s 15 (11/01/2010 - 17/01/2010 bẢn tin ĐỐi thoẠi chÍnh sÁch...
TRANSCRIPT
1
& DOANH NGHIỆP
SỐ 15 (11/01/2010 - 17/01/2010)
Chịu trách nhiệm nội dung
PHẠM HOÀNG NGÂN
Chịu trách nhiệm sản xuất
AN THU HẰNG
Đơn vị sản xuất Trung tâm Thông tin
Viện Chính sách và Chiến lược PTNNNT
• TIN TỨC & SỰ KIỆN Doanh nghiệp kiến nghị nhập tôm sú nguyên liệu EC hỗ trợ 8 hiệp hội doanh nghiệp của Việt Nam Tặng Giải thưởng Chất lượng quốc gia năm 2009 cho
108 doanh nghiệp Nhiều doanh nghiệp giả lỗ để né thuế Doanh nghiệp ngoại nắm phần lớn thị phần quảng cáo
• ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư chiến lược vào
Campuchia Ba năm VN gia nhập WTO: Nông sản có mất chỗ trên
sân nhà? Doanh nghiệp bán hàng ở nông thôn được hỗ trợ
• TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG 8.000 doanh nghiệp sẽ nộp hồ sơ thuế qua mạng Nhiều doanh nghiệp tính chuyện tăng giá bán Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường
châu Âu
• TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH Chỉ thị số 03/CT-BCT về Tăng cường kiểm tra, kiểm
soát đảm bảo bình ổn giá cả, thị trường trước, trong và sau Tết Nguyên đán Canh Dần 2010
• ĐIỂM TIN HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH AGROINFO
BẢN TIN ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
2
Doanh nghiệp kiến nghị nhập tôm sú nguyên liệu Ước tính, hơn 60 nhà máy chế biến tôm sú xuất
khẩu ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện
chỉ hoạt động cầm chừng.
Theo ông Trần Thiện Hải, Chủ tịch Hiệp hội
Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, tình
trạng thiếu tôm sú nguyên liệu đã xuất hiện từ
tháng 12/2009 đến nay.
Bởi vậy, nhiều doanh nghiệp đang kiến nghị
nhập tôm sú nguyên liệu từ các nước để duy trì
sản xuất, phục vụ xuất khẩu.
Ông Trần Thanh Hòa, Giám đốc Công ty cổ
phần thực phẩm thủy sản xuất khẩu Cà Mau
(FFC) thừa nhận, tôm khan hiếm, giá tăng cao,
dù biết lỗ nhưng Công ty cũng phải mua để duy
trì sản xuất nhằm hoàn thành đơn hàng.
Ước tính, hơn 60 nhà máy chế biến tôm sú xuất
khẩu ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long hiện
chỉ hoạt động cầm chừng, mặc dù đã chọn giải
pháp nghỉ luân phiên vẫn không đủ nguyên liệu
sản xuất để cung ứng nhu cầu thị trường.
EC hỗ trợ 8 hiệp hội doanh nghiệp của Việt
Nam
Trong khuôn khổdự án “Hỗ trợ thương mại đa
biên EU - Việt Nam” giai đoạn III, Uỷ ban châu
Âu (EC) tài trợ dự án tăng cường năng lực cho
các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam về các
chính sách và qui định thương mại với châu Âu,
do phòng thương mại châu Âu tại Việt Nam
(EuroCham) thực hiện.
Sự kiện đầu tiên là hội thảo “Tăng cường năng
lực về chính sách thương mại cho các
HHDNVN” tổ chức tại TP.HCM vào ngày 15.1
nhằm giúp các hiệp hội hỗ trợ hiệu quả cho các
thành viên về các vấn đề thương mại liên quan
đến EU và trở thành một đối tác tư vấn hiệu quả
cho chính phủ Việt Nam.
EuroCham đang đánh giá nhu cầu đào tạo cho
các hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam để thiết kế
chương trình đào tạo phù hợp với nhu cầu thực
tế. Tám hiệp hội được lựa chọn là đối tác chính
thức của EuroCham gồm hiệp hội Dệt may Việt
Nam (VITAS); hiệp hội Da giày, hiệp hội chế
biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP);
phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam
chi nhánh TP.HCM; hiệp hội các doanh nghiệp
vừa và nhỏ Hà Nội, hội Mỹ nghệ và chế biến gỗ
TP.HCM; hội doanh nhân trẻ TP.HCM (YBA);
hiệp hội doanh nghiệp Cần Thơ (CBA).
Tặng Giải thưởng Chất lượng quốc gia năm
2009 cho 108 doanh nghiệp
Theo TTXVN, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện
Nhân vừa ký quyết định tặng Giải Vàng Chất
TIN TỨC & SỰ KIỆN
3
lượng quốc gia năm 2009 cho 11 doanh nghiệp
và tặng Giải Bạc Chất lượng quốc gia cho 97
doanh nghiệp.
Giải Vàng Chất lượng quốc gia năm 2009 thuộc
về ba doanh nghiệp sản xuất lớn là Công ty Xi
măng Nghi Sơn, Công ty Cổ phần Thủy sản
Việt Thắng và Công ty Cổ phần Hữu Toàn; ba
doanh nghiệp vừa và nhỏ là Công ty Cổ phần
Thực phẩm Minh Dương, Công ty TNHH Robot
và Công ty Cổ phần Việt Vương. Về doanh
nghiệp dịch vụ: ba doanh nghiệp dịch vụ lớn là
Công ty Cổ phần Vàng bạc đá quý Phú Nhuận,
Tổng Công ty Xây dựng công trình giao thông 4
và Công ty TNHH Nhà nước một thành viên
Xây dựng và Cấp nước Thừa Thiên-Huế; hai
doanh nghiệp dịch vụ nhỏ là Công ty Cổ phần
Xây lắp Điện lực Thanh Hóa và Công ty Cổ
phần Long Hậu. Giải Bạc Chất lượng quốc gia
thuộc về 37 doanh nghiệp sản xuất lớn, 38
doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ.
Nhiều doanh nghiệp giả lỗ để né thuế
Do tình hình lạm phát giảm phát kéo dài, lãi
suất ngân hàng tăng làm nhiều doanh nghiệp
không tiếp cận được vay vốn hỗ trợ sản xuất, đã
dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không có
khả năng nộp thuế và nợ đọng kéo dài.
Báo cáo tổng kết công tác thuế năm 2009 của
Cục Thuế TP.HCM tại hội nghị tổng kết ngành
thuế ngày 15-1 đã thể hiện như trên.
