suc manh vo thuc
DESCRIPTION
Suc manh vo thuc, the power of unconsciousnessTRANSCRIPT
3. Phương pháp luyện tập:
KHAI MỞ SỨC MẠNH VÔ THỨC
Luyện tập Vô thức không đơn giản là luyện tập trạng thái nửa thức nửa ngủ, mà là luyện tập phát triển năng lượng sinh học của bàn tay, tác động vào các vị trí trí tiềm năng bí ẩn trên cơ thể, đã vận hành guồng máy Vô thứcđang im lặng hoạt động trong cơ thể, làm cho nó hoạt động mạnh mẽ,giải trừ ô trược, sửa chữa mọi khiếm khuyết, có hiệu quả dưỡng sinh vô cùng to lớn. Khi giải trừ hết năng lượng ô nhiễm, con người hết bệnh tận gốc, đượchấp thụ đầy đủ năng lượng sạch Prana, đạt tới chất lượng sống hoàn hảo.
* Hai giai đoạn luyện tập:
- Bước đầu luyện tập: Bài thể dục vô thức.
- Khai thông Sức mạnh Vô thức. Hệ A,B,C.* Học viên được hướng dẫn 3 năm đầu, gồm 10 buổi :
- Thể dục vô thức: Học 2 buổi.- Hệ A: Khai thông kinh mạch. Bài 1, 2, 3. Học 4 buổi.- Hệ B: Siêu thoát. Học 2 buổi.- Hệ C: Phát triển tiềm năng não bộ. Học 2 buổi.
Nếu không có điều kiện học trực tiếp trên lớp, học viên tự học qua sách hướng dẫn
hoặc website. Sau 3 năm đạt được thành tựu luyện tập, học viên đã phát triển trí tuệ, tự
mình tiếp tục con đường luyện tập do mình cảm thụ được. Khi cần được giúp đỡ thông
qua website: http://sucmanhvothuc.com.
* Tóm tắt quá trình Khai mở sức mạnh Vô thức:
Quá trình luyện tập Vô thức tác động từng bước, từ tác động toàn diện đến tác động
chiều sâu từng bộ phận, và khai mở các vị trí tiềm ẩn đánh thức Sức mạnh vô thức tự sửa
chữa điều chỉnh các bộ phận, tìm lại bản thể vốn có của mình. Học viên được chỉ dẫn tự
kiểm tra kết quả của từng bước luyện tập, căn cứ vào một số dấu hiệu chuyển biến trong
cơ thể.
- Bài thể dục mở đầu, gồm 3 động tác thể dục và 3 phép thở an lạc, vận hành hoạt
động Kinh mạch, kéo khí xuống chân, chữa một số bệnh, ăn ngủ tốt, nước bọt ngọt, chân
tay hết lạnh.
- Hệ A - Bài tập số 1 tác động vào ngón tay, ngón chân giúp tăng cường hoạt động
Vỏ não và tuyến Yên, dẫn tới sự khai mở quan trọng nhất: Khai mở Hà Đào Thành, đánh
thức Sức mạnh Vô thức, đủ công lực đẩy hết trược khí thoát qua Hà Đào Thành và các lỗ
chân lông, giải trừ ô nhiễm toàn cơ thể.
- Hệ A - Bài tập số 2 giải trừ ô nhiễm cho các vị trí trọng yếu trên cánh tay, chân, lục
phủ ngũ tạng.
- Hệ A - Bài tập số 3 giải trừ ô nhiễm chuyên sâu trung tâm não bộ, phục hồi hoạt
động tuyến Yên.
- Hệ B - giải ô trược thể mịn vi tế hơn, bám dính ẩn sâu xương tủy ( nghiệp lực ),
quét sạch ô trược thì tất cả luân xa và huyệt đạo sẽ thông suốt, đạt cân bằng âm dương.
Thiền định mới có giá trị mong muốn. Đạt tâm an lạc, cuối đời siêu thoát.
- Hệ C - Phát trển tiềm năng não bộ, tẩy não hết bưng bít ô trược, phát triển năng
khiếu mỗi người, kết nối Cội gốc Prana.
Sau 3 năm luyện tập hoàn thành tu sửa cơ thể, hệ C bắt đầu đi sâu vào sự im
lặng, chủ yếu Quỳ lễ và Thiền Trường sinh, tu sửa não bộ.
Toàn bộ bài tập Vô thức đã lần lượt khai mở 12 cái khóa Năng lượng thường xuyên
bị ô trược mắc kẹt, chưa biết sử dụng đúng mức. Đó là: Đầu ngón tay chân, cổ tay, khuỷu
tay, nách, Hà Đào Thành, điểm Trường sinh, Thần khuyết, Lá mía, Thiên đột, Ấn đường,
bột Địa long, đá Téctit. Nhờ giải phóng sức mạnh tổng thể đó, mới giải trừ hết ô trược,
hấp thụ được năng lượng sạch Prana.
* Luyện tâm
Khi cơ thể còn nhiễm trược, thì chưa có bình an trong Tâm và suy nghĩ còn sai quấy, Tâm chưa có sức mạnh làm chủ đời sống. Cùng với sự rèn luyện Tâm An lạc, có Nếp sống Chính niệm, phải có sự Thực hành giải trừ các cấu uế, độc tố ô nhiễm, tà khí trong cơ thể. Không bao giờ có Tâm An lạc trong cơ thể nhiễm trược. Việc ăn chay và thực hiện giới luật khắt khe để tránh nhiễm trược, chưa đủ giải hết ô trược, còn ốm đau, phiền não. Thực hành bài tập vô thức, giúp thân thanh tịnh là thực hành căn bản đạt Tâm vô nhiễm, sẽ có sức mạnh Tâm linh lớn lao. Tâm thực sự làm Chủ nhân ông cơ thể, có thể kết nối với các
dòng lực vũ trụ, khiến Tâm có phẩm chất Thượng đế: Bình đẳng, mạnh mẽ và chính xác, hết mê tín dị đoan.
Sự khỏe mạnh và an lạc, do kết quả giải trừ ô trược, không ai làm hộ thay được. Phải tự hiểu mình và vận dụng sáng tạo bài tập giúp cơ thể thanh tịnh. Xã hội còn ô trược thì cơ thể còn nhiễm trược, nên việc giải trược duy trì suốt đời.
Bài mở đầu:
BÀI THỂ DỤC VÔ THỨC
.
Hàng chục triệu người trên thế giới áp dụng giải pháp đi bộ để phòng chữa bệnh. Bài thể dục Vô thức dựa trên căn bản phép đi bộ, kết hợp với một số thao tác khác, và hít thở an lạc, có tác dụng rèn luyện hô hấp, gân, cơ, xương khớp. Đặc biệt tác dụng đến tầng sâu thải trừ ô nhiễm độc tố cho cơ thể. Cho đến tuổi già vẫn giữ được vóc dáng nhanh nhẹn, thẳng đẹp, rắn chắc, không bị còng lưng. Bài tập ngắn gọn dễ tập, đạt hiệu quả cao.
* Nguyên tắc để đạt hiệu quả tốt nhất:
- Tập chậm rãi đều đặn, nhu nhuyễn. Càng chậm càng tốt. Có điểm dùng yên lặng30 giây.
- Chính niệm vào từng động tác. Lưng cổ luôn thẳng.
- Thư giãn thả lỏng tinh thần, thả lỏng cơ bắp. Không căng thẳng vì bất kỳ lý do gì, cần buông xả hết khi tập.
* Thể dục vô thức có sự phối hợp các phương pháp tốt nhất:
Có phối hợp giữa Thái Cực Quyền, Thiền động, Thiền tĩnh, Thiền hành,Yoga, và phép thở an lạc, cô đọng trong 3 động tác thể dục, và 3 động tác thở. Gọi là thể dục Vô thức vì có tác dụng đánh thức tiềm năng lớn lao là sức mạnh Vô thức điều chỉnh cơ thể, thải trừ độc tố, tăng khả năng đề kháng, khỏi một số bệnh
Người ít bệnh, thì cảm giác khoan khoái, tăng năng lượng, chân tay ấm áp căng đầy hồng hào hơn trước. Nước bọt tiết nhiều và ngọt, ăn uống ngon miệng, ngủ say ngon giấc ngay từ tuần đầu luyện tập. Trẻ em tập thể dục vô thức, sẽ nhanh nhẹn thông minh ngoan ngoãn, hết cáu bẳn, không đau ốm.Người có nhiều bệnh, sẽ thải độc tố. Những ngày đầu ra mồ hôi rất nhiều, chân tay tê tê, mẩn ngứa, rung nháy trong người, nóng mặt, ù tai, nháy đỉnh đầu, rung nháy chân tóc. Có chỗ đau, hoặc căng tức trên đầu. Đó là biểu hiện điều chỉnh bệnh, khai
thông kinh mạch, thải tà khí, thải độc tố. Nếu mệt mỏi, ăn thêm bột Địa long 15-30g mỗi ngày. Sau một số ngày khai thông xong, sẽ hết các triệu chứng thải độc.
* Bài tập thể dục:
1. Khởi động ( 2 phút ):
- Vươn thở: Hai tay để xuôi thẳng, hít nhẹ vào, từ từ đưa 2 tay đến giữabụng, khi chạm 2 bàn tay thì bắt đầu dâng cao lên trời, bung 2 tay, thở ra, hạtay xuống từ từ. Đứng yên lặng 30 giây, tập tiếp. Thở theo nhịp tay lên xuống.
- Xoay cổ: Đứng thắng lưng, ngả cổ phía trước, ngả phía sau. Ngả sang bên phải, bên trái vài lần, xoay tròn cả 2 chiều. Làm vài lần. Xoay chậm không được xoay nhanh.
2. Xuống chân ( 5 phút ):
- Hai chân rộng bằng vai, hít vào nhẹ nhàng từ từ hạ gối thấp người xuống vừa sức của mình. Từ từ đứng lên, thở ra. Đứng yên lặng 30 giây phút rồi tập tiếp. Xuống chân 9 lần.
- Tương tự như trên, hít vào từ từ ngồi xổm xuống, yên lặng 30 giây, rồi đứng lên từ từ. Để đứng lên được dễ dàng thì để ý nâng mông lên. Đứng yên lặng 30 giây rồi tập tiếp. Ngồi xổm 9 lần.
Tổng cộng là 18 lần. Tập chậm đều đặn thư thái, theo nhịp thở, thì động tác này thông khí rất mạnh.Giữ lưng cổ luôn thẳng
- Nếu có bệnh đau khớp, đau cột sống, khó tập, thì nghỉ động tác này. Nhưng có thể kết hợp với thiền hành, cứ đi 7 bước lại xuống chân 1 lần cũng có tác dụng.
3. Thiền hành ( 15 phút ):
- Đi bộ thật chậm, bước ngắn, cách nhau 1 khoảng bằng một ngón tay.Bước thong thả tự nhiên đều đặn, không nói chuyện. Đặt vững chắc
1 chân rồi mới bước chân kia. Theo dõi chuyển động của bàn chân và nâng gối hơi cao hơn một chút xíu, nhịp thở ra vào êm nhẹ. Toàn thân thả lỏng.
- Đầu ngón tay cái chạm vào đầu ngón trỏ, từ 3-5 phút. Lần lượt chạmngón tay cái vào các ngón tay, gọi là chạm tay số 0. Cùng làm cả 2 bên tay.
Thiền hành phải thư giãn thực sự, có tác dụng kéo khí xuống chân,thông kinh mạch, giảm đau, tăng năng lượng, chữa bệnh hiệu quả hơn thiền định. Thấy nước bọt ngọt tiết ra, đổ mồ hôi, chân tay căng hồng, là thiền hành đúng kỹ thuật.
Đi nhanh càng kém hiệu quả. Tập thiền hành 6 tháng sẽ đạt đúng kỹ thuật. Có thể thiền hành trong nhà. Thời gian thiền hành tùy ý.
* Bài hít thở:
Tập thở ra vào đều bằng mũi, không được thở miệng. Hơi thở êm nhẹ, dài, vừa sức, không phát tiếng gió, là hơi thở sâu nhất. Lưng cổ thẳng, thư giãn
- Tập hít thở mũi: Ngồi hay nằm. Theo dõi nhịp thở tại mũi, hít vào thấy mũi đang hít vào, bụng hơi nở ra. Thở ra thấy mũi đang thở ra, bụng hơi xẹp lại. Thở nhẹ êm dài tự nhiên. Chỉ theo dõi nơi mũi đang thở ra hít vào,không tiếng gió, không gượng ép hơi thở quá sức. Đầu óc thư thái nghỉ ngơi không tác ý dẫn dắt hơi thở. Tập thở chỗ thoáng sạch. Đây là phép thở theo kinh Phật “An ban thủ ý” (ban là hơi thở, nghĩa là thủ ý theo dõi hơi thở an lạc). Hơi thở an lạc, êm nhẹ, là hơi thở sâu nhất.
- Tập hít thở vùng Rốn:: Ngồi hay nằm.Ngón tay cái chạm vào Rốn,bàn tay áp vào vùng Đan điền. Thở an lạc tương tự như thở mũi, nhưng theo dõi nhịp thở tại rốn, hít vào thấy bụng nở ra, thở ra thấy bụng xẹp dần. Đại huyệt Thần khuyết (Rốn) là trung tâm sinh lực đầu tiên trong bào thai.Thần khuyết thông với huyệt Đan điền (cánh
đồng màu mỡ) và Khí hải (biển khí), tạo thành vùng trung tâm khí. Đặt tay vào rốn, sẽ kích hoạt luân xa huyệt đạo tăng năng lượng mạnh mẽ.
- Tập hít thở cột sống làm sạch cột sống: Nằm ngửa thư giãn trên sàn gỗ, (không đệm mút, không gối đầu), co gối dưng chân vuông góc mặt sàn, bàn chân cách mông 1gang tay. Tay duỗi tự nhiên. Hít vào, từ từ nâng từng đốt sống lưng. Hạ từng đốt sống thì thở ra. Nghỉ 30 giây, rồi tiếp tục. Hít thở chậm theo nhịp lên xuống, thư giãn toàn thân
Có 3 đoạn nâng: Bắt đầu từ Trường cường (đốt sống cụt ở mông), nâng đến thắt lưng (Mệnh môn) 5 lần. Nâng từ Trường cường đến ngực (Linh đài) 5 lần. Nâng từ Trường cường đến cổ ( Đại chùy) 5 lần. Tổng cộng nâng 15 lần.
*Thực hành thể dục vô thức: Sáng dậy tập bài hít thở trên giường, rồi tập thể dục vô thức. Trong ngày muốn tập thêm động tác nào tùy ý. Người bệnh tim mạch, đau khớp… chỉ tập ít rồi nâng dần, không được cố gắng quá sức. Tối đi ngủ đặt tay vào Rốn hít thở an lạc rất nhiều năng lượng.
Xem hướng dẫn bài tập bằng ảnh, hoặc xem băng video hướng dẫn trên website: sucmanhvothuc.com
Nếu có bệnh, cần áp dụng thêm 2 biện pháp sau :
* Động tác Quỳ lễ: là động tác tổng hợp tất cả bài tập thể dục vô thức, có tác dụng toàn diện: hô hấp, tim mạch, thần kinh, tiêu hóa, bài tiết,tưới máu lên não, khỏe gân cơ khớp, thông khí. Vì vậy điều chỉnh được nhiều bệnh. Mỗi ngày quỳ lễ vài lần, mỗi lần 10-30 phút, tùy theo nguyện vọng. Lót đệm mút khỏi trầy da đầu gối.
* Dùng đá Téctit:
Đây là cách dùng theo kinh nghiệm chúng tôi đã sử dụng lâu năm, để hỗ trợ thông khí đơn giản, nhưng đạt hiệu quả cao. Không dùng đá thì hiệu quả thông khí sẽ thấp hơn. Các cửa hàng mátxa ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh đều có dịch vụ matxa đá để chăm sóc sức khỏe, thải độc tố. Loại đá tốt nhất là đá Téc tit.
- Đá Téctit là viên Thiên thạch cỡ nhỏ 1- 5 cm, hình thành sau quá trình rơi vào khí quyển bốc cháy ở nhiệt độ cao hàng tỷ độ, nên Téctit có dương tính rất cao, hút được tà khí bám dính lâu năm, giải phóng sự ách tắc trong kinh mạch.
- Cách chọn đá: Viên đá màu đen nháy, mặt rỗ xốp, nặng 100g-200g. Loại to 300g rất hiếm. Nếu chỉ có đá nhỏ, dùng vài viên. Người nhiều bệnh dùng viên to. Nắm đá 1 phút mà thấy đá nóng lên là tốt. Trước khi dùng,ngâm đá vào nước muối thật mặn 3 ngày đêm để ngoài trời. Mỗi người 1 viên riêng. Nếu dùng chung mỗi tuần ngâm muối mặn 1 ngày. Mua tại các của hàng đá quý.
Cách dùng :
- Khi quỳ lễ, phối hợp nắm đá, sao cho tất cả đầu ngón tay hạm vào đá. Mỗi bên tay 3-5 phút.Bỏ đá ra quỳ lễ tiếp
- Lúc rảnh rỗi đặt từng bàn chân lên đá 10-15 phút mỗi ngày
- Mỗi tuần đăt đá dọc cột sống hoặc nằm đè lên đá, thời gian 20 phút
- Đăt đá vào chỗ đau nhức, chướng bụng, bộ phận có bệnh, 20 phút
Mỗi lần dùng đá tối đa 20 phút. Bệnh nhẹ dùng ít, bệnh nặng dùng vài lần trong ngày . Không dùng đá nhiều quá mức.
Để bảo dưỡng sức khỏe tốt, vóc dáng đẹp, chỉ cần thực hành bài tập thể dục, và ăn uống sạch, cân bằng âm dương.
Trường hợp có bệnh nan y, ung thư, hoặc có nguyện vọng tu tập giải nghiệp, trường sinh siêu thoát, chuyển tập bài số 1. sau khi tập thể dục từ 2 tuần - 1 tháng. Đang dùng thuốc thì tiếp tục dùng cho đến khỏi bệnh.
Tắm hơi có tác dụng thải trược mạnh mẽ.
Ảnh một số động tác thể dục
1. Động tác Vươn thở :
2. Động tác Xuống chân:
3. Động tác Hít thở cột sống:
4. Động tácquỳ lễ:
HƯỚNG DẪN TẮM HƠI NÓNG
Không áp dụng vớingười có bệnh: tim mạch, cao huyết áp, sơ vữa động mạch, huyết
khối, tai biến mạch máu não, bệnh thận.
Áp dụng cho người dưới 65 tuổi: Nhà có buồng tắm hơi thì sử dụng. Nếu không có,
làm lều xông bằng vải bạt, giống như chiếc màn nhỏ, kích thước cao 1,5m, dài 1m, rộng
0,8 m. Phòng kín không gió lùa. Nguồn hơi bằng nồi cơm điện có nước lã đun sôi, đậy
nắp. Ngồi trên ghế im lặng thiền định, rất nhiều mồ hôi túa ra thành dòng, thành vũng
nước. Mồ hôi toát nhiều nhất ở chỗ có bệnh. Mặt hơi ngẩng để trược khí thoát,
không được cúi đầu. Sau 15-30 phút thì tắt hơi nóng, tiếp tục ngồi yên lặng 10 phút cho
người hạ nhiệt bình thườnglau khô mồ hôi, mặc quần áo kín từ đầu đến chân mới được ra
khỏi lều xông. Tránh chỗ gió lùa. Nằm ngay thẳng phủ chăn mỏng, kín đầu cổ toàn thân,
thiền nằm khoảng 20 phút, mồ hôi toát ra lần nữa. Xong một liệu trình thải trược. Khi
giảm trược khí, sẽ giảm mồ hôi. Uống một cốc nước ozezon (nước đường, muối) pha
đúng liều lượng. Kết thúc. Mỗi tuần tắm hơi 1 lần.
Nếu trên độ tuổi 65, thì ăn tô cháo nóng, rồi tắm im lặng (ngâm người mà không kỳ
cọ) trong bể nước khoáng nóng, hoặc nước nóng có muối và củ gừng giã nhỏ, hoặc
nước tắm “Lá nương”. Thời gian 20-30 phút, lau khô người mặc quần áo kín, sau đó
thiền nằm 20 phút đắp chăn mỏng, mồ hôi toát ra.
NGUYÊN TẮC LUYỆN TẬP VÔ THỨC
Vô thức là sức mạnh bản thể, tự điều chỉnh mọi trạng thái mất cân bằng âm
dương, có hiệu quả dưỡng sinh vô cùng to lớn.Nhiều người cho rằng Vô thức là sức
mạnh rất khó đạt được, vì tâm người rối ren, và bí ẩn vô thức không ai tác động được.
Sức mạnh vô thức đã được khơi dậy, nhờ phát hiện mối liên hệ ngón tay ngón chân, với
vỏ não, tuyến Yên và hệ kinh mạch huyệt đạo.Tất cả liên hệ này được khởi phát từ ngón
tay ngón chân. Tại 20 đầu ngón tay chân, có tất cả các kinh mạch chính đi qua, nằm sát
ngay dưới da và xương, dễ dàng nắn bóp kinh mạch, mà không bị che lấp bởi lớp cơ và
mỡ như các nơi khác. Đó là lợi ích quan trọng nhất của ngón tay, chân.
