sơ thảo lược sử công tác tư tưởng của Đcs việt...
TRANSCRIPT
CHƯƠNG ICÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG THỜI KỲ ĐẢNG LÃNH ĐẠO ĐẤU
TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN (1930 - 1945)
I. SỰ TRUYỀN BÁ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO VIỆT NAM
VÀ VIỆC THÀNH LẬP ĐẢNG
Từ khi đế quốc Pháp xâm lược nước ta năm 1858, nhân dân ta đã không
ngừng đấu tranh bằng nhiều hình thức, tiến hành nhiều cuộc khởi nghĩa, anh
dũng đứng lên chống xâm lược, giành độc lập, tự do nhưng chưa đạt được thắng
lợi do chưa tìm được đường đi đúng đắn. Giữa lúc phong trào yêu nước gặp
khủng hoảng về con đường cứu nước thì Cách mạng Tháng Mười Nga nổ ra, mở
đầu thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. “Như ánh mặt trời rạng đông xua tan bóng tối, cuộc Cách mạng Tháng
Mười đã chiếu rọi ánh sáng mới vào lịch sử loài người”[1]. Cách mạng Tháng
Mười đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng vô sản và phong trào giải phóng
của các dân tộc bị áp bức.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên được Cách mạng
tháng Mười thức tỉnh, đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đồng chí là nhà cách mạng đầu tiên ở nước ta vượt qua chủ nghĩa yêu nước của
các sĩ phu và các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, mở đường giải
quyết cuộc khủng hoảng lịch sử, tìm ra con đường cứu nước.
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm con đường cứu nước từ năm 1911, trực tiếp tham
gia cuộc sống lao động và đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động ở các nước tư bản và thuộc địa. Trải qua mười năm (1911- 1920) nghiên
cứu, học tập, quan sát, và tham gia đấu tranh, đồng chí đã tìm ra chân lý cách
mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác - Lênin, thấy được muốn giải phóng dân tộc
mình không có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản. Khi đọc Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa, đồng chí đã thấy được phương hướng giải quyết cho những vấn đề mà mình
nung nấu từ lâu. Đồng chí đã thấy rõ “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc,
không có con đường nào khác là con đường cách mạng vôn sản”[2], “Chỉ có 1
chủ nghĩa Cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt
chủng loại và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả
đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh
phúc…”[3], Đồng chí là một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp
và là người cộng sản đầu tiên của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Đồng chí cũng là người Việt Nam đầu tiên truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào
trong nước và phác thảo ra con đường cứu nước đúng đắn cho nhân dân ta…
Năm 1921, ở Paris, đồng chí tham gia sáng lập “Hội liên hiệp thuộc địa”, ra báo
Người cùng khổ bằng tiếng Pháp tuyên truyền và tập hợp lực lượng chống đế
quốc trong các thuộc địa và tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Cũng từ năm
1921, đồng chí bắt tay viết tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, tác phẩm có
12 chương, một số chương đã đăng trên báo Người cùng khổ. Tác phẩm được
Hiệu sách Lao động (Librairie du travail) ở Pari xuất bản lần đầu tiên năm 1925.
Đó là bản cáo trạng tố cáo chế độ thực dân Pháp, vạch rõ tội ác xấu xa và sự lừa
bịp của bọn thực dân ở các thuộc địa, mô tả hình thù của chủ nghĩa tư bản: “Chủ
nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc
và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật
ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[4]. Bản án chế độ thực dân Pháp
cũng vạch rõ sức mạnh to lớn của cách mạng giải phóng dân tộc, chỉ cho các
dân tộc thuộc địa con đường của Cách mạng Tháng Mười. Đối với nước ta, đây
là tác phẩm có tính chất lý luận cách mạng đầu tiên của Việt Nam, xác định
phương hướng tư tưởng mới cho phong trào cách mạng Việt Nam, phương
hướng đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng Tháng Mười, Bản án chế
độ thực dân Pháp và báo Người cùng khổ đã góp phần quan trọng nâng cao giác
ngộ cách mạng cho công nhân và nhân dân lao động nước ta; giúp cho trí thức
yêu nước ở nước ta hướng vào tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin và Cách mạng
Tháng Mười, hình thành tư tưởng cách mạng vô sản của phong trào yêu nước.
Cuối năm 1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu với tư cách là
Uỷ viên Bộ Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, phụ trách Cục Phương Nam. Ở
đây, đồng chí cùng với các nhà cách mạng Trung Quốc và một số nước khác ở
2
châu Á sáng lập ra “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”, đồng thời
tìm cách truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước.
Tháng 6 -1925, đồng chí thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
gồm những thanh niên Việt Nam yêu nước nhiệt thành và được giác ngộ bước
đầu về chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong hội có tổ chức trung kiên làm nòng cốt là
Cộng sản đoàn.
Tổng bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra tuần báo Thanh niên làm
cơ quan tuyên truyền của Hội. Trong thời gian từ tháng 6-1925 đến tháng 4-
1927, báo do đồng chí Nguyễn Ái Quốc trực tiếp phụ trách và ra được 88 số. Số
1 ra ngày 21-6-1925. Mỗi số in khoảng 100 bản ở Quảng Châu rồi chuyển về
nước theo đường bí mật. Cơ sở ở trong nước chép thêm thành nhiều bản khác để
lưu hành. Đây là tờ báo tiếng Việt đầu tiên do người Việt Nam viết để phục vụ
sự nghiệp cách mạng của người Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của báo chí cách
mạng Việt Nam. Nó cũng là tờ báo tiếng Việt đầu tiên đưa quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin truyền bá trong những người yêu nước Việt Nam. Tiếp theo
cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp và báo Người cùng khổ, báo Thanh niên đã
bước đầu giới thiệu một thế giới quan mới, một con đường cách mạng mới và
một mẫu người chiến sĩ cách mạng mới.
Trong nhiều số báo, bằng nhiều cách diễn đạt dễ hiểu, báo đã trình bày cách
mạng Thanh niên, thường xuyên tố cáo tội ác và các thủ đoạn lừa bịp của thực
dân Pháp và tay sai bằng các dẫn chứng cụ thể, kêu gọi nhân dân đứng dậy tự
giải phóng cho mình. Báo đã phê phán các tư tưởng gây trở ngại cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc như: bị áp bức bóc lột khốn khổ nhưng chỉ biết than thân,
trách phận, đổ tại số trời hoặc chờ đợi “minh quân” xuất hiện, coi thường công
nông, ỷ lại, người này chờ đợi người khác, không biết rằng mình không giúp
mình thì không ai giúp được mình, v.v...
Báo cũng nêu cốt cách của người cách mạng, trước hết là đức tính hy sinh
vì nhân dân, vì cách mạng.
Cùng với việc trực tiếp phụ trách báo Thanh niên, đồng chí Nguyễn Ái
Quốc đã mở được 10 lớp huấn luyện cho hơn 200 cán bộ, đào tạo họ thành
3
những người cách mạng Việt Nam đầu tiên tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin
vào trong nước, một số sau đó được cử sang học Trường Đại học Phương Đông
ở Liên Xô.
Những bài giảng của đồng chí được in thành sách Đường cách mệnh. Đây
là tác phẩm vận dụng sáng tạo học thuyết Lênin và kinh nghiệm Cách mạng
Tháng Mười vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng nước ta, vạch ra những vấn đề
cơ bnả về lý luận, chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng Việt Nam.
Đồng chí đã tiếp tục phát triển luận điểm sáng tạo: nhân dân các nước thuộc địa
có thể chủ động đứng lên đem sức mình mà giải phóng cho mình. “…Muốn
người ta giúp cho, thì trước mình phải tự gúp lấy mình đã”[5]. Đồng chí dự báo:
cách mạng dân tộc Việt Nam thành công thì tư sản Pháp yếu đi, tư bản Pháp yếu
đi thì công nông Pháp làm cách mạng giai cấp cũng dễ”[6]. Như vậy cách mạng
ở nước ta cũng như ở các nước thuộc địa, không hoàn toàn phụ thuộc vào cách
mạng vô sản ở chính quốc mà có thể giành thắng lợi trước cách mạng ở chính
quốc. Đường cách mệnh đã có tác dụng to lớn giáo dục và tổ chức những thanh
niên cách mạng chân chính, tập hợp họ vào đội ngũ tiên phong của giai cấp vô
sản làm nòng cốt cho việc tiến tới thành lập Đảng Cộng sản. Tác phẩm Đường
cách mệnh đã đặt nền tảng về lý luận, chính trị, tư tưởng cho việc thành lập
Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930.
Từ những năm 1920 trở đi, phong trào yêu nước phát triển mạnh. Sau các
cuộc đấu tranh đòi thả Phan Bội Châu (1925), phong trào để tang Phan Chu
Trinh (1926), nhiều tổ chức yêu nước ra đời, như Tâm Tâm Xã (1923 - 1925),
Tân Việt Cách mạng Đảng (1926 - 1930). Những tổ chức yêu nước đó có tác
dụng nhất định trong việc truyền bá tư tưởng mới, giáo dục lòng yêu nước và tập
hợp quần chúng thanh niên trí thức, tiểu tư sản, nhưng đều chưa phản ánh quan
điểm chính trị của giai cấp vô sản. Thời kỳ này còn có sự ra đời của một số tổ
chức đi theo đường lối cách mạng tư sản. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
đã đấu tranh chống lại chủ nghĩa cải lương thoả hiệp với chủ nghĩa đế quốc của
những đại biểu cho tư sản mại bản và đại địa chủ như quan điểm “Lập hiến” của
Bùi Quang Chiêu, thuyết “trực trị” của Phạm Quỳnh yêu cầu đế quốc Pháp ban
4
bố cho một số quyền lợi. Đồng thời đã đấu tranh chống lại đường lối dân tộc hẹp
hòi của Việt Nam Quốc dân Đảng phủ nhận đấu tranh giai cấp, chủ trương đoàn
kết tất cả, chống đế quốc nhưng không chống phong kiến. Việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin và con đường cứu nước đúng đắn của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên lúc này cực kỳ khó khăn do sự đàn áp tàn bạo và những thủ
đoạn tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo của đế quốc Pháp. Chúng đã thẳng tay kết
tội “cộng sản làm loạn”, bất cứ ai rải một tờ truyền đơn, đọc một tờ báo cách
mạng đều bị bắt bớ, cầm tù. Chúng nói xấu Liên Xô, xuyên tạc chủ nghĩa Mác -
Lênin, vu cáo những người cộng sản là “quá khích”, “phá hoại”, “tay sai Mạc tư
khoa”…
Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm trực tiếp của chính sách khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp. Cũng như các tầng lớp lao động khác ở Việt
Nam, giai cấp công nhân bị ba tầng áp bức bóc lột: đế quốc, phong kiến và tư
sản. Lớp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đến năm 1929 số
lượng công nhân chuyên nghiệp có khoảng 22 vạn người (trong số đó mới có
trên 5 vạn công nhân kỹ thuật). Tuy còn trẻ, số lượng ít (năm 1929 mới chiếm
1,2% dân số), trình độ văn hoá và kỹ thuật còn thấp, song ngày càng phát triển
và đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến nhất ở nước ta, nhiệt tình yêu nước
và có tinh thần đấu tranh cao. Để tạo điều kiện thuận lợi truyền bá chủ nghĩa
Mác - Lênin vào giai cấp công nhân và tự rèn luyện mình, Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên chủ trương “vô sản hoá”, đưa hội viên vào các nhà máy, hầm
mỏ, đồn điền cùng sống và lao động với công nhân. Việc thực hiện chủ trương
này đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao giác ngộ cách mạng cho giai cấp
công nhân từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ tự phát đến tự giác, vùng
dậy đoàn kết đấu tranh, trở thành lực lượng chính trị độc lập. Nó cũng tạo điều
kiện cho những thanh niên trí thức tiểu tư sản đi từ giác ngộ dân tộc đến giác
ngộ giai cấp, từ tán thành chủ nghĩa cộng sản đến thực sự rèn luyện để trở thành
những chiến sĩ cộng sản.
Năm 1929, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã phát triển cơ
sở mạnh mẽ trong cả nước. Hội rèn luyện được nhiều cán bộ cách mạng chân
5
chính làm nòng cốt cho việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản. Giai cấp công
nhân cũng từ những Hội ái Hữu, Hội Tương tế tiến lên tổ chức các Công hội. Từ
Công hội được thành lập ở Nhà máy Ba Son (Sài Gòn) năm 1920, có thêm
những tổ chức Công hội ở các Nhà máy chia, tơ, xi măng (Hải Phòng), Nhà máy
điện Yên Phụ, sửa chữa ôtô Avia, in IDEO (Hà Nội), Nhà máy sợi, dệt (Nam
Định), mỏ than Hòn Gai, Nhà máy xe lửa (Vinh)… Có sự lãnh đạo của Công
Hội và Hội Thanh niên, các cuộc đấu tranh của công nhân được tổ chức tốt hơn,
không chỉ có yêu sách kinh tế mà còn có đòi hỏi về chính trị. Ngày 4-8-1925 nổ
ra cuộc bãi công của 1.000 công nhân Ba Son. Các năm 1927, 1928, 1929 hàng
chục cuộc bãi công của công nhân diễn ra ở nhiều nhà máy, đồn điền, hầm mỏ.
Trong các cuộc bãi công, khẩu hiệu đấu tranh chính trị kết hợp chặt chẽ với đấu
tranh về kinh tế và đã có sự phối hợp giữa các xí nghiệp với nhau. Phong trào
công nhân đã có tính độc lập rõ rệt. Nhiều cuộc đấu tranh ở Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Định, mỏ than Hòn Gai, Vinh, Đà Nẵng, Sài Gòn, đồn điền cao su Phú
Riềng (Thủ Dầu Một)… giành được thắng lợi.
Giai cấp nông dân Việt Nam chiếm 90% dân số, bị áp bức bóc lột nặng nề
bởi tô tức, sưu cao, thuế nặng, phu phen tạp dịch triền miên, rất khao khát độc
lập tự do và ruộng đất, hăng hái chống chế đế quốc, phong kiến. Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên có ảnh hưởng mạnh trong nông dân, thúc đẩy phong trào
đấu tranh của nông dân ngày càng xích lại gần với phong trào đấu tranh của
công nhân, đồng thời tranh thủ được tầng lớp trí thức, tiểu tư sản.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân ngày
càng có tác động mạnh mẽ vào phong trào yêu nước và phong trào công nhân.
Trước xu thế phát triển của cách mạng, tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên không còn đáp ứng được đòi hỏi khách quan “phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi”[7]. Ngày 17-6-1929 nhóm tiên tiến trong Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên và Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Bắc kỳ họp tuyên bố
thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương. Tháng 8-1929 một số cán bộ trong Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam kỳ đứng ra thành lập An Nam Cộng
6
sản Đảng. Ngày 1-1-1930, một số người tiên tiến trong Tân Việt Cách mạng
Đảng ở Bắc Trung kỳ thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Cả ba tổ
chức đảng đều ra thông báo, tuyên ngôn, hiệu triệu quần chúng, nói rõ mục đích,
tôn chỉ của mình, xuất bản các cơ quan ngôn luận như Búa Liềm, Bônseevích,
Cờ Cộng sản, Cờ đỏ của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đỏ của chi bộ An Nam
Cộng sản Đảng ở Trung Quốc, Cờ đỏ của An Nam Cộng sản Đảng ở Nam kỳ.
Công hội đỏ miền Bắc do Đông Dương Cộng sản Đảng lãnh đạo ra báo Lao
động. Một số đảng bộ địa phương cũng có báo như khu mỏ Quảng Ninh có báo
Người thợ mỏ, Hầm mỏ, Hải Phòng có báo Sao đỏ, Nam Định có báo Tiền
Phong, Phú Riêng có báo Giải thoát. Các chi bộ cộng sản được tổ chức và phát
triển ở nhiều nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, đường phố, làng quê. Cờ đỏ, truyền
đơn, áp phích xuất hiện ở nhiều nơi, kể cả trong các công sở, trại lính. Nhiều
khẩu hiệu đấu tranh cho dân sinh, dân chủ được phổ biến rộng rãi cùng với các
khẩu hiệu cơ bản như đòi tăng tiền lương, ngày làm việc 8 giờ, bỏ cúp phạt bất
công, bỏ thuế thân, bỏ thuế chợ, bỏ bắt phu, tự do bãi công, tự do hội họp, tự do
lập hội, lật đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp, lật đổ Nam triều và chế độ phong kiến,
độc lập dân tộc hoàn toàn, chia ruộng đất cho dân cày, thành lập chính quyền
công nông binh, bảo vệ Cách mạng Liên Xô.
Việc thống nhất các tổ chức cộng sản đã trở thành một yêu cầu khách quan
và cấp bách của phong trào cách mạng để khắc phục sự chia rẽ về tư tưởng, tổ
chức, thống nhất sự chỉ đạo trong cả nước.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã tiến hành việc chuẩn bị hội nghị hợp nhất và
đã chủ trì hội nghị từ ngày 3 - 7-2-1930. Hội nghị đã nhất trí thành lập Đảng, lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng, Điều lệ vắn tắt
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Lời kêu gọi nhân dân do đồng chí Nguyễn Ái
Quốc dự thảo. Hội nghị còn nhất trí thông qua Điều lệ tóm tắt của các hội quần
chúng.
Chánh cương vắn tắt của Đảng vạch rõ cách mạng Việt Nam là “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[8]. Nhiệm vụ
7
của cách mạng ấy là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm
cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, nhân dân được tự do, tịch thu ruộng đất của đế
quốc làm của công và chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá xí nghiệp của đế
quốc, mở mang công nghiệp và nông nghiệp, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thi
hành luật ngày làm tám giờ, xây dựng chính phủ công nông binh và tổ chức ra
quân đội công nông.
Sách lược vắn tắt và Chương trình tóm tắt ghi: Đảng là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, Đảng phải “thu phục”[9] được đại bộ phận dân cày và phải
dựa vào dân cày nghèo để làm “thổ địa cách mạng”[10] đánh đổ đại địa chủ và
phong kiến. Đảng phải “hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông,
Thanh niên, Tân Việt v.v… để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Còn đối với
bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra
mặt phản cách mạng (Đảng lập hiến v.v..) thì phải đánh đổ[11].
Trong khi nêu khẩu hiệu Việt Nam độc lập, Đảng đồng thời chủ trương
đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô
sản Pháp. Điều lệ vắn tắt quy định: “Ai tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương
trình Đảng và Quốc tế Cộng sản, hăng hái đấu tranh và dám hy sinh phục tùng
mệnh lệnh Đảng và đóng kinh phí, chịu phấn đấu trong một bộ phận Đảng thời
được vào Đảng”[12].
Điều lệ nêu rõ trách nhiệm của đảng viên mà ba điều đầu tiên là “Tuyên
truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng”[13], “Tham gia
mọi sự đấu tranh về chính trị và kinh tế của công nông”[14], “Phải thực hành
cho được chánh sách và nghị quyết của Đảng và Quốc tế Cộng sản”[15],
Về dân chủ, kỷ luật, Điều lệ ghi: “bất cứ vấn đề nào đảng viên đều phải hết
sức thảo luận và phát biểu ý kiến, khi đa số đã nghị quyết thì tất cả đảng viên
phải phục tùng mà thi hành”[16].
Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc vạch rõ thế giới đã chia thành
hai mặt trận: mặt trận cách mạng gồm giai cấp công nhân các nước và các dân
tộc bị áp bức do Liên Xô đứng đầu và mặt trận của chủ nghĩa đế quốc. Sau
8
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, đế quốc Pháp bị thiệt hại nặng nề đang ra sức
khai thác các tài nguyên ở Đông Dương, ráo riết bóc lột, áp bức nhân dân ta,
chuẩn bị cuộc chiến tranh đế quốc thứ hai. “Sự áp bức và bóc lột vô nhân đạo
của đế quốc Pháp đã làm cho đồng bào ta hiểu rằng có cách mạng thì sống,
không có cách mạng thì chết”[17]. Đế quốc Pháp không thể dùng khủng bố
trắng để tiêu diệt cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là
Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo công cuộc “giải phóng cho toàn thể anh
chị em bị áp bức, bóc lột”[18], đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến Việt Nam và
tư sản phản cách mạng, làm cho Việt Nam độc lập, chia ruộng đất các đế quốc
và địa chủ phản cách mạng cho dân nghèo, đem lại mọi quyền tự do cho nhân
dân.
Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắt tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn
tắt, đã hợp thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể hiện sự vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng nước ta, vạch rõ mục đích, động
lực, phương pháp cách mạng và những khẩu hiệu đấu tranh cơ bản. Đó là con
đường cứu nước đúng đắn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, thể hiện tư tưởng kết hợp đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, dân tộc và
quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sự đúng
đắn của Cương lĩnh đầu tiên đã được quá trình thắng lợi của cách mạng nước ta
chứng minh và khẳng định. Những luận điểm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc về
cách mạng thuộc địa, về chủ nghĩa dân tộc trên quan điểm của giai cấp công
nhân còn là sự đóng góp to lớn vào sự phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và
phong trào cách mạng thế giới.
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đánh dấu “một bước ngoặt vô cùng
quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô
sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”[19]. Đó là kết quả việc
chuẩn bị đầy đủ về các mặt tư tưởng, chính trị, tổ chức. Việc chuẩn bị đã phải
tiến hành trong cuộc đấu tranh gay gắt, quyết liệt chống lại sự khủng bố tàn bạo,
đẫm máu của chủ nghĩa đế quốc. Về mặt tư tưởng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc là
người cộng sản đầu tiên đưa chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, vận dụng
9
chủ nghĩa Mác - Lênin để bước đầu xác lập nền tảng lý luận, vạch ra phương
hướng, đường lối cơ bản của cách mạng Việt Nam, trực tiếp tiến hành công tác
tuyên truyền và huấn luyện cán bộ.
Những cán bộ đầu tiên được đồng chí đào tạo là những trí thức cộng sản
đầu tiên, phần đông là học sinh, giáo viên, công chức đã tiếp tục công tác tuyên
truyền, huấn luyện lý luận và đường lối, đẩy lùi khuynh hướng cải lương và dân
tộc hẹp hòi của các đảng phái tư sản và tiểu tư sản, kết hợp với việc cổ động
chính trị hằng ngày đưa quần chúng ra hành động đấu tranh với địch giành
quyền dân sinh, dân chủ.
Những đồng chí ấy đã trải qua muôn vàn hy sinh gian khổ, hoà mình vào
trong quần chúng, “vô sản hoá”, thực sự rèn luyện mình thành những chiến sĩ
cách mạng vô sản, những cán bộ tuyên huấn đầu tiên, đẩy nhanh việc kết hợp
chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước để
hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
“Nhìn lại sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh qua quá trình
cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy cả một hệ thống quan điểm toàn diện, nhất
quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là đi từ
cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát
triển chế độ tư bản chủ nghĩa; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đó
là một cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội,
giải phóng con người tiến lên chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Đây là luận điểm
trung tâm của tư tưởng Hồ Chí Minh, là chiều sâu nhất trong tư duy lý luận của
Người. Tư tưởng đó không những có giá trị lớn lao trong thế kỷ XX mà còn toả
sáng trong thế kỷ XXI”[20].
10
II. CAO TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1931 VÀ XÔ VIẾT NGHỆ TĨNH
- ĐẤU TRANH CHỐNG KHỦNG BỐ, KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG (1932 - 1935)
1. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh
Cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản thế giới từ năm 1929 đến
1933 đã làm cho đời sống nhân dân lao động nước ta ngày càng khốn khổ hơn.
Công nghiệp đình đốn làm cho thợ thuyền thất nghiệp hàng loạt. Nông nghiệp
lại gặp thiên tai dồn dập: hạn, lụt những năm 1930 - 1931. Nông dân thiếu đói
kéo ra thành phố, hầm mỏ, đồn điền nhưng cũng thiếu việc làm. Để bù vào
những khoản thua lỗ, bọn thống trị Pháp lại tăng cường vơ vét bóc lột: tăng thuế,
phá giá đồng bạc Đông Dương, v.v.. Trong hoàn cảnh ấy, phong trào cách mạng
càng bùng nổ lên mạnh mẽ. Lo sợ trước tình hình đấu tranh của nhân dân ta, đế
quốc Pháp đã tăng cường khủng bố, bắt bớ, cầm tù hàng loạt những chiến sĩ
cách mạng và những người tham gia đấu tranh, càn quét, chém giết, kể cả ném
bom, triệt phá làng mạc sau cuộc khởi nghĩa thất bị của Việt Nam Quốc dân
Đảng (tháng 2-1930).
Cũng vào thời gian này, thi hành Nghị quyết Hội nghị thống nhất Đảng
tháng 2-1930, các đảng bộ địa phương đã thực hiện việc quán triệt Chánh
cương, Điều lệ tóm tắt của Đảng, tạo ra nguồn sinh khí mới trong các chi bộ. Về
nhiệm vụ trước mắt, Đảng chủ trương đẩy mạnh công tác tuyên truyền về việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo quần chúng tiếp tục đấu tranh đòi
cải thiện đời sống, đòi dân chủ, kết hợp chặt chẽ với tích cực chống khủng bố,
bảo vệ phong trào.
Việc phổ biến Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được tiến hành
rộng rãi. Nội dung lời kêu gọi rất súc tích nhưng dễ hiểu, thiết tha, xúc động,
những khẩu hiệu nêu ra phản ánh nguyện vọng bức thiết của quần chúng lao
động, đi nhanh vào lòng người.
Trong thời gian này, khi chủ nghĩa tư bản thế giới chìm ngập trong khủng
hoảng thì ở Liên Xô, nền kinh tế vẫn phát triển với nhịp độ cao, đời sống mọi
mặt của nhân dân được cải thiện. Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã viết cuốn Nhật
11
ký chìm tầu ca ngợi công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cuộc sống hạnh
phúc của nhân dân Liên Xô, đập tan luận điệu xuyên tạc, vu cáo của chủ nghĩa
đế quốc. Cuốn sách đã được nhiều đảng bộ in ra và phát hành làm tài liệu tuyên
truyền. Nội dung cuốn sách được phổ biến trong công nhân và các tầng lớp lao
động làm cho họ thêm hăng hái tham gia cách mạng.
Dưới sự chỉ đạo của các đảng bộ, phong trào cách mạng đã dấy lên mạnh
mẽ. Đáng chú ý là cuộc bãi công của công nhân dệt Nam Định, biểu tình, đình
công của công nhân mỏ Mông Dương, bãi công của công nhân Xí nghiệp Bến
Thuỷ, Nhà máy Ba Son, công nhân đồn điền Phú Riềng, biểu tình của nông dân
Thái Bình, Hà Nam. Những cuộc đấu tranh trên đều có thắng lợi và có ảnh
hưởng lớn ở địa phương. Từ cuối tháng 4-1930, trên cơ sở những thắng lợi đã
thành được, Đảng đẩy mạnh việc tuyên truyền về ngày Quốc tế lao động 1-5, cổ
vũ quần chúng mở đợt đấu tranh mới nhân dịp kỷ niệm. Mặc dù địch ra lệnh giới
nghiêm, vây ráp, nhưng cờ đỏ, truyền đơn, áp phích, biểu ngữ vẫn xuất hiện ở
nhiều nơi, kể cả một số vùng nông thôn. Các cuộc biểu tình, tuần hành, bãi công,
bãi thị đã nổ ra liên tiếp từ cuối tháng 4 đến hết tháng 5-1930 ở các xí nghiệp
công nghiệp Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai, Vinh, Sài Gòn, Chợ Lớn
và nhiều vùng nông thôn: Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Kiến An, Quảng Trị,
Quảng Ngãi, Gia Định, Vĩnh Long, Sa Đéc, v.v.. Nhiều cuộc bãi công, biểu tình
bị địch đàn áp đẫm máu, nhưng không đẩy lùi được khí thế đấu tranh của quần
chúng. Nhiều cuộc mít tinh đã diễn ra sôi nổi như: kỷ niệm 1-5, truy điệu các
chiến sĩ hy sinh, tố cáo tội ác của giặc, kiên quyết đòi chúng thực hiện các yêu
sách của nhân dân. Địch đã phải có một số nhượng bộ như: trả tự do cho một số
người bị bắt, giảm bớt giờ làm, hứa bớt cúp phạt, cải thiện điều kiện lao động,
hoãn thuế cho nông dân.
Sau đợt kỷ niệm ngày 1-5 là đợt kỷ niệm Ngày quốc tế đỏ 1-8, Ngày đấu
tranh chống chiến tranh đế quốc, Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng xuất
bản tài liệu Ngày Quốc tế đỏ 1-8. Tài liệu này giải thích nguồn gốc chiến tranh
đế quốc, kêu gọi chống chiến tranh, bảo vệ hoà bình, bảo vệ Liên bang Xôviết,
ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Tài liệu cũng phân biệt ba loại chiến
12
tranh: chiến tranh đế quốc, chiến tranh đế quốc chống Liên bang Xôviết, chiến
tranh giải phóng của các dân tộc bị áp bức và thái độ đối với các loại chiến tranh
ấy; cuối cùng, tài liệu nêu rõ những khẩu hiệu đấu tranh nhân dịp kỷ niệm 1-8
(đây là tài liệu đề rõ Ban cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
ấn hành sớm nhất đã sưu tầm được). Trong thời gian này, Đảng còn chú ý đẩy
mạnh công tác tuyên truyền trong binh lính, kêu gọi họ đoàn kết với nhân dân
hưởng ứng cuộc đấu tranh trong Ngày chống chiến tranh đế quốc. Việc này có
ảnh hưởng nhất định tới binh lính; ở một số nơi binh lính đã không bắn vào quần
chúng khi họ bị đưa đi đàn áp các cuộc biểu tình trong dịp này. Từ 1-8 đến tháng
10-1930, hàng trăm cuộc đấu tranh của nhân dân nổ ra ngày càng quyết liệt. Do
sự đàn áp tàn bạo của bọn thống trị, từ tháng 9 phần lớn các cuộc biểu tình của
nhân dân có tổ chức lực lượng tự vệ được trang bị giáo mác, gậy bộc, nhiều
cuộc đông tới hàng ngàn người, có cuộc lớn tới 2 vạn người (ngày 1-9 ở Thanh
Chương, Nghệ An). Cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ An, Hà Tĩnh từ đó phát
triển lên và hình thành cuộc nổi dậy của quần chúng thành lập chính quyền
Xôviết. Chính quyền này đã được thành lập ở trên 300 thôn xã thuộc Nghệ An,
Hà Tĩnh làm nhiệm vụ chính quyền công nông đầu tiên ở nước ta. Công tác
tuyên truyền trong nhân dân đã được tiến hành công khai, sâu rộng để thực hiện
các chính sách của cách mạng: xoá nợ, giảm tô, chia lại công điền cho nông dân,
thủ tiêu mọi thứ thuế, ban bố các quyền dân chủ, xử án bọn phản động, bài trừ
hủ tục, tổ chức học văn hoá… Nhiều loại báo chí địa phương được xuất bản. Xứ
uỷ Trung kỳ có báo Người lao khổ, Công nông binh, Nghệ An có báo Tiến lên,
các huyện của tỉnh Nghệ An như Hưng Nguyên có báo Sản nghiệp, Thanh
Chương có báo Nhà quê, Quỳnh Lưu có báo Tia sáng, Nam Đàn có báo Giác
Ngộ .v.v.. Hàng loạt thơ ca cách mạng được lưu truyền. Sách báo, thơ ca, tài liệu
cách mạng được phổ biến rộng rãi. Hàng đêm nhân dân hội họp nghe cán bộ nói
chuyện, đọc sách báo, đi học văn hoá.
Ở nhiều tỉnh khác, phong trào nông dân cũng phát triển mạnh. Nông dân
Tiền Hải (Thái Bình) biểu tình tri huyện phải bỏ trốn; nông dân Đức Phổ
(Quảng Ngãi) làm chủ huyện lỵ, phá công đường, đốt sổ sách, nông dân Cao
13
Lãnh (Nam Bộ) phá nhà địa chủ, hội tề. Ở Hà Nội, đảng bộ lập đội tuyên truyền
xung phong phân phát truyền đơn, tổ chức nói chuyện ủng hộ Xôviết Nghệ
Tĩnh.
Để đối phó với tình hình, bọn đế quốc và tay sai đã điên cuồng phản công,
liên tiếp mở các cuộc hành quân đàn áp và dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ, lừa bịp.
Điển hình cho sự tàn bạo là vụ ném bom xuống cuộc biểu tình của nhân dân
huyện Hưng Nguyên ngày 12-9-1930. Đảng đã liên tiếp ra thông báo, lời kêu
gọi, tuyên bố bảo vệ Xôviết - Nghệ Tĩnh, chống khủng bố[21], chỉ thị cho cấp
uỷ Trung kỳ các công tác cần thiết và uốn nắn các sai lầm[22]. Các tài liệu trên
tố cáo tội ác của bọn đế quốc và tay sai, biểu dương những thắng lợi của Xôviết
Nghệ Tĩnh. Tinh thần dũng cảm hy sinh của cán bộ, nhân dân, ý thức đoàn kết
của công nông và binh lính, kêu gọi toàn Đảng và nhân dân cả nước ủng hộ
Xôviết Nghệ Tĩnh. Các tài liệu còn vạch kế hoạch hướng dẫn công tác tư tưởng
tổ chức và đấu tranh chống khủng bố trắng, bảo vệ phong trào cách mạng và
những thắng lợi đã giành được. Công tác tuyên truyền được đặc biệt coi trọng:
“Luôn luôn tuyên truyền, tuyên truyền nữa, luôn luôn có những cuộc nói
chuyện và những cuộc nói chuyện nữa để cổ vũ, thúc đẩy quần chúng hy sinh
cho sự nghiệp chung”[23].
“Dù trong trường hợp thắng lợi hay thất bại, điều quan trọng là làm cho
quần chúng hiểu rằng chế độ cũ không thay đổi và không có một hy vọng cải
thiện và tiến bộ nào trong những điều kiện sống hiện nay…”[24].
“In thật sạch sẽ và rõ ràng các truyền đơn, phân phát truyền đơn với số
lượng nhiều sao cho có được nhiều người đọc và nhiều người bình luận”[25],
“thuật ngữ tuyên truyền phải được tuyệt đại đa số quần chúng hiểu biết”[26],
“cờ có ghi khẩu hiệu phải được dựng lên khắp nơi”[27], “các tỉnh và chi bộ phải
lập ra những uỷ ban cách mạng để nghiên cứu những phương thức tuyên
truyền”[28]. Trong chỉ thị Gửi cấp uỷ Trung kỳ, Trung ương thấy trong nước
chưa có thời cơ khởi nghĩa, các Xôviết không thể tồn tại lâu dài nên ghi rõ:
“phải làm cách thế nào mà duy trì kiên cố ảnh hưởng của Đảng, của Xôviết
14
trong quần chúng để đến khi thất bại thì ý nghĩa Xôviết ăn sâu vào trong óc quần
chúng và lực lượng của Đảng và nông hội vẫn duy trì”[29].
Do còn thiếu kinh nghiệm, cán bộ phạm phải một số sai lầm ảnh hưởng đến
sự đoàn kết của các tầng lớp ở nông thôn, lực lượng cán bộ và cơ sở bị tổn thất
nhiều vì sự đàn áp của địch nên phong trào từ giữa năm 1931 đã xuống dần.
Xôviết Nghệ Tĩnh tuy không thành công nhưng đã chứng tỏ năng lực cách
mạng của nhân dân Việt Nam, của một Đảng Cộng sản kiên cường mới thành
lập chưa được một năm đã có ảnh hưởng trong nước và trên thế giới. Qua cao
trào 1930 - 1931 và Xôviết Nghệ Tĩnh, tháng 4-1931 Ban Chấp hành Quốc tế
Cộng sản đã đánh giá cao sự lãnh đạo của Đảng ta và ra quyết định công nhận
Đảng ta là một bộ phận độc lập của Quốc tế Cộng sản.
Hội nghị Trung ương lần thứ nhất, thứ hai và Luận cương chính trị của
Đảng (tháng 10-1930 đến cuối năm 1931).
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp từ ngày 14 đến
30-10-1930 tại Hương Cảng. Hội nghị thảo luận và thông qua Luận cương chính
trị do đồng chí Trần Phú khởi thảo, thông qua Nghị quyết về tình hình hiện tại ở
Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, thông qua Điều lệ Đảng và Điều lệ
của các tổ chức quần chúng. Hội nghị đã đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản
Đông Dương, cử ra Ban Thường vụ Trung ương và cử đồng chí Trần Phú làm
Tổng Bí thư. Luận cương chính trị phát triển tư tưởng, đường lối đã nêu ra trong
cuốn Đường Cách mệnh, trong chánh cương, sách lược vắn tắt, nêu rõ: cách
mạng Việt Nam là cách mạng tư sản dân quyền, tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
- Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và chống
phong kiến, hai nhiệm vụ chiến lược đó có quan hệ chặt chẽ với nhau.
- Cách mạng Việt Nam phải lấy công nông làm động lực chính và do giai
cấp công nhân lãnh đạo.
- Con đường giành thắng lợi của cách mạng Việt Nam là con đường khởi
nghĩa vũ trang.
15
Khi chưa có tình thế cách mạng trực tiếp thì Đảng đưa ra khẩu hiệu đòi
quyền lợi dân sinh, dân chủ kết hợp với các khẩu hiệu chính trị để giác ngộ quần
chúng.
- Nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng là phải có một Đảng Cộng
sản, đội tiên phong của giai cấp vô sản được trang bị bằng lý luận Mác - Lênin
“có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với
quần chúng, và từng trải tranh đấu mà trưởng thành”[30].
Về công tác tư tưởng, Nghị quyết Trung ương ghi: “Đảng phải làm cho
càng ngày càng đông quần chúng biết mục đích của Đảng và ý kiến của Đảng
đối với các vệc quan trọng xảy ra. Muốn được như thế thì Đảng phải mở rộng
việc tuyên truyền cổ động ra (báo, sách, truyền đơn, diễn thuyết, .v.v..)…
Lại phải biết lợi dụng các cơ hội mà hoạt động công khai… tổ chức mít
tinh, diễn thuyết”[31].
Điều lệ Đảng cũng ghi trong ba nhiệm vụ của chi bộ, có hai nhiệm vụ trực
tiếp liên quan đến công tác tư tưởng:
- “Tuyên truyền và cổ động c.s (cộng sản) một cách có kế hoạch, thực hành
khẩu hiệu và nghị quyết của Đảng trong quần chúng công nông cho họ theo
Đảng.
- Tìm thêm và huấn luyện đảng viên mới, phát đồ tuyên truyền của Đảng;
huấn luyện đảng viên và công nông về mặt văn hoá và chính trị”[32].
Điều lệ của Đảng cũng quyết định lập Bộ Tuyên truyền cùng với Bộ Tổ
chức, Bộ Công nhân vận động.
Các nghị quyết Trung ương về vận động công nhân, nông dân cũng nêu cụ
thể nội dung và cách thức tuyên truyền công nhân, nông dân, phụ nữ và thanh
niên công nhân, nông dân.
Ngày 1-11-1930 Đảng ra lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng
Mười Nga (7-11), tố cáo âm mưu chuẩn bị chiến tranh đế quốc và bao vây,
khiêu khích, lật đổ Liên Xô, kêu gọi chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên Xô.
Lời kêu gọi còn tố cáo tội ác của đế quốc Pháp đối với dân ta, nêu những khẩu
hiệu đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, chống bắt lính, biểu dương
16
những thắng lợi của phong trào và tinh thần cách mạng của nhân dân, nêu những
khẩu hiệu đấu tranh chống địch khủng bố, noi gương cách mạng Nga, đứng lên
làm cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc: “Các bạn cần phải tuyên truyền cho
các anh chị em bị bóc lột trong nước để họ ủng hộ Đảng Cộng sản, để họ đứng
lên làm cách mạng tiêu diệt tận gốc toàn bộ quân thù”[33].
Ngày 18-11-1930 Ban Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị về thành lập Hội
“Phản đế đồng minh”.
Chỉ thị này đặt rõ việc mở rộng mặt trận chống đế quốc trên cơ sở liên minh
công nông. “Giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông
Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật
kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”[34],
“Hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc, họ là tầng lớp trên
hay ở vào lớp giữa cũng vậy, và cho tới tất cả những người địa chủ, có đầu óc
oán ghét đế quốc Pháp, mong muốn độc lập quốc gia để đưa tất cả những tầng
lớp và cá nhân đó vào trong hàng ngũ chống đế quốc Pháp, để cần kíp tổng động
viên toàn dân nhất tề hành động mặt này hay mặt khác, mà chống khủng bố
trắng và ủng hộ cách mạng công nông”[35].
Chỉ thị cũng hướng dẫn cách thức tổ chức mặt trận phản đế: thuyết phục các
tầng lớp trên, chú trọng sử dụng các đoàn thể tương trợ của nhân dân (phường
hội làm ăn, hiếu hỉ..) để “lấy quần chúng tổ chức quần chúng, lấy quần chúng
tuyên truyền quần chúng. Đưa dần đức tin của quần chúng vào cách mạng. Đưa
lý luận cách mạng giáo hoá quần chúng dần dần”[36].
Trên thực tế, chỉ thị này đã bổ khuyết thiếu sót của Luận cương chính trị và
Hội nghị Trung ương lần thứ nhất chưa thấy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc
trong cuộc đấu tranh chống đế quốc, chưa phân biệt rõ tư sản mại bản và tư sản
dân tộc, không thấy những mâu thuẫn nhất định giữa một số địa chỉ vừa và nhỏ
đối với bọn đế quốc và tay sai.
Dù địch ra sức đàn áp, nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân vẫn nổ ra liên
tiếp trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười và kỷ niệm Công xã Quảng
Châu (12-12) đòi tăng lương, giảm giờ làm, giảm sưu thuế, chống khủng bố, ủng
17
hộ Xôviết Nghệ Tĩnh. Nhiều cuộc tuyên truyền cho cách mạng gắn với đấu tranh
còn diễn ra trong các nhà tù, toà án: hô khẩu hiệu, hát bài ca cách mạng, treo cờ,
v.v. như ở nhà lao Hải Phòng, cờ đỏ treo ngay trên nóc lô cốt địch; ở toà án đề
hình trong trại lính Kiến An, các chiến sĩ cách mạng giương cờ, hô khẩu hiệu
làm rối loạn phiên toà[37].
Để đối phó với sự khủng bố của địch, các chiến sĩ đã phát huy nhiều sáng
kiến trong công tác tuyên truyền như lấy truyền đơn gói xôi bán bữa ăn sáng cho
thợ thuyền, kẹp truyền đơn vào sách truyện, sách vở học sinh. Tổ chức huấn
luyện ngay trên bãi biển, cánh đồng cho từng người như đang cùng lao động.
Cuối tháng 3-1931, Hội nghị Trung ương lần thứ hai tại Sài Gòn kiểm điểm tình
hình phong trào cả nước, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
nhất của Trung ương Đảng, định hướng công tác sắp tới. Hội nghị nêu những
thắng lợi đã giành được, đồng thời phê phán những nhận thức sai về tính chất
Đảng có ảnh hưởng nhiều đến công tác tổ chức, tuyên truyền vận động và lãnh
đạo quần chúng đấu tranh như: không chú trọng kết nạp công nhân vào Đảng,
không đưa đảng viên tiên tiến thuộc thành phần công nhân vào các cấp lãnh đạo,
lối làm việc phân tán, bao biện, độc đoán, mệnh lệnh, kỷ luật lỏng lẻo, chú trọng
vận động nông dân nhiều hơn công nhân “xoay hết lực lượng và tâm tư về nhà
quê”[38], “trong Nông hội vẫn còn nhiều phần tử không dính dáng chút gì với
dân cày”[39]. Về lãnh đạo quần chúng đấu tranh thì có ý kiến cho rằng trong lúc
kinh tế khủng hoảng, không nên đấu tranh, đấu tranh sẽ thất bị, có chủ trương
tách rời tổ chức và đấu tranh “nghỉ đấu tranh để tổ chức đã”[40], đề ra khẩu hiệu
đấu tranh không căn cứ vào nguyện vọng quần chúng, cưỡng bức quần chúng
đấu tranh, cản trở quần chúng khi cần tự vệ chống lại sự đàn áp của binh
lính,.v.v.. Hội nghị cho rằng đó là những “dấu tích tính chất tiểu tư sản”[41].
Nghị quyết của hội nghị dành một chương riêng về vấn đề tuyên truyền cổ
động nêu rõ công tác này có tầm quan trọng đặc biệt trong “lúc kinh tế của tư
bản chủ nghĩa toàn thế giới đương bị khủng hoảng lớn, trong lúc giai cấp đấu
tranh ngày càng kịch liệt, điều kiện phát triển của phong trào cộng sản cách
mạng đã chín chắn… trong khi Đảng mới thành lập trình độ lý luận của Đảng
18
còn thấp kém, nền tư tưởng còn chưa vững bền, nhân tài để làm việc Đảng còn
rất hiếm”[42]. Hội nghị đã phê phán những khuyết điểm trong công tác tuyên
truyền cổ động và đề ra những nhiệm vụ chính trong thời gian tới: lập bộ máy
tuyên truyền cổ đông ở Trung ương và cấp dưới, tuyên truyền huấn luyện về chủ
nghĩa Mác - Lênin, xây dựng tư tưởng vz bônsêvích, chống các xu hướng cơ
hội, chống chủ nghĩa quốc gia cải lương, mở rộng công tác tuyên truyền cổ động
trong quần chúng, chống các trò lừa bịp của đế quốc, “đào tạo ra nhân tài thờ
thuyền làm việc cho Đảng”[43]. Về cách thực hiện, phải thiết thực, lý luận gắn
liền với thực tiễn cách mạng, “phải luôn huấn luyện cho đảng viên và thợ thuyền
theo đại cương của chủ nghĩa Mác - Lênin mà giải quyết những việc xảy ra
trong sự giai cấp tranh đấu hằng ngày, và căn cứ vào những sự kinh nghiệm đấu
tranh mà phát triển trình độ tư tưởng”[44].
“Cách cổ động tuyên truyền phải cho xác thực, phải lấy những sự áp bức
hàng ngày của quần chúng mà giải thích cho họ hiểu sự cần phải tranh đấu, lấy
những sự nhu yếu thiết thực của họ mà làm cho họ hiểu những khẩu hiệu chánh
của Đảng”[45]. Trong báo chí “phải đem những vấn đề chính trị phổ thông,
những khẩu hiệu chánh trị mà liên kết với sự sinh hoạt hàng ngày của thợ thuyền
trong sản nghiệp”[46], “phải viết văn bài cho thiệt dễ hiểu… Đồng thời lại phải
chú ý làm cho những tiếng mới thuộc về chính trị và kinh tế được mau phổ
thông… phải soạn ra những tài liệu để cổ động tuyên truyền… để cho chi bộ và
đảng viên căn cứ vào đó mà làm việc cho xác đáng,… soạn ra các thứ sách vở
cho quần chúng”[47].
Sau Hội nghị lần thứ hai của Trung ương Đảng, ngày 20-5-1931 Trung
ương lại ra chỉ thị phê phán và uốn nắn chủ trương “thanh Đảng” của Xứ uỷ
Trung kỳ. Chỉ thị nêu ra những tiêu chuẩn cơ bản của đảng viên và khẳng định
đa số đảng viên hết sức trung thành, tận tụy hy sinh trong cuộc đấu tranh quyết
liệt với địch mặc dù thành phần xuất thân có khác nhau, cũng có một số ít đầu
hàng, phản bội không thể tránh khỏi, “không những trong Đảng ta mà các đảng
trên thế giới đều có”[48].
19
Chỉ thị phân tích đặc điểm của Đảng ta ở một nước thuộc địa nửa phong
kiến, giai cấp công nhân còn chiếm một tỷ lệ rất thấp trong nhân dân nhưng “đã
thành một lực lượng giai cấp giác ngộ nhứt định của nó, mặc dầumới đầu tiên và
còn yếu ớt”[49], “cộng vào một khí chất phản đế của các dân tộc ở Đông Dương
do các phong trào phản đế từ trước nung nấu lại, hai lực lượng ấy hợp lại xây
dựng nên Đảng cộng sản Đông Dương”[50]. Chỉ thị phê phán chủ trương “thanh
trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” là “một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị
võ đoán và là một lối hành động quàng xiên…”[51].
Chỉ thị yêu cầu khắc phục thiếu sót, tự phê bình, nhận lỗi trước quần chúng,
đảng viên ở những nơi có sai lầm. Việc phân tích trên đây về đặc điểm của
Đảng, uốn nắn sai lầm và chủ trương thanh đảng của Xứ uỷ Trung kỳ chứng tỏ
Trung ương Đảng đã bước đầu thấy quy luật xây dựng Đảng ta mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: “chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước dẫn tới việc thành lập Đảng cộng sản Đông
Dương”[52].
Cao trào cách mạng 1930 - 1931 và Xôviết Nghệ Tĩnh đã khẳng định năng
lực cách mạng của Đảng ta, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam.
Tuy mới thành lập, Đảng đã vạch ra được đường lối chính trị đúng đắn, dựa hẳn
vào công nông, thu hút mọi lực lượng tiến bộ, yêu nước, tiến hành cuộc đấu
tranh vang dội chống đế quốc và phong kiến tay sai, tạo ra một phong trào cách
mạng rộng lớn chưa từng có ở nước ta, vượt qua sự khủng bố tàn bạo của quân
thù phong trào đã phát triển thành cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng
nước ta.
Công tác tư tưởng đã luôn luôn được đặt lên vị trí hàng đầu nhằm giác ngộ
chính trị cho đảng viên và quần chúng, tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin,
chuyển tư tưởng yêu nước của nhân dân ta theo lập trường của giai cấp công
nhân. Công tác tư tưởng thường xuyên tố cáo tội ác của đế quốc và tay sai,
chống lại các thủ đoạn lừa bịp của chúng, chống chủ nghĩa quốc gia cải lương;
đã gắn chặt với cuộc đấu tranh hàng ngày của quần chúng đòi quyền lợi dân
sinh, dân chủ, kết hợp các khẩu hiệu kinh tế với khẩu hiệu chính trị, thông qua
20
đấu tranh mà nâng cao trình độ chính trị, rèn luyện đảng viên và quần chúng.
Đối với cán bộ, đảng viên, công tác tư tưởng đã coi trọng việc giáo dục tính chất
giai cấp của Đảng, bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và phẩm chất đạo đức cách
mạng, phân rõ ranh giới tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, giữ
vững đường lối chính trị đúng đắn, quan điểm tư tưởng vô sản, chống các ảnh
hưởng tư tưởng phi vô sản, đào tạo một đội ngũ cán bộ kiên cường, trung thành,
tận tụy với cách mạng. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Trung ương trong thời gian
này đều chỉ ra phương hướng, nội dung công tác tuyên truyền cổ động, uốn nắn
những thiếu sót, như: nội dung còn “bông lông, mơ hồ”, thiếu thiết thực, chỉ đạo
thiếu tổ chức, kế hoạch, không có báo riêng cho xí nghiệp, thiếu phóng viên
công nông, .v.v..
2. Đấu tranh chống khủng bố, khôi phục và phát triển phong trào cách
mạng (1932 - 1935)
a. Đấu tranh chống khủng bố, bảo vệ Đảng, biến nhà tù thành trường học
Trước cao trào cách mạng năm 1930-1931 và Xôviết Nghệ Tĩnh, đế quốc
Pháp dốc sức đàn áp cách mạng, đưa thêm quân viễn chinh sang, bắt bớ, càn
quét, tàn sát dã man. Toàn quyền Pátxkiê tuyên bố: “Cuộc chiến đấu chống cộng
sản là một cuộc đấu tranh quyết liệt nhất cho đến khi cộng sản hoàn toàn bị tiệt
diệt mới thôi”. Theo tài liệu của Toàn quyền Đông Dương, từ năm 1930 đến
1933, chúng đã bắt giam hơn 24 vạn người (số này chắc còn xa sự thật nhiều).
Mặt khác, chúng dùng nhiều thủ đoạn mị dân, lừa bịp, chia rẽ nhân dân, cô lập
cách mạng như lập “chương trình cải cách”, “hội đồng hoà giải lao tù”, “tín
dụng bình dân”, khuyến khích khai hoang, lập “Hội đồng cải lương hương tục”,
lợi dụng tôn giáo để đánh lạc hướng và ru ngủ quần chúng, khuyến khích văn
hoá đồi trụy và các tệ nạn xã hội, nghiện hút, cờ bạc, đĩ điếm[53]...
Sự khủng bố tàn bạo của địch đã gây cho cách mạng nước ta nhiều khó
khăn và tổn thất lớn. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới tỉnh đều
bị phá vỡ, hầu hết cán bộ lãnh đạo bị bắt giam, một số bị giết, cơ sở và đoàn thể
quần chúng nhiều vùng cũng bị tan tác, nhưng đế quốc không thể tiêu diệt được
tổ chức Đảng và phong trào cách mạng.
21
Các cán bộ, đảng viên và nhiều hội viên các đoàn thể đã tỏ thái độ kiên
cường, bất khuát trước sự tra tấn cực hình, mua chuộc, dụ dỗ của địch, giữ vững
khí tiết cách mạng. Ngay khi đứng trước toà án địch, sắp lên máy chém, nhiều
đồng chí đã nêu gương sáng của người chiến sĩ cộng sản. Trần Phú nói thẳng với
quan toà: “những công việc của Đảng tôi, tôi chỉ nói với Đảng tôi mà thôi”, khi
sắp mất đồng chí còn dặn các đảng viên trong tù “hãy giữ vững chí khí chiến
đấu”. Ngô Gia Tự cũng nới với chúng “chính đế quốc Pháp cướp nước chúng
tôi, chính các ông mới giết người, cướp của”. Lý Tự Trọng đi ra pháp trường
vẫn hô khẩu hiệu đả đảo đế quốc Pháp, dõng dạc hát Quốc tế ca khi bước lên
máy chém. Trong các năm 1932 - 1933, nhiều cán bộ đảng viên đã biến vành
móng ngựa trong toà án địch thành diễn đàn tố cáo địch. Nguyễn Đức Cảnh bị
án tử hình vẫn suy nghĩ viết bản tổng kết công tác công vận cho Đảng.
Ở trong tù, các đồng chí đã lập ra các chi bộ, lãnh đạo đấu tranh chống chế
độ nhà tù dã man, tàn ác, giữ vững và cổ vũ tinh thần cách mạng. Các đồng chí
đã biến nhà tù thành trường học để huấn luyện cán bộ đảng viên về lý luận,
chính trị và văn hoá. Ở trong thù, một số đồng chí từ những tài liệu đã đọc, tự
soạn tóm tắt rồi chép lại, như: Những vấn đề cơ bản của cách mạng Đông
Dương, Lịch sử tóm tắt ba Quốc tế… Một số đồng chí ở nhà tù Côn Đảo nhờ
giữ được liên lạc thường xuyên với tổ chức bên ngoài nên nhận được cả báo
Luymanitê của Đảng Cộng sản Pháp và các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin. Các đồng chí ở đây đã lược dịch được nhiều tài liệu, như: Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Làm gì, Bệnh ấu trĩ tả khuynh, Nhà nước và
cách mạng, Nguyên lý chủ nghĩa Lênin,v.v..
Các đồng chí còn ra báo chí trong tù: ở Côn Đảo, có báo Người tù đỏ và tạp
chí Ý kiến chung do Nguyễn Văn Cừ phụ trách, ở Hoả Lò Hà Nội, có hai tờ báo
Đuốc đưa đường (do Lê Duẩn làm chủ bút) và tờ Con đường chính (do Trường
Chinh làm chủ bút). Ở nhà lao Vinh còn có báo bằng miệng như Đề lao tuần
báo, Tiếng nhà pha, có tiểu thuyết bằng miệng Giọt máu hồng, có cả kịch được
diễn trong tù.
22
Cuộc đấu tranh tư tưởng trong các nhà tù cũng diễn ra trên nhiều mặt chống
lại các khuynh hướng tư tưởng dao động, thoả hiệp, dân tộc hẹp hòi trước hết
đối với các đảng viên Quốc dân đảng ở Hoả Lò, Côn Đảo, Sơn La. Qua cuộc
đấu tranh này quan điểm cách mạng của Đảng đã thuyết phục một số cán bộ
lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng, đưa họ vào hàng ngũ những người cộng
sản, cô lập những người ngoan cố.
b. Khôi phục và phát triển phong trào cách mạng
Để khôi phục và phát triển phong trào cách mạng, Đảng đã công bố bản
Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, phân tích tình hình,
vạch ra phương hướng phấn đấu mới, tiếp đó là chương trình hành động của
Công hội, Nông hội và Đoàn Thanh niên cộng sản.
Bản chương trình hành động của Đảng đánh giá cao những thắng lưọi đã
giành được, nêu rõ những khó khăn, thất bị chỉ là tạm thời, biểu dưng những
gương đấu tranh anh dũng của đảng viên và quần chúng. Chương trình hành
động cũng khẳng định đường lối cách mạng dân tộc, dân chủ, tiến lên chủ nghĩa
xã hội là đúng đắn, phê phán chủ nghĩa cải lương tư sản thoả hiệp, đầu hàng chủ
nghĩa đế quốc, nêu rõ phương hướng lợi dụng mọi hoàn cảnh, mọi khả năng,
hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp để tuyên truyền vận động khôi phục
hệ thống Đảng và các tổ chức quần chúng, đưa ra những yêu sách phù hợp với
nguyện vọng cấp thiết của quần chúng để đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân
chủ.
Việc phổ biến, quán triệt bản chương trình hành động đã có tác dụng quan
trọng trong việc ổn định tư tưởng đảng viên và quần chúng, nâng cao lòng tin
vào lý tưởng và tiền độ cách mạng, đẩy lùi tư tưởng bi quan, dao động, vạch ra
phương hướng khôi phục, phát triển phong trào và đấu tranh trong tình hình
cách mạng đang gặp khó khăn.
Thực hiện chương trình hành động, các cơ sở Đảng và tổ chức quần chúng
dần dần được khôi phục, thu hút những người đã trải qua thử thách trong phong
trào 30-31. Từ năm 1932, một số đồng chí được đưa ra tù và một số ở nước
ngoài về đã bổ sung thêm cán bộ để xây dựng lại các cơ quan lãnh đạo.
23
Trong điều kiện có nhiều khó khăn, Đảng đã lợi dụng báo chí hợp pháp để
tuyên truyền quan điểm tư tưởng của Đảng và đấu tranh chống lại các quan điểm
tư tưởng phản động, sai lầm.
Năm 1932, một số đồng chí cộng sản hoạt động hợp pháp ở Sài Gòn đã viết
trên báo công khai phê phán thái độ phản động của người cầm đầu Đảng Lập
hiến được đế quốc Pháp cho làm đại biểu Nam kỳ ở hội đồng thuộc địa tại Pari,
vạch trần thủ đoạn mị dân, lừa bịp của bọn thực dân. Trong những năm 1933 -
1934 đồng chí Hải Triều viết một số bài phê phán quan điểm duy tâm phản động
cho rằng “tinh thần sinh ra vật chất”, dân ta “thua kém về vật chất là bởi thua
kém về tinh thần” cho nên phải “thành thật” mà khuất phục, thực chất là tư
tưởng nô lệ, tự ty. Đồng chí đã giới thiệu chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, vạch rõ nước ta sở dĩ còn thua kém các nước phương Tây
là do bị đế quốc kìm hãm về chính trị, kinh tế, văn hoá.
Năm 1935, một cuộc tranh luận công khai nữa lại nổ ra xung quanh vấn đề
quan điểm nghệ thuật “Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh”.
Đây là lần đầu tiên, các đồng chí ta giới thiệu quan điểm mácxít về văn học nghệ
thuật, nêu rõ văn học nghệ thuật không thể đứng ngoài cuộc đấu tranh dân tộc,
đấu tranh giai cấp mà phải phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân,
chống lại quan điểm văn học nghệ thuật tư sản. Đồng thời cũng phê phán tư
tưởng thoát ly quần chúng, thoát ly thực tế, xa lìa cách mạng của một số trí thức
tiểu tư sản và tư sản dân tộc khi phong trào cách mạng có khó khăn. Những cuộc
tranh luận trên đã giành được thắng lợi cho quan điểm duy vật mácxít, bảo vệ
đường lối đúng đắn của Đảng, nâng cao tinh thần cán bộ, đảng viên và quần
chúng, góp phần khôi phục phong trào.
Cùng với việc xây dựng lại cơ sở, phong trào đấu tranh của công nhân,
nông dân từ nàm 1932 cũng dần dần phát triển vừa hợp pháp, vừa không hợp
pháp và ngày càng mang nội dung chính trị sâu sắc. Nổi bật là cuộc bãi công
đồng loạt của 12 nhà máy xay ở Chợ Lớn do Đảng lãnh đạo tháng 5-1934, đấu
tranh của nông dân các tỉnh miền núi miền Bắc chống bắt phu, kỷ niệm các ngày
1-5, 1-8 và Cách mạng Tháng Mười (10- 1934).
24
Ở Nam bộ, Đảng lợi dụng khả năng hợp pháp đưa người ra tranh cử Hội
đồng thành phố Sài Gòn và Hội đồng quản hạt Nam kỳ năm 1933 và năm 1935.
Đảng tổ chức mít tinh, ra tuyên ngôn, phân phát truyền đơn để tuyên truyền
chương trình chính trị, kinh tế, xã hội, có tác dụng cổ vũ lớn tinh thần cách
mạng của nhân dân thành phố.
Đến năm 1934, hệ thống tổ chức của Đảng đã được khôi phục ở cả Bắc,
Trung, Nam và Lào. Xứ uỷ Bắc kỳ, Trung kỳ, Chấp uỷ Nam Đông Dương và
Lào được thành lập. Ở Bắc kỳ có báo Cờ đỏ của Xứ ủy, báo Dân nghèo của
Đảng bộ Thái Bình. Ở Trung kỳ có báo Cờ đỏ của Xứ uỷ, báo Chặt xiềng, Dân
cày của Đảng bộ Nghệ Tĩnh, Tiến lên của Quảng Trị. Ở Nam Kỳ có tờ Lao khổ
của Chấp uỷ miền Tây, Giải phóng của Chấp uỷ miền Đông, tờ Vô sản và tạp
chí Cộng sản của Chấp uỷ Nam Đông Dương, v.v. .
Dưới sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Đảng Cộng sản Pháp và Quốc tế Đỏ
đã giúp đỡ Đảng ta về nhiều mặt, tích cực tuyên truyền ủng hộ phong trào cách
mạng Đông Dương, tổ chức nhiều cuộc biểu tình chống khủng bố trắng của bọn
thống trị thực dân, mở cuộc vận động đòi toàn xá tù chính trị. Đảng Cộng sản
Pháp cử luật sư sang bào chữa cho các chiến sĩ Cộng sản, cử phái đoàn điều tra
sang tiếp xúc với nhân dân Đông Dương, tìm hiểu sự đàn áp, bóc lột của bọn
thực dân và tình hình khổ cực của nhân dân lao động, đòi bọn cầm quyền thuộc
địa toàn xá tù chính trị, giải quyết những yêu cầu thực hiện dân chủ và cải thiện
đời sống của nhân dân lao động; những việc trên đã cổ vũ và động viên các
chiến sĩ cách mạng và nhân dân ta trong lúc cách mạng gặp khó khăn.
Đầu năm 1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài được thành lập do
đồng chí Lê Hồng Phong đứng đầu, trong thực tế làm chức năng chỉ đạo việc
khôi phục và phát triển phong trào, thống nhất lực lượng trong cả nước để thực
hiện chương trình hành động và chuẩn bị Đại hội toàn quốc. Ban lãnh đạo phải
ngoại ra tạp chí “Bônsêvích” phát hành trong cả nước nhằm giáo dục nâng cao
trình độ cán bộ đảng viên, thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức trong Đảng.
Trong thời gian này, tờ Bônsêvích của Ban lãnh đạo hải ngoại và Tạp chí Cộng
sản của Ban Chấp ủy Nam Dông Dương có tác dụng quan trọng trong việc lãnh
25
đạo tư tưởng, hướng dẫn công tác cho các đảng bộ và chuẩn bị cho Đại hội toàn
quốc.
Tháng 6-1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngoài họp hội nghị với các
đại biểu trong nước để nhận định tình hình, xác định chủ trương về củng cố
Đảng, khôi phục và phát triển các đoàn thể cách mạng, chuẩn bị Đại hội lần thứ
nhất của Đảng.
Tháng 3- 1935, Đại hội lần thứ nhất của Đảng họp tại Ma Cao, đề ra các
nhiệm vụ phát triển và củng cố Đảng, thu phục quần chúng, mở rộng Mặt trận
phản đế, chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ Liên bang Xôviết. Đại hội thông qua
Điều lệ của Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới.
Đại hội lần thứ nhất của Đảng có ý nghĩa lịch sử quan trọng trong việc khôi
phục lại hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, nâng cao
niềm tin của cán bộ, đảng viên vào sự lãnh đạo của Đảng và sự phát triển của
phong trào cách mạng sắp tới.
Nhìn lại, qua sự khủng bố trắng trợn, tàn bạo của kẻ địch, Việt Nam Quốc
dân đảng đã bị tan rã hoàn toàn về tinh thần và tổ chức, còn Đảng ta tuy có bị
tổn thất nặng nề nhưng chưa bao giờ rối loạn về tư tưởng và bị phá vỡ hoàn toàn
về tổ chức. Qua thử thách, Đảng ta đã được tôi luyện hơn, tích luỹ thêm kiến
thức và kinh nghiệm, quan hệ Đảng với quần chúng ngày càng bền chặt hơn,
phong trào cách mạng được khôi phục tương đối nhanh chóng.
Trong thời gian này công tác tư tưởng đã được tiến hành kịp thời, sắc bén.
Việc đánh giá đúng tình hình đã góp phần quan trọng ổn định tình hình tư tưởng
cán bộ, đảng viên, nâng cao lòng tin vào lý tưởng và thắng lợi của cách mạng,
đẩy lùi các hiện tượng bi quan, dao động. Việc giáo dục khí tiết cách mạng trước
kẻ thù, kiên cường đấu tranh trong lao tù đã nêu gương sáng của những người
cộng sản về tinh thần hy sinh, bất khuất vì lợi ích cách mạng.
Ở trong tù, những người cộng sản không những đấu tranh để bảo vệ Đảng,
giảm bớt chế độ hà khắc của nhà tù mà còn lợi dụng cơ hội để trao đổi, tổng kết
kinh nghiệm công tác, huấn luyện về lý luận, chính trị và văn hoá cho đảng viên,
đào tạo hàng loạt cán bộ ưu tú cho Đảng. Đảng đã lợi dụng mọi khả năng hợp
26
pháp, nửa hợp pháp, lợi dụng báo chí công khai để tuyên truyền về lý luận Mác -
Lênin, đường lối cách mạng, đánh bại các quan điểm phản động, thoả hiệp, đầu
hàng chủ nghĩa đế quốc và tư tưởng thoát ly nhân dân, xa rời cách mạng.
Như vậy, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào việc khôi phục và
phát triển phong trào, chuân bị cho những cuộc đấu tranh rộng lớn hơn về sau.
Các đồng chí lãnh đạo của Đảng từ Trung ương đến các cấp đã trực tiếp chỉ đạo
công tác tuyên truyền cổ động, nhiều đồng chí trực tiếp phụ trách báo, viết bài,
biên soạn tài liệu tuyên truyền huấn luyện như các đồng chí: Ngô Gia Tự,
Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Trường Chinh, Hồ Tùng Mậu, v.v. .
27
III. THỜI KỲ MẶT TRẬN DÂN CHỦ
1. Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản, Hội nghị toàn quốc của Đảng và cuộc vận
động dân chủ
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933, do tác động của quy
luật phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản, những mâu thuẫn vốn có của nó
càng thêm sâu sắc. Bọn đế quốc không thể cai trị theo lối cũ bằng nền dân chủ
tư sản và chế độ đại nghị nữa mà chuyển sang nền chuyên chính phát xít.
Chuyên chính phát xít là nền chuyên chính tàn bạo, là sự khủng bố, đàn áp công
khai của những phần tử phản động, hiếu chiến nhất của tư bản tài chính. Nó
dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác để tăng cường bóc lột nhận dân lao động,
ráo riết chuẩn bị chiến tranh để chia lại thị trường và tiến công Liên bang
Xôviết. Chủ nghĩa phát xít đã hình thành ở nhiều nước tư bản châu Âu và chế độ
phát xít được thiết lập ở Đức, Ý, Nhật.
Bọn phát xít Đức, Ý, Nhật đã bắt đầu gây chiến (Ý xâm lược Abitsini; Đức,
ý giúp Phrăngcô gây nội chiến ở Tây Ban Nha, Nhật mở rộng xâm lược Trung
Quốc).
Trước sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến
tranh đế quốc, phong trào chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đã lan rộng ở
nhiều nơi thu hút không những công nhân và các tầng lớp lao động khác mà còn
cả một bộ phận giai cấp tư sản, từng lớp trí thức.
Tháng 7- 1935 , Quốc tế Cộng sản họp Đại hội lần thứ 7. Đại hội đã phân
tích bản chất chủ nghĩa phát xít, vạch rõ kẻ thù nguy hiểm nhất lúc này của nhân
dân thế giới là chủ nghĩa phát xít, không phải là chủ nghĩa đế quốc nói chung,
nhiệm vụ trước mắt là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh đế quốc
giành dân chủ và hoà bình mà chưa phải là đánh đổ chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa
đế quốc nói chung, Đại hội chủ trương xây dựng Mặt trận thống nhất của giai
cấp công nhân trên cơ sở đó thiết lập mặt trận nhân dân rộng rãi đấu tranh chống
chủ nghĩa phát xít.
Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược rất quan trọng của phong trào
cộng sản. Chủ trương đúng đắn này đã được thực hiện có kết quả ở nhiều nơi.
28
Tháng 5- 1936, Mặt trận nhân dân Pháp đã giành thắng lợi lớn trong cuộc tổng
tuyển cử và Chính phủ của Mặt trận lên cầm quyền. Chính phủ này bắt đầu thực
hiện một số cải cách theo chương trình tranh cử.
Ở Đông Dương, Đảng ta vượt qua cuộc khủng bố của quân thù, được tôi
luyện hơn, phong trào cách mạng cũng đã được khôi phục. Vấn đề đặt ra với
Đảng là vận dụng Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản vào hoàn cảnh Việt Nam,
tranh thủ cơ hội thuận lợi do Mặt trận nhân dân Pháp mang lại, chủ động đề ra
những chủ trương thích hợp cho cách mạng nước ta.
Tháng 7- 1936, Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp ở Thượng
Hải. Hội nghị phân tích tình hình quốc tế và trong nước, nêu rõ mục tiêu trước
mắt và đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến
tranh đế quốc đòi quyền dân chủ, cải thiện dân sinh, bảo vệ hòa bình.
Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông Dương là bọn phản động
thuộc địa và bè lũ tay sai. Hội nghị quyết định tạm thời chưa nêu “khẩu hiệu
đánh đổ đế quốc Pháp và giai cấp địa chủ, giành độc lập cho dân tộc và ruộng
đất cho dân cày.
Hội nghị quyết định thành lập mặt trận rộng rãi lúc đầu gọi là Mặt trận nhân
dân phản đế Đông Dương (sau đổi là Mặt trận dân chủ gồm các lực lượng cách
mạng, các đảng phái cách mạng quốc gia và cả cải lương nhằm thống nhất đấu
tranh cho dân chủ, dân sinh và hoà bình, chống bọn phản động thuộc địa và tay
sai.
Hội nghị cũng quyết định thay đổi các hình thức và phương pháp đấu tranh
từ tổ chức bí mật, đấu tranh bất hợp pháp là chính sang tổ chức và đấu tranh
công khai hợp pháp, nửa hợp pháp là chính để phù hợp với việc chuyển hướng
về mục tiêu và nhiệm vụ trước mắt. Riêng về xây dựng Đảng vẫn phải “củng cố
tổ chức và công tác bí mật hơn xưa”.
Để thực hiện bước đầu Nghị quyết hội nghị toàn quốc về chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược, sách lược, ngay từ tháng 8-1936 nắm thời cơ Mặt trận nhân dân
Pháp giành thắng lợi trong tuyển cừ, Quốc hội Pháp chuẩn bị cử một phái đoàn
điều tra sang Đông Dương để thực hiện một số điều cải cách theo chương trình
29
của Mặt trận nhân dân, Đảng đã chủ trương mở cuộc vận động Đại hội Đông
Dương. Nội dung cuộc vận động này là động viên các tầng lớp nhân dân nêu
nguyện vọng, lập thành bản dân nguyện gửi tới phái đoàn điều tra nhằm mục
tiêu trước mắt là đòi nhà cầm quyền Pháp thực hiện những cải cách, thực hành
tự do, dân chủ, cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây là dịp tốt để sử dụng mọi
khả năng hợp pháp thức tỉnh, tuyên truyền phát động quần chúng đấu tranh phù
hợp với điều kiện lúc ấy. Đảng kêu gọi các đảng phái, các tổ chức chính trị - xã
hội bao gồm các tổ chức quốc gia và cải lương thống nhất hành động theo một
chương trình chung, từng bước hình thành Mặt trận đấu tranh cho các quyền lợi
dân chủ, dân sinh của nhân dân chống bọn phản động thuộc địa.
Tháng 6- 1936, Đảng đã phát hành thư công khai của Trung ương Đảng gửi
toàn Đảng, từ đó đến cuối năm đã xuất bản một số tài liệu để hướng dẫn, giải
thích về việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược, sách lược và chủ trương về cuộc
vận động Đông Dương Đại hội:
- Mặt trận dân chủ thống nhất phản đế (tháng 6- 1936)
- Đông Dương Đại hội (tháng 9- 1936)
- Chung quanh vấn đề chính sách mới (tháng 10-1936)
- Kỷ niệm 7 năm thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 12- 1936).
Các tài liệu trên, nhất là cuốn sách Chung quanh vấn đề chính sách mới
phân tích sâu sắc chính sách mặt trận, mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu
tranh trong thời kỳ mới, uốn nắn những nhận thức sai lầm, đấu tranh với những
luận điệu phản động của bọn Tờrốtkít và các loại tay sai khác của chủ nghĩa đế
quốc.
Các tài liệu trên vạch rõ:
- "Mặt trận nhân dân phản đế là cuộc liên hợp hết các giai cấp trong toàn
dân tộc bị áp bức đặng tranh đấu đòi những đều quyền lợi hàng ngày cho toàn
dân, chống chế độ thuộc địa vô nhân đạo, để dự bị điều kiện cho cuộc vận động
dân tộc giải phóng được phát triển”[54]; “Nhiệm vụ cuộc cách mạng tư sản dân
quyền ở Đông Dương là đuổi đế quốc Pháp ra khỏi xứ, tẩy sạch tàn tích phong
kiến, Đông Dương hoàn toàn độc lập Chủ trương ấy không bao giờ di dịch,
30
nhưng chưa phải là nhiệm vụ trực tiếp lập tức của Mặt trận nhân dân phản đế
trong lúc hiện tại ở Đông Dương…”[55]
- Chính sách Mặt trận nhân dân phản đế không phải là “chủ nghĩa giai cấp
hợp tác”[56].Đứng trong hoàn cảnh đế quốc cứ tăng thêm áp bức và bóc lột
quần chúng không có một chút quyền tự do dân chủ nhỏ mọn nào để làm khí cụ
đấu tranh. Trong khi mà trình độ tranh đấu của quần chúng chưa tới trình độ
cao, những điều yêu cầu của quần chúng có nhiều điều giống với điều yêu cầu
của tư bản bản xứ, thì tại sao chúng ta không lấy những điều đó làm điều kiện để
hiệu triệu tất cả các giai cấp, các đảng phái trong một dân tộc bị áp bức ra tranh
đấu để thực hiện những điều yêu cầu rất thấp ấy?”[57]
“Trong lúc làm Mặt trận thống nhất với tư bản bản xứ, Đảng không bảo thợ
thuyền đừng tranh đấu chống tư bản bản xứ, Đảng không bao giờ bảo nông dân
đừng tranh đấu chống địa tô cao và nợ cao lãi"[58].
- Chính sách lập Mặt trận nhân dân phản đế không phải là "Pháp - Việt đề
huề". "Đảng tán thành đề huề với vô sản và quần chúng lao động ở Pháp, ủng hộ
Chính phủ tả phái để đòi hỏi những yêu cầu chính đáng cho toàn dân Đông
Dương, phản đối sự đề huề với bọn đại tư bản Pháp, với bọn phản động tay chân
Hítle, chúng làm phản cả nhân dân Pháp"[59].
- Về công tác tuyên truyền về Đảng, cần chú ý làm rõ: “Đảng ta cần phải là
đảng của dân chúng bị áp bức, đội tiền phong cho cuộc dân tộc giải phóng, chỉ
sợ rằng quảng đại quần chúng nhân dân không nhận hiểu chỗ đó, để bọn địch
nhân lợi dụng khẩu hiệu tuyên truyền chật hẹp của Đảng mà lừa gạt nông dân,
tiểu tư sản thành thị và các lớp khác trong dân tộc rằng: "Đảng Cộng sản là đảng
của giai cấp thợ thuyền, chỉ bênh vực quyền lợi cho số ít thợ thuyền"… Đảng
Cộng sản chỉ biết quyền lợi lao động thôi, không biết quyền lợi của “dân
tộc”[60].
Sự tuyên truyền cổ động phải hiện thực liên lạc với những đều nhu yếu trực
tiếp và “quyền lợi hàng ngày quần chúng”, của toàn dân tộc mới thích hợp”[61]
Việc tuyên truyền vận động Đông Dương Đại hội đã được tiến hành bằng
nhiều hình thức linh hoạt, phong phú gắn chặt với phong trào đấu tranh của quần
31
chúng. Đối với các tổ chức quốc gia và cải lương, Đảng vừa lôi kéo, hợp tác,
vừa đấu tranh chống lại mặt tiêu cực và mưu đồ tranh giành quyền lãnh đạo của
họ. Năm 1936, nhân dịp kỷ niệm ngày 1-5, cùng với việc nêu các khẩu hiệu đấu
tranh, Đảng kêu gọi thành lập Mặt trận thống nhất. Đảng phát hành “Thư ngỏ
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Việt Nam
Quốc dân Đảng và gửi tất cả các nhóm và các tổ chức cách mạng quốc gia, các
nhóm chống đế quốc, các tổ chức cải lương và phản động và các phần tử cách
mạng biệt lập ở Đông Dương”[62]. Về mặt tổ chức Đảng chỉ đạo lập ra các Uỷ
ban hành động để động viên giáo dục quần chúng. Phong trào bàt đầu từ Nam
kỳ rồi lan rộng ra cả nước. Các Uỷ ban hành động tổ chức mít tinh, hội họp quần
chúng công khai giải thích, thảo luận về tình hình thời cuộc về nguy cơ phát xít
và chiến tranh, về tình hình áp bức bóc lột của bọn thống trị thuộc địa, về quyền
lợi dân sinh, dân chủ, về tổ chức đấu tranh. Đảng sử dụng các báo chí tiến bộ
viết bài, in truyền đơn cổ vũ cho Đại hội Đông Dương tạo ra phong trào ngày
càng sôi nổi.
Trước tình hình trên, bọn thống trị thuộc địa không dám đàn áp trắng trợn
như trước mà dùng nhiều thủ đoạn xảo quyệt đối phó. Đảng đã kịp thời tuyên
truyền vạch những âm mưu của chúng và chỉ đạo quần chúng đấu tranh làm thất
bại những âm mưu ấy như vạch trần Phạm Huy Lục (Viện trưởng Viện Dân biểu
Bắc kỳ) triệu tập hội nghị “thân hào” thành phố, tự thảo ra bản “nguyện vọng
của dân”, tên khâm sứ Trung kỳ cho Lê Thanh Cảnh (Uỷ viên thường trực Viện
Dân biểu Trung kỳ) đứng ra hô hào Đại hội Đông Dương ở Huế để khống chế
phong trào. Từ giữa năm 1936, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh của các
tầng lớp nhân dân, giành nhiều thắng lợi đáng kể trong điều kiện lúc ấy. Chỉ
trong 6 tháng cuối năm, hơn 300 cuộc đấu tranh nổ ra liên tiếp ở thành thị và
nông thôn. Lớn nhất là cuộc đấu tranh thắng lợi của hơn 3 vạn thợ mỏ đòi tăng
lương ở Hòn Gai, Cẩm Phả, Uông Bí.
Trước sức mạnh của phong trào Mặt trận nhân dân, giới cầm quyền Pháp
thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa.
32
Việc làm có ý nghĩa chính trị lớn nhất của Chính phủ Pháp là ra sắc lệnh ân
xá chính trị phạm ở Đông Dương. Bọn thống trị ở Đông Dương buộc phải thi
hành một phần sắc lệnh này.
Hàng ngàn chính trị phạm đã được giải thoát, bổ sung nhiều cán bộ cho
phong trào cách mạng. Bộ trưởng thuộc địa Pháp cũng ra một số nghị định về
chế độ lao động buộc bọn thống trị Đông Dương phải thi hành một phần, như
thời gian lao động một ngày của công nhân, chế độ nghỉ chủ nhật, nghỉ phép
năm, tiền lương tối thiểu, chế độ học nghề.
Tuy Chính phủ Pháp và bọn cầm quyền ở Đông Dương phải có một số
nhượng bộ nói trên nhưng Chính phủ Pháp về bản chất vẫn là Chính phủ tư sản
nên đã đồng tình với bọn thống trị ở Đông Dương ra lệnh cấm Đại hội Đông
Dương và giải tán các Uỷ ban hành động.
Mặc dầu Đông Dương Đại hội bị cấm nhưng phong trào quần chúng ngày
càng được Đảng thức tỉnh, giác ngộ qua đấu tranh nên vẫn tiếp tục phát triển.
Đảng cũng có thêm hàng ngàn cán bộ ở tù ra và có thêm kinh nghiệm trong cuộc
đấu tranh công khai hợp pháp.
Tháng 1- 1937 Giúytstanh Gôđa được Chính phủ Pháp cử làm phái viên
điều tra sang Đông Dương, Bơrêviê được cử sang làm Toàn quyền mới. Nhân cơ
hội này Đảng đã chủ trương vận động quần chúng xuống đường đón "những đại
biểu của Mặt trận nhân dân Pháp", lấy cớ đó để tuyên truyền cổ động cho đường
lối của Đảng, phát động quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp đòi quyền
lợi dân sinh, dân chủ. Quần chúng đã xuống đường đem theo các khẩu hiệu "ủng
hộ mặt trận nhân dân Pháp" đồng thời nêu ra những khẩu hiệu đấu tranh "tự do
dân chủ", "tự do nghiệp đoàn", "tự do báo chí", "tự do đi lại", “tăng lương, giảm
giờ làm”, "thi hành luật lao động", "giảm tô, giảm tức", “giảm thuế".
Trong thời kỳ này thái độ, lập trường của Đảng đối với Mặt trận nhân dân
Pháp và Chính phủ Lêông Bơlum có ý nghĩa quan trọng đối với cách mạng
Đông Dương. Về vấn đề này, Đảng nhiều lần trình bày thái độ, lập trường của
mình, tập trung nhất trong bức thư công khai của Trung ương Đáng gửi các
đồng chí trong toàn Đảng (15-6- 1936), thư ngỏ gửi Chính phủ Pháp (tháng 10-
33
1936), tài liệu "chung quanh vấn đề chính sách mới" (tháng 10-1936), “vấn đề
Chính phủ Mặt trận nhân dân" (tháng 1-1937), thái độ của Đảng đối với Chính
phủ Lêông Bơlum là ủng hộ, nhưng không phải tuyệt đối mà “chỉ là tương đối
và tạm thời”.
“Chính phủ Bơlum chưa phải là Chính phủ kiên quyết chống phát xít và
phản động, thi hành hết chương trình của Mặt trận nhân dân"[63]. Vì vậy chúng
ta bênh vực, ủng hộ Chính phủ ấy khi họ thi hành những điều cải cách tiến bộ,
khi họ bị phát xít tấn công nhưng khi nó đi trái với quyền lợi của nhân dân thì
phải đấu tranh chống lại; "tính chất của Chính phủ Bơlum là Chính phủ tả phái,
… vấn đề độc lập hay tự trị, Đảng Cộng sản Đông Dương không hy vọng tới
Chính phủ Bơlum, mà trông vào sự thống nhất hành động của nhân dân Đông
Dương…
Không có tổ chức vững bền, không có hành động thống nhất thì không thể
đòi được điều mà Chính phủ tả phái có thể thi hành”[64]
Bất chấp mọi thủ đoạn phá hoại ngăn chặn của bọn cầm quyền, những cuộc
biểu tình biểu dương lực lượng “đón tiếp” Gôđa đã thu hút hàng vạn người ở Hà
Nội. Sài Gòn, Thừa Thiên Huế. Ở Hà Nội, hơn 3 vạn người đã biểu tình trước
nhà nghỉ của Gôđa. Ở Sài Gòn, hơn hai vạn người biểu tình, trong đó khoảng
năm ngàn người đa vượt qua hàng rào cảnh sát lọt vào cảng để gặp Gôđa.
2. Hội nghị Trung ương tháng 3-1937. Việc phát triển công tác báo chí,
xuất bản, phát hành, tuyên truyền tuyển cử và đấu tranh nghị trường
Việc chuyển hướng về chỉ đạo chiến lược, sách lược là một bước tiến mới
về tư duy lý luận độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng. Tài liệu “Chung quanh vấn
đề chiến sách mới của Đảng Cộng sản Đông Dương" nêu rõ: "Những người
cộng sản Đông Dương… hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin và thực hành chủ nghĩa
Mác - Lênin theo điều kiện hiện thực ở Đông Dương”[65]. "Chiến sách mới của
Đảng là chiến sách theo điều kiện hiện thực ở xứ Đông Dương, theo kinh
nghiệm tranh đấu của Đảng, học kinh nghiệm của Quốc tế Cộng sản và kinh
nghiệm của cuộc vận động cộng sản thế giới, không phải làm đem kinh nghiệm
xứ này sang xứ khác một cách như máy”[66].
34
Tháng 3- 1937: Trung ương Đảng họp hội nghị mở rộng để kiểm điểm tình
hình, bàn những chủ trương mới chủ yếu về các vấn đề tổ chức, tuyên truyền cổ
động, đấu tranh hợp pháp, công tác Mặt trận. Sau hội nghị, Trung ương đã ra
bản thông cáo ngày 20-3- 1937 cho toàn Đảng và xuất bản tài liệu chủ trương tổ
chức mới của Đảng. Các tài liệu trên giải thích những chủ trương mới, nêu
những biện pháp thực hiện.
Về tổ chức, tài liệu giải thích: "Hoàn cảnh mới, nhiệm vụ mới bắt buộc
Đảng ta phải có con đường chánh trị mới, con đường chánh trị mới lại bắt buộc
phải có một đường tổ chức mới”[67]; “Phải lợi dụng hết các hoàn cảnh thuận
tiện mà tổ chức ra các đoàn thể công khai và bán công khai để cho quần chúng
dễ tham gia, để cho họ có thể gia nhập được Mặt trận”[68]; “phải dùng những
cách tổ chức đơn sơ… mà kéo nhiều lớp dân chúng, hơn là tổ chức những hội
lấy tên là cách mệnh mà không có quần chúng”[69].
Riêng về tổ chức Đảng “về nguyên tắc tổ chức Đảng, chúng ta chú trọng về
chất lượng hơn là số lượng, còn về tổ chức quần chúng thì chúng ta lại hết sức
chú trọng về số lượng”[70]. Mỗi một đảng viên phải là một người chỉ đạo, một
người chịu sứ mạng đi phổ biến, tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Vì lẽ đó mà
các đồng chí ta phải lựa chọn các đảng viên cho khôn khéo, cho cẩn thận, đừng
để những phần tử phức tạp vào Đảng. Muốn cho Đảng thống nhất về các
phương diện lý tưởng và thực hành, được gồm những chiến sĩ hăng hái và trung
thành thì chúng ta không nên gặp ai là đem vào Đảng, chẳng thà có đảng viên ít
mà tốt hơn là có đảng viên nhiều mà bị động và phức tạp.
Về công tác tuyên truyền cổ động, Trung ương chủ trương phát triển mạnh
mẽ công tác báo chí, xuất bản, phát hành, huấn luyện, đào tạo cán bộ. Các biện
pháp là: phát triển xuất bản sách báo công khai, chọn đảng viên có trình độ viết
sách, viết bài trên báo công khai, mỗi chi bộ lập “bình dân thư xã” mua sách báo
công khai; khuyến khích quần chúng mua và đọc sách báo. Các cấp đảng bộ tái
bản những tài liệu tuyên truyền của Trung ương, lập ra Ban huấn luyện cho đảng
viên và quần chúng đào tạo cán bộ.
35
Về công tác Mặt trận: trong tình hình bị bọn cầm quyền ngăn chặn, chưa có
tự do tổ chức thì tên gọi và hình thức Mặt trận có thể linh hoạt.
Tuỳ theo điều kiện từng nơi có thể lập Mặt trận “từ trên xuống dưới, hay từ
dưới lên rồi sau sẽ thống nhất lên trên”. Quan trọng là phải xây dựng cơ sở cho
Mặt trận, nghĩa là phải tuyên truyền phát triển rộng rãi các hội quần chúng công
khai, nửa công khai rồi cử đại biểu vào tham gia các Uỷ ban Mặt trận. Chủ
trương của Đảng là lập Mặt trận rộng rãi bao gồm không những đại đa số nhân
dân trong nước mà cả những người Pháp dân chủ thống nhất hành động theo
chương trình chung.
Tham gia các cuộc tuyển cử: cần lợi dụng các kỳ tuyển cử mà tuyên truyền
các chủ trương, khẩu hiệu của Đảng. Chọn người của Đảng và người cảm tình ra
ứng cử, liên hiệp hành động với các đảng phái tiến bộ để giành thắng lợi trong
các kỳ tuyển cử.
Đối với phong trào “thỉnh nguyện”: cần lợi dụng mọi hoàn cảnh mà mở
rộng phong trào, chuẩn bị thảo ra những bản “dân nguyện” làm tài liệu tuyên
truyền và huy động đấu tranh đòi những cải cách dân sinh, dân chủ.
Việc thực hiện Nghị quyết Trung ương tháng 3- 1937 đem lại nhiều kết quả
tốt. Việc xuất bản sách báo công khai, phát hành sách báo đã phát triển mạnh
mẽ. Một số tờ báo công khai chính do Đảng lãnh đạo thời kỳ này là: ở Nam kỳ,
báo tiếng Việt có: Phổ thông, Dân chúng, là cơ quan của Trung ương Đảng, về
danh nghĩa công khai là của lao động và dân chúng Đông Dương. Lao động cơ
quan của xứ ủy Nam kỳ, danh nghĩa công khai là cơ quan bênh vực quyền lợi
cần lao. Báo tiếng Pháp có Tiên phong (Avant garde), Nhân dân (Le peuple) .
Người phụ trách các báo của Trung ương là đồng chí Hà Huy Tập.
Ở Trung kỳ, báo tiếng Việt có: Dân là cơ quan của xứ ủy Trung kỳ do đồng
chí Phan Đăng Lưu phụ trách, Nhành lúa do đồng chí Hải Triều làm thư ký tòa
soạn cũng do xứ ủy chỉ đạo. Ở Bắc kỳ, báo tiếng Việt có Tin Tức, Đời mới là cơ
quan của xứ ủy Bắc kỳ, Thế giới là cơ quan của Đoàn Thanh niên Dân chủ. Báo
tiếng Pháp có: Lao động (Le travail), Tập hợp (Rassemblement), Tiến lên (En
36
avant), Tiếng nói của chúng ta (Notre voix) do xứ ủy chỉ đạo. Các tờ báo trên do
các đồng chí Trường Chinh và Hoàng Quốc Việt phụ trách.
Mục tiêu của báo chí công khai lúc này là vạch trần tội ác man rợ, sự thối
nát, phản động của chế độ thuộc địa, tuyên truyền đường lối chủ trương của
Đảng, cổ vũ, động viên quần chúng đấu tranh đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ,
chống bọn phản động thuộc địa, cũng là bọn phát xít thuộc địa, phổ biến rộng rãi
kinh nghiệm đấu tranh.
Một số báo được phát hành hàng ngày khá rộng rãi như tờ Tin tức và tờ
Dân chúng từ 5.000 đến 15.000 số. Việc ủng hộ báo chí công khai của Đảng
cũng trở thành phong trào quần chúng, nhiều người đã quyên góp tiền ủng hộ
báo, giúp cho việc phát hành, tham gia đấu tranh đòi tự do báo chí, tự do xuất
bản.
Lần đầu tiên lao động Việt Nam có tiếng nói của mình trên báo chí công
khai. “Báo của chúng ta có hàng ngàn thông tin viên quần chúng, phản ánh rất
thiết thực lên báo tin tức đấu tranh sôi nổi của chính mình, đặt rõ lên mặt báo
những yêu sách eủa mỗi cuộc đấu tranh khiến bọn cầm quyền không thể làm
ngơ được cổ vũ mỗi thắng lợi dù nhỏ, phổ biến nhùng kinh nghiệm tổ chức và
đấu tranh của quần chúng đầy tính chất sáng tạo”[71].
Ảnh hưởng của báo chí cách mạng tràn sang các báo khác, do vậy mà nội
dung nhiều tờ báo cũng có tiến bộ lên. Nhiều nhà báo nói: "So báo chí sau năm
1936 với báo chí trước năm 1936 không ai có thể chối cãi được là giọng báo chí
của ta có tiến bộ rõ rệt”[72]
Tháng 3- 1937, các đồng chí cộng sản miền Trung tổ chức hội nghị báo chí
Trung kỳ có đại biểu báo chí miền Bắc và miền Nam tham dự. Tháng 6- 1937,
các đồng chí ở miền Bắc tổ chức hội nghị báo chí Bắc kỳ có đại biểu báo chí
miền Trung, miền Nam và một số nhà báo Pháp tham dự. Các hội nghị trên tố
cáo chế độ báo chí phát xít ở Đông Dương, đề ra chương trình hành động đòi tự
do nghiệp đoàn, bảo đảm quyền tự do cá nhân của người làm báo. Những việc
trên đã thức tỉnh và lôi cuốn nhiều nhà báo tham gia phong trào tiến bộ, tranh
37
thủ sự ủng hộ của một số nhà báo Pháp và cổ vũ thúc đẩy thêm phong trào đấu
tranh của quần chúng.
Để đối phó với ảnh hưởng ngày càng rộng rãi của báo chí công khai của
Đảng, bọn thống trị đã ra lệnh đóng cửa báo, bắt giam người làm báo, khám xét,
tịch thu tài sản của báo, nhà in, truy nã những người làm báo, người đọc và lưu
giữ sách báo tiến bộ. Mặc dù chúng dùng mọi thủ đoạn đàn áp trắng trợn báo chí
công khai vẫn phát triển, tờ này bị cấm, tờ khác lại xuất bản.
Cùng với việc xuất bản báo chí. Đảng ta còn xuất bản nhiều loại sách phổ
thông tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, về việc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Liên Xô, về cách mạng Trung Quốc. Có những cuốn sách có giá trị được độc
giả đánh giá cao như: Chủ nghĩa Các Mác của đồng chí Hải Triều giới thiệu về
chủ nghĩa Mác; Vấn đề dân cày của đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp
(ký tên Qua Ninh và Vân Đình) vạch tội ác của đế quốc phong kiến đối với nông
dân, xác định vị trí của nông dân trong cách mạng và con đường giải phóng
nông dân; Tờrốtkít và phản cách mạng của đồng chí Hà Huy Tập (ký tên Thanh
Hương) vạch rõ chủ nghĩa Tờrốtkít là công cụ của chủ nghĩa phát xít; Ba năm ở
Nga Xôviết của đồng chí Trần Đình Long là tập phóng sự, hồi ký về Liên Xô và
thành quả Cách mạng Tháng Mười. Đảng mở ra những hiệu sách để phát hành
sách báo ở nhiều địa phương. Sách báo của Đảng lưu hành rộng rãi, có ảnh
hưởng cả đến ngôn ngữ, văn chương Việt Nam “chính từ khi có phong trào,
ngôn ngữ của ta giầu ra, văn đấu tranh, văn chính trị bây giờ sắc lắm"[73].
Cũng trong thời gian này, nhiều tác phẩm văn nghệ hiện thực phê phán ra
đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan.
Toà soạn báo và các hiệu sách còn là nơi các tầng lớp nhân dân đến liên hệ để
hỏi ý kiến về cách đấu tranh bênh vực quyền lợi của mình, là nơi liên hệ giữa
Đảng với các tổ chức chính trị - xã hội khác. Đó cũng là đầu mối liên lạc giữa bộ
phận hợp pháp và không hợp pháp của Đảng, có khi là nơi móc nối liên lạc giữa
các đảng bộ với Trung ương, giữa Đảng với cán bộ hoạt động ở nước ngoài, với
các Đảng anh em và Quốc tế Cộng sản. Sách báo của ta tuy ra nhiều nhưng độc
giả là người lao động cùng khổ còn rất ít vì đại đa số họ không biết chữ. Do đó
38
các đồng chí lãnh đạo ở Bắc Kỳ vận động cụ Nguyễn Văn Tố lập ra Hội truyền
bá quốc ngữ, giúp cho người lao động nghèo biết đọc, biết viết, để có thể đọc
sách báo cách mạng. Các lớp học này ở nhiều nơi còn là lớp chính trị phổ thông
cho quần chúng.
- Về việc tham gia tuyển cử vào các Viện dân biểu, Hội đồng thành phố,
Hội đồng quản hạt, mục đích của Đảng cũng là lợi dụng cơ hội để có thể tuyên
truyền giác ngộ quần chúng, đấu tranh bênh vực quyền lợi của họ. Nhờ làm tốt
công tác tuyên truyền cổ động, có chủ trương đúng, phù hợp với quyền lợi,
nguyện vọng của dân, có sách lược mềm dẻo tranh thủ rộng rãi, lợi dụng mâu
thuẫn trong nội bộ bọn thống trị nên Đảng ta giành nhiều thắng lợi trong việc
đưa người của Đảng và người có cảm tình với Đảng, đại biểu cho nhân dân lao
động vào các tổ chức nói trên.
Các hội quần chúng cũng phát triển mạnh mẽ. Các hội ái hữu của công
nhân, thợ thủ công được xây dựng khắp các ngành, các địa phương, các xí
nghiệp. ở nông thôn có hội hiếu, hội hỉ, hội cấy, hội gặt. Trong thanh niên có hội
đọc sách báo, hội thể thao, ca kịch v.v. . Hàng triệu quần chúng được tập hợp
vào tổ chức, được tuyên truyền giáo dục bằng nhiều cách nên đã tạo ra cơ sở để
hình thành trên thực tế Mặt trận thống nhất. Nhiều hình thức liên hiệp hành động
với các nhóm, các tổ chức đã hình thành để chống phản động thuộc địa.
Phong trào đấu tranh của công nhân ở các thành phố rất sôi nổi. Nhiều cuộc
bãi công lớn ở Nhà máy dệt Nam Định, xưởng Ba Son (Sài Gòn), mỏ Vàng
Danh, lớn nhất là cuộc bãi công của công nhân đường sắt trên cả tuyến Nam
Đông Dương tháng 7- 1937.
Ở nông thôn cũng có hàng trăm cuộc biểu tình của nông dân đòi giảm sưu
thuế, chống sự nhũng lạm, ức hiếp của bọn cường hào.
3. Hội nghị Trung ương tháng 8-1937 và tháng 3-1938, việc hình thành
Mặt trận dân chủ và tác phẩm Tự chỉ trích
Hội nghị Trung ương tháng 8- 1937 và tháng 3- 1938 kiểm điểm tình hình
các mặt, khẳng định thành công trong hơn một năm qua, như: đã khôi phục hệ
thống tổ chức Đảng, phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân phát triển,
39
ảnh hưởng của Đảng ngày càng mở rộng, hầu hết các cuộc bãi công của công
nhân, bãi thị của tiểu thương, đấu tranh của nông dân đều do các tổ chức Đảng
chỉ đạo, việc liên hiệp hành động với các tổ chức chính trị xã hội chống bọn
phản động thuộc địa đã có kết quả bước đầu, v.v. .
Trung ương cũng chỉ ra các khuyết điểm, sai lầm trên các mặt eông tác chủ
yếu là phê phán khuynh hướng cô độc, hẹp hòi trong công tác tuyên truyền, tổ
chức và đấu tranh việc thoả hiệp với bọn Tờrốtkít của một số đồng chí ở Nam
kỳ.
Về công tác tuyền truyền, cổ động, Trung ương phê phán cách tuyên truyền,
cổ động còn ít chú ý đến tâm lý, nguyện vọng và trình độ quần chúng và hoàn
cảnh từng nơi, lúc nào cũng cổ động biểu tình, bãi công, cướp chính quyền.
Trong báo chí nội dung bài vở nhiều khi chưa thiết thực, thiên về lý thuyết, khi
đề cập tới nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân mới chú ý tới công nông, chưa
chú ý tới các tầng lớp tiểu tư sản và tư sản dân tộc, báo chí chưa trở thành cơ
quan ngôn luận của toàn thể nhân dân.
Trung ương nêu rõ ý nghĩa quan trọng của việc thành lập Mặt trận dân chủ
“Vấn đề lập Mặt trận dân chủ thống nhất là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng
trong giai đoạn hiện tại”[74]; “Cần đưa hết toàn lực của Đảng, dùng hết phương
pháp”[75] để thành lập được Mặt trận dân chủ.
Về công tác tuyên truyền, cổ động, cần tổ chức hợp lý việc xuất bản sách
báo công khai, xuất bản một tờ báo công khai có tính chất toàn xứ Đông Dương,
có ảnh hưởng toàn xứ, có thể thông tin nhanh để đối phó kịp thời với thời cuộc.
Các sách lý thuyết, các luận cương chính trị, truyền đơn của Đảng phải dùng lời
lẽ khôn khéo để có thể in công khai. Sách báo của Đảng phải biến thành những
tài liệu cổ động tuyên truyền chẳng những cho quần chúng lao động mà cả cho
toàn thể nhân dân. Đồng thời vẫn cần có báo, tài liệu bí mật để giải thích những
vấn đề mà sách báo công khai không đề cập được.
Về huấn luyện, phải có nhiều bản chương trình thống nhất để cho thích hợp
với trình độ khác nhau của đảng viên, có tài liệu huấn luyện cho cấp dưới, giảng
dạy thiết thực phục vụ cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Đảng.
40
Trong năm 1938 có nhiều đợt tuyên truyền cổ động lớn gắn với làn sóng
đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân. Nổi bật là trong dịp kỷ niệm 1-5, lần đầu tiên
ngày Quốc tế lao động được tổ chức công khai ở Đông Dương. Ở Hà Nội Đảng
thông qua bộ phận báo chí công khai (nhóm Tin học) vận động chi nhánh Đảng
Xã hội Pháp đứng ra xin phép tổ chức kỷ niệm. Đến ngày 1-5, hơn 2 vạn 5 ngàn
người từ các địa điểm tập trung kéo về khu Đấu Xảo dự mít tinh (nay là địa
điểm Cung văn hoá hữu nghị). Đây thực sự là cuộc biểu dương lực lượng của
nhân dân, của các đoàn thể quần chúng. Mọi người hàng ngũ chỉnh tề đi qua các
đường phố hô vang các khẩu hiệu cách mạng. Trước lễ đài cuộc mít tinh có treo
các khẩu hiệu lớn: "ủng hộ mặt trận bình dân Pháp”, "Đi tới Mặt trận dân chủ
Đông Dương"; “tự do nghiệp đoàn”; "chống nạn thất nghiệp"; "chống nạn sinh
hoạt đắt đỏ"; "tự do dân chủ"; "đi tới phổ thông đầu phiếu"; "chống phát xít và
chiến tranh". . . 12 lá cờ đỏ lớn của các đoàn thể quần chúng được giương cao.
Khi mít tinh khai mạc, sau bài Quốc ca Pháp, quần chúng theo sự chỉ đạo hát
vang bài Quốc tế ca. Sau đó các đại biểu lên phát biểu ý kiến, không chỉ có đại
biểu Đảng Xã hội Pháp mà còn cả đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương, đại
biểu các tầng lớp công nhân, nông dân, trí thức, phụ nữ, tiểu thương ở nhiều địa
phương khác cũng tổ chức ngày kỷ niệm công khai, ở Sài Gòn, cuộc mít tinh
cũng thu hút hàng ngàn người, ở Hà Nội, lần đầu tiên, được tổ chức ngày 1-5
hợp pháp. Ngày đó thật là lớn, và đối với Đông Dương có thể nói là vĩ đại.
Việc tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động là một thành công lớn của
Đảng trong việc huy động, tổ chức và lãnh đạo quần chúng, liên hiệp hành động
với chi nhánh Đảng Xã hội Pháp, tạo thêm thế công khai, hợp pháp làm cho địch
dù căm tức cũng khống ngăn cấm được.
Tiếp theo là kỷ niệm ngày Cách mạng Pháp 14-7, Đảng sử dụng khả năng
hợp pháp tổ chức mít tinh, hội họp ở một số thành phố, sử dụng sách báo công
khai tuyên truyền cho thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, chủ trương lập Mặt
trận dân chủ ở Đông Dương đưa khẩu hiệu đấu tranh cho tự do, cơm áo, hoà
bình, chống phát xít và chiến tranh.
41
Công tác tuyên truyền cổ động cũng được tiến hành sôi nổi góp phần giành
thàng lợi trong cuộc tranh cử vào Viện dân biểu Bắc kỳ (15 người do Mặt trận
dân chủ đưa ra đã thắng cử), thắng lợi cả trong Hội đồng kinh tế - lý tài Đông
Dương (2 đại biểu do Mặt trận đưa ra đã thắng cử). Công tác tuyên truyền cổ
động cũng góp phần tích cực vào thắng lợi bác bỏ dự án tăng thuế lần thứ nhất ở
Trung kỳ tháng 9-1938 bằng nhiều hình thức: hội họp lấy chữ ký vào các bản
nguyện vọng, phát ngôn ở Viện dân biểu, phân phát truyền đơn, biểu tình, phản
ánh tin tức, bình luận trên báo chí, kết hợp 3 mặt đấu tranh: đấu tranh của quần
chúng bên ngoài, đấu tranh trên báo chí và đấu tranh trong Viện dân biểu.
Ngày 22-7-1938, Đảng xuất bản ở Sài Gòn tờ Dân chúng là cơ quan ngôn
luận của Trung ương, không xin phép bọn cầm quyền. Việc này đã được nhân
dân đồng tình ủng hộ mạnh mẽ buộc địch phải lùi bước, ngày 30-8 chúng buộc
phải công nhận thực hiện luật tự do báo chí ở Nam kỳ.
Trước nguy cơ bọn phát xít ráo riết chuẩn bị chiến tranh thế giới, trực tiếp ở
Đông Dương là bọn phát xít Nhật đang chuẩn bị xâm chiếm, Hội nghị Trung
ương tháng 3-1938 cũng có Nghị quyết riêng về vấn đề phòng thủ Đông Dương.
Chủ trương của Đảng là nâng cao cảnh giác cho nhân dân chống âm mưu
xâm lược của phát xít Nhật và âm mưu đầu hàng thoả hiệp của bọn thực dân
phản động Pháp, đòi bọn cầm quyền Đông Dương phải thực hiện những cải cách
dân chủ, dân sinh, vũ trang cho dân để nhân dân có khả năng tham gia phòng
thủ. Công tác tuyên truyền liên tục làm rõ chủ trương này, giải đáp những thắc
mắc, hiểu lầm rằng chủ trương phòng thủ Đông Dương là đi theo đế quốc Pháp,
không quan tâm đến độc lập dân tộc, rời bỏ lợi ích dân tộc, chống lại những luận
điệu xuyên tạc, vu cáo của bọn Tờrốtkít.
Ngày 29- 10- 1938, Đảng ra bản “Tuyên ngôn về thời cuộc” đăng trên báo
Dân chúng kêu gọi các đảng phái dân chủ của người Việt Nam, các đoàn thể, cá
nhân và cả người nước ngoài đoàn kết trong Mặt trận dân chủ “để vì tự do, hoà
bình và cơm áo mà tranh đấu phòng thủ Xứ sở”.
Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga, Đảng sử dụng khả năng
hợp pháp để giải thích ý nghĩa Cách mạng Tháng Mười, giới thiệu việc xây
42
dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, cổ động ủng hộ Liên xô chống phát xít và
chiến tranh trên sách báo công khai, tổ ehứe các cuộc hội họp nhỏ trong quần
chúng để đọc báo, nói chuyện. Cuối năm 1938, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ
Liên Xô qua đường Trung Quốc chuẩn bị về nước. Đồng chí đã có nhiều ý kiến
chỉ đạo đúng đắn về đường lối, chủ trương, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng
Đông Dương. Đồng chí còn gửi cho Đảng ta 9 bài báo của mình nói về cuộc đấu
tranh chống phát xít của nhân dân Pháp, nhân dân Tây Ban Nha, nhân dân Trung
Quốc, về cuộc đấu tranh chống bọn Tờrốtkít ở các nước đăng trên các tờ Dân
chúng, và Tiếng nói của chúng ta của Đảng. Những ý kiến của đồng chí đã giúp
Trung ương Đảng thêm vững vàng trong việc lãnh đạo và chỉ đạo phong trào
Mặt trận dân chủ.
Đầu năm 1939, Mặt trận dân chủ cung với chi nhánh Đảng Xã hội, Hội
nhân quyền Pháp ở miền Bắc, tổ chức một cuộc hội chợ lớn để quyên góp ủng
hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc.
Từ khi Đalađiê, người của Đảng Xã hội cấp tiến lên cầm đầu Chính phủ
Pháp, chính sách của Chính phủ càng đi sâu vào con dường phản động. Bọn
thống trị ở Đông Dương lợi dụng cơ hội tàng cường bóc lột, đàn áp, bắt bớ lực
lượng cách mạng. Báo Dân chúng bị đình bản, nhân viên toà soạn bị bắt, tài liệu,
tài sản bị tịch thu. Báo Dân ở Trung kỳ cũng bị đóng cửa.
Ngày 10-3-1939, Đảng ra Thông cáo khẩn cấp kêu gọi toàn Đảng lãnh đạo
chống khủng bố, đòi tự do dân chủ mở rộng chế độ tuyển cử, toàn xá tù chính
trị, thả nhân viên toà soạn báo Dân chúng, cải thiện đời sống nhân dân.
Ngày 28-3 và 27-4 Đảng liên tiếp ra Tuyên ngôn về tình hình chung và
đường lối chủ trương của Đảng, phân tích tình hình thế giới và tình hình Đông
Dương, chỉ rõ nguy cơ chiến tranh và nạn phát xít đã tới gần, kêu gọi nhân dân
đoàn kết trong Mặt trận dân chủ, chống phản động thuộc địa, chống phát xít và
chiến tranh, vạch mặt bọn Tờrốtkít và đề phòng bọn tay sai của Nhật.
Ngày 10-3- 1939, Đảng ra Thông cáo khẩn cấp kêu gọi toàn Đảng lãnh đạo
chống khủng bố, đòi tự do dân chủ, mở rộng chế độ tuyển cừ, toàn xá tù chính
trị, thả nhân viên tòa soạn báo Dân chúng, cải thiện đời sống nhân dân.
43
Ngày 16-4- 1939 ở Nam kỳ diễn ra cuộc bầu cử Hội đồng quản hạt, Mặt
trận dân chủ không giành được thắng lợi, trái lại bọn Tờrốtkít đã thắng ở quận
thứ hai, Sài Gòn. Việc này gây ra một cuộc tranh luận trong Đảng về nguyên
nhân thất bại. Có đồng chí đã viết bài đăng báo, giải thích lệch lạc, phê phán một
cách sai lầm chủ trương của Đảng.
Để thống nhất nhận thức trong Đảng về đường lối, chính sách của Đảng,
nhất là về xây dựng Mặt trận dân chủ, về cuộc tranh cử phê phán những quan
điểm sai trái nhằm tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng, đồng chí Nguyễn
Văn Cừ, Tổng Bí thư đã viết tác phẩm Tự chỉ trích in trong tập sách Dân chúng
tháng 7- 1939.
Trước hết, đồng chí Nguyễn Văn Cừ khẳng định một số vấn đề về nguyên
tắc xây dựng Đảng như giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, luôn đặt lợi ích
của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, nguyên tắc phê bình, tự phê bình trong Đảng.
Phê bình và tự phê bình phải nhằm mục đích tăng cường sự thống nhất trong
Đảng, củng cố và nâng cao uy tín của Đảng, giáo dục đảng viên và giáo dục
quần chúng, đưa phong trào tiến lên. “… Bao giờ sự chỉ trích cũng là tự chỉ trích
Bônsơvích, nghĩa là để huấn luyện quần chúng và giúp đảng viên tự huấn luyện,
để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng được càng thống nhất
và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ
không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng -
đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh
hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè
phái, chia rẽ trong hàng ngũ Đảng”[76]
Phân tích về nguyên nhân thất bại của cuộc tranh cử, đồng chí nêu rõ một
phần là do chính sách đàn áp của kẻ thù đối với người ra ứng cử của Đảng, do sự
lừng chừng hèn nhát của các phần tử cải lương, nhưng phần quan trọng là do
những khuyết, nhược điểm chủ quan của ta: Mặt trận dân chủ chưa vững chắc và
rộng rãì, công tác tuyên truyền còn trừu tượng, ít đề cập đến tình trạng nhân dân
bị bọn phản động thuộc địa đàn áp, bóc lột, ít chú ý vạch trần những thủ đoạn
tàn ác của bọn phát xít, coi thường nguy cơ Tờrốtkít lừa bịp quần chúng.
44
Đồng chí phê phán những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số cán bộ
về chính sách Mặt trận dân chủ, làm rõ một số quan điểm cơ bản của Đảng trong
đường lối, chính sách và những kinh nghiệm lớn của Đảng trong quá trình xây
dựng Mặt trận. Đồng chí khẳng định Mặt trận dân chủ không tách rời Mặt trận
thống nhất dân tộc chống đế quốc “chính sách lập Mặt trận dân chủ của Đảng là
sự liên hiệp các lớp nhân dân các đảng phái tấn bộ để chống phát xít và chế độ
thuộc địa phản động, là một hình thức đặc biệt của Mặt trận phản đế rộng
rãi”[77].
Bác bỏ quan điểm: không đánh đổ một giai cấp, một đảng phái nào của
người bản xứ. chỉ đánh đổ những phần tử phản động, đồng chí vạch rõ: chính
sách của Đảng chỉ liên hiệp với các đảng phái cách mạng, các đảng phái cải
lương tán thành cải cách, không phân biệt giai cấp, tôn giáo, dân tộc chứ không
thể liên hiệp với các đảng phái và giai cấp, không thấy trong một giai cấp có thể
có nhiều đảng phái, một đảng phái có khi chỉ là đại biểu cho một tầng lớp trong
một giai cấp mà thôi. Đồng chí chỉ ra một số kinh nghiệm lớn: cần liên minh với
các đảng phái tán thành dân chủ và tiến bộ thuộc từng lớp trên nhưng trước hết
phải thực hiện được sự liên minh với quần chúng, xây dựng khối liên minh công
nông làm cơ sở. Không sợ phong trào quần chúng mạnh mà tư sản dân tộc và
các đảng phái cải lương rời bỏ Mặt trận, mà ngược lại phong trào quần chúng
không đủ mạnh sẽ làm họ không đủ tin để tham gia Mặt trận.
- Chính sách mặt trận của Đảng vừa liên minh bên trên, vừa liên minh bên
dưới, cô lập bọn phản động, tranh thủ những người tiến bộ và lừng chừng, tranh
thủ đông đảo quần chúng trong các đảng phái cải lương. Ta không liên minh với
Đảng phái phản động nhưng phải thức tỉnh, tranh thủ những quần chúng bị lầm
đường mà đi theo họ.
- Liên minh với các đảng phái tư sản, với giai cấp tư sản phải vừa đoàn kết,
vừa đấu tranh, vừa nhân nhượng có nguyên tắc, vừa phê phán mặt lừng chừng,
dao động của họ, giữ vững sự độc lập về chính trị và tổ chức của giai cấp công
nhân và sự lãnh đạo của Đảng.
45
- Sách lược mặt trận là cần phân biệt kẻ thù nguy hiểm nhiều và kẻ thù
nguy hiểm ít lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để tập trung mũi nhọn
chống kẻ thù nguy hiểm nhất.
Tác phẩm Tự chỉ trích có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn vượt ra
ngoài phạm vi một cuộc tranh cử, là một văn kiện tổng kết kinh nghiệm của
Đảng trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, đóng góp vào lý luận và chính sách Mặt
trận thống nhất của Đảng.