Nhiều tổ chức, cá nhân do thiếu vốn đã chiếm
dụng tiền thuế của ngân sách nhà nước làm vốn
kinh doanh và chấp nhận bị phạt chậm nộp mức
1,5%/tháng.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp còn kê khai
gian. Tổng cộng có 289 đơn vị khai thuế không
đúng, số tiền thuế truy thu lên đến 3,5 tỉ đồng.
Với các đơn vị kinh doanh dịch vụ ăn uống, các
cơ quan thuế đã phát hiện việc khai thuế thấp,
truy thu được 30%-40% doanh thu.
Ngoài ra, theo kết quả kiểm tra 24 chi nhánh
doanh nghiệp có trụ sở đóng ngoài địa bàn quận,
huyện, tất cả các chi nhánh trên đều có sai phạm
trong khai báo doanh thu. Tổng doanh thu được
khai báo chỉ gần 22,3 tỉ đồng nhưng khi kiểm
tra thực ghi sổ sách thì đến hơn 43 tỉ đồng.
Bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Chủ tịch UBND TP,
đã chỉ đạo: Ngành thuế cần kiểm tra đặc biệt đối
với những doanh nghiệp kêu lỗ nhiều năm liền
nhưng vẫn mở rộng sản xuất. Bà Hồng cũng lưu
ý ngành cần phải có giải pháp giải quyết tình
trạng bán hàng không xuất hóa đơn của các
doanh nghiệp mà báo chí đã phản ánh.
Doanh nghiệp ngoại nắm phần lớn thị phần
quảng cáo
Ngày 15-1, ông Đinh Quang Ngữ, Chủ tịch
Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam, cho biết doanh
nghiệp quảng cáo nước ngoài chiếm hầu hết
4
trong số 1 tỉ USD doanh thu quảng cáo tại Việt
Nam.
Theo ông Ngữ, cả nước hiện có trên 5.000
doanh nghiệp quảng cáo hoạt động trên nhiều
lĩnh vực khác nhau. Tuy vậy khả năng sáng tạo,
tư duy chiến lược, kinh nghiệm tổ chức các
chiến dịch quảng cáo của doanh nghiệp trong
nước còn kém xa doanh nghiệp nước ngoài.
Nguồn cung vật liệu cho ngành quảng cáo đều
phải nhập khẩu. Phần lớn việc thực hiện kỹ
thuật hậu kỳ phim quảng cáo đều làm ở nước
ngoài…
Từ ngày 5 đến 7-8, tại Nhà thi đấu Phú Thọ
(TP.HCM) sẽ diễn ra Triển lãm quốc tế thiết bị
và công nghệ quảng cáo Việt Nam lần thứ nhất
với sự tham gia của nhiều doanh nghiệp quảng
cáo lớn trong và ngoài nước. Đây cũng là dịp
gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm và tiếp cận công
nghệ mới trong lĩnh vực quảng cáo.
Phạt đến 500 triệu đồng doanh nghiệp gây ô
nhiễm
Chính phủ vừa ban hành Nghị định 117 về xử lý
vi phạm phát luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, theo đó, các cơ sở sản xuất, kinh doanh
dịch vụ có hành vi gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng sẽ bị xử phạt với mức tối đa là
500 triệu đồng, cao hơn nhiều lần so với mức
tối đa 70 triệu đồng hiện nay.
Theo nội dung nghị định mới ban hành sẽ có
hiệu lực từ ngày 1-3-2010, ngoài bị xử phạt vi
phạm hành chính, doanh nghiệp gây ô nhiễm
nghiêm trọng còn bị áp dụng một số biện pháp
xử phạt bổ sung như tước quyền sử dụng giấy
chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường, tạm
ngưng hoạt động sản xuất, buộc khắc phục hậu
quả, di dời đến vị trí khác xa khu dân cư hoặc bị
công khai thông tin về hành vi gây ô nhiễm trên
phương tiện thông tin đại chúng.
Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư chiến lược vào Campuchia
ĐỐI THOẠI CHÍNH SÁCH
5
Mở rộng đầu tư ra nước ngoài là một chủ trương lớn của Chính phủ trong thời kỳ hội nhập và phải mất
nhiều năm mới có được những bước đi ban đầu. Riêng Campuchia vừa là thị trường nhiều tiềm năng
với doanh nghiệp Việt Nam do có nhiều thuận lợi về điều kiện địa lý, có quá trình quan hệ làm ăn lâu
dài, nhưng đồng thời là thị trường chịu nhiều áp lực cạnh tranh với sự hiện diện của doanh nghiệp
Trung Quốc và Thái Lan.
Trên thị trường này, chúng ta đã có những bước đi
như thế nào?
Cho đến năm 2009 trở về trước, Viettel đã là nhà
đầu tư Việt Nam lớn nhất ở Campuchia với số vốn
đầu tư 200 triệu USD. Không một mạng điện thoại
di động nào vào lúc ấy có thể cạnh tranh với
Viettel về thị phần. Bây giờ Viettel vẫn đứng đầu
thị trường cung cấp dịch vụ viễn thông ở đất nước
chùa Tháp, nhưng doanh nghiệp này không đơn
độc nữa bởi sau lưng Viettel có cả một hệ thống
hỗ trợ của Chính phủ và các bộ ngành Việt Nam.
Chỉ trong vòng chưa đầy sáu tháng qua, Việt Nam
đã thể hiện một chiến lược đầu tư sâu rộng, mang
tính bài bản, liên kết và then chốt ở Campuchia
với sự tham gia của nhiều tập đoàn quốc doanh.
Cơ hội cho một trang mới trong quan hệ hợp tác
đầu tư giữa Việt Nam và Campuchia đã khởi
động.
Sự ra đời của một hiệp hội
Thủ tướng Campuchia Hun Sen dự lễ khởi công Nhà máy sản xuất
phân bón của Tập đoàn Quốc tế Năm Sao (tháng 12-2009)
Công ty Việt Nam xuất khẩu hàng tiêu dùng vào
Campuchia ngay từ cuối năm 2008 đã nhận ra sức
tiêu thụ của thị trường nước láng giềng này tăng
mạnh. Người dân Campuchia vốn quen sử dụng
hàng hóa nhập khẩu từ Thái Lan, đã chuyển sang
dùng hàng Việt Nam. Dạo quanh một vòng các
cửa hàng, cửa hiệu trên các đường phố chính ở thủ
đô Phnôm Pênh dễ dàng nhìn thấy hàng Việt Nam
bày bán.