Đầu các ngón tay còn là nơi cao và nhọn, nơi tập trung năng lượng sinh học mạnh
nhất cơ thể. Nếu luyện tập tốt bàn tay có ánh sáng mờ. Đầu ngón tay là hoạt động não bộ
nối dài. Luyện ngón tay có tác dụng luyện tập Não và vỏ não, giúp tẩy não sạch ô trược,
sẽ thông minh và điều chỉnh tinh thần lạc quan, hết phiền não, phát lộ năng khiếu. Đôi tay
có năng lượng dồi dào gấp nhiều lần bình thường, trở thành vị bác sĩ tận tụy, trung thành
nhất của mỗi người. Bàn tay có năng lượng mạnh tạo hiệuứng tâm linh khi
làm các việc khác. Sau 5 năm luyện bàn tay sẽ có sức mạnh thần kỳ của Vị Thần hộ
mạng. Thể hiện rõ nhất sự thay đổi bàn tay, sẽ mềm mại, căng mọng, hồng hào.
Đôi chân có nhiều khớp xương, có hệ thống mạch máu và mạng thần kinh phong
phú liên hệ với mọi bộ phận cơ thể. Các đường kinh khí hay bị nghẽn tắc tại các khớp
nối. Chân lại ở vị trí thấp nhất và xa tim. Nếu được kích thích và luyện tập thích hợp mới
lưu thông khí huyết. Đôi chân được coi là "Trái tim thứ hai” của cơ thể. Đặc biệt là điểm
Trường sinh ở giữa ngón chân cái ( phía tiếp đất ), có liên hệ trực tiếp tuyếnYên, có vai
trò lớn nhất trong dưỡng sinh và cấp cứu thoát chết.
Mục đích quan trọng nhất của bài tập vô thức: Khai mở Hà Đào Thành, điểm mạnh
nhất trên cơ thể có chức năng 2 chiều cực kỳ quý báu: vừa đẩy thoát ô trượcra ngoài, vừa
hấp thụ năng lượng Prana đi vào ( cánh cửa kiểm soát năng lượng tốt cho vào, xấu đi ra ).
Nếu chưa khai mở Hà Đào Thành thì ô trược lưu cữu nhiều kiếp sống, không đạt giải
thoát, khó tiến triển sức khỏe và tâm linh.
Khi mới chào đời năng lượng âm dương cân bằng thông suốt. Lúc còn trẻ dòng
năng lượng không bị bế tắc, nguyên khí tràn đầy, nên ít khi mắc bệnh. Do lối sống tuỳ
tiện thiếu hài hòa quy luật tự nhiên, tinh thần căng thẳng,cùng tình trạng ô nhiễm, dẫn tới
mất quân bình âm dương, các tuyến lưu thông năng lượng bị tắc dần, dẫn tới bệnh tật.
Trước hết cần khai thông hai kinh mạch chính là mạch Đốc thuộc năng lượng
dương, nóng (dọc cột sống) và mạch Nhâm thuộc năng lượng âm, lạnh (dọc theo bụng),
đã hoà hợp dòng sinh lực Tiểu chu thiên. Một khi đã được khơi dậy thì năng lượng càng
lúc càng lớn mạnh, thông suốt 32 kinh mạch, là đã khai thông dòng sinh lực Đại chu thiên,
tự động diễn ra sự quân bình năng lượng âm và dương, nóng và lạnh, đất và trời, mang lại
sự quân bình cho tinh thần, thể chất. Khi đó, thiền định hoặc tịnh thất mới đạt kết quả như
mong muốn.
Mỗi người nên có một góc yên tĩnh, một chiếc bàn ghế nhỏ,có ảnh Phật hay Chúa...
thật giản dị không cần đèn nhang, nhưng có giá trị tinh thần lớn lao, ngồi đó chúng ta
cảm thấy an vui, được che chở, được tiếp năng lượng.
Làm sao đến với sự Thiêng liêng? “Một người hiểu biết là người biết thay đổi con
người mình để bắt trúng những làn sóng thanh cao. Dĩ nhiên có nhiều làn sóng băng tần
khác nhau và con người sẽ bị tràn ngập bởi các làn sóng này, cho đến khi họ điều hoà phân
biệt được điều hay, lẽ dở để chọn những băng tần thích hợp. Huyền âm của Thượng đế lúc
nào cũng vang lừng vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để nghe, biết
thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao tế nhị đó.” (Trích Hành trình Phương
Đông). Kritsnamurti một bậc Thầy ở thế kỷ 20 khẳng định:“Thế nên tâm não phải tuyệt
đối lặng yên, không nhờ điều khiển, không nhờ phương pháp, hệ thống, không nhờ yên
tĩnh được bày biện. Bạn không để ý não bộ chúng ta có rất ít chỗ sao? Thế mà nó đầy
ngập, chất đầy với hàng ngàn thứ, nó còn rất ít chỗ...Nếu bạn có thể du hành được vào
trong chính bạn thì hãy rũ bỏ tất cả nội dung mà bạn đã chứa chất và hãy đi, đi thật sâu
vào, khi đó sẽ có một không gian mênh mông, cái không, cái đầy những năng lực”.
Sự im lặng Vô thức bắt trúng những làn sóng thanh cao tế nhị đó, khiến bạn thay
đổi tốt đẹp cả tâm hồn và hình dáng. “Khi con người đủ lý trí rồi, chính là cảnh Thiên
đàng mong ước từ lâu đã xuất hiện”.
* Quá trình giải ô nhiễm cần sử dụng đa phương tiện:
Giải ô nhiễm là việc quan trọng nhất: “ Thầy nên hiểu cho rằng cư trú trong thế
giới đầy năm loại ô nhiễm này mà đạt tới được quả vị vô thượng và còn diễn giải được
cho mọi giới những pháp môn rất khó tin như pháp môn này, đó quả là việc cực kỳ khó
khăn” ( Kinh ADi Đà ). Việc giải ngũ trược đượctất cả chư Phật và chư Thiên vui
mừng và hộ niệm.
Phương pháp Vô thức đã thực hiện thành công việc giải trừ ô trược,nhờ vai trò trọng
yếu của Hà Đào Thành.
Theo bí pháp Ấn Độ, có ba phương pháp kéo dài sự sống để có nhiều thời gian tu
luyện:“Phương pháp thứ ba là lối khai mở kinh kỳ bát mạch sinh tử huyền quang rất khó
giải thích theo khoa học thực nghiệm. Trong óc con người có một lỗ trống rất nhỏ nằm
sâu bên trong và có một nắp đậy bên ngoài. Chỉ những đạo sĩ yoga thượng thặng mới
dám luyện đến khai mở các bí huyệt này. Khi mở được nắp đậy lỗ hổng ngay trong óc để
luồng hoả hầu chui vào cư ngụ nơi đây ta sẽ khai mở nhiều quyền năng, cải tạo hoàn
đồng kéo dài sự sống. Sự khó khăn nhất là việc mở cái nắp đậy trên óc…” ( Trích: Hành
trình Phương Đông ).
Tất cả các thao tácbài tập số 1 là một chuỗi liên kết khai mở Hà Đào Thành.Khi
cánh cửa Hà Đào Thành mở ra, conngười mới thoát khỏi sự khống chế của ngũ trược, thoát
khỏi vô minh. Việc giải trược cần đa phương tiện, giống như việc quét dọn ngôi nhà bỏ
hoang, cần nhiều công cụ: nước, chổi quét, xẻngxúc nạy, xà bông tẩy rửa, khăn lau cọ…
Vì vậy phải thực hành đầy đủ giải pháp đã hướng dẫn, từ cách luyện tập thư giãn, ăn
uống, dùng đá téc tít, nếp sống chính niệm. Nếu nghiệp lực quá nặng, có thể gặp cản trở
không khai mở được Hà Đào Thành.
Để hấp thụ được năng lượng sạch Prana, thì cơ thể phải Thanh tịnh. Phải mở được
Hà Đào Thành giải được trược khí, giúp cơ thể thanh tịnh. Bài tập vô thức đã lần lượt mở
12 cái khóa bí ẩn bị mắc kẹt trược khí từ lâu. Đó là: Đầu ngón tay chân, cổ tay, Khuỷu
tay, nách, Hà Đào Thành, điểm Trường sinh, Thần khuyết, Lá mía, Thiên đột, Ấn đường,
bột Địa long, đá Téctit. Nhờ đó mới làm chủ được Prana.
Khai mở luân xa có tác dụng hấp thụ năng lượng vũ trụ, cả xấu và tốt, không có tác
dụng giải trược khí.
* Nguyên tắc luyện tập:
- Thư giãn thả lỏng cơ bắp, tinh thần không căng thẳng vì bất kỳ lý do gì, cần buông
xả hết khi tập.
- Chính niệm vào từng động tác, tập chậm đều đặn, nhu nhuyễn, hòa hợp với hơi thở.
- Trong cả ngày không tập pha trộn phương pháp khác.
- Không lao động nặng căng cơ bắp trong 6 tháng đầu thải trược.
- Tự bắt mạch phát hiện gốc bệnh, để chữa và theo dõi kết quả tập luyện.
-Tập đầy đủ không được cắt bớt động tác nào của bài tập. Không dùng ý điều khí.
- Thời gian tập tăng giảm linh hoạt, tùy tình trạng bệnh,
- Nếu ai thay đổi phương pháp, có thể bị hậu quả không giải hết trược khí. Tập vô
thức đúng hướng dẫn trong sách này..
.
* Những đối tượng được luyện tập Vô thức:
- Đã đọc kỹ sách nhiều lần, hiểu được sức mạnh tiềm năng của mìnhthìHà Đào Thành sẵn sàng khai mở.
Đã tập thể dục vô thức từ 2 tuần - 1tháng đạt thư giãn, được chuyển tập bài số 1. Những trường hợp không được tập vô thức: Đọc
sách không hiểu cách tập, còn lơ mơ chưa xác định mục đích giải trừ ô nhiễm độc tố..Người không đồng thuận, coi thường, thì tìm phương pháp khác thích hợp. Người vi phạm nguyên tắc, hoặc quá già yếu thiếu minh mẫn thì không được luyện tập vô thức.. Luyện tập vô thức là cuộc đấu trí với ô trược, nghiệp lực, đòi hỏi phải có nghị lực và đầy đủ kiến thức sáng suốt, mới được luyện tập. - Không mắc bệnh tim mạch, huyết khối, xơ vữa động mạch tai biến tim, não…Các trường hợp này cần tập thể dục vô thức lâu dài, hoặc tập Thái cực quyền, vẩy tay… Nếu quyết tâm luyện tập, phải liên hệ với tôi để theo dõi, hướng dẫn
- Người bệnh quá yếu, phải ăn bột Địa long mới đủ năng lượng đào thải ô trược. Người có máy trợ tim, có đặt thiết bị trong người, không được tập Vô thức..
CHÚ Ý
1. Không đặt tay chữa bệnh cho người khác, trừ trường hợp cấp cứu. Cần giúp đỡ
mọi người biết cách tự luyện tậpchữa bệnh để giải nghiệp báo của mình, mới chấm dứt
tận gốc đau khổ. Đó mới là Tình thương cao cả nhất.
2. Để có năng lượng tốt, cần giải quyết hết các căng thẳng trong đời sống, thực
hành nếp sống chính niệm.
3. Bài tập Vô thức thành công nhất với những người có tinh thần An lạc Phật giáo.
Người căng thẳng, nóng nảy,kiêu ngạo, người yếu tim mạch, cần nhiều thời gian tập thể
dục vô thức đạt thư giãn mới được tập Vô thức.
4. Tập bài nào đọc thật kỹ bài đó. Khi lắng nghe cơ thể, bạn từ từ đi vào tĩnh tâm,
xua tan những gì làm bạn sao lãng thực tại.
Hệ A - Bài số 1
KHAI THÔNG KINH MẠCH HUYỆT ĐẠO
Một khám phá ứng dụng tiềm năng sức khỏe, là phương pháp tăng cường hoạt
động của bộ máy Vô thức. Bộ máy vô thức bao gồm lục phủ ngũ tạng và tất cả các tế
bào đang hoạt động trong yên lặng, không do tư duy điều khiển. Với bài tập thể dục
ngắn gọn, kết hợp dùng năng lượng sinh học ở ngón tay tác động cải thiện tuyến Yên,
vỏ não, hệ kinh mạch huyệt đạo, và đánh thức các vị trí tiềm năng đặc biệt trên cơ
thể. Nhờ đó tăng cường mạnh mẽ hoạt động bộ máy vô thức,giải trừ ô nhiễm độc tố
còn ứ đọng trong cơ thể, làm cho kinh khí huyết lưu thông, cơ thể dồi dào năng lượng,
phục hồi sức khỏe. Bài tập số 1 là
chìa khóa đi vào bên trong cơ thể,
phải tập liên tục đầy đủ một bài 60-90
phút, không cắt xén động tác nào. Có thể linh hoạt thời gian, nếu cần tập nhiều hơn.
Vô thức sẽ vận hành 2 luồng năng lượng: “Dương giáng âm thăng” đạt tới cân bằng
âm dương.Năng lượng dương từ vũ trụ, phía trên đi dọc xuống cơ thể.Năng lượng
âm ( trược khí ) trong người đi ngược lênthoát khỏi đỉnh đầu. Ý thức con người
khôngđiều khiển được vận hành củatrược khí, thậm chí nhiều người không cảm nhận
dòng sinh khí đang vận hành. Chỉ sức mạnh vô thức mới đủ chức năng lực đẩy được ô
nhiễm ra khỏi cơ thể, nên đòi hỏi ý thức tin tưởng cơ thể, hoàn toàn để Vô thức điều
hành khí, không dùng ý mình điều khiển khí. Bạn không thể nói dối cơ thể khi còn
phân tâm, không đánh thức được Sức mạnh Vô thức.
Năng lượng Prana là năng lương Dương, đem lại màu da trắng, hồng hào, tươi
nhuận, ấm áp, mềm mại, sảng khoái, mạnh khỏe. Ô trược là năng lượng Âm, có thể
quá nóng hoặc quá lạnh, đem lại màu da đen , thâm, xanh xao mệt mỏi, khó chịu, tê
cứng, u cục, bệnh tật. Con người mệt mỏi và bệnh tật do thiếu năng lượng dương,
thừa năng lượng âm. Bài tập vô thức cân bằng âm dương, khi tập sẽ có 2 chiều khí vận
hành: “ Dương giáng, âm thăng”. Nếu cảm nhận thấy dòng khí vận hành thì hòa nhịp
theo sự vận hành đó :
- Năng lượng âm là ô trược đi
ngược lên phía trên. Khi đó cần để ý
Con người mệt mỏi và bệnh tật do thiếu
năng lượng dương, thừa năng lượng âm.
- Năng lượng âm là ô trược đi ngược
lên phía trên.
- Năng lượng dương từ bên ngoài đi
dọc xuống.
trên đỉnh đầu, và yên lặng để ô trược thoát ra hết. Nếu để om trược, rất khó chịu,
đau nhức.
- Năng lượng dương từ bên ngoài đi dọc xuống, thì hít thở an lạc, năng lượng rất
dồi dào.
Phương pháp Vô thức đã phát hiện cách sử dụng 2 vị trí tiềm năng rất quan trọng trên cơ thể: Ở giữa đỉnh đầu, (trong khu vực thóp) là giao điểm đường thẳng sống mũi lên, và đường thẳng từ vành tai lên, gọi là điểm Hà Đào Thành, có tác dụng đào thải ô trược, là một chức năng cao hơn huyệt Bách hội. Người bình thường Hà Đào Thành không hoạt động. Chỉ khi có sự luyện tập đặc biệt, đúng cách, thì có một luồng hơi nóng phả ra trên đỉnh đầu. Người tập tự kiểm tra bằng cách rà chậm bàn tay trên đỉnh đầu cách tóc 0,5cm, thấy có luồng hơi nóng bốc lên, là Hà Đào Thành đã khai mở. Sau một thời gian luyện tập thải hết lớp khí nóng thô trược, thì luồng khí này không nóng nữa. Đây là ứng dụng vô cùng quan trọng đào thải ô nhiễm độc tố của Hà Đào Thành, đào thải năng lượng xấu là loại trừ gốc bệnh. Người tập không khai mở được Hà Đào Thành, thì bài tập Vô thức kém hiệu quả thải trược, chỉ đào thải qua hơi thở, lỗ chân lông, hệ bài tiết. Phương pháp Khai mở Hà Đào Thành bằng bài tập thể dục gồm 5 động tác, do tôi phát hiện. Ngoài ra có 2 phương pháp khác khai mở Hà Đào Thành là Xông hơi của Thày Thích Giác Nhiệm, và phương pháp Bấm bộ đầu, khó thực hành nên tôi không phổ biến.
Vị trí quan trọng thứ hai: Điểm phản xạ Tuyến Yên, nằm ở giữa cầu thịt ngón chân cái, tôi đặt tên là điểm Trường sinh, có tác dụng vào trung tâm não bộ phục hồi hoạt động tuyến Yên, tăng khả năng đề kháng và tuổi thọ. Điểm Trường sinh không phải là huyệt đạo, không có tên trong Đông y. Người ta chỉ biết đó là điểm phản xạ Tuyến Yên. Nhờ biết tăng cường sử dụng điểm Trường sinh, tôi đã vượt qua những tình huống xấu nhất.
Ngoài ra phương pháp Vô thức còn phát hiện một loạt tiềm năng ở bàn tay, bàn chân, cánh tay hỗ trợ đắc lực cho việc điều chỉnh sức khỏe, rất đơn giản và hiệu quả. Kết quả tùy thuộc sự tiếp thu của người
luyện tập. Nếu hiểu thì áp dụng, còn lơ mơ hoặc không hiểu thì phải tìm phương pháp khác.
Báo Khoa học và đời sống đã phỏng vấn, giới thiệu một số trường hợp khỏi bệnh nan y nhờ luyện tập Vô thức.
Thời gian tập 60-90 phút. Tốt nhất là tập buổi sáng sớm. Uống một cốc sữa nóng hay nước trà nóng. Tất cả bài tập trong trạng thái thiền, thư giãn, không bao giờ sốt ruột, sợ hãi. Ngồi trên ghế, điều chỉnh lưng cổ thẳng. Không được ngồi khoanh chân kiết già làm trược khí bị mắc kẹt. Sau 3 năm bớt ô trược có thể ngồi khoanh chân. Tâm chính niệm vào từng động tác luyện tập. Nếu còn bận suy nghĩ sẽ làm thay đổi tần số sóng não, trược khó thoát ra ngoài.
Phương pháp Khai mở vô thức có sự phối hợp giữa thiền động và thiền tĩnh, gồm
các động tác: đi bộ, xuống chân, nắn ngón chân tay, thiền, hít thở. Tất cả đều chậm, thư
giãn, cùng những động tác nhẹ nhàng, không kích thích mạnh như day bấm, châm, ấn,
hoặc căng cơ bắp. Bài tập không là tác nhân gây nên tình trạng bệnh viêm nhiễm, đau,
bệnh, mệt, ốm. Nhưng sẽ diễn ra hiện tượng điều chỉnh kinh mạch, thải trược, khai thông
nơi ngẽn tắc, đau nhức một thời gian ngắn sẽ hết. Phải tích cực giải trược không để
trược khí om trong người.
Những ngày đầu trược khí ( và độc tố ) bắt đầu bung thoát bạn sẽ cảm thấy bức xúc khó
chịu, hoặc mệt mỏi, đổ mồ hôi rất nhiều, mùi hôi khẳm, da nổi mẩn ngứa, nhớt dính, râm ran,
rung nháy, nóng mặt, chân tóc rung nháy, chảy nước mắt, ù tai, choáng nhẹ, đắng
miệng… Sau một số ngày sẽ hết. Đó là hiện tượng sổ trược, tùy bệnh mỗi người có những
triệu chứng khác nữa ( tiểu tiện, đại tiện nhiều chất lỏng, ho khạc chất nhầy... ).
Vùng nào có bệnh thì mẩn ngứa nhiều hơn, tùy theo tình trạng bệnh, khoảng 1-2 tuần, sẽ
hết ngứa. Da ngứa thì xoa không gãi mạnh làm bong da.
Nơi kinh mạch bế tắc sẽ rung nháy giật, cho đến khi khai thông xong thì hết rung
nháy, kể cả vỏ não và não. Nếu chảy nước mắt khi luyện tập là mắt đang thải trược, mắt sẽ
sáng lên.
Nhiều người có huyệt Thiên đột yếu, ngồi tập cúi đầu, gây ngứa cổ họng ho hoặc buồn
nôn , cần sửa tư cần thế ngồi lưng cổ thẳng lên, đặt tay vào huyệt Thiên đột. Người có bệnh về
hô hấp, viêm họng hạt, phổi, xoang mũi, sẽ được thải trược, long đờm, ho khạc ra đờm rất
nhiều màu sắc, cho đến khi sạch đường hô hấp. Cần giải trược cho huyệt Thiên đột , Đại chùy,
Phổi, bằng cách đặt đá vào đó từ 1- 5 phút, rồi đặt tay thời gian tùy ý.
Thời gian đầu trược khí chưa thoát hết, miệng đắng, khô khát. Khi nước miếng ngọt là cơ
thể đang tiến tới thanh tịnh.
Khi tập bài số 1, cơ thể sẽ điều chỉnh từ bên trong bật mở Hà Đào Thành để trược
khí phun ra. Lần lượt từng lớp trược sẽ thoát ra qua Hà Đào Thành , một số ít thoát qua
đường hô hấp, lỗ chân lông, đại tiểu tiện. Mới đầu thoát ra lớp trược thô nóng khó
chịu, mệt mỏi, mẩn ngứa. Dần dần hết nóng, đến lớp trược quánh đặc hơn, bám dính
di chuyển chậm, da nhớt dính…Mỗi người có hiệu ứng xả trược riêng không kể hết ở
đây, phải tự theo dõi cơ thể,và học hỏi kinh nghiệm luyện tập. Hiệu ứng xả trược là
những biểu hiện tốt, đang điều chỉnh bệnh. Nếu ai chưa sẵn sàng chấp nhận hiện
tượng thải trược, thì không luyện tập bài 1. Bài tập này thuận tiện cả lúc thời tiết khắc
nghiệt rét, mưa, có thể tập trong nhà, hoặc ngồi, nằm trên giường. Trời lạnh, đắp chăn
giữ ấm luyện tập có hiệu quả giải trược tốt hơn lạnh.