Tháng 9- l939, Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, Chính phủ Anh, Pháp
tuyên chiến với Đức. Bọn thống trị ở Đông Dương thực hiện chính sách đàn áp
trắng trợn, xoá bỏ một số quyền dân sinh, dân chủ còn rất ít ỏi mà quần chúng
mới giành được. Chúng truy lùng, bắt bớ hàng loạt chiến sĩ cách mạng, ra lệnh
tổng động viên bắt lính, bắt phu. Đảng phải chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
trong thời kỳ mới.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng
tạo ra một cao trào cách mạng sôi nổi, là cuộc tổng diễn tập thử hai cho thắng lợi
của Cách mạng Tháng Tám vể sau. Công tác tư tưởng đã gắn chặt với mục tiêu,
nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ này đấu tranh cho tự do dân chủ, cải thiện đời
sống và hoà bình, chống phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh. Đã
coi trọng làm rõ mối quan hệ giữa cách mạng Đông Dương với cách mạng Liên
Xô, Pháp, Trung Quốc và thế giới, quan hệ công nhân, lao động nước ta với
công nhân, lao động thế giới, kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Công tác tư tưởng đã gắn chặt với công tác tổ chức và lãnh đạo
quần chúng trong các đợt đấu tranh, chống các khuynh hướng sai lầm: cô độc,
hẹp hòi, bảo thủ, rụt rè, thoả hiệp vô nguyên tắc trong việc thực hiện chính sách
mặt trận, có khi sa vào chủ nghĩa công khai, vi phạm những nguyên tắc bí mật.
Công tác tư tưởng cũng đã liên tục tố cáo tội ác và các thủ đoạn lừa bịp của địch
và bè lũ tay sai, chống lại những luận điệu xuyên tạc, chia rẽ của bọn Tờrốtkít.
Trong thời kỳ này, Đảng triệt để lợi dụng khả năng hợp pháp để mở rộng công
tác tuyên truyền cổ động trong quần chúng, tổ chức các cuộc hội họp, mít tinh,
vận động tranh cử, xuất bản và phát hành sách báo công khai, tạo điều kiện cho
46
đường lối, chủ trương của Đảng đi vào quần chúng rộng rãi, góp phần thúc đẩy
sự phát triển của văn hoá dân tộc, cổ vũ mạnh mẽ khí thế của phong trào cách
mạng. Đồng thời, Đảng vẫn giữ gìn nhưng nguyên tắc hoạt động bí mật, tiếp tục
chỉ đạo việc xuất bản báo chí, tài liệu bí mật để đề cập những vấn để không thể
công bố trên báo công khai.
Trong cuộc vận động lập Mặt trận dân chủ, Đảng ta không coi nhẹ vấn đề
dân tộc. Tuy nhiên công tác tư tưởng cũng có khuyết điểm là: “không giải thích
rõ ràng lập trường của mình về vấn đề độc lập dân tộc”[78].
Chưa nêu được những khẩu hiệu thích hợp để phát triển tinh thần dân tộc
của nhân dân.
Nhìn chung các cấp uỷ Đảng đều rất coi trọng công tác tuvên huấn, nhiều
đồng chí lãnh đạo trực tiếp làm công tác này, các cấp uỷ đều có phân công cấp
uỷ viên phụ trách công tác tuyên huấn có cán bộ phụ trách báo. Tuy nhiên cũng
có nhược điểm là nhiều cấp uỷ chưa xây dựng được ban chuyên môn để làm
tham mưu và giúp cấp uỷ chỉ đạo thường xuyên công tác này.
47
IV. CAO TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ TỔNG KHỞI NGHĨA
THÁNG TÁM (9-1939 - 8-1945)
1. Phục vụ chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
Các hội nghị Trung ương 6, 7, 8 và việc thành lập Mặt trận Việt Minh.
Chiến tranh Thế giới lần thứ hai bùng nổ ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình
Đông Dương. Bọn thống trị Đông Dương thi hành chính sách phát xít, bắt bớ,
truy lùng, đàn áp trắng trợn những người cách mạng, đình bản, tịch thu sách báo
tiến bộ, giải tán các tổ chức quần chúng. Chúng ra lệnh tổng động viên, vơ vét
lương thực, của cải, phương tiện giao thông bắt hàng vạn lính đưa sang Pháp,
hàng chục vạn phu xây dựng các công trình quân sự. Thấy trước chiến tranh sắp
nổ ra Đảng đã chuẩn bị tư tưởng cho đảng viên và quần chúng về nguy cơ chiến
tranh trước mắt, chuân bị cho một số cán bộ rút vào hoạt động bí mật và tạo điều
kiện chuyên dần trọng tâm công tác về nông thôn.
Ngày 23-9- 1939, Đảng xuất bản tài liệu Giải thích về hiệp ước Liên Xô -
Đức, làm cho cán bộ và nhân dân hiểu chính sách nhất quán chống phát xít của
Liên Xô. Việc ký hiệp ước chỉ là nhằm phá thủ đoạn của đế quốc Anh, Mỹ thúc
đẩy phát xít Đức tấn công Liên Xô, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
để tăng cường khả năng quốc phòng của mình: “Liên Xô cần phải mềm mỏng
sáng suốt đề phòng không để cho quân thù xô mình vào cạm bẫy, vào vũng bùn
lầy chiến tranh để cho chúng hưởng lợi, Liên Xô phải biết khôn khéo chia rẽ lực
lượng quân thù không để cho chúng cố kết nhau đập lại mình”[79]
Bản giải thích kịp thời giải đáp những thắc mắc, hoài nghi của một số cán
bộ, quần chúng về chính sách của Liên Xô và những luận điệu xuyên tạc, vu cáo
của đế quốc và bọn Tờrốtkít.
Ngày 29-9-1939, Trung ương ra bản Thông cáo cho các đồng chí các cấp
bộ, phân tích tình hình thế giới và trong nước nêu ra phương hướng và một số
nhiệm vụ trước mắt nhằm kịp thời chuyển hướng các mặt hoạt động của Đảng.
Thông cáo nhận định: “… hiện nay tình hình đã thay đổi nhiều. Hoàn cảnh
Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”. Trung ương Đảng chỉ
thị cho các cấp phải chuyển hướng các mặt công tác: các tổ chức đảng, đảng
48
viên, tổ chức quần chúng phai rút vào bí mật. đình chỉ các cuộc biểu tình, đề
phòng địch khủng bố. Về eông tác tuyên truyền cổ động, phải chỉnh đốn các cơ
quan ấn loát, phát hành, chuẩn bị đỉều kiện cần thiết cho việc ấn loát sau này, tổ
chức mua và đọc sách báo của Đảng, kể cả việc thu góp các sách báo có giá trị
để “nghiên cứu chính trị nung đúc lấy tinh thần”[80]. Thông cáo kêu gọi tinh
thần hy sinh cách mạng của cán bộ đảng viên, không những hy sinh thì giờ và
tính mạng mà còn bằng cách "nhịn ăn bớt mặc mà lạc quyên cho Đảng trong giờ
phút cấp tốc này”[81] khi tình hình tài chính Đảng đang gặp khó khăn.
Tháng ll- 1939 Hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng họp dưới sự chủ
trì của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã giải quyết vấn đề chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược trong thời kỳ mới. Hội nghị nhấn mạnh chiến tranh thế
giới sẽ gây tai hoạ lớn cho nhân loại nhưng tiền đồ cách mạng sẽ rất sáng sủa
"Một thế giới quang minh rực rỡ sẽ thay cho cái thế giới tối tăm mục nát
này”[82]. Hội nghị dự đoán: Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương, Pháp sẽ đầu hàng
Nhật, chế độ cai trị ở Đông Dương sẽ trở thành chế độ phát xít quân phiệt thuộc
địa tàn bạo. Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng
Đông Dương, là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Do đó, tạm gác khẩu hiệu cách
mạng ruộng đất, đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản
bội quyền lợi dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân
tộc phản đế Đông Dương.
Về xây dựng Đảng, Hội nghị nhấn mạnh sự thống nhất ý chí và hành động
trong toàn Đảng, thắt chặt mối liên hệ với quần chúng, chống khuynh hướng rụt
dè, không dám đấu tranh, chống manh động, cô độc, hẹp hòi…
Về công tác tuyên truyền, cổ động, Hội nghị đề ra phương hướng, nội dung
và các biện pháp trong thời kỳ mởi. Phương hướng chung là phải nhằm vào mục
đích đánh đổ đế quốc, giành độc lập dân tộc. “Phản đế, giải phóng dân tộc". Tất
nhiên tất cả các lực lượng tuyên truyền phải xoay vào cái tinh thần phản đế và
nhằm đến cái mục đích đánh đổ đế quốc, đòi giải phóng dân tộc”[83]. Về nội
dung, cần giáo dục tinh thần yêu nước chân chính kết hợp chủ nghĩa quốc tế vô
49
sản, ý thức thống nhất dân tộc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên các quyền lợi khác,
gắn quyền lợi của các tầng lớp nhân dân với quyền lợi của dân tộc, làm cho nhân
dân tin vào sức mạnh của mình và thắng lợi của cách mạng, chống lại mọi luận
điệu và thủ đoạn lừa bịp của bọn đế quốc và tay sai.
“Kêu gọi lòng ái quốc chân chính, những tập truyền tốt đẹp của dân tộc…
Mở rộng và nâng cao tinh thần dân tộc, làm cho mỗi người trong các giai cấp có
ý thức về sự tồn vong của dân tộc và sự liên quan mật thiết của vận mạng dân
tộc với lợi ích cá nhân mình…”[84]
Về phương pháp, phải kiên trì, sát hợp với hoàn cảnh, sách vở công khai
không có thì phải có sách báo bí mật, phát triển việc sử dụng truyền đơn, khẩu
hiệu, tranh vẽ, thi ca. Coi trọng việc ra báo bí mật và tuyên truyền miệng, có
người chuyên công tác tuyên truyền trong các dân tộc ít người, lập Ban chuyên
môn tuyên truyền.
Sau Hội nghị. nhiều đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng bị bắt nhưng
Nghị quyết Hội nghị vẫn được phổ biến, công tác tư tưởng của Đảng đã dược
thực hiện theo phương hướng mới. Mặc dầu sự khủng bố gắt gao của địch phong
trào đấu tranh chính trị của quần chúng vẫn phát triển ở nhiều nơi. Tình hình
chuyển biến dồn dập: phát xít Đức chiếm nước Pháp, phát xít Nhật vào Đông
Dương , bọn thực dân Pháp quỳ gối dâng Đông Dương cho Nhật. Khởi nghĩa
Bắc Sơn bùng nổ. Tiếp sau là khởi nghĩa Nam Kỳ và Đô Lương.
Hội nghị Trung ương bảy tháng 11- 1940 căn cứ vào sự phân tích tình hình
thế giới và ảnh hưởng của chiến tranh với Đông Dương, chủ trương mở rộng
Mặt trận phản đế, tổ chức các đội tự vệ, tiến lên “võ trang bạo động giành lấy
quyền tự do, độc lập”[85]. Hội nghị xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông
Dương lúc này là phát xít Pháp - Nhật. Mặt trận phản đế lúc này thực chất là
Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp - Nhật.
Về công tác tuyên truyền, cổ động, Hội nghị ghi nhận do cơ quan Trung
ương bị tổn thất nên tờ báo thống nhất của toàn Đảng chưa ra được, nhưng mỗi
xứ vẫn có riêng một tờ báo làm cơ quan tuyên truyền, cổ động cho toàn xứ: Tiến
lên ở Nam kỳ, Bẻ xiềng sắt ở Trung kỳ, Giải phóng ở Bắc kỳ, một số khu và liên
50
tỉnh có báo riêng. Mỗi xứ đều xuất bản được những cuốn sách phổ thông nhỏ về
những vấn đề đặc biệt.
Ngoài việc tuyên truyền bằng sách báo, truyền đơn, biểu ngữ, cờ đỏ, băng,
v.v. đảng bộ Nam kỳ đã tổ chức ra các đội tuyên truyền chuyên môn đi diễn
thuyết ở những chỗ đông người. Hội nghị nhận định “có một khuyết điểm lớn là
chưa có một Ban tuyên truyền, huấn luyện và lý luận trung ương để soạn và dịch
những sách huấn luyện và lý luận căn bản”[86]
Về công tác tuyên truyền, cổ động của Mặt trận, Hội nghị xác định "cái
mấu chốt" của công tác cổ động tuyên truyền của Mặt trận lúc này là ra một tờ
báo làm cơ quan chung của Mặt trận. Hội nghị quyết định hai vấn đề eấp thiết
trước mắt:
- Phát triển ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn.
- Hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
Hội nghị đã cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do đồng chí Trường
Chinh làm Quyền Tổng Bí thư.
Chủ trương hoãn cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ là đúng nhưng chưa kịp phổ
biến thì lệnh khởi nghĩa của Xứ uỷ đã phát đi nên không thực hiện được. Tiếp
theo đó lại nổ ra là cuộc nổi dậy của binh lính ở Đô Lương.
Ban Thường vụ Trung ương đã ra “Thông cáo khẩn cấp” cho các đảng bộ tổ
chức những cuộc hưởng ứng đê phân tán lực lượng của đế quốc, cổ vũ tinh thần
cách mạng của quần chúng, sử dụng mọi hình thức đấu tranh thích hợp, chống
địch khủng bố, đàn áp. “Lời kêu gọi các dân tộc Đông Dương của Đảng Cộng
sản Đông Dương” (1940) , vạch rõ sự đầu hàng của đế quốc Pháp dâng Đông
Dương cho phát xít Nhật, khêu gợi lòng yêu nước, phát huy truyền thống dân
tộc đoàn kết chiến đấu để tự giải phóng cho mình. "Cơ hội đã đến, dân chúng
Đông Dương phải phát động ngay cuộc tiến công cuối cùng để diệt trừ hết lũ đế
quốc giết người cướp nước bất kỳ Pháp hay là Nhật. Tất cả những linh hồn trong
sạch, con cháu của các vị cứu quốc anh hùng bất tử, lịch sử dung cảm oanh liệt
của ông cha để lại ngày nay ta không thể không nối gót được…”[87]
51
Trung ương cũng ra lời kêu gọi binh lính "hưởng ứng cách mạng Bắc Sơn
và Nam Kỳ" dùng khí giới của giặc Pháp bắn vào đầu giặc Pháp, “hãy mau mau
đứng dậy vì đồng bào, Tổ quốc giết lũ giặc tham tàn”[88].
Trong một thời gian ngắn chỉ hơn ba tháng, ba cuộc nổi dậy đã diễn ra ở cả
ba miền Bắc, Trung, Nam tuy chưa thắng lợi nhưng đã để lại những kinh
nghiệm về khởi nghĩa vũ trang. Nó báo hiệu một thời kỳ mới của cách mạng đã
bắt đầu: thời kỳ khởi nghĩa giành chính quyền.
Đầu năm 1940, đồng chí Nguyễn Ái Quốc tới Côn Minh bắt liên lạc với
Đảng. Cuối năm 1940, đồng chí mở lớp huấn luyện đào tạo cán bộ ở một làng
sát biên giới Việt - Trung. Các bài giảng của đồng chí và một số đồng chí lãnh
đạo khác về đường lối cách mạng Việt Nam và phương pháp công tác của người
cán bộ được tập hợp lại, in thành cuốn sách Con đuờng giải phóng. Tháng 2-
194 l, đồng chí về nước ở vùng Pắc Bó (Cao Bằng), tiếp tục mở các lớp huấn
luyện ngắn ngày cho cán bộ. Đồng chí đã lược dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng
sản Liên Xô làm tài liệu học tập cho cán bộ cấp tỉnh.
Tháng 5- 194 l, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương họp ở
Pắc Bó do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì. Hội nghị đã phân tích tình hình thế
giới và trong nước, dự báo chính xác: “Cuộc đế quốc chiến tranh lần này sẽ đẻ
ra nhiều nước xã hội chủ nghĩa, do đó mà cách mạng nhiều nước thành
công”[89], “Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công…, tất cả các điều
kiện ấy sẽ giúp cho các cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển và rồi đây lực
lượng sẽ lan rộng ra toàn quốc để gây một cuộc khởi nghĩa toàn quốc rộng
lớn”[90].
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước màt là giải phóng dân tộc.
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai
cấp, đến vạn năm cũng không đòi lại được”[91]
Hội nghị khẳng định lại việc tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, đề ra
khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công. Theo đề nghị của đồng chí
52
Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định đổi tên Mặt trận "cho có tính chất dân tộc
hơn, cho có một mãnh lực dễ hiệu triệu hơn và nhất là có thể thực hiện được
trong tình thế hiện tại”[92]
Mặt trận lấy tên là “Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là Việt
Minh, các đoàn thể lấy tên mới là các hội cứu quốc. Hội nghị nhận định: nhiệm
vụ trung tâm của Đảng và dân ta trong giai đoạn hiên tại là chuẩn bị khởi nghĩa.
Căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta "có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa
từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành sự thàng lợi mà mở đường
cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”[93]
Về công tác tuyên truyền, hội nghi xác định “phải áp dụng một chiến thuật
hết sức mềm dẻo, thống nhất, thích hợp với chính sách cứu quốc của Đảng và
sát với tình thế xảy ra hàng ngày… trong lúc này không nên đưa chủ nghĩa cộng
sản ra tuyên truyền, huy hiệu cờ đỏ búa liềm không nên dùng luôn. Các sách báo
tuyên truyền không nên dùng danh nghĩa Đảng nhiều, phải lấy danh nghĩa các
đoàn thể cứu quốc và Việt Minh thay vào. Phải khêu gợi tinh thần cứu quốc
mạnh mẽ, thức tỉnh một cách thống thiết những tình ái quốc của nhân dân. Phải
nêu cao những gương hy sinh phấn đấu của Bắc - Sơn, Nam - Kỳ, Đô - Lương
và những bậc tiền bối hy sinh vì tổ quốc”[94].
Các Ban tỉnh ủy phải có Ban tuyên truyền chuyên môn, đề ra phương pháp,
kế hoạch tuyên truyền, viết sách báo, truyền đơn, biểu ngữ để cổ động trong dân
chúng.
Hội nghị nhấn mạnh việc đào tạo cán bộ, “Việc đào tạo cán bộ nay đã thành
công tác gấp rút, không thể bỏ qua một giờ phút. Tất cả các cấp bộ chỉ huy của
Đảng phải đặc biệt chú ý công tác này… mau mau tìm ra những đảng viên trung
thành, có bảo đảm chắc chắn, có năng lực sáng tạo, lập ra các lớp huấn luyện…
phải ra các tài liệu huấn luyện như sách, tạp chí…”[95]
2. Phục vụ xây dựng lực lượng, chuẩn bị khởi nghĩa
Hội nghị Thường vụ Trung ương tháng 2-1943
Sau Hội nghị Trung ương tháng 6- 194 l đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư
kêu gọi toàn dân đoàn kết, đánh đuổi Pháp- Nhật. Bức thư kêu gọi: “Hiện thời,
53
muốn đánh Pháp, Nhật ta chỉ cần một điều: Toàn dân đoàn kết… việc cứu quốc
là việc chung, ai là người Việt Nam đều phai kề vai gánh vác một phần trách
nhiệm, người có tiền góp tiền, người có của góp của, người có sức góp sức,
người có tài năng góp tài năng”[96]. Nghị quyết Hội nghị Trung ương và bức
thư của đồng chí Nguyễn Ái Quốc được phổ biến nhanh chóng tới đảng viên và
quần chúng cách mạng. Tháng 10-1941 Mặt trận Việt Minh công bố tuyên ngôn,
chương trình và điều lệ. Tuyên ngôn nói rõ: “Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước
mắt. Hiện thời chúng ta chỉ có một con đường mưu sống là đoàn kết, thống nhất,
đánh đuổi Nhật - Pháp, trừ khử Việt gian.
Mở con đường sống ấy cho đồng bào, Việt nam độc lập đồng minh (Việt
minh) ra đời, chào các bạn…”[97]. Chương trình cứu nước của Việt Minh là
"cốt thực hiện hai điều mà toàn thể đồng bào đang mong ước:
1. Làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn độc lập.
2. Làm cho dân Việt Nam được sung sướng, tự do”[98]
Trung ương quyết định xuất bản tờ Cứu quốc là cơ quan của Tổng bộ Việt
Minh, số l ra ngày 25- 1-1942 lúc đầu do đồng chí Trường Chinh, sau do đồng
chí Xuân Thủy phụ trách. Tiếp đó, Trung ương quyết định xuất bản tờ Cờ giải
phóng là cơ quan của Trung ương Đảng để chỉ đạo công tác tư tưởng, chính trị
trong Đảng do đồng chí Trường Chinh phụ trách, số l ra ngày 10- 10- 1942. Các
tờ báo trên đã khắc phục nhiều khó khăn xuất bản trong cả nước, thường xuyên
phân tích tinh hình thời cuộc, kịp thời giải thích các nhiệm vụ chủ trương của
Đảng và mặt trận, đập tan các luận điệu địch hướng dẫn cán bộ và nhân dân tổ
chức và đấu tranh. Cùng với thư kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đây là
hai vũ khí sắc bén của Đảng để giáo dục cán bộ, hướng dẫn nhân dân, tổ chức
lực lượng cách mạng, hình thành đội quân chính trị rộng lớn tiến tới tổng khởi
nghĩa.
Cuối năm 194l và đầu năm 1942 nhiều đảng bộ trong cả nước đã tổ chức
mít tinh, phân phát thư kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, tuyên ngôn của
Mặt trận Việt Minh, viết biểu ngữ, treo cờ giới thiệu Mặt trận Việt Minh. Bản
chương trình của Việt Minh được soạn thành văn vần cho đồng bào dễ nhớ, dễ
54
thuộc. Các địa phương xây dựng lực lượng Việt Minh, thành lập các hội công
nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ nữ cứu quốc, tự vệ
cứu quốc. Ở các nhà tù, các đồng chí lập ra Hội lao tù cứu quốc. Đường lối chủ
trương đúng của Đảng đi vào quần chúng và biến thành sức mạnh. Phong trào
phát triển ngày càng mạnh mẽ nhất là ở Cao Bằng và vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai,
hình thành hai khu căn cứ đầu tiên của cách mạng ở Việt Bắc.
Để chống lại chính sách khủng bố của địch, giữ vững và đưa phong trào
tiến lên, Trung ương Đảng đã ra thông cáo “Phải dùng đủ cách để chống khủng
bố”. Thông cáo vạch rõ chính sách khủng bố tàn bạo của đế quốc chỉ là biểu
hiện "một chính sách cuối cùng của một nền thống trị yếu ớt, sắp đổ nát”. Thông
cáo cho rằng khủng bố của địch có kết quả hay không một phần lớn là do ta.
Thông cáo đã nêu những biện pháp chống khủng bố một cách tích cực và chủ
động, dựa vào phong trào cách mạng của nhân dân, tôn trọng các nguyên tắc bí
mật. Thông cáo đã phê phán các xu hướng sai lầm: không kịp thời thay đổi cách
làm việc cho hợp với tình hình mới, khi bị khủng bố lại hoảng sợ, mất tỉnh táo,
thậm chí thủ tiêu tranh đấu, hoài nghi quần chúng, có nơi chạy hoảng loạn làm
rối loạn cả hệ thống tổ chức của Đảng và Mặt trận, có nơi lại theo đuôi quần
chúng, khủng bố cá nhân.
Trong năm 1941 và đầu năm 1942 đồng chí Nguyễn Ái Quốc viết hai tác
phẩm Lịch sử nước ta (diễn ca) và Địa lý Việt Nam đã có tác dụng quan trọng
góp phần giáo dục lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết chiến đấu hy sinh vì đất
nước, nhất là Lịch sử nước ta viết bằng văn vần giản dị, dễ hiểu, dễ thuộc được
nhân dân phổ biến rộng rãi. Hai tác phẩm Cách đánh du kích và Cách huấn
luyện cán bộ quân sự trình bày một số kinh nghiệm chiến đấu du kích của các
nước, và bước đầu nêu một số vấn đề về đường lối quân sự chuẩn bị cho khởi
nghĩa vũ trang. Đồng chí đã chỉ ra quan điểm đúng đắn về khởi nghĩa vũ trang là
toàn dân nổi dậy, thắng lợi của khởi nghĩa phải do kết quả nổi dậy của toàn dân
kết hợp với tiến công của lực lượng vũ trang. Đồng chí sáng lập và viết bài cho
báo Việt Nam độc lập là cơ quan ngôn luận của Việt Minh ở Cao Bằng. Đó là tờ
55
báo bí mật, bán lấy tiền đầu tiên ở nước ta, được quần chúng yêu mến và có ảnh
hưởng rất lớn đến phong trào địa phương.
Sau Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng (tháng 5-1941), tình hình
thế giới có những thay đổi nhanh chóng. Ngày 22-6-1941 phát xít Đức tấn công
Liên Xô. Cuộc chiến tranh giữa hai tập đoàn đế quốc đã chuyển thành cuộc
chiến tranh giữa các lực lượng dân chủ do Liên Xô làm trụ cột với các lực lượng
phát xít. Ngày 7- 12- 1941, phát xít Nhật tấn công cảng Trân Châu của Mỹ và
tuyên chiến với Anh, Mỹ.
Khi được tin phát xít Đức tấn công Liên Xô, Đảng ra chỉ thị phát động
phong trào ủng hộ Liên Xô kháng chiến. Khi chiến tranh Thái Bình Dương nổ
ra, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra thông cáo Cuộc chiến tranh Thái Bình
Dương và trách nhiệm cần kíp của Đảng. Thông cáo nhận định thế giới đã chia
thành hai mặt trận dân chủ và phát xít, cách mạng Đông Dương là một bộ phận
quan trọng trong mặt trận dân chủ chống phát xít. Thông cáo chỉ rõ trước mắt
phát xít Nhật sẽ ra sức bóc lột nhân dân Dông Dương để "lấy chiến tranh nuôi
chiến tranh". Các đảng bộ địa phương cần vận động nhân dân đấu tranh chống
bắt lính, bắt phu, vơ vét tài sản của dân, củng cố các đội tự vệ, mở rộng lực
lượng du kích. Xét chung toàn quốc những điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi
nhưng ở những nơi có quân Anh, Mỹ hoặc Trung Quốc vào thì đảng bộ địa
phương phải lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền rồi nhân danh
chính quyền nhân dân mà giao thiệp với họ.
- Về tuyên truyền, bản thông cáo chỉ ra nội dung: phải làm cho nhân dân
nhận rõ thái độ của nhân dân Đông Dương là đứng về phe Liên Xô - Anh - Mỹ -
Trung Quốc, làm cho Pháp - Nhật thất bại. Rút cục thế nào Nhật cũng thất bại,
đánh tan luận điệu của bọn mật thám và việt gian thân Nhật nói rằng: “Nhật thua
thì nhân dân Đông Dương khổ hơn bây giờ" vạch cho nhân dân Đông Dương
thấy rằng “Nhật thua thì chỉ có xiềng xích của Nhật - Pháp sẽ tan rã và đó là cơ
hội thuận tiện nhất cho ta cướp chính quyền”[99], “Phải cổ động cho nhân dân
Đông Dương nhận thấy rằng: lúc này tham gia vào công việc cứu quốc còn hơn
là đi lính chết thay cho phát xít và giúp tiền cho cách mạng còn hơn là để cho
56
Nhật-Pháp cướp không. Phải đặc biệt tuyên truyền binh lính (cả lính Pháp và
lính Nhật) đổi chiến tranh phát xít xâm lược ra cách mạng giải phóng”[100].
Theo nội dung tuyên truyền trên đây, Trung ương Đảng ra “Lời kêu gọi
đồng bào, các đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương”.
Bản kêu gọi kết luận “Một cao trào cách mạng trong nước và trên thế giới đã bắt
đầu nổi dậy…
Cơ hội giải phóng của chúng ta đã đến! các đảng phái và các tầng lớp nhân
dân hãy thống nhất lại! Đảng Cộng sản Đông Dương sẽ tình nguyện đi tiên
phong lãnh đạo cho các dân tộc Đông Dương khởi nghĩa cướp chính
quyền"[101].
Từ cuối năm 1941 đến cuối năm 1942, phong trào cách mạng có những
bước tiến mới. Hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Vũ Nhai được phát triển ra
các vùng lân cận, Cứu quốc quân được bảo toàn và phát triển lực lượng đã tăng
cường hoạt động xây dựng cơ sở ở Thái Nguyên, Tuyên Quang. Phong trào Việt
Minh ở các tỉnh khác cũng phát triển mạnh mẽ, nhiều cuộc đấu tranh của nông
dân phản đối việc trưng mua nông sản, đòi chia lại công điền, chống địch khủng
bố. Mặc dù có nhiều khó khăn do địch kiểm soát gắt gao, nhiều cuộc đấu tranh
của công nhân vẫn nổ ra ở Hà Nội, Hòn Gai, Sài Gòn.
Để bảo vệ cán bộ, chống khủng bố; Ban Tuyên truyên của Đảng xuất bản tài
liệu Công tác bí mật hướng dẫn những điều phải làm để giữ được nguyên tắc bí
mật trên các mặt công tác, trong sinh hoạt nội bộ và khi bị địch bắt. Để nhanh
chóng đào tạo cán bộ cung cấp cho phong trào đang mở rộng, nhiều tỉnh, huyện
nhất là ở các khu căn cứ đã mở ra các lớp huấn luyện ngắn ngày, các hội nghị
bồi dưỡng về chính trị, quân sự.
Cuối năm 1942, tình hình thế giới và trong nước ngày càng biến chuyển
nhanh chóng. Quân đội Liên Xô chuyển sang chiến lược phản công và thắng lợi
ở Xtalingrát. Anh, Mỹ cũng đẩy mạnh hoạt động trên các mặt trận. Ở Đông
Dương mâu thuẫn Pháp, Nhật phát triển sâu sắc hơn, thời cơ giành thắng lợi cho
ta đang tới gần. Cuối tháng 2- 1943, Ban Thường vụ Trung ương họp để bàn
57
việc mở rộng Mặt trận thống nhất và đẩy mạnh việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang.
Về việc mở rộng Mặt trận, Hội nghị chủ trương liên minh với tất cả các
đảng phái và các nhóm yêu nước ở trong và ngoài nước chưa gia nhập Việt
Minh, phát triển hội Quân nhân cứu quốc để tập hợp binh lính, thành lập Việt
Nam cứu quốc hội để vận động tư sản, địa chủ yêu nước, Hội Văn hoá cứu quốc
để đoàn kết trí thức và các nhà văn hoá. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận
dân chủ chống Nhật, đoàn kết Hoa kiều chống Nhật và bắt tay có điều kiện với
phái pháp Đờ Gôn về vấn đề chuẩn bị khởi nghĩa. Hội nghị nhấn mạnh việc xây
dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, nhất là trong công nhân để chuẩn bị khởi
nghĩa ở trung tâm đầu não của quân thù, coi trọng việc huấn luyện các đội tự vệ,
du kích, nắm vững thời cơ khởi nghĩa.
Về tuyên truyền: phải chú ý vạch rõ sự tất thắng của Liên Xô và các lực
lượng dân chủ, gây cho nhân dân tin tưởng chắc chắn vào cách mạng, làm cho
nhân dân nhận rõ việc ủng hộ Liên Xô một cách thiết thực và triệt để là tranh
đấu vũ trang đánh vào dinh luỹ phát xít ở Đông Dương chuẩn bị nổi dậy giành
chính quyền. Trên báo chí phải có mục riêng về chiến thuật và kinh nghiệm khởi
nghĩa, phổ biến rộng rãi những tài liệu về chiến thuật đánh du kích. Soạn sách
riêng cho thanh niên, chống lại chính sách mê hoặc và lôi kéo thanh niên của
phát xít Nhật, Pháp.
Về văn hoá: "Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn hoạt động về văn hoá,
đặng gây ra một phong trào văn hoá tiến bộ, văn hoá cứu quốc, chống lại văn
hoá phát - xít, thụt lùi. Ở những đô thị văn hoá như Hà Nội, Sài - Gòn, Huế, v.v.
phải gây ra những tổ chức văn hoá cứu quốc và dùng những hình thức công khai
hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hoá và trí thức…”[102]
Về công tác tư tưởng trong Đảng, hội nghị đề ra một số quyết định:
- Làm cho Đảng thống nhất về tư tưởng và hành động đấu tranh chống các
xu hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi có hại cho việc thực hiện chính sách mới của
Đảng, xu hướng manh động làm cho Đảng thất bại đau đớn và những xu hướng
58
ỷ lại, bị động và thủ tiêu đã khiến cho Đảng không làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo
phong trào[103].
- Các đảng bộ phải thảo luận kỹ những chỉ thị, nghị quyết của Trung ương.
Gây phong trào học tập chủ nghĩa Mác - Lênin và nghiên cứu các vấn đề quân
sự.
- Mở các lớp huấn luyện ngắn ngày ở cảc cấp bộ để đào tạo cán bộ, mỗi cấp
bộ phải có ít nhất một cán bộ chuyên môn làm việc này. Về Ban tuyên truyền cổ
động Trung ương, Hội nghị cũng nhận xét: “Có đồng chí thiên về việc ra sách
báo của Mặt trận dân tộc thống nhất mà xao lãng việc xuất bản tờ báo của Đảng
thành ra phạm phải chủ nghĩa thủ tiêu” (Ban tuyên truyền cổ động Trung ương)
[104].
Sau Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương, các khu căn cứ: Cao Bằng, Bắc
Sơn-Vũ Nhai vượt qua các cuộc càn quét của địch, được xây dựng vung chắc và
mở rộng sang các vùng lân cận: Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Hà
Giang, Bắc Giang. Đồng bào các dân tộc Tày, Nùng, Dao trong nhiều xã đã
tham gia hầu hết vào các đoàn thể cứu quốc. Đảng xuất bản tài liệu Kinh nghiệm
Việt Minh ở Việt Bắc, giới thiệu toàn diện những kinh nghiệm về xây dựng tổ
chức. Việt Minh, tuyên truyền huấn luyện, chống khủng bố, chuẩn bị vũ trang
khởi nghĩa. Tài liệu này đã giúp ích nhiều cho việc huấn luyện cán bộ để phát
triển phong trào cứu quốc và chuẩn bị cuộc khởi nghĩa vũ trang sắp tới.
Trong thời gian này, nhiều cuộc đấu tranh của nông dân chống nhổ lúa
trồng đay, chống thu thóc, chống bắt lính, bắt phu đã nổ ra khắp nước. Ở thành
thị, phong trào công nhân, học sinh, sinh viên cũng phát triển mạnh.
Công tác tuyên truyền được triển khai mạnh mẽ để vạch thủ đoạn đánh lạc
hướng và lôi kéo thanh niên bằng khẩu hiệu “khoẻ để phụng sự” của thực dân
Pháp và thủ đoạn lừa bịp “lập khối thịnh vượng chung” của phát xít Nhật. Nhiều
địa phương tổ chức các tổ, đội tuyên truyền đi nói chuyện, phân phát truyền đơn
trong các cuộc họp, mít tinh. Nhiều báo bí mật của Đảng và Mặt trận được xuất
bản. Ở Trung ương có các tờ: Cờ giải phóng, Tạp chí Cộng sản, Cứu quốc. Các
địa phương có các báo: Việt Nam độc lập, Chặt xiềng, Giải phóng, Tiên phong,
59
Kháng địch, Mê Linh, Bãi Sậy… các ngành, đoàn thể có báo: Lao động, Gái ra
trận, Quân giải phóng, Kèn gọi lính. Trong các nhà tù cũng có nhiều tờ báo tay:
Suối Reo (Sơn La), Bình Minh (Hoà Bình), Thông reo (Chợ Chu)…
Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hoá. Đề cương xác định văn hoá
là một trong ba mặt trận cách mạng (chính trị, kinh tế và văn hoá). Đề cương
nêu rõ nguy cơ của nền văn hoá Việt Nam dưới ách phát xít Nhật, Pháp; phân
tích mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng văn hoá; khẳng định
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng văn hoá.
Đề cương nhấn mạnh nhiệm vụ trước nhất là xây dựng một nền văn hoá yêu
nước Việt Nam, chống lại văn hoá thực dân, phát xít, phong kiến. Nền văn hoá
ấy phải dựa trên ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Đề cương văn hoá đã vạch ra phương hướng đấu tranh đúng đắn chống thực
dân, phát xít, xây dựng đường lối văn hoá mới của Đảng, tập hợp các nhà văn
hoá, trí thức để tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đề cương văn hoá Việt
Nam là văn kiện chính thức đầu tiêtỉ của Đảng về công tác văn hoá, văn nghệ,
phân tích đúng đắn tình hình đời sống văn hoá dưới ách Pháp - Nhật, vạch ra
đường lối văn hoá cách mạng và những nhiệm vụ trước mắt, tiến tới xây dựng
nền văn hoá dân tộc, nhân dân. Năm 1943, Hội Văn hoá cứu quốc ra đời, cơ
quan ngôn luận của Hội là Tạp chí Tiên phong số 1 ra tháng 7- 1944. Năm 1944,
Đảng ta giúp một số trí thức yêu nước, tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt
Nam. Cơ quan ngôn luận của Đảng là tờ Độc lập.
Sang năm 1944, tình hình chiến tranh thế giới chuyển biến mau lẹ. Quân
Liên xô giải phóng nhiều vùng đất nước và tiến sát biên giới phía Tây. Trong
nước ta, khí thế cách mạng sôi sục ở nhiều địa phương. Tổng bộ Việt Minh chỉ
thị “Sửa soạn khởi nghĩa". Tháng 9-1944, đồng chí Trường Chinh viết bài trên
báo Cờ giải phóng số 7 “Cái nhọt bọc sẽ phải vỡ mủ” dự báo trước mâu thuẫn
Nhật - Pháp sắp bùng nổ xung đột, nêu ra những nhiệm vụ khi thời cơ đến. Sau
khi đồng chí Hoàng Văn Thụ bị xử bắn, Đảng chủ trương tổ chức một lớp đảng
viên mới lấy tên là "lớp đảng viên Hoàng Văn Thụ" nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển và củng cố Đảng trong tình hình mới, giáo dục truyền thống kiên cường bất
60
khuất, trung thành đối với cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Tháng 10-1944,
sau khi về nước, đồng chí Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào, nhan đề là:
Thư của Cụ Hồ Chí Minh gửi đồng bào năm 1944. Bức thư kêu gọi chuẩn bị
một cuộc "Toàn quốc đại biểu Đại hội" cử ra một cơ cấu "đủ lực lượng và oai
tín, trong thì lãnh đạo việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu
bang”[105]. Bức thư đã tiên đoán sáng suốt: "Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu
diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân
tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp, ta
phải làm nhanh!”[106]
Đồng chí quyết định hoãn cuộc phát động chiến tranh du kích ở Cao - Bắc -
Lạng, chủ trương lập ra Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân và tăng
cường các hoạt động vũ trang tuyên truyền làm đòn bẩy cho cao trào cách mạng
và chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân ghi ngay đoạn mở đầu: “1- Tên: Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền…”
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ
đạo đã đánh thắng hai trận đầu tiên ở Phai Khắt, Nà Ngần và đẩy mạnh hoạt
động vũ trang tuyên truyền rất có hiệu quả ở Việt Bắc. Đồng bào nhiệt liệt tham
gia Mặt trận Việt Minh và ủng hộ Đội tuyên truyền giải phóng quân.
3. Cao trào kháng Nhật cứu nước và Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945
Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới đi vào giai đoạn kết thúc. Phát xít Đức
sắp bị diệt ở mặt trận châu Âu. Phát xít Nhật cũng bị nguy khốn ở mặt trận Thái
Bình Dương. Để loại trừ nguy cơ bị Pháp đánh sau lưng, Nhật làm đảo chính lật
đổ Pháp ngày 9-3-1945. Ngay trong đêm đảo chính, hội nghị Thường vụ Trung
ương họp do đồng chí Trường Chinh chủ trì. Căn cứ vào Nghị quyết của Hội
nghị, Ban Thường vụ Trung ương ra chỉ thị: "Nhật - Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta". Hội nghị quyết định nhiều vấn đề quan trọng[107] để gấp
rút chuẩn bị tiến tới Tổng khởi nghĩa:
61
- Về đối tượng cách mạng: kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước mắt là phát xít
Nhật. Thay khẩu hiệu "Đánh đuổi Nhật, Pháp" bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát
xít Nhật".
- Đánh giá tình thế cách mạng: điều kiện khởi nghĩa toàn quốc chưa chín
muồi nhưng "Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau
chín mùi"[108]. Đó là: quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng, nạn đói
ghê gớm làm cho nhân dân càng oán ghét quân thù, chiến tranh đến giai đoạn
quyết liệt…”[109]
- Nhiệm vụ trước mắt: “phát động một cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh
mẽ, làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi nghĩa", "sẵn sàng chuyển qua hình thức
Tổng khởi nghĩa một khi đã đủ điều kiện", thực hiện nhiệm vụ trên, phải chuyển
hướng công tác tuyên truyền, tổ chức và tranh đấu.
- Về công tác tuyên truyền, cổ động, Hội nghị xác định trọng tâm tuyên
truyền là hai vấn đề:
"1. Giặc Nhật không giải phóng cho ta, trái lại tăng gia áp bức, bóc lột ta.
2. Giặc Nhật không thể củng cố chính quyền ở Đông Dương và nhất định
chúng sẽ chết".
"Khẩu hiệu: Chống chính quyền của Nhật và của bọn Việt gian thân Nhật…
Nêu khẩu hiệu: Chính phủ cách mạng của nhân dân".
Về hình thức, cần dùng những hình thức mạnh bạo hơn như mít tinh, diễn
thuyết có cờ, băng, áp phích, truyền đơn. Tổ chức các đội tuyên truyền xung
phong có vũ trang đi nhiều nơi diễn thuyết, giới thiệu về Việt Minh.
Ngày 15-3-1945, Mặt trận Việt Minh ra lời kêu gọi “Kháng Nhật cứu nước”
động viên nhân dân sử dụng mọi hình thức đấu tranh chống phát xít Nhật: "Hãy
vùng dậy, giàu nghèo, trai gái, già trẻ, triệu người như một:
Tuốt gươm, chĩa súng!
Giết giặc, trừ gian.
Dựng lên một nước Việt - nam hùng cường, tự do và độc lập…”[110]
Tiếp sau đó Mặt trận lại có “Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị huynh thứ
ái quốc", "Mấy lời tâm huyết ngỏ cùng các vị quan chức ái quốc Việt Nam" gửi
62
cho giới hào lý ở nông thôn và quan chức, vận động họ ủng hộ và tham gia sự
nghiệp giải phóng dân tộc.
Ở khắp nơi trong cả nước, Mặt trận Việt Minh đã tổ chức các cuộc mít tinh,
biểu tình ngay tại các thị trấn, thị xã, thành phố. Nhiều nơi đã tổ chức các đội
tuyên truyền xung phong lựa chọn trong các thanh niên nam nữ hăng hái, dũng
cảm nhất. Các đội này dược vũ trang, mang theo cờ, băng, tổ chức diễn thuyết ở
các xí nghiệp, trường học, rạp hát, chợ, bến đò. . . lên án phát xít Nhật và tay sai,
kêu gọi đoàn kết cứu nước. Hoạt động của các đội tuyên truyền xung phong đã
có tiếng vang rộng rãi, cổ vũ khí thế cách mạng, lôi cuốn mọi người tham gia
phong trào cứu quốc. Lúc này nạn đói ở miền Bắc và một phần miền Trung đang
diễn ra nghiêm trọng. Đảng đề ra khẩu hiệu "Phá kho thóc, giải quyết nạn đói" .
Khẩu hiệu này đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách của quần chúng và đã dấy lên
một cao trào mạnh mẽ phá kho thóc ở nhiều nơi, động viên đông đảo nông dân
và dân nghèo tham gia với khí thế cách mạng hừng hực tiến tới khởi nghĩa.
Ở các vùng núi và trung du miền Bắc, đấu tranh chính trị kết hợp với đấu
tranh vũ trang và khởi nghĩa từng phần đã diễn ra sôi nổi, Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ nhân
dân nổi dậy giải phóng thêm nhiều vùng rộng lớn ở Việt Bắc, hình thành khu
giải phóng Việt Bắc. Ở Quảng Ngãi, các đảng viên bị giam ở Ba Tơ đã khởi
nghĩa thắng lợi, thành lập khu du kích Ba Tơ. Hàng ngàn cán bộ cách mạng bị
giam ở các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hoả Lò, Buônmathuột… cũng nổi dậy phá
nhà giam hoặc đấu tranh buộc địch trả tự do, hoặc vượt ngục ra ngoài hoạt động.
Tháng 4- 1945, Ban Thường vụ Trung ương triệu tập Hội nghị quân sự
cách mạng Bắc kỳ nhằm giải quyết cụ thể những vấn đề quân sự, đẩy mạnh hơn
nữa việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Trong tháng 5 và tháng 6, nhiều cuộc
khởi nghĩa từng phần nổ ra liên tục, hình thành nhiều chiến khu mới ở cả Bắc,
Trung, Nam.
Tổng khởi nghĩa đã đến gần, phải có sự thống nhất cao trong Đảng về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, khắc phục những hiện tượng chia rẽ và các xu hướng sai
lầm. Tháng 6- 1945, Trung ương gửi thư cho Xứ uỷ Trung kỳ yêu cầu khắc
63
phục: “một tình trạng vô cùng nguy hiểm: các tổ chức Đảng không thống nhất;
các đồng chí nghi kỵ nhau, không khí hoài nghi, chia rẽ tràn ngập, chủ nghĩa cô
độc và đầu óc địa phương nặng nề”[111]. Trung ương kêu gọi "cơ hội quyết
định vận mệnh ngàn năm của Tổ quốc đang đến, không thể biệt phái, chia rẽ!
Không thể do dự, hoài nghi…"[112]. "Gấp tiến tới một cuộc toàn xứ Đại biểu
Đại hội hay cán bộ hội nghị đặng thống nhất đảng bộ, bầu ra ban Xứ uỷ và các
ban tỉnh hay liên tỉnh uỷ chính thức”[113]
Đảng nghiêm khắc phê phán quan điểm của một số đồng chí miền Trung
muốn lợi dụng và cải tổ Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim, ban hành “hiến
pháp quân chủ lập hiến", hy vọng bằng con đường hoà bình thương lượng với
Nhật để giành độc lập. Như vậy là trái với đường lối của Đảng, đi trệch mục tiêu
tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền, làm cho nhân dân mơ hồ về bọn phát xít
Nhật và Chính phủ bù nhìn. Đảng còn nghiêm khắc phê phán ehủ trương của
một số đồng chí phụ trách nhóm Tiên phong ở Nam kỳ, đã tự ý rút khẩu hiệu
chống phát xít Pháp trước khi nổ ra cuộc đảo chính 9-3, sau cuộc đảo chính lại
có chủ trương lợi dụng Nhật để giành chính quyền. Mặt khác Đảng cũng phê
phán chủ trương của một số đồng chí phụ trách báo Giải phóng, cũng ở Nam kỳ,
vẫn giữ khẩu hiệu: "Đánh đuổi Pháp-Nhật" sau cuộc đảo chính 9-3 khi thực dân
Pháp không còn quyền thống trị nữa. Và từ đó, diễn ra tình trạng cả hai bên đều
công kích lẫn nhau để tranh thủ quần chúng.
Trên báo Cờ giải phóng số 15 ngày 17-7- 1945, trong bài Để thống nhất
đảng bộ Nam kỳ, hãy kíp đi vào đường lối, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư
của Đảng sau khi phê phán sai lầm đã viết: "Các đồng chí hãy kíp gạt bỏ thành
kiến mà đi vào đường lối của Đảng, thủ tiêu khẩu hiệu của riêng mình mà theo
khẩu hiệu của Đảng…
Chúng ta sẽ phạm phải một tội lớn nếu trước giờ quyết liệt chúng ta còn
chia rẽ mãi”[114]
Ngày 9-5- 1945, Đức ký văn bản đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng
minh. Trên báo Cờ giải phóng viết ngày 16-6, đồng chí Trường Chinh đánh giá
ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này và xác định thái độ, chủ trương của Đảng:
64
“Phát xít Nhật, bọn đồng minh của Đức Hít-le, bị trơ trọi hẳn và đang lo
như cá nằm trên thớt. Chẳng bao lâu nữa, chúng sẽ trở về thiên cổ theo gót bọn
chúng bên trời Âu".
"Dù sao nhân dân Đông Dương không thể bị động trông chờ những ngày
may mắn từ đâu đưa lại. . . Phải đứng dậy đánh đuổi giặc Nhật, góp sức với
Đồng minh dìm chết con thú dữ Nhật Bản dưới đáy Thái Bình Dương… Sẵn
sàng phát động tổng khởi nghĩa giành hẳn lại đất nước".
Ngày 9-8- 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Quân đội Liên Xô giành
thắng lợi quyết định trên mặt trận Đông Bắc Trung Quốc, quân đội Nhật tan rã
và xin đầu hàng.
Đêm 13-8-1945, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ra lệnh khởi nghĩa. Ngày 14-
8 Tổng bộ Việt Minh ra hiệu triệu: “Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh! Dân tộc ta đã
đến lúc vùng dậy cướp lại quyền độc lập của mình!”.
Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân trào từ 13 đến 15-8-1945 chủ
trương kịp thời lãnh đạo toàn dân tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền,
đề ra đường lối đối nội, đối ngoại trong tình hình mới. Hội nghị xác định
phương hướng về tuyên truyền cổ động là: "nêu những khẩu hiệu chính động
viên tinh thần cứu quốc; nêu cao nguyện vọng của dân tộc: Quốc gia hoàn toàn
độc lập; đả phá xu hướng cho rằng Đồng minh vào Đông - dương và Nhật đổ là
nhiệm vụ chiến đấu của dân ta hết”[115]. Hội nghị quyết định một số việc cần
kíp để tăng cường công tác tuyên truyền cổ động: sử dụng nhiều hình thức mạnh
mẽ, táo bạo, như dùng loa phóng thanh tuyên truyền lưu động, biểu tình thị uy
có vũ trang, chấn chỉnh Bộ Tuyên truyền trung ương, Ban biên tập các báo chí,
mỗi tỉnh thành lập cơ quan ấn loát và có vật liệu in… Về huấn luyện, hội nghị
quy định mỗi tỉnh ít nhất phải có một huấn luyện viên chuyên môn, cán bộ bắt
buộc phải được huấn luyện theo chương trình phổ thông của Đảng, báo Đảng
mỗi kỳ có mục huấn luyện chủ nghĩa cộng sản sơ giải, in nhiều tài liệu huấn
luyện.
Sau hội nghị toàn quốc của Đảng, Đại hội quốc dân họp vào ngày 16-8. Đại
hội tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt
65
Minh, quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam, quy định quốc
kỳ, quốc ca. Sau hội nghị, đồng chí Nguyễn Ái Quốc gửi thư kêu gọi quốc dân.
Sau khi báo tin việc thành lập Uỷ ban dân tộc giải phóng, đồng chí kêu gọi toàn
dân đoàn kết chung quanh ủy ban, nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền:
"Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”[116].
Đảng ta ra lời hiệu triệu nhân dân, các đoàn thể cách mạng và các đảng viên
cộng sản:
… “Đồng bào và các đoàn thể cứu quốc, dưới quyền chỉ huy của Uỷ ban
dân tộc giải phóng, Uỷ ban khởi nghĩa hãy cùng với giải phóng quân và tự vệ
nổi dậy đánh chiếm các đồn, các huyện lỵ, phủ ly và các tỉnh lỵ, tước khí giới
của giặc Nhật".
“Các đồng chí phải sáng suốt trong việc lãnh đạo và cương quyết hy sinh
trong cuộc chiến đấu để giành độc lập cho Tổ quốc, để xứng đáng là một đội
quân tiên phong của dân tộc”.
Ngày 17-8 ở Hà Nội, Thành uỷ Hà Nội đã lãnh đạo quần chúng biến cuộc
mít tinh của chính quyền bù nhìn thành míttinh và biểu tình tuần hành thị uy của
ta, kêu gọi đồng bào tham gia khởi nghĩa. Ngày 19-8, cuộc khởi nghĩa đã giành
thắng lợi ở Hà Nội, thúc đẩy mạnh mẽ các tỉnh và thành phố khác, tạo điều kiện
thuận lợi cho tổng khởi nghĩa cả nước.
Ngày 23-8, cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi ở Thừa Thiên - Huế, lật đổ
chính quyền bù nhìn Trần Trọng Kim, buộc Bảo Đại phải thoái vị. Ngày 25-8
cuộc khởi nghĩa giành thắng lợi ở Sài Gòn. Như vậy Cách mạng Tháng Tám đã
giành thắng lợi trong cả nước trong vòng nửa tháng. Thực tiễn cuộc tổng khởi
nghĩa diễn ra rất phong phú. Nhìn tổng quát, đó là cuộc nổi dậy của toàn dân.
Mọi bình thức tuyên truyền, cổ động gắn với cuộc nổi dậy đều được huy động
đến mức cao nhất trong điều kiện lúc ấy. Hình thức phổ biến ìà quần chúng biểu
tình tuần hành, có các lực lượng tự vệ làm nòng cốt, mang theo băng, cờ, biểu
ngữ, vũ khí có sẵn, xếp thành đội ngũ xông vào chiếm công sở, trại lính kết hợp
với dụ hàng bọn chính quyền bù nhìn địa phương, buộc chúng nộp vũ khí, trao
66
chính quyền cho cách mạng. Ta đã kịp thời kêu gọi quân Nhật không can thiệp
vào công việc nội bộ của ta, còn ta bảo đảm an toàn cho họ để chờ ngày về
nước.
Ngày 25-8 đồng chí Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của đồng chí,
Uỷ ban dân tộc giải phóng được mở rộng thành Chính phủ lâm thời. Ngày 2-9
trước cuộc mít tinh của trên nửa triệu người, Hồ Chủ tịch đọc bản Tuyên ngôn
độc lập lịch sử. Bản Tuyên ngôn mở đầu bằng một chân lý không ai chối cãi
được: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng
có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do"[117]. Bản Tuyên ngôn vạch
rõ tội ác của bọn thống trị thực dân Phảp và phát xít Nhật đã chà đạp lên chân lý
ấy, tổng kết quá trình đấu tranh thàng lợi của nhân dân ta và tuyên bố trước thế
giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đa thành một
nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và
lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"[118]. Bản
tuyên ngôn đã được phổ biến rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, nhanh chóng
đi vào lòng người, nâng cao tinh thẩn tự hào dân tộc và quyết tâm sắt đá bảo vệ
quyền tự do, độc lập mới giành được. Kết quả này đã chuẩn bị tư tưởng cho
nhân dân ta bước vào một quá trình đấu tranh mới, quá trình kháng chiến ở miền
Nam, bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị và tiến hành cuộc kháng chiến
toàn quốc.
** *
Công tác tư tưởng trong thời kỳ 1939 - 1945 đã gắn chặt và phục vụ thiết
thực cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc rất oanh liệt và thắng lợi rất vẻ vang
của nhân dân ta. Nó phát huy cao độ lòng yêu nước và truyền thống đoàn kết,
anh hùng, bất khuất của dân tộc ta, cổ vũ nhân dân nổi dậy tụ giải phóng mình
khỏi ách nô lệ của đế quốc và tay sai. Trong khi nêu cao ngọn cờ dân tộc, nó
cũng đồng thời làm rõ sự gắn bó giữa lợi ích của dân tộc với lợi ích của các tầng
lớp nhân dân, lợi ích dân tộc với lợi ích dân chủ của công nhân, nông dân, động
67
viên mọi tầng lớp, mọi dân tộc tham gia vào mặt trận cứu nước kể cả những
vùng dân tộc thiểu số xa xôi hẻo lánh xưa nay ít tham gia vào đời sống chính trị.
Công tác tư tưởng đã kịp thời truyền đạt các nhận định và chủ trương của
Đảng trước các diễn biến thời cuộc trong nước và quốc tế, đưa ra những khẩu
hiệu sát hợp hướng dẫn tư tưởng và hành động của quần chúng. Nó đã đấu tranh
sắc bén với các tư tưởng tự ty, nô lệ, phục Nhật, sợ Nhật, chống các khuynh
hướng sai lầm, rụt rè, do dự, muốn lợi dụng Nhật cũng như phiêu lưu, nóng vội,
manh động. Lãnh tụ Hồ Chí Minh, và đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh đã
chỉ đạo chặt chẽ công tác tư tưởng, trực tiếp viết báo, viết sách, giảng dạy trong
các lớp học.
Công tác tuyên truyền cổ động đã sử dụng nhiều hình thức phong phú, linh
hoạt, khi có thời cơ đã kiên quyết sử dụng các hình. thức táo bạo như tuyên
truyền xung phong, tuyên truyền vũ trang, biểu tình vũ trang, cổ vũ quần chúng
nổi dậy với khí thế mạnh mẽ áp đảo quân thù.
Công tác tư tưởng đã góp phần to lớn bồi dưỡng, đào tạo hàng loạt cán bộ
về chính trị, về kinh nghiệm tổ chức, phát động quần chúng, kinh nghiệm công
tác bí mật và chống khủng bố, giáo dục đảng viên nêu cao vai trò tiên phong
cách mạng, gắn bó chặt chẽ với quần chúng, chịu đựng mọi hy sinh gian khổ,
xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng vảo thời điểm lịch sử để thực hiện
sự nghiệp giải phóng dân tộc.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.558
[2] Sđd, t.9, tr.314
[3] Sđd, t.1, tr.461
[4] Sđd, t.2, tr.120
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.2, tr.293
[6] Xem: Sđd, t.2, tr.266
[7] Sđd, t.2, tr.267-268
[8] Sđd, t.3, tr.1
[9] Sđd, tr3
[10] Sđd, tr3
68
[11] Sđd, tr3
[12] Sđd, tr5
[13] Sđd, tr6
[14] Sđd, tr6
[15] Sđd, tr6
[16] Sđd, tr7
[17] Sđd, t.3, tr.9
[18] Sđd, t.3, tr.10
[19] Sđd, t.10. tr.8
[20] Lê Khả Phiêu: Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân tiến vào thế kỷ XXI, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.23-24.
[21] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.55-
69
[22] Sđd, tr.83-85
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.66
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.2, tr.66
[25] Sđd, tr.64
[26] Sđd, tr.64
[27] Sđd, tr.64
[28] Sđd, tr.68
[29] Sđd, tr.83
[30] Sđd, tr.100
[31] Sđd, tr.116
[32] Sđd, tr.122
[33] Sđd, tr.222
[34] Sđd, tr.227
[35] Sđd, tr.228
[36] Sđd, tr.231 (T.G nhấn mạnh)
[37] Xem: Hoàng Quốc Việt: Chặng đường nóng bỏng (Hồi ký), Nxb Lao động, Hà Nội, 1985m tr,106, 109
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.3, tr.90
[39] Sđd, tr.92
[40] Sđd, tr.93
[41] Sđd, tr.94
[42] Sđd, tr.117
[43] Sđd, tr.125
[44] Sđd, tr.124
[45] Sđd, tr.126
[46] Sđd, tr.127
[47] Sđd, tr.128
[48] Sđd, tr.157
[49] Sđd, tr.156
[50] Sđd, tr.156
69
[51] Sđd, tr.157
[52] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.8
[53] Xem: Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương: Sơ thảo lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1984, tr.173, (T.G).
[54] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.151
[55] Sđd, tr.152
[56] Sđd, tr.144
[57] Sđd, tr.145-146
[58] Sđd, tr.147
[59] Sđd, tr.151
[60] Sđd, tr.156
[61] Xem Sđd, tr.157
[62] Sđd, tr.7
[63] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.192
[64] Sđd, tr.150
[65] Sđd, tr.157
[66] Sđd, tr.158
[67] Sđd, tr.222
[68] Sđd, tr.223
[69] Sđd, tr.228
[70] Sđd, tr.232
[71] Hoàng Quốc Việt: Chặng đường nóng bỏng (Hồi ký), Nxb Lao động, Hà Nội, 1995, tr.162, 168
[72] Hoàng Quốc Việt: Chặng đường nóng bỏng (Hồi ký), Nxb Lao động, Hà Nội, 1995, tr.162, 168
[73] Tức đồng chí Nguyễn Khoa Văn (BT)
[74] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.349-350
[75] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.349-350
[76] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr. 623-624
[77] Sđd, tr. 627
[78] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr.156
[79] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.6, tr.749-750
[80] Sđd, tr. 758
[81] Sđd, tr. 761
[82] Sđd, tr. 516
[83] Sđd, tr. 543-544
[84] Sđd, tr. 544
[85] Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban chấp hành Trung ương: Văn kiện Đảng 1930-1945. Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1977, t.III, tr.141
[86] Sđd, tr. 143
[87] Sđd, tr. 173
[88] Sđd, tr. 175
[89] Sđd, tr. 181
[90] Sđd, tr. 216
70
[91] Sđd, tr. 196
[92] Sđd, tr. 206
[93] Sđd, tr. 216-217
[94] Sđd, tr. 211
[95] Sđd, tr. 218
[96] Sđd, tr. 237-238
[97] Sđd, tr. 436
[98] Sđd, tr. 446
[99] Sđd, tr. 294
[100] Sđd, tr. 294
[101] Sđd, tr. 256-257
[102] Sđd, tr. 346
[103] Xem Sđd, tr. 356
[104] Sđd, tr. 350
[105] Sđd, tr. 371
[106] Sđd, tr. 371
[107] Xem: Sđd, tr. 383-393
[108] Sđd, tr. 385
[109] Xem Sđd, tr. 385
[110] Sđd, tr. 510
[111] Sđd, tr. 394
[112] Sđd, tr. 396
[113] Sđd, tr. 395
[114] Sđd, tr. 402-403
[115] Sđd, tr. 417
[116] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.3, tr.554
[117] Sđd, t.3, tr. 555
[118] Sđd, t.3, tr. 557
71
CHƯƠNG IICÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG
PHÁP (1945 - 1954)
1. ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO QUẦN CHÚNG ĐẤU TRANH GIỮ
VỮNG CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG, TIẾN HÀNH KHÁNG CHIẾN Ở
MIỀN NAM VÀ CHUẨN BỊ KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, tình hình quốc tế có những thay đổi
cơ bản. Liên Xô trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa, có uy tín và anh
hưởng sâu rộng, là trụ cột của lực lượng hòa bình và dân chủ trên thế giới, là chỗ
dựa của nhân dân các nước đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Được sự giúp đỡ của Liên Xô, một loạt nước Đông Âu và miền Bắc Triều Tiên
được giải phóng khỏi ách phát xít, tiến hành các cải cách dân chủ tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ làm rung
chuyển hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Cách mạng Trung Quốc do
Đảng Cộng sản lãnh đạo đã có lực lượng mạnh và những vùng giải phóng rộng
lớn. Cuộc đấu tranh để giành độc lập của nhiều nước thuộc địa và nửa thuộc địa
ngày càng lớn mạnh, có nơi đã giành được một phần quyền làm chủ đất nước. Ở
các nước tư bản chủ nghĩa, phong trào đòi tự do dân chủ, đòi cải thiện đời sống
của các tầng lớp nhân dân cũng phát triển mạnh mẽ. ở một số nước như Pháp và
Ý, Đảng Cộng sản có uy tín lớn, có vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của
đất nước. Phe dế quốc suy yếu đi nhiều. Đức, Ý , Nhật bị đánh bại, Anh, Pháp
tuy chiến thắng nhưng kiệt quệ về kinh tế, suy yếu hơn về chính trị, quân sự.
Riêng đế quốc Mỹ lợi dụng chiến tranh đã vượt lên về kinh tế, chính trị, quân sự
và khoa học, kỹ thuật. Dựa vào sức mạnh kinh tế và độc quyền về vũ khí nguyên
tử, Mỹ muốn giành quyền bá chủ thế giới. Mỹ dùng hình thức “viện trợ kinh tế”
để buộc Anh, Pháp và các nước tư bản khác lệ thuộc vào mình, xâm nhập vào
các nước thuộc địa bằng chủ nghĩa thực dân mới.
Tuy bọn đế quốc mâu thuẫn với nhau sâu sắc nhưng trước sự lớn mạnh của
Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới, chúng câu kết với nhau lập mặt trận 72
bao vây Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, chống phá phong trào cách
mạng thế giới.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Sự lớn mạnh
của Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới là điều kiện khách quan thuận lợi
để nhân dân ta giữ vững chính quyền và xây dựng chế độ mới. Tuy nhiên, do
tính chất triệt để chống đế quốc, lại có vị trí đi đầu trong phong trào chống chủ
nghĩa thực dân ở một địa bàn chiến lược ở Đông Nam Á cho nên cách mạng
Việt Nam đã trở thành đối tượng chống phá chủ yếu của chủ nghĩa đế quốc và
các thế lực phản động quốc tế.
Sau Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, chính quyền cách mạng mới ra đời đã
gặp muôn vàn khó khăn. Nạn đói khủng khiếp chưa chấm dứt lại xảy ra lụt lớn ở
Bắc Bộ, sau đó lại đến hạn hán. Sản xuất đình đốn, hàng hóa khan hiếm, giá cả
cao vọt. Về mặt tài chính, Nhà nước gặp khó khăn lớn: Kho bạc trống rỗng, tbuế
chưa thu được. Nước Việt Nam dán chủ cộng hoà ra đời chưa được nước nào
trên thế giới công nhận. Giữa lúc ấy thì hơn hai mươi vạn quân của Tưởng Giới
Thạch tràn vào thực hiện âm mưu tiêu diệt Đảng ta, phá tan Việt Minh, lật đổ
chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho chúng.
Ở miền Nam quân đội Anh kéo vào, mở đường cho quân đội thực dân Pháp
nổ súng đánh chiếm Sài Gòn rồi mở rộng chiến tranh ra toàn Nam Bộ, Nam
Trung Bộ. Một đội quân Pháp từ Vân Nam trở về chiếm đóng tỉnh Lai Châu.
Bọn phản động người Việt (tập hợp trong hai tổ chức: Việt Nam quốc dân đảng
và Việt Nam cách mạng đồng minh hội) theo gót quân đội Tưởng, được chúng
giúp đỡ đánh chiếm các thị xã Lao Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Yên, Bắc Ninh,
Móng Cái, hô hào chống lại chính quyền cách mạng, tổ chức bạo loạn.
Bọn chúng được quân Tưởng hỗ trợ lập trụ sở ở nhiều khu phố Hà Nội, tự
xưng là những người yêu nước, nói xấu chính quyền cách mạng, xuyên tạc chủ
nghĩa cộng sản. Chúng tập hợp các loại phản cách mạng từ bọn phản động trong
giai cấp địa chủ, tư sản, trong đạo Thiên Chúa đến bọn Tờrốtkít. . . vào cái gọi là
“Mặt trận quốc gia”. Chúng mắc loa phóng thanh tuyên truyền, xuất bản báo chí
73
phản động, tổ chức mít tinh, biểu tình vận động, bãi thị, bãi khóa, tổ chức ám
sát, bắt cóc, nhằm lật đổ chính quyền.
Chính quyền cách mạng mới ra đời kinh tế tài chính kiệt quệ, trên đất nước
có tới 30 vạn quân đội thù địch nước ngoài. Vận mệnh dân tộc ta lúc này khác
nào “ngàn cân treo sợi tóc”, chính quyền cách mạng có thể bị lật đổ. Nhưng
cũng chính vào lúc này, nhân dân ta đã làm chủ đất nước tràn đầy phấn khởi, tin
tưởng sâu sắc vào sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách
mạng và Mặt trận Việt Minh, sẵn sàng làm mọi việc để bảo vệ độc lập, tự do.
Ngay sau ngày công bố Tuyên ngôn Độc lập (2-9- 1945), trong phiên họp
đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương
Đảng nêu ra 6 nhiệm vụ cấn kíp: chống đói; chống dốt; tổng tuyển cử; xây dựng
nếp sống mới; xoá bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; tín ngưỡng tự do. Sau đó
Người đã bổ sung và khái quát thành ba nhiệm vụ lớn: diệt giặc đói, diệt giặc
dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Trong tháng 9, cuộc đấu tranh phức tạp, gay gắt của nhân dân miền Bắc
chống lại quân đội Tưởng và bè lũ tay sai diễn ra cùng một lúc với cuộc kháng
chiến anh dũng và gian khổ của nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Công tác tư tưởng lúc này tập trung giáo dục ý chí kiên cường, bất khuất,
quyết tâm bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững lời thề ngày “Tuyên ngôn độc
lập” 2-9 “Quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ
vưng quyền tự do và độc lập”[1], cổ vũ nhân dân thực hiện ba nhiệm vụ lớn: diệt
giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm.
Ngay sau khởi nghĩa, Bộ Tuyên truyền được thành lập do đồng chí Trần
Huy Liệu làm Bộ trưởng đã tiếp quản các cơ sở tuyên truyền, báo chí của chế độ
cũ và đài phát sóng Bạch Mai. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam được thành
lập và hoạt động từ ngày 7-9- 1945. Việt Nam Thông tấn xã cũng được thành lập
để cung cấp tin cho các cơ quan lanh đạo và phục vụ công tác tuyên truyền.
Ngày 15-9 Việt Nam Thông tấn xã đã chính thức phát tin bằng sóng vô tuyến ra
thế giới bằng ba thứ tiếng Việt, Pháp, Anh.
74
Báo Cờ giải phóng của Đảng, Cứu Quốc của Mặt trận Việt minh, Lao động
của Hội Công nhân cứu quốc, Tiếng gọi phụ nữ của Hội Phụ nữ cứu quốc, Hồn
nước của Đoàn thanh niên cứu quốc, Độc lập của Đảng Dân chủ đã được phát
hành công khai, rộng rãi. Khắp nơi tổ chức các cuộc mít tinh, các buổi nói
chuyện về việc thành lập Chính phủ cách mạng, chính quyền địa phương và
những nhiệm vụ công tác trước mắt.
Khi quân Tưởng kéo vào, đâu đâu chúng cũng thấy những khẩu hiệu “Hoa-
Việt thân thiện”, “Kiên quyết ủng hộ chính phủ Hồ Chí Minh”, “Việt Nam độc
lập muôn năm” . Ngày 11-9-1945 tướng Lư Hán vào Hà Nội thì ngày 14-9-
1945 đã được chứng kiến hàng chục vạn nhân dân Hà Nội biểu tình phản đối
quân đội Anh yểm trợ cho quân đội thực dân Pháp trở lại miền Nam.
Đầu tháng 10, Tổng tham mưu trưởng quân đội Tưởng, tướng Hà ứng
Khâm đến Hà Nội để thúc đẩy thực hiện âm mưu lật đổ chính quyền cách mạng
lại được đón tiếp bằng một cuộc biểu tình của hơn 30 vạn nhân dân Hà Nội. Các
đoàn biểu tình hàng ngũ chỉnh tề mang theo cờ, băng, biểu ngữ, hô vang các
khẩu hiệu “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “ủng hộ Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà", "ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh", "Đả đảo
thực dân xâm lược Pháp".
Ngày 26-9- 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửl thư cho đồng bào Nam Bộ,
nêu rõ cuộc kháng chiến ở Nam Bộ được cả nước ủng hộ, biểu dương gương
chiến đấu dũng cảm của quân dân Nam Bộ, nêu rõ quyết tâm của toàn dân ta:
"Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ”[2], khẳng định cuộc đấu tranh chính nghĩa
của chúng ta nhất định thắng lợi. Công tác tuyên truyền đã liên tục tố cáo âm
mưu và tội ác của thực dân Pháp ở miền Nam, động viên lòng căm thù và ý chí
quyết tâm chống xâm lược, ủng hộ đồng bào miền Nam kháng chiến. Các tỉnh
đều có những cuộc mít tinh, biểu tình, biểu dương lực lượng chống thực dân
Pháp xâm lược. Các tỉnh miền Bắc và Bắc Trung Bộ đều có nhiều hình thửc
động viên phong phú để quyên góp thuốc men, quần áo, vũ khí chi viện cho
cuộc kháng chiến ở miền Nam như tổ chức ra các "Phòng Nam Bộ", "Ngày Nam
Bộ". Hàng vạn thanh niên nô nức tham gia tòng quân, xung phong "Nam tiến".
75
Các cuộc tiễn đưa các đoàn quân "Nam tiến" diễn ra hào hùng trong tiếng ca
cách mạng.
Ở Nam Bộ, ngay từ đầu tháng 9-1945 khi quân Pháp bám gót quân Anh kéo
vào, công tác tuyên truyền đã được tiến hành sâu rộng nhằm nâng cao ý chí
chiến đấu bảo vệ thành quả cách mạng. Ở Sài Gòn Chợ Lớn, chiều 23-9- 1945 ta
vận động đồng bào tổng đình công, không hợp tác với giặc, lập các công sự, tổ
chức cuộc chiến đấu trong thành phố bằng các vũ khí sẵn có. Từ cuối tháng 9
đến đầu tháng 10, cuộc chiến đấu của các lực lượng tự vệ công nhân, tự vệ thanh
niên, công an xung phong cùng với nhân dân thành phố đã gây cho quân đội
Anh, Pháp khốn đốn: điện, nước bị cắt, tiếp tế khó khăn, luôn luôn bị ta tập kích
tiêu hao, tiêu diệt, buộc chúng phải tìm cách điều đình với ta để tạm thời hoà
hoãn cho đến khi có thêm quần tiếp viện. Vì chưa có thời gian chuẩn bị, cuộc
kháng chiến ở Nam Bộ lúc đầu có nhiều khó khăn, nhưng sau hội nghị Xứ uy
Nam Bộ, đảng bộ Nam Bộ được củng cố, ta rút được kinh nghiệm bước đầu, tổ
chuc lại các lực lượng vũ trang, phát triển cơ sở chính trị, đẩy mạnh chiến tranh
du kích, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, giải quyết nhanh của Pháp.
Tháng 2- 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ tặng đồng bào
Nam Bộ danh hiệu vẻ vang “Thành đồng Tổ quốc” cổ vũ mạnh mẽ cuộc chiến
đấu của quân, dân miền Nam.
Ở miền Bắc, ngay từ khi đưa quân vào nước ta, bọn Tưởng cũng đã thấy
quyết tâm bảo vệ chủ quyền của nhân dân ta, bắt buộc phải liên hệ với chính
quyền cách mạng để giải quyết những nhu cầu về hậu cần, tiếp tế. Nhân dân ta
ngày càng thấy rõ đã tâm của chúng và bọn phản động tay sai nên tỏ rõ thái độ
phản đối, bất hợp tác với những hành động vu cáo, phá rối của bọn tay sai Việt
quốc, Việt cách.
Ngày 17- 10-1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Uỷ ban nhân dân các
bộ, tỉnh, huyện và làng, chỉ rõ tính chất và nhiệm vụ chính quyền cách mạng.
Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân,
đều là đầy tớ của dân nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải
để đè đầu dân như trong thời kỳ thống trị của đế quốc Pháp, Nhật. Nếu nước
76
được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng
không có nghĩa lý gì. Người cũng vạch ra những lầm lỗi cần phải sửa chữa của
một số cán bộ: Cậy thế, làm trái phép, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Bức
thư này bước đầu đã xây dựng cơ sở lý luận cho chính quyền kiểu mới ở nước
ta.
Ngày 25- 11- 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến, kiến quốc”,
phân tích tình hình trong nước và thế giới, đánh giá thái dộ của đế quốc Pháp,
Anh, Mỹ và phản động Tưởng Giới Thạch, xác định cách mạng nước ta vẫn là
cách mạng giải phóng dân tộc, kẻ thù chính của nhân dân ta là thực dân Pháp
xâm lược. Hai nhiệm vụ chiến lược là kháng chiến chống thực dân Pháp và xây
dựng chế độ mới. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là củng cố chính quyền, chống
thực dân Pháp xâm lược, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống cho nhân dân. Chỉ
thị cũng nêu rõ những biện pháp cơ bản về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
ngoại giao để thực hiện nhiệm vụ trên.
Về tuyên truyền, khẩu hiệu vẫn là: “Dân tộc trên hết”, “Tổ quốc trên hết”,
chỉ nói đánh thực dân Pháp xâm lược, không nói đánh cả Anh, Pháp, không
công kích nước Pháp và dân Pháp.
Chỉ thị kháng chiến kiến quốc vạch ra sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược
và sách lược sau Cách mạng Tháng Tám, soi đường cho nhân dân ta giữ vững
chính quyền cách mạng, từng bước xây dựng chế độ mới trong tình hình vô
cùng khó khăn, phức tạp lức này.
Các cán bộ Đảng, đoàn thể, Mặt trận được phái đi khắp mọi nơi tuyên
truyền, vận động nhân dân tăng gia sản xuất, chống đói, xoá nạn mù chữ, phát
triển và củng cố các đoàn thể cứu quốc.
Mở đầu phong trào tăng gia sản xuất, chống đói, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu
gọi: “Tăng gia sản xuất ! Tăng gia sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa. Đó là
khẩu hiệu của ta ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền
tự do, độc lập”[3]. Trong Lời kêu gọi đồng bào cả nước ra sức cứu đói Người
viết: “… Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực hành trước:
77
Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa
một bơ để cứu dân nghèo”[4]. Theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
phong trào tăng gia sản xuất, cứu đói sôi nổi ở khắp nơi.
Với khẩu hiệu “tấc đất, tấc vàng”, “không một tấc đất bỏ hoang”, các khu
hoang hoá được khai khẩn, trồng trọt. Nhiều sáng kiến tương trợ, đùm bọc lẫn
nhau của nhân dân để cứu đói như tổ chức “Hũ gạo cứu đói”, “Ngày nhịn ăn cứu
đói” được thực hiện ở cả nông thôn, thành phố.
Cùng với việc đẩy mạnh sản xuất cứu đói, Đảng lãnh đạo chính quyền thực
hiện việc tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo,
chia lại công điền, giảm tô, bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lý khác. Nhờ đó
sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục. Việc chống nạn mù chữ
cũng được tuyên truyền rộng rãi thành một cao trào ở các địa phương. Chủ tịch
Hồ Chí Minh kêu gọi: “Những người đã biết chữ hãy dạy cho những người chưa
biết chữ… Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết. Vợ chưa
biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con
bảo…”[5]
Nội dung và hình thức tuyên truyền chống mù chữ rất phong phú. Khắp nơi
có khẩu hiệu “Tiền tuyến diệt xâm lăng, hậu phương trừ giặc dốt”, “Thêm một
người đi học là thêm một viên gạch xây nền độc lập của nước nhà”… Nhiều ca
dao, hò vè được sáng tác để cổ vũ phòng trào, gây ấn tượng sâu sắc, như: “Lấy
chồng biết chữ là tiên, lấy chồng mù chữ là duyên lỡ làng” . Sau một năm đã có
2 triệu người thoát nạn mù chữ. Thắng lợi trên mặt trận sản xuất, chống nạn mù
chữ có ý nghĩa chính trị rất lớn làm cho nhân dân càng tin tưởng vào chính
quyền cách mạng và chế độ mới.
Tháng 9- 1945, nhân ngày khai trường năm học đầu tiên sau khi cách mạng
thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho học sinh cả nước, khuyến
khích các cháu học tập tốt để sau này đem tài năng phục vụ đất nước.
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”[6].
78
Cuộc vận động xây dựng đời sống mới, giáo dục tinh thần yêu nước, đạo
đức "cần kiệm, liêm chính", chống các hủ tục lạc hậu cũng được tuyBn truyền
sâu rộng. Nạn trộm cắp, cờ bạc, các hủ tục trong ma chay cưới xin được xoá bỏ
ở nhiều nơi, công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ cách mạng có tính
quần chúng, nhất là ca hát được phát triển rộng rãi.
Để củng cố chính quyền cách mạng, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân,
Chính phủ quyết định tổ chức Tổng tuyển cử vào ngày 6-l-1946 để bầu Quốc
hội, xây dựng hiến pháp và lập chính phủ chính thức.
Công tác tuyên truyền vận động bầu cừ thực sự là một cuộc đấu tranh gay
gắt chống lại sự phá hoại của quân đội Tưởng và bọn tay sai Việt quốc, Việt
cách ở miền Bắc và bọn thực dân Pháp ở miền Nam.
Khẩu hiệu phổ biến mọi nơi là: Tất cả cử tri tới thùng phiếu, “Mỗi lá phiếu
là một viên đạn diệt thù”. Ngày 5-l-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng
bào cả nước “… Một lá phiếu cũng có sức lực một viên đạn.
Ngày mai, quốc dân ta sẽ tỏ cho thế giới biết rằng dân Việt Nam ta đã:
Kiên quyết đoàn kết chặt chẽ,
Kiên quyết chống bọn thực dân,
Kiên quyết tranh quyền độc lập…”[7]
Cuộc tổng tuyển cử đã đạt kết quả tốt thu hút đại đa số cử tri đi bỏ phiếu
bầu cho các ứng cử viên của Mặt trận Việt Minh, kể cả ở miền Nam dưới bom
đạn của thực dân Pháp. Nó cũng là dịp giáo dục cho nhân dân ta về lòng yêu
nước, ý thức làm chủ của công dân một nước độc lập, nâng cao uy tín của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên thế giới.
Sau kết quả của các cuộc vận động xây dựng “Quỹ độc lập”, tổ chức “Tuần
lễ vàng”, để xây dựng nền tiền tệ độc lập của nước ta, ngày 31-1-1946 Chính
phủ ra sắc lệnh phát hành tiền Việt Nam.
Khẩu hiệu “Người Việt Nam tiêu tiền Việt Nam” hoàn toàn phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân nên đồng tiền mới đã nhanh chóng thay thế đồng tiền
của ngân hàng Đông Dương.
79
Trong khi ra sức củng cố chính quyền cách mạng, ổn định tình hình, bước
đầu xây dựng chế độ mới, chúng ta phải tiếp tục đấu tranh với âm mưu lật đổ
của bọn Tưởng và tay sai ở miền Bắc và kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược ở miền Nam. Công tác tuyên truyền cổ động liên tục vạch đã tâm của bọn
Tưởng và hành động bán nước của bọn tay sai, đập tan những luận điệu xuyên
tạc, vu cáo của chúng, vận động nhân dân biểu thị sự đoàn kết chặt chẽ chung
quanh Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh chống lại những hành động chia rẽ,
phá hoại trật tự trị an, âm mưu gây bạo loạn của chúng. Mặt khác, lại phải giải
thích cho dân hiểu rõ và đồng tình với thái độ kiên nhẫn, mềm dẻo, hoà hoãn với
bọn Tưởng để tập trung mũi nhọn chống kẻ thù chính là thực dân Pháp xâm
lược. Để hoà hoãn, tháng 11- 1945 Đảng rút vào bí mật, tuyên bố “tự giải tán”
nhưng vẫn giữ hệ thống tổ chức và quyền lãnh đạo. Về công khai, Đảng tổ chức
ra “Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và
đường lối chính sách của Đảng. Tờ Sự thật được xuất bản ngày 5- 12- 1945 để
thay thế cho tờ Cờ giải phóng dưới danh nghĩa công khai là cơ quan ngôn luận
của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác Đông Dương.
Được sự thoả thuận của Mỹ, tháng 1-1946, Pháp đã mua bán với Anh, để
quân đội Pháp được thay quân đội Anh ở miền Nam. Ngày 28-2-1946, Pháp và
Tưởng lại ký hiệp ước Hoa - Pháp. Pháp được đưa quân vào thay quân Tưởng ở
miền Bắc, đổi lại Pháp trả cho Tưởng các tô giới Pháp ở Trung Quốc và đường
xe lửa Vân Nam.
Trước tình hình trên, ngày 3-3-1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra
“Chỉ thị Tình hình và chủ trương”. Chỉ thị phân tích âm mưu của đế quốc và tay
sai, đánh giá so sánh lực lượng, cân nhắc lợi hại, quyết định hoà hoãn với Pháp
để phá tan âm mưu phá hoại cách mạng của bọn Tưởng và tay sai, giành thời
gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc. Chỉ thị cũng vạch ra những
nguyên tắc căn bản cho việc đàm phán giữa ta và Pháp và nhấn mạnh: “Điều cốt
tử là trong khi mở cuộc đàm phán với Pháp không những không ngừng một phút
công việc sửa soạn, sẵn sàng kháng chiến bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hết
80
sức xúc tiến việc sửa soạn ấy và nhất định không để cho việc đàm phán với Pháp
làm nhụt tinh thần quyết chiến của dân tộc ta”[8] .
Ngày 6-3-1946, Chính phủ ta ký với Pháp hiệp định sơ bộ. Trong tình hình
lúc ấy, làm cho nhân dân thông suốt việc ta đồng ý để cho quân đội Pháp vào
miền Bắc là rất khó khăn. Ngày 7-3, trong cuộc mít tinh lớn ở Hà Nội gồm hàng
chục vạn người, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp nói chuyện với nhân dân, giải
thích lợi ích của việc ký kết, kêu gọi nhân dân giữ bình tĩnh, đoàn kết, tôn trọng
kỷ luật, đồng thời nhắc nhở đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu. Trước đồng
bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lên lời thề xúc động mọi người: “Tôi, Hồ Chí
Minh, suốt cuộc đời đã cùng đồng bào chiến đấu cho độc lập của Tổ quốc. Tôi
thà chết chứ không bao giờ bán nước”[9]. Ngày 9-3- 1946, Ban Thường vụ
Trung ương Đảng ra chỉ thị “Hoà để tiến” giải thích rõ chủ trương hoà với Pháp
lúc này: “Chúng ta hoà với Pháp để:
1) Tránh tình thế bất lợi… 2) bảo đảm thực lực, giành lấy giây phút nghỉ
ngơi và củng cố vị trí đã chiếm được, chấn chỉnh đội ngũ cách mạng, bổ sung
cán bộ, bồi dưỡng và củng cố phong trào, tóm lại, để chuẩn bị đầy đủ, nhằm cơ
hội tốt tiến lên giai đoạn cách mạng mới”. Chỉ thị phê phán những khuynh
hướng sai lầm: khuynh hướng không muốn hoà hoãn với Pháp dễ sinh ra vô tổ
chức, vô chính phủ, dễ bị kẻ thù khiêu khích; khuynh hướng cho rằng hiệp định
được ký kết là Pháp đã 'thất bại và sẽ phải thực hiện, dân tộc ta đa tránh được
mọi khó khăn~ dễ sinh mất cảnh giác, không thấy bản chất phản động của kẻ
thù. Chỉ thị nhấn mạnh việc đề phòng thực dân Pháp bội ước, nhân dân ta phải
tiếp tục chuẩn bị kháng chiến lâu dài, nhưng phải kín đáo, giữ thái độ bình tĩnh,
nhã nhặn với binh lính Pháp, vận động kéo lính Pháp theo ảnh hưởng của ta.
Phải khéo léo đối phó với bọn Tưởng chực kéo dài thời gian đóng quân ở Đông
Dương và chống lại mọi hành động phản tuyên truyền, phá hoại của bọn phản
động thân Tưởng và bọn Việt gian thân Pháp.
Căn cứ vằo Chỉ thị “Tình hình và chủ trương” và Chỉ thị “Hoà để tiến”,
đảng bộ và Mặt trận Việt Minh các địa phương tổ chức các cuộc họp để giải
thích cho nhân dân về chủ trương hoà hoãn với Pháp, nội dung của hiệp định sơ
81
bộ và những nhiệm vụ công tác trước mắt. Nhiều nơi xuất bản các tài liệu ngắn
để giúp cán bộ làm công tác tuyên truyền. Qua giải thích, cán bộ và nhân dân ta
nhận rõ được thắng lợi và lợi ích của việc ký kết hiệp định, đã chống lại những
hoạt động chia rẽ, gây rối loạn của bọn Việt quốc, Việt cách, tích cực thực hiện
các nhiệm vụ để đối phó với các hành động bội ước của bọn thực dân Pháp xâm
lược.
Ngày 14-3-1946, mười vạn nhân dân thủ đô họp mít tinh để tố cáo những
hành động trái với hiệp định của Pháp, đòi Pháp đình chỉ những hành động xâm
lược và mở ngay đàm phán chính thức ở Paris.
Tháng 4-1946, Hội nghị trù bị Việt - Pháp họp ở Đà Lạt không có kết quả vì
thực dân Pháp vẫn giữ lập trường ngoan cố như muốn tách Nam Bộ ra khỏi Việt
Nam, lập lại chế độ Toàn quyền Đông Dương…
Ngày 30-5, năm vạn nhân dân thủ đô họp mít tinh tiễn Chủ tịch Hồ Chí
Minh và phái đoàn ta lên đường sang Pháp dự cuộc đàm phán chính thức. Khẩu
hiệu chính của cuộc mít tinh là: “Việt Nam hoàn toàn tự chủ”, “Nam Bộ là đất
Việt Nam”, “ủng hộ Hồ Chí Minh”, “ủng hộ Phái đoàn”, “Gửi lời chào nhân dân
Pháp”.
Trước khi lên đường, ngày 31-5, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư đến
đồng bào Nam Bộ, khẳng đỉnh: “Đồng bào Nam Bộ là dân nước Việt Nam.
Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay
đổi”[10]
Trong thời gian ở Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gặp và nói chuyện với
các chính đảng, các đoàn thể chính trị ở Pháp, các tổ chức quốc tế như Tổng liên
đoàn lao động thế giới, Liên đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Liên đoàn phụ nĩí
thế giới, các nhà chính trị, các nhà trí thức lớn, nhà báo, nhà văn để làm cho
nhân dân Pháp và thế giới hiểu rõ mục đích chiến đấu của ta, lập trường đàm
phán và chính sách hợp tác bình đẳng của nước ta với nước Pháp.
Những cuộc nói chuyện ấy làm cho dư luận tiến bộ Pháp hiểu rõ hơn tình
hình nước ta, hoan nghênh lập trường đàm phán đúng đắn của ta, đánh tan sự
82
bưng bít về tình hình Việt Nam và sự xuyên tạc lập trường của ta của bọn thực
dân Pháp.
Ngày 2 7-6- 1946 và mấy ngày tiếp theo trên khắp nước ta, nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã họp mít tinh, biểu tình, tổng bãi công, bất hợp tác,
bãi khoá, bãi thị đê phản đối thực dân Pháp đem quân lấn chiếm Tây Nguyên và
lập ra cái gọi là “Chính phủ lâm thời của nước Cộng hoà Nam Kỳ”.
Trong thời gian này, thực hiện chủ trương của Đảng mở rộng khối đại đoàn
kết dân tộc phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến quốc, công tác tuyên truyền
vận động đã được đẩy mạnh để thu hút những người còn mặc cảm, chưa có quan
hệ với Mặt trận Việt Minh, với các đoàn thể cứu quốc, như các nhân sĩ, trí thức,
công thương gia, quan lại cũ, tham gia vào các tổ chức thích hợp. Hội Liên hiệp
quốc dân Việt Nam được thành lập ngày 20-5-1946. Đảng Xã hội Việt Nam
được thành lập ngày 27-7- 1946 để tập hợp nhân sĩ trí thức, là thành viên của
Hội Liên Việt. Cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội xuất bản tờ Tiến lên. Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam được thành lập ngày 20-7- 1946 là tổ chức Công
đoàn của giai cấp công nhân, các tầng lớp lao động công nghiệp và viên chức
Nhà nước. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập ngày 20- 10- 1946 để tập
hợp rộng rãi phụ nữ yêu nước trong các giai cấp, các tầng lớp.
Trong khi hội nghị Phôngtennơblô đang họp, bọn thực dân Pháp tiếp tực
chính sách xâm lược. Chúng âm mưu dùng bọn tay sai Việt quốc, nhân ngày 14-
7-1946, ngày kỷ niệm Cách mạng Pháp, nổ súng vào cuộc diễu binh của Pháp sẽ
diễn ra để vu cáo ta rồi đánh chiếm thủ đô Hà Nội. Ta đã kịp thời phát hiện và
đập tan âm mưu này, phá tan sào huyệt của bọn Việt quốc ở Hà Nội và các nơi
khác, trừng trị bọn đầu sỏ, vạch mặt sự câu kết của chúng với thực dân Pháp.
Do thực dân Pháp chưa từ bỏ đã tâm xâm lược nên hội nghị Phôngtennơblô
tan vỡ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với chính phủ Pháp bản tạm ước 14-9-1946
quy định một số điều quan hệ tạm thời về văn hóa và kinh tế giữa hai nước, đình
chỉ chiến sự ở miền Nam và tiếp tục cuộc đàm phán Việt- Pháp vào tháng 1-
1947.
83
Để giải thích rõ tình hình và nhiệm vụ trước mắt sau khi hội nghị
Phôngtennơblô bị tan vỡ, đồng chí Trường Chinh viết bài đăng trên báo Sự thật
số 54 ra ngày 20-9-1946 “Tại sao cuộc đàm phán Việt - Pháp ở Phôngtennơblô
bị bỏ dở”. Sau khi nêu rõ nguyên nhân thất bại của hội nghị, bài báo phân tích
triển vọng của cuộc bang giao Việt - Pháp và chỉ ra những công việc trước mắt.
Về mặt tuyên truyền, bài báo chỉ rõ “Trước hết phải giải thích rõ nguyên nhân
thất bại của Hội nghị Phôngtennơblô để bóc trần âm mưu gian dối của phản
động thực dân Pháp trước dư luận và kêu gọi nhân dân chống lại chúng, đả phá
mọi thái độ hoài nghi; củng cố lòng tin của nhân dân đối với Hồ Chủ tịch và
phái đoàn chính phủ. Đả phá quan niệm của bọn dao động, bi quan hay cơ hội,
khiêu khích, cho rằng chính sách ngoại giao của Hồ Chủ tịch và của chính phủ
không đúng, Hiệp định sơ bộ 6-3-1946 là sai, v.v… Phải làm cho nhân dân nhận
rõ và nhớ rằng: Chính sách ngoại giao thắng hay bại phần lớn ở ta, ở sự đoàn kết
phấn đấu của ta, chứ không phải ở “lòng tốt” hay ở “sự thành thật” của thực dân
Pháp. Hô hào nhân dân đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi trong Hội liên hiệp quốc
dân Việt Nam, khép chặt hàng ngũ chung quanh Chính phủ và Hồ Chủ tịch, sẵn
sàng đối phó với bất cứ một sự bất trắc nào”[11]. Đối với Nam Bộ, Hiệp định sơ
bộ 6-3 và Tạm ước 14-9 có ý nghĩa chính trị và tinh thần lớn. Dựa vào pháp lý
của hiệp định và nhân lúc thực dân Pháp phải điều một phần quan trọng lực
lượng quân sự ra miền Bắc, đảng bộ Nam Bộ đã đẩy mạnh các hoạt động tuyên
truyền, phát động nhân dân phá tề, trừ gian, chống địch càn quét, khủng bố, vi
phạm hiệp định, vi phạm ngừng bắn. Khắp nơi nhân dân vùng dậy với khí thế
mạnh mẽ phát triển chiến tranh du kích, nhiều vùng giải phóng và căn cứ du
kích được mở rộng.
Ở Sài Gòn, dựa vào nội dung Hiệp định 6-3, Thành uỷ vận động giới trí
thức gồm hơn 400 người ký vào bản tuyên ngôn lấy tên là “Tuyên ngôn của trí
thức Sài Gòn- Chợ Lớn”, đòi tự do, độc lập cho đất nước Việt Nam thống nhất,
đòi thương lượng với Chính phủ Hồ Chí Minh. Các đồng chí lãnh đạo đã có
quan hệ với “Nhóm văn hóa Mác xít” do những người Pháp dân chủ phản đối
chiến tranh lập ra, trong nhóm có các đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, đảng viên
84
Đảng Xã hội, nhiều trí thức các ngành, cả sĩ quan quân đội Pháp. Nhóm này
tuyên bố rõ lập trường của mình ttên báo Paris - Sài Gòn yêu cầu trao trả độc lập
tự do hoàn toàn cho Việt Nam, đó là cơ may duy nhất của nước Pháp, gây chiến
tranh Pháp không thể chiến thắng được Việt Minh mà lại mất những người đáng
lẽ là bạn của dân tộc Pháp. Theo gợi ý của ta, nhóm xuất bản tờ báo tiếng Pháp
Những ngày mai (Lendemains) để đấu tranh chống âm mưu xânl lược của bọn
thực dân.
Ngay số l ra ngày 20- 10-1946, tờ báo này đã vạch trần âm mưu của Pháp
chia cắt Nam Kỳ ra khỏi Việt Nam, lập nước “Nam Kỳ tự do” do Nguyễn Văn
Thinh làm Thủ tướng. Bài báo mang đẩu đề lớn: “Bác sĩ Thinh cút đi”.
Cùng với việc chuẩn bị cho báo Những ngày mai xuất bản, ta còn vận động
các nhà báo yêu nước ở Sài Gòn lập một mặt trận thống nhất hành động lấy tên
là Báo chí thống nhất. Mặt trận này quy tụ được 8 tờ báo tiếng Việt và tiếng
Pháp đang xuất bản: Kiến thiết, Tân Việt, Việt bút, Tin điện, Nam Kỳ, Justice
(Công lý), Sud (miền Nam), Lendemains (Những ngày mai).
Sau khi có Tạm ước 14-9, Báo chí thống nhất công khai kêu gọi thi hành
Tạm ước, đòi thả tù chính trị, phổ biến một số thơ ca và tài liệu kháng chiến.
Ngày 20- 10- 1946 Báo chí thống nhất đăng ba bức điện văn gửi đến Chính phủ
Việt Nam dân chủ Cộng hoà, Chính phủ Pháp và Quốc hội Pháp, tỏ thái độ ủng
hộ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, yêu
cầu Chính phủ Pháp tôn trọng thoả hiệp đã ký và thi hành nghiêm chỉnh lệnh
ngừng bắn để lập lại hoà bình. Những tờ báo nói trên được nhân dân hoan
nghênh và tìm đọc, các tờ báo tiếng Việt được phát hành với số lượng lớn ở Sài
Gòn và cả một số thị xã khác ở Nam Bộ.
Trò hề chính phủ bù nhìn “Nam Kỳ quốc” bị nhân dân phản đối. Cuối cùng,
thấy mình bị thực dân Pháp lừa, nhục nhã, Nguyễn Văn Thinh tự tử (tháng 11-
1946).
Trên mặt trận văn hóa, Đảng ta đoàn kết chặt chẽ các văn nghệ sĩ, các nhà
văn hoá yêu nước trong Hội Văn hóa cứu quốc, khuyến khích sự sáng tạo phục
85
vụ sản xuất và chiến đấu. Nhiều nhà văn đã đi theo các đoàn quân Nam tiến để
sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến.
Ngày 24- 1- 1946, Hội nghị Văn hóa toàn quốc lần thứ nhất họp ở Hà Nội,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn khai mạc chỉ rõ: Văn hóa phải hướng dẫn
quốc dân thực hiện độc lập, tự cường, tự chủ.
Cuối năm 1946, thực dân phản động Pháp đẩy mạnh những hành động lấn
chiếm, liên tiếp tiến công ở Nam Bộ và Trung Bộ, gây ra các vụ khiêu khích ở
miền Bắc.
Hội nghị quân sự toàn quốc của Đảng ngày 19- 10-1946 nhận định: “Nhất
định không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh
Pháp”.
Đầu tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết văn kiện “Công việc khẩn
cấp bây giờ” nêu ra những phương hướng và nhiệm vụ chủ yếu của kháng chiến,
vạch rõ ta sẽ kháng chiến lâu dài, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, cuộc kháng
chiến sẽ rất gay go, gian khổ, nhưng nhất định thắng lợi.
Ngày 20- 11- 1946, thực dân Pháp đánh chiếm thành phố Hải Phòng và thị
xã Lạng Sơn, đồng thời đổ bộ hàng ngàn quân lên Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược trên toàn lãnh thổ nước ta.
Ngày 4- 12- 1946, đồng chí Trường - Chinh viết bài “Đánh và sẵn sàng
đánh” đăng trên tờ Sự thật số 64. Bài báo nhận định: quân Pháp đã xâm phạm
vào lãnh thổ của ta ở khắp Trung - Nam - Bắc. Chúng đã xâm phạm Hiệp định
sơ bộ ngày 6-3- 1946 và Tạm ước 14-9- 1946. Cuộc kháng chiến của dân ta đã
có ở ba kỳ. Bất cứ lúc nào, nó cũng có thể lan tới toàn quốc, và biến thành toàn
diện. Thực dân Pháp hăm doạ ta, định bắt ta hàng phục, nhưng chúng lầm. Dân
ta nín nhịn đã nhiều rồi. Giờ đây toàn dân đã sẵn sàng tử chiến, phá tan mưu mô
xâm lược bất cứ lúc nào và ở đâu…
Ngày 17 và 18- 12- 1946, quân đội Pháp gây khiêu khích, tàn sát dân ta ở
hai phố Yên Ninh, Hàng Bún, Hà Nội. Chúng gửi tối hậu thư cho Chính phủ ta
đòi tước vũ khí của tự vệ, đòi ta phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng
chiến, đòi chiếm sở công an và giữ trị an ở thủ đô. Thực tế, thực dân Pháp đã xé
86
bỏ các hiệp định, Đảng và Chính phủ quyết định phát động cuộc kháng chiến cả
nước để bảo vệ Tổ quốc.
2. ĐỘNG VIÊN TOÀN DÂN KHÁNG CHIẾN, TOÀN QUỐC KHÁNG
CHIẾN
Ngày 19- 12- 1946, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng chủ trương
phát động cuộc kháng chiến trong cả nước và nêu ra những phương hướng cơ
bản của cuộc kháng chiến. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến: “…Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm
cướp nước ta lần nữa.
Không ! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước,
nhất định không chịu làm nô lệ…
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc”[12]
Ngày 21- 12- 1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh lại ra lời kêu gọi nhân dân Việt
Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các nước đồng minh, vạch trần đã tâm xâm
lược của thực dân Pháp và hành động bội ước của chúng, nói rõ mục đích cuộc
chiến đấu chính nghĩa của ta.
Ngày 22- 12- 1946, Trung ương Đảng ra chỉ thị toàn dân kháng chiến. Chỉ
thị vạch rõ mục đích của kháng chiến là giành độc lập và thống nhất Tổ quốc.
Phương châm cơ bản của cuộc kháng chiến là toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực
cánh sinh. Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự và
tổng phản công.
Những khẩu hiệu tuyên truyền chung là:
- Toàn dân đoàn kết, kháng chiến ìâu dài,
- Liên hiệp dân Pháp, đánh thực dân Pháp,
- Bảo toàn lãnh thổ, giữ vững chủ quyền!
- Đánh đổ chính quyền bù nhìn, củng cố Cộng hoà dân chủ! Việt Nam nhất
định độc lập! Trung Nam Bắc nhất định thống nhất!
87
Đường lối kháng chiến của Đảng được đồng chí Trường Chinh giải thích và
phát triển trong các bài đăng trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8- 1947 và in
thành sách tháng 9- 1947 lấy tên là “Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Trong tác
phẩm này, đồng chí Trường Chinh đã chỉ rõ mục đích cuộc kháng chiến là giành
độc lập và thống nhất cho đất nước. Nó tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân
chủ nhân dân cho nên nhiệm vụ chống phong kiến, thực hiện dân chủ và chính
sách ruộng đất vẫn phải đi liền với nhiệm vụ chống đế quốc, nhưng vì nhiệm vụ
giải phóng dân tộc là nóng bỏng và cấp bách nhất cho nên yêu cầu dân chủ
không thể đặt ngang hàng với yêu cầu độe lập dân tộc, chính sách ruộng đất phải
được thực hiện từng bước để phân hóa hàng ngũ phong kiến và cô lập thực dân
Pháp xâm lược. Trong cuộc kháng chiến này, nhân dân Việt Nam vừa đấu tranh
để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hoà bình thế giới. “Cho nên cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam là một cuộc chiến tranh tiến bộ, vì tự do, độc lập, dân
chủ và hoà bình”. Tác phẩm phân tích một cách khoa học những chỗ mạnh và
chỗ yếu của ta so với những chỗ mạnh và chỗ yếu của địch, chỗ mạnh của ta đều
là gốc, chỗ mạnh của địch đều là ngọn”. Do đó, ta càng đánh càng mạnh, địch
càng đánh càng yếu. Ta từ chỗ yếu hơn địch sẽ tiến tới cân sức và mạnh hơn
địch. Vì vậy phải đánh lâu dài. Muốn đánh lâu dài phải tự lực cánh sinh, tự ta
giúp ta rồi người mới giúp ta. Cho nên phương châm chiến lược là kháng chiến
toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cánh sinh. Sau khi phân tích cuộc kháng
chiến lâu dài phải qua ba giai đoạn, tác phẩm giải thích rõ đường lối kháng chiến
về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá.
Tác phẩm chỉ rõ: mọi hoạt động văn hóa lúc này phải nhằm vào khẩu hiệu
“Yêu nước và căm thù giặc”. Nhiệm vụ của mặt trận văn hóa kháng chiến là
bằng mọi hình thức động viên toàn dân tham gia chiến đấu, “làm cho nhân dân
hiểu vì sao phải đánh, đánh để làm gì, làm thế nào để thắng, đánh nhất định khổ,
nhưng nhất định thắng lợi”.
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chỉ thị toàn
dân kháng chiến của Trung ương Đảng và tác phẩm “Kháng chiến nhất định
thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh là đường lối, hướng dẫn, động viên và tổ
88
chức nhân dân ta đấu tranh trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược
Pháp.
Những quan điểm về chiến tranh cách mạng trong các văn kiện ấy đã góp
phần xây dựng lý luận về chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc của nhân dân ta.
Đáp lại lời kêu gọi cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước
đứng lên chiến đấu với tinh thần bất khuất. Quân và dân thủ đô Hà Nội và các
thành phố, thị xã Hải Phòng, Huế, Nam Định, Đà Nẵng, Vinh đã tiêu diệt và tiêu
hao một bộ phận sinh lực địch, bảo vệ an toàn cho các cơ quan và nhân dân rút
ra khỏi đô thị, vận chuyển một khối lượng lớn máy móc, vật tư ra vùng tự do để
xây dựng hậu phương. Ở miền Nam, quân ta cũng mở nhiều trận đột kích vào
Sài Gòn- Chợ Lớn, sân bay Tân Sơn Nhất, phát triển chiến tranh du kích ở đồng
bằng sông Cửu Long, gây cho địch nhiều thiệt hại.
Ở những vùng có chiến sự, nhân dân ta đã phá hoại đường sá, cầu cống, nhà
cửa, triệt để thực hiện chính sách “vườn không nhà trống”. Hàng triệu người đã
hy sinh nhà cửa, tài sản, không chịu hợp tác với giặc, tản cư ra khỏi vùng địch
chiếm theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Tản cư cũng là kháng chiến”.
Nhân dân vùng tự do sẵn sàng đón tiếp, giúp đỡ đồng bào tản cư nơi ăn, chốn ở,
việc làm. Trong những ngày đầu kháng chiến, công tác thông tin tuyên truyền đã
được triển khai mạnh mẽ. Mạng lưới báo chí ở Trung ương đã khắc phục nhiều
khó khăn để phục vụ kháng chiến. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam. Đài
Tiếng nói Nam Bộ, hệ thống các báo của Đảng, đoàn thể, quân đội ở Trung
ương vẫn bảo đảm được hoạt động trong khi di chuyển; các khu và thành phố
cũng ra báo, các tỉnh đều có bản tin. Những khẩu hiệu phổ biến được viết lên ở
khắp nơi là: “Toàn dân đoàn kết, kháng chiến lâu dài”, “Mỗi phố là một mặt
trận”, “Mỗi làng là một pháo đài”, “Cướp súng giặc bắn giặc”, “Mỗi viên đạn là
một quân thù”, “Không đi lính cho Pháp”, “Không bán lương thực cho Pháp”,
“Đánh giặc, trừ gian”, “Giữ bí mật quân sự là yêu nước”. Nhiều làng, xã, thị trấn
có các bảng thông tin, chòi phát thanh để kịp thời phổ biến tin tức chiến đấu, sản
xuất. Tài liệu “Mười điều tâm niệm” do Hồ Chủ tịch viết theo hình thức hỏi và
89
trả lời để giải thích về đường lối kháng chiến đã được phổ biến rộng rãi trong
các đoàn thể cứu quốc và Hội Liên Việt.
Từ ngày 03 đến 06-4-1947, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ
Trung ương để rút kinh nghiệm những tháng đầu kháng chiến và cụ thể hoá
thêm đường lối kháng chiến trong tình hình trước mắt. Hội nghị nhận định: “Đời
sống nhân dân khó khăn, nhưng ai nấy đều hăng hái tham gia ủng hộ kháng
chiến, tinh thần vẫn vững và một lòng ủng hộ Chính phủ”.
Hội nghị nhấn mạnh vấn đề củng cố và mở rộng Mặt trận dân tộc thống
nhất, mở rộng hơn nữa Hội Liên Việt, đẩy mạnh vận động nhân dân tham gia
kháng chiến chống âm mưu chia rẽ dân tộc, tôn giáo, khắc phục khuynh hướng
hẹp hòi, đề phòng hữu khuynh…
Về công tác tuyên truyền cổ động, cần “Gây một phong trào sôi nổi tham
gia kháng chiến về mọi mặt làm cho ai nấy sẵn sàng hy sinh tất cả để “cứu nước,
cứu nòi…”. Hội nghị đã đề ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả của các lực
lượng và hình thức tuyên truyền cổ động, nâng cao chất lượng báo Cứu Quốc,
báo Sự thật và Đài Phát thanh Trung ương. Về huấn luyện, “mặc dầu bận rộn
kháng chiến cũng không được ngừng việc huấn luyện vì càng kháng chiến lâu
dài càng cần nhiều cán bộ mới và nâng cao trình độ cán bộ cũ”. Các đảng bộ cần
khuyến khích việc học tập trong Đảng; sửa chữa các khuyết điểm theo lời dạy
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bức thư ngày 01-3- 1947.
Thực hiện nghị quyết của Hội nghị, về mặt tư tưởng, Đảng đả mở cuộc vận
động học tập và phê bình, tự phê bình theo thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
các đồng chí Bắc Bộ và Trung Bộ. Trong bức thư trên Người đã biểu dương
những ưu điểm của cán bộ, đảng viên như: nhẫn nại, chịu khó, tháo vát nhiều
sáng kiến, căn dặn cẩn phải đem căn bản tốt đó để kiên quyết khắc phục các
khuyết điểm. Các khuyết điểm đó là: địa phương chủ nghĩa, óc bè phái, quân
phiệt, quan liêu, hẹp hòi, ham chuộng hình thức, vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hoá. Bức
thư đã phân tích các khuyết điểm, chỉ ra tác hại cụ thể của nó, động viên mọi
người kiểm điểm lại mình để sửa chữa.
90
Cuộc vận động đã thu được kết quả tốt, giúp cho cán bộ, đảng viên nâng
cao đạo đức cách mạng, tăng cường sự đoàn kết nhất trí và cải thiện mối quan hệ
giữa Đảng và quần chúng ở nhiều đảng bộ. Tháng 6- 1947, Hội nghị Bộ Chính
trị quyết định mở Trường Đảng đào tạo huấn luyện viên chính trị, ra nội san của
Trung ương và giao trách nhiệm cho các đồng chí phụ trách các ngành, các địa
phương viết bài cho báo Sự thật. Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị tờ Sinh
hoạt nội bộ: tạp chí lý luận và chính trị của Trung ương Đảng được xuất bản
tháng 8- 1947. Để đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng các đảng bộ cơ sở, các
Ban Tuyên huấn Khu ủy, Tỉnh uỷ đã giúp cấp ủy tăng cường chỉ đạo việc mở
lớp huấn luyện ngắn ngày cho đảng viên mới, bồi dưỡng đào tạo cán bộ cơ sở và
cán bộ huyện. Các lớp đào tạo huấn luyện viên chính trị do Trung ương mở đã
tăng cường cán bộ cho Ban Tuyên huấn các Tỉnh uỷ, Khu ủy làm nhiệm vụ mở
lớp và làm nòng cốt cho việc xây dựng hệ thống trường đảng sau này.
Tháng 10- 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh (với bút danh X.Y.Z) viết tác phẩm
“Sửa đổi lối làm việc”[13] nhằm tiếp tục giáo dục cán bộ, đảng viên, nâng cao
hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp kháng chiến. Đây là một văn kiện
có tính lý luận và thực tiễn về quan điểm tư tưởng, đạo đức, tác phong của người
cán bộ cách mạng trong điều kiện Đảng cầm quyền, cho đến nay vẫn có giá trị
thực tiễn lớn.
Về công tác huấn luyện cán bộ, Người viết: Cán bộ là cái gốc của mọi công
việc. Vì vậy, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Người nêu một số
khuyết điểm của các cấp trong công tác huấn luyện cán bộ: không coi trọng
huấn luyện nghề nghiệp; chưa tìm cách nâng cao trình độ văn hoá; dạy chính trị
thì mênh mông, không thiết thực; dạy lý luận thì lý luận và thực tế không ăn
khớp với nhau, dạy theo cách học thuộc lòng. Những khuyết điểm đó Đảng nên
sửa chữa ngay theo cách:
a- Huấn luyện nghề nghiệp: “làm việc gì học việc ấy”
b- Huấn luyện chính trị: "có hai thứ: thời sự và chính sách.
91
Cách huấn luyện thời sự là khuyên gắng và đốc thúc các cán bộ xem báo,
thảo luận và giải thích những vấn đề quan trọng và định kỳ khai hội cán bộ, báo
cáo thời sự…
Cách huấn luyện chính sách là đốc thúc các cán bộ nghiên cứu và thảo luận
những Nghị quyết, những chương trình, những tuyên ngôn của Đảng và Chính
phủ”.
c- Huấn luyện văn hoá: Với những cán bộ còn kém văn hoá, “trước hết phải
dạy cho họ những thường thức lịch sử, địa dư, làm tính, khoa học tự nhiên, xã
hội, chính trị, cách viết báo cáo, nghĩa vụ và quyền lợi người công dân”.
d- Huấn luyện lý luận: “trong bài học lý luận phải nghiên cứu công việc
thực tế, kinh nghiệm thực tế”, “kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng với nhau”.
Các cơ quan “phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách công
tác huấn luyện. Những người lãnh đạo phải tham gia việc dạy. Không nên bủn
xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn luyện”.
Ngày 07-10- 1947, thực dân Pháp mở cuộc tấn công đại quy mô lên Việt
Bắc nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến,
phá căn cứ kháng chiến, chiếm đóng biên giới, ngăn cách cách mạng ta với cách
mạng Trung Quốc, chuẩn bị thành lập chính phủ bù nhìn. Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị “phải phá tan cuộc tiến công mùa đông của giặc Pháp”.
Bản chỉ thị đề ra nhiệm vụ cho quân dân cả nước là “giáng cho địch thiệt hại
nặng nề để không gượng lại được sau chiến dịch mùa đông này”. Về tuyên
truyền cổ động, chủ yếu lúc này là làm cho toàn dân đoàn kết chặt chẽ chung
quanh Chính phủ, tích cực tham gia kháng chiến, phá kế hoạch tấn công của
địch, chống những khuynh hướng bi quan, dao động, thoả hiệp cũng như những
khuynh hướng sợ địch hay khinh địch, mất cảnh giác. Thực hiện chỉ thị của
Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch, quân dân ta đã giành thắng lợi to lớn, đánh
bại cuộc tấn công của địch lên Việt Bắc, phát triển chiến tranh du kích, phá tề,
trừ gian ở vùng sau lưng địch. Thắng lợi này có ý nghĩa chiến lược, không
những tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch mà còn đập tan chiến lược
đánh mau, thắng mau của địch. Nó đã làm cho nhân dân càng phấn khởi, tin
92
tưởng vào sức chiến đấu của quân dân ta có thể đánh bại những cuộc tấn công
lớn có vũ khí hiện đại của địch.
Trong lời kêu gọi ngày 19- 12-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết
những thắng lợi của ta và thất bại của địch trong một năm kháng chiến toàn
quốc - Người nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ:
“… Tuy vậy, bọn thực dân phản động không cướp được, thì chúng sẽ phá,
không thắng được thì chúng sẽ cắn mấy miếng cho đã nư. Chúng sẽ tấn công
vùng này rồi đến vùng khác. Lực lượng của chúng cũng như mặt trời vào lúc
hoàng hôn, hống hách lắm nhưng đã gần tắt nghỉ.
Cho nên dân và quân ta phải luôn gắng sức cẩn thận chuẩn bị đề phòng,
luôn luôn tấn công địch và phá hoại địch, tuyệt đối chớ tự kiêu, chớ khinh địch,
dù lực lượng của ta ngày càng thêm mạnh, như suối mới chảy, như lửa mới
nhóm, chỉ có tiến, không có thoái”[14]
3. ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC: DIỆT GIẶC
ĐÓI, DIỆT GIẶC DỐT, DIỆT GIẶC NGOẠI XÂM, CHỐNG CHÍNH
SÁCH “DÙNG NGƯỜI VIỆT ĐÁNH NGƯỜI VIỆT, LẤY CHIẾN
TRANH NUÔI CHIẾN TRANH” CỦA ĐỊCH.
Ngày 15-01-1948, sau chiến thắng Việt Bắc, Trung ương Đảng họp hội
nghị mở rộng để nhận định tình hình và bổ sung thêm các biện pháp đẩy mạnh
cuộc kháng chiến, chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt, lấy
chiến tranh nuôi chiến tranh”, lập chính phủ bù nhìn toàn quốc của thực dân
Pháp. Theo sáng kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 27-3- 1948, Ban Thường
vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị phát động phong trào thi đua ái quốc trong toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân với mục đích: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc
ngoại xâm. Trong bài “Thơ chúc Tết” Xuân Kỷ Sửu (1949), Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi:
“Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
93
Địch nhất định thua”[15].
