saigon lam thanhliem

29
1 BIÊN KHẢO Từ Sàigòn tới thành phố Hồ Chí Minh Giáo sư Lâm Thanh Liêm Giáo sư Lâm Thanh Liêm tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Sorbonne- Paris. Trước 1975, ông là giáo sư kiêm trưởng ban Địa lý trường Đại học Văn Khoa Sàigòn, nguyên Tổng thư ký Viện Đại học Saigon. Ông đã giảng dạy tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Minh Đức, Viện Đại học Huế, Viện Đại học Cần Thơ và trường Đại học Sư Phạm Sàigòn. Sau 30/4/75, ông bị cưỡng bách "học tập cải tạo"trong thời gian 3 năm (1975-1977). Sau đó ông làm việc trong ngành nông nghiệp cho tới năm 1979 thì sang Pháp đoàn tụ với gia đình. Hiện hưu trú tại Pháp sau một thời gian làm Chuyên gia khảo cứu (chercheur) của Trung tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học Pháp (CNRS) và giảng sư của Đại học Sorbonne Paris IV. Ái hữu ĐHSP Sàigòn hân hạnh gởi đến độc giả tác phẩm biên khảo sau đây của Giáo sư Lâm Thanh Liêm. MĐẦU TÌNH HÌNH SÀI GÒN SAU NGÀY CHĐỘ MIN NAM BSỤP ĐỔ Sau khi nm chính quyn tại Sàigòn ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyn Hà Ni quyết định thay đổi tc khc danh tthđô miền Nam trthành Thành ph

Upload: vo-nghia

Post on 27-May-2015

624 views

Category:

Education


0 download

DESCRIPTION

SAIGONGiáo sư LÂM THANH LIÊM12-04-2011

TRANSCRIPT

Page 1: Saigon lam thanhliem

1

BIÊN KHẢO

Từ Sàigòn tới thành phố Hồ Chí Minh Giáo sư Lâm Thanh Liêm

Giáo sư Lâm Thanh Liêm tốt nghiệp tiến sĩ tại Đại học Sorbonne- Paris. Trước 1975, ông là giáo sư kiêm

trưởng ban Địa lý trường Đại học Văn Khoa Sàigòn, nguyên Tổng thư ký Viện Đại học Saigon. Ông đã

giảng dạy tại Viện Đại học Vạn Hạnh, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Minh Đức, Viện Đại học Huế,

Viện Đại học Cần Thơ và trường Đại học Sư Phạm Sàigòn.

Sau 30/4/75, ông bị cưỡng bách "học tập cải tạo"trong thời gian 3 năm (1975-1977). Sau đó ông làm việc

trong ngành nông nghiệp cho tới năm 1979 thì sang Pháp đoàn tụ với gia đình.

Hiện hưu trú tại Pháp sau một thời gian làm Chuyên gia khảo cứu (chercheur) của Trung tâm Quốc gia

Khảo cứu Khoa học Pháp (CNRS) và giảng sư của Đại học Sorbonne Paris IV.

Ái hữu ĐHSP Sàigòn hân hạnh gởi đến độc giả tác phẩm biên khảo sau đây của Giáo sư Lâm Thanh

Liêm.

MỞ ĐẦU TÌNH HÌNH SÀI GÒN SAU NGÀY CHẾ ĐỘ MIỀN NAM BỊ SỤP ĐỔ

Sau khi nắm chính quyền tại Sàigòn ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhà cầm quyền Hà

Nội quyết định thay đổi tức khắc danh từ thủ đô miền Nam trở thành Thành phố

Page 2: Saigon lam thanhliem

2

Hồ Chí Minh.

Danh từ nầy được chánh thức hóa, sau đại hội đảng lần thứ tư, nhóm họp tại Hà

Nội từ ngày 14 đến 20 tháng chạp năm 1976, Nước Việt Nam được thống nhất

dưới danh hiệu Cộng Hòa Chủ Nghĩa Việt Nam, lấy Hà Nội làm thủ đô (800 .000

dân, kể cả ngoại ô). Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một thành phố địa phương,

tập trung 1.860.000 dân.

« Vùng thành phố Hồ Chí Minh » gồm thành phố Sài gòn và ngoại ô (2.680.000

dân), cùng 6 huyện nông nghiệp bao quanh (bản đồ số 1) : Nhà Bè, Bình Chánh,

Thủ Đức, Hốc Môn, Củ Chi và Duyên Hải.

Tính đến tháng giêng 1976, vùng thành phố Hồ Chí Minh có 3.5 triệu người, 3.4

vào tháng mười năm 1979, 3.564.000 năm 1981 và 3.563.900 năm 1984 (theo số

liệu thống kê của Hà Nội năm 1985).

___________________________________________________________________________

PHẦN THỨ NHẤT

SƠ LƢỢC LỊCH SỬ, PHONC CẢNH VÀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ

CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH. Mệnh danh là " Hòn ngọc Viễn Đông ", Sàigòn đã từng được giới du khách tây

phương ca ngợi là một thành phố tráng lệ, duyên dáng, năng động kinh tế (dynamisme

économique). Từ thời kỳ Pháp thuộc đến nay, không một thành phố nào của Việt Nam

có thể so sánh với thủ đô miền Nam . Thành phố Sàigòn vẫn bảo toàn ưu thế tuyệt đối

đó hiện nay; Thành phố bậc nhất về số dân và hoạt động kinh tế (thủ công nghiệp,

Page 3: Saigon lam thanhliem

3

công nghiệp, thương nghiệp), thương cảng bậc nhất trên toàn quốc. Mặc dù bị áp đặt

chế độ cộng sản từ năm 1975, nếp sống của dân Sài gòn vẫn còn giữ mãi đặc tính độc

đáo, khác hẳn với đời sống của các thành phố khác, kể cả thủ đô Hà Nội. Thành phố

Hồ Chí Minh vẫn là thành phố »chạy áp phe », hàng hóa tràn ngập, quan hệ thường

xuyên và chặt chẽ với thế giới bên ngoài, khác hẳn với tất cả thành phố khác của Việt

Nam (Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẳng, Qui Nhơn, Nha Trang, Cần Thơ vv…) Tuy

nhiên thủ đô miền Nam lại không có một lịch sử lâu dài. I) SƠ YẾU LÝ LỊCH THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Gốc là một làng đánh cá của người Miên, làng nầy được xây cất tại nơi tiếp lưu của

rạch Bến Nghé và sông Sàigon, gần vị trí của tòa đô chánh Thành phố hiện nay.

Chẳng bao lâu, làng nhỏ bé nầy nắm giữ một vai trò kinh tế quan trọng, trở thành nơi

cư ngụ Hoàng Gia Miên vào năm 1628 (bản đồ số 2). Người Miên gọi làng này là

Prey Nokor (có nghĩa là thủ đô miệt rừng).

Những người Việt đầu tiên khẩn hoang ruộng đất sống tập trung ở miền Đông vào

Page 4: Saigon lam thanhliem

4

năm 1628, tại Biên Hòa, cách Sàigon 30 cây số về phía Đông Bắc. Phần đất nầy là căn

cứ điểm xuất phát của nhóm lưu dân Việt xâm nhập bằng đường lối hòa bình vào lãnh

thổ Miên.

Dần dần, người Việt lấn đuổi dân Khmers về miền Tây Nam phần. Người Miên phải

rời bỏ làng mạc và ruộng đất, sống ẩn náu trong các vùng rừng rậm hoặc các vùng

đầm lầy. Chính sách kháng cự thụ động của họ đã giúp người Việt xâm chiếm lãnh

thổ Miên, tiến dần về phía miền trung ương Nam phần.

Triều đình Huế chính thức sát nhập Biên Hòa vào lãnh thổ Việt Nam năm 1658, Gia

Định năm 1690, Sài gòn năm 1698. Sự bành trướng của các nhóm lưu dân Việt về

phương Nam đưa đến hậu quả sau cùng là dân tộc Miên phản ứng lại mạnh mẽ, nhưng

sự chống kháng của họ đã bị người Việt trấn áp. Nhân cơ hội đó, Triều Đình Huế sát

nhập phần đất nằm giữa Tiền Giang và Hậu Giang vào lãnh thổ Việt Nam.

Chánh sách khẩn hoang ruộng đất và di dân Việt vào miền Nam bị gián đoạn trong

thời kỳ khởi nghĩa Tây Sơn (1773-1802).

Hoàng đế Gia Long (1802-1819) đã thắng trận, dẹp được quân Tây Sơn, tiến vào Gia

Định thành và thiết lập tại thành phố một trung tâm thương nghiệp.

Sau đó, Gia Long tái chiếm kinh đô Huế và giao phó cho Lê văn Duyệt nhiệm vụ trấn

giữ miền Nam. Lê văn Duyệt là một vị trung thần nhà Nguyễn tài ba, biết cách quản

trị, cai trị và bình định lãnh thổ mới vừa xâm chiếm.

Các vị vua nối nghiệp Hoàng đế Gia Long hoàn thành chính sách xâm chiếm đất Miên

ở miền Tây, sát nhập Sóc Trăng vào Việt Nam năm 1840.

Khi người Pháp đến Nam Kỳ năm 1858, Sài Gòn thật ra không hẳn là một thành phố,

mà là các làng mạc tập trung rải rác tại các vị trí của thành phố ngày nay. Một nhân

vật Pháp, Léopold Pallu de la Barrière, trong quyển sách tựa đề « Lịch sử cuộc viễn

chinh ở Nam kỳ năm 1861 » (Histoire de l’expédition en Cochinchine en 1861), đã

mô tả Sàigon vào năm 1861 như sau :

«...đường phố băng xuyên qua vùng trũng thấp, nhà phố ẩm thấp, nói chung khá

nghèo nàn, đó là Gia Định thành mà chúng ta gọi ngày nay là thành phố Sàigòn.

Chắc có lẽ một ngày nào đó, nó sẽ trở thành một thành phố tráng lệ và đông dân

cư, tại những nơi mà hiện người ta còn thấy dấu vết của làng mạc bị chiến tranh

diệt chủng tàn phá... » Một nhân chứng khác, Rodolphe Lindan, tùy viên của tòa đại sứ Phổ (Prusse) ghi

nhận vào năm 1861 như sau :

« Sàigòn không tương xứng với danh nghĩa kinh đô hoàng gia. Đó chỉ là một làng

mạc nghèo nàn, gồm nhiều chòi nhà lá, không một công ốc nào, và không một biệt

thự tư nhân nào đáng dược du khách lưu ý. Để giải thích một thành phố như thế,

đã trở thành một trung tâm của một chánh phủ và một trung tâm thương nghiệp

thịnh vượng, người ta phải nhớ rằng ngành thương mãi lúa gạo hiện vẫn nắm giữ

Page 5: Saigon lam thanhliem

5

vai trò quan trọng tại Nam kỳ, hầu hết do các nhóm lưu dân Trung Hoa nắm giữ.

