người” [17; 119-120].

Từ sau năm 1986, trong những thập niên thế kỷ XIX - XX, cùng hòa

nhịp với bầu không khí đổi mới thì lập trường nghiên cứu của các học giả triết

học phương Tây hiện đại về triết học hiện sinh, con người hiện sinh có những

chuyển biến tích cực với những lời nhận định đánh giá cởi mở và toàn diện

hơn, thể hiện khá rõ nét trong các công trình sau:

Tác giả Nguyễn Hào Hải trong cuốn sách Một số học thuyết triết học

phương Tây hiện đại (2001), nhà xuất bản Văn hóa thông tin, đã trình bày một

cách súc tích và cô đọng nhất một số lý thuyết của triết học tư sản phương

Tây hiện đại. Khi trình bày học thuyết của chủ nghĩa hiện sinh, tác giả nêu rõ

nguồn gốc của nó về 4 phương diện: Bản thể luận, nhận thức luận, hiện tượng

luận Husserl và chiến tranh. Tác giả cho rằng chiến tranh không phải là

nguyên nhân duy nhất mà là nguyên nhân chín muồi thúc đẩy sự ra đời của

chủ nghĩa hiện sinh một cách nhanh hơn. Còn khi nghiên cứu con người trong

triết học hiện sinh, tác giả đã trình bày rất rõ ràng nguyên lý tồn tại có trước

bản chất và thân phận con người theo quan điểm của Jaspers, Heidegger,

Camus và Sartre. Và rằng con người luôn phải sống trong tâm trạng lo âu,

9

kinh hoàng, cô đơn như kẻ bị bỏ rơi, luôn phải chịu nhiều mâu thuẫn trong

cuộc đời nên đời là vô lý, đáng “buồn nôn”.

Hai nhà nghiên cứu Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng đã viết cuốn

Lược khảo triết học phương Tây hiện đại (2003), nhà xuất bản Chính trị Quốc

gia Hà Nội. Tác giả không trình bày điều kiện xã hội cho sự ra đời của triết học

hiện sinh mà chỉ đưa ra tiền đề lý luận trên quan điểm của Socrate, thánh

Augustin, Pascal, Nietzsche và Husserl. Tuy nhiên các quan điểm trên không

có sự phân tích, đánh giá và khái quát sâu của tác giả. Về nội dung tác giả cũng

đưa đến người đọc một cái nhìn mới về các phạm trù buồn nôn, tha hóa, cô

đơn, lo âu, tự do. Phạm trù tự do là nền tảng để xem xét các phạm trù khác “cái

chết cũng là nguồn gốc của lo âu, lo âu có nguồn gốc ở tự do, lo âu là tâm tình

đầy đam mê mở ra sự sáng tạo”.

Trong công trình Văn học phương Tây (2005), chương do Hoàng Nhân

viết về Camus, đã cho một cái nhìn khái quát về con người và văn nghiệp A.

Camus. Camus đã “thể hiện nỗi lo âu, sự sợ hãi của thân phận con người

trước bao nhiêu biến động và tai ương trong nửa đầu thế kỉ XX ở phương

Tây. Ông không bàn đến những vấn đề siêu hình phức tạp như thực tế và hư

vô, tồn tại và bản thể .v.v… mà chỉ nói về ý nghĩa của hiện sinh và thân phận

con người” [7; 737]. Hoàng Nhân cũng nói đến tư tưởng nhân văn ôn hoà,

thoả hiệp xuyên thấm trong các tác phẩm của A. Camus. Tư tưởng ấy khi gặp

gỡ với sự bế tắc trong đời sống thực tại với bao điều nghịch lý, “chắc chắn sẽ

không có tác dụng tích cực với các thế hệ đang trưởng thành của thời đại

chúng ta” [7; 759].

Gần đây, trong công trình Tiếp cận văn học Pháp (2007), Liễu Trương

một lần nữa đặc biệt chú ý đến sự phi lý trong tác phẩm Người xa lạ - tác

phẩm đánh dấu sự xuật hiện của A. Camus trên văn đàn Pháp. Bài viết của

Liễu Trương như một sự gợi nhắc lại ý muốn của A. Camus khi viết Người xa

10

lạ - tả “tính trần trụi của con người trước sự phi lý”. Phi lý là độ không của sự

dấn thân. Sự thật trong Người xa lạ cũng như trong Huyền thoại Sisyphe là

một sự thật tiêu cực, là một khởi đầu cần thiết cho sự dấn thân tích cực.

Năm 2007, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội đã xuất bản cuốn

sách Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX (Kỷ yếu hội thảo Quốc tế),

trong đó có rất nhiều bài viết về con người hiện sinh của các tác giả. Tác giả

Nguyễn Vũ Hảo với bài viết: “Tư tưởng triết học cơ bản của Martin

Heidegger và ảnh hưởng của nó đến các trào lưu triết học phương Tây thế kỷ

XX”. Tác giả định nghĩa hiện sinh là phương thức sống, thái độ sống của con

người với tư cách là tồn tại người, là cốt lõi bên trong của tồn tại người. Hiện

sinh và tồn tại người có trước bản chất. Hiện sinh tự lựa chọn và tự xác định

bản chất của con người. Hiện sinh chỉ ở con người chứ không ở các loài sinh

vật hay ở bất cứ hiện hữu nào khác.

Nhóm tác giả Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn đã viết

tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại (phần thứ nhất cuối thế kỷ 19 – nửa

đầu thế kỷ 20), nhà xuất bản Đại học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2008.

Trong tác phẩm là một bức tranh khá toàn diện về triết học hiện sinh, các tác

giả đã đi vào phân tích và sáng tỏ các tiền đề tư tưởng cho sự ra đời của triết

học hiện sinh, đó là tư tưởng triết học của Dostoevski như nhà tiền khởi của

triết học hiện sinh, của Kierkegaard như ông tổ của triết học hiện sinh và của

E.Husserl như nhà đặt nền móng lý luận cho triết học hiện sinh.

Năm 2010, nhóm tác giả Đỗ Minh Hợp (chủ biên), Trần Thị Điểu,

Nguyễn Thị Như Huế, Phạm Thanh Tùng đã cùng biên soạn công trình Triết

học hiện sinh, có thể nói so với các công trình khác, đây là một công trình

nghiên cứu về triết học hiện sinh mang tính chuyên sâu. Các tác giả tiếp cận

nghiên cứu từ góc độ văn hóa học “tức là từ góc độ văn hóa sinh tồn của con

người phương Tây, mà sự chuyển biến của nó tất yếu sẽ dẫn tới chủ nghĩa

11

hiện sinh như một lối sống và một kiểu tư duy”, các tác giả đi đến khái niệm

hiện sinh là “khả năng tồn tại làm người”. Do vậy, sự hiện sinh không phải là

bản chất, không phải là một cái gì đó có sẵn trong tự nhiên mang tính bẩm

sinh, được định trước và bất biến. Từ đó các tác giả đưa ra một số đặc điểm

chung của chủ nghĩa hiện sinh. Dù được định nghĩa bằng cách khác nhưng

các tác giả đều khẳng định triết học hiện sinh là triết học về con người.

Sẽ là thiếu sót nếu tác giả luận văn không kể đến các công trình nghiên

cứu triết học hiện sinh, con người hiện sinh mang tính chuyên đề sâu sau: Tác

giả Lê Kim Châu với Chủ nghĩa hện sinh và một vài ảnh hưởng của nó ở

miền Nam Việt Nam, LAPTSKH triết học, 1996. Tác giả Đỗ Minh Hợp với

Vấn đề bản thể luận trong một số trào lưu triết học phương Tây hiện đại,

LATS triết học, 2000. Tác giả Trần Thị Điểu với công trình Triết học thực

tiễn của triết học hiện sinh và những giá trị, hạn chế của nó, LATS triết học,

2013. Tác giả Nguyễn Thị Như Huế nghiên cứu Quan niệm đạo đức học

trong chủ nghĩa hiện sinh và một số bài học của nó đối với việc giáo dục đạo

đức ở Việt Nam hiện nay, LATS triết học, 2013. Các tác giả đã nghiên cứu sự

ra đời của triết học hiện sinh có sự thống nhất về bối cảnh lịch sử và tiền đề lý

luận hết sức rõ ràng. Các tác giả cũng khai thác con người hiện sinh dưới góc

độ văn hóa, đạo đức con người. Đây là cách tiếp cận mới dưới lăng kính của

triết học Mác xít để nhìn nhận toàn diện khách quan về quan điểm con người

hiện sinh, từ đó có định hướng giá trị trong thực tiễn cấp bách hiện nay về đạo

đức con người, lối sống con người.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích: Luận văn đi sâu phân tích quan niệm về con người của Albert

Camus qua một số tác phẩm tiêu biểu, từ đó đưa ra một số đánh giá khách

quan về những giá trị và hạn chế của các quan niệm đó.

12

- Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ giải quyết những

nhiệm vụ sau:

Thứ nhất, luận văn chỉ rõ những điều kiện và tiền đề lý luận cho sự ra đời

quan niệm về con người trong triết học hiện sinh của Albert Camus, đồng thời

giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp và những tác phẩm văn học tiêu biểu của

Albert Camus.

Thứ hai, luận văn làm rõ một số quan niệm về con người của Albert

Camus, đưa ra một số đánh giá về những giá trị và hạn chế của các quan niệm

đó.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

- Cơ sở lý luận: Để thực hiện mục đích nghiên cứu của mình, tác giả đã

dựa trên nguyên tắc phương pháp luận nghiên cứu lịch sử triết học của chủ

nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp so sánh, phương

pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp logic, phương pháp lịch sử làm các

phương pháp nghiên cứu chủ yếu.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm về con người trong triết học hiện

sinh của Albert Camus.

- Phạm vi nghiên cứu: Trong khuôn khổ của đề tài luận văn, tác giả

khảo cứu tư tưởng của Albert Camus về con người qua 4 tác phẩm tiêu biểu

nhất: “Huyền thoại Sisyphus”; “Kẻ xa lạ”; “Dịch hạch”; “Con người phản

kháng”.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

- Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu một cách nghiêm túc và có

logic về quan niệm con người của Albert Camus, từ đó có những đánh giá về

13

những giá trị và hạn chế của nó thông qua lăng kính của chủ nghĩa duy vật

Mácxít, đây là cách nhìn toàn diện, khách quan về trường phái triết học này.

- Ý nghĩa thực tiễn: Trước hết với bản thân tác giả, đây là sự tìm hiểu

nghiêm túc về trường phái triết học này, nên có được sự nhận thức rõ ràng

đúng đắn trước rất nhiều các thông tin khác nhau. Ngoài ra, luận văn có thể

được sử dụng như là tài liệu tham khảo trong việc giảng dạy và nghiên cứu

triết học hiện sinh.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn gồm 2 chương, 5 tiết.