Công tác tuyên truyền cổ động trong thời gian này tập trung nêu cao ý
nghĩa chiến thắng Việt Bắc, phổ biến lời kêu gọi ngày 19- 12 của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, chống tư tưởng chủ quan, khinh địch, vạch âm mưu lập chính quyền
bù nhìn Bảo Đại của thực dân pháp, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước trên
mọi lĩnh vực kháng chiến kiến quốc.
Tháng 7- 1948, nhân Hội nghị văn hoá toàn quốc lần thứ hai, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư chúc mừng các đại biểu. Trong thư, Người viết: "Trong sự
nghiệp vĩ đại kháng chiến kiến quốc của dân tộc ta, văn hoá gánh một phần rất
quan trọng… Chúng ta cần phải xây đắp một nền văn hoá kháng chiến kiến quốc
của toàn dân. Muốn đi đến kết quả đó, tôi thiết tưởng, các nhà văn hoá ta cần tổ
chức chặt chẽ và đi sâu vào quần chúng.
… Các nhà văn hoá ta phải có những tác phẩm xứng đáng, chẳng những để
biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bây giờ, mà còn để lưu truyền cái
lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế”[16]
Trong hội nghị này, đồng chí Trường Chinh đọc bản báo cáo “Chủ nghĩa
Mác và văn hoá Việt Nam” nêu rõ lập trường văn hoá mácxít, tính chất và
nhiệm vụ văn hoá dân tộc, dân chủ, phê phán và đấu tranh chống những khuynh
hướng và quan điểm văn hoá thực dân, phong kiến, tư sản phản động. Bản báo
cáo cũng xác định thái độ của những người làm công tác văn hoá là tuyệt đối
trung thành với Tổ quốc, với kháng chiến, không trung lập, bàng quan, không
thoả hiệp với tư tưởng và văn hoá phản động; đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, kết
hợp lý luận và thực tiễn, có quan điểm quần chúng đúng đắn.
Đây là một công trình lý luận văn hóa mácxít có giá trị lớn, nội dung chính
xác, phong phú, lời văn chặt chẽ, sinh động đầy tính chiến đấu. Đồng chí
Trường Chinh lý giải nhiều vấn đề lý luận văn hóa quan trọng trong đó có vấn
đề mối quan hệ giữa nghệ thuật và tuyên truyền là một vấn đề thời sự đang có
tranh luận trong giới văn nghệ sĩ. Đồng chí phê phán lập luận của một số người:
cho rằng con người của họ… “chia làm hai, con người công dân có khuynh
94
hướng rõ rệt và con người nghệ sĩ tuyệt đối tự do”. Đồng chí chỉ rõ văn hóa
không thể trung lập, đứng trên chính trị.
Cuối tháng 7, Đại hội văn nghệ toàn quốc quyết định thành lập Hội Văn
nghệ Việt Nam nhằm tập hợp các lực lượng văn nghệ sĩ yêu nước góp phần vào
công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Trực thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam còn có
Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Đoàn Sân khấu Việt Nam, các chi hội văn nghệ khu III,
khu IV, khu V, Nam Trung Bộ, Nam Bộ…
Tháng 3- 1948, Hội văn nghệ Việt Nam xuất bản Tạp chí Văn nghệ, tháng
6- 1949 Phòng văn nghệ quân đội cũng xuất bản Tạp chí văn nghệ quân đội.
Tháng 02- 1949, Hội nghị cán bộ văn hoá lần thứ nhất quyết định thành lập
Ban Văn hoá Trung ương của Đảng do đồng chí Trần Huy Liệu làm Trưởng
ban. Hội Văn hoá Việt Nam cũng được thành lập, tập hơp các nhà hoạt động văn
học, nghệ thuật, khoa học, giáo dục thành một Mặt trận văn hoá kháng chiến
thống nhất.
Báo chí ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến,
kiến quốc; song đội ngũ cán bộ làm báo còn quá ít. Tháng 5- 1949 Ban Bí thư
chủ trương mở lớp học viết báo đầu tiên, với danh nghĩa Tổng bộ Việt Minh mở,
lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng. Không có điều kiện đến thăm, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã gửi thư đến lớp. Trong thư, Người thân mật góp ý kiến với “các
bạn viết báo” về nhiệm vụ, tôn chỉ, mục đích của báo chí ta và càn dặn muốn
viết báo tốt thì cần:
1- “Gần gũi dân chúng, cứ ngồi trong phòng giấy mà viết thì không thể viết
thiết thực.
2- Ít nhất cũng phải biết một thứ tiếng nước ngoài, để xem báo nước ngoài,
và học kinh nghiệm của người.
3- Khi viết xong một bài tự mình phải xem lại ba bốn lần, sửa chữa lại cẩn
thận. Tốt hơn nữa, là đưa nhờ một vài người ít văn hoá xem và hỏi họ những câu
nào, chữ nào không hiểu thì sửa lại cho dễ hiểu.
4- Luôn luôn cố gắng học hỏi, luôn luôn cầu tiến bộ”[17]
95
Sau khi được phát động, phong trào thi đua yêu nước đã có tác dụng động
viên to lớn, phát huy tính tích cực và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân
dân ta trên mọi mặt trận kháng chiến, kiến quốc, cả ở vùng tự do và vùng du
kích, vùng địch tạm chiếm. Các phong trào tòng quân của thanh niên, quyên góp
lặp 'lhũ gạo nuôi quân", đỡ đầu bộ đội, du kích diễn ra sôi nổi. Việc tăng gia sản
xuất để tự cấp, tự túc đã khắc phục được nhiều khó khăn để bảo đảm các nhu
cầu tối thiểu của kháng chiến và đời sống nhân dân. Phong trào xoá nạn mù chữ,
bổ túc văn hoá, thực hiện đời sống mới, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cũng
đạt nhiều kết quả. Các hủ tục, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan được giảm hẳn.
Trong thời gian này chúng ta cũng đã đấu tranh thắng lợi với những khuynh
hướng tư tưởng không đúng trong Mặt trận thống nhất như đòi quyền tự do dân
chủ tư sản trong ngành tư pháp, tư tưởng phục Mỹ, sợ Mỹ can thiệp vào Đông
Dương. Để chống lại chính sách “dùng người Việt đánh người Việt”, thực hiện
chủ trương “biến hậu phương của địch thành tiền phương của ta”, khi địch mở
rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng Bắc Bộ, các đảng bộ địa phương đã đưa
hàng loạt cán bộ vào vùng địch tạm chiếm, tổ chức các đại đội độc lập, các đội
vũ trang tuyên truyền để phát động quần chúng, xây dựng cơ sở chính trị, diệt tề,
trừ gian, phát triển chiến tranh du kích, xây dựng các vùng căn cứ sau lưng địch.
ở các đô thị bị địch tạm chiếm, phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân cũng
bùng lên mạnh mẽ chống việc thành lập chính phủ bù nhìn kết hợp với các cuộc
tiến công của các lực lượng vũ trang vào các căn cứ, kho tàng của địch. ở Sài
Gòn, Hà Nội, Hải Phòng nổ ra nhiều cuộc bãi công của công nhân, bãi khoá của
học sinh, bãi thị của tiểu thương. Tháng 4- 1949, các nhân sĩ trí thức ở Sài Gòn
đã ra bản tuyên ngôn “chống giải pháp Bảo Đại” có 900 chữ ký. Hơn 3.000 tờ
báo “Tổ quốc trên hết” của Thành hội Liên Việt thành phố được phát hành cùng
với truyền đơn rải trắng đường phố, khẩu hiệu viết trên các tường nhà phản đối
việc thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại.
Để đáp ứng yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, năm 1949 Xứ ủy Nam Bộ
quyết định thành lập trường Đảng miền Nam mang tên “Trường Trường Chinh”.
Nhiệm vụ của Trường là trang bị những kiến thức cơ bản của chủ nghĩa Mác -
96
Lênin, đường lối, chính sách của Đảng… cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt của khu
ủy, tỉnh ủy, quân đội, đoàn thể. Từ 1949 đến 1954 Trường đảng miền Nam đã
mở lớp đào tạo bồi dưỡng gần 2000 cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, trong đó
nhiều đồng chí được tăng cường cho hệ thống Tuyên huấn và Trường đảng”[18].
Công tác vận động quần chúng có ý nghĩa rất quan trọng đẩy mạnh sự
nghiệp kháng chiến kiến quốc. Ngày 15- 10-1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
bài “Dân vận” đăng trên báo Sự thật. Bài báo tuy ngắn gọn nhưng nội dung rất
súc tích. Người phát triển những quan điểm về quan hệ giữa Đảng với nhân dân
đã trình bày trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc”, nêu ra một cách sáng tỏ những
quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận. Điểm xuất phát của công tác dân
vận là ở chỗ: nước ta là một nước dân chủ do Đảng lãnh đạo “mọi quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “bao nhiêu quyền
hạn đều của dân”, “công việc đổi mới, xây dựng, kháng chiến kiến quốc là trách
nhiệm của dân”, “chính quyền, đoàn thể các cấp đều do dân tổ chức nên”. Người
định nghĩa một cách đầy đủ về công tác dân vận “dân vận là vận động tất cả lực
lượng của mỗi người dân không để sót một người nào, góp thành lực lượng của
toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và
đoàn thể đã giao cho”. Tất cả mọi lực lượng trong hệ thống chính trị đều phải
làm công tác dân vận, làm cho dân biết, dân hiểu, học hỏi nhân dân, tổ chức,
động viên nhân dân thực hiện, miệng nói tay làm.
Trong lúc cuộc kháng chiến của ta tiến triển thuận lợi thì cách mạng Trung
Quốc giành được thắng lợi to lớn.
Ngày 01- 10- 1949, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Đầu năm
1950, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ nhân dân Đông Âu thiết lập
quan hệ ngoại giao với ta. Nước ta bắt đầu nhận được sự viện trợ về vật chất của
phe xã hội chủ nghĩa và trực tiếp liên hệ được với thế giới bên ngoài. Trước thất
bại của Pháp, Mỹ tăng cường can thiệp vào chiến tranh Đông Dương, thúc ép
Pháp “trao trả độc lập” cho bù nhìn Bảo Đại, và đưa đoàn cố vấn quân sự Mỹ
sang Việt Nam. Ngày 18-10- 1950, Trung ương Đảng ra chỉ thị về tuyên truyền
97
thắng lợi ngoại giao của ta, đồng thời ngăn ngừa tâm lý chủ quan, ỷ lại; vạch âm
mưu của Mỹ can thiệp vào chiến tranh Đông Dương.
Ngày 27-01- 1950, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị toàn quốc lần thứ
ba, chủ trương tích cực đẩy mạnh cuộc kháng chiến lên một bước mới “hoàn
thành nhiệm vụ chuyển sang tổng phản công”. Thực hiện nghị quyết của Hội
nghị, công tác tuyên truyền cổ động đã được triển khai mạnh mẽ, cổ vũ cho việc
tổng động viên nhân tài, vật lực cho kháng chiến theo khẩu hiệu: “Tất cả cho
tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Hàng chục vạn thanh niên nô nức xung phong
tòng quân. Ở vùng tự do, nhân dân ta đã hăng hái đóng góp lương thực, tiền bạc,
vật tư cho kháng chiến. Hàng vạn nhân dân cùng với các chiến sĩ công binh
tham gia các chiến dịch làm đường để phục vụ các cuộc chiến đấu lớn sắp tới ở
Việt Bắc.
Ở vùng địch tạm chiếm, phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển có
thời gian rất quyết liệt. Ngày 09-01-1950, hơn 3.000 học sinh, sinh viên Sài Gòn
- Chợ Lớn biểu tình đòi trả tự do cho 5 học sinh bị băt. Cuộc biểu tình bị đàn áp
dã man. Hàng chục vạn học sinh và nhân dân Sài Gòn đã đi đưa tang học sinh
Trần Văn ơn bị địch bắn chết. Ngày 13-01- 1950, hầu hết học sinh, sinh viên Hà
Nội bãi khoá để hưởng ứng cuộc đấu tranh của học sinh, sinh viên Sài Gòn. Từ
đó, ngày 9- 1 hằng năm trở thành Ngày học sinh, sinh viên Việt Nam đấu tranh
cho độc lập, tự do của Tổ quốc, chống đế quốc xâm lược.
Ngày 19-3- 1950, khi Mỹ đưa hai tàu chiến đến Sài Gòn, hàng chục vạn
nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn rầm rộ xuống đường biểu tình bất chấp sự đàn áp
của địch, giương cao cờ đỏ sao vàng, hô vang khẩu hiệu “Đả đảo đế quốc Mỹ”,
“Đế quốc Mỹ cút đi”. Kết quả là Mỹ phải rút hai tàu chiến ngay đêm ấy, bãi bỏ
cuộc biểu dương lực lượng của chúng. Ngày 19-3-1950 vẻ vang trở thành Ngày
toàn quốc chống Mỹ của nhân dân ta.
Trước tình hình thuận lợi trong nước và ngoài nước, trong nội bộ Đảng đã
có tư tưởng chủ quan, nóng vội dẫn đến một số lệch lạc như: có nơi động viên
nhân tài, vật lực quá mức ảnh hưởng đến sản xuất, đời sống nhân dân, tập trung
bộ đội chủ lực quá sớm làm yếu phong trào du kích, đấu tranh trong các thành
98
phố bị tạm chiếm không chú ý đầy đủ đến việc bảo vệ cơ sở. Mùa hè năm 1950,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho đồng bào, cán bộ Liên khu 4 phê bình sai
lầm trong việc thực hiện chính sách động viên. Đồng chí Trường Chinh viết bài
“Nhận định đúng, hành động đúng” và một số bài khác đăng trên Tạp chí Cộng
sản phê phán tư tưởng nóng vội, chủ quan như muốn tổng phản công ngay khi
quân giải phóng Trung Quốc tiến đến biên giới nước ta, phê phán tư tưởng bi
quan khi ta gặp những khó khăn mới hoặc khi địch có những cố gắng mới, nêu
ra những phương châm hành động đúng đắn về tổng động viên, về xây dựng lực
lượng vũ trang và về công tác vùng sau lưng địch.
Trung ương Đảng ra chỉ thị cho đảng bộ Liên khu 4 và các Liên khu khác
căn cứ vào thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh để tự kiểm điểm và tự phê bình trước
quần chúng. Nhờ đó những lệch lạc đã được uốn nắn, sủa chữa bước đầu, ý thức
kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh được quán triệt hơn.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ,
nâng cao chất lượng huấn luyện, tháng 5-1950 Ban Bí thư triệu tập Hội nghị
huấn luyện toàn qụốc lần thứ nhất. Đến thăm và nói chuyện với hội nghị, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh ba vấn đề lớn: Phải thiết thực, chu đáo trong công
việc huấn luyện; phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học; khuyết điểm cần sửa
chữa ngay trong việc huấn luyện. Người nói, lớp huấn luyện mở không ít nhưng
các địa phương và các ngành vàn kêu thiếu cán bộ, “vì việc huấn luyện còn hữu
danh vô thực, làm chỉ cốt nhiều mà không thiết thực". Để việc huấn luyện được
thiết thực, chu đáo thì người huấn luyện của đoàn thể phải làm kiêu mẫu về mọi
mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc, và phải học thêm mãi. Học lý luận là để áp
dụng vào việc làm, hiểu lý luận mà không thực hành là lý luận suông. Ngoài lý
luạn phải dạy công tác, dạy văn hoá, dạy chuyên môn cho cán bộ. Người nêu ra
6 điểm về cách huấn luyện cần chú ý: Cốt thiết thực, chu đáo, hơn tham nhiều;
huấn luyện từ dưới lên trên; gắn liền lý luận với công tác thực tế, phải nhằm
đúng nhu cầu; chú trọng việc cải tạo tư tưởng; lấy những tài liệu về chủ nghĩa
Mác - Lênin làm gốc, đồng thời phải học những nghị quyết, chỉ thị, luật, lệnh
của doàn thể và Chính phủ, tổ chức trao đổi kinh nghiệm qua thực tế công tác
99
của học viên. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải tự động học tập. Học để
sửa chữa tư tưởng, tu dưỡng đạo đức cách mạng, nâng cao tin tưởng, học để
hành. Người yêu cầu sửa chừa ngay khuyết điểm: lớp quá đông, chương trình
không tốt; mở lớp lung tung, thiếu người giảng, chỉ tốn gạo mà học thì táp
nham. Phải hợp lý hoá, nghĩa là: mở lớp nào cho ra lớp ấy, lựa chọn người dạy
và người đến học cho cẩn thận.
Bài nói của Bác rất thiết thực, cụ thể, chỉ đạo các cấp, các ngành quán triệt
phương châm coi trọng chất lượng trong công tác huấn luyện và nâng cao ý thức
tự giác học tập của cán bộ, đảng viên.
Ngày 14-9- 1950, Trung ương có quyết định thành lập Ban Tuyên truyền và
Ban Giáo dục Trung ương. Ban Tuyên truyền do đồng chí Trường Chinh phụ
trách và đồng chí Tố Hữu làm Trưởng ban, Ban Giáo dục do đồng chí Hà Huy
Giáp làm Trưởng ban.
Tháng 6- 1950, Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Biên giới nhằm
tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng biên giới phía Bắc,
mở rộng và củng cố căn cứ địa Việt Bắc. Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Bộ Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ đạo chiến dịch, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đi sát mặt trận, gửi thư cho các chiến sĩ căn dặn phải dũng cảm, kiên quyết chiến
đấu tiêu diệt địch “chỉ cho đánh thắng, không cho đánh bại". Người ra trận địa,
đi thăm bộ đội, dân công, thể hiện ý chí quyết thắng của toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân, đã gây xúc động và cổ vũ mạnh mẽ cán bộ, chiến sĩ.
Chiến dịch Biên giới đã giành thắng lợi to lớn, có ý nghĩa chiến lược, làm
thay đổi cục diện chiến tranh giữa ta với Pháp, từ đó quân ta liên tiếp giành
quyền chủ động tiến công đẩy lùi đỉch vào thế bị động đối phó.
Lòng tin của nhân dân ta vào thắng lợi cuối cùng được củng cố và nâng cao.
Tuy nhiên trong một số người lại nảy sinh tư tưởng chủ quan, nóng vội cho là có
thể đánh nhanh, thắng nhanh.
Trong cán bộ lúc này có một số biểu hiện tư tưởng sai lầm quan liêu, ham
cấp bậc, địa vị; Chủ tịch Hồ Chí Minh viết hai bài báo đăng trên báo Sự thật
“Phải chữa cái bệnh cấp bậc” (ngày 15-7- 1950) “Phải tẩy sạch bệnh quan liêu”
100
(ngày 2-9- 1950) nhắc nhở cán bộ gột sạch óc quan liêu, ngôi thứ quan cách
mạng"[19], chỉ ra những biểu hiện, nguyên nhân và cách sửa chữa. Người viết:
“Nếu không lo chừa, thì bệnh quan liêu sẽ đưa bệnh nhân đến chỗ hoàn toàn bị
đào thải.
Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:
- Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết
- Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân
Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
- Phải làm kiểu mẫu: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”[20]
4. QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG,
ĐẨY MẠNH CUỘC KHÁNG CHIẾN TỚI THẮNG LỢI QUYẾT ĐỊNH
Tình hình trong nước và thế giới đã có những chuyển biến quan trọng vào
đầu năm 1950. Tình hình mới đòi hỏi Đảng ta phải họp Đại hội để hoàn chỉnh và
bổ sung đường lối cách mạng, tổ chức lại Đảng cho phù hợp, đồng thời phải xác
định những chính sách, biện pháp để đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Đại hội lần thứ II của Đảng được tiến hành trong tháng 2- 1951.
Đồng chí Hồ Chí Minh đọc báo cáo chính trị khái quát cuộc vận động cách
mạng thế giới và cách mạng Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX, tổng kết quá trình
lãnh đạo cách mạng của Đảng ta trong 2l năm, nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu của
cách mạng Việt Nam lúc này là Tiêu diệt thực dân Pháp và đánh bại bọn can
thiệp Mỹ, giành thống nhất độc lập hoàn toàn, bảo vệ hòa bình thế giới[21]. Để
hoàn thành sự nghiệp lãnh đạo cách mạng và đưa kháng chiến đến thắng lợi,
Đảng phải ra hoạt động công khai và tổ chức lại cho thích hợp với tình hình mỗi
nước ở Đông Dương
Báo cáo nêu cao thắng lợi của cách mạng tháng 8- 1945: "Chẳng những giai
cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và
những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên
trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”[22].
101
Về nhiệm vụ cách mạng trước mắt, báo cáo viết: "Nhiệm vụ thứ nhất,
nhiệm vụ cấp bách nhất của Đảng ta ngày nay là phải đưa kháng chiến đến thắng
lợi. Các nhiệm vụ khác đều phải phụ thuộc vào đó"[23].
Để đưa kháng chiến đến thấng lợi, về mặt công tác tư tưởng, báo cáo nhấn
mạnh đến việc phát triển tinh thần yêu nước. " Dân ta có một lòng nồng nàn yêu
nước. Đó là một truyền thống quí báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc
bị xâm làng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiêm khó khăn nó nhấn chìm tất cả lũ bán
nước và lũ cướp nước. . .
Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong
tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo
trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín
đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền,
tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được
thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”[24].
Đồng chí Trường Chinh trình bày báo cáo "Bàn về cách mảng Việt Nam".
Bản báo cáo xác định đối tượng của cách mạng Việt Nam là chủ nghĩa đế quốc
và thế lực phong kiến. Kẻ thù cụ thể trước mắt của cách mạng Việt Nam là chủ
nghĩa đế quốc xâm lược (thực dân Pháp, bọn can thiệp Mỹ) và bè lũ bù nhìn bán
nước, đại biểu quyền lợi cho đại địa chủ phong kiến và tư sản mại bản. Nhiệm
vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành
độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xoá bỏ chế độ phong kiến, đem lại ruộng
đất cho nông dân, đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Báo cáo cũng xác định
nhiệm vụ chống phong kiến nhất định phải làm đồng thời với nhiệm vụ chống
đế quốc, nhưng phải có kế hoạch làm từng bước để vừa bồi dưỡng và phát triển
lực lượng cách mạng, vừa giữ vững được khối đại đoàn kết toàn dân để kháng
chiến.
Về triển vọng của cách mạng Việt Nam, báo cáo kháng định: "Vì giai cấp
công nhân và Đang ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cho nên cách mạng đó
không thể không tiến lên chủ nghĩa xã hội. . . Từ nay đến chủ nghĩa xã hội, nước
102
ta phải trải qua một thời gian dài. Thời gian dài đó, tuỳ theo sự thay đổi về
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, tuỳ theo những biến hóa trong hàng ngũ kẻ
thù và hàng ngũ bạn đồng minh của giai cấp công nhân mà chia ra nhiều giai
đoạn. . . Vì nước ta bị xâm lược, chùa thoát hẳn được ách đế quốc; lại là một
nước nông nghiệp và nửa phong kiến, công nghiệp không phát triển. Muốn có
độc lập, dân chủ và tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, vấn đề chủ yếu trước mắt
là phải hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thực hiện khẩu hiệu người
cầy có ruộng"[25]
Báo cáo "Bàn về cách mạng Việt Nam" là một văn kiện lịeh sử quan trọng.
Nó đã bổ sung, hoàn chỉnh và phát triển lý luận của Đảng ta về cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo ở một nước thuộc địa, nửa
phong kiến, một dân tộc có truyền thống kiên cường, bất khuất chống xâm lược,
trong thời đại mới quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
Đồng chí Tố Hữu trình bày báo cáo bổ sung về "Xây dựng văn nghệ nhân
dân Việt Nam".
Sau khi nhận xét văn nghệ Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám và những
bước đầu của văn nghệ Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, báo cáo xác định
những nhiệm vụ cụ thể của việc xây dựng văn nghệ nhân dân:
- Đoàn kết rộng rãi những người công tác văn nghệ phụng sự kháng chiến
kiến quốc, bảo vệ hòa bình thế giới. . . "sự đoàn kết phải đứng trên lập trường
phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến, không thể đoàn kết một cách vô
nguyên tắc theo đuôi những người văn nghệ lạc hậu".
- Đẩy mạnh sáng tác và biểu diễn, nâng cao giá trị tư tưởng và nghệ thuật
của tác phẩm. Chống tư tưởng mất tự tin, tự ty muốn "thoát ly công tác văn nghệ
gác bút. . . để cầm súng, cầm bừa" "không thể có triển vọng sáng tác bằng tài
năng trẻ thì nên thôi sáng tác". Chống khuynh hướng "muốn làm to, cầu toàn
trách bị" muốn xây dựng "tác phẩm to lớn” không thực tế, không hợp thời.
Bồi dưỡng hướng dẫn phong trào văn nghệ quần chúng, chống thái độ
khinh rẻ khả năng sáng tạo nghệ thuật của quần chúng, không chú ý nâng đỡ,
103
phát triển những tài năng mới". Chú ý đặc biệt văn nghệ miền núi, giữ gìn bản
sắc của mỗi dân tộc, tránh khuynh hướng “Kinh hóa”.
- Tích cực đấu tranh chống văn nghệ phản động của Pháp, Mỹ. Chống lại
những nọc độc văn nghệ của địch reo rắc "tâm lý cầu an, sợ chết, thích khoái
lạc", "dùng văn nghệ mà mở mang ánh sáng tự do và lửa chiến đấu vào vùng
địch tạm chiếm".
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Chính phủ về văn nghệ - cán bộ
chính trị đặc biệt là cán bộ tuyên truyền, giáo dục phải học lý luận văn nghệ để
lãnh đạo phong trào văn học nghệ thuật, bồi dưỡng trình độ chính trị, lý luận cho
những người làm công tác văn ngbệ.
Đại hội đã thảo luận và thông qua Chính cương, Điều lệ mới của Đảng,
quyết định Đảng ra công khai lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam, quyết định
xuất bản báo Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng thay thế cho tờ Sự thật.
Thực hiện nghị quyết của Đại hội II, Hội nghị lần thứ nhất (tháng 3- 195 1),
thứ hai (tháng 10- 195 l) và thứ ba (tháng 4- 1952) (khoá II) của Trung ương
Đảng đã vạch ra nhũng chủ trương và biện pháp về đẩy mạnh cuộc đấu tranh ở
vùng sau lưng địch, về xây dựng nền kinh tế, tài chính trong kháng chiến, về xây
dựng lực lượng vũ trang và xây dựng Đảng để bảo đảm các yêu cầu của cuộc
kháng chiến. Mở đầu cho việc tuyên truyền quán triệt nghị quyết của Đại hội II,
ngày 03-3- 195 l, Ban Chấp hành Trung ương đã tổ chức lễ ra mắt của Đảng
trước Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh - Liên Việt. Sau khi đồng chí
Trường Chinh báo cáo về việc thành lập Đảng, về Chính cương và chính sách
Mặt trận của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh tóm tắt mục đích, nhiệm vụ, các
chính sách lớn của Đảng. Người nhấn mạnh về tính chất của Đảng: "Đảng Lao
động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, nghĩa là
những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái
nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân.. .
Đảng Lao động Việt Nam không sợ kẻ địch nào dù cho chúng hung tợn đến
mấy, không sợ nhiệm vụ nào dù nặng nề nguy hiểm đến mấy nhưng Đảng Lao
104
động Việt Nam sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân
dân.
Tuy vậy, Đảng Lao động Việt Nam cũng do nhiều người tổ chức lại mà
thành. Mà người thì ai cũng có ít nhiều khuyết điểm. Vì vậy Đảng Lao động
Việt Nam mong mỏi và hoan nghênh sự phê bình thật thà của các đảng phái và
đoàn thể bạn, của các nhân sĩ và của toàn thể đồng bào để cho Đảng tiến bộ mãi.
. . "[26]
Ngày 02-4- 195 l, Ban Bí thư ra chỉ thị về vấn đề Đảng ra công khai. Ngày
16-4-195l, Trung ương có quyết định thành lập Ban Tuyên huấn Trung ương do
đồng chí Trường Chinh làm Trưởng ban.
Thi hành nghị quyết Hội nghị lần thứ nhất của Trung ương và chỉ thị của
Ban Bí thư, các cấp đảng bộ đã tổ chức việc nghiên cứu Chính cương, Điều lệ
của Đảng, nghị quyết Đại hội và dựa vào bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong Đại hội Mặt trận để làm công tác tuyên truyền cổ động trong nhân
dân. Các đảng bộ ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích trong khắp cả nước đều
tổ chức được các buổi lễ ra mắt, với đại biểu các đoàn thể, Mặt trận, chính
quyền và các tầng lớp nhân dân, yêu cầu phê bình chính sách, chủ trương, phê
bình cán bộ, đảng viên. Những nơi tiến hành tốt đã thu được nhiều ý kiến đóng
góp của cán bộ và nhân dân về công tác của địa phương, thiết thực giáo dục cho
cán bộ, đảng viên về ý thức tiên phong gương mẫu, tăng cường mối liên hệ giữa
Đảng với quần chúng, tăng thêm lòng tin tưởng của nhân dân đối với Đảng, đẩy
mạnh công tác kháng chiến của địa phương.
Ngày 08-12-195l, Ban Bí thư ra chỉ thị về việc học tập và phổ biến lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong dịp kỷ niệm 5 năm toàn quốc kháng chiến.
Đợt tuyên truyền giáo dục này đã được tiến hành rộng rãi cả ở vùng tự do
và vùng sau lưng địch, làm cho cán bộ và nhân dân thấm nhuần hơn ý thức
kháng chiến lâu dài, nâng cao ý chí quyết chiến, quyết thắng, lòng tin vào thắng
lợi cuối cùng, quyết tâm thi đua hoàn thành các nhiệm vụ chiến đấu, sản xuất,
công tác, chống các khuynh hướng bi quan, dao động sợ hy sinh gian khổ, nôn
nóng, ỷ lại viện trợ bên ngoài.
105
Nhân dịp triển lãm hội họa năm 195 l, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư thân
ái hỏi thăm anh chị em hoạ sĩ và các văn nghệ sĩ nói chung. Trong thư, Người
viết:
“Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận.
Anh chị em là chiến sĩ trên mật trận ấy. . .
…..Chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ. . . phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ
quốc, phụng sự nhân dân, trước hết là công, nông, binh. . .
…. Chiến sĩ nghệ thuật cẩn có lập trường vững, tư tưởng đúng. . .
Về sáng tác, thì cần hiểu thấu, liên hệ và đi sâu vào đời sống của nhân dân. .
. Muốn tiến bộ mạnh, tiến bộ mãi, thì anh chị em nghệ thuật cần phải dùng
phương pháp tự phê bình và phê bình.
Chắc có người nghĩ: Cụ Hồ đưa nghệ thuật vào chính trị.
Đúng lắm. Văn hoá, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị"[27].
Từ khi cuộc kháng chiến của ta chuyển sang thời kỳ mới yêu cầu của tiền
tuyến cao hơn trước, địch lại mở rộng vùng chiếm đóng ra đồng bằng, chúng ta
gặp nhiều khó khăn về kinh tế tài chính. Đời sống nhân dân vùng tự do ở nhiều
nơi cũng khó khăn hơn, có người đã tản cư lại chạy vào vùng tạm Chiếm. Để
khắc phục những khó khăn ấy, Đảng và Chính phủ phát động cuộc vận động
tăng gia sản xuất và tiết kiệm, ban hành chính sách thuế mới để huy động sự
đóng góp của nhân dân được ổn định và công bằng hơn. Các địa phương đã phát
triển sản xuất nông nghiệp thành một phong trào quần chúng mạnh mẽ và rộng
khắp ở vùng tự do và vùng căn cứ du kích theo khẩu hiệu “ăn no, đánh thắng”,
“ruộng rẫy là chiến trường, cuốc cày là vũ khí, nhà nông là chiến sĩ, hậu phương
thi đua với tiền phương" (Lời Chủ tịch Hồ Chí Minh). Không những nông dân
thi đua sản xuất mà bộ đội, công nhân, viên chức đều tranh thủ trồng trọt, chăn
nuôi để tự túc một phần. Công nhân thi đua sản xuất nông cụ và vũ khí, đạn
dược.
Công tác tuyên truyền về thuế nông nghiệp, nguồn thu chính của Nhà nước
được tiến hành sâu rộng để làm rõ nghĩa của chính sách thuế mới, tính chất công
106
bằng của nó để vừa thu đủ thuế, vừa thực hiện đúng đường lối giai cấp trong
chính sách thuế: huy động sự đóng góp nhiều hơn của địa chủ, phú nông, giảm
nhẹ cho bần cố nông, khuyến khích người trực tiếp lao động. Qua công tác này,
cán bộ cũng được giáo dục thêm về ý thức giai cấp, về đường lối giai cấp của
Đảng ở nông thôn.
Từ năm 195l, thực hiện kế hoạch chiến tranh Tátsinhi, địch tàn phá hàng
trăm làng mạc, dồn dân vào vùng kiểm soát, xây dựng phòng tuyến "boong ke”,
lập "vành đai trắng”. Chúng đẩy mạnh việc càn quét, bình định, phát triển nguỵ
quyền, ra sức bắt lính. Công tác tuyên truyền ở vùng sau lưng địch đã vạch rõ
mục đích của kế hoạch Tátsinhi, thế yếu và bị động của nó, những chủ trương và
phương châm đấu tranh trong vùng sau lưng địch, khắc phục thái độ chủ quan,
mất cảnh giác, đấu tranh không đúng phương pháp để tổn thất cơ sở chính trị.
Trong điều kiện đầy gian khổ khó khăn, cán bộ ta đã “bám đất, bám dân” dùng
tuyên truyền miệng là chính kết hợp với việc lập các đội vũ trang tuyên truyền đi
sâu vào vùng địch kiểm soát phát động quần chúng đấu tranh. Các tỉnh đều xuất
bản các bản tin, tài liệu ngắn, truyền đơn để tố cáo tội ác của địch, đưa tin chiến
thắng quân sự và các cuộc đấu tranh trong vùng địch kiểm soát, phổ biến kinh
nghiệm và gương đấu tranh anh dũng của nhân dân. Hà Nội, Sài Gòn đều có báo
bí mật, đồng thời lợi dụng khả năng hợp pháp để vận động trí thức tiến bộ xuất
bản báo công khai hoặc phân công cán bộ viết báo công khai.
Tháng 11- 195l, địch mở chiến dịch đánh chiếm Hoà Bình. Phối hợp với
việc tấn công của quân chủ lực, các đảng bộ địa phương chỉ rõ thời cơ thuận lợi,
phát động quần chúng nổi dậy phá vỡ hệ thống nguỵ quân, nguỵ quyền ở nhiều
nơi, mở rộng khu du kích và căn cứ du kích ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong năm
1952, chiến tranh du kích được đẩy mạnh ở vùng sau lưng địch trên toàn quốc,
làm thất bại các cuộc càn quét của địch, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, buộc
chúng phải phân tán lực lượng. Phong trào chống giặc bắt lính trở thành phong
trào quần chúng. Nhân dân và các gia đình có con em đi lính được tuyên truyền
vận động kéo lên đồn, bốt đòi chồng con về nhà làm ăn. Hàng vạn lính nguỵ,
dân vệ đã bỏ ngũ hoặc ra hàng.
107
Phong trào thi đua yêu nước sau bốn năm phát động đã đạt nhiều kết quả.
Từ 30-4-1952 đến 06-5-1952, Đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu đã
họp tại Việt Bắc. Có những anh hùng tiêu biểu như: La Văn Cầu, Nguyễn Thị
Chiên (quân đội, dân quân du kích), Ngô Gia Khảm (công nhân), Hoàng Hanh
(nông dân) , Trần Đại Nghĩa (trí thúc) . Sau Đại hội, việc tuyên truyền cho các
gương anh hùng, chiến sĩ thi đua, các điển hình sản xuất, chiến đấu giỏi bằng
nhiều hìnb thức (sách, báo, phát thanh, nói chuyện, ca kích. . .) đã cổ vũ mạnh
mẽ cán bộ và nhân dân đưa phong trào thi đua yêu nước lên một bước lới. Cán
bộ cũng được rèn luyện thêm về tinh thần tiên phong, gương mẫu để xứng đáng
là người lãnh đạo phong trào.
Trong các năm 195 l, 1952, thi hành nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ II
và nghị quyết Hội nghị Trung ương 2, để tăng cường chất lượng công tác tư
tưởng, các Ban Tuyên huấn từ Trung ương tới các Liên khu và tỉnh đã được bổ
sung và kiện toàn ở mức độ khac nhau. Ban Tuyên huấn Trung ương đã lập ra
các Tiểu ban biên tập, Tiểu ban huấn học, Tiểu ban văn nghệ, Tiểu ban giáo dục.
Theo hướng dẫn của Ban Tuyên huấn Trung ương, một số tỉnh ở vùng tự do đã
bước đầu xây dựng chế độ báo cáo viên, làm thí điêm xây dựng "lưới tuyên
truyền" ở cơ sở, chấn chỉnh việc giảng dạy trong các trường Đảng, quy định chế
độ học tập cho cán bộ. Các Ban Tuyên huấn ở các tỉnh trong vùng sau lưng địch
đã mở được nhiều lớp huấn luyện đào tạo bồi dưỡng cán bộ về công tác vùng
sau lưng địch.
Về báo chí, đã có nhiều cố gắng nâng cao chất lượng, tăng số lượng phát
hành. Báo Nhân dân phát hành 20.000 bản/ngày; báo Cứu quốc: 25.000 - 30.000
bản/ngày.
Cùng với báo Nhân dân ở Trung ương còn có báo Nhân dân liên khu - là cơ
quan của Ban Chấp hành đảng bộ khu 5, báo Nhân dân miền Nam là cơ quan
của Trung ương cục miền Nam. Cùng với báo Cứu quốc ở Trung ương, còn có
báo Cứu quốc khu III, Cứu quốc khu IV, Cứu quốc Thủ đô, Cứu quốc Nam
Bộ… Tờ báo Vệ quốc quân và Quân du kích hợp nhất lại thành tờ Quân đội
nhân dân xuất bản hàng tuần (10-1950). Các tỉnh đều có bản tin, một số tỉnh có
108
báo địa phương hoặc ra số báo đặc biệt trong các đợt tuyên truyền lớnn. Cùng
với Đài Tiếng nói Việt Nam. Đài Tiếng nói Nam, Đài Tiếng nói Sài Gòn - Chợ
lớn tự do cũng khắc phục nhiều khó khăn, chống lại sự phá hoại của địch, duy trì
hoạt động có hiệu quả.
Về văn nghệ, Ban Tuyên huấn Trung ương đã tổ chức việc bồi dưỡng chính
trị cho văn nghệ sĩ, lập các đoàn công tác, các đội vân công đi sát quần chúng
phục vụ việc tuyên truyền kháng chiến, mở rộng phong trào văn nghệ quần
chúng, phát triển ngành điện ảnh, mở trường Mỹ thuật, cử người đi học các môn
nghệ thuật ở nước ngoài. Ngành giáo dục phồ thông được tiếp tục tổ chức lại
theo phương châm: phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân và phục vụ sản xuất.
Một số trường phổ thông lao động ở Trung ương và các tỉnh được thành lập để
bồi dưỡng văn hoá cho các chiến sĩ thi đua, cán bộ công nông, binh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm việc cải tiến, nâng cao chất lượng các
hoạt động tư tưởng. Ngoài các bài phát biểu đối với công tác huấn luyện, công
tác báo chí, công tác văn nghệ, năm l950, với bút danh X.Y.Z. Bác viết bài
"Người tuyên truyền và cách tuyên truyền". Với lối văn giản dị, dễ hiểu. Người
viết: “Tuyên truyền là đem một việc gì nói cho dân hiểu, dân nhớ, dân theo, dân
làm”. Muốn thành công, phải biết cách tuyên truyền, có nội dung tốt còn phải
biết cách nói giản đơn, rõ ràng, thiết thực, phải có lễ độ. Người tuyên truyền
phải chịu khó, chịu khổ, khéo ở, siêng làm. Dân sinh hoạt thế nào ta phải sinh
hoạt như họ. Thấy dân làm việc gì cũng ra tay làm giúp. Thái độ phải mềm
mỏng. Làm đúng như thế thì sẽ thành công to. Ngày 17-8- 1952 Bác phát biểu
về "Cách viết", đặc biệt là viết ngắn.
Năm 1952, trong một cuộc họp với cán bộ ở khu căn cứ Việt Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nói về vấn đề thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan
liêu. Người đã giải thích lợi ích, ý nghĩa của việc thực hành tiết kiệm, những
biểu hiện của bệnh quan liêu và nạn tham ô, lãng phí, coi việc chống lại nó cũng
quan trọng và cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận. .
109
Người viết: " . . . Muốn thành công trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm
. . . phải tẩy sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không, thì nó sẽ
làm hại đến công việc của ta.
Tham ô là trộm cướp. Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả
cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn tham ô. Mà có
nạn tham ô và lãng phí là vì bệnh quan liêu
…. Bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Vì
vậy, muốn trừ sạch nạn tham ô, lãng phí, thì trước mắt phải tẩy sạch bệnh quan
liêu.
Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân. . . Chống tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng quantrọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt
trận. Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị. . . Tham ô, lãng phí, quan liêu là một
thứ “giặc ở trong lòng". Nếu chiến sĩ và nhân dân ta ra sức chống ngoại xâm mà
quên chống giặc nội xâm, như thế chưa làm tròn nhiệm vụ của mình. . ."[28]
Trong bài nói trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển toàn diện và sâu sắc
những quan điểm về chống quan liêu, tham ô, lãng phí ở các bài viết trước về
vấn đề này. Cho đến nay bài nói chuyện vẫn có ý nghĩa thực tiễn trong việc xây
dựng đất nước.
Trong hai năm 1952, 1953 thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 3,
cuộc vận động chỉnh huấn trong Đảng, trong quân đội, chính quyền, đoàn thể đã
được tiến hành. Đây là cuộc vận động giáo dục rộng lớn nhằm chấn chỉnh Đảng,
sửa chữa những khuyết điểm chính của cán bộ, đảng viên, nângcao trình độ tư
tưởng, ý thức công tác của cán bộ, đảng viên, đồng thời chỉnh đốn tổ chức ở các
chi bộ nông thôn. Cách làm chỉnh huấn là tiến hành một đợt học tập ngắn ngày
kết hợp với phê bình, tự phê bình, làm từ Trung ương tới khu, tỉnh, huyện.
Trong Bài nói tại lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương Chủ tịch Hồ Chí
Minh (11-5- 1952) chỉ rõ vì sao phải tiến hành chỉnh huấn: "Đảng ta có chủ
nghĩa Mác - Lênin, là chủ nghĩa cách mạng và khoa học nhất. Có đường lối,
chính sách đúng nhất. Có cơ sở khắp cả nước. Có những cán bộ, đảng viên tận
tuỵ hy sinh vô cùng oanh liệt.
110
Nhưng vì điều kiện khó khăn, mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được
huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch
lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết điểm như: không nắm vững chính sách trường
kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh; không phân biệt rõ ràng bạn và địch; bệnh
quan liêu, công thần và nạn tham ô hủ hoá khá nặng, v.v. .
Là một Đảng lãnh đạo, Đảng ta cần phải mạnh mẽ, trong sạch kiểu mẫu
Toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm
tròn nhiệm vụ của Đảng. . ."[29]. Người căn dặn các đồng chí học viên học tập
tốt, thật thà tự phê bình và phê bình, phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, vì
“Cán bộ quyết định mọi việc” Công việc thành hay bại phân lớn là do nơi tư
tưởng, đạo đức, thái độ và lề lối làm việc của cán bộ.
Các đợt chỉnh huấn được hầu hết cán bộ tham gia và được các cấp ủy lãnh
đạo chặt chẽ. Chỉnh huấn đã làm cho cán bộ thấu suốt hơn đường lối cách mạng,
quan điểm kháng chiến lâu dài, tự lực cánh sinh, quan điểm quần chúng, nâng
cao ý chí quyết tâm chống đế quốc, phong kiến, chống những khuynh hướng bi
quan, dao động, nóng vội, ỷ lại vào sự giúp đỡ bên ngoài, thiếu tin tưởng vào
quần chúng, những biểu hiện mơ hồ, hữu khuynh trong việc thực hiện chính
sách ruộng đất. Tuy nhiên, những kết quả trên có phần bị hạn chế do có một số
khuyết điểm: chỉnh huấn chưa dựa trên cơ sở tổng kết công tác, cách làm còn
máy móc, rập khuôn, phê bình thiếu khách quan thường phủ nhận ưu điểm, có
trường hợp đả kích cá nhân, truy ép, chụp mũ gây không khí nặng nề sau chỉnh
huấn và ảnh hưởng xấu tới việc chỉnh đốn tổ chức.
Tháng 7-1953, sau các thất bại ở Tây Bắc, Thượng Lào, được Mỹ tăng
cường viện trợ, Chính phủ Pháp thông qua kế hoạch quân sự Nava. Pháp và Mỹ
đều hy vọng kế hoạch này sẽ tạo ra thế mạnh về quân sự, chuyển bại thành thắng
trong vòng 18 tháng. Tháng 9- 1953, Bộ chính trị có quyết định lịch sử về nhiệm
vụ quân sự Đông - Xuân 1953 - 1954, giữ vững quyền chủ động đánh địch ở
chính diện và sau lưng địch, phối hợp hoạt động trên chiến trường cả nước và
toàn Đông Dương.
111
Tháng 11- 1953, ta tiến quân lên Tây Bắc và giải phóng Lai Châu, chuẩn bị
tiến công Trung Lào và Tây Nguyên. Trước nguy cơ bị uy hiếp, địch nhảy dù
đánh chiếm Điện Biên Phủ, xây dựng thành một tập đoàn cứ điểm quân sự.
Đồng thời địch phải phân tán lực lượng đối phó với các cuộc tiến công thắng lợi
của ta ở Trung Lào, Thượng Lào, Tây Nguyên và đồng bằng Bắc Bộ. Bộ Chính
trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ để tiêu diệt quân địch, đập tan kế
hoạch Nava.
Từ sau Hội nghị Bộ Chính trị tháng 9- 1953, công tác tư tưởng đã được
triển khai mạnh mẽ để làm rõ tình hình và chủ trương của Trung ương, phục vụ
cho cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân. Hàng ngàn cán bộ được học tập và
huy động ra phục vụ chiến trường hoặc vào công tác ở vùng sau lưng địch, hàng
chục vạn dân công được động viên ra phục vụ tiền tuyến. Khi có quyết định mở
chiến dịch Điện Biên Phủ, công tác tư tưởng đã tập trung làm rõ quyết tâm chiến
lược của Trung ương, khắc phục tư tưởng hoài nghi, do dự, thiếu tin tưởng vào
thắng lợi. Yêu cầu của cuộc chiến đấu càng to lớn, nặng nề hơn, công tác tuyên
truyền động viên cho việc chuẩn bị chiến trường càng khẩn trương, sôi nổi.
Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng" đã biến thành hành
động thực tế của hàng triệu nhân dân ta ở hậu phương cả vùng tự do và các vùng
căn cứ du kích. Nhân dân đã nhiệt tình cống hiến sức người, sức của cho tiền
tuyến. Các lực lượng thông tin, tuyên truyền, văn nghệ của Trung ương, địa
phương đã bám theo các đơn vị chiến đấu, các đoàn thanh niên xung phong,
đoàn dân công để tiến hành công tác. Việc phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ trở
thành một cao trào cách mạng hào hùng lập nên những kỳ tích mà kẻ địch không
thể ngờ tới.
Trong suốt chiến dịch Điện Biên Phủ, cùng với cuộc chiến đấu oanh liệt của
bộ đội ngoài mặt trận, hàng vạn thanh niên xung phong phối hợp với công binh
đã anh dũng mở hàng ngàn kilômét đường, phá bom nổ chậm trên các tuyến
giao thông. Hàng chục vạn dân công vượt qua đèo dốc, thác ghềnh, bom đạn,
vận tải hàng vạn tấn lương thực, vật tư cho mặt trận chỉ bằng đôi vai hoặc các
phương tiện thô sơ: xe đạp, thuyền bè.
112
Từ đầu năm 1953, thực hiện nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, Đảng phát
động quần chúng triệt để giảm tô để thiết thực chuẩn bị cải cách ruộng đất. Mục
đích của chính sách cải cách ruộng đất là xoá bỏ quyền chiếm hữu ruộng đất của
đế quốc, địa chủ, phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, giải phóng sức
sản xuất, cải thiện đời sống cho nông dân, bồi dưỡng lực lượng kháng chiến, đẩy
mạnh kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi làm thí
điểm ở một số tỉnh Việt Bắc, tháng 1- 1953, Đảng vạch ra Cương lĩnh ruộng đất,
xác định đường lối chung của Đảng ở nông thôn và phương châm cải cách ruộng
đất. Tháng 12- 1953, Quốc hội ban hành Luật cải cách ruộng đất. Công tác tư
tưởng đã làm rõ mục đích của chính sách ruộng đất, sự cần thiết phải tiến hành
cải cách ruộng đất ngay trong kháng chiến, làm rõ đường lối giai cấp của Đảng,
khắc phục tư tưởng sợ vỡ đoàn kết, sợ địa chủ phá hoại, thái độ lo lắng hoang
mang, thiếu tin vào chính sách mặt trận dân tộc của Đảng. Việc tuyên truyền
phát động quần chúng thực hiện chính sách ở cơ sở do các đội công tác trực tiếp
tiến hành dưới sự chỉ đạo của các đoàn uỷ. Việc tuyên truyền rộng rãi chính sách
thông qua các hội nghị, các phương tiện thông tin đại chúng do các cấp uỷ địa
phương chỉ đạo.
Công tác tuyên truyền phát động quần chúng đã giáo dục ý thức giai cấp
cho nông dân lao động, nâng cao khí thế cách mạng của nông dân vùng tự do, có
ảnh hưởng tới nông dân vùng sau lưng địch. Nó động viên cao độ tinh thần cách
mạng của nông dân hăng hái sản xuất, hăng hái đóng góp, đi dân công phục vụ
tiền tuyến. Nó cũng động viên các chiến sĩ quân đội con em nông dân ngoài mặt
trận hăng hái giết giặc. Từ tháng 4- 1953 đến tháng 7-1954 ta tiến hành 5 đợt
giảm tô và một đợt cải cách ruộng đất trong kháng chiến, tuy có một số khuyết
điểm, nhưng đã góp phần đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh cuộc kháng chiến, và
vào thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953 - 1954.
Ngày 13-3- 1954, quân ta bắt đầu nổ súng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện
Biên Phủ. Cuộc chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trong thời gian chiến dịch dài
chưa từng có trong cuộc kháng chiến nên đã có nhiều khó khăn, gian khổ. Đảng
đã tiến hành một đợt sinh hoạt chính trị trong cán bộ và chiến sĩ ngoài mặt trận,
113
giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần tích cực tiến công, ý chí
quyết thắng, quyết tâm chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, khắc phục tư tưởng tiêu
cực ngại gian khổ hy sinh, uốn nắn tư tưởng chủ quan, khinh địch khi có thắng
lợi. Các gương chiến đấu quật cường, hy sinh oanh liệt được biểu dương trong
toàn quân, toàn dân.
Dự đoán các khả năng phát triển, để tăng cường công tác tuyên huấn trước
những diễn biến mới của tình hình, ngày 29-3-1954 Ban Bí thư ra chỉ thị số 71-
CT/TƯ về việc chỉnh đốn sự lãnh đạo công tác tuyên truyền của các cấp uỷ
đảng. Bản chỉ thị nhận xét: Trong năm vừa qua, các cấp uỷ đảng chưa thực sự
chú trọng lãnh đạo công tác tuyên huấn, biểu hiện cụ thể là tình trạng “khoán
trắng" cho cán bộ chuyên môn; không chăm lo kiện toàn tổ chức, cán bộ các ban
tuyên huấn điều động, thuyên chuyển nhiều cán bộ tuyên huấn, nhiều cấp uỷ
không cử cấp uỷ viên thực sự chuyên trách công tác tuyên huấn. Ban Bí thư yêu
cầu các cấp chấm dứt tình trạng đó, nhất là năm nay cuộc đấu tranh chính trị
giữa ta và địch sẽ ngày một phức tạp, nhiệm vụ tuyên huấn trong cuộc đấu tranh
ấy rất nặng nề. Nội dung chấn chmh gồm 5 điểm: cấp uỷ cử l cấp uỷ viên
chuyên trách công tác tuyên huấn; các cuộc họp của cấp uỷ phải đề ra những nét
lớn về công tác tuyên huấn; không tuỳ tiện điều động cán bộ tuyên huấn, nhất là
trưởng, phó ban, cấp tỉnh và cấp khu khi thay đổi cán bộ phụ trách tuyên huấn
phải hỏi ý kiến Ban Tuyên huấn Trung ương; khi cần thiết huy động cán bộ
tuyên huấn đi tham gia việc gì thì chú ý sử dụng đúng khả năng chuyên môn của
họ; cấp uỷ thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo cán bộ tuyên huấn, kiểm tra, phê
bình công tác tuyên huấn.
Việc thực hiện Chỉ thị 7l của Ban Bí thư đã kịp thời tăng cường sự lãnh đạo
của các cấp uỷ - trước hết là cấp khu, cấp tỉnh đối với công tác tuyên huấn, đáp
ứng nhiệm vụ công tác tư tưởng trong chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954,
trong phát huy chiến thắng Điện Biên Phủ.
Ngày 07-5-1954, ta tiêu diệt hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Trận chiến đấu lớn nhất trong lịch sử kháng chiến đã thàng lợi hoàn toàn. Chiến
thắng Điện Biên Phủ được liên tục thông báo, tường thuật, bình luận trên đài
114
phát thanh, báo chí, cổ vũ mạnh mẽ các chiến trường cả nước. Một cao trào tiến
công và nổi dậy đã diễn ra ở các tỉnh Nam Bộ, đồng bằng Bắc Bộ, Liên khu 5.
Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công, băi khoá, bãi thị nổ ra ở các đô thị.
Hàng vạn nhân dân ở Hà Nôi, Hải Phòng, Huế đấu tranh chống bắt lính, đòi
chồng con, đòi chấm dứt chiến tranh. Hơn 300 trí thức Sài Gòn ký tuyên ngôn
đòi Pháp ngừng chiến tranh xâm lược. Nguỵ quyền nhiều nơi tê liệt, hàng vạn
ngụy quân bỏ ngũ trở về với nhân dân.
Song song với cuộc đấu tranh quân sự là cuộc đấu tranh ngoại giao. Tháng
11-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời phóng viên Thuỵ Điển về việc Chính phủ
Pháp muốn giải quyết hoà bình cuộc xung đột ở Việt Nam, nói rõ lập trường
thương lượng hoà bình của ta: ". . . Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là
Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của Việt Nam"[30]. Tháng
12- 1953, Bộ Chính trị ra nghị quyết về chủ trương của Đảng trong đàm phán,
thương lượng. Căn cứ vào nghị quyết này, Ban Bí thư Trung ương đã ra thông
tri giải thích rõ nghị quyết trên. Thông tri chỉ rõ tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là xuất phát từ nguyện vọng hoà bình của nhân dân ta, nhân dân Pháp và
nhân dân thế giới. Thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tay sai rêu rao hoà bình chỉ là
lừa bịp, tuyệt đối không nên có ảo tưởng hoà bình, hoà bình cũng như độc lập
phải đấu tranh gian khổ mới giành được. Bọn đế quốc "chỉ chịu thương lượng
khi nào chúng bị ta tiêu diệt thật nhiều sinh lực và tự nhận thấy không thương
lượng hoà bình không được".
Công tác tư tưởng đã dựa vào thông tri của Ban Bí thư giải thích cho cán
bộ, đảng viên, nhân dân thấy rõ muốn có hoà bình và độc lập thật sự thì phải ra
sức chiến đấu giành nhiều thắng lợi hơn, làm tan rã tinh thần quân đội Pháp và
bù nhìn, đòi Pháp phải thương lượng với Chính phủ ta, khắc phục tư tưởng mệt
mỏi, ngại gian khổ, hy sinh, ảo tưởng hoà bình sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Trong
thời gian này, chúng ta cũng đã đẩy mạnh việc tuyên truyền cho đường lối đoàn
kết liên minh với nhân dân Lào, Campuchia, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ
của nhân dân thế giới. Chúng ta đã tổ chức "Tháng đoàn kết hữu nghị Việt -
115
Trung - Xô" có kết quả ở các vùng tự do và căn cứ du kích, cổ vũ nhân dân ta
thêm phấn khởi, tin tưởng đẩy mạnh cuộc kháng chiến đến thắng lợi.
Tháng 5-1954, với bút danh CB, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Tuyên
truyền" đăng trên Báo Nhân dân ngày 25-5-1954 về vấn đề chống lại "Chiến
tranh bằng tuyên truyền của địch". Người viết. . . "nhiều cán bộ ta xem khinh
việc tuyên truyền của địch. . .
Nghĩ như vậy là lầm to, là chủ quan, khinh địch rất nguy hiểm.. .
Giọt nước rỏ lâu đá cũng mềm...
Chúng ta phải đánh thắng địch về tuyên truyền, cũng như bộ đội ta đánh
thắng địch về mặt quân sự"[31]
Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân 1953- 1954 mà
đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ làm thay đổi cục diện chiến tranh, tạo thế
mạnh cho phái đoàn ta ở Hội nghị Giơnevơ. Trong suốt quá trình hội nghị, ta đã
tiến hành tuyên truyền lập trưởng chính nghĩa và những đề nghị cụ thể của ta để
lập lại hoà bình ở Đông Dương, vạch rõ thái độ ngoan cố của Mỹ, Pháp, cổ vũ
nhân dân ta đẩy mạnh kháng chiến giành nhiều thắng lợi hơn, cổ vũ nhân dân
Pháp và nhân dân thế giới đấu tranh ủng hộ lập trường của ta đấu tranh đòi lập
lại hoà bình.
Ngày 20-7- 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt cuộc chiến
tranh xâm lược của Pháp ở Đông Dương, thừa nhận độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Nhân dân ta
bước sang một thời kỳ lịch sử mới: thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam,
tiến tới thống nhất nước nhà.
*
* *
Sau hơn 3.000 ngày tiến hành cuộc kháng chiến chống xâm lược của thực
dân Pháp và can thiệp Mỹ (23-9- 1945 - 20-7- 1954), nhân dân ta đã giành được
thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử. Như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết:
Lần đầu tiên trong lịch sử, một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước
116
thực dân hùng mạnh. Đó là thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời
cũng là một thắng lợi của các lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa
trên thế giới. Thắng lợi của kháng chiến là do nhiều nguyên nhân tạo nên, nhưng
nhân tố có tính quyết định là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đẳn của Đảng, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sự lãnh đạo, chỉ đạo ấy có mục đích chính nghĩa, có
đường lối độc lập tự chủ, sáng tạo đã phát huy được sức mạnh của cả dân tộc,
kết hợp được sức mạnh dân tộc và quốc tế để giành chiến thắng.
Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng đường lối và
biến đường lối ấy thành phong trào kháng chiến của cả dân tộc, cả nước với tinh
thần quyết chiến quyết thắng vì độc lập tự do.
Bước vào chiến tranh, ngay từ khi cuộc kháng chiến cục bộ nổ ra ở miền
Nam, Đảng đã bắt đầu tiến hành việc tổng hợp kinh nghiệm lịch sử các cuộc
kháng chiến của dân tộc, của nước ngoài, kinh nghiệm đấu tranh giành chính
quyền, kinh nghiệm kháng chiến ở miền Nam. Đồng chí Trường Chinh viết:
“Dựa vào sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc, một cuộc
tổng hợp những kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm nước ngoài đang được thực
hiện. . . [32]
Tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi " đã khái quát kinh nghiệm lịch
sử, trình bày chiến lược vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa đánh vừa xây dựng
chế độ mới, phát triển những quan điểm đã được tổng kết trong chỉ thị toàn dân
kháng chiến của Trung ương, dự đoán khả năng phát triển, khẳng định kháng
chiến nhất định thắng lợi. Trong quá trình kháng chiến, Đảng đã xem xét đánh
giá tình hình từng thời gian, vận dụng lý luận để tổng kết kinh nghiệm, từng
bước nắm vững quy luật chiến tranh cách mạng, bổ sung và hoàn chỉnh đường
lối. Chính trong quá trình vừa làm, vừa học, phê bình, tự phê bình mà đường lối
kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh được cụ thể hoá
trong các thời kỳ phát triển.
Để biến đường lối ấy thành phong trào kháng chiến, công tác tư tưởng đã
kiên trì, bền bỉ làm cho cán bộ và nhân dân ngày càng thông suốt đường lối, phát
huy cao độ lòng yêu nước, khí phách kiên cường của dân tộc "quyết không chịa
117
mất nước", "quyết không làm nô lệ". Mọi người đều hiểu được mục đích kháng
chiến là cứu nước, cứu nhà nên toàn dân phải đánh giặc, đánh giặc phải lâu dài
gian khổ nhưng nhất định thắng lợi.
Công tác tư tưởng đã thường xuyên tố cáo những tội ác dã man của địch để
nâng cao lòng căm thù, ý chí quyết tâm kháng chiến, không ngại hy sinh gian
khổ, vạch những thủ đoạn xảo quyệt của địch để đề cao cảnh giác. Đã kết hợp
giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần đoàn kết quốc tế, làm cho mọi người
phân biệt được bọn thực dân xâm lược pháp với nhân dân lao động Pháp.
Công tác tư tưởng đã phê phán, đẩy lùi những khuynh hướng lệch lạc, phổ
biến là bi quan, ngại đánh lâu dài, ngại hy sinh gian khổ, chủ quan khinh địch,
thiếu cảnh giác, nôn nóng muốn đánh nhanh, thắng nhanh, ỷ lại viện trợ bên
ngoài.
Để nâng cao tính tiên phong gương mẫu của đảng viên, tăng cường sự đoàn
kết nhất trí trong Đảng, khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, Đảng đã
rất coi trọng việc giáo dục lý tưởng, đạo đức, tác phong cách mạng cho cán bộ,
đảng viên, chỉ đạo chặt chẽ các đợt giáo dục quan trọng như học tập thư của Chủ
tịch Hồ Chí Minh kết hợp phê bình, tự phê bình năm 1947, học tập Chính
cương, Điều lệ Đảng năm 195l, chỉnh huấn 1952 - 1953. Trong hoàn cảnh kháng
chiến, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn được chú ý tiến hành thường xuyên.
Công tác tuyên truyền cổ động đã đi vào từng nhà, từng người, gắn việc
tuyên truyền đường lối kháng chiến với cổ động kịp thời, sắc bén cho việc hoàn
thành những nhiệm vụ kháng chiến từng thời kỳ. Nó đã thường xuyên biểu
dương những điển hình tiên tiến, cổ vũ cho phong trào thi đua yêu nước, khơi
dậy những điều tốt đẹp nhất trong con người và cộng đồng Việt Nam: lòng yêu
nước nồng nàn, tinh thần dũng cảm, kiên cường, trí thông minh, tài năng sáng
tạo, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết trong đấu tranh, v.v. . Mọi hoạt động văn
học, nghệ thuật, giáo dục đều hướng vào phục vụ công cuộc kháng chiến, kiến
quốc. Trong hoàn cảnh khó khăn, ngoài các báo chí ở Trung ương, các khu, tỉnh,
thành phố đều xuất bản được báo hoặc bản tin phát hành tới các đơn vị cơ sở.
Công tác thông tin ở cơ sở, phong trào văn nghệ quần chúng nhất là ca hát được
118
phát triển rộng rãi làm cho cuộc kháng chiến tuy gian khổ nhưng không khí thôn
xóm vẫn vui tươi lành mạnh.
Ở vùng sau lưng địch, ta đã lợi dụng mọi khả năng hợp pháp, nửa hợp pháp
để tiến hành công tác tuyên truyền như vận động các nhân sĩ, trí thức tiêu biểu ra
tuyên bố có lợi cho kháng chiến, cử người viết bài trên các báo công khai.
Khuyết điểm chính trong công tác tư tưởng thời kỳ này là có thời gian chưa
quán triệt quan điểm trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh thể hiện trong việc
tuyên truyền nhiệm vụ chuẩn bị tổng phản công năm 1949, áp dụng máy móc,
rập khuôn kinh nghiệm của nước ngoài trong việc chỉnh huấn cán bộ và trong
công tác tuyên truyền phát động quần chúng giảm tô, cải cách ruộng đất. . .
Nhìn chung trong kháng chiến, chỉ trừ một số rất ít kẻ phản động, người
lầm đường, toàn thể dân tộc ta đã tham gia đánh giặc bằng nhiều hình thức. Đó
là do sự lãnh đạo đúng đắn nhiều mặt của Đảng, trong đó có kết quả của công
tác tư tưởng sâu rộng, sắc bén, có hiệu quả lớn. .
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr4
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.27
[3] Sđd, tr. 114
[4] Sđd, tr. 31
[5] Sđd, tr. 36-37
[6] Sđd, tr. 33
[7] Sđd, tr. 145
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương: Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban nghiên cứu lịch sử
Đảng Trung ương xuất bản, Hà Nội, 1978, tr 42
[9] Theo Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1977, tr.374
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.246
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương: Văn kiện Đảng 1945-1954, Ban nghiên cứu Lịch sử
Đảng Trung ương, xuất bản, Hà Nội, 1978, tr252
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.480
[13] Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.229 -306
[14] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.314
[15] Sđd, tr. 557
[16] Sđd, tr. 464
119
[17] Sđd, tr. 626
[18] Xem: 50 năm trường Đảng miền Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999
[19] Sđd, t.6, tr.68
[20] Sđd, t.6, tr.90
[21] Sđd, st.170-171
[22] Sđd, t.6, tr.159
[23] Sđd, t.6, tr.175
[24] Sđd, t.6, tr.171-172
[25] Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng: Văn kiện đại hội II, 1965, tr.110…(T.G)
[26] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb, Chính trị quốc gia, 1995, t.6, tr.184-185
[27] Sđd, tr. 368-369.
[28] Sđd, t.6, tr. 488, 489, 490, 495.
[29] Sđd, t.6, tr.479 - 480
[30] Sđd, 1996, t.7, tr. 168
[31] Sđd, t.7, tr. 284
[32] Trường Chinh: Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1948, tr. 7.
120
CHƯƠNG IIICÔNG TÁC TƯ TƯỞNGTRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ,CỨU NƯỚC VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954 - 1975)
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thức thắng lợi, cách
mạng nước ta bước vào một thời kỳ mới.
Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) tháng 7-
1954 phân tích những biến đổi của tình hình thế giới và trong nước, vạch ra
những chuyển hướng về chủ trương, nhiệm vụ, phương châm và sách lược đấu
tranh cho phù hợp với tình hình mới.
Sau 9 năm kháng chiến, quân và dân ta đã giành được những thắng lợi lớn,
so sánh lực lượng giữa ta và địch chuyển biển có lợi cho ta nhưng chưa phải
chuyển biến căn bản có tính chất chiến lược. Pháp càng đánh càng thua, phải
dựa vào Mỹ, biến thành kẻ đánh thuê cho Mỹ. Chính phủ Pháp buộc phải
thương lượng với ta để chấm dứt chiến tranh. Cuộc đấu tranh chính nghĩa của
nhân dân ta được Liên Xô, Trung Quốc và các nước anh em bè bạn, nhân dân
Pháp và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới nhiệt liệt ủng hộ.
Phong trào độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ phát triển mạnh. Chủ nghĩa
đế quốc phải đối phó với cuộc tiến công của ba dòng thác cách mạng trên thế
giới. Tuy vậy, trước sự đe doạ của Mỹ, ở nhiều nơi cũng xuất hiện tâm lý sợ Mỹ,
sợ vũ khí nguyên tử, sợ một đốm lửa nhỏ (chiến tranh giải phóng ở một nước)
có thể gây ra chiến tranh thế giới.
Mỹ là nước tham gia Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về chấm dứt chiến tranh,
lập lại hòa bình ở Đông Dương nhưng ra sức phá hoại Hội nghị nhằm thực hiện
âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh. Mỹ không chịu ký vào bản Tuyên bố
cuối cùng của Hội nghị. Tuy bị thất bại một bước nhưng Mỹ không từ bỏ âm
mưu xâm lược Đông Dương.
Hội nghị Trung ương nhận định Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu
chuộng hòa bình trên thế giới và đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân
dân ta, "mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ"[1]. Khẩu hiệu đấu tranh
121
của ta là: Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nhiệm vụ mới của nhân dân ta
là: Tranh thủ và củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân
chủ trong cả nước. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ, phức tạp, nhưng
nhất định thắng lợi.
Hội nghị Bộ Chính trị (9 - 1954) cụ thể hóa và bổ sung nghị quyết Trung
ương, phân tích những đặc điểm của thời kỳ mới, trong đó đặc điểm quan trọng
nhất là đất nước ta tạm thời chia làm hai miền có hai chế độ chính trị khác nhau.
Cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang
đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của miền Bắc là hàn gắn vết
thương chiến tranh, khôi phục kinh tế. Đế quốc Mỹ mưu tính phá hoại việc thực
hiện Hiệp định Giơnevơ nhằm gây khó khăn cho ta trong việc củng cố miền Bắc
và nhằm thực hiện âm mưu của chúng chia cắt lâu dài đất nước ta.Trong một
thời gian nhất định, nhiệm vụ chung của Đảng ta là: Đoàn kết và lãnh đạo đấu
tranh thực hiện hiệp định đình chiến, đề phòng và khắc phục mọi âm mưu phá
hoại hiệp định đình chiến để củng cố hòa bình; ra sức hoàn thành cải cách ruộng
dất, phục hồi và nâng cao sản xuất, tăng cường xây dừng quân đội để củng cố
miền Bắc; giữ vững và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị của nhân dân miền
Nam, nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ
trong toàn quốc.
Đảng nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong tình hình mới phải giữ vững ý chí
chiến đấu, đề phòng và khắc phục các tư tưởng chủ quan, khinh địch, tự mãn tự
kiêu, hoặc cầu an, hưởng lạc, thủ tiêu đấu tranh. . .
Trong các công tác tư tưởng phải đặt vấn đề “thống nhất tư tưởng" lên hàng
đầu; phải nêu cao kết quả thắng lợi của ta và phải làm cho toàn đảng, toàn quân,
toàn dân nhận rõ tình hình mới và nhiệm vụ mới, nhận rõ tính chất và nội dung
thay đổi của nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đây là công tác then chốt, là một
việc rất quan trọng, có tác dụng quyết định những thắng lợi của ta trong giai
đoạn tới[2]
Ngay sau khi hiệp định Giơnevơ được ký kết (20-7- 1954), Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Ban Chấp hành Trung ương đảng ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
122
cả nước. Ban Bí thư ra Chỉ thị số 83 - CT/TƯ mở một đợt tuyên truyền về Hiệp
định Giơnevơ - tình hình mới và nhiệm vụ mới. Ban Bí thư yêu cầu: Tất cả các
cấp phải coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục, lãnh đạo tư tưởng - như chỉ
thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Trung ương: Trong 10 công tác thì “công
tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất"[3].
Để giúp Trung ương tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng trong tình hình
mới, ngày 22- 1- 1954 Ban Bí thư ra Nghị quyết số 51 - NQ/TƯ về việc kỉện
toàn nhân sự lãnh đạo Ban Tuyên huấn Trung ương. Ban Tuyên huấn các cấp đã
giúp cấp ủy phổ biến nội dung Nghị quyết Trung ương và nội dung Hiệp định
Giơnevơ cho hàng ngàn cán bộ các cơ quan ở Trung ương và các tỉnh, thànnh
phố, triển khai về các địa phương và cơ sở; lực lượng đảng viên, cán bộ các
ngành, các giới, các đội vũ trang tuyên truyền, tuyên truyền xung phong... tiến
hành công tác tuyên truyền, giải thích trong nhân dân ở vùng tự do và vùng sau
lưng địch. Báo, đài, các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, in ấn, xuất bản, phát
hành của Trung ương và địa phương hoạt động rất tích cực, phục vụ cho công
tác tuyên truyền. Vì vậy một số lượng lớn nội dung Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và của Trung ương Đảng, các báo của Trung ương và địa phương,
truyền đơn, sách nhỏ, tài liệu tuyên truyền... được tán phát rộng rã trong nhân
dân. Ở vùng tự do và các khu du kích, ở các địa điểm tập kết cán bộ và bộ đội
miền Nam để chuẩn bị chuyển ra Bắc, các cuộc mít tinh lớn, liên hoan mừng
thắng lợi, triển lãm, chiếu phim, biểu diễn nghệ thuật... được tổ chức rầm rộ, tạo
không khí phấn khởi, náo nức trong nhân dân.
Kết quả bước đầu quán triệt Nghị quyết Trung ương sáu, Nghị quyết Bộ
Chính trị và đợt tuyên truyền theo Chỉ thị 83 của Ban Bí thư đã góp phần thống
nhất tư tưởng trong đảng và trong nhân dân về nhận định tình hình và chủ
trương của Đảng:
- Nhất trí đánh giá bước tiến lớn của cuộc đấu tranh ái quốc của nhân dân ta
trong 9 năm qua. Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta phải giành thắng
lợi từng bước. Miền Bắc hoàn toàn giải phóng là cơ sở để tiếp tục đấu tranh
123
hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Uốn nắn tư tưởng chủ quan, nôn nóng
chỉ muốn tiếp tục đánh.
Thắng lợi của quân và dân ta đã dẫn đến việc ký kết Hiệp định Giơnevơ.
Điều quan trọng nhất của nội dung Hiệp định là Pháp phải thừa nhận độc lập,
chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Khơ me và Lào, tổng
tuyển cử tự do để thống nhất mỗi nước; Pháp phải rút quân ra khỏi Đông
Dương, chấm dứt ách thống trị của Pháp ở cả ba nước. Ta tranh thủ được hòa
bình, Mỹ thất bại trong âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh. Điều chỉnh
vùng đóng quân là cần thiết để thực hiện đình chiến. Giới tuyến quân sự chỉ là
tạm thời, không phải là "chia cắt đất đai", là "phân trị" như luận điệu xuyên tạc
của địch. Từ nay, đế quốc Mỹ là kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân ta. Để
củng cố hòa bình, nhân dân ta phải đấu tranh thực hiện Hiệp định, chống mọi
hành động phá hoại của Mỹ và tay sai.
- Cả nước phấn khởi, tự hào trước thắng lợi lớn của dân tộc, nhiệt liệt
hưởng ứng Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Trung ương Đảng,
phấn đấu thích hiện tốt nhiệm vụ mới của mỗi miền. Đồng bào miền Nam rất
cảm động trước tình cảm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí
Minh, thể hiện trong Lời kêu gọi của Người:
"Đồng bào miền Nam kháng chiến trước hết, giác ngộ rất cao. Tôi chắc
rằng đồng bào sẽ đặt lợi ích cả nước trên lợi ích địa phương, lợi ích lâu dài trên
lợi ích trước mắt, mà ra sức cùng đồng bào toàn quốc phấn đấu để củng cố hòa
bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc. Đảng,
Chính phủ và tôi luôn luôn theo dõi sự cố gắng của đồng bào và tin chắc đồng
bào sẽ thắng lợi"[4].
Nghị quyết Trung ương sáu và Nghị quyết Bộ Chính trị đề ra những nhiệm
vụ trước mắt của mỗi miền. Trong chặng đường đi tới, miền Bắc được hoàn toàn
giải phóng có chờ cách mạng miên Nam hoàn thành hay chuyển ngay sang cách
mạng xã hội chủ nghĩa? Miền Nam có trường kỳ mai phục, chịu chia cắt lâu dài
hay tiếp tục ngay cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên giải phóng hoàn toàn?
Cách mạng miền Nam, cách mạng Việt Nam tiến lên bằng con đường thi đua
124
hòa bình hay con đường cách mạng bạo lực? Con đường giải phóng miền Nam
như thế nào để giữ được hòa bình ở miền Bắc, để không lan thành chiến tranh
khu vực hoặc chiến tranh thế giới. Đây là những vấn đề về xác định nhiệm vụ
chiến lược, về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức đặt ra cho Đảng và nhân
dân ta. Công tác tư tưởng phải góp phần vào việc hoạch định đường lối của cách
mạng nước ta ở mỗi miền trong tình hình mới.
I- QUÁN TRIỆT VÀ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ CỦNG CỐ MIỀN
BẮC, ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở MIỀN NAM (1954-1960)
1. Động viên phong trào quần chúng khôi phục kinh tế, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ và tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc.
Nghị quyết Trung ương sáu và Nghị quyết Bộ Chính trị đề ra các nhiệm vụ
cụ thể trước mắt để củng cố miền Bắc: tiếp quản vùng giải phóng; củng cố vùng
tự do cũ; hoàn thành cai cách ruộng đất; tăng cường xây dựng quân đội; khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh.
Nhân dân ta bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ củng cố miền Bắc trong điều
kiện khó khăn gay gắt về nhiều mặt của một xã hội vốn là thuộc địa, nửa phong
kiến, vừa ra khỏi hai cuộc chiến tranh kéo dài 15 năm ( 1939 - 1945; 1945 -
1954) để lại hậu quả nặng nề. Nông nghiệp, ngành kinh tế chủ yếu, bị thiệt hại
nghiêm trọng; tập quán canh tác lạc hậu; thiên tai diễn ra liên tiếp; ruộng hoang
hóa hàng trăm ngàn hécta; nhiều vùng nông thôn xơ xác, tiêu điều; gần nửa triệu
người bị đói. Công nghiệp vốn nhỏ yếu lại bị thiệt hại nặng. Thủ công nghiệp
nhiều nghề bị đình đốn. Hàng chục vạn người ở các thành thị và khu công
nghiệp không có việc làm. Cán bộ kỹ thuật rất ít; số người mù chữ khá đông; các
bệnh xã hội do chế độ cũ để lại hoành hành ở nhiều nơi.
Đế quốc Mỹ không để cho nhân dân ta được yên ổn xây dựng miền Bắc.
Chúng cấu kết với thực dân Pháp, trước khi rút chạy, vơ vét những tài sản, vật
tư, tháo dỡ hoặc phá hủy các máy móc, thiết bị của các nhà máy, công sở, các
công trình công cộng, hòng làm cho sinh hoạt ở các thành phố, thị xã, khu công
nghiệp vùng sắp giải phóng bị tê liệt; làm cho ta chỉ tiếp quản được những cơ sở
125
vật chất hỏng nát, gây khó khăn cho ta trong sản xuất và đời sống của nhân dân
không thể mau chóng trở lại bình thường. Chúng liên tiếp tổ chức vây ráp, lùng
bắt thanh niên để bổ sung cho lực lượng ngụy quân đang rệu rã. Chúng tuyên
truyền xuyên tạc các chính sách của Đảng và Chính phủ ta, tiến hành một chiến
dịch quy mô lớn nhằm dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta ở vùng sắp giải phóng và
một số tỉnh vùng tự do di cư vào Nam. Chúng tung tin bịa đặt "Chính phủ Việt
Minh cấm đạo", "Chúa đã vào Nam", đe dọa giáo dân ở lại miền Bắc sẽ bị "rút
phép thông công", ở lại với cộng sản sẽ bị "mất linh hồn", một số nơi chúng còn
đốt nhà, phá hoại sản xuất để buộc đồng bào ta phải bỏ ruộng vườn, tài sản ra đi.
Trước tình hình đó, ổn định tư tưởng là biện pháp hàng đầu.Ở các đô thị sắp
được giải phóng, trọng điểm là Hà Nội, Hải Phòng, khu mỏ Hòn Gai, Ban Tuyên
huấn đã giúp cấp ủy tổ chức lực lượng cán bộ các ngành, các đoàn thể, các đội
tuyên truyền xung phong tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân thắng lợi của ta,
giải thích nội dung Hiệp định đình chiến, phổ biến 8 chính sách của Chính phủ
đối với các vùng mới giải phóng; vạch trần các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của
địch, vận động đồng bào tham gia đấu tranh thực hiện tốt công tác tiếp quản.
Công tác tuyên truyền, phát động trong công nhân được đặc biệt chú trọng. Ở
Hà Nội, công nhân một số nhà in bí mật giúp cán bộ in tài liệu tuyên truyền để
tán phát kịp thời. Cuộc đấu tranh của công nhân và nhân dân Hà Nội bảo vệ vật
tư, máy móc, công sở... đã ngăn chặn được hành động cướp phá của địch. Nhà
máy điện nhà máy nước và nhiều công trình công cộng được bảo vệ và tiếp tục
hoạt động bình thường sau ngày tiếp quản. Tinh thần đấu tranh của công nhân
đã tác động mạnh đến phong trào chính trị của nhân dân toàn thành phố. Địch ra
sức vận động và thúc ép, song các nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ yêu nước kiên
quyết ở lại làm việc dưới chế độ mới. Một số chủ nhà in báo liên lạc với chính
quyền cách mạng để được tiếp tục hoạt động sau ngày Hà Nội được giải phóng.
Ban Tuyên huấn Trung ương và các tỉnh, thành phố tập trung lực lượng
giúp cấp ủy mở các lớp bồi dưỡng cho trên 1.000 cán bộ làm công tác tiếp quản,
giúp anh chị em nắm vững chính sách đối với vùng mới giải phóng, nâng cao ý
thức trách nhiệm và giữ vững kỷ luật. Gơ quan chính trị trong quân đội tiến
126
hành công tác giáo dục cán bộ, chiến sĩ tham gia công tác tiếp quản. Trên đường
về tiếp quản Thủ đô, nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong,
tại đền thờ các vua Hùng (Phú Thọ), Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn các chiến sĩ:
"Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta phải
cùng nhau giữ lấy nước"[5]. Ngày 10-10-1954, quân Pháp phải rút khỏi Hà Nội,
20 vạn đồng bào đổ ra đường nồng nhiệt đón mừng Uỷ ban quân quản và đoàn
quân chiến thắng trở về. Được phép của chính quyền ta, báo Tia sáng, một tờ
báo tư nhân ở Hà Nội, tiếp tục xuất bản dưới chế độ mới (sau chuyển thành tờ
Thời mới rồi hợp nhất với báo Thủ đô Hà Nội - báo của Đảng bộ thành phố, và
chuyển thành báo Hà Nội mới). Ngày 14-10-1954 Đài Truyền thanh Hà Nội
được thành lập và bắt đầu hoạt động. Ngày 8-10-1954 đoàn cán bộ Việt Nam
Thông tấn xã đi cùng đơn vị bộ đội tiền trạm vào sớm để đưa tin kịp thời, ghi lại
các hình ảnh lịch sử và thiết lập trụ sở làm việc ngay sau ngày giải phóng Thủ
đô. Tiếp theo Việt Nam Thông tấn xã và Đài Tiếng nói Việt Nam, báo Nhân dân
và các báo khác của Trung ương lần lượt thiết lập trụ sở, in và phát hành tại Thủ
đô Tháng 11-1954, Ban Tuyên huấn Trung ương cùng với các Ban khác của
Đảng lần lượt về Hà nội. Ngày 1-1-1955, trong không khí náo nức của một ngày
hội lớn, 25 vạn đồng bào và chiến sĩ Hà Nội tham dự mít tinh lớn ở quảng
trường Ba Đình chào mừng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng và Chính
phủ trở về Thủ đô sau 9 năm kháng chiến gian khổ và anh dũng. Sự kiện lịch sủ
quan trọng này gây ấn tượng sâu sắc về tư tưởng và có ý nghĩa chính trị lớn đối
với đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Thủ đô Hà Nội được giải phóng tiếp thêm sức mạnh đấu tranh cho công
nhân và nhân dân thành phố Hải Phòng và khu mỏ Hòn Gai. Ngày 16-5-1955,
miền Bắc hoàn toàn sạch bóng quân thù. Công tác tiếp quản boàn thành thắng
lợi. Bám sát việc thực hiện nhiệm vụ tiếp quản vùng giải phóng, công tác tư
tưởng đã góp phần phát động phong trào quần chúng các đô thị, với phong trào
công nhân làm nòng cốt, cùng nhân dân cả nước bước vào thời kỳ mới của cách
mạng.
127
Thực hiện chiến dịch dụ dỗ, cưỡng ép đồng bào ta di cư vào Nam, đế quốc
Mỹ và bọn tay sai có những mục đích thâm độc: làm cho miền Bắc bị xáo trộn
lớn, nhân dân không yên ổn làm ăn; lợi dụng tình hình này để gây dư luận xấu
đối với xã hội miền Bắc; tạo cho bọn tay sai ở miền Nam có thêm chỗ dựa xã
hội và có thêm nguồn nhân lực để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền.
Chống phá âm mưu địch bắt ép đồng bào ta di cư vào Nam là một cuộc đấu
tranh chính trị gay go và cấp bách. Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy bồi
dưỡng lực lượng lớn cán bộ làm công tác tuyên truyền trong giáo dân, vạch trần
những luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của bọn phản động, vận động đồng bào đấu
tranh, không nghe theo chúng, số đã bị cưỡng ép đi thì đấu tranh đòi trở về quê
cũ làm ăn. Qua một năm đấu tranh quyết liệt, ta đã phá được phần lớn kế hoạch
của địch dự định bắt ép ba triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Tuy nhiên,
do ta chủ quan, sơ hở, chậm phát hiện và chưa thấy hết âm mưu thâm độc của
địch, công tác tư tưởng chưa thật sát với tâm lý đồng bào công giáo, công tác chỉ
đạo có phần lúng túng, bị động và không cụ thể, thiếu kịp thời nên địch đã dụ dỗ
và bắt ép được gần một triệu đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Từ những kết
quả và khuyết điểm trong cuộc đấu tranh này, trong công tác tư tưởng ta đã rút
ra được một số kinh nghiệm về công tác vận động quần chúng giáo dân, đấu
tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.
Đồng thời với hoạt động gây rối ở đồng bằng, đế quốc Mỹ và tay sai tổ
chức các toán thổ phỉ gây rối an ninh ở một số địa phương thuộc vùng núi biên
giới Tây Bắc và Đông Bắc. Thực hiện Chỉ thị ngày 16-4-1955 của Ban Bí thư về
phá âm mưu gây phỉ của đế quốc và tay sai, Ban Tuyên huấn các địa phương nói
trên đã giúp cấp uỷ tổ chức phối hợp với các đoàn thể quần chúng và lực lượng
vũ trang tiến hành công tác tuyên truyền phát động đồng bào các dân tộc thiểu
số tham gia tiễu phỉ, kết hợp với vận động đồng bào đoàn kết đẩy mạnh sản
xuất, cải thiện đời sống, tiến hành củng cố cơ sở, củng cố biên phòng. Được sự
hưởng ứng của đồng bào, quân ta đã tiêu diệt được hàng ngàn tên phỉ, thu nhiều
vũ khí và phương tiện làm gián điệp của chúng, 6.000 người lầm đường theo phỉ
đã trở về với gia đình. Hàng trăm quần chúng trung kiên trong đồng bào các dân
128
tộc được đào tạo và bồi dưỡng qua thực tế đấu tranh là nguồn bổ sung cho đội
ngũ cốt cán ở cơ sở vùng biên.
Trước tình hình một nửa triệu người lâm vào nạn đói do tàn phá của chiến
tranh, các hoạt động thông tin tuyên truyền đã phối hợp với Mặt trận và các
đoàn thể cổ vũ mạnh mẽ phong trào tương thân tương ái chống đói, phòng đói
và phục hồi sản xuất do Đảng và Chính phủ phát động. Những hoạt động tích
cực trong phong trào quần chúng thực hiện "cứu đói như cứu lửa", "nhường cơm
xẻ áo", "một miếng khi đói bằng một gói khi no", những thành tích làm thủy lợi,
khôi phục ruộng hoang hóa, cấy hết số ruộng của đồng bào di cư để lại,v.v..
được biểu dương kịp thời trên báo, đài và trong sinh hoạt văn hóa của quần
chúng kết hợp với lao động sản xuất. Ban Tuyên huấn các cấp tham gia cùng với
các đoàn thể tổng kết và phổ biến kinh nghiệm của quần chúng tổ chức tương
trợ, vần công, đổi công… đẩy mạnh sản xuất. Trên cơ sở tổng kết những điển
hình tốt, tháng 6- 1955 Ban Bí thư ra Chỉ thị củng cố và phát triển phong trào tổ
đổi công, bước đi đầu tiên nhằm tổ chức nông dân lại, dẫn dắt họ đi dần vào con
đường sản xuất có tổ chức, có lãnh đạo.
Năm 1955, cải cách ruộng đất được xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Tính
đến tháng 6-1955 cải cách ruộng đất đã làm xong ở 30% tổng số xã trong diện
tiến hành cải cách. Hội nghị lần thứ bảy của Trung ương đảng (3-1955) chủ
trương căn bản hoàn thành cải cách ruộng đất trước tháng 7-1956. Cũng như cán
bộ các ngành khác, cán bộ tuyên huấn các tỉnh, thành phố hầu hết được huy
động đi tham gia phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất. Công tác
tư tưởng ở những nơi tiến hành cải cách ruộng đất do các Đoàn ủy phụ trách.
Tháng 7- 1956 cải cách rộng đất đã làm xong ở toàn bộ các xã vùng đồng
bằng và trung du, hoàn thành việc xóa bỏ giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư của chế
độ phong kiến ở miền Bắc, thực hiện "người cày có ruộng", nâng cao quyền làm
chủ của nông dân ở nông thôn. Tuy nhiên, trong lãnh đạo cải cách ruộng đất,
Đảng ta đã phạm những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến và kéo dài. Đó là sai
lầm về chỉnh đốn tổ chức, gây hoang mang, mất lòng tin trong Đảng và trong xã
129
hội. Vì vậy, công tác tư tưởng và công tác tổ chức đứng trước những vấn đề rất
phức tạp.
Sau khi phát hiện sai lầm, ngày 18-8-1996, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư
cho đồng bào nông thôn và cán bộ nhân dịp cải cách ruộng đất, Đảng nghiêm
khắc tự phê bình công khai trước nhân dân và chủ trương pbát huy thành quả,
kiên quyết sửa sai. Hội nghị lần thứ 10 của Trung ương Đảng (9-1956) đề ra các
chủ trương, biện pháp tiến hành sửa sai. Những đồng chí lãnh đạo có trách
nhiệm chính về sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã tự phê
bình và bị miễn nhiệm. Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng (tháng 11-
1958) nói rõ thêm những sai lầm đó là: "a) Vi phạm đường lối giai cấp ở nông
thôn: xâm phạm lợi ích trung nông, không liên hiệp phú nông, không phân biệt
đối đãi các loại địa chủ, không chiếu cố địa chủ kháng chiến; b) cường điệu việc
trấn áp phản cách mạng; c) không dựa vào tổ chức cũ, không giao cho tổ chức
đảng địa phương lãnh đạo cải cách ruộng đất, mắc chủ nghĩa thành phần và
khuynh hướng trừng phạt; d) lạm dụng các biện pháp phát động quần chúng,
nặng về đấu tố, nhẹ giáo dục, phổ biến hóa cách bắt rễ xâu chuỗi, không kết hợp
biện pháp hành chính với phát động quần chúng"[6].
Bước vào sửa sai, Ban Tuyên huấn các cấp cùng với Ban Tổ chức, Ban
Kiểm tra giúp cấp ủy làm thí điểm sửa sai, rút kinh nghiệm sau đó phổ biến ra
diện rộng; hướng dẫn báo, đài, các hoạt động văn hóa, văn nghệ phục vụ cho
cuộc vận động sửa sai nhằm sớm ổn định tình hình; mở đợt học tập các Nghị
quyết 10, 14 của Trung ương Đảng và thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân. Cố gắng lớn của các ngành, các đoàn thể trong công
tác tuyên truyền vận động quần chúng và kết quả sửa sai của các cấp đã tác động
tích cực đến tư tưởng và tình cảm cách mạng của đảng viên, chiến sĩ và đồng
bào.
Với tinh thần kiên quyết sửa sai và phát huy bản chất tốt đẹp của Đảng và
nhân dân ta, nên sau hơn một năm tích cực tuyên truyền, vận động và tổ chức
quần chúng, đến cuối năm 1957 công tác sửa sai đã đưa lại kết quả tốt đẹp.
Nông thôn dần dần ổn định, sản xuất nông nghiệp được đẩy mạnh, năm 1956
130
sản lượng lương thực đạt gấp đôi mức trước chiến tranh (năm 1939). Đoàn kết
trong nội bộ Đảng và lòng tin của quần chúng đối với Đảng và Chính phủ dần
dần dược khôi phục. Tuy vậy, xung quanh những vấn đề về nguồn gốc của sai
lầm và về chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất như đã làm, các năm 1954 -
1956 thì vẫn còn nhiều ý kiến vẫn cần thống nhất nhận định. Hội nghị lần thứ 14
của Trung ương Đảng (tháng 1-1958) nêu rõ "nguồn gốc chủ yếu của sai lầm là
không nắm vững những biến đổi ở nông thôn miền Bắc từ sau Cách mạng
Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp, rập khuôn một cách máy móc kinh
nghiệm của nước ngoài". Hội nghị Bộ Chính trị (khóa VII) ngày 25-5-1994 cho
ý kiến về một số vấn đề lịch sừ Đảng thời kỳ 1954 - 1975 kết luận: "Căn cứ trên
những kết quả đạt được và căn cứ vào ha nhiệm vụ chiến lược của cách mạng
dân tộc dân chủ, thì việc tiếp tục giải quyết vấn đề ruộng đất, xóa bỏ nhửng tàn
dư của chế độ phong kiến là cần thiết.
Căn cứ tình hình thực tế nông thôn miền Bắc nước ta sau năm 1954, căn cứ
vào số ruộng chia cho nông dân trong cải cách rụộng đất, căn cứ tác hại rất
nghiêm trọng của sai lầm cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, thì chủ
trương cải cách ruộng đất như đã làm là không cần thiết. Đó là vì, trước khi tiến
hành cải cách ruộng đất, giai cấp địa chủ, chế độ phong kiến đã căn bản bị xóa
bỏ và mục tiêu người cày có ruộng đã cãn bản thực hiện với tỷ lệ hơn 213 ruộng
đất đã vẻ tay nông dân, với quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn đã
được thực hiện từ Cách mạng Tháng Tám đến kháng chiến chống Pháp. Kinh
nghiệm ở miền Nam sau khi hoàn toàn giải phóng cho thấy, mặc dầu vấn đề
ruộng đất có những phức tạp, nhưng có thể thực hiện mục tiêu người cày có
ruộng bằng con đường thích hợp nhất'[7] .
Kết luận của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị được sự đồng tình của đông
đảo cán bộ, đảng viên. Bài học rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn
nước mình, không rập khuôn máy móc kinh nghiệm của nước ngoài. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không khỏi có lúc phạm sai lầm. Điều quan
trọng là thấy được sai lầm, nghiêm khắc tự phê bình và có chủ trương, biện pháp
đúng, kiên quyết sửa sai. Công tác tư tưởng phải phân tích rõ đúng, sai, động
131
viên toàn đang tích cụẻ thụẻ hiện và lãnh đạo quần chúng tham gia sửa sai, bảo
vệ và phát huy thành qua cách mạng, uốn nắn những lệch lạc có thể nảy sinh,
phòng ngừa những hoạt động phá hoại, sửa sai đạt kết quả tốt là hành động tỏ rõ
tinh thần trách nhiệm và thái độ tự phê bình nghiêm khắc của Đảng.
Năm 1956, trên thế giới xảy ra nhiều biến cố lớn. Bọn đế quốc mở cuộc
chiến tranh xâm lược Ai Cập và ráo riết phá hoại công cuộc xây dựng trong hòa
bình của các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng lợi dụng những vấn đề phức tạp nảy
sinh ở một số nước xã hội chủ nghĩa để đả kích chủ nghĩa xã hội, tuyên truyền
chia rẽ các đảng cộng sản, đảng công nhân và các nước xã hội chủ nghĩa. Đảng
Cộng sản Liên Xô công khai lên án tệ sùng bái cá nhân Xtalin. Những diễn biến
đó đã làm nảy sinh tâm lý hoài nghi về chủ nghĩa xã hội và về chế độ xã hội chủ
nghĩa ở Liên Xô trong một bộ phận đảng viên và quần chúng.
Tình hình trong nước cũng có những khó khăn mới. Ở miền Nam, Mỹ -
Diệm khủng bố ác liệt và trắng trợn phá hoại hiệp thương, tổng tuyển cử, tổ
chức tuyển cừ riêng rẽ, bầu quốc hội bù nhìn. Ở miền Bắc, bọn phản động lợi
dụng lúc cách mạng gặp khó khăn, gây ra các vụ lộn xộn ở một số nơi thuộc
vùng nông thôn có đông giáo dân. Ở thành thị, bọn phản động lôi kéo một số
nhà tư sản, trí thức, văn nghệ sĩ, mưu toan giương ngọn cờ tư sản, chống chế độ
mới.
Ở Hà Nội, các sách Giai phẩm mùa xuân (1-1956), Giai phẩm mùa thu (8-
1956), Giai phẩm mùa đông và báo Nhân văn (9-1956) xuất hiện với những bài
nói xấu chế độ mới, đả kích sự lãnh đạo của Đảng, đả kích chính sách của Nhà
nước, chống chủ nghĩa xã hội, đòi thu hẹp kinh tế quốc doanh, cổ động cho thị
trường tự do tư bản chủ nghĩa, đòi văn nghệ phải tách rời sự lãnh đạo của Đảng,
đ òi tự do sáng tác không có định hướng Tiếp đó là báo Đất mo'i nhằm lôi kéo
học sinh, sinh viên. Tất cả những vấn đề đó đã gây nên tình hình rất phức tạp về
tư tưởng chính trị trong xã hội. Công tác tư tưởng của ta lúc đầu có sơ hở, không
kịp thời phê phán những quan điểm sai trái, những luận điệu chống chủ nghĩa xã
hội.
132
Trước tình hình đó tháng 12-1956 Ban Tuyên huấn Trung ương cùng các
đồng chí lãnh dạo Hội Văn nghệ giúp Ban Bí thư mở Hội nghị các đảng viên
làm công tác văn nghệ. Hội nghị đã phân tích tình hình văn nghệ, phê phán báo
Nhân văn, đề ra phương hướng đúng đắn cho công tác văn nghệ trong những
năm trước mắt. Các cơ quan ngôn luận của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn
thể nhân dân, các giới trí thức, văn nghệ sĩ và phong trào quần chúng lên tiếng
mạnh mẽ, kịch liệt phê phán những luận điểm phản động của báo Nhân văn. Dư
luận phẫn nộ lên án những hành động chống đối và mưu toan lật đổ chế độ, yêu
cầu chính quyền cấm báo Nhân văn. Công nhân nhà in Xuân Thu kiên quyết
không in và lôi ra ánh sáng nội dung phản động của bản thảo báo Nhân văn số 6
kêu gọi nhân dân biểu tình chống chế độ. Trước những bằng chứng không thể
chối cãi về hành động phản cách mạng của những người cầm đầu báo Nhân văn,
ngày 15- 12-1956 Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội ra quyết định đình bản
và cấm lưu hành báo Nhân văn.
Để tạo sự thống nhất nhận thức về đường lối, quan điểm văn hóa, văn nghệ
của Đảng, đấu tranh chống những quan điểm sai trái, tăng cường đoàn kết văn
nghệ sĩ phấn đấu thực hiện phương hướng, mục tiêu xây dựng nền văn nghệ mới
của nước nhà, Ban Tuyên huấn Trung ương và các đồng chí lãnh đạo Hội Văn
nghệ đã giúp Ban Bí thư chỉ đạo tiến hành Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ
hai (tháng 2- 1957). Đồng chí Trường Chinh, ủy viên Bộ Chính trị đã đến dự và
đọc Thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II) gửi Đại hội. Trong thư,
Trung ương Đảng biểu dương những cống hiến của văn nghệ sĩ trong sự nghiệp
cách mạng của toàn dân, trong công cuộc xây dựng nền văn nghệ mới có tính
chất dân tộc, nhân dán và hiện thực, tiếp tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
vững bước đi theo đường lối đúng đắn của Đảng. Trung ương Đảng cũng chỉ ra
những thiếu sót còn tồn tại: "Nền văn nghệ mới của chúng ta lành mạnh nhưng
nói chung còn non. Chúng ta còn thiếu những tác phẩm thật xứng đáng với nhân
dân Việt Nam anh dũng. Đó là nhược điểm của một nền văn nghệ trẻ tuổi,... một
phần cũng do khuyết điểm của chúng ta gây ra. Thật vậy sự lãnh đạo của Đảng
về mặt văn nghệ đã có những thiếu sót về đường lối và chính sách. Và bên cạnh
133
những cố gắng, cơ quan trực tiếp phụ trách văn nghệ đã có những lệch lạc, như
coi nhẹ việc lãnh đạo tư tưởng, nhất là trong hòa bình, hẹp hòi trong lãnh đạo
sáng tác, cô độc có tính chất bè phái trong lãnh đạo về tổ chức. Những khuyết
điểm ấy đã được thẳng thắn phê bình và cần phải kiên quyết sửa chữa.
Về phần các bạn văn nghệ sĩ thì hiện nay còn những khuyết điểm về mặt tư
tưởng và nghệ thuật cần phải khắc phục, ví dụ như: lập trường cách mạng chưa
được dứt khoát, rõ ràng, sự hiểu biết về đời sống nhân dân chưa được sâu sắc,
còn phạm chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tự nhiên và chủ nghĩa sơ lược trong
sáng tác, v.v..."[8].
Thư của Trung ương Đảng nêu rõ nhiệm vụ chung của những người làm
công tác tư tưởng, công tác văn nghệ ở miền Bắc là góp phần thực hiện cuộc
cách mạng văn hóa trong giai đoạn mới, góp phần xây dựng con người mới của
xã hội mới về mặt tư tưởng, trí tuệ và tình cảm, đóng góp tích cực vào việc xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chu và gìàu mạnh.
Nền văn nghệ mới của ta phải là một nền văn nghệ dân tộc phong phú, phục vụ
nhân dân, chủ yếu là phục vụ công nông binh. Nó bắt nguồn từ thực tế đời sống
của nhân dân ta. Nó phản đối mọi khuynh hướng thoát ly đời sống thực tế của
dân tộc, thoát ly những nhiệm vụ cách mạng của nhân dân ta. Nền văn nghệ mới
của ta cần thu hút những tinh hoa văn học, nghệ thuật của thế giới; phản đối
khuynh hướng đóng cửa của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, khuynh hướng nhai lại
những cặn bã của văn nghệ tư sản suy đồi và những thứ văn nghệ dâm ô, cao bồi
mà đế quốc Mỹ đang gieo rắc ở miền Nam nước ta, khuynh hướng mù quáng bắt
chước nước ngoài, biến văn nghệ nước ta thành một thứ văn nghệ lai căng, mất
gốc. Nền văn nghệ mới của ta lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm phương pháp
sáng tác tốt nhất, phản đối mọi khuynh hướng bôi đen hoặc tô hồng hiện thực và
mọi thứ chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tự nhiên, chủ nghĩa sơ lược và công
thức.
Trung ương Đảng mong rằng các nhà văn nghệ của ta sẽ ra sức học tập chủ
nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ, củng cố lập
trường, trau dồi tư tưởng và nghệ thuật, đi sâu hơn nữa vào đời sống của công
134
nhân nông dân, chiến sĩ quân đội và lao động trí óc. Cần phát huy tự do sáng tác
và phát huy phê bình lành mạnh. Chống thái độ hẹp hòi, bè phái, bỏ rơi những
tác phẩm tốt, làm nhụt những tài năng và chống khuynh hướng tự do vô trách
nhiệm có hại cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đoàn kết tất cả văn
nghệ sĩ yêu nước và tiến bộ thành một mặt trận rộng rãi và chặt chẽ dưới sự lãnh
đạo của Đảng và đứng trong Mặt trận dân tộc thống nhất, xây dựng một đội
quân văn hóa mạnh mẽ, đông đảo, dũng cảm và nhất trí, để phục vụ Tổ quốc và
nhân dân đắc lực hơn.
Đến thăm và nói chuyện với Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Các
nhà văn nghệ đều có công với cách mạng, với kháng chiến, với xây dựng hòa
bình. .. thành tích tuy có nhiều nhưng thiếu sót cũng không ít... Về thành tích
trong Đại hội này, đứng về ý kiến của tôi thì thành tích trội nhất là các cụ với
anh chị em đã thẳng thắn tự phê bình và thật thà phê bình tức là đoàn kết mà đấu
tranh và do đấu tranh đó đã đi đến đoàn kết hơn trước. Bây giờ chúng ta phải
đồng tâm, hợp lực nhằm nhiệm vụ của toàn dân nói chung và giới văn nghệ nói
riêng mà tiến tới... Muốn hoàn thành nhiệm vụ được tốt thì chúng ta phải học
tập, chúng ta phải trau dồi tư tưởng, trau dồi nghệ thuật, đi sâu vào quần chúng.
Phải đi sát sự thực. Và trong lúc tiến tới thì chúng ta phải trau dồi đạo đức cách
mạng, trước hết là đức khiêm tốn. . ."[9]
Kết quả của Đại hội đã củng cố một bước đoàn kết văn nghệ sĩ yêu nước,
tiến bộ dưới sự lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống những tư tưởng và hành
động chống chủ nghĩa xã hội. Những hoạt động phá hoại của nhóm nhân văn bị
đẩy lùi nhưng những người cầm đầu dưới hình thức này, hình thức khác vẫn tìm
cách chống đối . Song với chủ trương đúng đắn Của Đảng, với tinh thần kiên
quyết đất tranh của nhân dân phê phán đến cùng những quan điểm sai trái, cho
nên bộ mặt thật của họ ngày càng lộ rõ, mưu toan chính trị của họ bị thất bại
hoàn toàn.
Từ những đánh gà, phân tích trên cho thấy, trong những bước ngoặt của
cách mạng hoặc khi nảy sinh những sự kiện phức tạp, công tác tư tưởng phải
chủ động phát huy mặt tích cực, bảo vệ mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa và
135
đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ thành quả cách mạng, kịp thời phát hiện
và tổ chức quần chúng đấu tranh chống những hoạt động phá hoại.
Năm 1956 là năm miền Bắc gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch chống
phá ta quyết liệt, nhất là trên mặt trận tư tưởng, văn hóa và an ninh chính trị,
nhưng cũng là năm nhân dân miền Bắc phấn đấu vượt bậc trên nhiều mặt. Bộ
Chính trị nhận định, qua thử thách lớn, tuyệt đại bộ phận cán bộ, đảng viên và
nhân dân tỏ rõ tinh thần đoàn kết, đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ
thành quả cách mạng, tích cực thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước, nhất là trong công tác sửa sai, khôi phục kinh tế, đấu tranh chống
hoạt động phá hoại của các thế lực chống Đảng, chống chế độ, chống chủ nghĩa
xã hội. Tuy vậy tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân còn một số
mặt yếu, đáng chú ý là: một bộ phận cán bộ, đảng viên lập trường chính trị thiếu
kiên định, chưa phân rõ tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản và các tư tưởng phi
vô sản khác, khi gặp khó khăn thì hoài nghi, bi quan; một số cán bộ, đảng viên
còn nhiều biểu hiện suy tính cá nhân, hòa bình hưởng lạc, kiêu ngạo, địa vị, hiếu
danh, tự do tản mạn, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong quan liêu mệnh lệnh,
xa quần chúng, xa thực tế.
Công tác tư tưởng năm 1956 có nhiều cố gắng góp phần vào đấu tranh
thắng lợi, từng bước ổn định tình hình và phấn đấu đi lên. Lực lượng tuyên
truyền được chú trọng xây dựng và phát triển; báo chí, báo cáo viên, tuyên
truyền viên hoạt động tốt. Các lớp huấn luyện ý luận chính trị được mở trên
khắp miền Bắc. Cán bộ, đảng viên miền Nam ra tập kết được tổ chức học tập về
tình hình và nhiệm vụ mới. Trường Đại học nhân dân được thành lập để giáo
clục chính trị cho công chức lưu dung (nhân viên của chính quyền cũ được giữ
lại để làm việc tiếp -BT) và trí thức vùng mới giải phóng.
Tuy nhiên công tác tư tưởng còn một số yếu kém và bị động như Bộ chính
trị đã đánh giá:
"- Kém tính chất chiến đấu, không nắm vững diễn biến tư tưởng để giải
quyết kịp thời, chưa tích cực và chủ động tiến công các tư tưởng thù địch.
136
Không đi sâu nghiên cứu những vấn đề thực tế và lý luận để tiến hành giáo
dục và đấu tranh tư tưởng một cách sâu sắc.
- Phương pháp giáo dục tư tưởng còn gò ép nặng nề, hình thức nghèo nàn,
khô khan, kém thiết thực, không gây được hứng thú trong học tập"[10]
Thực hiện nhiệm vụ công tác tư tưởng năm 1957 Ban Tuyên huấn các cấp
đã giúp cấp ủy tập trung chỉ đạo tiến hành đợt học tập, tự phê bình và phê bình
trong toàn Đảng sau Hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Trung ương; tiên hành
chỉnh huấn toàn quân; tăng cường giáo dục nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ,
đảng viên; củng cố và phát triển hoạt động của lực lượng báo cáo viên các cấp;
tăng cường lãnh đạo nâng cao chất lượng thông tin, báo chí, phát thanh; ích cực
đào tạo cán bộ tuyên huấn, nhất là cán bộ lý luận và án bộ báo chí.
Theo quyết định của Bộ Chính trị Tiểu ban giáo dục và khoa học Trung
ương, Tiểu ban văn nghệ Trung ương được thành lập. Ban Tuyên huấn trung
ương chỉ phụ trách công tác giáo dục cán bộ, đảng viên, công tác tuyên truyền
cổ động, giáo dục chính trị, tư tưởng trong nhân dân và công tác thông tin, báo
chí, phát thanh.
Thi hành nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Tuyên huấn các khu, tỉnh, thành
phố được kiện toàn một bước. Cấp huyện, quận, thị xã trước đây mới có cấp ủy
viên phụ trách, nay bắt đầu được bổ sung cán bộ, thành lập Ban tuyên huấn
quận, huyện, thị ủy. Song nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và quan hệ công
tác của Ban giữa các địa phương còn những điểm chưa thống nhất. Căn cứ nghị
quyết của Bộ Chính trị, ngày 4-6- 1957 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 3l - CT/TƯ về
tổ chức, nhiệm vụ và quan hệ công tác của Ban Tuyên huấn các cấp của Đảng.
Chỉ thị của Ban Bí thư nêu rõ: "Ban Tuyên huấn các cấp là cơ quan công
tác của cấp ủy Đảng để lãnh đạo mọi công tác tuyên truyền giáo dục về chính trị
và tư tưởng trong Đảng và ngoài nhân dân. Nhiệm vụ của Ban Tuyên huấn Đảng
các cấp là:
- Nghiên cứu tình hình tư tưởng trong Đảng, ngoài Đảng, định hướng chủ
trương, chính sách, phương châm, kế hoạch tiến hành tuyên truyền giáo dục về
137
chính trị và tư tưởng đối với đảng viên và quần chúng rồi trình cấp ủy quyết
định.
- Áp dụng các biện pháp (như viết tài liệu, đề cương, tổ chức lực lượng
tuyên truyền, kiểm tra đôn đốc việc thi hành, v.v..) để đảm bảo việc chấp hành
những nghị quyết và chỉ thị của cấp ủy đảng về công tác tư tưởng.
Theo dõi, chỉ đạo công tác của các cơ quan tuyên truyền, huấn luyện; bồi
dưỡng và huấn luyện các cán bộ nhân viên làm công tác tuyên huấn, giúp đỡ họ
tổng kết kinh nghiệm, phát huy thành tích, khắc phục khuyết điểm".
Ban Bí thư nhắc nhở các cấp ủy Đảng từng thời kỳ cần có nhận định tình
hình tư tưởng và bàn cách giải quyết. Mỗi khi bố trí một công tác gì quan trọng
thì đồng thời phải bố trí kế hoạch tuyên truyền giáo dục một cách chu đáo. Cần
chú trọng việc chỉ đạo công tác của các Ban Tuyên huấn, giúp đỡ và bồi dưỡng
cán bộ tuyên huấn làm việc, không điều động lung tung, không khoán trắng.
Nghị quyết của Bộ Chính trị và chỉ thị của Ban Bí thư tạo điều kiện cho bước
phát triển mới của ngành tuyên huấn, thống nhất về tổ chức và đẩy mạnh hoạt
động, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng.
Để tiếp tục tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn nghệ,
ngày 22-5-1957 Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 23-NQ/TƯ thành lập Tiểu
ban văn nghệ Trung ương và 6 đảng đoàn các hội văn nghệ (Hội liên hiệp văn
học nghệ thuật Việt Nam, Hội nhà văn, Hội mỹ thuật, Hội nghệ sĩ sân khấu, Hội
nhạc sĩ, Đoàn kiến trúc sư). Tiểu ban văn nghệ Trung ương có nhiệm vụ giúp
Trung ương Đảng nắm tình hình hoạt động văn nghệ, xây dựng đường lối, chính
sách văn nghệ của Đảng, chỉ đạo công tác của các đảng đoàn các Hội sáng tạo,
nghiên cứu các vấn đề lý luận văn học nghệ thuật, giúp Trung ương lãnh đạo
cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn nghệ. . .
Ngày 6-1-1958 Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 30-NQ/TƯ về chấn chỉnh
công tác văn nghệ; tháng 6- 1959 ra tiếp Nghị quyết số 76-NQ/TƯ về nhiệm vụ
công tác văn nghệ hai năm 1959 - 1960. Để tạo điều kiện cho văn nghệ sĩ đấu
tranh chống các hành động phá hoại về tư tưởng, văn hoá, vươn lên theo kịp
bước tiến của cách mạng, Tiểu ban văn nghệ Trung ương và đảng đoàn các hội
138
văn nghệ giúp Bộ Chính trị chỉ đạo tổ chức đợt học tập, phê bình và tự phê bình,
đấu tranh tư tưởng để tăng cường đoàn kết số rất đông văn nghệ sĩ dưới sự lãnh
đạo của Đảng; tiến hành chấn chỉnh hàng ngũ đảng viên và chỉnh đốn các tổ
chức văn nghệ; khuyến khích giúp đỡ các văn nghệ sĩ đi xuống các cơ sở sản
xuất, đi vào công nông binh để đẩy mạnh sáng tác.
Từ sau khi hòa bình được lập lại, bảo chí, đài phát thanh, thông tấn xã đã có
bước phát triển mới, góp phần tuyên truyền cổ động phong trào quần chúng thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đấu tranh chống các tư
tưởng sai trái và các luận điệu thù địch. Song do lực lượng còn mỏng, nên chất
lượng đạt được chưa cao. Ngày 11- 1955 Ban Bí thư ra Chỉ thị về cải tiến báo
Nhân Dân, cơ quan Trung ương của Đảng, tiếp đó ngày 1-7- 1957 ra chỉ thị bổ
sung, nhằm phát huy vai trò của báo Đảng trong hệ thống báo chí cách mạng. Vì
cán bộ là khâu quyết định, tháng 3-1957, Ban Tuyên huấn Trung ương mở lớp
bồi dưỡng phóng viên các báo Trung ương và cán bộ phụ trách các báo, bản tin
của các tỉnh, thành phố gồm hơn 100 học viên. Kế tiếp lớp cán bộ báo chí đầu
tiên (lớp Huỳnh Thúc Kháng mở ở Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp), lớp
thứ hai mở sau hòa hình đã đáp ứng một phần yêu cầu cấp bách trước mắt. Hầu
hết các học viên sau này đã trở thành cán bộ phụ trách của các báo, đài Trung
ương và địa phương, một số đượe bổ sung cho các báo, đài ở miền Nam.
Năm 1958, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 60 - NQ/TƯ khẳng định những
tiến bộ và thành tựu mới của báo chí; đồng thời cũng chỉ ra 5 mặt yếu cần khắc
phục:
"- Nội dung tư tưởng của báo chí còn yếu, tuyên truyền một chiều, ít nói
khó khàn và khuyết điểm. Trong cuộc đấu tranh chống những quan điểm phản
động của nhóm "Nhân văn", một số báo, tạp chí đã có những biểu hiện hữu
khuynh, mất lập trường, tê liệt trước sự tiến công của bọn phản động…
- Sự liên hệ giữa báo chí với quần chúng chưa mật thiết.
- Tính chất chỉ đạo dư luận và chỉ đạo công tác còn hạn chế nhiều.
- Khô khan, kém sinh động, kém hấp dẫn, thể văn nghèo nàn.
- Phê bình chưa rộng khắp và mau lẹ".
139
Nghị quyết Bộ Chính trị đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu cần thực hiện để
phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo chí:
“ - Toàn đảng nhận rõ tính chất và vai trò của báo chí ta, tích cực tham gia
xây dựng báo chí, ủng hộ báo chí, phát huy tác dụng của báo chí.. . .
- Nhiệm vụ của báo chí trong giai đoạn hiện nay, phục vụ nhiệm vụ chính
trị cơ bản của toàn Đảng, toàn dân ta: đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và
đấu tranh thống nhất nước nhà. ..
- Tăng cường chất lượng tư tưởng và tính chất chỉ đạo của báo chí. Thấu
suốt chủ trương, chính sách của Đảng; bảo đảm tính chân thật; xây dựng lực
lượng thông tin viên công nông.