Họ sinh sống tập trung ở một thành phố riêng biệt, thành phố người Hoa cách

Sàigòn 6 cây số ».

Thành phố người Hoa nầy là Chợ Lớn, được thành lập sau thành phố Sàigon.

Một nhóm lưu dân Trung Hoa đã đến Nam kỳ năm 1680 và đã có công xây dựng

thành phố vào năm 1778. Nhóm lưu dân Trung hoa cư ngụ trước tiên tại Biên Hòa.

Dần dần họ nắm giữ ngành thương nghiệp và ngành vận tải đường sông. Sau đó, họ

đến ẩn náu dọc theo rạch «Bến nghé» (được đổi lại danh hiệu là rạch Trung Hoa), để

lánh nạn giặc Tây Sơn.

Ở cách sông Sài gòn 6 cây số, vị trí của thành phố Trung Hoa thật lý tưởng, vì sông

Sài gòn là đường thủy, thương mãi chuyển vận hàng hóa dễ dàng. Người Hoa đặt tên

thành phố của họ là «Tài Ngon». Danh từ nầy có nghĩa là «Cây Gòn»(một giống cây

mọc thật nhiều ở Nam Kỳ lúc bấy giờ và bông cây gòn được dân Việt và Hoa dùng để

dồn gối và nệm). Người Pháp đọc trại danh từ «Tài Ngon», biến danh từ nầy

thành «Sài gòn».

Bị giặc Tây Sơn tàn phá, Sài gòn tái phát triển dưới thời trị vì của Hoàng đế Gia Long.

Chẳng bao lâu, thành phố trở thành một trung tâm thương nghiệp bậc nhất ở Nam kỳ.

Giao thương giữa Sài gòn và các miền hậu phương rất thịnh vượng, do đó Tổng trấn

Lê Văn Duyệt quyết định chỉnh trang thành phố Trung Hoa :

-Thiết lập một giang cảng, trải đá dọc theo rạch Trung Hoa, xây cất nhiều nhà kho

chứa hàng hóa, ở hai bên bờ rạch.

-Đồng thời, thực hiện nhiều kinh đào, để thoát nước các vùng trũng ẩm thấp, các đầm

lầy, biến các vùng nầy thành ruộng lúa.

Các kinh đào và rạch Trung Hoa lúc bấy giờ cũng được sử dụng làm lộ trình chuyển

vận lúa gạo và các nông sản khác của Nam kỳ về thành phố Trung Hoa. Tại đây, các

nông sản được biến chế trước khi đem ra bán ở các chợ búa Sài gon hay xuất cảng qua

thương cảng Sài gòn.

Chắc có lẽ dưới thời kỳ của Tổng trấn Lê Văn Duyệt, thành phố Trung Hoa được đổi

lại danh xưng : Chợ Lớn, danh từ được lựa chọn chính xác, để chỉ định vai trò đặc biệt

của thành phố Trung Hoa chuyên bán đủ loại hàng hóa và hiện nay, nó vẫn nắm giữ

vai trò quan trọng nầy.

Page 6: Saigon lam thanhliem

6

Bản đồ số 3: Nước bao bọc chung quanh, Sàigòn-Chợ lớn và ngoại ô tạo thành một hòn đảo nhỏ.

Năm 1861, Chợ Lớn có 40.000 dân, 500 nhà lợp ngói năm 1866, đúng là một thành

phố xây cất theo kiến trúc của các thành phố lớn Trung Hoa (nhà cửa thường thấp và

tối tăm). Ban đêm,đèn dầu phọng soi sáng thành phố Chợ Lớn.

Như vậy, trước thờ Pháp thuộc, có hai thành phố khác biệt nhau : người Việt sống tập

trung tại Sài gòn và người Hoa tại Chợ Lớn. Giữa hai thành phố, có một nghĩa trang

rộng lớn (bản đồ 3).

Sau khi xâm chiếm và biến Nam kỳ thành thuộc địa, nhà cầm quyền Pháp biến đổi

hẳn thành phố Sài gòn.

Dường như Đề đốc Le Page là người đầu tiên có công xây cất thành phố, vào năm

1859, chỉ định vị trí bệnh viện, nhà cửa, gian hàng thương mãi.

Thương cảng Sài gòn, do công trình của Tổng trấn Lê Văn Duyệt để lại, được thiết lập

tại chổ tiếp lưu của sông Sài gòn và rạch Trung Hoa. Giang cảng củng được nới rộng

thêm .

Giới thương gia Pháp đến lập nghiệp tại thành phố mới vừa được xây cất năm 1861,

đồng thời, các nhà cố đạo cũng đến đây để truyền giáo. Tu viện, dòng Sainte Enfance

và dòng kín (Carmel) được xây cất.

Nhưng sáng lập viên của thành phố Sài gòn chính là Đề đốc Bonnard. Mới vừa đến

nhậm chức cuối tháng 11 năm 1861, Bonnard yêu cầu đại tá Coffyn thiết lập một dự

án, để thành phố có thể tiếp nhận 500.000 dân, đồng thời dự án nầy cũng dự trù nối

Page 7: Saigon lam thanhliem

7

liền hai thành phố Sài gòn và Chợ Lớn. Bản đồ thành phố đệ trình vào tháng tư năm

1862, đề đốc Bonnard chấp thuận dự án và công trình xây cất cũng bắt đầu ngay vào

năm đó.

Dần dần, hai thành phố phát triển và sau cùng dính liền với nhau tại nghĩa trang trước

kia ngăn cách hai thành phố.

Từ khi nước Việt Nam độc lập vào năm 1954, người ta chỉ gọi « Sài gòn », thủ đô

miền Nam, để chỉ định cả hai thành phố nói trên.

Chợ Lớn vẫn là một trung tâm thương nghiệp và công nghiệp, sản xuất, bán và xuất

cảng các sản phẩm chế biến, qua trung gian của thương cảng Sài gòn.

Sài gòn giữ sắc thái của một thành phố Âu châu, gồm các cao ốc, các gian hàng,

trường học và cơ sở hành chánh.

II) PHONG CẢNH VÀ VỊ TRÍ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Thành phố được xây cất phía hữu ngạn, trong một khúc eo sông Sài gòn, nằm giữa hai

miền có địa thế và hoạt động kinh tế khác biệt nhau, nhưng bổ túc lẫn nhau (bản đồ số

4) :

- Miền đông thuộc thế « đất cao », cao độ trung bình từ vài thước đến 30 thước so với

mặt biển. Miền nầy có 3 loại đất chánh : phù sa cổ, « đất xám » và « đất đỏ ». Các

vùng đất đỏ thật phì nhiêu (gốc đá hỏa sơn tạo thành). Miền Đông được nổi tiếng về

các loại canh tác kỹ nghệ (cao su, đậu phụng, thuốc lá, mía..

- Miền Tây thuộc địa thế « đất thấp » của đồng bằng sông Cửu long, chủ yếu do đất

phù sa tạo thành, cao độ trung bình khoảng vài thước so với mặt biển. Được mệnh

danh là « bồ lúa », miền Tây chuyên về các loại canh tác cổ truyền như lúa, các loại

cây lương thực khác (khoai mì, khoai lang, bắp, vv..).

- Nằm giữa hai vùng có đất đai trù phú và các hoạt động kinh tế khác nhau, thành phố

Hồ Chi Minh được thiên nhiên ưu đãi, nhờ đó, nền kinh tế phát triển tốt đẹp. Sự thịnh

vượng của thành phố lại được thúc đẩy mạnh mẽ thêm nữa, nhờ vai trò thủ đô miền

Nam. Sài gòn là thành phố được thiết lập trên ngã tư đường giao thông quan trọng.

- Quốc lộ 1 chạy dọc theo bờ biển Đông, nối liền thành phố với thủ đô Hà Nội.

- Quốc lộ 1 nối liền thành phố Hồ Chí Minh với Nam Vang.

- Quốc lộ 4 chạy xuyên qua các tỉnh miền Tây được nổi tiếng về ngành sản xuất lúa

gạo.

- Quốc lộ 20 nối liền thành phố Hồ Chí Minh với thành phố nghỉ mát Đà Lạt.

- Xa lộ Sàigon-Biên Hòa, duy nhất ở Việt Nam, chạy xuyên qua vùng kỹ nghệ phía

ngoại ô Đông Bắc thành phố. Khu kỹ nghệ nầy được thành lập vào đầu thập niên 60.

Các trục lộ giao thông do chánh quyền Pháp thực hiện được chỉnh trang và nới rộng

thêm trong thời kỳ chiến tranh xâm lược của Cộng Sản miền Bắc (1965-1975). Quân

lực đồng minh Mỹ đã thực hiện công trình nầy, để giúp đỡ chánh quyền miền Nam có

các phương tiện giao thông tân tiến, đồng thời các quốc lộ cũng được xử dụng làm các

trục giao thông chiến lược, đáp ứng nhu cầu chiến tranh.

- Đường xe lửa « Thống nhất » được xử dụng từ năm 1977, nối liền thành phố Hồ Chí

Page 8: Saigon lam thanhliem

8

Minh với Hà Nội, xuyên qua các thành phố nằm dọc theo bờ biển Trung nguyên

Trung phần

- Sông Cửu Long, sông Đồng Nai, sông Vàm cỏ đông, sông Vàm cỏ tây và sông Sài

gòn ăn thông với nhau, nhờ hệ thống kinh rạch chằng chịt. Sông ngòi và kinh rạch của

đồng bằng Cửu Long tạo thành hệ thống giao thông đường thủy thiên nhiên lý tưởng.

- Cảng Sàigon chỉ tiếp nhận các tàu hàng trọng tải 12.000 tấn, vì lòng sông Sàigon hẹp

và nông cạn (12m bề sâu). Cảng dầu nhà Bè được thiết lập bên bờ hữu ngạn của sông

Đồng Nai, cách cảng Sàigon 15 cây số về phía hạ lưu, tiếp nhận tàu dầu trọng tải

18.000 tấn.

Trong thời chiến, cảng Sàigon không đủ khả năng bốc dở nhanh hàng hóa. Do đó,

quân lực Hoa Kỳ xây cất thêm « tân cảng Sàigòn », cách cảng Sàigon độ 10 km về

phía thượng lưu. Tân cảng thuộc lãnh vực quân sự, các dụng cụ trang bị bốc dở hàng

tối tân. Chiến tranh Việt Nam, thay vì kiềm hãm sự tăng trưởng của thành phố, lại là

cơ hội thuận lợi thúc đẩy mạnh đà phát triển kinh tế của thủ đô Sàigòn .

PHẦN THỨ HAI

CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA SÀIGÒN

Page 9: Saigon lam thanhliem

9

Sự phát triển nhanh chóng của thành phố Sàigòn có thể chứng minh bằng các số liệu

thống kê dân số dưới đây:

- Sàigòn vào năm 1884: 15000 dân.