14

Chƣơng 1

ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ RA ĐỜI QUAN NIỆM

VỀ CON NGƢỜI TRONG TRIẾT HỌC HIỆN SINH

CỦA ALBERT CAMUS

1.1. Những điều kiện và tiền đề lý luận ra đời quan niệm về con ngƣời

trong triết học hiện sinh của Albert Camus

1.1.1 Điều kiện kinh tế và xã hội

Triết học hiện sinh, được coi là một trong các học thuyết triết học tư

sản hiện đại nổi trội nhất trong những năm 20 của thế kỷ XX. Chủ nghĩa hiện

sinh hầu như có thể đặc trưng cho bầu không khí tinh thần của xã hội tư sản

trong thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Trong chủ nghĩa hiện sinh

khuynh hướng phi duy lý chiếm ưu thế, thể hiện rõ tâm trạng bi quan thất

vọng của con người đối với nền văn minh tư sản thế kỷ XX. Chúng ta không

thể tìm thấy những lời giải đáp xác đác cho câu hỏi về nguyên nhân xuất hiện

của các tư tưởng về tính phi duy lý, tính bi đát của tồn tại, về tâm trạng bi quan

thất vọng của con người trong xã hội mà lại không xem xét đến chính bản thân các

điều kiện lịch sử mà trong đó các tư tưởng được sinh ra và tồn tại.

Chủ nghĩa hiện sinh được hình thành ở Đức và Pháp từ ngay sau chiến

tranh thế giới lần thứ nhất, những biến cố xã hội gắn liền với chủ nghĩa tư bản

bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, chiến tranh đế quốc là một thảm họa

thế giới đã làm thay đổi sâu sắc trong ý thức xã hội của giai cấp tư sản. Tâm

trạng lạc quan trước đây của giai cấp tư sản ngày càng mâu thuẫn với các sư

kiện, các biến cố mới. Tâm trạng ấy lại càng tăng thêm sau chiến tranh với sự

thất bại của người Đức, nó đưa đến một ý thức mơ hồ về lịch sử, làm xuất

hiện những ưu tư, lo lắng, làm mất đi niềm tin, hi vọng vào những gì tốt đẹp.

15

Làn sóng đó lại tiếp tục nổi lên ở Pháp ngay sau chiến tranh thế giới lần

thứ hai. Trong các tác phẩm triết học và văn học của các tác giả hiện sinh ở

Pháp ta thấy sự phản ánh những mâu thuẫn của nước Pháp trong thời gian bị

chiếm đóng và sau chiến tranh. Thất bại, nhục nhã dân tộc, khiếp sợ vì những

cuộc khủng bố của phát xít, sự đàn áp tự do của cá nhân, đó là những động cơ

trực tiếp của chủ nghĩa hiện sinh ở Pháp và là cơ sở của việc phổ biến nó

trong hàng ngũ của tầng lớp tri thức và thanh niên.

Hai cuộc đại chiến thế giới đi qua đã để lại những hậu quả hết sức nặng

nề, hàng chục triệu người chết, hàng trăm triệu người bị thương mà không

phải vì lợi ích hay vì chính nghĩa nào cả. Chiến tranh phơi bày quá nhiều

thảm cảnh bi thương. Châu Âu tuy là phe thắng trận nhưng cũng chịu nhiều

thiệt hại, xã hội châu Âu trở nên tiêu điều và đổ nát, con người rơi vào tình

trạng chán nản, bế tắc, mất niềm tin vào cuộc sống, con người hoài nghi mọi

thứ mọi việc, chỉ còn bản thân mình, một cá nhân cô độc, xa lạ với mọi thứ,

cuộc sống không có gì là đảm bảo. Người ta có cảm tưởng rằng mình chỉ là

con số vô danh. Cuộc sống vì thế mà đầy những chán nản, vô lý. Chính vì vậy

họ tìm đến chủ nghĩa hiện sinh để thích nghi với hoàn cảnh, đồng thời tìm ở

đó một chỗ dựa tinh thần, một niềm an ủi nào đó.

Chính về vậy rất nhiều ý kiến cho rằng, chiến tranh thế giới tàn khốc là

nguồn gốc của chủ nghĩa hiện sinh cho nên nó thấm đẫm chủ nghĩa bi quan,

thất bại. Thực tế không phải vậy, vì ở nhiều nơi không có chiến tranh hoặc

như ngày nay chiến tranh đã lùi xa vào dĩ vãng, vậy tại sao chủ nghĩa hiện

sinh và các xu hướng của chủ nghĩa phi duy lý vẫn phát triển. Chiến tranh chỉ

là một điều kiện. Thực chất, nguồn gốc của chủ nghĩa hiện sinh và các hình

thức khác của chủ nghĩa phi duy lý hiện đại là sự khủng hoảng, sự bại hoại

tinh thần do chủ nghĩa duy lý gây nên trong xã hội phương Tây hiện đại.

16

Chủ nghĩa duy lý ở phương Tây xuất hiện từ khi cuộc chủ nghĩa công

nghiệp ở thế kỷ XVII. Vào đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phương Tây đã

bỏ lại phía sau thời kỳ cổ điển để bước sang thời kỳ hiện đại. Cuộc cách mạng

công nghiệp và sau đó là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã làm biến

đổi tận gốc nền sản xuất của xã hội.

Bước vào thời kỳ hiện đại, công nghiệp cơ khí phát triển, quy mô sản xuất

tăng lên mạnh mẽ dẫn tới việc tích tụ sản xuất ở các xí nghiệp lớn, sản phẩm

của xã hội như tuôn trào khắp nơi. Người ta nhận đó là nhờ những thành tựu

của khoa học tự nhiên. Những kỳ tích đó của khoa học tự nhiên được ý thức

hệ phương Tây miêu tả như thành quả của chủ nghĩa duy lý.

Quá độ từ chủ nghĩa phong kiến lên chủ nghĩa tư bản được gọi là thời kỳ

ánh sáng nối tiếp nhau và thay thế cho thời kỳ trung cổ ảm đạm, đã hình thành

quan niệm cho rằng, tiến bộ dường như chỉ có thể có được trên cơ sở phát

triển phồn vinh của khoa học kỹ thuật, thông qua sự duy lý hóa chính trị, kinh

tế và toàn bộ đời sống xã hội. Sự khẳng định này đã thừa nhận tính ưu việt

của trí tuệ, tri thức trong sự phát triển của toàn xã hội.

Tính duy lý luôn luôn đối lập với tính phi duy lý như tâm linh, trực giác,

niềm tin tôn giáo. Nó được coi là phương sách vạn năng để hoàn thiện xã hội.

Tiến bộ phải được hiểu như là kết quả của việc truyền bá những tư tưởng duy

lý chân thực để loại trừ mọi điều phi lý, bí ẩn, để tỏa ánh sáng trí tuệ trên khắp

thế giới. Người ta đưa ra quan niệm đầy tính khoa trương rằng kỹ thuật là

chiếc đũa vạn năng tạo nên sự hài hòa xã hội trên con đường xây dựng một

cách duy lý trật tự xã hội ngày nay.

Không dừng lại ở cuộc cách mạng công nghiệp, vào giữa thế kỷ XX. Ở

châu Âu bùng nổ cuộc cách mạng công nghiệp gây nên những biến đổi chưa

từng thấy, Châu Âu dấn thân vào sùng bài kỹ thuật, và xuất hiện ý kiến cho

17

rằng, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật có thế cứu chủ nghĩa công nghiệp

khỏi cuộc khủng hoảng loại trừ những mâu thuẫn xã hội vốn có của xã hội đó.

Sự phát triển kinh tế mạnh mẽ, cuộc bùng nổ kinh tế những năm 50, 60 của

thế kỷ này đã hình thành một xu hướng duy lý cao gọi là chủ nghĩa kỹ trị.

Những quan niệm kỹ trị được bộc lộ rõ ràng trong những mô hình xã hội,

chính trị, kinh tế. Trong đó hai cột trụ của xã hội phương Tây hiện đại là chủ

nghĩa duy lý về nhà nước và thị trường.

Tính duy lý của Nhà nước thể hiện ở chỗ nó bị chi phối bởi những nhà kỹ

trị tạo thành một nhà nước quan liêu đè ép con người, ngày nay nó đạt tới cao

độ. Trong làn sóng thứ ba, A. Toffler nói về “những nhóm ra quyết định mô

hình này kiểm soát đòn bảy đầu tư trong xã hội công nghiệp” cho nên những

người nổi loạn và các nhà cải cách phá vỡ bức tường quyền lực để xây dựng

một xã hội mới dựa trên công bằng và bình đẳng chính quyền. Duy lý hóa tạo

ra thị trường được xem là một kỳ tích sánh ngang với những phát minh khoa

học lớn nhất của loài người. Sức mạnh của nó tạo ra xã hội dư thừa. Hiện tượng

“tiện nghi cuộc sống” đã được ý thức hệ hóa bởi vì nó trở thành phương tiện hòa

nhập, khóa chặt con người vào xã hội không còn lối thoát” [5; 7]

Với chủ nghĩa duy lý, phương Tây đã đạt được giai đoạn tột cùng trong sự

phát triển của nó. Nhưng chính ở đỉnh điểm của sự phồn vinh đó, nó xa vào cuộc

khủng hoảng. Các nhà triết học duy lý như Oswald Spengler, F. Nietzsche đã nói

chính chủ nghĩa duy lý kỹ thuật là sự suy đồi của phương Tây.

C.Mác đã sớm chỉ ra hậu quả của xã hội kỹ trị rằng: “Trong thời đại

chúng ta, mọi sự vật đều tựa hồ như bao hàm mặt đối lập của nó. Chúng ta

thấy rằng những máy móc có sức mạnh kỳ diệu trong việc giảm bớt lao động

của con người và làm cho lao động của con người có kết quả hơn, thì lại đem

nạn đói và tình trạng kiệt quệ đến cho con người. Những nguồn của cải mới từ

18

xưa đến nay chưa ai biết, dường như do một sức mạnh thần kỳ nào đó lại

đang biến thành nguồn gốc của sự nghèo khổ. Những thắng lợi của kỹ thuật

dường như đã được mua bằng cái giá của sự suy đồi về mặt tinh thần. Rằng,

tất cả những phát minh của chúng ta và tất cả sự tiến bộ của chúng ta tựa hồ

như đang dẫn tới chỗ là những lực lượng vật chất thì được ban cho một đời

sống tinh thần, còn đời sống của con người vốn đã bị tước mất cái mặt tinh

thần rồi thì nay lại bị hạ thấp xuống trình độ những lực lượng vật chất đơn

thuần.