* Có 4 mức độ thải trược khác nhau:
- Người trẻ tuổi, không bệnh, người đã tu tập, ít nhiễm trược thìkhoan khoái, ngay tuần
đầu tiên, ít thấy nóng ngứa sổtrược.
-Người có tư tưởng lẫn lộn nhiều phương pháp, thiếu tin tưởng, tập uể oải sẽ không
thải được ô trược, nên nghỉ tập vô thức.
- Người bệnh nặng có nhiều tà khí,khớp cứng, kinh mạch nghẽn tắc, thời gian đầu
sổ trược nhiều, sẽ mệt mỏi đau tăng,là dấu hiệu chuyển bệnh. Cần thư giãn hơn, tập nhiều
thời gian hơn người khác. Nếu đau nhức quá sức chịu đựng thì có thể dừng tập bài số 1,
sẽ giảm triệu chứng sổ
trược, rồi lại tập tiếp, hoặc
chỉ tập thể dục vô thức.
- Bài tập sẽ phát hiện
vong âm và chữa khỏi. Khi
tập có biểu hiện khác thường : rung lắc mạnh, người lạnh, giật mình, có tiếng nói , nổi da
gà… là biểu hiện có vong âm từ trước. Xem cách chữa bệnh âm.
* Bộ phận cần chú ý nhiều nhất: Toàn bộ cánh tay là trọng tâm luyện tập vô thức.
Đầu ngón tay chân, cổ tay và khuỷu tay, nách, là những vị trí chữa bệnh hiệu quả nhất.
Toàn bộ cánh tay là trọng tâm luyện tập vô thức.
Đầu ngón tay chân, cổ tay và khuỷu tay, nách, là những
vị trí chữa bệnh hiệu quả nhất.
- Đầu ngón tay chân liên quan vỏ não, kinh mạch huyệt đạo, và lục phủ ngũ tạng.
Cổ tay, khuỷu tay, nách liên quan thân não và các bộ phận ngoài lục phủ ngũ tạng. Đây
là những phát hiện mới nhất, và rất quan trọng để phòng và chữa bệnh rất hiệu quả
- Cổ tay và khuỷu tay có 6 kinh mạch chính đi qua, có liên quan trung tâm thần
kinh, và thân não. Chạm tay vào khu vực này chữa khỏi nhiều bệnh
- Ngón chân cái, có điểm Trường sinh và 2 kinh Can, và Tỳ, liên quan tuyến Yên,
ung thư, tiêu hóa, nội tiết…
- Ngón tay cái, có kinh Phế là , nơi giữ gìn hơi thở và hấp thụ năng lượng Prana, là
tính mạng mỗi người.
- Hà Đào Thành là nơi khởi đầu việc giải ô nhiễm.
- Nách có huyệt Cực tuyền ( đen nhất )là huyệt thải trược. Nếu bế tắc huyệt này phát
sinh ung thư vú và nhiều bệnh nan y.
* Phương pháp luyện tập: Thời gian 60-90 phút.
1. Khởi động (2 phút): Như hướng dẫn thể dục vô thức.
2. Luyện ngón tay ngón chân (30 phút): Đây là thao tác quan trọng nhất, là “mã
khóa” khai mở sức mạnh vô thức, làm trược khí và độc tố xuất ra khỏi cơ thể, gồm 3 thao
tác sau:
-Nắn bóp ngón tay chân (10 phút ): Dùng 3 ngón tay trái nắn bóp nhẹ đầu 1 ngón
tay phải, nắn bóp tại một chỗ, từ 10-20 lần, nắn chậm, thả lỏng người. Chỉ bóp, thả,
bóp, thả, không day, vuốt, bấm, vặn ngón tay.Tiếp theo nắn khớp ngón tay,mỗi
khớp 10-20 lần. Nắn bóp toàn bộ 10 ngón tay, 10 ngón chân. Nắn ngón chân thì kéo bàn
chân lại gần. Nắn bóp nhiều hơn ở ngón chân cái, ngón tay cái( 50 lần ). Khi nắn bóp
ngón tay chân, sẽ thấy rung nháy vỏ não, rung chân tóc, và một số nơi có bệnh.
- Giải trược ( 15 phút): Dùng 3 ngón tay: ngón cái, ngón trỏ và ngón giữa để giải
trược cho 1 ngón tay bên kia. Ngón cái chạm vào đỉnh ngón tay, còn ngón trỏ và giữa
chạm vào 2 bên dưới móng tay nơi đầu kinh mạch, để 30 giây.Làm hết hết 10 ngón
tay, 10 ngón chân
Chú ý ngón chân cái, tay cái cần giải trược nhiều hơn.
Trọng tâm luyện tập 20 ngày đầu, tự kiểm tra đưa bàn tay rà đi rà lại trên đỉnh đầu(
cách tóc 0,5cm) nếu có luồng hơi nóng ấm phả vào tay là Hà Đào Thành khai mở. Nếu
chưa có biểu hiện bốc hơi nóng trên đỉnh đầu, thì tăng thời gian nắn bóp ngón tay nhiều
hơn. Quỳ lễ nhiều hơn.
Thành công khai mở Hà Đào Thành, tạo ra cơ hội quý báu: khai thông tất cả kinh
mạch. Khi 13 kinh mạch chính thông suốt, thì không có bệnh, kéo dài tuổi xuân, là bí
quyết Trường sinh được ứng dụng.
Ảnh giải trược ngón tay, ngón chân
- Giải trược khuỷu tay (4 phút ): Bàn tay ôm nhẹ khuỷutay cả phía trên và
dưới,chạm vào các chỗ lõm của cùi xương trỏ, đầu ngón tay cái chạm vào đường chỉ
khuỷu tay, lần lượt 3 vị trí: Đầuphía ngoài, phía trong, điểm giữa của đường chỉ khuỷu
tay.
Cổ tay và khuỷu tay thường bị mắc kẹt trược khí, nên phải giải trược thường xuyên
hàng ngày. Chạm tay vào khu này chữa khỏi nhiều bệnh, như đau chân, tay, đầu mặt,
mắt, lưng, khó thở, sưng khớp gối, sưng mắt, v.v… Nếu ấn vào cùi trỏ, khuỷu tay mà
thấy đau là có bệnh. Chữa: Đặt tay vào cổ tay 10 phút, đặt vào khuỷu tay 30 phút - 1h.
Nếu khí tắc ở cánh tay, bệnh sẽ tái phát. Mỗi tuần dùng đá giải trược tại các vị trí ở khuỷu
tay, cùi trỏ, mỗi chỗ 30 giây.
Ảnh giải trược khuỷu tay:
3. Xuống chân (5 phút):Như đã hướng dẫn ở bài thể dục.
4. Thiền hành (10 phút):Như đã hướng dẫnở bài thể dục
5. Thiền định (10 phút):Sửa tư thế ngồi lưng cổ thẳng, ngồi trên ghế, thư giãn, mắt
nhắm. Hít thở an lạc êm nhẹ chậm. Bàn tay nắm nhẹ cổ tay để bồi dưỡng thần kinh, tim
mạch giúp cho an lạc.Không ngồi khoanh chân làm kẹt trược khí. Không quán tưởng điều
gì, để não bộ được thư giãn hoàn toàn. Nếu có hình ảnh xóa đi ngay (niệm Nam mô A Di
Đà Phật). Bình thường thì hoàn toàn im lặng để đầu óc thảnh thơi.
Thiền định vùng địa linh có hiệu quả rất cao, như ở khu vườn Long An, hoặc đỉnh
núi thiêng, đình chùa thiêng.
Ăn bột Địa long sẽ tăng sức mạnh thải trược.
Sau 3 tháng tập bài số 1 thành công khai mở Hà Đào Thành, chuyển tập bài số 2.
Nếu chưa thành công bài số 1, thì tập lại từ bài thể dục, rút kinh nghiệm tập kỹ hơn.
* Dùng đá Téctit:
- Để khai thông kinh mạch, ai cũng cần 1 viên đá Téctit, cỡ trung bình 100g-170g.
Có loại tà khí bám dính, chỉ duy nhất đá Téctit mới giải được, thiền định không giải trừ
được loại khí này. Vì vậy phải phối hợp dùng đá khai thông kinh mạch.
- Khi quỳ lễ đặt đá vào tay, mỗi bên tay 2-5 phút, theo dõi thời gian đặt đá tăng
giảm phù hợp từng người. Có thể quỳ lễ nắm đá nhiều lần trong ngày. Bất cứ khi nào cảm
thấy bế tắc khó tập, cầm đá quỳ lễ sẽ thông suốt.
- Đi đám tang, nghĩa địa, cầm đá, về nhà quỳ lễ nắm đá.
- Người yếu tim phải thận trọng, mỗi lần dùng đá 30 giây. Không dùng đá cho
người có máy thiết bị trong người.
* Cách thực hành bài tập số 1:
Tập hít thở lúc sáng vừa tỉnh dậy. Sau đó thực hành bài tập số 1. Đi ngủ lưng cổ thẳng, đặt tay lên bụng hoặc chạm tay số 0 giải trược. Bất kể ngày hay đêm thấy trược khí bốc lên đầu nóng nực bức xúc, đau nhức, phải ngỗi tĩnh tâm, hoặc quỳ lễ nắm đá, giải bằng hết trược khí là hết đau.
Khi tập thấy có chỗ đau phải xử lý ngay: đặt đá Téctit 5 phút, rồi đặt tay đợi cho hết đau và chú ý chữa vào cổ tay, khuỷu tay. Người bệnh lâu năm cơ thể gom độc tố, có thể nổi vài u cục cứng, hoặc nhọt bọc.
Khi tập thấy có chỗ đau phải
xử lý ngay.
Đặt đá vào chính giữa cục cứng, thời gian 10-20 phút. Đặt tay vào. Sau vài ngày sẽ tan.
Hoặc có thể sắc uống bài Bách tiêu hoàn, tiêu độc, làm sạch gan, thông huyết mạch, tiêu viêm, phá tích, hạch, u nang, u xơ, yếu gan...Bài thuốc gồm: Bán liên chi 10g, Bạch hoa xà thiệt thảo 20g, Hoàng cung trinh nữ 10g, Bạch chi 10g, Bạch thược 12g, Thiên hoa phấn 10g, Phòng phong 10g, Bông mã đề 10g, Tạo tích giác 15g, Ngân hoa 10g, Ngô công 1con, Sài hồ 12g, Xuyên bối mẫu 15g. Thêm vị bổ khí : Đẳng sâm 15g, bạch truật 10g, Thục địa 20g, Đươg quy 20g, Cam thảo 8g, Liên nhục 24g, Ý dĩ nhân 24g, Đại Táo 15g, Kỷ tử 15g.
* Tứ diệu kết: Gồm 4 động tác thân thiện với cơ thể:
1. Chạm tay điểm Trường sinh ( giữa ngón chân cái ).
2. Nắm nhẹ khuỷu tay ( hoặc cổ tay ).
3. Chạm tay số O: ngón tay cái chạm đầu ngón tay khác.
4. Chạm tay vào rốn, hít thở an lạc.
“Tứ diệu kết” tác dụng giải trược, bồi bổ năng lượng, tiện dùng bất cứ lúc nào, nằm hay ngồi, đứng, thời gian tùy ý.
* Thao tác Khai thông 25 huyệt đạo: Sau một tháng tập bài 1 thì tập thêm động
tác Khai thông 25 huyệt đạo. Thời gian vào lúc nào rảnh rỗi. Chạm ngón tay vào các
huyệt theo sơ đồ vị trí 25 huyệt đạo, để tăng trưởng năng lượng và nội tiết tố,thông suốt
dòng sinh lực Đại chu thiên.
* Chữa bệnh: Xem bài Phòng và Tự chữa bệnh.
* Cấp cứu:Nếu sắp ngất đặt ngón tay cái vào điểm Trường sinh 10-30 phút Thiền sẽ
khỏe. Ăn ngay bột Địa long.Nếu gặp thiên tai, mệt, đói, Thiền Trường sinh sẽ có sức chịu
đựng rất tốt.
* Cấp cứu tai biến não: Tai biến não có thể xảy ra đột ngột ngày hay đêm, không lý do
gì. Vì vậy cần biết phân biệt đau đầu do tai biến não khác đau đầu bình thường. Nếu đau
đầu dữ dội kèm theo chân tay mềm nhũn, không nhấc được chân tay, hoặc méo miệng,
cứng lưỡi, là tai biến não. Lập tức lấy kim châm vào đầu 10 ngón tay, 10 ngón chân, mỗi
chỗ nặn ra 1 giọt máu. Nếu méo mồm, nắm 2 dái tai kéo cho ửng đỏ, châm kim nặn 1 giọt
máu. Sau vài phút tỉnh rồi mới đưa đi cấp cứu bệnh viện. Nếu nặn máu sớm, sẽ không có
di chứng tai biến não.
Bài tập số 1 là thời kỳ quan trọng nhất để khai mở Hà Đào Thành. Vô thức thu gom
trược khí tống ra ngoài suốt ngày đêm, là luồng khí đi ngược lên bốc thoát qua Hà Đào
Thành. Dòng khí từ trên đi xuống là năng lượng Dương đi vào. Bao giờ bạn cũng là người đi
sau hưởng ứng theo cơ thể, chứ không “cầm đèn chạy trước ô tô”. Có người không có cảm
nhận, do cấu tạo thần kinh chưa nhạy bén, nhưng sức khỏe sẽ chuyển biến tốt. Vô thức hoạt
động suốt ngày đêm thải trược, mạnh nhất là khi yên tĩnh. Vì vậy phải tránh căng thẳng để
trược khí thoát hết.
Cần theo dõi cơ thể chặt chẽ, bất kể
ngày hay đêm, lúc nào thấy trược khí
bốc nóng phải ngồi tĩnh tâm.Nếu đau
mệt đột xuất ăn ngay bột Địa long, và
luyện tập giải trược hoặc quỳ lễ sẽ hết đau mệt.
Người luyện tập giỏi là người vận dụng sáng tạo bài tập vô thức, thuộc lòng bản
đồcơ thể, nhớ các vị trí xung yếu, bắt mạch bệnh và biết những nơikhu trú trược khí, để
chữa trị.
Bài tập phục hồi khả năng tiêu hóa, bài tiết tốt. Cơ thể cần rất nhiều năng lượng để đẩy
trược khí, ăn mau đói, cần ăn tăng gấp rưỡi không sợ béo phì. Người quá yếu phải ăn bột Địa
mới đủ năng lượng giải trược. Không lao động nặng trong thời kỳ 6 tháng thải trược. Cuối
buổi tập bàn tay hồng hào căng mọng lên, là tín hiệu tốt, cơ thể động viên:“Đúng rồi, bạn
đang trên đường phục sinh”.
Bệnh tật đã khởi sự cuộc thay đổi tận gốc rễ. Không nên sợ hãi bệnh tật, đó là cơ hội lớn
nhất mở mang trí tuệ cho bạn. Chính bệnh tật sẽ dẫn bạn tới nguồn năng lượng Prana tiếp
sức cho bạn vượt qua tất cả sự bất hạnh trên đời. Vô thức sẽ làm cuộc cách mạng bên
trong để bạn được sinh ra đời lần thứ haitươi tắn và hạnh phúc hơn,giúp bạnđứng vững
trên đôi chân của mình, tránh được nhiều tiêu cựctừ bên ngoài.
Bệnh tật đã khởi sự cuộc thay đổi tận gốc
rễ. Không nên sợ hãi bệnh tật, đó là cơ hội lớn
nhất mở mang trí tuệ cho bạn.
Đặc biệt vấn đề Nghiệp lực, dù bạn mơ hồ không biết rõ, nhưng bạn sẽ phải đối mặt với
Nghiệp lực trong bài tập này. Nghiệp
lực cũng là một hình thái của năng
lượng. Là những năng lượng xấu nhất,
độc hại nhất. Khi chúng thoát ra, bạn
phải đi qua những khó khăn, những bước điều chỉnh hậu quả quá khứ, không ai chịu trách
nhiệm thay bạn. Khi “lỗ hổng vô hình”mở ra, nghiệp lực có lối thoát, bạn đã cải tạo số phận.
Luật Nhân Quả đem lại những điều tốt đẹp. Khi hành động đúng bạn được hưởng những gì tốt
đẹp nhất.
Khi cơ thể nhiều ô trược, thì hơi thở rít nặng nề, người đau nhức, căng thẳng, lo sợ,
mê tín dị đoan. Tầm nhìn nông cạn, vì ô trược thao túng, mê lú, bị lừa đảo bởi vô số cái
ác dấu mặt. Khi đã giải phóng hết trược khí, trong người sảng khoái, hơi thở nhẹ nhõm,
lạc quan, tỉnh táo, thoát khỏi Vô minh. Hết ô trược mới có Tình thương thật sự với
mình, với mọi người.
Người luyện tập vô thức đối diện với
chính bản thân mình, nhận thức nó, không
bằng nói lời xuông, mà là cuộc hành trình bí
ẩn, đấu tranh với cái ác trong từng tế bào, để
được kết nối Cội nguồn năng
lượng Prana, luôn dồi dào Sinh lực, khôi phục Sức khỏe Tinh thần, và tỏa hương thơm
cho xã hội.
Khi quay vào bên trong, bạn đang đứng trước cửa Trời Phật. Cơ thể là đền đài quan
trọng nhất, cần được quét dọn sạch sẽ để trở thành đền đài thiêng liêng của bạn.
Bạn đã có thông tin đầy đủ về một cuộc tu tập đặc biệt: Đạo cơ thể, do bạn tiến
hành, chịu trách nhiệm làm cho cơ thể thanh tịnh. Chiến thắng bản thân là chiến thắng
Vinh quang nhất.
Công thức 2
Ngày nào bận, có thể luyện tập công thức 2:
1. Xuống chân. 5 phút.
Nghiệp lực cũng là một hình thái của năng
lượng. Là những năng lượng xấu nhất, độc hại
nhất.
Bạn đã có thông tin đầy đủ về một
cuộc tu tập đặc biệt: Đạo cơ thể, do bạn
tiến hành, chịu trách nhiệm làm cho cơ
thể thanh tịnh.
2. Quỳ lễ kết hợp nắm đá Téctit, đặt mỗi bên tay 5 phút, bỏ đá ra quỳ lễ tiếp.
Thời gian tùy ý.
3. Thiền Trường sinh. Thời gian tùy ý.
Nếu quá bận, tập một động tác duy nhất: Quỳ lễ kết hợp nắm đá. Thời gian tùy ý.
Sau này đủ thời gian thì tập bài số 1.
Một số hình ảnh thải trược
Quyền lợi bài tập Vô thức
1. Ăn uống ngon miệng, ngủ ngon giấc, nước miếng ngọt. “Ăn được ngủ được là tiên”.
Cơ thể được cân bằng âm dương.
2. Nam, nữ luyện tập Vô thức 2 năm trước khi có thai,sẽ sinh con khỏe mạnh, thông
minh, hiếu thảo. Cha mẹ được hưởng phước đức của con và tạo phước báu cho xã hội.Cách
thai giáo tốt nhất là giải ô trược từ trong trứng. Thai phụ chú ý bồi dưỡng sữa ong chúa,
bột Địa Long. Mua ở cửa hàng tin cậy.
3. Mở rộng hiểu biết về cơ thể, tự chữa bệnh, giải nghiệp lực.
4. Kết nối Thiên Địa Nhân.
5. Có năng lực tự chủ, tránh các tệ nạn tiêu cực.
6. Giúp tâm thanh thản An lạc, giải stress, giải phiền não.
7. Đạt được siêu thoát.
THỨ TỰ ĐẶT TAY 25 HUYỆT ĐẠO
1. Thần khuyết: Rốn, thuộc tuyến Tụy. Sinh lực cơ thể.
2.Trungcực (nam) hoặc Quan nguyên, (nữ): Thuộc tuyến nội tiết Sinh dục.
3. Trường cường: Mỏm đốt sống cụt. Sinh lực cơ thể.
4. Mệnh môn: Đốt sống 13, ngang rốn sang. Tiêu hóa,bài tiết, sinh lực, chuyển khí
xuống chân.
5. Dương cương: Đốt sống ngang đỉnh thận, tuyến thượng thận.
6. Linh đài: Đốt sống ngang tim. Hoạt động Tim mạch, cảm xúc cao thượng.
7. Đại chuỳ: Dưới đốt sống cổ. Tuyến hô hấp, thở.
8. Ngọc chẩm: Vùng gáy. Tuyến nội tiết tiểu não, tuỷ.
9. Bách hội: Đỉnh đầu. Tuyến Tùng. Sinh lực dương.
10. Thái dương: Hõm thái dương. Giảm căng thẳng.
11. Thần đình: Trước trán. Thuộc tuyến nội tiết: Dưới đồi.
12. Ấn đường: Giữa hai lông mày. Thuộc tuyến Yên.
13. Sơn căn: Sống mũi giữa hai mắt. Sinh lực dương.
14. Nhân trung: Hõm dưới mũi. Sinh lực.
15. Thuỷ đột: Dưới yết hầu. Tuyến giáp và cận giáp.
16. Thiên đột: Giữa hõm ức. Tuyến giáp và cận giáp.
17. Đản trung: Hõm giữa hai đầu vú. Tuyến ức.