- Sàigòn và ngoại ô:

* Năm 1923: 117.000 dân

* Năm 1936: 256.000 -

* Năm 1946: 492.000 -

* Năm 1967: 1.376.000 -

* Năm 1975: 1.825.000 -

Trong khoảng thời gian 30 năm, dân số thành phố Sàigòn-Chợ Lớn và ngoại ô tăng

gần gấp 4 lần: 492.000dân năm 1946, 1.825.000 dân năm 1975 (chưa kể dân số ngoại

ô của Gia Định, cách Sàigòn 3 cây số về phía Bắc). Sàigòn-Chợ Lớn-Gia Định tập

trung tổng cộng 2.680.000 dân, trước năm 1975.

Căn cứ trên các số thống kê và các bản đồ Sàigòn Chợ lớn, chúng ta có thể phân biệt 4

giai đoạn phát triển của thành phố.

I) BỐN GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ.

Bản đồ xưa ấn hành năm 1861 cho chúng ta thấy một vài chi tiết quan trọng, trước khi

thành phố phát triển trong giai đoạn 1.

Thật vậy, bản đồ nầy cho thấy trung tâm thành phố cổ xưa được thiết lập tại vị trí của

làng đánh cá người Miên, ở ngã ba sông Sàigòn và Bến Nghé (tức rạch Tàu). Nguyễn

Ánh đã phải ẩn náu tại làng đánh cá nầy nhiều lần, trong thời kỳ khôi phục giang sơn,

chống lại Tây Sơn.

Sau khi thắng trận và trở thành Hoàng đế, Gia Long cho thành lập trung tâm thương

mãi Sàigòn, bên cạnh hào thành (Citadelle) được xây cất trên vùng "đồi" phù sa cổ

(tương ứng với các khu Đại học Văn khoa, Dược khoa và Nông nghiệp hiện nay) chế

ngự các miền bao quanh nhờ hòa bình được vãn hồi. Thương mãi Sàigòn Chợ lớn tái

phát triển mạnh mẽ với các miền hậu phương.

Tổng trấn Lê Văn Duyệt cho xây cất, về phía Nam và phía Đông Nam thành phố, dọc

theo bờ hữu ngạn của sông Sàigòn, bến cảng Sàigòn và các nhà kho chứa hàng hóa.

Đồng thời, các làng mạc, vườn cây ăn trái được thành lập phía dưới chân đồi, giữa hào

thành và trung tâm thành phố cổ xưa. Giới thương gia Pháp đến cư ngụ tại vùng sau

cùng nầy vào năm 1861. Chẳng bao lâu, các công ty thương mãi, ngân hàng, khách

sạn, gian hàng mọc lên như nấm dọc theo các trục giao thông nối liền hào thành với

cảng Sàigòn.

Lúc bấy giờ, các phương tiện giao thông và chuyển vận bằng đường bộ thật hiếm hoi.

Có hai trục lộ trải đá, song song với rạch Tàu (Arroyo Chinois), nối liền hai thành

phố. Việc giao thương giữa hai thành phố một phần lớn do các ghe bầu đảm nhận, sử

Page 10: Saigon lam thanhliem

10

dụng lộ trình ăn thông với sông Sàigòn.

Sông nầy là đường giao thông huyết mạch chuyên chở lúa gạo từ miền Tây đến

Sàigòn Chợ lớn. Thương mãi lúa gạo hầu hết do người Hoa nắm độc quyền, chặt chẽ

quan hệ với các người đồng hương của họ ở các tỉnh Nam kỳ.

1) Giai đoạn tăng trƣởng thành phố lần thứ nhất từ năm 1861 đến trƣớc đệ nhất

thế chiến.

Khi người Pháp đến Nam kỳ, Sàigòn được cải biến nhanh chóng. Theo phương án của

Coffyn, thành phố gồm có 3 rạch bao quanh (bản đồ số 4): rạch Tàu, rạch Thị Nghẻ và

sông Sàigòn. Một kinh đào được dự trùnối liền hai rạch kể trên. Như vậy, kinh rạch và

sông Sàigòn bao quanh cả hai thành phố Sàigòn Chợ lớn và ngoại ô, biến cả hai thành

phố nầy thành một hòn đảo nhỏ. Vì sông rạch bao quanh ba mặt thành phố nên Sàigòn

nắm giữ trước tiên vai trò của một thành phố quân sự, trong khi ấy, Chợ Lớn là một

thành phố thương mãi. Ưu thế thương mãi của thành phố Chợ lớn được nổi bật một

cách rõ ràng sau khi Pháp cho xây cất các trục giao thông bằng đường bộ và đường

thủy nối liền cả hai thành phố Sàigòn và Chợ lớn.

Căn cứ trên hai bản đồ năm 1861 và năm 1882, chúng ta có thể phác họa giai đoạn

tăng trưởng lần thứ nhất của hai thành phố. Khởi đầu, hai thành phố phát triển độc lập.

- Thành phố Sàigòn được nới rộng tứ phía, từ trung tâm thành phố cổ xưa. Sự tăng

trưởng của nó nhờ địa thế bằng phẳng (tương ứng với các thềm phù sa cổ của sông

Sàigòn), nhờ hai trục giao thông và chuyển vận nối liền Sài gòn Chợ lớn với các quốc

lộ phía Bắc thành phố và nhờ hệ thống đường phố chạy dọc theo rạch Tàu. Sở Công

chánh thực hiện công trình đầu tiêntrong việc xây cất thành phố Sàigòn. Công tác

được tiến hành nhanh chóng và thành phố lớn rộng về ba phía:

* Về phía Đông Bắc đến rạch Thị Nghè.

* Về phía Bắc và phía Tây đến đường phố Xô Viết Nghệ Tĩnh (đường Hồng Thập Tự

cũ) và Nguyễn Thái Học.

Sàigòn không mở rộng về mặt phía đông và mặt phía Namvì sông Sàigòn và kinh Tàu

là chướng ngại vật thiên nhiên. Dần dần, các công ốc xâm chiếm vị trí của các làng

mạc. Sau cùng, hào thành được sát nhập vào thành phố. Các đường phố Sàigòn được

xây cất theo hướng chánh Đông Bắc Tây Nam, có khuynh hướng nối liền với thành

phố Chợ lớn.

- Thành phố Chợ Lớn được mở rộng từ trung tâm thành phố cổ xưa. Trung tâm thành

phố được xây cất dọc theo bờ hữu ngạn của rạch Tàu (bản đồ số 2) và có nhiều kinh

đào nhỏ bao quanh, ăn thông với rạch Bến Trâu. Chính người Hoa đã thực hiện hệ

thống kinh đào để thoát nước ứ đọng ở các vùng trũng thấp nầy thành ruộng lúa. Đồng

thời, họ cũng sử dụng hệ thống kinh đào làm đường chuyển vận lúa gạo và các loại

nông sản khác từ các miền hậu phương đến tận Chợ Lớn.

Vì xây cất trên một vùng trũng thấp nên việc mở rộng thành phố gặp nhiều chướng

ngại vật: Nghĩa trang ở phía Bắc và rạch Tàu ở phía Nam. Do đó thành phố chỉ được

nới rộng theo chiều dài về phía Đông và phía Tây. Chính ở phía hai mặt này của thành

Page 11: Saigon lam thanhliem

11

phố có nhiều vùng đất tương đối "cao " (gốc đất lấy từ kinh đào đổ dọc theo hai bờ

kinh và gốc đất phù sa cổ của rạch Tàu) rất thuận lợi cho việc mở rộng thành phố theo

chiều hướng Đông Tây, dọc theo kinh rạch, hệ thống đường phố của Chợ lớn song

song với hệ thống kinh rạch.

Công tác xây cất thành phố Sàigòn Chợ lớn bị gián đoạn trong thời kỳ đệ nhất Thế

chiến vì 3 nước Đông dương mất quan hệ với mẫu quốc.

2) Giai đoạn tăng trƣởng lần thứ nhì của thành phố giữa hai đại thế chiến. Nhờ hòa bình được vãn hồi, giới tư bản Pháp đầu tư tài chánh vào Nam kỳ. Giới trồng

tỉa đồn điền, tìm kiếm các vùng "đất xám" và "đất đỏ", rất thích hợp cho việc thành

lập các đồn điền cao su.

Sự kiện nầy thúc đẩy chánh quyền thuộc địa Pháp thực hiện khẩn trương hệ thống

quốc lộ và thiết lộ. Đồng thời, các vị Toàn Quyền cũng đặc biệt chú trọng đến công

trình thủy nông ở đồng bằng Cửu Long, vào cuối thế kỷ 19, nhằm mục đích biến đất

phù sa mới của đồng bằng nầy thành ruộng lúa.

Do đó, vào cuối thời hậu bán thế kỷ 19, có hai mặt di dân khẩn hoang ruộng đất, xuất

phát từ phía trung ương Nam Kỳ, về hai hướng tương phản nhau :

- Một mặt di dân đổ xô về miền Đông, khai khẩn đất xám và đất đỏ để tạo lập các đồn

điền cao su và các loại canh tác kỹ nghệ khác (trà, cà phê, thuốc lá, đậu phọng,

mía,...)

- Một mặt di dân về miền Tây, khai khẩn đất phù sa để mở rộng diện tích đất trồng

lúa.

Nền kinh tế Nam Kỳ thật thịnh vưọng. Giang cảng Sàigòn xuất cảng điều hòa từ

1.300.000 đến 1.400.000 tấn gạo và các phó sản (trong số nầy khoảng 50.000 hoặc

60.000 tấn gạo của Cao Miên), cao su (hai nguồn lợi chánh của Nam Kỳ). Các nhà

máy xay lúa, các kỹ nghệ nhẹ biến chế tập trung tại Chợ Lớn, kết hợp với vai trò

thương mãi ngày càng phát triển mạnh mẽ, quan hệ chặt chẽ với thành phố Sàigòn.

Sàigòn nắm giữ nhiệm vụ hành chánh, tài chánh, ngân hàng và giang cảng thương

nghiệp. Sự thịnh vượng của hai thành phố thu hút nhân công từ các tỉnh đổ dồn về thủ

đô Nam Kỳ, để sinh cơ lập nghiệp. Hiện tượng di dân nầy lại được thúc đẩy phát triển

mạnh mẽ, nhờ chánh quyền thuộc địa cho thiết lập thêm nhiều trục lộ và thiết lộ. Hệ

thống xe điện nối liền Sàigòn Chợ Lớn, và một thiết lộ nối liền thủ đô đến Mỹ Tho

(dài 72 cây số) được khai thác từ năm 1885, chương trình « Doumer » thực hiện hệ

thống « Thiết lộ xuyên bán đảo Đông Dương » nối liền Hà Nội với Nam Vang, xuyên

qua Sàigòn, được khai thác năm 1936.