Điều quan trọng nhất trong sự khủng hoảng của chủ nghĩa duy lý ở

phương Tây là nó đã phi nhân vị hóa con người, con người chỉ còn là “một

lực lượng vật chất đơn thuần”. Một khi con người trở thành bần cùng hóa và

kiệt quệ trong bộ máy kỹ thuật khổng lồ của xã hội hiện đại thì sự suy sụp của

cá nhân là một điều hiển nhiên. Thân phận con người đã như thế thì thành tựu

kỹ thuật mà loài người giành được tất không phải bằng giá trị người của loài

người mà bằng “giá trị suy đồi của đạo đức”

Nhưng điều trên dẫn đến một tình trạng mà E. Fromm đã từng nói: Vấn

đề của thế kỷ XIX là “Chúa đã chết” (như Nietzsche đã nói), vấn đề của thế

kỷ XX là con người đã chết. Ở thế kỷ XIX, sự tàn bạo chống lại con người, ở

thế kỷ XX là sự tha hóa có tính nô lệ, trong tương lai con người có nguy cơ

trở thành thần kinh phân liệt. Con người không còn là con người mà biến

thành cái máy không tư duy, không tình cảm. Con người bị máy móc hóa, tự

động hóa trở thành một yếu tố đơn giản của khoa học - kỹ thuật cho nên đánh

mất hết mọi đức tính của riêng mình và không tồn tại như một nhân vị, một cá

nhân nữa. Chủ nghĩa duy lý đã không đảm bảo nhân vị cho con người, con

người mơ hồ thấy mình vô danh, rẻ mạt trong xã hội đầy bất công và phi nhân

bản. Cái còn lại duy nhất là cái tôi ích kỷ của bản thân mỗi người, không có gì

vượt khỏi cá nhân cả.

19

Chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng lại, đối lập lại của chủ nghĩa duy lý

thống trị trong xã hội phương Tây hiện đại. Chủ nghĩa hiện sinh muốn giải

thích về cuộc khủng hoảng trong đời sống phương Tây theo cách riêng của

mình. Nếu như các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản tiến bộ thế kỷ XVII –

XVIII đã từng tin vào sức mạnh của lý trí, coi khoa học kỹ thuật, coi tri thức

là sức mạnh, thì ngày nay các nhà tư tưởng của phương Tây hiện đại, mà

trước hết là các nhà triết gia hiện sinh lại càng ngày càng nói nhiều về sự bất

lực của lý trí. Chủ nghĩa hiện sinh không công nhận vai trò tiến bộ của khoa

học kỹ thuật, coi khoa học kỹ thuật như những lực lượng có xu hướng thống

trị con người.

Sự phản ứng của chủ nghĩa hiện sinh không chỉ diễn ra trong tinh thần mà

còn được hiện thực hóa thành các phong trào xã hội, có lúc làm rung chuyển

cả đời sống của nhiều nước, không chỉ hiện diện ở lý thuyết mà nó còn trở

thành một lối sống, một phong cách sống. Người ta mô tả sự ra đời của chủ

nghĩa hiện sinh ở Pháp như sau: “Ấy là vào buổi sáng mùa đông (1946) vừa

thức dậy cả thành phố Paris thấy mình “hiện sinh”, sách báo đầy hiện sinh

quyến rũ tràn khắp phố phường, những “đám thanh niên nam nữ vui vẻ” kéo

đến những căn hầm ở Saint – Germain, ầm vang điệu nhạc Jazz trong những

trang phục mới lạ với đầu óc xõa, quần túm ống và ăn nói mời chào phóng

túng” [5; 10-11]. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ đi vào lối sống, mà còn đi cả

vào trong các cuộc bạo loạn của sinh viên trong tháng Năm – Sáu năm 1958

tại Paris, phong trào “phản văn hóa” ở Mỹ và nhiều phong trào xã hội phản

ứng chống lại chủ nghĩa duy lý.

Tóm lại những hậu quả của chủ nghĩa duy lý gây ra trong xã hội

phương Tây hiện đại là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện chủ

nghĩa hiện sinh. Trong quá trình tồn tại của mình, mục đích của chủ nghĩa phi

20

duy lý không có gì khác là giành lại nhân vị, tự do cho con người, thách thức

mọi sức mạnh của chủ nghĩa duy lý thống trị ở bất cứ đâu.

Các nhà triết học hiện sinh khi xây dựng lý luận hiện sinh con người

hiện sinh của mình không hề tách biệt với bối cảnh xã hội, bối cảnh văn hóa

tinh thần. Hậu quả của nó là con người chịu những tác động phi lý của xã hội.

Cuộc đời không có mục đích, sự vô nghĩa của đời sống con người. Vấn đề phi

lý đã được rất nhiều triết gia đề cập chẳng hạn triết gia Kierkegaard đã cắt

nghĩa rằng sự phi lý của một số sự thật tôn giáo đã ngăn cản chúng ta tới gần

Thượng Đế một cách thuần túy, trong khi đó, Jean Paul Sartre nhận thức sự

phi lý trong các kinh nghiệm cá nhân. Albert Camus không phải là người đầu

tiên khởi xướng vấn đề phi lý, nhưng vấn đề phi lý của ông có sự khác biệt,

nghịch lý của sự phi lý. Ngay bản thân Albert Camus đã từng trải qua bao

sóng gió, cuộc đời của ông là những chuỗi bi kịch. Trong các tác phẩm,

Albert Camus đã trình bày lý thuyết nhị nguyên: sáng và tối, đời sống và cõi

chết, hạnh phúc và đau khổ. Chúng ta phải đối diện với sự thật là “hạnh phúc

thì mong manh”, trong khi chắc chắn rằng chúng ta sẽ chết. Lý thuyết nhị

nguyên là một nghịch lý. Chúng ta đánh giá cao đời sống và sự hiện hữu,

trong khi đó lại biết rõ rằng chúng ta sẽ chết và nếu vậy, các cố gắng của

chúng ta sẽ trở thành vô nghĩa và chúng ta không thể sống với nghịch lý sau

đây: “Đời này rất quan trọng nhưng lại là vô nghĩa”. Còn nếu như đời sống

không có ý nghĩa và vì thế không có giá trị, liệu chúng ta có nên tự sát không?

1.1.2. Tiền đề lý luận

Bất kỳ một học thuyết triết học nào ra đời cũng đều là sự kế thừa và

chịu ảnh hưởng của những tư tưởng trước đó, đồng thời nó cũng phản ánh các

mối quan hệ xã hội. Chủ nghĩa hiện sinh cũng vậy, nó được ra đời từ những

điều kiện lịch sử của một “phương Tây suy tàn” như chúng ta đã phân tích ở

21

trên và cũng chỉ ra rằng, chủ nghĩa hiện sinh chỉ là sản phẩm của các điều

kiện kinh tế - xã hội nhất định trong thời kỳ khủng hoảng suy thoái của nó, và

nó cũng không phải chỉ do một nhà lý luận kiệt xuất nào đề ra, mà do nhiều

người nối tiếp nhau hoàn thiện nó, đó là sự kế thừa tư tưởng. Tìm hiểu sự

hình thành của chủ nghĩa hiện sinh, chúng ta phải tìm hiểu nguồn gốc tư

tưởng của nó. Trong các công trình nghiên cứu về chủ nghĩa hiện sinh, các tác

giả đưa ra nhiều nhà triết học theo quan điểm riêng của họ. Nhưng, ở đây, tôi

cho rằng hai triết gia, hai bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện sinh là Soren

Kierkegaard và Edmund Husserl.

Tư tưởng hiện sinh của Albert Camus không ngoại lệ, ông đã kế thừa

những tư tưởng lý luận của Kierkegaard, hiện tượng học của Husserl làm cội

nguồn tư tưởng cần thiết cho lý luận triết học hiện sinh của mình.

* Triết học của Soren Kierkegaard

Soren Aabye Kierkegaard (1813 – 1855) là nhà triết học chủ nghĩa phi

duy lý, nhà triết học tôn giáo Đan Mạch nửa sau thế kỷ XIX. Ông được suy

tôn là tiền bối của triết học hiện sinh, lý luận của Kierkegaard trở thành nguồn

gốc quan trọng của triết học hiện sinh, lừng lẫy tiếng tăm trong giới triết học

phương Tây. Một trong những nhà triết học khởi xướng vấn đề phi lý,

Kierkegaard đã cắt nghĩa rằng sự phi lý của một số sự thật tôn giáo đã ngăn

cản chúng ta tới gần Thượng Đế một cách thuần túy.

Các tác phẩm của Kierkegaard đều in rõ những đặc điểm của cuộc đời

ông, những nghịch lý ông gặp phải đều đã hằn sâu ở đó. Nhiều tác phẩm của

ông như là những nhật ký, một loại hình văn học rất thuận tiện nói về nhân vị

của con người, về đời sống nội tâm của chính ông. Có thể nói ông là trường

hợp điển hình cho nhận xét: tác phẩm của các nhà triết học hiện sinh là bản

dịch cuộc đời họ.

22

Kierkegaard sinh tại Copenhagen - Đan Mạch, trong một gia đình

Cơđốc giáo. Cha ông là một người có đời sống cá nhân dữ dội, đặc biệt với

những tình cảm tôn giáo cùng với ám ảnh vì tội lỗi đối với Thiên Chúa. Nỗi

ám ảnh ấy ông dồn hết vào người con trai út - Soren. Kierkegaard không có

tuổi thơ, ông bị lôi cuốn vào ám ảnh tội lỗi của cha mình, luôn đau khổ, cô

đơn. Năm 1839, ông đính hôn với Regina Olsen nhưng sau đó một năm thì từ

hôn vì nghi ngờ sự thích hợp của bản thân với hôn nhân. Sự kiện này lại khiến

ông càng thêm đau khổ vì tội lỗi, làm tăng thêm sự xa cách giữa ông và thế

giới xung quanh. Song sau đó là thời kỳ sáng tạo mãnh liệt của Kierkegaard.

Kierkegaard, trong sự sáng tạo đặc biệt mang những dấu ấn tâm lý đậm

nét từ bi kịch của gia đình và của bản thân, đã đưa vào khái niệm “hiện sinh”

dấu ấn đặc biệt của ông. Sau này Albert Camus cũng vậy, từ những bi kịch

cuộc đời, những trải nghiệm thực tế trong thời kỳ sống, Camus cũng có những

khái quát lý luận hiện sinh riêng biệt mang dấu ấn cá nhân. Kierkegaard lần

đầu tiên đưa ra khái niệm hiện sinh như là tổng thể những biểu hiện của nhân

tính, là cuộc sống đích thực của cá nhân. Hiện sinh không thể định nghĩa được

mà chỉ có thể mô tả.