Đó cũng là thời điểm đoàn cán bộ tiền trạm của
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển (BIDV) bắt đầu
những chuyến đi thăm dò cơ hội đầu tư ở đất nước
chùa Tháp. BIDV được chỉ đạo tìm mua một ngân
hàng Campuchia và tạo dựng cơ sở nhằm hỗ trợ
các doanh nghiệp trong nước sang đây đầu tư.
6
Một thời gian ngắn sau đó, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Campuchia, ngân hàng con 100% vốn
của Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển
Campuchia (đây là công ty 100% vốn của BIDV)
ra đời với mục đích là kênh kết nối thanh toán
giữa hai nền kinh tế và hỗ trợ tài chính các công ty
Việt Nam làm ăn, đầu tư ở nước sở tại.
Chính phủ tiến thêm một bước khi ban hành công
văn số 29TTg-QHQT ngày 16-7-2009 giao cho
BIDV xây dựng đề án thành lập Hiệp hội các nhà
đầu tư Việt Nam sang Campuchia. Đích thân Bộ
Kế hoạch và Đầu tư tham gia chỉ đạo quá trình ra
đời của hiệp hội.
Trước ngày diễn ra Hội nghị Xúc tiến đầu tư của
Việt Nam vào Campuchia tại TP. Hồ Chí Minh
ngày 26-12-2009, Hiệp hội các nhà đầu tư Việt
Nam sang Campuchia chính thức tổ chức đại hội
nhiệm kỳ 1 với 44 thành viên doanh nghiệp và hai
cá nhân. Trong số các hội viên của Hiệp hội có
những tên tuổi lớn như Tập đoàn Dầu khí, Tập
đoàn Than - Khoáng sản, Tổng công ty Lương
thực miền Nam, Vietnam Airlines, Tổng công ty
Du lịch Sài Gòn, Tập đoàn Quốc tế Năm Sao,
Hoàng Anh Gia Lai...
Tập trung vào ba mảng hoạt động chính gồm cung
cấp thông tin về các chính sách kinh tế của Nhà
nước Campuchia cũng như sự phát triển của nước
này cho các doanh nghiệp Việt Nam; hỗ trợ liên
doanh liên kết; hỗ trợ pháp lý, tư vấn, bảo vệ
quyền lợi của hội viên, sự xuất hiện của hiệp hội
phát đi tín hiệu giai đoạn đầu tư kinh doanh lẻ tẻ,
mạnh ai nấy làm của các công ty Việt Nam vào
Campuchia đang dần kết thúc.
Ở vai trò tập hợp tiếng nói chung của giới doanh
nghiệp quan tâm đến thị trường Campuchia, đề
xuất các kiến nghị với Chính phủ hai nước, Hiệp
hội tham gia các chương trình an sinh xã hội, hỗ
trợ Việt kiều và bắt tay vào làm công trình nghiên
cứu đánh giá môi trường đầu tư nước này. Dự kiến
năm tới, số thành viên của Hiệp hội sẽ tăng lên 70
đơn vị.
Kinh tế tư nhân là đầu tàu tăng trưởng
Ông Nguyễn Xuân Trung, Phó cục trưởng Cục
Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cho
biết: từ năm 1989 đến nay Việt Nam đã cấp phép
đầu tư ra nước ngoài tại 50 vùng lãnh thổ với tổng
số vốn đăng ký 7 tỉ USD, trong đó vào Campuchia
là 883 triệu USD. Riêng năm 2009 Việt Nam đầu
tư vào Campuchia 400 triệu USD, chủ yếu trong
các lĩnh vực khoáng sản, cây công nghiệp, điện,
viễn thông, ngân hàng.
Việt Nam đã nhanh chóng vươn lên vị trí đối tác
thương mại thứ sáu của Campuchia với kim ngạch
buôn bán hai chiều đạt 1,7 tỉ USD năm 2010. Đặc
biệt trong lĩnh vực đầu tư, năm nay vốn bình quân
một dự án của Việt Nam tại đây đã tăng từ 5,4 lên
14,2 triệu USD.
Vì sao thị trường Campuchia lại thu hút sự chú ý
của Việt Nam đến vậy? Vì Campuchia xác định rõ
kinh tế tư nhân là đầu tàu tăng trưởng. Thủ tướng
7
Hun Sen khẳng định trong Hội nghị xúc tiến đầu
tư của Việt Nam vào Campuchia mới đây rằng
Chính phủ Hoàng gia là những nhà hoạch định
chiến lược, quản lý sự phát triển, đảm bảo tạo môi
trường kinh doanh tốt và nhất là đạt được sự công
bằng, ổn định, có tính dự báo đối với kinh tế tư
nhân.
Ngay từ năm 1999, Chính phủ Hoàng gia đã tổ
chức diễn đàn đối thoại giữa Chính phủ và khu
vực tư nhân nhằm thông báo những ý tưởng của
chính phủ với tư nhân, đồng thời tìm hiểu, giải
quyết những tồn tại của khu vực này. Diễn đàn
diễn ra hai lần/năm dưới sự chủ trì của Thủ tướng
và các vấn đề của diễn đàn được coi là cuộc họp
mở rộng của Hội đồng Bộ trưởng. Thủ tướng Hun
Sen kêu gọi các doanh nghiệp Việt Nam tham gia
diễn đàn này.
Hiện tại Campuchia đang thực hiện một chính
sách kinh tế mở khá thông thoáng với tất cả các
nhà đầu tư, không phân biệt nước ngoài hay trong
nước. Họ mở cửa cả những lĩnh vực nhạy cảm như
bảo hiểm, viễn thông, ngân hàng... vốn là những
lĩnh vực mà nhiều quốc gia khác yêu cầu phải có
doanh nghiệp nội địa tham gia góp vốn. Thủ tướng
Hun Sen thậm chí cam kết biến Campuchia thành
nước có môi trường kinh doanh tốt nhất khu vực
và đảm bảo với các nhà đầu tư về một môi trường
có lợi và thúc đẩy đầu tư.
Tầm nhìn không chỉ từ lợi ích kinh tế
Thủy điện, dầu khí, khai khoáng, trồng cao su là
bốn lĩnh vực được các doanh nghiệp Việt Nam
chú trọng khi đầu tư vào Campuchia. Rút kinh
nghiệm việc triển khai các dự án trồng cao su ở
Lào, các công ty Việt Nam vừa kiến nghị Chính
phủ Campuchia cho phép đưa nhân lực Việt sang
làm việc với tỷ lệ khoảng 10% người Việt trong
tổng số lao động của một dự án. Diện tích trồng
cao su, đặc biệt đất rừng dọc theo tuyến biên giới
Việt Nam - Campuchia mà phía Việt Nam đề nghị
được giao nhận thêm khoảng 300.000-500.000ha.