Nhờ đó, Sàigòn và Chợ Lớn có cơ hội phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2, quan

trọng hơn gia đoạn 1. Dân số Sàigòn-Chợ Lớn tăng từ 117.000 dân năm 1923 lên đến

600.000 dân, trước đệ nhị thế chiến (trong số nầy có 200.000 người Hoa ở Chợ Lớn),

chưa kể đến 50.000 dân của thành phố Gia Định. Nhịp độ gia tăng dân số Sàigòn-Chợ

Page 12: Saigon lam thanhliem

12

Lớn quá nhanh, vượt hẳn mức dự trù trong kinh tế phát triển thành phố :

- Sàigòn mở rộng đến tận bờ rạch Thị Nghè và rạch Bùng Binh. Hai rạch nầy là đường

ranh giới đã được Coffyn đự trù trong dự án của thành phố. Không thể tăng trưởng

vượt khỏi rạch Thị Nghè rạch Bùng Binh, vì không có cầu và nhiều trũng thấp, nhiều

đầm lầy, nên thành phố Sàigòn chỉ phát triển về phía Tây Nam, giữa rạch Tàu và

đường xe lửa. Dần dần, ruộng lúa, vườn cây ăn trái biến mất, trở thành các khu phố.

Làng mạc cũ được sát nhập vào thành phố. Nhiều cầu được xây cất xuyên qua rạch

Thị Nghè, rạch Tàu,v.v… trong thời kỳ giữa hai đại Thế chiến. Do đó, thành phố có

cơ hội bành trướng, vượt khỏi đuờng ranh giới sơ khởi, sát nhập làng Thị Nghè phía

Đông Bắc và xã Khánh Hội phía Nam vào Sàigòn.

- Chợ Lớn mở rộng thêm trong giai đoạn 2, dọc theo đường xe lửa, lấn dần nghĩa

trang (bản đồ số 6). Địa thế của Nghĩa trang " cao ". Thuộc đất phù sa cổ, khô ráo, tạo

điều kiện lý tưởng cho công trình chỉnh trang nới rộng thành phố về phía Bắc. Trái lại,

việc nới rộng Chợ Lớn về phía Nam (vượt khỏi rạch Tàu) và về phía Tây, đến tận

sông Bến Trâu) gặp nhiều trở ngại vì tại những vùng lầy, có nhiều trũng thấp và ruộng

lúa.

Do đó, thành phố chỉ phát triển theo chiều dài, dọc theo kinh rạch, có đất " cao " (gốc

phù sa cổ hoặc gốc đấ lấy từ kênh đào, được trải dọc theo hai bên bờ kinh), rất thích

hợp cho việc xây cất nhà cửa, kho chứa hàng hóa hay hãng xưởng v.v...

Đường xe lửa và đường phố, song song với rạch Tàu, nối liền Chợ Lớn với Sàigòn tạo

điều kiện thuận lợi để hai thành phố dần dẩn " xích lạỉ gần nhau ". Sự kiện nầy bắt đầu

từ những năm của thập niên 20 : Thành phố Sàigòn tiến dần về phía Tây Nam và

thành phố Chợ Lớn mở rộng về phía Đông (bản đồ số 3). Tuy nhiên hai thành phố vẫn

còn cách biệt nhau. Giữa hai thành phố, vẫn còn nhiều làng mạc, vườn cây ăn trái,

đầm lầy, ruộng lúa. Công trình thoát nước, lấp bằng các trũng thấp, ao đầm, ruộng lúa

đòi hỏi nhiều vốn đầu tư. Vì đệ nhị Thế chến, chính quyền thuộc địa không nhận được

viện trợ tài chánh của mẫu quốc, nên công trình chỉnh trang, nới rộng thành phố

không thể thực hiện được.

3) Gia đoạn tăng trƣởng thành phố lần thứ ba, từ năm 1945 đến 1955 Trong giai đoạn tăng trưởng thành phố lần thứ ba, điều đáng được nhấn mạnh là có

hiện tượng « bùng nổ » dân số Sàigòn Chợ Lớn. Theo sự ước lượng của Viện Quốc

Gia Thống Kê Sàigòn, thì dân số Sàigòn Chợ Lớn kể cả ngoại ô tăng từ 492.000 dân

của năm 1946 lên đến 1.900.800 năm 1955. Như vậy dân số của thủ đô đã tăng gấp 4

lần trong mười năm.

Hiện tượng gia tăng dân số đột ngột lẽ dĩ nhiên là do chiến tranh giành lại độc lập của

Việt Nam gây nên (1945-1955). Vì nông thôn bất ổn, nên nông dân ở các tỉnh phải rời

bỏ làng mạc, nhà cửa, ruộng vườn, đổ dồn về thủ đô miền Nam để lánh nạn. Ngoài ra,

cần kể đến 850.000 đồng bào di cư miền Bắc và việc tập kết quân nhân, công chức về

miền Nam tỵ nạn Cộng Sản, theo tinh thần của hiệp định Genève này 20-7-1954.

Trước các đợt di cư từ miền Bắc và các tỉnh về thành phố Sàigòn Chợ Lớn, chính

Page 13: Saigon lam thanhliem

13

quyền nỗ lực thực hiện công trình chỉnh trang, nới rộng thành phố , vào cuối những

năm 40. Công trình nầy được tiến hành nhanh chóng vào thập niên 50 : nhiều cầu

được xây cất xuyên qua rạch Tàu, kinh Đôi, song song với công trình thoát nước, lấp

bằng các ao đầm, ruộng lúa vv… ở các vùng ven thành phố. Nhờ đó, thành phố được

nới rộng tứ phía, ngoại trừ phía Đông, vì sông Sàigòn, rộng ngót một cây số, là ranh

giới thiên nhiên. Hơn nữa, không có cầu bắt qua sông và địa thế ẩm thấp, nước ngập

lụt hàng năm, vào mùa mưa : việc nới rộng thành phố Sàigòn về phía xã Thủ Thiêm

không thể thực hiện được.

Thành phố phát triển về 4 phía: - Về phía Bắc, vượt khỏi rạch Bùng binh và rạch Thị Nghè, lấn dần các quận phía

Nam của tỉnh Gia Định (Tân Bình, Phú Nhuận, Nình Thạnh). Sự phát triển của thành

phố về phía Bắc có liên hệ chặt chẽ với các trục giao thông nối liền thành phố Sàigòn

với các quốc lộ phía Bắc và Đông Bắc (hướng Tây Ninh, Thủ Đức và Biên Hoà).

- Về phia Nam, đến tận kinh Tàu (canal de dérivation Chinois), sát nhập xã Khánh

Hội vào thành phố Sàigòn.

- Về phía Tây Nam, giữa đại lộ Trần Hưng Đạo và rạch Tàu.

Cùng với sự phát triển của Sàigòn, Chợ Lớn được nới rộng tứ phía :

- Về phía Nam và phía Tây, vượt khỏi kinh Dôi và sông Bến Trâu, biếc các vùng

ruộng lúa thành các khu phố lao động, các kho chứa hàng hóa, các hãng xưởng.

- Về phía Bắc và phía Đông, lấn dần nghĩa trang. Làng mạc lần được sát nhập vào

Thành phố. Nhiều khu phố lao động và nhiều cư xá được xây cất tại các khu đất trống

nằm giữa hai thành phố. Sau cùng, Sàigòn và Chợ Lớn dính liền với nhau, tại vùng

Nghĩa Trang.

Trong giai đoạn tăng trưởng thành phố lần thứ ba nầy, điều đáng được nhấn mạnh là

nhiều khu « nhà ổ chuột » xuất hiện ở ven biên Thủ đô :

- Các « nhà sàn » và « nhà ghe » tập trung dày đặc trên rạch Tàu, ở quận 4, chạy dài từ

cầu Quây đến Chợ Quán, gần Cầu Chữ Y.

- Hai loại cư trú nầy cũng được tìm thấy tại quận 6, dọc theo bến Phú Lâm và Lò Gốm

, nhất là tại quận 8, dọc theo bến Hàm Tử, Bình Đông (trên rạch Tàu), bến Phạm Thề

Hiển (trên kinh Đôi) và dọc theo hai bờ kinh nối liền rạch Tàu và kinh Đôi vừa kể

trên.

4) Giai đoạn tăng trƣởng thành phố lần thứ tƣ, từ năm 1955 đến năm 1975 Chúng ta có thể phân chia giai đoạn phát triển thành phố lần thứ tư nầy ra làm 2 thời

kỳ :

a) Thời kỳ « suy giảm thị dân »(dépeuplement urbain) từ 1956 dến 1960: Theo cuộc điều tra của Viện Quốc Gia Thống Kê Sàigòn năm 1955, dân số Sàigòn

được ước lượng 1.900.800 dân năm 1958. Con số nầy bị giảm xuống còn 1.383.000

dân năm 1958. Như vậy có trên nửa triệu người đã rời khỏi thành phố, trong khoảng

thời gian ba năm. Hiện tượng « suy giảm thị dân » có thể được giải thích bằng nhiều

Page 14: Saigon lam thanhliem

14

lý do :

- Vấn đề hồi hương của kiều dân Pháp (dân sự và quân nhân) và các người Việt có

quốc tịch Pháp, sau ngày ký kết Hiệp Định Genève năm 1954.

- Việc hồi hưong của những người tị nạn chiến tranh khi hoà bình ở nông thôn đã

được vãn hồi.

- Chính sách giải tỏa thành phố Sàigòn được Tổng Thống Ngô Đình Diệm đề ra.

Thật vậy, Tổng Thống Diệm cho ban hành nhiều biện pháp từ năm 1955 đến năm

1957, nhằm mục đích khuyến khích dân « Sàigòn » gốc điền chủ (đã rời bỏ đất đai

làng mạc trong thời chiến) quay trở về nông thôn, đồng thời Tổng Thống Diệm cũng

tìm cách hãm bớt hiện tượng di dân cố hữu từ các tỉnh về thủ đô :

- Theo dụ số 7 năm 1955, tất cả ruộng lúa bỏ hoang sẽ trở thành sở hữu của nhà nước,

nếu điền chủ vắng mặt, không nhìn nhận ruộng hoang nầy thuộc quyền sở hữu của họ.

Ruộng bỏ hoang sẽ được chánh phủ tái phân cấp phát không cho các tá điền.

- Theo dụ số 57 năm 1956, Tổng Thống Diệm thực hiện chính sách cải cách điền địa,

giúp giới tá điền nghèo khó trở thành chủ điền. Ruộng bị truất hữu của giới đại điền

chủ (có trên 100 mẫu tây) được nhà nước bán lại cho tá điền , dưới hình thức tín dụng

(được trả góp lại cho chánh phủ trong 12 năm. - Ngoài những biện pháp vừa nêu trên,

Tổng Thống Diệm thực hiện chánh sách dinh điền và khu trù mật.