Các khái niệm nội tâm, cá nhân, cá tính, cảm xúc, đam mê là cách mà

Kierkegaard dùng để mô tả hiện sinh người. Nội tâm ngụ ý một sự khác biệt

với những cái bên ngoài của một cá nhân như địa vị xã hội, danh tiếng, những

hiện tượng tự nhiên có thể quan sát được một cách công cộng. Một cuộc sống

hướng ngoại hoàn toàn có thể che đậy sự đồi bại, tầm thường hay một trái tim

trống rỗng. Tính cá nhân được định nghĩa trong sự đối lập với cuộc sống bị

định hướng bởi người khác hay của đám đông. Đám đông luôn lầm lạc và tai

ác. Cá nhân là duy nhất và độc đáo. Trở thành cá nhân tức là cảm nhận và

hành động ở một trình độ độc lập xã hội cao, nghĩa là không trở thành đối

23

tượng cho sự chấp thuận hay không chấp thuận từ những kẻ cầm quyền và rồi

bị nô dịch một cách êm ái. Kierkegaard kiên quyết chống lại hệ thống của

Hegel. Trong triết học Hegel, cá nhân chỉ còn là một yếu tố bị giản lược vào

hệ thống: “Mỗi người chỉ là khoảnh khắc của hài hước, bạn là khoảnh khắc

của sự trả đũa của lãng mạn thuyết, bạn là giai đoạn của chủ thể tính. Một

khoảnh khắc sẽ bị vượt qua và tất nhiên luôn luôn bị vượt qua” [37; 157].

Kierkegaard khẳng định triết học của Hegel là một hệ thống tiêu diệt chủ

nghĩa hiện sinh. Hegel xem con người như một khoảnh khắc trong hệ thống

của mình. Kierkegaard phê phán Hegel rằng: “Ông muốn nói gì thì nói, tôi

không phải một khoảnh khắc lý luận trong hệ thống của ông. Tôi hiện hữu, tôi

tự do. Tôi là tôi, một cá nhân mà không phải một khái niệm. Không một ý

tưởng trừu tượng nào có thể diễn tả nổi nhân cách của tôi, hay thiết định được

dĩ vãng, hiện tại và nhất là tương lai của tôi, hay múc cạn được những khả

tính của tôi, không một lập luận nào có thể giảng nghĩa cho tôi về chính tôi,

về cuộc đời và những tự do lựa chọn của tôi hay về sự sinh tử của tôi” [37;

157]. Tính chủ thể của nhân vị có ngọn nguồn từ trực giác do Kierkegaard

khởi xướng, được hiện tượng học Husserl trình bày như “một khoa học chính

xác”. Những mô tả về tính chủ thể biểu hiện ở trực giác của Kierkegaard đã

kết hợp với hiện tượng học Husserl tạo thành chủ nghĩa hiện sinh. Cá tính là

đối lập với kiểu người tiêu biểu của thời đại vốn “thiếu đam mê, hời hợt, say

mê trong chốc lát và lười biếng một cách khôn ngoan”. Một cá nhân có cá

tính đưa đến cái chân thực, vững chãi, trong khi người thiếu cá tính lại là sự

trống rỗng, bất định, dựa dẫm vào những mối quan hệ tạm thời với người

khác. Cảm xúc chính là biểu hiện của cá tính. Có ba loại cảm xúc tương ứng

với ba chặng đường đời là cảm xúc thẩm mĩ, cảm xúc đạo đức và cảm xúc tôn

giáo, nghĩa là lựa chọn một cách nghĩ, cũng là lựa chọn cảm xúc. Đam mê là

hành vi trung thực của con người. Một khi thoát ly khỏi chủ nghĩa duy lý, con

24

người sẽ tự do lựa chọn, con người được sai khiến bởi những đam mê của

mình. Toàn bộ những tác phẩm của Kierkegaard tràn đầy những đam mê, tức

những trực giác không dành chỗ nào cho lý trí.

Con người bất hạnh vì nó bị gạt ra ngoài bản thân nó, ngay lúc nó sống

bằng hồi tưởng quá khứ hoặc hy vọng vào tương lai cũng là lúc nó đánh mất

cuộc sống đích thực của mình. Hiện sinh nhấn mạnh tính chất cụ thể và riêng

biệt của một đời sống hiện hữu trong thời gian và những đòi hỏi về tính cá

nhân như là sự tương phản với những nỗ lực để điều chỉnh cuộc sống của họ

một cách trừu tượng, theo những chuẩn mực phổ biến, quên lãng cái tôi độc

đáo.

Dấu hiệu đặc thù của hiện sinh là sự lo âu xao xuyến của cá nhân do cái

họa đánh mất mình luôn ở trước mắt nó. Đây là một mô tả điển hình cái “lo

âu hiện sinh”, “Tôi ở đâu? Tôi là ai? Tôi đến đây từ đâu? Từ thế giới có nghĩa

là gì? Ai là người đã đưa tôi vào tồn tại và bây giờ lại bỏ rơi tôi? Tôi có mặt

trong thế giới này như thế nào? Lo âu trở thành một khái niệm quan trọng

trong tư tưởng Kierkegaard. Trong nhiều tác phẩm của mình, ông nhấn mạnh

lo âu như một cơ cấu của hiện sinh thể. Nó là ánh sáng của bản chất tinh thần

của chúng ta. Nó phản ánh mối liên hệ của chúng ta với khả năng và tương

lai. Lo âu dẫn chúng ta đến tội lỗi nhưng nó cũng là hệ quả của tội lỗi. Lo âu

đồng nghĩa với khả năng tự do. Lo âu là tự do bị mắc phải, là nơi mà sự tự do

không phải tự do trong bản thân nó mà là bị vướng phải, không phải bởi sự tất

yếu mà là trong chính nó. Trong lo âu, chúng ta đã dùng tự do của mình làm

cho bản thân chúng ta cảm thấy bất lực hay không được tự do. Lo âu được

Kierkegaard mô tả như một hình thức nghịch lý của ước vọng, hoặc là nghịch

lý của sự sợ hãi. Người ta vừa muốn lẩn trốn lo âu vừa yêu nó bằng tình yêu

thực sự. Như vậy là trước Freud khá lâu, Kierkegaard đã phát hiện ra hố sâu

25

của dục vọng trong tình trạng lo âu. “Lo âu là một ước vọng làm cho người ta

thấy sợ hãi, một mối ác cảm giao cảm, vì vậy người ta không thể rứt mình

khỏi tự do được và cũng không muốn làm vậy, vì sợ hãi, nhưng cái anh ta sợ

hãi cũng chính là cái anh ta mong muốn. Lo âu làm cho cá nhân bất lực.

Triết học của Kierkegaard và chủ nghĩa hiện sinh là sự phản ứng của

con người trước sự bành trướng của chủ nghĩa duy lý đã và đang đưa chủ

nghĩa tư bản vào cuộc khủng hoảng làm tha hóa và phi nhân vị con người. Kế

thừa từ truyền thống Hy Lạp và đạo Kitô để bảo vệ tính chủ thể của con người

như đã nói ở trên, Kierkegaard kịch liệt phê phán chủ nghĩa duy lý của Hegel.

Theo Kierkegaard tội và tín ngưỡng càng là bằng chứng về sự bất lực của chủ

nghĩa duy lý. Tội không phải là một quan niệm logic, một phạm trù, một đối

tượng khoa học. Tội chỉ có thể hiểu được khi đặt nó trước Chúa. Có cái là duy

lý nhưng lại là phi lý, là không duy lý đối với tín ngưỡng. Kierkegaard gọi đó

là “tính tôn giáo nghịch lý”. Ông làm sống lại tư tưởng của Tertullien theo

quan điểm phi duy lý “tôi tin bởi vì là phi lý”.

Mọi chủ nghĩa hiện sinh đều lấy nhân vị với tính chủ thể làm nền tảng

và từ đó chống lại chủ nghĩa duy lý. Tư tưởng hiện sinh của Kierkegaard được

các nhà triết học hiện sinh hiện đại tiếp thu cả về tinh thần lẫn các khái niệm

mô tả hiện sinh của con người. Kierkegaard là một tín đồ Cơ đốc giáo, chặng

đường đời cuối cùng, cao nhất là chặng đường dành cho tôn giáo, chỉ có quay

về với Thiên Chúa, sống một mình trước Thiên Chúa mới là sống đầy đủ ý

nghĩa của một cá nhân độc đáo. Kierkegaard là người khởi xướng chủ nghĩa

hiện sinh và cũng là người đi đầu trong chủ nghĩa hiện sinh tôn giáo.

Cái mà chúng ta gọi là triết học Kierkegaard thì đó là cuộc đời đầy bi

kịch của ông. Các tác phẩm của Kierkegaard đều in rõ những đặc điểm của

cuộc đời ông, những nghịch lý ông gặp phải đều đã hằn sâu ở đó, những

26

nghịch lý đó được ông khái quát qua những mô tả hiện sinh, dấu hiệu hiện

sinh trong tư tưởng hiện sinh của mình. Sau này chúng ta lại bắt gặp Albert

Camus khi trải qua những bi kịch cuộc đời, nhân vật trong các tác phẩm của

ông cũng là sự phác họa con người hiện sinh tồn tại trong hai mặt cuộc sống

“mặt trái mặt phải”, tồn tại trong nghịch cảnh phi lý, tìm hướng đi “nổi loạn”

để giải thoát tính chủ thể cá nhân.

* Hiện tượng luận Husserl

Husserl là người sáng lập ra hiện tượng học, là nhà tiền khởi của chủ

nghĩa hiện sinh, người đặt nền móng lý luận cho triết học hiện sinh.

Edmund Husserl sinh năm 1859 tại Prosznitz (Moravie - Áo), mất năm

1938 với những lời cuối cùng: “Tôi đã sống những năm tháng qua với tư cách

một nhà triết học. Giờ đây tôi cũng sẽ ra đi với tư cách một triết gia”. Ban

đầu, ông quan tâm tới toán học, nhưng sau đó Husserl hiểu ra rằng “phải dựa

vào một hệ thống triết học nghiêm chỉnh để tìm kiếm con đường đi tới

Thượng đế và cuộc sống chân chính”. Từ đó ông ngày càng không bằng lòng

với việc đơn thuần theo đuổi số học thuần tuý. Dưới ảnh hưởng của người

thầy- nhà tâm lý học, triết học F.Bretano, tư tưởng của ông có bước chuyển từ

toán học sang lĩnh vực tâm lý học và triết học. Ông có ý định muốn áp dụng

những nguyên lý của chủ nghĩa tâm lý vào nghiên cứu số học. Sau khi nhận ra

sự thất bại của hướng đi này ông bắt đầu phê phán chủ nghĩa tâm lý rồi đi đến

đoạn tuyệt với nó và sáng tạo ra hiện tượng học.