Sự có mặt của lao động người Việt sẽ đẩy tiến độ
trồng cao su nhanh hơn do không chỉ kỹ thuật
trồng, canh tác mà còn do khả năng tài chính của
các đơn vị Việt trả lương công nhân bằng tiền
Việt. Ở Lào việc trồng và canh tác cao su của các
công ty Việt gặp sự cạnh tranh quyết liệt của các
doanh nghiệp Trung Quốc do nước này đã chủ
động đưa nhân công sang làm việc tại chỗ, trong
khi Việt Nam thuê nhân công Lào.
Sự cạnh tranh trong thăm dò và khai thác dầu khí
ở Campuchia cũng không kém phần gay cấn từ khi
nước này phát hiện ra trữ lượng khí và dầu đáng
kể. Đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có
công thư giới thiệu Petro Vietnam với các bộ,
ngành Campuchia và ngày 13-11-2009 bản hợp
tác khảo sát, thăm dò dầu khí Lô 15 tại Biển Hồ
trên diện tích 6.900km2, thời hạn 30 năm với dầu
và 35 năm với khí, giữa Petro Vietnam và đối tác
nước bạn đã được ký kết.
8
Trong khai khoáng, Việt Nam và Campuchia đã
liên doanh thành lập Công ty Alumina khảo sát,
thăm dò, đầu tư nhà máy sản xuất alumin trên diện
tích 1.254km2. Việt Nam cũng cam kết đẩy nhanh
tiến độ dự án thủy điện Stung Treng công suất
980MW. Trong hành trang kinh doanh ở
Campuchia, các doanh nghiệp Việt đặt lên đầu
mục tiêu “giúp bạn cũng là giúp mình”; “win-win”
(cùng có lợi, cùng thắng); và “lời hứa đi đôi với
việc làm”.
Campuchia có một vị trí chiến lược sống còn với
Việt Nam trong hầu hết các lĩnh vực, nhất là kinh
tế. Ở giai đoạn mới của đất nước này sau khi gia
nhập WTO, việc đầu tư vào Campuchia đòi hỏi
không chỉ khả năng tài chính, mà đi kèm là một cơ
chế linh hoạt đủ sức hỗ trợ các doanh nghiệp. Một
Hiệp định kết nối hai nền kinh tế Việt - Cam,
tương tự hiệp định Việt Nam đã ký với Singapore,
là điều doanh nhân hai nước đang chờ đợi.
Ngoài ra, nguồn tin từ giới tài chính cho biết,
Chính phủ Việt Nam đã có chủ trương thiết lập
Quỹ Đầu tư hải ngoại. Một sự phê chuẩn sớm để
quỹ ra đời trong quý I-2010 là cần thiết bởi đầu tư
sang các quốc gia láng giềng như Lào và
Campuchia không chỉ mang lại lợi ích thiết thực
về kinh tế, mà còn có ý nghĩa rộng lớn hơn, bảo vệ
lợi ích trong những lĩnh vực khác của Việt Nam.
Ba năm VN gia nhập WTO: Nông sản có mất chỗ trên sân nhà? Ngày 11-1, đánh dấu ba năm VN là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bài học nào đã
được rút ra sau khoảng thời gian này? Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Phạm Quang Diệu - chuyên gia nông
nghiệp, Viện Chiến lược và chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn (Bộ NN-PTNT) - cho biết:
- Có thể nói tác động của WTO đối với VN không
quá rõ rệt trong thời gian qua, chính bởi vì nó bị lu
mờ trước tác động của khủng hoảng tài chính. Tuy
vậy, cuộc khủng hoảng vừa qua cũng đem lại
những bài học bổ ích, đòi hỏi chúng ta phải thay
đổi để hội nhập tốt hơn.
Thứ nhất, chính khủng hoảng đã làm lộ rõ nhất
những yếu kém của nền kinh tế và những ngành
hàng VN như sức cạnh tranh của hàng Việt, khả
năng đáp ứng và thiết lập các tiêu chuẩn kỹ thuật
(SPS) trong xuất nhập khẩu hàng hóa, năng lực
của các cơ quan trong việc kiểm soát hàng nhập
khẩu đảm bảo sức khỏe cho người dân như thịt,
rau quả...
Thứ hai, khủng hoảng như một cảnh báo sớm đối
với quá trình hội nhập. Những khó khăn này
không xảy ra bây giờ cũng sẽ xảy ra trong tương
lai. Sau khi giảm thuế, các nước dựng lên nhiều
hàng rào kỹ thuật ngăn chặn hàng nhập khẩu để
kích thích sản xuất trong nước.
9
* Do việc cắt giảm thuế đột ngột và thiếu hàng
rào kỹ thuật đã khiến thịt nhập khẩu ồ ạt tràn vào
VN trong năm 2009 làm ảnh hưởng đến sản xuất
trong nước, theo ông đây có phải là một ví dụ cho
thấy việc chuẩn bị quá trình hội nhập của chúng
ta chưa tốt?
- Năm 2007, 2008 VN đã thực hiện cắt giảm thuế
suất thuế nhập khẩu thịt cao hơn cả mức cam kết
và nhanh hơn mức cam kết theo lộ trình, cho dù
trước đó khi đàm phán VN đã nỗ lực để nâng được
mức thuế suất lên cao hơn cho nhóm mặt hàng này
nhằm bảo hộ ngành chăn nuôi trong nước.
Có thể giải thích điều này vì chúng ta phải bảo
đảm nguồn cung thịt và thực phẩm cho nhu cầu
tiêu dùng trong nước, được dự đoán sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề bởi đợt rét đậm, rét hại cuối năm
2007 và đầu năm 2008 cũng như kiềm chế lạm
phát.
Tuy nhiên, ngay sau khi thuế nhập khẩu giảm,
lượng nhập khẩu các sản phẩm thịt gia cầm của
VN đã tăng mạnh và gây áp lực mạnh lên ngành
chăn nuôi trong nước, trong đó chủ yếu là các hộ
gia đình, trang trại chăn nuôi gia cầm ở khu vực
nông thôn.
Chỉ đến khi báo chí lên tiếng thì cơ quan chức
năng mới vội vàng điều chỉnh thuế. Hậu quả của
chính sách này là nhiều người nuôi gà phá sản,
trong khi người tiêu dùng phải sử dụng thịt đông
lạnh kém chất lượng. Qua sự việc này cho thấy
các cơ quan nhà nước khá lúng túng trong hội
nhập, cả về chính sách điều chỉnh thuế lẫn xây
dựng các hàng rào kỹ thuật.