Dinh điền có mục đích khuyến khích đồng bài di cư miền Bắc và nông thôn nghèo

khó (đặc biệt nông dân bần cùng ở miền Trung nguyên Trung phần) đến sinh cơ lập

nghiệp, tại các trung tâm nông nghiệp vừa mới thành lập. Chính phủ cấp phát cho mỗi

gia đình định cư một mảnh đất từ 1 đến 2 mẫu. Mỗi gia đình có quyền khẩn hoang đất

thêm 3 mẫu, tổng cộng họ có quyền sở hữu 5 mẫu tây.

Khu trù mật là những cộng đồng nông nghiệp được thành lập, để tập trung các nông

dân cư ngụ rải rác ở các thôn xóm hẻo lánh, xa cách các trục giao thông (do đó chánh

quyền không thể kiểm soát họ được), về sinh cơ lập nghiệp tại những Trung tâm Nông

nghiệp. Chiến lược nầy nhằm mục đích giúp chánh phủ cô lập dân với Việt cộng (tựa

như cá không có nước không thể sinh tồn được).

Khu trù mật to lớn hơn khu dinh điền. Đó là loại cư trú chuyển tiếp giữa thành thị và

nông thôn, có hạ tầng cơ sở của một thành phố: một trung tâm thương mãi (có chợ

búa, tiệm buôn), một khu hành chánh (có chi nhánh bưu điện), một cơ sở xã hội (có

bảo sanh viện miễn phí, nhà giữ trẻ), một trung tâm văn hóa (phòng thông tin, trường

tiểu học và trung học, chùa và nhà thờ.

Khu trù mật có đèn điện. Mỗi gia đình định cư được chánh quyền cấp phát một mảnh

đất gồm có một vườn rau được trồng xen kẽ với cây ăn trái (để đảm bảo tự túc lương

thực). Chính phủ cho nông dân vay nhẹ lãi, giúp họ mua đất trồng ở gần nơi cư ngụ.

Họ được hướng dẫn phương pháp đa canh (polyculture). Ngoài việc trồng lúa, nhà

nước khuyến khích nông dân trồng các loại cây cho nhiều lợi tức như dừa, đậu phọng,

thuốc lá, khoai mì, mía... và cây ăn trái... để thúc đẩy phát triển các thủ công nghiệp

địa phương (lò đường, kỹ nghệ làm dầu ăn, biến chế bột khoai mì v.v...). Thủ công

Page 15: Saigon lam thanhliem

15

nghiệp là yếu tố hữu hiệu, tạo thêm công ăn việc làm để giảm bớt đà di dân từ nông

thôn ra thủ đô Sàigòn hoặc ra các thành phố.

Lúc ban đầu, chính sách giải tỏa thành phố bằng cách tạo lập các cực thu hút kinh tế

địa phương (Pôle d'attraction économique locale) không được các giới chính trị

Sàigòn tin tưởng mấy. Tuy nhiên, sau một thời gian độ vài năm, người ta nhận thấy có

nhiều sự tiến bộ về mặt kinh tế ở các khu dinh điền và khu trù mật: nền nông nghiệp

thịnh vượng, thương mãi phát đạt, đời sống và sức khoẻ của dân định cư được cải tiến

tốt đẹp. Nhờ đó, chính phủ đã thành công trong khoảng thời gian ngắn ngủi tạo lập

được 198 trung tâm nông nghiệp theo kiểu khu dinh điền và khu trù mật:

- 72 trung tâm trên cao nguyên Trung phần.

- 37 trung tâm ở trung nguyên Trung phần.

- 97 trung tâm ở Nam phần.

Các khu dinh điền và trù mật đã đón nhận 50.080 gia đình định cư, tổng cộng có

250.400 dân (trong số đó có 80.325 đồng bào di cư miền Bắc và 70.075 người gốc

Trung nguyên Trung phần). Những người định cư ở các khu dinh điền và khu trù mật

đều là những người tình nguyện.

Tóm lại, chính sách cải cách điền địa, đi đôi với việc tạo lập khu dinh điền và khu trù

mật, đã giúp Tổng thống Diệm giảm bớt đà di dân từ nông thôn ra thành phố Sàigòn

một cách có hiệu quả.

Song song với chính sách hướng dẫn dân di cư từ các tỉnh đến khu dinh điền và khu

trù mật, chính phủ thực hiện chương trình chỉnh trang thành phố, để giải tỏa bớt dân

thủ đô Sàigòn. Giao thương và vấn đề lưu thông xe cộ tấp nập, vào những giờ làm

việc lúc ban sáng,buổi trưa và buổi chiều, làm cho các đường phố chính nối liền

Sàigòn với Chợ Lớn bị tê liệt, xe hơi đủ loại, xe gắn máy, xe đạp vv... tràn ngập

đường phố. Các công trình chỉnh trang thành phố, bị gián đoạn trong thời kỳ chiến

tranh giành độc lập, được chính phủ miền Nam tiếp tục, sau hiệp định Genève năm

1954:

* Xe lửa điện và trục thiết lộ Sàigòn-Mỹ tho bị hủy bỏ. Nhờ đó, các đường

giao thông huyết mạch, đại lộ Trần Hưng Đạo, đường Điện Biên Phủ (đường PHanh

Thanh Giản cũ) và đường Xô Viết Nghệ Tỉnh (đường Hồng Thập Tự cũ) được nới

rộng thêm, đàm bảo việc lưu thông dễ dàng giữa hai thành phố, tiến về phía Bắc thủ

đô. Sau khi cầu Phanh Thanh Giản được xây cất, và cầu Thị Nghè được mở rộng

thêm, đường Điện Biên Phủ và đường Xô Viết Nghệ Tĩnh được nối dài đến xa lộ

Sàigòn-Biên Hoà. Xa lộ nầy được xây cất, nhờ Hoa Kỳ viện trợ kinh tế, kỹ thuật và

chuyên môn.

*Đường xe điện Sàigòn-Gò Vấp bị xóa bỏ. Đường Bùi Hữu Nghĩa được xây

cất tại vị trí của đường xe lửa nầy, nối liền Sàigéon với thành phố Gia Định. Đồng

thời, nhờ viện trợ Hoa Kỳ, chính phủ nới rộng các đường phố hướng Bắc Nam ( các

đại lộ Lý Thái Tổ, Nguyễn văn Cừ, Cách Mạng Tháng Tám vv...). Nhờ đó, việc giao

thương và sự lưu thông xe cộ giữa thành phố Gia Định và Sàigòn đến tận bến cảng

Page 16: Saigon lam thanhliem

16

Sàgòn trở nên dễ dàng. Một chương trình xây cát nhà ở và cư xá nhằm mục đích hữu

sản hóa giới tiểu công chức và giới công chức trung cấp cũng được tiến hành. Công

trình nầy do Tổng Nha Kiến Thiết và Thiết Kế Đô thành Sàigòn đảm trách. Các ao

đầm, các ruộng lúa hay các nghĩa trang ven biên Thủ đô (tại quận 3, chạy dàì từ cầu

Công Lý đến cầu Bông, và dọc theo các đường phố nối liền Sàigòn với Chợ Lớn ở

quận 3 và quận 5) được lấp bằng. Tại những vị trí nầy, Tổng Nha Kiến Thiết và Thiết

Kế Đô thành Sàigòn cho xây cất nhiều cư xá. Nhờ việc tiến hành các công tác chỉnh

trang thành phố kể trên, Sàigòn được nới rộng, đồng thời thành phố Gia Định và các

quận dính liền với thủ đô cũng phát triển: quận Tân Bình, quận Bình Thạnh, quận Phú

Nhuận. Các đường xe buýt công cộng được thành lập, nối liền những quận nầy với thủ

đô. Dân "Sàgòn" có lợi tức thấp (thợ thuyền, tiểu công chức, vv..) thích sống ở các

vùng ven biên Sàigòn, về phía Bắc, Đông Bắc và Tây Bắc, vì tiền phố và nhà cửa ở

các vùng ngoại ô nầy không đắt mấy. Do đó, họ rời thành phố Sàigòn, về sinh sống ở

ngoại ô. Dân số của các xã ven biên thủ đô (quận Gò Vấp, quận Tân Bình và quận

Bình Thạnh) gia tăng cực kỳ nhanh chóng. Từ 64700 dân năm 1951, dân dố các xã

ven thủ đô tăng vọt lên đến 236.000 người năm 1959.Theo cuộc điều tra của Viện

Quốc Gia Thống kê Sàigòn, thủ đô dần dần bị giảm dân số, để tăng cưòng cho dân số

các vùng ngoại ô.

Đà di dân các tỉnh về Sàigòn giảm bớt hẳn, sau một thời gian ngắn ngủi từ năm 1954

đến năm 1960.Hiện tượng di dân nầy tái bộc phát vào đầu thập niên 60. Nhịp độ di

dân từ nông thôn đổ dồn về Sàigéon (quan trọng hơn thời kỳ chiến tranh giành độc

lôp) do chiến tranh xâm lược Cộng Sản gây nên (Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam

chánh thức thành lập vào ngày 20-12-1960).

b/Thời kỳ tăng trưởng thủ đô từ năm 1961 đến năm 1975 (bản đồ số 6).

Chiến tranh xâm lược của Cộn sản Bắc Việt thật tàn khốc và đa diện. Từ năm 1960

đến năm 1963, Tổng thống Diệm gặp nhiều khó khăn, về phương diện chính trị nội

bộ, thừa cơ hội nầy, Mặt trận Giải phóng miền Nam tìm cách bành trướng ảnh hưởng

tại các vùng nông thôn, teho chiến thuật cố hữu " lấy nông thôn bao vây thành thị ".