18. Trung quản: Giứa ức và rốn. Tuyến tuỵ.
19. Độc tỵ: Hõm dưới ngoài xương bánh chè. Sinh lực.
20. Uỷ trung: Hõm giữa khoeo chân. Sinh lực.
21. Túc tam lý: Hõm dưới xương bánh chè phía ngoài 2 thốn. Tổng huyệt vùng
trung tiêu chuyển khí xuống chân.
22. Dũng tuyền: Hõm 1/3 gan bàn chân. Thận.Sinh lực âm.
23. Tam âm giao: Trên mắt cá trong 3 thốn.Tổng huyệt vùng hạ tiêu, chuyển khí
xuống chân.
24. Lao cung: Hõm giữa lòng bàn tay. Sinh lựcdương.
25. Hội âm: Giữa hậu môn và sinh dục. Sinh lực âm.
CÔNG NĂNG CỦA ĐÁ TÉCTIT
- Công thức: SiO2.
- Hệ tinh thể: vô định hình.
- Ánh thủy tinh.
Téctic - thành tạo từ dạng thủy tinh nóng chảy và ngưng kết, hình thành do sự va
đập của thiên thạch lên bề mặt cứng rắn của Trái Đất. Thường Téctic không phải là
những mảnh vụn thiên thạch mà là những mảnh nham thạch có nguồn gốc từ trái đất bị
nóng chảy do sự va đập của thiên thạch. Thành phần chủ yếu của Téctic là silic đioxit (68
- 82%), với kích thước trung bình hiếm khi vượt quá 5cm. Về vẻ ngoài và tính chất,
chúng hơi giống opxidian, nhưng khác về thành phần hóa học. Téctic có thể có ở miệng
núi lửa "trẻ", xuất hiện do cú va đập của thiên thạch. Tên gọi của khoáng vật xuất phát từ
tiếng Hy Lạp tektos nghĩa là "nóng chảy", ngụ ý nói tới vai trò của thiên thạch trong
nguồn gốc phát sinh của Téctit. Nhà địa chất học người Áo Franz Eduard Suess (1831 -
1914) là tác giả của thuật ngữ "Téctit".
* Tính chất chữa bệnh:
Ở Thái Lan, Téctit thường được các thầy lang địa phương dùng để chữa bệnh.
Người ta tin tưởng rằng, những viên đá "của Trời" giúp loại trừ hậu quả của những tổn
thương về tình cảm, tăng cường năng lượng và các quá trình trao đổi chất trong cơ thể
người.
* Tính chất màu nhiệm:
Giá trị đặc biệt của Téctic chính là ở nguồn gốc ngoài trái đất của nó. Về nguồn gốc
lạ thường của Téctit, ngay thổ dân châu Úc đã phỏng đoán và họ gọi chúng là hộ phù
của Trời, cho rằng Téctit giúp tạo lập mối liên hệ với quá khứ, có ích lợi cho cuộc hành
trình bằng ý nghĩa theo thời gian và vào vũ trụ. Chúng trợ giúp việc tích lũy và lưu giữ tri
thức. Téctit có thể bảo vệ tránh những sai lầm trong lĩnh vực trí tuệ và tình cảm,
giúp khắc phục những vấn đề có liên quan đến nghiệp chướng.
* Khu mỏ:
Có tiếng nhất là Téctit Australia, Thái Lan, Việt Nam và Philippin. Còn có Téctit
trên lãnh thổ Hoa Kì. Nổi tiếng thế giới là Monđavit - tìm thấy trên lãnh thổ Moldova.
* Ảnh hưởng tới luân xa:
Đối với luân xa vùng đỉnh đầu: nuôi dưỡng các tuyến của não bộ; luân xa này giúp
phát triển tinh thần, tín ngưỡng và các mối liên hệ với sức mạnh tối cao của vũ trụ.
Đối với luân xa vùng xương cùng: cung cấp năng lượng cho trực tràng, bộ máy nâng đỡ -
vận động; giúp tạo ý chí trong cuộc sống, năng lượng thể chất, tiềm năng; khơi dậy cảm giác
vững tin và kiên định. Năng lượng chiếu xạ của Dương.
(Trích dẫn từ: Tư liệu khoáng vật– Jasper Stone, Mỹ )
Ảnh sử dụng đá Téctit
Tay nắm nhẹ đá Téctit
Mát xa đá Téctit Hàn Quốc
PHÒNG VÀ CHỮA BỆNH TẬN GỐC
Phòng và chữa bệnh tận gốc theo phương pháp vô thức, gồm điều chỉnh kinh mạch và điều chỉnh bệnh ngoài phủ tạng.
Điều chỉnh kinh mạch:Là phương pháp dùng năng lượng sinh học ở bàn tay điều
chỉnh các kinh mạch đã suy yếu. Bài tập Vô thức giúp cho đôi tay có năng lượng sinh
học mạnh mẽ, đủ nội lực tác động vào từng kinh
mạch bệnh, tự phòng bệnh và chữa bệnh, khỏi
một số bệnh nan y. Chỉ ứng dụng trong phạm vi
người luyện tập vô thức. Người khác sử dụng sẽ kém hiệu quả vì chưa khai mở Hà Đào
Thành, bàn tay không đủ công năng giải trược, điều chỉnh kinh mạch. Hạn chế việc người
khác đặt tay chữa, mát xa, có thể gây nhiễm trược và giảm năng lượng thanh tịnh của
mình.
Theo Đông y, cơ thể có 12 đường kinh mạch chính điều hòa lục phủ ngũ tạng, là:
kinh Phế ( hô hấp ), Can ( gan ), Tỳ ( tụy ), Vị ( dạ dày ), Tâm ( Tim ), Tâm bào ( Bảo vệ
tim ), Tam tiêu ( Bảo vệ tạng phủ ), Đởm ( Mật ), Đại trường ( Ruột già ), Tiểu trường
( ruột non ), Thận ( thận ), Bàng quang ( Bọng đái ). Ngoài 12 kinh chính, còn có kinh
Trường sinh có vai trò chỉ đạo toàn bộ hệ thống kinh mạch. Kinh Trường sinh bắt đầu từ
điểm Trường sinh, nối tuyến Yên, mọi bệnh phải chữa vào kinh này trước. Kinh Trường
sinh suy yếu, sẽ làm suy kinh Phế và tất cả kinh mạch suy kiệt. Kinh Phế giữ gìn hơi thở,
là kinh quan trọng thứ hai, sau kinh Trường sinh. Để phòng bệnh phải chú ý những vấn
đề đề cốt lõi sức khỏe là:
- Làm vượng kinh Trường sinh: Chăm sóc tuyến Yên, dùng bột Địa long, Thiền trường
sinh, và giữ gìn nguyên khí của mình.
- Làm vượng kinh Phế: Luyện thở sâu An lạc, và giải trược kinh Phế.
- Cần chú trọng giải trược cho toàn bộ cánh tay: Ngón tay chân, cổ tay, khuỷu tay, nách,
là các vị trí chữa bệnh hiệu quả nhất. Và giải trược cho các kinh mạch khác. Giữ vệ sinh
ăn uống.
- Trường hợp cấp cứu đặt tay điểm Trường sinh 20 phút sẽ tỉnh.
Kinh Trường sinh không có trong Đông y, do tôi phát hiện.
Để phòng bệnh phải chú ý những
vấn đề đề cốt lõi sức khỏe.
Cách bắt mạch
- Tự bắt mạch: Dùng ngón tay ấn sâu mạnh vào từng huyệt đạo ở đầu 12 kinh mạch.
Nếu hơi đau, là có bệnh ở kinh mạch đó. Ấn tiếp dọc xuống đến gốc ngón, nếu thấy đau
dọc đường kinh ở dọc ngón là kinh có bệnh. Nếu có chai da ở chân tay là kinh mạch kẹt,
bệnh đang ẩn.
- Bệnh ngoài lục phủ ngũ tạng: Ấn mạnh sâu điểm Trường sinh đau, là tuyến Yên
đã yếu. Ấn sâu vào khuỷu tay, và gập cùi trỏ ấn sâu thấy hơi đau là có bệnh.
- Bắt mạch bằng máy đo 12 kinh lạc: của Lương y Lê Văn Sửu. Máy sẽ đo tại đầu
12 kinh mạch, báo kinh mạch yếu ( biểu ), và kinh mạch bệnh ( lý ). Kết quả này dùng để
tham khảo.
- Để tìm ra vị trí gốc bệnh: Chủ yếu dựa trên các hiện tượng đau nhức trên cơ thể
là chính, phải báo cáo bệnh đầy đủ, tham khảo máy đo kinh lạc. Cách tự bắt mạch này
dễ dàng và chính xác tới từng kinh mạch, không mơ hồ như bắt mạch cổ tay. Mọi
người tự bắt mạch theo dõi sức khỏe, phát hiện mầm bệnh từ sớm hơn xét nghiệm
máu, kể cả bệnh nan y. Khi kinh mạch suy yếu khắc phục ngay, sẽ không phát bệnh.
Thao tác điều chỉnh kinh mạch bệnh
Sau 1 tháng tập bài số 1, đủ năng lực điều chỉnh kinh mạch. Chọn 2 kinh nặng
nhất, và kinh Trường sinh, tập trung chính niệm chữa trước. Chữa vào từng kinh mạch:
1. Đặt đá đầu kinh mạch bệnh 1 phút, trong tuần đầu, tuần sau giảm 30 giây.
2. Đặt ngón tay cái vào đầu kinh mạch bệnh 20 phút -1h. Nếu đau dọc đường
kinh, phải đặt tay dọc xuống khớp ngón tay chân. Mỗi ngày đặt tay một vài lần, cho đến
khi khỏi bệnh. Đặt tay càng lâu mới thông kinh mạch bệnh. Có thể nằm, ngồi Thao tác
xong một kinh mạch, rồi chuyển kinh mạch tiếp theo Sau đó quỳ lễ 10 phút.
Những ngày đầu tà khí trong kinh mạch thoát ra, gây đau nhức, ngứa, mệt, thải độc
tố lần nữa. Thể dục và giải trược sẽ hết. Uống bột sắn dây pha nước mát, có chanh, mơ
muối để trung hòa axit máu, giảm đau, giảm nóng bức.
Sau 1 tháng phải nghỉ dùng đá. Sau khi nghỉ 1 tháng được dùng đá đợt tiếp theo,
nhưng giảm hơn đợt đầu. Mỗi kinh mạch 30 giây. Cách 1 ngày dùng đá 1 lần.
Khi điều chỉnh ổn định 2 kinh bệnh, sẽ điều chỉnh các kinh bệnh còn lại.
Bệnh ở ngoài lục phủ ngũ tạng : Như đau ở chân, tay, đầu mặt, mắt, lưng, khó
thở, sưng khớp gối, sưng mắt v.v… thì chữa vào cổ tay, khuỷu tay:Đặt tay vào cổ tay 10
phút, đặt vào khuỷu tay 30phút - 1h, nách 10 phút, đặt nhiều lần sẽ khỏi. Chữa rất nhẹ
nhàng và hiệu quả cao.
Đối với bệnh đã lâu năm
Chọn 2 kinh nặng nhất, và kinh Trường sinh tập trung cao độ chữa trước. Chữa từng
kinh mạch và dùng đá tương tự như trên, thời gian đặt tay là 1h. Và chú ý giải trược cho
cổ tay khuỷu tay, nách thời gian tùy ý.
Thời gian từ 3-6 tháng đến khỏi hẳn kinh mạch bệnh mới chuyển sang chữa kinh
mạch khác.
Dùng đá:Riêng bệnh lâu năm, do có nhiều tà khí bám dính nên chữa lâu không khỏi
bệnh. Khi quỳ lễ nắm đá thấy rấm rứt nhẹ ở bàn tay, để cho đến khi hết rấm rứt ở bàn tay,
thì phải bỏ đá ra ngay. Tối đa 20 phút. Kiên trì quỳ lễ và chữa kinh mạch, sẽ giải hết lớp
tà khí bám dính là khỏi bệnh.
Chữa vùng đau bệnh, u cục cứng
- Đặt đá 1- 5 phút, sau đó đặt tay 20 phút cho đến hết đau.
- Mỗi tuần 1 lần đặt đá vào các huyệt quanh mắt, điểm giữa và đầu cuối lông mày,
gò xương má, dái tai, mang tai, thái dương, quanh gáy, Ngọc chẩm, Bách hội, Thần đình,
khuỷu tay, dọc sống lưng, nách, quanh mắt cá chân…, mỗi chỗ 30 giây. Tổng cộng
không quá 20 phút.
Chữa bệnh âm
Người bệnh tự phát hiện có vong âm từ trước. Có trường hợp vong ẩn trong bệnh
mà không biết, khi tập Vô thức sẽ phát hiện: rung lắc mạnh, người lạnh, giật mình, có
tiếng nói, nổi da gà, cục cứng… là biểu hiện có vong âm từ trước. Từ trước tới nay, phải
có thầy cúng, thầy tâm linh rất cao tay mới chữa được bệnh âm, có khi không khỏi. Lần
đầu tiên người bệnh tự điều trị được vong âm, theo đúng hướng dẫn của tôi. Người bị
vong nhập, phần lớn do Kinh Tâm bào yếu, tà khí dễ xâm nhập. Bài tập còn ngăn chặn tái
diễn, bằng việc tích cực luyện tập ánh sáng Prana, và điều chỉnh kinh Tâm bào khỏe lên.
Tuy nhiên bệnh âm rất phức tạp, có nhiều diễn biến khác thường, đòi hỏi bản lĩnh quyết
tâm, và có lòng tin tuyệt đối sự giúp đỡ của tôi. Kinh tâm bào yếu thì tư tưởng hay dao
động, hay thay đổi đột ngột theo ma lực. Vì vậy phải tích cực học hỏi sự sáng suốt, luyện
tập vô thức và chấm dứt trong tư tưởng, và việc làm mê tín dị đoan, mới chữa trị
được. Cách chữa:
1. Luyện tập bài số 1.
2. Ba ngày 1 lần dùng đá Téctit 200g trở lên.Đặt đá vào bàn tay, mỗi tay 10 - 20
phút, nằm thẳng thư giãn, đá hút âm khí. Nếu giật mình là vong xuất. Một người có thể
nhiều vong. Nếu không có bệnh âm thì không được nắm đá lâu.
3. Điều chỉnh 3 kinh mạch: Trường sinh, Tâm bào, kinh có bệnh. ( chọn 1 kinh
mạch nặng nhất chữa trước ). Thực hành như thao tác điều chỉnh kinh mạch bệnh.
Ngày nắm đá, thì không đặt kinh mạch. Khi bớt bệnh phải giảm dùng đá. Sau một
tháng phải nghỉ đặt đá. Nếu chưa hết bệnh âm, mỗi tuần dùng đá 1 lần nắm đá trong bàn
tay. Hàng ngày đọc bài: Hành trình về Cội nguồn, Kinh Đại Phúc Đức, thuyết phục vong
tỉnh ngộ siêu thoát qua Hà Đào Thành.
Bài tập vô thức có ánh sáng thanh tịnh, khi vong suy yếu phải ra đi, là lúc vong sẽ
tìm cách chống lại sự luyện tập, làm chán nản bỏ tập. Nếu quyết tâm luyện tập, làm đúng
hướng dẫn, sẽ đưa vong đi siêu thoát, mới thông được kinh mạch.
Quy định chung về dùng đá Téctit
- Mỗi người có âm tà khí nhiều ít khác nhau, nghiệp lực khác nhau, nên thời gian sử
dụng đá khác nhau, không có chuẩn mực chung. Phải do chính người dùng theo dõi định
mức phù hợp với mình, không quá nhiều, không quá ít. Bệnh nhẹ dùng ít, bệnh nặng
dùng nhiều hơn. Dùng đá 1 tháng phải nghỉ, sau khi nghỉ 1 tháng được dùng đợt tiếp theo
ở mức độ giảm hơn lần đầu. Cấm dùng đá quá nhiều trong thời gian dài làm mất cân bằn
âm dương. Riêng người có bệnh nặng, bệnh lâu năm, vẫn tiếp tục quỳ lễ nắm đá.
- Khi dùng đá, cơ thể sẽ phân loại trược khí, có loại hút vào viên đá, có loại trược sẽ
bốc thẳng qua Hà Đào Thành. Đặt đá vài ngày đầu thấy đau tăng vài phút, do đang thông
mạch kẹt lâu năm, hoặc nhẹ nhõm, giảm đau ngay.
- Nếu luyện tập đã lâu ngày mà mặt hoặc bàn tay còn tái xám, nhăn nheo chưa trắng
hồng, tức là còn tà khí, phải tăng dùng đá quỳ lễ và giải trược kinh mạch.Nếu bệnh lâu
khỏi do nghiệp lực, cần nỗ lực thêm thời gian.
Quỳ lễ nắm đá
Để giải được loại ô trược bám dính, vừa quỳ lễ vừa nắm đá 2-5 phút, mỗi bên tay,
bỏ đá ra quỳ lễ tiếp. Có thể quỳ lễ nắm đá vài lần trong ngày. Khi luyện tập thấy bí bách
thì nắm đá quỳ lễ sẽ thông suốt.
Vai trò của đá Téctit
Đá Téctit có liên hệ bí ẩn quan trọng đối với con người. Gọi là Thiên thạch ( đá Trời
) vì không có nguồn gốc từ trái đất. Trong quá trình kiến tạo vũ trụ, có những vụ nổ mưa
sao. Mỗi viên đá bị đốt cháy trong khí quyển, ở nhiệt độ cao hàng tỷ độ, nên vật chất bốc
hơi gần hết, chỉ còn cái lõi nhỏ, cứng, trọng lượng nhẹ hơn đá ở trái đất, màu đen nháy,
mặt rỗ, có năng lượng Dương rất cao ( lửa trời ) khử được tà khí còn bám dính, làm sạch
cơ thể. Vì vậy đá Téctit có tác dụng rất quý báu, hút tà khí xấu bám chặt, mọi sự luyện
tập không giải được loại tà khí này. Do đó đá Téctit rất cần thiết cho khai thông kinh
mạch, phòng và chữa bệnh nan y, nhưng dùng vừa đủ.
Viên đá hỗ trợ cần thiết, không phải phương tiện chữa bệnh. Không được nóng vội
muốn nhanh khỏi bệnh dùng đá quá nhiều. Bệnh tật do rất nhiều nguyên nhân, phải kiên
trì thực hành bài luyện tập lâu dài, ăn uống đúng cách, từ từ giải hết các loại trược khí
mới khỏi bệnh.
Thiền trường sinh
Ngồi lưng cổ thẳng, duỗi chân thư giãn, mắt nhắm. Hít thở an lạc êm nhẹ chậm. Co
một chân lại gần, đặt ngón tay cái lên điểm Trường sinh. Thời gian tùy ý. Vài ngày đầu
có thể thấy đau nhức, tưng tức, ngứa ngáy, nháy rung, đang điều chỉnh bệnh. Càng thư
giãn càng hiệu quả cao. Thiền Trường sinh có hiệu quả bồi bổ tuyến Yên, làm vượng
kinh mạch. Là phép Thiền lợi ích cao nhất từ trước tới nay, điều chỉnh toàn bộ cơ thể,
phòng chống bệnh nan y.
Vị trí sáu đường kinh mạch dưới móng chân
1. Kinh Tỳ: Chủ về chuyển hóa thức ăn, tạo khí huyết. Cácbệnh về tụy, dạ dày,
đường ruột. Liên hệ Kinh Vị, Tâm.
2. Kinh Can: Chủ về tiêu hóa, bài tiết độc tố, cung cấp máu huyết, thúc đẩy hoạt
động khí. Bệnh về gan, tiêu hóa, máu huyết, mật, sinh dục, tiết niệu, ung thư, viêm sưng,
táo bón, da. Nối thông Kinh Đởm ,Vị.
3. Kinh Vị:Chủ về tiêu hóa, chứa và nghiền nát thức ăn. Bệnh về dạ dày, tiêu hóa,
bệnh ở Mặt, mắt, tai, răng, họng, đầu. Nối thông kinh Tiểu trường, Đại trường, Tỳ.
4. Kinh Đởm: Tạo tinh chất mật, dũng khí, bản lĩnh con người. Bệnh về mật, tiêu
hóa. Nối thông kinh Can.
5. Kinh Thận:Chủ về bài tiết, sinh dục, cốt tủy, sinh tạo tủy não xương, trí thông
minh. Bệnh ở Thận, sinh dục, huyết áp cao, mắt, não, tủy. Nối Kinh Phế, Can, Bàng
quang, Tâm.
6. Kinh Bàng quang:Chủ về bài tiết nước tiểu. Bệnh ở bàng quang, u tuyến tiền liệt,
tiểu tiện, bệnh đầu, gáy, lưng, cột sống, tạng phủ, mắt, mũi. Nối thông thận, não.
Vị trí sáu đường kinh lạc dưới móng tay
1. Kinh Phế: Chủ hô hấp và khí, da. Bệnh ở phổi, ngực, họng, khí quản, thanh quản,
da. Nối thông Đại trường, Vị, Can.
2. Kinh Đại trường: Chủ về bài tiết cặn bã, hấp thụ dinh dưỡng. Bệnh ở ruột già,
trĩ, táo bón, bệnh tai mũi, họng, răng, đầu, gáy, bài tiết. Nối thông Kinh Phế.
3. Kinh Tâm bào: Bao bọc bảo vệ kinh Tâm. Bệnh ở Tim ngực, thần kinh thực vật, dạ
dày. Bệnh âm. Nối Kinh Tam tiêu.
4. Kinh Tam tiêu: Phủ bảo vệ phía ngoài các tạng phủ. Gồm các vùng Thượng tiêu,
Trung tiêu, Hạ tiêu. Bệnh ở tim, ngực, bụng, tai. Nối thông Tâm bào.