* Ở một số lĩnh vực khác mà sản xuất trong nước
cũng có thế mạnh như quần áo, giày dép, thực
phẩm... hàng ngoại được nhập về ồ ạt và chúng ta
chỉ “giật mình” khi có thông tin quần áo nhiễm
chất độc hại?
- Đây là một thực tế cho thấy VN vẫn chưa chuẩn
bị tốt nhất cho quá trình hội nhập. Trong những
năm qua, hàng xuất khẩu của VN luôn bị tác động
bởi các hàng rào phi thuế của các nước, nhưng
ngược lại ở trong nước chúng ta có quá ít tiêu
chuẩn kỹ thuật để hạn chế nhập khẩu và kiểm soát
chất lượng hàng nhập vào VN.
Tôi nghĩ khi gia nhập WTO, nhiều người tiêu
dùng kỳ vọng sẽ có cơ hội được tiếp cận và sử
dụng nhiều mặt hàng giá rẻ hơn, nhưng điều đó
không có nghĩa là chất lượng hàng không thể kiểm
soát được. Chính vì vậy, việc rà soát và xây dựng
các hàng rào kỹ thuật đối với nhiều ngành hàng
hiện nay là hết sức cần thiết, nhằm bảo vệ người
tiêu dùng đồng thời bảo vệ nền sản xuất trong
nước.
10
Lo ngại nhiều mặt hàng nông sản sẽ mất chỗ đứng trên thị
trường khi VN tiếp tục mở cửa hệ thống phân phối
* Gia nhập WTO cũng đồng nghĩa với việc thị
trường xuất khẩu được rộng mở. Nhìn ở góc độ
các mặt hàng nông sản xuất khẩu, ông nhận xét
như thế nào về việc tận dụng cơ hội này?
- Chưa có bằng chứng cho thấy tăng trưởng xuất
khẩu trong các năm qua là do chúng ta tận dụng
được những ưu đãi mà việc gia nhập WTO đem
lại. Xuất khẩu nông sản tăng trong năm 2008 chủ
yếu do sốt giá. Năm 2009 nhiều doanh nghiệp có
thêm các thị trường mới là do chịu áp lực bán
hàng nhiều hơn là tận dụng cơ hội giảm thuế hay
mở cửa của các thị trường.
Hiện nay, các doanh nghiệp vẫn làm theo quán
tính, chưa tận dụng được cơ hội từ WTO đem lại.
Lý do vì họ thiếu thông tin. Thời gian qua Chính
phủ cũng như báo chí thường đưa thông tin cam
kết của VN với nước ngoài nhưng không đưa các
cam kết của các nước khác với VN.
Chúng tôi đã tiếp xúc với một số doanh nghiệp
xuất khẩu chè sang Trung Đông. Họ nói nếu biết
là theo cam kết WTO, các thị trường này giảm
thuế nhập khẩu hàng từ VN thì họ đã đưa vào
trong việc thương thuyết hợp đồng. Điều đó cho
thấy thông tin đến với doanh nghiệp vẫn còn rất
nhiều hạn chế.
Trong cuộc họp đánh giá ba năm VN gia nhập
WTO mới đây, Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ
Huy Hoàng cho biết chỉ 20% doanh nghiệp tận
dụng được lợi thế về thuế quan, xuất xứ hàng hóa.
* Theo lộ trình, thời gian tới VN sẽ tiếp tục mở
cửa thị trường bán lẻ, theo ông ngành nông sản
trong nước sẽ bị ảnh hưởng như thế nào khi các
nhà phân phối nước ngoài bước vào lĩnh vực này?
- Khi gia nhập WTO, người ta hi vọng việc giảm
thuế sẽ làm giảm giá một số sản phẩm, đặc biệt là
thực phẩm. Tuy nhiên, người tiêu dùng VN vẫn
phải chịu một mức giá cao trong thời gian qua.
Thể hiện rõ nhất là việc giảm thuế ngành sữa và
các sản phẩm từ sữa.
Các thị trường như New Zealand, Hoa Kỳ, Úc, Hà
Lan đã tận dụng được cơ hội cắt giảm thuế quan
của VN theo cam kết để tăng giá trị xuất khẩu của
họ vào thị trường VN, nhưng ngược lại giá bán
trong nước vẫn liên tục bị đẩy lên cao.
Điều đáng lo ngại là khi mở cửa cho các hệ thống
bán lẻ thì họ sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh ngành
hàng này do tiềm lực tài chính mạnh mẽ và kỹ
11
năng quản lý cao. Kết hợp với việc giảm thuế
nhập khẩu, các nhà bán lẻ sẽ đưa nông sản từ bên
ngoài vào thay vì lựa chọn hàng trong nước nếu
thấy lợi hơn.
Còn ngay tại các siêu thị VN hiện tại, nông sản
trong nước cũng quá khó để chen chân vào. Nếu
không nhanh chóng đổi mới phương thức sản xuất,
nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu thì
khi các nhà bán lẻ nước ngoài đã đủ mạnh, nông
sản VN sẽ mất chỗ đứng ngay chính sân nhà mình.
* Xin cảm ơn ông.
Doanh nghiệp bán hàng ở nông thôn được hỗ trợ
Năm 2010, chủ trương của Chính phủ là ngoài việc ngân sách Trung ương chi tiền hỗ trợ doanh nghiệp
(DN) Việt trên phương diện truyền thông, với nhóm các doanh nghiệp: dệt may, da giày... còn được hỗ
trợ về thông tin.
Cụ thể, Chính phủ chi tiền để thực hiện khảo sát
thị trường, cung cấp cho các DN về thói quen tiêu
dùng của người ở nông thôn ra sao, thích mua
hàng ở đâu, chủng loại, chất lượng và giá cả ra
sao... Quan điểm của Chính phủ là chỉ hỗ trợ DN
về thông tin. Đây là vấn đề mà các DN nhỏ và vừa
của ta không có điều kiện làm. Việc hỗ trợ như
vậy cũng không trái với những quy định của
WTO.
Thưa ông, những DN nào được tham gia những
chuyến bán hàng về nông thôn? Khi DN tham gia
thì được hỗ trợ những gì?
Với những chuyến bán hàng về nông thôn, miền
núi do nhà nước tổ chức thì Nhà nước sẽ hỗ trợ
DN toàn bộ chi phí đi lại, vận chuyển hàng hóa.