Thật vậy, sau khi Tổng thống Diệm bị ám sát chết ngày 1-11-1963, tất cả chương

trình chỉnh trang và giải tỏa Thủ đô Sàigờn đang tiến hành, đều bị đình chỉ, đồng thời

chính sách dinh điền và khu trù mật cũng bị tạm ngưng. Tướng Dương Văn Minh nắm

chính quyền, với cương vị Chủ tịch Hội Đồng Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ra quyết

định bãi bỏ chính sách "Ấp Chiến lược", cho rằng khu dinh đìền và khu trù mật không

được lòng dân. Tất cả công trình của Tổng thống Diệm nhằm mục đích giảm bớt cáv

làn sóng người di cưt từ các tỉnh về thành phốSàigòn và cô lậpn "con cá Việt Cộng ra

khỏi nước", trở thành vô ích. Vì hệ thống tự vệ trong các khu dinh điền, khu trù mật

và ấp chiến lược không còn hữu hiệu nữa, nên Măt trận Giải Phóng Miền Nam đã

thành công cài người vào các xã ấp (được dổi lại danh hiệu là "Ấp Đời Mớỉ hay "Ấp

Tân sinh"). Từ năm 1963 trở đi, vấn đề thiếu an ninh tại nông thôn càng ngày càng gia

tăng trầm trọng thêm (Việt cộng phá hoại các trại kiểu mẫu, ám sát công chức xã,

Page 17: Saigon lam thanhliem

17

ấp,vv…). Sự kiện nầy bắt buộc một số đông nông dân phải rời bỏ làng mạc, ruộng

vườn, lánh nạn Cộn sản ở các thành phố. Hiện tượng di dân từ nông thôn về Sàigòn

trở nên mạnh mẽ, kể từ năm 1965. Chế độ miền Nam bị lung lay. Trưóc sự đe dọa của

chiến tranh xâm lược của miền Bắc, chính phủ Sàigòn phải nhờ đến sự can thiệp quân

lực Hoa kỳ và các nước đồng minh khác thuộc "thế giới tự dỏ (Úc, Tân Tây Lan, Phi

Luật Tân, Nam Triều Tiên, Thái Lan). Quân lực đồn minh ồ ạt đổ quân vào miền Nam

(600.000 quân nhân Mỹ từ năm 1968), trong số nầy có 100.000 người (quân nhân và

dân sự) cư ngụ thường xuyên ở Sàigòn. Các đợt di dân từ nông thôn ra thủ đô và các

thành phố tỉnh đưa đến hậu quả là nạn thất nghiệp, nạn khan hiếm nhà trầm trọng. Do

đó, giá nhà đất và tiền thuê nhà tăng vọt. Để đối phó lại những khó khăn nêu trên,

chính phủ thiết lập khẩn trương chương trình chỉnh trang và đô thị hoá Sàigòn:

- Sở Công chánh được giao

phó trọng trách cải tiến hệ thống giao thông và vận chuyển, Tổng nha Kiến thiết và

thiết kế đô thị Sàigòn, thực hiện các công trình làm đẹp thủ đô và xây cất cư xá, nhà ở.

- Khu kỹ nghệ Sàigòn-Biên Hoà đượt đặt ư tiên. Khi các xí nghiệp lần lượt

được thiết lập tại Thủ Đưc (các Sàigòn 10 cây số) và Biên Hoà, công nhân thích rời

thủ đô, cư ngụ ở phía Bắc và phía Đông Bắc Sàigòn, gần chổ làm việc của họ.

- Các công trình đại qui mô đô thị hóa thủ đô (xây cất cầu cống; đường xá)

nới rộng các trục giao thông quan trọng nối liền Sàigòn với các tỉnh do quân đội Hoa

kỳ đảm trách. Một phần lớn công trình làm đường được quân đội Mỹ giao cho các

công ty tư nhân Hoa kỳ thực hiện. Nhờ phương tiện kỹ thuật tân tiến, việc chỉnh trang

đô thành Sàigòn tiến triển nhanh chóng, nhà cửa và đường xáđần dần xâm chiếm các

đồng ruộng bao quanh thành phố Sàigòn.

Page 18: Saigon lam thanhliem

18

Cùng lúc ấy, tướng Nguyễn Văn Thiệu (trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà,

vào tháng 9 năm 1967) phát động chiến lược của Tổng thống Diệm, để đối phó chiến

tranh xâm lược của Cộng sản Bắc Việt. Nhiều biện pháp được ban hành, để kiểm soát

lại nông thôn:

1- Chính sác bình định nông thông. Nhờ quân lực Hoa kỳ yểm trơ, Tổng thống

Thiệu phát động chiến dịch "Phượng Hoàng" (năm 1969-1970), sau khi Việt Cộng bị

thất bại trong cuộc tổng công kích vào các thành phố lớn, năm 1968.

Thật vậy, trong những năm nội bộ chính trị miền Nam bị rối ren, nội các chính phủ bị

thay đổi nhiều lần (sau những cuộc đảo chánh), Mặt trận Giải Phóng Miền Nam nhân

cơ hội nầy bành trướng ảnh hưởng tại nông thôn. Sau đó, Việt Cộng ồ ạt tấn công vào

các thành phố lớn (Sàigòn, Cần Thơ, Đà Nnẵng, Huế, Qui Nhơn vv..); nhân dịp Tết

Mậu Thân (tháng 2 năm 1968). Trong cuộc tổng công kích, Mặt trận Giải Phóng Miền

Nam đã chuốc lấy sự thất bại nặng nề. Nhiều tổ chức của Việt Cộng trong các thành

phố lớn đã bị phát giác và phá vỡ. Thừa dịp nầy, quân lực V.N.C.H. phản công, truy

kích tàn qu^n Việt Cộng , đồng thời thực hiện chính sách bình định nông thôn tronog

những năm 1969-1970; Nhờ đó, chính phủ miền Nam đã thành công kiểm soát lại

thôn dân ở các tỉnh đông dân cư của đồng bằng Cửu Long và Trung nguyên Trung

phần.

2- Tăng cường hệ thống phòng thủ trong các khu định điền, khu trù mật và các

ấp đời mới.

3- Chính sách di dân nông thôn từ các vùng do Việt Cộng kiểm soát về vùng an

ninh quốc gia. Những vùng an ninh nầydo chánh phủ thành lập dọc theo các quốc lộ.

Tổng thống Thiệu áp dụng chiến thuật tiêu diệt các vùng do Việt Cộng kiểm soát,

bằng các dội bom và rải thuốckhai hoang, nhằm mục đich phá hủy rừng rậm, căn cứ

của Việt Cộng. Nông dân phải rời bỏ làng mạc, về lánh nạn trong thành phố hoặc định

cư tại các địa diểm an toàn vừ kể trên.

4- Tiếp tục chuơng trình cải các điền địa còn dang dở của thời Tổng thống

Diệm. Chính sách lấn đất giành dân đưa đến hậu quả là Lực lương VNCH phải đương

đầu với Mặt trận Giải phóng Miền Nam tại nông thôn. Trong những năm 1969-1970,

cuộc chiến đấu đẫm máu diễn ra tại đồng bằng Cửu Long, tại Trung nguyên Trung

phần và trên Cao nguyên. Nhiều làng mạc mới đây được xây cất gần các thành phố và

dọc theo các quốc lộ để đón nhận thêm dân tỵ nạn Cộng sản. Hiện tượn di dân nầy

thật ồ ạt, biến các vùng nông thôn kém an ninh thành các vùng đất hoang vu. Ngược

lại, thị dân ở miền Nam càng ngàng càng tăng nhanh.

Trong khoảng thiời gian 10 năm, thị dân tăng gần gấp đôi, từ 17,7% năm 1964 lên

30,7% năm 1974, khiến các thành phố bị áp;lực nhân mãn nặng nề. Tại các tỉnh, thị

dân của thành phố bậc nhỏ và bậc trung bình tăng gấp 3 và đôi khi gấp 5 lần. Cũng

trong khoảng thời gian nầy, thị dân củ thủ đô Sàigòn và nhiều thị x ã như Cần Thơ,

Huế, vv.. tăng gấp đôi.

Sàigòn bị áp lực nhân mãn thật trầm trọng. Các hạ tầng cơ sở của thủ đô không còn đủ

Page 19: Saigon lam thanhliem

19

khả năng đáp ứng nhu cầu của tính thế mới. Các đợt di dân tỵ nạn Cộng sản, sau năm

1965, khó tìm thuê hoặc mua nhà ở Thủ đô. Do đó, những người nghèo khó phải xây

cất nhà sàn, nhà lá, chòi lá vv..trong các khu phố lao động, xâm chiếm lề đường, phía

sau vĩa hè của cư xá, phố xá, trong đường hẻm. Vì có nạn khan h iếm nhà phố, nên

tiền phố giá nhà tăng vọt. Ở các khu phố lao động, nhà thầu tìm các thương lượng với

chủ nhà, mua lại đất với giá cao. Sau khi bán xong nhà đất, giới lao động nầy rời

thành phố Sàigòn, cư ngụ ở ngoại ô. Tại vị trí các khu lao động kể trên, nhà thầu cho

xây cất các biệt thự hoặc cao ốc (gồm 5 hay 7 tầng lầu) , cho Mỹ thuê. Trước những

đợt di dân tỵ nạn Cộng sản vào thủ đô từ năm 1965 đến năm 1975, thành phố Sàigòn

mở rộng về ba phía (bản đồ số 6):

-Phía bắc ngoại ô: Nghĩa trang (nằm giữa Sàigòn-Chợ Lớn), ruộng lúa và vườn

cao su Phú Thọ dần dần biến mất. Tại những vị trí nầy, nhiều công ốc (bện viện, căn

cứ quân sự, khu đại học vv..), nhiều cư xá của giới khá giả (Cư xá Chí Hoà), giới

trung lư (Cư xá Lữ gia ở Phú Thọ) vv..được xây cất bên cạnh các làng mạc cổ xưa.

Sau cùng, những làng mạc nầy được sát nập vào thủ đô, trở thành các xóm lao động.

-Phía tây ngoại ô: Thủ đô Sàigòn bành trướng về phía Tây, vượt khỏi nhà ga cũ

ở Phú Lâm, dọc theo đại lộ Hậu Giang (nối liền Chợ Lớn với quốc lộ 4). Tại Phú

Lâm, nhà nước cho thiết lập "Xa cảng miền Tâỷ. Tất cả xe hàng, xe đò đều phải đậu

tại xa cảng nầy, để bốc dỡ hàng hóavà để hành khách xuống xe.

Nhờ xa cảng miền Tây, thương mãi ở Phú Lâm trở nên tấp nập, do đó, một trung tâm

thương mãi mới được thành lập, đồng thời nhiều cơ xưởng, kho chứa hàng hóa, chợ

búa, phố xá được xâycất, xâm chiếm dần dần các ruộng lúa, vườn cây ăn trái, vường

trồng rau nằm dọc theo quốc lộ 4. Sự phát triển đột ngột của thành phố Sàigòn về phía

Bắcvà phía Tây, vượt khỏi ranh giới thủ đô đã được dự trù. Hai thành phố Gia Định

gàa Sàigòn sau cùng tiếp giáp với nhau. Các khu đất trống ở quận Tân Bình, Phú

Nhuận và Bình Thạnh thuộc tỉnh Gia Định biến thành các khu phố, dính liền với thủ

đô. Các khu phố nầy chạy dài từ Thị Nghè (phía Đông Bắc) đến tận Phú Lâm (phía

Tây).

-Về phía Nam: Thủ đô Sàigòn vượt khỏi Kinh Đôi và Kinh Té. Tuy nhiên, sự

phát triển về phía Nam không đồng đều giữa Sàigòn và Chợ Lớn:

* Sàgòn chỉ mở rộng về Cảng dầu hỏa NHà Bè, phía Đông Nam, nhờ hệ

thống giao thông công cộng tưong đối hoàn hảo. Nhiều khu lao động mới xuất hiện,

xen kẽ với các nhà kho chứa hàng hóa, các hãng xưởng thủ công nghiệp, các tiệm

chạp phô, các nhà hàng, tiệm cà phê vv.. Việc mở rộng thành phôa Sàigòn về phía hữu

ngạn củ Kinh Té gặp nhiều trở ngại, vì không có cầu bắc ngang qua kinh và hơn nữa,

ở phía Nam thành phố, có nhiều trũng thấp, sâu, đầy sình lầy, và ngập nước vào mùa

mưa. Do đó, địa thế nầy không thuận lợi cho sự phát triển thành phố về phía Nam.