Hiện tượng học đã khai phá quan niệm về triết học trên cả hai phương

diện đối tượng và phương pháp của triết học. Đây là vấn đề nan giải về vị trí

của triết học trong bối cảnh khoa học đang phát huy mạnh mẽ khả năng thâm

nhập vào thế giới cùng với hệ phương pháp vô cùng đa dạng và linh hoạt của

nó. Đây là thời đại mà con người, thay vì ở trong tình trạng bị nô dịch về vật

27

chất lại lâm vào tình trạng lệ thuộc vào thông tin là nguồn cơn dẫn đến tình

trạng nô dịch về tinh thần. Vấn đề không còn là tìm cách thu thập thông tin

mà ngược lại, lượng thông tin trong xã hội lớn tới mức con người không thể

làm chủ thông tin, trong lúc thông tin lại trở thành phương tiện đắc lực trong

tay kẻ cầm quyền thực hiện chính sách mị dân. Như vậy, vấn đề của con

người phương Tây trong bối cảnh văn hoá hiện đại thuộc về lĩnh vực tinh

thần, lĩnh vực nội tâm. Xuất phát từ vấn đề đó, hiện tượng học có tham vọng

trở thành một hệ thống đáp ứng hai nhiệm vụ, một là chống triết học duy lý

như là phương tiện nô dịch tinh thần con người, hai là giải phóng tinh thần,

đem lại tự do nội tâm cho con người. Đặt cho mình nhiệm vụ đó, hiện tượng

học thực sự đã tạo bước ngoặt lớn trong lịch sử triết học về việc xác định đối

tượng và phương pháp của triết học. Hiện tượng học xác định việc xây dựng

bản thể luận thay thế cho triết học truyền thống, dựa trên sự phê phán triết học

truyền thống và chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm của I. Kant.

Chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy nghiệm lâm vào bế tắc trong việc

xác định đối tượng và phương pháp đặc thù của triết học. Cả hai xu hướng

này đều đồng nhất nhân tính đích thực của con người với lý tính và cùng

khẳng định sự tồn tại của các quy luật trong thế giới và coi cái bất biến ấy là

đối tượng của triết học. Chủ nghĩa duy lý xuất phát từ cái chung để lý giải cái

riêng, sử dụng những chân lý do khoa học cung cấp để chứng minh mọi chân

lý khác, nhưng không bao giờ lý giải được bước chuyển từ cái chung đến cái

riêng, từ những quy luật của logic học sang bản thân tồn tại. Chủ nghĩa duy

nghiệm, ngược lại đi từ cái riêng đến cái chung, khái quát dữ liệu của khoa

học thực nghiệm để rút ra những nguyên tắc chung của tồn tại nhưng nó cũng

thất bại trong việc lý giải bước chuyển từ cái riêng sang cái chung. Nhận xét

về triết học truyền thống, Husserl cho rằng triết học này đã “nhận thức luận

hóa triết học”, thổi phồng hệ vấn đề nhận thức lý luận và cách tiếp cận thuần

28

tuý tri thức luận, xem xét khái niệm “chủ thể’ và tính tích cực của con người

chủ yếu trên phương diện nhận thức luận. Khi Kant sáng tạo triết học tiên

nghiệm của mình, tính chất giáo điều của triết học truyền thống mới được

xem xét lại. Lần đầu tiên, Kant đặt vấn đề về tính chủ quan trong nhận thức

và xác định giới hạn của lý tính tư biện khi muốn nhận thức những thực tại

nằm bên ngoài kinh nghiệm con người. Husserl coi đóng góp chính của chủ

nghĩa duy tâm tiên nghiệm Kant là ở chỗ: Kant trước sau chỉ xem xét thế giới

thông qua các hành vi và các hình thức của tính chủ quan con người. Tính chủ

quan này chính là cái mà chỉ nhờ đó thế giới mới được đem lại cho con người.

Nhưng cách giải quyết vấn đề của Kant lại không thoả đáng. Schopenhauer đã

nhận xét: “Chủ thể là cái nhận thức mọi vật nhưng lại không được ai nhận

thức”. Chỉnh lý triết học Kant, Husserl xây dựng bản thể luận mới, luận

chứng sự tồn tại của bản thể luận văn hoá, tức bản thể luận ý thức trong đó ý

thức không bao giờ trở thành đối tượng khách quan của nhận thức, mà nó là

một thực tại đặc biệt, thực tại mà thế giới được đem lại cho con người dưới

các hình thức của nó. Như vậy, triết học sẽ không tranh giành với bất kỳ bộ

môn khoa học tự nhiên hay lĩnh vực tri thức nhân văn nào về đối tượng lẫn

phương pháp.

Về đối tượng của triết học, hiện tượng học đã giải quyết được mối quan

hệ nhập nhằng giữa triết học và các khoa học khác, phủ nhận thứ triết học

sống dựa vào khoa học, gán cho khoa học những nhiệm vụ không nằm trong

thẩm quyền của nó. Theo Husserl, đối tượng của triết học là ý thức con người

nhưng không phải theo nghĩa ý thức là sự phản ánh khách thể mà ý thức như

một thực tại đặc biệt. Thực tại ấy khác biệt về nguyên tắc so với tính thực tại

của mọi khách thể tự nhiên khác. Thông qua các hình thức hiện hữu của ý

thức mà nghĩa, hay sự hiện hữu của thế giới được đem lại cho cá nhân con

29

người. Như vậy, ý thức là một thực tại mang năng lực độc đáo thể hiện ra ở

hoạt động tạo nghĩa. Khái niệm tính ý hướng nói lên tính độc đáo của ý thức.

Hiện tượng học của Husserl là một học thuyết có tham vọng điều hòa

chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật trong lĩnh vực nhận thức luận.

Husserl không muốn có sự phân chia rạch ròi xem chủ thể hay khách thể có

vai trò quyết định như trong các lý thuyết về nhận thức luận của triết học

truyền thống, mà Husserl muốn đứng trên sự phân chia này để xây dựng lý

luận nhận thức của mình. Trong vấn đề này Husserl muốn có một lập trường

khách quan, không muốn có thái độ đề cao hơn hẳn vai trò của chủ thể hay

khách thể trong quá trình nhận thức. Husserl cho rằng có mối liên hệ tương hỗ

giữa chủ thể và khách thể là do có tính ý hướng trong quá trình nhận thức quy

định. Và cả chủ thể lẫn khách thể đều cùng phối hợp với nhau trong một hành

động nhận thức có tính ý hướng đó. Husserl quan niệm về đối tượng nhận

thức (khách thể), là thế giới tồn tại của các đối tượng đã được chủ thể nhận

thức cấp phát, đặt định cho những ý nghĩa - tức là những đối tượng đã được ý

thức hướng tới. Còn những đối tượng nằm ngoài tầm ý thức hướng tới như

những “vật tự nó”, hay thế giới hiện thực như thói quen mà chúng ta quan

niệm sẽ bị hiện tượng học của Husserl đặt ra ngoài.

Như vậy đối với hiện tượng học của Husserl thì thế giới hiện thực chỉ

được hiểu là thế giới hiện thực đã được chủ thể nhận thức, cấp cho những ý

nghĩa - tức thế giới hiện thực này phải được chủ thể nhận thức sống thực bằng

ý thức theo tính ý hướng đó. Đây chính là ý hướng của cái tôi ý thức. Và theo

Husserl mỗi một chủ thể nhận thức lại xuất hiện một tính ý hướng khác do

kinh qua những kinh nghiệm khác biệt, mới mẻ, phong phú, độc đáo từ cuộc

sống thực khác đem lại - tức là có một thế giới của cái tôi ý thức khác. Vì vậy

trong cuộc sống của con người có nhiều dòng ý thức được tuôn chảy phong phú,

30

không ai giống ai và để biểu hiện thế giới ý thức của con người, thế giới sống thực

của con người không thể áp dụng những phương pháp mang tính công thức rập

khuôn có sẵn, mà phải dùng phương pháp mô tả hiện tượng học.

Phương pháp mô tả hiện tượng học, triết gia hiện sinh Merleau Ponty đã

viết: “Ta phải mô tả, không được giải nghĩa và không được phân tích, tôn chỉ

này Husserl dạy ta trở về chính những sự vật. Tất cả tôi biết về thế giới, dầu là

nhờ khoa học, tôi đều biết do một cái nhìn của tôi, tức là kinh nghiệm của tôi

về thế giới. Không có kinh nghiệm này, những ký hiệu của khoa học sẽ không

còn ý nghĩa nào nữa. Thế giới của khoa học thực sự được xây trên thế giới mà

ta đã nhìn thấy, thành thử khoa học chỉ là tiếng nói thứ hai về thế giới mà thôi.

Phương pháp “hiện tượng học” của Husserl đã được ông định nghĩa rằng đó

chính là “tâm lý học mô tả”. Cũng cần nói thêm rằng ở phương diện nội dung,

dù Husserl đã có thái độ chống chủ nghĩa tâm lý, nhưng về phương diện hình

thức Husserl đã không ngần ngại xếp hiện tượng luận vào thể loại này. Đối

với hiện tượng học của Husserl việc am hiểu bằng cách mô tả những cái sống

thực tâm lý này ở mỗi chủ thể nhận thức là rất quan trọng, vì theo ông chỉ có

cách nhận thức đó mới đi sát, trực tiếp lột tả được đối tượng, chỉ có cách đó

mới nắm bắt được bản chất, những sự thuần khiết, tinh tế nhất của đối tượng

và cũng bằng cách đó mới “trở về với chính đối tượng”.

Phương pháp hiện tượng học quan trọng nhất là quy giản và kiềm chế.