- Đẩy mạnh phê bình, tự phê bình trên báo chí là một công tác hết sức quan
trọng trong tình hình Đảng ta đã trở thành một đảng lãnh đạo chính quyền nhà
nước. Những khuyết điểm của các cán bộ đảng, chính quyền, cơ quan kinh tế và
đoàn thể quân chúng không được phát hiện và sửa chữa kịp thời rất dễ xảy ra
hậu quả làm tổn hại đến lợi ích của đông đảo quần chúng. Đây là một biện pháp
tốt để kịp thời phát hiện và sửa chữa khuyết điểm, để tăng cường mối liên hệ
giữa Đảng với quần chúng, để sửa chữa bệnh quan liêu.
- Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ làm báo.
- Điều chỉnh báo chí và tập san.
- Tổ chức độc giả phê bình báo. Tăng cường công tác phát hành và sử dụng
báo, cải tạo báo tư nhân".
Từ những năm 1955, 1956 các hoạt động tư tưởng đã chuyển mạnh vào
phục vụ nhiệm vụ trọng tâm khôi phục kinh tế. Vấn đề đặt ra là khôi phục kinh
tế theo phương hướng nào và đi lên con đường nào. Từ ngày thành lập, Cương
lĩnh chính trị của Đảng đã xác định sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ, cách mạng nước ta sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa. Trong hoàn cảnh mới, đất nước còn chia làm hai miền, miền
Bắc được hoàn toàn giải phóng có chờ cách mạng miền Nam hoàn thành hay
chuyển ngay sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Căn cứ Cương lĩnh của Đảng và
các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7, Hội nghị lần thứ 8 (tháng 8- 1955) của Trung
140
ương đảng, công tác tư tưởng đã giải thích rõ ý nghĩa chiến lược của nhiệm vụ
củng cố miền Bắc: Củng cố miền Bắc tức là bồi dưỡng lực lượng của ta, xây
dựng chỗ dựa vững chắc cho nhân dân toàn quốc giành thắng lợi trong cuộc đấu
tranh củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, "bất kể trong tình hình nào, miền
Bắc cũng phải được củng cố”. Phương hướng đi lên của miền Bắc là quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; do đó, khôi phục kinh tế cũng phải nhằm "tiến dần từng bước
lên chủ nghĩa xã hội”. Mục tiêu khôi phục kinh tế là khôi phục mức sản xuất
như năm 1939 (trước chiến tranh), giảm bớt khó khăn và nâng dần mức sống
của nhân dân, chuẩn bị điều kiện cho việc cải tạo và phát triển kinh tế có kế
hoạch.
Hướng vào mục tiêu đó, Mặt trận và các đoàn thể, các cơ quan nhà nước đã
phối hợp với các cơ quan tư tưởng, văn hoá tuyên truyền và tổ chức các phong
trào quần chúng đoàn kết tương trợ đẩy mạnh sản xuất, "lao động kiến thiết Tổ
quốc", các phong trào làm thuỷ lợi, cải tiến kỹ thuật sản xuất, xóa nạn mù chữ,
bổ túc văn hoá, v.v. góp phần vào kết quả khôi phục kinh tế. Năm 1956 sản
lượng lương thực ở miền Bắc đạt 4 triệu tấn (gấp đôi năm 1939). Nạn đói bước
đầu được giải quyết. Phong trào tổ đổi công, đoàn kết tương trợ đẩy mạnh sản
xuất phát triển khắp các vùng nông thôn. Công nghiệp, giao thông vận tải được
khôi phục và phát triển. Kinh tế quốc doanh đã nắm toàn bộ hoặc phần lớn một
số ngành then chốt. Văn hóa, giáo dục, y tế phát triển nhanh. Năm 1957 nông
nghiệp được mùa lớn, các mặt hoạt động kinh tế, xã hội đạt thêm những thành
tựu mới. Hội nghị lần thứ 13 Trung ương Đảng (tháng 12-1957) nhận định cuối
năm 1957 miền Bắc nước ta đã căn bản hoàn thành nhiệm vụ khôi phục kinh tế.
Tháng 1- 1956, trong văn kiện mấy vấn đề về đường lối cách mạng Việt
Nam, Bộ Chính trị nhận định, từ khi hòa bình lập lại, miền Bắc nước ta đã
chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Năm 1958, nhiệm vụ giáo dục tư
tưởng xã hội chủ nghĩa được xác định là nhiệm vụ trung tâm của công tác tư
tưởng. Trong những tháng đầu năm, công tác tuyên truyền cổ động đã phổ biến
rộng rãi Thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp năm mới chúc đồng bào và
chiến sĩ cả nước lập nhiều thành tích mới đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội
141
và đấu tranh thống nhất nước nhà. Trong thư, Người nói: "phát triển kinh tế và
văn hoá tức là dần dần xây dựng chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội là
một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài"[11]
Hội nghị Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (tháng 3- 1958),
nhất trí xác định: Nhiệm vụ cơ bản của nhân dân ta là đoàn kết, ra sức củng cố
miền Bắc, đưa miền Bắc tiến clần lên chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chống Mỹ -
Diệm để thống nhất nước nhà. Hai nhiệm vụ đó có quan hệ mật thiết với nhau,
thúc đẩy nhau phát triển nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống
nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khóa I, cơ quan
quyền lực cao nhất của Nhà nước ta, cũng nhất trí nhận định: miền Bắc tiến lên
chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, phù
hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản và lâu dài của các tầng lớp nhân dân,
phù hợp với yêu cầu của cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Kết quả đợt tuyên
truyền phổ biến rộng rãi nghị quyết của Uỷ ban Trung ương Mặt trận và kỳ họp
thứ 8 của Quốc hội làm cho đông đảo quần chúng nhận rõ hơn ý nghĩa chiến
lược của nhiệm vụ củng cố miền Bắc đối với cách mạng cả nước và hướng đi
lên của miền Bắc là tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, tạo cơ sở vững chắc đấu tranh
thực hiện thống nhất Tổ quốc.
Đối với cán bộ, đảng viên, đợt nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13
của Trung ương Đảng (12- 1957), bài phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh và
báo cáo của đồng chí Trường Chinh tại hội nghị nhan đề 'Thống nhất tư tưởng,
đoàn kết toàn Đảng hoàn thành nhiệm vụ công tác trước mắt” kết hợp với ìiên
hệ thực tế, tự phê bình và phê bình đã góp phần thống nhất nhận định về tình
hình trong nước và trên thế giới trong hai năm 1956, 1957, khắc phục các biểu
hiện tư tưởng hòa bình hưởng lạc, hoài nghi, bi quan về chủ nghĩa xã hội và sự
nghiệp đấu tranh thống nhất Tổ quốc; kém cảnh giác đối với hành động phá hoại
của các thế lực chống chủ nghĩa xã hội. Xác định rõ miền Bắc nước ta đã chuyển
sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao tư tưởng và ý thức trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên, tăng cường đoàn kết nhất trí thực hiện những
nhiệm vụ trước mắt. Đợt học tập hai văn kiện của các Đảng Cộng sản và Công
142
nhân ở Mátxcơva (11- 1957) tiến hành trong những tháng đầu năm 1958 đã góp
phần tăng cường giáo dục lập trường giai cấp công nhân và tư tưởng xã hội chủ
nghĩa cho cán bộ, đảng viên Hội nghị lần thứ 9 và thư 10 của Trung ương Đảng
(năm 1956) quyết định bước vào giai đoạn cách mạng mới, phải tăng cường giáo
dục tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận Mác- Lênin cho cán bộ, đảng viên,
chuẩn bị về mặt tư tưởng cho cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và
đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng giải phóng miền Nam. Theo phương hướng đó,
năm 1957 - 1958 Trường Đảng trung ương và các khu, tỉnh, thành phố mở khóa
học lý luận đầu tiên. Đến dự lễ khai mạc lớp học lý luận khoá I Trường Nguyễn
Ái Quốc ngày 7 - 9 - 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc diễn văn nêu rõ học
tập lý luận là “một sự bức thiết đối với Đảng ta". Người căn dặn các đồng chí
học viên phải nắm vững phương châm lý luận liên hệ với thực tế, "không phải
học để thuộc lòng từng câu, từng chữ, đem kinh nghiệm của các nước anh em áp
dụng một cách máy móc... học chủ nghĩa Mác - Lênin để phân tích và giải quyết
các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của
nước ta… Khi vận dụng thì bổ sung, làm phong phú thêm lý luận bằng những
kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn cách mạng của ta"[12]
Các lớp học tại chức được mở rộng. Trung ương mở lớp cho cán bộ cao cấp
học lý luận Mác - Lênin về thời kỳ quá độ; các khu ủy, tỉnh ủy, thành ủy mở lớp
cho cán bộ trung, sơ cấp học môn duy vật lịch sử. Chỉ thị số 85 - CT/TƯ ngày
24-5-1958 của Ban Bí thư quyết định "từ nay trở đi cần tăng cường việc tổ chức
học tập lý luận Mác - Lênin cho cán bộ, đảng viên lên một bước mới". Căn cứ
khả năng và yêu cầu trước mắt, Ban Tuyên huấn và Trường đảng tổ chức cho
cán bộ cao cấp học một số quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và kinh tế chính trị học; cán bộ trung cấp và sơ cấp học lý luận Mác - Lênin về
thời kỳ quá độ, kết hợp với thực tế Việt Nam; cán bộ, đảng viên ở cơ sở học một
số vấn đề về chủ nghĩa xã hội, và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Để
tăng thêm tài liệu nghiên cứu cho cán bộ, ngoài tạp chí Học tập (tạp chí lý luận
của Trung ương Đảng), Ban Bí thư quyết định xuất bản tiếng Việt tạp chí Những
143
vấn đề hòa bình và chủ nghĩa xã hội, cơ quan thông tin của các Đảng Cộng sản
và Công nhân.
Kết quả thực hiện Chỉ thị 85 của Ban Bí thư không những đã mở ra phong
trào học tập lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên mà còn góp phan chuẩn bị cơ
sở tư tưởng cho việc tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội toàn quốc
lần thứ III của Đảng (năm 1960).
Để động viên phong trào ở nông thôn, tháng 8- 1958 Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra Lời kêu gọi nông dân lao động hăng hái vào tổ đổi công, hợp tác xã và thi đua
cải tiến kỹ thuật đẩy mạnh sản xuất, tất cả đảng viên, đoàn viên, thanh niên lao
động, chiến sĩ thi đua ở nông thôn hãy tiến lên hàng đầu của phong trào đổi
công, hợp tác, lập thành tích lớn trên mật trận sản xuất nông nghiệp. Kết quả của
phong trào hưởng ứng Lời kêu gọi của Người đã làm cho tình hình nông thôn
chuyển biến tốt, có khả năng phát triển thành một phong trào hợp tác sản xuất
rộng lớn, tuy nhiên trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa ở nông thôn nói chung
còn thấp, nông dân chưa được giáo dục về chủ nghĩa xã hội. Ngày 3-9-1958 Ban
Bí thư ra Chỉ thị số 46-CT/TƯ về giáo dục nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa
cho đảng viên ở nông thôn để tiến kịp với yêu cầu phát triển nông nghiệp theo
con đường hợp tác hóa. Thực hiện chỉ thị của Ban Bí thư và hướng dẫn của Ban
Tuyên huấn Trung ương, Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy tiến hành đợt
giáo dục mùa thu năm 1958 nhằm làm cho đảng viên ở nông thôn:
- Hiểu biết hơn về chủ nghĩa xã hội và những nhiệm vụ chung của miền Bắc
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; phân rõ được hai con đường; khắc
phục những tư tưởng sai lầm; bước đầu có cơ sở nhận thức để tiếp thu đường lối
hợp tác hóa nông nghiệp mà Đảng và Nhà nước sẽ công bố.
- Nhận rõ đường lối, phương châm phát triển nông nghiệp và xác định
nhiệm vụ của đảng viên đối với việc lãnh đạo phong trào đổi công, hợp tác, đẩy
mạnh sản xuất, 20 vạn đảng viên ở các xã thuộc hai vùng đồng bằng Sông Hồng
và Khu 4 cũ đã tham dự học tập. Kết quả đợt giáo dục đã góp phần tăng cường
lãnh đạo phong trào đổi công, hợp tác trong nông nghiệp vụ Đông - Xuân 1958 -
144
1959 và tạo cơ sở thuận lợi mở rộng cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp
trong các năm sau.
Đại hội liên hoan anh hùng chiến sĩ thi đua công nông binh toàn quốc lần
thứ II (7-7-1958) đã động viên mạnh mẽ khí thế mới trong phong trào quần
chúng. Tháng 11- 1958 Hội nghị lần thứ 14 Trung ương Đảng nhận định trong
sáu tháng cuối năm 1958, miền Bắc "đã có một đà phát triển mới, một phong
trào mới". Song mặt yếu là trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của nông dân còn
thấp. Công nhân mới bắt đầu được giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, nên ý
thức làm chủ chưa cao. . . Nhân tố xã hội chủ nghĩa phát triển không đều, trình
độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa nói chung còn thấp, nhưng xu thế chung của phong
trào là tiến lên chủ nghĩa xã hội. Những mặt hạn chế của phong trào chủ yếu do
sự lãnh đạo của Đảng chưa theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Hội nghị thông qua kế hoạch phát triển kinh tế và văn hóa ba năm 1958 -
1960 và nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể của nông dân,
thợ thủ công, người buôn bán nhỏ và kinh tế tư bản tư doanh, đề ra các biện
pháp về tư tưởng và tổ chức để bảo đảm thực hiện. Về tư tưởng, tăng cường giáo
dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi người phân rõ ranh giới giữa con
đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa, làm cho tư tưởng xã hội
chủ nghĩa chiếm ưu thế, mọi người thấm nhuần sâu sắc yêu nước và yêu chủ
nghĩa xã hội là một.
Tháng 4- 1959, Hội nghị lần thứ 16 Trung ương Đảng ra Nghị quyết về hợp
tác hóa nông nghiệp và Nghị quyết về cải tạo công thương nghiệp tư bản tư
doanh.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương, Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy
Đảng tổ chức phối hợp các ngành, các đoàn thể, các binh chủng trên mặt trận tư
tưởng tiến hành đợt giáo dục sâu rộng trong nhân dân, đặc biệt trong công nhân,
nông dân, thợ thủ công, người buôn bán nhỏ về hai con đường: con đường xã
hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa, khẳng định con đường xã hội chủ
nghĩa, nâng cao tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Đối với tầng lớp trí
145
thức, Ban Tuyên huấn phối hợp với Uỷ ban Mặt trận tổ chức nghiên cứu chính
sách của Đảng đôí với trí thức qua đó nâng cao tư tưởng, cổ vũ phát huy năng
lực sáng tạo, góp phần thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa và cải tạo
xã hội chủ nghĩa, khắc phục những biểu hiện của tư tưởng, quan điểm tư sản. Uỷ
ban Trung ương Mặt trận và các tỉnh, thành phố tổ chức cho các nhà tư sản thảo
luận nhận rõ chính sách của Nhà nước đối với công thương nghiệp tư bản tư
doanh khuyến khích và sử dụng mặt tích cực của công thương nghiệp tư bản tư
doanh, hướng dẫn công thương nghiệp tư bản tư doanh hoạt động có lợi cho
quốc kế dân sinh, góp phần thực hiện kế hoạch nhà nước, đồng thời hạn chế,
ngăn ngừa mặt tiêu cực và cải tạo từng bước công thương nghiệp tư bản tư
doanh, giúp đỡ giới công thương tiến bộ, tiếp thu cải tạo hòa bình qua con
đường kinh tế tư bản nhà nước.
Chủ trương, chính sách hợp tác hóa nông nghiệp của Đảng được tuyên
truyền sâu rộng, nông dân nhiệt liệt hưởng ứng, mau chóng đi vào cuộc sống,
tạo thành một phong trào quần chúng khắp nông thôn miền Bắc xây dựng hợp
tác xã và đẩy mạnh làm thuỷ lợi kết hợp hợp tác hóa với thủy lợi hóa. Cuối năm
1960 hợp tác hóa nông nghiệp bậc thấp ở nông thôn đồng bằng, trung du và hợp
tác hóa nghề cá đã căn bản hoàn thành. Cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp,
phát triển sản xuất kết hợp cải cách dân chủ ở miền núi hoàn thành tháng 7-
1961. Cuối năm l960, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương
nghiệp tư bản tư doanh, tiểu thủ công nghiệp và người buôn bán nhỏ cũng cơ
bản hoàn thành.
Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, công tác tư tưởng đã có đóng góp
quan trọng. Song việc làm quán triệt các phương châm, nguyên tắc cải tạo chưa
sâu sắc, chưa giúp cho lãnh đạo phát hiện và uốn nắn kịp thời những lệch lạc
trong quá trình tổ chức thực hiện, như nóng vội, gò ép, mệnh lệnh, làm sai chính
sách; đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã chậm được bồi dưỡng, trình độ và năng
lực quản lý rất yếu. Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư tháng 10- 1959 về đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước, các ngành, các địa phương, các hoạt động tư
tưởng đã phối hợp động viên mạnh mẽ phong trào phấn đấu "vượt mức kế hoạch
146
toàn diện, vững chắc, vươn lên hàng đầu", góp phần hoàn thành kế hoạch ba
năm 1958 - 1960. Hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước của toàn dân, tháng
2- 1960 Hội nghị đại biểu những người tích cực trong phong trào văn hóa quần
chúng được tổ chức. Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ thị: "Văn hóa phải thiết thực phục vụ nhân dân, góp phần vào việc
nâng cao đời sống vui tươi, lành mạnh của quần chúng. . . Nội dung văn hóa
phải có ý nghĩa giáo dục. .. Văn hóa phải gắn liền với lao động sản xuất. Văn
hóa xa đời sống, xa lao động là văn hóa suông. . . Nglời cán bộ văn hóa phải
dùng văn hóa để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà"[13]
Đến thăm và nói chuyện tại Đại họi lần thứ II Hội nhà báo Việt Nam (6-4-
1959), Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi anh chị em làm báo đã cố gắng làm
việc, đóng góp tích cực vào cuộc kháng chiến thắng lợi, xây dựng hòa bình và
đấu tranh thống nhất Tổ quốc. Bác căn dặn các nhà báo chăm chỉ học tập chính
trị, nâng cao tư tưởng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, nâng cao trình
độ văn hóa và nghiệp vụ, nâng cao tính quần chúng và tính chiến đấu của báo
chí. Mỗi người làm báo ít nhất biết một thứ tiếng nước ngoài. Khắc phục các
khuyết điểm: Nắm các vấn đề chính trị không được chắc chắn; một số bài viết
về văn nghệ thì ba hoa, nhạt nhẽo, viết về chính trị thì khô khan, rập khuôn,
dùng quá nhiều chữ nước ngoài. Là người "có nhiều duyên nợ với báo chí", Bác
thân mật kể lại kinh nghiệm làm báo của mình và kết luận: "Kinh nghiệm của 40
năm là không sợ khó, có quyết tâm Không biết thì phải cố gắng học, mà cố gắng
học thì nhất định học được"2
Tháng 10-1969 Bộ Chính trị ra Chỉ thị 02 về tăng cường công tác của Việt
Nam Thông tấn xã. Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, Thông tấn xã nỗ lực
phấn đấu nâng cao tính tư tưởng, tính quần chúng, tính kịp thời và tính chính
xác của tin và ảnh, nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ biên tập, kỹ
thuật và quản lý, từng bước tãng cường thiết bị kỹ thuật, mở rộng lưới phóng
viên ở trong nước và nước ngoài.
147
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ củng cố miền Bắc, công tác tư tưởng đã
động viên phong trào quần chúng ủng hộ, cổ vũ cuộc đấu tranh của đồng bào
miền Nam, thể hiện liên tục và mạnh mẽ qua các cuộc mít tinh, biểu tình phản
đối Mỹ - Diệm vi phạm Hiệp định Giơnevơ đàn áp khủng bố đồng bào ta ở miền
Nam, phá hoại hiệp thương tổng tuyển cử, chống việc lập lại quan hệ bình
thường giữa hai miền Nam - Bắc. Vào ngày 20-7 hàng năm và khi có những sự
kiện lớn, như các vụ Mỹ - Diệm tàn sát đẫm máu đồng bào ta ở Ngân Sơn, Chí
Thạnh (Phú Yên), Chợ Dược (Quảng Nam) tháng 9- 1954, phong trào đấu tranh
lại diễn ra sôi nổi khắp miền Bắc với hàng triệu lượt người tham gia. Một hình
thức hoạt động mới: phong trào kết nghĩa giữa các tỉnh ở miền Bắc với các tỉnh
ở miền Nam gắn với các hành động cụ thể đẩy mạnh sản xuất và xây dựng miền
Bắc, chi viện miền Nam diễn ra sôi nổi, đạt hiệu quả cao. Công tác thông tin,
tuyên truyền về phong trào đấu tranh chống Mỹ - Diệm của đồng bào miền
Nam, tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm trên các phương tiện thông tin đại chúng như
Trang miền Nam của báo Nhân dân, tiết mục Nối liền Nam Bắc của Đài Tiếng
nói Việt Nam; qua hoạt động của lực lượng báo cáo viên, tuyên truyền viên, . ..
và bằng nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ được tăng cường, nhiều tác phẩm
gây ấn tượng sâu sắc. Vụ Tuyên truyền đấu tranh thống nhất Tổ quốc của Ban
Tuyên huấn Trung ương được thành lập để giúp Ban theo dõi tình hình miền
Nam, chỉ đạo công tác tuyên truyền. Thực hiện Nghị quyết 06-NQ/TƯ ngày 1-4-
1957 của Ban Bí thư, báo Thống nhất ra đời với nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục
nâng cao tinh thần yêu nước, nâng cao chí khí phấn đấu cho thống nhất nước
nhà, tăng cường tình đoàn kết Bắc - Nam, động viên phong trào quần chúng ra
sức củng cố miền Bắc, góp phần đẩy mạnh đấu tranh ở miền Nam; vạch trần âm
mưu và tội ác của Mỹ - Diệm trước dư luận trong nước và trên thế giới, góp
phần tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận quốc tế đối với cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân ta.
Công tác tuyên truyền giáo dục nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày thành lập
Đảng được tiến hành sâu rộng trong Đảng và trong nhân dân, nêu cao thành tựu
to lớn mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao tư tưởng
148
cho cán bộ, đảng viên, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân.
Trong thời gian hơn 6 năm (7-1954 - 12-1960) phấn đấu thực hiện thắng lợi các
nhiệm vụ trước mắt của thời kỳ mới, đại bộ phận cán bộ, đảng viên giữ được
phẩm chất, đạo đức cách mạng, hăng hái đi đầu và vận động quần chúng thực
hiện tốt các chủ trương, chính sácb của Đảng và Nhà nước. Hàng chục vạn
người tiên tiến trong phong trào quần chúng được rèn luyện, bổ sung cho đội
ngũ cán bộ trên các lĩnh vực công tác, những người ưu tú nhất được qua các lớp
bồi dưỡng đối tượng do Ban Tuyên huấn các cấp mở, kết nạp bổ sung cho hàng
ngũ của Đảng. Riêng đợt kết nạp đảng viên lớp "6- l" từ tháng 11- 1959 đến
tháng 2- 1960 đã kết nạp 62.254 đảng viên mới. Tuy nhiên, vẫn còn một số cán
bộ, đảng viên lập trường chính trị chưa vững vàng, trước những tình huống phức
tạp, cách mạng gặp khó khăn, có biểu hiện dao động, hoài nghi về chủ nghĩa xã
hội; từ chỗ hy vọng 2 năm tổng tuyển cử đi đến bi quan về sự nghiệp đấu tranh
thống nhất nước nhà.
6 năm sau hòa bình, tổ chức tuyên huấn cảc cấp từng bước được tăng
cường. Tháng 6- 1959, Ban Tuyên huấn Trung ương xuất bản tạp chí Tuyên
huấn và tháng l 1960 xuất bản tạp chí Thời sự phổ thông để hướng dẫn các cấp
về công tác tuyên truyền giáo dục. Để hợp lý hóa bộ máy các ban của Đảng, đưa
công tác lãnh đạo các lĩnh vực tuyên, văn, giáo, huấn vào một mối, ngày 23-8-
1958 Ban Bí thư ra Nghị quyết sô 50 - NQ / TƯ bỏ các Tiểu ban giáo dục - khoa
học, Tiểu ban vàn nghệ và Tiểu ban y học Trung ương, lập Ban Văn giáo Trung
uơng, ngày 1- 12- 1959 lại ra Quyết định số 91 - NQ/TƯ hợp nhất Ban Tuyên
huấn và Ban Văn giáo, gọi tắt là Ban Tuyên giáo Trung ương để giúp Ban Bí thư
chỉ đạo toàn diện các lĩnh vực trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, giáo dục.
Triển khai công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, việc nâng cao trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên là một yêu cầu cấp
bách. Thực hiện Nghị quyết l13 của Bộ Chính trị, Ban Tuyên huấn và Trường
đảng tổ chức học tập chủ nghĩa Mác - Lênin một cách có hệ thống cho cán bộ
lãnh đạo các cấp, nội dung gồm các môn lý luận cơ bản: triết học, kinh tế chính
trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học và một số kiến thức cơ bản về quản lý kinh tế.
149
Các lớp đào tạo cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận cũng bắt đầu được tổ
chức. Công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin có hệ thống cho cán bộ lãnh đạo
các cấp được tiến hành tích cực trong các năm 1961 - 1964, chỉ riêng đợt học tập
môn triết học đã thu hút 13 vạn học viên.
Năm 1958 - 1960 công tác tuyên truyền về Việt Nam ra nước ngoài bước
đầu được mở rộng đã góp phần làm cho nhân dân tiến bộ trên thế giới hiểu rõ
hơn cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Công tác giáo dục tinh hần
quốc tế xã hội chủ nghĩa được táng cường đã góp phần củng cố đoàn kết giữa
nhân dân ta với nhân dân Lào, Campuchia, Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em; đoàn kết và ủng hộ phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2. Động viên phong trào đấu tranh chính trị và Đồng khởi ở miền Nam
Tháng 10- 1954, Xứ ủy Nam Bộ, Liên khu ủy V và Trị Thiên Huế tổ chức
nghiên cứu và thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị
về tình hình mới và nhiệm vụ mới của các Đang bộ miền Nam.
Trước mắt, nhiệm vụ của các Đảng bộ miền Nam là bảo vệ lực lượng cách
mạng, lãnh đạo nhân dân miền Nam giữ vững và đẩy mạnh đấu tranh chính trị,
buộc Mỹ và tay sai phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, chống âm mưu và hành
động của chúng phá hoại việc thi hành Hiệp định. Trong tình hình mới, lãnh đạo
đấu tranh phải quán triệt phương châm kết hợp hoạt động bí mật với hoạt động
công khai và nửa công khai; củng cố và phát triển cơ sở ở nông thôn, mở rộng
và đẩy mạnh công tác ở đô thị, phối hợp chặt chẽ công tác ở đô thị với công tác
ở nông thôn. Kẻ thù có âm mưu đánh phá phong trào cách mạng. Vì vậy, tổ chức
Đảng và các tể chức cách mạng phải rút vào bí mật, chống lại hành động đánh
phá của kẻ thù.
Tình hình tư tưởng lúc này có những diễn biến phức tạp, vừa có tâm lý chủ
quan, không thấy hết âm mưu phá hoại của Mỹ và tay sai, vừa có tâm lý bi quan,
lo lắng. Vì thế, công tác tư tưởng cần được tiến hành đến từng chi bộ Đảng và
rong nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhất trí với nhận định
và chủ trương của Trung ương Đảng. Nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân miền
150
Nam trong giai đoạn mới là phải hết sức tin tưởng ở sức mình và sẵn sàng chiến
đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng; đề phòng và
khắc phục các tư tưởng cầu an, dao động, thủ tiêu đấu tranh hoặc mất cảnh giác
với âm mưu của địch.
Bộ máy chỉ đạo của Đảng từ xứ ủy, liên khu ủy đến các tỉnh, thành ủy,
huyện, thị ủy và Ban Tuyên huấn các cấp được sắp xếp lại. Phòng Việt Nam
thông tấn xã chi nhánh Nam Bộ được bố trí gọn nhẹ, làm nhiệm vụ thu tin của
tổng xã, của các địa phương và tin thế giới cung cấp cho lãnh đạo và làm bản tin
miền Nam cung cấp cho công tác tuyên truyền trong nước và đối ngoại[14]. Tổ
chức đảng và các tổ chức cách mạng đều rút vào bí mật. Cán bộ, đảng viên được
bồi dưỡng về kinh nghiệm hoạt động bí mật và "năm bước công tác" để vận
dụng trong hoàn cảnh mới. Các tổ chức quần chúng hoạt động công khai được
hình thành và phát triển. Một số cán bộ, đảng viên, với danh nghĩa ký giả, văn
nghệ sĩ .v.v được bố trí ở lại các thành phố lớn để hoạt động công khai, hợp
pháp.
Về phía địch, từ tháng 7-1954, Mỹ đã từng bước hất cẳng pháp, đưa Diệm
vào, áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước ta. Miền Nam từ xã hội
thuộc địa của Pháp trở thành xã hội thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Cuộc đấu tranh trong điều kiện mới diễn ra vô cùng gay go, phức tạp, đầy
gian khổ và hy sinh. Các đảng viên, cán bộ hoạt động bí mật cùng với lực lượng
quần chúng trung kiên, chủ yếu là dùn hình thức tuyên ruyền trực tiếp đến từng
người, vận động và tổ chức phong trào quần chúng đẩy mạnh đấu tranh chính trị
ở nông thôn và đô thị
Ở Sài Gòn, sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết, thành ủy chỉ đạo tổ
chức các hoạt động quần chúng hoan hô đình chiến, ủng hộ hòa bình". Khẩu
hiệu “ủng hộ hòa bình" phản ánh nguyện vọng của nhân dân, được quần chúng
hưởng ứng rộng rãi. Cán bộ và cơ sở cách mạng vận động các báo tiến bộ đảng
toàn văn Hiệp định, chỗ dựa pháp lý để đấu tranh; phản ánh các cuộc mít tinh,
hội họp của các tầng lớp nhân dân bày tỏ ý chí ủng hộ hòa bình; đưa tin, ảnh tố
cáo hành động đàn áp của chính quyền Sài Gòn đối với nguyện vọng hòa bình
151
của nhân dân. Mặc dù chính quyền Sài Gòn ra sức đàn áp, nhưng hàng trăm Uỷ
ban đấu tranh vì hòa bình đã được thành lập. Phong trào hòa bình thu hút rộng
rãi các tầng lớp nhân dân lao động, sinh viên, các nhân sĩ, trí thức yêu nước, các
báo chí tiến bộ, tín đồ các tôn giáo,.. gây ảnh hưởng chính trị lớn và nhanh
chóng phát triển ra nhiều đô thị khác, nâng cao uy thế của cách mạng. Hoảng sợ
trước phong trào quần chung, chính quyền Sài Gòn bắt giam nhiều người lãnh
đạo chủ chốt của các ủy ban đấu tranh vì hòa bình. Thậm chí, Diệm cấm các báo
dùng từ "hòa bình", vì thể các báo đã sử dụng từ "thanh bình" để tránh sự kiểm
duyệt, xóa bỏ của kẻ thù. Báo chí tiến bộ kêu gọi hưởnb ứng phong trào, phản
đối đàn áp, đòi trả lại tự do cho những người bị bắt. Đồng bào miền Bắc phối
hợp đấu tranh và dư luận tiến bộ trên thế giới đồng tình ủng hộ, nguỵ quyền bốn
lần định đưa các chiến sĩ của phong trào hòa bình ra tòa, nhưng cả bốn lần
chúng đều không dám xét xử công khai.
Sự lãnh đạo của Đảng chú trọng kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh
đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ, như gắn với phong trào đấu tranh của công
nhân đòi việc làm, chống sa thải,… ở Sài Gòn cán bộ và cơ sở cách mạng vận
động các báo tiến bộ đưa tin, bình luận, hô hào lập "Quỹ đình công", ủng hộ
phong trào đấu tranh của công nhân. Nhờ đó, phong trào đã lôi cuốn đông đảo
các tầng lớp nhân dân lao động, học sinh, sinh viên, trí thức tham gia. Nhiều
người trong giới tư sản dân tộc cũng tham gia blểu tình chống chính sách kinh tế
theo đuôi Mỹ và chế độ độc tài gia đình trị của họ Ngô.
Cuộc thanh toán nhau giữa Diệm và phái Bình Xuyên gây tai họa cho hàng
vạn đồng bào Sài Gòn bị mất người, mất tài sản, sống cảnh màn trời chiếu đất.
Cán bộ và cơ sở cách mạng ở nội thành vận động quần chúng và báo chí tiến bộ
vạch mặt tàn bạo của Diệm, khơi dậy tinh thần "lá lành đùm lá rách", vận động
lập "ủy ban bảo vệ sinh mạng và tài sản đồng bào". Cuộc vận động được nhân
dân toàn thành phố hưởng ứng rộng rãi, vừa ủng hộ tiền của lương thực cho nạn
nhân vừa giăng biểu ngữ lên án nguỵ quyền, đòi bồi thường thiệt hại.
Ở nông thôn, cán bộ cách mạng tuyên truyền vận động và tổ chức phong
trào nông dân đấu tranh bảo vệ các quyền lợi đã được hưởng từ trong kháng
152
chiến, chống chế độ ngụy xáo cấp công điền, cướp đất của những gia đình có
người đi tập kết, chống "cải cách điền địa" giả hiệu, chống tăng tô, tiêu biểu là
phong trào ở nhiều tỉnh khu V (Bình Định, Quảng Ngãi. ..) và Trị Thiên. Ở Tây
Nguyên, cán bộ cách mạng vận động và tổ chức đồng bào các dân tộc đấu tranh
chống âm mưu mua chuộc, chia rẽ của địch, chống dồn dân lập "khu đinh
điền",... đòi hòa bình, thống nhất, đồng thời củng cố đoàn kết, bảo vệ cán bộ, giữ
gìn lực lượng cách mạng, xây dựng khu căn cứ.
Tháng 7- 1955 các đảng bộ miền Nam mở đợt tuyên truyền phát động
phong trào đòi địch phải thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử như Hiệp định
Giơnevơ quy định. Hàng triệu lượt đồng bào ở thành thị và nông thôn miền
Nam, có cả một số công chức và binh sĩ ngụy tham gia, sôi nổi hưởng ứng các
cuộc mít tinh, biểu tình, bãi công, bãi thị bãi khóa, lấy chữ ký, đưa kiến nghị đòi
chính quyền ngụy phải hiệp thương, tổng tuyển cử, hòa bình thống nhất đất
nước. Diệm ban hành Dụ số 13 kết tội những người ủng hộ đòi hiệp thương,
tổng tuyển cử nhưng chúng không thể dập tắt được phong trào yêu nước của
nhân dân. Nhiều thành phố lớn như Sài Gòn - Chợ Llớn, Gia Định, Mỹ Tho,
Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, v.v. các cuộc bãi công, bãi thị, bãi khóa rất rầm rộ,
làm cho các hoạt động khác của thành phố gần như bị ngừng lại.
Nhìn chung phong trào đấu tranh ủng hộ hòa bình đòi hiệp thương, tổng
tuyển cử, cùng với các phong trào khác chống Mỹ - Diệm của quần chúng nhân
dân đã gây hoang mang trong bọn phản động đang ngóc đầu dậy ở nông thôn và
cả nhiều người trong chính quyền Diệm. Để tiếp tục giữ vững và đẩy mạnh
phong trào quần chúng, tháng 9-1955 Xứ ủy Nam Bộ tổ chức sinh hoạt chính trị
trong đảng viên và đoàn viên thanh niên về chủ trương đấu tranh đòi hiệp
thương, tổng tuyển cử nhằm nâng cao ý chí chiến đấu, phát huy thành tựu, khắc
phục tư tưởng cầu an, thủ tiêu đấu tranh hoặc đấu tranh ồ ạt, hmh thức. Để đẩy
mạnh công tác tuyên truyền, Xứ ủy Nam Bộ ra báo Hoà bình thống nhất và tờ
Tin tức, phát hành đến xã, mỗi tỉnh ra một tờ báo với danh nghĩa cơ quan của
Mặt trận, lấy tên là Đấu tranh cho hòa bình, thống nhất. Ngày 30-9- 1955
Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ ra chỉ thị yêu cầu các cấp uỷ đảng phải: Nhận thức rõ
153
vị trí quan trọng của công tác tuyên huấn giúp cấp ủy phổ biến đường lối, chủ
trương của Đảng; lãnh đạo tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân trong
đấu tranh chống địch; tổ chức lực lượng đảng, đoàn thể, quân đội … làm công
tác tư tưởng. . . Cần bám sát chủ trương công tác từng thời gian do tuyên huấn
Xứ ủy hướng dẫn. Chỉ đạo điểm để rút kinh nghiệm, chỉ đạo sát công tác tuyên
huấn ở cơ sở. .. Kiện toàn bộ máy, bổ sung cán bộ đủ đảm nhiệm công tác. Mỗi
xã lập một Ban Tuyên huấn do một đồng chí chi ủy viên phụ trách, có một
trưởng ban và một số đảng viên, đoàn viên thanh niên. Mỗi tỉnh, huyện có một
máy in Stencil, mỗi xã một phương tiện in bột.
Suốt hai năm 1955-1956, phong trào quần chúng đấu tranh ủng hộ hòa bình
đòi Mỹ - Diệm phải thực hiện hiệp thương, tổng tuyển cử và đòi các quyền dân
sinh, dân chủ diễn ra sôi nổi. Để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân,
năm 1955 Mỹ - Diệm thực hiện chính sách "tố cộng, diệt cộng”. Đây là một
chính sách rất thâm độc và tàn bạo, được chúng tôn lên hàng "quốc sách" nhằm
tiêu diệt lực lượng và uy thế của cách mạng. Chúng cưỡng bức nhân dân phải
"tố cộng”, “tuyên bố" ly khai” cách mạng. Chúng bắt các cán bộ, đảng viên và
những người tham gia công tác cách mạng phải trình diện" và “đầu thú quốc
gia", mua chuộc, dụ dỗ và tra khảo dã man, nhằm buộc họ phải khai báo, tuyên
bố "ly khai" cách mạng và xé cờ cộng sản. Chúng lập hệ thống nhà giam đến
từng xã, ngày đêm tra khảo, đánh đập, thủ tiêu những người yêu nước, gây ra
những vụ tàn sát đẫm máu ở nhiều nơi. Chiến dịch "tố cộng, diệt cộng" diễn ra
khắp miền Nam, kéo dài từ năm 1955 đến năm 1958 ác liệt nhất là những năm
1956, 1957, hầu như không có ngày nào không xảy ra những vụ bắn giết cán bộ,
đảng viên và những người yêu nước. Ngày 1-12-1958 Mỹ - Diệm gây ra vụ
thảm sát lớn, đầu độc hàng ngàn cán bộ cách mạng và những người yêu nước bị
cầm tù tại trại giam Phú Lợi, Thủ Dầu Một. Trại giam có 6.000 người, 1.000
người chết ngay vì trúng độc, 4.000 người khác bị trúng độc nặng. Công tác
tuyên truyền và báo, đài của ta đã tố cáo và lên án mạnh mẽ tội ác của Mỹ -
Diệm. Phong trào phản đối vụ đầu độc Phú Lợi dâng lên khắp miền Nam, khắp
cả nước ta và nhiều nước trên thế giới.
154
Thực hiện Chỉ thị ngày 1- 12-1955 của Trung ương Đảng, các đảng bộ miền
Nam tích cực lãnh đạo đảng viên và quần chúng chống "tố cộng", coi đây là
nhiệm vụ trọng tâm trước mắt. Công tác tư tưởng được tiến hành chủ yếu bằng
các hoạt động tuyên truyền trực tiếp của cán bộ, đảng viên và quần chúng trung
kiên, làm cho đồng bào thấy rõ âm mưu thâm độc của chính sách "tố cộng", nêu
cao chính nghĩa của Đảng và vai trò của Đảng đối với dân tộc và nhân dân, vạch
trần bộ mặt "quốc gia", "dân tộc" giả hiệu của Diệm, vận động quần chúng đoàn
kết đấu tranh chống địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ cán bộ để bảo vệ quyền lợi chính
đáng của mình. Vạch rõ khi kẻ địch điên cuồng khủng bố, tàn sát những người
yêu nước chính là lúc chúng run sợ trước phong trào cách mạng. Trong nội bộ
Đảng, giáo dục cán bộ, đảng viên nêu cao khí tiết cộng sản, tiến công địch, phá
âm mưu thâm độc của chúng, bảo vệ tổ chức, bảo vệ uy thế chính trị của Đảng.
Với quốc sách “tố cộng", mưu toan của địch là tách nhân dân ra khỏi Đảng. Các
đảng bộ đã xác định bám dân, bám cơ sở là vấn đề sống còn của Đảng, giáo dục
cán bộ, đảng viên thực hiện “ba bám”: bám dân, bám đất, bám cơ sở để lãnh đạo
quần chúng đấu tranh chống địch, coi "ba bám" như là một tiêu chuẩn hàng đầu
của người cán bộ, đảng viên, khắc phục tư tưởng hoang mang, chạy dài, bi quan,
thiếu tin tưởng, đồng thời đề phòng và khắc phục tư tưởng chủ quan kém cảnh
giác.
Trong hoàn cảnh rất ác liệt, công tác tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân
ở nhiều địa phương và cơ sở đã góp phần quan trọng giữ vững ý chí chiến đấu.
Ở Tây Nguyên, căn cứ Nghị quyết của Liên khu ủy V (tháng 2- 195), Liên tỉnh
IV (ba tỉnh Tây Nguyên) soạn các tài liệu: 'Thương dân yêu nước, đứng lên làm
cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng”, Chủ nghĩa cộng sản và người cộng
sản”, Khí tiết và đạo đức cộng sản" để giáo dục đảng viên và quần chúng. Ở
nhiều cơ sở, đồng bào các dân tộc xác định thái độ chính trị: "7 yêu 3 ghét, 3
không sợ" (7 yêu là: yêu đất nước, yêu nhân dân, yêu Đảng, yêu Bác Hồ, yêu lao
động, yêu lẽ phải, yêu tiến bộ; 3 ghét là: ghét đế quốc phong kiến, ghét áp bức
bóc lột, ghét lạc hậu; 3 không sợ là: không sợ đế quốc phong kiến, không sợ hy
sinh gian khổ, không sợ ma quỷ). Trên cơ sở giáo dục phân rõ địch - ta, khẳng
155
định niềm tin và quyết tâm "đi theo cách mạng, theo Bác Hồ" khắc phục các
chiều hướng tư tưởng "đứng ở giữa", "đầu hàng đỡ" (tạm thời) hoặc "gió chiều
nào che chiều ấy" (theo Lược sử hoạt động của Ban Tuyên giáo Kon Tum).
Trước thử thách rất lớn về lập trường và khí tiết cách mạng, đại bộ phận cán
bộ, đảng viên đã đấu tranh kiên cường, giữ vững khí tiết của người cộng sản,
bảo vệ tổ chức và uy thế chính trị của Đảng. Hàng ngàn tấm gương hy sinh oanh
liệt của người cộng sản đã xuất hiện, trong đó có một số cán bộ tuyên huấn.
Trong những giờ phút thừ thách ác liệt nhất, cán bộ và nhân dân miền Nam vẫn
giữ vững niềm tin vào cách mạng, vào Đảng và Bác Hồ, kiên quyết đấu tranh
chống địch bàng nhiều hình thức sáng tạo. Để bảo vệ cán bộ, ở nhiều địa
phương nhân dân lập đội tự vệ dưới danh nghĩa "đội dân canh chống cướp” để
báo động cho cán bộ khi địch đến, giải thoát những cán bộ bị địch bất. Nhân dân
nhiều nơi không chịu tập trung “tố cộng". Khi bị tập trung, nhân dân đã biến
cuộc "tố cộng" của địch thành cuộc tố cáo địch giết người, cướp của, đòi bồi
thường thiệt hại. Chống lại các cuộc "tranh luận giữa quốc gia và cộng sản" do
địch tổ chức, cán bộ ta đã bồi dưỡng lý lẽ cho những quần chúng trung kiên làm
nòng cốt đấu tranh vạch mặt kẻ thù xâm lược và bọn bán nước, bảo vệ và làm
sáng tỏ chính nghĩa cách mạng. Nhiều đồng bào đã hy sinh anh dũng trong cuộc
đấu tranh bảo vệ Đảng.
Cùng với khí thế đấu tranh của đồng bào cả nước, nhiều văn nghệ sĩ yêu
nước đã can đảm dùng vũ khí thơ, văn, ca ngợi tinh thần đấu tranh bất khuất của
dân tộc chống ngoại xâm. Mặc dù Dụ số 13 của Diệm ấn định "báo nào đưa tin
và bình luận có lợi cho cộng sản, bị phạt tiền từ 25.000 đồng đến l triệu đồng,
phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”; dù chỉ một câu nói ủng hộ đòi hiệp thương tổng
tuyển cử cũng đủ để bị quy tội, “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản", nhưng các
báo tiến bộ ở Sài Gòn vẫn tích cực tham gia các cuộc vận động đồng bào đấu
tranh chống “trưng cầu dân ý” của Mỹ - Diệm, chống bầu cử Quốc hội bù nhìn.
Đặc biệt trong ngày lễ 1-5-1956 hàng trăm ngàn đồng bào dự mít tinh, biểu tình
đòi tự do cơm áo, độc lập, hòa bình và thống nhất Tổ quốc, đòi hiệp thương,
tổng tuyển cử có sự giám sát quốc tế. Trong hoà cảnh Diệm ngày càng xiết chặt
156
hoạt động của báo chí, các báo tiến bộ chuyén sang hướng đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ, ủng hộ phong trào công nhân đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ
làm, chống xúc phạm nhân phẩm nữ công nhân, chống bớt công chồng việc, đòi
tiền thưởng Tết, đòi lương tháng 13; ủng hộ giới tư bản trong nước đấu tranh
chống hàng ngoại, khơi gợi tinh thần dân tộc, gây thành phong trào nhân dân
bảo vệ hàng nội hóa. Diệm lập "Nha tổng phát hành thống nhất" để xiết chặt
khâu phát hành nhưng làng báo không chịu bó tay. Báo Sài Gòn Mai và một số
báo khác lập chợ "báo cổ động" để tự phát hành, Diệm không sao ngăn can
được.
Trước hành động khủng bố ngày càng tàn bạo của địch, yêu cầu của cán bộ,
đảng viên và quần chúng vũ trang chống khủng bố ngày càng cấp bách. Nhiều
nơi quần chúng tìm lại vũ khí trước đây đã chôn giấu, cướp súng địch, hoặc
dùng vũ khí thô sơ bí mật thủ tiêu những tên cảnh sát, chỉ điểm, tề điệp ác ôn
nguy hiểm nhất. Vận dụng kinh nghiệm trong cách mạng và kháng chiến chống
Pháp, một số địa phương đã thành lập các đội vũ trang tuyên truyền để đột phá
vào những nơi khó khăn, vừa tự bảo vệ để tiến hành công tác tuyên truyền, vừa
diệt ác, trừ gian, gây uy thế cho cách mạng.
Tình hình lúc đó cho thấy hình thức đấu tranh chính trị đã tỏ ra không đủ
mạnh để đối phó có hiệu lực với địch và tạo chuyển biến tình hình. Một số cán
bộ cho rằng đấu tranh chính trị “chỉ có huề”. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 6-
1956 nhận định: Khả năng giằng co kéo dài, tình trạng chia cắt đang tồn tại ở
miền Nam. Trong toàn quốc hiện nay hình thức đấu tranh là đấu tranh chính trị,
không phải đấu tranh vũ trang. Nói như tbế không có nghĩa là tuyệt đối không
dùng vũ trang tự vệ trong những hoàn cảnh nhất định, . . .
Cần củng cố các lực lượng vũ trang và bán vũ trang hiện có và xây dựng
căn cứ làm chỗ dựa. Nghị quyết khẳng định một hướng mới: đấu tranh chính trị
kết hợp với vũ trang tụ vệ. Đây là một bổ sung quan trọng về đường lối đáp ứng
trúng yêu cầu cấp bách của phong trào quần chúng, mở ra hướng mới cho công
tác tư tưởng, đi đôi với hình thức chủ yếu tuyên truyền trực tiếp đến từng nhà,
157
từng người, hình thức vũ trang tuyên truyền phát triển mạnh ở nhiều nơi, góp
phần tích cực vào công tác phát động quần chúng.
Sau khi có Nghị quyết tháng 6- 1956 của Bộ Chính trị, hoạt động vũ trang
tuyên truyền diệt ác ôn, chống bọn "tác động tinh thần", chiến tranh tâm lý, xây
dựng và củng cố cơ sở chính trị được đẩy mạnh ở hầu hết các tỉnh nông thôn
Nam Bộ và vùng rừng núi Liên khu V. Không chỉ các dội vũ trang tuyên truyền
ra đời mà cncả các đội vũ trang tập trung, trung đội du kích thoát ly ở các khu
căn cứ. Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ tháng 12- 1956 nhận định hoạt động vũ trang
tuyên truyền và vũ trang tự vệ: đã hạn chế sự lùng sục của bọn chỉ điểm và tác
động của bọn gây chiến tranh tâm lý, nội gián trong quần chúng. Nhiều nơị bọn
tề điệp ác ôn co lại, quần chúng dễ thở hơn, bắt đầu nhóm họp, sinh hoạt trở lại,
đấu tranh chống địch và bảo vệ tốt hơn. Công tác tuyên truyền của ta cũng do đó
mà có diều kiện đến được tới quần chúng nhiều hơn.
Nghị quyết tháng 6- 1956 của Bộ Chính trị đáp ứng yêu cầu bức xúc trước
mắt của phong trào quần chúng ở miền Nam Tuy vậy, trong thời kỳ này, "ta có
sai lầm trong chỉ đạo chiến lược, chậm chỉ dạo chuyển hướng đấu tranh, chỉ
nhấn mạnh đấu tranh chính trị khi địch đã dùng bạo lực phản cách mạng thẳng
tay giết hại cán bộ, nhân dân"[15]
Để đáp ứng yêu cầu cấp thiết vạch ra đường lối cách mạng miền Nam, từ
mùa thu năm 1955 đến mùa thu năm 1956, đồng chí Lê Duẩn, Uỷ viên Bộ Chính
trị phụ trách miền Nam đã dự thảo bản Đề cương cách mạng miền Nam. Bản đề
cương chỉ rõ xu thế phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam “muốn chống
Mỹ - Diệm ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không còn con
đường nào khác"; nêu ra 6 bài học chủ yếu của Cách mạng Tháng Tám và xác
định phương hướng của cách mạng miền Nam là "dựa vào lực lượng cách mạng
chính trị của quần chúng làm căn bản", tổ chức quần chúng vùng dậy đánh đổ
chính quyền Mỹ - Diệm. Bản Đề cương cách mạng miền Nam có ý nghĩa lịch sử
to lớn, đã góp phần chuẩn bị cơ sở lý luận và cơ sở chính trị cho Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 15 của Trung ương đảng (năm 1959) và Nghị quyết Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (năm 1960). Thông qua thảo luận, góp ý kiến bản
158
Đề cương, các đồng chí lãnh đạo của các đảng bộ miền Nam có ý thức chuẩn bị
cuộc nổi dậy trong khi chờ đợi chủ trương chính thức của Trung ương. Do đó,
bản Đề cương đã góp phần tích cực chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức
cho cao trào Đồng khởi sau này.
Theo thống kê chưa đầy đủ từ năm 1955 đến năm 1959, các phong trào đấu
tranh chính trị đòi hòa bình, hiệp thương tổng tuyển cử, đòi các quyền dân sinh,
dân chủ, chống "tố cộng, diệt cộng", chống đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ bán
nước đã thu hút gần 18 triệu lượt quần chúng tham gia, bao gồm đồng bào các
giới, các dân tộc, các tôn giáo, từ thành thị đến nông thôn, đồng bằng đến miền
núi. Một đội quân chính trị đấu tranh chống Mỹ - nguỵ đã ra đời; và bằng hoạt
động của mình, đội qnân này còn là một lực lượng sắc bén trong đấu tranh
chống Mỹ - nguỵ trên mặt trận tư tưởng.
Trải qua đấu tranh quyết liệt chống chính sách đàn áp, khủng bố của bọn
xâm lược và bè lũ bán nước, lực lượng cách mạng không tránh khỏi bị tổn thất,
có nơi tổn thất nghiêm trọng, tình hình có lúc rất đen tối. Song nhìn chung toàn
miền: “lực lượng lãnh đạo và cơ sở quần chúng vẫn còn. Đội ngũ tuy ít nhưng
đều là những đảng viên, cán bộ, quần chúng trung kiên, vững vàng, quyết tâm
tiêu diệt địch”[16], tất cả họ đều là "gạo cội", đã trải qua thử thách, đứng vững
được tại xã, ấp; là những cán bộ tuyên truyền và tổ chức đấu tranh giỏi, được
nhân dân tin cậy.
Run sợ trước làn sóng quật khởi của nhân dân, tháng 3-1959 Diệm tuyên bố
đặt miền Nam trong tình trạng chiến tranh, tháng 5- 1959 ra đạo luật 10/59 đưa
máy chém đi khắp miền Nam, giết hại những người yêu nước không cần xét
xử.., Không khí khủng bố, giết chóc đè nặng lên thôn ấp. Cách mạng lâm vào
tình thế rất khó khăn. Nhưng nhân dân ta miền Nam với tinh thần yêu nước rất
cao, lòng căm thù quân cướp nước và bọn bán nước rất sâu sắc, bao đau thương
dồn nén bấy lâu, quyết không thể chịu đựng mãi ách thống trị của Mỹ - Diệm.
Chính trong lúc khó khăn đó, tình thế cách mạng cho các cuộc khởi nghĩa đã
chín muồi. "Quần chúng không có con đường nào khác hơn là phải vùng lên một
sống một chết với Mỹ - Diệm”[17].
159
Trong không khí sục sôi căm thù và đứng trước xu thế vùng dậy của quần
chúng, tháng 1- 1959 Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ
15, xác định Đường lối và phương pháp cách mạng miền Nam. Nghị quyết
Trung ương đề ra nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là “Giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong kiến, thực hiện độc lập dân
tộc và người cày có ruộng, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh”[18]. Để thực hiện nhiệm vụ đó, con đường phát
triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền Nam là khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân. Con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào
lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để
đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền cách
mạng của nhân dân. Hội nghị Trung ương dự đoán: "Đế quốc Mỹ là tên đế quốc
hiếu chiến nhất, cho nên trong những điều kiện nào đó, cuộc khởi nghĩa của
nhân dân miền Nam cũng có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang
trường kỳ. Trong tình hình đó, cuộc đấu tranh sẽ chuyển sang một cục diện mới:
chiến tranh trường kỳ giữa ta và địch và thắng lợi cuối cùng nhất định về
ta"[19]. Nghị quyết Trung ương chỉ rõ những công tác chính cần nắm vững và
nhấn mạnh: Đặc biệt coi trọng công tác tư tưởng, nâng cao không ngừng trình
độ tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên, bảo đảm sự đoàn kết nhất trí và
sự trong sạch của hàng ngũ Đảng. Phải giáo dục, rèn luyện cho mỗi đảng viên
trở thành một chiến sĩ kiên cường, bất khuất, luôn luôn nắm vững và biết chủ
động vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, luôn luôn anh dũng đấu tranh
chống kẻ thù và sẵn sàng hy sinh vì cách mạng, luôn luôn liên hệ mật thiết với
quần chúng, tin tưởng sắt đá vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
“Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng có ý
nghĩa lịch sử to lớn, mở đường cho cách mạng miền Nam tiến lên. .. Nghị quyết
đã đáp ứng nhu cắu bức thiết của cách mạng miền Nam lúc ấy, cứu lấy phong
trào cách mạng đang trong cơn nguy biến nhất, đáp ứng nguyện vọng tha thiết
và nóng bỏng của quần chúng vùng dậy phá tan xiềng xích nô lệ, từng bước
giành quyền làm chủ... Nghị quyết này chứng tỏ quan điểm độc lập, tự chủ, sáng
160
tạo của Đảng ta trong việc vận dụng học thuyết Mác - Lênin và kinh nghiệm các
nước anh em, kinh nghiệm Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp
vào điều kiện cụ thể đất nước ta sau Hiệp định Giơnevơ”[20].
Cuối năm 1959 Xứ ủy Nam Bộ và Liên khu ủyV họp hội ghị quán triệt và
thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 ủa Trung ương Đảng. Trước khi có
Nghị quyết của Xứ ủy và Liên khu ủy, tinh thần nghị quyết 15 của Trung ương
Đảng đã toả về các địa phương bằng nhiều con đường. Nghị quyết về tới cơ sở,
đi vào quần chúng đúng lúc quần chúng đang ở vào tình thế muốn sống phải
vùng dậy và đang khát khao mong đợi đường lối của Đảng. Cán bộ và quần
chúng ở cơ sở hiểu nghị quyết với tinh thần "Đảng cho đánh rồi" và họ đã sáng
tạo ra nhiều cách đánh bằng những phưng tiện có trong tay. Nghị quyết của
Đảng phù hợp với ý chí quật cường và lòng mong đợi của nhân dân đã thổi bùng
lên ngọn lửa “Đồng khởi” “nổi dậy và tiến công địch khắp miền Nam trong
những tháng cuối năm 959 và cả năm 1960.
Để góp phần thúc đẩy "Đồng khởi” lên thành cao trào, ngày 22-4- 1960
Thường vụ Xứ ủy Nam Bộ ra Chỉ thị số 18-TVA về tích cực đẩy mạnh công tác
tuyên truyền động viên quần chúng. Bản Chỉ thị nhận định, do toàn đảng bộ
chấp hành có kết quả chủ trương "đẩy mạnh đấu tranh chính trị kết hợp đúng
mức với hoạt động vũ trang", tình hình chung ở Nam Bộ bắt đầu có những
chuyển biến rất thuận lợi: Phong trào đấu tranh chính trị của nhân dân, nhất là ở
nông thôn, phát triển mạnh mẽ, uy thế của ta lên cao nhanh chóng. Quần chúng
phấn khởi, tin tưởng trước tình hình mới. Trước kia, do chính sách kìm kẹp,
khủng bố đẫm máu liên miên của địch và do sự đối phó của ta không kịp thời và
chưa tương xứng, một bộ phận quần chúng có hoang mang, dao động, sợ địch,
thấy tương lai mờ mịt. Hiện nay, dư luận quần chúng rộng rãi hoan nghênh, ủng
hộ các hoạt động vũ trang tự vệ của ta; công khai bàn bạc sôi nổi về sự suy yếu,
tan rã của chính quyền Mỹ - Diệm ở cơ sở nông thôn. Tuy nhiên cũng có những
nhận thức lệch lạc, biểu hiện chủ yếu là chủ quan, mất cảnh giác, cho là địch
không còn khả năng phản ứng; ỷ lại vào hoạt động của lực lượng vũ trang,
không nhân cơ hội thuận lợi đẩy mạnh đấu tranh chính trị dũng cảm và rộng rãi
161
hơn nữa; cũng có một số lệch lạc khác như: rụt dè, không đẩy mạnh đấu tranh,
sợ địch khủng bố trả thù mạnh hơn.
Về công tác tuyên truyền, kết hợp với lực lượng chính trị, các lực lượng vũ
trang tiến hành công tác tuyên truyền rất có hiệu quả, đưa khí thế của phong trào
quần chúng lên cao, hạ thấp uy thế của địch. Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập
Đảng, đảng bộ đã tiến hành một đợt tuyên truyền về Đảng với quy mô chưa từng
thấy trong 6 năm qua, đề cao khí thế của phong trào quần chúng và phổ biến
đường lối, chính sách của Đảng được rộng rãi hơn. Các cấp ủy đảng đã động
viên đông đảo quần chúng tham gia công tác tuyên truyền. Cả ở nông thôn và
thành thị quần chúng báo cho nhau biết thắng lợi của phong trào, gây không khí
bàn bạc rộng rãi, sôi nổi, mạnh mẽ chưa từng thấy trong mấy năm nay. Bấy lâu
nay quần chúng như bị bịt miệng, bịt tai, nay công khai tố cáo tội ác Mỹ - Diệm,
tạo thành một không khí chính trị mới. Phương tiện tuyên truyền được tăng
cường. Các cấp ủy đảng đã áp dụng một cách sáng tạo nhiều hình thức tuyên
truyền thích hợp với tình hình mới. Báo chí, bản tin của các tỉnh ra đều đặn, nội
dung tốt, hình thức đẹp, có nhiều sáng tác văn nghệ thành công. Mặt yếu là so
với sự phát triển mau lẹ của tình hình, công tác tuyên truyền chưa theo kịp.
Nhiều vấn đề nảy ra trong nhận thức của quần chúng ta chưa kịp thời phát huy
mặt tích cực, uốn nắn những lệch lạc.
Sau khi nhấn mạnh công tác tư tưởng, trước hết phải góp phần làm quán
triệt hơn nữa phương hướng và phương châm đấu tranh mà Nghị quyết 15 của
Trung ương và Nghị quyết tháng 11- l959 của Xứ ủy đã đề ra, bản Chỉ thị nêu
một số biện pháp cụ thể: đẩy mạnh công tác tuyên truyền miệng, đây là hình
thức chủ yếu; tăng cường báo chí, tập san, bản tin; phát triển các hoạt động văn
hóa, văn nghệ, các đội văn công nhỏ đi lưu động; tận dụng các khả năng tuyên
truyền công khai; cổ động đông đảo quần chúng nghe đài của ta. Thành lập ban
tuyên truyền cổ động ở các cấp xứ, thành, khu, tỉnh. Ban tuyên truyền cổ động là
ban chuyên môn của cấp ủy, nằm trong Ban Tuyên huấn. Tùy theo điều kiện có
thể thành lập ban tuyên truyền cổ động ở thị xã. Ban tuyên truyền cổ động
162
chuyên phụ trách công tác tuyên truyền trong quần chúng, công tác tuyên truyền
của các ngành, các đoàn thể và lực lượng vũ trang.
Ở khu V, Nghị quyết tháng 6- 1960 của Khu ủy, phần công tác tư tưởng,
nêu rõ nhiệm vụ thường xuyên của công tác tư tưởng là quán triệt phương
hướng, nhiệm vụ, phương châm đấu tranh ở mỗi vùng chiến lược; xây dựng tư
tưởng tiến công, tiến công liên tục, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
thực hiện kỳ được ba bám, bốn cùng, năm bước công tác, năm khâu phát động,
chống tư tưởng hữu khuynh, rụt dè, sợ địch.
Từ năm 1959, sự chi viện về nhiều mặt của miền Bắc đối với cách mạng
miền Nam ngày càng lớn mạnh. Về công tác tư tưởng, thông tin về tình hình
miền Nam được tăng cường trên tất cả các phương tiện truyền thông ở miền
Bắc. Tuy vậy do điều kiện khó khăn của miền Nam, nguồn tin còn hạn chế và
chậm, cần được chi viện về cán bộ và phương tiện liên lạc. Cuối năm 1959, đoàn
cán bộ Việt Nam Thông tấn xã tăng cường cho Liên khu V để chuẩn bị xây
dựng Thông tấn xã Giải phóng có mặt đúng lúc nổ ra cuộc nổi dậy của nhân dân
huyện Trà Bồng. Tin về cuộc nổi dậy ở Trà Bồng được coi là tin đầu tiên của
Thông tấn xã Giải phóng trước khi nó chính thức ra đời năm 1960. Lực lượng
phóng viên được đào tạo tại chỗ cùng với lực lượng được chi viện từ miền Bắc,
mạng lưới điện đài được tăng cường đã từng bước làm phong phú và kịp thời
hơn lượng tin tức từ miền Nam cung cấp cho Tổng xã và các cơ quan thông tin
báo chí ở Trung ương, phản ánh cao trào Đồng khởi. Công tác tuyên truyền đối
ngoại, trong đó các phương tiện truyền thông là lực lượng quan trọng đã góp
phần thông tin về cuộc đấu tranh của nhân dân ta nói chung và của nhân dân
miền Nam Việt Nam nói riêng, tố cáo tội ác của Mỹ - Diệm, tranh thủ sự đồng
tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh chính nghĩa
của nhân dân ta. Từ năm 1959 nhiều quốc gia và tổ chức trên thế giới đã lên án
chính sách phát xít của Ngô Đình Diệm và lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh của
nhân dân ta ở miền Nam. Ngày 20-7- 1959, trong lúc phong trào Đồng khởi
đang diễn ra ở miền Nam, thì Ngày Việt Nam được tổ chức ở 20 nước trên thế
giới đòi Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, đòi Diệm chấm dứt khủng bố, tàn sát
163
và huỷ bỏ luật lệ phát xít. Trong lúc trên thế giới không ít người có tâm lý sợ
Mỹ, thì sự kiện này cho thấy ảnh hưởng ngày càng tăng của cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân ta đối với dư luận quốc tế và đánh dấu bước tiến mới
của công tác tuyên truyền đối ngoại của ta
Thực hiện Chỉ thị 18 - TVA, ngày 22-4- 1960 của Xứ ủy Nam Bộ, Ban
Tuyên huấn Xứ ủy tổ chức một bộ phận cán bộ chính trị và cán bộ kỹ thuật tích
cực chuẩn bị các điều kiện cho việc thành lập một cơ quan thông tin chính thức
của các mạng miền Nam. Bằng những phương tiện cũ kỹ đã cất giữ từ trước và
một số máy móc thu được của địch, các cán bộ kỹ thuật đã phát huy tinh thần
sáng tạo, phục vụ kịp thời cho sự ra đời của Thông tấn xã Giải phóng (gọi tắt là
Giải phóng xã), từ buổi phát tin đầu tiên vào 19 giờ ngày 12-10- 1960 thông báo
với nhân dân trong nước và trên thế giới về cuộc Đồng khởi của nhân dân miền
Nam chống Mỹ - Diệm, góp phần động viên, cổ vũ cuộc đấu tranh chính nghĩa
của đồng bào ta, vạch mặt bọn xâm lược và bè lũ bán nước [21]
Tính đến cuối năm 1960, cao trào Đồng khởi của quân dân miền Nm đã căn
bản làm tan rã cơ cấu chính quyền cơ sở của địch ở nông thôn. Nhân dân đã
giành quyền làm chủ, lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã/2.627 xã toàn miền
Nam, đồng thời làm tê liệt chính quyền Mỹ - Diệm ở hầu hết các xã khác. Phong
trào Đồng khởi ở nông thôn thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh ở đô thị.
Trong năm 1960 ở miền Nam có 10 triệu lượt người tham gia đấu tranh chính
trị, tiêu biểu nhất là phong trào đấu tranh nhân ngày 20-7-1960 nổ ra trên khắp
miền Nam với nhiều hình thức bãi công, bãi thị ở thành phố, mít tinh, biểu tình
ở nông thôn, từ nông thôn kéo vào thành thị, chống chính sách khủng bố của Mỹ
- ngụy, chống chính sách xâm lược và gây chiến của đế quốc Mỹ, động viên
nhân dân vùng lên lật đổ Diệm.
Phong trào Đồng khởi đánh dấu bước chuyển mới của cách mạng miền
Nam. Đáp ứng yêu cầu phát triển của cách mạng và nguyện vọng của nhân dân,
quán triệt và thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc chống Mỹ và tay sai,
ngày 20- 12- 1960 Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời đúng
lúc cách mạng miền Nam bước sang một giai đoạn mới. Cũng từ đây, Giải
164
phóng xã được coi là cơ quan phát ngôn chính thức của Mặt trận dân tộc giải
phóng miền Nam Việt Nam, tiếp đó là sự ra đời của Đài phát thanh Giải phóng,
góp phần tăng cường lực lượng hiến đấu trên mặt trận tư tưởng vì mục tiêu giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
3. Đại hội III của đảng và nhiệm vụ công tác tư tưởng trong hước phát
triển mới của cách mạng
Sau thắng lợi của công cuộc củng cố miền Bắc và thắng lợi của cao trào
Đồng khởi ở miền Nam cách mạng nước ta đứng trước một tình thế đầy triển
vọng. Miền Bắc được củng cố một bước quan trọng trở thành hậu phương ổn
định, có nhiều khả năng đáp ứng yêu cầu của cách mạng miền Nam. Với thắng
lợi của cao trào Đồng khởi, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến công địch.
Trong các năm 1954 - 1960, Trung ương Đảng vừa tập trung lãnh đạo thực
hiện các nhiệm vụ trước mắt do bước chuyển mới của cách mạng đặt ra, vừa tiến
hành nghiên cứu, hoạch định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
và đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chuẩn bị tiến tới
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại thủ đô Hà Nội từ
ngày 5 đến ngày 10-9- 1960. Đại hội đã thảo luận và nhất trí thông qua Nghị
quyết về nhiệm vụ và đường lối của Đảng trong giai đoạn mới, vạch rõ nhiệm
vụ chung của toàn dân ta trong giai đoạn trước mắt là: “Tăng cường đoàn kết
toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hòa bình, đẩy mạnh cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập dân chủ xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập dân chủ và giàu mạnh,
thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hòa bình ở Đông
- Nam Á và thế giới” [22]
Đại hội khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: Giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong k;ến, thực hiện độc
lập lân tộc và người cày có ruộng, góp phần xây dựng một nước Việt Nam hòa
165
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng miền Nam là: “Đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc
Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm,
tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở
miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời
sống nhân dân, giữ vững hòa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bao vệ hòa bình ở Đông - Nam Á và thế
giới"[23].
Nghị quyết xác định đường lối chung của miền Bắc trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là: "Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn.
truyền thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời
tăng cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng
đầu, để đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vũng chắc lên chủ nghĩa xã
hội, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cô miền Bắc
thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất nước
nhà, góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hòa bình ở Đông - Nam
Á và thế giới.
Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền dân chủ nhân dân làm
nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công hương nghiệp
tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hóa và kỹ thuật;
biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có công nghiệp hiện đại, nông
nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học tiên tiến”[24]
Nghị quyết Đại hội đề ra nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất (1961 - 1965), thực hiện một bước công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa, xây dựng bước đầu cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
166
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đi đôi với cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa về kinh tế, phải đẩy mạnh cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật. Mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa về tư tưởng là làm cho tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu
thế tuyệt đối trong đời sống tinh thần của nước ta và trở thành hệ tư tưởng của
toàn dân, trên cơ sở đó mà xây dựng đạo đức mới của nhân dân ta.
Để đạt đượC mục tiêu đó, phải đẩy mạnh công tác giáo dục và đấu tranh tư
tưởng nhằm phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, nâng cao không
ngừng trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước, ý chí thống nhất
Tổ quốc và ý thưc làm chủ của nhân dân ta, chống lại mọi biểu hiện của tư
tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, tiếp tục xóa bỏ mọi tàn tích của tư
tưởng phong kiến và mọi tư tưởng sai lầm khác. . .
Giữ vững và không ngừng tăng cường tính chất giai cấp và tính chất tiên
phong của Đảng. . . Phát huy truyền thống đoàn kết nhất trí của Đảng. Góp
phần tăng cường sự đoàn kết nhất trí giữa các đảng cộng sản và đảng công
nhân, tích cực đấu tranh bảo vệ sụ trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, kiên
quyết chống chủ nghĩa xét lại và chủ nghĩa giáo điều.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới. Đồng chí Lê Duẩn được
bầu làm Tổng Bí thư.
Nghị quyết của Đại hội III là nguồn ánh sáng soi đường cho công cuộc đấu
tranh cách mạng của nhân dân cả nước ta trong thời kỳ mới, là phương hướng cơ
bản của công tác tư tưởng trong bước phát triển mới của cách mạng. Ngay sau
Đại hội, Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy chỉ đạo tiến hành đợt tuyên
truyền cổ động lớn trong các tháng 9, 10- 1960 nhằm giới thiệu khái quát và
rộng rãi ý nghĩa và nội dung Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III
của Đảng; làm cho mọi người hiểu rõ mục tiêu phấn đấu lâu dài và những mục
tiêu, nhiệm vụ cụ thể trước mắt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; cổ vũ
phong trào hành động cách mạng của quần chúng, hoàn thành kế hoạch năm
1960 và ba năm 1958 - 1960.
167
Tiếp đó, một đợt nghiên cứu sâu trong toàn Đảng những nội dung cơ bản
của Nghị quyết Đại hội đã được tổ chức trong những tháng cuối năm 1960 kết
hợp với xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết. Những nội dung cơ
bản của Nghị quyết được soạn thành những chuyên đề đưa vào chương trình
giảng dạy chính trị trong hệ thống trường đảng, trường của Nhà nước, của các
đoàn thể và hệ thống giáo dục quốc dân.
168
II- ĐỘNG VIÊN PHONG TRÀO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC, ĐÁNH THẮNG CHIẾN LƯỢC
"CHIẾN TRANH ĐẶC BIỆT" CỦA MỸ Ở MIỀN NAM
(1961 - 1965)
1. Động viên phong trào quần chúng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc
Triển khai Nghị quyết Đại hội III của Đảng, nhân dân miền Bắc bắt tay vào
thực hiện kế hoạch năm 1961, năm đầu của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -
1965) trong tình hình bộ mặt xã hội và chính trị miền Bắc đã có những thay đổi
đáng mừng. Tuy nhiên quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa vừa mới xác lập, chưa
được củng cố, trình độ kỹ thuật còn lạc hậu; nền kinh tế vẫn chỉ là nông nghiệp,
sản xuất nhỏ, thủ công, năng suất thấp và bấp bênh; công nghiệp hiện đại, nhất
là công nghiệp nặng còn rất nhỏ bé; đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và công
nhân lành nghề rất ít và không đồng bộ; trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa của
cán bộ và nhân dân còn nhiều hạn chế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị: Đường lối chủ trương có rồi, phải có biện
pháp thực hiện cho tốt, kế hoạch 10 phần thì biện phap cụ thể phải 20 phần, chỉ
đạo thực hiện sát sao phải 30 mươi phần[25] và “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội; trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”[26]. Thực hiện tư
tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 2-1961 Bộ Chính trị quyết định
mở cuộc vận động chỉnh huấn mùa xuân năm 1961 Mục đích, yêu cầu của chỉnh
huấn lần này là làm ho toàn đảng, toàn dân quán triệt tinh thần cơ bản của Nghị
quyết Đại hội III của Đảng, xây dựng và bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và
quần chúng những tư tưởng phù hợp với chế độ chính rị và quan hệ sản xuất
mới, với quy luật phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa, khắc phục những
tư tưởng trở ngại, phát huy mọi nhân tố tích cực, thực hiện thắng lợi nghị quyết
của Đảng.
Những tư tưởng, tác phong mới cần xây dựng là: Ý thức làm chủ nhà nước
và tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa; quan điểm "tất cả phục vụ sản
xuất”, ý thức cần kiệm xây dựng nước nhà; tinh thần tiến nhanh, tiến mạnh, tiến
169
vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng, tác phong xấu cần chống lại là:
chủ nghĩa cá nhân; quan liêu mệnh lệnh; tham ô lãng phí; bảo thủ rụt dè.
Tháng 3- 196 l, đến dự và phát biểu tại Hội nghị cán bộ lãnh đạo các ngành,
các địa phương về kế hoạch tiến hành cuộc vận động chỉnh huấn, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ thị: “Đợt chỉnh huấn này là một cuộc vận động lớn về tư tưởng
trong Đảng và trong nhân dân lao động, nhằm xây dựng những con người của
chủ nghĩa xã hội, có tư tưởng và tác phong xã hội chủ nghĩa”[27]. Nó "có ý
nghĩa rất to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của chúng ta ngày nay", các cấp ủy
đảng và cán bộ, đảng viên phải "đem hết tinh thần phụ trách trước Đảng, trước
nhân dân mà tiến hành cho thật tốt. Cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành cần phải
làm gương mẫu".
Xây dựng tư tưởng gắn với tổ chức hành động. Ban Tuyên giáo các cấp
phối hợp với các ngành, các đoàn thể tiến hành công tác tuyên truyền vận động
đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch
5 năm lần thứ nhất. Đoàn thanh niên phát động phong trào xung phong tình
nguyện vượt mức kế hoạch 5 năm, chỉ sau một thời gian ngắn đã có hàng triệu
thanh niên đăng ký tham gia, hàng ngàn đội xung kích được thành lập. Những
điển hình xuất sắc xuất hiện trong phong trào quần chúng trên những lĩnh vực
chủ yếu được các ngành, các đoàn thể tổng kết, trở thành ngọn cờ cổ vũ phong
trào thi đua. Trong công nhân và nhiều ngành khác có phong trào thi đua với tổ
đá nhỏ ca A (Nhà máy Xi măng Hải Phòng) phấn đấu trở thành 'Tổ lao động xã
hội chủ nghĩa ". Trong nông nghiệp, là phong trào “học tập đuổi kịp và vượt
Hợp tác xã Đại Phong” (Quảng Bình). Trong công nghiệp là phong trào “học tập
và thi đua với Duyên Hải (Nhà máy Cơ khí Duyên Hải ở Hải Phòng). Các hợp
tác xã tiểu, thủ công nghiệp có phong trào thi đua với Hợp tác xã Thành Công
(Thanh Hóa). Ngành giáo dục có phong trào “Hai tốt” (Dạy tốt, học tốt), “học
tập trường Bắc Lý, thi đua với Bắc Lý”, (tỉnh Hà Nam). Trong quân đội, có
phong trào thi đua “Ba nhất” (đạt thành tích nhiều nhất, đều nhất, giỏi nhất)
nhằm đẩy mạnh việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng quân đội chính qui, hiện đại
để bảo vệ miền Bắc, chi viện miền Nam. Trong phong trào thi đua của các
170
ngành, các giới, xuất hiện ngày càng nhiều "người tốt, việc tốt", đơn vị tiên tiến.
Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III (tháng 5- 1962) đã
biểu dương những điển hình đó Các hoạt động tuyên truyền cổ động, thông tin
đại chúng, văn hóa văn nghệ, bằng nhiều hình thức phong phú, sinh động, đã
biểu dương và cổ vũ mạnh mẽ các điển hình cá nhân và đơn vị tiên tiến, nhân
rộng phong trào "người người thi đua, nhà nhà thi đua, ngành ngành thi đua, ta
nhất định thắng, địch nhất định thua”, theo huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Để góp phần hoàn thành tốt kế hoạch 5 năm 196 l - 1965, cần tạo chuyển
biến mạnh về công tác tư tưởng. Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị Tuyên
huấn toàn miền Bắc tháng 4/1962, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn nhắc nhở cần
tổng kết và phát huy những kinh nghiệm tốt trong công tác tư tưởng. Đồng chí
nói: Trong Đảng ta không có ngành nào già bằng ngành tuyên huấn, vì từ khi có
Đảng đã có nó rồi. . . Tuyên huấn là ngành già nhất, nên có nhiều kinh nghiệm
nhất so với các ngành công tác khác của Đảng. Nhưng vì chúng ta chưa tổng kết
được đầy đủ nên có cái trước làm đúng và làm hay bây giờ lại bỏ đi mất. Tôi
nhớ năm 1953 ở Việt Bắc, các đồng chí ở xã lên cho biết nhiều gương làm công
tác tuyên huấn rất giỏi. Ví dụ, có những xã cơ sở mất sạch, thế mà cán bộ về
phát động lại tư tưởng, kết quả là nhân dân đã đứng dậy bao vây trở lại địch và
đánh địch bật ra khỏi xã. . . Bây giờ trình độ văn hoá của cán bộ khá hơn,
phương tiện nhiều hơn, đáng lẽ các xã phải làm việc này giỏi hơn, nhưng ngày
nay có xã làm giỏi mà cũng có xã làm dở hơn trước nhiều. Vì sao vậy? Vì khi
mình nắm chính quyền trong tay rồi , thì công tác vận động cách mạng, công tác
tư tưởng tuy có nhiều phương tiện hơn, nhưng bên cạnh những mặt cố gắng và
tích cực cũng có nhecng mặt tiêu cực. Do có chính quyền, do có nhiều phương
tiện hơn mà ý thức cách mạng, ý thức đi vào quần chúng, nắm lấy quần chúng
có thể yếu đi và nhường chỗ cho tác phong mệnh lệnh, quan liêu làn mất tính
tích cực cách mạng của công tác tuyên truyền giáo dục của Đảng. . . Nói chung
công tác tuyên huấn của ta có tiến bộ. . . Đáng lẽ nó phải tốt hơn, đáng lẽ những
kinh nghiệm quý báu phải được nâng lên chứ đừng làm mất đi. . . Truyền thống
của công tác tuyên huấn phải được truyền từ lớp người này sang lớp người khác
171
và phong phú mãi lên, làm mất đi là một thiệt thòi lớn cho công tác tuyên huấn
và là thiệt thòi chung của toàn Đảng, toàn dân. . .
Trong 5 năm 196 l - 1965, báo chí phát triển nhanh. Hệ thống báo Đảng từ
Trung ương đến tỉnh, thành đã cùng với các đồng nghiệp khác góp phần tích cực
phổ biến đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước và tuyên truyền, tổ chức
phong trào quần chúng xây dựng miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà.
Đến thăm và nói chuyện tại Đại hội lần thứ III các nhà báo Việt Vam (ngày
8-9- 1962) Chủ tịch Hồ Chí Minh khen ngợi "cán bộ báo chí, thông tin và đài
phát thanh đã có cố gắng nhiều và tiến bộ khá”[28]. Bác nhận xét, số báo chí
cũng đã tăng nhiều, từ nay cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng. Sau khi nêu rõ
nhiệm vụ của báo chí, Bác nói về phê bình và tự phê bình trên báo: "Phê bình
phải nghiêm chỉnh, chắc chắn, phụ trách, nói có sách mách có chứng. Phải phê
bình với tinh thần thành khẩn xây dựng, "trị bệnh cứu người". Chớ phê bình
lung tung không chịu trách nhiệm. Những người (bất lý ở địa vị nào) và những
cơ quan được phê bình phải có thái độ thật thà, khiêm ốn. Phê bình đúng, thì
phải đăng báo nhận khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa. Nêu phê hình sai thì
đăn báo giải thích. Quyết không được "phớt" lời phê bình và "trù" người phê
bình[29]
Bác nói kinh nghiệm làm bảo của Bác là, mỗi khi viết một bài báo, thì tự
đặt câu hỏi: Viết cho ai xem ? viết để làm gì ? viết thế nào cho phổ thông, dễ
hiểu, ngàn gọn và dễ đọc ? Khi viết xong thì nhờ anh em xem và sửa giùm.
Người căn dặn: “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy
là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo
chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, cố gắng trau dồi tư tưởng, nghiệp vụ
và văn hóa; chú trọng học tập chính trị để nắm vững chủ trương, chính sách của
Đảng và Chính phủ; đi sâu vào thực tế, đi sâu vào quần chúng lao động"[30]
Cùng với sự phát triển của báo chí, thực hiện Chỉ thị số 172- CT/TƯ ngày
23-11- 1959 của Ban Bí thư, công tác xuất bản cũng có những chuyển biến mới:
số lượng xuất bản phẩm tăng nhanh, một số loại chất lượng tốt, các mặt công tác
phát hành, in và trình bày xuất bản phẩm có tiến bộ. Nhưng so với yêu cầu, chất
172
lượng nhiều xuất bản phẩm còn thấp, thiếu sức thuyết phục và hấp dẫn, một số
sách có những điểm viết sai chính sách hoặc để lộ bí mật. Sách cho thiếu nhi,
cho đồng bào các dân tộc miền núi, sách ngoại văn còn ít. Về mặt tổ chức, các
nhà xuất bản chưa được tăng cường đúng mức, cán bộ lãnh đạo và cán bộ
chuyên môn vừa thiếu vừa yếu, nhiều cơ quan chủ quản “khoán trắng" cho cán
bộ phụ trách nhà xuất bản. Để khắc phục tình trạng đó, Ban Bí thư ủy nhiệm cho
Ban Tuyên giáo Trung ương bàn bạc với các cơ quan chủ quản việc chỉnh đốn tổ
chức và công tác của các nhà xuất bản, thông qua danh sách các ban biên tập và
hội đồng xuất bản, hướng dẫn các nhà xuất bản về đường lối và phương hướng
xuất bản, tổ chức việc kiểm tra về nội dung chính trị và tư tưởng của các xuất
bản phẩm. Bộ Văn hóa có trách nhiệm duyệt kế hoạch xuất bản hàng năm của
các nhà xuất bản, không để xuất bản trùng lắp; ngăn chặn việc vi phạm những
quy định, thể lệ, chế độ về xuất bản đã được ban hành.
Về văn nghệ, Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ III họp tháng 11- 1962 đã
kiểm điểm việc thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra tại Đại hội II và bàn định các
chủ trương, biện pháp công tác trong nhiệm kỳ mới. Chuẩn bị cho Đại hội, các
văn nghệ sỹ đã có cuộc sinh hoạt tư tưởng - lý luận, quán triệt các định hướng
phát triển văn nghệ đã đề ra trong Nghị quyết Đại hội III của Đảng. Trong thư
gửi Đại hội ngày 26- 11-1962, Trung ương Đảng nhận định, trong các năm
1958-1962, phong trào văn nghệ đã có những tiến bộ và thành tựu mới phục vụ
cách mạng xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà. Khá nhiều tác
phẩm văn nghệ mới của ta đã có tính hiện thực và tính nhân dân, chứa chan lòng
yêu nước và tinh thần lạc quan cách mạng. Những hình thức nghệ thuật phát
triển nhanh chóng, đượm màu sắc dân tộc. Các cơ quan và đoàn thể văn học,
nghệ thuật đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo những tài năng mới, pbát huy sáng
tạo nghệ thuật lành mạnh và tươi trẻ của nhân dân lao động, tạo nên một phong
trào quần chúng rộng rãi, hào hứng tham gia hoạt động văn nghệ. Nền văn nghệ
đẹp đẽ của các dân tộc thiểu số đã được khơi nguồn và khuyến khích phát triển.
Công tác lý luận và phê bình đã có nhiều cố gắng mới, giữ vững và làm sáng tỏ
đường lối văn nghệ của Đảng. Tuy vậy so với yêu cầu của cách mạng thì văn
173
nghệ ta còn chậm trễ khá nhiều. Những tác phẩm miêu tả các mặt của cải tạo xã
hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội còn mờ nhạt, nông cạn. Những tác
phẩm về đề tài đấu tranh thống nhất nước nhà tuy có nhạy cảm hơn, nhiệt tình
hơn, nhưng cũng chưa thật sâu sắc. Nhiều tác phẩm văn nghệ chưa có tính đảng
rõ rệt. Về nghệ thuật, ngoài bệnh sơ lược khá phổ biến, còn những biểu hiện của
chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa tự nhiên, gần đây lại nảy ra bệnh "lai căng" trong
một số ngành nghệ thuật. Công tác lý luận và phê bình chưa giải đáp được thoả
đáng những vấn đề lớn của văn học, nghệ thuật đang đặt ra. Nhiều anh chị em
văn nghệ chưa thật chịu khó đi sâu vào cơ sở sản xuất, chưa thật hòa mình vào
quần chúng công nông binh, chưa thật chịu khó học tập chính trị để nắm vững
thế giới quan vô sản, để vận dụng được chủ nghĩa Mác- Lênin mà phân tích
những hiện tượng phức tạp và nhận thức một cách sâu sắc những vấn đề lớn
đang đặt ra trong xã hội và để cảm thông nhạy bén với những cái mới đang nảy
sinh trong đời sống hàng ngày.
Để thực hiện nhiệm vụ phát triển văn nghệ đã đề ra trong Nghị quyết Đại
hội III của Đảng, góp phần xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, Trung
ương Đảng đề nghị: Văn nghệ ta cần phải biểu dương và ca ngợi những tập thể
và con người lao động xuất sắc trong phong trào quần chúng thi đua xây dựng
chủ nghĩa xã hội ghi lại những hình ảnh tươi sáng của họ, những người anh hùng
mới của dân tộc, của thời đại chúng ta. Văn nghệ còn phải là “một vũ khí sắc
bén, giúp cho chế độ ta, nhân dân ta đánh bại những tư tưởng thù địch, đẩy lùi
những tư tưởng ích kỷ, lười biếng, ươn hèn, những thói tục xấu xa, giúp cho cái
mới luôn luôn nảy nở và con người mới phát triển không ngừng" . "Anh chị em
văn nghệ ở miền Bắc hãy sáng tạo nhiều hơn nữa nhưng tác phẩm miêu tả sâu
sắc ý chí sắt đá của toàn dân ta đang đấu tranh thực hiện hòa bình thống nhất
nước nhà, ca ngợi hùng hồn hơn nữa tinh thần anh dũng tuyệt vời của đồng bào
ta ở miền Nam, lên án mạnh mẽ hơn nữa tội ác của bọn cướp nước và bè lũ bán
nước"[31]
Nói chuyện tại Đại hội ngày 1-12-1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ những
mong đợi của quần chúng đối với văn nghệ sĩ: “Quần chúng đang chờ đợi những
174
tác phẩm văn nghệ xứng đáng với thời đại vẻ vang của chúng ta, những tác
phẩm ca tụng chân thật những người mới, việc mới chẳng những để làm gương
mẫu cho chúng ta ngày nay, mà còn để giáo dục cho con cháu ta đời sau”[32].
Đối với những thói xấu còn sót lại của chế độ cũ, "văn nghệ cũng cần phải phê
bình rất nghiêm khắc, nhằm làm cho xã hội ta ngày càng lành mạnh tốt đẹp
hơn"[33]. Người căn dặn anh chị em văn nghệ sĩ "rèn luyện đạo đức cách mạng
nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa
mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị trau dồi nghề nghiệp; phải hết
lòng giúp đỡ thanh niên, làm cho văn nghệ nước nhà ngày càng thêm trẻ, “thêm
xuân"[34]
Những năm 196 1- 1964, đồng thời với đẩy mạnh toàn diện các hoạt động
tư tưởng, khoa giáo, Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo cụ thể hơn hoạt động
tuyên giáo ở các vùng. Trong kháng chiến, miền núi là địa bàn quan trọng cả về
chính trị, kinh tế và quốc phòng. Đồng bào các dân tộc ở miền núi đã có những
đóng góp to lớn. Dưới chế độ mới; so với trước, đời sống vật chất và tinh thần
của đồng bào đã có những biến đổi, song còn nhiều khó khăn yếu kém. Tháng 8-
1963 Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị chuyên đề về công tác tuyên
giáo miền núi. Ngày 31-8- 1963 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự Hội nghị và
nói chuyện thân mật với các đại biểu. Người nêu rõ: Nhiệm vụ công tác tuyên
huấn có thể chia ra hai mặt: một mặt là làm sao mưu lợi ích cho đồng bào. Một
mặt nưa là làm sao tránh được tệ hại cho đồng bào. .. Muốn mang lại lợi ích cho
đồng bào các dân tộc, thì phải bày cách tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm
để nâng cao đời sống của đồng bào. Người căn dặn cán bộ, đảng viên, đoàn
viên, bộ đội, công an nhân dân vũ trang phải miệng nói tay làm, xung phong
gương mẫu, cán bộ đi làm việc chỗ nào phải học tiếng ở đấy. Cán bộ các ngành
trung ương phải có kế hoạch thiết thực giúp đớ đồng bào miền núi. Bộ đội, công
an, công nhân nông trường, lâm trường, công trường, xí nghiệp, cán bộ thương
nghiệp, y tế, giáo viên và tất cả cán bộ các ngành, mỗi người đều phải là người
tuyên truyền chính sách của Đảng, của Nhà núớc, tuyên truyền cách cải tiến đời
175
sống của đồng bào. Tuyên truyền không cần phải nói tràng giang đại hải. Mà nói
ngắn gọn, nói những vấn đề thiết thực, chắc chắn làm được”[35]
Huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa chỉ đạo đối với
việc xây dựng miền núi và công tác tuyên truyền ở miền núi, trong đồng bào các
dân tộc, mà còn có ý nghĩa chỉ đạo đối với công tác tuyên giáo nói chung. Thực
hiện thông tri của Ban Bí thư, các cấp, các ngành ở Trung ương và địa phương
đã tổ chức phổ biến, thảo luận, quán triệt và thực hiện có hiệu quả chỉ thị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công tác của ngành và địa phương mình.
Công tác tuyên truyền đối ngoại bước đầu được mở rộng, song còn yếu so
với yêu cầu. Tháng 5-1962 Ban Bí thư ra Chỉ thị số 45 - CT/TƯ về đẩy mạnh
công tác tuyên truyền đối ngoại, xác định rõ nội dung tuyên truyền là: giới thiệu
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc về mọi mặt, có so sánh với
chế độ cũ và chế độ Mỹ - Diệm ở miền Nam trong thời gian hiện tại; nêu cao
cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta để thực hiện thống nhất nước nhà,
phong trào đấu tranh của nhân dân ta ở miền Nam chống Mỹ - Diệm và lập
trường của Chính phủ ta về hòa bình thống nhất đất nước; giới thiệu kinh
nghiệm đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và chính sách đối ngoại của Nhà
nước ta; giới thiệu lịch sử đấu tranh, nền văn hóa lâu đời, đất nước giầu đẹp,
truyền thống yêu nước nồng nàn và cần cù lao động của nhân dân ta. Phương
châm tuyên truyền là: chân thật, chính xác, sinh động, kịp thời, hợp đối tượng,
phối hợp lực lượng trong nước và ngoài nước, vận dụng đúng đắn chiến lược và
sách lược của đường lối quốc tế của Đảng. Ban Tuyên giáo Trung ương là cơ
quan chủ trì giúp Trung ương Đảng tổ chức, phối hợp lực lượng giữa các cơ
quan có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền đối ngoại, các cơ quan đối
ngoại của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân cùng với các cơ quan thông tin
đại chúng có nhiệm vụ tuyên truyền về Việt Nam ra nước ngoài. Ngày 5-9- 1963
ủy ban liên lạc văn hóa với nước noài được thành lập; các đơn vị khác như Nhà
xuất bản Ngoại văn, Công ty Xuất nhập khẩu sách báo, các báo, tạp chí đối
ngoại: Tin Việt Nam, Nghiên cứu Việt Nam, Báo ảnh Việt Nam... đã từng bước
được tăng cường, góp phần mở rộng công tác tuyên truyền đối ngoại.
176
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng: Tiếp theo cuộc vận động chỉnh huấn
mùa Xuân năm 1961 bồi dưỡng "bốn quan điểm" cho cán bộ, đảng viên, các
năm 1961 - 1965 Ban Tuyên huấn các cấp tích cực thực hiện việc cải tiến, nâng
cao chất lượng giáo dục lý luận và chính trị trong toàn đảng và tham gia tiến
hành cuộc vận động xây dựng “chi bộ bốn tốt". Các hoạt động nói trên đã đẩy
mạnh một bước việc bồi dưỡng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng vô sản cho cán
bộ, đảng viên, nhất là những quan điểm lớn khi bước vào thời kỳ xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nâng cao một bước nhận thức cho cán bộ, đảng viên và các tổ chức
đảng về đặc điểm và tính chất của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, quan hệ của nó với sự nghiệp chống Mỹ ở miền Nam, tạo cơ sở cho việc
tiếp tục bồi dưỡng và dần dần nâng cao trình độ chính trị, khoa học kỹ thuật và
năng lực quản lý kinh tế cho cán bộ, đảng viên, từng bước khắc phục những yếu
kém, bất cập.
Phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 -
1965) đạt một số kết quả đáng mừng, bước đầu xây dựng được một số cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội củng cố một bước quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa, cải thiện đởi sống nhân dân. Tuy nhiên, nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế
hoạch đề ra không thực hiện được. Có tình hình đó là do những khuyết điểm,
nhược điểm về xác định mục tiêu, bước đi và trong tổ chức chỉ đạo những ngành
kinh tế chủ yếu. Về nhận thức, đó là tư tưởng "chủ quan duy ý chí muốn tiến
nhanh lên chủ nghĩa xã hội mà không tính đến điều kiện, khả năng, hoàn cảnh
của đất nước ta. .. Việc vận dụng mô hình, kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã
hội của các nước anh em thiếu chọn lọc”[36]
Trong lúc Đảng ta đang lãnh đạo triển khai công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ở miền
Nam thì trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế diễn ra cuộc đấu tranh
giữa đường lối của chủ nghĩa Mác - Lênin với chủ nghĩa xét lại hiện đại, chủ
nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xô - vanh nước lớn. Đặc biệt, cuộc đấu tranh diễn ra
trong các nước xã hội chủ nghĩa gây tác hại đến phong trào cách mạng thế giới-
làm tổn thương đến sự đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
177
và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, ảnh hưởng tiêu cực dến sự nghiệp cách
mạng của nước ta. Vì lợi ích của sự nghiệp cách mạng thế giới và sự nghiệp
cách mạng nước ta, Đảng ta đã có nhiều cuộc tiếp xúc với nhiều đảng anh em, ra
tuyên bố, đề xuất các kiến nghị khôi phục đoàn kết.
Tháng 12-1963, Hội nghị lần thứ chín của Trung ương Đảng đã phân tích
những đặc điểm của tình hình thế giới, nhiệm vụ của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, nêu rõ lập trường, quan điểm của Đảng ta trên một số vấn đề
có tính nguyên tắc về chiến lược và sách lược của phong trào, về chiến tranh và
hòa bình, về phong trào giải phóng dân tộc, về quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
chuyên chính vô sản, về nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu
là Mỹ, đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa xét lại hiện đại và chủ
nghĩa cơ hội dưới mọi mầu sắc, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin,
bảo vệ phong trào cộng sản quốc tế, bảo vệ Liên Xô, thành trì của cách mạng thế
giới, bảo vệ cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân
dân ta, đường lối đúng đắn và thái độ có lý, có tình, chân thực, đoàn kết, trong
sáng của Đảng ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc
và các nước xã hội chủ nghĩa, và giữ vững đường lối độc lập tự chủ của Đảng.
Đợt sinh hoạt chính trị trong nội bộ Đảng về Nghị quyết Trung ương chín
tạo được sự nhất trí cao đối với những nhận định của Trung ương về tình hình
thế giới và đường lối quốc tế của Đảng. Tuy vậy, cũng có một số rất ít cán bộ
dao động trước những khó khăn, phức tạp của phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế, hoài nghi đường lối của Đảng, truyền bá những quan điểm trái với
đường lối của Đảng, coi thường tổ chức, vi phạm kỷ luật. Đảng đã nghiêm khắc
phê phán những quan điểm và hành động sai trái của số cán bộ đó. Thực hiện
Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng về nhiệm vụ xây dựng quân đội và củng cố
quốc phòng và kế hoạch quân sự 5 năm 1961 - 1965, công tác tư tưởng đã góp
phần giáo dục quán triệt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cổ
vũ các phong trào tòng quân, luyện quân, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc,
chi viện miền Nam. Trước những hoạt động ngày càng tăng của Mỹ - nguỵ tung
gián điệp, biệt kích ra phá hoại miền Bắc và âm mưu mở rộng chiến tranh của
178
chúng, công tác giáo dục nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu được tăng
cường, nhiều toán gián điệp, biệt kích bị tiêu diệt, quân dân toàn miền Bắc quyết
đánh, thắng mọi hành động phiêu lưu quân sự mới của Mỹ - nguỵ
Ngày 27-3- 1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc
biệt, Hội nghị Diên Hồng trong thời đại mới, biểu thị quyết tâm cách mạng của
toàn thể dân tộc ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Bản báo cáo của Người
khẳng định nếu Mỹ liều lĩnh động đến miền Bắc thì nhất định chúng sẽ thất bại
thảm hại. Người chỉ rõ nhiệm vụ của miền Bắc với vị trí là căn cứ địa, hậu
phương của cách mạng cả nước, phải dành nhiều sức người, sức của tăng viện
cho cuộc chiến đấu của đồng bào miền Nam, đồng thời gấp rút tăng cường tiềm
lực quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu, và kêu gọi: “Mỗi người chúng ta phải làm
việc bằng hai để đền đáp lại cho đồng bào miền Nam ruột thịt”[37]
Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy đảng tổ chức cho các ngành, các
đoàn thể, các cơ quan thông tin tuyên truyền và lực lượng vũ trang tiến hành tốt
đợt sinh hoạt chính trị về báo cáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hội nghị
chính trị đặc biệt gắn với đẩy mạnh hành động. Qua đợt sinh hoạt đã dấy lên một
phong trào rộng lớn, "mỗi người làm việc bằng hai”, trên mọi mặt sản xuất, xây
dựng và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam.
Với tinh thần cảnh giác cao, chủ động chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, ngay
trận đầu ngày 5-8- 1964 quân dân miền Bắc đã giáng trả cho không lực Mỹ một
đòn đích đáng. Các hoạt động tư tưởng đã kịp thời nêu cao chiến thắng của quân
dân ta, nêu rõ chiến thắng ngày 5-8 chứng tỏ quân dân ta hoàn toàn có khả năng
đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ, và
nhân sự kiện này phát động một làn sóng chống Mỹ dâng cao trên toàn miền
Bắc. Từ đồng bằng đến miền núi, từ thành thị đến nông thôn, trên 5 triệu lượt
người đã tham gia hàng ngàn cuộc mít tinh, biểu tình lên án hành động dã man
của Mỹ, khẳng định ý chí của toàn quân, toàn dân ta quyết đánh bại âm mưu và
hành động mở rộng chiến tranh của Mỹ.
179
Các năm 1961 - 1965, chi viện về mọi mặt của miền Bắc cho miền Nam
ngày càng tăng. Về công tác tuyên giáo, hàng ngàn cán bộ tuyên truyền, huấn
học, văn hóa, văn nghệ, giáo dục, báo, đài..., được cử vào chiến trường, bổ sung
cho bộ phận tuyên huấn các cấp. Tiền tuyến lớn là hiện thực nóng bỏng, hấp
dẫn, lôi cuốn hoạt động báo chí, văn hóa, văn nghệ. Báo Nhân dân, Quân đội
nhân dân, Việt Nam Thông tấn xã, Đài Tiếng nói Việt Nam và nhiều báo khác
liên tục tăng cường cán bộ và phương tiện cho tiền tuyến lớn. Một bộ phận quan
trọng các văn nghệ sĩ, các nhà báo có mặt ở mặt trận miền Nam. Nhiều sinh viên
các khoa khoa học xã hội tình nguyện đi B đã trở thành các nhà báo, nhà văn
hoạt động xông xáo trên các chiến trường Vượt qua mọi khó khăn, đường liên
lạc trên làn sóng điện giữa Tổng xã với Thông tấn xã Giải phóng đã được khai
thông Mạng lưới Thông tấn xã ở miền Nam ngày càng phát triển.
2. Động viên nhân dân miền Nam đánh thắng chiến lược "chiến tranh
đặc biệt" của Mỹ
Phát huy thắng lợi của phong trào Đồng khởi, ngày 31-1-1961 Bộ Chính trị
ra Chỉ thị về phương hướng và nhiệm vụ công tác trước mắt của cách mạng
miền Nam.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội III, các nghị quyết của Trung ương và tình hình
cụ thể sau Đồng khởi, Chỉ thị của Bộ Chính trị xác định phương hướng đẩy
mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị, đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang song
song với đấu tranh chính trị, tiến công địch bằng cả hai mặt chính trị và quân sự.
Nắm vững phương châm công tác ba vùng để có hình thức đấu tranh thích hợp.
Công tác quan trọng và khẩn cấp bậc nhất là phải ra sức xây dựng lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang, tiếp tục đẩy mạnh mọi hình thức đấu tranh để lấn
địch từng bước tiến lên đánh đổ chúng hoàn toàn.
Trung ương cục miền Nam được thành lập; lãnh đạo của Đảng tại chiến
trường Nam Bộ và khu V được tăng cường. Trong quá trình lãnh đạo phong trào
Đồng khởi, lực lượng chính trị gồm cơ sở Đảng, Mặt trận và các tổ chức quần
chúng, lực lượng vũ trang được củng cố và phát triển. Ban Tuyên giáo Trung
ương cục, khu V và tuyên giáo các tỉnh, huyện, được củng cố, các binh chủng
180
tuyên truyền, báo, dài, thông tấn xã, huấn học, văn hóa văn nghệ (văn công xung
kích, điện ảnh, nhiếp ảnh, triển lãm, nhà in.. .) đều phát triển. Công tác phát triển
đảng và công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đảng viên được coi trọng. Một số
đảng bộ mạnh lên qua đấu tranh quyết liệt với quân thù. Tháng 10- 1961 Trường
Nguyễn Ái Quốc miền Nam được thành lập, năm 1962 bắt đầu mở các khóa đào
tạo cán bộ một cách chính quy ở vùng giải phóng. Trường Đảng cấp khu, và một
số tỉnh cũng được thành lập để bồi dưỡng cán bộ chủ chốt các cấp ở địa phương.
Hội nghị thành lập Trung ương cục miền Nam đã bàn định các biện pháp về
tư tưởng và tổ chức để thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị. Về công tác tư tưởng,
Hội nghị đánh giá: Từ Đồng khởi đến nay, tư tưởng rụt dè, co thủ, hữu khuynh
đã bị đẩy lùi từng bước, từng vùng, tuy vẫn còn cơ sở để tồn tại và phát triển do
sự giằng co giữa ta và địch còn quyết liệt, cần phải tiếp tục truy kích. Một số cán
bộ, đảng viên còn những biểu hiện lệch lạc như: thấy khó khăn hơn thấy thuận
lợi, đánh giá địch quá cao, đánh giá ta quá thấp; nặng "thủ" (co thủ), nhẹ "tấn"
(tấn công); chần chừ, thiếu khẩn trương. Các biểu hiện co thủ, rụt dè, hữu
khuynh vẫn là cản trở chủ yếu. Một số nơi có biểu hiện tư tưởng chủ quan, nôn
nóng: coi như khởi nghĩa đến nơi; nặng mở rộng, nhẹ củng cố, xây dựng lực
lượng vững chắc; chủ quan, thiếu cảnh giác. Có nơi phong trào lên, cán bộ, đảng
viên lại thoát ly quần chúng, quan liêu mệnh lệnh, không quan tâm đời sống
quần chúng. Chủ quan, nôn nóng thực chất cũng là hữu khuynh, ngại lâu dài,
ngại gian khổ, muốn chuyển thế ngay. Những biểu hiện lệch lạc đó cần được
uốn nắn để nâng cao ý chí chiến đấu, liên tục tiến công địch, nắm vững và thực
hiện tốt phương châm đấu tranh.
Tháng 7- 1961 Trung ương cục ra Chỉ thị đánh giá mặt tiến bộ của công tác
tuyên giáo: đã theo sát nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, phục vụ kịp thời các
nhiệm vụ của phong trào. Đồng thời,Chỉ thị cũng nêu lên một số hạn chế của
công tác tuyên giáo là vẫn chưa sát hoàn cảnh của từng vùng; còn hời hợt, hình
thức chủ nghĩa, chỉ tập trung vào những khẩu hiệu chính trị, ít đề cập những vấn
đề về đời sống nhân dân; chủ quan, nôn nóng, cục bộ; chống tuyên truyền địch
còn thiếu kịp thời; chưa chú ý lãnh đạo các hoạt động văn hóa, văn nghệ; Tuyên
181
giáo cơ sở chưa hình thành. Bản Chỉ thị nêu lên nhiệm vụ cụ thể trước mắt của
công tác tuyên giáo là:
- Về thông tin báo chí: Cấp khu ra ba tờ báo của Đảng, Mặt trận và Quân
đội, nội san và tập san Văn nghệ; cấp tỉnh ra một tờ báo, nội dung chủ yếu là
thông tin, có bản tin riêng. cho từng loại đối tượng (đồng bào Hòa hảo, Cao đài,
đồng bào.. miền Bắc di cư, binh sĩ ngụy. . .), vận động và tổ chức nhân dân nghe
Đài Giải phóng….
- Về văn nghệ: phát triển các đội văn công gọn, nhẹ, lưu động. Thành lập
Hội văn nghệ giải phóng cấp xứ, khu và tỉnh.
- Về tổ chức: xây dựng bộ máy tuyên văn giáo xã, phát triển các tổ đọc báo,
tổ nghe đài, tổ thông tin, tổ tuyên truyền xung phong. Mỗi tiểu tổ quần chúng là
một tiểu tổ thông tin, tuyên truyền. Sử dụng bộ đội làm công tác tuyên truyền.
Bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo bằng hình thức mở các hội nghị nghiệp vụ.
Để đối phó với phong trào đấu tranh mạnh mẽ của quân và dân miền Nam
và nhằm cứu vãn nguy cơ sụp đổ của chính quyền Diệm, từ giữa năm 1961 đế
quốc Mỹ tiến hành "chiến tranh đặc biệt”, mở đầu bằng kế hoạch Xtalây - Taylo
với mục tiêu bình định miền Nam trong 18 tháng (từ tháng 7-1961 đến cuối năm
1962).
Mỹ - ngụy coi bình định, dồn dân, lập "ấp chiến lược" là nội dung cơ bản, là
"xương sống" của chiến lược "chiến tranh đặc biệt". Mục tiêu cơ bản của "ấp
chiến lược” là kìm kẹp dân để "tát nước bắt cá”, lùng bắt cán bộ, đảng viên cộng
sản, cơ sở cách mạng, đánh phá "tận gốc", bóp chết từ đầu phong trào đấu tranh
và các cuộc nổi dậy của nhân dân. Đây là một biện pháp thực hiện chiến tranh
tổng hợp (cả về kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, xã hội), một cuộc "chiến
tranh giành dân” rất quyết liệt và dai dẳng. Diệm tuyên bố gom dân lập ấp chiến
lược là "quốc sách” của chế độ ngụy.
Dù địch có dồn được dân vào ấp chiến lược, chúng cũng không thể giành
được lòng dân. Trong hoàn cảnh khó khăn người dân vẫn hướng về cách mạng.
Phát huy tinh thần liên tục tiến công, các hoạt động tư tưởng đã góp phần phát
động quần chúng đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang ở khắp
182
miền Nam, trên cả ba vùng: rừng núi, đồng bằng và đô thị. Về đấu tranh chính
trị, liên tục nổ ra các cuộc đấu tranh của quần chúng chống địch càn quét, bắn
phá, cưỡng bức, hãm hiếp phụ nữ, giết hại dân thường. Từ kinh nghiệm thực
tiễn, ở các cấp tỉnh, huyện, xã đều thành lập Ban đấu tranh chính trị do một đồng
chí ủy viên thường vụ cấp ủy phụ trách, có đại diện của Mặt trận, các đoàn thể
tham gia. Mỗi cuộc đấu tranh đều có Ban chỉ huy công khai, có người phụ trách
công tác tư tưởng, có lực lượng đấu tranh trực diện với địch, lực lượng hậu cần,
lực lượng trinh sát, liên lạc. Kế hoạch đấu tranh được chuẩn bị tỉ mỉ, coi trọng
công tác tư tưởng trong quần chúng, nhất là lực lượng đấu tranh trực diện với
địch và tập dượt thành thục. Vai trò xung kích của phụ nữ, "đội quân tóc dài"
nổi bật trong các cuộc đấu tranh trực diện, giằng co quyết liệt với địch giành
nhiều thắng lợi. Ban Tuyên giáo các cấp đã bám sát các cuộc đấu tranh, giúp cấp
ủy hướng dẫn tư tưởng, quán triệt phương châm đấu tranh, bồi dưỡng lý luận
đấu tranh cho quần chúng, tuyên truyền phát huy thắng lợi, phổ biến kinh
nghiệm. Trong năm 1961 toàn miền Nam có 33, 8 triệu lượt người tham gia đấu
tranh chính trị; số đồng bào ở các đô thị tham gia đấu tranh từ 3 l,5 vạn năm 196
l tăng lên 67,8 vạn năm 1962.
Cuộc đấu tranh của quân dân miền Nam chống địch dồn dân, lập ấp chiến
lược là một cuộc đấu tranh toàn diện, kết hợp lực lượng chính trị với lực lượng
vũ trang, kết hợp tiến công và nổi dậy, nổi dậy và tiến công, thực hiện ba mũi
giáp công (chính trị, quân sự, binh vận), kết hợp lực lượng tiến công từ bên
ngoài với sự nổi dậy từ bên trong ấp chiến lược trong đó, sức mạnh của lực
lượng quần chúng nổi dậy từ bên trong là chính. Cuộc đấu tranh diễn ra quyết
liệt và dai dẳng, ta phá địch lập lại, ta lại phá, có nơi ta phải phá đi phá lại cả
chục lần, có ấp tới 30, 40 lần. Công tác tư tưởng động viên phong trào phá ấp
chiến lược cũng rất kiên trì và quyết tâm, cán bộ bám dân, bám địa bàn để vận
động quần chúng..
Công tác binh vận được đẩy mạnh, huy động toàn dân tham gia với nhiều
cách khôn khéo đã làm giảm sút tinh thần binh sĩ ngụy, những hành động đảo
ngũ, rã ngũ, chống lệnh hành quân trong hàng ngũ địch ngày càng tăng. Các
183
buổi phát thanh dành cho binh sĩ Mỹ khơi gợi cho một số người trong họ suy
nghĩ về sự thật của cuộc chiến tranh này, và phong trào phản chiến ở ngay nước
Mỹ.
Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng thực lực của cách mạng chưa đủ mạnh, lực
lượng vũ trang chưa phát triển kịp đòi hỏi của tình hình, địch lại sử dụng nhiều
thủ đoạn và biện pháp chiến lược mới mà ta chưa có kinh nghiệm đối phó. Có
nơi sau Đồng khởi, một số cán bộ chủ quan, kém cảnh giác, địch lợi dụng sơ hở
này đã gây cho ta nhiều tổn thất, khó khăn, lúng túng. Hành động xâm lược vũ
trang của Mỹ càng khơi sâu thêm lòng căm thù của nhân dân ta, rèn luyện thêm
ý chí “kẻ thù nào cũng đánh thắng” của quân dân ta.
Cuộc tấn công địch về chính trị: Tháng 7- 1962 Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam đề ra "bốn chủ trương khẩn cấp”, đòi Mỹ phải đình chỉ
chính sách và hành vi xâm lược vũ trang vào miền Nam Việt Nam; đình chỉ
chiến tranh, lập lại hòa bình; tổng tuyển cử tự do để bầu Quốc hội; thi hành một
chính sách hòa bình trung lập. Các hoạt động tuyên truyền, đặc biệt ở các đô thị
đã nêu cao "bốn chủ trương khẩn cấp" của Mặt trận nhằm chĩa mũi nhọn đấu
tranh vào đế quốc Mỹ và chính quền bù nhìn tay sai Mỹ, đoàn kết với tất cả
những ai tán thành chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời với việc đẩy mạnh đấu tranh
chính trị, tháng 11-1962 Trung ương cục mở Hội nghị du kích chiến tranh để
tổng kết điển hình, trao đổi kinh nghiệm, thúc đẩy phong trào chống địch càn
quét và phong trào phá ấp chiến lược, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy giành và
giữ quyền làm chủ ở nông thôn. Phát huy kết quả của Hội nghị, các hoạt động tư
tưởng đã phổ biến kinh nghiệm giành và giữ quyền làm chủ ở nông thôn lúc đó
là: "địch kìm kẹp ta phá kìm kẹp, địch lại kìm kẹp ta lại phá kìm kẹp, địch càn
quét, lập ấp chiến lược, ta phá ấp chiến lược, địch lại lập, ta lại phá. Trong cuộc
đấu tranh giằng co quyết liệt đó, mỗi ngày ta tiến thêm một bước, đẩy lùi địch
một bước, ta lớn mạnh thêm một bước, địch suy yếu đi một bước, tiến tới ta
mạnh hơn địch và giành thắng lợi hoàn toàn". Biểu dương và phổ biến những
kinh nghiệm cụ thể của 13 xã có phong trào du kích mạnh và các chiến sĩ du
kích tiêu biểu, đặc biệt là kinh nghiệm xây dựng làng, xã chiến đấu, thực hiện
184
khẩu hiệu: "Dân bám đất, cán bộ đảng viên bám dân, du ích, bộ đội bám giặc".
Lực lượng vũ trang tổ chức rút kinh nghiệm chống càn, hạ máy bay lên thẳng và
xe bọc thép của địch, trong đó có kinh nghiệm trận Phường Lụa của tỉnh Phú
Yên. Từ thực tế chiến đấu, Hội nghị quân sự tỉnh Mỹ Tho kết luận: Lực lượng
vũ trang ta có khả năng đánh càn quét thắng lợi, dựa vào làng, xã chiến đấu, kết
hợp ba mũi giáp công. Phải đứng lại chống càn, không né tránh, đánh cả với trực
thăng và xe bọc thép.