*Trái lại, ở phía Nam củ vùng Chợ Lớn, nhiều cầu được bắc ngang qua kinh

rạch như cầu chữ Y, cầu Nhì vv.. tạo điều kiện thích hợp cho việc mở rộng thành phố

Sàigòn và Chợ Lớn về phía xã Chánh Hưng và Bình Đang thuộc nhà Bè:

Chỉ trong khoảng thời gian 15 năm, dân số của nhiều xã thuộc các quận Tân Bình,

Page 20: Saigon lam thanhliem

20

Phú Nhuận, Gò Vấp, Nhà Bè vv.. tăng gấp 10 lần. Từ 236.000 ngàn năm 1960, dân số

ngoại ô Sàigòn tăng vọt lên 2.140.000 người, năm 1974. Nhiều quận mới được thành

lập. Sàigòn có 5 quậnn năm 1954, có 11 quận trưóc khi chính quyền miền Nam bị sụp

đổ. Kể từ năm 1975 đến nay, thành phố Hò Chí Minh không còn mở rộng thêm nữa.

Các công trình chỉnh trang và đô thị hóa còn dang dỡ của thời V.N.C.H đều bị đình

chỉ, vì Nhà Nước không có phương tiện tài chánh, để tiếp tục công tác. Hơn nữa, với

chinh sách giảm dân thành phố Hồ Chí Minh, chánh quyền Hà Nội đã cho ban hành

nhiều biện pháp (từ năm 1975 đến năm 1985), nhằm mục đích ngăn chận hiện tượng

di dân cố hữu từ tỉnh về thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời, chính quyền thành phố

tìm các "lùa" 1.800.000 dân Sàigòn di vùng Kinh tế mới. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩ

Việt Nam, những nguời lao động "buôn gánh, bán bưng", giới tiểu thương, trung

thương và giới đại thương gia đều bị xem là những thành phần "không sản xuất", ăn

bám, nguy hại, không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trung thương và đại

thương gia đều bị quy vào tội "tư sản thương nghiệp và tư sản mại bản". Họ là "kẻ thù

củ nhân dân", cần phải tận diệt họ. Trở thành thủ đô địa phương miền Nam từ năm

1975, thành phố Hồ Chí Minh đã mất hẵn đặc tính năng động kinh tế và dân số không

còn gia tăng nhanh chóng, khác hẵn với thời Việt Nam Cộng Hoà.

II) ĐẶC TÍNH Và VAI TRÒ CỦA CÁC QUẬN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Viện Quóc gia Thống kê Sàigòn đã nghiên cứ các loại cư trú của thành phố Sàigòn.

Kết quả của cuộc điều tra nầy được phổ biến vào năm 1962. Tài liệu thật quý báu, cho

thấy và đặc tính vai trò của các quận thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ trên bản đồ số 7, người ta nhận thấy các bố trí và vai trò của các quận thành

phố Chợ Lớn và Sàigòn khá giống nhau.

1- Các khu vực hoạt động thƣơng mãi.

Cả hai trung tâm thành phố cổ xưa đều là hai

khu vực thương mãi quan trọng từ trước đến

nay.

-Tại Sàigòn, các hoạt động thương

mãi đặc biệt tập trung quanh chợ "Bến

Thành", bên cạnh nhà ga, đối diện với công

trường Diên Hồng. Các đại lộ huyết mạch

(đại lộ Trần Hưng Đạo, Hàm Nghi, đường

Lê Thánh Tôn, Lê Lai vv..) đều qui tụ về chợ

Bến Thành, và tại đây, bộ hành và xe cộ lưu

thông tấp nập. Một vài đường phố như

đường Đồng Khởi (đường Tự Do cũ), đại lộ

Nguyễn Huệ, được nổi tiếng là những đường

phố thương mãi: các cửa hàng, các siêu thị,

các phòng trà ca nhạc, nhà hàng vv..tập

Page 21: Saigon lam thanhliem

21

trung kề sát nhau, dọc theo hai bên đường phố, chạy dài từ Vương Cung Thánh

Đường đến tận bến Chương Dương. Hiện nay, các phòng trà ca nhạc, các nhà hàng

khiêu vũ tư nhân không còn hoạt động nữa. Nhà nước đã tịch thu tài sản của các nhà

"tư sản mại bản và tư sản thương nghiệp" dọc theo các dường phố thương mãi, biến

các phòng trà, nhà hàng khiê vũ vv.. thàanh các cửa hàng quốc doanh, chuyên bán các

kỹ vật, mỹ phẩm, và đồ tiểu thụ công nghiệp vv..Các khách sạn và nhà hàng sang

trọng như khách sạn Độc Lập (Caravelle cũ), Cữu Long (Majestic cũ) đường Đồng

Khởi, Hữu Nghị (Palace cũ) và Bến Thành (Rex cũ) đường Nguyễn Huệ được cải biến

thành khác sạn và nhà hàng, có tổ chức khiêu vũ. Những nơi giải trí nầy chỉ dành

riêng cho các khách du lịch ngoại quốc , các "cố vấn" của khối Liên Sô. Họ phải trã

chi phí bằng ngoại tệ. Khu vực làm "áp phẻ nằm dọc theo sông Sàigòn, từ bến

Chương Dương đến Cầu Móng tập trung nhiều cao ốc, nhiều ngân hàng, nhiều công ty

thương mãi ngoại quốc dưới thời Việt Nam Cộn Hoà, thương mãi tấp nập. Nhưng

hiện nay, khu vực làm "áp phe" nầy trở nên vắng vẻ, vì giới kinh doanh ngoại quốc đã

chấm dứt mọi giao thưong với Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Ngân hàng,

trụ sở thuơng mãi của người ngoại quốc đều bị tịch thu.

-Tại Chợ Lớn, thương mãi vẫn còn tấp nập dọc theo đường phố Trần Hưng

Đạo, Đồng Khánh, Nguyễn Tri Phương vv.. Sau các đợt đánh "tư sản mại bản và tư

sản thương nghiệp" trong những năm 1976, 1798 , 1983, 1985, hầu hết các cửa hàng,

các siêu thị, các tiệm buôn đều bị tịch thu, biến thành các cửa hàng quốc doanh,

chuyên bán các nhu yếu phẩ (gạo, rau..) cho dân ở các phố. Khác hẳn với các cửa

hàng quốc doanh, hiếm hoi hàng hoá, các cửa hàng tư thương được trưng bày đủ loại

mặt hàng nhập cảng (bia hộp, thuốc lá, thuốc men, rượu, xe đạp, xe gắn máy, đồ phụ

tùng, radio-cassettes, đồng hồ đeo tay vv..). Những hàng nhập cảng nầy do thân nhân

người Việt ở rải rác khắp thế giới (Bắc Âu, Tây Âu, Bắc Mỹ Châu, Úc Châu vv..) gởi

quà về giúp đỡ gia đình còn bị "kẹt" ở Việt Nam, đặng bán để sống qua ngày. Người

ta có thể mua đủ thứ loại hàng hoá…miễn là có tiền!

2- Các khu phố thuộc giới trƣởng giả và giới trung-lƣu

Một phần lớn các giới truởng giả và trung lưu cư ngụ tại quận nhất và quận ba. Các

khu phố nầy được xây cất trên "đồi", gốc thềm phù sa cổ của sông Sàigòn, chế ngự

bao quanh các kkhu thương mải vừa kể trên. Nhờ vào vai trò cựu thủ đô miền Nam,

thành phố Sàigòn có một khu vực hành chánh tập trung trước kia nhiều bộ của nội các

chánh phủ, nhiều tòa đại sứ đối diện với dinh" Độc Lập". Khu phố hành chánh nầy

nằm giữa các khu phố của giới trưởng giả Sàigòn và các khu thương mãi. Các đường

phố rộng lớn cắt nhau thẳng góc. Dọc theo phố có hai hàng cây cao (cây me hoặc cây

ca sao), tàng lá xum xuê, tỏa ra nhiều bóng mát, che phủ các công ốc, các biệt thự

nguy nga, tráng lệ, tạo cho khu phố hành chánh và các khu phố của giới trưởng giả

Sàigòn một vẻ đẹp độc đáo, uy nghi hoàn toàn tương phản với các xóm lao động.

3- Các xóm lao động

Page 22: Saigon lam thanhliem

22

Đa số dân lao động có đồng lương thấp kém (công nhân, tư chức, công chức, tiểu

thương) phải sinh sống ở các xóm lao động. Các xóm lao động nầy thường chiếm các

vùng biên thủ đô

Tại Sàigòn, các xóm lao động tập trung ở phía Nam và Đông Nam trong các vùng

trũng thấp (trước kia là các ao đầm, ruộng lủa đã được lấp bằng) như xóm Câu Muối (

giống tựa như khu “les halies” của Ba Lê xưa kia) thuộc quận nhì, các khu Bàn Cờ,

Vườn Chuối ở quận 3 và Khánh Hội ở quận 4. Chính trong các xóm lao động kể trên,

có nhiều hãng xưởng tiểu thủ công nghiệp được thiết lập trong các đưòng hẻm, phía

sau các cao ốc và nhất là dọc theo hai bên bờ rạch Bển Nghé và Kinh Té. Nhưmg các

xóm lao động được nổi tiếng nhất tập trung tại Chợ Lớn (quận 5 và quận 6). Một phần

lớn nhà cửa tại đày là nhà lá, nhà tranh vv..mà người ta gọi là nhà ổ chuột, được xây

cẩt chen chút dọc theo kinh Bển Nghé và Kinh Đôi, và dọc theo các kinh phụ ăn thông

với sông Sàigòn. Các khu nhà ổ chuột nằm xen kẽ với các kho chứa hàng hoá, các

hãng xưởng ( xưởng dệt, xưởng chế biến các chế phẩm tiêu thụ bằng chẩt nhựa dẽo,

các dụng cụ bếp núc, đồ điện, đồ phụ tùng xe đạp, xe gắn máy, thực phẩm w..) và nhất

là nhà máy xay lúa hoạt động ồn ào suốt ngày. Các kinh rạch đầy

. Nhiêu đống gỗ, sắt vụn, bao

lúa. rác rến nằm ngổn ngang, dọc theo hai bên bờ kinh rạch.

4 - Một khu kỷ nghệ tân tiến.