Quy giản hiện tượng học thực chất là khước từ tâm thế tự nhiên. Tạm thời gạt

sang một bên, bỏ vào trong ngoặc tất cả những định kiến về đối tượng. Tóm

lại là thao tác làm sạch ý thức, tẩy rửa ý thức khỏi mọi tiền đề. Kiềm chế là

thuật ngữ diễn tả nguyên tắc ứng xử trong hoàn cảnh xã hội lâm vào cuộc

khủng hoảng tinh thần, tình trạng loạn ngôn: không phát ngôn, hạn chế phán

đoán. Với thao tác này, Husserl muốn mọi phát ngôn phải diễn tả đúng thực

tại tinh thần, đúng với nhân tính, nội tâm của cá nhân. Khi phương pháp hiện

31

tượng học thâm nhập vào các khoa học xã hội nhân văn, người ta gọi chung

nó là phương pháp mô tả hiện tượng học. Điều phải làm là mô tả chứ không

giải thích hay phân tích. Khi coi hiện tượng học như là tiền đề lý luận cho

mình, triết học hiện sinh đồng thời sử dụng phương pháp hiện tượng học với ý

nghĩa phi tiền đề hoá nhận thức, đưa sự vật quay về với bản thân chúng, coi

kinh nghiệm sống là khởi nguyên của mọi tri thức của chúng ta. Vì vậy, các

nhà triết học hiện sinh, ngoài những tác phẩm triết học thuần tuý của mình đã

thông qua nhiều hình thức văn học, nghệ thuật để chuyển tải ý tưởng triết học.

Chủ nghĩa hiện sinh đã áp dụng phương pháp mô tả hiện tượng luận để

xây dựng và phát triển học thuyết của mình. Phương pháp mô tả hiện tượng

học chính xác là phương pháp mô tả những phút sống thực, mô tả những dòng

ý thức của con người được hình thành khi tiếp cận trực tiếp với thế giới xung

quanh, với “thế giới nó sống”, chứ không phải cái “thế giới đã có” (thế giới

của sự vật u lì, tự nó theo quan niệm của các nhà triết học hiện sinh) ngoài

kinh nghiệm sống của con người.

Trong bối cảnh tư tưởng của thời kỳ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa duy

khoa học và chủ nghĩa duy lý tính tương ứng với nó có liên quan chặt chẽ với

chủ nghĩa tâm lý, coi tâm lý học là cơ sở để bênh vực lý tính. Husserl cũng

loay hoay mất hơn mười năm với những kỳ vọng vào chủ nghĩa tâm lý và

cuối cùng ông phê phán chủ nghĩa tâm lý và sáng tạo nên hiện tượng học, tức

chuyển từ lập trường của chủ nghĩa duy khoa học sang lập trường hiện tượng

học. Hiện tượng học đã xác định ảnh hưởng sâu rộng lên nhiều lĩnh vực khoa

học, tri thức nhân văn. “Quay về với bản thân sự việc” là khẩu hiệu được

Husserl nêu lên nhằm làm cho tư tưởng triết học thoát khỏi bước đi lệch lạc

để nhìn thẳng vào những thách thức của hiện thực. Hiện tượng học thoát thai

từ khoa học tự nhiên nhưng dần dần phát triển thành trào lưu tư tưởng của chủ

32

nghĩa nhân văn và trở thành trào lưu tư tưởng nhân văn quan trọng bậc nhất,

đem lại sắc thái hoàn toàn mới cho tư tưởng thế kỷ XX. Và, một trong những

dấu ấn quan trọng nhất là hiện tượng học trở thành cơ sở lý luận của chủ

nghĩa hiện sinh.

Triết học hiện sinh mang dấu ấn của hiện tượng học về cả đối tượng và

phương pháp. Triết học này đã kiên quyết từ chối việc biến con người thành

đối tượng của các khoa học khách quan, mà con người phải là cái biểu hiện

ra, được cảm nhận bởi kinh nghiệm và hoàn cảnh cá nhân của nó. Những

người theo thuyết hiện sinh phản đối quy luật khách quan đang giải thích tự

do con người, không chấp nhận cách định nghĩa tự do là tất yếu được nhận

thức và họ cũng bác bỏ hành vi công thức hoá hoạt động của con người. Con

người phải là cái độc nhất, cá nhân và riêng. Tính chủ quan là cái lớn nhất mà

hiện tượng học đem lại cho triết học hiện sinh. Tính chủ quan ở đây không

phải là yếu tố của hoạt động nhận thức mà là lĩnh vực bản thể luận. Tính chủ

quan là một thực tại đặc biệt luôn hiện diện trong hành vi con người nhưng

không bao giờ trở thành đối tượng của nhận thức. Theo Husserl, xét từ giác

độ tính tồn tại thì tính chủ quan thể hiện là cơ sở thứ nhất, sinh ra nghĩa xuất

phát của mọi hình thức hoạt động của con người. Nó là cái tuyệt đối mà triết

học cần phải xuất phát để giải thích mọi vấn đề khác. Đối với chủ nghĩa hiện

sinh, tính chủ quan đó, như Sartre giải thích: “Chủ quan tính có hai nghĩa

khác nhau, một đằng có nghĩa rằng chủ thể cá biệt tự lựa chọn, đằng khác lại

có nghĩa rằng con người không thể vượt qua chủ quan tính của con người

được. Chính nghĩa thứ hai này là nghĩa sâu xa của thuyết hiện sinh” [9; 20]

Các nhà triết học hiện sinh rất quan tâm việc áp dụng phương pháp hiện

tượng học vào luận điểm rất quan trọng của hiện tượng học Husserl sau: Hiện

tượng và bản chất là không thể tách rời, đằng sau hiện tượng không ẩn giấu

33

một bản chất khác với hiện tượng, bản thân hiện tượng chính là bản chất.

Nhưng bản chất này không phải nằm trong trạng thái ấn giấu mà nằm trong

trạng thái không che đậy, bản thân nó chính là hiện tượng, hiện tượng và bản

chất là thống nhất, đều là kết cấu của ý nghĩa. Cái gì xuất hiện ra với ý thức

đều với tư cách là một tổng thể. Một tổng thể với tư cách là vậy không thể

quy giản thành các nhân tố, và tổng thể đó chỉ có thể được miêu tả, chứ không

thể được phân tích. Bản chất và hiện tượng đã làm một tổng thể không tách

rời, chính vì vậy việc miêu tả hiện tượng là một phương pháp quan trọng hơn

việc áp dụng phương pháp phân tích, mổ xẻ hay đập vỡ đối tượng ra để

nghiên cứu, tìm hiểu chúng. Các nhà triết học hiện sinh cho đó là phương

pháp duy nhất đúng đắn, hợp lý để tìm hiểu đối tượng và đặc biệt là đối tượng

“hiện sinh”. Hiện sinh theo quan niệm của các nhà triết học trường phái này

đó là kinh nghiệm sống cụ thể của con người do chính con người tạo ra trong

thời gian cũng như trong không gian. Hiện sinh là kiếp sống của một người có

ý thức về nền tảng và ý nghĩa của kiếp sống đó, và tự động thể hiện kiếp sống

đó theo ý mình - nói ngắn gọn, hiện sinh là một động tác tự khẳng định về sự

tồn tại cũng như bản ngã của mình. Và theo các nhà triết học hiện sinh, để có

thể “lột trần” được hiện sinh, chúng ta phải quay lưng lại với phương pháp

biểu tượng - phương pháp này là sản phẩm của chủ nghĩa duy lý, chỉ hiểu sự

vật theo cách được hình dung trừu tượng, và điều đó dẫn đến tình trạng nhìn

sự vật theo những gì có tính cách bên ngoài, theo khuôn mẫu cứng nhắc, thiếu

sự sinh động, sâu xa, không đích thực, đây chính là cách nhìn của chủ thể và

khách thể đã được phân biệt lập, cách biệt, vì vậy không thể đem lại hiệu quả

nhận thức đúng đắn. Và theo các nhà triết học hiện sinh, nhận thức như vậy,

đối tượng sẽ bị phủ nhận hay xuyên tạc, bị biến hình hay do kết quả của

những suy luận, nhận thức mang tính chất rất hình thức như thế. Đặc biệt nếu

áp dụng phương pháp này để nghiên cứu con người, theo họ đã làm lu mờ, sai

34

lệch hoặc cắt đứt con người với hoàn cảnh cụ thể, vì vậy không thể nắm bắt

hiểu thấu con người với một bộ mặt đầy đủ sinh động, sâu xa của nó.

Cho nên đối với các nhà triết học hiện sinh, phương pháp mô tả hiện

tượng luận của Husserl đóng vai trò hàng đầu cho những phương pháp nhận

thức thế giới và đặc biệt nhận thức con người của những nhà triết học hiện

sinh. Nhờ có hiện tượng học, chủ nghĩa hiện sinh mới có một quy chế mới về

triết học, mới trở thành một triết học như các trào lưu triết học đã có.

1.2. Giới thiệu về Albert Camus – cuộc đời và các tác phẩm tiêu biểu

1.2.1. Giới thiệu chung về Albert Camus

Albert Camus sinh ngày 7 tháng 11 năm 1913, tại làng Mondovi của

Algeria, và từ trần vào ngày 4 tháng 1 năm 1960 do một tai nạn xe hơi.

Cuộc đời ông là chuỗi những bi kịch. Cha ông, Lucien August Camus

đã tử trận trong Thế chiến I lúc cậu bé Albert mới một tuổi. Mẹ ông,

Catherine Hélène Sintè, gốc Tây Ba Nha bị điếc nặng và ít học. Sau khi cha

Camus mất, bà mang hai con về miền ngoại ô Belcourt của thành phố Algeris.