Công tác xây dựng Đảng luôn luôn có ý nghĩa quyết định đối với kết quả
thực hiện nhiệm vụ chính trị. Đầu năm 1962 để tăng cường lãnh đạo đấu tranh,
Trung ương cục ra Chỉ thị số 18-CT đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng về chính
trị, tư tưởng, tổ chức để tiến lên giành những thắng lợi mới. Bản Chỉ thị nhận
định, mặc dù cuộc chiến tranh diễn ra ngày càng gay go, ác liệt và phức tạp
nhưng cán bộ, đảng viên nói chung vẫn kiên định lập trường chiến đấu, giữ vững
phương châm đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, tiếp tục phát động quần
chúng khởi nghĩa và tiến công địch. Công tác tuyên truyền phát triển đảng, bồi
dưỡng đối tượng kết nạp đảng được coi trọng. Về thực lực, số lượng đảng viên
năm 1962 tăng gấp đôi so với cuối năm 1961. Bản Chỉ thị xác định công tác
giáo dục chính trị và tư tưởng là "đòn xeo có tính chất quyết định đảm bảo
những thắng lợi lớn hơn trong tình hình sắp tới". Nhiệm vụ của công tác tư
tưởng và giáo dục chính trị là tiếp tục giáo dục đảng viên nắm vững phương
châm đấu tranh, phương hướng nhiệm vụ trước mắt, nắm vững quan điểm
trường kỳ gian khổ, tự lực cánh sinh nhất định thắng lợi; đồng thời biết tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi trong từng thời gian ngắn. Bí quyết là ra sức xây dựng và
phát triển lực lượng ta về mọi mặt và liên tục tiến công làm tiêu hao, tiêu diệt
ngày càng nhiều sinh lực địch, "chống chủ quan khinh địch, đồng thời chống
hữu khuynh, rụt dè, bi quan". Theo quyết định của Trung ương cục. Tháng 4-
1962 tạp chí Tiền phong, tạp chí Lý luận chính trị của đảng bộ ra đời, góp phần
tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên (1962 -
1975). Ở khu V, năm 1963, báo Cờ giải phóng ra đời, với danh nghĩa cơ quan
của Uỷ ban Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam khu V.
185
Bước sang năm 1963, quân dân miền Nam tiếp tục xốc tới, đánh những đòn
mạnh hơn vào chiến lược "chiến tranh đặc biệt của địch. Ban thường vụ Trung
ương cục ra Chỉ thị số 43-TV về công tác tuyên truyền năm 1963. Bản Chỉ thị
nhận định, năm 1962 công tác tuyên truyền có những ưu điểm: theo sát sự chỉ
đạo của Đảng, phục vụ kịp thời các nhiệm vụ chính trị, đặc biệt là một số công
tác trọng tâm: Tuyên truyền rộng rãi "bốn chủ trương cứu nước khẩn cấp" của
Mặt trận, chống Mỹ vũ trang xâm lược miền Nam Việt Nam; phá ấp chiến lược;
chống càn quét gom dân; phá thế kìm kẹp và xây dựng ấp, xã chiến đấu; đã chú
ý nhiều hơn đến các vùng yếu, đi sâu hơn vào mỗi tầng lớp công nhân, nông
dân, lao động thành thị, binh sĩ, đồng bào các tôn giáo, các tầng lớp bên trên.
Diện tuyên truyền được mở ra với quy mô rộng lớn, hình thức rầm rộ và bước
đầu đi vào chiều sâu, có thêm một số phương tiện tuyên truyền mới có tác dụng
lớn (phát thanh, điện ảnh...).
Khuyết điểm chủ yếu của công tác tuyên truyền là chưa quan tâm đúng mức
đến lãnh đạo tư tưởng, phát huy mặt tích cực, khắc phục tư tưởng ngại đấu tranh
lâu dài, sợ gian khổ hy sinh, sợ vũ khí Mỹ, sợ trực thăng; ỷ lại miền Bắc.
Chưa chú ý đầy đủ đối với quần chúng cơ bản, có thiên hướng nặng về các
tầng lớp trên. Kế hoạch hoạt động chưa chủ động phần lớn chờ từ trên dội
xuống, chưa kết hợp với thực tế ở xã, ấp Quan liêu mệnh lệnh, hình thức, ít chú
ý đến chiều sâu, đến từng tiểu tổ, từng người. Trong vùng giải phóng ít chú ý
phát động quần chúng. Bộ máy tuyên giáo ở cơ sở, đơn vị trực tiếp chiến đấu
chưa được xây dựng tốt.
Đẩy mạnh việc xây dựng lực lượng tuyên truyền bao gồm: lực lượng đảng
viên và đoàn viên thanh niên; lực lượng các tổ chức quần chúng; lực lượng vũ
trang và bán vũ trang; lực lượng chuyên trách công tác tuyên truyền của các cấp.
Đặc biệt chú ý xây dựng lực lượng tuyên truyền ở xã ấp, nơi trực tiếp chiến đấu
hàng ngày với địch. Thành lập tiểu ban tuyên truyền trong Ban Tuyên huấn và
Hội đồng tuyên truyền ở các cấp, ở cơ sở, tổ chức một mạng lưới tuyên truyền
làm nhiệm vụ tuyên truyền bí mật và thường xuyên, một đội tuyên truyền xung
phong làm nhiệm vụ tuyên truyền đột xuất (đối với vùng còn bị kìm kẹp, đô thị,
186
thị trấn, đồn điền cao su). Xây dựng trung tâm văn hóa ở mỗi xã ấp, sinh hoạt
câu lạc bộ, hoạt động văn nghệ quần chúng, nói chuyện, triển lãm, mạn đàm,
đọc tin tức, báo chí, nghe Đài Giải phóng, Đài Tiếng nói Việt Nam. Câu lạc bộ
nông thôn là trung tâm tổ chức sinh hoạt văn hóa quần chúng ở xóm ấp, là cơ sở
để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hàng ngày thâm nhập sâu rộng vào quần
chúng.
Tháng 1- 1963, trong chiến đấu chống địch càn quét xuất hiện một tấm
gương xuất sắc: Chiến thắng ấp Bắc (Cai Lậy, Mỹ Tho). Một thôn nhỏ với so
sánh lực lượng địch 10 ta địch áp dụng các chiến thuật mới "trực thăng vận",
"thiết xa vận", có cố vấn Mỹ chỉ huy, nhưng quân dân ta chiến đấu dũng cảm và
mưu trí đánh cho chúng bị thất bại nặng nề: chết và bị thương 450 tên (có 9 cố
vấn Mỹ), 16 máy bay lên thẳng bị bắn rơi, 3 xe bọc thép M-113 bị phá hỏng, 1
tàu chiến bị bắn chìm. Tấm gương và bài học của ấp Bắc được nêu cao và phổ
biến rộng rãi, phong trào "thi đua ấp Bắc, giết giặc lập công" do Trung ương cục
phát động được hưởng ứng sôi nổi. Những tấm gương dùng súng bộ binh bắn rơi
máy bay địch và nhiều tấm gương dũng cảm khác được cổ vũ mạnh mẽ, khắc
phục tâm lý sợ trực thăng và thiết xa của địch. Phong trào săn máy bay lên
thẳng, diệt M-113 trở thành hoạt động thi đua sôi nổi, hào hùng của bộ đội, du
kích khắp các vùng nông thôn, đồng bằng và miền núi, nhiều chiến sĩ giao liên,
cả phóng viên thông tấn (phân xã Nam Tây nguyên) cũng tham gia lập công diệt
máy bay lên thẳng.
Năm 1963 tổng số máy bay địch bị hạ là 690 chiếc, xe cơ giới bị diệt là 800
xe.
Trong thế bị động, lúng túng và thất bại, Mỹ - Ngụy càng điên cuồng khủng
bố tất cả những ai chống lại chúng. Điều đó càng khơi sâu lòng căm thù, vùng
lên tranh đấu của nhân dân. Trong phong trào đấu tranh của nhân dân năm 1963,
các cuộc đấu tranh của tín đồ Phật giáo ở Huế và Sài Gòn với vụ tự thiêu của
các hòa thượng ở Sài Gòn ngày 22-5 và 11-6 phản đối chính sách khủng bố của
chính quyền Diệm gây xúc động lớn trong các tầng lớp nhân dân. Đỉnh cao là
cuộc xuống đường của 70 vạn nhân dân Sài Gòn ngày 16-6-1963 và cuộc tổng
187
bãi khóa của học sinh, sinh viên Sài Gòn tháng 8-1963 Diệm - Nhu cấm báo chí
đưa tin về những sự kiện này. Cán bộ cách mạng vận động các báo tiến bộ ở Sài
Gòn đưa tin anh, tường thuật, bình luận… góp phần cổ vũ làn sóng đấu tranh
của các tín đồ Phật giáo và nhân dân lan rộng khắp Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng và
các tỉnh. Công tác tư tưởng đã nhân những sự kiện đó, lên án tội bán nước và
chính sách phát xít của ngụy quyền tay sai Mỹ, cổ vũ phong trào đấu tranh của
nhân dân.
Kế hoạch Xtalây - Taylo nhằm bình định miền Nam trong vòng 18 tháng
(7-1961 - 12- 1962) không thực hiện được. Mâu thuẫn Mỹ - Diệm và mâu thuẫn
nội bộ bọn cầm đầu ngụy quân, ngụy quyền ngày càng thêm sâu sắc, buộc Mỹ
phải "thay ngựa giữa dòng" bằng cuộc đảo chính lật đổ Diệm ngày 1- 11-1963.
Diệm đổ nhưng mâu thuẫn nội bộ của chúng ngày càng tồi tệ hơn. Chỉ trong 20
tháng từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965 đã diễn ra hơn 10 cuộc đảo chính.
Nhân dịp này cán bộ ta đã vận động báo chí tiến bộ ở Sài Gòn phanh phui những
vụ bê bối, sự bạo tàn của họ nhà Ngô và sự lục đục tranh giành quyền lực giữa
các phe phái phản động, tay sai Mỹ. 11 tờ báo bị chúng đóng cửa nhưng không
thể che đậy được tình trạng rối ren của chúng.
Nhân lúc ngụy quân, ngụy quyền hoang mang, bối rối, nội bộ lục đục, quân
dân ta ở miền Nam đẩy mạnh đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang. Lúc này,
phát triển lực lượng vũ trang trở thành một yêu cầu cấp bách. Tuyên huấn các
cấp cùng với Mặt trận và các đoàn thể thanh niên, phụ nữ... tuyên truyền và vận
động phong trào thanh niên toàn quân diễn ra liên tục và sôi nổi. Phá ấp chiến
lược vẫn là một cuộc chiến quyết liệt giữa ta và địch. Tại Hội nghị chuyên
chống địch lập ấp chiến lược" tháng 6- 1963, Trung ương cục đã tổng kết những
kinh nghiệm phong phú của nhiều dịa phương, phát động phong trào liên tục
tiến công phá ấp chiến lược. Công tác tư tưởng đã góp phần phổ biến trong cán
bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo các cấp. Hội nghị đã rút ra kinh
nghiệm là: Phải tập trung toàn lực, toàn diện vào đánh dịch, nắm vững khâu
chính là đẩy mạnh chiến tranh du kích, kết hợp chống càn quét với chống gom
dân lập ấp chiến lược. Chỉ đạo phá ấp chiến lược phải kết hợp chặt chẽ giữa lực
188
lượng bên trong và lực lượng bên ngoài, bên trên và bên dưới, địa phương này
và địa phương khác, kết hợp chặt chẽ ba mũi giáp công. Cần nhận rõ lực lượng
chính trị quần chúng là cơ bản, lực lượng vũ trang kết hợp là đòn bẩy đặc biệt
quan trọng. Từ thực tiễn phá ấp chiến lược, khu V cũng rút ra kinh nghiệm là:
dân làm dân phá mới hay, dân làm quân phá biết ngày nào xong. Vận dụng
những kinh nghiệm đó, các địa phương khắp miền Nam đã đẩy tới cao trào quần
chúng nổi dậy phá ấp chiến lược, biến ấp chiến lược thành ấp chiến đấu của ta.
Cuối năm 1963, phong trào đấu tranh kiên cường của quân dân ta ở miền
Nam đã làm phá sản kế hoạch Xtalây - Taylo, "quốc sách ấp chiến lược" không
thực hiện được, các chiến thuật "tân kỳ" của Mỹ (trực thăng vận, thiết xa vận...)
cũng bị bẻ gãy. Kế hoạch Xtalây - Taylo bị phá sản thảm hại báo hiệu sự thất bại
không tránh khỏi của chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Sau khi lên thay Kennơđi làm Tổng thống Mỹ (Kennơđi bị ám sát),
Giônxơn lại tiếp tục chính sách xâm lược Việt Nam của Kennơđi một cách điên
cuồng và trắng trợn hơn: Tăng cường sự chỉ huy trực tiếp của Mỹ, tăng hệ thống
viện trợ hậu cần, viện trợ vũ khí, trang bị kỹ thuật và quân số cho quân ngụy;
xúc tiến lập ấp chiến lược, ra sức bình định tập trung quanh Sài Gòn, cố gắng ổn
định trong hai năm 1964-1965; dùng không quân và hải quân đánh phá miền
Bắc Việt Nam gây sức ép phải ngừng ,tăng viện cho miền Nam. Bọn tay sai ở
miền Nam ra sắc luật đặt "Việt cộng và trung lập ra ngoài vòng pháp luật" và
hung hăng hô hào "Bắc tiến". Kế hoạch mới của Giônxơn là tiếp tục "chiến tranh
đặc biệt" với quy mô lớn hơn, đỉnh cao của "chiến tranh đặc biệt" và là bước mở
đầu cho chiến lược "chiến tranh cục bộ".
Căn cứ Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín của Trung ương Đảng (12- 1963)
công tác tư tưởng đã làm cho quân và dân ta nhận thấy rõ cái gọi là kế hoạch
mới của Giônxơn là một kế hoạch bị động, một bước lùi về mục tiêu chiến lược
của Mỹ. Để tiếp tục đưa cách mạng miền Nam tiến lên, quân dân ta phải nắm
vững phương châm kết hợp đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, hai hình
thức đấu tranh này đều cơ bản, có vai trò quyết định, trong đó đấu tranh vũ trang
có vai trò quyết định trực tiếp tiêu diệt lực lượng quân địch. Cuộc chiến tranh sẽ
189
kéo dài nhưng phương hướng phấn đấu là tranh thủ thời cơ, giành thắng lợi
quyết định trong thời gian tương đối ngắn. Kiềm chế và thắng địch trong "chiến
tranh đặc biệt" đồng thời chuẩn bị sẵn sàng đối phó với "chiến tranh cục bộ" của
Mỹ. Vận dụng sáng tạo phương châm "hai chân", "hai mũi" đánh địch ở cả ba
vùng, đạt cho được hai mục tiêu: làm thất bại mưu đồ gom dân, lập ấp chiến
lược của địch và tiêu diệt sinh lực địch, làm tan rã từng bộ phận quân địch. Mỗi
người dân phải làm cho được ba việc: đánh giặc, đấu tranh chính trị, binh vận.
Mỗi đơn vị quân đội, trong một trận đánh cũng phải làm được ba việc: tiêu diệt
sinh lực địch, làm công tác binh vận và phá ấp chiến lược…
Đồng thời với tăng cường lực lượng chính trị, các đảng bộ ở miền Nam đã
tích cực lãnh đạo xây dựng nhanh chóng lượng vũ trang. Cùng với sự phát triển
nhanh của lực lượng tại chỗ, quân chủ lực từ miền Bắc vào với số lượng lớn,
từng đơn vị tập trung, làm cho bộ đội chủ lực có bước phát triển nhảy vọt. Từ
đầu năm 1964 lực lượng vũ trang của ta đã áp sát các đô thị, thực hiện nhiều trận
đánh táo bạo vào các sân bay, kho tàng, trại lính Mỹ, các khách sạn dành riêng
cho Mỹ, kể cả sứ quán Mỹ ở Sài Gòn. Chiến tranh được đưa vào các đô thị đã
hỗ trợ cho hoạt động của các cơ sở cách mạng ở nội thành, khơi dậy phong trào
đấu tranh chính trị của hàng triệu quần chúng, đặc biệt là ở Huế, Đà Nẵng, Sài
Gòn, làm hỗn loạn hậu phương địch. Ngày 7-6- 1964 nhân dân Sài Gòn xuống
đường đả đảo Mỹ- Khánh. Từ ngày 20-8-1964 liên tiếp hàng chục vạn người
xuống đường biểu tình, viên chức tổng bãi công, sinh viên bãi khóa, người buôn
bán bãi thị, kéo đến bao vây dinh Tổng thống đòi Nguyễn Khánh từ chức, đòi
Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam. Từ ngày 9 đến ngày 21-8-1964, 20 vạn người
kéo đến chiếm đài phát thanh, giương cao khẩu hiệu "Mỹ cút về nước". Từ ngày
21-8-1964 hàng vạn quần chúng ở Huế biểu tình chống Mỹ. Ngày 24-8-1964
nhân dân Đà Nẵng bãi công, bãi thị, bãi khóa, biểu tình, mít tinh, bao vây và
chiếm Tòa thị chính, làm tê liệt thành phố suốt 9 ngày. Bộ trưởng quốc phòng
Mỹ Mắc Namara sang Sài Gòn bị chết hụt. Chiến sĩ biệt động Sài Gòn Nuyễn
Văn Trỗi, nơi đặt mìn ở cầu Công Lý nhằm giết hắn, anh bị giặc bắt, tra tấn dã
man và kết án tử hình. Ngày 15-10-1964 người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi nêu
190
cao khí tiết cách mạng, biến pháp trường thành nơi lên án bọn xâm lược hèn hạ.
Việc địch sát hại anh Nguyễn Văn Trỗi làm dư luận cả nước phẫn nộ, nhiều
cuộc biểu tình, mít tinh truy điệu anh diễn ra trong cả nước. Nhiều bài thơ, bài
hát, sách báo viết về anh, một tấm gương anh hùng, bất khuất của thế hệ thanh
niên Việt Nam chiến đấu chống Mỹ.
Trước thời cơ thuận lợi, Hội nghị Bộ Chính trị họp từ ngày 25 dến ngày 29-
9-1964 chủ trương giành thắng lợi quyết định ở miền Nam trong một vài năm
tới. Nhanh chóng xây dựng lực lượng vũ trang, thực hiện các trận đánh tiêu diệt
làm tan rã một bộ phận quan trọng chủ lực của địch, tranh thủ thời cơ đánh bại
hoàn toàn quân nguy trước khi quân Mỹ nhảy vào. Thực hiện quyết định của Bộ
Chính trị, các đợt hoạt động xuân - hè và đông - xuân 1964 - 1965 diễn ra trên
khắp chiến trường miền Nam. Địch bị thương vong ngày càng nhiều, tinh thần
sa sút. Đến tháng 2-1965 "quốc sách ấp chiến lược", một "xương sống" của
"chiến tranh đặc biệt" hoàn toàn sụp đổ. Đội quân ngụy cũng đứng trước nguy
cơ bị tiêu diệt. Để cứu vãn tình hình, Mỹ quyết định đưa một lực lượng quân Mỹ
vào miền Nam Việt Nam và leo thang chiến tranh, dùng không quân và hải quân
ném bom, bắn phá miền Bắc Hội nghị Trung ương cục lần thứ ba (tháng 1-
1965) bàn định các chủ trương, biện pháp tăng cường lãnh đạo sẵn sàng ứng phó
với khả năng Mỹ mở rộng chiến tranh ra miền Bắc và tiến hành "chiến tranh cực
bộ" ở miền Nam. Ban Tuyên giáo các cấp đã giúp cấp ủy chỉ đạo tiến hành một
đợt giá dục trong toàn đảng bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp vũ lực lượng vũ
trang, làm quán triệt nghị quyết của Trung ương cục, nhận rõ tình hình và nhiệm
vụ, nâng cao quyết tâm đánh Mỹ, tin tưởng thắng Mỹ, chủ động tiến công địch
trong mọi lúc, mọi nơi, quyết giành thắng lợi; phát huy chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, chống ảo tưởng hòa bình, cầu an, co thủ, ngại gian khổ, sợ hy sinh.
Từ tháng 2-1965 Mỹ liên tục đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải
quân. Ngày 8-3- 1965 đơn vị đầu tiên của Lữ đoàn lính thủy đánh bộ số 9 Mỹ đổ
bộ lên Đà Nẵng, mở đầu cho việc đưa ồ ạt quân viễn chinh Mỹ vào miền Nam.
Cuộc kháng chiến chống My của nhân dân ta bước sang một giai đoạn mới.
191
Tóm lại, trong những năm 1961-1964, cuộc đấu tranh của nhân dân miền
Nam đã chuyển sang thế tiến công, từ khởi nghĩa từng phần chuyển sang chiến
tranh cách mạng, đánh thắng chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Trong bước chuyển đó, đảng bộ miền Nam đã coi trọng lãnh đạo công tác
tư tưởng, làm quán triệt trong Đảng và quân dân miền Nam những phát triển
mới về phương hướng, nhiệm vụ, phương châm đấu tranh. Trong quá trình chỉ
đạo tiến hành cuộc chiến đấu chống "chiến tranh đặc biệt", Đảng ta đã coi trọng
tổng kết thực tiễn, không ngừng cụ thể hóa, bổ sung và phát triển đường lối và
phương pháp cách mạng đã đề ra từ nghị quyết 15 của Trung ương Đảng. Chính
nhờ đó mà đường lối, chủ trương và phương pháp cách mạng Đảng đề ra đã
từng bước được hoàn thiện, mau chóng trở thành hành động tự giác của cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ và đồng bào thực hiện phương châm "hai chân", "ba mũi",
"ba bám", kết hợp nổi dậy và tiến công, đánh địch ở cả ba vùng, sáng tạo ra
nhiều cách đánh địch có hiệu quả cao, làm thất bại các chiến thuật mới với vũ
khí hiện đại của Mỹ, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, phá rã tầng tầng lớp
lớp ấp chiến lược của chúng.
Cuộc chiến đấu càng gian khổ, quyết liệt, việc bồi dưỡng nâng cao nhận
thức chính trị, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức dân tộc, quyết tâm đánh giặc
cứu nước, cứu nhà... càng đi sâu tới mỗi đảng viên, chiến sĩ và đồng bào. Cùng
với các đợt giáo dục trong Đảng, các đoàn thể và lực lượng vũ trang, những điển
hình tiêu biểu, những tấm gương đơn vị và cá nhân anh hùng được biểu dương
mạnh mẽ, cổ vũ toàn quân và toàn dân xốc tới, liên tục tiến công và nổi dậy.
Ban Tuyên giáo và đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp được tăng cường từ
trong quá trình Đồng khởi, đã nỗ lực rất cao, chịu đựng gian khổ, hy sinh, khắc
phục khó khăn trong điều kiện chiến đấu quyết liệt với quân thù triển khai với
mức cố gắng nhất các hoạt động tuyên truyền, thông tin, báo chí,... huấn luyện,
văn hóa, văn nghệ... Trước yêu cầu phát triển của ngành, Ban Tuyên giáo Trung
ương cục và khu V đã cố gắng mở được một số lớp cán bộ tuyên giáo cho các
địa phương. Lực lượng cán bộ các binh chủng báo, đài, thông tấn, văn hóa văn
192
nghệ, giáo dục... từ hậu phương lớn chi viện cho chiến trường ngày càng tăng,
sát cánh chiến đấu trên mặt trận tư tưởng.
Các cán bộ tuyên truyền vai mang súng, vai mang loa bám đất, bám dân,
ngày tham gia chống càn, đêm xung phong đột ấp gặp gỡ đồng chí, đồng bào
củng cố niềm tin động viên chiến đấu, hoậc len lỏi sát bốt, phát loa vận động
binh sĩ ngụy. Địch càn, bố liên miên, bom pháo dữ dội, như các lớp bồi dưỡng
cán bộ vẫn mở, học viên phải học dưới hầm bí mật, phải che mặt để bảo đảm
nguyên tắc bảo vệ cán bộ trong trận càn, một số cán bộ lớp, học viên và người
phục bị hy sinh do bom, pháo của địch. Các nhà báo, nhà văn, nhiếp ảnh, quay
phim vẫn bám sát chiến trường, nhiều đồng chí đã hy sinh trong khi làm nhiệm
vụ. Có phân xã thông tấn phóng viên bị hy sinh hết, phải lập đi lập lại. Tuy khó
khăn như vậy, nhưng mạng lưới báo miền, báo khu, báo tỉnh và các bản tin văn
được hình thành và hoạt động dưới mọi hình thức. Các số báo cả báo Tết, báo
Xuân, tạp chí văn nghệ được in ra, từ in sáp in thạch, đến in tipô... Cán bộ và
công nhân các nhà in vượt qua mọi gian khổ hy sinh, bảo đảm việc in ấn báo chí
và các tài liệu tuyên truyền giáo dục. Có nhà in 4 lần bị địch càn, dội bom pháo,
biệt kích hoặc trực thăng "nhảy cóc"... , một số cán bộ, công nhân hy sinh,
nhưng máy móc vẫn được chôn giấu, khi địch đi lại moi lên làm tiếp, không có
máy thì in thạch, chỗ làm không yên thì in trên xuồng, che tum trong lau sậy,
hoặc đào hầm bí mật để làm việc. Các hoạt động văn nghệ cũng rất tích cực,
cùng với các hoạt động văn nghệ quần chúng ở thôn ấp, hoạt động của các đội
văn công xung kích, các cuộc triển lãm, chiếu phim, đèn chiếu... có sức hấp dẫn
đông đảo quần chúng Nhiều lần, các đội văn công xung kích, đội chiếu phim ra
vùng tranh chấp, vùng tạm chiếm phục vụ đồng bào. Một số công nhân máy
chiếu, cán bộ thuyết minh bị hy sinh trong khi làm nhiệm vụ... Ở Sài Gòn và các
đô thị khác, trong điều kiện kiểm soát rất gắt gao của địch, nhưng được đồng
bào nuôi dưỡng chở che các cán bộ tuyên truyển đã không quản ngại gian lao
nguy hiểm vẫn tiến hành hoạt động gây cơ sở trong công nhân, học sinh, sinh
viên và các tầng lớp lao động khác, vận động các nhân sĩ, trí thức, ký giả, văn
nghệ sĩ yêu nước dùng thơ văn, báo chí và nhiều hoạt động có tính quần chúng,
193
khơi dậy tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc, gây dựng và phát triển các phong
trào muôn hình muôn vẻ của quần chúng đấu tranh chống Mỹ - ngụy... Trong
nhà tù, bọn Mỹ - Nguỵ dùng mọi thủ đoạn tàn bạo làm cho các chiến sĩ cách
mạng chết dần chết mòn, nhưng đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhiều quần
chúng trung kiên vẫn tổ chức nhau lại, biến nhà tù thành trường học, dùng nhiều
hình thức thích hợp tuyên truyền giáo dục lẫn nhau giữ vững tinh thần chiến
đấu, tham gia đấu tranh chống địch khủng bố, đòi cải thiện chế độ lao tù, ra báo,
biểu diễn văn nghệ, bí mật tìm cách liên hệ với bên ngoài, dù ở trong lao tù khắc
nghiệt nhưng tấm lòng của... các chiến sĩ vẫn luôn hướng về cách mạng, về cuộc
đấu tranh của toàn dân...
Trên đây là một số hình ảnh, ghi lại trong các bản tóm tắt "lịch sử hoạt động
tuyên huấn của một số tỉnh, thành phố" phần nào nói lên những hoạt động với
tinh thần tiến công của đội ngũ cán bộ tuyên huấn trên chiến trường miền Nam
những năm 1961 - 1965.
194
III- ĐỘNG VIÊN QUÂN DÂN CẢ NƯỚC ĐÁNH MỸ, XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC, HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM (1965 - 1975)
1. Nêu cao quyết tâm đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của
Mỹ (1965 - 1968)
Thay thế cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đã thất bại thảm hại, từ
những tháng đầu năm 1965 đế quốc Mỹ bắt đầu triển khai chiến lược mới, ồ ạt
đưa quân viễn chinh Mỹ và tiến hành “chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt
Nam, đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc và mở rộng chiến tranh san Lào. Như vậy, cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ đã không còn giới hạn ở miền Nam Việt Nam mà đã lan ra
miền Bắc.
"Chiến tranh cục bộ" là nấc thang chiến tranh cao nhất của Mỹ ở miền Nam
Việt Nam. Với hành động leo thang mới của Mỹ, chiến tranh Việt Nam trở
thành cuộc chiến tranh lớn nhất, ác liệt nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, gây nên tình hình hết sức căng thẳng không chỉ trên bán đảo Đông Dương
mà còn đe doạ nghiêm trọng hòa bình thế giới. Nhân dân tiến bộ, yêu chuộng
hòa bình trên thế giới phản đối hành động xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ
cuộc kháng chiến của nhân dân ta, quan tâm theo dõi diễn biến của cuộc chiến
tranh với sự lo lắng: liệu Việt Nam, một nước nhỏ và nghèo, vừa ra khỏi cuộc
chiến tranh xâm lược của Pháp có đương đầu nổi với Mỹ, một đế quốc có tiềm
lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới?
Đứng trước cuộc đụng đầu lịch sử mới, trong tư tưởng của cán bộ, đảng
viên có một số vấn đề được đặt ra: Quân Mỹ vào có làm thay đổi mục đích, tính
chất, hình thức chiến tranh ở miền Nam có làm thay đổi về cơ bản so sánh lực
lượng trên chiến trường, làm cho ta phải trở lại thế phòng ngự đường lối chống
Mỹ, cứu nước của ta liệu có phải thay đổi hoặc điều chỉnh ?...
Trên cơ sở quán triệt trong Đảng và trong nhân dân Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 11 cửa Trung ương Đảng tháng 3-1965, công tác tư tưởng đã phân tích rõ
âm mưu và hành động mới của Mỹ, tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh sẽ tăng
195
lên gấp bội, nhưng (quốc Mỹ sẽ không sao đảo lộn được thế chiến lược hiện nay
ở miền Nam. Bởi vì chúng đang ở thế thua, thế bị động về chiến lược và thất bại
về chính trị, bị cô lập cao độ cả trong nước và trên thế giới, trong khi ta đang
trên đà chiến thắng, ở thế chủ động và được nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa
bình trên thế giới đồng tình ủng hộ. Đảng và nhân dân ta quyết tâm đẩy mạnh
cuộc kháng chiến để giành độc lập, thống nhất toàn vẹn cho Tổ quốc. Khẳng
định đường lối và phương châm giành thắng lợi ở miền Nam đã đề ra trong các
nghị quyết trước đây của Đảng, về cơ bản vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, trong
tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau của mỗi
miền, trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, "miền
Nam là tiền tuyến lớn và miền Bắc là hậu phương lớn - nhưng hậu phương ấy
cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu" nhằm "xây dựng
và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam". Vì vậy Đảng chủ trương chuyển
hướng nền kinh tế miền Bắc sang thời chiến. Trong tình hình mới quân và dân
miền Bắc nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, sẵn sàng
chiến đấu và công tác bất kỳ nơi đâu khi Đảng cần, sẵn sàng đánh bại bất cứ loại
chiến tranh nào của địch, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng tinh thần
tự lực cánh sinh cao, chống chủ quan khinh địch. Giải phóng miền Nam là trách
nhiệm chung của nhân dân cả nước, cả nước đều tham gia đánh giặc, thực hiện
Lời kêu gọi nhân ngày 20- 7- 1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đồng bào miền
Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải
chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết
chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"[38].
Ở miền Nam, Ban Tuyên giáo các cấp giúp cấp ủy tổ chức quán triệt và
thực hiện Nghị quyết 11 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Trung ương
cục về công tác tư tưởng năm 1965 nhằm mục tiêu đưa phong trào đấu tranh
quân sự và chính trị, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nông thôn và
thành thị lên quy mô lớn, đạt hiệu quả cao hơn trước, triển khai nhiệm vụ giáo
dục tư tưởng, ổng động viên chính trị trong toàn Đảng, toàn quân và các đoàn
thể, các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về tính chất, nhiệm vụ của
196
cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới, nỗ lực tham gia tiến
công địch, không sợ hy sinh gian khổ, sẵn sàng đối phó với "chiến tranh cục bộ"
của Mỹ, kiên định ý chí sắt đá: "Sẽ hy sinh tất cả thà chết chứ không chịu làm nô
lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập hoàn toàn... Dù Mỹ
có đưa 5 vạn hay 10 vạn quân, dù trang bị vũ khí gì hay bất cứ chúng đặt chân
lên nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta cũng kiên quyết đánh bại chúng,
đánh cho đến khi nào không còn bóng một tên xâm lược trên dải đất thân yêu
của chúng ta"[39].
Tháng 12-1965, Hội nghị lần hứ 12 của Trung ương Đảng (khóa III), sau
khi xem xét và đánh giá toàn bộ tình hình, đã kết luận: Ngày nay, mặc dù đế
quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, ực lượng so sánh
giữa ta và địch vốn không thay đổi lớn, tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên
gay go ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục
giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm
mưu trước mắt và lâu dài của địch. Quyết tâm chiến lược của ta là: Động viên
lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước… Phương
châm chiến lược chung của chúng ta là: "đánh lâu dài, dựa vào sức mình là
chính", trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài,
chúng ta cần cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến
trường miền Nam.
Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng là sự kết tinh ý chí kiên cường, trí tuệ
và tài năng sáng tạo của Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta, là ánh sáng soi
đường cho nhân dân cả nước ta tiến lên giành thắng lợi. Các hoạt động tư tưởng
trong những năm 1965 - 1968 đã bám sát Nghị quyết 11, 12 của Trung ương
Đảng và diễn biến của cuộc chiến tranh, làm quán triệt những nhận định của
Đảng, xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất cử loại
chiến tranh nào, trước mắt là đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
197
Những năm 1965 - 1968 các mặt công tác tư tưởng và khoa giáo đều phát
triển. Để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo cụ thể hơn đối với mỗi mặt công tác,
từ tháng 2-1968, theo Quyết định số 1584 ngày 30-l-1968 của Bộ Chính trị, Ban
Tuyên giáo Trung ương được tách ra thành hai ban: Ban Tuyên huấn Trung
ương và Ban Khoa giáo Trung ương.
a) Động viên quân dân miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời
chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất của Mỹ và tích cực chi viện cho miền Nam.
Từ sau ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ ngày càng tăng cường và mở rộng các
hoạt động đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Một vấn đề lớn đặt
ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: Trong điều kiện chiến tranh đang
lan rộng ra cả nước, có thể tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc hay phải dừng lại?
Căn cứ các nghị quyết 11, 12 của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng đã
làm rõ chủ trương của Đảng ta là tiếp tục xây dựng miền Bắc thành hậu phương
chiến lược vững mạnh, bảo đẩm cho kháng chiến chống Mỹ thắng lợi. Là căn cứ
địa của cách mạng cả nước, miền Bắc phải được xây dựng thành hậu phương
chiến lược vững mạnh, bảo dảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
ta giành được thắng lợi. Trong điều kiện trưc tiếp phải đương đầu với cuộc chiến
tranh phá hoại của Mỹ, miền Bắc phải tiếp tục được xây dựng theo phương
hướng kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố và tăng cường quốc
phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại và phong tỏa
của máy bay, tàu chiến Mỹ, đồng thời ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt
cho miền Nam. Sức mạnh của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ là sức
mạnh tổng hợp của chính chúng ta (cả hậu phương lớn và tiền tuyến lớn), và sức
mạnh của thời đại. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chính miền Bắc xã hội chủ nghĩa là một trong những nhân tố tranh thủ sự ủng hộ
của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn quốc tế đối với cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Chỉ có một miền Bắc được xây dựng theo
hướng chủ nghĩa xã hội mới tạo ra sự nhất trí về chính trị và tinh thần của toàn
198
dân với quyết tâm "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược". Chỉ có tiếp tục xây dựng miền Bắc mới có thể tạo được sức người, sức
của để chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trong điều kiện phải chịu tác động lớn của chiến tranh, miền Bắc không thể
giữ nguyên quy mô, tốc độ và phương hướng xây dựng kinh tế như trong thời
bình, mà phải chuyển huớng xây dựng kinh tế sang thời chiến, làm cho việc xây
dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình hình địch tăng cường chiến tranh phá
hoại miền Bắc, bảo đảm yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc
và chi viện cho miền Nam; đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng về lâu dài
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua lo năm xây dựng trong hòa bình,
miền Bắc đã tạo lập được một số nền tảng bước đầu của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, song chúng ta chưa có nhiều khu công nghiệp lớn tập trung,
nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, các cơ sở kinh tế phân tán. Mỹ khó có
thể làm tê liệt nền kinh tế dựa trên cơ sở nông nghiệp, cho dù chúng có thể phá
huy các thành phố và khu công nghiệp. Đồng thời với chuyển hướng về xây
dựng kinh tế, đẩy mạnh xây dựng kinh tế địa phương, cần chuyển hướng cả về
tư tưởng và tổ chức và tăng cường lực lượng quốc phòng phù hợp với tình hình
mới.
Kết quả công tác tư tưởng làm quán triệt các Nghị quyết 11, 12 của Trung
ương Đảng đã góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội của quân và dân ta. Cả miền Bắc chuyển nhanh sang thời chiến. Với bản lĩnh
của một dân tộc đã dày dạn trong đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhân
dân miền Bắc bình tĩnh bước vào cuộc chiến đấu mới. Nhiều sáng kiến của các
địa phương, các ngành, các đoàn thể được phát huy. Hàng loạt phong trào cách
mạng được dấy lên, với hào khí của một dân tộc anh hùng, sục sôi khí thế chống
Mỹ. Giai cấp công nhân thực hiện "tay búa tay súng", đồng bào nông dân thực
hiện "tay cày tay súng". Hàng triệu thanh niên tình nguyện "ba sẵn sàng": sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm; sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất; sẵn sàng đi
bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần. Hàng triệu phụ nữ tình nguyện
"ba đảm đang": đảm đang sản xuất và công tác thay thế cho chồng con đi chiến
199
đấu; đảm đang việc gia đình cho chồng con, anh em đi tòng quân, phục vụ lâu
dài trong quân đội; đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, luyện
tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu. Giới trí thức có phong trào "ba quyết tâm":
quyết tâm phục vụ sản xuất và chiến đấu; quyết tâm đẩy mạnh cách mạng khoa
học kỹ thuật và cách mạng văn hóa, tư tưởng; quyết tâm xây dựng và phát triển
đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng vũ trang thi đua giành danh
hiệu "đơn vị quyết thắng" và "chiến sĩ quyết thắng". Các cụ phụ lão có phong
trào “bạch đầu quân”, các cháu thiếu nhi thi đua "làm nghìn việc tốt", làm công
tác Trần Quốc Toản.
Với tinh thần "mọi việc ta làm đều nhằm chống Mỹ bởi Chủ tịch Hồ Chí
Minh” trên mặt trận lao động sản xuất và bảo vệ sản xuất, chuyển hướng xây
dựng kinh tế, trong những năm 1965 - 1968 quân dân miền Bắc đã làm cho nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa về căn bản được giữ vững, một số ngành còn phát triển
thêm.
Thực hiện Chỉ thị số 104 (tháng 7- 1965) của Ban Bí thư, các hoạt động văn
hoá, văn nghệ phát triển rộng rãi, phong phú, sinh động, góp phần khơi sâu lòng
căm thù đối với bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bồi dưỡng khả
năng sản xuất và chiến đấu của nhân dân, nâng cao sinh hoạt tinh thần của quần
chúng, xây dựng một nền văn hóa xứng đáng với nhân dân ta, phục vụ sự nghiệp
vĩ đại chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Trong chiến tranh, Đảng ta vẫn rất quan
tâm gìn giữ và phát huy văn hoá tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, xây dựng và
củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân các dân tộc, vận động
cải tạo nếp sống cũ, bài trừ mê tín dị đoan, đồi phong bại tục, xây dựng nếp sống
mới và đời sống văn hóa mới phong phú, lành mạnh, văn minh, tiến bộ, đậm đà
bản sắc dân tộc.
Đông đảo văn nghệ sĩ bám sát sản xuất và cuộc sống chiến đấu hào hùng
của dân tộc để sáng tác. Các đội văn công ra tuyến lửa phục vụ đồng bào và
chiến sĩ ngày đêm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong các tác phẩm ca ngợi
những sự tích anh hùng của quân và dân ta ở hai miền trong cuộc chiến đấu
200
chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã nổi lên một số tác phẩm
có giá trị về giáo dục tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Số
sách in ra năm 1965 là 22 triệu bản, năm 1968 tăng lên 30 triệu bản. Số đội
chiếu bóng lưu động năm 1968 tăng gấp hơn hai lần năm 1965. Phong trào văn
nghệ quần chúng phát triển mạnh. "Tiếng hát át tiếng bom" là phong trào ca hát
quần chúng thể hiện khí thế hào hùng, nếp sống lạc quan yêu đời của quân và
dân ta trong những năm chiến tranh. Tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 4
(tháng 1-1968), trong thư gửi Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã biểu
dương những cố gắng và tiến bộ trên lĩnh vực văn nghệ và của các văn nghệ sĩ
từ Đại hội lần trước đến Đại hội lần này, nêu tình hình và nhiệm vụ chung của
quân và dân cả nước kêu gọi văn nghệ sĩ nước ta hãy mạnh dạn sáng tạo, tiến
công liên tục trên mặt trận tư tưởng và văn hóa phục vụ đắc lực cho công cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho cách mạng xã hội chủ nghĩa “hãy xứng
đáng là chiến sĩ anh hùng diệt Mỹ trên mặt trận văn nghệ". Bức thư viết: "Văn
nghệ ta phải có nội dung xã hội chủ nghĩa trong sáng và đậm đà tính chất dân
tộc"... "đối với anh chị em văn nghệ sĩ của ta, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản phải là mục đích và lý tưởng đẹp đẽ nhất: Tổ quốc, nhân dân và cách mạng
là đối tượng phục vụ cao quý nhất; văn hóa và tư tưởng là chiến trường; tác
phẩm văn học, nghệ thuật là vũ khí sắc bén...
Trung ương Đảng tin rằng văn nghệ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước vẻ vang này sẽ đạt tới những đỉnh cao trong lịch sử văn học và
nghệ thuật nước nhà"[40]. Trong chiến tranh ác liệt, mọi hoạt động tư tưởng
(báo chí, đài phát thanh, thông tấn xã, xuất bản, giáo dục chính trị lý luận, văn
hoá văn nghệ) đều được tăng cường. Mỗi đơn vị đều có phương án đảm bảo hoạt
động trong thời chiến, kể cả trong tình huống ác liệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh
và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quan tâm việc chuẩn bị chu đáo,
bảo đảm hoạt động nhanh chóng, liên tục của báo, đài, thông tấn xã trong tình
hình mới. Mạng lưới các phân xã của Việt Nam Thông tấn xã và phóng viên
thường trú của các báo Trung ương ở các địa phương, nhất là vùng tuyến lửa
được hình thành, bảo dảm cho hoạt động thông tin đại chúng luôn luôn đứng ở
201
mũi nhọn sản xuất và chiến đấu, kịp thời tố cáo tội ác dã man của đế quốc Mỹ
trước dư luận trong nước và trên thế giới, khơi sâu chí căm thù, nêu cao những
tấm gương đơn vị và cá nhân sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, tiêu biểu cho tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam. Công tác tư tưởng vừa phát huy những hình thức sinh động, cuốn hút đông
đảo quần chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào hành động của nhân dân, vừa phát
huy truyền thống công tác vận động quần chúng của Đảng đến với từng nhà,
từng người, trong từng trận đánh và trên mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống.
Đông đảo cán bộ, đảng viên bám ruộng đồng, bám nhà máy, bám trận địa, vận
động và tổ chức quần chúng hăng hái sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
xây dựng cuộc sống mới. Qua thử thách trong chiến tranh, miền Bắc thể hiện
tính ưu việt của hậu phương xã hội chủ nghĩa. Một hậu phương trong chiến
tranh ác liệt, đời sống của nhân dân nói chung vẫn ổn định. Một hậu phương chi
viện ngày càng nhiều sức người sức của cho tiền tuyến lớn với tinh thần "thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Một hậu phương đầy tình
nghĩa, các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có người đi chiến đấu hoặc phục
vụ chiến đấu các hộ cô quả, neo đơn, những người bị tai nạn chiến tranh được tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã chăm nom, giúp đỡ. Một hậu
phương vững vàng, kiên cố, không gây rối loạn, hoang mang, nao núng trước sự
đánh phá ác liệt của kẻ thù. Một hậu phương mà ở đó mọi người thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau trong gian khổ, hoạn nạn và thử thách, là niềm tin, niềm thôi
thúc chồng con, anh em họ lớp lớp nối tiếp nhau ra tiền tuyến lớn sát cánh cùng
đồng bào và chiến sĩ miền Nam ngày đêm chiến đấu. Đó là những đóng góp
quan trọng và là kết quả của công tác tư tưởng, đồng thời đó cũng là cơ sở thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả xã hội của công tác tư tưởng.
Đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ tăng cường quốc phòng chiến đấu bảo vệ
miền Bắc và chi viện cho miền Nam, với cố gắng lớn trong công tác tuyên
truyền giáo dục của Đoàn Thanh niên và các cấp, các ngành, phong trào thanh
niên xung phong tòng quân diễn ra sôi nổi, liên tục. Đi bộ đội, ra chiến trường
trở thành nguyện vọng thiết tha của tuổi trẻ. Anh hùng Lê Mã Lương là một
202
trong những tấm gương tiêu biểu "nước còn giặc còn đi đánh giặc", "cuộc đời
đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù". 13 vạn cuốn sách về anh được in ra
và phát hành rộng rãi trong thanh niên. Trong 4 năm 1965 - 1968, đã có 888.641
thanh niên nhập ngũ, trong đó có 336.941 người vào Nam chiến đấu. Các hoạt
động tư tưởng đã thường xuyên cổ vũ phong trào bắn máy bay Mỹ bằng những
vũ khí có trong ta. Khẩu hiệu "nhằm thẳng quân thù mà bắn" của anh hùng
Nguyễn Viết Xuân được cổ vũ mạnh mẽ, đã trở thành hành động của hàng vạn
chiến sĩ bộ đội và dân quân tự vệ. Năm 1965 quân dân miền Bắc đã bắn rơi 834
máy bay Mỹ, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng trăm giặc lái Mỹ, làm cho chúng
bị thiệt hại lớn mà vẫn không đạt được một mục tiêu cơ bản của chiến tranh phá
hoại là ngăn chặn chi viện từ Bắc vào Nam.
Các năm 1966, 1967, 1968 Mỹ ngày càng leo thang đánh phá miền Bắc,
hòng "gây áp lực không thương xót"[41] đối với quân dân ta. Chỉ riêng năm
1967 khối lượng bom đạn chúng dội xuống miền Bắc đã gấp 7 lần năm 1965.
Máy bay Mỹ đánh phá dã man cả vào các chợ, bệnh viện, trường học... tàn sát
hàng ngàn phụ nữ, người già, người bệnh và trẻ em. Từ cuối tháng 4-1967 chúng
mở rộng đánh phá liên tục vào Hà Nội, Hải Phòng; tàu chiến Mỹ tăng cường bắn
phá, phong tỏa đường biển. Các hoạt động tư tưởng, trong không khí sôi sục
chiến đấu, đã chiến đấu, đã nêu cao ý chí Việt Nam thể hiện trong Lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước:
"Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ" Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày
thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn"[42]. Bao năm rên xiết dưới ách thống trị của nước ngoài, nhân dân Việt
Nam hiểu rõ nỗi nhục mất nước và giá trị cao quý của độc lập, tự do. Nền độc
lập, tự do mà nhân dân ta giành được là thành quả mồ hôi xương máu của các
thế hệ người Việt Nam trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Quyết
chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do và thống nhất Tổ
quốc là ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, không gì có thể là
chuyển được.
203
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy mạnh tinh thần yêu nước
của toàn dân vượt qua mọi gian khổ sinh quyết đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn. Mọi mặt sản xuất, xây dựng, chiến đấu được đẩy mạnh. Trên mặt trận bắn
máy bay, tàu chiến Mỹ ngày càng xuất hiện nhiều điển hình cá nhân và đơn vị
đánh giỏi bắn trúng, diệt nhiều máy bay Mỹ, bắn cháy tàu chiến Mỹ.
Giao thông vận tải là mặt trận ngày đêm nóng bỏng. Địch quyết phá để
chặn chi viện của miền bắc cho miền Nam, ta quyết giữ và không ngừng mở
rộng để chi viện ngày càng cao cho tiền tuyến lớn. Thực hiện chủ trương của
Đảng, Chính phủ và của Trung ương Đoàn Thanh niên, các hoạt động tư tưởng
đã góp phần động viên thanh niên tham gia các đội thanh niên xung phong. Chỉ
trong vòng ba tháng, từ tháng 4 đến tháng 7-1965 gần 5 vạn đội viên thanh niên
xung phong lên đường để cùng sát cánh với bộ đội Trường Sơn làm nhiệm vụ
mở đường mới và đảm bảo giao thông vận tải chi viện cho tiền tuyến, vượt qua
bom đạn ác liệt "địch đánh, ta cứ đi". Cuộc chiến đấu trên tuyến đường lửa là
một thiên anh hùng ca. Mỗi đoạn đường Trường Sơn hằng ngày, hằng giờ diễn
ra những sự tích kỳ diệu, sáng chói chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Báo, đài và
nhiều cuốn sách đã liên tục nêu cao ý chí sắt thép của bộ đội Trường Sơn và
thanh niên xung phong "sống anh dũng bám đường, chết kiên cường dũng cảm",
"tim có thể ngừng đập nhưng mạch máu giao thông không thể tắc". Biết bao tấm
gương hy sinh oanh liệt, một trong những tấm gương tiêu biểu là đội nữ thanh
niên xung phong ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh)… Để góp phần giữ vững giao
thông vận tải chi viện cho tiền tuyến, đồng bào các tỉnh Liên khu IV không tiếc
sức người, sức của với tinh thần "xe chưa qua, nhà không tiếc". Vai trò to lớn và
hoạt động sáng tạo của nhân dân ta để đảm bảo giao thông vận tải thông suốt, đã
được khái quát thành câu ca:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong"[43].
Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước họp ngày 30-12-
1966 đã tuyên dương nhiều đơn vị anh hùng và 111 anh hùng cổ vũ mạnh mẽ
204
tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân
dân ta.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng kịp thời chuyển hướng để đảm bảo
yêu cầu lãnh đạo quân dân ta thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách của miền
Bắc. Thực hiện Chỉ thị số 88 - CT/TƯ ngày 2- 1- 1965 của Bộ Chính trị, cuộc
vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965 được tiến hành trong toàn Đảng
nhằm nâng cao ý chí phấn đấu, nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, khắc phục những tư
tưởng lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Học tập kết hợp với tự
phê bình và phê bình, quán triệt nhiệm vụ mới, phát huy tính tiên phong của
đảng viên cộng sản, sẵn sàng đứng ở hàng đầu trên trận tuyến cách mạng. Nhân
dịp những ngày kỷ niệm quan trọng (kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Đảng, 150
năm ngày sinh Các Mác) đều tiến hành các đợt giáo dục chính trị, tư tưởng trong
Đảng.
Trong 5 năm 1964 - 1968 toàn Đảng đã kết nạp được 486.123 đảng viên,
gấp hơn 2 lần các năm 1961 - 1964. Số đảng viên được kết nạp nhiều nhưng số
được huấn luyện còn ít. Kết quả kiểm tra cuối năm 1965 ở 31 đơn vị, có 50.760
đảng viên dự bị nhưng mới huấn luyện được 25.300 đồng chí, tức là chưa được
một nửa. Việc giáo dục đảng viên còn làm theo từng vụ, từng việc, chưa có
chương trình, kế hoạch giáo dục toàn diện và lâu dài. Một số cấp ủy chưa quan
tâm công tác giáo dục đảng viên, có nơi khoán trắng cho cán bộ tuyên huấn. Ban
Bí thư quyết định tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đảng viên. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trực tiếp sửa bản dự thảo kế hoạch mở lớp thí điểm giáo dục đảng viên
mới do Ban Tuyên huấn Trung ương soạn. Ban Tuyên huấn Trung ương phôí
hợp với Thành ủy Hà Nội mở 2 lớp thí điểm: một lớp cho đang viên mới ở các
xí nghiệp công nghiệp, một lớp cho đảng viên mới ở nông thôn. Ngày 14-5-
1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với các học viên trong buổi
khai giảng. Giảng viên đều là các đồng chí lãnh đạo của Đảng phụ trách công
tác xây dựng Đảng và các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp... Bác nói với các
đồng chí học viên: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do
205
chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt. Muốn xây dựng chi bộ "bốn
tốt" thì phải bồi dưỡng lập trường vô sản cho đảng viên. Muốn có lập trường vô
sản vững chắc, thì đảng viên phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận
cách mạng. Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập
trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập..."[44].
Bác căn dặn các đảng viên mới phải học tập nắm vững những hiểu biết cơ bản
về chủ nghĩa cộng sản, về đường lối của Đảng và nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng nước ta, về tổ chức cơ sở của Đảng, nhiệm vụ quyền hạn và phương pháp
công tác của người đảng viên. Bác nhắc nhở: các cô, các chú còn phải nắm được
phương pháp công tác cách mạng của Đảng, ví dụ như cách vận động quần
chúng. Không đi theo đường lối quần chúng của Đảng thì sẽ mắc bệnh quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Bác chỉ thị: "Từ nay trở đi công tác giáo dục
đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy
Phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho chi bộ. Tất cả các đảng viên phải cố gắng
học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của
mình"[45].
Sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm rút
ra từ các lớp thí điểm đã tạo chuyển biến mới trong lãnh đạo của các cấp ủy, đưa
công tác giáo dục đảng viên đi vào có chương trình, kế hoạch tiến hành thường
xuyên, các Truởng Đảng huyện được xây dựng, bộ phận huấn học trong các Ban
Tuyên giáo được tăng cường để bảo đảm thực hiện chương trình kế hoạch giáo
dục đảng viên. Là người quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ,
tháng 3-1967, khi đến thăm lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, được biết
trong tổng số 288 học viên chỉ có 16 cán bộ nữ, Bác phê bình và mong các đồng
chí lãnh đạo các cấp khắc phục bệnh hẹp hòi, không đánh giá đúng khả năng của
phụ nữ, không quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Từ năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng huy hiệu của Người cho
những người tốt làm việc tốt được báo, đài nêu gương. Tháng 6- 1968 Bác mời
các đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên huấn và Bộ Văn hóa để bàn việc xuất bản loại
sách người tốt việc tốt. Bác nói: "Nhìn lại lịch sủ mấy nghìn năm của ông cha ta,
206
ta cũng thấy điều đó. Cứ mỗi lần có những thử thách lớn thì nhân dân ta lại tỏ rõ
khí phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình. Ngày nay, chúng ta lại đang
đứng trước những thử tháeh rất lớn, truyền thống anh hùng hàng nghìn năm
đang được nhân dân ta phát huy đến độ cao chưa từng thấy. Và đã có những
người làm nên sự tích oanh liệt được Đảng và Nhà nước tuyên dương..."[46].
Nhưng dù sao, số người và tập thể được công nhận là anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ
thi đua, được tặng huân chương, huy chương vẫn chỉ là số ít so với hàng triệu,
hàng chục triệu con người hàngngày góp gió thành bão, đang gánh vác mọi việc
nước, việc nhà để đánh thắng giặc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội… Những
chiến công và thành tích nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể nhìn thấy được. Còn
những việc nhỏ, bình thường thôi nhưng ích nước lợi dân thì hay bị xem
thường... Người tốt, việc tốt nhiều lắm, ở đâu cũng có. Ngành giới nào, địa
phương nào, lứa tuổi nào cũng có... Những gương người tốt làm việc tốt muôn
hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người. Lấy gương tốt
trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một
phương pháp, lấy quần chúng giáo dục quần chúng cũng rất sinh động và có sức
thuyết phục rất lớn. Đó cũng là cách thực hành đường lối quần chúng trong công
tác giáo dục.
Bác hỏi các đồng chí lãnh đạo tuyên huấn: Lâu nay các chú tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin như thế nào? kết quả ra sao? Các chú có xem
xét công tác giáo dục thanh niên không? Bác nói: Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác
- Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn,
đều phải làm tròn nhiệm vụ. Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau
có tình có nghĩa. Mấy chục năm nay cán bộ, đảng viên và nhân dân ta thực hành
chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách ra sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng và sống
với nhau có tình có nghĩa. Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân
và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau đó chính là một cách tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thiết thực nhất.
Về loại sách Ngủời tốt, việc tốt sắp làm, Bác căn dặn: Không nên tham viết
dài. Nhân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú
207
phải học cách kể chuyện của nhân dân. Nên kèm theo nhiều tranh vẽ dễ hiểu và
đẹp, nhưng đừng vì vẽ nhiều mà tính đắt quá. Bác góp ý cụ thể về khuôn khổ
cuốn sách, không nên to quá hoặc nhỏ quá. Ngoài bìa cần có dòng chữ Loại sách
người tốt, việc tốt. Phải bàn tập thể để đặt tên sách và viết lời tựa cho đúng, cho
hay. Có sách rồi lại phải biết tuyên truyền, giới thiệu sách cho nhiều người biết
và đọc. Ở trang đầu mỗi cuốn sách đều phải ghi một câu Hoan nghênh bạn đọc
phê bình. Từ nay trở đi, trên sách hay trên báo, các chú nên luôn luôn có câu đó.
Bác biết các chú văn hay chữ tốt, nhưng dù sao nhân dân trăm tay nghìn mắt vẫn
có nhiều ý kiến thông minh giúp các chú tiến bộ hơn.
Thực hiện lời hứa với Bác, Ban Tuyên huấn Trung ương đã tích cực chỉ đạo
biên soạn và xuất bản, đúng ngày 2-9-1986 kỷ niệm ngày Quốc khánh, các cuốn
đầu tiên của loại sách Người tốt, việc tốt ra mắt bạn đọc. Đến giữa năm 1969 đạt
số lượng xuất bản gồm 9 triệu 80 vạn cuốn, được đông đảo người đọc hoan
nghênh, có tác dụng giáo dục sâu sắc. Mục "người tốt, việc tốt" cũng trở thành
một mục thường xuyên của của báo Đảng, đoàn thể. Nêu gương các điển hình
tiên tiến và những người tốt, việc tốt có tác dụng lớn và trở thành một trong
những phương thức chủ yếu của công tác tuyên truyền giáo dục.
Hoạt động tư tưởng ở các địa phương và cơ sở luôn luôn nảy sinh những cái
hay, những cách làm tốt. Năm 1967, từ kinh nghiệm của phong trào thi đua "Hai
giỏi" ở Quảng Bình và cuộc vận động "Báo công” ở "tỉnh tấn Thái Bình", Ban
Tuyên huấn Trung ương đã nghiên cứu tại chỗ, rút kinh nghiệm và kiến nghị với
Ban Bí thư đưa cuộc vận động "Báo công, lập công" thành nền nếp hàng năm
(Chỉ thị số 153 của Ban Bí thư, tháng 6- 196'7). Đây là một hình thức lấy quần
chúng giáo dục quần chúng, nâng cao tính quần chúng của công tác tư tưởng.
Đây là cách giáo dục lấy xây làm chính, nâng cao con người lên, thấy được công
lao, ưu điểm của họ, phát huy ưu điểm để khắc phục khuyết điểm, phát huy
những cái hay, cái đẹp trong mỗi con người.
Từ khi bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, công tác tuyên
truyền đối ngoại đã từng bước được tăng cường. Được sự giúp đỡ của anh em
bạn bè trên thế giới, chúng ta đã tích cực tranh thủ các diễn đàn quốc tế (phong
208
trào không liên kết, Đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Liên đoàn phụ nữ quốc tế,
v.v.) và thông qua các hoạt động ngoại giao, nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa
của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, tố cáo tội ác dã man của Mỹ, tranh
thủ được sự đồng tình ủng hộ to lớn của anh em bè bạn và nhân dân tiến bộ trên
thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Đài phát thanh Cuba dành cho ta một kênh
tiếng Anh phát 6 buổi một ngày để tuyên truyền vào nhân dân Mỹ. Việc củ các
đoàn ra, đón các đoàn vào, kể cả các đoàn người Mỹ tiến bộ, trong đó có nhiều
nhân sĩ, nhà báo, văn nghệ sĩ có tiếng, ngày càng mở rộng. Được tận mắt chứng
kiến cuộc chiến đấu chính nghĩa, hào hùng của quân dân ta và tội ác dã man của
đế quốc của Mỹ, những người đến Việt Nam đều lên án cuộc "chiến tranh bẩn
thỉu" của Mỹ, khâm phục và đồng tình ủng hộ nhân dân ta. Tòa án Bertrand
Roussel kết tội đế quốc Mỹ, đã gây ảnh hưởng rộng rãi trong dư luận tiến bộ
trên thế giới. Những kết quả đó đã góp phần từng bước hình thành mặt trận
thống nhất ba nước Đông Dương chống Mỹ và mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam, xây dựng hậu phương quốc tế cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân ta.
Hội nghị lần thứ 13 của Trung ương Đảng (1- 1- 1967) chủ trương đẩy
mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, song song với đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị, phối hợp giữa các mặt đấu tranh đó để giành
thắng lợi to lớn hơn nữa. Quán triệt nghị quyết Trung ương, các hoạt động tư
tưởng đã vạch trần những thủ đoạn "hòa bình" giả hiệu của Mỹ, nêu cao lập
trường bốn điểm của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và tuyên bố năm
điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, trước mắt đòi Mỹ phải chấm
dứt không diều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh
khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Thắng lợi vang dội của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1968 ở miền Nam và thắng lợi chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
Mỹ đối với miền Bắc đã buộc tổng thống Mỹ đêm 3 1-3-1968 phải tuyên bố
ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta ở Pari.
Thực hiện chủ trương của Đảng "vừa đánh vừa đàm", quân dân miền Bắc tiếp
209
tục đánh thắng máy bay và tầu chiến Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào, tăng cường chi
viện cho miền Nam với khối lượng lớn để đánh thắng "chiến tranh cực bộ" của
Mỹ. Ngày 1- 11- 1968 Tổng thống Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn
việc ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam dân
chủ cộng hòa, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt
Nam, thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam trong Hội nghị.
Các hoạt động tư tưởng đã nêu cao thắng lợi của ta, sự thất bại không sao
cưỡng lại được của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Vỉệt Nam và
tuyên truyền phổ biến rộng rãi Lời kêu gọi ngày 3-11-1968 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc. Song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và
xảo quyệt... Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng
cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc… Hễ còn một tên xâm lược trên
đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi"[47].
b) Động viên quân dân miền Nam đánh bại các cuộc phản công chiến lược
của Mỹ, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của chúng.
Trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -
1964), đối tượng tác chiến trực tiếp và đấu tranh trực diện về chính trị của quân
và dân ta ở miền Nam chủ yếu là ngụy quân, ngụy quyền được Mỹ chỉ huy,
huấn luyện và tài trợ. Nay trong "chiến tranh cục bộ" quân dân ta ở miền Nam
phải trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ và quân đội tay sai, với bộ
mày chiến tranh khổng lồ chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược nước
ta.
Chúng ta quyết đánh, nhưng bằng cách nào đê đánh thắng Mỹ vẫn là một
câu hỏi lớn, một vấn đề tư tưởng mà Đảng ta, quân dân ta phẫi giải quyết trong
thự tiễn chiến đấu.
Ngày 8-3- 1965 đơn vị đầu tiên của lữ đoàn số 9 lính thủy đánh bộ Mỹ đổ
bộ lên Đà Nẵng (tỉnh Quảng Đà - khu V). Mở đầu kế hoạch, Mỹ đưa ồ ạt quân
210
viễn chinh vào miền Nam Việt Nam, triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ".
Lúc đầu, trước đối tượng tác chiến mới, có xã khi quân Mỹ đến càn, du kích
"chạy xà đùa", chưa dám đánh; một số các bà, các chỉ chưa dám đấu tranh chính
trị trực diện với quân Mỹ.
Nghị quyết của Thường vụ tỉnh ủy Quảng Đà khẳng định quyết tâm: "Miền
Nam chưa được giải phóng thì còn đánh, chiến tranh gì cũng đánh, đối tượng
nào cũng đánh, địch đông bao nhiêu cũng đánh, lâu bao nhiêu cũng đánh,…
Chúng ta có nhiệm vụ đánh Mỹ trước tiên bằng "hai chân, ba mũi" để đóng góp
kinh nghiệm cho toàn miền và góp phần đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc
Mỹ". Tỉnh ủy gửi thư động viên quân dân toàn tỉnh kiên quyết đánh Mỹ. Ban
Tuyên giáo phối hợp với các ngành, các đoàn thể tiến hành cuộc vận động “Nhà
nhà đón thư Đảng bàn việc chống Mỹ, cứu nước", "Toàn dân hiến kế đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược". Huyện Hòa Vang lập vành đai diệt Mỹ"[48]. Khu ủy V lãnh
đạo đánh trận phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành (đêm 26-5- 1965) diệt gọn một đại
đội, thu toàn bộ vũ khí. Tiếp đó là chiến thắng lớn của quân dân ta ở Vạn Tường
(8- 1965), đánh bại trận ra quân rầm rộ, hiệp đồng binh chủng đầu tiên của quân
Mỹ trên một khu vực do chúng lựa chọn...
Công tác tuyên truyền của ta đã nêu rõ chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường
chứng tỏ quân dân ta có khả năng đánh bại quân Mỹ mặc dù chúng có ưu thế về
số lượng, hỏa lực và sức cơ động. Tiếp đó, trong thu - đông 1965, quân dân Nam
Bộ và Tây Nguyên liên tiếp đánh thắng các đơn vị có tiếng là thiện chiến của
Mỹ (Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn 173, Sư đoàn bộ binh số "anh cả
đỏ") như các trận Plây Me (Tây Nguyên), Dất Cuốc, Bàu Bàng, Dầu Tiếng...
(Nam Bộ). Những chiến thắng đó được thông tin nhanh chóng làm nức lòng
quân dân cả nước và là thực tế chứng minh quân dân ta ở miền Nam chẳng
những dám đánh Mỹ mà còn biết đánh thắng các quân, binh chung Mỹ, chẳng
những đánh tiêu hao mà còn có khả năng đánh tiêu diệt từng đơn vị Mỹ, làm chủ
chiến trường. Tháng 1- 1966, bộ đội địa phương và du kích Củ Chi (thuộc quân
khu Sài Gòn - Gia Định) bám trụ địa bàn, bằng cách đánh mưu trí, sáng tạo,
đánh bại cuộc tiến công của Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn "anh cả đỏ" của Mỹ,
211
diệt hàng ngàn tên; hơn 2.000 lượt quần chúng đấu tranh chính trị trực diện với
quân Mỹ. Tháng 2- 1966 Bộ Tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết
chiến tranh nhân dân địa phương trên địa bàn huyện Củ Chi rút ra 10 bài học
kinh nghiệm đanh Mỹ:
- Ai cũng đánh được Mỹ.
- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.
- Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ cũng đánh và đều đánh
thắng.
- Ở đâu cũng đánh được Mỹ. Đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đồng
lầy. Chỉ cần tích cực bám dịch, tìm địch mà đánh là được.
- Đánh cả ở trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng
cao quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt.
- Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ.
- Đánh bằng vũ trang, đánh bằng chính trị, đánh cả bằng binh vận.
Những kinh nghiệm phong phú nói trên của quân và dân ta là cơ sở thực
tiễn để tiến hành công tác tư tưởng có sức thuyết phục cao, từng bước giải quyết
những băn khoăn của đồng bào và chiến sĩ ta trong thời gian đầu trực tiếp chiến
đấu với quân Mỹ. Từ chỗ dám đánh, quân và dân ta đã tiến lên biết cách đánh
thắng Mỹ. Quyết tâm kháng chiến và niềm tin chiến thắng được củng cố vững
chắc hơn. Phong trào "tìm Mỹ mà diệt", thi đua trở thành "dũng sĩ diệt Mỹ" phát
triển rộng khắp. Để tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, năm 1966 khu
ủy V xuất bản báo Cờ giải phóng với danh nghĩa cơ quan của Đảng Nhân dân
Cách mạng miền Nam khu V.
Triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", cùng với quân. Mỹ và quân chư
hầu ồ ạt kéo vào miền Nam Việt Nam, chiến tranh bằng bom đạn, chiến tranh
bằng thuốc độc hóa học chiến tranh tâm lý, văn hóa được Mỹ - nguỵ tăng cường
đến cực độ. Ở Sài Gòn và các đô thị khác, địch khủng bố và kiểm soát rất gắt
gao, nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng bộ và cần cán bộ hoạt động bí mật, phong
trào đấu tranh của nhân dân và các giới báo chí, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh,
212
sinh viên yêu nước, trên mặt trận tuyên truyền, báo chí, văn hóa diễn ra sôi
động.
"Nội các chiến tranh" mới của Thiệu - Kỳ quyết định đóng cửa các báo ở
Sài Gòn trong một tháng, từ ngày 1-7-1965 là để "chấn chỉnh báo chí". Báo chí
thành phố lập tức họp Đại hội bất thường, các báo đều đăng ở trang nhất trong
khung đen dòng chữ "Chúng tôi cực lực phản đối quyết định đó của tất cả các
báo". Nhân dân Sài Gòn ủng hộ mạnh mẽ các báo. Chính quyền Sài Gòn buộc
phải rút lệnh đóng cửa xuống ba ngày. Trước tình hình cac biểu hiện văn hóa nô
dịch và đồi truỵ phát triển làm nhức nhối mọi người dân yêu nước, dưới sự lãnh
đạo của thành ủy, Đảng ủy văn hóa và Ban Trí vận Sai Gòn tiến hành cuộc vận
động phong trào quần chúng bảo vệ van hóa dâTl tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ
Việt Nam, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt Nam. Tháng 6-1966, 118 văn
nhân, nghệ sĩ, ký giả Sài Gòn ra tuyên bố tố cáo văn hóa đồi truỵ, phản dân tộc.
Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc ra đời ngày 7-8-1966 với lời kêu gọi: "Phải
cứu lấy văn hóa chúng ta", đã tập hợp được đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ, các
nhà hoạt động xã hội thuộc những khuynh hướng chính trị khác nhau. Tờ Tin
văn, cơ quan ngôn luận của Lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc (do Thành ủy
lãnh đạo) có ảnh hưởng lớn trong dư luận, quy tụ được rất đông các cây bút yêu
nước, nhiều người dân thường ở Sài Gòn gom góp tiền bạc để báo Tin văn sống
được và phục vụ phong trào. Cuộc thảo luận trên báo Tin văn về bảo vệ văn hóa
dân tộc (8- 1966), chống văn hóa đồi truỵ và những nguyên nhân trực tiếp, chính
yếu của văn hoá đồi truỵ đã đưa đến chỗ động viên chống chiến tranh xâm lược,
chống sự có mặt của quân đội nước ngoài (Mỹ). Phong trào bảo vệ văn hóa dân
tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ Việt Nam, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt
Nam không chỉ lên mạnh ở Sài Gòn mà phát triển nhanh và rộng ra các thành
phố và các tỉnh miền Nam. Lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc còn thành lập Nhà
xuất bản Đồ Chiểu.
Một trong các tác phẩm đầu tiên được in là Mười bài sứ ca (1967) tập hợp
các ca khúc nổi tiếng (Hội nghị Diên Hồng. Ải Chi Iăng, Bạch Đãng Giang, Lên
Đàng...). Những khúc tráng ca này đã góp phần hun đúc tinh thần tự hào dân tộc
213
vốn tiềm ẩn trong tâm hồn thế hệ trẻ. Mỹ - Thiệu tức tối đóng cửa báo Tin văn
và Nhà xuất bản Đồ Chiểu. Hai phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vẹ nhân
phẩm phụ nữ Việt Nam tuy bị Mỹ - Thiệu đàn áp, giải tán, nhưng đã ghi lại
những thành tích đấu tranh rất đáng trân trọng của nhân dân miền Nam, các ký
giả, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước miền Nam chống Mỹ -
nguỵ trên mặt trận văn hóa[49].
Từ tháng 1 đến tháng 4-1966 Mỹ - Ngụy sử dụng 72 vạn quân cùng nhiều
phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc phản công chiến lược thứ nhất vào hai
chiến trường trọng điểm: miền Đông Nam Bộ và khu V, nhằm tiêu diệt một bộ
phận quan trọng quân chủ lực của ta, phá căn cứ, kho tàng của ta, giành lại
quyền chủ động chiến trường, mở rộng và củng cố vùng chiếm đóng của chúng.
Nhưng chúng đã bị quân và dân ta ở Đông Nam Bộ và khu V đánh bại. Các hoạt
động tư tưởng đã nêu cao ý nghĩa chiến thắng của quân dân Đông Nam Bộ và
khu V đánh bại ngay từ đầu chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, qua chiến
đấu, quân dân ta hiểu biết thêm về khả năng tác chiến và quy luật hoạt động của
quân Mỹ và chư hầu, có thêm kinh nghiệm về cách đánh thắng chúng.
Phát huy thắng lợi đông xuân 1965 - 1966, thực hiện Chỉ thị ngày 26-6-
1966 của Thường vụ Trung ương cục, các đảng bộ ở miền Nam tăng cường
công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng động viên toàn đảng, toàn quân,
toàn dân nỗ lực vượt bậc, quyết chiến, quyết thắng giành thắng lợi to lớn trong
năm 1967. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đặt thành công tác trọng
tâm hàng đầu, nhằm xây dựng con người quyết chiến quyét thắng giặc Mỹ xâm
lược để cứu nước "phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam. Năm 1967, các đảng bộ địa phương tiến hành ba đợt giáo dục chính trị tư
tưởng: Đợt mùa Xuân sinh hoạt chính trị theo lời chúc năm mới của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; đợt mùa Hè học tập nghị quyết của cấp trên, tiến hành chỉnh huấn;
đợt mùa Đông động viên chính trị, quán triệt nhiệm vụ đông xuân 1967 - 1968.
Kết quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng năm 1967 đã nâng cao ý chí
quyết chiến quyết thắng cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và quần chúng, củng cố
214
sự vững vàng trong nội bộ đồng thời góp phần tiến công mạnh vào các hoạt
động chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng rất xảo quyệt của địch.
"Vì miền Nam ruột thịt" là ý chí và hành động của quân dân miền Bắc chi
viện hết sức mình cho cách mạng miền Nam. "Tìm Mỹ mà đánh", "tìm ngụy mà
diệt" là ý chí và hành động của quân dân miền Nam chia lửa với miền Bắc, góp
phần bảo vệ miền Bắc. Công tác tuyên truyền đã nêu cao những hoạt động phối
hợp giữa quân dân cả nước: miền Nam gọi, miền Bắc trả lời, miền Bắc gọi, miền
Nam trả lời. Năm 1966 - 1967 hơn 5 vạn bộ đội và hàng vạn tấn vũ khí, phương
tiện chiến tranh được chuyển từ miền Bắc vào miền Nam. Hòa nhịp với phong
trào "thanh niên ba sẵn sàng", "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" ở miền Bắc,
thanh niên miền Nam đẩy mạnh phong trào "năm xung phong". Các đoàn cán bộ
quân sự và cán bộ các ngành, trong đó có hàng ngàn cán bộ thông tin, báo chí,
văn hóa, giáo dục và nhiều phương tiện công tác tăng cường cho miền Nam. Với
lực lượng ngày càng được tăng cường, quân dân miền Nam đánh mạnh, đánh
hiểm giáng cho địch những đòn đau, và tích cực chuẩn bị mọi mặt, quyết tâm
đánh bại những cố gắng cao nhất của Mỹ trong mùa khô l966-1967
Mùa khô 1966 - 1967, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng bẻ gãy cả ba
cuộc hành quân quy nô lớn: Atơnbơrơ, Xêđaphôn và Gianxơnxiti của hơn 1 triệu
quân Mỹ - ngụy. Phối hợp chiến đấu với quân dân miền Nam, ngày 73-1967
pháo binh miền Bắc bất ngờ bắn phá vào các vị trí địch ở bên kia sông Bến Hải,
mở mặt trận mới, tiến công tuyến phòng ngự đường 9 của địch, làm nức lòng
quân dán cả nưóc và buộc địch phải bị động đối phó.
Gọng kìm "bình định" diễn ra rất phức tạp và quyết liệt. Mỹ - nguỵ liên tục
mở các cuộc càn quét khủng bố nhân dân san ủi làng mạc, phá phách rụộng
vườn, dùng cả máy bay ném bom bắn phá và rải chất độc hóa học làm cho đồng
bào ta ở nhiều nơi lâm vào cảnh tan đàn xe nghé, mất sạch tài sản, sống cảnh
màn trời chiếu đất rất cơ cực. Bằng những hành động dã man đó, chúng hy vọng
tách cán bộ, bộ đội, du kích ra khỏi nhân dân mỗi xóm, ấp để tiêu diệt, song
chúng đã thất bại. Dù địch chà đi xát lại nhiều lần, nhưng lực lượng cách mạng ở
cơ sở, nòng cốt là các đảng viên và tổ chức đảng đã dày dạn trong chiến đấu,
215
vẫn kiên trì thực hiện "ba bám" tuyên truyền vận động và tổ chức quần chúng
phát triển chiến tranh du kích đánh trả các cuộc càn quét của địch, tiêu hao sinh
lực chúng, diêt bọn "cán bộ bình định", huy động hơn 1 triệu lượt người tham
gia đấu tranh chống địch càn quét khủng bố, bắn pháo, ném bom, rải chất độc
hóa học, bắt lính đôn quân. Phong trào toàn dân làm công tác binh vận phát triển
kế hoạch của Thiệu bắt lính, đưa quân chủ lực lên 70 vạn tên gặp khó khăn, đôn
trên thì hổng dưới; kế hoạch vơ vét l triệu tấn thóc ở đồng bằng sông Cửu Long
cũng thất bại Kết thúc mùa khô năm 1967, Mỹ đánh giá chương trình bình định
và phát triển nông thôn của Việt Nam Cộng hỏa đã thất bại.
Trên cơ sở đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ, cach
mạng miền Nam đã tạo được thế chiến lược mới để tiến lên giành thắng lợi to
lớn hơn. Quân Mỹ ở Nam Việt Nam đã phải lùi dần về chiến lược phòng ngự.
Thương vong ngày càng lớn của quân Mỹ dội về nước, chọc thủng màn bưng bít
của chính quyền Mỹ. Cuộc đấu tranh của nhân dân và thanh niên tiến bộ Mỹ
chống chính sách của chính phủ Mỹ tiến hành chiến tranh âm lược Việt Nam
ngày càng phát triển làm cho nhà cầm quyền Mỹ thêm khó khăn cả ở trong nước
và trên mặt trận ngoại giao, nhất là trong thời điểm sắp chuyển sang năm 1968 là
năm bầu cử Tổng thống mới của Mỹ.
Tháng 6- 1967, căn cứ những diễn biến thực tế trên chiến trường, Hội nghị
Bộ Chính trị nhận định nhưng thắng lợi to lớn, toàn diện mà quân và dân ta
giành được trên cả hai miền Nam, Bắc đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến
lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đẩy chúng vào thế lúng túng và bị động cả về
chiến lược lẫn chiến dịch. Về phía ta, thế và lực đang có những tiến bộ, cho
phép ta trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đây mạnh nỗ lực chủ quan đến
mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn.
Thực hiện mục tiêu đó, các đảng bộ ở miền Nam dặc biệt coi trọng công tác tư
tưởng trong Đảng quân đội và nhân dân. Tháng 9- 1967 Đại hội anh hùng, chiến
sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ lần thứ hai biểu dương mạnh mẽ thắng lợi to lớn của
quân dân miền Nam chống "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Các hoạt động tuyên
truyên giáo dục đã nêu cao những tấm gương chiến đấu dũng cảm và mưu trí
216
của các anh hùng dũng sĩ, nhằm tạo một khí thế sục sôi cách mạng hết sức khẩn
trương, thừa thắng xông lên liên tục tiến công, đè bẹp ý chí xâm lược của giặc
Mỹ. Thực hiện hướng dẫn của Trung ương cục, các cấp ủy đảng tiến hành củng
cố các Ban Tuyên ìluấn, tăng cường cán bộ, bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ và
hướng dẫn công tác để Ban Tuyên huấn các cấp giúp cấp ủy đắc lực hơn trong
lãnh đạo công tác phát động tư tưởng quần chúng. Lúc này công tác phát động
quần chúng là cực kỳ quan trọng vì cách mạng miền Nam đang đứng trước một
giai đoạn lịch sử đặc biệt với quyết tâm chiến lược lớn, cuộc chiến đấu sắp tới sẽ
diễn ra rất quyết liệt và phức tạp.
Trên cơ sở phân tích toàn bộ tình hình ta, địch, tình hình trong nước và trên
thế giới, tháng 1- 1968, Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng quyết định
"chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thế
kỷ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Thực hiện Nghị quyết của Trung
ương Đảng, các đảng bộ ở miền Nam, lực lượng vũ trang và chính trị trên khắp
các chiến trường từ vùng núi đến nông thôn đồng bằng và các đô thị khẩn
trương chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy.
Đêm 20-1-1968, chủ lực ta bất ngờ tiến công mãnh 1, tập đoàn cứ điểm Khe
Sanh ở tây Quảng Trị trên Đường Phòng tuyến Mắc Namara của Mỹ nhằm ngăn
chặn chi viện của miền Bắc cho miền Nam bị uy hiếp nghiêm trọng. Giữa lúc
địch đang bị động chống đỡ ở Đường 9 Khe Sanh, đêm 30-1- 1968 (30 tết Mậu
Thân) lực lượng vũ trang ta mở cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt ở 41 thành
phố, thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn trên toàn miền Nam, đánh trúng nhiều
sào huyệt và cơ quan đầu não của địch, đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài
Gòn, Huế... Về chính trị, chính sách đại đoàn kết dân tộc, chĩa mũi nhọn vào
giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai giành thêm một thắng lợi mới: tại Huế và Sài
Gòn, Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình được thành lập và sau đó Liên
minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Nam Việt Nam ra đời (20-4-
1968), kêu gọi các tầng lớp nhân dân, trí thức đứng lên chống Mỹ - ngụy. Bị tiến
công bất ngờ, mãnh liệt và rộng khắp. địch hoang mang rối loạn. Quân Mỹ phải
217
rút chạy khỏi Khe Sanh (Quảng Trị). Nhưng ngay sau đó, chúng nhanh chóng tổ
chức lực lượng phản kích quyết liệt.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được mở ra đã thu hút sự
quan tâm đặc biệt của nhân dân trong nước và dư luận tiến bộ trên thế giới. Các
hoạt động tư tưởng trong cả nước, nhất là báo chí, đài phát thanh, đã bám sát
diễn biến tình hình, thông tin nhanh chóng chiến thắng lớn của ta, thất bại nặng
nề của địch. Đặc biệt nêu rõ ý nghĩa cuộc tổng tiến công và nổi dậy diễn ra đồng
loạt với quy mô lớn chưa từng có trên toàn miền Nam. Đây là lần đầu tiên quân
ta đánh thẳng vào sào huyệt, hang ổ và các cơ quan đầu não của địch, gây hoang
mang lớn trong đội ngũ của chúng. Cuộc tiến công mạnh mẽ của quân dân ta đã
làm cho kế hoạch chiến tranh và thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn, Mỹ -
Ngụy càng lún sâu hơn vào thế bị động về chiến lược. Ở miền Nam, Trung ương
cục liên tiếp ra 2 chỉ thị (ngày 1-2 và ngày 27-2- 1968) hướng dẫn công tác
tuyên truyền, cổ vũ mạnh mẽ quan dân miền Nam thừa thắng xốc tới và đẩy
mạnh công tác binh vận. Khuyết điểm của công tác tư tưởng trong đợt này là
chưa làm rõ tổng tiến công và nổi dậy là một giai đoạn quyết liệt, không phải
"làm cái rụp" là xong; không uốn nắn kịp thời tư tưởng chủ quan, đánh giá quá
thấp khả năng phản kích của địch.
Thắng lợi của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã gây
chấn động lớn trong chính giới và trong nhân dân Mỹ, bóc trần những luận điệu
lừa bịp lâu nay của chính quyền Mỹ đối với nhân dân nước họ, làm bùng lên
phong trào nhân dân Mỹ đòi giới cầm quyền Mỹ xem xét lại chính sách tiến
hành chiến tranh Việt Nam, đòi chấm dứt dính líu của Mỹ trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam. Trước sức ép nặng nề từ nhiều phía, ngày 25-3- 1968 Tổng
thống Mỹ Giônxơn buộc phải quyết định thay đổi chiến lược quân sự ở Việt
Nam, từ "tìm và diệt" lui về "quét và giữ"; tăng cường quân nguỵ để đối phó với
ta, từng bước thực hiện "phi Mỹ hóa chiến tranh", giảm sự dính líu trên bộ của
Mỹ ở Nam Việt Nam, ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Ngày 13-5-1968 Mỹ buộc phải cử đại biểu đến Pari đàm phán với ta, song mặt
khác chúng vẫn tập trung đánh phá vùng khu IV cũ rất ác liệt, đồng thời mở các
218
cuộc phản kích ở miền Nam, đẩy lực lượng của ta ra xa các đô thị và ráo riết tiến
hành "bình định cấp tốc" nhằm giành giật lại các vùng nông thôn đã mất, hy
vọng bằng biện pháp quân sự, giành được thế mạnh trong đàm phán.
Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta, cuộc tiến công và nổi
dậy mùa Xuân 1968 đã đạt thắng lợi ta lớn. Nhưng mặt yếu là phong trào nổi
dậy và công tác binh vận, địch vận còn kém, trước những khó khăn mới, ta
không chuyển kịp để tiếp tục tiến công đợt hai và đợt ba khi yếu tố bất ngờ đã
không còn và lực lượng bị tiêu hao chưa kịp củng cố. Lợi dụng sơ hở của ta do
dồn lực lượng đánh vào đô thị, không củng cố vững chắc vùng đã giành quyền
làm chủ ở nông thôn, những tháng cuối năm 1968 địch dồn sức tiến hành các
chiến dịch bình định giành lại hầu hết những khu vực đã mất trong các đợt chiến
dịch bình định giành lại hầu hết những khu vực đãmats trong các đợt tiến công
và nổi dậy.
Trước những diễn biến mới của tình hình, đã xuất hiện những đánh giá khác
nhau về kết quả tiến công và nổi dậy, nảy sinh tâm hoài nghi bi quan. Căn cứ
vào những nhận định của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng đã nêu rõ ý nghĩa
thắng lợi, mà ý nghĩa lớn nhất là một đòn quyết định làm phá sản chiến lược
"chiến tranh cục bộ", bước leo thang cao nhất của Mỹ trong chiến tranh xâm
lược Việt Nam, từ đó làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo nên bước
ngoặt mới của chiến tranh. Thắng lợi to lớn đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo của
Đảng và là kết qua của tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta, sự hy
sinh to lớn của đồng bào và chiến sĩ. Đảng ta đã đánh giá đúng ý nghĩa của
thắng lợi, đồng thời cũng nhận rõ những khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ dạo
của Đảng: "Chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên dù đề ra yêu cầu
chưa thật sát với tình hình thực tế, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh
nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp
thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta,
không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm
giành lại những vùng đã mất". "Ta cứ đánh mãi trong khi chúng ta đã bị tiêu hao
nặng, mất dân, mất đất nhiều". Sau tết Mậu Thân ta chuyển chậm, chủ trương
219
tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ
đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất" (Nghị quyết 21 của
Trung ương Đảng). Tuy nhiên, "cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
(1968) vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng"[50].
2. Động viên quân dân cả nước đánh bại những hành động chiến tranh
mới của Mỹ, đánh cho "Mỹ cút, nguy nhào", giải phóng hoàn toàn miền
Nam (1969-1975)
Ngày 1-1-1969, nhân dịp năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc
chiến sĩ và đồng bào ta "năm mới đoàn kết, chiến đấu, thắng lợi". Người khẳng
định: "Chắc chắn giặc Mỹ sẽ hoàn toàn thất bại. Quân và dân ta trong cả nước
thừa thắng xông lên, nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn"[51]. Người kêu gọi quân
và dân ta:
"Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! chiến sĩ, đồng bào,
Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!"[52].
Các hoạt động tư tưởng liên tục tuyên truyền rộng rãi thư chúc Tết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức sinh động, soạn thành bài hát phổ cập
rộng rãi trong nhân dân, thanh niên và lực lượng vũ trang... "Đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào" là tiếng kèn xung trận, động viên quân và dân cả nước
quyết tâm chiến đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam.
a) Vạch rõ âm mưu mới của Mỹ, động viên quân và dân miền Nam đánh
thắng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh "
"Việt Nam hóa chiến tranh" là một chiến lược rất thâm độc của Mỹ nhằm
sử dụng sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và
ngoại giao xảo quyệt nhằm giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng
chiến của nhân dân ta. Buộc phải tuyên bố rút quân Mỹ về nước nhưng Mỹ vẫn
ngoan cố tiến hành chiến tranh để duy trì chế độ thực dân mới ở Nam Việt Nam.
Chúng rút quân nhỏ giọt để tránh ảnh hưởng đột ngột đến tinh thần quân ngụy
220
và so sánh lực lượng trên chiến trường. Chúng tập trung nỗ lực xây dựng quân
ngụy để thay thế quân Mỹ trong chiến đấu trên bộ ở Nam Việt Nam và là lực
lượng xung kích trên toàn chiến trường Đông Dương. Biện pháp then chốt của
chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" là tiến hành "bình định nông thôn" nhằm
giành dân, kiểm soát đại bộ phận dân chúng, đánh bật lực lượng cách mạng ra
khỏi các thôn ấp, vơ vét người và của, triệt phá cơ sở hạ tầng, triệt nguồn bổ
sung nhân lực và hậu cần tại chỗ của lực lượng cách mạng. Năm 1969 và những
tháng đầu năm 1970 là giai đoạn Mỹ - ngụy triển khai quyết liệt kế hoạch "bình
định nông thôn". Sau tổng tiến công và nổi dậy, các đảng bộ ở miền Nam tiến
hành sinh hoạt chính trị trong Đảng và các lực lượng vũ trang nhằm đánh giá
đúng thắng lợi, giữ vững và nâng cao ý chí chiến đấu khắc phục những tư tưởng.
Ở Nam Bộ Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương cục quyết định tiến hành sinh
hoạt chính trị, giáo dục tư tưởng trong đang theo nội dung "5 xây, 5 chốn":
- Xây dựng nhận thức sâu sắc thấu triệt quyết tâm chiến lược của Đảng,
chống các biểu hiện tư tưởng hoài nghi, bi quan.
- Xây dựng lập trường chính trị kiên định và tinh thần liên tục tiến công
chống hữu khuynh co thủ, ngại ác liệt, sợ hy sinh, chần chừ, thoái lui hoặc nôn
nóng, mất cảnh giác.
- Xây dựng quan điểm quần chúng vững chắc, chống quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời quần chúng, thiếu tin ở khả năng của quần chúng, không chăm lo đời sống
quần chúng.
Xây dựng thức tổ chức ky luật cao, chống tự do vô kỷ luật, tùy tiện, hẹp
hòi, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, độc đoán.
Xây dựng tác phong tích cực, khẩn trương, cụ thể, táo bạo, linh hoạt trên cơ
sở giữ vững nguyên tắc, chống tác phong lề mề, luộm thuộm, tản mạn, không
kiểm tra đôn đốc, đánh trống bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột.
Trong các đoàn thể quần chúng, sinh hoạt chính trị theo chủ đề "Không có
gì quí hơn độc lập, tự do". Tăng cường các hoạt động chống chiến tranh tâm lý
của địch.
221
Vượt lên trên những khó khăn, gian khổ, hy sinh, xuân - hè năm 1969 quân
dân khu V và Nam Bộ đã đánh nhiều trận tiêu diệt địch, chống phá càn quét của
địch ở vùng nông thôn; ở đô thị đã nổ ra một số cuộc đấu tranh lớn của công
nhân như cuộc đấu tranh của 30 vạn công nhân vận tải toàn miền Nam. Tháng 6
- 1969 Đại hội đại biểu quân dân miền Nam họp và thành lập Chính phủ cách
mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Đây là một thắng lợi quan trọng về chính
trị và đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao của ta.
Trên chiến trường do ta chậm nhận thấy nhưng cố gắng mới của địch và âm
mưu mới của chúng, không kịp thời chuyển hướng củng cố vùng nông thôn bị
tổn thất nặng, vùng giải phóng ở đồng bằng bị thu hẹp, nhiều nơi mất đất, mất
dân, cán bộ, du kích ở cơ sở phần bị hy sinh, phần bị bật ra vùng giáp ranh,
nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ không còn địa bàn phong trào, bộ đội ta bị tiêu hao chưa
kịp bổ sung phải rút về các vùng rừng núi. Nguồn tiếp tế từ đồng bằng lên rất
khó khăn, ở khu V bộ đội, cán bộ (có một số cán bộ tuyên huấn) nhiều người bị
hy sinh trong khi đi thu gom, vận chuyển lương thực. Đời sống cán bộ, đồng bào
tại các căn cứ và vùng giải phóng hết sức gian khổ, thiếu thốn.
Một số cán bộ, Đảng viên, sau khi chính quyền Mỹ tuyên bố sẽ rút quân Mỹ
về nước, sinh chủ quan, mất cảnh giác, khi địch phản kích mạnh, thì hoang
mang, bối rối, cho rằng “tình hình chung thì sáng, nhưng ngược lại tình hình địa
phương thì tối”. Thiếu tin ở phương châm chiến lược trên cơ sở đánh lâu dài,
phấn đấu giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, có tình
trạng nghe nói “dài” thì ngán, nghe nói “ngắn” thì không tin. Trước những khó
khăn, tổn thất, một bộ phần cán bộ, Đảng viên và lực lượng vũ trang xuất hiện tư
tưởng bi quan, dao động, ngại gian khổ, sợ hy sinh, ngại bám trụ chiến trường,
có một số thoái lui về phía sau, thậm chí ra hàng địch.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Nhân dân và các lực lượng
vũ trang ta ở miền Nam, từ nông thôn đến đô thị, từ vùng giải phóng đến các xã,
ấp còn bị địch kìm kẹp, cả những đồng bào, đồng chí còn bị địch giam giữ trong
tù ngục, bằng nhiều hình thức tỏ lòng tiếc thương vô hạn và ghi nhớ công ơn
Người, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta. ở Sài Gòn, nhiều tờ báo viết
222
bài và đăng hình Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trang trọng. Các đảng bộ tổ chức lễ
tang Bác và tiến hành công tác giáo dục tư tưởng, giữ vững niềm tin tất thắng
vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương
đảng, biến đau thương thành sức mạnh thực hiện các nghị quyết của Đảng, kiên
quyết đánh bại âm mưu mới của địch, chống các luận điệu chiến tranh tâm lý
của chúng.
Mùa thu năm 1969, Bộ Chính trị chỉ đạo các chiến trường "chuyển hướng
hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch". Sự chuyển
hướng trong chỉ đạo của Bộ Chính trị phù hợp với yêu cầu bức xúc của tình
hình, đã tác động tích cực đến tư tưởng chỉ đạo của các cấp. Hội nghị lần thứ
chín của Trung ương Cục miền Nam (tháng 7-1969) xác định nhiệm vụ quan
trọng nhất của mặt trận nông thôn là phải: "giành dân, giành dất, phát triển thế
và lực của ta"… Hội nghị Thường vụ khu ủy khu V (tháng 9-1969) cũng xác
định "nhiệm vụ chống bình định, giành dân, giữ dân” nhiệm vụ trọng tâm của
đảng bộ". Một số đơn vị chủ lực dư điều về phối hợp với địa phương đánh địch
tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở bám trụ địa bàn, xây dựng lại cơ sở cách mạng,
phát động chiến tranh du kích, tạo thế đứng xen kẽ với địch. Công tác tư tưởng
đã góp phần làm thấu suốt chủ trương của Đảng, biểu dương những gương tốt
bám trụ địa bàn, phổ biến kinh nghiệm phá bình định có kết quả. Các tỉnh khu V
phát động cán bộ, đảng viên "kiên trì bám trụ, diệt kẹp, giành dân, giữ vững
quyền làm chủ ở nông thôn". Các tỉnh Nam Bộ thực hiện "ba bám", lấy xã ấp
làm địa bàn chính, đánh địch bằng ba mũi giáp công, phá kế hoạch bình định của
địch.
Chủ trương đúng của lãnh đạo tác động tích cực đến tư tưởng cán bộ, đảng
viên ở cơ sở. Tuy bị hy sinh, tổn thất không nhỏ nhưng các cán bộ, đảng viên bị
bật khỏi địa phương đã dần dần trở lại bám trụ, đấu tranh quyết liệt giành đất,
giành dân với địch.
Tháng 1- 1970 Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 18, điểm lại tình hình
từ tết Mậu Thân, đề ra phương hướng, giải pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên.
Triển khai nghị quyết Trung ương, công tác tư tưởng đã chú trọng làm rõ những
223
ưu điểm và khuyết điểm trong chỉ đạo thời gian qua, và những bài học kinh
nghiệm về vận dụng đường lối chiến tranh của Đảng, nhất là bài học phải nắm
vững quy luật giành thắng lợi từng bước mới tiến lên giành thắng lợi quyết định;
phải xác định đúng phương hướng tiến công chính; kết hợp tiêu diệt địch với
giành dân; coi trọng công tác hậu cần tại chỗ... Nghị quyết 18 đánh dấu bước
chuyển quan trọng về chỉ đạo chiến tranh trong tình hình địch thay đổi chiến
lược. Thông qua các hoạt động tư tưởng, nghị quyết Trung ương được truyền
xuống các cấp tạo ra một không khí mới, củng cố sự nhất trí về nhận định tình
hình và nhiệm vụ, nâng cao niềm tin và tinh thần tiến công, khắc phục tư tưởng
hữu khuynh và các hiện tượng tiêu cực.
Đúng như dự đoán của Đảng ta, tháng 4-1970 và những tháng đầu năm
1971, Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào nhằm chặt đứt hành lang
tiếp vận của ta từ Bắc vào Nam qua Trung và Hạ Lào; đánh bật lực lượng ta ra
khỏi bàn đạp chiến lược Campuchia cô lập cách mạng miền Nam, duy trì chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ ở cả ba nước trên bán đảo Đông Dương.
Căn cứ các nghị quyết của Đảng công tác tư tưởng đã giải thích rõ trong
Đảng, trong nhân dân và các lực lượng vũ trang về quan điểm Đông Dương là
một chiến trường, chỉ rõ âm mưu mới của Mỹ, giáo dục nâng cao tinh thần quốc
tế vô sản, sát cánh với nhân dân Lào và Campuchia chống đế quốc chi phối toàn
bộ cục diện chiến trường Đông Dương, quân dân miền Nam phải đánh bại kế
hoạch bình định của địch và chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ,
miền Bắc phải cố gắng gấp bội, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn của miền
Nam và cách mạng Lào, Campuchia. Các lực lượng vũ trang của ta nêu cao tinh
thần quốc tế trong sáng đã phối hợp với lực lượng cách mạng Lào và Campuchia
đập tan các cuộc tiến công của Mỹ, giúp bạn tăng cường lực lượng và mở rộng
vùng giải phóng.
Nhân lúc địch phải phân tán lực lượng do mở rộng chiến tranh san Lào
Campuchia, quân và dân ta ở miền Nam tận dụng cơ hội đẩy mạnh các hoạt
động quân sự hỗ trợ cho phát triển chiến tranh du kích và nổi dậy của quần
chúng phá kế hoạch "bình định đặc biệt" của địch ở nhiều vùng nông thôn. Các
224
khu căn cứ từng bước được củng cố và bảo vệ phong trào quần chúng ở nông
thôn và cơ sở cách mạng ở các đô thị dần dần được khôi phục. Báo chí tiến bộ
thường xuyên bị Mỹ ngụy đàn áp, nhưng những người làm báo yêu nước không
hề khiếp sợ. Ở Sài Gòn tờ Sinh viên chỉ trích Mỹ - Thiệu rất gay gắt cảnh sát
thường thu gom để đốt, sinh viên đối phó bằng cách chia nhau đi bán. Năm 1970
báo chí Sài Gòn đủ mọi xu hướng, đấu tranh chống thuế kiệm ước, chống tăng
giá giấy. Ngày 17-2-1970 tại Trung tâm báo chí của ngụy quyền, mộ số ký giả
cạo đầu biểu thị ý chí kiên quyết đấu tranh. Ngày 2-3- 1970 các báo nhất loạt
đình bản ba ngày. Cuộc đấu tranh của giới báo chí được các giới đồng bào ủng
hộ, tổ chức mít tinh, hội tháo biểu tình rầm rộ đòi dân chủ, đòi hòa bình, thống
nhất.
Về công tác xây dựng Đảng, các mặt công tác củng cố chi bộ, giáo dục, bồi
dưỡng đảng viên và phát triển đảng được chú trọng chỉ đạo. Qua đấu tranh quyết
liệt chống kế hoạch bình định của địch, ở nhiều cơ sở phần lớn đảng viên có
kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh đã bị hy
sinh, lớp trẻ có nhiệt tình cao, hăng hái, năng nổ nhưng ít hiểu biết về chính trị,
về công tác đảng, công tác vận động quần chúng. Chưa nắm vững phương châm
chiến lược của Đảng, lúc phong trào lên thì nôn nóng muốn làm nhanh, khi cuộc
chiến kéo dài lại lo không biết kéo dài đến bao giờ. Công tác giáo dục, bồi
dưỡng đạo đức và tác phong cách mạng chưa được coi trọng đúng mức. Trước
yêu cầu bức xúc của phong trào ở cơ sở, những tháng cuối năm 1971 Ban Tuyên
giáo các cấp giúp cấp ủy tổ chức thực hiện quyết định tháng 8- 197 l của Trung
ương cục mở đợt bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tư tưởng cho đảng viên và cán
bộ cơ sở, đặc biệt là đối với các đồng chí chi bộ mật, iúp cho nh chị em nhận
thức đúng phương châm chiến lược của Đảng, kiên định lập trường và ý chí
chiến đấu; có hiểu biết cần thiết về lý tưởng cộng sản, mục tiêu và lý tưởng của
Đảng, lập trường của giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng của Đảng.
Nội dung đó được thể hiện trong ba bài: Tình hình và nhiệm vụ hiện nay; Công
tác chi bộ; Công tác vận động quần chúng (bao gồm "5 bước công tác").
225
Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng ba nước Đông Dương và
thắng lợi đẩy lùi kế hoạch bình định của địch, giành lại quyền làm chủ ở nhiều
vùng nông thên miền Nam đã tác động lớn đến quân dân cả nước ta. Công tác tư
tưởng đã kịp thời phát huy thắng lợi, cổ vũ nâng cao thêm niềm tin và ý chí
chiến đấu, đẩy lui các hiện tượng hữu khuynh, tiêu cực đã phát sinh trong hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn những năm 1969 - 1970, động viên quân dân cả nước
khẩn trương tạo thế và lực, chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, giành thắng lợi
quyết định trong năm 1972 (nghị quyết tháng 5- 1971 của Bộ Chính trị).
Đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 của Trung ương đảng quyết định động
viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, anh dũng tiến lên, đẩy mạnh cuộc kháng chiến,
đoàn kết với quân với dân Lào và Campuchia anh em, đánh bại chính sách “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 30-3-1972
cuộc tiến công chiến lược mở đầu quyết liệt trên cả ba hướng chiến lược: Trị
Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và thắng lợi lớn ỏ Quảng Trị, An Ninh, An
Lộc. Các hoạt động tư tưởng đã kịp thời tuyên truyền chiến thắng và phổ biến
rộng rãi thư của Trung ương Đảng gửi đồng bào và chiến sĩ trên các mặt trận, cổ
vũ quân dân cả nước thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Chí Minh,
quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi lớn nhất công cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Quảng Trị tỉnh đầu tiên được giải phóng. Mỹ-ngụy phản ứng quyết
liệt trên khắp các chiến trường, đặc biệt ở mặt trận Quảng Trị. Các hoạt động tư
tưởng đã nêu cao gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của quân dân ta trên
mặt trận Quảng Trị, một bản anh hùng ca của quân dân Việt Nam anh hùng.
Vượt lên mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, quân dân cả nước ta vững vàng
xốc tới. Các hoạt động tư tưởng đã lên án mạnh mẽ và tố cáo trước dư luận thế
giới và nhân dân Mỹ những thủ đoạn tàn bạo của Níchxơn, vạch rõ đây là những
phản ứng trong thế thua, thế đi xuống của Mỹ trên chiến trường Nam Việt Nam.
Trước những thử thách mới rất quyết liệt công tác tư tưởng đã nêu cao chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, ý chí chiến đấu 'Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Kẻ
thù nào cũng đánh thắng”, đã theo sát diễn biến trên chiến trường cả nước, thông
tin kịp thời những chiến thắng của ta trên cả ba vùng chiến lược, ba mũi giáp
226
công, ba mặt trận (quân sự, chính trị, ngoại giao), lấy thắng lợi của môi miền cổ
vũ lẫn nhau chiến đấu hiệp đồng, quyết giành thắng lợi lớn nhất trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như Trung ương Đảng đã kêu gọi.
Kết quả cuộc tiến công chiến lược của quân dân ta năm 1972 trên chiến
trường miền Nam đã tiêu diệt và làm tan rã một khối lượng sinh lực rất lớn của
địch khoảng trên 30 vạn tên, vùng giải phóng được mở rộng và kéo dài từ tây
Trị - Thiên qua Tây Nguyên, vùng giáp ranh và một phần đồng bằng khu V đến
miền Đông Nam Bộ. Các đơn vị chủ lực của ta đã đứng vững cả ở vùng núi và
các vùng đồng bằng khu V và Nam Bộ. Thắng lợi to lớn dó đã làm chuyển biến
căn bản cục diện chiến tranh, góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký
Hiệp định Pari rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo bước ngoặt về
so sánh thế và lực có lợi cho cách mạng nước ta.
b. Động viên quân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, tăng
cường chi viện tiền tuyến, đánh thắng oanh liệt cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của Mỹ
Quân và dân miền Bắc bắt tay vào thực hiện các nhiệm vụ năm 1969 đã đề
ra trong Ngụy bị quy (từ tháng 10-1968 của Bộ Chính trị trong không khí phấn
khởi trước thắng lợi của cả nước buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Niềm
tin và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ được củng cố. Trước những thử thách nặng
nề trong bốn năm chống chiến tranh phân hoại, miền Bắc vẫn được bảo vệ và
tiếp tục tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa, bảo đảm đời sống nhân dân và
nhiệm vụ chi viện tiền tuyến, các tổ chíc đảng và đội ngã đảng viên được rèn
luyện nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Công tác giáo dục chính trị
cơ bản cho đảng viên chủ yếu là đảng viên mới, trong các năm 1966 - 1968 đã
góp phần quan trọng xây dựng và củng cố Đảng từ cơ sở. Trong điều kiện sản
xuất và chiến đấu khẩn trương, 22 vạn đảng viên mới đã dự các lớp huấn luyện,
hiểu rõ hơn đường chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng
xác định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của đảng viên, nâng cao niềm tin vào
Đảng và sự nghiệp cách mạng. Với những mức độ khác nhau, đa số các đồng chí
sau học tập có tiến. Biết phát huy vai trò tiên phong, ý thức trách nhiệm và tính
227
cơ động trong sản xuất, chiến đấu và công tác ở cơ sở. Những tiến bộ đó thể
hiện rõ nhất ở những vùng chiến đấu ác liệt. Tổng kết năm 1967 Đảng bộ Quảng
Bình đạt 99,8% đảng viên, và đảng bộ Vĩnh Linh 100% đảng viên là chiến sĩ
“hai giỏi” (sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi). Bên cạnh mặt cơ bản vẫn tồn tại một
bộ phận đảng viên yếu kém cả về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng.
Một số có tâm trạng kém phấn chấn do không đánh giá đúng những thắng lợi đã
giành được, bi quan trước những khó khăn trong sản xuất và đời sống, những
khuyết điểm trong chỉ đạo và quản lý kinh tế, quản lý nhả nước.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ năm 1969, trong 6 tháng đầu năm, toàn
Đang đã tiến hành hai đợt giáo dục: Nghiên cứu bài "Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết nhân kỷ niệm
lần thứ 39 ngày thành lập Đảng; và sinh hoạt chính trị về tình hình và nhiệm vụ
nhân kỷ niệm lần thứ 79 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua hai đợt sinh hoạt
chính trị, tư tưởng, các tổ chức đảng và đảng viên đã nhận thức đúng đắn hơn về
tình hình và nhiệm vụ, tích cực lãnh đạo khôi phục sản xuất, khắc phục những
khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và buông lơi công tác giáo
dục đảng viên về phẩm chất đạo đức cách mạng.
Trong lễ quốc tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hoạt động tư tưởng đã phổ
biến sâu rộng Lời kêu gọi của Trung ương đảng và bài Điếu văn do Tổng bí thư
Lê Duẩn đọc, đời đời ghi nhớ cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, giai cấp và dân tộc, nguyện ra sức phấn đấu thực hiện những lời
Người căn dặn trước lúc đi xa. Phản ánh kịp thời những hoạt động của đồng bào
ở mọi miền đất nước và kiều bào ở nước ngoài trong dịp lễ tang, tình cảm quý
báu của các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới, các nước anh em và bạn
bè quốc tế chia sẻ nỗi đau thương của Đảng và nhân dân ta trước tổn thất lớn lao
này.
Cuối năm 1969 và đầu năm 1970 toàn đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành
đợt sinh hoạt chính trị "học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,
gắn với tích cực triển khai các cuộc vận động lớn: cuộc vận động lao động sản
xuất, cuộc vận động phát huy dân chủ, tăng cường chế độ làm chủ tập thể của
228
quần chúng xã viên ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển toàn
diện, mạnh mẽ và vững chắc, cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và
kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (19-5-1970 - 19-5-1971). Trong cuộc vận
động lao động sản xuất, các hoạt động tư tưởng hướng vào trọng tâm là phát
triển nông nghiệp, cổ vũ mạnh mẽ phong trào các hợp tác xã nông nghiệp thi
đua cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, thực hiện điều lệ mới, đẩy mạnh sản xuất,
phấn đấu đạt và vượt mục tiêu "5 tấn thóc/ha, 2 con lợn/ha gieo trồng". Năm
1970 sản lượng lương thực đạt gần 5,3 triệu tấn, tăng 500.000 tấn so với năm
1969 tỉnh Thái Bình, ngoại thành Hà Nội và 30 huyện đạt và vượt mục tiêu 5 tấn
thóc/ha. Tồn tại chủ yếu là công tác quản lý hợp tác xã và phát huy quyền làm
chủ tập thể của xã viên còn yếu. Một số hợp tác xã tư tưởng xã viên không ổn
định vì sản xuất tụt lùi, thu nhập giảm sút, quyền làm chủ của xã viên bị vi
phạm, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, công tác giáo dục, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được đẩy mạnh. Nhân
dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng, theo quyết định của Bộ Chính trị
đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn viết cuốn Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc
lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới. Đây là một
tác phẩm lý luận tổng kết những kinh nghiệm lớn của Đảng ta trong lãnh đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa và công tác
xây dựng Đảng để vận dụng và phát huy, đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đợt nghiên cứu tác phẩm Dưới lá cờ vẻ
vang. . . được tổ chức trong toàn Đảng đã nâng cao thêm nhận thức và niềm tin
vào đường lối của Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên vận dụng vào giải quyết
những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn sản xuất và chiến dấu.
Tiếp theo đợt giáo dục chính trị cơ bản cho đảng viên, hai năm 1969 - 1970
hệ thống trường Đảng đã bồi dưỡng cho trên 5.000 cán bộ lãnh đạo cấp huyện
và các ngành xung quanh tỉnh, 10.448 cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã về đường
lối chống Mỹ, cứu nước, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế (chủ yếu là nông nghiệp) và công tác xây dựng
229
Đảng. Nhiều lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng đã được mở, phục vụ cuộc
vận động nâng cao chất lượng Đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh
(trong cuộc vận động này toàn Đảng đã kết nạp 39.644 đảng viên mới).
Tuy công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao tư tưởng và năng lực công tác
cho cán bộ, đảng viên đã có một số cố gắng, song nhìn chung chưa đáp ứng
được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của phong trào cách mạng.
Tháng 12-1970 Ban Tuyên huấn Trung ương xây dựng đề án, trình Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 210 về công tác chính trị và tư tưởng. Nghị
quyết xác định nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận chính trị và tư tưởng là:
"Nâng cao một bước quan trọng phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, năng
lực vận dụng lý luận Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng vào thực
tiễn công tác, năng lực tổ chức và quản lý kinh tế cho cán bộ, đảng viên trước
hết là cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành". Nội dung giáo dục lý luận chính trị
và tư tưởng bao gồm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin và đường ối
chính sách của Đảng. những hiểu biết cần thiết về đất nước và lịch sử Việt Nam,
về thế giới hlện đại, những quan điểm của Đảng về các mặt công tác, nhất là về
kinh tế, công tác Đảng và lịch sử Đảng ta. Để thực hiện nhiệm vụ đó, cần nâng
cao chất lượng công tác giáo dục lý luận cơ bản trong các trường Đảng và các
trường lớp tại chức; xây dựng chế độ báo cáo thời sự chính sách; làm cho việc
đọc sách báo của Đảng thành một thói quen một, nhu cầu hàng ngày trong nếp
sống của cán bộ đảng viên; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và các cuộc hội
nghị cán bộ các cấp; quy định chế độ cán bộ các cấp hàng năm có thời gian tham
gia công tác thực tế ở các cơ sở sản xuất, chú trọng những điển hình tiên tiến và
cả những cơ sở còn yếu kém. Nghị quyết 210 mở ra bước phát triên mới của
công tác giáo dục chính trị và tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên. Các trường
đảng tỉnh, thành phố được kiện toàn, trường Đảng huyện được xây dựng, lực
lượng báo giáo viên thời sự, chính sách và lực lượng giảng viên lý luận được
tăng cường, đầu tư cho công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tăng hơn
trước. Tháng 6-1973 Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin trực thuộc Ban
230
Tuyên huấn Trung ương được thành lập để phục vụ phong trào học tập lý luận
chính trị.
Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng phụ thuộc một phần quan trọng
vào chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên huấn. Năm 1969 Ban Tuyên huấn Trung
ương tiến hành khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ của ngành, xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn ngành các năm 1969 - 1975. Kết quả khảo
sát cho thấy nhìn chung cán bộ tuyên huấn các cấp có phẩm chất chính trị tốt,
nhiệt tình công tác, chịu khó học tập đường lối chính sách của Đảng, có ý thức
tự rèn luyện để nâng cao năng lực nghiệp vụ. Tổng số cán bộ toàn ngành từ
Trung ương đến huyện lúc đó là 6.760 (2.618 cản bộ làm báo, 1509 cán bộ huấn
học, 1.280 cán bộ tuyên truyền, 350 cán bộ xuất bản…) so với biên chế thì thiếu
3.760, chủ yếu là cán bộ giảng dạy lý luận chính trị và cán bộ báo chí, xuất bản.
Phần lớn cán bộ tuyên huấn các địa phương chưa được học tập lý luận cơ bản có
hệ thống, trình độ văn hóa và kiến thức về các mặt còn hạn chế nhiều, về văn
hóa phần lớn mới tốt nghiệp cấp III. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa có quy
hoạch và không theo kịp nhu cầu. Sơ kết 10 năm 1959 - 1969 Trường Tuyên
huấn Trung ương mở được 6 lớp đào tạo gồm 1.173 cán bộ (báo chí 584; giảng
viên lý luận chính trị tuyên truyền 238), 35 lớp bồi dưỡng gồm 3.955 học viên.
Đây là một cố gắng không nhỏ song còn xa so với nhu cầu. Phương hướng, mục
tiêu đề ra là từng bước phấn đấu đến năm 1975 đào tạo bổ sung cho tuyên huấn
các tỉnh, thành phố đủ biên chế cán bộ cả bốn bộ môn (tuyên truyền, huấn học,
báo chí, xuất bản) mỗi huyện có năm cán bộ đã qua đào tạo nghiệp vụ: một phó
trưởng ban, một huấn học, hai giảng viên trường đảng, một cán bộ tuyên truyền.
Bước đầu đề ra nhứng tiêu chuẩn chung của cán bộ tuyên huấn là:
- Có phẩm chất chính trị tốt, đã được học tập lý luận cơ bản, nắm vững có
căn cử khoa học đường lối, chính sách của Đảng, trung thành với đường lối,
quan điểm của Đảng.
- Có kiến thức tương đối toàn diện, về văn hóa đã tốt nghiệp cấp III, có khả
năng viết và nói, có hiểu biết nhất định về kinh tế, kỹ thuật.
231
- Có quá trình công tác thực tiễn, được rèn luyện trong phong trào quần
chúng.
Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ toàn
ngành được đặt ra một cách đúng mức hơn, tạo điều kiện từng bước khắc phục
những yếu kém, bất cập.
Năm 1971 miền Bắc bị lụt nặng trên diện tích lớn. Đây là trận lũ lớn nhất
trong vòng 100 năm, gây thiệt hại nặng nề về sản xuất nông nghiệp, về giao
thông vận tải, về tài sản của nhân dân và Nhà nước ở nhiều địa phương. Dưới sự
lãnh đạo tích cực, khẩn trương của Đảng và Chính phủ, sự chỉ đạo của các đảng
bộ và chính quyền địa phương, đông đảo nhân dân, bộ đội và cán bộ, đảng viên
đã anh dũng chiến đấu khắc phục thiên tai. Nhờ vậy đã hạn chế dược tai họa của
lũ lụt, thủ đô Hà Nội và các tỉnh hạ lưu sông Hồng như Nam Hà, Thái Bình
được bảo vệ. Các hoạt động tư tưởng đã nêu cao những tấm gương dũng cảm hy
sinh của nhân dân, bộ đội và cán bộ, đảng viên để bảo vệ đê điều, cứu người và
tài sản, những hoạt động tích cực của các cấp, các ngành và phong trào quần
chúng giúp đỡ lẫn nhau khắc phục hậu quả thiên tai, mau chóng khôi phục sản
xuất, ổn định đời sống.