Khu kỹ nghệ tân tiến được thành lập trong thời kỳ thập niên 60, tại phia Đông Bắc

Sàigòn, dọc theo xa lộ Sàigòn - Biên Hoà. Được nổi tiếng nhất là các ngành kỹ nghệ

dệt, luyện kim (lò luyện sát, thép, đồng, gang) và các lãnh vực kỹ nghệ nhẹ biến chể

(sản xuất được , các chẩt hoá học, các đồ điện w..) Chúng ta có thể đưa ra một

vài nhận định, về vi trí và vai trò các khu phố của thành phố Hồ Chí Minh :

a- Sự tương phản rõ rệt giửa các khu phố cư ngụ của giới trưởng giả và các xóm lao-

động.

Trong các khu phố cư ngụ của giới trưởng giả, hình thức cư trú điển hình là các biệt

thự sang trọng, xung quanh có một mảnh vườn, đây đủ tiện nghi. Nhà cửa ở các khu

phố nầy đẹp nhất trong thành phố. Mỗi biệt thự được che khuất một cách kín đáo. nhờ

một hàng rào trồng cây hoặc một bức tường cao khoảng hai thước. Phía dưới mỗi của

sổ, người ta vẫn còn thấy máy điều hoà không khí, nhưng hiện nay những máy này

không còn được xử dụng nữa. Để tiết kiệm năng lượng, nhà nước cẩm dùng tẩt cả các

loại máy tiêu thụ điện (máy lạnh. tủ lạnh, máy đông lạnh w..). Từ tháng 7 năm 1983,

điện của các khu phố thuờng hay bi cúp, trung bình 5 buổi ban ngày và 2 đêm mỗi

tuàn lễ. Nhà nước hạn chế tối đa vấn đề tiêu thụ điện, bình quân 60Kw/giờ cho mỗi

gia đình. Nếu vượt khỏi tiêu chuẫn nầy, người tiêu thụ sẽ bi phạt tiền : giá điện sẽ tăng

gấp đôi, Nếu trường hợp còn tái phạm, thì nhà nước sẽ cúp điện vĩnh viễn.

Các khu cư ngụ của giới trưởng giả và giới trung lưu xây cẩt gần vườn Tao Đàn và

vườn Bách Thú, hệ thống giao thông công cộng tưong đổi hoàn hảo nhất, đường phố

rộng lớn, yên tĩnh, có hai hàng cây cao tỏa bóng mát dọc hai bên lề đường, khác hẵn

với các xóm lao động, ồn ào náo nhiệt, bi áp lực nhân mãn, không có công viên,

Page 23: Saigon lam thanhliem

23

không có trồng cây dọc theo các đường phố. Trong các xóm lao động, đường hẻm

chật hẹp, ngoằn ngoèo, nhà cửa lụp xụp, kề sát nhau, không được xây cất ngay hàng

thẳng lối (vật liệu rẻ tiền: mái nhà lợp bằng lá, bằng “tôn” (tôles), vách bằng gỗ đủ

loại hoặc bằng giấy dày w..). Bề rộng của nhiều đường hẻm đôi khi không quá một

thước, đường cũng không được trải đá hay tráng nhựa, trở nên lầy lội vào mùa mua.

Nhiều xóm lao động có loại cư trú tệ hại hơn nữa: nhà sàn, “nhà nổi" hay “nhà ghe”,

mái lợp hàng lá hay tranh, vách làm bằng giấy dày, chiếu vv.. được đóng đính vào

một sườn gổ. Các loại nhà ổ chuột nầy không có cầu vệ sinh, không có nhà tắm,

không đèn điện. Dân lao động sử dụng nước kinh rạch để tắm rửa, giặt quần áo, ngoại

trừ nước uổng, nước nấu ăn lẩy từ các vòi nước công cộng. Rác rến, nước dùng trong

thành phố chảy thoát về kinh rạch làm ô nhiễm nước dùng của xóm lao động. Lúc

nước ròng, nước kinh rạch trở nên vàng hoặc đen, tỏa ra mùi hôi nặc nồng. Dân cư

của các xóm lao động sinh sống trong diều kiện vô cùng kém vệ sinh, nhất là ở các

xóm lao động nằm dọc theo hai bên bờ kinh rạch.

b- Mật độ dân sốcực cao trong các xóm lao động.

Cuộc điều tra dàn số của Viện Quốc Gia Thống Kê Sàigòn năm 1958 và năm 1967

cung cấp nhiều số liệu quý báu về các loại cư trú và cách xử dụng đẩt đai trong thủ đô

Sàigòn. Kết quả của hai cuộc điều tra nầy có thể được đúc kết bằng bản thống kê như

sau :

Căn cứ vào các số liệu trên, chúng ta có thể đưa ra một vài nhận xét:

- Ðất đai dành cho khu vực hành chánh chiếm một diện tích khiêm nhường : 6%

tống số diện tích xây cốt trong thành phố. Các công ốc tập trung một phần lớn tại quận

1.

- Các khu quân sự chiếm 6,3%, tỷ lệ cao, vì lúc bẩy giờ, miền Nam đang bị lâm

vào thời chiến. Nhiều căn cứ quânsự được thiết lập rải rác ở các vùng ven đô, tại các

địa điểm then chốt, trước khi tiến vào thủ đô Sàigòn.

- <i<="" i="">: 2,1%. Từ thập niên 60, chính phủ áp dụng nhiều biện pháp để

ngăn chận các hãng xưởng xây cất trong thành phố, ngoại trừ các xi nghiệp nhỏ có

tính cách “gia đình” và các tiểu thủ công nghiệp. Hơn nữa, giá đất đai trong thành phổ

càng ngày càng tăng vọt, không thuận lợi cho giới kinh doanh đầu tư thành lập các

Page 24: Saigon lam thanhliem

24

hãng xưởng. Theo chính sách giải tỏa thủ đô, nhà nước khuyến khích các kỹ nghệ gia

xây cất các xí nghiệp mới, trong khu vưc kỹ nghệ Sàigòn - Biện Hoà.

Khu kỹ nghệ này được thành lập trên vùng đẩt “cao” (gốc các thềm phù sa cổ hay “đất

xám") năm phủ lên trên lớp đá cứng rắn, tạo điêu kiện lý tưỏng cho việc xây cất các xí

nghiệp tân tiển. Ngoài ra, giá đất khu kỹ nghệ Sàigòn - Biên Hoà không cao, do dó,

thu hút kỹ nghệ gia: khoảng 20 xí nghiệp được thành lập năm 1962 và lần lượt nhiệu

xí nghiệp khác xuất hiện, vào cuối thập niên 60 (phụ bản danh sách các xi nghiệp

được xây cẩt ở Sàigòn và ngoại ô, từ năm 1955 đến năm 1973).

- Đẩt đai được xứ dụng trong lãnh vực thương-mãi chỉ chiểm 0,5%, tỷ lệ kém

cỏi so với diện tich thành phổ Sàigòn, và vai trò thương mãi chiểm ưu thế tuyệt đối,

vuợt hẳn các lãnh vực kinh tế khác.

- Ðất đai dành cho các khu cư ngụ của giới trưởng giả chiếm 5,6%, tỷ lệ rất cao, có

khoảng 11 ngàn gia đinh truởng giá sinh sống tại những khu sang trọng này. Một số

gia đình giàu có đã di tản truớc ngày 30-4-1975. Ða số ga đinh còn “kẹt” ở lại Sàigòn,

bị “chánh quyền Cách Mạng" truy nã, nhân các đợt đánh “tư sản mại bản và tư sản

thương nghiệp” vào tháng 9-1975 và trong các tháng 3-5 năm 1978. Nhà cửa, tài sản

đều bị tich thâu. Một số gia đình, cũng các thân nhân, phải rời khỏi thành phổ Hồ Chí

Minh, để sinh cơ lập nghiệp tại các vùng kinh tế mới, trở thành nông dân. Nhà nước

tịch thu các của hàng, các xi nghiệp, các văn phòng. Những cơ sở này trở thành các xi

nghiệp quóc doanh. Biệt thự và xe du lich của họ được cắp phát cho giới cán bộ cao

cấp. Đa số các cấp lãnh đạo này gốc ở miền Bắc vào Nam sau ngày 30-4-1975. Biệt

thự được bộ đội canh gác cẩn thận. Họ được nhà nước ban cho nhiều “ân huệ vật

chất”, di chuyển bằng xe du lich, có tài xế lái và cận vệ. Họ tạo thành “giai cấp

thượng lưu" mới mẻ tại thành phố Hồ Chi Minh. Đa số người của "giai cấp thượng

lưu" này gốc nông dân, dốt nát, quê můa, có trình độ học vấn thấp kém, chưa học

xong bậc tiểu học.

- Đất đai dành cho các khu cư ngụ của gíới trung lưu chiếm 25,3%.

- Đất đai dành cho các xóm lao động chiếm tỷ lệ thật cao: 54,2%</i

Xuyên qua bốn giai đoạn phát triển của thành phố Hồ Chí Minh, diện tích tăng vọt

gấp đôi, trọng vòng 40 năm. Từ 36 Km2 năm 1936, con số nầy đã vượt lên 70 Km2

năm 1975. Mật độ dân số trung hình của thành phố rất cao: 36.000 người km². Nhưng

mật độ nầy không phản ảnh thực tế bi đát của các xóm lao động kém vệ sinh. Dân cư

sinh sống chen chúc và số dân lao động của thành phổ chiếm gần hai phần ba tổng số

dân Sàigòn. Tại các khu nhà ổ chuột quận 5, phía Nam Chợ Lớn, mật độ dân số lên

đến 7l.000 nguời Km² và 65.000 người ở các Xóm lao động của quận 4, phía Nam

Sàigòn.

Sự kiện nầy đặt cho chánh phủ Hà Nội nhiều khó khăn. Làm thế nào đối phó lại tình

trạng kinh tế và xã hội bi đát đó, do hậu quả của 30 năm chiến tranh tàn khốc để lại?

Làm thể nào giải quyết cùng một lúc:

- Nạn thất nghiệp càng ngày càng trầm trọng tại Sài

...). Từ khi Hiệp định Ba Lê được ký

Page 25: Saigon lam thanhliem

25

kết ngày 27-01-1973?

- Vẩn đề chuyển nghề đối với binh sĩ, công chức của chánh quyền miền Nam và

chuyển nghề đối với những người trước kia sinh sống nhờ chiến tranh (nhà hàng, hộp

đêm, nhà khiêu vũ vv..), nhờ thương mãi và các dịch vụ khác. Những ngành họạt động

kinh tế tư nhân nầy không còn thích hợp nữa, dưới chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ

Nghĩa Việt Nam hiện tại.

Việc cải tạo kinh tế , xã hội miền Nam không phải là một việc đơn giản. Trước khi đề

cập đến các vẩn đề nầy, chúng ta thử xét qua các khía cạnh dân số và họạt động kinh

tế của thành phố Hồ Chí Mính.

Page 26: Saigon lam thanhliem

26

Page 27: Saigon lam thanhliem

27

Page 28: Saigon lam thanhliem

28

Page 29: Saigon lam thanhliem

29

(còn tiếp...)

Gs Lâm Thanh Liêm

%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%%