Đây là một khu kỹ nghệ với nhiều căn hộ chật trội, một khu phố gồm nhiều

sắc dân. Khung cảnh thiên nhiên rực rỡ nơi này trái ngược với cuộc sống

nghèo khó của tầng lớp lao động, như Camus đã viết trong tập Bề mặt và bề

trái: “Tôi được sinh ra giữa ánh dương và khốn cùng”. Thời gian sau đó, khi

đang học khoa Triết tại trường đại học Algiers, ông bị mắc bệnh lao phổi,

kinh nghiệm sống còn trước tử thần đã trở nên một nỗi ám ảnh đối với

A.Camus, để sau này cảnh chết chóc thể hiện trong hầu hết các tác phẩm của

ông. Camus trải qua hai cuộc hôn nhân, hoặc bi kịch hoặc mờ nhạt. Và, con

người có hoàn cảnh cá nhân bi đát ấy bị đặt trong một thời đại, mà như ông đã

đau đớn thừa nhận: “Hơn hai mươi năm sống trong một lịch sử điên loạn, chết

không được cứu vớt, sống như tất cả mọi người cùng tuổi với tôi trong những

35

cơn co quắp của thời đại. Những con người sinh ra khi bắt đầu Thế chiến I

này, những kẻ bước vào tuổi hai mươi khi Hitler lên cầm quyền và khi diễn ra

những vụ án cách mạng đầu tiên, những con người sau đó còn phải hoàn thiện

nền giáo dục của mình bằng cách đương đầu với chiến tranh Tây Ban Nha,

với Thế chiến II, với hệ thống những trại tập trung, với Châu Âu của nhục

hình và giam cầm, những con người ấy giờ đây đang phải nuôi con cái họ và

nuôi dưỡng các tác phẩm của họ trong một thế giới bị nạn hủy diệt hạt nhân

đe dọa” [51; 68] và rồi “Thừa hưởng một lịch sử đồi bại, thời kỳ pha trộn

những cuộc cách mạng thất bại, những kỹ thuật đang trở thành điên rồ, những

thần linh đã chết và những hệ tư tưởng đã kiệt sức, thời kỳ của những quyền

lực tầm thường đủ sức hủy diệt nhưng không có sức thuyết phục ai, thời kỳ trí

tuệ tự hạ thấp mình đến mức chỉ để phục vụ cho thù hận và áp bức, cái thế hệ

này của tôi, từ những phủ định của chính mình, đã phải xây dựng lại trong

bản thân mình và xung quanh mình một chút giá trị còn lại đủ để tạo thành

niềm kiêu hãnh sống và niềm kiêu hãnh chết” [51; 69]

Albert Camus, năm 1934, tham gia Đảng Cộng Sản Pháp. Năm 1936,

ông hoạt động cho Đảng Nhân Dân Algerie, sự việc này khiến các Đảng viên

Cộng sản khác bất bình với ông. Giữa các năm 1937 và 1939, Camus đã viết

bài cho tờ báo khuynh tả “Người Cộng Hòa Algier” rồi làm chủ bút cho tờ

“Người Cộng Hòa - Buổi Chiều”. Lúc này, Camus mô tả hoàn cảnh nghèo

khó của người Ả Rập, chỉ trích gay gắt chính phủ Pháp vì các chính sách tại

Algeria, đòi quyền bình đẳng cho người Ả Rập. Sau khi tờ báo bị đóng cửa,

Camus phải rời Algeria qua sống tại Paris. Ông làm trong thời gian ngắn cho

tờ báo “Paris - Buổi Chiều” nhưng nghề viết báo này chấm dứt khi quân đội

Đức xâm chiếm nước Pháp. Năm 1942, ông trở về Pháp, tham gia phong trào

kháng chiến chống Đức Quốc xã, viết bài cho tờ báo “Chiến Đấu”. Năm

1944, khi Paris được giải phóng Camus tiếp tục làm chủ bút cho tờ báo này

36

với các khảo luận về thời kì chiến tranh. Trong những năm 1950, Albert

Camus hiến mình cho những hoạt động nhân quyền. Năm 1953, ông là một

trong số ít người đứng lên chỉ trích kiểu đàn áp công nhân tại vùng Tây

Berlin. Ông cũng phản đối quân đội Liên Xô đã can thiệp Hungary. Camus

chủ trương chính sách hòa bình, phản đối mọi hình thức tử hình trên thế giới.

Cuộc chiến tranh giành độc lập Algeria nổ ra năm 1954 đã khiến Camus ở vào

tình trạng khó xử. Trước kia, ông đã từng nhận rằng mình thuộc về tầng lớp

người “chân đen” là những người gốc châu Âu tại Bắc Phi. Tới nay, ông đã

ủng hộ nền tự trị của Algeria nhưng lại bênh vực các chính sách của nước

Pháp vì cho rằng cuộc cách mạng tại xứ thuộc địa Bắc Phi là do Ai Cập, là

một phần của chủ nghĩa đế quốc Ả Rập mới và cũng do Liên Xô xúi giục để

bao vây Châu Âu và cô lập Hoa Kỳ. Trong suốt cuộc đời, Camus luôn luôn

nói rõ và tích cực hành động để chống lại chế độ toàn trị dưới bất cứ hình

thức nào. Ông đã viết: “Bây giờ, chỉ có một giá trị đạo đức là lòng can đảm,

đức tính này cần thiết để xét xử các kẻ bù nhìn và các kẻ to mồm thường khoe

rằng mình lên tiếng vì nhân dân”. Nhìn chung, trong hoạt động chính trị, mặc

dù Camus là người tả khuynh nhưng thực tế, ông là người đứng giữa nhiều

làn đạn.

Cuộc đời và hoạt động của Albert Camus trong hoàn cảnh lịch sử trên

đã có những ảnh hường rất lớn tới những quan điểm tư tưởng triết học của

ông sau này. Chuỗi tư tưởng hiện sinh của Camus là sự tồn tại đầy phi lý

trong cuộc đời bi kịch, và con người đã phải nhận thức sự phí lý đó để tồn tại,

để giải quyết tìm hiện sinh đích thực cho bản thân. Tư tưởng hiện sinh của

Camus được thể hiện qua tư tưởng của các nhân vật tác phẩm trong quá trình

phát triển tư tưởng hiện sinh của chính mình.

37

1.2.2. Các tác phẩm tiêu biểu của Albert Camus

Tháng 10 năm 1957, Albert Camus được trao tặng Giải Nobel Văn học

với lời tuyên dương “tất cả các tác phẩm của ông đã đưa ra ánh sáng một cách

nghiêm chỉnh và đi vào lòng người những vấn đề xẩy ra cho chúng ta hiện

này cùng với lương tâm của con người”. Camus nhận ra người nghệ sĩ trong

thời hiện đại có số phận và do đó, có sứ mệnh đặc biệt so với các nhà văn

trước đó “văn nghệ sĩ dù muốn hay không cũng bị đẩy xuống thuyền, con

thuyền của thời đại họ. “Nghệ thuật không phục vụ đảng phái nào, nó chỉ

phụng sự nỗi thống khổ và quyền tự do của con người mà thôi”.

Các tác phẩm tiêu biểu của Albert Camus có thể kể đến tiểu thuyết “Kẻ

xa lạ”, “Dịch hạch”, các tiểu luận triết học “Con người phản kháng”, “Thần

thoại Sisyphus”, kịch “Ngộ nhận”, hay các tác phẩm khác “Thư cho một

người bạn Đức”, “Những người chính trực”, v.v… Kết hợp hài hòa giữa ba

yếu tố: Con người, hành động và tác phẩm, toàn bộ văn nghiệp của Camus

hướng đến thân phận con người, khởi đi từ phi lý dẫn đến nổi loạn đạt tự do.

Từ nhiều năm trước đó, Camus đã dấn thân vào sự nghiệp viết cũng

như các hoạt động nghệ thuật khác. Năm 1936, Camus thành lập một nhóm

kịch Đoàn Hát Công Nhân. Năm 1937, ông cho xuất bản tác phẩm khảo luận

đầu tiên Mặt trái và mặt phải, trong đó gồm các hồi tưởng thời thơ ấu tại

Belcour, pha trộn sự khôi hài với đặc tính trữ tình, mô tả nỗi bất lực và cô đơn

của con người trước cảnh chết. Nhà triết học Brice Parain đã coi cuốn này tuy

nhỏ nhưng là tác phẩm hạng nhất của Albert Camus, dù cho chính tác giả đã

nhận rằng hình thức viết vẫn còn vụng về.

Camus tiếp tục viết và cho xuất bản vào năm 1942 hai tác phẩm Kẻ Xa

Lạ (L”etranger- The stranger) và Huyền Thoại Sisyphe (Le mythe de

Sisyphe). Tiểu thuyết Kẻ xa lạ gây chấn động đời sống văn học Pháp, với

38

ngôn ngữ trong sáng, biểu cảm, tác phẩm thể hiện cảm xúc của cả một thế hệ

trước câu hỏi về hệ thống giá trị của cuộc sống và lòng khao khát tìm kiếm ý

nghĩa cũng như mục đích sống. Đây là tác phẩm thể hiện rất rõ nét những ảnh

hưởng ký ức tuổi thơ, kinh nghiệm sống và những tư tưởng, quan niệm của

Camus về cuộc đời, cuộc sống- đặc biệt là những tư tưởng của ông về sự cô

đơn và cái phi lý. Cũng trong thời kỳ này, dưới sự tàn phá về mọi mặt của hai

cuộc chiến tranh thế giới, nhận thức về cái phi lý đã ảnh hưởng sâu sắc đến cả

một lớp người trong xã hội. Nhân vật Meursault của Ablert Camus - một con

người xa lạ trong xã hội phi lý, một người máy với nhịp sống máy móc “sáng

cắp ô đi, tối cắp về”, một con người mờ nhạt sống không mục đích, không

nhận thức được ngay cả bản thân mình - đã trở thành hình ảnh đại diện cho cả

một lớp người trong xã hội đó.

Vài tháng sau, ông cho xuất bản tiểu luận triết học Huyền Thoại

Sisyphe, các vị thần linh đã xử phạt Sisyphe phải không ngừng vần một tảng

đá lên đỉnh một quả núi để từ đó tảng đá lại tự mình lăn xuống. Họ phần nào

có lý khi cho rằng không có hình phạt nào khủng khiếp hơn cái công việc vô

ích và vô vọng. Camus so sánh sự phí lý của tồn tại đời người với hành động

của Sisyphe trong thần thoại, hễ lăn hòn đá lên đến đỉnh núi thì hòn đá lại rơi

xuống, và đã phát triển thuyết đạo đức mới dưới hình thức lý giải luận điểm

cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh về sự phi lý của tồn tại.

Cùng xuất bản năm 1942, cả hai tác phẩm trên luôn song hành với

nhau. Nếu Huyền thoại Sisyphe phân tích phi lý dưới dạng triết lý thì tiểu

thuyết Kẻ xa lạ đưa ra hình ảnh cụ thể của con người phi lý để minh họa cho

những triết lý đó.

Sau thế chiến II chấm dứt, chủ nghĩa hiện sinh chi phối đời sống trí tuệ

Paris. Camus lúc này đã trở thành một trong những nhà văn hàng đầu nước

39

Pháp, trở thành thành viên của nhóm các nhà văn do J.P.Sartre đứng đầu.

Năm 1947, tiểu thuyết Dịch hạch (La peste) xuất hiện và trở thành một tác

phẩm văn chương nổi tiếng nhất của ông. Chỉ sau ngày phát hành ít hôm, tác

giả đã được hội đồng “Giải thưởng – Phê bình” mời nhận thưởng. Dịch hạch

dường như giống một thiên phóng sự, khác hẳn với các tiểu thuyết khác của

Camus. Văn chương không bóng bẩy, không có những tưởng tượng phong

phú, nó chỉ là sự trần thuật với văn phong mộc mạc. Giá trị của tác phẩm nằm

ở phần nội dung, là rất nhiều kỳ vọng của Camus về một nền luân lý dựa trên

nỗi thống khổ của con người.

Trong những năm 50 Camus tiếp tục viết kịch, truyện và tiểu luận.