Tuy bị thiên tai nặng nề, năm 1971 miền Bắc vẫn đạt 5.6 triệu tấn lương
thực, cao hơn mức bình thường của các năm, giá trị tổng sản lượng công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp đạt kế hoạch. Số chiến sĩ lên đường vào Nam chiến đấu
bằng 15 lần năm 1970. Bộ đội Trường Sơn đã phát triển thành một binh đoàn
chiến lược hùng mạnh, tuyến vận tải Bắc - Nam đã trở thành hệ thống liên hoàn,
ngoài tuyến đường bộ, cuối năm 1971 đường ống dẫn xăng dầu dài hơn 1000km
đã hoàn thành, đây là thành tựu mới của tinh thần dũng cảm, không quản hy sinh
xương máu của các chến sĩ bộ đội và thanh niên xung phong. Trong chiến tranh
ác liệt, lực lượng các binh chủng trên mặt trận tư tưởng tiếp tục phát triển, ngày
7-9- 1971 Đài Truyền hình Việt Nam lần đầu tiên phát sóng chương trình thử
nghiệm.
Để phát huy thành tựu năm 197l và động viên phong trào quần chúng thực
hiện nhiệm vụ năm 1972, thi hành chỉ thị của Ban Bí thư, tháng 12- 197 l và
232
tháng 1-1972 các cấp ủy đảng chỉ đạo tiến hành đợt báo công, lập công trong
nhân dân, tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng và Nhà nước. Từ kết
quả của đợt này cùng với những kết quả đã tiến hành trong các năm 1967 -
1970, các ngành, các địa phương đánh giá báo công, lập công là một hình thức
công tác chính trị, tư tưởng, công tác vận động quần chúng phù hợp với quan
điểm của Đảng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, mọi thành tựu của cách
mạng là công lao của quần chúng. Qua báo công, lập công quần chúng tự giáo
dục mình và giáo dục lẫn nhau nâng cao thêm lòng tự hàó về Tổ quốc ta, nhân
dân ta, về sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiểu rõ hơn ý nghĩa
mỗi việc mình làm và công lao, sức mạnh của tập thể, phấn khởi thi đua lập
công mới.
Tháng 2- 1972 Níchxơn tiến hành những hoạt động ngoại giao xảo quyệt
hòng cô lập Việt Nam, bóp nghẹt cuộc kháng chiến của quân và dân ta. Căn cứ
nghị quyết và chủ trương của Đảng, công tác tư tưởng đã kịp thời vạch rõ mưu
đồ xảo quyệt của Mỹ, chúng sẽ tăng cường và mở rộng quy mô của cuộc chiến
tranh, nhưng cuối cùng chúng sẽ thất bại; khẳng định quyết tâm không gì lay
chuyển được của quân và dân ta là đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh", đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn đối phó mới của địch. Hành động
ngoại giao xảo quyệt của Mỹ và những hành động mở rộng chiến tranh của
chúng đối với miền Bắc chỉ làm nung nấu thêm chí căm thù và quyết tâm chiến
đấu của quân và dân ta. Mọi hoạt động chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược
mới được đẩy mạnh đi đôi với sằn sàng đánh bại địch nếu chúng nem bom bắn
phá trở lại hoặc mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc.
Trước nguy cơ chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" bị đổ vỡ, Níchxơn
hung hãn đến điên cuồng. Đồng thời với phản kích quyết liệt trên chiến trường
Nam Việt Nam, từ ngày 6-4-1972 Mỹ ném bom bắn phá trở lại miền Bắc và từ
ngày 8-5-1972 thả thủy lôi phong tỏa các cảng biển, cảng sông của ta, hòng cắt
đứt nguồn tiếp tế từ ngoài vào và đường vận chuyển Bắc-Nam. Trong chiến
tranh phá hoại lần trước chúng leo thang từng bước. Lần này chúng hành động
nhanh và quyết liệt ngay từ đầu, sử dụng lực lượng máy bay, tàu chiến lớn hơn,
233
đánh tập trung, liên tục vào Hà Nội, Hải Phòng, các khu công nghiệp và trọng
điểm giao thông, đảnh phá dã man nhiều vùng dân cư, cả bệnh viện, trường học,
chặn các "cổ họng" tiếp tế, hòng gây sức ép lớn buộc ta phải khuất phục.
Quân và dân miền Bắc đã chuẩn bị sẵn sàng, bình tĩnh bước vào cuộc thử
thách mới quyết liệt và phức tạp hơn nhanh chóng sơ tán dân và các cơ sở sản
xuất, chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, đánh thắng địch ngay từ trận đấu
chúng trở lại đánh phá, cả ở Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hải Phòng, Hà Nội… Tuy
vậy, ta cũng có thêm những khó khăn mới, hàng chục ngàn đồng bào bị thương
vong, sự đánh phá và phong tỏa của địch lúc đầu đã hạn chế khá lớn việc tiếp
nhận hàng viện trợ và đưa hàng vào Nam. Song nhờ sự lãnh đạo kịp thời của
Đảng và Nhà nước, tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của bộ đội, các nhà
khoa học và anh chị em công nhân chúng ta đã có nhiều cách có hiệu quả phá
nhiễu, bắn rơi máy bay B52, rà phá thủy lôi, mở đường vận chuyển, bảo đảm về
cơ bản việc tiếp nhận hàng từ ngoài vào và đưa hàng vào Nam, đẩy mạnh cuộc
tiến công chiến lược suốt năm 1972. Các hoạt động tư tưởng, trong đó báo chí là
lực lượng xung kích, với đội ngũ phóng viên (tin ảnh, quay phim) nhanh nhạy,
xông xáo, dũng cảm đã bám sát cuộc chiến đấu hào hùng của quân và dân ta,
bảng trí tuệ và sức mạnh của cả dân tộc, được sự ủng hộ của loài người tiến bộ,
quyết thắng tên hung nô của thời đại. Địch đánh phá quyết liệt nhưng báo chí từ
Thủ đô vẫn phát hành thường xuyên tính chiến đấu được nâng cao, đài phát sóng
bị B52 dội bom nhiều lần nhưng Tiếng nói Việt Nam vẫn vang lên đều đặn, đến
với thính giả trong nước và trên thế giới.
Bọn hiếu chiến Mỹ điên cuồng trong đánh phá, đồng thời ngoan cố, tráo trở
trong thương lượng. Sau khi trúng cử Tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ mới,
Níchxơn lật lọng tất cả những điều đại diện chính quyền Mỹ đã thỏa thuận với
đại diện phái đoàn ta tháng 10-1972. Căn cứ tuyên bố của Chính phủ ta ngày 26-
10-1972, các hoạt động tuyên truyền đã lập tức nêu cao lập trường đúng đắn của
ta, vạch trần sự tráo trở, lật lọng của Mỹ trước dư luận trong nước và quốc tế,
góp phần động viên mạnh mẽ làn sóng đấu tranh đòi Mỹ phải ký ngay dự thảo
hiệp định, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam; đã kịp thời phổ biến trong nhân
234
dân và các lực lượng vũ trang nhận định của Bộ Chính trị chỉ rõ âm mưu của Mỹ
tiếp tục kéo dài chiến tranh trong một thời gian nữa để giành thắng lợi về quân
sự nhằm kết thúc chiến tranh trên thế mạnh, giáo dục nâng cao cảnh giác đối với
những hành động ch;ến tranh mới của chúng. Miền Nam phải tiếp tục phát triển
tiến công, miền Bắc phải sẵn sàng chiến đấu đến mức cao nhất và rút kinh
nghiệm đánh B52 có hiệu quả hơn, thắng lớn hơn.
Ngày 14-12- 1972 Nichxơn quyết định mở cuộc tập kích B52 vào Hà Nội.
Cuộc tiến công này là đỉnh cao trong chiến tranh phá hoại bằng không quân của
Mỹ ở miền Bắc nước ta, huy động lớn nhất số máy bay chiến lược B52, mục tiêu
đánh phá chủ yếu nhằm vào Hà Nội, trung tâm chính trị của cả nước, nơi đóng
bản doanh của cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến. Với thế trận sẵn sàng,
trong 12 ngày đêm chiến đấu (từ 18 đến 29-12), bộ đội phòng không - không
quân, quân dân Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương đã anh dũng đập tan
cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay hiện dại trong
đó có 34 máy bay B52 (riêng Hà Nội bắn rơi 25 chiếc), diệt và bắt sống hàng
trăm giặc lái. Bị thua đau, ngày 30-12-1972 chính quyền Mỹ phải ngừng ném
bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấm dứt hoàn toàn vào ngày 15- 1-1973.
Cùng với việc liên tục đưa tin chiến thắng oanh liệt của quân dân ta, các
hoạt động tư tưởng đã nêu bật tầm vóc vĩ đại của nó: .
Về quân sự, đây là một chiến dịch phòng không đạt tới mức tiêu diệt cao
nhất, oanh liệt nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc cũng như trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đây cũng là một chiến dịch đầu
tiên trên thế giới tiêu diệt lớn máy bay chiến lược B52 của Mỹ giáng cho không
quân chiến lược Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của nó.
Chiến thắng đó đã nhấn chìm ý đồ "đàm phán trên thế mạnh" của Mỹ. Chính vì
vậy nhân dân ta gọi đây là trận "Điện Biên Phủ trên không". Chiến thắng "Điện
Biên Phủ trên không" là đòn quyết định buộc Mỹ phải xuống thang và kết thúc
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc nước ta. Chiến tranh phá
hoại đối với miền Bắc là một bộ phận quan trọng trong chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ. Thắng lợi của quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của
235
Mỹ cùng với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến
trường miền Nam đã làm phá sản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và
"Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh của bọn hiếu chiến Mỹ.
- Về chính trị, thắng lợi của quân và dân ta đánh thắng chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mỹ có ý nghĩa quốc tế to lớn, chứng tỏ Mỹ
không phải là vô địch, động viên mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân
thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Phong trào lên án
Níchxơn và đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam bùng lên trên thế giới và trong
nước Mỹ.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, ngày 27-1-1973 tại Pari chính quyền Mỹ bụộc
phải ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng
lợi cơ bản mà nhân dân ta đạt được trong việc ký kết hiệp định trước hết là Mỹ
và các nước khác phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mỹ phải rút quân và chấm dứt mọi sự dính líu quân
sự vào miền Nam Việt Nam và phải chấp nhận sự tồn tại của bộ đội chủ lực ta ở
miền Nam. Với việc hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi rất vẻ vang. Đây là thắng lợi rất to
lớn trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam ta.
c) Động viên quân dân cả nước thừa thắng xốc tới giải phóng hoàn toàn
miền Nam 1973 - 1975
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố
duy trì chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Trước khi ký Hiệp định, Mỹ
đã đưa vào miền Nam Việt Nam một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến
tranh và chỉ huy quân ngụy vào ra cắm cờ lấn đất ở nhiều nơi. Hiệp định vừa
được ký kết, chúng mở ngay chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", triển khai các cuộc
hành quân lấn chiếm vùng giải phóng và các vùng giáp ranh hòng xóa "thế da
báo". Mục tiêu của chúng là giành đất, giành dân, tiêu diệt lực lượng vũ trang và
lực lượng chính trị của cách mạng, xóa bỏ tình trạng thái chính quyền, hai quân
đội, ba lực lượng, biến miền Nam Việt Nam thành lãnh thổ chỉ có một chính
236
quyền tay sai Mỹ. Từ sau hiệp định Pari, miền Nam Việt Nam không có lấy một
ngày hòa bình.
Về phía ta, trước khi Hiệp định Pari được ký kết, Bộ Chính trị đã dự kiến
"tình hình có thể phát triển theo hai khả năng: hoặc giữ được hòa bình, hoặc
chiến tranh trở lại, không thể có ảo tưởng địch sẽ thi hành một cách nghiêm
chỉnh vì chúng lo ngại trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn". Sau khi Hiệp định được
ký kết, đồng thời với tuyên truyền thắng lợi các hoạt động tư tưởng đã chú trọng
phổ biến Lời kêu gọi ngày 28- 1-1973 của Trung ương Đảng và Chính phủ nhận
định: Những thế lực quân phiệt, phát xít, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới đi
ngược lại nguyện vọng của dân tộc ta vẫn chưa từ bỏ nhung âm mưu phá hoại
hòa bình, ngăn trở con đường độc lập, tự do của nhân dân ta. Vì vậy, nhân dân
cả nước phải tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đa
giành được, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam…
Sau thắng lợi "đánh cho Mỹ cút", cách mạng miền Nam đứng trước tình thế
mới với những thuận lợi rất cơ bản. Song những khó khăn sau cuộc tiến công
chiến lược năm 1972, tổn thất về quân số về tổ chức và về vật chất chưa được bổ
sung và củng cố. Những nơi cán bộ lãnh đạo quán triệt tư tưởng tiến công, cảnh
giác sẵn sàng chiến đấu thì ở nơi đó đồng bào, chiến sĩ phát huy được khí thế
chiến thắng, kiên trì bám trụ, giữ cờ, giữ đất, đánh lui các cuộc hành quân lấn
chiếm của địch, bảo vệ được thành quả cách mạng. Nhưng một số nơi, cán bộ,
đảng viên chưa thấu triệt tư tưởng tiến công và quan điểm cách mạng bạo lực, có
tư tưởng mệt mỏi, nghỉ ngơi, ảo tưởng hòa bình, chủ quan mất cảnh giác, hy
vọng trông chờ vào khả năng đối phương phải thi hành Hiệp định. Vì vậy mà
chậm phát hiện âm mưu ấn chiếm của địch, đối phó bị động và kém hiệu quả, có
nơi không chỉ chập chờn, co thủ "sợ vi phạm Hiệp định", mà còn rút bỏ cả "lõm”
giải phóng, tự mình xóa "thế da báo". Do đó, trong những tháng đầu năm 1973
địch đã lấn chiếm dược hầu hết những vùng mới giải phóng và cả một số nơi
thuộc vùng giải phóng cũ. Tình hình đó cho thấy, trong cuộc chiến đấu một mất
một còn với quân thù, khi thắng lợi cũng như lúc cách mạng gặp khó khăn, lãnh
đạo phải giữ vững định hướng tư tưởng chiến luởc tiến công, nếu thỏa mãn dừng
237
lại hoặc chập chờn, do dự, hữu khuynh cố thủ thì cách mạng không tránh khỏi bị
tổn thất.
Yêu cầu bức xúc đặt ra đối với công tác tư tưởng lúc này là phải làm cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân có nhận thức đúng về: âm mưu, thủ đoạn của Mỹ
- ngụy trong tình hình mới; đánh giá địch, ta và khả năng phát triển của tình
hình; phải làm gì và làm thế nào để đánh bại âm mưu và hành động tiếp tục
chiến tranh của địch? Trọng tâm công tác là phát động đấu tranh chính trị hay là
tiến công chống địch lấn chiếm, bình định?
Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng đã nhận định tình
hình và ra nghị quyết về "Thắng ợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới".
Nghị quyết Trung ương nêu cao ý nghĩa, tầm vóc to lớn của thắng ợi, rút ra
những bài học lớn trong 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đó là: Giữ
vững tư tưởng chiến lược tiến công; nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực;
giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa; biết thắng
từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; có phương pháp cách mạng thích
hợp.
Trung ương Đảng nhận dịnh: "Thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh
hơn bất cứ thời kỳ nào từ năm 1954 đến nay". Song phong trào đấu tranh chính
trị, bộ đội địa phương và dân quân du kích còn yếu, cơ sở cách mạng ở thành thị
và nông thôn bị hao hụt chưa được củng cố. Sắp tới, cách mạng miền Nam có
thể phát triển theo hai khả năng: 1) ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành
Hiệp định Pari; 2) ta buộc phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại
địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Song bất kể trong tình hình nào con đường của
cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, chiến lược của cách
mạng miền Nam vẫn là chiến lược tiến công.
Hội nghị Trung ương khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam lúc này là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đánh đổ ngụy quyền làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của
Mỹ. Công tác tư tưởng phải tiếp tục bồi dưỡng tinh thần cách mạng tiến công,
238
kiên trì cách mạng, nâng cao cảnh giác, chống mọi khuynh hướng hòa bình chủ
nghĩa, tư tưởng nghỉ ngơi, không sẵn sàng chiến đấu. Quán triệt tinh thần chỉ
đạo của Trung ương Đảng Khu ủy V quyết định các biện pháp tăng cường lãnh
đạo "đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, giành dân, giừ dân, mở
rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta". Hội nghị lần thứ 12 của Trung
ương cục xác định nhiệm vụ trọng tâm số một là phá bình định lấn chiếm, giành
quyền làm chủ. Ban Tuyên huấn các cấp giúp cấp ủy tiến hành khẩn trương
công tác quán triệt nghị quyết trong toàn đảng bộ, trong lực lượng vũ trang và
các đoàn thể quần chúng, trang bị nhận thức đúng về tình hình và nhiệm vụ, thấu
suốt tư tưởng chiến lược tiến công và quan điểm cách mạng bạo lực, đấu tranh
chống những tư tưởng lệch lạc, như: mơ hồ về bản chất phản động và âm mưu
của dịch, ảo tưởng hòa bình, hy vọng, trông chờ vào khả năng chúng thi hành
Hiệp định. Nhờ đó đã tạo bước chuyển biến tích cực trong hành động của cán
bộ, đảng viên, quân và dân toàn miền.
Trong những tháng cuối năm 1973, đầu năm 1974, tình hình miền Nam
chuyển biến nhanh chóng. Từ thế bị động đối phó, các lực lượng cách mạng đã
chuyển lên chủ động phản công, tiến công, đẩy lui các cuộc hành quân lấn
chiếm của Mỹ - ngụy. Từ chỗ mất đất, mất dân, các lực lượng cách mạng đã
chuyển lên thu hồi và mở rộng vùng giải phóng phát huy thắng lợi, các cấp ủy
đảng tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chỉ rõ: Trong điều kiện Mỹ - ngụy
đã xé bỏ Hiệp định Pari, tiếp tục chiến tranh thì cuộc đấu tranh đòi hòa bình, hòa
hợp dân tộc theo pháp lý của Hiệp định là một đòn tiến công chính trị có tác
dụng lên án tội ác hiếu chiến, độc tài, vạch trần những luận điệu lừa bịp của Mỹ
- ngụy, tập hợp đội quân chính trị quần chúng. Nhưng chỉ có kiên quyết phản
công và tiến công bẻ gãy những hành động lấn chiếm mới đập an được chính
sách chiến tranh của chúng. Thắng lợi phá bình định lấn chiếm là thực tế khẳng
định quan điểm chỉ có bạo lực cách mạng mới thủ tiêu được bạo lực phản cách
mạng, chỉ có chiến tranh giải phóng mới đánh bại được chiến tranh xâm lược,
nếu chập chờn, do dự thì cách mạng không tránh khỏi bị tổn thất. Chính sách
239
chiến tranh của Mỹ - ngụy buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí đứng dậy tiếp tục
chiến đấu để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ.
Thắng lợi phản công và tiến công giành quyền làm chủ trong mùa khô 1973
- 1974 đã tạo đà và đặt nền tảng cho bước ngoặt của chiến tranh trong năm
1975. Công tác tư tưởng đã giải thích rõ: để chuyển cuộc chiến tranh sang bước
ngoặt, cách mạng phải có lực lượng mạnh hơn hẳn lực lượng của Mỹ - ngụy ở
miền Nam. Lực lượng của chiến tranh cách mạng là lực lượng tổng hợp, song
nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh là hậu phương. Miền
Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương lớn luôn luôn giữ vai trò quyết định đối với
sự nghiệp cách mạng cả nước, nay càng giữ vai trò quyết định đáp ứng yêu cầu
rất cao của miền Nam về sức người, sức của và mọi nhu cầu khác trong giai
đoạn mới của cuộc chiến tranh.
Để góp phần thúc đẩy mọi mặt công tác của miền Bắc, sau Hiệp định Pari,
năm 1973 và những tháng đầu năm 1974 công tác tư tưởng đã tiến hành 5 đợt
tuyên truyền lớn
- Đợt 1 tiến hành trong hai tháng 2, 3- 1973 là một chiến dịch tuyên truyền
cổ động rộng lớn bằng nhiều hình thức cả bề rộng lẫn bề sâu nham làm cho quân
và dân ta hiều rõ ý nghĩa to lớn của thắng lợi đã giành được, nâng cao niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và tự tin vào sức mạnh của dân tộc. Làm rõ nhiệm vụ
cấp bách và nặng nề của miền Bắc khắc phục hậu qua của hai cuộc chiến tranh
phá hoại, khôi phục sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân, đáp ứng yêu cầu khẩn
trương và to lớn của miền Nam trong giai đoạn mới, tiếp tục giúp đỡ cách mạng
Lào và Campuchia, chuẩn bị cho xây dựng lại đất nước sau khi giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
- Đợt 2 được tiến hành trong tháng 4, sau khi Mỹ rút quân, tuyên truyền
nhằm nâng cao niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc, kẻ thù nào
cũng đánh thắng.
- Đợt 3 được tiến hành trong tháng 10, tuyên truyền vạch trần những hành
động vi phạm Hiệp định Pari của Mỹ - ngụy trước dư luận trong nước và trên
thế giới. Tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế đối với cuộc phản công, tiến
240
công của các lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân miền Nam đánh trả các
hoạt động tiếp tực chiến tranh của Mỹ - ngụy.
- Đợt 4 được tiến hành trong những tháng cuối năm 1973 nhân dịp đoàn đại
biểu Anh hùng các lực lượng vũ trang miền Nam ra thăm miền Bắc, nêu cao chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của quân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, cổ vũ phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong giai đoạn mới.
- Đợt 5 tiến hành trong những tháng đầu năm 1974, làm quán triệt nghị
quyết hội nghị lần thứ 22 của Trung ương Đảng về khôi phục và phát triển kinh
tế trong kế hoạch hai năm 1973 - 1974.
Hưởng ứng nghị quyết của Trung ương Đảng, với khí thế của người chiến
thắng, tuy lực lượng lao động chủ yếu là phụ nữ, năm 1974 nông nghiệp miền
Bắc đã có bước tiến mới về thâm canh lúa, 9 tỉnh, 107 huyện và 4.226 hợp tác
xã đạt năng suất 5 tấn thóc trở lên/lha. Công tác rà phá thủy lôi, bom mìn, nạo
vét, khơi thông luồng lạch, khôi phục cầu và các bến cảng được tiến hành thắng
lợi có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất, đời sống ở miền Bắc và đẩy mạnh chi viện
cho miền Nam. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình khôi
phục và phát triển kinh tế chúng ta có những khuyết điểm, yếu kém về quản lý
kinh tế, như quan liêu, thiếu dân chủ, thiếu trách nhiệm, kém ý thức tổ chức và
kỷ luật, việc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực và xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa chưa được quan tâm đúng mức.
Đồng thời với giải quyết những nhiệm vụ lớn trước mắt, Trung ương Đảng
còn lo chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài. Tháng 2- 1973 Bộ Chính trị ra nghị quyết
về công tác cán bộ trong giai đoạn mới nhằm đưa công tác tổ chức lên ngang
tầm nhiệm vụ chính trị. Tháng 12-1974 Hội nghị lần thứ 23 của Trung ương
Đảng bàn về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Dưới
ánh sáng Nghị quyết 23 và Nghị quyết về công tác cán bộ, Ban Tuyên huấn
Trung ương đã kiểm điểm công tác của ngành mình góp phần xây dựng Đảng,
đề ra các biện pháp thực hiện nghị quyết, nhất là đối với công tác bồi dưỡng cán
bộ, giáo dục đảng viên và cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ (kinh
nghiệm chỉ đạo thí điểm ở Hà Bắc). Trong hai năm 1971 - 1972 chương trình
241
giáo dục chính trị ngắn hạn cho cán bộ, đảng viên đã hoàn thành. Sau khi Ban Bí
thư ra Nghị quyết 210, trong 3 năm 1971 - 1973, mặc dù có nhiều khó khăn,
nhất là trong điều kiện chiến đấu ác liệt năm 1972, số trường giáo dục chính trị
lý luận trung cấp ở miền Bắc đã phát triển lên 14 trường, trường đảng cấp huyện
được xây dựng, 4 chương trình giáo dục lý luận chính trị đã được triển khai trên
cả hai hệ học tập trung và tại chức. Sơ kết 3 năm 1971 - 1973, trên 50 vạn đảng
viên và 57. 764 chi ủy viên, tổ trưởng đảng đã học xong chương trình cơ sở,
27.338 đảng ủy viên đã qua chương trình sơ cấp, gần l vạn cán bộ lãnh đạo cấp
huyện đã qua chương trình trung cấp. Riêng trường Tuyên huấn Trung ương
trong 3 năm 1971 - 1973 đã mở lớp đào tạo và bồi dưỡng cho 3.442 cán bộ của
ngành, trong đó nhiều nhất là cán bộ giảng dạy lý luận chính trị.
Năm 1973 - 1974, trước yêu cầu mới, các mặt công tác tuyển quân, công
nhân và thanh niên xung phong đi chiến trường và thực hiện nghĩa vụ lương
thực thực phẩm nuôi quân càng là những công tác lớn mà mỗi ngành, địa
phương và cơ sở đều ra sức tiến hành công tác vận động quần chúng để hoàn
thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu. Công tác tư tưởng được tiến hành đến
từng nhà, từng người. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ là một người tuyên truyền đắc
lực và gương mẫu thực hiện chính sách, thực hiện khẩu hiệu "thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người". Kết quả trong các năm 1973 - 1975 gần
50 vạn thanh niên miền Bắc đã gia nhập quân đội. Có những em mới 17 tuổi
hoặc thuộc diện miễn hoãn cũng tìm mọi cách để được đi chiến đấu, có những
bà mẹ đã hơn 3 lần tiễn chồng con ra trận, có những gia đình vợ chồng, cha con
đều có mặt trên chiến trường đánh Mỹ. Hơn 30.000 công nhân và thanh niên
xung phong được điều thêm vào mặt trận mở đường Trường Sơn, tạo điều kiện
tăng cường vận chuyển hàng và cho xe tăng, pháo lớn vào chiến trường. Vì
nghĩa lớn của cả dân tộc, nhân dân miền Bắc chấp nhận một mức sống "tối thiểu
13, tối đa 18" (mức phân phối thóc theo đầu người ở hợp tác xã nông nghiệp tối
thiểu 13kg, tối đa không quá 18kg/tháng), chắt chiu mọi bề để nuôi quân đánh
giặc như lời Bác Hồ đã dạy, dù phải chịu nhiều gian khổ hy sinh nhưng:
"Còn non, còn nước, còn người,
242
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay".
Từ cuối năm 1972, đáp ứng yêu cầu của chiến trường hàng ngàn cán bộ các
binh chủng công tác tư tưởng (báo chí, tuyền truyền, giáo dực lý luận chính trị,
văn hóa văn nghệ) tiếp tục được bổ sung cho miền Nam. Năm 1973, 1974 các
lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho miền Nam được mở liên tục.
Trong thế suy sụp và đi xuống, ngụy quyền tay sai Mỹ thực hiện chính sách
phát xít, giải tán các đảng phái không ăn cánh với chúng, thẳng tay khủng bố
phong trào chống đối của nhân dân, của các tôn giáo, đàn áp báo chí. Chính sách
phát xít của chúng chỉ dẫn đến kết quả ngược lại. Về phía ta quán triệt và thực
hiện Nghị quyết tháng 9- 1974 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ của thành thị miền
Nam trong giai đoạn mới, các đảng bộ ở đô thị được củng cố, cơ sở cách mạng
dần dần được khôi phục và phát triển, đã tích cực lãnh đạo phong trào đấu tranh
chính trị của nhân dân trong mọi tầng lớp công nhân, lao động, nhân sĩ, trí thức,
ký giả, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên chống Mỹ - Thiệu, đòi thi hành Hiệp
định. Các báo tiến bộ ở Sài Gòn đăng tin về Hiệp định Pan là thắng lợi của dân
tộc Việt Nam, thất bại của Mỹ, và bằng nhiều hình thức hậu thuẫn phong trào
nhân dân đấu tranh đòi thi hành Hiệp định. Từ 20 - 30 đoàn thể văn hóa, xã hội,
tôn giáo, chính trị liên kết nhau thành một mặt trận đối lập với chính quyền
Thiệu mỗi đoàn thể đều ra báo nội san làm cơ quan tranh đấu của mình; hình
thành các báo đóí lập đòi thật sự vãn hồi hòa bình, chống chiến lược "Việt Nam
hóa chiến tranh", tố cáo Thiệu tham nhũng, đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi tha
hết chính trị phạm, tìlả hết tù binh. Từ ngày miền Nam Việt Nam bị đặt dưới ách
thống trị của Mỹ - nguỵ đến nay, chưa lúc nào khí thế đấu tranh của báo chí Sài
Gòn mạnh mẽ như lúc này. Ngoài các loại báo in, ở một số thành phố, trước hết
ở Sài Gòn xuất hiện hình thức: Báo miệng nói cho đồng bào tôi nghe. Số người
chống Mỹ - Thiệu, tán thành Hiệp định Pari, đòi tự do, dân chủ, đa số là học
sinh, sinh viên. Họ chia nhau thành từng nhóm nhỏ, đến các khu phố, nhà ga,
bến đò, xưởng sở, trường học, diễn thuyết từ 10- 15 phút hoặc nửa giờ về hiện
tình đất nước, gây dư luận rộng khắp sôi nổi. Cách làm này còn được gọi là "Xả
luân chiến" chiến đấu tuyên truyền lưu động như bánh xe lăn. Phong trào đấu
243
tranh của học sinh, sinh viên phát triển cả bề rộng và bề sâu. Anh chị em tập hợp
nhau trong những "Đêm không ngủ", "Đêm cốt nhục", "Đêm đốt lửa căm hờn",
"Đêm cầu nguyện hòa bình".. . hội thảo, biểu diễn văn nghệ, đến với bà con lao
động "hát cho đồng bào tôi nghe", và "nghe đồng bào tôi nói"[53].
Chính quyền Thiệu ra sắc luật 007 nhằm bóp cổ báo chí ở Sài Gòn, ủy ban
đấu tranh đòi quyền tự do báo chí lên án chính sách phát xít của Thiệu. Giới luật
sư Sài Gòn ra tuyên bố ủng hộ yêu sách của báo chí. Hưởng ứng cuộc biểu tình
"Ký giả đi ăn mày", ngày 10-10-1974 hàng trăm nhà báo cùng với hàng vạn
nhân dân Sài Gòn xuống đường biểu tình chống đàn áp báo chí, bóp nghẹt tự do,
dân chủ, đòi Thiệu từ chức. Trước đó là các cuộc biểu tình của hàng vạn nhân
dân Huế. Tại Hạ viện ngụy, đại biểu Phật giáo đối lập công bố cáo trạng kết tội
Thiệu tham nhũng. Giáo hội Thiên chúa thành lập "Phong trào nhân dân chống
tham nhũng" để cứu nước và kiến tạo hòa bình. Nhiều tổ chức chống Thiệu như
"Lực lượng hòa giải hòa hợp dân tộc", "Mặt trận nhân dân cứu đói", "Uỷ ban
đấu tranh đòi thả tù chính trị". .. ra đời. Những hình thức thống nhất hành động
và các phong trào liên hiệp đấu tranh dồn ngụy quyền vào thế hoàn toàn bị cô
lập.
Do chính sách chiến tranh của Mỹ - nguỵ, tháng 6- 1974 Ban liên hợp quân
sự ngừng hoạt động, sau đó hội nghị hiệp thương hai bên Nam Việt Nam và các
cuộc tiếp xúc Việt - Mỹ cũng kết thúc. Các hoạt động tuyên truyền đối ngoại của
ta đã vạch trần bộ mặt thật của Mỹ - ngụy, đập tan những luận điệu lừa bịp của
chúng, làm cho dư luận tiến bộ trên thế giới, thấy rõ tính chất hiếu chiến, phá
hoại hòa bình của Mỹ ngụy và thừa nhận tính chất chính nghĩa của các cuộc
đánh trả của quân và dân ta.
Tháng 7- 1974 quân giải phóng đánh mạnh vào quân ngụy trên khắp các
chiến trường khu V, khu VI, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, giải
phóng thêm nhiều nơi, trong đó có hàng chục chi khu, quận lỵ. Kế hoạch lấn
chiếm, bình định của Mỹ - ngụy về căn bản đã thất bại. Trên chiến trường đã
xuất hiện một tình thế mới: quân ta giải phóng- hàng chục- chi khu, quận lỵ còn
ngụy quyền Sài Gòn đành chịu mất. Lực lượng mọi mặt của ta lớn mạnh hẳn
244
lên, ngược lại lực lượng mọi mặt của ngụy quyền đang trên đà suy sụp, tan rã.
Chiến thắng của quân dân ta và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên
thế giới và nhân dân Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh tác động mạnh mẽ đến chính
giới Mỹ, ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay mạnh. Những khó khăn của nước
Mỹ không cho phép giai cấp thống trị Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh lâu hơn nữa.
Tháng 5- 1974 Hạ viện Mỹ bác bỏ đề nghị của Níchxơn tăng cường viện trợ cho
Thiệu. Tổng thống Mỹ Nichxơn bị vụ bê bối Oatơghết, phải từ chức, ảnh hưởng
trực tiếp đến ngụy quyền Sài Gòn.
Tháng 10- 1974 Hội nghị Bộ Chính trị quyết định chủ trương giải phóng
hoàn toàn miền Nam. Hội nghị đã cân nhắc kỹ tình hình địch, ta và nhận định
"Lúc này chúng ta có thời cơ… Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta
hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân
tộc, dân chủ đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc... Đối với vấn đề được nêu ra về khả năng Mỹ đưa quân trở lại, Bộ
Chính trị đã cân nhắc kỹ lưỡng và thống nhất nhận định bản chất Mỹ rất ngoan
cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng "Mỹ đã ra thì việc quay lại không
phải dễ… ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay lại. .. Dù Mỹ có can thiệp
trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế và
ta vẫn thắng".
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, từ hậu phương lớn đến tiền tuyến
lớn đã chuẩn bị về mọi mặt tư tưởng, về tổ chức cho tổng tiến công và nổi dậy,
tiến hành bí mật và khẩn trương. Quân ta ra trận với tinh thần phấn khởi, tự tin,
sung sức, quyết tâm đánh mạnh, thắng lớn. Cùng hành quân với các lực lượng
vào chiến trường là các chiến sĩ thông tin, nhà báo, nhà văn, nhiếp ảnh, quay
phim. . . để thông tin kịp thời và ghi lại những sự kiện lịch sử trong trận quyết
chiến chiến lược. Trên tiền tuyến lớn, toàn bộ cán bộ, chiến sĩ các binh chủng
trên mặt trận tư tưởng văn hoá, cán bộ và học viên các trường Đảng, cả học viên
khóa VIII Trường Nguyễn Ái Quốc miền Nam đã kết thúc lớp học để tham gia
cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi cuối cùng.
245
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mở đầu ngày 4-3 với
thắng lợi giòn giã giải phóng Buôn Ma Thuột (10-3) làm nức lòng quân dân cả
nước, gây hoang mang, hoảng loạn trong hàng ngũ địch. Với sự chỉ đạo sát sao
của Bộ Chính trị, sự chỉ huy kiên quyết, mưu trí, sáng tạo của các Bộ Tư lệnh
chiến trường, tinh thần dũng cảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu của quân dân
ta, chỉ một tháng sau quân ta đã lần lượt giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, các
tỉnh, thành phố miền Trung và miền Nam Trung bộ, tiến sát đến cửa ngõ Sài
Gòn. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, nhiều địa phương và cơ sở đã lập ủy
ban khởi nghĩa, phát động quần chúng nổi dậy diệt địch, giành quyền làm chủ và
tổ chức phục vụ chiến đấu.
Thiệu cầu cứu khẩn cấp nhưng đến nước này thì chủ Mỹ cũng phải bỏ mặc
cho ngụy chết chìm. Ngày 14-4- 1975 Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch
tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định, mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử. Những ngày này, các hoạt động tư tưởng hừng hực thế tiến công, động viên
cả dân tộc lên đường, cả nước cùng ra trận, mấy thế hệ cùng tham gia trận đánh
cuối cùng của 2l năm chống Mỹ, cứu nước. 17 giờ ngày 26-4- 1975 cuộc tổng
công kích đánh chiếm thành phố Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. 10 giờ 45 phút
ngày 30-4-1975 các đơn vị xe tăng và bộ binh thuộc Quân đoàn II tiến vào dinh
Độc Lập, bắt toàn bộ nội các ngụy, buôc Tổng thống ngụy Dương Văn Minh
phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện và ra lệnh cho quân ngụy hạ vũ khí.
Cùng ngày 30-4 và 1-5 quân và dân ta nổi dậy và tiến công liên tục, hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đánh cho ngụy nhào", kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong suốt 50 ngày đêm chiến đấu của quân và dân ta, các hoạt động thông
tin tuyên truyền đã kịp thời đưa tin chiến thắng, trong đó có bức ảnh lịch sử xe
tăng ta húc đổ cổng sắt dinh Độc Lập. Việc chiếm lĩnh Đài phát thanh, Đài
truyền hình Sài Gòn và Việt Tấn xã (cơ quan thông tấn của nguỵ quyền Sài
Gòn) được tiến hành nhanh, gọn trong ngày 30-4-1975 và đưa vào hoạt động
ngay trong ngày 30-4, 1-5.
246
Ở miền Bắc, Ban Tuyên huấn Trung ương đã chỉ đạo các cơ quan tuyên
truyền chuẩn bị sẵn sàng đón mừng thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh. Qua
báo chí và đài phát thanh, nhân dân cả nước vui mừng, hồi hộp theo dõi các
bước tiến quân của bộ đội ta, đặc bìệt trong thời điểm quân ta đã áp sát Sài Gòn
và những ngày diễn ra chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trưa 30-4-1975, sau khi
tin quân ta đã tiến vào dinh Độc Lập, buộc ngụy quyền đầu hàng không điều
kiện, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, nhân dân Thủ đô Hà Nội và các thành
phố, thị xã, thị trấn đổ ra đường tụ tập trước các bản đồ chiến sự, các bản tin và
loa truyền thanh, hàng vạn và chục vạn người tuần hành, đánh trống, chiêng, đốt
pháo, tung hoa, múa sư tử, rước cờ, rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hô vang
các khẩu hiệu mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam, ca ngợi Tổ
quốc Việt Nam anh hùng. Ở Hà Nội, nhiều người nước ngoài cũng xuống đường
tuần hành chào mừng thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Ngày 30-4 trở
thành ngày hội mừng chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Trải qua 21 năm chiến đấu, sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân
mới, với quy mô lớn của tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất thế kỷ này,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Thắng lợi đó
của nhân dân ta "mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to
lớn và có tính thời đại sâu sắc"[54].
Trong 21 năm chống Mỹ cứu nước và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân
tộc.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ này là đất nước tạm chia làm hai miền với
hai chế độ khác nhau. Đảng lãnh đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Trong bất kỳ tình huống nào, Đảng và nhân dân ta cũng
247
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh là một thử
thách lớn nhất đối với dân tộc và sự lãnh đạo của Đảng. Đảng và nhân dân ta
phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe
đế quốc. Để giành được thắng lợi, phải động viên được ý chí và sức mạnh đoàn
kết chiến đấu, năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường của toàn dân dưới ngọn cờ
của Đảng.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ đó, qua mỗi bước chuyển của cuộc chiến
tranh, công tác tư tưởng đã tiến hành động viên chính trị sâu rộng mạnh mẽ, liên
tục trong Đảng và trong nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhất
trí sâu sắc với đường lối cách mạng của Đảng và quyết tâm với chiến lược của
Trung ương, đánh giá đúng địch, ta nhận rõ tình hình và nhiệm vụ, nâng cao tính
tự giác, sáng tạo trong hành động, biến đường lối và quết tâm của Đảng thành
hiện thực.
Bằng nhiều hoạt động phong phú, công tác tư tưởng đã góp phần phát huy
đến đỉnh cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là
một" là những chủ đề xuyên suốt trong các hoạt động tư tưởng. Những tấm
gương anh hùng, dũng sĩ, những "người tốt, việc tốt" những cái hay, cái đẹp nảy
sinh trong sản xuất, chiến đấu và công tác được nêu cao, góp phần xây dựng đạo
đức mới, chuẩn mực sống mới của con người Việt Nam, đấu tranh bảo vệ văn
hoá dân tộc, chống văn hoá nô dịch và đồi truỵ của Mỹ - ngụy.
Công tác tư tưởng đã kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần
quốc tế vô sản, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "giúp bạn là tự giúp mình",
động viên quân và dân ta thực hiện liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông
Dương chống Mỹ, xác định rõ đánh thắng Mỹ là thiết thực làm nghĩa vụ quốc tế
của nhân dân ta đối với cách mạng thế giới.
Trong cuộc chiến đấu trường kỳ, quyết liệt và phức tạp chưa từng thấy,
công tác tư tưởng đã thường xuyên góp phần xây dựng, vun đắp và phát huy
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tự tin vào sức mạnh của dân tộc, dám
đánh Mỹ, sáng tạo nhiều cách đánh Mỹ, kiên quyết đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn
248
toàn và lập trường hiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Trong suốt 21 năm trường kỷ kháng chiến, Đảng ta đã huy động các cơ quan
tuyên truyền và văn hoá của Đảng và Nhà nước, các ngành, các giới, các lực
lượng vũ trang phối hợp tiến hành trường kỳ động viên chính trị, giáo dục tư
tưởng, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, những người có trách nhiệm đi đầu,
vận động và tổ chức phong trào quần chúng. Tuy có những lúc lãnh đạo tư
tưởng thiếu chặt chẽ, không kịp thời, những vấn đề bức xúc đặt ra chậm được
giải đáp, song nhìn chung khi diễn ra những bước ngoặt của cuộc chiến tranh,
khi tình hình trong nước và quốc tế có những biến động phức tạp, khi địch dùng
những thủ đoạn mới để chống phá, khi cách mạng thắng lợi cũng như khi gặp
khó khăn, tổn thất, công tác tư tưởng đã căn cứ các nghị quyết của Đảng tạo sự
thống nhất về nhận thức, uốn nắn những lệch lạc, định hướng đúng cho hành
động của toàn Đảng, toàn dân.
Công tác tư tưởng đã chú trọng làm thấu suốt tư tưởng chiến lược tiến công
và quán triệt tư tưởng tiến công trên mặt trận tư tưởng, xây dựng sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong xã hội, phát hiện và uốn nắn những tư tưởng lệch lạc,
ngại chiến đấu lâu dài, sợ gian khổ, hy sinh, hữu khuynh, cố thủ, bi quan, dao
động, khuynh hướng giản đơn, nóng vội, muốn thắng nhanh hoặc ảo tưởng hòa
bình, chủ quan, mất cảnh giác. Trên cơ sở xây dựng sự vững vàng về tư tưởng
chính trị trong nội bộ, giáo dục cảnh giác, chống chiến tranh tâm lý của địch.
Công tác tư tưởng đã kết hợp tốt với công tác tổ chức, tập hơp rộng rãi tất
cả mọi người Việt Nam yêu nước, chống Mỹ - ngụy, làm dấy lên một cao trào
chống Mỹ, cứu nước của toàn dân với khí thế sôi nổi, hào hùng, thu hút mọi
tầng lớp mọi lứa tuổi, miền xuôi, miền ngược, tiền tuyến, hậu phương, trên mọi
lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và công tác; phát huy mạnh mẽ trí thông minh, tài
sáng tạo của quần chúng, từ người nông dân, công nhân bình thường đến anh bộ
đội, chị du kích, nhà khoa học.. . hành động thiết thực, tạo nên hiệu quả lớn "Tất
cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Mỗi phong trào cụ thể của các ngành, các
giới đều mang đậm khí phách của dân tộc, đem lại kết quả "được việc, được tổ
249
chức, được người" là một thành công lớn và kinh nghiệm quý báu trong công tác
tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng của Đảng ta.
Công tác tuyên truyền đối ngoại ngày càng được mở rộng đã góp phần nêu
cao chính nghĩa Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, tranh thủ
được sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của bè bạn và các
lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới, góp phần hình thành hậu phương quốc
tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Nhân dân ta vô cùng xúc
động trước lời tuyên bố của Chủ tịch Phiđen Cátxtrô: Vì Việt Nam, nhân dân
Cuba sẵn sàng dâng cả máu của mình.
Trong hoàn cảnh địch đánh phá ác liệt, vượt qua bom đạn, các lớp chính trị
vẫn mở, báo, đài càng phát triển, tiếng hát át tiếng bom… Trải qua 21 năm
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, các binh chủng
trên mặt trận tư tưởng: giáo dục lý luận chính trị, báo chí xuất bản, tuyên truyền
cổ động, văn hoá văn nghệ… Ở mỗi miền, đều được rèn luyện và phát triển,
xứng đáng là lực lượng xung kích góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của
dân tộc.
Cùng với quân dân cả nước và các cán bộ trên mọi ngành hoạt động, đội
ngũ cán bộ công tác tư tưởng dù hoạt động ở hậu phương lớn hay tiền tuyến
lớn, ở vùng địch tạm chiếm hay vùng tự do dù phải đấu tranh trong hoàn cảnh
khắc nghiệt của nhà tù của Mỹ - ngụy, . . . đều tỏ rõ lòng trung thành với Đảng,
với Tổ quốc, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành
nhiệm vụ. Hàng ngàn cán bộ tuyên huấn từ Trung ương đến địa phương và cơ
sở, cán bộ các trường đảng, các cơ quan báo chí, đài phát thanh, thông tấn xã,
các ngành văn hoá, nghệ thuật, từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân kỹ thuật và
nhân viên phục vụ, các phóng viên, biên tập viên, giảng viên chính trị, nhà văn,
nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim, nhạc sĩ, đội viên văn công, chiếu bóng, v.v.. đã
hy sinh vì nhiệm vụ, đến nay vẫn chưa thể tập hợp hết số lượng và danh sách.
Tổ chức của toàn ngành, và các binh chủng đều được củng cố và phát triển.
Đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành mới được bổ sung một lớp cán bộ trẻ, đã
250
qua đào tạo tương đối có hệ thống, được rèn luyện trong thực tiễn phong trào
quần chúng. Sau thắng lợi, Ban Tuyên huấn Trung ương đã bước đầu sơ kết
công tác tư tưởng thời kỳ chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Song cần tổng kết sâu sắc hơn để góp phần vào phát huy kinh nghiệm và truyền
thống của ngành trong thời kỳ mới.
251
CHƯƠNG IV
CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG THỜI KỲ LÃNH ĐẠO XÂY
DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CẢ NƯỚC VÀ TIẾN HÀNH CÔNG
CUỘC ĐỔI MỚI (1975 - 2000)
I. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG NHỮNG NĂM 1975 - 1986,
HOÀN THÀNH THỐNG NHẤT TỔ QUỐC, CẢ NƯỚC ĐI LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI
Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thức thắng lợi, nhân dân cả nước vui mừng
phấn khởi, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc và sự lãnh đạo của
Đảng. Hy vọng với tiềm năng lớn của cả nước và những thuận lợi mới do chiến
thắng đem lại, nhân dân ta sẽ vượt qua được những khó khăn trước mắt; sớm
khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Đây là động lực tinh thần
to lớn, một thuận lợi cơ bản cho bước phát triển mới của cách mạng nước ta.
Tuy nhiên, trong hoàn cảnh mới, những tư tưởng lệch lạc cũng nảy sinh.
Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện chủ quan, tự mãn, không thấy tình hình
thế giới và khu vực còn có thể có những biến động phức tạp, phải thường xuyên
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thời chiến
chuyển sang thời bình một số cán bộ, đảng viên có tư tưởng nghỉ ngơi, xả hơi,
vun vén cho địa vị, quyền lợi cá nhân, giảm sút ý chí phấn đấu.
Sau chiến thắng 30-4, công tác tuyên truyền cổ động tiếp tục được triển
khai mạnh mẽ, nêu cao thắng lợi vĩ đại của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng,
phổ biến rộng rãi các chính sách đối với vùng mới giải phóng, đập tan những
luận điệu chiến tranh tâm lý của địch, tổ chức phong trào quần chúng đoàn kết,
khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, bảo vệ an ninh trật tự, xây dựng chính
quyền và các đoàn thể cách mạng.
Lúc này, một vấn đề được đặt ra là sau giải phóng và hoàn thành thống nhất
Tổ quốc, miền Nam sẽ cùng cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội hay dừng lại một
thời gian để phục hồi sau chiến tranh? Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá III, tháng 9- 1975) đã phân tích tình hình mọi mặt,
252
quyết định nhiệm vụ hoàn thành thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước cùng đi lên
chủ nghĩa xã hội.
Về công tác tư tưởng, văn hoá, Nghị quyết Trung ương chỉ rõ, đối vởi toàn
xã hội, phương hướng chính là: “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, phát huy tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần tự lực tự cường, vạch
trần chủ nghĩa quốc gia giả hiệu, chống hệ tư tưởng chính trị phản động và tư
tưởng đồi trụy; chống mê tín dị đoan, hủ tục. Tích cực tuyên truyền, giáo dục
chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, ý thức tôn trọng của công, xây dựng nếp
sống mới; đấu tranh chống ảnh hưởng của văn hoá tư sản, thực dân mới, quét
sạch các tệ nạn xã hội cũ”. Đối với xây dựng nội bộ Đảng, toàn thể đảng viên
phải chuyển biến về tư tưởng theo hướng: "Tất cả cho lao động, cho sản xuất,
tiến quân mạnh mẽ vào khoa học kỹ thuật, bồi dưỡng tinh thần cách mạng triệt
để phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sản xuất và xây dựng; nâng
cao cảnh giác cách mạng đối với những âm mưu ngóc đầu dậy của bọn phản
động; nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình, ý thức tổ chức và kỷ luật;
chống những biêu hiện bè phái, cục bộ, địa phương công thần suy tị về địa vị và
hưởng thụ; ngăn ngừa và tẩy trừ đầu óc đặc quyền, đặc lợi; chống tham ô, lãng
phí, hưởng lạc; chống mọi hành động xâm phạm tài sản của Nhà nước và nhân
dân; chống quan liêu, độc đoán, chuyên quyền; nâng cao tinh thần ham học, trau
dồi những kiến thức mới; chống thói lười học tập, lười suy nghĩ. Hết sức tự hào
là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, đồng thời khiêm tốn, giản dị, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần quốc tế vô sản".
Nghị quyết 24 của Trung ương Đảng đã xác định đúng đắn phương hướng,
nhiệm vụ công tác tư tưởng trong bước ngoặt mới của cách mạng, định hướng
kịp thời cho các hoạt động tư tưởng góp phần phát huy thắng lợi, hoàn thành
sớm việc thống nhất Tổ quốc, chuyển ngay sang giai đoạn mới của cách mạng
đưa cả nước đi lền chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện quyết định của Trung ương về kiện toàn tổ chức bộ máy, hệ
thống các cơ quan chuyên trách công tác tư tưởng, văn hoá thống nhất của cả
nước được củng cố và phát triển. Tuy còn những mặt hạn chế về cơ sở vật chất -
253
kỹ thuật và những khó khăn của một nước vừa ra khỏi chiến tranh, bước phát
triển mới về tổ chức và lực lượng là một thuận lợi lớn cho công tác tư tưởng,
văn hoá khi bước vào thời kỳ mới.
Các hoạt động tư tưởng văn hoá đã phối hợp với các ngành, các đoàn thể
triển khai trên quy mô lớn đợt tuyên truvền giáo dục Nghị quyết 24 của Trung
ương Đảng, xây dựng ý chí thống nhất của nhân dân đưa cả nước cùng đi lên
chủ nghĩa xã hội và tiến hành đợt sinh hoạt chính trị của toàn dân thực hiện
thẳng lợi cuộc bầu cử Quốc hội chung của cả nước với trên 98% tổng số cử tri đi
bầu.
Việc triển khai các mặt công tác ở vùng mới giải phóng có nhiều khó khăn,
phức tạp. Trước khi chế độ ngụy sụp đổ, Mỹ đã tiến hành "kế hoạch hậu chiến",
cài cắm gián điệp, tình báo để sử dụng vào các hoạt động phá hoại, tuyên truyền
xuyên tạc chính sách của cách mạng, gây tâm lý lo sợ bị khủng bố trả thù, nhất
là trong các tầng lớp trí thức, công chức, tư sản và những người đã từng cộng tác
với chế độ cũ.
Ngụy quân đã tan rã nhưng một số tên vẫn không chịu cải tà quy chính, lẩn
trốn, chờ cơ hội tiến hành các hoạt động phá hoại. Nghị quyết 254 của Bộ Chính
trị tháng 7- 1976 nhận định do cố gắng của các cấp, các ngành, các cán bộ, đảng
viên: Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hoá... đã đạt nhiều kết quả. Ta
đã sử dụng kịp thời và có hiệu quả các đài phát thanh, vô tuyến truyền hình,
nhanh chóng xây dựng mạng lưới báo chí cách mạng trên toàn miền, đẩy mạnh
các hoạt động văn hoá, nghệ thuật, xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng,
đồng thời tích cực chống văn hoá phản động, đồi truỵ... Đông đảo nhân dân
miền Nam trước đây bị địch bưng bít, xuyên tạc, nay đã bắt đầu hiểu đúng hơn
về độc lập và thống nhất, vể các chính sách của cách mạng... Thắng lợi to lớn
của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước ngày 25-4-1976 đã
đánh dấu sự trưởng thành về chính trị của nhân dân miền Nam, càng chứng tỏ
rằng nhân dân miền Nam ta rất giàu lòng yêu nước, tin tưởng vào cách mạng,
tha thiết muốn nước nhà độc lập, thống nhất và cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa
xã hội... Tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên ta ở các cấp, các ngành, cán bộ và
254
chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang đã giữ vững tinh thần cách mạng, tác
phong giản dị, cần cù, chịu đựng gian khổ, gần gũi quần chúng, nỗ lực phấn đấu,
quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ...
Quốc hội họp kỳ thứ nhất ngày 2-7- 1976, thể theo nguyện vọng của toàn
dân, đã quyết định phương hướng xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội,
đổi tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Thủ đô là Hà Nội, thành
phố Sài Gòn được chính thức mang tên thành phố Hồ Chí Minh. Đúng vào dịp
diễn ra kỳ họp của Quốc hội, ngày 5-7- 1976 Đài Truyền hình Việt Nam phát
sóng chương trình chính thức. Đây là một thành tựu mới trong sự nghiệp phát
triển của báo chí ta, một cố gắng lớn ngay sau khi đất nước vừa ra khỏi cuộc
chiến tranh lâu dài, ác liệt, là một hành động thiết thực của ngành phát thanh và
truyền hình mừng thắng lợi hoàn thành thống nhất Tổ quốc.
Nhìn chung, công tác tuyên truyền giáo dục trong hai năm 1975, 1976 đã
được tiến hành mạnh mẽ, liên tục, xây dựng được sự thống nhất tư tưởng về
phương hướng đi lên của cách mạng, góp phần quan trọng vào kết quả khôi
phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, giữ vững an ninh chính trị và trật tự
an toàn xã hội. Song cũng có một số khuyết điểm:
- Tuyên truyền một chiều thuận lợi và tiềm năng, chưa làm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nhận thức được những khó khăn trong xây dựng kinh tế
và những khó khăn khác có thể nảy sinh trong tình hình quốc tế và khu vực còn
diễn biến phức tạp.
- Buông lơi công tác giáo dục và quản lý cán bộ, đảng viên giữ vững phẩm
chất đạo đức cách mạng, ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực. Sau thắng lợi, một
số cán bộ, đảng viên đã giảm sút ý chí phấn đấu và phẩm chất cách mạng: nặng
tư tưởng địa vị cá nhân, cục bộ, tự tư, tư lợi quan liêu xa rời quần chúng, tham ô,
lãng phí, chiếm đoạt của công, xâm phạm lợi ích của nhân dân, tự do vô kỷ luật,
thậm chí có một số ít đã bị giai cấp tư san cám dỗ, mua chuộc”[55].
Thực hiện Nghị quyết 254 của Bộ Chính trị, Ban Tuyên huấn các cấp đã
giúp cấp uỷ đảng tiến hành đợt sinh hoạt chính trị về tình hình và nhiệm vụ mới,
kết hợp với tự phê bình và phê bình trong cán bộ, đảng viên. Nhưng do chỉ đạo
255
đợt tự phê bình và phê bình lần này thiếu chặt chẽ nên kết quả chưa đạt được
như yêu cầu đã đề ra.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng họp tháng 12- 1976 trong
tình hình đất nước có những thuận lợi cơ bản: Tổ quốc đã hoàn toàn thống nhất,
nhân dân cả nước phấn khởi, tin tưởng đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ
đã vạch ra. Tiềm năng kinh tế hai miền bổ sung cho nhau tạo ra nguồn lực mới
cho sự phát triển. Sau chiến thắng, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao,
quan bệ đối ngoại được mở rộng đối với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới. Ngoài sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, ta có khả
năng tìm thêm các nguồn lực mới cho công cuộc xây dựng lại đất nước. Song
cũng có những khó khăn to lớn: Nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nghèo nàn
lạc hậu, hậu qủa của chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới hết sức nặng nề.
Mỹ thực hiện cấm vận về kinh tế đối với ta. Những hoạt động thù địch và nguy
cơ chiến tranh còn đó buộc ta chưa thể giảm nhiều về quân số và chi phí quốc
phòng để tập trung sức người, sức của vào khôi phục và phát triển kinh tế.
Đại hội đã tổng kết những kinh nghiệm phong phú của cuộc chiến đấu
chống Mỹ, cứu nước, phân tích sâu sắc tình hình thế giới trong nước và những
đặc điểm lớn của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới, đề ra đường lối chung
về cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước là: "Nắm vững chuyên chính vô
sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mang khoa học - kỹ
thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật
là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã
hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn
hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột
người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường
xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội, xây dựng
thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa;
256
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập
dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội”[56]
Đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa được xác định là: “Đẩy mạnh
công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp
cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế
Trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế Trung ương với
kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát
triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp
kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công hợp tác, tương trợ với
các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa,
đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc
lập, chủ quyền và hai bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một
nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa
học kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh
phúc”[57].
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa được đề ra tại Đại hội IV là sự kế
tục và phát triển đường lối đã xác định tại Đại hội III được bổ sung trong quá
trình thực hiện. Những điểm mới là:
- Trong khi khẳng định học thuyết Mác - Lênin về chuyên chính vô sản với
hai chức năng cơ bản xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong đó xây dựng là chủ
yếu, Đảng ta chủ trương phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
xây dựng chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động tương ứng với bàn chất
của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và bản chất Nhà nước của dân, do dân và vì
dân, tương ứng với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất của chủ nghĩa xã hội.
- Coi cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là quá trình tiến hành đồng thời
ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng văn
hoá, cách mạng khoa học kỹ thuật, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là
257
then chốt; công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời
kỳ quá độ, nhằm đáp ứng đòi hỏi của một nước đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội đề ra mục tiêu phấn đấu hoàn thành về cơ bản quá trình
đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa (kết
thúc thời kỳ quá độ) trong khoảng 20 năm.
Đường lối của Đại hội được cụ thể hóa bằng kế hoạch Nhà nước 5 năm lần
thứ ba (1976 - 1980) và các Nghị quyết tiếp theo của Trung ương, chủ trương ưu
tiên tập trung cho phát triển công nghiệp nặng với quy mô lớn, phát triển nông
nghiệp và các mặt khác với tốc độ và chỉ tiêu phấn đấu cao, phát triển mạnh
kinh tế quốc doanh và tập thể, mở rộng qui mô hợp tác xã, xây dựng cơ cấu
công - nông nghiệp huyện, hoàn thành sớm cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh
tế miền Nam (vào năm 1980).
Về công tác tư tưởng, văn hoá, Báo cáo chính trị của Trung ương Đảng tại
Đại hội đánh giá trong thời gian qua, công tác tư tưởng và văn hoá đã đạt được
những thắng lợi to lớn, gúp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng cả nước...
Văn nghệ nước ta xứng đáng “đứng vào hàng ngũ tiên phong của nhũng nền văn
học nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay”. Nghị quyết Đại hội xác
định nhiệm vụ trung tâm của cách mạng tư tưởng và văn hoá trong giai đoạn
mới là: “Xây dựng con người mới, nền văn hoá mới; giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm
ưu thế tuyệt đối trong đời sống chính trị và tinh thần của toàn dân, làm cho
đường lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần
chúng; tiến hành đấu tranh tư tưởng chống tư tưởng, văn hoá phản động của chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, và nói chung của giai cấp bóc lột”. Nhiệm vụ
trước mắt là, “phổ biến sâu rộng các Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của
Đảng, làm dấy lên phong trào cách mạng mạnh mẽ thi đua thực hiện thắng lợi
kế' hoạch 5 năm 1976 - 1980... Giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và ý thức
làm chủ tập thể chống tư tưởng tư sản và tàn dư của tư tưởng phong kiến, phê
258
phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và “văn hoá” của
chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam”.
Đại hội quyết định đổi tên Đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam và bầu Ban
Chấp hành Trung ương mới. Đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư Ban
chấp hành Trung ương Đảng.
Trong hai năm 1977, 1978 Ban Tuyên huấn các cấp đã phối hợp với các
ngành, các đoàn thể tiến hành những đợt tuyên truyền giáo dục rộng lớn về Nghị
quyết Đại hội và động viên phong trào quần chúng thực hiện kế hoạch Nhà
nước. Mọi hoạt động của hệ thống tuyên truyền, giáo dục chính trị, thông tin, cổ
động đều được đẩy mạnh. Hệ thống trường đảng trực thuộc Trung ương được
sắp xếp lại và phát triển gồm 9 trường Nguyễn Ái Quốc phân hiện và 3 trường
Tuyên huấn Trung ương. Gần 1.000 cán bộ đã qua đào tạo, bồi dưỡng được điều
động bổ sung cho các tỉnh, thành phố vùng mới giải phóng để kiện toàn Ban
Tuyên huấn và trường đảng các cấp. Năm 1977, Vụ giảng viên Ban Tuyên huấn
Trung ương xuất bản tạp chí Sổ tay Giảng viên, hướng dẫn công tác giảng dạy lý
luận chính trị (sau chuyển thành tạp chí Giáo dục lý luận). Từ đầu năm 1978 các
lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức quản lý kinh tế được mở liên tục cho cán bộ
lãnh đạo chủ chốt các cấp. Hoạt động của lực lượng báo cáo viện theo Chỉ thị 14
của Ban Bí thư đưa sinh hoạt thời sự, chính sách bước đầu đi vào nề nếp. Góp
phần làm nghĩa vụ quốc tế, các đoàn chuyên gia giúp Đảng Lào về công tác tư
tưởng được tăng cường, kết quả công tác được bạn đánh giá cao.
Cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội IV trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, tháng 4-
1977 Ban Bí thư ra chỉ thị 08 đề ra những phương hướng lớn của công tác văn
hóa, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Bản chỉ thị
nhấn mạnh việc quán triệt các quan điểm của Đảng: “Tư tưởng và văn hoá
không chỉ là kết quả của kinh tế, mà còn là động lực thúc đẩy mạnh mẽ công
cuộc xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới. Văn hoá, văn nghệ phải gắn chặt
với nhiệm vụ cách mạng và đời sống nhân dân, mọi hoạt động văn hoá phải
hướng vào nhiệm vụ trung tâm xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Bảo đảm và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động về văn
259
hoá, văn nghệ trên ba mặt: nâng cao trình độ thưởng thức văn hoá, nghệ thuật,
biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân và tạo mọi điều kiện để nhân
dân trực tiếp sáng tạo ra mọi giá trị văn hoá. Xây dựng nền văn hoá mới có nội
dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, nền văn hoá có tính Đảng và tính
nhân dân sâu sắc trên cơ sở tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa kế thừa có
sáng tạo và kết hợp hài hoà tinh hoa văn hóa có phong cách riêng của các dân
tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, vừa tiếp thu có chọn lọc nhưng
thành quả của văn minh loài người… Đấu tranh quét sạch ảnh hưởng của văn
hóa thực dân phong kiến, tư sản và những nhân tố lạc hậu trong xã hội. Đảng
phải lãnh đạo toàn bộ công tác văn hoá thông qua các phương thức thích hợp với
đặc điểm của nó: vừa chặt chẽ về nguyên tắc, nội dung, vừa mở rộng cho các
hình thức và phong cách nghệ thuật; phải nhạy cảm, tinh tế và công phu trong
việc giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích lực lượng văn nghệ nhằm
phát huy cao độ các tài năng sáng tạo. Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy
phổ biến chỉ thị của Đảng đến các chi bộ để nâng cao nhận thức và tăng cường
lãnh đạo lĩnh vực tư tưởng, văn hoá. Các văn nghệ sĩ và cán bộ văn hóa trong cả
nước đã tham gia nghiên cứu quán triệt các quan điểm cơ bản và thảo luận thực
hiện các nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ do Trung ương Đảng đề ra.
Góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, các hoạt động tư tưởng,
văn hóa trong những năm 1976 - 1975 đã phối hợp với các ngành, các đoàn thể
động viên và tổ chức phong trào quần chúng thi đua thực hiện kế hoạch Nhà
nước, tiêu biểu là phong trào phấn đấu trở thành “Tổ lao động xã hội chủ nghĩa”
trong công nhân viên chức, các phong trào Ba xung kích làm chủ tập thể, Thanh
niên xung phong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Người phụ nữ mới xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc v.v.. Trong nông nghiệp, nổi bật là các phong trào khai hoang
phục hóa, làm thuỷ lợi tăng vụ, năm 1978 so với năm 1975 diện tích gieo trồng
có thêm l triệu hécta. Sản lượng một số sản phẩm chủ yếu trong công nghiệp
như điện, than, xi màng tăng hơn trước; đường sắt Thống nhất Bắc - Nam đã
hoạt động trở lại sau 30 năm bị gián đoạn. Trước tình hình bão lụt gây thiệt hại
nặng nề ở cả hai miền Nam, Bắc, các hoạt động tuyên truyền đã động viên nhân
260
dân cả nước nêu cao tinh thần tương thân tương ái, nhường cơm xẻ áo, giúp đỡ
lẫn nhau khắc phục hậu quả thiên tai, ổn định đời sống, khôi phục sản xuất. Các
cấp, các ngành tích cực triển khai nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với
công thương nghiệp tư bản tư doanh, tiểu thủ công nghiệp và nông nghiệp.
Trong hai năm l977, 1978 tuy nhân dân ta đã có những nỗ lực lớn, song
công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế bảo đảm đời sống nhân dân vẫn đứng
trước nhiều khó khăn, nhất là tình trạng thiếu lương thực, sản xuất chưa đủ ăn.
Dự trữ còn lại sau chiến tranh đã cạn. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với Liên Xô
và các nước xã hội chủ nghĩa đã chuyển sang hợp tác, có đi có lại, có vay có trả.
Công tác giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa trong đảng viên và nhân dân miền
Nam chưa làm được bao nhiêu. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền
Nam do tiến hành ồ ạt và về cơ bản rập khuôn như đã làm ở miền Bắc, không
tạo ra được động lực cho sự phát triển. Khuynh hướng mệnh lệnh, dồn ép khá
phổ biến, có nơi một số đảng viên xin ra Đảng để khỏi phải vào hợp tác xã. Ở
miền Bắc, hàng loạt hợp tác xã nông nghiệp được đưa lên quy mô toàn xã, có
nhiều hiện tượng gò ép, trái với nguyên tắc tự nguyện, vượt quá trình độ, năng
lực quản lý của cán bộ. Nhiều cơ sở kinh tế quốc doanh và tập thể quản lý kém,
hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp, thậm chí thua lỗ, kinh tế cá thể, kinh tế gia
đình bị thu hẹp, đời sống của nhân dân lao động gặp nhiều khó khăn. Từ chỗ tư
tưởng phổ biến là chủ quan, hy vọng đời sống sớm được cải thiện, đã xuất hiện
tư tưởng bi quan. Việc hợp tỉnh, hợp huyện thành những đơn vị hành chính quá
lớn và thực hiện vội vàng làm cho công tác quản lý, chỉ đạo có nhiều khó khăn,
lãnh đạo không nắm sát được tình hình thực tế ở cơ sở. Lợi dụng lúc cách mạng
nước ta gặp nhiều khó khăn, bọn phản động ở bên ngoài móc nối với bọn phản
động ở trong nước tiến hành các hoạt động phá hoại. Chúng lợi dụng những khó
khăn, khuyết điểm của ta để tuyên truyền xuyên tạc, gieo rắc hoang mang, kích
động hàng loạt đồng bào ta bỏ ra nước ngoài, gây rối an ninh trật tự xã hội và
nhân đó bôi nhọ chế độ ta, hạ uy tín quốc tế của ta. Công tác tư tưởng lúc này có
sơ hở, lúng túng, bị động, chưa làm cho mọi người nhận rõ âm mưu thâm độc
261
của các thế lực thù địch và hiểu đúng tình hình đất nước để chung sức phấn đấu
khắc phục khó khăn, mau chóng ổn định tình hình, làm thất bại âm mưu phá
hoại của địch. Công tác tuyên truyền chống các luận điệu phản động cũng yếu
và không kịp thời.
Những hành động xâm phạm biên giới và nguy cơ chiến tranh làm cho một
bộ phận quần chúng thêm lo lắng. Công tác tư tưởng lúc này đã bước đầu khắc
phục những thiếu sót, sơ hở, đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vạch rõ âm
mưu của các thế lực thù địch, khơi dậy tinh thần yêu nước, động viên quân dân
cả nước sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hàng triệu
lượt người xung phong đi tham gia xây dựng phòng tuyến biên giới. Số thanh
niên đăng ký nhâp ngũ vượt xa số lượng cần tuyển. Hàng chục ngàn cán bộ các
cấp, các ngành tình nguyện đi tham gia củng cố cơ sở, tăng cường cho các cấp,
các ngành ở các tỉnh biên giới. Tháng 12- 1978 và tháng 2- 1979 quân và dân ta
buộc phải cầm vũ khí chiến đấu và đã chiến đấu thắng lợi bảo vệ toàn vẹn lãnh
thô của Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Nhưng lúc này khó khăn cũng rất lớn.
Hậu quả của 30 năm chiến tranh chưa khắc phục được mấy, lại thêm hậu quả
không nhỏ của hai cuộc chiến tranh biên giới. Đất nước đứng trước tình hình
vừa có hòa bình vừa có thể lại xảy ra chiến tranh, phải dành một phần quan
trọng sức người, sức của để củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu và làm
nghĩa vụ quốc tế. Mỹ xiết chặt bao vây, cấm vận về kinh tế và tiến hành nhiều
thủ đoạn thâm độc nhằm cô lập ta về chính trị. Nhiều nước phương Tây đình chỉ
các quan hệ chính thức với ta. Các nước ASEAN thực hiện chính sách đối đầu
với nước ta ở mức độ khác nhau. Về kinh tế, sau hơn hai năm triển khai thực
hỉện Nghị quyết Đại hội IV, kết quả chưa đạt được như mong muốn. Từ kiểm
nghiệm trong thực tế, một số cán bộ có tâm trạng băn khoăn xung quanh một số
chủ trương lớn như: không đề cập “bước đi ban đầu” hay “chặng đường đầu
tiên” của thời kỳ quá độ như đã xác định trước đây, đi ngay vào phát triển kinh
tế với quy mô lớn, tốc độ cao với mục tiêu căn bản kết thúc thời kỳ quá độ trong
khoảng 20 năm là quá cao, không phù hợp với đặc điểm đất nước và khả năng
phấn đấu của ta; tiến hành ngay cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể và
262
tư nhân ở miền Nam là giản đơn, nóng vội, không phù hợp với chủ trương đúng
mà Nghị quyết 24 của Trung ương đã đề ra là duy trì trong một thời gian nhất
định nền kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam. Việc duy trì quá lâu cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp và những bất hợp lý về chính sách phân phối, lưu thông
gây thêm khó khăn trong kinh tế và đời sống nhân dân, làm giảm tính tích cực
sản xuất của người lao động… Những khó khăn về kinh tế và đời sống làm cho
tình hình tư tưởng quần chúng diễn biến phức tạp, một bộ phận thiếu tin vào khả
năng lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước về kinh tế.
Đứng trước yêu cầu bức xúc của tình hình, Hội nghị lần thứ sáu của Ban
Chấp hành Trung ương Đang (9-1979) phải bàn định những nhiệm vụ kinh tế
cấp bách. Hội nghị khẳng định những nỗ lực lớn của nhân dân ta trong thực hiện
nhiệm vụ khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, chống thiên tai; bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. Đồng thời cũng nghiêm khắc kiểm điểm
những khuyết điểm chủ quan trong lãnh đạo kinh tế. Xây dựng kế hoạch vẫn tập
trung quan liêu, chưa kết hợp chặt chẽ kế hoạch hóa với sử dụng thị trường,
chưa chú ý đầy đủ phát huy kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, chưa chú ý sử
dụng đúng đắn các thành phần kinh tế cá thể và tư sản dân tộc (ở miền Nam),
chậm khắc phục tình trạng trì trệ, bảo thủ trong việc xây dựng các chính sách cụ
thể về kinh tế, tài chính để khuyến khích phát triển sản xuất, có những biểu hiện
nóng vội, giản đơn trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam và điều cần đặc
biệt quan tâm là người lao động thiếu hăng hái sản xuất. Hội nghị quyết định
một số chủ trương nhằm phát triển lực lượng sản xuất, làm cho sản xuất bung
ra, như: chấp nhận ở miền Bắc ngoài hai hình thức sở hữu nhà nước và tập thế là
chủ yếu còn có thành phần kinh tế cá thể, ở miền Nam trong chừng mực nhất
định còn có thêm kinh tế tư bản tư doanh cỡ nhỏ; kết hợp kế hoạch với sử dụng
thị trường; các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý phải quán triệt quan điểm
của Đảng về lợi ích kinh tế, kết hợp đúng đắn lợi ích toàn xã hội với lợi ích của
tập thể và cá nhân, khuyến khích người lao động hăng hái sản xuất; lấy năng
suất lao động tăng, sản xuất phát triển và đời sống nhân dân được cải thiện làm
tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá sự đúng đắn của chính sách; đối với các hợp tác
263
xã nông nghiệp thực hiện ổn định mức nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần
còn lại bán cho Nhà nước với giá thỏa thuận và được lưu thông tự do, bảo đảm
nguyên tắc phân phối theo lao động; bỏ lối phân phối theo định suất, định lượng
trong hợp tác xã. Hội nghị Trung ương 6 còn quyết định các chủ trương, biện
pháp phát triển công nghiệp địa phương và tiểu thủ công nghiệp, đẩy mạnh sản
xuất hàng tiêu dùng. Các hoạt động tư tưởng lúc này đã truyền đạt kịp thời và
sâu rộng những quan điểm và quyết tâm của Trung ương những quyết định mới
về các vấn đề kinh tế - xã hội, làm cho đông đảo đảng viên và quần chúng thấy
rõ những thắng lợi trong 4 năm qua và những khuyết điểm trong lãnh đạo kinh
tế, nâng cao ý chí phấn đấu vượt qua khó khăn trong hoàn cảnh vừa phải bảo vệ
Tổ quốc vừa bảo đảm đời sống của nhân dân và xây dựng cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội, khắc phục tư tưởng bi quan, hoài nghi, dao động, đập lại những
luận điệu chia rẽ, xuyên tạc, kích động của địch. Để tăng thêm công cụ chỉ đạo
công tác tư tưởng, năm 1979 tạp chí Sổ tay tuyên truyền ra đời, góp phần thực
hiện nhiệm vụ hướng dẫn các cấp về nội dung và phương thức công tác tuyên
truyền trong Đảng và trong nhân dân (sau chuyển thành Tạp chí Tuyên truyền,
từ tháng 8-1991 chuyển thành Tạp chí Công tác tư tưởng, văn hóa, cơ quan của
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương).
Trên cơ sở phương hướng Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, tháng 6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26 về phân
phối, lưu thông và cải tiến cơ chế quản lý kinh tế nhằm từng bước xoá bỏ cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện kết hợp kế hoạch với thị trường, và đề ra
phương hướng sửa đổi hệ thống giá cả đã không còn phù hợp.
Nghị quyết Trung ương 6 về các nhiệm vụ kinh tế cấp bách và Nghị quyết
26 của Bộ Chính trị là cái mốc mở đầu sự chuyển biến nhận thức và quan điểm
về quản lý kinh tế. Lãnh đạo đã thấy rõ hơn thực tế sản xuất, thực trạng đời sống
của người lao động và một số điểm quan trọng không phù hợp trong cơ chế,
chính sách cần phải sửa đổi. Từ điểm khởi đầu đó dẫn đến Thông báo số 22 (8-
1980), Chỉ thị số 100 của Ban Bí thư (1- 1981) về khoán sản phẩm cuối cùng
đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp và các Quyết định
264
25/CP, 26/CP của Hội đồng Bộ trưởng về phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh và cải tiến công tác kế hoạch trong các cơ sở kinh tế quốc doanh (thể
hiện trong kế hoạch ba phần) Chỉ thị 100 và các Quyết định 25/CP, 26/CP tuy là
những đổi mới bộ phận nhưng có vai trò rất lớn trong công tác tư tưởng, đánh
dấu bước đầu đổi mới tư duy và chính sách kinh tế của Đảng, được đông đảo
đảng viên và quần chúng nhiệt liệt hưởng ứng, tạo ra được một số chuyển biến
tốt trong sản xuất, nhất là trong nông nghiệp.
Trên thực tế, trước khi đi đến những chủ trương, chính sách nói trên của
Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), do đòi hỏi bức bách của
cuộc sống, các cơ sở kinh tế quốc doanh và tập thể đều phải tự lo lấy đời sống
của công nhân viên chức và xã viên bằng nhiều cách. Nhiều hợp tác xã nông
nghiệp đã cho gia đình xã viên mượn đất làm vụ thu, vụ đông, làm màu và
khoán công việc sản xuất của tập thể đến hộ xã viên. Một hiện tượng phô biến là
hợp tác xã và xã viên thường khai thấp năng suất và sản lượng lúa so với thực tế
thu hoạch để vừa giảm bớt gánh nặng bán với giá rẻ cho Nhà nước theo chỉ tiêu
nghĩa vụ, vừa bảo đảm mức lương thực cần thiết cho đời sống xã viên, nếu còn
dôi dư thì bán ra thị trường tự do với giá cao. Trong các cơ sở kinh tế quốc
doanh cũng đã xuất hiện nhiều cách làm ăn ngoài kế hoạch pháp lệnh của Nhà
nước, để bảo đảm đời sống của cán bộ, công nhân.
Những quyết định mới nói trên của Đảng và Nhà nước là kết quả tổng kết
thực tiễn, giải quyết một phần những vấn đề nảy sinh trong quá trình tổ chức
thực hiện đường lối. Công tác tư tưởng đã góp phần tích cực vào việc xây dựng
và thực hiện những quyết định đó. Tháng 9-1966 Thường vụ Tỉnh uỷ Vĩnh Phú,
từ tổng kết thực tiễn ở một số hợp tác xã nông nghiệp, ra nghị quyết về “khoán
hộ”. Sự tìm tòi và kinh nghiệm ban đầu của Vĩnh Phú được thông tin trên báo
Đảng. Song lúc đó “khoán hộ” bị coi như một hành động “xé rào”, trái với cơ
chế quản lý hiện hành. Nhiều hợp tác xã đã, “khoán hộ” nhưng giấu cấp trên và
“làm chui”.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6, báo Nhân Dân mở cuộc thảo luận về
kết hợp đúng đắn ba lợi ích trong kinh tế. Nhiều ý kiến nhấn mạnh phải quan
265
tâm hơn lợi ích của người lao động mới khuyến khích được họ hăng hái lao
động sản xuất. Cuộc hội thảo về quản lý hợp tác xã nông nghiệp tổ chức ở Côn
Sơn (Hải Hưng) cũng nhấn mạnh việc thực hiện khoán cho lao động, cho gia
đình xã viên. Năm 1980, Ban Tuyên huấn Trung ương, báo Nhân Dân, trường
Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí Cộng sản phối hợp với các cơ quan phụ
trách nông nghiệp của Đảng và Nhà nước và một số tỉnh, thành phố tổ chức
nghiên cứu phương thức “khoán hộ” ở một số hợp tác xã, giới thiệu những mô
hình tốt, trong đó có hợp tác xã Đoàn Xá (Đồ Sơn, Hải Phòng), đề xuất với lãnh
đạo và được chấp nhận. Công tác tuyên truyền Thông báo số 22 của Ban Bí thư
được mở rộng, hình thành dư luận ủng hộ cơ chế khoán mới. Một phong trào
ủng hộ cái mới sôi động trong cả nước.
Sự việc trên cho thấy quần chúng cách mạng rất giàu tinh thần sáng tạo.
Nhiều khi trong lúc lãnh đạo còn đang trăn trở tìm giải pháp thì, trong phong
trào quần chúng thực hiện nghị quyết của Đảng đã xuất hiện những sáng kiến
hay, những mô hình làm ăn có hiệu quả, được quần chúng hưởng ứng. Một kinh
nghiệm thiết thân đối với công tác tư tưởng là, phải luôn luôn bám sát phong
trào quần chúng ở cơ sở, nắm vững định hướng của Đảng, nhạy bén phát hiện
nhũng nhân tố mới, tham gia tổng kết, vun xới và nhân rộng những nhân tố tích
cực ấy, mới nâng cao được hiệu quả công tác tư tưởng, phát huy được vai trò
chủ động của công tác tư tưởng.
Quá trình đi đến những quyết định và triển khai thực hiện các chính sách
mới là quá trình đấu tranh giữa quan điểm đổi mới với tư tưởng bảo thủ, giáo
điều và hữu khuynh, buông lỏng quản lý. Một bộ phận cán bộ, đảng viên cho
rằng thực hiện Chỉ thị 100 sẽ “phá vỡ quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, khuyến
khích tư tưởng tư hữu trong nông dân”. Ngược lại, cũng có khuynh hướng đánh
giá quá cao khoán hộ, cho khoán hộ là “chìa khóa vàng” để nông nghiệp đi lên
không ngừng. Quan niệm về kết hợp kế hoạch hóa với sừ dụng thị trường là thế
nào cũng chưa được làm rõ. Một số cán bộ, đảng viên ngại làm như vậy sẽ tạo ra
nguy cơ đưa nền kinh tế nước ta đi theo hướng kinh tế thị trường tự do tư bản
chủ nghĩa. Mặt khác, tình trạng buông lỏng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đã
266
tạo sơ hở cho lối làm ăn tự do, tùy tiện phát triển “bung ra” không đúng hướng,
gây rối trong kinh tế, những kẻ xấu lợi dụng việc chuyển đổi cơ chế quản lý để
tham ô, trục lợi.
Để tiếp tục góp phần phát huy những nhân tố tích cực, trong những tháng
cuối năm 1980 Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức khảo sát tình hình, xây
dựng đề án, lấy ý kiến của một số ngành và địa phương, tháng 2- 1981 trình Ban
Bí thư ra Nghị quyết 36 về nhưng nh iệm vụ trước mắt của công tác tư tưởng.
Đây là một Nghị quyết chỉ đạo toàn diện nội dung và các mặt hoạt động của
công tác tư tưởng, thể hiện các quan điểm của Nghị quyết Trung ương 6 và Nghị
quyết 26 của Bộ Chính trị về những vấn đề bức xúc đang đặt ra. Công tác quán
triệt Nghị quyết 36 được đặt thành một đợt giáo dục tư tưởng trong đảng, các
ngành, các đoàn thể, trong lực lượng vũ trang và tuyên truyền rộng rãi trong
nhân dân, tạo được sự nhất trí nhận định của Trung ương “5 năm vừa qua (1976
- 1980) là một thời gian ngắn ngủi, lại có địch hoạ, thiên tai, khó khăn cũ chưa
kịp khắc phục, khó hhăn mới đã xuất hiện, song cách mạng Việt Nam vẫn tiếp
tục phát triển và giành được những thắng lợi to lớn”, “nhưng chúng ta chưa
bao giờ lại đứng trước những khó khăn lớn về kinh tế và đời sống nhân dân như
hiện nay”. Đường lối đề ra tại Đại hội IV là đúng đắn. Nhưng trong việc vận
dụng và tổ chức thực hiện đường lối, lãnh đạo có khuyết điểm đánh giá không
đầy đủ tình hình mọi mặt sau giải phóng, có biểu hiện nóng vội về chủ trương
cải tạo và phát triển kinh tế, đồng thời lại có những khuyết điểm kéo dài trong
công tác phân phối lưu thông và quản lý kinh tế. Những thiếu sót, sai lầm đó ảnh
hưởng đến đời sống của nhân dân, làm cho tình hình tư tưởng diễn biến phức
tạp. Song, những thiếu sót, sai lầm đó chậm được sưa chữa vì cán bộ lãnh đạo ít
đi sát tình hình thực tế. Ít lắng nghe ý kiến của quần chúng... Một bộ phận cán
bộ, đảng viên, trong đó có những người có cương vị phụ rách ở các cấp, các
ngành biến chất, phạm tội... làm giảm uy tín của Đảng và chế độ, làm trì trệ mọi
mặt công tác..., làm cho tình hình kinh tế thêm trầm trọng, gây không ít tổn thất
cho cách mạng.
267
Công tác tư tưởng cũng có những yếu kém và khuyết điểm: “không vươn
lên kịp sự phát triển của cách mạng, giáo dục về chủ nghĩa xã hội, về đấu tranh
giữa hai con đường còn yếu... không kịp thời giải quyết những vấn đề mới xuất
hiện..., không chủ động ngăn ngừa và không kiên quyết đấu tranh chống những
hiện tượng tiêu cực. Công tác tư tưởng cũng đi theo phương hướng nóng vội,
thường nêu thành tích và thuận lợi một chiều... chưa phân tích đầy đủ mọi mặt
khó khăn, thiếu tính chiến đấu, thiếu chủ động và chưa sắc bén, chưa thật sự đi
sát công tác kinh tế và đời sống nhân dân chưa gắn liền với công tác tổ chức,
không làm cho tất cả các tổ chức đều làm công tác tư tưởng”[58].
Tháng 8- 1980, theo quyết định của Bộ Chính trị, Ban Văn hóa Văn nghệ
Trung ương được thành lập. Phần công tác văn hóa văn nghệ do Ban Tuyên
huấn Trung ương phụ trách nay chuyển sang Ban mới.
Việc quán triệt Nghị quyết 36 của Ban Bí thư đã góp phần làm cho đại bộ
phận cán bộ, đảng viên và quần chúng hiểu đúng hơn tình hình đất nước thấy
được những cố gắng đổi mới bước đầu và những khuyết điểm, sai lầm cần khắc
phục. Tuy vậy, trong chỉ đạo thực hiện, việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu
bao cấp tiến triển chậm; việc điều chỉnh giá, cải cách chế độ tiền lương và đổi
tiền năm 1981 - 1982 có nhiều khó khăn, lúng túng, kết quả thấp... Những vấn
đề cơ bản về đổi mới cơ chế quản lý và chính sách kinh tế chưa được giải quyết
đồng bộ nên chưa chặn lại được chiều hướng sút giảm của nền kinh tế, kéo theo
nó là những khó khăn về đời sống, nhất là đối với những người hưởng lương,
tâm trạng bi quan trong xã hội khá nặng nề. Những thế lực chống chủ nghĩa xã
hội lợi dụng lúc ta có khó khăn, khuyết điểm, công kích Đảng và Nhà nước
không có khả năng lãnh đạo kinh tế, nhằm làm giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và chế độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3- 1982) tiến hành trong
tình hình đất nước đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đại hội đã kiểm
điểm tư tưởng nóng vội và khuyết điểm chưa thật sự coi trọng nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng. Đại hội xác định nước ta đang ở “chặng đường đầu” của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chỉ rõ nội dung công nghiệp hóa xã hội
268
chủ nghĩa trong chặng đường này, trong đó mặt trận hàng đầu là nông nghiệp,
ra sức phát triển hàng tiêu dùng, v. v... Nghị quyết Đại hội đề ra một số chủ
trương về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư tổ chức lại và phát triển kinh
tế, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, thể hiện
cụ thể trong kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 nhằm cơ ban ổn định tình hình kinh tế
- xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là: vũ trang cho
toàn đảng, toàn quân, toàn dân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội
khoa học, xây dựng ý hc kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết cần
thiết để làm tròn cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc. Về các nhiệm vụ cụ thể, trước hết là, Làm quán triệt đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai cấp công nhân trong cuộc đấu
tranh giữa hai con đường.
Khắc phục chỗ yếu của công tác tư tưởng trong thời gian qua chưa làm cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân thấu suốt đường lối, chính sách của Đảng để tạo
ra sự nhất trí cao, có căn cứ lý luận và thực tiễn đầy đủ; chưa phê phán mạnh mẽ
những quan điểm sai trái với đường lối của Đảng; chưa trả lời kịp thời những
vấn đề thực tế và cụ thể được đặt ra trong quá trình thực hiện đường lối. Nâng
cao tính chiến đấu, phê phán sâu sắc những biểu hiện tư tưởng tiểu tư sản, kiên
quyết chống tư tưởng tư sản, chống những tàn dư văn hoá thực dân mới và tàn
dư tư tưởng phong kiến. Tăng cường công tác lý luận, nâng cao chất lượng
nghiên cứu khoa học xã hội phục vụ việc nghiên cứu, xác định và phổ biến
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; nghiên cứu cải tiến quản lý kinh
tế, quản lý xã hội; giáo dục hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho nhân dân lao động.
Công tác tư tưởng phải hướng mạnh vào việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm
chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, chống chủ
nghĩa cơ hội dưới mọi hình thức, kiên quyết khắc phục những biểu hiện sa sút về
phẩm chất chính trị, tự do vô kỷ luật về mặt tổ chức, thoái hoá về lối sống, mất
dân chủ, quan liêu hóa về tác phong, bảo thủ trong cách nhìn nhận sự vật của
một bộ phận cán bộ, đảng viên... Đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một
269
cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
toàn Đảng.
Để cải tiến công tác tư tưởng, phải sâu sát thực tế, nhạy cảm với cuộc sống,
nghiên cứu, tổng kết, phổ biến những điển hình tiên tiến, cổ vũ, vun xới cho
những nhân tố tích cực sớm được nhân lên... Toàn Đảng phải làm công tác tư
tưởng, mọi đảng viên đều phải làm công tác tư tưởng… Phối hợp tất cả các cơ
quan, các ban, các ngành, các đoàn thể, sử dụng tất cả các công cụ thông tin, văn
hoá, văn học, nghệ thuật, giáo dục,v.v.. để làm công tác tư tưởng; gắn chặt công
tác tuyên truyền giáo dục với công tác tổ chức và tổng kết thực tiễn để làm công
tác tư tưởng.
Công tác tuyên truyền quán triệt Nghị quyết Đại hội V đã góp phần làm rõ
hơn cục diện cách mạng nước ta, nhìn nhận đúng đắn hơn thành tựu và khuyết
điểm, động viên toàn đảng, toàn dân tập trung cao hơn vào mặt trận nông
nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, phấn đấu thực hiện toàn diện các chỉ
tiêu, biện pháp cửa kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1981 - 1985. Phân tích, khắc
phục các biểu hiện tư tưởng bi quan, hoài nghi, động dao về đường lối, thái độ
bàng quan, thiếu trách nhiệm, nói nhiều làm ít, chỉ kêu ca mà không gương mẫu
hành động góp phần khắc phục khó khăn, đẩy lui tiêu cực.
Trước và sau Đại hội Đảng, các thế lực phản động ra sức chống phá ta trên
nhiều lĩnh vực, bằng nhiều lực lượng, trên nhiều địa bàn, kết hợp phá từ trong ra
với từ ngoài vào nhằm gây rối an ninh chính trị để tiến hành bạo loạn, lật đổ khi
có điều kiện. Về tư tưởng, văn hoá, chúng đả kích đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, gieo rắc lối sống sa đoạ, gây tâm lý bất mãn, chống dối, làm
xói mòn lòng tin đối với Đảng và chế độ, tuyên truyền kích động gây chia rẽ
giữa nhân dân với Đảng, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Thực hiện Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị (tháng 10-1982) Ban Tuyên huấn
Trung ương đã phối hợp với các cơ quan có liên quan (trong Ban 03) tổ chức lực
lượng các binh chủng trên mặt trận tư tưởng của Đảng và Nhà nước, quân đội
công an và các đoàn thể tăng cường giáo dục cảnh giác cho nhân dân, tiến hành
270
phản kích các luận điệu thù địch, chặn phá các con đường đưa từ ngoài vào
những văn hoá phẩm phản động, đồi trụy.
Kết quả quán triệt và thực hiện nghị quyết Đại hội V, đã tạo được một số
chuyển biến tích cực, nhất là trong nông nghiệp. Trong xây dựng cơ bản đã tập
trung hơn vào các công trình trọng điểm. Các công trình đó sau này đã phát huy
tác dụng quan trọng khi bước vào những năm 1990. Song những quyết định của
Đại hội về điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, tập trung vào mặt trận hàng
đầu là nông nghiệp, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, xóa bỏ cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa… chậm
được cụ thể hóa, kết quả thực hiện thấp. Những cản trở lúc này là tư tưởng bảo
thủ, trì trệ, bệnh giáo điều, và tình trạng hữu khuynh, buông lỏng quản lý, tác
động xấu đến sự thống nhất tư tưởng trong đảng và trong xã hội. Công tác tư
tưởng lúc này đã có một số cố gắng góp phần đấu tranh khắc phục những biểu
hiện lệch lạc, nhưng nhấn mạnh nhiều hơn chống hữu khuynh, tiêu cực, chưa coi
trọng đúng mức đấu tranh khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, bệnh giáo điều.
Tiếp tục cụ thể hóa và triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội V về công
tác tư tưởng văn hoá, trong các năm 1983, 1984 Bộ Chính trị và Ban Bí thư ban
hành quyết định 15 về công tác các trường đảng, quyết định số 30 về công tác
giáo dục lý luận chính trị tại chức, chỉ thị số 25 về cải cách giáo dục lý luận
chính trị trong các trường đại học và cao đẳng, chỉ thị số 32 về tăng cường
quản lý công tác báo chí và chỉ thị 08 về công tác xuất bản.
Thực hiện các quyết định của Ban Bí thư, hệ thống các Trường Đảng trực
thuộc Trung ương được sắp xếp hợp lý hơn. Ngoài Trường Đảng cao cấp
Nguyễn Ái Quốc, có 3 trường Đảng khu vực và 2 trường Tuyên huấn, khắc phục
một bước tình trạng phân tán. Các tỉnh, thành uỷ tiếp tục kiện toàn hệ thống
Trường đảng tỉnh, thành, quận, huyện, thị xã và tăng cường đầu tư cho công tác
huấn luyện cán bộ. Chương trình học tập và nội dung giảng dạy lý luận chính trị
bước đầu được soạn lại. Tuy nhiên, những khó khăn về kinh tế và đời sống ảnh
hưởng đến công tác chiêu sinh của trường Đảng các cấp. Một số trường đảng
tỉnh trong hai năm 1983, 1984 mỗi năm chỉ mở được một lớp. Nhiều cán bộ
271
huyện và cơ sở ngại đi học lớp tập trung do khó khăn về đời sống. Phong trào
học tập tại chức cũng sút giảm. Việc cải tiến nội dung và phương pháp giảng
dạy môn lý luận Mác - Lênin trong các trường đại học và cao đẳng còn nhiều
hạn chế, không tạo được hứng thú học tập cho sinh viên.
Chỉ thị số 32 được triển khai thực hiện đã uốn nắn tình trạng chỉ chạy theo
số lượng, không nắm vững phương hướng chính là nâng cao chất lượng báo chí,
không chấp hành đúng các quy định của Đảng và Nhà nước về cho ra báo mới,
về bổ nhiệm và điều động Tổng Biên tập, v.v… Kết quả hội nghị tổng kết công
tác xuất bản (tháng 3- 1984) và việc triển khai thực hiện chỉ thị 08 của Ban Bí
thư đã từng bước hướng các hoạt động xuất bản nỗ lực phấn đấu nâng cao chất
lượng và hiệu quả, đi sát hơn cuộc sống và đối tượng, góp phần thực hiện nhiệm
vụ chính trị, các mục tiêu kinh tế - xã hội và chính sách đối ngoại của Đảng và
Nhà nước. Các mặt công tác tổ chức sản xuất giấy, quản lý vật tư ngành in và
công tác phát hành được chấn chỉnh một bước. Kế hoạch xây dựng ngành in
đồng bộ và hiện đại được đề ra trong cuối những năm 1980 đã đặt cơ sở cho sự
phát triển theo hướng từng bước hiện đại hoá trong những năm sau này.
Để tăng cường lãnh đạo của Đảng trên mặt trận tư tưởng tháng 12- 1983,
Bộ Chính trị ra Quyết định số 33 thành lập Uỷ ban công tác tư tưởng với chức
năng làm tư vấn cho Trung ương Đảng về lãnh đạo công tác tư tưởng. Thành
phần của ủy ban gồm các đồng chí ủy viên Trung ương Đảng trong khối các cơ
quan Trung ương về công tác tư tưởng. Đồng chí Hoàng Tùng, Bí thư Trung
ương phụ trách công tác tư tưởng làm Chủ nhiệm ủy ban. Được sự chấp thuận
của Ban Bí thư, Viện nghiên cứu dư luận xã hội được thành lập, là bộ phận trực
thuộc Ban Tuyên huấn Trung ương, giúp Ban nghiên cứu tình hình tư tưởng của
các tầng lớp xã hội trên những chủ đề lớn.
Trước yêu cầu bức xúc của sự nghiệp cách mạng và đời sống nhân dân,
thực hiện Nghị quyết 6 của Trung ương Đảng (tháng 7- 1984) về cải tiến quản lý
kinh tế, nhiều địa phương và cơ sở đã có những cố gắng tìm tòi đổi mới cách
làm ăn. Trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong kinh tế, năm 1984, 1985 đã xuất hiện
những nhân tô mới, những điển hình tốt bước đầu cải tiến quản lý, kinh doanh
272
có hiệu quả. Các cơ quan tuyên truyền và báo chí đã tham gia cùng với lãnh đạo
các ngành, các địa phương nghiên cứu, tổng kết, phổ biến kinh nghiệm của
những mô hình làm ăn có hiệu quả trong đó có kinh nghiệm thực hiện cơ chế
một giá ở Long An, kinh nghiệm cải tiến quản lý kinh doanh của một số cơ sở ở
thành phố Hồ Chí Minh và những nơi khác. Trên cơ sở quán triệt đường lối của
Đảng và từ tổng kết thực tiễn, Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng ra
Nghị quyết về giá - lương - tiền, một vấn đề bức xúc và hết sức phức tạp. Đáng
tiếc khi tổ chức thực hiện (9- 1985) lại tiến hành một cuộc tổng điều chỉnh ồ ạt
không đạt được êu cầu nghị quyết Trung ương đã đề ra, tình hình kinh tế, đời
sống thêm khó khăn kéo theo những diễn biến phức tạp về tư tưởng chính trị và
tâm trạng xã hội.
Trong tình hình đó, các hoạt động tuyên truyền giáo dục đã tích cực biểu
dương và phổ biến kinh nghiệm những mô hình làm ăn năng động, sáng tạo, có
hiệu quả, nhằm góp phần nhân rộng những nhân tố mới, động viên ý chí phấn
đấu, không vì khó khăn trước mắt mà phủ định những thành tựu đã đạt được, đi
tới động dao, thất vọng, mất phương hướng. Việc chuẩn bị Đại hội VI được tiến
hành trong bối cảnh ấy Đề cương Báo cáo chính trị được đưa ra cán bộ lãnh đạo
các ngành, các địa phương thảo luận, góp ý kiến. Các ý kiến đóng góp, đề nghị
đánh giá đúng thực trạng tình hình đất nước, khẳng định thành tựu đã đạt được,
phân tích sâu sắc nguyên nhân những khuyết điểm, sai lầm, nhiều kiến nghị đổi
mới về các mặt, đặc biệt là về chủ trương, chính sách kinh tế.
Ngày 10-7-1986 đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn qua đời. Ban Chấp hành
Trung ương bầu đồng chí Trường Chinh, ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư.
Trên cơ sở phát huy trí tuệ tập thể và từ kết quả tổng kết thực tiễn, Hội nghị
tháng 8-1986 của Bộ Chính trị đi đến kết luận, ra Nghị quyết “Về một số vấn đề
thuộc quan điểm kinh tế (cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý
kinh tế). Đến đây, từ những đổi mới bộ phận đã hình thành những quan điểm cốt
lõi của Đảng về đối mới kinh tế, tạo cơ sở cho việc soạn lại dự thảo Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Báo cáo chính trị của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng được đưa ra lấy ý kiến rộng rãi trong Đảng và trong
273
nhân dân, các đoàn thể, các nhân sĩ trí thức trong Mặt trận dân tộc thống nhất.
Các hoạt động tư tưởng đã góp phần tích cực vào cuộc vận động toàn Đảng toàn
dân góp ý kiến văn kiện Đại hội. Đây là một đợt tuyên truyền rộng lớn, qua đó
bước đầu phổ biến rộng rãi đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, khơi lên
được không khí dân chủ, cởi mở trong Đảng và trong xã hội, thu thập được
nhiều ý kiến rất tâm huyết đóng góp vào thành công của Đại hội.
II. CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI 15
NĂM QUA (1986-2000)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) tiến hành giữa
lúc đổi mới đã trở thành “yêu cầu bức thiết'' và là “vấn đề có tầm quan trọng
sống còn của cách mạng nước ta”[59]. Lúc này, ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa
và Liên Xô cũng đang diễn ra quá trình cải cách, cải tổ.
Với tinh thần trách nhiệm cao trước sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng,
toàn dân ta, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa V) đã
đánh giá đúng đắn tinh hình đất nước theo phương châm “nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Nhìn lại đoạn đường phấn đấu trong
hoàn cảnh rất khó khăn của 5 năm 1981 - 1985, bản báo cáo đánh giá: "Thực
hiện những nhiệm vụ và mục tiêu Đại hội lần thứ V của Đảng đã vạch ra, nhân
dân ta anh dũng phấn đấu, khắc phục khó khăn, vượt qua trở ngại, đã đạt được
những thành tựu quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”[60].
Trong 5 năm 1981 - 1985 sản xuất nông nghiệp tăng bình quân hằng năm 4,9%
(thời kỳ 1976 - 1980 là l,9%) Sản lượng lương thực bình quân hằng năm từ 13,4
triệu tấn (thời kỳ 1976 - 1986) đã tăng lên 17 triệu tấn thời kỳ 198 l - 1985. Sản
xuất công nghiệp tăng bình quân hằng năm 9,5% (thời kỳ 1976 - 1980 là 0,6%).
Về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đã hoàn thành mấy trăm công trình tương
đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan
trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thuỷ lợi, giao thông... Các
công trình thuỷ điện Hòa Bình, Trị An đang được xây dựng. Công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa đã tiến thêm một bước… Nhà nước và nhân dân đã chăm lo
bảo đảm các nhu cầu của quốc phòng và an ninh, thi hành chính sách hậu
274
phương quân đội. Sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục, thể thao, văn học
nghệ thuật phát triển và có những đóng góp nhất định vào việc xây dựng nền
vản hoá mới, con người mới. Các hoạt động khoa học kỹ thuật được triển khai,
góp phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Cuộc chiến đấu bảo
vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị và làm nghĩa vụ quốc tế của nhân dân và
các lực lượng vũ trang ta đã giành thêm những thắng lợi to lớn[61]. Việc Đại hội
khẳng định những thành tựu đã đạt được là sự thật bác bỏ tư tưởng phủ định
sạch trơn những cố gắng lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong 5
năm 1981 - 1985.
Bản báo cáo nhận định những khó khăn chủ yếu là: "sản xuất tăng chậm,
một số chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt. Hiệu quả sản xuất và
đầu tư thấp, các nghiệp nói chung chỉ sử dụng 50% công suất. Tài nguyên của
đất nước chưa được khai thác tốt, lại bị sử dụng lãng phí. Lưu thông không
thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng nhanh tác động tiêu cực đến sản xuất,
đời sống và xã hội. Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu hẹp,
có mặt còn gay gắt hơn trước. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được
củng cố, vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các thành phần kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải tạo tốt. Đời sống của nhân dân,
nhất là công nhân, viên chức còn nhiều khó khăn. Những nhu cầu chính đáng tối
thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được bảo đảm. Hiện
tượng tiêu cực trong xã hội phát triển. Công bằng xã hội bị vi phạm. Pháp luật,
kỷ cương không nghiêm. Nhìn chung, chúng ta chưa thực hiện được mục tiêu
Đại hội V đề ra là về cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống
của nhân dân[62]. Thực trạng đó làm suy giảm lòng tin của quần chúng đối với
sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Nhìn chung cả nước khó
khăn là rất lớn. Song điểm mới là "đã xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh
khá nhiều đơn vị chiến đấu giỏi, nhiều huyện làm ăn tốt; một số địa phương và
ngành có cách làm năng động, sáng tạo đã đạt những thành tích đáng phấn khởi.
Thực tiễn sinh động của các cơ sở, các địa phương, các ngành cung cấp kinh
275
nghiệm quý báu cho sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước"[63] để đổi mới và tiến
lên.
Trung ương Đảng nghiêm khắc tự phê bình và chỉ rõ những khuyết điểm,
sai lầm trong công tác lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước:
“Chúng ta có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình cụ thể của đất
nước, trong việc xác định mục tiêu và bước đi của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Trong 5 năm 1976 - 1980, trên thực tế đã chủ trương đẩy mạnh
công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết; vừa nóng vội, vừa
buông lỏng trong công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa; chậm đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế không còn phù hợp. Trong 5 năm 1981 - 1985, đã không nghiêm
chỉnh thực hiện những kết luận đúng đắn của Đại hội lần thứ V của Đảng về cụ
thể hoá đường lối kinh tế trong chặng đường đầu tiên, chưa kiên quyết khắc
phục chủ quan nóng vội và bảo thủ trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã
hội chủ nghĩa và quản lý kinh tế, lại phạm những sai lầm mới, nghiêm trọng
trong lĩnh vực phân phối lưu thông; đã buông lỏng chuyên chính vô sản trong
quản lý kinh tế, xã hội, trong đấu tranh tư tưởng, văn hoá, trong việc chống lại
những âm mưu thủ đoạn phá hoại thâm độc của kẻ thù...”[64]
"Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ
trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”[65].
Khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của những sai lầm ấy, đặc biệt những sai
lầm về chính sách kinh tế là bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động
giản đơn, nóng vội và khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế - xã hội,
không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng. Đó là khuyết
điểm của tư tưởng tiểu tư sản vừa “tả khuynh” vừa “hữu khuynh”.
Những sai lầm trong kinh tế, xã hội nói trên “bắt nguồn từ những khuyết
điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng”[66].
Trong lĩnh vực lãnh đạo tư tưởng của Đảng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý
luận và sự yếu kém về vận dụng các quy luật trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Đánh giá tình hình chưa tôn trọng sự thật khách quan, xác định
phương hướng công tác tư tưởng chưa đúng với tình hình thực tiễn.
276
Đại hội đã tổng kết 5 bài học lớn và đề ra đường lối đổi mới để ổn định tình
hình và đưa cách mạng nước ta tiếp tục đi lên. Nghị quyết Đại hội xác định “đổi
mới toàn diện trên mọi lĩnh vực”, “trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách
kinh tế giữ vững ổn định chính trị là tiền đề bảo đam thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới. Phải đổi mới tư duy, “trước hết là tư duy kinh tế", "từ đổi mới tư
duy mà có chủ trương, chính sách mới", đồng thời “đổi mới về tổ chức, về cán
bộ" để thực hiện được tốt những nhiệm vụ đã đề ra.
Đại hội kháng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục thực hiện
thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa[67]. Về xây dựng chủ nghĩa xã
hội, “Nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát của những năm còn lại của chặng
đường đần tiên là ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, tiếp tục xây dựng
những tiền đề cần thiết cho việc đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
trong chặng đường tiếp theo”[68]. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, phải đồng thời thực hiện tốt nhiệm vụ “nâng cao cảnh
giác, tăng cường khả năng quốc phòng và an ninh, bảo đảm chủ động bảo vệ Tổ
quốv trong mọi tình huống”.
Đại hội đã cụ thể hoá những nhận thức mới trên nhiều vấn đề trong kinh tế,
trong đó có nội dung công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu
của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ trương tập trung cho "ba chương
trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, kàng xuất khẩu”[69].
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhận thức mới coi đây là nhiệm vụ thường xuyên và
liên tục qua những bước đi và những hình thức phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Thừa nhận sự tồn tại khách quan của quy luật sản xuất
hàng hoá và của thị trường (lúc đó còn quan niệm có hai thị trường: thị trường
có tổ chức và thị trường tự do). Coi trọng phát triển những hình thức kinh tế cụ
thể phù hợp về tổ chức sản xuất, về phân phối, kết hợp đúng đắn ba lợi ích: cá
nhân, tập thể là oàn xã hội. Về các vấn đề xã hội, phải coi đây là chính sách xây
dựng con người, không chỉ là bao cấp, trợ cấp...
277
Về công tác tư tưởng, Nghị quyết Đại hội nêu rõ nhiệm vụ chủ yếu là đổi
mới tư duy trong mọi lĩnh vực hoạt động của Đảng và Nhà nước, trước hết là đổi
mới tư duy kinh tế, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ, đảng viên, bồi
dưỡng tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tinh thần quốc tế vô sản, khơi
dậy ý chí cách mạng của quần chúng. Công tác tư tưởng phải đổi mới toàn diện
và đồng bộ về nội dung và hình thức, tổ chức và phương pháp, con người và
phương tiện.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Đồng chí Nguyễn Văn
Linh, ủy viên Bộ Chính trị được bầu làm Tổng Bí thư.
Công tác tư tưởng lúc này có thuận lợi lớn: Đường lối đổi mới của Đảng
hợp quy luật, hợp lòng dân; nhân dân cả nước phấn khởi chờ đón Nghị quyết
của Đại hội. Trong bước ngoặt mới của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
Trung ương Đảng và các cấp, các ngành coi trọng lãnh đạo công tác tư tưởng.
Toàn bộ các hoạt động tư tưởng tập trung vào thực hiện nhiệm vụ hàng đầu:
tuyên truyền phổ biến những nội dung cơ bản của Nghị quyết Đại hội, tạo sự
hưởng ứng rộng rãi trong Đảng và trong nhân dân. Hơn l,5 triệu đảng viên đã
tham dự đợt nghiên cứu Nghị quyết Đại hội. Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo các
lớp tập trung nghiên cứu Nghị quyết Đại hội của cán bộ chủ chốt các cơ quan
trung ương và các tỉnh, thành phố. Hệ thống trường đảng tập trung mở các lớp
nghiên cứu Nghị quyết Đại hội cho cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Theo
quyết định của Ban Bí thư, các trường đảng khu vực được chuyển sang Học viện
cao cấp Nguyễn Ái Quốc quản lý cả về nội dung và tổ chức.
Tháng 5- 1987, đến thăm lớp nghiên cứu Nghị quyết Đại hội VI của cán bộ
lãnh đạo các ngành, các địa phương, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh có bài phát
biểu quan trọng về “Đổi mới tư duy và phong cách”. Đồng chí nêu rõ: Hơn bao
giờ hết, thực tiễn cách mạng nước ta đang đòi hỏi cấp bách phải đổi mới cách
nghĩ và cách làm một cách sâu sắc và toàn diện trên mọi lĩnh vực hoạt động xã
hội; muốn có đổi mới trong đời sống thì trước hết phải đổi mới tư duy. Đổi mới
tư duy và đổi mới phong cách là một quá trình đấu tranh kiên quyết chống cái
cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều dập khuôn, chống chủ quan nóng vội,
278
chống tha hoá biến chất, chống những thói quen lỗi thời dai dẳng. Đây là cuộc
đấu tranh cách mạng gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và trong bản thân từng
người chúng ta. Nói đổi mới tư duy, điều căn bản là phải đổi mới tư duy lý
luận… Triển khai việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI mà công tác lý luận, tư
tưởng không được đổi mới và phát triển thì khó có hiệu quả thật sự. Lý luận
không phải là việc bàn cãi giữa những nhà lý luận mà thực chất là việc giải
quyết quan điểm và năng lực chỉ đạo thực tiễn của tất cả chúng ta. Cuộc sống
càng phức tạp, nhiệm vụ càng khó khăn, thời đại càng diễn biến nhanh chóng thì
lý luận càng trở thành điều thiết yếu như cơm ăn, nước uống hàng ngày.
Thành công của Đại hội và kết quả công tác tuyên truyền phổ biến Nghị
quyết của Đại hội đã tạo niềm phấn khởi và hy vọng. Song một bộ phận đảng
viên và quần chúng vẫn còn tâm trạng lo lắng, băn khoăn về hiệu quả tổ chức
thực hiện. Nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng lúc này là làm quán triệt
và góp phần tổ chức thực hiện các chủ trương đổi mới của Đảng, trước hết về
kinh tế.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Trung ương Đảng về phân phối lưu
thông, đề ra mục tiêu trước mắt thực hiện “bốn giảm”: giảm bội chi ngân sách,
giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm bớt khó khăn trong đời sống
của nhân dân. Mọi người đều đồng tình với mục tiêu đó vì đây là những đòi hỏi
bức thiết của cuộc sống. Nhưng đây là mục tiêu của nhiều năm, để đạt được
"bốn giảm" phải trên cơ sở phát triển mạnh sản xuất trong những năm tới. Kết
quả quan trọng nhất của Nghị quyết Trung ương hai là chủ trương thực hiện
chính sách thu mua nông sản của nông dân theo giá thoả thuận, điểm đột phá
đầu tiên về bỏ chính sách hai giá, đáp ứng trúng yêu cầu và được sự hoan
nghênh rộng rãi của nông dân.
Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị xác định quyền tự chủ sản xuất kinh doanh
của hộ xã viên hợp tác xã nông nghiệp (thường gọi là “khoán 10") vừa công bố
đã được nông dân hưởng ứng rộng rãi, mau chóng đi vào cuộc sống, tạo không
khí hồ hởi, động viên tính tích cực sản xuất của các hộ xă viên, góp phần thúc
đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
279
Đi liền với đổi mới về kinh tế là trọng tâm, cần đổi mới công tác lãnh đạo
và quản lý văn hoá. Tháng 11 năm 1987 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 05 về “Đổi
mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa,
phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên
một bước mới”. Kết quả quán triệt nghị quyết đã góp phần nâng cao nhận thức
của các cấp, các ngành về vai trò, vị trí, nhiệm vụ, chủ trương phát triên văn
hóa, văn nghệ trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và trong công cuộc đổi mới
hiện nay; các chủ trương, biện pháp nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý, phát
huy khả năng sáng tạo, bảo đảm cho văn hóa, vàn nghệ phát triển thuận lợi,
đúng hướng. Đông đảo văn nghệ sĩ và các cán bộ hoạt động trên lĩnh vực văn
hóa tán thành những quan điểm đổi mới của Đảng và các chủ trương Bộ Chính
trị đã đề ra, nâng cao thêm ý thức trách nhiệm đẩy mạnh các hoạt động sáng tạo
góp phần tích cực vào sự nghiệp đổi mới. Tuy vậy, trong quá trình tổ chức thực
hiện, một số quan điểm sai trái nảy sinh và tình trạng buông lỏng quản lý không
được uốn nắn kịp thời đã ảnh hưởng không tốt đến kết quả thực hiện nghị quyết.
Đấu tranh chống tiêu cực là yêu cầu bức xúc làm trong sạch và nâng cao
sức chiến đấu của Đảng, làm trong sạch và nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ
quan nhà nước, làm lành mạnh hóa xã hội. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh viết
một loạt bài nhan đề “Những việe cần làm ngay”, đăng báo Nhân Dân bằng
những sự việc cụ thể, với lối viết ngắn gọn, dễ hiểu, biểu dương những nhân tố
mới và phê bình để khắc phục những hiện tượng tiêu cực. Những bài báo của
đồng chí Tổng Bí thư được dư luận rộng rãi hoan nghênh. Báo chí Trung ương
và địa phương nhanh chóng hưởng ứng đã góp phần phanh phui một số vụ việc
tiêu cực. Bên cạnh mặt tốt cũng nảy sinh một số lệch lạc trên cả ba phía: người
và cơ quan bị phê bình; người viết và cơ quan báo đã đăng; việc xử lý của các cơ
quan có trách nhiệm. Để phát huy tác dụng tích cực và khắc phục những lệch lạc
đó, tháng 9- 1987 Ban Tuyên huấn Trung ương đã trình Ban Bí thư ra chỉ thị số
15-CT/TƯ về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng nhâm sử dụng tốt báo chí
trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực”. Bản Chỉ thị nêu rõ sự cần thiết và mục
đích xây dựng của việc mở rộng phê bình công khai trên báo, đài. Đẩy mạnh đấu
280
tranh chống tiêu cực đồng thời coi trọng biểu dương những gương người tốt,
việc tốt không chỉ tuyên truyền một chiều. Định rõ trách nhiệm của người viết
bài và cơ quan báo, nhất là về bảo đảm tính chân thực, có sai phải đính chính;
trách nhiệm phải trả lời của người và cơ quan bị phê bmh; trách nhiệm của cấp
uỷ đảng và cơ quan nhà nước xử lý những vụ việc được báo chí nêu lên.