5. Kinh Tâm: Đứng đầu các tạng phủ, chủ về tinh thần, chủ huyết mạch. Bệnh ở
Tim, ngực, thần kinh, huyết áp. Nối thông Tiểu trường.
CHỮA BỆNH NAN Y
Theo số liệu thống kê trung bình
mỗi năm ở Việt Nam có 75.000 người tử
Nguyênnhân bệnh nan y phần lớn có do
suy thoái tuyến Yên, ( vì môi trường ô
nhiễm ) làm rối loạn chuyển hóa.
vong vì ung thư, cộng thêm các loại bệnh khác, thì số người bệnh tử vong mỗi năm khá
lớn. Như vậy cuộc chiến bệnh nan y thật khó khăn, không đơn giản như nhiều thầy tuyên
bố chữa khỏi bách bệnh.
Nguyên nhân bệnh nan y phần lớn có do suy thoái tuyến Yên, ( vì môi trường ô
nhiễm )làm rối loạn chuyển hóa. Bệnh do rối loạn chuyển hóa đang tăng lên chiếm tỷ lệ
62,4 %. Vì khó phục hồi tuyến Yên nên khó chữa khỏi tất cả bệnh nan y, người bệnh
phải có nỗ lực đặc biệt.
Tuyến Yên được Tạo hóa sắp đặt trong sự bảo vệ tuyệt đối, hiếm có loại thuốc, thức
ăn nào ngấm vào tuyến Yên, nên các chuyên ngành Đông y và Tây y chưa có thuốc phục
hồi tuyến Yên. Mỗi người phải tự phát hiện và chăm sóc tuyến Yên cho mình, qua luyện
tập dưỡng sinh và ăn uống đúng, không đổ thừa hoàn toàn cho bác sĩ.
Hiện nay, ô nhiễm môi trường làm suy thoái tuyến Yên, dấu hiệu là chai da ở gốc
ngón tay út, chiếm tỷ lệ rất cao ( trên 30 %). Nếu không luyện tập khắc phục hết chai da,
trong môi trường ô nhiễm kéo dài, sẽ phát sinh bệnh nan y. Người bệnh ở giai đoạn cuối
sẽ chai da gần hết bàn chân, bàn tay, báng nước bụng to, tràn dịch. Khi đó chữa rất khó
khăn.
Chữa bệnh nan y cần áp dụng 4 nguyên tắc:
1. Có tư duy chính niệm:tập trung tinh thần, sức lực, tài chính giữ gìn tính mạng.
Khi đó cơ thể tập trung năng lượng điều chỉnh cơ thể. Phải có ý chí tốt.Học hỏi kiến thức
mới, lạc quan không hoang mang lo sợ, không bao giờ rủn chí.
2. Luyện tập dưỡng sinh:Dưỡng sinh đem lại trật tự cân bằng âm dương, tăng năng
lượng và tăng sức đề kháng tự điều chỉnh. Nếu cần phải phẫu thuật khối u,nên suy xét
phù hợp tình huống sức khỏe, phải hiểu cơ thể mình hơn người khác.
3. Ăn uống đủ dinh dưỡng sạch, dễ tiêu hóa, uống thuốc đúng:Đối với
ngườibệnh khả năng tiêu hóa được coi trọng hàng đầu. Bữa ăn bệnh nhân hiện nay thiếu
dinh dưỡng, mặc dù dùng thịt cá sữa…vẫn thiếu năng lượng, vì người bệnh khó tiêu hóa,
tốn tiền thuốc men mà lâu khỏi bệnh.Bột địa long là thức ăn sạch nhất, dễ tiêu hóa và bổ
dưỡng nhất, tác dụng ngay sau 10 phút, kéo dài tuổi thọ và luyện tập trường sinh. Nếu
suy tuyến Yên phải tuyệt đối kiêng uống rượu bia, thịt ba ba, thực phẩm khó tiêu hóa.
Thức ăn phải sạch, đủ dinh dưỡng, dễ tiêu. Việc uống thuốc tùy quyết định người bệnh,
nếu thấy tốt thì nên dùng, không tốt thì bỏ. Khi giảm bệnh thì giảm thuốc.
4. Môi trường sạch: Môi trường sạch rất quan trọng, nâng cao sức đề kháng. Môi
trường ô nhiễm khiến chữa trị lâu, khó khỏi bệnh. Có bệnh nan y không nên đi viếng đám
tang, nhiễm khí âm làm bệnh nặng thêm.
Chữa bệnh nan y bằng phương pháp Vô thức:
Cùng với việc luyện tập bài số 1, phải kết hợp chữa tận gốc bệnh, điều chỉnh 4
kinh mạch quan trọng nhất là: kinh Phế, Can, Trường sinh, kinh bệnh. Nếu sút cân nhanh
chóng, phần lớn do bị suy 4 kinh mạch này. Các kinh mạch nối thông nhau sẽ lây lan tắc
nghẽn toàn thân khiến bệnh nặng phát triển nhanh, nên phải giành giật thời gian đi trước
bệnh. Nếu lừng khừng thì không chữa được. Thời gian đầu cần tập trung cao độ đả thông
4 kinh mạch trên.
* Cách chữa:
1. Luyện tập bài số 1.
2. Chữa kinh mạch quan trọng nhất là Kinh Phế, Trường sinh, Can, kinh mạch
bệnh ( chọn 1 kinh mạch nặng nhất chữa trước ). Khi ổn định các kinh này, mới chữa
kinh khác.
Thực hành theo thao tác điều chỉnh kinh mạch bệnh lâu năm, đặc biệt quan tâm
chữa kinh Trường sinh, kinh Phế. Kinh Trường sinh yếu, thì kinh Phế sẽ yếu. Chú ý kinh
bệnh, kinh Can, và chữa vào cổ tay, khuỷu tay, nách. Thời gian mỗi chỗ 20 phút trở lên.
- Đặt đá vào giữa chỗ u, từ 10-20 phút. Sau đó đặt tay.
- Nếu bệnh lâu năm, cần nỗ lực luyện tập nhiều thời gian.
- Cần dùng thuốc phù hợp căn bệnh.
GIẢM ĐAU KHÔNG DÙNG THUỐC
Nguyên nhân của cơn
đau làdo tế bào bị đói ăn, phát tín
hiệu để được chữa trị. Muốn giảm
đau phải giải quyết nghẽn tắc, làm
lưu thông máu huyết, kinh mạch để cung cấp năng lượng tới nơi đó. Nghẽn tắc do:
1. Khí trược, ô nhiễm, âm khí gây nghẽn tắc kinh mạch.
2. Mảng xơ vữa thành mạch máu, hoặc vỡ thành mạch.
3. Bị chèn ép do khối u, dị vật, sưng tấy viêm nhiễm, nơi axit tăng cao.Tùy trường
hợp cần phẫu thuật, rồi tập luyện.
Nghẽn tắc kinh mạch sẽ tạo mầm bệnh . Bao giờ cơ thể cũngbáo trước nhiều năm
tháng,bằngdấu hiệu đau nhẹ ở các huyệt đạo nằm sâu kín, hoặc có chai da, cục sần cứng,
da khô dày thâm đen, tái. Nếukhắc phục ngay thì không phát bệnh.
* Cắt cơn đau mới phát:
- Ăn ngay bột Địa long.
- Đặt đá vào chỗ đau 5-15 phút, có thể đau tăng sau đó sẽ giảm hoặc hết đau.
- Đặt tay vào chỗ đau.
- Quỳ lễ nắm đá. Thiền Trường sinh. Thời gian tùy ý.
Hệ A - Bài số 2
TU SỬA TỪNG BỘ PHẬN
Cơ thể là khối thống nhất có liên quan tất cả các bộ phận, nếu cònbộ phận ách tắc, sẽ ảnh hưởng chung toàn cơ thể. Bài số 2 chuyên sâu vào các khớp và bộ phận đau yếu, tập từ 2-3 tháng.Nếu chưa mở Hà Đào Thành, thì tập lại từ bài thể dục.
Nghẽn tắc kinh mạch sẽtạo mầm bệnh. Bao giờ cơ thể cũngbáo trước nhiều năm tháng,bằngdấu hiệu đau nhẹ ở các huyệt đạo nằm sâu kín, hoặc có chai da, cục sần cứng, da khô dày, thâm đen, tái...
1. Tiếp tục tập bài số 1:Hoàn tất khai thông kinh mạch.
2.Tu sửa từng bộ phận cơ thể: Đặt tay vào: khớp cổ tay, cổ chân, khuỷu tay, hõm nách, thái dương, đầu, gáy, trán, khớp đầu gối, khoeo chân, khớp vai, ngực, bụng phủ tạng. Có thể chia ra mỗi ngày đặt 2 – 3 vị trí, mỗi chỗ đặt tay 10-20 phút. Chỗ nào đau đặt đá 5 phút, đặt tay 20 phút. Quỳ lễ nắm đá hằng ngày.
Nhờ cách luyện bàn tay, đã trở thành bàn tay thần dược, đặt tay vào chỗ cần thiết, sẽ điều chỉnh, sửa chữa bộ phận đó. Tất cả các bộ phận cơ thể đều cần tu sửa thanh tịnh và đầy đủ năng lượng. Bàn tay thấm hút trược khí ra khỏi ổ bệnh, thải qua Hà Đào Thành. Tất cả bộ phận trên cánh tay được chú ý giải trược, không để ách tắc trên cánh tay. Bất kỳ chỗ nào đau bệnh phải giải hết trược khí là hết bệnh.
Hệ A - Bài số 3
CHĂM SÓC TUYẾN YÊN
Tuyến Yên có vai trò hàng đầu duy trì tuổi thọ và trạng thái sức khỏe. Tuyến Yên
vừa điều khiển sự chuyển hóa năng
lượng bên ngoài vào ( điều khiển hoạt
động Kinh mạch huyệt đạo, hô hấp ),
vừa chuyển hóa năng lượng bên trong
(điều tiết nội tiết tố). Chuyển hóa
năng lượng là vai trò chủ đạo sự sống, như vai trò Thượng Đế. Tuyến Yên yếu thì sức
khỏe kém.TuyếnYên khỏe thì sinh lực vô cùng mạnh mẽ, quá trình khỏi bệnh nhanh
chóng, đáp ứng miễn dịch rất tốt. Tương lai sức khỏe nhân loại, là đảm bảo tuyến Yên.
Tuyến Yên được Tạo hoá sắp đặt ở vị trí giữa đầu, nơi an toàn nhất, không có sự va
chạm cẩu thả nào có thể đụng tới tuyến Yên. Tuyến Yên nhỏ như một hạt lạc nhưng nắm
giữ bí mật sinh mạng mỗi người. Tuổi tác làm tuyến Yên lão hóa dần. Hoạt động tuyến
Yên nhờ năng lượng Nguyên khí. Nguyên khí là vốn bẩm sinh từ cha mẹ dòng họ di
truyền, quyết định tuổi thọ của mỗi người. Kinh mạch huyệt đạo cung cấp năng lượng
Nhờ cách luyện bàn tay, đã trở thành bàn
tay thần dược, đặt tay vào chỗ cần thiết, sẽ điều
chỉnh, sửa chữabộ phận đó.
Hoạt động tuyến Yên nhờ năng lượng
Nguyên khí. Nguyên khí là vốn bẩm sinh từ
cha mẹ dòng họ di truyền, quyết định tuổi thọ
của mỗi người.
chủ yếu vào ban ngày, nghỉ ban đêm. Phần lớn nguyên khí được sử dụng ban đêm để duy
trì các hoạt động vô thức. Cạn nguyên khí thì kinh mạch tắt, ngừng thở.
Suy thoái tuyến Yên sớm do nhiều nguyên nhân: do di truyền, do ô nhiễm môi
trường, do tình dục quá mức, do “truyền nhân điện”chữa bệnh, do thiếu ăn làm việc kiệt
sức trong thời gian dài. Dấu hiệu suy thoái ban đầu là bàn tay chân lạnh, nhăn nheo, khô
ráp, có chai da dưới gốc ngón tay ngón chân mà không do lao động, tóc bạc sớm, giảm
sút trí nhớ. Sinh khí thiếu làm da tay
chân bị chai khô.Nếu đi xét nghiệm
máu hoặc chiếu chụp sẽ không phát
hiện bệnh. Mỗi người phải tự theo dõi
các báo hiệu của cơ thể về tuyến Yên,
rất quan trọng. Nếu không luyện tập khắc phục hết chai da, khi môi trường ô nhiễm tác
động kéo dài sẽphát sinh bệnh nan y. Bệnh ủ nhiều năm, phát bệnh thì mệt mỏi, sút cân,
khát nước, ù tai, đau gáy, nhức xương, có bọng nước ở mắt, ở chân, mắt kém, thiếu
máu, phát bệnh nan y, và các bệnh lai rai lâu khỏi. Vì vậy nếu phát hiện có nốt chai da ở
gốc ngón tay út, áp út,phải luyện tập vô thức phục hồi tuyến Yên, ăn uống sạch dinh
dưỡng tốt, không nhiễm hóa chất, phải ngừng ngay rượu bia. Tuyến Yênphục hồi thì da
tay châncăng mọng, mềm mại, hết chai da.
Tuyến Yên hoạt động chủ yếu bằng Nguyên khí bẩm sinh. Do đó Tây y không can
thiệp đầy đủ các hoạt động bí ẩn của tuyến Yên, dù có phương tiện hiện đại bệnh nan y
vẫn tăng. Mỗi người tự giác chăm sóc tuyến Yên, không đổ thừa hoàn toàn cho bác sĩ.
Bệnh suy thoái tuyến Yên, gây nên các rối loạnchuyển hóa chức năng và rối loạnnội
tiết tố, là nguyên nhân chính gây nên các bệnh nan y, ung thư, ngày càng gia tăng. Suy
thoái tuyến Yên sẽ trở thành căn bệnh nan y nhất thế kỷ, do hậu quả của ô nhiễm sóng
độc hại, xuyên thấu làm hư hại tuyến Yên, có thể gây nên chết người hàng loạt trong
tương lai.Dấu hiệu đầu tiên chỉ là nốt chai da nhỏ bé ở gốc ngón tay út. Tuyến Yên suy
thoái âm thầm không loại thuốc hoặc máy móc nào kiểm soát được tuyến Yên. Người trẻ
dễ bị suy thoái tuyến Yên vì hay dùng sản phẩm ô nhiễm. Trong lớp học Vô thức tôi đều
yêu cầu kiểm tra dấu hiệu chai tay, thường là 20%-30% học viên có nốt chai này. Tương
lai sức khỏe nhân loại, là đảm bảo tuyến Yên. Ai nắm vững tuyến Yên là nắm vững sức
khỏe của mình.
Thực hành
Tương lai sức khỏe nhân loại, là đảm
bảo tuyến Yên. Ai nắm vững tuyến Yên là
nắm vững sức khỏe của mình.
1- Tiếp tục tập bài số 1.
2- Chăm sóc tuyến Yên:
- Đặt tay huyệt Ấn đường 5 phút.
- Thiền trường sinh: Sửa tư thế ngồi lưng cổ thẳng, duỗi chân thư giãn, mắt
nhắm. Hít thở an lạc êm nhẹ chậm. Co một chân lại gần, đặt ngón cái lên điểm Trường
sinh. Càng thư giãn càng hiệu quả.Vài ngày đầu có thể thấy đau nhức, tưng tức, ngứa
ngáy, nháy rung, đang được điều chỉnh bệnh. Sức khỏe cải thiện nhanh. Thời gian tùy
ý. Khi bắt đầu thiền Trường sinh, nếu ta thấy ô trược bốc lên trên, thì để ý vào đỉnh đầu
cho trược khí thoát ra hết. Nếu ta thấy năng lượng vũ trụ đi vào thì hít thở an lạc năng
lượng rất dồi dào.
Thiền Trường sinh có hiệu quả mạnh mẽ nhất từ trước tới nay, tăng cường sức
khỏe, phục hồi tuyến Yên, và phát triển khả năng não bộ.
- Bảo vệ nguyên khí: Không tình dục quá mức, không “truyền nhân điện”.
Không thiếu ăn, làm việc kiệt sức trong thời gian dài. Tránh thực phẩm ô nhiễm. Tránh ô
nhiễm sóng di động, máy tính, và các loại thiết bị sóng không dây, là sát thủ vô hình độc
hại nhất trong các loại ô nhiễm, vì làm hỏng tuyến Yên, sinh bệnh nan y, mất trí nhớ
Alzeimei ở người già, hư hại trứng, tinh trùng ...
- Ăn bột Địa long là thức ăn duy nhất bồi bổ tuyến Yên, là thần dược cứu mạng.
Sau 6 tháng đầu luyện tập bài 1,2,3, đã thành công khai mở Hà Đào Thành, được
chuyển bài tập hệ B. Nếu chưa đạt yêu cầu này, nên đọc kỹ sách rút kinh nghiệm, tập lại
từ bài Thể dục vô thức.
Vị trí các tuyến Nội tiết
Những dấu hiệu suy thoái tuyến Yên rất nặng
Hệ B
SIÊU THOÁT
Sau 6 tháng luyện tập Thiền Vô thức, cơ thể thay đổi sâu sắc. Từ thô cứng chậm
chạp, trở nên mềm dẻo, linh hoạt, ấm áp, trẻ lại. Thiền tịnh bắt đầu hiệu quả cao.
Các bài tập hệ A giải lớp trược ở kinh mạch. Đến hệ B sẽ giải lớp trược từ xương
tủy ( nghiệp lực ). Giải lớp trược này khó hơn, tinh thần an lạc hơn mới giải được.
Điểm Trường sinh bị chai
da, có tổn thươngBọng nước ở mắt cá chân
Bàn tay khô héo có chai da ở gốc ngón tay út
Bàn tay đã căng lại saumột năm luyện tập
Bí quyết sống trường sinh bất lão
- Làm sạch tế bào:Khi giải hết ô trược thì khí huyết lưu thông,đầy đủ năng
lượng, tế bào khỏe mạnh rấtlâu hư hoại. Khai mởHà Đào Thành để các lớp khí trược
thoát ra, là bước quyết định thành tựu làm sạch tế bào. Khi chưa khai mở Hà Đào Thành,
chỉ thải trược qua lỗ chân lông và hô hấp, chưa đủ làm sạch tế bào.
- Đảm bảo nguyên khí dồi dào:Chăm sóc tuyến Yên tốt,kinh mạch vượng, thì sức
đề kháng miễn dịch rất cao, ít tiêu hao nguyên khí, sống khỏe mạnh trường thọ, trẻ lâu.
Luyện tập Vô thức phải đạt 2 yếu tố căn bản trên, đạt được bí quyết Trường sinh bất
lão.
Phương pháp thực hành
1 - Tập bài số 1.
2 - Tăng cường Quỳ lễ, Thiền Trường sinh:
- Quỳ lễ nắm đá mỗi bên tay 2-5 phút, bỏ đá ra quỳ lễ tiếp. Nếu quỳ lễ nhiều lần
trong ngày, mỗi tay nắm đá 1-2 phút.
- Lớp trược vi tế: Khiquỳ lễtừ 1-2 h, lớp trược vi tế sâu xa ( nghiệp lực )bắt
đầu bung ra từ xương tủy, khó thoát hơn, vì vật chất mịn nhẹ bám dính rất chặt, dính
hơn bụi kim tuyến bám dính vào da. Biểu hiện tay chân và da mặt nhớt dính, thâmlại,đau
nhức xương, nóng nực, miệng đắng.Bàn tay hơi tái. Chỉ có đá Téctit mới giải được loại
trược này.
Khi có biểu hiện trên, thì tăng thời gian quỳ lễ kết hợp nắm đá Tectit 5-10 phút, mỗi
bên tay , rồi quỳ lễ tiếp. Nếu thấy đau chân tay, phải chữa cổ tay, khuỷu tay .
Đặt đá quanh mắt ( điểm đầu, giữa, cuối của lông mày, gò má ), mang tai, dái tai,
thái dương, gáy, Ngọc chẩm, Bách hội, Thần đình, Ấn đường, Sơn căn, cột sống, mắt cá
chân, mỗi chỗ 30 giây. Phải tăng cường dùng đá để giải tà khí nghiệp lực. Tổng cộng đặt
đá không quá 20 phút. Sau đó đặt tay, thời gian tùy ý. Khi giảm trược phải giảm đá.
Ăn bột Địa long để tăng sinh lực đẩy lớp trược này.
Khi thấy nước bọt ngọt là thành công.
Khi tâm đầy đủ Prana, thì tâm có sức mạnh năng lượng rất lớn. Tâm chú ý vào đâu,
sẽ rót năng lượng vào đó, trở thành sức mạnh Tâm linh của Tâm.
Khi rời bỏ cõi đời, tâm
thức đi thẳng qua “lỗ hổng
vôhình” theo phương
thẳng, siêu thoát khỏi cõi ô
trược trần gian, không phải đi ngang qua cửu khiếu (9 lỗ mở trên cơ thể) vào cõi ô
trược. Siêu thoát đến cõi nào, do người đó có công phu luyện thanh tịnh.
Bài tập Vô thức, có ý nghĩa trưởng thành Tâm
linh cho rất nhiều kiếp sống, là bước trưởng thành
quan trọng nhất một đời người.
Do vậy bài tập Vô thức, có ý nghĩa trưởng thành Tâm linh cho rất nhiều kiếp sống,
là bước trưởng thành quan trọng nhất một đời người.
Chú ý rằng kết quả càng cao ta càng phải khiêm tốn, lập hạnh nghiêm khắc giữ gìnsự
sáng suốt, đề cao cảnh giác với các tham vọng ngạo mạn, ảo ảnh vô minh.