Còn DN muốn tham gia thì điều kiện cũng rất đơn
giản: phải là DN sản xuất hàng Việt, hàng hóa
phải đảm bảo chất lượng. Nếu là hàng thực phẩm
thì phải có giấy chứng nhận về an toàn vệ sinh
thực phẩm...
Tuy nhiên, ở đây nhà
nước chỉ tổ chức điểm
một số chuyến bán hàng
có tính định hướng thôi,
còn thực tế phần lớn là
thực hiện xã hội hóa:
Hiệp hội ngành hàng và
DN tự bỏ tiền ra làm.
Ngoài hỗ trợ gián tiếp, Chính phủ có hỗ trợ DN
chi phí xây dựng thương hiệu?
Ông Võ Văn Quyền
12
Cái này theo tôi được biết thì Bộ Công Thương đã
giao cho Cục Xúc tiến Thương mại để thực hiện
chương trình xây dựng thương hiệu Quốc gia.
Về phía xúc tiến thương mại trong nước, trong
năm nay, Bộ Công Thương cũng sẽ tổ chức một số
chương trình, hội chợ về sản phẩm làng nghề và
nông sản, để giúp những DN này giới thiệu, bán
sản phẩm.
8.000 doanh nghiệp sẽ nộp hồ sơ thuế qua
mạng
Tổng Cục thuế cho biết việc nộp hồ sơ khai thuế
qua mạng trong năm 2009 đã giúp doanh nghiệp
giảm chi phí, thời gian và nhân lực.
Theo Tổng Cục thuế, trong năm 2010, sẽ có
8.000 doanh nghiệp tham gia nộp hồ sơ thuế qua
mạng.
Các doanh nghiệp tham gia thực hiện chương
trình này ở 10 địa phương là Hà Nội, Thành phố
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bà Rịa-Vũng Tàu,
Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Khánh Hòa,
Đồng Nai và Bình Dương.
Trong số đó, Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
là hai địa phương có số lượng doanh nghiệp tham
gia nhiều nhất với 3.000 doanh nghiệp tham gia,
tiếp theo là Đà Nẵng và Bà Rịa-Vũng Tàu có 400
đơn vị tham gia.
Để thực hiện được mục tiêu đặt ra, ngành thuế
từng bước hoàn thiện, khắc phục các lỗi ứng dụng
của hệ thống phần mềm nộp hồ sơ khai thuế qua
mạng hiện thời. Đơn vị cũng xây dựng tiêu chuẩn
cho phép kết nối được với đại lý thuế cung cấp
dịch vụ kê khai qua mạng.
Tổng Cục thuế cho biết việc nộp hồ sơ khai thuế
qua mạng trong năm 2009 đã giúp doanh nghiệp
giảm chi phí, thời gian và nhân lực.
Theo đó, các doanh nghiệp sẽ không phải in tờ
khai và bảng kê bằng giấy, giảm nhân lực, chi phí
lưu trữ và thời gian đi lại. Cơ quan thuế còn giảm
thời gian tiếp nhận tờ khai, việc xử lý hồ sơ cũng
thuận tiện.
Năm 2009, đã có 435 doanh nghiệp được cung
cấp tài khoản sử dụng dịch vụ nộp hồ sơ khai
thuế qua mạng. Trong đó có 39 doanh nghiệp nhà
nước, 118 doanh nghiệp cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, 108 doanh nghiệp liên doanh
nước ngoài, 62 doanh nghiệp ngoài quốc doanh,
còn lại là các loại hình doanh nghiệp khác.
Tổng số tờ khai đã nộp qua mạng là 2.108 tờ. Các
loại tờ khai chủ yếu là giá trị gia tăng, thu nhập
TRIỂN VỌNG THỊ TRƯỜNG
13
doanh nghiệp, tiêu thụ đặc biệt, tài nguyên, thu
nhập cá nhân, tờ khai thuế nhà thầu nước ngoài.
Trong đó, số tờ khai nộp của các doanh nghiệp
thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội
chiếm trên 85% tổng số toàn bộ tờ khai.
Nhiều doanh nghiệp tính chuyện tăng giá bán
Thời gian dự kiến tăng giá bán vào khoảng đầu
quý 2 tới với mức tăng từ 5-15%.
Dưới sức ép của việc tăng giá nhiều loại nguyên
liệu đầu vào, nhiều doanh nghiệp sản xuất các
mặt hàng thiết yếu đang tính chuyện tăng giá bán
sản phẩm.
Các doanh nghiệp cho biết việc tăng giá bán là
điều không thể tránh khỏi dù đã chấp nhận giảm
lợi nhuận và tiết kiệm tối đa chi phí sản xuất. Vấn
đề là phải tính toán thời điểm và mức tăng để
không gây khó khăn cho người tiêu dùng.
Sức ép từ điện, nước, nguyên liệu
Ông Cao Tiến Vị, Chủ tịch Hội đồng quản trị
Công ty Giấy Sài Gòn, cho biết biến động tỷ giá
giữa đồng đô la Mỹ và đồng Việt Nam đã làm
tăng khoảng 2% giá nguyên liệu nhập khẩu trong
thời gian vừa qua. Hiện tại, Công ty Giấy Sài
Gòn nhập khẩu khoảng 10% giấy nguyên liệu
phục vụ sản xuất. “Đây là tỷ lệ đã được điều
chỉnh sau khi có những biến động về tỷ giá. Thời
điểm một hai năm trước, tỷ lệ này phải ở mức
khoảng 30%”, ông Vị nói thêm.
Cũng theo ông Vị, bên cạnh sức ép về tỷ giá,
ngành sản xuất giấy với đặc trưng sử dụng nhiều
nước, điện nên cũng sẽ chịu tác động mạnh của
việc tăng giá của hai mặt hàng này. Ông tính
toán: “Giá điện, nước tăng trung bình 7%, giá
thành đơn vị sản phẩm giấy cũng sẽ tăng thêm
gần 1%. Con số này xét trên từng đơn vị sản
phẩm là nhỏ nhưng với chi phí sản xuất của toàn
công ty sẽ rất lớn, phải tính bằng tiền tỉ”.
Theo tính toán của ông Phan Văn Thiện, Phó tổng
giám đốc Công ty cổ phần Bibica, tổng chi phí
sản xuất tại đây đang tăng 5-7% so với trước.
“Giá mua sữa, hương liệu, phụ gia tại thị trường
nước ngoài tăng, cùng với việc tỷ giá biến động
đã làm tăng 20% giá nguyên liệu nhập khẩu.