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là điều kiện
bảo đảm lãnh đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội. Bộ Chính trị chỉ đạo Ban Tuyên
huấn Trung ương cùng với Ban Tổ chức và Uỷ ban kiểm tra Trung ương khảo
sát tình hình, xây dựng đề án trình Hội nghị lần thứ năm của Trung ương Đảng
(tháng 6- 1988) ra nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng”.
Trong các nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng, “đổi mới và tăng cường công
tác tư tưởng” được đặt lên hàng đầu, gồm hai vấn đề lớn:
- Một là, tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn, đúc
kết kinh nghiệm phục vụ đổi mới tư duy và cụ thể hóa kịp thời, đúng đắn các
Nghị quyết của Đảng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế, xã hội mà
cấp bách nhất là chống lạm phát; chuẩn bị Cương lĩnh và Chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội trình Đại hội VII.
- Hai là, đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cả về nội dung và
hình thức, tổ chức và phương pháp, con người và phương tiện, nhằm nâng cao
giác ngộ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, phẩm chất chính trị
và đạo đức cách mạng, năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân
dân.
Trong điều kiện phát triển mạnh sản xuất hàng hoá, khai thác tiềm năng của
năm thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ với bên ngoài, càng phải nêu cao ý
thức và có biện pháp tích cực bảo vệ cách mạng, bảo vệ Đảng.
Đổi mới hình thức phương pháp công tác tư tưởng theo hướng mở rộng tính
dân chủ, tính công khai, tính chân thật và tính chiến đấu, đồng thời bảo vệ bí
mật của Đảng và bí mật quốc gia. Bám sát cuộc sống, bám sát tâm tư, nguyên
vọng của quần chúng, phục vụ thiết thực cho cơ sở. Thực hiện thông tin hai
chiều. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng. Phát triển rộng rãi
281
các hình thức tiếp xúc và đối thoại quần chúng. Tăng cường lãnh đạo và quản lý
báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ theo hướng phục vụ tích cực công cuộc đổi
mới, góp phần thực hiện các nghị quyết của Đảng, phát huy tác dụng tốt đi đôi
với khắc phục kịp thời những lệch lạc. Đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả
chống chiến tranh tâm lý, chống những luận điệu tuyên truyền xuyên tác của
địch, chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để nói xấu, vu cáo,
kích động chia rẽ hòng gây rối, phá hoại Đảng ta, chế độ ta.
Nghị quyết Trung ương quy định “các cấp uỷ đảng, các cán bộ lãnh đạo và
quản lý từ Trung ương đến cơ sở đích thân chỉ đạo và trực tiếp làm công tác tư
tưởng. Cấp uỷ và chi bộ phân công và kiểm tra đảng viên làm công tác tư tưởng.
Không vin vào tình hình kinh tế, đời sống khó khăn để buông lơi công tác tư
tưởng”.
Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội và các Nghị quyết tiếp theo
của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đan xen những thuận lợi và khó khăn.
Những quyết định phù hợp với tình hình và khả năng đã bước đầu phát huy tác
dụng tích cực. Tuy vậy hai năm 1986, 1987 nhiều vùng trong nước lại bị thiên
tai nghiêm trọng, năm 1988 Nhà nước vẫn phải nhập lương thực với số lượng
lớn. Nghị quyết Trung ương hai thể hiện quan điểm đổi mớì đúng đắn của Đảng
về phân phối lưu thông nhưng yêu cầu đề ra cao hơn khả năng thực tế. Tình hình
kinh tế - xã hội năm 1988 vẫn khó khăn gay gắt, giá cả tăng đột biến, lạm phát
phi mã, làm cho tâm trạng xã hội bất ổn. Một số người sinh do dự, một số khác
có biểu hiện nóng vội, cực đoan, muốn áp dụng "liệu pháp sốc" theo kiểu "cải
cách" của nước ngoài.
Các hoạt động báo chí, văn hóa văn nghệ, bên cạnh những đổi mới đúng
đắn, đã nảy sinh một số lệch lạc:
- Không kết hợp đúng đắn giữa "xây" và "chống", biểu dương và phê bình.
Có lúc báo chí thiên về phê phán mạt tiêu cực, ít tìm tòi, phát hiện nêu những
gương tất. Một số tác phẩm văn nghệ miêu tả xã hội quá đen tối, bệnh hoạn, gây
tâm trạng nặng nề.
282
- Một số bài báo, bài phát biểu công khai phủ nhận thành tựu cách mạng và
văn học cách mạng, phê phán văn học cách mạng là "minh họa", "quan phương",
"cung đình"... Một số bài khác đưa ra những quan điểm sai trái tách rời văn nghệ
và chính trị, thực chất là tách rời văn nghệ và sự lãnh đạo của Đảng...
- Quản lý nhà nước về văn hoá có nhiều thiếu sót, sơ hở. Những ấn phẩm
độc hại (tranh ảnh, sách báo, băng hình, v.v.,) từ bên ngoài thâm nhập tràn lan
trên thị trường. Một số sách, bài báo có nội dung xấu được ấn hành. Tệ mê tín dị
đoan và nhiều tập tục lạc hậu xuất hiện trở lại.
Một số ít người lợi dụng dân chủ, công khai đưa ra những quan điểm chính
trị sai trái, xuyên tạc và phủ nhận thành tựu cách mạng và kháng chiến, "hạ bệ"
thần tượng anh hùng dân tộc, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội - dân chủ, phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, chủ nghĩa xã hội là
ảo tưởng. Đòi thực hiện "dân chủ, công khai" theo kiểu "cải cách" của nước
ngoài, đòi báo chí độc lập đối với Đảng, đòi cho tư nhân được tự do ra báo, lập
nhà xuất bản. Có bài báo đã công khai đưa ra yêu sách đòi thay đổi đường lối,
thay đổi chế độ, thực hiện đa nguyên chính trị, đòi xóa bỏ sự lãnh đạo duy nhất
của Đảng ta, thiết lập chế độ đa đảng, đảng đối lập. Các thế lực thù địch bên
ngoài lợi dụng cơ hội tuyên truyền xuyên tạc, đả kích chủ nghĩa xã hội, vai trò
lãnh đạo của Đảng và đường lối đổi mới.
Công tác tư tưởng lúc này có khuyết điểm chỉ đạo thiếu chặt chẽ, bị động
đối phó, thiếu tính chiến đấu, có nơi có lúc còn bỏ trống trận địa, để cho những
luận điệu xấu lấn tới.
Tháng 11 - 1988 Ban Tuyên huấn Trung ương báo cáo với Bộ Chính trị
những diễn biến mới của tình hình tư tưởng, đánh giá ưu, khuyết điểm của công
tác tư tưởng. và kiến nghị những nhiệm vụ trước mắt. Bộ Chính trị đã xem xét
và ban hành "Kết luận số 20 về những nhiệm vụ trước mắt của công tác tư
tưởng". Tiếp đó, Ban Bí thư ra các Chỉ thị số 61, 63 về tăng cường lãnh đạo và
quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ... Kết luận của Bộ
Chính trị được phổ biến nhanh chóng đến các cấp uỷ đảng, các ngành, các đoàn
thể, các chi bộ, đảng bộ cơ sở. Ở nhiều nơi, cấp uỷ đảng đã coi trọng hơn công
283
tác thông tin về tình hình đất nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, uốn nắn
những biểu hiện lệch lạc. Các hoạt động tư tưởng đã tiến hành cuộc đấu tranh
bảo vệ mục tiêu lý tưởng cách mạng, bảo vệ đường lối, chính sách đổi mới của
Đảng, khẳng định con đường xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của cách
mạng nước ta, khang định vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán những quan điểm
sai trái phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều
chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội - dân chủ; phủ nhận thành tựu của Liên Xô
và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phủ nhận thành tựu của nhân dân ta trong
cách mạng và kháng chiến, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phê phán những
biểu hiện dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan, xu hướng dập khuôn, sao chép cải
tổ, cải cách của nước ngoài; vận động quần chúng bài trừ các văn hoá phẩm
phản động, đồi truỵ và tăng cường chỉ đạo truy quét những sản phẩm dộc hại đó.
Thực hiện Chỉ thị 63, Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp uỷ chỉ đạo, phát
huy mặt tết và uốn nắn tình trạng một số báo, tạp chí, nhà xuất bản không đi
đúng tôn chỉ, mục đích đã được xác định, thông tin giật gân câu khách, chạy
theo những thị hiếu không lành mạnh, viết về điển hình tiên tiến thì sơ lược,
thiếu sức thuyết phục, viết về đấu tranh chống tiêu cực thì có những trường hợp
thiếu chính xác, thiếu cân nhắc hiệu quả; đã cùng với cơ quan quản ly báo chí,
xuất bản của Nhà nước đề nghị Chính phủ quy định thể thức cho ra báo, lập nhà
xuất bản, dịnh rõ trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo, tạp chí, nhà xuất bản,
tiêu chuẩn, trách nhiệm, quyền hạn của tổng biên tập báo, tạp chí và giám đốc,
tổng biên tập nhà xuất bản, tăng cường kiểm tra, khuyến khích những mặt tốt,
xử lý những trường hợp sai phạm.
Chỉ thị 61 đề ra những chủ trương, biện pháp có tính nguyên tắc để các cấp
có căn cứ vận dụng khi xử lý những trường hợp cần thiết, bảo đảm vừa giữ vững
định hướng tư tưởng của Đảng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sự sáng tạo, phổ
biến và tiếp nhận tác phẩm, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng buông lỏng gây
hại về chính trị, khuynh hướng ,"thương mại hoá" chạy theo những thị hiếu
không lành mạnh, tình trạng xủ lý tuỳ tiện, không bảo đảm quyền tự do dân chủ
của văn nghệ sĩ trong sáng tạo và hoạt động văn nghệ.
284
Hội nghị Trung ương Sáu (3- 1989) sơ kết hơn hai năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội VI, chỉ ra thành tựu bước đầu rất quan trọng, trong đó có sự dóng
góp của công tác tư tưởng, khẳng định đường lối, bước đi Đại hội VI đã đề ra là
đúng đắn. Nghị quyết Trung ương đề ra những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đôi
mới:
- "Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn
sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay
đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu
quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức,
bước đi và biện pháp thích hợp.
- Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ
đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm
khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng
về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải
xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị và nhằm
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu quả của
chuyên chính vô sản làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động
năng động và có hiệu quả hơn.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Phê phán những khuynh
hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp
nhận những ý kiến trung thực phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo
của Đảng và công tác xây dựng Đảng.
- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền lực của nhân dân
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ
luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh
285
đạo, để phát huy dân chủ đúng hướng, mặt khác phải lãnh đạo bằng phương
pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ.
Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả
cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội
- "Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và chủ nghĩa
quốc tế xã hội chủ nghĩa, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời
đại trong điều kiện mới".
Tổng kết thực tiễn hơn hai năm đổi mới, Hội nghị Trung ương 6 đề ra các
chủ trương, biện pháp điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung cho ba
chương trình kinh tế lớn và cụ thể hoá các chủ trương, chính sách đổi mới của
Đảng trên các lĩnh vực.
Công tác tư tưởng đã chú trọng tuyên truyền phổ biến trong Đảng và trong
nhân dân những quan điểm chỉ đạo của Đảng về kinh tế.
- Khẳng định chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Khẳng định vai trò của kinh tế quốc doanh. Kinh tế quốc doanh phải nắm
những vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân, phải nâng cao năng suất, chất
lượng hiệu quả nhưng không nhất thiết phải chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành
nghề. Khẳng định các lĩnh vực kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân)
vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng
hoá đi lên chủ nghĩa xã hội.
- Hàng hoá dưới chủ nghĩa xã hội không chỉ bao gồm tư liệu sinh hoạt mà
ca tư liệu sản xuất, sản phẩm khoa học, dịch vụ, thông tin, tiền tệ. Thị trường xã
hội là một thể thống nhất thông suốt trong cả nước và từng bước hoà nhập với
thị trường thế giới, không phân chia thành thị trường có tổ chức và thị trường tự
do.
- Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần mà Đảng ta chủ trương xây dựng
và phát triển là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
286
Về chính trị, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước
ta do nhân dân giao phó, bác bỏ đa nguyên chính trị, đa đảng, đảng đối lập.
Trên cơ sở quán triệt các quan điểm của Nghị quyết Trung ương, giải quyết
một bước những nhận thức không đúng của một bộ phận đảng viên và quần
chúng, như: xem nhẹ kinh tế quốc doanh, muốn tư nhân hóa tràn lan, cá biệt có
bài báo còn cho rằng tư nhân hóa là con đường duy nhất để đẩy nhanh công
cuộc phát triển kinh tế, hoài nghi chính sách nền kinh tế nhiều thành phần, lo
Đảng và Nhà nước cho kinh tế tư nhân phát triển để "nuôi béo rồi thịt"; lo thực
hiện cơ chế thị trường sẽ dẫn đến đi chệch mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Về tư
tưởng và văn hóa, xác định rõ những nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới là
những định hướng cơ bản của công tác tư tưởng, trước mắt và lâu dài. Làm rõ
nội dung lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa, khắc phục những
nhận thức không đúng: "Đảng lãnh đạo văn hóa văn nghệ theo định hướng
rộng…", và "để cho quần chúng tự chọn món ăn tinh thần" vì quan niệm như
vậy sẽ dẫn đến buông lỏng lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực này và buông lỏng
công tác giáo dục thẩm mỹ. Xác định phương hướng của công tác tư tưởng là
mở rộng tính dân chủ, công khai, đồng thời ngăn ngừa những hành động lợi
dụng dân chủ, công khai để xuyên tạc sự thật, kích động chống đối Đảng và Nhà
nước. Làm rõ luật pháp của Nhà nước không cho phép ra báo tư nhân và nhà
xuất bản tư nhân. Báo Nhân dân và một số báo khác đăng một loạt bài làm rõ
thái độ của Đảng và nhân dân ta bác bỏ những luận điệu đòi thực hiện đa nguyên
chính trị, đa đảng, đảng đối lập.
Về tổ chức của ban, tháng 4- 1989 Bộ Chính trị ra Quyết định số
85-QĐ/TƯ tổ chức lại các ban Đảng, hợp nhất Ban Văn hoá văn nghệ Trung
ương với Ban Tuyên huấn Trung ương, lấy tên là Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương. Trước đó Nhà giáo dục chính trị, sau này là Trung tâm Thông tin công tác
tư tưởng được thành lập, là đơn vị trực thuộc ban, nhiệm vụ chủ yếu là giúp ban
tổ chức thông tin thời sự, chính sách và bồi dưỡng nội dung các nghị quyết của
Đảng cho lực lượng báo cáo viên ở Trung ương và địa phương, qua đó thông tin
đến đảng viên và quần chúng ở cơ sở.
287
Các cấp, các ngành, các cơ quan công tác tư tưởng đã tổ chức tốt việc
nghiên cứu quán triệt Nghị quyết Trung ương sáu gắn với kiểm điểm nhận thức
và kết quả thực hiện các chủ trương chính sách dổi mới của Đảng trong hơn hai
năm qua, có kế hoạch đẩy mạnh phong trào quần chúng thực hiện các nghị quyết
của Đảng. Kết quả làm quán triệt 6 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới và
thái độ dứt khoát của Đảng, bác bỏ đa nguyên chính trị, đa đảng, đảng đối lập đã
định hướng đúng cho suy nghĩ và hành động của toàn Đảng, được nhất trí cao
trong Đảng và trong nhân dân, góp phần xây dựng lập trường chính trị vững
vàng trong nội bộ và phản kích các luận điệu thù địch. Tình hình mới đòi hỏi
tăng cường và đổi mới công tác thông tin trong cán bộ tuyên huấn, trong toàn
Đảng và trong nhân dân để làm cho mọi người luôn hiểu đúng tình hình và
phòng chống các tin đồn nhảm, các luận điệu thù địch. Tạp chí Thông tin công
tác tư tưởng ra đời cung cấp những thông tin tham khảo cần thiết cho cán bộ
tuyên huấn và cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Các hoạt động thông tin thời sự
chính sách qua hệ thống báo cáo viên được mở rộng và đi vào nền nếp. Ngoài
thông báo định kỳ, từ tháng 7-1989 Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, được
sự đồng ý của Ban Bí thư, ra Thông báo nội bộ để thông báo đến đảng viên
trong sinh hoạt hàng tháng của chi bộ.
Năm 1989 Hội Nhà báo và các Hội Văn nghệ đã tiến hành Đại hội với tinh
thần đổi mới, đẩy mạnh các hoạt động sáng tạo vì sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Để tăng cường chỉ đạo công tác tư tưởng và báo chí ở các địa phương,
trao đổi kinh nghiệm bước đầu sau ba năm đổi mới, tháng 2- 1990 Ban Tư tưởng
- Văn hóa Trung ương mở Hội nghị công tác tư tưởng và báo chí các địa
phương trong cả nước.
Đến thăm và nói chuyện với hội nghị, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nhắc
nhở công tác tư tưởng và báo chí cần quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa những
nhiệm vụ chủ yếu: Làm quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và cổ vũ
phong trào hành động cách mạng của quần chúng đưa đường lối, chính sách của
Đảng vào cuộc sống; các cấp, các ngành và mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên,
hội viên đều phải làm tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân và gương
288
mẫu miệng nói tay làm; kết hợp tốt cả hai mặt biểu dương và phê bình, giáo dục
chính diện kết hợp uốn nắn những tư tưởng lệch lạc, đấu tranh chống tuyên
truyền của địch; góp phần xây dựng cơ sở vững mạnh, thắt chặt quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Các hoạt động tư tưởng và báo chí phải
chuyển mạnh xuống cơ sở, bám sát các điển hình tiên tiến, góp phần tổng kết
thực tiễn, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận của Đảng.
Để tập trung cán bộ giảng dạy và tăng cường cơ sở vật chất cho các trường
đảng, tạo điều kiện nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ, tháng 3-1990 Ban Bí thư ra quyết định số 103 về việc sắp xếp lại
hệ thống trường đảng trực thuộc Trung ương. Thực hiện quyết định nói trên,
Trường Tuyên huấn Trung ương I đổi tên thành Trường Tuyên giáo, đào tạo
trình độ đại học và bồi dưỡng lực lượng cán bộ chuyên ngành tư tưởng,văn hóa.
Học viện Nguyễn Ái Quốc chủ trì phối hợp với các trường Nguyễn Ái Quốc khu
vực và Trường Tuyên giáo xây dựng chương trình, nội dung, phương pháp đào
tạo; tổ chức biên soạn tài liệu giảng dạy lý luận cơ bản; đào tạo và bồi dưỡng
giảng viên; tổ chức nghiên cứu khoa học; hướng dẫn chương trình, nội dung và
phương pháp đào tạo cho các trường đảng tỉnh. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương chỉ làm nhiệm vụ kiểm tra về mặt tư tưởng chính trị quán triệt trong nội
dung các chương trình giảng dạy, thông báo cho các trường các vấn đề thời sự,
chính sách, hướng dẫn xây dựng chương trình học tập chuyên ngành về tư
tưởng.
Việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết Trung ương tiếp
theo đem lại những kết quả tích cực. Lúc này, một số công trình lớn xây dựng
trước đây bắt đầu phát huy tác dụng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Năm 1989 - 1990 nền kinh tế đã khắc phục được một số mặt đình đốn suy thoái,
bắt đầu có tốc độ tăng trưởng, lương thực đã bắt đầu có dự trữ và xuất khẩu, lạm
phát giảm, sinh hoạt dân chủ tiếp tục được mở rộng. Chúng ta đã hoàn thành
việc rút quân khỏi Campuchia và tiến tới bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc. Năm 1990 cũng là năm Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Ban
289
Tuyên giáo nhiều tỉnh, thành phố hoàn thành nhiệm vụ giúp bạn Campuchia,
được bạn đánh giá cao.
Sản xuất nông nghiệp đã có những tín hiệu tốt. Nhưng một số nơi ở nông
thôn lại xảy ra mâu thuẫn trong nội bộ nông dân, nổi lên là các vụ tranh chấp
ruộng đất. Một số nơi khác, từ những mâu thuẫn về quyền lợi khi chia tách hợp
tác xã hoặc sự bất bình của quần chúng đối với tình trạng tham ô mất dân chủ
của một số cán bộ lãnh dạo chủ chốt ở địa phương, nội bộ tổ chức cơ sở đảng
lục đục, bè phái, các phần tử xấu lợi dụng chen vào gây rối trật tự xã hội. Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã kịp thời kiểm tra và chỉ đạo tại chỗ, phát huy dân chủ,
giữ vững kỷ luật và pháp luật, trước hết trong nội bộ Đảng. Kiên trì vận động
quần chúng, đề ra các giải pháp đúng đắn có lý có tình, động viên quần chúng
phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết giúp nhau đẩy mạnh sản xuất, cải thiện
đời sống, xây dựng nông thôn mới. Từ kết quả những nơi làm tốt, báo chí góp
phần tuyên truyền, phổ biến kinh nghiệm. Qua công tác thực tế lãnh đạo của các
địa phương dần dần khắc phục được tình trạng lúng túng, bị động lúc đầu, ổn
định được tình hình. Ban Bí thư chỉ đạo tổng kết, giúp cho lãnh đạo của các địa
phương và các ngành, các đoàn thể rút ra bài học phải bám sát cơ sở, chống
quan liêu mệnh lệnh, thường xuyên coi trọng công tác giáo dục đảng viên, kiện
toàn đang ủy và chính quyền cơ sở, phát huy dân chủ, đi đường lối quần chúng
trong việc xử lý những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Chống tham nhũng là một yêu cầu bức xúc của toàn xã hội và là nhiệm vụ
của các tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước, của mỗi ngành, mỗi người, trong
đó có các hoạt động tư tưởng. Báo, đài là lực lượng xung kích tham gia đấu
tranh, có nhiều tác động tích cực song cũng có một số thiếu sót, khuyết điểm.
Tháng 12- 1990 Ban Bí thư đã nghe báo cáo của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương và ra Thông báo số 228 về hoạt động báo chí tham gia đấu tranh chống
tham nhũng, khuyến khích phát huy những tác dụng tích cực, khắc phục những
thiếu sót, khuyết điểm. Các bài báo chống tham nhũng phải dược điều tra cân
nhắc kỹ, thận trọng lựa chọn vụ việc và các tình tiết, bảo đảm tính chân thật,
đúng định hướng, đúng luật và không làm lộ bí mật quốc gia. Cần chống tiêu
290
cực ngay cả trong ngành báo chí nhằm xây dựng đội ngũ những người làm báo
thành thạo về nghề nghiệp, vững vàng về chính trị, trong sáng về độg cơ, tốt đẹp
về đạo đức, được nhân dân tin yêu. Các cơ quan đảng và nhà nước cần ủng hộ
và tạo điều kiện cho báo chí thu thập thông tin, đưa những vụ tham nhũng ra ánh
sáng; kịp thời kiểm tra, xử lý những vụ việc mà báo chí nêu ra để trả lời công
luận. Phải xử lý nghiêm theo pháp luật những người, kể cả người làm báo, có
hành vi vi phạm luật báo chí.
Công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu bước đầu quan trọng song đất
nước vẫn còn nhiều khó khăn gay gắt. Tình hình thế giới lại xảy ra những biến
động chính trị phức tạp: chế độ xã hội chủ nghĩa ở nhiều nước Đông Âu sụp đổ,
khủng hoảng chính trị ở Liên Xô... Lợi dụng tình hình đó, chủ nghĩa đế quốc
đứng đầu là Mỹ mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội bằng những
thủ đoạn rất xảo quyệt: răn đe về quân sự; cổ vũ đa nguyên chính trị, dân chủ và
nhân quyền tư sản; khuyến khích cải tổ, cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư
nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa; tăng cường hoạt động gián điệp; gieo
rắc tư tưởng tư sản và văn hoá độc hại vào các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng
tung ra các luận điệu bôi nhọ chế độ xã hội chủ nghĩa, cho rằng chủ nghĩa xã hội
đã thất bại và đang đi vào con đường diệt vong. Đối với nước ta, ngoài những
thủ đoạn nói trên, các lực lượng phản động bên ngoài tuyên truyền xuyên tạc và
đả kích Đảng ta không cải cách thể chế chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do
báo chí, tự do sáng tác, phê bình; chúng phổ biến rộng rãi ở nước ngoài và đưa
vào trong nước những bài báo, cuốn sách có nội dung xấu, kích động biểu tình,
bãi công, đòi tự do hóa tư sản, đề cao và tìm cách tác động vào những người
chúng cho là có khuynh hướng tự do, chống đối lãnh đạo...
Tình hình trong nước và quốc tế nói trên tác động đến tư tưởng của cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta. Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nỗ lực
thực hiện các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, nhưng cũng có tâm
trạng lo lắng trước những khó khăn về kinh tế, xã hội, về tình trạng tham nhũng,
mất dân chủ, phân phối không công bằng, các hiện tượng tiêu cực chậm được
khắc phục. Nhiều người băn khoăn, lo lắng về nguy cơ tan rã của hệ thống xã
291
hội chủ nghĩa, chủ nghĩa tư bản hiện đại không những "không giẫy chết" mà còn
đang tiến công nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Một số ít người thiếu tinh thần
độc lập, hoặc lập trường thiếu vững vàng, tiếp nhận thông tin một cách giáo điều
từ cải tổ, cải cách của nước ngoài, nảy sinh những nhận thức lệch lạc, nhất là về
dân chủ và công khai, về cải cách hệ thống chính trị, về chủ nghĩa đa nguyên, về
sự xem xét lại các vấn đề lịch sử...
Một số người nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa tư bản, choáng ngợp trước sự
phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật của một số nước tư bản, không thấy bản
chất của chúng, không thấy những mâu thuẫn không thể khắc phục được nhất
định sẽ đưa chủ nghĩa tư bản đến con đường diệt vong. Nhìn tình hình thế giới
có người chỉ thấy xu thế hoà hoãn, đối thoại, cho đó là xu thế bao trùm, không
thấy tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh giai cấp. Trong việc mở rộng quan hệ
với nước ngoài, có người chỉ thấy lợi ích kinh tế, nhất là lợi ích cá nhân, cục bộ,
địa phương, không thấy lợi ích an ninh của quốc gia.
Trong quá trình mở rộng dân chủ, khuynh hướng dân chủ tư sản, dân chủ
cực đoan, hành động vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để hoạt động vô nguyên tắc
có chiều phát triển. Có người cho rằng muốn có dân chủ phải chấp nhận đa
nguyên, đa đảng; khi Đảng ta ra Nghị quyết không chấp nhận thì cho là vội
vàng, nói dân chủ phải dưới sự lãnh đạo của Đảng là hạn chế dân chủ; đòi báo
chí phải được độc lập với Đảng; trước việc uốn nắn những lệch lạc về dân chủ
thì cho rằng dân chủ mới mở ra đã đóng lại. Hiểu không đầy đủ về tự do, dân
chủ trong kinh tế, buông lỏng quản lý, không kiên quyết ngăn chặn và đấu tranh
chống lối làm ăn phi pháp...
Tháng 7- 1989, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương đã báo cáo Bộ Chính
trị, Ban Bí thư về tình hình tư tưởng nói trên và những luận điệu tuyên truyền
của các thế lực thù địch, xây dựng đề án trình Hội nghị lần thứ bảy của Trung
ương Đảng (8-1989) ra Nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về công tác tư
tưởng". Nghị quyết Trung ương nhận định những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng khó khăn ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa để rút kinh nghiệm cho ta
phòng và tránh những sai lầm trong lãnh đạo nói chung và trong lãnh đạo tư
292
tưởng. Nghị quyết Trung ương đánh giá, thời gian gần đây công tác tư tưởng đã
coi trọng việc quán triệt quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sát
thực tế hơn, phát hiện những nhân tố tích cực, giúp đỡ các cơ sở khắc phục khó
khăn. Khi có kết luận số 20 của Bộ Chính trị về công tác tư tưởng và Nghị quyết
Trung ương Sáu, một số cấp ủy đã coi trọng hơn việc lãnh đạo, quản lý công tác
tư tưởng, văn hoá; uốn nắn những nhận thức không đúng và những biểu hiện
dao động về con đường xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, công tác tư tưởng cũng có
những khuyết điểm:
- Chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của cuộc đấu tranh tư tưởng trước tình
hình trong nước và quốc tế, chưa thấy rõ yêu cầu rất quan trọng là phải tăng
cưởng sự thống nhất về quan điểm, tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục những quan điểm lệch lạc.
- Coi nhẹ cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, cuộc đấu tranh giai
cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trong
điều kiện mới. Đấu tranh không kịp thời, quyết liệt và sắc sảo đối với những
luận điệu thù địch.
- Coi nhẹ lãnh đạo và quản lý lỏng lẻo để cho văn hoá phẩm xấu, phản động
lan tràn, để cho một số báo đăng những bài có quan điểm lệch lạc, trái với quan
điểm của Đảng.
- Nhiều tổ chức đảng, nhiều cán bộ lãnh đạo và đảng viên buông lỏng công
tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống lại những tư tưởng, quan điểm lệch
lạc, những hành động và lời nói sai trái, thiếu ý thức hằng ngày hằng giờ tăng
cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Căn cứ nghị quyết của Trung ương Đảng, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương đã tổ chức các lực lượng báo, đài, báo cáo viên và công tác giáo dục lý
luận chính trị tiến hành một đợt tuyên truyền trong Đảng và trong nhân dân
nhằm:
- Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội, những thành tựu vĩ
đại của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, bác bỏ khuynh hướng
phủ định sạch trơn những thành tựu đã đạt được.
293
- Làm rõ bản chất và con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản,
nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực phản động quốc tế. Khắc phục những biểu hiện dao động về con đường xã
hội chủ nghĩa.
- Kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt những
nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới và những chính sách đổi mới của Đảng.
- Nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng, tăng cường sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu tranh chống
những quan điểm sai trái và biểu hiện tiêu cực.
Tháng 3-1990, trước tình hình khủng hoảng rất nghiêm trọng ở các nước xã
hội chủ nghĩa, Hội nghị lần thứ Tám của Trung ương Đảng ra Nghị quyết về
"Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và
nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta". Công tác tư tưởng đã làm rõ nhận định tổng
quát của Đảng ta về tình hình đang diễn ra, phân tích những nguyên nhân của
cuộc khủng hoảng, trong đó nguyên nhân trực tiếp thứ nhất là sự "xa rời hoặc từ
bỏ những tư tưởng eơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin", và nguyên nhân thứ hai
là "sự phá hoại của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế". Bác bỏ những
quan điểm sai lầm: phủ định thành tựu chủ nghĩa xã hội đã đạt được; không thấy
sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc là một nguyên nhân trực tiếp Khắc phục tư
tưởng bi quan, thất vọng, mất lòng tin vào chủ nghĩa xã hội. Khẳng định cuộc
đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội trước mắt tuy gặp nhiều khó khăn, song chắc chắn sẽ tiếp tục phát
triển, đây là xu thế của thời đại, không thế lực nào có thể ngăn cản được.
Cuộc khủng hoảng đang diễn ra ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa tác động
tiêu cực đến phong trào cách mạng thế giới. Đối với cách mạng nước ta, ảnh
hưởng tiêu cực trước hết là về chính trị, tư tưởng. Song từ cuộc khủng hoảng đó,
chúng ta cũng rút ra được những điều quan trọng. Trước hết là càng khẳng định
đường lối, phương pháp, bước đi của ta trong công cuộc đổi mới. Với đường lối
đổi mới đúng đắn, được tiếp tục thực hiện tốt, Việt Nam nhất định sẽ đứng vững
và đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
294
Hội nghị lần thứ Tám của Trung ương Đảng còn ra Nghị quyết về "củng cố
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân" (Nghị quyết 8B) mà việc để mối
quan hệ đó bị phá vỡ là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự
sụp đổ của một số Đảng cầm quyền trên thế giới.
Công tác giáo dục trong Đảng và tuyên truyền trong nhân dân nội dung các
Nghị quyết 7, 8, 8B của Trung ương Đảng và cuộc đấu tranh để bảo vệ mục tiêu,
lý tưởng xã hội chủ nghĩa và đường lối của Đảng đã đem lại những chuyển biến
tích cực về tư tưởng và thúc đẩy công cuộc đổi mới. Đại bộ phận cán bộ, đảng
viên và nhân dân, tuy không khỏi có tâm trạng lo lắng về tiền đồ của chủ nghĩa
xã hội, nhưng từ sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu liên
hệ với thành tựu đổi mới của ta, đã có cơ sở thực tế tin tưởng hơn vào đường lối
và bước đi đúng đắn mà Đảng đã vạch ra, nhận rõ hơn trách nhiệm tiếp tục đẩy
mạnh công cuộc đổi mới để bảo đảm cho cách mạng nước ta đứng vững và đi
lên. Nhờ đó, những thành tựu đã đạt được của công cuộc đổi mới được giữ vững
và phát huy, đất nước đi dần vào ổn định và phát triển, tạo cơ sở thuận lợi tiến
hành Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng.
Đại hội VII (tháng 6- 1991) đã tổng kết thành tựu và rút ra những bài học
kinh nghiệm qua 5 năm đổi mới, khẳng định đường lối Đại hội VI và bước đi
phù hợp trong 5 năm qua. Thành công lớn của Đại hội là đã đưa ra Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Cương lĩnh chính trị nêu rõ những đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, những phương
hướng cơ bản để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Nghị quyết Đại hội nêu rõ: Tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá, làm cho thế
giới quan Mác - Lênin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong
đời sống tinh thần xã hội là một trong bảy phương hướng cơ bản cẩn nắm vững
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Có thể nói từ Đại
hội VI đến Đại hội VII những quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi
295
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã được hình thành trên những nét chủ yêú nhất.
Thành tựu cơ bản đó cùng với việc khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng,
đánh dấu một bước tiến mới về đổi mới nhận thức và tư duy lý luận của Đảng.
Về tình hình dất nước và mục tiêu phấn đấu trong 5 năm trước mắt, Đại hội
nhận định tổng quát: Sau hơn bốn năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, công
cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Song đất
nước ta vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, công cuộc đổi mới còn
những mặt hạn chế, nhiều vấn đề kinh tế - xã hội nóng bỏng chưa được giải
quyết. Mục tiêu tổng quát của 5 năm tới là vượt qua khó khăn thử thách, ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và
bất công xã hội, đưa nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện
nay[70].
Về công tác tư tưởng, văn hoá Đại hội đánh giá: "Công tác tư tưởng đã
được coi trọng, góp phần đổi mới tư duy, định hướng tư tưởng, bồi dưỡng những
nhận thức đúng đắn cho đảng viên và nhân dân, tạo ra sự nhất trí đối với đường
lối, quan điểm của Đảng. Đã chú ý mở rộng thông tin, thông tin nhiều chiều,
tuyên truyền những nhân tố mới, phổ biến những kinh nghiệm tốt, đồng thời tích
cực đấu tranh chống tiêu cực, chống những quan điểm và nhận thức sai trái, bảo
vệ quan điểm đúng đắn của Đảng"[71]. "Hoạt động văn hoá, văn nghệ phong
phú hơn về nội dung, đa dạng hơn về hình thức và thể loại. Trong các ngành văn
học, nghệ thuật đã có một số tác phẩm tốt. Đội ngũ văn nghệ sĩ thuộc các thế hệ
có những đóng góp vào sự nghiệp đổi mới của đất nước. Trong hoạt động văn
hoá, văn nghệ, dân chủ bước đầu được phát huy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
sáng tạo"[72].
Mặt yếu và khuyết điểm là: "Nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh
trong công cuộc đổi mới chưa được làm sáng tỏ Trong Đảng vừa có những biểu
hiện bảo thủ, không chịu đổi mới, vừa có khuynh hướng nóng vội, rập khuôn
cách làm của nước khác; cũng có cả tư tưởng dao động, cơ hội về chính
trị..."[73]. "Mức hưởng thụ văn hoá, văn nghệ của đông đảo nhân dân lao động
296
còn thấp, nhất là ở nhiều vùng nông thôn, miền núi... Đã xuất hiện một số tư
tưởng lệch lạc: coi nhẹ văn nghệ dân tộc và cách mạng, nhìn xã hội toàn màu
đen... Quản lý văn hoá tuy có đổi mới, nhưng còn nhiều khuyết điểm, chưa quản
lý chặt chẽ công tác xuất bản, nhập phim, làm phim, để cho các văn hoá phẩm
độc hại phổ biến tràn lan, gây hại lớn"[74]...
Trong 5 năm tới, phải tiếp tục "đổi mới, nâng cao chất lượng công táe tư
tưởng, lý luận phục vụ tốt yêu cầu nâng cao trình độ trí tuệ trong Đảng, quán
triệt và phát triển các nghị quyết Đại hội VII của Đảng, động viên toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân phấn đấu thực hiện thắng lợi các kế hoạch kinh tế xã hội,
nâng cao hơn nữa lòng tin của nhân dân vào sự nghiệp đổi mới.
Tiếp tục bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,
những quan điểm, đường lối của Đảng. Bồi dưỡng tinh thần độc lập tự chủ, ý chí
tự lực, tự cường, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế, cần kiệm xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Nêu cao cảnh giác chống mọi âm mưu và thủ đoạn chia rẽ, phá
hoại của kẻ thù đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Tổ chức tốt công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn... góp phần
xây dựng chủ trương, chính sách của Đảng, lý giải những vấn đề mới mà cuộc
sống dặt ra. Đổi mới căn bản công tác giáo dục chính trị, lý luận"[75]…
"Tiếp tục xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hoá Việt Nam, bảo tồn và
phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của các dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá
nhân loại. Vận động toàn dân thực hiện lối sống cần, kiệm, văn minh, lịch sự...
bài trừ mê tín dị đoan và các tệ nạn xã hội khác. Xây dựng gia đình văn hoá
mới...
Khuyến khích tự do sáng tạo văn học, nghệ thuật và sự hoàn thiện con
người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hào dân tộc, ý
chí tự lực, tự cường, phấn đấu làm cho dân giàu, nước mạnh, phê phán những
thói hư tật xấu, cái độc ác, thấp hèn... Nghiêm trị những người truyền bá và kinh
doanh văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ; chống văn hoá ngoại lai, không lành
mạnh...
297
Phát triển sự nghiệp thông tin, báo chí, xuất bản theo hướng nâng cao chất
lượng, đáp ứng nhu cầu thông tin và nâng cao kiến thức mọi mặt cho nhân dân.
Tăng đầu tư phương tiện phát thanh, truyền hình, đưa thông tin đến mọi vùng
của đất nước, đến phần lớn các gia đình, nhất là ở nông thôn và miền núi. Coi
trọng công tác tuyên truyền đối ngoại. Quản lý chặt chẽ công tác xuất bản, thông
tin, báo chí, phim ảnh…"[76].
Khẳng định chính sách đối ngoại rộng mở, Đại hội tuyên bố: "Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình,
độc lập và phát triển"[77].
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, đồng chí Đỗ
Mười được bầu làm Tổng Bí thư.
Công tác tuyên truyền phổ biến Nghị quyết Đại hội là một đợt giáo dục lớn
trong Đảng và trong nhân dân, nhất là cán bộ lãnh đạo các cấp, quan niệm của
Đảng về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, những định hướng
lớn cần nắm vững để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta; khẳng
định những thành tựu bước đầu rất quan trọng của công cuộc đổi mới hơn 4 năm
qua, nhận rõ những yếu kém và khuyết điểm cần khắc phục; mục tiêu của chặng
đường đầu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 và những nhiệm
vụ trong 5 năm trước mắt. Bộ Chính trị trực tiếp chỉ đạo mở 4 lớp nghiên cứu
Nghị quyết cho cán bộ lãnh đạo chủ chất các tỉnh, thành phố, các ngành, đoàn
thể ở Trung ương, các bí thư huyện, quận, thị uỷ, bí thư đảng uỷ và giám đốc
các công ty, xí nghiệp lớn. Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và các địa
phương mở các lớp bồi dưỡng những nội dung cơ bản của Nghị quyết Dại hội
cho cán bộ các cấp, các ngành... Làm tốt việc trang bị nội dung cơ bản của Nghị
quyết Đại hội cho cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành và lực lượng cán bộ tuyên
huấn là biện pháp quan trọng để từ đó toả rộng ra trong Đảng và trong nhân dân.
Để giúp Trung ương tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng, văn hóa và
khoa giáo, Hội đồng tư tưởng, văn hóa và khoa giáo gồm các đồng chí ủy viên
Trung ương Đảng phụ trách các cơ quan trong khối được thành lập. Đồng chí
298
Nguyễn Đức Bình, Uỷ viên Bộ Chính trị phụ trách công tác tư tưởng văn hóa và
khoa giáo làm Chủ tịch Hội đồng.
Tháng 7 đến tháng 12-1991, việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội
VII đang được triển khai thì chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, Liên
bang Xôviết tan rã. Quan hệ kinh tế giữa nước ta với các thị trường truyền thống
bị đảo lộn. Trong khi đó Mỹ vẫn tiếp tục cấm vận. Các thế lực thù địch đẩy
mạnh những hoạt động phá hoại, mưu toan gây rối làm mất ổn định chính trị để
tạo thời cơ tiến hành bạo loạn lật đổ
Cơn chấn động chính trị lớn trên thế giới đã tác động sâu sắc đến tư tưởng
của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Lo lắng lớn nhất là liệu cách mạng nước ta
có trụ được trong cơn thử thách hiểm nghèo không. Có thực hiện được con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản khi không còn những nước
xã hội chủ nghĩa đi trước giúp đỡ không?, v.v.. Các thế lực phản động ở bên
ngoài và những phần tử chống đối ở trong nước sử dụng sự sụp đổ của chủ
nghĩa xã hội hiện thực đã qua hơn 70 năm xây dựng ở Liên Xô làm sự kiện
chính trị đắt giá nhất để tiến công ta về tư tưởng với tham vọng trong vài ba năm
xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ngoài những luận điệu quen thuộc
phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ra sức tuyên truyền về "sự cáo chung
của chủ nghĩa xã hội". Chúng dùng mọi thủ đoạn từ bịa đặt, xuyên tạc đến "đề
cao" Chủ tịch Hồ Chí Minh để rồi bài bác tư tưởng của Người. Chúng sử dụng
bọn phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài "chuyển lửa về quê hương",
dùng con bài "dân chủ, nhân quyền" để kích động chống đối chế độ.
Bộ Chính trị, trong Chỉ thị 01, đã phân tích đúng đắn tình hình, đề ra
phương hướng công tác tư tưởn.g và đôí sách của ta trước tình thế mới. Ban Tư
tưởng - Văn hoá Trung ương và Ban Tuyên giáo các cấp giúp cấp uỷ quán triệt
trong toàn Đảng, toàn dân những nhận định và chủ trương đúng đắn của Đảng.
Công tác tuyên truyền được tiến hành kịp thời đã dần dần lấy lại được sự ổn
định về tư tưởng, giữ vững sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong Đảng
và trong xã hội. Cán bộ, đảng viên và nhân dân ta tuy có tâm trạng lo buồn,
nhưng cũng thấy được bài học phản diện về hậu quả khôn lường khi Đảng Cộng
299
sản mất vai trò lãnh đạo xã hội, đất nước họ đi chệch con đường xã hội chủ
nghĩa. Tinh thần yêu nước và ý chí tự lực tự cường được khơi dậy. Những thành
tựu mới trong các năm 1991 - 1993 bảo đảm cho cách mạng nước ta không
những đứng vững mà còn khắc phục được một bước rất quan trọng khủng hoảng
kinh tế - xã hội, kinh tế phát triển với nhịp độ tăng trưởng khá, ổn định chính trị
được giữ vững và tăng cường, quan hệ đối ngoại được mở rộng (lập lại quan hệ
bình thường Việt Nam - Trung Quốc, thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước
ASEAN và nhiều nước khác trên thế giới...).
Đưa cách mạng vượt qua phong ba bão táp, đứng vững và đi lên là thành
tựu to lớn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng và nghị lực phi thường của Đảng và
nhân dân ta. Thành tựu đó cho thấy, trong mọi tình huống, dù là tình huống khó
khăn nhất, lãnh đạo của Đảng nắm bắt kịp thời các chiều hướng tư tưởng, định
hướng đúng tư tưởng và hành động cho toàn xã hội, kiên định mục tiêu lý tưởng
cách mạng và đường lối của Đảng, phát huy sức mạnh của cả dân tộc thì cách
mạng sẽ vượt qua được sóng to gió lớn, vững bước đi lên.
Để tiếp tực chỉ đạo đổi mới các mặt hoạt động chủ yếu của công tác tư
tưởng, tháng 1- 1992 Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương tổ chức Hội nghị sơ
kết công tác báo chí, xuất bản từ ngày đổi mới. Hội nghị đã đánh giá đúng
những đổi mới bước dầu và giúp cho cán bộ lănh đạo các cơ quan tuyên giáo,
báo chí, xuất bản ở Trung ương và địa phương thống nhất nhận thức về mối
quan hệ giữa biểu dương và phê bình, khắc phục tình trạng chưa đi sâu phát hiện
và nêu gương những điển hình tốt và tình trạng nêu một chiều những hiện tượng
tiêu cực; mối quan hệ giữa hạch toán kinh doanh và nhiệm vụ chính trị của báo
chí, xuất bản, ngăn chặn khuynh hướng thương mại hoá; phấn đấu nắm vững và
thực hiện đúng định hướng chính trị của Đảng và mực đích tôn chỉ của mỗi tờ
báo; phát triển đi đôi tăng cường quản lý với phương hướng chính là nâng cao
chất lượng. Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhắc
nhở nhiệm vụ của báo chí, xuất bản phải góp phần làm cho những nguyên lý
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí
Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; đưa đường lối, chính
300
sách đổi mới của Đảng vào cuộc sống, bảo tồn và phát huy các giá trị tinh thần,
đạo đức truyền thống của dân tộc, cổ vũ lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, ý thức
tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Từ kết
quả của Hội nghị, tháng 3-1992 Ban Bí thư ra Chỉ thị 08 "Tăng cường sự lãnh
đạo và quản lý nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác báo chí, xuất
bản". Việc quán triệt và thực hiện Chỉ thị 08 có ý nghĩa quyết định đẩy tới bước
phát triển mới của báo chí, xuất bản trong những năm sau.
Những tháng đầu năm 1992, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Chính trị, Ban
Tư tưởng - Văn hoá Trung ương cùng với Ban Tổ chức Trung ương, Uỷ ban
kiểm tra Trung ương khảo sát thực tiễn, xây dựng đề án trình Hội nghị Trung
ương 3 (tháng 6-1992) ra nghị quyết về Một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng.
Tổ chức quán triệt Nghị quyết Trung ương 3, công tác tư tưởng đặc biệt coi
trọng xác định, đi đôi với nắm vững trọng tâm là phát triển kinh tế, toàn Đảng
phải nhận thức rõ xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, nắm vững và thực hiện
tốt các chủ trương, biện pháp Nghị quyết Trung ương đã đề ra về đổi mới và
chỉnh đốn Đảng, trong đó yêu cầu và nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư
tưởng là:
- Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trên
cơ sở tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh công tác lý luận, tiếp tục cụ thể hóa và phát
triển các quan điểm và đường lối của Đại hội VII, từng bước xác định rõ thêm
con đường và giải pháp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng cho cán
bộ, đảng viên niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục
tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Khắc phục những biểu hiện dao động,
giảm sút niềm tin.
- Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng
viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Đấu tranh
khắc phục những biểu hiện tiêu cực về đạo đức và lối sống, nhất là tệ quan liêu,
nạn tham nhũng.
301
- Củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng và nhân dân. Khắc phục những biểu hiện tự do vô kỷ luật, gây mất
đoàn kết, xa rời quần chúng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
- Nâng cao cảnh giác cách mạng, chống "diễn biến hòa bình".
Đồng thời với tinh thần quán triệt và thực hiện Nghị quyết Trung ương 3,
đã tiến hành sinh hoạt tư tưởng trong các cấp ủy đảng và toàn thể đảng viên ở
các chi bộ, đảng bộ cơ sở, truyền đạt bài nói của đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười
tại Hội nghị cán bộ toàn quốc tháng 4-1992 về vấn đề "Giữ nghiêm kỷ luật của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, kiên quyết ngăn chặn tệ vô tổ chức, vô kỷ luật",
kết hợp với kiểm điểm, đánh giá kết quả việc lập lại trật tự kỷ cương trên các
lĩnh vực, tiến hành tự phê bình và phê bình, đề ra biện pháp cụ thể thúc đẩy việc
lập lại trật tự kỷ cương trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và toàn xã hội gắn
với các công tác quan trọng trước mắt như lãnh đạo bầu cử Quốc hội, chống
tham nhũng, hối lộ, chống buôn lậu, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, chấp hành
luật pháp.
Để tăng cường sự nhất trí các quan điểm cơ bản của Đảng về đổi mới và
nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học nghệ thuật và văn hoá, phát huy tài
năng sáng tạo của văn nghệ sĩ, những tháng đầu năm 1991 Ban Tư tưởng - Văn
hoá Trung ương phối hợp với các Đảng đoàn các hội văn nghệ tổ chức thảo luận
dân chủ, kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 và nêu những kiến
nghị tiếp tục đổi mới. Trên cơ sở đó, Ban cùng với Đảng đoàn các hội xây dựng
đề án trình Hội nghị Trung ương 4 (tháng 12- 1992) ra Nghị quyết về "nhiệm vụ
văn hoá, văn nghệ". Nghị quyết Trung ương lần này làm rõ thêm những vấn đề
về tư tưởng, quan điểm chỉ đạo các hoạt động văn hóa văn nghệ trong công cuộc
đổi mới. Bản Nghị quyết chỉ rõ: "Nền văn hoá mới mà Đảng ta lãnh đạo toàn
dân xây dựng phải mang những đặc trưng cơ bản: dân tộc, đại chúng, hiện đại,
nhân văn".
Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá mới cần nắm vững sáu quan điểm:
1. Vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ chính trị, là cốt lõi tư
tưởng trong văn hoá, văn nghệ nước ta. Sự nghiệp văn hoá, văn nghệ là bộ phận
302
khăng khít của sự nghiệp đổi mới đưa đất nước từng bước tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Mọi biểu hiện hoặc mưu toan đối lập hoặc tách rời văn hoá, văn nghệ với sự
lãnh đạo của Đảng, đi chệch mục đích vì độc lập của Tổ quốc và chủ nghĩa xã
hội đều phải được phê phán và bác bỏ.
2. Kim chỉ nam cho việc xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc Việt
Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thấm nhuần và thực
hiện quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Văn hoá - văn nghệ là một mặt trận.
Anh chị em văn nghệ là chiến sĩ trên mặt trận ấy.
3. Bảo đảm dân chủ, tự do trong kỷ cương và luật pháp cho mọi sự sáng tạo
và hoạt động văn hoá. Sự sáng tạo chân chính gắn liền với trách nhiệm trước
công chúng, trước dân tộc và thời đại. Đảng khuyến khích tự do sáng tạo các giá
trị văn hoá, vun đắp các tài năng, đồng thời đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ, trước hết là
các đảng viên làm công tác văn hoá, nghệ thuật, có ý thức đầy đủ về trách nhiệm
công dân, góp phần tích cực vào việc thực hiện các đường lối, chủ trương của
Đảng và của Nhà nước, dẩy mạnh quá trình đổi mới và dân chủ hóa mọi mặt
trong đời sống xã hội, bảo đảm ổn định chính trị, củng cố niềm tin, xây dựng lẽ
sống cao đẹp.
4. Phát triển văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hoá với nước
ngoài, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, làm giàu thêm nền văn hoá của dân
tộc. Kiên quyết ngăn chặn sự xâm nhập của các loại văn hoá xấu, độc hại, bảo
vệ nền văn hoá dân tộc.
5. Tính chiến đấu của các hoạt động văn hoá và văn học, nghệ thuật thể
hiện trước hết trong việc khẳng định mạnh mẽ những nhân tố mới, những giá trị
cao đẹp của xã hội ta, kiên quyết phê phán những gì đang cản trở quá trình đi lên
của đất nước. Phê phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới
cái đúng, cái thiện, cái đẹp.
Tính chiến đấu của các hoạt động văn hoá, nghệ thuật còn phải được thể
hiện trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống các thế lực thù địch âm
mưu "diễn biến hòa bình", vạch trần những thủ đoạn phá hoại, những luận điệu
303
độc hại của các thế lực đó, khẳng định niềm tin vào sự tất thắng cuối cùng của
chủ nghĩa xã hội...
6. Văn hoá, văn nghệ là một sự nghiệp đòi hỏi sự đóng góp của toàn xã hội,
phải được xã hội hóa. Phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ của Nhà nước,
tập thể và cá nhân theo đường lối của Đảng và dưới sự quản lý thống nhất của
Nhà nước. Khắc phục tình trạng "hành chính hóa" các tổ chức văn hoá, nghệ
thuật và xu hướng "thương mại hóa" đơn thuần trong lĩnh vực này[78].
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Ban Tuyên giáo các cấp đã giúp
cấp ủy tiến hành đợt sinh hoạt của các văn nghệ sĩ và cán bộ tư tưởng, văn hoá
thảo luận quán triệt nghị quyết, củng cố sự nhất trí các quan điểm của Đảng,
nhất là về các quan điểm cần nắm vững trong công cuộc xây dựng nền văn hoá
mới của nước nhà, củng cố lập trường chính trị trước những thách thức mới,
động viên phát huy thành tựu, khắc phục những nhận thức sai lệch, đẩy mạnh
các hoạt động sáng tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới.
Trong dịp này, đồng chí Tổng Bí thư Đỗ Mười đã có cuộc gặp trao đổi thân
mật, cởi mở với các văn nghệ sĩ đang sống và làm việc ở thủ đô Hà Nội, làm rõ
các quan điểm của Đảng về văn hoá văn nghệ, củng cố sự nhất trí với đường lối,
quan điểm của Đảng, nâng cao niềm tin vào con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa
chọn, vào sự lãnh đạo của Đảng và sức mạnh của dân tộc, đoàn kết tiến lên thực
hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm tròn nhiệm vụ của các chiến sĩ trên
mặt trận văn hóa, văn nghệ.
Tiếp theo việc tuyên truyền phổ biến các Nghị quyết của Trung ương Đảng
về củng cố quốc phòng, an ninh và tăng cường công tác đối ngoại, Ban Tuyên
giáo các cấp đã giúp cấp uỷ chỉ đạo một đợt giáo dục trong đảng và trong nhân
dân về âm mưu "diễn biến hòa bình" kết hợp với gây bạo loạn và lật đổ của các
thế lực thù địch, nâng cao cảnh giác, đẩy mạnh các phong trào quần chúng tham
gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự xã hội,
xây dựng nội bộ vững mạnh về mọi mặt.
Sự vững vàng của Đảng và nhân dân ta vượt qua cơn chấn động chính trị
lớn trên thế giới đã củng cố niềm tin, nâng cao ý chí phấn đấu thực hiện của
304
nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 nhằm đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng
kinh tế, xã hội. Tuy vậy, một số ít người, trong đó cá biệt có cán bộ, đảng viên
viết tài liệu, phát hành trái phép, đưa ra những quan điểm sai trái, bác bỏ chủ
nghĩa xã hội, cổ vũ cho "con đường thứ ba" (con đường xã hội dân chủ, thực
chất là con đường tư bản chủ nghĩa...) và dân chủ pháp quyền tư sản, kích động
chống đối sự lãnh đạo của Đảng. Những người này tuy chỉ là rất ít, nhưng hành
động của họ truyền bá những quan điểm sai trái gây hậu quả xấu, nhất là đối với
lớp trẻ. Trong sinh hoạt nội bộ, đông đảo cán bộ, đảng viên đã phê phán và bác
bỏ những quan điểm sai trái đó; về tuyên truyền công khai, các báo, đài phát
thanh đã đăng và phát loạt bài giáo dục chính diện về giữ vững lý tưởng và mục
tiêu xã hội chủ nghĩa, về bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và đường lối đổi mới... kết
hợp phê phán các quan điểm sai trái và bác bỏ những luận điệu thù địch.
Căn cứ Nghị quyết Đại hội VII và Điều lệ đảng Đại hội đã thông qua, ngày
25-8-1992 Ban Bí thư ra Quyết định số 37 về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức
của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương. Về chức năng, nhiệm vụ:
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương là cơ quan tham mưu, chỉ đạo và kiểm
tra của Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư về
công tác tư tưởng, văn hoá trong đảng và trong xã hội.
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương có nhiệm vụ:
1. Nghiên cứu, tổng hợp, phân tích, dự báo tình hình tư tưởng trong đảng và
trong xã hội, những âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch để kịp thời kiến nghị, đề xuất với Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
phương hướng, nhiệm vụ, nội dung, biện pháp xây dựng Đảng về tư tưởng,
đường lối, chính sách, nội dung và biện pháp lớn trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá
đối với toàn xã hội; các đối sách, nội dung, biện pháp chống chiến tranh tư
tưởng và tâm lý của địch.
2. Giúp Ban Bí thư chỉ đạo và kiểm tra các tổ chức đảng trong việc thực
hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về tư tưởng, văn hoá.
305
3. Kiểm tra về phương hướng chính trị tư tưởng trong hoạt động giảng dạy
lý luận chính trị thuộc hệ thống trường đảng, hệ thống giáo dục quốc dân và hệ
thống các trường ngành và đoàn thể; chăm lo giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính
trị, thời sự, chính sách cho cán bộ, đảng viên ngoài các đối tượng thuộc hệ thống
trường đảng và cho đông đảo nhân dân.
4. Tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn nội dung hoạt động của hệ thống báo cáo
viên từ Trung ương đến cơ sở, trước hết là các đối tượng ở các cơ quan trung
ương, một số trường đại học, cơ sở sản xuất kinh doanh lớn, câu lạc bộ những
người về hưu...
5. Chỉ đạo nội dung, định hướng chính trị cho các cơ quan truyền thông đại
chúng, các cơ quan xuất bản báo chí, văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, các cơ
quan thông tin, tuyên truyền đối ngoại ở trung ương và địa phương.
6. Nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận nghiệp vụ công tác tư tưởng,
văn hoá; tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ tuyên giáo các cấp, các ngành,
các đoàn thể.
7. Kiểm tra, đề xuất và kiến nghị về tổ chức, chính sách, đội ngũ cán bộ của
ngành, của khối theo quy định của Trung ương; tham gia ý kiến với các cấp, các
ngành liên quan trong việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ cao cấp của các ban,
ngành trong khối, các Trưởng ban tuyên giáo tỉnh, thành phố, Tổng biên tập báo,
Giám đốc các nhà xuất bản lớn ở trung ương và địa phương.
8. Phối hợp với Đảng ủy khối, với đảng đoàn, Ban cán sự đảng của các cơ
quan trong khối về công tác xây dựng Đảng. Quán triệt Quyết định của Ban Bí
thư, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương và Ban tuyên giáo các cấp phấn đấu
thực hiện tốt toàn diện cả ba chức năng (tham mưu, chỉ đạo, kiểm tra) và các
nhiệm vụ được quy định.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII họp tháng 1 - 1994
kiểm điểm hơn hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tổng kết một bước
thực tiễn đổi mới từ Đại hội VI, quyết định những chủ trương, biện pháp phấn
đấu hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ Đại hội VII đã đề ra cho 5 năm 1991-
1995.
306
Làm quán triệt trong Đảng và trong nhân dân nghị quyết của Hội nghị, công
tác tư tưởng đã tập trung làm rõ những nội dung cơ bản:
- Khẳng định thành tựu của công cuộc đổi mới, chỉ rõ những yếu kém và
kết luận của hội nghị: Mặc dù còn nhiều yêú kém phải khắc phục, những thành
tựu quan trọng đạt được đã và đang tạo ra nhỉmg tiền đề đưa đất nước chuyển
sang một thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.
- Vạch rõ bốn nguy cơ trước mắt: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ
nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và
chỉ đạo thực hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ quan liêu; nguy cơ "diễn
biến hòa bình" của các thế lực thù địch; mối quan hệ chặt chẽ và tác động lẫn
nhau giữa những nguy cơ đó. Đồng thời nêu rõ cơ hội lớn với những thuận lợi
cơ bản: Đảng ta có đường lối đúng đắn, đoàn kết, nhất trí; nhân dân ta cần cù,
thông minh; nước ta có thế và lực mới; sự phát triển của cách mạng khoa học kỹ
thuật, xu thế mở rộng quan hệ hợp tác trên thế giới và trong khu vực dem lại cho
chúng ta khả năng có thêm những nguồn lực quan trọng cùng với ngưồn lực
chính huy động từ trong nước cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Những nhiệm vụ chủ yếu để hoàn thành thắng lợi mục tiêu Đại hội VII đã
đề ra, trọng tâm là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, tạo thêm cơ sở thuận lợi chuyển sang thời kỳ mới của cách mạng.
Sau Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương họp kỳ thứ bảy (7-1994) ra Nghị
quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 và xây dựng giai cấp
công nhân trong giai đoạn mới. Trong công tác tuyên truyền phổ biến Nghị
quyết Trung ương 7, công tác tư tưởng đã chú trọng điểm mới của
Nghị quyết lần này là phát triển và hoàn thiện các quan điểm của Đảng về
công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa; làm rõ các tiền
đề đã có và đang được tạo ra để "chuyển", không chủ quan, nóng vội; nêu rõ vị
trí quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
tránh lặp lại sai lầm trước đây không coi trọng đúng mức mặt trận nông nghiệp...
307
Hội nghị lần thứ tám (1-1995) đề ra các chủ trương, biện pháp tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là
cải cách một bước nền hành chính. Căn cứ Nghị quyết Trung ương, công tác tư
tưởng đã khẳng định quan điểm đúng đắn của Đảng về chuyên chính vô sản đã
nêu trong Nghị quyết Đại hội VII, làm rõ các quan điểm của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng và nội dung cải cách nền hành chính quốc gia, uốn nắn những
biểu hiện tư tưởng lệch lạc do ảnh hưởng của dân chủ, pháp quyền tư sản.
Như vậy, từ Hội nghị Trung ương 2 (khoá VII) đến Hội nghị Trung ương 8,
đường lối đổi mới đề ra từ Đại hội VI và phát triển tại Đại hội VII đã được cụ
thể hóa thành hệ thống các quan điểm đổi mới của Đảng, là nội dung cơ bản để
triển khai sâu rộng hơn công tác tư tưởng trong Đảng và trong nhân dân.
Năm 1994 là năm diễn ra Đại hội toàn quốc các Hội văn nghệ. Một yêu cầu
quan trọng trong dịp này là tiếp tục làm quán triệt và đẩy mạnh việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương 4 về văn hoá văn nghệ. Để giúp
các tỉnh, thành ủy chỉ đạo tổ chức tốt Đại hội ở địa phương, Ban Tư tưởng - Văn
hoá Trung ương đã mở Hội nghị bồi dưỡng cho cán bộ lãnh đạo Ban Tuyên
giáo, Bí thư đảng đoàn và Chủ tịch Hội văn nghệ các tỉnh, thành phố chuyên đề
"Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hoá, văn nghệ" và sơ kết hai
năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4. Được sự quan tâm chỉ đạo của Ban Bí
thư, với những chuyển biến mới sau hai năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
4, Đại hội của các Hội đã tiến hành trong không khí dân chủ, đoàn kết, nhất trí
với đường lối, quan điểm văn hoá văn nghệ của Đảng, đánh giá đúng tình hình
văn nghệ và hoạt động của Hội, nâng cao ý thức trách nhiệm của văn nghệ sĩ
đẩy mạnh các hoạt động sáng tạo vì sự nghiệp đổi mới của đất nước. Những
quyết định mới của Nhà nước như xét tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh, tăng
cường đầu tư cho văn hoá văn nghệ và một số chế dộ chính sách được bổ sung
đã góp phần tạo điều kiện mới cho các hoạt động sáng tạo. Hoạt động văn hoá,
văn nghệ đã góp phần tích cực vào giáo dục tư tưởng, cổ vũ các phong trào hành
308
động cách mạng, tạo không khí vui tươi lành mạnh kỷ niệm trọng thể những
ngày lễ lớn của nhân dân cả nước trong hai năm 1994 - 1995.
Để tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới công tác tư tưởng trước những thách thức
mới đang đặt ra, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương đã phối hợp với các cơ
quan trực tiếp có liên quan, tổ chức nghiên cứu, dự thảo trình Bộ Chính trị xét
duyệt và ban hành một số Nghị quyết quan trọng: Nghị quyết 01 về công tác lý
luận (3- 1992), Nghị quyết về tổ chức những ngày lễ lớn hai năm 1994 - 1995 và
Nghị quyết 09 về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng (1-1995). Đây
là những Nghị quyết nhằm tăng cường công tác giáo dục phát huy truyền thống
cách mạng của dân tộc và của Đảng, chỉ rõ phương hướng cơ bản xây dựng
đảng về tư tưởng và nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng đáp ứng yêu cầu của
cách mạng trong thời kỳ mới, nâng cao tính chiến đấu trong đấu tranh tư tưởng -
lý luận; chỉ rõ những định hướng cơ bản nhất của công tác tư tưởng đối với toàn
xã hội trước mắt và lâu dài. Nghị quyết 01 đã đánh giá những tiến bộ của công
tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn góp phần đổi mới tư duy, xây dựng
và cụ thể hóa đường lối của Đảng; phân tích những nguyên nhân dẫn đến sự
chậm trễ và yếu kém trong công tác lý luận; xác định nhiệm vụ tiếp tục làm rõ
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đề ra 9 phương hướng lớn để triển
khai công tác nghiên cứu, trọng tâm trước mắt là góp phần tổng kết thực tiễn đổi
mới, phục vụ việc chuẩn bị Đại hội tơàn quốc lần thứ VIII của Đảng Nghị quyết
09 đánh giá thực trạng tình hình tư tưởng và công tác tư tưởng, đề ra 6 định
hướng lớn cần quán triệt sâu sắc trong các hoạt động trên lĩnh vực tư tưởng:
- Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam cho hành động của Đảng ta và cách mạng Việt Nam.
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn duy nhất
đúng đắn.
- Chế độ ta là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước ta là Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản.
309
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ
quá độ.
- Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng trưởng kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội.
- Phát triển văn hoá giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc kết hợp với
tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại.
Sáu chủ đề lớn nói trên và những quan điểm đôi mới của Đảng trên các lĩnh
vực chủ yếu của đời sống xã hội được biên soạn thành những chuyên đề tổ chức
học tập trong toàn Đảng. Đây là đợt giáo dục rộng lớn, góp phần quan trọng
nâng cao tư tưởng, đẩy mạnh hành động cách mạng của đảng viên và nhân dân,
tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng.
Công tác giáo dục phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc và của Đảng
được tiến hành tốt thông qua những ngày lễ lớn hai năm 1994 - 1995 đã góp
phần thúc đẩy phong trào thi đua hoàn thành kế hoạch 5 năm 1991 - 1995.
Nhiều cuộc vận động phù hợp với truyền thống của dân tộc đã góp phần phát
huy những nét đẹp của xã hội ta (tôn vinh Bà mẹ Việt Nam anh hùng, đoàn kết
tương trợ xoá đói giảm nghèo, hoạt động từ thiện, khuyến tài khuyến học...) và
nêu cao tinh thần đoàn kết quốc tế (phong trào ủng hộ Cuba...). Các cuộc thi tìm
hiểu về Đảng, về Bác Hồ, về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng... do báo
Đảng và báo các đoàn thể, ở Trung ương và địa phương tổ chức đã thu hút hàng
triệu lượt người trong cả nước tham gia. Đây cũng là một hình thức tốt về giáo
dục truyền thống cách mạng.
Trước yêu cầu mới về mở rộng các quan hệ hợp tác quốc tế tháng 5-1992
Ban Bí thư ra Chỉ thị số 11 về đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối
ngoại. Chỉ thị 11 nêu rõ yêu cầu tăng cường thông tin đối ngoại trong tình hình
mới, hướng dẫn những nội dung chủ yếu của thông tin đối ngoại, các biện pháp
thống nhất chỉ đạo, tập trung mọi khả năng và đa dạng hóa các phương thức hợp
tác quốc tế để tăng cường lực lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả của công
tác thông tin đối ngoại.
310
Trước đòi hỏi của nhiệm vụ trong công cuộc đổi mới, nhu cầu về học tập lý
luận chính trị của cán bộ, đảng viên ngày càng tăng. Chấp thuận đề nghị của Ban
Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, tháng 6-1995 Ban Bí thư ra Quyết định số tổ
chức Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở cấp huyện (và tương đương) với nhiệm vụ
chủ yếu là tổ chức bồi dưỡng về lý luận chính trị, nội dung các Nghị quyết, chỉ
thị của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ trên địa bàn huyện (quận, thị
xã, thành phố); mở lớp bồi dưỡng đối tượng phát triển đảng, và các Đảng viên
mới; tổ chức thông tin khoa học, thời sự, chính sách cho đội ngũ báo cáo viên ở
cơ sở để qua đó thông tin cho cán bộ, đảng viên trên địa bàn huyện. Đây là một
quyết định phù hợp với phương hướng chuyển mạnh xuống cơ sở, đáp ứng yêu
cầu của cơ sở.
Những cố gắng lớn của toàn đảng, toàn dân ta trong 5 năm 1991 - 1995 đã
đem lại những thành tựu đáng mừng.
Thành tựu nổi bật nhất là đã đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế, hoàn
thành vượt mức nhiều chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm: Trong 5 năm 1991 - 1995
nhịp độ tăng bình quân hàng năm về tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8,2%
(kế hoạch là 5,5 - 6,5%), về sản xuất công nghiệp là 13,3%, sản xuất nông
nghiệp 4,5%, kim ngạch xuất khẩu 20%. Những mặt yếu nổi lên là: Chưa thực
hiện tốt cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư
phát triển.
Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực và những vấn đề bức xúc phải giải
quyết. Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần vừa lúng túng vừa
buông lỏng. Quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn yếu. Điều rất đáng lo ngại
là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, suy
thoái về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, nhiều cấp ủy đảng mất đoàn
kết, sức chiến đấu của một bộ phận tổ chức cơ sở Đảng suy yếu. Đây là một yếu
kém kéo dài, các biện pháp chỉ đạo chưa đủ hiệu lực làm chuyển biến tình hình.
Góp phần vào thành tựu chung trong 5 năm 1991 - 1995 các mặt hoạt động
chủ yếu của công tác tư tưởng, văn hoá đều có bươc đổi mới và phát triển.
311
Công tác nghiên cứu lý luận, khoa học xã hội được triển khai theo phương
hướng nghị quyết 0l đã góp phần khắc phục một bước bệnh bảo thủ, giáo điều,
ngăn chặn chủ nghĩa cơ hội, từng bước hình thành hệ thống các quan điểm đổi
mới của Đảng, xây dựng quan niệm của Đảng về chủ nghĩa xã hội và về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, góp phần cung cấp luận cứ khoa học
cho những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước.
Từ năm 1990 - 1991 công tác giáo dục lý luận chính trị bắt đầu được khôi
phục và phát triển, khởi động được phong trào học tập của cán bộ, đảng viên.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trong 5 năm 1991 - 1995 đã có 1.363.110 lượt cán
bộ, đảng viên được dự các lớp giáo dục lý luận chính trị theo những chương
trình khác nhau.
- Trước những biến động lớn và phức tạp, tác động nhiều mặt đến tình hình
tư tưởng, các hoạt động tuyên truyền giáo dục kịp thời làm quán triệt những
nhận định và chủ trương của Đảng, góp phần định hướng đúng đắn cho tư tưởng
và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trung tâm bồi dưỡng chính trị
cấp huyện (và tương đương) được thành lập và nhiều nơi hoạt động tốt đã góp
phần tăng cường hơn công tác giáo dục đảng viên, cán bộ ở cơ sở.
Bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng (báo chí, đài phát thanh, truyền
hình, sinh hoạt thời sự chính sách, bản tin hàng tháng cho cơ sở, các đội thông
tin văn hoá lưu động...) đã tích cực mở rộng thông tin, đưa thông tin đến cơ sở
được nhiều hơn. Các hình thức trao đổi, đối thoại, nghiên cứu dư luận xã hội,
thông tin hai chiều bước đầu được thực hiện.
- Báo chí, xuất bản đã có bước phát triển rõ rệt cả về số lượng và chất
lượng, nội dung và hình thức, hiệu quả xã hội được nâng cao hơn. Hệ thống các
nhà xuất bản được sắp xếp lại Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ra đời trên cơ sở
hợp nhất một số nhà xuất bản, trong đó có hai nhà xuất bản của Đảng là Nhà
xuất bản Sự thật và Nhà xuất bản Tư tưởng Văn hoá. Luật báo chí, xuất bản
được sửa đổi và bổ sung phù hợp với tình hình mới được Quốc hội thông qua và
ban hành. Hơn 30 văn bản pháp quy ban hành trong 5 năm 1992 - 1996 đã từng
bước đưa hoạt động báo chí, xuất bản vào hành lang pháp luật.
312
- Các ngành văn hoá, nghệ thuật đã có nhiều cố gắng đáp ứng nhu cầu
hưởng thụ văn hoá ngày càng phát triển của nhân dân. Nhiều hình thức văn hoá
truyền thống được khôi phục. Các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật phong
phú hơn về nội dung và đề tài, đa dạng hơn về hình thức, thể loại và phong cách
thể hiện. Giao lưu văn hoá với nước ngoài được mở ra cùng với tăng cường
thông tin đối ngoại đã góp phần tạo nên trong dư luận tiến bộ của nhiều nước
trên thế giới sự hiểu biết đúng và ấn tượng tốt về Việt Nam.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị (2- 1995) đánh giá, bên cạnh những đổi mới
và tiến bộ nói trên, công tác tư tưởng cũng còn không ít yếu kém và khuyết
điểm: Việc quán triệt các Nghị quyết của Đảng chưa sâu sắc, chưa gắn với kiểm
tra việc thực hiện, chưa kịp thời phổ biến những kinh nghiệm tốt, phê phán các
quan điểm sai trái, uốn nắn những khuynh hướng lệch lạc. Đấu tranh chống các
luận điệu thù địch còn thụ động và thiếu sắc bén... Việc lý giải nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn kém thuyết phục. Công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin chậm
đổi mới về nội dung và phương thức. Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
còn thiếu hệ thống. Giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng bị xem nhẹ. Chưa
chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư tưởng, lý luận.
Những thành tựu đạt được trong 10 năm đổi mới (1986 - 1996) đã làm cho
đất nước có những thay đổi to lớn và sâu sắc. Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (6- 1996) kiểm điểm kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VII và tổng kết
10 năm đổi mới nhận định:
"Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn
có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 - 1995
đã được hoàn thành về cơ bản"[79].
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội nhưng còn một số mặt
chưa vững chắc song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát
triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ
hơn[80].
313
Từ chặng đường đổi mới 10 năm qua, Đại hội rút ra sáu bài học chủ yếu.
Đại hội phân tích những thuận lợi và khó khăn trên bước đường đi lên và xác
định bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (1- 1994) nêu
lên cho đến nay vẫn là những thách thức lớn. Đảng và nhân dân ta cần tiếp tục
nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đạỉ hoá.
Đại hội nhấn nlạnh trong lãnh đạo tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, phai quán triệt sáu quan điểm:
"- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào ngưồn lực trong nước là chính đi
đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng một nền kinh tế mở, hội
nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước,
không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải
thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Khoa học và công nghệ là động lực của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện
đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương
án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác
tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và
nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây
dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những
mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các
lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu
314
của mọi vùng trong nước; có chính sách bổ trợ những vùng khó khăn, tạo điều
kiện cho các vùng đều phát triển.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh"[81].
Đây là một bước phát triển và hoàn thiện các quan điểm Đảng ta đã đề ra
trước đây về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Về mục tiêu chung và
bước đi trong 5 năm trước mắt, Nghị quyết Đại hội xác định:
"Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp"[82].
Nhiệm vụ của nhân dân ta trong 5 năm trước mắt là "đẩy mạnh công cuộc
đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra trong
Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000: tăng trưởng kinh
tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững, đi đôi với giải quyết. những vấn đề bức xúc
về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng
cao tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao
hơn vào đầu thế kỷ sau"[83].
Về công tác tư tưởng văn hoá, Nghị quyết Đại hội chỉ rõ những phương
hướng và nhiệm vụ cơ bản: Căn cứ vào Cương lĩnh và các Nghị quyết của Đảng,
thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên đường lối, chủ trương của Đảng,
các vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, những kiến thức mới của thời đại, bảo đảm sự
thống nhất về chính trị và tư tưởng trong toàn Đảng.
Công tác lý luận trước hết hướng vào những vấn đề do cuộc sống đặt ra,
làm rõ căn cứ khoa học của các giải pháp, dự báo các xu hướng phát triển, góp
315
phần bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, làm cho ngày càng sáng tỏ con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Uốn nắn những nhận thức lệch lạc,
những quan điểm mơ hồ, những biểu hiện dao động về tư tưởng, suy giảm niềm
tin vào chủ nghĩa xã hội và sự lãnh đạo của Đảng. Phê phán và bác bỏ những
quan điểm sai trái, thù địch. Khắc phục tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên
sa sút phẩm chất đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải gương mẫu tự rèn luyện, tự
phấn đấu nâng cao đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư,
khắc phục chủ nghĩa cá nhân…
Mọi hoạt động văn hoá, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư
tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hoá lành
mạnh cho sự phát triển xã hội..., và hình thành hệ giá trị và chuẩn mực xã hội
mới phù hợp với truyền thống, bản sắc dân tộc và yêu cầu của thời đại.
Phát triển đi đôi với quản lý tốt mạng lưới thông tin, báo chí, xuất bản, phát
thanh, truyền hình, điện ảnh và các hình thức nghệ thuật khác. Sớm hoạch định
một chiến lược quốc gia về thông tin... Tăng cường công tác thông tin đối ngoại.
Công tác tuyên truyền phổ biến Nghị quyết Đại hội có những thuận lợi mới.
Những đổi thay to lớn và sâu sắc sau 10 năm đổi mới mà mọi người đều cảm
nhận rõ rệt trong cuộc sống, tạo ra không khí phấn khởi trong xã hội, nâng cao
thêm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và đường lối đổi mới đã được kiểm
nghiệm trong thực tế của 10 năm đầy thử thách. Đợt tuyên truyền phổ biến Nghị
quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ và đợt giáo dục Nghị quyết Bộ
Chính trị về những định hướng lớn của công tác tư tưởng đã tạo cơ sở cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân tiếp thu thuận lợi những nội dung cơ bản của Nghị
quyết Đại hội VIII.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, ngay từ những
năm đầu, đã xuất hiện những diễn biến không suôn sẻ. Năm 1996 mức tăng
trưởng kinh tế đã chững lại, sang năm 1997 bắt đầu có dấu hiệu xấu về tài chính
- tiền tệ ở một số nước trong khu vực. Tình hình xã hội và tình hình thế giới
316
cũng có một số diễn biến phức tạp. Công tác tư tưởng vừa phải triển khai những
nhiệm vụ cơ bản vừa phải xử lý kịp thời những vấn đề mới nảy sinh.
Triển khai thực hiện những nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng văn hoá
Nghị quyết Đại hội đã đề ra, công tác tư tưởng đã góp phần làm quán triệt Nghị
quyết Trung ương 2 về định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo và
khoa học, công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đến năm
2000. Xây dựng nhận thức trong toàn Đảng, phát triển giáo dục đào tạo và khoa
học, công nghệ là yếu tố cơ bản, là khâu đột phá, để đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công tác tư tưởng là công tác đối với con
người. Nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định thắng lợi của
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo và
khoa học, công nghệ chính là nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống Nhân, Trí,
Dũng của dân tộc, mà ông cha ta đã xây dựng nên trong lịch sử đấu tranh lâu dài
dựng nước và giữ nước. Nhân, Trí, Dũng là "phẩm chất toàn vẹn mà Bác Hồ
thường xuyên chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Chính Người
là bậc Đại nhân, Dại trí, Đại dũng, biểu tượng tập trung của truyền thống đó.
Nhân là lòng nhân ái, nghĩa tình, yêu nước, thương dân, là tinh thần đại
đoàn kết toàn dân, triệu người như một, là tình cảm thiết tha, mãnh liệt đối với
Tổ quốc, đồng bào:
"Trung với nước, hiếu với dân".
Trí là sự sáng suốt, minh mẫn trong nhận thức, sự hiểu biết về tự nhiên và
xã hội, trí thông minh, tài năng sáng tạo; kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc,
tiêu biểu là tư tưởng Hồ Chí Minh; tiếp thụ tinh hoa của loài người mà đỉnh cao
là học thuyết Mác - Lênin để vận dụng một cách phù hợp vào điều kiện của đất
nước.
Dũng là ý chí bất khuất, quật cường, tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc
ta, là lòng dũng cảm đương đầu với mọi thách thức, vượt qua mọi trở ngại:
"Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua…""[84].
Căn cứ Nghị quyết Trung ương 2, Bộ Chính trị quyết định thành lập Hội
đồng lý luận Trung ương, làm tư vấn cho Trung ương đảng trong lãnh đạo chỉ
317
đạo công tác nghiên cứu lý luận, nhằm đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thực hiện
nhiệm vụ công tác lý luận Nghị quyết Đại hội VIII đã đề ra. Thực hiện Nghị
quyết Đại hội VIII và Nghị quyết Trung ương 2, tháng 3-1997 Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương tổ chức Hội nghị tổng kết công tác tư tưởng - văn hoá 5
năm 199 l - 1995 và năm 1996, bàn định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm
1997 và đến năm 2000.
Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhiệt liệt biểu
dương thành tích của toàn ngành tư tưởng văn hóa trong 10 năm đổi mới. Đồng
chí yêu cầu Hội nghị lần này phân tích sâu sắc và có giải pháp khắc phục những
khuyết điểm, yếu kém: Đó là chưa làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân quán
triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chính sách, nhất là các chính sách kinh tế, xã
hội của Đảng và Nhà nước, nên khi thực hiện có thể nảy sinh lệch lạc về phía
này hay phía khác; chưa quan tâm đúng mức công tác giáo dục giữ vững phẩm
chất, đạo đức cách mạng của can bộ, đảng viên trong hoàn cảnh mới; chưa quan
tâm đúng mức công tác đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu và các tệ
nạn xã hội khác; chưa làm đúng mức và có hiệu quả công tác phòng, chống sự
xâm nhập của các nọc đọc về chính trị, văn hóa; công tác quản lý nhà nước đối
với các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản còn nhiều thiếu sót; xu hướng
"thương mại hóa" và những hiện tượng vi phạm pháp luật báo chí, xuất bản
chậm được khắc phục; đấu tranh chống các của một số cấp ủy đảng đối với công
tác tư tưởng văn hóa còn thiếu nhạy bén, có nơi có lúc còn chủ quan, lơ là, bỏ
trống trận địa; công tác tư tưởng văn hóa ở nhiều nơi còn tách rời lắng nghe ý
kiến nhân dân, để hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của đồng bào cũng như việc giáo
dục cán bộ, nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, mở rộng dân chủ đi đôi
với việc duy trì trật tự, kỷ cương, bảo đảm thực sự quyền và nghĩa vụ công dân
của mọi người trong xã hội.
Về các bài học rút ra từ thực tiên công tác tư tưởng văn hóa trong quá trình
đổi mới, đồng chí Tổng Bí thư căn dặn: Mỗi bài học đã tổng kết cần được vận
dụng và phát huy, đặc biệt là bài học luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội... Trên bước đường đi tới, công tác tư tưởng văn hóa phải nắm
318
vững và thực hiện tốt bài học đó nhằm tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách,
nhất là khi thời cuộc có những diễn biến phức tạp.
Đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở, để tiếp tục đổi mới, công tác tư tưởng phải
bám sát thực tiễn, phát hiện và biểu dương những người tốt, việc tốt, những
nhân tố tích cực, uốn nắn những lệch lạc, phổ biến rộng rãi những kinh nghiệm
của các điển hình tiên tiến... Coi trọng tổng kết thực tiễn, phát hiện những vấn
đề mới nảy sinh, đề xuất những kiến nghị thiết thực, bổ sung đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời phải đặc biệt coi trọng
nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng ta trong sạeh, vững mạnh... đấu tranh chống
mọi biểu hiện thoái hóa về chính trị, tư tưởng và đạo đức...
Từ kết quả tổng kết, Hội nghị đã xác định phương hướng tiếp tục đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác tư tưởng văn hoá là: Trên cơ sở kiên định các vấn
đề có tính nguyên tắc: mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng; bám sát các
nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tôn trọng các sáng kiến của
phong trào quần chúng, phải tăng cường thông tin, mở rộng đối thoại, hướng về
cơ sở. Từ đó cải tiến thông tin của Ban, chỉ đạo chặt chẽ báo chí, xuất bản, tăng
cường nắm dư luận xã hội, mở rộng thông tin đối ngoại và tăng cường công tác
tuyên truyền miệng.
Cũng tại Hội nghị này, đã tiến hành tổng kết công tác giáo dục lý luận chính
trị 5 năm 1991 - 1996. Hội nghị ghi nhận đóng góp quan trọng nhất của công tác
giáo dục lý luận chính trị 5 năm qua là đã tích cực thực hiện chương trình giáo
dục các Nghị quyết của Đảng. Hệ thống chương trình đã bước đầu được đa dạng
hóa, vừa coi trọng bồi dưỡng các chuyên đề lý luận cho cán bộ trung cao cấp
vừa mở rộng công tác bồi dưỡng nâng cao nhận thức lý luận cho đảng viên ở cơ
sở, giúp cho anh chị em tiếp thu đường lối, chủ trương của Đảng có căn cứ khoa
học. Phong trào học tập ở nhiều tỉnh, thành phố và các cơ quan trung ương có
chuyển biến tốt. Kết quả giáo dục đã góp phần xây dựng tư duy mới cho cán bộ,
đảng viên, nâng cao nhận thức về đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và
Nhà nước và về công tác xây dựng Đảng để vận dụng có hiệu quả trong công
319
tác. Khuyết điểm chủ yếu là thiếu chương trình riêng cho các đối tượng khác
nhau; giáo dục lý luận chưa gắn với giới thiệu những bài học kinh nghiệm từ
tổng kết thực tiễn những điển hình tiên tiến trong công cuộc đổi mới; việc thực
hiện quyết định của Ban Bí thư về thành lập Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp
huyện (và tương đương) còn một số vướng mắc chậm được giải quyết. Hội nghị
đã đề ra các biện pháp cải tiến nội dung và phương pháp, nâng cao chất lượng,
hiệu quả giáo dục. Trước mắt, nghiên cứu đổi mới phương pháp giáo dục cấc
Nghị quyết của Đảng; soạn chương trình giáo dục đối với đảng viên ở miền núi,
thuộc các dân tộc ít người; trên cơ sở Quyết định số 100 của Ban Bí thư, hướng
dẫn giải quyết những vướng mắc về cơ chế, chính sách, tạo điều kiện hoàn thành
việc lập các Trung tâm bồi dưỡng chính trị ở tất cả các quận, huyện, thị xã và
đẩy mạnh hoạt động của Trung tâm.
Từ ngày đổi mới, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương đã chú trọng hơn
trước công tác bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo. Đã mở một số lớp bồi dưỡng
Trưởng ban Tuyên giáo huyện, quận, thị xã. Phát huy kết quả đề tài nghiên cứu
khoa học về đổi mới công tác tư tưởng, Ban đã tổ chức bỉên soạn chương trình
lnới và mở lớp bồi dưỡng tiếp tục nâng cao kiến thức nghiệp vụ cho các Trưởng
ban tuyên giáo và Giám đốc Trung tâm bồi dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã.
Vụ Quản lý công tác nghiên cứu khoa học về nghiệp vụ công tác tư tưởng văn
hoá được thành lập để tổ chức việc nghiên cứu lý luận nghiệp vụ, góp phần bồi
dưỡng cán bộ trong ngành. Các phương tiện thông tin tuyên truyền ngày càng
phát triển và từng bước hiện đại hóa, song tuyên truyền miệng vẫn giữ vị trí
quan trọng không thể thiếu. Tháng 6- 1997 Thường vụ Bộ Chính trị đã nghe báo
cáo của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương tổng kết 20 năm công tác tuyên
truyền miệng, chủ yếu là hoạt động báo cáo viên. Thường vụ Bộ Chính trị đánh
giá: "Từ khi Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IV) ra Chỉ thị 14-CT/TƯ ngày
3-8- 1977 đến nay, công tác tuyên truyền miệng đã có nhiều kết quả. Lực lượng
tuyên truyền miệng có tổ chức của Đảng đã được phát triển cả về số lượng và
chất lượng". (Năm 1997 Trung tâm thông tin của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương bồi dưỡng và hướng dẫn hoạt động cho gần 800 báo cáo viên của cơ quan
320
Trung ương ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh; mỗi tỉnh, thành phố có từ 40 -
50 báo cáo viên; mỗi quận, huyện, thị xã từ 20 - 30 báo cáo viên; nhiều xã,
phường có tổ báo cáo viên, từ hai - ba đồng chí. Ở cấp tỉnh, thành phố, số chi bộ,
đảng bộ có báo cáo viên chiếm tỷ lệ 92%; cấp quận, huyện, thị xã 86,3%; cấp
xã, phường 75,25%) . Nhờ đó đã trực tiếp cung cấp thông tin có định hướng về
những vấn đề thời sự trong nước và quốc tế, trực tiếp đưa quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước tới đảng viên và quần chúng, góp phần nâng
cao nhận thức, củng cố niềm tin và tình cảm đối với Đảng, khơi dậy quyết tâm
của mọi người đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo ra sự nhất trí về tư tưởng và
hành động ngày càng cao trong Đảng và trong xã hội. Bên cạnh bước trưởng
thành và kết quả đã đạt được, công tác tuyên truyền miệng cũng còn những hạn
chế và khuyết điểm như lực lượng báo cáo viên đông nhưng chưa mạnh, không
ít cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành chưa tích cực tham gia công tác tuyên
truyền miệng. Chất lượng nội dung thấp. Từ nhiều năm nay việc xây dựng lực
lượng tuyên truyền viên chưa được coi trọng. Nhiều đảng viên chưa chủ động
tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng trong quần chúng. Phương
thức hoạt động chủ yếu vẫn nặng một chiều từ trên xuống, chưa chú trọng đến
đối thoại.
Để tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền miệng, Thường vụ Bộ Chính
trị yêu cầu: "Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí ủy viên Trung
ương và cấp ủy viên các cấp phải căn cứ vào đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước mà trực tiếp tuyên truyền cho quần chúng... Xây dựng,
củng cố và đổi mới đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên từ trung ương đến
cơ sở với số lượng hợp lý chất lượng ngày càng cao... Nâng cao chất lượng hoạt
động của Trung tâm Thông tin công tác tư tưởng của Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương và hoạt động báo cáo viên ở các tỉnh, thành phố,... của Trung tâm
bồi dưỡng chính trị quận, huyện, thị xã và hoạt động tuyên truyền miệng trong
toàn bộ hệ thống các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở... Thường
xuyên và kịp thời cung cấp thông tin cho đảng viên và báo cáo viên để mọi đảng
viên đều có thể tiến hành tuyên truyền miệng ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối
321
tượng…, Ban hành sớm các chế độ, chính sách và bảo đảm các phương tiện hoạt
động để tạo điều kiện thuận lợi và động viên đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền
viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình"[85].
Thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình", các thế lực thù địch coi phá hoại
về chính trị, tư tưởng là tạo "cửa đột phá". Chúng ra sức tuyên truyền chống chủ
nghĩa Mác - Lênin, chế độ xã hội chủ nghĩa và sự lãnh đạo của Đảng ta, dùng
nhiều thủ đoạn xuyên tạc hòng gây chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng với nhân
dân, coi đây là mũi tiến công phá hoại Đảng từ gốc. Được sự chỉ đạo trực tiếp
của Bộ Chính trị, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương đã xây dựng đề án trình
hội nghị lần thứ ba của Trung ương Đảng thảo luận thông qua báo cáo phân tích
hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch và đề ra các biện pháp tăng cường
chỉ đạo công tác tuyên truyền giáo dục nhằm "Bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương
lĩnh, đường lối của Đảng, đấu tranh chống các luận điệu sai trái và chống đối
của những người cơ hội về chính trị và bọn phản động. Thực hiện Nghị quyết
Trung ương, công tác tư tưởng đã đẩy mạnh các hoạt động giáo dục kiên định
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới của Đảng; mở rộng và đa dạng hóa
thông tin trong Đảng và trong nhân dân. Trong sinh hoạt nội bộ Đảng và các
đoàn thể, đông đảo đảng viên và quần chúng đã phân tích, phê phán các quan
điểm sai trái, chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội". Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh
toàn diện các hoạt động tư tưởng, tháng 10-1997 Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động báo chí - xuất bản từ ngày đổi mới và
kiểm điểm việc thực hiện Chỉ thị 08 của Ban Bí thư (tháng 3-1992) về tăng
cường lãnh đạo và quản lý báo chí xuất bản. Hội nghị tổng kết ghi nhận, từ ngày
đổi mới đến nay báo chí - xuất bản đã có những tiến bộ và phát triển về số lượng
và về chất lượng, về nội dung và hình thức, đóng góp tích cực vào thành tựu
chung của cách mạng. Đến nay cả nước có 485 đơn vị báo chí (150 đơn vị báo,
335 đơn vị tạp chí; trong đó ở Trung ương là 304, địa phương là 181). Truyền
hình Việt Nam đã phát sóng trên 4 kênh chính (thời lượng 41 giờ/ngày) và 9
kênh truyền hình cáp, diện phủ sóng 78% dân cư. Đài Tiếng nói Việt Nam phát
322
sóng liên tục 24/24 giờ/ngày gồm 6 hệ chương trình đối nội và đối ngoại, tổng
thời lượng 130 giờ/ngày. Hệ thống đài, trạm các tỉnh, thành phố, quận, huyện và
các vùng dân cư quan trọng được xây dựng và phát triển. 80% lượng thông tin
của nhân dân tiếp nhận được là thông qua báo, đài. Thông tấn xã Việt Nam
ngoài Tổng xã có 61 phân xã ở các tỉnh, thành phố và 22 phân xã ở nước ngoài.
Cả nước có 43 Nhà xuất bản (32 Nhà xuất bản ở Trung ương và 11 Nhà
xuất bản ở địa phương), năm 1999 xuất bản 9.962 đầu sách, in ra l83 triệu bản,
nhiều bộ sách kinh điển C.Mác và Ph. Ăngghen Toàn tập, Hồ Chí Minh Toàn
tập... sách văn kiện Đảng và Nhà nước, các tập sách quý trong kho tàng văn hóa
nước nhà và sách dịch của nước ngoài được in và phát hành với số lượng lớn.
Năm 1996 là năm đầu tiên chúng ta đạt bình quân hai bản sách/người/năm. Hoạt
động xuất nhập khẩu sách báo được mở rộng. Về thông tin đối ngoại, đã có 18
tờ báo, tạp chí xuất bản bằng tiếng nước ngoài, các kênh đối ngoại của Đài
Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và sáu báo, tạp chí điện tử.
Diện phát sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam đã vươn tới các châu lục trên thế
giới. Đài Truyền hình Việt Nam tích cực chuẩn bị phủ sóng tới Bắc Mỹ. Hệ
thống Internet bước đầu được khơi thông ở nước ta đã mở ra sự trao đổi thông
tin, báo chí điện tử với thế giới.
Từ khi có Chỉ thị 08 (3- 1992) của Ban Bí thư, hoạt động báo chí xuất bản
đã có chuyển biến tích cực và tiến bộ nhiều mặt; và được khẳng định: Báo chí
nói chung hoạt động đúng định hướng, thông tin kịp thời, phong phú và đa dạng,
thực hiện tốt hơn vai trò tiếng nói của Đảng, của Nhà nước và diễn đàn tin cậy
của nhân dân, đóng góp tích cực vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, hoàn
thành những nhiệm vụ chính trị quan trọng về đối nội, đối ngoại của Đảng và
Nhà nước, nâng cao dân trí, bảo vệ và phát huy bản sắc, truyền thống văn hóa
tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, góp phần ổn định chính
trị, tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội, mở rộng quan hệ hữu
nghị với bạn bè thế giới. Đã góp phần nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, cổ
vũ những điển hình tết, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh
323
lý luận, chống âm mưu và thủ đoạn "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù
địch.
Hoạt động xuất bản đã có những tiến bộ mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu về
đời sống tinh thần của xã hội.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản phát triển nhanh về
số lượng, nâng cao hơn về chất lượng. Quan hệ quốc tế và giao lưu về báo chí
xuất bản được mở rộng. Đa số những người làm báo, hoạt động xuất bản có
phẩm chất đạo đức tốt, trưởng thành về chính trị, chuyên môn và nghiệp vụ.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý hoạt động báo chí xuất bản của các tổ chức
đảng, đoàn thể, các cơ quan Nhà nước có tiến bộ; tích luỹ thêm nhiều kinh
nghiệm tốt.
Tuy vậy, nhìn chung chất lượng chính trị, văn hoá, khoa học, nhất là chất
lượng chính trị của một số ấn phẩm báo chí - xuất bản còn thấp. Một bộ phận
báo chí, xuất bản bị khuynh hướng thương mại và cơ chế thị trường chi phối,
chạy theo thị hiếu tầm thường... Một số sách báo, tạp chí, nhất là các số phụ, số
chuyên đề, xa rời tôn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ coi nhẹ việc biểu
dương người tốt, việc tốt, những nhân tố mới trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Có trường hợp phủ nhận truyền thống và thành tựu cách mạng, xa
rời định hướng xã hội chủ nghĩa, làm lộ bí mật quốc gia, coi nhẹ công tác đấu
tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận... Có những vụ thông tin thiếu chính xác, thiếu
khách quan... vi phạm đạo đức nghề nghiệp... Có tình trạng để cho tư nhân chi
phối một số hoạt động báo chí xuất bản; một số người làm báo, xuất bản bị ảnh
hưởng không đúng về "tự do" báo chí, xuất bản, về vị trí, chức năng của người
viết báo, ra sách, có những biểu hiện tiêu cực.
Nhiều cấp ủy, chính quyền và cơ quan chủ quản chưa xác định rõ trách
nhiệm quản lý và chỉ đạo báo chí của cấp mình. Chỉ đạo, quản lý báo chí - xuất
bản còn lỏng lẻo, phối hợp chưa chặt chẽ. Kiểm tra và xử lý những hành động
tiêu cực, nhưng vi phạm pháp luật về hoạt động báo chí xuất bản còn chậm.
Tinh thần tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm chưa thật nghiêm túc"[86].
324
Đến thăm và nói chuyện với Hội nghị, Tổng Bí thư Đỗ Mười nhiệt liệt biểu
dương đóng góp to lớn và bước phát triển đáng mừng của báo chí, xuất bản và
đội ngũ cán bộ làm công tác báo chí, xuất bản trong công cuộc đổi mới hơn 10
năm qua. Nói về vai trò và trách nhiệm của báo chí, xuất bản và các cán bộ làm
công tác báo chí xuất bản, Tổng Bí thư nêu rõ:
Trong giai đoạn mới hiện nay, báo chí phải là một lá cờ cách mạng, tập
hợp, đoàn kết, cổ vũ toàn dân hăng hái tiến hành công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nước nhà. Báo chí, xuất bản cũng là một nghề. Nghề gì cũng cần
lấy đạo đức làm gốc. Cái đức của người làm báo, làm công tác xuất bản ngày
nay là phải "cùng vui với niềm vui của toàn dân trước mỗi thành công và tiến
bộ, trước mỗi người tốt, việc tốt xuất hiện trong cuộc sống; lo lắng, chia sẻ
những khó khăn, gian khổ với nhân dân, đất nước, kiên quyết đấu tranh chống
tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác, chống xu
hướng thương mại hóa trong hoạt động báo chí, xuất bản.
Trên cơ sở những kết luận của Hội nghị tổng kết, ngày 17-10-1997 Bộ
Chính trị ra Chỉ thị số 22 Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
công tác báo chí xuất bản. Các cấp ủy đảng, các ngành, các cơ quan báo chí xuất
bản trước hết phải nắm vững các quan điểm và định hướng lớn Đảng đã đề ra là:
Báo chí - xuất bản đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và
hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của
các tổ chức chính trị, xã hội và là diễn đàn của nhân dân, luôn luôn đi đầu trong
việc bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách
của Đảng và Nhà nước. Chủ đề trung tâm của hoạt động báo chí - xuất bản là
độc lập dân tộc và chủ nghla xã hội. Phải bảo đảm tính tư tưởng, tính chân thật,
tính nhân dân, tính chiến đấu, tính đa dạng của báo chí - xuất bản. Tiếp tục phát
triển sự nghiệp báo chí - xuất bản đi đôi với quản lý tốt. Không ngừng nâng cao
chất lượng chính trị, văn hóa, khoa học, công nghệ, nghề nghiệp và từng bước
hiện đại hóa. Thực hiện nghiêm túc các biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản
lý báo chí - xuất bản.
325
- Xây dựng quy hoạch tổng thể báo chí - xuất bản đến năm 2000 và những
năm tiếp theo. Chấn chỉnh việc cấp giấy phép, bảo đảm đúng định hướng phát
triển, đúng pháp luật. Chấm dứt tình trạng ấn hành sách báo, đa có nội dung xấu.
Nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý các đài phát thanh, truyền hình từ Trung
ương đến địa phương. Tổ chức lại công tác phát hành sách báo, tăng cường quản
lý công tác xuất - nhập khẩu sách báo và các ấn phẩm văn hóa.
- Quy hoạch và sắp xếp lại các trường lớp, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ báo chí - xuất bản. Không mở các khoa, lớp báo chí - xuất bản ở
các trường đại học dân lập, tư thục.
Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương phối hợp với Hội Nhà báo Việt Nam
xây dựng Quy ước về đạo đức nghề nghiệp và hội thảo về Trách nhiệm xã hội
và nghĩa vụ công dân để nâng cao đạo đức và trách nhiệm của người làm báo.
Nghiên cứu đề nghị Nhà nước bổ sung và ban hành các chế độ, chính sách
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động báo chí - xuất bản.
Ban hành cơ chế trách nhiệm của các cơ quan chủ quản báo chí, nhà xuất
bản. Lập Ban cán sự Đảng, ban biên tập ở các cơ quan báo chí, nhà xuất bản
quan trọng. Tăng cường cán bộ có chất lượng cao ở các cơ quan quản lý, chỉ đạo
báo chí, xuất bản. Việc bổ nhiệm, đề bạt, thay đổi tổng biên tập, phó tổng biên
tập các báo, tạp chí, giám đốc, phó giám đốc nhà xuất bản phải bảo đảm thực
hiện đúng quy trình đã định.
Nghiên cứu, kiến nghị với Quốc hội và Chính phủ sửa đổi và bổ sung một
số điểm cần thiết trong Luật Báo chí, Luật Xuất bản.
Việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1997 được triển khai tích cực
ngay từ đầu năm đạt được một số kết quả, nhưng cơn băo số 5 gây thiệt hại khá
nặng ở nhiều địa phương ven biển Nam bộ và Nam Trung bộ. Cuộc khủng
hoảng tài chính - tiền tệ ở nhiều nước Đông Nam Á và trên thế giới ảnh hưởng
bất lợi đến hoạt động kinh tế của ta. Tình hình xã hội cũng xuất hiện những diễn
biến phức tạp, nhiều vụ khiếu kiện đông người diễn ra ở một số địa phương, tình
trạng quan liêu, mệnh lệnh, mất dân chủ, tệ tham nhũng và những vi phạm
nghiêm trọng kỷ cương, pháp luật của một bộ phận cán bộ, đảng viên tích tụ từ
326
lâu, nhân dân đã tố cáo nhưng không được giải quyết, đã dẫn đến đấu tranh tự
phát của quần chúng. Những khó khăn, yếu kém đã có chưa được khắc phục
cùng với những khó khăn, phức tạp mới tác động đến tình hình tư tưởng cán bộ,
đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng xấu đến môi trường kinh tế, làm giảm nhịp
độ tăng trưởng, đồng thời cũng cho thấy những nguy cơ mất ổn định kinh tế, xã
hội còn tiềm ẩn không thể xem thường.
Được sự chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước, có biện pháp xử lý đúng
đắn những vấn đề mới nảy sinh, với cố gắng lớn của toàn dân, hai năm 1996 -
1997 nền kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng khá, nhưng cũng đã có dấu
hiệu chững lại. Qua chỉ đạo khắc phục những khuyết điểm, từng bước ổn định
tình hình ở một số vùng nông thôn, lãnh đạo rút ra được những bài học về vấn
đề dân chủ ở cơ sở nông thôn, về công tác giáo dục, quản lý đảng viên và công
tác tuyên truyền vận động quần chúng.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (tháng 12-
1997) bàn nhiệm vụ kinh tế - xã hội đã đánh giá tình hình hai năm đầu thực hiện
Nghị quyết Đại hội VIII và quyết định: "Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới,
phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, phấn đấu hoàn thành các mục tiêu kinh tế - xã hội đến năm
2000"[87]. Hội nghị đã xem xét nhân sự cấp cao của Đảng, chấp nhận đề nghị
của đồng chí Đỗ Mười chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư; bầu đồng chí Lê Khả
Phiêu - Thường trực Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư. Những khó khăn mới trong
việc thực hiện kế hoạch nhà nước và những diễn biến mới trong xã hội năm
1997 làm cho một bộ phận đảng viên và nhân dân lo lắng cho khả năng tiếp tục
phát triển. Đánh giá tình hình tư tưởng cán bộ, đảng viên và nhân dân luôn luôn
là một vấn đề lớn trong công tác lãnh đạo tư tưởng của Đảng. Công tác tư tưởng
một mặt phải khẳng định và phát huy những tâm lý, tư tưởng tích cực, mặt khác
phải khắc phục tư tưởng chủ quan, tự mãn, hoặc bi quan chán nản, chỉ ra những
biểu hiện tiêu cực có thể gây mất ổn định còn tiềm ẩn và diễn biến mỗi năm một
khác để chủ động xử lý.
327
Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Trung ương 4, công tác tư tưởng đã làm
cho mọi người nhận rõ: những khó khăn mới và những khuyết điểm yếu kém
vốn có của ta đã làm giảm nhẹ đà tăng trưởng kinh tế, nhưng do cố gắng lớn của
Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, nên hai năm qua nền kinh tế vẫn tiếp tục phát
triển. Thiên tai còn có thể diễn ra. Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở một số
nước còn gây tác động xấu. Song kết quả phấn đấu hai năm qua đã giúp chúng
ta có thêm thế và lực, khả năng và cơ hội để tiếp tục phát triển trong những năm
tới. Từ thực tiễn của hai năm qua, cả thành tích và khuyết điểm, thiếu sót, đã cho
chúng ta thấy rõ thêm vị trí quan trọng của phát huy nội lực và nhiệm vụ cần
kiệm để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Công tác tư tưởng đã chú trọng làm rõ tư tưởng chủ đạo của Nghị quyết
Trung ương 4: "... giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế,
động viên cao độ nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn
lực bên ngoài"[88], nâng cao ý thức cần kiệm để công nghiệp hóa. Không phát
huy đầy đủ nội lực thì không thể đứng vững và đi lên một cách vững chắc, lâu
bền và cũng không thể hội nhập quốc tế một cách bình đẳng. Nội lực càng mạnh
thì có thể khai thác được nhiều hơn khả năng bên ngoài và cũng chỉ có trên cơ
sở đó chúng ta mới giữ vững được độc lập tự chủ. Ý thức cần kiệm phải được
thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người, mỗi dịa phương, đơn vị,
khắc phục tệ tham nhũng, xu hướng chạy theo xã hội tiêu dùng, lối sống xa hoa,
lãng phí.
- Về các nhiệm vụ và biện pháp, đã làm rõ thêm nhận thức về vai trò quan
trọng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và dân chủ hóa nông thôn. Cần tổng kết
những nhân tố mới, những mô hình tốt đang ngày càng xuất hiện nhiều để có
chủ trương cụ thể đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, khắc
phục những khuyết điểm buông lỏng việc xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất
mới, thả nổi thị trưởng nhất là thị trường nông thôn, coi nhẹ sản xuất trong nước
và thị trường trong nước, tình trạng quan liêu, mệnh lệnh, mất dân chủ.
- Kết quả chỉ đạo giải quyết các vấn đề phức tạp và kéo dài nảy sinh trong
mối quan hệ giữa nhân dân và cán bộ, đảng viên ở một số đảng bộ cho ta bài học
328
về dân chủ; phải rất coi tróng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" phải được thể chế hóa thành
pháp luật để đưa vào cuộc sống, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
tham gia kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng.
Nghiêm chỉnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Bởi vì, cơ sở là nơi trực
tiếp thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất, cho nên
khâu quan trọng và cấp bách nhất trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân
dân ở cơ sở. Công tác tư tưởng phải góp phần tăng cường và mở rộng thông tin
đến đảng viên và quần chúng ở cơ sở, phổ biến rộng rãi quy chế Nhà nước ban
hành, làm cho quần chúng nắm vững cơ sở pháp lý để đấu tranh khắc phục tình
trạng dùng mệnh lệnh hành chính thay cho công tác tuyên truyền vận động, bàn
bạc dân chủ với nhân dân.
Tháng 3- 1998, Hội nghị tư tưởng văn hoá toàn quốc đã kiểm điểm công tác
năm 1997 và bàn định các biện pháp tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Nghị
quyết Đại hội VIII va các Nghị quyết Trung ương. Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã
đến thăm Hội nghị và có bài phát biểu quan trọng: Tiếp tục đổi mới, nâng cao
chất lượ'ng toàn diện công tác tư tưởng văn hoá. Đồng chí chỉ rõ, để đạt yêu cầu
đó, trước hết phải thật sự coi trọng và đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và
tổng kết thực tiễn…, giải đáp cho được những vấn đề cấp bách của công cuộc
đổi mới, luận chứng một cách sáng tỏ quan niệm cách mạng, khoa học về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam để trình Đại
hội IX quyết định. Phải nâng cao hiệu quả công tác quán triệt các Nghị quyết
của Đảng, gắn học tập quán triệt Nghị quyết với quá trình thể chế hóa, pháp luật
hóa, nghị định hóa, chính sách hóa, chương trình hóa các quyết định của Đảng…
Công tác tư tưởng phải hướng mạnh xuống cơ sở, bám sát thực tiễn, tăng cường
đối thoại. Cán bộ tư tưởng phải đi đầu thực hiện phương châm đối thoại với dân,
rèn luyện toàn diện để có tấm lòng, có trách nhiệm, có tri thức, có nghệ thuật đối
thoại với dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Để góp phần đẩy mạnh
329
phong trào thi đua yêu nước, công tác tư tưởng phải tìm ra cho được những nội
dung cụ thể, những khẩu hiệu hành động thôi thúc lòng người và những phong
trào cuốn hút mạnh mẽ từng địa phương, từng ngành, từng đơn vị… Bồi dưỡng
và nhân rộng những cá nhân và tập thể điển hình tốt làm cho phong trào thi đua
phát triển sâu rộng, đẩy tới những đỉnh cao, làm xuất hiện nhiều con người và
tập thể anh hùng trong sự nghiệp đổi mới, tiến tới Đại hội anh hùng chiến sĩ thi
đua toàn quốc năm 2000.
Ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư được quán triệt trong quá trình
thảo luận của Hội nghị và tiếp đó trong cuộc hội thảo về Thực trạng tư tưởng và
công tác tư tưởng nhằm đánh giá đúng tình hình, xác định các biện pháp tiếp tục
đổi mới, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng văn hóa, thực hiện tốt nhiệm vụ
năm 1998 và góp phần xây dựng đề án Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) về công
tác xây dựng Đảng.
Trong đời sống văn hóa năm 1998 đã diễn ra một sự kiện quan trọng: Hội
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7-1998) bàn định và
ra Nghị quyết Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Trong tiến trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã có
Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị (khóa VI) và Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
VII) về văn hóa theo nghĩa hẹp, chủ yếu là những vấn đề về văn nghệ và quản lý
văn hóa - văn nghệ. Nghị quyết Trung ương lần này đề cập trên bình diện rộng
với những định hướng cơ bản, có ý nghĩa chiến lược, đồng thời xác định những
trọng điểm cần giải quyết trong những năm trước mắt trên lĩnh vực văn hóa.
Về phương hướng, nhiệm vụ và những quan điểm cơ bản trong sự nghiệp
xây dựng và phát triển văn hóa, Hội nghị xác định:
Nhiệm vụ bao quát của sự nghiệp văn hóa nước ta là “Phát huy chủ nghĩa
yêu nước và truyền thống dại đoàn kết dân tộc, ý thức độc ~ập tự chu, tự cường,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào
từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào
330
mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống
tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh, tiền bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”[89]
Nắm vững những quan điểm cơ bản: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội”[90]; “Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc”[91]; “Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa
dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam”[92] ; “Xây dựng và phát triển văn
hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ
vai trò quan trọng”[93]; “Văn hóa là một mặt trận. Xây dựng và phát triển văn
hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, cần có ý chí cách mạng, sự kiên trì,
thận trọng”[94].
Hội nghị đã đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và xác định: Từ nay đến năm 2000 và
một số năm sau đó, nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống
lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức đảng và Nhà nước, trong
các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình.
Hội nghị Trung ương quyết định mở cuộc vận động giáo dục chủ nghĩa yêu
nước và thi đuạ yêu nước với khẩu hiệu thi đua chung trong giai đoạn mới là
“Tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh” và phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; tiến hành sinh hoạt chính trị,
tự phê bình và phê bình về tư tưởng, đạo đức, lối sống trong Đảng và bộ máy
nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
Hội nghị Trung ương 5 cũng đã xem xét báo cáo của Bộ Chính trị về công
tác đấu tranh tư tưởng - lý luận và ban hành kết luận về “Đấu tranh chống các
quan điểm sai trái, bảo vệ Cuởng lĩnh, Điều lệ và đường lối của Đảng”.
Ban Tuyên huấn các cấp đã giúp cấp ủy tổ chức đợt nghiên cứu sâu rộng
các nghị quyết và kết luận của Hội nghị Trung ương 5 trong toàn Đảng và toàn
ngành tư tưởng - văn hoá gắn với tự phê bình và phê bình về tư tưởng, đạo đức,
lối sống, xây dựng và triển khai chương trình hành động thực hiện nghị quyết,
331
phấn đấu khắc phục một bước tình trạng 'học" xong nghị quyết đã coi như "triển
khai" xòng.
Các Hội Văn học nghệ thuật, các văn nghệ sĩ vui mừng đón nhận Nghị
quyết Trung ương 5, coi đây là những định hướng cơ bản để quán triệt trong nội
dung Đại hội sắp tới của mỗi Hội, củng cố và phát triển Hội với tính chất, vai trò
và nhiệm vụ của các Hội chính trị xã hội và nghề nghiệp dưới sự lãnh đạo của
Đảng như Nghị quyết Trung ương đã xác định.
Đồng thời với việc tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân những nội dung cơ
bản của nghị quyết, các hoạt động tư tưởng đã thường xuyên cổ vũ phong trào
thi đua yêu nước tiến tới Đại hội anh hùng chiến ~ĩ thi đua toàn quốc năm 2000;
giới thiệu nhiều điển hình tốt để mở rộng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hoá”; và đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan điểm sai trái
trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hoá. Đến nay, Ban chỉ đạo phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” đã được hình thành từ Trung
ương đến cơ sở. Cả nước đã có 5,2 triệu hộ được công nhận là “gia đình văn
hoá”, 28.578 thôn, ấp được công nhận là “làng văn hoá”. Trong các chương
trình tuyên truyền giáo dục và nhân những ngày lễ lớn (trong hai năm 1999 -
2000) chủ đề giáo dục về Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được tăng cường nhằm
phát huy truyền thống yêu nước của nhân dân ta, thực hiện tốt mọi nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
“Chuyển mạnh xuống cơ sở” là một trong những phương châm đổi mới
công tác tư tưởng, văn hoá. Chuyển mạnh xuống cơ sở không có nghĩa là chỉ
xem trọng các đảng bộ cơ sở ở nông thôn, xí nghiệp… mà xem nhẹ công tác tư
tưởng văn hoá ở các đảng bộ cơ sở trong các cơ quan của Trung ương, tỉnh,
huyện. Các cơ quan Trung ương là cấp giúp Đảng và Nhà nước xây dựng đường
lối, chủ trương, hoạch định chính sách vĩ mô và chỉ đạo hoạt động của các ban,
ngành, đoàn thể. Phạm vi tác động của nó liên quan đến cả nước, không chỉ bó
hẹp trong nội bộ các cơ quan Trung ương. Vì vậy làm tốt công tác tư tưởng văn
hoá, tác động tích cực đến cán bộ, đảng viên các đảng bộ cơ sở ở các cơ quan
Trung ương có ý nghĩa quan trọng góp phần bảo đảm việc thực hiện nhiệm vụ
332
chung của cả nước. Đội ngũ cán bộ các cơ quan Trung ương có đặc điểm: số
đảng viên chiếm tỷ lệ cao, đại bộ phận có trình độ chính trị, văn hoá đại học và
trên đại học, có điều kiện thường xuyên tiếp nhận nhiều nguồn thông tin, lực
lượng và phương tiện làm công tác tư tưởng văn hoá cũng thuận lợi hơn các nơi
khác. Tuy vậy, bên cạnh những cơ quan đảng ủy và thủ trưởng thường xuyên
lãnh đạo tiến hành tốt công tác tư tưởng văn hoá, ở một số cơ quan đồng chí thủ
trưởng chưa đích thân lãnh đạo công tác tư tưởng văn hoá, đảng ủy thì gần như
khoán trắng cho cán bộ tuyên huấn. Nhiều hoạt động còn mang tính hình thức.