Sau 3 năm luyện tập Hệ B, khỏi hết bệnh thì chuyển hệ C. Nếu chưa hết bệnh
tiếp tục tập hệ B.
Hệ C
PHÁT TRIỂN TIỀM NĂNG NÃO BỘ
Sau 3 năm luyện tập Hệ A, B,
chuyển hệ C, bắt đầu đi sâu vào sự im
lặng, chủ yếu quỳ lễ và Thiền Trường sinh, tu sửa não bộ, giải những lớp trược sâu
nhất.
Con người quan trọng nhất là hoạt động não bộ. Não bộ là cơ quan hàng đầu phân
phối năng lượng. Đời sống con người bình thường mới sử dụng đươc 3% -5% khả năng
não bộ. Do thiếu năng lượng, não bộ chưa phát huy khả năng hoạt động của các tế bào
thần kinh.
Bài tập Vô thức hệ A và B, đã phục hồi chức năng vỏ não và tuyến Yên, làm sạch
não bộ và tăng cường cung cấp năng lượng Prana, đã nâng cao khả năng não bộ tự điều
chỉnh bệnh tật và điều khiển cơ thể tốt hơn, vì vậy có cảm giác Hạnh phúc, sảng khoái,
tinh thần lạc quan, thông minh, trí nhớ phục hồi tốt.
Hệ C luyện tập nâng cao khả năng tiềm tàng của não bộ. Không có gì khác hơn là
tiếp tục giải trừ các chất ô nhiễm, làm sạch tế bào thần kinh và cung cấp năng lượng
Làm sạch tế bào thần kinh và cung cấp
năng lượng Prana dồi dào, sẽ bộc lộ tiềm
năng trí tuệ, giác ngộ, trực giác và các năng
khiếu riêng mỗi người.
Prana dồi dào, sẽ bộc lộ tiềm năng trí tuệ, giác ngộ, trực giác và các năng khiếu riêng mỗi
người. Nhờ bàn tay thực hiện chức năng tẩy trược, làm sạch tế bào thần kinh và cung cấp
năng lượng cho não bộ,
một cách tự nhiên, không có sự
áp đặt của bên ngoài, vì vậy an
toàn không có hậu quả xấu. Có thể
phát huy khả năng não bộ cao hơn
nữa, khi người luyện tập chính niệm vào bài tập,đạt tới trạng thái sung mãn tinh thần,
Niết bàn tại thế.
Bài luyện tập Vô thức sẽ tự điều hành phục hồi não trái trước, sau đó là não phải.
Não trái liên quan nhiều về mặt xã hội, sự vận động, sức khỏe và tinh thần. Não phải ẩn
chứa những tiềm năng chưa bộc lộ, thế giới tinh thần cao cấp, các mối liên quan khăng
khít với vũ trụ, liên thông sức mạnh và trí tuệ vũ trụ. Người luyện tập đến hệ C, là người
có duyên lành, cần liên hệ với tôi, được tư vấn và đóng góp kinh nghiệm .
Thực hành:
1. Tập bài số 1 rút gọn: Có thể kết hợp 3 thao tác cùng lúc khi Thiền hành 7 bước thì xuống chân, kết hợp đặt tay vào ngón tay giải trược, hoặc nắm nhẹ cổ tay, nắm khuỷu tay giải trược…Thực hành nắn ngón tay chân, giải trược Thời gian tập tăng giảm linh hoạt, tùy tình trạng bệnh, nhưng không được thiếu động tác nào của bài số 1
2. Thao tác Tẩy não:Buổi sáng thức giấc, đặt đá giải trược quanh chân tóc và đầu
mặt: Đặt đá vào 2 bên dái tai, huyệt Phong trì, Ngọc chẩm, Thái dương, Bách hội, Thần
đình, Ấn đường, Sơn căn, quanh mắt ( điểm đầu, giữa, cuối của lông mày, gò má ), mỗi
chỗ 30 giây. Riêng lần đầu đặt đá nếu chỗ nào có lực hút mạnh thì để đá cho đến khi hết
lực hút, lấy ra ngay. Tổng cộng đặt đá không quá 20 phút. Khi giảm trược phải giảm thời
gian đặt đá. Sau đó quỳ lễ nắm đá .
Đặt đá khoảng 10 ngày, bắt đầu đặt bàn tay lên đầu: Nằm thư giãn, hoặc ngồi ấpnhẹ
bàn tay lên đầu bên trái, đầu bên phải, gồm vùng trán, mắt, thái dương, đỉnh đầu,
Bàn tay thực hiện chức năng tẩy trược, làm sạch tế bào thần kinh và cung cấp năng lượng cho não bộ, một cách tự nhiên, không có sự áp đặt của bên ngoài, vì vậy an toàn không có hậu quả xấu.
gáy,tai... mỗi chỗ 10-30 phút. Có thể chia các vị trí không nhất thiết làm cùng một
ngày.Đặt tay lâu mới có tác dụng tẩy não. Khi não bắt đầu thải trược, có thể ù tai, cảm
giác có luồng khí như gió thổi ra lỗ tai, rung nháy, hơi đau, mồ hôi rất nhiều trên đầu. Sau
1-2 tuần sẽ bình thường, đầu óc sảng khoái. Mỗi tuần 1 lần đặt đá buổi sáng sớm, mỗi
chỗ 30 giây.
Do trược khí của não độc hơn, có thể làm đau sưng cánh tay, nên sau mỗi lần tẩy
não, bắt buộc phải giải trược cổ tay, khuỷu tay. Nếu để nghẽn khí khuỷu tay, sẽ tái phát
bệnh.
3. Tăng cường quỳ lễ nắm đá, Thiền Trường sinh, Thiền tịnh: Thời gian tùy ý.
* Lớp trược độc: Khi luyện tập tích cực, có thể đến thời kỳ lớp trược độc trong não
xả ra, làm đau chân tay, móng chân tay tím, bải hoải, đắng miệng. Cần tập trung thời gian
giải trược cổ tay 20 phút, khuỷu tay 1h, hoặc lâu hơn nữa. Sau đó quỳ lễ nắm đá, thiền
Trường sinh. Ngón tay giải trược độc có thể thâm tím. Sau 1-2 tuần móng chân tay hồng
hào, nước bọt ngọt là thành công, là thành tựu cao nhất, minh mẫn, sức khỏe và tuổi thọ
vô cùng. Tùy nghiệp lực mỗi người, có hoặc không có lớp trược độc. Nếu có phải xử lý
ngay.
* Cách Thiền tịnh: Tùy theo cơ thể đã thanh tịnh chưa sẽ ngồi thiền khoanh chân,
hoặc ngồi ghế, lưng cổ thẳng, chú ý hơi thở an lạc. Hơi thở êm nhẹ dài là hơi thở sâu
nhất.
Cuối cùng không để ý gì nữa. Sự yên tĩnh bên trong, giúp cơ thể giao cảm với Prana
và phát triển siêu thức.
* Nếu muốn chữa tóc bạc, tóc hói: Hàng ngày ấp tay vào vùng tóc bạc, tóc sẽ đen
lại, bớt rụng tóc. Sau đó phải giải trược cánh tay ngay.
“ Cái đầu ví như cái hồ nước chính, tiếp tế cho bao nhiêu đô thành, Tỉnh, quận, xã,
mỗi nhà đều có nước uống là nhờ cái hồ nước chánh này. Sự phân chia ra cho đồng đều,
mà mọi người dân đều có đủ nước sài, chính người điều khiển phải có một bộ óc thông
minh, mới có thể vẽ ra hệ thống dẫn nước tinh túy, hầu không ai thở than, không đủ xài
mà sinh ra bệnh.
Chỗ nào đau là chỗ đó bị tê liệt sự phân phối của Thần kinh hệ. Tay chân nhức nhối,
là hệ thần kinh chỗ đó bị tê liệt. Mắt đau nhức là Thần kinh hệ không chiếu ra nơi đó
được.
Và những cơ quan nào đau, cũng do Thần kinh hệ không chiếu ra nơi đó được, vì nó
đã bị tê liệt bởi sự Tham, Sân, Si ( trược khí ). Vì tam độc này đã diệt cái Thần kinh hệ.
Cho nên chỗ nào có Tham, Sân, Si đến, là chỗ đó sanh đau, và có ngày chúng sẽ bị hoại,
phải cưa, mổ sẻ chi đó.
Từ mỗi ngón tay, ngón chân đều là bộ máy của Trung tâm Thần kinh, do đó khi con
người tu chơn chánh, rồi dùng tay rờ mó vào
chỗ nào đau của bệnh nhân thì rờ đâu hết
đau đó. Bởi trung tâm Thần Kinh hệ
đã Thanh tịnh không còn Tam độc nữa, nên
khi rờ vào chỗ đau thì hết đau. Không khi
nào bình điện chúng hết, vì cơ thể đã thanh sạch, thì sự truyền sang cho kẻ khác không
bao giờ chúng ta mất, vì khi truyền là có thêm vào khi truyền đó. Vì người rờ đó đã hết
bệnh, nên mới chữa cho kẻ có bệnh và truyền cái điển không bệnh cho kẻ có bệnh, nên
phải hết bệnh. Nhưng khi nào con người tu mà vọng tâm, thì chính lúc đó chữa bệnh,
bệnh lại thêm.
Vậy xin nói rõ, Trung tâm thần kinh hệ là Chủ nhơn ông của cơ thể, là Tiểu vũ trụ,
là con người thật, biết được, hiểu được, thấy được, làm trúng, làm trật, đều là do nơi
Trung tâm thần kinh hệ tất cả.” ( Trích Thông thiên học ).
Cuộc phấn đấu kiên trì và sáng suốt giải thoát khỏi ô trược, là cuộc giải thoát lớn
nhất ngay tại kiếp sống này.
Cuộc phấn đấu kiên trì và sáng suốt
giải thoát khỏi ô trược, là cuộc giải thoát
lớn nhất ngay tại kiếp sống này.
LUYỆN TÂM
Khi cơ thể còn nhiễm trược, thì
Tâm còn phiền não và suy nghĩ còn
sai quấy, Tâm chưa đủ năng lượng
làm chủ đời sống, bị vòng xoáy cuộc đời lôi cuốn vào nhiều sai lầm, hậu quả khổ đau.
Mục đích luyện tâm, là đạt được An lạc và Sáng suốt.
Tâm vô nhiễm ( không nhiễm ô trược ) có sức mạnh năng lượng vô cùng lớn, là chủ
nhân ông của mỗi người, vì Tâm thanh tịnh kết nối với năng lượng Prana ( Thượng Đế )
có tầm nhìn xa trông rộng quá khứ hiện tại tương lai, thoát khỏi hậu quả sai lầm của vô
minh.
Luyện tâm theo giới luật, thì khó khăn với người đang làm việc ngoài xã hội. Có
thể Luyện tâm thanh tịnh theo phương pháp thực hành Nếp sống Chính niệm, rèn luyện
tâm an lạc, kết hợp thực hành luyện tập Vô thức. Sức mạnh Vô thức giải trừ ô trược, loại
bỏ tận gốc mầm móng phiền não, bệnh tật, làm cho tâm thanh tịnh, an lạc. Luyện tâm gắn
bó khăng khít với luyện tập Vô thức. Nếu không thực hành an lạc, giảm bớt căng thẳng,
sẽ khó khai mở sức mạnh vô thức.
I. NẾP SỐNG CHÍNH NIỆM:
Sống chính niệm là tập trung hoàn hành một việc hữu íchcủa mỗi ngày giờ, giờ nào
việc nấy. Chính niệm đem lại hiệu quả rất lớn. Vì bộ óc có đặc điểm, mỗi lúc chỉ xử lý 1
việc. Nếu làm hai ba việc một lúc bộ óc sẽ giảm hiệu quả làm việc. Đức Phật chỉ
dẫn: “Khi đi ta đi, khi ăn ta ăn, khi ngủ ta ngủ”. Đó là nếp sống Chính niệm.
1. Khi ta đi:
Vai trò bước chân rất quan trọng. Khi đi bộ chậm, tâm chú ý vào từng bước đi, sẽ
vận hành khí lực kéo khí xuống chân, thông kinh mạch rất tốt cho cơ thể. Cũng là đi,
nhưng không có vai trò của tâm, còn mải suy nghĩ lo toan việc khác, là bước chân vô
tình, đi cả đời kinh mạch vẫn bế tắc. Thiền hành là đibộ chậm từng bước thong thả đều
đặn, không nói chuyện. Toàn thân thả lỏng, tập trung vào sự chuyển động, hít thở nhẹ,
năng lượng phân phối đều xuống hai tay, làm thông khí, tiếp nhận nhiều năng lượng. Bàn
Tâm vô nhiễm có sức mạnh năng lượng vô
cùng lớn, là chủ nhân ông của mỗi người.
tay sẽ hồng hào căng sinh lực, có nước miếng ngọt làđạt hiệu quả tốt. Đi bộ chân đất tốt
hơn. Trời lạnh thì đi dép.
Đây là một thực tập có nhiều lợi ích trị liệu. Các nhà nghiên cứu Viện đại học
Colorado (Mỹ) xác định: Chỉ cần 6 giờ/tuần đi bộ thiền hành hoặc đi xe đạp, là có thể ức
chế sự suy thoái miễn dịch do tuổi tác.
Đi bộ thiền hành còn lan toả xuống đất năng lượng từ bi.Mỗi bước chân khoan thai và
tư tưởng từ bi của bạn đã đóng góp năng lượng thiện ích bảo vệ trái đất.
Phát hiện của Bác sĩ Erơnơ Mun Đa Sép (Nga) trong chuyến đi khảo sát Tây tạng
năm 2002, đã phát hiện: Bức thông điệp bi thảm của cổ nhân ( NXB Thế giới –
2005) nói về sự tồn vong của trái đất, do lực đối trọng giữa năng lượng lực tiêu cực ( ác )
và năng lượng tích cực ( thiện ), nếu đến giới hạn mất cân bằng, sẽ làm lệch trục trái đất,
hủy diệt sự sống. Nếu 8 tỷ người trên trái đất liên tục nện xuống đất những bước chân
giận dữ, phát ra tư tưởng tranh giành khổ hại nhau, tích tụ từng ngày làm tăng nhanh năng
lượng tiêu cực.
2. Khi ăn ta ăn: Cách ăn rất quan trọng "bệnh từ miệng mà ra".Khi chú ý bữa ăn,
cơ thể sẽ tăng bài tiết nước bọt rất quý, và thưởng thức hương vị thơm ngon tinh tế của
món ăn. Ngược lại ăn vội vã, sẽ ít tiết dịch, miếng ăn còn thô không tiêu hoá hết trong dạ
dầy, khiếnđầy bụng, lên men thối rữa, phát ra độc tố thấm vào máu. Thức ăn nhiều hóa
chất và không tiêu hóa hết là một nguyên nhân ung thư. Tâm trạng lúc ăn màbực bội,
buồn bã cũng khó tiêu hóa, cơ thể phản ứng cổ họng co thắt khó nuốt.Ăn khi vui, miếng
nhỏ mà nhai kỹ, chỉ nuốt nước, còn bã giữ lại nhai tiếp, là cách ăn tiêu hóa tốt. “Khi ăn ta
ăn” không xem ti vi, ăn trong trạng thái vui vẻ, cảm nhận hương vị thực phẩm, thời gian
30 phút, chuyển hoá toàn bộ thức ăn thành chất dinh dưỡng quý.Đó là bữa ăn chính niệm,
đem lại giá trị hạnh phúc. Thành phần máu thường xuyên thay đổi theo phẩm chất ăn
uống, nên bữa ăn có ý nghĩa quan trọng đối với sức khoẻ và tâm linh. Thái độ tuỳ tiện với
bữa ăn, phải trả giá bằng bệnh tật, và suy thoái tinh thần, tâm linh.
3. Khi ngủ ta ngủ: Giấc ngủ phục hồi cơ thể, sửa chữa tế bào, sau một ngày hoạt
động. Giấc ngủ sâu tốt nhất là quãng 12h -1h đêm. Vì thế phải biết sự quý giá của giấc
ngủ. Đến giờ ngủ là đi ngủ. Đó là hành động chính niệm, một thói quen tốt cho sức khỏe,
tinh thần.
II. SUY NGHĨ CHÍNH NIỆM:
Suy nghĩ chính niệm là biết lựa chọn việc gì hữu ích nhất, và tập trung hoàn thành 1
việc đó. Khi có nhiều việc, người chính niệm sẽ biết tập trung vào một việc cần làm, biết
phải làm gì và không làm gì, không do sự can thiệp của người khác hay ảo tưởng của
mình, không reo rắc sự căng thẳng cho người khác.
Tư duy chính niệm, tạo nên kinh
nghiệm lựa chọn, phân minh việc nào
cần làm hay không cần làm, giúp trí
tuệ ngày càng sáng suốt, có tầm nhìn
xa trông rộng của minh triết, trực giác phát triển. Khi dứt khoát làm một việc, sẽ bớt suy
nghĩ mông lung, chấm dứt phiền não.
Tư duy chính niệm xuất hiện khi tĩnh lặng. Sự bình tâm mới có quyết định sáng
suốt. “No quá mất ngon, tức quá mất khôn”.
Sống chính niệm mỗi ngày giúp con người trưởng thành từng ngày, tạo con người
kiên định, có bản lĩnh vững vàng, có trực giác tỉnh thức với hiện tại từng ngày, từng
giờ, có sức mạnh nội tại, tạo nên những thành công. Chính niệm là chìa khóa thành
công mọi việc.
Người chính niệm cao nhất là người suốt đời chính niệm một việc. Họ trở thành
các bậc Minh sư, Minh triết, Giác ngộ, Thánh nhân.
Cơ thể chúng ta là bậc thầy Chính niệm. Não bộ thực hiện chức năng điều khiển
80.000 tỷ tế bào ( gấp 1.000 lần dân số
thế giới ), vẫn đảm bảo hoạt động
chính xác, nhờ tuân thủ chính
niệm rất chặt chẽ. Đến giờ ăn thì
hoạt động tiêu hóa ưu tiên hàng
đầu, đến giờ ngủ là buồn ngủ, để
bộ phận tiêu hóa nghỉ ngơi, năng lượng được tập trung sửa chữa, phục hồi tế bào thần
kinh sau một ngày hoạt động. Vì chúng ta vi phạm quá nhiều sự chính niệm của cơ thể,
không tuân thủ nhịp sinh học, làm giảm sức mạnh cơ thể, nên sinh ra bệnh tật, yếu kém
sức khỏe.
Đức Phật chỉ dẫn phải biết chính niệm vào 32 điều trong cuộc sống sẽ đạt được đời
sống đại Hạnh phúc, hay đại Phước đức. Xem nội dung Kinh đại Phước đức.
Người chính niệm sẽ biết tập trung vào một
việc cần làm, biết phải làm gì và không làm gì.
An lạc là thứ tài sản vô giá, không mua nổi
bằng tiền. Nhiều người có thành đạt,có tài sản
lớn,nhưng không có An lạc cho mình.
III. TÂM AN LẠC:
An lạc là thứ tài sản vô giá, không mua nổi bằng tiền. Nhiều người có thành đạt,có
tài sản lớn,nhưng không có An lạc cho mình. Nhiều người cho rằng An lạc là thứ khó
kiếm hơn tiền bạc. Nếu không có phươngpháp phù hợp khó tìm kiếm được sự An lạc.
Tâm An lạclà trạng thái tinh thần không căng thẳng, không còn phiền não, lúc nào
cũng điềmtĩnh trước hoàn cảnh xấu hay tốt. An lạclà một phương pháp tư duy làm con
người lạc quan, sáng suốt. Dù khó khăn hay thuận lợi người đó vẫn annhiên tự tại vui
sống và thành đạt, vì họ thấy ý nghĩa tốt đẹp của đời sống. Những bài học thất bại hay
thành công đều cùng một vẻ đẹp tất yếu của đời sống, một quá trình chuyển hóa cần
thiết, có cái này mới phát sinh cái kia. “Thất bại là mẹ Thànhcông”. Vì thế người An lạc
không phải cố gắng giải sầu, vì họ hiểumọi việc xảy ra đều đúng căn nguyên của nó. Họ
trân trọng nuôi dưỡng an lạc cho bản thân, không chạy theo sự cuồng nhiệt
củaTham,Sân,Si. Đời sống An lạc giúp Não bộ nhiều năng lượng, bộc lộ cái tinh túy của
trí tuệ là trực giác nhạy bén. Vì vậy An lạc đem lại sự thông minh sáng suốt làm được
nhiều lợi ích cho xã hội, cho gia đình.
Đời sống An lạc được Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni ( Ấn Độ)
khởi xướng năm 563 trước công
nguyên. Đức Phật phát hiện An
lạclà con đường giải thoát khổ
đaucho loài người. Phật đã chỉ
ranhững giải pháp đem lại sự An lạc. Giải pháp lớn nhất là thực hành 4 việc “TỪ, BI,
HỶ, XẢ” và Thiền định. Chủ yếu phải Xả được Tham, Sân, Si. Thiền định chuyển hóa
những phẩm chất bên trong tế bào thần kinh, làm cho nó thông suốt trong sạch và khỏe
khoắn, tự nhiên chấm dứt phiền não.
Giải pháp nữa là thực hành Niệm hồng danh Phật A Di Đà: “Nam mô A Di Đà
Phật”. Niệm liên tục làm cho tâm An lạc. Khi niệm “Nam mô A Di Đà Phật”, tức là
“Kính lễ Đức cha Ánh sáng A Di Đà”.