Trong khi đó, chi phí điện toàn công ty và nhà
máy tăng thêm khoảng 200 triệu đồng mỗi
tháng”, ông Thiện nói.
Ở ngành may mặc, nhiều doanh nghiệp cho biết,
từ đầu tháng 3 giá vải do các công ty trong nước
cung cấp cũng như vải nhập ngoại đều tăng 10-
20%, cộng với các yếu tố khác như điện, nước,
lương nhân viên đều tăng đã khiến giá thành sản
phẩm tăng 15- 25%. “Chưa hết, chính các siêu thị
lấy hàng cũng đang đòi tăng chiết khấu lên 1-
1,5% vì các lý do chi phí điện, nước, lương nhân
viên tăng”, một nhà sản xuất chuyên cung cấp
hàng quần áo công sở cho siêu thị nói.
Giảm lãi, tiết kiệm nhưng vẫn phải tăng giá
14
Các doanh nghiệp khẳng định, việc tăng giá bán
là điều không thể tránh khỏi dù đã chấp nhận
giảm lợi nhuận và tiết kiệm tối đa chi phí sản
xuất. Vấn đề là phải tính toán thời điểm và mức
tăng để không gây sốc đối với người tiêu dùng.
Ông Thiện của Bibica cho hay, việc điều chỉnh
quy trình sản xuất, tiết kiệm chi phí điện, nước…
hiện đã được tăng cường tại các nhà máy nhưng
chỉ mới giảm được khoảng 2-3% giá thành,
không đủ bù vào tổng mức tăng. "Biết là sẽ giảm
sức mua, nhất là đang mùa thấp điểm như hiện
nay nhưng chúng tôi phải điều chỉnh giá bán, dự
kiến vào đầu quý 2 với mức tăng 5%”, ông Thiện
nói.
Theo ông Nguyễn Hữu Toàn, phụ trách nhãn
hàng thời trang công sở Sanding, trong tình thế
này doanh nghiệp phải chấp nhận giảm lãi, đưa ra
mức tăng giá vừa phải để người tiêu dùng chấp
nhận được chứ không thể tăng tương đương như
mức tăng của giá thành. “Chiếc ví của người tiêu
dùng đang bị xẻ nhỏ cho nhiều khoản chi tiêu,
trong đó phần cho điện, nước, lương thực-thực
phẩm đang tăng lên. Điều đó cũng có nghĩa là
nhu cầu mua sắm quần áo sẽ bị xếp sau nhiều thứ
khác. Nếu tăng giá cao, người tiêu dùng hạn chế
mua sắm thì hệ quả tất yếu là doanh số giảm. Lúc
đó lại thêm một áp lực nữa”, ông Toàn phân tích.
Theo dự kiến, mức tăng ở Sanding là 10-15% và
bắt đầu áp dụng từ đầu tháng 4.
Đại diện Công ty Giấy Sài Gòn khẳng định, trong
ngắn hạn chưa có kế hoạch tăng giá nhằm giữ
chân người tiêu dùng giữa lúc họ đang chịu quá
nhiều tác động khác. "Tuy nhiên, việc tăng giá
chắc chắn là không tránh khỏi và dự kiến sẽ vào
khoảng giữa năm nay", ông Vị cho biết.
Theo nhận định của ông Lý Trường Chiến, Chủ
tịch Trí Tri Corp, chuyên gia tư vấn tái cấu trúc
và quản trị chiến lược phát triển doanh nghiệp, xu
hướng tăng giá của các mặt hàng trong năm nay
sẽ không quá tập trung mà dàn trải. Hàng nội hóa
và hàng tiêu dùng nhanh sẽ tăng trong khoảng
quý 1 và 2, trong khi hàng nhập khẩu nhiều khả
năng sẽ tăng tính thích ứng bằng cách điều chỉnh
theo cơ chế linh hoạt theo tỷ giá ngoại tệ. Vào
quý 3 và đặc biệt quý 4, giá có tăng lần 2 hay
không còn phụ thuộc vào tỷ giá ngoại tệ và cán
cân cung cầu cho từng nhóm mặt hàng. Tính trọn
năm 2010 mặt bằng giá sẽ tăng xấp xỉ 10%.
Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị
trường châu Âu
Ngày 17/3, tại diễn đàn “Hỗ trợ thương mại Việt
Nam - Phần Lan” Thứ trưởng Bộ Công thương
Lê Danh Vĩnh khẳng định các cơ chế pháp lý và
công cụ hỗ trợ của chính phủ Phần Lan sẽ ngày
càng tốt hơn để giúp chuyển tiếp nền kinh tế Việt
Nam thành nền kinh tế thị trường đầy đủ. Bộ
Công thương khuyến khích và sẵn sàng hỗ trợ các
doanh nghiệp Phần Lan tham gia đầu tư vào các
dự án công nghiệp tại Việt Nam.
15
Đại sứ Phần Lan tại Việt Nam, ông Pekka
Hyvone, khẳng định Phần Lan sẽ cung cấp nhiều
biện pháp hỗ trợ thiết thực cho Việt Nam thông
qua các dự án.
Chỉ thị số 03/CT-BCT về Tăng cường kiểm tra, kiểm soát đảm bảo bình ổn giá cả, thị trường
trước, trong và sau Tết Nguyên đán Canh Dần 2010
Thực hiện Chỉ thị số 2008/CT-TTg ngày 01 tháng 12 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường thực hiện các giải pháp thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, bình ổn thị trường và phục vụ Tết
Nguyên đán Canh Dần 2010, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 09/CT-BCT ngày 19 tháng 10 năm 2009
của Bộ Công Thương về công tác phục vụ Tết Nguyên đán Canh Dần năm 2010, Bộ trưởng Bộ
Công Thương yêu cầu các Giám đốc Sở Công Thương, Chi cục trưởng các Chi cục Quản lý thị
trường các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức thực hiện gấp các công việc sau:
1. Các Sở Công Thương:
- Tiến hành rà soát, kiểm tra chặt chẽ các doanh nghiệp được phân công tham gia dự trữ hàng
hóa phục vụ Tết về tiến độ thực hiện, số lượng hàng hoá thiết yếu cần dự trữ, nhất là các mặt hàng
lương thực, thực phẩm, đảm bảo khối lượng, chất lượng để phục vụ nhân dân trên địa bàn với giá
hợp lý, góp phần bình ổn thị trường trong dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán.
- Nắm rõ tình hình giá cả, diễn biến cung cầu thị trường hàng hoá trên địa bàn, đặc biệt là các
địa bàn trọng điểm, kịp thời có biện pháp điều chuyển hàng hoá đến các địa bàn vùng sâu, vùng xa,
không để xảy ra tình trạng khan hiếm.
- Phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, các cơ quan báo chí trên địa bàn thực hiện tốt
công tác thông tin, tuyên truyền để người dân và doanh nghiệp hiểu rõ và ủng hộ các chủ trương,
giải pháp của Đảng và nhà nước, về thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong nước, bình ổn giá cả, thị
trường; yêu cầu các hộ kinh doanh cam kết niêm yết giá và bán đúng giá niêm yết, không tăng giá
nếu không có lý do xác đáng, không kinh doanh hàng cấm, hàng nhập lậu, hàng kém chất lượng; kịp
thời phát hiện, ngăn chặn và có biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật đối với các hành vi tung
thất thiệt làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất, kinh doanh thị trường và tâm lý người tiêu dùng.
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH
16
2. Lực lượng Quản lý thị trường:
- Tăng cường kiểm tra các đối tượng kinh doanh trên địa bàn, đặc biệt là các chợ, nơi tập
trung và phát luồng hàng hoá, trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng, quầy hàng bán lẻ cũng như
các địa điểm kinh doanh trong việc tuân thủ các quy định về giá, đặc biệt là đối với các mặt hàng
tiêu dùng thiết yếu của nhân dân như thực phẩm tươi sống, gạo, rau củ quả, thịt, cá, thực phẩm chế
biến (rượu, bia, nước giải khát, sữa, thực phẩm đóng hộp, thực phẩm đông lạnh), xăng dầu, gas…
ngăn chặn việc lợi dụng để nâng giá nhằm mục đích trục lợi, ngăn chặn việc đầu cơ găm hàng, tăng
giá bất hợp pháp.
- Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng tại địa phương như Công an, Bộ đội biên
phòng, Y tế, Thanh tra chuyên ngành tăng cường kiểm tra, kiểm soát chống buôn bán hàng cấm,
hàng nhập lậu, hàng giả, gian lận trong đo lường đo lường, chất lượng; tập trung kiểm tra kiểm soát
công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất, chế biến và kinh doanh thực
phẩm. Các hành vi vi phạm phải được xử lý nghiêm và kịp thời theo quy định của pháp luật.
- Tăng cường kiểm tra kiểm soát hoá đơn chứng từ theo quy định tại Thông tư liên tịch số
12/2007/TT-BTC-BTM-BCA ngày 28 tháng 02 năm 2007 về việc hướng dẫn chế độ hoá đơn, chứng
từ đối với hàng hoá nhập khẩu lưu thông trên thị trường, tránh tình trạng lợi dụng để vận chuyển
hàng lậu, hàng giả.
- Tập trung kiểm tra, kiểm soát các hành vi lợi dụng để đưa hàng nhập lậu, hàng giả, hàng
kém chất lượng vào tiêu thụ trong các hội chợ, đợt bán hàng do các tổ chức và doanh nghiệp thực
hiện (tuần hàng Việt Nam, Tháng hàng Việt Nam, các phiên chợ lưu động…), thực hiện tốt cuộc vận
động về “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
Yêu cầu các Sở Công Thương, Chi cục Quản lý thị trường thường xuyên báo cáo diễn biến
tình hình, nhất là những vấn đề nổi cộm trên địa bàn về Bộ Công Thương (Cục Quản lý thị trường –
91 Đinh Tiên Hoàng - Điện thoại: 04.38255834 – Fax: 04.39342726 – Email: [email protected]; Vụ
Thị trường trong nước – 54 Hai Bà Trưng – Fax: 04.2205510 – Email: [email protected]) để Bộ
có hướng xử lý kịp thời./.
BỘ TRƯỞNG Vũ Huy Hoàng
(Đã ký)
17
Danh mục phát hành Bản tin Đối thoại chính sách và DN
I. Nhóm hỗ trợ phát triển quốc tế (ISG) của bộ nông nghiệp 1. TS. Bùi Bá Bổng, Thứ trưởng Bộ NN và PTNT, Chủ tịch Ban điều hành ISG
2. TS. Lê Văn Minh, Vụ trưởng Vụ Hợp tác Quốc tế, Bộ NN và PTNT; Phó Chủ tịch Ban
điều hành
3. Ông Lã Văn Lý, Cục trưởng Cục Hợp tác xã và PTNT, Bộ NN và PTNT
4. Ông Trang Hiếu Dũng, Vụ trưởng Kế hoạch, Bộ NN và PTNT
5. Ông Nguyễn Trí Ngọc, Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NN và PTNT
6. Ông Nguyễn Đăng Vang, Cục trưởng Cục Chăn nuôi, Bộ NN và PTNT
7. Ông Nguyễn Ngọc Bình, Cục trưởng Cục Lâm nghiệp, Bộ NN và PTNT
8. Ông Phạm Xuân Sử, Cục trưởng Cục Thuỷ lợi, Bộ NN và PTNT
9. Ông Vũ Trọng Hà , Vụ trưởng Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ NN và PTNT
10. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Cán bộ xây dựng chính sách, Văn phòng liên lạc IFAD
11. Ông Nguyễn Văn Thân, Q.Vụ trưởng Vụ Tài chính, Bộ NN và PTNT
12. Ông Triệu Văn Hùng, Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ, Bộ NN và PTNT
13. Ông Đào Quang Thu, Vụ trưởng Vụ Kinh tế Nông nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư
14. Bà Nguyễn Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Tài chính Đối ngoại, Bộ Tài chính
II. Viện Chính sách và Chiến lược NNPTNT (IPSARD) 1. TS. Đặng Kim Sơn, Viện trưởng IPSARD
2. TS. Nguyễn Đình Long, Viện phó IPSARD,
3. TS. Dương Ngọc Thí, Viện phó IPSARD
4. Các phòng ban/đơn vị trực thuộc IPSARD
III. Cơ quan hợp tác quốc tế Tây Ban Nha 1. Ban quản lý dự án Hỗ trợ phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa SMEs- Tây Ban Nha
IV. Các hiệp hội 1. Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa ngành nghề nông thôn Việt Nam (varisme)
2. Hiệp hội DN NVV Việt Nam (vinasme)
3. Hiệp hội ngành hàng (cà phê, hồ tiêu, thủy sản, chăn nuôi, lương thực,…)
4. Hiệp hội làng nghề
V. Doanh nghiệp (đối tác thông tin của AGROINFO và các Doanh nghiệp có quan tâm) VI. Các đối tác khác có liên quan trong nội dung bản tin