Các nghị quyết của Đảng thường chỉ được phổ biến, truyền đạt, ít được tổ chức
nghiên cứu, thảo luận sâu sắc, v.v..
Được sự đồng ý của Bộ Chính trị, tháng 6- 1998, Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương đã mở hội nghị chuyên đề với các đảng ủy khối, ngành và đoàn thể
ở Trung ương, thống nhất nhận định tình hình và các biện pháp tăng cường lãnh
đạo đổi mới công tác tư tưởng văn hóa ở các cơ quan Trung ương, nâng cao chất
lượng quán triệt các nghị quyết của Đảng và thông tin thời sự chính sách, thực
hiện tốt quy chế học tập lý luận chính trị, phấn đấu xây dựng cơ quan đạt tiêu
chuẩn cơ quan văn hoá.
Trong kháng chiến trước đây, các hoạt động thông tin đối ngoại đã góp
phần nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, vạch mặt và cô lập kẻ
thù, xây dựng hậu phương quốc tế ủng hộ Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Từ ngày cả nước độc lập, thống nhất, xây dựng Tổ quốc trong hòa bình, nhất là
từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, công tác thông tin đối ngoại ngày
càng được mở rộng đã góp phần làm cho thế giới hiểu đúng hơn về Việt Nam,
về chính sách đối ngoại rộng mở của Đảng và Nhà nước ta, các quan hệ về nhiều
mặt giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng phát triển. Trên cơ sở
những thành quả bước đầu đó, tháng 6- 1992 Ban Bí thư Trung ương Đảng
(khóa VII) ra Chỉ thị số 11 - CT/TƯ Đổi mới và tăng cường công tác thông tin
đối ngoại.
Là cơ quan chủ trì phối hợp các hoạt động thông tin đối ngoại, tháng 6-
1998 Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương cùng với các cơ quan có liên quan
333
tổng kết việc thực hiện Chỉ thị số 11, kiến nghị với Bộ Chính trị các biện pháp
tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả thông tin đối ngoại.
Sau khi nghe báo cáo tổng kết và các kiến nghị, Thường vụ Bộ Chính trị
đánh giá: Công tác thông tin đối ngoại đã tiến hành có định hướng, tập trung
được vào những nhiệm vụ trọng tâm. Chất lượng và số lượng sản phẩm thông
tin đối ngoại ngày càng được tăng cường và đổi mới. Đã dành ngân sách thích
đáng đầu tư vào các sản phẩm thông tin đối ngoại, đổi mới hệ thống thông tin
viễn thông và kết nối Internet, tạo điều kiện cập nhật thông tin về Việt Nam đến
các vùng quan trọng trên thế giới.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, thông tin đối ngoại “chất
lượng, hiệu quả, tính thuyết phục, sức hấp dẫn, tính chiến đấu chưa cao”.
Thường vụ Bộ Chính trị yêu cầu các cơ quan có trách nhiệm tiếp tục thực hiện
tốt Chỉ thị số 11. Tăng cường đầu tư và nâng cao chất lượng hệ thống thông tấn,
báo chí, xuất bản quốc gia như Thông tấn xã Việt Nam, Đài Truyền hình Việt
Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, một số báo và nhà xuất bản lớn làm nòng cốt cho
thông tin đối ngoại. Có chủ trương, chính sách và biện pháp thích hợp nhằm
khuyến khích những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài tham gia làm
thông tin đối ngoại về Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ việc tổ chức lực lượng trong
nước với việc triển khai thông tin ở nước ngoài, v.v. . Thường vụ Bộ Chính trị
cũng định rõ hơn trách nhiệm của từng cơ quan có liên quan để bảo đảm làm tốt
việc định hướng chỉ đạo về nội dung và tổ chức phối hợp các lực lượng tổ chức
thực hiện thông tin đối ngoại.
Năm 1998, tình hình thế giới có một số diễn biến mới, phức tạp. Mỹ và
NATO lợi dụng những mâu thuẫn sắc tộc, với luận điệu “nhân quyền cao hơn
chủ quyền”, can thiệp vũ trang vào Nam Tư, tạo nên một tình thế đe doạ chủ
quyền của các dân tộc. Công tác tư tưởng đã căn cứ nhận định và chủ trương của
Đảng, làm rõ bản chất và âm mưu của chủ nghĩa đế quốc, lập trường và thái độ
của ta, nâng cao ý chí phấn đấu cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ dẫn đến suy thoái kinh tế ở nhiều nước
trong khu vực và trên thế giới tiếp diễn gay gắt. Tình hình đó cùng với những
334
yếu kém của ta chậm được khắc phục và hậu quả của thiên tai đã tác động tiêu
cực đến việc thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1998. Các chỉ tiêu của nền
kinh tế không tăng thuận chiều như những năm trước, chiều hướng chững lại và
giảm sút nhịp độ tăng trưởng xuất hiện từ cuối năm 1996 qua năm 1997 đến cuối
năm 1998 không những chưa chặn lại được mà còn giảm sút hơn. Có ý kiến
đánh giá tình hình đó gây cho ta những khó khăn lớn giống như năm 1990 -
1991 khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Một số ý kiến
cho rằng cuộc khủng hoảng kinh tế và cả chính trị ở một số nước trong khu vực
và trên thế giới sẽ còn tiếp diễn gay gắt, diễn biến của thiên tai cũng không thể
lường hết được, vì vậy trước mắt nên tập trung củng cố nền kinh tế, khi có điều
kiện sẽ tiếp tục phát triển.
Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (lần l), tháng
10- 1998 đã kịp thời phân tích kỹ tình hình, những thuận lợi và khó khăn, quyết
định phương hướng và mục tiêu tổng quát về kinh tế - xã hội năm 1999 và đến
năm 2000 là: “Tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước; nhất là công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn; thực hiện có
hiệu quả chương trình hành động theo Nghị quyết Trung ương 4; phát huy cao
nhất nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân vượt qua khó khăn, thách thức, giữ vững
ổn định kinh tế - xã hội, tập trung phát triển các ngành, các lĩnh vực, các sản
phẩm có lợi thế, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, tạo tiền đề
cho bước phát triển tiếp theo”[95]. Trong chỉ đạo, điều hành, Đảng và Nhà
nước đã có một số biện pháp kịp thời, đúng đắn nhằm tránh cho ta không bị
cuốn sâu vào cơn bão khủng hoảng của nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới.
Công tác tư tưởng đã làm rõ tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương
và các biện pháp xử lý đúng đắn của Đảng và Nhà nước, phân tích rõ trong bối
cảnh đầy khó khăn, thách thức của năm 1998 chúng ta đã phấn đấu đạt tốc độ
tăng trưởng 6%, ổn định được kinh tế, xã hội là thành tựu đáng mừng. Tuy vậy,
nhịp độ tăng trưởng kinh tế giảm 1/3 so với năm 1997, những yếu kém trong
kinh tế chưa khắc phục được bao nhiêu, đời sống nhân dân ở một số vùng còn
335
rất khó khăn, lĩnh vực văn hóa, xã hội còn nhiều vấn đề gay gắt. Song cần nhận
rõ đây là những khó khăn trên bước đường phát triển mà chúng ta có thể dần dần
khắc phục được. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh mặt tích cực
phải tính đến những tác động tiêu cực, những diễn biến phức tạp khó lường.
Nhân dân ta phải chuẩn bị sẵn sàng đương đầu với những khó khăn, thách thức
lớn hơn trong năm 1999 nhưng cũng không loại trừ khả năng xuất hiện những
yếu tố mới làm dịu khủng hoảng và suy thoái kinh tế ở khu vực và thế giới. Thời
điểm hiện nay không giống như năm 1990 - 1991, thế và lực của ta hiện nay
cũng khác nhiều so với thời kỳ đó. Dân tộc ta đã từng trải qua những thời kỳ thử
thách gay gắt, hiểm nghèo, nhưng mỗi lần thứ thách lại bừng lên sức sống mới
quyết tâm mới, giành thắng lợi mới. Phát huy truyền thống đó, dù trong hoàn
cảnh nào nhân dân ta cũng cần nắm vững và phát huy những thuận lợi lớn do
công cuộc đổi mới 12 năm qua đem lại để chủ động vượt lên, chặn đà suy giảm
nhịp độ tăng trưởng, nỗ lực phấn đấu cao nhất cho những mục tiêu kinh tế - xã
hội năm 1999 và đến năm 2000 theo phương hướng Nghị quyết Trung ương 4.
Đồng thời với việc quán triệt Nghị quyết Trung ương 6 (lần l), các hoạt
động tư tưởng đã tuyên truyền phổ biến trong toàn Đảng, toàn dân Nghị quyết
Bộ Chính trị về nông nghiệp và nông thôn, các chủ trương, chính sách đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và dân chủ hóa nông thôn, mà kết quả của nó là
cơ sở quan trọng để ổn định và phát triển kinh tế, xã hội cả trước mắt và lâu dài,
góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Trên cơ sở tuyên truyền phổ biến rộng rãi Nghị quyết Trung ương 6 (lần l)
và Nghị quyết Bộ Chính trị, các hoạt động tư tưởng đã phối hợp với các ngành,
các đoàn thể ở Trung ương và địa phương phát động phong trào quần chúng thi
đua yêu nước với chủ đề Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phát huy tinh thần
đoàn kết yêu nước, ý chí cách mạng tiến công, động viên mọi nguồn lực phấn
đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng năm
1999.
336
Tiếp tục cụ thể hóa và thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị Trung
ương 6 (lần 2) tháng 1- 1999 bàn về công tác xây dựng Đảng. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, phát huy
những thành tựu, khắc phục những khó khăn, yếu kém để không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấn của Đảng, bảo đảm thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ chính trị. Công tác xây dựng Đảng, với vị trí là nhiệm vụ then chốt, đã
được đề cập nhiều trong các Nghị quyết của Đảng trước đây và gần đây trong
Nghị quyết Đại hội VIII. Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) tập trung bàn và quyết
định những nhiệm vụ cơ bản, cấp bách trên một số vấn đề trọng yêu của công
tác xây dựng Đảng hiện nay.
Hội nghị khẳng định thành tựu to lớn, rất đáng tự hào của cách mạng nước
ta 70 năm qua và trong công cuộc đổi mới ngày nay dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, trước yều cầu mới ngày càng cao của sự
nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn. Việc thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà
nước chậm được củng cố và đổi mới.
Xuất phát từ tình hình đó, Hội nghị Trung ương lần này đặt trọng tâm vào
những vấn đề cơ bản và cấp bách hiện nay của công tác xây dựng Đảng về nhận
thứe, tư tưởng chính trị; đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên và một số vấn
đề về tổ chức
Về chính trị, tư tưởng, những nhiệm vụ chủ yếu là:
1. Tăng cường sự thống nhất trong Đảng về nhận thức, ý chí và hành động,
kiên trì đấu tranh đẩy lùi bốn nguy cơ, đảng viên phải nói và làm theo nghị
quyết, thực hiện đúng Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước, kiên
định những vấn đề về qnan điểm có tính nguyên tắc sau đây:
- Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của
Đảng ta, dân tộc ta.
337
- Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và
kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng Việt Nam;
không chấp nhận "đa nguyên, đa đảng".
Nhà nước Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân và vì dân, thể hiện khối
đoàn kết toàn dân trên nền tảng liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt
động của Đảng.
- Kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế trong sáng
của giai cấp công nhân…
2. Đẩy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận (trong nước
và thế giới), tiếp tục làm rõ hơn những vấn đề bức xúc do thực tiễn đặt ra, làm rõ
hơn mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chuẩn bị cho Đại
hội IX của Đảng…
3. Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng và trong xã hội về chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
4. Tăng cường giáo dục, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ,
đảng viên.
Trung ương Đảng ban hành quy định cụ thể về chế độ học tập lý luận chính
trị đối với cán bộ, đảng viên và về những việc đảng viên không được làm.
Cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu, thực hiện pháp lệnh của Nhà nước về
cán bộ, công chức, về chống tham nhũng, về thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, về luật khiếu nại, tố cáo, về quy chế dân chủ ở cơ sở và các quy định khác
của Đảng và Nhà nước.
Hội nghị Trung ương quyết định, tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình nhân kỷ niệm 30 năm thực hiện Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2-9-1969 - 2-9-1999) và kỷ niệm 70 năm ngày
thành lập Đảng (3-2-1930 - 3-2-2000). Cuộc vận động tiến hành từ ngày 19-5-
338
1999 đến ngày 19-5-2001, sau đó trở thành nền nếp thường xuyên xây dựng và
chỉnh đốn Đảng, thực hiện Di chúc của Bác, nhằm nâng cao đạo đức cách mạng,
chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ, đảng viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng.
Hội nghị Trung ương lần này đánh dấu bước đầu đổi mới cách ra nghị
quyết. Nghị quyết ngắn, gọn, rõ ràng, các cấp, các ngành có thể triển khai thực
hiện được ngay. Nghị quyết nhấn mạnh việc tổ chức chỉ đạo thực hiện, quyết
tâm của Trung ương là nói đi đôi với làm, đáp ứng lòng mong đợi của nhân dân.
Tinh thần đó được thể hiện ngay từ đầu, trong sự chỉ đạo của Bộ Chính trị về
triển khai thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Một tiểu ban và
bộ phận thường trực được thành lập để giúp Bộ Chính trị chỉ đạo, kiểm tra, tổ
chức thực hiện cuộc vận động. Trong các Hội nghị Trung ương 7 và 8, Bộ Chính
trị đều báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết và cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng để Trung ương cho ý kiến và tăng cường chỉ đạo.
Mở đầu cuộc vận động, Ban Tuyên giáo các cấp đã giúp cấp ủy tiến hành
đợt thông báo nhanh, tiếp đó là đợt nghiên cứu Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2),
đợt học tập Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân kỷ niệm 109 năm ngày sinh
của Người và đợt sinh hoạt chính trị về Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Báo Đảng và
toàn bộ hệ thống thông tin đại chúng tuyên truyền phổ biến những nội dung cơ
bản của nghị quyết Trung ựơng, tăng lượng thông tin về các hoạt động tiến hành
cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phản ánh sự đồng tình và mong đợi
của nhân dân, những ý kiến xây dựng của nhân dân hưởng ứng tham gia cuộc
vận động. Kết hợp với giáo dục về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, việc tổ chức học
tập bài báo Dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nghiên cứu bài viết của đồng
chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu Nhớ ngày 15-10 (ngày công bố bài báo của Bác)
góp phần nâng cao thêm nhận thức về vai trò công tác quần chúng của Đảng,
củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
Mở đầu cuộc vận động tự phê bình và phê bình, đồng chí Tổng Bí thư có
bài viết quan trọng chỉ đạo cụ thể việc chuẩn bị tự phê bình và phê bình của các
cấp ủy đảng, phổ biến rộng rãi trên báo, đài. Bộ Chính trị tự kiểm điểm trước, và
339
chỉ đạo việc kiểm điểm của các cấp ủy trực thuộc Trung ương hướng đúng vào
ba nội dung (tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tổ chức và chỉ đạo điều hành),
làm đúng quy trình, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, kiên quyết chống làm lướt,
mang tính hình thức. Kết quả sau gần một năm tiến hành cuộc vận động, các
đảng bộ đã có cố gắng, những vấn đề tồn tại từ nhiều năm trong nội bộ các cấp
ủy đã được bàn bạc và kết luận, nhiều đồng chí đã nhận rõ khuyết điểm, đoàn
kết nội bộ được củng cố, có chuyển biến tốt về ý thức trách nhiệm và tác phong
đi sát cơ sở, hiện tượng tham nhũng bị phê phán, một số vụ đã được đưa ra xem
xét và truy tố, củng cố lòng tin của nhân dân. Song kết quả cuộc vận động chưa
cao, một số vụ việc xử lý chưa nghiêm, một số đồng chí chưa thật thà tự phê
bình, việc sửa chữa khuyết điểm sau tự phê bình và phê bình chưa thật nghiêm
túc, cần được tiếp tục chỉ đạo tốt hơn.
Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng được tiến hành gắn với việc đẩy
mạnh thực hiện các nhiệm vụ năm 1999. Lũ lụt ở các tỉnh miền Trung diễn ra
liên tiếp, tàn phá nặng nề, gây thiệt hại lớn về người và của. Song nhờ sự lãnh
đạo, chỉ đạo nhanh nhạy, kịp thời, có hiệu quả của Đảng và Nhà nước từ Trung
ương đến địa phương, sự tận tụy hy sinh của cán bộ, đảng viên và lực lượng vũ
trang, cố gắng lớn của đồng bào vùng bị thiên tai và tình yêu thương đùm bọc
của nhân dân cả nước, đã hạn chế được một phần sự thiệt hại, dần dần ổn định
được tình hình, đoàn kết khôi phục sản xuất. Sự gắn bó giữa Đảng và nhân dân
tinh thần trách nhiệm cao của Đảng và Nhà nước trước đời sống của nhân dân,
truyền thống yêu nước thương nòi càng được thể hiện sâu sắc qua cơn thử thách
lớn lao này. Các hoạt động tuyên truyền đã góp phần thông tin nhanh chóng về
tình hình lũ lụt và chống lũ lụt, những gương hy sinh dũng cảm, những điển hình
“tình người cao hơn đỉnh lũ”, sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
v.v… được đồng bào cả nước khen ngợi, nhất là chương trình thời sự của Đài
Truyền hình Việt Nam trong những ngày sôi động đó.
Do sự lãnh đạo và chỉ đạo kịp thời của Đảng, Nhà nước và những cố gắng
vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân ta, đất nước đã không bị cuốn sâu vào cuộc
khủng hoảng ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, năm 1999 chúng ta
340
vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khoảng 4,8%, sản xuất nông nghiệp được
mùa tương đối toàn diện; sản xuất công nghiệp trong một số lĩnh vực đạt kết quả
khá; tốc độ tăng xuất khẩu vượt dự kiến; giảm được trên 40 vạn hộ đói nghèo;
tạo việc làm cho khoảng l,2 triệu lao động; hạ tốc độ tăng dân số xuống mức
l,58%; các hoạt động giáo dục, khoa học - công nghệ, văn hoá - thông tin, y tế,
thể thao đều có bước phát triển.
Sau một năm phấn đấu quyết liệt, tuy còn không ít tồn tại và khó khăn,
nhiệm vụ trước mắt còn rất nặng nề, nhưng kết quả bước đầu của cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kết quả ổn định tình hình, khắc phục hậu quả thiên
tai và kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2000 đã củng cố niềm tin,
làm tăng thêm những biểu hiện tích cực về tư tưởng và phong trào hành động
cách mạng của quần chúng, cổ vũ quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta bước
vào năm cuối cùng của thế kỷ XX, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
năm 2000 mà Hội nghị Trung ương 8 đã đề ra. Tết nguyên đán Canh Thìn diễn
ra trong không khí vui tươi, lành mạnh, mọi nhà đều có Tết. Toàn dân hướng về
Đảng thân yêu, thi đua lập thành tích, thiết thực mừng kỷ niệm lần thứ 70 ngày
sinh của Đảng (3-2- 1930 - 3-2-2000). Nhiều hoạt động phong phú, có tính quần
chúng diễn ra trong cả nước: liên hoan văn nghệ, sinh hoạt văn hoá, thể thao
mừng đất nước, mừng Đảng, mừng Xuân; các hoạt động “uống nước nhớ
nguồn", thăm hỏi chúc Tết các đồng chí lão thành cách mạng, các Bà mẹ Việt
Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng; thăm Bảo tàng cách mạng,
triển lãm 70 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng, thành tựu 70 năm đấu
tranh cách mạng của nhân dân ta dưới lá cờ vẻ vang của Đảng; tham gia các
cuộc thi tìm hiểu về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại, đất nước phồn vinh. Báo
Đảng và các báo khác mở các chuyên mục về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nêu
gương những đảng bộ lãnh đạo tốt, những đảng viên gương mẫu, trao đổi kinh
nghiệm tổ chức tốt tự phê bình vâ phê bình, mở diễn đàn của nhân dân nói về
“Đảng với Dân, Dân với Đảng” thể hiện tinh thần “Đảng tận tụy vì Dân, Dân tin
theo Đảng”. Nhiều nhà khoa học tham gia cuộc hội thảo khoa học 70 năm Đảng
Cộng sản Việt Nam - những giá trị lịch sử và thời đại. Hội Nhà báo và các Hội
341
Văn nghệ đều mở Đại hội toàn quốc, tạo điều kiện cho bước phát triển trong
những năm đầu của thế kỷ và thiên niên kỷ mới.
Lễ kỷ niệm trọng thể 70 năm ngày thành lập Đảng tổ chức tại Thủ đô Hà
Nội ngày 3-2-2000 có đông đủ đại biểu các thế hệ người Việt Nam yêu nước,
các thế hệ đảng viên đã chung sức chiến đấu gần 3/4 thế kỷ đến thế hệ trẻ đang
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Tại buổi lễ, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã đọc diễn văn quan trọng ôn lại
chặng đường thế kỷ mà dân tộc ta đã trải qua, những thành tựu to lớn của cách
mạng nước ta trong 70 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng chí Tổng Bí
thư chỉ rõ: “70 năm hoạt động của Đảng cũng là 70 năm xây dựng, chỉnh đốn
Đảng”[96], và rút ra bài học: “Xây dựng, chỉnh đốn Đảng là công cuộc có ý
nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng, sự tồn tại và phát triển của Đảng
ta, luôn luôn được xác định là cơ bản, thường xuyên, then chốt và cấp bách”[97]
“… Đảng ta cùng với nhân dân kiên định, vững tin con đường đã lựa chọn: Độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đề ra trong Cương lĩnh năm 1991. Sự kiên định
đó cũng là một trong những thành quả quan trọng nhất của công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng 70 năm qua; nó mang tính chất thời đại và là nguồn gốc vững
chắc cho những thắng lợi tiếp theo”[98].
Sau khi phân tích sâu sắc những đặc điểm hiện nay của tình hình thế giới và
trong nước, chỉ rõ phương hướng phấn đấu và những chủ trương, chính sách lớn
đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong tình hình mới mà toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân cần quán triệt và ra sức thực hiện, đồng chí Tổng Bí thư nói:
"Giai cấp công nhân và Tổ quốc Việt Nam đã sinh ra Đảng ta, nhân dân đã nuôi
nấng và bảo vệ Đảng trong những hoàn cảnh hiểm nghèo. Bao nhiêu lời nói biết
ơn đối với công sinh thành ấy cũng không đủ. Qua 70 năm chiến đấu, Đảng đã
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, song Đảng
cũng vấp phải sai lầm và khuyết điểm. Nhờ nhân dân và vì nhân dân, Đảng sửa
chữa được sai lầm và khuyết điểm. Đảng chân thành xin lỗi nhân dân. Nhưng
không có lời xin lỗi nào nghiêm túc hơn là nhận cho rõ những khuyết điểm,
trung thực tự phê bình, thẳng thắn phê bình và kiên quyết sửa chữa, trau dồi bản
342
chất cách mạng làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, mãi mãi xứng
đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân để làm tròn trách nhiệm trước dân
tộc trong thế kỷ tới.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng xin hứa với nhân dân và Tổ quốc như thế
và yêu cầu các đảng bộ, mọi đảng viên cũng đều như thế”[99]
Bài diễn văn của đồng chí Tổng Bí thư thể hiện mạnh mẽ và súc tích bản
lĩnh, khí phách của Đảng ta, dân tộc ta trong 70 năm lịch sử vẻ vang, nêu bật
tinh thần trách nhiệm cao của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp và
dân tộc, là lời thề sắt son của Đảng trước nhân dân và Tổ quốc trong thời kỳ
mới, được sự đồng tình rộng rãi và gây ấn tượng sâu sắc trong toàn Đảng và các
giới đồng bào. Đợt kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Đảng đạt kết quả về nâng
cao tư tưởng, đã góp phần cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh
phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn
Đảng và các nhiệm vụ năm 2000, lập thành tích chào mừng những ngày lễ lớn
trong năm và tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đưa cách
mạng nước ta vững bước vào thế kỷ XXI.
Năm 2000 là năm có ý nghĩa quyết định hoàn thành kế hoạch 5 năm 1996 -
2000 và chiến lược kinh tế, xã hội 10 năm 1991 - 2000, tạo đà phát triển cho
những năm đầu của thế kỷ XXI.
Công tác tư tưởng, văn hoá năm 2000 có vị trí cực kỳ quan trọng. Hội nghị
tư tưởng văn hoá toàn quốc từ 3 - 6-4-2000 đã đánh giá mặt tích cực của tình
hình tư tưởng vẫn là dòng chính và so với trước có những chuyển biến mới,
đồng thời nêu lên những nhân tố có thể gây mất ổn định còn tiềm ẩn không thể
xem thường trong bối cảnh tình hình trong nước và quốc tế còn diễn biến phức
tạp chưa thể lường hết.
Hội nghị xác định năm 2000 toàn bộ các hoạt động tư tưởng văn hoá phải
hướng vào phục vụ triển khai ba nhiệm vụ lớn và quyết định là: thực hiện nhiệm
vụ kinh tế, xã hội; xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tiến hành Đại hội Đảng các cấp,
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng. Trên cơ sở kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
343
Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng, phát huy mạnh mẽ dân chủ đi đôi
với giữ vững kỷ cương để hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ nêu trên.
Tại Hội nghị, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu có bài phát biểu quan trọng: Phát
huy sức mạnh tổng hợp của các binh chủng công tác tư tưởng văn hoá, hướng
mạnh về cơ sở, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ năm 2000 và những năm tiếp
theo. Đồng chí Tổng Bí thư đánh giá: Công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng
củng cố và tăng cưởng sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, trong nhân
dân, cổ vũ, động viên toàn xã hội tận dụng thời cơ, vượt khó khăn, thách thức,
giành được những thành tựu quan trọng triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm
1996 - 2000... Tôi hoan nghênh sự cố gắng của các cấp, các ngành, kể cả nhân
dân đã tích cực làm công tác tư tưởng, trong đó cơ quan chức năng làm công tác
tư tưởng văn hoá gồm các binh chủng hợp thành đóng vai trò chủ công. Đồng
chí nhấn mạnh một trong những nội dung hàng đầu của công tác tư tưởng là giáo
dục ý thức hệ, xây dựng lập trường kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ, củng cố mối quan hệ mật
thiết giữa Đảng và nhân dân, quán triệt nội dung xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, tổ chức thực hiện nghiêm túc quy chế dân chủ ở cơ sở, khắc phục
bệnh xa dân, quan liêu trong công tác tư tưởng; tăng cường thông tin, mở rộng
đối thoại, tổ chức mọi lực lượng tham gia vào công tác tư tưởng.
15 năm qua, trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, công tác
tư tưởng đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, phát huy thành tựu và khắc
phục những khuyết điểm yếu kém trước đây, có bước đổi mới rõ rệt và tương
đối toàn diện “về nội dung và hình thúẻ, tổ chức và phương pháp, con người và
phương tiện”, góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của sự nghiệp cách
mạng.
Thành quả của công cuộc dổi mới gắn liền với thành quả đổi mới tư duy lý
luận của Đảng. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn được tăng cường
đã góp phần thúc đẩy đổi mới tư duy, cụ thể hóa và phát triển đường lối, xây
dựng luận cứ khoa học cho những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước, hình
thành hệ thống các quan điểm đổi mới của Đảng trên từng lĩnh vực của đời sống
344
xã hội, làm rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giáo trình quốc gia về bộ môn khoa
học Mác - Lênin đã được xây dựng và sử dụng, góp phần đổi mới một bước
công tác giáo dục lý luận. Kết quả công tác nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí
Minh, tuy mới là bước đầu, ở giai đoạn khai phá, đã góp phần làm sáng rõ hơn
khái niệm về tư tưởng Hồ Chí Minh, nguồn gốc và quá trình hình thành, hệ
thống và những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh. Một số kết quả
nghiên cứu đã được sử dụng trong công tác tư tưởng - lý luận và chỉ đạo thực
tiễn của Đảng và Nhà nước.
Công cuộc đổi mới tiến hành trong bối cảnh trong nước và quốc tế diễn
biến cực kỳ phức tạp, các thế lực thù địch tăng cường chống phá chủ nghĩa xã
hội; trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên
ngoài, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta hằng ngày hằng giờ chịu sự tác động
của nhiều nhân tố rất phức tạp, sự phân hóa giàu nghèo làm cho xã hội không
còn thuần nhất như trước. Trước những thách thức đó, công tác tư tưởng đã bám
sát và đi đúng định hướng chính trị của Đảng, có những cố gắng lớn làm quán
triệt đường lối đổi mới, xây dựng và củng cố lập trường chính trị của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh và đường lối của Đảng.
Khuyết điểm lớn là công tác giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng trong tình
hình mới chưa được coi trọng đung mức, hiệu quả kém, chưa chặn lại và đẩy lui
được tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của một bộ
phận cán bộ, đảng viên. Tính chủ động, năng lực dự báo, tính chiến đấu và tính
hấp dẫn còn hạn chế. Chưa thật sự phát huy được mạnh mẽ lực lượng toàn
Đảng, lực lượng của toàn bộ các tổ chức trong hệ thống chính trị làm tốt công
tác tư tưởng văn hoá.
Phấn đấu vì sự nghiệp đổi mới của đất nước, các binh chủng trên mặt trận
tư tưởng đều có bước phát triển đáng mừng. Đội ngũ cán bộ công tác tư tưởng
đại bộ phận được đào tạo có hệ thống, trải qua công tác thực tiễn trong 15 năm
345
đổi mới, đã trưởng thành thêm một bước, là đội ngũ tin cậy của Đảng trên mặt
trận tư tưởng. Sự phát triển về tổ chức và lực lượng là một trong những nguồn
lực cơ bản bảo đảm cho những bước phát triển tiếp theo của công tác tư tưởng
trong giai đoạn mới. Tuy vậy, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách
mạng, công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ - nhất là cán bộ tuyên huấn các cấp,
vẫn đang là đòi hỏi lớn và cấp bách để chủ động khắc phục tình trạng hẫng hụt
cả về số lượng và chất lượng.
Để nâng cao chất lượng toàn diện của công tác tư tưởng, đi đôi với tiếp tục
đổi mới về nội dung, toàn ngành đang phấn đấu chuyển mạnh xuống cơ sở, bám
sát thực tiễn, tham gia tổng kết và nhàn rộng các điển hình tiên tiến, mở rộng
dân chủ, tăng cường đối thoại. Thực hiện được như vạy thì công tác tư tưởng
mới thật sự gắn với cuộc sống và đi vào lòng người, mới phát huy được tính chủ
động góp phần giải quyết những vấn đề cuộc sống đang đặt ra, thúc đẩy phong
trào thi đua hành động cách mạng của quần chúng, nâng cao hiệu quả xã hội của
công tác tư tưởng.
Cũng như trên các lĩnh vực khác, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết
định hiệu quả của công tác tư tưởng. Đảng ta luôn coi trọng vị trí hàng đầu của
công tác tư tưởng. Trong những năm đổi mới, công tác xây dựng Đảng và hoạt
động lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng đã có bước đổi mới
quan trọng. Nhìn một cách tổng quát, những thành tựu nổi bật là:
"- Đảng đã đề ra và từng bước bổ sung, hoàn thiện dẫn đường lối đổi mới
một cách đúng đắn, sáng tạo, hình thành ngày càng rõ hơn con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.
- Khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Ở những bước ngoặt của
cách mạng, trước những diễn biến phức tạp của tình hình, Đảng kịp thời có định
hướng tư tưởng chính trị đúng đắn, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, chống
những luận điệu thù địch, tạo cơ sở cho sự thống nhất tư tưởng trong toàn Đảng
và trong nhân dân" [100]
346
Lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa không chỉ dừng lại ở chỗ
vạch ra những định hướng lớn, những nhiệm vụ cơ bản có ý nghĩa chiến lược,
mà còn bám sát thực tiễn chỉ đạo cụ thể trên từng lĩnh vực: nghiên cứu lý luận,
giáo dục chính trị, thông tin cổ động, báo chí - xuất bản, tuyên truyền miệng,
văn hoá vàn nghệ, thông tin đối ngoại, đấu tranh tư tưởng - lý luận,... chỉ rõ
những mặt tốt cần phát huy, những yếu kém cần khắc phục, uốn nắn những lệch
lạc, để không ngừng đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện của công tác tư
tưởng. Ngoài lãnh đạo chung của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban
Bí thư, đích thân các đồng chí tổng Bí thư trong ba nhiệm kỳ Đại hội từ ngày đổi
mới, đã nhiều lần trực tiếp gặp gỡ các cán bộ lãnh đạo công tác tư tưởng ở
Trung ương và các địa phương trong cả nước, cho ý kiến chỉ đạo; các cuộc gặp
thân mật của Tổng Bí thư với các cán bộ nghiên cứu và giảng dạy lý luận, các
văn nghệ sĩ và những người làm báo, gây ấn tượng sâu sắc về sự quan tâm lãnh
đạo của Đảng, nâng cao ý thức trách nhiệm của đội ngũ cán bộ công tác tư
tưởng văn hóa trước sự tin cậy và lòng mong đợi của Đảng, của nhân dân.
Quản lý của Nhà nước đối với báo chí, xuất bản, văn nghệ và các hoạt động
khác trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa đã bước đầu khắc phục được một số mặt lới
lỏng, tích cực xây dựng và hoàn chỉnh một bước thể chế văn hóa, bổ sung Luật
Báo chí, xuất bản, ban hành một số chế độ, chính sách phù hợp với tinh hình
mới. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp đã cố gắng tăng cường đầu tư cho
phát triển sự nghiệp thông tin văn hóa, nhất là phát triển và hiện đại hóa một
bước hệ thống thông tin quốc gia làm cho hoạt động thông tin của ta ngày càng
mở rộng hơn, nhanh hơn đến các vùng trong nước và các khu vực quan trọng
trên thế giới.
Những đổi mới nói trên trong lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
đã tạo điều kiện thuận lợi cho bước đổi mới quan trọng của công tác tư tưởng
văn hoá 15 năm qua vì sự nghiệp đổi mới của đất nước.
Từ thực tiễn công tác tư tưởng trong 15 năm đổi mới, có thể bước đầu tổng
kết, rút ra những bài học bổ ích về đổi mới công tác tư tưởng trong một bối cảnh
đầy biến động và trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần,
347
mở cửa với bên ngoài, để phát huy trong giai đoạn mới, phục vụ nhiệm vụ trọng
tâm công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
348
CHƯƠNG V
MỘT SỐ KINH NGHIỆM
70 năm qua kể từ ngày thành lập, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân liên tục đấu
tranh vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng rất coi trọng công tác tư tưởng. Công tác tư tưởng của Đảng đã
góp phần quan trọng vào thắng lợi vẻ vang của Đảng và nhân dân ta trong 70
năm qua. Những bài học phong phú của công tác tư tưởng của Đảng 70 năm qua
cần được tổng kết sâu sắc để góp phần xây dựng lý luận về công tác tư tưởng và
để vận dụng và phát huy trong những năm bước sang thế kỷ mới - thế kỷ XXI.
Thực hiện nhiệm vụ lịch sử bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, xây dựng, củng cố và hoàn thiện chủ nghĩa xã hội. Đây là một việc lớn, đòi
hỏi nghiên cứu công phu, gắn liền với tổng kết xây dựng và tổ chức thực hiện
đường lối của Đảng trong mỗi thời kỳ cách mạng. Trong phạm vi cuốn Sơ thảo
lược sử này, chỉ sơ bộ nêu lên một số kinh nghiệm sau đây để cùng thảo luận:
l. Công tác tư tưởng trước hết phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, xuất phát từ thực tiễn để vận dụng sáng tạo, phục
vụ cho việc xây dựng dường lối chính trị, đưa đường lối ấy vào cuộc sống,
thực hiện nhiệm vụ chính trị trong mỗi thời kỳ cách mạng
Đảng ta là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự ra đời của Đảng tạo nên bước ngoặt của
cách mạng Việt Nam, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng con đường cứu nước của
dân tộc ta. Trong quá trình cách mạng lâu dài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin làm cốt lõi, tiếp thu những tinh hoa truyển thống dân tộc và
tư tưởng của nhân loại, vận dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, hình thành
nên một hệ thống tư tưởng lý luận và quan điểm chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Đó là tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều vấn đề về cách mạng ở các nước
thuộc địa, về chủ nghĩa dân tộc trên lập trường giai cấp công nhân, về mục tiêu,
chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng, đường lối kháng chiến kiến
quốc, xây dựng chế độ mới, xây dựng Đảng, Nhà nước, Mặt trận, đạo đức, tác
phong cách mạng, v.v.. Đó là thành quả lý luận của Đảng ta, là tài sản tinh thần
349
quí báu của dân tộc. Đó cũng là đóng góp của Đảng ta vào sự phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin và phong trào cách mạng thế giới.
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng
ta đã xây dựng đường lối chính trị của mình qua các thời kỳ cách mạng. Đảng đã
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiến hành việc truyền bá
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,phát huy lòng yêu nước và ý thức
xã hội chủ nghĩa, tuyên truyền đường lối, chủ trương cho cán bộ đảng viên, quần
chúng, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị từng thời gian. Trong quá
trình đưa đường lối vào cuộc sống, Đảng đã thông qua công tác thực tiễn, lắng
nghe ý kiến nhân dân để tổng kết kinh nghiệm, bổ sung và hoàn thiện đường lối,
chủ trương làm cho nó ngày càng đúng đắn và sát hợp hơn với cách mạng nước
ta.
Ngay từ khi Đảng ta ra đời, công tác tư tưởng đã được đặt lên vị trí hàng
đầu nhằm giác ngộ quần chúng về chủ nghĩa cộng sản, về Cương lĩnh cứu nước
của Đảng, phát triển phong trào công nhân thành một lực lượng chính trị đọc
lập, nâng cao chất lượng phong trào yêu nước theo lập trường của giai cấp công
nhân. Công tác tuyên truyền cổ động đã thường xuyên vạch tội ác và các thủ
đoạn áp bức bóc lột của địch, giải thích về con đường cứu nước, cứu dân gắn với
cuộc đấu tranh của quần chúng giành quyền dân sinh, dân chủ. Sau thất bại của
phong trào năm 1930 - 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh, ngay ở trong tù, trong hoàn
cảnh cực kỳ khó khăn, các cán bộ đảng viên đã tổ chức việc học tập lý luận
chính trị, vận dụng những điều đã học để tổng kết kinh nghiệm hoạt động, giữ
vững tinh thần kiên cường đấu tranh để bảo vệ tổ chức, giảm nhẹ chế độ hà khắc
của nhà tù. Truyền thống này đã được các thế hệ cán bộ và chiến sĩ cách mạng
bị giam trong các nhà tù của đế quốc tiếp nối liên tục cho tới khi giải phóng đất
nước.
Trải qua các thời kỳ phát triển, từ Mặt trận dân chủ đến Mặt trận Việt Minh,
và cao trào giải phóng dân tộc, hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
chống đế quốc Mỹ xâm lược, công tác tư tưởng đã gắn với thực tiễn làm cho cán
bộ đảng viên, nhân dân thấu suốt đường lối, nâng cao ý chí quyết tâm hoàn
350
thành nhiệm vụ cách mạng. Thông qua việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn,
nhiều thành quả lý luận đã được thể hiện trong các Nghị quyết Trung ương,
trong các tác phẩm, bài phát biểu hay bài báo quan trọng của các đồng chí lãnh
đạo. Đó là những căn cứ lý luận để xây dựng, bổ sung và hoàn thiện đường lối
chính sách.
Nhờ vậy Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta trải qua muôn vàn thử thảch, giành
được những thắng lợi lịch sử: đánh thắng hai đế quốc lớn Pháp, Mỹ, giành độc
lập tự do, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những vấp váp, sai lầm của Đảng ta trong các thời kỳ như trong cải cách
ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, trong xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa sau
khi lập lại hoà bình đều là do khuyết điểm máy móc, giáo điều, dập khuôn cách
làm của nước ngoài, lạc hậu về lý luận, không xuất phát từ thực tế Việt Nam và
thiếu lắng nghe ý kiến nhân dân, tổng kết kinh nghiệm của mình.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo vào điều kiện mới nên đã thu được
nhiều thắng lợi quan trọng. Chúng ta đã dũng cảm phê bình, tự phê bình, phát
huy tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới tư duy để nhận thức đúng đắn hơn về chủ
nghĩa xã hội, tổng kết những tìm tòi, sáng tạo của cán bộ đảng viên, nhân dân,
tìm ra con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
Trong tình hình thoái trào của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, chúng ta đã
giữ vững được bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, tăng
cường được mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vượt qua được khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ
vững an ninh, quốc phòng, đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay công cuộc đổi mới đang diễn ra trong bối cảnh quốc tế phức tạp,
chúng ta đang đứng trước thời cơ lớn và thử thách lớn đan xen nhau trong một
xã hội có nền kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên ngoài, vận động theo cơ
chế thị trường, theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Đây là con đường chưa có tiền lệ trong lịch sử, đòi hỏi phải tìm tòi, khám phá.
Các thế lực thù địch lại đang thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình. Tình hình đó
351
đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, tăng cường công tác lý luận gắn với thực tiễn, tiếp thu những kiến
thức mới của nhân loại để bổ sung, phát triển nó, hoàn thiện nhận thức của
chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Như vậy công tác tư tưởng cần:
- Bám sát cơ sở, bám sát thực tiễn, chống quan liêu hoá, hành chính hoá,
hình thức phô trương, từ đó xem xét khách quan hiệu quả của công tác tư tưởng,
tác động của các chủ trương, chính sách với các mặt của đời sống xã hội.
- Tin tưởng ở nhân dân, tìm hiểu nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng tư tưởng,
tình cảm của họ, lắng nghe những ý kiến đúng đắn, tập hợp được những kinh
nghiệm, sáng kiến của nhân dân trong việc thực hiện chủ trương, chính sách.
- Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ trong giảng dạy và học tập lý luận, có
phương pháp nghiên cứu biện chứng, tổng kết kinh nghiệm công tác thực tiễn,
phát huy trí tuệ tập thể, tiếp thu những ý kiến đúng đắn để phát triển lý luận, tìm
ra những giải pháp thích hợp để tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách.
Chỉ có như vậy chúng ta mới nâng cao được chất lượng, hiệu quả của công
tác tư tưởng, trả lời đúng, có sức thuyết phục các vấn đề mới do cuộc sống đặt
ra, không chỉ giải thích đường lối, chính sách, mà phát hiện, tham gia giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong quá trình cách mạng. Chỉ có như vậy công tác tư
tưởng mới góp phần giữ vững bản chất công nhân và tính tiên phong của Đảng,
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội thành
công ở nước ta.
2. Công tác tư tưởng phải gắn liền với công tác tổ chức, với phong trào
cách mạng của quần chúng, nói đi đôi với làm
Công tác tư tưởng là tiến hành việc nghiên cứu lý luận, tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước, giáo dục phẩm chất cách mạng cho cán bộ và quần chúng,
làm cho họ có nhận thức đúng, biến nó thành niềm tin và thành tư tưởng chỉ đạo
hành động. Vì vậy, công tác tư tưởng nâng cao tính tự giác, chỉ đạo hành động
của họ trong đấu tranh cách mạng. Nhưng nếu chỉ có công tác tư tưởng thì tư
352
tưởng chưa thể biến thành hành động. Phải có công tác tổ chức thích hợp với
những hình thức tổ chức, kế hoạch, biện pháp đúng, lôi cuốn đượ[ đông đảo
quần chúng hành động.
Xét trong một phạm vi lớn như ở một thời kỳ cách mạng, sau khi có đường
lối chính trị, có phương hướng công tác tư tưởng thì phải có phương hướng, kế
hoạch công tác tổ chức để bảo đảm thực hiện. Như trong thời kỳ Mặt trận dân
chủ 1930 - 1939: trong khi tuyên truyền cho đường lối chống chế độ phản động
thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi dân chủ, hoà bình, Đảng ta đã
chuyển hướng công tác tổ chức, phân công các bộ phận đảng viên hoạt động hợp
pháp, nửa hợp pháp và bộ phận bí mật, lập Mặt trận dân chủ, phát triển và đổi
tên các đoàn thể như Đoàn thanh niên Cộng sản thành Đoàn thanh niên dân chủ,
Công hội đỏ thành Công hội, Nông hội đỏ thành Nông hội, lập ra các tổ chức
hợp pháp rộng rãi như Hội ái hữu, Hội Thể thao.. . , sử dụng các hình thức hợp
pháp, nửa hợp pháp. tổ chức các cuộc đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, kết hợp
chặt chẽ các khẩu hiệu chính trị với khẩu hiệu kinh tế. Nhờ đó, đã tạo ra cao trào
quần chúng giành nhiều thắng lợi.
Để công tác tư tưởng gắn liền với công tác tổ chức thì công tác tuyên truyền
cũng cần gắn chặt với công tác cổ động, khi cần thiết phải có những khẩu hiệu
sát hợp hướng dẫn tư tưởng và hành động của quần chúng. Sau cuộc đảo chính
Nhật Pháp ngày 9-3-1945, để phát động cao trào kháng Nhật cứu nước, làm tiền
đề cho Tổng khởi nghĩa, Đảng đã sử dụng những hình thức tuyên truyền mạnh
bạo hơn như tuyên truyền xung phong có vũ trang, hình thức đấu tranh cao hơn
như bãi công chính trị, biểu tình tuần hành vũ trang. Đảng đã thay đổi khẩu hiệu
"đánh đuổi phát xít Nhật - Pháp" bằng khẩu hiệu "đánh đuổi phát xít Nhật".
Trước tình hình địch vơ vét thóc, gạo, phá lúa trồng đay gây ra nạn đói, Đảng
đưa ra khẩu hiệu "phá kho thóc: giải quyết nạn đói" đáp ứng đúng nguyện vọng
cấp bách của quần chúng, phát động được đông đảo quần chúng vùng dậy với
khí thế hừng hực tham gia khởi nghĩa.
Xét trong phạm vi hẹp hơn, đối với một cuộc vận động phong trào quần
chúng về một mặt công tác như sản xuất, thủy lợi, xoá nạn mù chữ, xoá đói giảm
353
nghèo, cũng phải có mục tiêu cụ thể, thiết thực, kế hoạch rõ ràng, có điều kiện
vật chất, cơ chế chính sách, cán bộ để thực hiện. Công tác tư tưởng phải gắn liền
với các khâu thực hiện, nói đi đôi với làm. Phải kịp thời nàm được diễn biến tư
tưởng của quần chúng để có biện pháp xử lý đúng, giúp cho phong trào hành
động có hiệu quả.
Một vấn đề rất quan trọng trong việc gắn liền công tác tư tưởng với công
tác tổ chức, với phong trào quần chúng là thái độ gương mẫu của cán bộ) đảng
viên, nhất là cán bộ lãnh đạo từ Trung ương tới cơ sở.
Cán bộ, đảng viên phải thông suốt chủ trương, có lòng tin mạnh mẽ, gương
mẫu trong hành động, dẫn đầu phong trào quần chúng. Nhân dân ta đã khái quát
việc này là "đảng viên đi trước, làng nước theo sau". Đảng viên đi trước không
phải là đơn độc một mình mà phải lôi cuốn được quần chúng.
Một đơn vị vũ trang muốn có phong trào thi đua chiến đấu cao thì các đảng
viên phải là các chiến sĩ sẵn sàng xả thân vì nước, dũng cảm, mưu trí, có kỹ
thuật chiến đấu giỏi. Muốn có phong trào tòng quân thì các đảng viên trẻ, con
em cán bộ đảng viên phải xung phong trước. Muốn có phong trào đấu tranh của
nhân dân vùng sau lưng địch thì cán bộ, đảng viên phải chịu đựng hy sinh gian
khổ, bám đất, bám dân, biết chỉ đạo đấu tranh, không nằm im, chạy dài. Muốn
có phong trào sản xuất thì cán bộ đảng viên phải là những người lao động gương
mẫu, có năng suất, chất lượng cao. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương cho
toàn Đảng về mặt này trong suốt cả cuộc đời mình. Một việc làm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh có ý nghĩa lớn là khi kêu gọi phong trào cứu đói năm 1945 - 1946,
Người đã thực hiện nghiêm chỉnh việc mười ngày nhịn ăn một bữa để lấy gạo
cứu đói. Chình vì vậy, nhân dân càng thấy rõ Chủ tịch Hồ Chí Minh là người
cách mạng chân chính, chế độ mới thực sự là của nhân dân, do dân, vì dân, mọi
người sẵn sàng tin theo đường lối kháng chiến, kiến quốc và hưởng ứng mọi
phong trào cách mạng lúc ấy.
Tổ chức và hoạt động thực tiễn cũng là cơ sở vật chất cho sự tồn tại của tư
tưởng. Nếu cán bộ, đảng viên, nhân dân được sinh hoạt trong một tổ chức trong
354
sạch, vững mạnh, hoạt động trong một phong trào sôi nổi thì tư tưởng tiên tiến
ngày càng nảy nở, phát triển, tư tưởng lạc hậu bị đẩy lùi.
Một đảng tiên phong thì tuyệt đại bộ phận đảng viên phải giữ được vai trò
tiên phong. Công tác tư tưởng gắn với công tác tổ chức, với phong trào hành
động cách mạng mới rèn luyện được một đội ngũ đảng viên như vậy. Cũng chỉ
như vậy công tác tư tưởng mới nâng cao được hiệu quả xây dựng tư tưởng, tình
cảm, lối sống, nhân cách con người mới Việt Nam.
3. Định hướng tư tưởng đúng và kịp thời, nhất là khi có tình hình biến
động phức tạp và trong các bước ngoặt của cách mạng
Cách mạng là cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại các thế lực thù địch, cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Nó không thể diễn ra bình lặng trên con
đường thẳng tắp mà quanh co, khúc khuỷu, có những biến động phức tạp, có
những bước ngoặt kèm theo những tác động về tư tưởng ảnh hưởng đến hành
động của mọi người. Công tác tư tưởng cần bám sát thực tiễn, kịp thời nắm bắt
diễn biến tư tưởng, dự báo chiều hướng phát triển để định hướng tư tưởng đúng
và kịp thời.
Định hướng đúng và kịp thời thì thống nhất được tư tưởng và hành động,
phát huy được các nhân tố tích cục, hạn chế tiêu cực, làm cho cách mạng phát
triển thuận lợi. Trong lịch sử, đã có nhiều thời kỳ tình hình thế giới và trong
nước có những biến động phức tạp, cách mạng có nhung bước ngoặt, Đảng ta đã
có những định hướng đúng và kịp thời. Có thể nêu một số trường hợp sau đây:
Sau cao trào cách mạng 1930 - 193l và Xôviết Nghệ Tĩnh, địch tăng cường
đàn áp trắng trợn, hầu hết cán bộ lãnh đạo bị bắt, một số bị giết, cơ sở đảng và
đoàn thể phần lớn tan vỡ. Đảng đã kịp thời công bố bản chương trình hành động
phân tích tình hình, biểu dương những thành tích đã đạt được trong hai năm cao
trào cách mạng, biểu dương tinh thần đấu tranh bất khuất của các chiến sĩ cách
mạng, khẳng định đường lối cách mạng dân tộc dân chủ là đúng đắn, những mâu
thuẫn dẫn đến cách mạng vẫn chưa được giải quyết, sự đàn áp của địch không
thể dập tắt được phong trào cách mạng. Bản chương trình hành động cũng phê
phán chủ nghĩa cải lương tư sản phản động, vạch ra phương hướng khôi phục
355
phong trào và phát động đấu tranh trong tình hình mới. Bản chương trình đã
củng cố lòng tin của đảng viên và quần chúng vào tiền đồ cách mạng, chỉ cho họ
phương hướng hành động và đẩy lùi tư tưởng bi quan, dao động, tạo điều kiện
cho việc khôi phục nhanh chóng hệ thống tổ chức và phong trào quần chúng.
- Khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ đầu tháng 9-1939, Đảng đã thấy
được chiến tranh sắp nổ ra, đã chuẩn bị tư tưởng cho đảng viên rút vào hoạt
động bí mật. Khi chiến tranh tới, Trung ương Đảng đã kịp thời ra bản "Thông
cáo cho các cấp đảng bộ" nêu rõ hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn
đề giải phóng dân tộc, chỉ cho các cấp chuyển hướng các mặt công tác. Trung
ương cũng xuất bản tài liệu giải thích về việc Liên Xô ký Hiệp ước Xô - Đức để
lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ đế quốc, tranh thủ thời gian tăng cường lực
lượng quốc phòng, phá âm mưu của đế quốc Anh - Mỹ thúc đẩy phát xít Đức tấn
công Liên Xô. Tiếp đó, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu tháng 11-1939 đã nhận
định "Chiến tranh sẽ gây tai hoạ cho phần lớn nhân loại, nhưng tiền đồ cách
mạng sẽ rất sáng sủa", "một thế giới quang vinh rực rỡ sẽ thay thế cho cái thế
giới tối tăm mục nát này" và dự đoán Nhật sẽ xâm chiếm Đông Dương. Hội nghị
xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Đông Dương là đánh đổ
đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương, làm cho Đông Dương
hoàn toàn độc lập. Các văn kiện trên đã có ý nghĩa quan trọng định hướng tư
tưởng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng, mở đầu việc phát động cao trào giải
phóng dân tộc.
- Tháng 3- 1945, sau cuộc đảo chính Nhật lật Pháp, căn cứ vào Nghị quyết
Hội nghị của Ban Thường vụ Trung ương, chỉ thị "Nhật Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta" đã phân tích tình hình, vạch ra phương hướng hành động để
gấp rút chuẩn bị tiến tới tổng khởi nghĩa. Bản chỉ thị dự kiến các thời cơ cụ thể
để phát động tổng khởi nghĩa, vạch ra các chủ trương chuyển hướng các mặt
công tác trong thời kỳ tiền khởi nghĩa: vũ trang tuyên truyền, phá kho thóc, giải
quyết nạn đói, thành lập căn cứ địa mới, lập Uỷ ban nhân dân cách mạng, v.v. .
Chỉ thị đã định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, soi sáng mục tiêu, nội dung và
356
phương pháp đấu tranh, tạo điều kiện cho cuộc tổng khởi nghĩa về sau phát triển
thuận lợi.
- Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, nêu rõ 6 nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi mới. Kết luận số 20
của Bộ Chính trị (11-1988) và các Nghị quyết 6, 7, 8 của Trung ương (khoá VI)
đã giữ vững sự thống nhất về chính trị tư tưởng, phát huy tinh thần độc lập tự
chủ, cụ thể hoá thêm đường lối đổi mới, bác bỏ quan điểm muốn dập khuôn cải
tổ, cải cách của nước ngoài, đòi "đa nguyên, đa đảng". Nhờ đó, cách mạng nước
ta đã đứng vững trong cơn chấn động chính trị lớn trên thế giới và tiếp tục phát
triển thắng lợi.
Việc định hướng tư tưởng đúng và kịp thời không những quan trọng đói với
các vấn đề chiến lược hoặc những biến động chính trị lớn mà còn cần thiết cả
đối với các vấn đề thời sự quan trọng, những vấn đề mới nảy sinh trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội, đối với những thủ đoạn lừa bịp, phá hoại của kẻ thù,
việc chỉ đạo tư tưởng cần đi sát cuộc sống, có định hướng đúng, nhất là đối với
báo chí, văn nghệ là những công cụ quan trọng, nhạy cảm, hàng ngày tác động
đến đông đảo quần chúng.
4. Giữ vững và phát huy thế chủ động, tiến công trên mặt trận tư
tưởng, kết hợp chặt chẽ "xây" và "chống', biểu dương và phê bình, lấy
"xây" là chính
Thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh
cách mạng lâu dài, gian khổ. Mỗi bước tiến lên của cách mạng đều có sự đấu
tranh giữa tiến bộ và phản động, giữa tiên tiến và lạc hậu. Trên mặt trận tư
tưởng, hàng ngày phải hướng dẫn tư tưởng, hành động của nhân dân, đấu tranh
chống lại các thủ đoạn xảo quyệt và các luận điệu thù địch, những tư tưởng,
quan điểm sai trái. Do đó công tác tư tưởng phải giữ vững và phát huy thế chủ
động, không thể thụ động, né tránh, bỏ trống trận địa tư tưởng. Muốn vậy phải
bám sát thực tiễn, có sự phân tích lý luận, chính trị đúng, dự kiến được sự phát
triển của tình hình chính trị, tư tưởng từng thời gian, đề ra phương hướng công
tác tư tưởng đúng đắn, chủ động đấu tranh không khoan nhượng với những luận
357
điệu thù địch. Nâng cao tính thuyết phục, mở rộng đối thoại trong đấu tranh tư
tưởng đối với những người có quan điểm sai trái. Đó cũng là tính khoa học và
tính chiến đấu của công tác tư tưởng.
Trong cao trào giải phóng dân tộc, Đảng đã dự đoán trước được Nhật sẽ
xâm lược Đông Dương, sớm muộn Nhật sẽ hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông
Dương. Vì vậy, Đảng đã sớm tố cáo tội ác và các thủ đoạn lừa bịp của bọn phát
xít Nhật và tay sai, phê phán tư tưởng phục Nhật, sợ Nhật, muốn lợi dụng Nhật
để giành độc lập. Đảng đã dự kiến các thời cơ khởi nghĩa, chuẩn bị tư tưởng cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm thời cơ nổi dậy, chống các khuynh hướng rụt
rè, do dự hoặc phiêu lưu, nóng vội, manh động.
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản tuyên
ngôn độc lập tuyên bố với thế giới "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và
độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam
quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền
tự do, đọc lập ấy"[101].
Bản tuyên ngôn có ý nghĩa lịch sử về nhiều mặt. Nó đã nêu cao chính nghĩa
của nhân dân ta, chủ động tiến công vào những mưu mô xâm lược của bọn đế
quốc và phản động Tưởng Giới Thạch. Nó cũng chuẩn bị tư tưởng cho nhân dân
ta tiến vào một thời kỳ mới, đấu tranh để bảo vệ chính quyền cách mạng, tiến
hành kháng chiến để bảo vệ quyền tự do, độc lập.
Trong hai cuộc chiến tranh chống đế quốc Pháp và Mỹ, Đảng ta đã nhận
định đúng và kịp thời các âm mưu, kế hoạch, thủ đoạn chiến tranh của địch nên
đã chủ động tiến công trên tất cả các mặt tư tưởng, chính trị, quân sự, ngoại
giao, phát huy nghị lực chiến đấu phi thường và trí tuệ sáng tạo của nhân dân ta
để giành toàn thắng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Trong thời kỳ đổi mới, ngay từ đầu Đảng ta đã chủ động xác định phương
hướng công tác tư tưởng đúng đắn: đổi mới tư duy, phát huy tinh thần độc lập tự
chủ, tìm tòi đổi mới tích cực: nhưng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, không dao động m ất phương hướng, không giáo điều, sao chép,
dập khuôn, sửa sai nhưng không phủ nhận thành tựu của cách mạng và kinh
358
nghiệm đúng của quá khứ. Công tác tư tưởng đã chủ động góp phần tìm tòi phát
hiện những sáng tạo của cán bộ, đảng viên, nhân dân ở địa phương và cơ sở, góp
phần vào việc tổng kết kinh nghiệm để hình thành và phát triển đường lối đổi
mới. Đồng thời đã thường xuyên đấu tranh chống lại những luận điệu thù địch
nhằm "chuyển hoá hoà bình", chống lại những quan điểm lệch lạc ca ngợi một
chiều chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội dân chủ, phủ nhận chủ nghĩa Mác -
Lênin và những thành tựu của cách mạng, dao động, mất lòng tin vào chủ nghĩa
xã hội, đòi tự do tư sản, đa nguyên, đa đảng.
Tính chủ động của công tác tư tưởng còn thể hiện ở chỗ cổ vũ biểu dương
những điển hình tốt, những hiện tượng tích cực trong cuộc sống, đi đôi với phê
phán những điển hình xấu, những hiện tượng tiêu cực, kết hợp "xây" và
"chống", bồi dưỡng tư tưởng tình cảm cách mạng với việc phê phán những biểu
hiện tư tưởng lạc hậu, phi vô sản, biểu dương ưu điểm đi đôi với phê bình
khuyết điểm. Chúng ta lấy "xây" là chính, vì đó là cách "chống" chủ động để
ngăn ngừa cái xấu. Nhưng "xây" phải đi liền với chống thì mới "xây" được vững
chắc.
Trong quá trình giáo dục đối với một con người, một tập thể cần khơi gợi,
phát huy những mặt tốt của họ để khắc phục những mặt yêu kém, phát huy ưu
điểm để sửa chữa khuyết điểm. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch
Hồ Chí Minh là người đã khởi xướng phong trào thi đua yêu nước nhằm phát
huy truyền thống yêu nước của dân tộc để đẩy mạnh công cuộc kháng chiến kiến
quốc. Đã có nhiều đơn vị tiêu biểu, đơn vị anh hùng, chiến sĩ anh hùng trong
nhân dân cùng với hàng chục triệu người bình thường thuộc mọi tầng lớp làm
những việc tốt trong công việc hàng ngày. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất coi
trọng việc nêu gương người tốt, việc tốt, lấy gương ấy để giáo dục xây dựng con
người mới, xây dựng các tổ chức cách mạng và xây dựng Đảng. Theo Người thì
trong mỗi con người đều có cái thiện, cái ác, phải biết làm cho phần tốt, phần
thiện phát triển, phần xấu, phần ác mất đi. Trong thời kỳ chống Mỹ, Đảng đã
tổng hợp kinh nghiệm trong phong trào thi đua ở Quảng Bình, Thái Bình, chỉ
đạo việc báo công, lập công trong nhân dân ở các địa phương có nhiền kết quả
359
tốt. Báo công, lập công chính là một hình thức giáo dục lấy biểu dương ưu điểm
là chính để khắc phục khuyết điểm, lấy quần chúng giáo dục quần chúng, đẩy
mạnh phong trào thi đua yêu nước. Đó cũng là một hình thức tốt để tiến hành
việc tự phê bình của cán bộ, đảng viên trước quần chúng.
5. Giáo dục toàn diện, kết hợp ba mặt giáo dục: lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng; kiến thức văn hoá,
quản lý, kỹ thuật; phẩm chất và đạo đức cách mạng
Nhân dân ta là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Để phát huy vai trò
làm chủ, mọi người đều cần hiểu biết về phương hướng chính trị, đường lối
chính sách của Đảng, có thái độ đúng đối với các vấn đề của cuộc sống, có
những kiến thức cần thiết về văn hoá, khoa học kỹ thuật nghiệp vụ cần cho công
việc của mình, có phẩm chất đạo đức công dân. Cán bộ đảng viên là người lãnh
đạo lại cần có sự hiểu biết về lý luận, chính trị sâu sắc hơn, có kiến thức cần
thiết để lãnh đạo, có phẩm chất đạo đức của người cách mạng.
Sự nghiệp cách mạng là của dân, do dân, vì dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng ta luôn tin tưởng ở sức mạnh, tinh thần sáng tạo của nhân dân, giác ngộ và
tổ chức nhân dân, bồi dưỡng sức mạnh và tinh thần sáng tạo ấy để chiến thắng
kẻ thù, xây dựng xã hội mới. Ngay từ khi ra đời Đảng đã tiến hành việc tuyên
truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và Cương lĩnh cứu nước của mình, gắn liền với
việc cổ động đấu tranh cho các mục tiêu dân sinh, dân chủ trước mắt. Các nghị
quyết của Trung ương Đảng thường xuyên nhấn mạnh việc tuyên truyền chủ
nghĩa, đường lối chính sách phải gắn liền với việc tố cáo kẻ thù, phát động cuộc
đấu tranh vì quyền lợi thiết thực của quần chúng. Từ thời kỳ Mặt trận dân chủ,
Đảng đã vận động lập "Hội truyền bá quốc ngữ" để giúp những người lao động
nghèo biết chữ, đọc được sách báo cách mạng, nâng cao được dân trí. Ngay sau
Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã phát động việc
"chống giặc dốt" cùng với việc "chống giặc đói" và "giặc ngoại xâm" vì một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Trong kháng chiến chống Pháp, công tác xoá nạn mù
chữ vẫn được thực hiện rộng rãi trong cả nước cùng với việc bổ túc văn hoá cho
360
cán bộ công nông để tạo điều kiện thuận lợi cho họ nâng cao trình độ lý luận
chính trị và chuyên môn.
Trong việc giáo dục cán bộ đảng viên, Đảng luôn coi trọng việc thống nhất
lý luận và thực tiễn, học đi đôi với hành. Học lý luận là để hiểu những chân lý
phổ biến, áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta, để quán
triệt sâu sắc hơn đường lối chính sách của Đảng, để xử trí đúng đối với mọi việc,
mọi người và đối với bản thân. Học đường lối chính sách cũng phải hiểu được
những căn cứ lý luận và thực tiễn của đường lối chính sách, tự giác chấp hành
một cách sáng tạo.
Trong điều kiện hiện nay, để nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của cán
bộ. Đảng yêu cầu cán bộ nâng cao kiến thức khoa học, nhất là các khoa học kinh
tế, quản lý, khoa học kỹ thuật hiện đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người
cách mạng. "Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi
mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải
phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức,
không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì".
Ngay từ năm 1927, Hồ Chí Minh đã viết về "Tư cách người cách mệnh"
trong cuốn "Đường cách mệnh". Từ đó về sau Người viết bài, viết sách, viết thư
gửi cán bộ về đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cho tới khi viết Di
chúc lại nhắc nhở vấn đề này.
Không những Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra những chuẩn mực chung cho
cán bộ, đảng viên như "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư" mà còn nêu ra
những chuẩn mực riêng cho nhiều tầng lớp người. Khi nói về văn hoá, Người
cũng chỉ rõ: cần làm thế nào cho văn hoá vào sâu trong tâm lý của nhân dân,
nghĩa là văn hoá phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, xa xỉ. Tâm lý của ta
lấy tự do độc lập làm gốc, văn hoá phải làm sao cho ai cũng có lý tưởng tự chủ,
độc lập, tự do…
Từ sau khi giải phóng đất nước năm 1975, trong hoàn cảnh mới, do chúng
ta chưa làm tốt việc giáo dục rèn luyện cán bộ đảng viên, do cơ chế chính sách
361
chưa đồng bộ và có nhiều sơ hở và những tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường nên một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có sự suy thoái về phẩm chất, đạo
đức, lối sống. Biểu hiện phổ biến là nạn quan liêu, tham nhũng, lãng phí của
công, lối sống xa hoa, truỵ lạc đang gây tác hại nghiêm trọng trước hết là đến uy
tín và sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy, việc giáo dục lý luận chính trị cần gắn chặt
với giáo dục phẩm chất đạo đức cách mạng. Muốn nắm vững thực chất của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa phải có tri thức cách mạng, vừa
phải có tinh thần cách mạng, nhiệt tình cách mạng. Sự tha hoá về đạo đức tất
nhiên sẽ dẫn tới sự tha hoá về chính trị.
Cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ và nguy cơ, thuận lợi và
khó khăn đan xen nhau, chúng ta phải phát huy mạnh mẽ các nhân tố nội sinh,
trước hết là nhân tố con người, để giải quyết thắng lợi những nhiệm vụ nặng nề
và phức tạp của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ Tổ
quốc. Đảng ta đã coi công tác giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nó không
chỉ nhằm vào thanh thiếu niên đang học trong nhà trường mà còn nhằm vào toàn
bộ lực lượng lao động và mọi công dân trong xã hội. Việc giáo dục toàn diện đối
với cán bộ, đảng viên là một nội dung rất quan trọng của công tác xây dựng
Đảng, làm cho Đảng ta thực sự tiên phong về đạo đức cách mạng, về trí tuệ và
năng lực tổ chức thực tiễn trong tình hình hiện nay.
6. Nâng cao tính khoa học, thực hiện dân chủ trong công tác tư tưởng
a) Nâng cao tính khoa học trong công tác tủ tưởng. Tính khoa học là một
nguyên tác cơ bản của công tác tư tưởng. Nó đòi hỏi công tác tư tưởng phải xuất
phát từ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm cơ sở để giải
thích các vấn đề do thực tiễn đặt ra một cách có căn cứ khoa học, thuyết phục
được quần chúng để họ hành động tự giác và có hiệu quả. Trong điều kiện hiện
nay, khi trình độ cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng cao thì
càng phải nâng cao tính khoa học của công tác tư tưởng mới đạt được hiệu quả
mong muốn.
Như vậy, chúng ta phải tãng cường việc nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh gắn với việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn. Phải có các đề
362
tài cụ thể để hiểu được bản chất, quy luật phát triển, biến đổi của các sự kiện,
hiện tượng xã hội, phân tích, lý giải một cách khoa học làm căn cứ cho đường
lối chính sách của Đảng, cung cấp được câu trả lời cho các vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn.
Tính khoa học của công tác tư tưởng còn thể hiện trong việc phản ánh đúng
hiện thực khách quan, quy luật vận động khách quan, phản ánh đúng sự thật. Đó
cũng là tính chân thật của công tác tư tưởng. Thái độ của Đảng là nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói đúng, nói rõ sự thật cho nhân dân biết, không
che đậy. Công tác tư tưởng cần nói cả thắng lợi của cách mạng để phát huy, khó
khăn, khuyết điểm, nguyên nhân để khắc phục, không "tô hồng" cũng không
"bôi đen". Việc biểu dương hay phê phán một cá nhân, một tập thê cũng phải
đúng mức, tôn trọng sự thật. Việc trình bày sự thật nhiền khi gắn với phê bình,
tự phê bình nên đòi hỏi sự trung thực, dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm cao
trước Đảng và nhân dân. Nhiều nghị quyết của Đảng và bài viết của các đồng
chí lãnh đạo tiên biểu cho vấn đề này, như Nghị quyết Dại hội Đảng lần thứ VI
đã khẳng định những thành tựu và chỉ ra những sai lầm nghiêm trọng kéo dài về
chủ chương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và nguyên nhân của những
sai lầm ấy. Nhân dân biết rõ sự thật mới hiểu rõ tình hình nhiệm vụ và hành
động một cách tự giác. Tính khoa học của công tác tư tường còn đòi hỏi phải
nghiên cứu đặc điểm của các tầng lớp nhân dân, từng đối tượng để có nội dung,
phương pháp thích hợp. Hiện nay, sau hơn mười năm đổi mới, các tầng lớp nhân
dân, kể cả cán bộ, đảng viên đã có sự phát triển mới, không phải là một khối
thuần nhất. Như vậy, phải có đỉều tra nghiên cứu để tìm hiểu sâu sắc hơn, coi
trọng công tác điền tra dư luận xã hội để có thể đánh giá tình hình tâm trạng, tư
tưởng có cơ sở khoa học hơn. Phải vận dụng những thành tựu của các môn khoa
học xã hội, nhân văn, nhất là các môn tâm lý học, sư phạm học, xã hội học, sử
dụng các phương tiện thông tin hiện đại
Công tác tư tưởng bao gồm tuyên truyền miệng, báo chí, xuất bản, văn học
nghệ thuật, trưởng học. Mỗi loại đều có khoa học nghiệp vụ nhất định, cần có
363
tổng kết kinh nghiệm để nâng cao sức thuyết phục, sức hấp dẫn và tính nghệ
thuật.
b) Thực hiện dân chủ trong công tác tư tưởng
Thực hiện dân chủ là nlột phương châm cơ bản của công tác tư tưởng.
Trong bài phát biểu ở lớp nghiên cứu chính trị của một số anh em trí thức năm
1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: ". . . chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến
của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ
của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó
quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý"[102].
Như vậy, về những vấn đề tư tưởng, không thể áp đặt, cưỡng ép. Con
đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta là con đường mới mẻ, đầy thử
thách. đòi hỏi phải có nhiều tìm tòi: khám phá, sáng tạo. Trong hoàn cảnh mới,
chúng ta lại có nhiều điều kiện để tiếp cận thông tin, thu nhận được những thành
tựu mới về lý luận, kiến thức của nhân loại, nhưng cũng có nhiều những luồng
thông tin sai lệch, lý thuyết phản động thâm nhập bằng nhiều con đường, thực
tiễn trong nước và thế giới lại rất phong phú, phức tạp. Trên con đường tiếp
nhận thông tin, tìm tòi? khám phá tất nhiên nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau về
các vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra. Vì vậy, cần thực hiện dân chủ trong
công tác tư tưởng, trước hết trong công tác nghiên cứu lý luận. Cần có cơ chế
khuyến khích phát huy tự do tư tưởng, tránh chụp mũ, thành kiến, tạo môi
trường cho sự thảo luận dân chủ, tranh luận để tìm ra chân lý khách quan, tránh
được những kết luận chủ quan một chiều, đồng thời bảo đảm được sự lãnh đạo
của Đảng, bảo vệ và phát triển được chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chống lại các lý thuyết phản động, các quan điểm sai lầm.
Thực hiện mở rộng thông tin, bảo đảm quyền được thông tin của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Thông tin kịp thời có định hướng là rất quan trọng để
nâng cao dân trí, hướng dẫn dư luận, giáo dục chính trị tư tưởng, chủ động ngăn
chặn và đấu tranh với những luồng thông tin sai lệnh, các luận điệu xuyên tạc,
phản động. Thông tin cần đa dạng để dáp ứng nhu cầu nhiều mặt của nhân dân
364
nhưng phải chống khuynh hướng thương mại hoá, chạy theo những thị hiếu
không lành mạnh.
Thông tin ngày càng phong phú, dân trí ngày càng cao, trên nhiều vấn đề
thường có ý kiến mới, ý kiến khác nhau, phản ánh những nhận thức khác nhau,
những kinh nghiệm sống và những lợi ích cụ thể khác nhau. Cần mở rộng những
hình thức đối thoại, thảo luận dân chủ cởi mở với các tầng lớp nhân dân, qua đó
mà hiểu được nhận thức và tâm trạng của họ, trả lời đúng các vấn đề mà họ quan
tâm, giải đáp được những băn khoăn thắc mắc của họ. Cũng qua đó mà thu thập
ý kiến phê bình, nguyện vọng, đề nghị và sáng kiến của họ phản ánh kịp thời với
cơ quan lãnh đạo. Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. Có biết làm
học trò dân mới làm thầy học được dân. Cán bộ làm công tác tư tưởng và cán bộ
lãnh đạo các ngành, các cấp cần gần gũi nhân dân, thực sự lắng nghe ý kiến họ,
học hỏi họ, vừa tạo được sự nhất trí có căn cứ của họ đối với chủ trương chính
sách, vừa thu thập ý kiến họ để bổ sung và hoàn thiện nó. Thực hiện dân chủ
trong công tác tư tưởng cũng là một biện pháp quan trọng để phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, chống
quan liêu, xa thực tế, ngăn ngừa và hạn chế sai lầm.
7. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, cải tiến phương thức lãnh
đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác tư tưởng.
Thắng lợi của cách mạng nước ta là kết quả tổng hợp của một loạt nhân tố,
nhưng nhân tố quyết định nhất là sự lãnh đạo của Đảng. Sự lãnh đạo ấy là tất
yếu để hiện nay chúng ta bảo đảm được độc lập thật sự của đất nước, quyền làm
chủ của nhân dân và sự phát triển của đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa
.
Hiện nay chúng ta đang đứng trước những nhiệm vụ nặng nề, mới mẻ của
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Các thế lực thù địch đang mưu toan thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng, đưa nước ta
đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Sự diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới, nhất là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu vẫn
tác động vào tâm tư, tình cảm, làm suy giảm lòng tin của nhiều người. Cuộc đấu
365
tranh tư tưởng vẫn đang diễn ra gay gắt. Vì vậy tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng về tư tưởng có ý nghĩa quan trọng đối với việc xây dựng Đảng và toàn bộ
sự nghiệp cách mạng.
Từ những kinh nghiệm lịch sử đã trình bày trên, chúng ta thấy cần tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng trên các mặt sau đây:
- Tăng cường chỉ đạo việc nghiên cứu lý luận, nghiên cứu các môn khoa
học xã hội và nhân văn, tổng kết kinh nghiệm chỉ đạo các lĩnh vực công tác để
khắc phục sự chậm trễ về lý luận, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh, làm căn cứ cho việc xây dựng và hoàn thiện đường lối
chính sách, nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác tư tưởng. Trong tình hình
mới, cần đặc biệt coi trọng tổng kết thực tiễn, trên cơ sở đó mà phát triển lý luận
cách mạng phù hợp với tình hình đất nước. Phải phát huy vai trò và tiềm lực của
đội ngũ cán bộ lý luận, cán bộ khoa học xã hội, cán bộ có kinh nghiệm hoạt
động thực tiễn vào việc này để thực hiện các chương trình nghiên cứu thiết thực
phục vụ cho các nhu cầu của cách mạng.
- Định hướng chính trị tư tưởng đúng và kịp thời thông qua việc xác định
phương hướng nhiệm vụ công tác tư tưởng từng thời gian, trên các lĩnh vực
công tác quan trọng và đối với những diễn biến phức tạp trong nước và quốc tế,
đặc biệt là khi có những bước ngoặt của cách mạng. Lắng nghe các ý kiến khác
nhau, tiếp thu những điều hợp lý, trao đổi ý kiến thẳng thắn đối với những người
có quan điểm không đúng.
Nắm bắt kịp thời những diễn biến tư tưởng, bảo đảm tính khoa học và độ
tin cậy trong việc điều tra dư luận xã hội, nâng cao năng lực dự báo các chiều
hướng phát triển. Đấu tranh sắc bén với các thủ đoạn chiến tranh tâm lý của các
thế lực thù địch.
- Chỉ đạo chặt chẽ việc tuyên truyền đường lối, chính sách, Nghị quyết,
quan điểm của Đảng và luật pháp Nhà nước trên các lĩnh vực, trước hết trong
đội ngũ cán bộ phụ trách các cấp, các ngành, chống các khuynh hướng, quan
điểm sai lầm.
366
- Tăng cường việc giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đang viên. Đồng thời giáo dục những tiêu chuẩn về đạo đức và lối sống
trong điều kiện thực hiện cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Việc
giáo dục lý tưởng, phẩm chất đạo đức cách mạng cần đi đôi với các biện pháp
kinh tế, tổ chức, hành chính, gắn giáo dục với rèn luyện trong phong trào quần
chúng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tư tưởng (cán bộ lý luận,
giảng viên, báo chí, xuất bản, cán bộ quản lý và tham mưu về công tác tư
tưởng…) bồi dưỡng và mở rộng đội ngũ cán bộ không chuyên trách.
Cán bộ làm công tác tư tưởng cần:
- Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành
với đường lối của Đảng, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới.
- Trung thực, có ý thức trách nhiệm cao và tinh thần sáng tạo.
- Thường xuyên học tập để nâng cao trình độ trí tuệ, năng lực nghiệp vụ, bổ
sung những kiến thức mới đáp ứng yêu cầu của thời kỳ cách mạng khoa học -
công nghệ.
- Có đạo đức cách mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh.
- Bám sát cơ sở, tôn trọng và lắng nghe y kiến nhân dân.
Có chế độ, chính sácìl phù hợp để phát huy năng lực, sử dụng nhân tài. Bố
trí đúng đội ngũ cán bộ phụ trách các cơ quan công tác tư tưởng quan trọng như:
giám đốc trường Đảng, tổng biên tập báo, đài, nhà xuất bản, phụ trách các cơ
quan điện ảnh, nhà hát… Coi trọng công tác kiểm tra, tổng kết và phổ biến kinh
nghiệm tốt, uốn nắn sai lầm, chống quan liêu, buông lỏng công tác tư tưởng.
Đi đôi với việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, cần cải tiến phương
thức lãnh đạo, phát huy sức mạnh tổng hợp của công tác tư tưởng. Trong điều
kiện Đảng cầm quyền, nội dung lãnh đạo ấy cần chú ý cả hai mặt:
- Chỉ đạo chặt chẽ về định hướng chính trị tư tưởng, triển khai việc thực
hiện công tác tư tưởng thông qua các cấp uỷ, các tổ chức Đảng, huy động và
phối hợp lực lượng toàn Đảng và toàn bộ hệ thống chính trị làm công tác tư
tưởng (các cơ quan nhà nước, Mặt trận, đoàn thể, lực lượng vũ trang. . .). Kết
367
hợp các lục lượng chuyên trách và không chuyên trách, phát huy sức mạnh tổng
hợp của công tác tư tưởng.
- Phát huy vai trò và hiệu lựe quản lý, điều hành của Nhà nước trên lĩnh vực
tư tưởng. Các cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này cần thể chế hoá kịp thời
các quyết định của Đảng, có chính sách thích hợp thúc đẩy sự phát triển của các
hoạt động tư tưởng, văn hoá, có sự đầu tư cơ sở vật chất cần thiết. Ngăn chặn và
xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật.
Cùng với sự phát triển của sự nghiệp đổi mới, trình độ dân trí ngày càng
nâng cao, việc lãnh đạo như trên đã trình bày cần coi trọng nâng cao tính khoa
học và phát huy dân chủ trong công tác tư tưởng. Điều này cần quán triệt vào
các hình thức và phương pháp công tác tư tưởng: tuyên truyền miệng, sinh hoạt
chính trị trong Đảng và các đoàn thể, báo chí, xuất bản, giáo dục chính trị lý
luận trong các trường lớp, v.v, chống cách làm công thức nghèo nàn, đơn điệu.
Hiện nay các phương tiện thông tin hiện đại ngày càng phát triển và giữ vị
trí quan trọng trong đời sống xã hội (truyền hình, Internet.. .). Chúng ta cần sử
dụng để làm cho công tác tư tưởng nhanh nhạy và có hiệu quả hơn, đồng thời
phải quản lý tốt để đấu tranh và ngăn chặn luồng thông tin xấu, độc hại, bảo vệ
an ninh tư tưởng và bản sắc văn hoá dân tộc. Cần tìm tòi cải tiến các hình thức
phương pháp mới như các hội thi, đối thoại, giảng dạy trên truyền hình…
- Công tác tư tưởng phải chuyển mạnh về cơ sở, gắn với thực tiễn ở cơ sở,
trực tiếp với cán bộ, đảng viên, nhân dân ở cơ sở. Như vậy, các cấp trên phải tổ
chức việc đưa thông tin về cơ sở, đến được dân, tới được các đối tượng cần thiết.
Cần xây dựng và củng cố bộ máy tuyên huấn cơ sở, giúp cho cấp uỷ và đảng bộ
cơ sở chỉ đạo phối hợp các lực lượng làm công tác tư tưởng. Kết quả là người
dân có thể hiểu được tình hình nhiệm vụ, nắm được chủ trương; chính sách, tự
giác thực hiện có hiệu quả. Đồng thời họ có thể kiểm tra, phê bình việc chỉ đạo
thực hiện của cán bộ, góp ý kiến với cấp trên về chủ trương chính sách. Đối với
những đợt công tác giáo dục quan trọng, cấp trên nên làm thí điểm ở cơ sở để rút
kinh nghiệm trước khi mở rộng ra tất cả các địa phương.
SƠ THẢO LƯỢC SỬ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
368
VÀ PHÁT TRLỂN VỀ TỔ CHỨC CỦA BAN
TƯ TƯỞNG - VĂN HÓA TRUNG ƯƠNG
l Thời kỳ từ năm 1930 đến năm 1945
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập ngày 3 tháng 2 năm 1930.
Tên của cơ quan tham mưu của Đảng về công tác tư tưởng được gọi là:
"Ban cổ động và tuyên truyền", "Ban Tuyên truyền", "Bộ Cổ động và tuyên
truyền"; "Bộ Tuyên truyền Trung ương".
- Đề cương tuyên truyền "ngày Quốc tế đỏ - mồng một tháng tám" có ghi
"Ban cổ động và tuyên truyền của Đảng Cộng sản ấn hành" - 1930.
- Tài liệu "Thông báo cho các xứ ủy" 1930 cũng nêu: các xứ ủy phải có
"Ban tuyên truyền".
- Án Nghị quyết của Trung ương toàn thể Hội nghị lần thứ hai tháng 3 - 193
l có hẳn một Nghị quyết riêng về "vấn đề cổ động tuyên truyền". Nghị quyết nêu
rõ: Sự quan trọng, những ưu, khuyết điểm; việc tổ chức và nhiệm vụ cốt yếu
trong sự cổ động tuyên truyền, nêu "Tổ chức bộ cổ động và tuyên truyền".
Từ tháng 3- 1931 cho đến tháng 8- 1945 Đảng có nhiều lần nói về tuyên
truyền cổ động. Đến Hội nghị toàn quốc Đảng Cộng sản Đông Dương họp ngày
14, 15-8- 1945 nêu 12 việc trong đó việc thứ 10 ghi "Chỉnh đốn Bộ tuyên truyền
Trung ương, các xứ và các khu giải phóng… ".
Như vậy là từ năm 1930 đến tháng 8- 1945. cơ quan tham mưu của Trung
ương về công tác tư tưởng văn hóa gọi là "Ban cồ động tuyên truyền" hay "Bộ
Cổ động và tuyên truyền" do Trung ương phân công các đồng chí lãnh đạo
Trung ương phụ trách. Các Nghị quyết cũng không nêu rõ tên các đồng chí phụ
trách cơ quan.
2. Thời kỳ từ năm 1945 dến năm 1975
Đây là thời kỳ có rất nhiều thay đổi về tổ chức bộ máy cơ quan tham mưu
của Trung ương về công tác tư tưởng văn hóa, khoa giáo. Chúng tôi xin nêu các
Quyết định thành lập Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương.
a. Giai đoạn từ năm 1945 đên năm 1955, 1956
369
Ngày 5-12- 1948, Thường vụ Trung ương ra Quyết định số 50 về Tổ chức
lại các Bộ, các ban giúp việc Trung ương. Nghị quyết nêu rõ: "chỉ bộ tổ chức
mới gọi là bộ, các ban kinh tế tài chính, tuyên huấn, kiểm tra sẽ chỉ gọi là ban".
Ngày 14-9- 1950, Trung ương có Quyết định số 55-QĐ/TƯ về tổ chức Ban
tuyên truyền và Ban giáo dục Trung ương Đảng Nội dung Nghị quyết như sau:
- Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng
+ Nhiệm vụ: Ban Tuyên truyền Trung ương có nhiệm vụ giúp Trung ương
lãnh đạo công tác tuyên truyền trong Đảng và ngoài đảng ở các bộ phận;
· Nha thông tin
· Hội văn nghệ
· Hội Mác
· Báo chí (Sự thật, Cứu quốc. . .)
· Tuyên truyền bộ đội
· Tuyên truyền mặt trận và các đoàn thể quần chúng.
Các bộ phận nói trên có nhiệm vụ thi hành công tác tuyên truyền theo
đường lối và kế hoạch chung qua Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng.
+ Thành phần: Ban Tuyên truyền Trung ương Đảng do đồng chí Thận (tức
đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh) phụ trách và các đồng chí:
· Tố Hữu: Trưởng ban.
· Trần Văn Giầu: Phó trưởng ban.
· Lê Quang Đạo.
· Xuân Thủy.
· Lê Liêm.
Ban Giáo dục Trung ương Đảng
+ Ban Giấo dục Trung ương Đảng có nhiệm vụ giúp Trung ương lãnh đạo
công tác giáo dục trong và ngoài Đảng trong các bộ phận:
· Trường Đảng, bộ phận hướng dẫn học tập trong Đảng, bộ phận biên tập
xuất bản của Đảng.
· Các bộ phận huấn luyện của mặt trận và các đoàn thể quần chúng.
· Các bộ phận huấn luyện chính trị trong bộ đội.
370
· Bộ quốc gia giáo dục.
+ Ban Giáo dục Trung ương Đảng do đồng chí Phạm Văn Đồng phụ trách
và gồm các đồng chí:
· Hà Huy Giáp: Trưởng Ban.
· Nguyễn Khánh Toàn: Phó trưởng ban.
· Trần Huy Liệu.
· Đào Duy Kỳ.
· Hoàng Hưu Nhân.
· Nguyễn Hữu Đang.
· Hoài Thanh.
Và một số cán bộ phụ trách huấn luyện cán bộ trong bộ đội (do đồng chí
Nguyễn Chí Thanh giới thiệu).
- Ngày 16-4-1951, Trung ương có Quyết định số 09 QĐ/TƯ về thành lập
các ban và tiểu ban giúp việc.
Ban Tuyên huấn gồm các đồng chí Trường Chinh (Trưởng ban), Phạm Tô
(tức đồng chí Phạm Văn Đồng), Tố Hữu, Trần Quang Huy, Hoàng Tùng, Xuân
Thủy, Lê Quang Đạo, Nguyễn Chương, Nguyễn Khánh Toàn, Minh Tranh.
- Ngày 29-6-1951, Trung ương có Quyết định số 23-QĐ"TƯ, nội dung:
+ Thành lập bốn tiểu ban trong Ban Tuyên huấn gồm:
· Tiểu ban huấn học.
· Tiểu ban biên tập.
· Tiểu ban văn nghệ.
· Tiểu ban giáo dục.
+ Chỉ định các đồng chí sau đây trong các tiểu ban trên:
· Tiểu ban huấn học do đồng chí Nguyễn Chương làm thư ký và các đồng
chí: Lê Quang Đạo, Nguyễn Khánh Toàn, Đào Duy Kỳ.
· Tiểu ban biên tập do đồng chí Minh Tranh làm thư ký và các đồng chí: Lê
Quang Huy, Bùi Công Trừng, Nguyễn Khánh Lê, Tố Hữu.
371
· Tiểu ban văn nghệ do đồng chí Tố Hữu làm thư ký và các đồng chí
Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Xuân Sanh, Nguyễn Đình Thi,
Hoài Thanh.
· Tiểu ban giáo dục do đồng chí Nguyễn Khánh Toàn làm thư ký (còn các
nhân viên khác Trung ương sẽ chỉ định sau) .
+ Ban Tuyên huấn, các đồng chí kể trên chiếu nghị quyết thi hành.
- Ngày 22- 11- 1954 Trung ương có Ngbị quyết số 51-NQ/TƯ về Kiện toàn
Ban Tuyên huấn Trung ương.
Trưởng ban: đồng chí Trưởng Chinh
Phó trưởng ban: đồng ehí Tố Hữu và các đồng chí: Nguyễn Chương,
Nguyễn Huy, Trần Tống.
- Ngày 3- 11- 1955 Trung ương có Quyết định số 28 QĐ/TƯ.
Nghị quyệt về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Ban Tuyên huấn Trung
ương.
+ Về nhiệm vụ, quyền hạn: ghi ba nhiệm vụ chung và sáu nhiệm vụ cụ thể
Quyền hạn: ghi hai quyền.
+ Về tổ chức
"Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức và làm việc theo chế độ thủ trưởng,
không theo chế độ ủy viên".
a) Ban gồm có:
Trưởng ban: đồng chí Tố Hữu phụ trách chung công tác tuyên huấn và phụ
trách riêng về công tác văn hóa và công tác tổ chức.
Phó trưởng ban: đồng chí Nguyễn Kỉnh phụ trách công tác tuyên truyền,
báo chí, đài và Thông tấn xã, thay đồng chí Tố Hữu khi đi vắng.
Phó trưởng ban: đồng chí Nguyễn Huy, phụ trách công tác xuất bản và Nhà
xuất bản Sự thật.
Phó trưởng ban: đồng chí Nguyễn Chương, phụ trách công tác giáo dục cán
bộ và giúp về giáo vụ của trường Đảng (chương trình, tài liệu, phương pháp giáo
dục).
Ban Tuyên huấn Trung ương có các vụ và các phòng giúp việc.
372
- Ngày 22- 1- 1966. Quyết định số 001-NQ/TƯ của Ban Bí thư.
Nghị quyết về sưa đối một vài điểm trong Nghị quyết về nhiệm vụ, quyền
hạn và tổ chức của Ban Tuyên huấn Trung uơng.
Nội dung Nghị quyết: Tiếp tục Nghị quyết số 28-NQ/TƯ ngày 3-12- l955,
xét đề nghị của Ban Tuyên huấn và Ban Tổ chức Trung ương, Trung ương quyết
định sửa đổi mây điểm về tổ chức và nhiệm vụ của các bộ phận trực thuộc Ban
Tuyên huấn Trung ương.
Như vậy là, từ năm 1951 đến năm 1956, Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng
là cơ quan tham mưu cho Trung ương Đảng một cách toàn diện các mặt: tuyên
truyền, giáo dục, văn hóa văn nghệ, báo chí, xuất bản.
b) Giai đoạn từ năm 1956 đến năm 1975
Đặc điểm nổi bật về tổ chức bộ máy Ban Tuyên huấn Trung ương trong giai
đoạn này là việc tách ra, nhập vào giữa Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban
Khoa giáo Trung ương.
Theo Quyết định số 09 QĐ/TƯ ngày 16-4-1951 về thành lập các Ban của
Trung ương, trong đó có Ban Tuyên huấn Trung ương do đồng chí Trường
Chinh làm Trưởng ban và các Quyết định sau đến năm 1956 Ban Tuyên huấn là
cơ quan tham mưu duy nhất của Trung ương bao gồm các lĩnh vực công tác
tuyên truyền, huấn luyện cán bộ, khoa học giáo dục, văn hóa văn nghệ.
Năm 1957 là năm Trung ương có ba Quyết định quan trọng:
- Quyết định số 13-NQ/TƯ ngày 22-5-1957 của Ban Bí thư về việc: Thành
lập Tiểu ban văn nghệ Trung uơng và đảng đoàn các ngành văn học nghệ thuật.
- Nghị quyết số 14-NQ/TƯ ngày 24-5- 1957 của Ban Bí thư về việc: Thành
lập Tiểu ban khoa học giáo dục Trung ương và chấn chỉnh sự lãnh đạo của các
cấp ủy Đảng đối với công tác giáo dục.
Nghị quyết số 31-NQ/TƯ ngày 4-6- 1957 của Ban Bí thư về Tổ chức,
nhiệm vụ và quan hệ công tác của Ban Tuyên huấn các cấp của Đảng.
Năm 1958: Nghị quyết số 50-NQ/TƯ ngày 23-8- 1958 của Ban Bí thư về
việc: Thành lập Ban Văn hóa giáo dục Trung ương, gọi tắt là Ban văn giáo
Trung ương.
373
Năm 1959: Quyết định số 9 l QĐ/TƯ ngày 1- 12- 1959 của Ban Bí thư
Nghị quyết về việc hợp nhất hai Ban Tuyên huấn và Văn giáo. Nội dung của
quyết định:
+ Hợp nhất hai Ban Tuyên huấn và Văn giáo Trung ương thành một Ban
Tuyên huấn Văn giáo, gọi tắt là Ban Tuyên giáo Trung ương.
+ Về tính chất, nhiệm vụ, quan hệ công tác và phương pháp công tác của
Ban Tuyên giáo nói chung vẫn theo quy định của Ban Bí thư trong Chỉ thị số 51
chỉ thị Trung ương ngày 4-6-195 7.
+ Về tổ chức của Ban Tuyên giáo:
Ban Tuyên giáo Trung ương gồm có những đồng chí sau đây:
· Đồng chí Trường Chinh: Trưởng ban
· Đồng chí Tố Hữu: Phó trưởng ban
· Đồng chí Hà Huy Giáp: Phó trưởng ban
· Đồng chí Nguyễn Chương: Phó trưởng ban
· Đồng chí Trần Tống: Phó trưởng ban
· Đồng chí Trần Quang Huy: Phó trưởng ban.
Sau Đại hội III của Đảng, Bộ Chính trị đã cừ đồng chí Tố Hữu làm Trưởng
ban Tuyên giáo Trung ương. Đồng chí Trần Quang Huy và Nguyễn Chương làm
Phó trưởng ban, các đồng chí Hà Huy Giáp, Trần Tống làm Phó trưởng ban
kiềm nhiệm của Ban Tuyên giáo Trung ương.
Như vậy là sau khi tách khỏi Ban Tuyên huấn được một năm (23-8-1958)
thành lập Ban Văn giáo thì năm 1959 lại nhập trở lại thành Ban Tuyên giáo
Trung ương. Ban Tuyên giáo Trung ương hoạt động được 10 năm thì lại tách ra
thành hai Ban theo Quyết định số 1584-NQ/TƯ ngày 30-l-1968 của Bộ Chính trị
Về việc chia Ban Tuyên giáo Trung ương làm hai Ban. Nội dung quyết định như
sau:
+ Chia Ban Tuyên giáo Trung ương làm hai Ban là Ban Tuyên huấn và Ban
khoa học giáo dục.
374
Ban Tuyên huấn có nhiệm vụ giúp Trung ương nghiên cứu đường lối, chủ
trương về công tác tuyên huấn và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương
đó trong các đơn vị:
· Bộ Văn hoá
· Tổng cục thông tin.
· Uỷ ban liên lạc văn hoá với nước ngoài
· Việt Nam Thông tấn xã
· Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam
· Báo Nhân dân
· Tạp chí Học tập
· Trường Nguyễn Ái Quốc và các trường Đảng l, 2, 3, 4.
Ban khoa học giáo dục có nhiệm vụ giúp Trung ương nghiên cứu đường lối,
chủ trương về công tác khoa học, giáo dục và kiểm tra việc thực hiện đường lối,
chủ trương đó trong các đơn vị:
· Uỷ ban khoa học và ky thuật;
· Uỷ ban khoa học xã hội;
· Uỷ ban thể dục thể thao;
· Bộ Y tế.
· Bọ Đại học và trung học chuyên nghiệp;
· Bộ Giáo dục.
+ Về tổ chức bộ máy mỗi Ban sẽ do các Ban trên phối hợp với Ban Tổ chức
Trung ương nghiên cứu trình Ban Bí thư quyết định.
Như vậy từ 30-1-1968, Ban Tuyên huấn Trung ương được thành lập trở lại.
Theo phân công của Bộ Chính trị đồng chí Tố Hữu, Bí thư Trung ương Đảng
khóa III làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương và Trưởng ban Khoa giáo
Trung ương.
3. Thời kỳ từ năm 1976 đến năm 1980:
Ban Tuyên huấn Trung ương do đồng chí Tố Hữu làm Trưởng ban, các
đồng chí: Hoàng Tùng, Đào Duy Tùng, Nguyễn Vịnh, Hà Huy Giáp, Trẩn Độ
làm Phó trưởng ban.
375
Trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước để tăng cường chỉ đạo công tác tư tưởng
tại chiến trường đã thành lập Ban Tuyên huấn Trung ương Cục hoạt động dưới
sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Bên cạnh Ban Tuyên huấn Trung
ương Cục còn có các Ban Tuyên huấn các khu trực thuộc khu ủy.
Ngày 12-3-1976 theo Quyết định số 50-QĐ/HTTƯ Ban Tuyên huấn Trung
ương gồm 13 đơn vị trực thuộc. Sau một thời gian củng cố, xây dựng, cuối năm
1980 Ban Tuyên huấn Trung ương có 16 đơn vị trực thuộc.
Thời kỳ này Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng có một số quyết định cử đến,
điều đi số cán bộ quản lý lãnh đạo của Ban:
Đồng chí Tố Hữu, Uỷ viên Bộ Chính trị làm Trưởng ban. Các Phó trưởng
ban gồm các đồng chí: Hoàng Tùng, Đào Duy Tùng, Hà Huy Giáp, Nguyễn
Minh Vỹ, Vũ Đình Liệu.
Năm 1980: Quyết định số 1532-QĐNS TƯ ngày 21-1-1980 của Bộ Chính
trị cử đồng chí Hoàng Tùng, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng Ban Tuyên
huấn Trung ương, làm Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương, và vẫn kiêm chức
Tổng biên tập báo Nhân Dân.
Như vậy từ năm 1980 lãnh đạo Ban Tuyên huấn Trung ương do đồng chí
Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương Đảng làm Trưởng ban. Các đồng chí Đào Duy
Tùng, Nguyễn Minh Vỹ, Lê Xuân Đồng, Nguyễn Vịnh, Lê Quang Trinh làm
Phó trưởng ban.
4. Thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1989
Đặc điểm nổi bật về tổ chức cán bộ của Ban Tuyên huấn Trung ương thời
kỳ này là thời kỳ tách ra nhập vào giữa Ban Tuyên huấn Trung ương và Ban văn
hóa văn nghệ Trung ương và thành lập Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương
hiện nay.
Về lĩnh vực văn hóa - văn nghệ, sau đề cương văn hóa năm 1943 chỉ ra
những nội dung xây dựng nền văn hóa Việt Nam, Hội nghị văn hóa toàn quốc
lần thứ nhất của Đảng từ ngày 28-2 đến ngày 2-3-1949 quyết định thành lập Ban
Văn hóa - Văn nghệ Trung ương và các tiểu ban. Ngày 5-6-1949, Ban Thường
376
vụ Trung ương ra Quyết định số 63b-NQ/TƯ thành lập ban Văn hóa Trung ương
(đã nói kỹ ở phần trên).
Đến năm 1955, trong Quyết định số 28 QĐITƯ ngày 3-ll-1955 của Ban Bí
thư về Nhiệm vụ, quyền hạn và to chức của Ban Tuyen huấn Trung ương, phần
các dơn vị trong Ban có Vụ Văn hóa. Năm 1957, Ban Bí thư Trung ương lại có
Quyết định số 73 QĐ/TƯ ngày 22-5- 1957 về việc Thành lập Tiểu ban văn nghệ
Trung ương và đẩng đoàn các ngành văn hoá nghệ thuật.
Từ năm 1959, trong Quyết định số 91 của Ban Bí thư ngày 1-12-1959 về
hợp nhất hai Ban Tuyên huấn và Văn giáo lấy tên là Ban Tuyên giáo Trung
ương. Trong phần tổ chức các đơn vị trực thuộc Ban có Vụ Văn nghệ. Sau năm
1968 Ban Khoa giáo Trung ương tách ra thành một Ban riêng thì trong quyết
định kiện toàn Ban Tuyên huấn Trung ương ngày 26-7-1970 có Vụ Văn hóa -
Văn nghệ.
Tháng 8-1980 theo thông báo của Bộ Chính trị thành lập Ban Văn hóa -
Văn nghệ Trung ương. Đến ngày 18-8-1981, Ban Tuyên huấn Trung ương có
quyết định giải thể Vụ Văn hóa - Văn nghệ, chuyển giao cán bộ cho Ban Văn
hóa - Văn nghệ Trung ương.
Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V, đồng chí Đào Duy Tùng, Uỷ viên
Trung ương Đảng được cử làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Các đồng
chí: Lê Xuân Đồng, Vũ Thị Thanh, Nguyễn Hoàng, Trần Trọng Tân làm Phó
trưởng ban.
Năm 1983, Ban Bí thư có Quyết định số 33 QĐ/TƯ ngày 28-12-1983 thành
lập Uỷ ban công tác tư tưởng. Cùng với việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của
Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban còn đảm nhận nhiệm vụ giúp việc Uỷ ban
công tác tư tưởng theo tinh thần Quyết định số 33 đã ghi: Uỷ ban công tác tư
tưởng do đồng chí Hoàng Tùng, Bí thư Trung ương phụ trách công tác tư tưởng,
làm chủ nhiệm và dựa vào bộ máy của Ban Tuyên huấn làm thường trực của Uỷ
ban; không có bộ máy riêng.
5. Thời kỳ từ năm 1989 đến nay
377
Sau Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), ngày 14-l1-1987 đồng chí
Trần Trọng Tân, Uỷ viên Trung ương Đảng khóa VI được phân công làm
Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương. Các đồng chí Phó trưởng ban gồm: Lê
Xuân Đồng, Nguyễn Hoàng, Vũ Thị Thanh, Võ Quang Trinh, Nguyễn Thái
Ninh, Hà Học Hợi, Cao Xuân Long.
Năm 1989 Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra Quyết định số 85 QĐ/TƯ
ngày 11-4-1989 về việc tổ chức lại ban Đảng. Nghị quyết nêu:
"Điều 1: Thống nhất Ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương với Ban Tuyên
huấn Trung ương, lấy tên là Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
Điều 2: Cử đồng chí Trần Trọng Tân, Uỷ viên Trung ương Đảng, làm
Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
Điều 3: Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương có trách nhiệm xây dựng chức
năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy mới của Ban và báo cáo Ban Bí thư xem xét
quyết định".
Thi hành quyết định trên đây của Bộ Chính trị Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương tiến hành tiếp nhận các tổ chức và hơn 220 cán bộ của hai Ban Văn
hóa - Văn nghệ Trung ương và Tuyên huấn Trung ương. Khẩn trương xây dựng
dự thảo về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của Ban để trình Ban Bí thư ra
quyết định.
Năm 1991 (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII), đồng chí Thái Ninh, Uỷ
viên Trung ương Đảng được cử làm Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương từ cuối năm 1991, đến tháng 5- 1992 nghỉ chữa bệnh. Trung ương điều
đồng chí Hà Đăng, Uỷ viên Trung ương Đảng về làm Trưởng Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương; đồng chí Hữu Thọ, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng
ban thường trực về làm Tổng biên tập báo Nhân Dân thay đồng chí Hà Đàng từ
tháng 5-1992. Các đồng chí Phó trưởng ban gồm Hà Học Hợi, Hồ Anh Dũng, Lê
Thanh Nhàn, Phạm Quang Nghị. Năm 1992, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương có tờ trình Ban Bí thư số 139-TTVH/TƯ ngày 31-3-1992 Về chức năng,
nhiệm vụ, tổ chức của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương. Ngày 29-8-1992,
378
Ban Bí thư Trung ương có Quyết định số 37 QĐ/TƯ về chức năng, nhiệm vụ, và
tổ chức của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương.
Sau Đại hội lần thứ VIII của Đảng (tháng 6-1996), đồng chí Hữu Thọ, Uy
viên Trung ương Đảng được cử làm Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương, các đồng chí Phó trưởng ban: Phạm Quang Nghị, Hà Học Hợi, Trần
Hoàn, Đào Duy Quát, võ Hồng Nhân, Ngô Hai. Bộ Chính trị Trung ương Đảng
(khóa VIII) đã có thông báo số 38-TB/TƯ ngày 3-2- 1997 về Kết luận của
Thường vụ Bộ Chính trị về một số công tác của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương. Thông báo không nói thay đổi chức năng nhiệm vụ mà chỉ nhấn mạnh: Để
thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của mình, Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung
ương cần hết sức coi trọng việc tổng kết lý luận, thực tiễn công tác tư tưởng -
văn hóa; cụ thể hóa chức năng tham mưu, chỉ đạo tác chiến và kiểm tra trong
thời kỳ phát triển mới của đất nước.
Như vậy là Quyết định số 37 QĐ/TƯ ngày 29-8-1992 của Ban Bí thư Trung
ương (khóa VII) về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của Ban Tư tưởng - Văn hóa
Trung ương vẫn là cơ sở pháp lý có hiệu lực chỉ đạo mọi hoạt động của Ban
trong thời gian này. Do yêu cầu của công tác, năm 1998 và đầu năm 1999 lãnh
đạo Ban đã có quyết định thành lập một số đơn vị mới của Ban.
Các đồng chí Trưởng ban của Trung ương về công tác tư tưởng - văn
hóa qua các thơi kỳ.
1. Đồng chí Trường Chinh
- Tháng 5- 194 l: Tổng Bí thư trực tiếp làm Trưởng ban Tuyên huấn Trung
ương.
- Năm 1950: Phụ trách Ban Tuyên truyền Trung ương (Theo Quyết định số
55 QĐ/TƯ ngày 14-9- 1950).
- Năm 1951: Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương (Theo Quyết định số 09
QĐ/TƯ của Trung ương Đảng về Thành lập cảc Ban và tiểu ban giúp việc Trung
ương).
Năm 1954: Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương (Theo Quyết định số 51-
QĐ/TƯ về Kiện toàn Ban Tuyên huấn Trung ương).
379
Năm 1959: Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương (Theo Quyết định số 91-
QĐ/TƯ ngày 1-12-1959 của Ban Bí thư về Việc hợp nhất hai Ban Tuyên huấn
và Văn giáo Trung ương) và một thời gian sau Đại hội III.
2. Đồng chí Tố Hữu.
Năm 1950: Trưởng ban Tuyên truyền Trung ương Đảng (Theo Quyết định
số 55 QĐ/TƯ ngày 14-9-1950 của Ban Bí thư thành lập "Ban Tuyên truyền và
Ban giáo dục Trung ương Đảng "Nghị quyết nói rõ: "Ban Tuyên truyền Trung
ương Đảng do đồng chí Thận phụ trách. Đồng chí Tố Hữu là Trưởng ban".
- Năm 1951: Tham gia lãnh đạo Ban (Theo Quyết định số 09 ngày 16-4-
1951 của Trung ương).
- Năm 1955: Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương (Theo Quyết định số 23
QĐ/TƯ ngày 3- 11-1955: Nghị quyết về nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của
Ban Tuyên huấn Trung ương).
- Năm 1960. Sau Đại hội III, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương.
- Năm 1968 tách hai ban Tuyên huấn và Khoa giáo vẫn kiêm Trưởng hai
Ban.
3. Đồng chí Hoàng Tùng
Năm 1980 Trưởng ban Tuyên huấn Trung ương.
(Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, theo Quyết định số 1532
QĐ/NSTƯ ngày 21-1-1980 của Bộ Chính trị Trung ương Đảng).
4. Đồng chí Đào Duy Tùng
Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương từ năm 1982 (sau Đại hội V) đến Đại
hội VI (1986).
5. Đồng chí Trần Trọng Tân
- Trưởng Ban Tuyên huấn Trung ương từ ngày 14-1-1987 phân công của
Bộ Chính trị.
- Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương từ ngày 11-4-1989 (Theo
Quyết định số 85 QĐ/TƯ ngày 11-4-1989 của Bộ Chính trị) .
6. Đồng chí Nguyễn Thái Ninh
380
Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương từ sau Đại hội VII (1991) đến
7-5-1992 nghỉ chữa bệnh.
7. Đồng chí Hà Đăng
Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương từ ngày 7-5-1992 đến Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII.
8. Đồng chí Hữu Thọ
Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương từ sau Đại hội VIII (1996)
đến nay.
Các đồng chí Trưởng Ban Văn hóa - Văn nghệ khi văn hoá - văn nghệ
còn là một Ban riêng.
1. Đồng chí Trần Huy Liệu (1949)
Trưởng Ban Văn hóa Trung ương (Theo Quyết định số 63B-QĐ/TƯ ngày
5-6-1949 của Thường vụ Trung ương Đảng về Việc thành lập Ban Văn hóa
Trung ương và các tiểu ban).
2. Đồng chí Hà Xuân Trường
Trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương từ đầu năm 1983 đến năm
1987.
[1] l Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.7, tr.319.
[2] Xem Sđd, tr.318-31
[3] Sđd, tr.3 19.
[4] Sđd, tr.322.
[5] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb.
hính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.5, tr.533
[6] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đang Cộng sản Việt Nam, Nxb.
hính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr.69-70.
[7] Sđd, tr. 70-7 1.
[8] Văn kiện của Đảng và Nhà nước về văn hoá, văn nghệ (1943-1968), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 4.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, tr.324-325.
[10] Nghị quyết Bộ Chính trị số 16-NQITƯ tháng 4- 1957 về công tác ttt tưởng, Tài liệtt Cục lưu trữ văn phòng
Trung ương Đảng
[11] l Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.9, tr.2.
381
[12] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị qnốc gia, Hà Nội, 2000, t.8, 497
[13] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; 2000, t. 10, tr.59.
2. Sđd, t.9, tr.419.
[14] Xem Thông tấn xã Việt Nam - Nưa thê kỷ mọt chặng đường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996
[15] Kết lnận của Hội nghị Bộ Chính trị ngày 25-5- 1994 về tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ và một số vấn
đề lịch sử Đảng thời kỳ 1954 - 1960.
[16] Nghị quyết Hội nghị Khu ủy VIII tháng 12-1959.
[17] Lê Duẩn: Ta nhất định thắng, địch nhất định thua, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1965, tr. 7.
[18] . Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.II, tr. 10l.
[19] Sđd, tr.102
[20] Sđd, tr.10-104
[21] Xem Thông tấn xã Việt Nam - nửa thế kỷ, một chặng đường, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
[22] Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 134.
[23] Sđt, tr.135
[24] Sđt, tr.137-138
[25] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.II, tr.366.
[26] Sđd, t.10. tr.310
[27] Sđd, tr.310
[28] Sđd, tr.613
[29] Sđd, tr.613, 614
[30] Sđd, tr.613., 614
[31]. Văn kiện của Đảng và Nhà nước về văn hoá, văn nghệ (1943-1968). Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr.85, 87.
[32] Hồ Chí Minh: Toàn tập Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,... 2000, t 10, tr.646.
[33] Hồ Chí Minh: Toàn tập Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,... 2000, t 10, tr.646.
[34] Sđd, tr.647
[35] Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.II, tr. 130, 131, 136-137.
[36] Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh- Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, t.2, tr.200.
[37] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.II, tr.227.
[38] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t.11, tr.470.
[39] Tuyên bố ngày 3-8- 1965 của Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
[40] Văn kiện của Đảng và Nhà nước về văn hoá văn nghệ (1943 -1968), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1970, tr. 107
[41] Quyết định của chính quyền Mỹ - ngụy trong cuộc họp tại Honolulu ngày 24-l-1967.
[42] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 2000, t. 12, tr. 108.
[43] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 12, tr.212.
[44] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 12, tr.92.
[45] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 12, tr.95-96.
[46] Sđd, tr.547-548
[47] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2000, t. 12
[48] Theo: Lược sử hoạt động tuyên giáo Đà Nẵng. (B.T).
382
[49] Theo cuốn Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh, t.II, 1998.
[50] Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia Hà Nội, 1995, t.II, trang 417- 418
[51] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 t. 12, tr.425-426
[52] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 t. 12, tr.425-426
[53] Theo cuốn Địa chí văn hoá thành phố Hồ Chí Minh, NXB thành phố Hồ Chí Minh, tII, 1998
[54] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV" Nb. Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.5-6.
[55] Nghị quyết 254 ngày 16-7-1976 của Bộ Chính trị về những nhiệm vụ trước mắt ở miền Nam.
[56] Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IV (do đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng trình bày), Nxb. Sự thật,
Hà Nội, 1977, tr. 67.
[57] Đảng Cộng sản Việt Nam: Phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977, tr.9-10.
[58] Trích Nghị quyết 36, tháng 2-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng.
[59] Bài phát biểu của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Đại hội lần thứ X của Đảng bộ thành phố Hà Nội, tháng
10-1986. (T.G)
[60] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.13
[61] Xem: Sđd, tr.13, 14, 15, 16
[62] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.
212, 15
[63] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.
212, 15
[64] Sđd, tr. 212
[65] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.26
[66] Sđd, tr. 27
[67] Sđd, tr. 27
[68] Sđd, tr. 42
[69] Sđd, tr. 47
[70] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.
60.
[71] Sđd, tr. 46.
[72] Sđd, tr. 34-35.
[73] Sđd, tr.47-48.
[74] Sđd, tr.35.
[75] Sđd, tr.95.
[76] Sđd, tr.83-84
[77] Sđd, tr.147
[78] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, 1993,
tr. 54.
[79] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr. 67.
383
[80] Xem: Sđd, tr, 67-68
[81] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr. 86.
[82] Sđd, tr.80.
[83] Sđd, tr.82.
[84] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr. 17-l8.
[85] Thông báo số 7 1-TBITƯ ngày 7-6- 1997 của Thường vụ Bộ Chính trị.
[86] Trích: Nhận định của Bộ Chính trị trong Chỉ thị số 22 ngày 17-10-1997 Về báo chí xuất bản.
[87] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
[88] Sđd, tr.9.
[89] Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương: Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.33, 36, 39, 45, 48
[90]
[91]
[92]
[93]
[94]
[95] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu (lần 1) Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.42-43
[96] Lê Khả Phiêu: Đảng cộng sản Việt Nam - 70 năm xây dựng và trưởng thành, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2000, tr. 16
[97] Sđd, tr. 16, 17
[98] Sđd, tr. 16, 17
[99] Sđd, tr. 33-44
[100] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 1996, tr.136
[101] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000,t.4, tr4.
[102] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000,t.4, tr4.
384