Giải pháp nữa là luyện Thở An ban thủ ý, tức là thủ ý, chú ý theo dõi hơi thở, thở
vào biết thở vào, thở ra biết thở ra, thở từ tốn nhẹ nhàng chậm, là hơi thở sâu và cung cấp
nhiều năng lượng sạch, làm cho Tâm an lạc.
Chủ thuyết An lạc của Đạo Phật, giúp con
người hiền hòa, dịu bớt hung dữ, bớt thù hận,
đánh giết nhau, là đóng góp lớn lao của Đạo
Phật cho Hòa Bình thế giới.
Chủ thuyết An lạc của Đạo Phật, giúp con người hiền hòa, dịu bớt hung dữ, bớt thù
hận, đánh giết nhau, là đóng góp lớn lao của Đạo Phật cho Hòa Bình thế giới.Liên Hiệp
quốc đã Kỷ niệm ngày Phật Đản sinh là ngày Lễ hội quốc tế.
Nhà khoa học ưu tú nhất A.Einstein: “Nếu có một tôn giáo nào có thể vượt thắng
được những đòihỏi của khoa học hiện đại thì đó là Đạo Phật”.
Nietzchs phát biểu: “Đạo Phật vượt trội có năng lực giải quyết các vấn đề triết học
và thực tiễn của đời sống.”
Nguyên nhân hiện nayThiền định khó chấm dứt phiền não, vìô nhiễm môi trường
nặng nề gấp nhiều lần thời đức Phật tại thế. Bên trong cơ thể đầy độc tố nhiễm trược, tạo
ra tâm phiền não. Phương pháp Khai mở sức mạnh Vô thức, giải nhiễm trược cho cơ thể,
tiếp nối tư tưởng của Phật về giải ngũ trược, và trở về Cội nguồn Ánh sáng vô lượng
quang A Di Đà.
Ngày 23/11/2008 chúng tôi phát hiện sự trùng hợp hy hữu của bài tập Vô
thức, với một số thao tác tu luyện của Đức Phật. Trong động Ajanta phía Nam Ấn Độ,
có nhiều bức tượng Phật uy nghi đang chăm chú luyện bàn tay, hoặc đặt tay vào vị trí
huyệt đạo, đặt đá quý trong bàn tay. Phật đã luyện bàn tay suốt hành trình tinh tấn. Các
hình ảnh đó thể hiện Đức Phật chú trọng chăm sóc cơ thể trong suốt quá trình tu
luyện. Điều này chưa từng nói đến trong kinh sách Phật.
Một số bức ảnh trong động Ajanta
Đức Phật luyện ngón tay, tư thế ngồi ghế.
(Tư liệu Internet, ngày 23/11/2008)
Đức Phật luyện ngón tay, tư thế ngồi kiết già
(Tư liệu Internet, ngày 23/11/2008)
Đức Phật đã luyện bàn tay suốt hành trình tinh tấn.(Tư liệu Internet, ngày 23/11/2008)
Đức Phật đặt tay vào huyệt đạo mạch Nhâm.
(Tư liệu Internet, ngày 23/11/2008
Đức Phật đặt tay vào huyệt đạo mạch Nhâm.(Tư liệu Internet, ngày 23/11/2008)
Tay Phật nắm đá quý
(Tư liệu Internet, ngày 23/11/2008)
THỨC ĂN THẦN DƯỢC
Chế độ ăn uống tốt, là cung
cấp đủ năng lượng kiến tạo tế bào và đào thải độc tố, cân bằng axít và kiềm trong máu
(là cân bằng âm dương). Nếu ăn uống sai, tiêu hóakhông hết, dư thừa axít thì rêu lưỡi
trắng,táo bón và sinh bệnh. Ăn uống đúng có thể phục hồi tuyến Yên, làm vượng kinh
mạch huyệt đạo, nhờ vậy nhiều bệnh tự khỏi, hoặc kéo dài tuổi thọ có thêm cơ hội chữa
bệnh nan y. Nên việc ăn uống sạch đủ dinh dưỡng, dễ tiêu hóa, góp phần đắc lực trong
Ăn uống đúng có thể phục hồi tuyếnYên, làm vượng kinh mạch huyệt đạo, nhờ vậy nhiều bệnh tự khỏi, hoặc kéo dài tuổi thọ có thêm cơ hội chữa bệnh nan y.
điều trị bệnh, phòng bệnh. Ăn đúng đã chữa bệnh 50%. Nhiều người đã chết vì suy dinh
dưỡng, vì nghèo đói, vì thiếu hiểu biết, vì quan niệm cực đoan hành xác. Hiện nay chế độ
ăn của bệnh nhân phần lớn chưa đủ năng lượng vì thức ăn khó tiêu hóa kém hấp thụ,
vừa thừa vừa thiếu. Nếu cung cấp đầy đủ năng lượng bệnh nhanh khỏi.
Thế nào là thức ăn sạch? Đây là một tiêu chí chưa rõ ràng, giữa dinh dưỡng và tôn
giáo, nên có người ăn chay, ăn mặn không đúng đã bị suy nhược sức khỏe, bệnh nặng
thêm.
Khái niệm sát sinh cần phân loại cụ thể hơn. Sát sinh động vật có não bộ phát triển,
sự đau đớn giận dữ trước khi chết, sẽ phát sinh độc tố phóng vào máu toàn thân nhiễm
trược cực đại. Con người ăn thức ăn này lãnh nhận trược khí, nuôi mầm bệnh, tính nóng
nảy hay tức giận. Động vật cấp thấp, não bộ không phát triển, ít phát sinh trược khí, được
coi là thức ăn sạch cung cấp nguồn đạm quý báu cho con người. Con người bình
thường rất cần chất đạm, rau quả, và nhiều thành phần dinh dưỡng khác.
Chất đạm giúp não bộ hoạt động tốt.Như
vậy Ăn chaycũng chưa sạch khi rau quả nhiễm
độc. Người bình thường cần ăn uống đầy đủ
dinh dưỡng. Chỉ một số người tu luyện đặc biệt
hấp thụ năng lượng thiên khí dồi dào, thì không
còn lệ thuộc ăn uống. Người có bệnh bắt chước ăn không đủ dinh dưỡng thì suy
nhược thêm. Cho nên việc ăn phải tùy duyên mỗi người. Ăn đúng, luyện tập đúng sẽ
chữa được bệnh.
Cách ăn cũng quan trọng, là giải pháp chữa bệnh bằng nước bọt:
- Nhai kỹ để tiết nhiều nước bọt, ngậm Sữa ong chúa tiết ra nước bọt rất quý, làm
giảm đau, khỏi bệnh nhanh. Ngậm nhiều lần, từng miếng nhỏ bằng hạt đỗ đen, nước bọt
tiết dịch có các loại men, enzyme, và hooc môn quý giá nhất chỉ có trong nước bọt.
- Nhai kỹ làm chuyển hoá toàn bộ thức ăn: Nước bọt có chứa các enzym tiêu hoá,
men tyalin để phân giải ngũ cốc thành đường đơn glucoza. Ăn đúng sẽ cảm thấy vị ngon
ngọt của đường glucoza. Nếu nhai vội, nhai ít, các men tiêu hoá không thẩm thấu vào thức
ăn, khó tiêu thụ. Xuống dạ dày chuyển hoá không tốt, kết quả gây nên đầy bụng, khó chịu,
đầy hơi, táo bón. Thức ăn bị ứ đọng trong đường ruột, lâu đào thải ra ngoài, phát sinh độc
tố thấm vào máu.
Thức ăn sạch là thức ăn
không nhiễm hóa chất, không nhiễm
trược.
- Nhai kỹ kích thích toàn bộ hệ
thống tiêu hoá, đặc biệt kích thích tuyến
nước bọt tiết suất tốt hơn. Dạ dày, mật tiết
ra nhiều dịch vị, gan, tuỵ tạo nhiều dịch tiêu hoá.
- Nhai kỹ làm giảm béo:Nếu ăn vội, dạ dày chỉ co dãn, mà không có cảm giác đủ, cứ ăn mãi mà chưa thấy no bụng. Bệnh đái đường, bệnh béo phì và nhiều bệnh khác liên quan đến ăn quá no. Khi nhai kỹ dạ dày sẽ báo no đúng chừng mực.
- Nhai kỹ chống lại bệnh tật: ăn vội vã nuốt miếng thức ăn to bị tồn đọng trong dạ dày một thời gian dài gây khí độc hại, ợ chua hôi.Nhai kỹ các tuyến nước bọt được huy động đầy đủ để sát khuẩn phòng bệnh.
- Nhai kỹ làm cơ thể trẻ khoẻ thêm: Bác sĩ Tomozaburo Ogata, giáo sư trường Đại học Y khoa Nhật bản cùng các cộng sự đã phát hiện vai trò trẻ hoá trong nước bọt. Loại hooc môn đặc biệt ở tuyến nước bọt mang tai, chảy qua miệng khi nhai, là một loại hooc môn duy nhất kích thích sự trao đổi chất của tế bào và làm mới cho toàn bộ cơ thể. Tuyến nước bọt mang tai còn kích tuyến Yên tạo ra nhiều tế bào T, tăng cường hệ miễn dịch. Thường xuyên nhai kỹ chúng ta đã tiếp nhận loại hooc môn quý giá nhất chỉ có trong nước bọt.
Thực phẩm tốt
Là thực phẩm sạch và phù hợp bản thân, tươi tự nhiên. Thực phẩm càng tươi có nhiều
năng lượng Prana. Lượng axít dưthừa từ thịt cá gây mỏi mệt, ung thư, nên thường xuyên
uống bổ sung chất kiềm là nước táo, mơ, chanh, gừng, bột sắn dây, rau quả sạch …để trung
hoà axít dư thừa. Để tu tập chuyển hoá tốt, thì vấn đề ăn uống được coi trọng như khâu
luyện tập. Ăn thực phẩm sạch thì
các bí huyệt mới mở ra.
Đối với người khỏe mạnh thì ăn uống hợp vệ sinh là đủ. Với người bệnh ăn uống là vấn đề chữa trị bệnh, cần dinh dưỡng cao và dễ tiêu hóa, hấp thụ tốt, làm khỏe thành mạch, tạo dòng máu lưu thông tốt, không quánh kết, không mỡ máu. Với người ốm nặng tiêu hóa kém thì rất khó tìm được loại thức ăn đáp ứng tiêu chí này. Người đau dạ dày,
Việc ăn phải tùy duyên mỗi người. Ăn
đúng, luyện tập đúng sẽ chữa được bệnh.
Để tu tập chuyển hoá tốt, thì vấn đề ăn uống được coi trọng như khâu luyện tập. Ăn thực phẩm sạch thì các bí huyệt mới mở ra.
thận, hoặc cơ địa mẫn cảm có phản ứng khó chịu với loại thức ăn nào, thì phải ngừng dùng loại đó.Qua sử dụng rất nhiều loại dinh dưỡng cao cấp nhất, như Yến sào, cao, sâm, Đông trùng hạ thảo, sừng tê giác, thực phẩm chức năng của các hãng nổi tiếng, chúng tôi đã xác định loại thức ăn tốt nhất là Địa long.
1.Bột địa long:Là thần dược tốt nhất cho người bệnh, và luyện trường thọ. Vì đây là loại đạm dễ hấp thụnhất, bồi bổ tuyến Yên, sau 15 phút đã giúp cơ thể tỉnh táo, nên không xảy ra tình trạng tồn động như những loại đạm khó tiêu hóa. Giúp phục hồi chức năng tuyến Yên, gan, thận, não, thần kinh, tim, tai biến não, co giật, đau đầu, bệnh tim mạch, làm dai thành mạch, tiểu đường, ung thư, mất ngủ, thiếu máu, kiệt sức. Nếu mỏi mệt sắp ngất, hôn mê, cho ăn ngay bột Địa long sẽ tỉnh trở lại.Bột Địa long lành tính sử dụng với hầu hết các bệnh. Có công dụng bồi bổ tuyến Yên, tăng cường khả năng đề kháng chữa ung thư, hiệu quả phục hồi sức khỏe tốt hơn các loại bổ dưỡng khác, gấp nhiều lần sữa bột Ensuare.
Cách làm Bột Địa long:Địa long khô hấp chín kỹ, cắt theo chiều dọc, làm sạch đất, rửa sạch phơi khô, rang sấy khô. Đậu xanh, đậu đen rang vàng. Rau ngót cả cành chặt nhỏ, phơi khô, rang sơ cho khô ròn. 4 vị tán bột, trộn tỷ lệ: 1địa long, 1 rau ngót, 1 đậu xanh, 1đậu đen. Mỗi ngày dùng 30-150g bột, chia từ 1 - 3 lần. Mỗi lần 2 thìa cơm ( 20g-30g ) hòa 1 bát nước, đun bột sôi kỹ. Nếu khó ăn pha thêm bột vừng rang thơm. Ăn buổi sáng, hoặc buổi tối.
Chú ý: Cần lựa chọn địa long loại tốt, tươi mới, ít mùi hôi. Khi hấp cho vào nước vài củ nghệ giã nhỏ khử mùi tanh.
2. Nhóm thức ăn làm tăng khả năng tiêu hóa, giảm mỡ máu, chống xơ vữa,
chống lão hóa, điều hòa huyết áp, ngừa ung thư: Bột Curcumin (tinh nghệ ), Trà Giảo
cổ lam,Trà nấm Linh chi, Trà bào tử linh chi, Trà Bạch sen ( hạt gạo hoa sen ),Bột vừng
đen, Đậu nành, Dầu cá omega 3-6-9, Dấm táo mèo ( táo chát Sapa), Tảo Spiluna, Sữa ong
chúa. Quả chanh, Hoàng cung trinh nữ… Rau và hoa quả tươi sạch là thức ăn cân bằng
axit và kiềm trong máu, không thể thiếu với người ốm yếu.
- Bột Curcumin ( tinh nghệ ): Curcumin tác dụng khỏe tiêu hóa, hạ mỡ máu, tan
huyết khối, tăng hồng cầu, tái tạo tế bào mới, chống lão hóa, phòng chữa bệnh ung thư,
bồi bổ gan, dạ dày, bệnh viêm, hỗ trợ tim mạch, làm mịn hồng da, xóa thâm nám, chống
béo phì, tăng sắc đẹp… Một cốc trà Giảo cổ lam đậm đặc pha Curcumin, là cốc nước
dưỡng sinh rất tốt.
- Giảo cổ lam (cây Trường sinh ): kích thích tiêu hóa, bồi dưỡng thần kinh, hạ mỡ
máu, chống huyết khối, ngừa xơ vữa động mạch, tăng cường hệ miễn dịch, kìm hãm khối
u, giảm béo, giảm tiểu đường, huyết áp tim mạch, tiêu viêm, gan, thận, tim mạch, chống
lão hóa, làm đẹp da. Không dùng cho bệnh huyết áp thấp.
- Trà Tâm lan: gồm cây Hoàn ngọc ( cây con khỉ ), Lược vàng, Kim ngân, Cúc hoa
là 4 loại dược liệu quý, thanh nhiệt giải độc, giải mỡ máu, tăng tiêu hóa, bài tiết, tiêu u.
- Trà nấm Linh chi, Trà bào tử linh chi: phục hồi chức năng gan, huyết áp, tiêu
u…
Có nhiều loại trà khác nhau, hiệu quả tốt tùy người, tự lựa chọn thích hợp. Không
dùng quá lâu một loại, nên có sự luân chuyển sau 3 tháng.
- Trà Bạch sen: Hạt gạo hoa sen xấy khô. Giải trược. Tiêu độc, tăng cường tiêu
hóa, bổ thần kinh, chữa mất ngủ.
- Bột vừng đen:Chống lão hóa, mỡ máu, Vừng đen rang sơ, xay nhuyễn ( máy sinh
tố ) hoặc giã nhỏ, không muối.
- Rau ngải cứu: Thái nhỏ trộn đều với trứng gà tươi, đem rán, hoặc nấu canh. Tác
dụng: Thông kinh mạch, giải trược khí. Ăn xong thiền 10 phút để trược khí thoát hết.
- Bột sắn dây: Thức uống tạo kiềm, làm mát cơ thể, giải nhiệt, giải độc, giảm đau,
cân bằng âm dương, là vị thuốc Cát căn trong hầu hết bài thuốc.
- Rượu tỏi: Năm 1980, WHO thông báo: Rượu tỏi chữa được 4 nhóm bệnh: 1.
Thấp khớp: sưng khớp, vôi hóa các khớp xương, mỏi xương cốt; 2. Tim mạch: hở van
tim, ngoại tâm thu, huyết áp cao, huyết áp thấp; 3. Phế quản: viêm phế quản, viêm họng,
hen; 4. Tiêu hóa: ăn khó tiêu, ợ chua, viêm tá tràng, loét dạ dày, trĩ nội và trĩ ngoại, đái
tháo đường.
Cách làm: Tỏi khô đã bóc vỏ 40gr, thái nhỏ, cho vào một lọ sạch. Rượu nếp ( 50 độ
), lấy 100ml. Ngâm tỏi trong rượu nếp khoảng 10 ngày, thỉnh thoảng lắc lọ để tỏi có thể
ngấm đều rượu, dần chuyển sang màu vàng và đến ngày thứ 10 thì chuyển sang màu vàng
nghệ, rượu tỏi đã sẵn sàng để sử dụng. Mỗi ngày uống 2 lần, vào buổi sáng khi ngủ dậy
và buổi tối trước khi đi ngủ. Mỗi lần 40 giọt, tương đương với một thìa cà phê nhỏ, có thể
pha nước sôi để nguội dễ uống.
- Tỏi, dấm:Tỏi bóc vỏ xay nhỏ, đổ ngập nước dấm táo gấp 3 lần tỏi. Tác dụng như
rượu tỏi, và thêm nhiều tác dụng của dấm táo. Nếu không uống được rượu, dùng dấm tỏi
rất tốt. Liều lượng bình thuờng là 2 muỗng nhỏ hỗn hợp trên đây trong một cốc nước,
uống trước bữa ăn sáng. Có thể uống thêm.
- Dấm táo ( táo mèo Sapa ): Thức uống tạo kiềm. Táo rửa sạch, cắt núm, cho vào
máy xay nhỏ với nước, tỷ lệ 1kg táo với 2,5 lít nước đun sôi để nguội. Cho bình thủy tinh
đậy kín 1 tháng đem ra dùng. Hớt váng trắng như váng dưa muối không độc. Nước dấm
táo là loại nước trái cây tốt nhất. Có thể dùng táo tây. Tác dụng hạ mỡ máu, chữa huyết
áp cao, tim mạch, thông khí huyết, giải stress, thần kinh.
- Nước Chanh gừng mật ong: Thức ăn tạo kiềm, thông khí, tăng sinh lực, tiêu hóa,
trung hòa axit dư thừa, tăng đề kháng, phòng ung thư và các bệnh cảm cúm, giảm đau
nhức.
- Miếng vỏ chanh ngâm: Miếng vỏ chanh đã ngâm, không nên bỏ phí. Tiếp tục cho
vào cốc nước ngâm làm nước giải khát rất ngon, nhai ăn hết vỏ chanh có tác dụng chữa
nhiều bệnh, không độc hại dị ứng. Mỗi ngày ăn 6 miếng chanh, chia 3 lần, sẽ giảm bệnh,
tiêu u.
Chanh phòng bệnh ung thư: Cây chanh và trái chanh cho thấy có hiệu quả 10.000
lần hơn sản phẩm Adriamycin, một loại thuốc hóa học thường được dùng trên thế giới để
làm chậm lại sự nẩy nở của tế bào ung thư. ( Viện Khoa Học và Sức Khỏe, L.L.C. 819 N.
Causez Strêt, Baltimore.USA )
- Cây trinh nữ Hoàng cung: Tiêu các khối u, phụ khoa. Dùng cao khô Trinh nữ
hoàng cung: Viên nén CRILA.
- Mục nhĩ đen: Giảm độ quánh của máu, giúp lưu thông máu, tan cục máu đông,
khỏe tim mạch, chữa táo bón. ăn mỗi ngày 10g.
- Gạo lứt: Cách nấu cháo gạo lứt tiện ích không cần đun nấu: 1 tô cháo 30g- 50g,
dùng gạo lứt rang vàng càng thơm ngon, dễ tiêu hóa. Cho gạo vào bình giữ nhiệt 0,5 lít,
đổ đầy nước sôi 100 độ, chút muối, đảo đều. Có thể cho thêm vài lát sâm, thục địa, kỷ tử,
hoặc cao xương… xoay nắp kín, đặt bình nằm ngang để gạo nở hết. Sau 3h lấy cháo nóng
ra ăn, cho thêm 2 thìa bột vừng xay nhuyễn rất thơm ngon. Tiện dùng cho người ốm, ăn
sáng, hoặc đi dã ngoại, có thức ăn nóng mà không phải đun nấu.
Chú ý:Không nên dùng nồi, ấm nước, bình giữ nhiệt làm từ nhôm, inox rẻ tiền kém
chất lượng dùng rất hại sức khỏe.
Nhóm thức ăn thần dược trên đây có sẵn mọi nơi, có thể tự chế biến thức ăn phòng
chữa bệnh. Chú ý khi sử dụng, cần theo dõi sự thích hợp từng người.
Chìa khóa bất tử trong tay con giun
Các nhà khoa học Anh đã nghiên cứu loài giun dẹp nhằm tìm kiếm chìa khóa sự
bất tử cho con người. Loài giun này có khả năng tái sinh lạ lùng để vượt qua sự lão
hóa.