Năm 1951, Con người phản kháng (L”home révolté), có bản dịch là Con

người nổi loạn, ra đời tuyên chiến với tất cả các hệ tư tưởng ngăn cản tự do

của con người, tác phẩm gây nhiều tranh luận và bị J.P.Sartre chỉ trích một

cách đặc biệt. Sự tranh cãi đã khiến cho Albert Camus và J.P.Sartre đi đến

đoạn tuyệt tình bạn vốn được ca ngợi trong giới văn chương, triết học Pháp

lúc bấy giờ.

Năm 1956, ông viết cuốn Sa đọa khai thác đề tài tội lỗi và ăn năn. Năm

1957, Camus được trao giải Nobel văn chương ở tuổi 44, bởi “đóng góp to

lớn vào văn học, góp phần soi rọi giá trị của lương tâm con người”. Ba năm

sau, vở kịch cuối cùng Những người quỷ ám của ông chuyển thể từ tiểu thuyết

Lũ người quỷ ám của F. Dostoevski được công diễn.

Năm 1960, giữa thời kì sung sức với nhiều dự định sáng tạo, Camus

mất trong một tai nạn xe hơi ở miền Nam nước Pháp.

Sau khi Camus qua đời, sáng tác của ông tiếp tục gây ra những cuộc

tranh cãi sôi nổi, nhưng ông vẫn được coi là một trong những nhân vật sáng

giá của thời đại. Camus thất vọng trước sự tha hóa của con người, nhưng vẫn

40

kiên trì tìm lối thoát ra khỏi sự phi lý của kiếp nhân sinh. Người ta gọi ông là

“nhà đạo đức học đã nâng những vấn đề luân lý lên thành vấn đề triết học”.

Tinh thần hiện sinh của Albert Camus: Camus, giống như rất nhiều triết

gia hiện sinh, không thừa nhận cái nhãn hiệu triết gia hiện sinh. Mặc dù vậy,

khi nói tới chủ nghĩa hiện sinh người ta nhắc tới Camus và ngược lại. Trong

tư tưởng của Camus xuất hiện nhiều chủ đề giúp người ta nhận diện một nhà

triết học hiện sinh. Thậm chí, có thể nói tư tưởng Albert Camus là sự tổng kết,

một cách không chính thức, song rất đáng chú ý, các chủ đề của triết học hiện

sinh. Sau Camus, triết học hiện sinh hầu như không mở rộng hơn nữa. Các

chủ đề của chủ nghĩa hiện sinh trong triết học Camus không phải được liệt kê

và luận giải, đi lại những con đường trùng lặp với các nhà hiện sinh tiền bối,

mà thông qua các tác phẩm văn học cùng với các tuyến nhân vật và vấn đề

của họ, Camus xây dựng quan điểm của ông về cuộc hiện sinh và con đường

thích hợp cho nó.

Vấn đề quan trọng nhất và cũng là vấn đề gây khó khăn nhiều nhất cho

các nhà hiện sinh là: con đường hướng tới hiện sinh đích thực. Hư vô, phạm

trù siêu hình học quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện sinh, cho tới Sartre vẫn

chưa tìm được lối ứng xử thích hợp có triển vọng đưa tới hiện sinh đích thực.

Dấn thân, lựa chọn, coi mình là dự phóng, một mặt, vẫn còn nằm trên bình

diện lý thuyết, mặt khác cũng soi rõ con đường hiện sinh. Vấn đề đó được

Camus đưa ra ánh sáng.

Các nghiên cứu về Camus thống nhất với nhau ở quan điểm cho rằng,

hai chủ đề quan trọng nhất và bao quát toàn bộ tư tưởng của Camus là: Phi lý

và nổi loạn. Thông qua hai chủ đề đó, Camus đã đặt vấn đề cốt yếu của hiện

sinh: Thấu hiểu bản thân và hiện sinh đích thực. Trong tất cả các tác phẩm

văn học- triết học của mình, hai chủ đề này được Camus hướng tới theo nhiều

41

cách khác nhau. Chủ đề thứ nhất, cái phi lý có thể coi là đóng góp lớn nhất về

mặt triết học của Camus. Bản thân Camus coi cái phi lý biểu hiện một trạng

thái ý thức đặc biệt của con người, ý thức về cảnh ngộ bi đát của con người,

và nhãn quan này đã định hướng hầu như toàn bộ sự nghiệp sáng tạo của ông.

Trong khi đó, nổi loạn được coi là hệ quả của phi lý, nó chỉ có thể hiểu trong

tương quan với cái phi lý.

Tư tưởng hiện sinh của Camus mang sắc thái đặc biệt. Hành trình suy

tư của Camus cũng chính là đời sống của ông, là bế tắc và con đường giải

quyết bế tắc trong triết lý, là con đường tìm đến với chủ nghĩa nhân bản, tìm

ra phương thức bộc lộ hữu hiệu nhất tồn tại người. Khi sống và viết, Camus

chưa bao giờ là tỏ ra là cá nhân tách khỏi xã hội, điều này khác với thái độ coi

thường dư luận và thói trí thức dởm. Nhìn lại cuộc đời hoạt động và sáng tác

của ông ta thấy nổi lên con người hành động, con người khắc khoải với những

khủng hoảng hiện sinh, với các giá trị nhân bản đích thực. Sự sống, cái chết,

giá trị, tự do, hành động, sáng tạo, đam mê, v.v…, trở thành những chủ đề

chính trong tư tưởng của ông.

Camus xây dựng khái niệm phi lý như là hoàn cảnh chân thực của con

người trước thế giới bên ngoài. Khái niệm phi lý được xây dựng dựa trên

khẳng định rằng tồn tại người là tồn tại với khát vọng về cái đơn nhất, ý nghĩa

và hạnh phúc. Đối lập với thế giới, cái mà về cơ bản là hỗn độn, vô nghĩa, tồn

tại người tìm thấy bản thân mình trong tình trạng phi lý. Camus nhận ra rằng

khái niệm phi lý không chỉ là vấn đề quanh quẩn trong nó và cho nó mà nó

dường như cho phép chủ nghĩa tương đối đạo đức tồn tại. Bởi vì nó không

khẳng định sự tồn tại của bất kì giá trị nào. Camus cho rằng, không có các giá

trị để hướng dẫn hành vi con người, thì nguyên lý hướng dẫn là duy nhất là

tính hiệu quả. Camus cho rằng, tính hiệu quả chính là quy luật hành động

trong những xung đột phá hủy của Thế chiến II. Trong suốt thời gian này,

42

Camus đã chứng kiến sự bài diệt một cách có hệ thống con người dưới danh

nghĩa những ý tưởng cao đẹp. Bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những hệ quả trên,

Camus đã phê phán chủ nghĩa hư vô: “Nếu chủ nghĩa hư vô là sự bất lực về

niềm tin, thì biểu hiện nghiêm trọng nhất của nó không phải là thái độ vô thần

mà là việc không có khả năng tin vào cái đang có, đang diễn ra và sống một

cuộc sống đúng như nó được đem đến. Sự yếu đuối này là gốc rễ của mọi thứ

duy tâm chủ nghĩa” [59; 67]

Dường như, sự thiết lập những giá trị cuộc sống là một sự phản ứng

mạnh mẽ đối với các giá trị tương lai của chủ nghĩa hư vô hay cách mạng độc

tài. Camus đánh giá những kinh nghiệm ở hiện tại là có giá trị hơn những giá

trị không tưởng cho một tương lai xa xôi, nhưng ông đã không lập luận một

cách rõ ràng về cái nền tảng, cái cơ sở mà những kinh nghiệm hiện tại dựa

vào để được coi là có giá trị. Điều này không có nghĩa là những giá trị của

Camus không có nền tảng mà là ông gặp phải khó khăn trong việc trình bày

cái nền tảng này. Nhưng điều chắc chắn là ông không bao giờ muốn soi rọi

tồn tại người qua những tín điều chính trị, mà luôn luôn coi giá trị của đời

sống con người mới là cái được đặt cao hơn.

Triết học Camus không được xây dựng trực tiếp như một học thuyết về

tồn tại, cũng không lý luận về những phạm trù thường thấy trong triết học

hiện sinh: cô đơn, lo âu, hư vô, v.v..., nhưng điều đó không có nghĩa tư tưởng

của ông lạc dòng chảy hiện sinh triết học, mà ở Camus, người ta nhận thấy

một con đường lạ để đi vào cuộc hiện sinh theo tinh thần của chủ nghĩa hiện

sinh- tồn tại người là căn bản của triết lý. Đối mặt với thân phận mình, con

người có cơ hội nhìn thấy những vết nứt hiện sinh của cuộc sống mình, khắc

phục nó và hướng tới hiện sinh đích thực. Cá nhân trong triết lý hiện sinh của

A. Camus không phải chủ nghĩa cá nhân cực đoan ghê sợ đám đông, tách khỏi

43

xã hội mà cá nhân ấy đặc trưng bởi nỗi thống khổ, bởi khát vọng được sống

trong một thế giới nhân bản, thế giới Người.

Triết học hiện sinh ra đời trong bối cảnh lịch sử riêng biệt, sau thế

chiến thứ nhất và thứ hai những năm 20 của thế kỷ XX, xã hội phương Tây

rơi vào khủng hoảng, suy giảm giá trị đạo đức tinh thần do chủ nghĩa duy lý

gây ra. Chủ nghĩa duy lý đã tạo ra một xã hội bất công hơn bao giờ, nền văn

minh chỉ coi trọng đồng tiền, phẩm giá con người thành giá trị trao đổi, nhân

cách con người bị tha hóa. Chủ nghĩa duy lý không bảo đảm nhân vị cho con

người, con người thấy mình vô danh và rẻ mạt trong xã hội bất công và phi

nhân bản. Triết học hiện sinh ra đời đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó làm

chỗ dựa tinh thần, niềm an ủi tinh thần của con người khi luôn đề cao tinh

thần nhân bản trong quan điểm của mình. Trong quá trình phát triền quan

niệm con người hiện sinh, triết học hiện sinh và Albert Camus đã khởi tạo cội

nguồn tư tưởng Kierkegaard và hiện tượng luận của Husserl. Triết học hiện

sinh đều lấy nhân vị với tính chủ thể làm nền tảng và từ đó chống lại chủ

nghĩa duy lý. Tính chủ thể của nhân vị có ngọn nguồn từ trực giác do

Kierkegaard khởi xướng, được hiện tượng học Husserl trình bày như một

khoa học chính xác. Những mô tả về tính chủ thể biểu hiện ở trực giác của

Kierkegaard đã kết hợp với hiện tượng học Husserl tạo thành những quan

điểm con người trong triết học hiện sinh.