Một công trình nghiên cứu đăng trên Tạp chí Proceedings of the National Academy
of Sciences cho biết, loài giun dẹt có thể duy trì liên tục độ dài của telomer bao gồm các
ADN. Một trong những giả thuyết phổ biến nhất về sự lão hóa của các sinh vật nói rằng
nguyên nhân của hiện tượng này là vì phần cuối của nhiễm sắc thể tế bào – gọi là telomer
– cứ bị ngắn dần lại. Tới khi nào chúng biến mất hoàn toàn thì tế bào sẽ chết. Chính
telomer xác định số lượng các phân chia tế bào trong cuộc đời, chịu trách nhiệm về sự
bảo quản bộ gen và bảo vệ nhiễm sắc thể khỏi tác động của các yếu tố tiêu cực.
Từ lâu, các nhà khoa học đã rất chú ý đến giun dẹp vì khả năng tái sinh phi thường
của chúng. Họ tìm hiểu cả 2 loại giun: loại sinh sản thông qua giới tính ( sinh sản hữu
tính ) và loại sinh sản bằng cách phân chia ( sinh sản vô tính, ví dụ khi bị cắt làm đôi
chúng sẽ biến thành 2 con giun mới ).
Ông Aziz Abubaker, Trưởng nhóm nghiên cứu Trường ĐH Nottingham nói: "Hiện
chúng tôi đang tìm cách giải thích vì sao mà những con vật này không bao giờ chết tự
nhiên” thông qua 2 loại giun trên.
Cả 2 loại đều có khả năng khôi phục các cơ, da, nội tạng, thần kinh. Song loại giun
sinh sản vô tính có ưu điểm hơn ở chỗ chúng có thể khôi phục dự trữ loại men ( ferment )
then chốt, có khả năng làm nên sự bất tử.
Những công trình nghiên cứu mang đến cho các tác giả giải Nobel Y học năm 2009
đã chứng minh rằng, hoạt tính của telomer phụ thuộc vào men telomeraz. Trong đa số các
sinh vật sinh sản bằng phương pháp hữu tính, men này tách ra ở giai đoạn phát triển đầu
tiên. Ông Abubaker cũng phát hiện ra là lượng men này trong cơ thể những con giun dẹp
sinh sản vô tính tăng lên rất rõ rệt trong giai đoạn tái sinh.
Giáo sư Douglas Kell - Chủ tịch Hội đồng nghiên cứu khoa học về Công nghệ sinh
học nhận định, kết quả của nghiên cứu mới là "vô cùng hấp dẫn". Chúng đã đóng góp rất
lớn vào những hiểu biết cơ bản về một số quá trình liên quan đến sự già nua của con
người, điều chẳng mấy ai thích thú.
Bảo Châu (utro.ru) Vietnamnet.
Bệnh lú lẫn Alzheimer
VÀ NỖI LO SỢ CỦA TUỔI GIÀ
Ngày xưa ở Việt Nam, tôi cũng đã từng gặp rất nhiều bác lớn tuổi đi chơi trong xóm
nhưng lại không biết đường về nhà, hoặc có khi thì con cái đã dọn cơm ăn rồi nhưng lại
trách móc là tụi nó chưa dọn cơm ăn... Thuở đó, mình cứ nghĩ rằng hễ già cả rồi thì ai
cũng có thể bị lú lẫn như vậy hết, và có người bị nặng có người bị nhẹ. Chỉ đơn giản vậy
thôi!
Cho đến sau ngày định cư tại Canada năm 1980, tôi mới được nghe đến cái tên
Alzheimer lần đầu tiên.
Căn bệnh của thế kỷ
Alzheimer là bệnh thoái hóa hệ thần kinh và không thể nào làm hồi phục lại được.
Bệnh nhân dần dần sẽ bị mất trí nhớ, thay đổi tâm tánh cùng với sa sút trí tuệ.
Bệnh do Bác Sĩ Alois Alzheimer ( Đức ) tìm ra vào năm 1906 sau khi giải phẫu
khám nghiệm một người đàn bà lớn tuổi đã chết vì chứng sa sút trí tuệ.
Quan sát não bộ cho thấy có sự hiện diện của rất nhiều mảng thoái hóa amyloides
( neuritic plaques, plaques amyloides ) nằm ở bên ngoài tế bào thần kinh chết, và những
xoắn sợi thần kinh ( neurofibrillary tangles, écheveaux neurofibrillaires ) do protein Tau
tạo ra nằm trong tế bào đó... Chính các mảng amyloides và các xoắn sợi thần kinh nầy đã
làm tổn hại đến hệ thần kinh và ngăn trở sự dẫn truyền những mệnh lệnh… Dần dần đưa
đến sự sa sút trí tuệ hay là sự mất trí nhớ hoặc còn được gọi là bệnh lú lẫn ở người già.
Đây là một hội chứng phức tạp vì bao gồm nhiều triệu chứng khác nhau như sự mất
trí nhớ, mất khả năng phán xét hay lý luận, thay đổi nhân cách hay tâm tánh, cũng như
hành động cử chỉ, v.v...
Trải qua nhiều thế kỷ, người ta vẫn thường tưởng rằng những triệu chứng kể trên là
những giai đoạn bình thường trong tiến trình của sự lão hóa.
Cho mãi đến ngày nay, khoa học cho biết sự sa sút trí tuệ là hậu quả của nhiều căn
bệnh khác nhau, thí dụ như: đứng đầu là Alzheimer, kế đó là tai biến mạch máu não
stroke, bệnh Parkinson, bệnh Hungtinton, bệnh Creutzfeldt-Jacob ( còn gọi là bệnh bò
điên ), cancer não, chấn thương sọ não. Và cũng là hậu quả của sự lạm dụng rượu hay sự
sử dụng một vài loại thuốc Tây, v. v...
Thống kê cho biết, tại Canada hiện có 300.000 người bị bệnh Alzheimer. Cứ 20
người tuổi trên 65 thì có một người bị bệnh Alzheimer. Theo ước đoán, vì tầng lớp người
già không ngớt gia tăng thêm lên mãi, cho nên số bệnh nhân Alzheimer có thể lên đến 3
tới 4 triệu người vào năm 2031.
Hoa Kỳ hiện có 5.3 triệu bệnh nhân Alzheimer. Trong số nầy gồm có 5.1 triệu người
trên 65 tuổi và 200.000 người bệnh dưới 65 tuổi.
Alzheimer không những chỉ tàn phá bệnh nhân mà thôi, mà nó còn gây ảnh hưởng
nặng nề luôn đến sự sinh hoạt và cuộc sống gia đình của người thân ở chung quanh nữa.
Ngoài ra, cũng phải nói đến một gánh nặng về y tế phí !
Tại sao có bệnh Alzheimer?
Cho tới ngày nay, các nhà khoa học cũng chưa tìm ra được nguyên nhân thật sự của
căn bệnh quái ác nầy. Họ nghi ngờ bệnh có thể là do:
- Một loại virus có biến chuyển chậm ( lentivirus );
- Độc tố từ chất nhôm aluminium;
- Ô nhiễm môi trường ( pesticides, nông dược );
- Do hiện tượng tự miễn autoimmune;
- Do di truyền, nghĩa là đã từng có xảy ra cho một người thân nào đó trong gia đình
hay trong dòng họ qua nhiều thế hệ rồi, hoặc nếu cha mẹ mang gène Alzheimer thì con
cái có thể có nguy cơ bị Alzheimer sau nầy.
Nhưng, hình như các nhà chuyên môn thiên về phía giả thuyết «protéine bất
thường» nhiều hơn hết, trong đó protéine beta amyloide không hoà tan, đóng một vai trò
then chốt trong sự làm phát sinh ra bệnh Alzheimer... Protéine nầy hiện diện một cách
bình thường trong các tế bào thần kinh và cả trong tế bào của các cơ quan khác nữa.
Ở người khỏe mạnh bình thường, beta amyloide sẽ tự phân hủy và bị loại đi nên
không thể tạo ra các mảng amyloide được. Còn đối với bệnh nhân Alzheimer, protéine
beta amyloide không thể tự phân hủy mà còn kết hợp lại với nhau thành những mảng
amyloides trong mô não.
Người ta cũng nhận thấy có sự tan biến tế bào thần kinh trong những vùng thuộc về
trí nhớ, và các vùng tâm thần xung yếu khác của não bộ. Ngoài ra còn có sự tuột giảm
nồng độ của acetylcholine là chất dẫn truyền thần kinh ( neurotransmitters).
Những giai đoạn của bệnh Alzheimer
Bệnh Alzheimer có diễn biến chậm và tuần tự thông qua ba giai đoạn. Sự phân chia
nầy rất cần thiết để giúp bác sĩ có một mô hình tổng quát của người bệnh, hầu có thể phát
họa kế hoạch chữa trị thích nghi:
1/ Giai đoạn tiên khởi: Kéo dài từ 2 đến 4 năm.
Thỉnh thoảng hay quên việc nầy việc nọ. Bệnh nhân than phiền khó tiếp thu được
những thông tin từ bên ngoài, hoặc cảm thấy khó khăn để thi hành theo lời chỉ dẫn.
Người bệnh cũng gặp nhiều trở ngại trong cách diễn đạt tư tưởng của họ, không thể tìm
ra đúng chữ để sử dụng... Khó phân biệt giai đoạn nầy với giai đoạn lão hóa thông thường
của mọi người, vì bình thường thì người già cũng hay quên những chi tiết nào đó hoặc
những chuyện lặt vặt trong sinh hoạt hằng ngày. Thay đổi nhẹ về nhân cách, thí dụ như
tâm tánh bất thường, lo âu, trầm cảm, có khi giận dữ, mất đi sự hồn nhiên thường nhật,
bớt tánh khôi hài thường nhật, từ từ sống khép kín hoặc rút ra khỏi các sinh hoạt quen
thuộc.
Thêm vào đó là bệnh nhân không còn nhớ chi tiết việc gì đó từ việc nhỏ tới việc lớn.
Và sự mất trí nhớ càng ngày càng tăng thêm theo thời gian và theo sự tiến triển của
bệnh.
2/ Giai đoạn trung gian:
Kéo dài từ 2 đến 10 năm. Suy thoái về các khả năng trí tuệ và thể xác. Mất trí nhớ,
quên cả quá khứ của mình, quên bạn bè là những ai, hoặc quên luôn cả người thân.
Không thể định hướng trong không gian và thời gian. Một số bệnh nhân trở nên không
thể…ở yên, cứ đi tới đi lui hay đi lang thang hoặc lai vãng từ chỗ nầy đến chỗ nọ mà
không có mục đích rõ rệt. Mất sự tập trung tư tưởng. Giai đoạn nầy gây nhiều khó khăn
cho những người có nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân. Rối loạn trong việc sử dụng ngôn
ngữ, khó khăn trong việc tìm chữ thích hợp để nói hay dùng những từ không chính xác.
Trở nên thù nghịch, chửi thề, chụp giữ, đánh cắn, đập phá, hung bạo với người xung
quanh, bạn bè và cả với những người thân trong gia đình.
Tâm thần không ổn định, thường hay bực tức, la hét, hoảng loạn. Giấc ngủ bị xáo
trộn, và sau đó thì rơi vào trạng thái trầm cảm. Không thể sống một mình được, cần phải
có người săn sóc một cách thường trực.
3/ Giai đoạn cuối cùng:
Thường rất ngắn ngủi, chỉ kéo dài từ 1 đến 3 năm mà thôi. Hay ngủ suốt ngày hay
bất động. Không còn hiểu hay nhớ gì hết. Không còn biết phương hướng. Và cũng không
còn nhận được người nhà. Ăn uống không được, hay bị sặc, khó nuốt nên dễ bị mất cân
và gầy ốm rất nhanh.
Mặt vô cảm không biểu hiện một cảm xúc nào hết. Không quan tâm đến môi trường
xung quanh. Mất trí nhớ và mất khả năng trao đổi ý tưởng với người khác… Hoặc trao
đổi liên lạc với người khác không còn bằng lời nói mà chỉ qua ánh mắt hay bằng sự khóc
la hoặc rên rỉ. Quên bản thân, không tự săn sóc cho mình được thí dụ như rửa ráy, bận
quần áo… Nằm liệt giường, ỉa trây đái dầm. Và cuối cùng thì chết vì bị viêm phổi hay
viêm thận hoặc vì một chứng bệnh nào khác.
Có thể lầm lẫn với hiện tượng lão hóa bình thường.
Alzheimer có biến chuyển rất chậm, vì vậy bệnh nhân cứ tưởng rằng tại mình già
nên bị mất trí nhớ.
Đôi khi, những dấu hiệu bình thường của người già cũng là những dấu hiệu báo
trước của bệnh Alzheimer nữa!
Có 10 dấu hiệu báo trước:
1) Mất trí nhớ ngắn:
Không nhớ những việc gì mới xảy ra gần đây. Sự kiện nầy có thể xảy ra cho bất
kỳ ai. Đôi khi tự nhiên mình quên phức đi một cái tên, một số điện thoại, v.v... Người bị
Alzheimer cũng quên như thế nhưng họ không bao giờ nhớ trở lại được hết, và họ cứ hỏi
đi hỏi lại hoài về một vấn đề mặc dù họ đã được trả lời rồi.
2) Khó khăn trong đời sống hằng ngày:
Thí dụ như không thể tự nấu cơm hay tự chuẩn bị một bữa ăn bình thường. Đôi
khi làm xong nhưng quên lửng không dọn ra, hay quên là đã có chuẩn bị bữa ăn rồi.
3) Khó khăn trong ngôn ngữ:
Quên những chữ rất thường, sử dụng những từ không thích hợp khiến cho không
ai hiểu nổi hoặc không có thể gọi đúng tên đồ vật.
4) Mất định hướng trong thời gian và không gian:
Bị lạc lối trên con đường trong xóm ở từ xưa nay. Không hiểu tại sao đang ở chỗ
đó, và cũng không biết lối nào để trở về nhà.
5) Không biết cách phán xét, hoặc phán xét quá thô thiển:
Một người bình thường còn khỏe mạnh đôi lúc cũng có thể bị lãng trí như quên
không giữ cháu bé trong giây lát. Còn người bị bệnh Alzheimer thì quên tuốt luôn sự hiện
diện của đứa nhỏ mà mình có trách nhiệm trông coi.
6) Gặp khó khăn trước những khái niệm trừu tượng:
Ai cũng có thể gặp khó khăn trong việc theo dõi kiểm soát sổ trương mục tiết kiệm
của mình. Người bị Alzheimer thì không còn hiểu ý nghĩa các số ghi trong cuốn sổ của
họ và cũng không biết họ cần phải làm gì.
7) Để lạc đồ đạc:
Cất giữ đồ vật trong những nơi không thích hợp, chẳng hạn như đem cất cái bàn ủi
trong ngăn đá của tủ lạnh, hoặc đem cất cái đồng hồ trong keo đường, v.v...
8) Biến đổi tâm tánh và thái độ:
Ai cũng có thể thay đổi tâm tánh hết, nhưng người mắc bệnh Alzheimer thì có cảm
xúc không ổn định, tâm tánh của họ biến đổi rất mau, thí dụ như từ điềm tĩnh vui cười
trước đó thì đổi sang giận dữ khóc lóc chỉ trong vòng đôi ba phút mà thôi.
9) Thay đổi nhân cách:
Người bệnh Alzheimer có thể trở nên cau có khó chịu, đa nghi, e dè và lo âu. Có
thái độ thù địch với mọi người kể cả người thân trong gia đình.
10) Mất hết sự ham muốn và sáng kiến:
Tách rời ra khỏi cuộc sống, không muốn tham gia vào bất cứ một sinh hoạt nào
hết. Sống thu hẹp lại, không quan tâm đến người hay việc khác…
Có thuốc trị Alzheimer không?
Cho đến nay cũng chưa có một loại thuốc nào có thể chữa được hay chặn đứng lại
được sự tiến triển của bệnh Alzheimer.
Chỉ có thuốc giúp làm giảm bớt được phần nào các triệu chứng của bệnh, cũng như
giúp cho đời sống của bệnh nhân được dễ chịu phần nào hơn đôi chút mà thôi.
Có cách nào phòng ngừa không?
Hiện nay chưa có một dược phẩm nào khả dĩ có thể ngừa được bệnh Alzheimer.
Một nếp sống lành mạnh có thể giúp làm giảm nguy cơ xuất hiện bệnh Alzheimer ở
người cao niên, chẳng hạn như:
+ Phải luôn luôn vận động và linh hoạt trong cuộc sống thí dụ như làm vườn, đi bộ,
tập thể thao thể dục thường xuyên;
+ Ăn rau củ trái cây tươi đa dạng, sậm màu để có đủ vitamines và các chất chống
oxy hóa antioxidants, cũng như ăn nhiều cá để có chất Oméga-3...
+ Bắt trí não làm việc thường xuyên, bằng cách kích thích não như đọc sách, đọc
báo, viết văn, viết báo, gõ bài, chơi đánh cờ, ca hát, xếp ô chữ, v.v…;
+ Tránh tình trạng bị căng thẳng tinh thần thái quá (stress);
+ Tránh gây chấn thương sọ não;
+ Giữ cho huyết áp, cholestérol và đường huyết luôn ở mức giới hạn bình thường;
+ Giữ tốt đẹp các mối giao tiếp xã hội;
+ Nhảy đầm hay khiêu vũ, dưỡng sinh...
Có rất nhiều thí nghiệm khuyến khích sử dụng các thực phẩm bổ sung và thuốc
thiên nhiên như vitamines E, B, acide folique, Selénium, Ginkgo biloba ( bạch quả ),
v.v…để ngăn ngừa hay chữa bệnh trạng. Nhưng kết quả không rõ rệt và không chắc chắn
cho lắm, cũng như còn thiếu nhiều thí nghiệm lâm sàng.
Nên nhớ là không có thuốc nào có thể chữa bệnh Alzheimer được hết kể cả thuốc
thiên nhiên, thuốc Đông y, thuốc Bắc v.v..
Thuốc Bexarotene trị cancer da cho thấy có khả năng cải thiện trí nhớ ở chuột - Có
hy vọng gì ở người không? Để có thể đem áp dụng chính thức cho loài người, thì đoạn
đường còn rất dài và rất cam go vì cần phải qua nhiều giai đoạn thí nghiệm lâm sàng
cũng như cần nhiều thời gian thêm nữa, và dĩ nhiên là kết quả ở người như thể nào thì
chúng ta chưa thể biết rõ lúc nầy được.
( Trích )
Bác sĩ Thú y Nguyễn Thượng Chánh
& Dược sĩ Nguyễn Ngọc Lan
MỐI NGUY CƠ ĐÀN ÔNG VÔ SINHĐANG LỚN DẦN
Có khoảng 10 - 15% các cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản có vấn đề về hiếm muộn. Trong đó, nguyên nhân do nam giới, đơn thuần hoặc kết hợp, chiếm ít nhất 50%. Nhiều báo cáo từ nhiều khu vực trên thế giới cũng cho thấy, một xu hướng đáng lo ngại là tần suất hiếm muộn nam giới ngày càng tăng.
Cơ sự do đâu? Rất nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích cho hiện tượng số lượng và chất lượng tinh trùng trong tinh dịch người có xu hướng giảm dần. Dưới đây là một số vấn đề chính được tổng hợp từ các báo cáo trong y văn thế giới:
Tổn thương cấu trúc di truyền của tinh trùng và tế bào sinh tinh: nhiều nghiên cứu cho thấy tiếp xúc với nhiệt độ cao, ô nhiễm môi trường và hoá chất công nghiệp, các gốc oxy hoá tự do… có thể làm tổn thương cấu trúc di truyền ( ADN, ARN ) của tinh trùng. Các tổn thương này có thể dẫn đến tinh trùng dị dạng, giảm khả năng thụ tinh, bất thường trong phát triển hợp tử và phôi người. Các tổn thương này
làm giảm khả năng thụ tinh của trứng và tinh trùng, khả năng làm tổ của phôi, tăng khả năng sẩy thai. Tổn thương ADN của các tế bào mầm sinh tinh trùng có thể làm thay đổi hiện tượng chết theo chương trình. Điều này ảnh hưởng đến phân chia tế bào và quá trình sinh tinh ở tinh hoàn, dẫn đến giảm số lượng tinh trùng sinh ra.
Các tác nhân gây rối loạn hệ thống nội tiết: sự ổn định nội tại của hệ thống nội tiết và cận tiết đóng vai trò rất quan trọng cho sự đồng bộ hệ thống sinh sản của người. Những tác nhân gây rối loạn hệ thống nội tiết ( endocrine disruptors – ED ) trong môi trường sống mà con người có thể tiếp xúc từ giai đoạn phôi thai, sau sinh đến dậy thì và sau dậy thì là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và hoạt động hệ sinh sản. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cá thể tiếp xúc mà còn cả trên các thế hệ sau đó. Các tác động của ED được ghi nhận bao gồm: tăng đột biến gen; ảnh hưởng đến sự sinh tinh, làm giảm sản xuất tinh trùng hoặc ảnh hưởng đến sinh tinh, dẫn đến bất thường tinh trùng và bất thường này thể hiện ở giảm khả năng sinh sản của thế hệ sau; giảm khả năng thụ tinh của tinh trùng; ảnh hưởng lên thai và làm giảm khả năng sinh sản về sau của thai nhi, tăng tỷ lệ dị tật và bất thường hệ thống sinh sản của thai nhi.
Lối sống và ảnh hưởng của môi trường: các thay đổi lối sống và môi sinh là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến con người ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với các tác nhân ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh sản của chính từng cá thể và các thế hệ sau đó. Xã hội hiện đại và công nghiệp hoá được nhiều tác giả cho là đóng vai trò chính. Một số vấn đề lớn về lối sống và thay đổi môi trường hiện nay được y văn đề cập, gồm: chế độ ăn không tốt cho sức khoẻ; tỷ lệ béo phì ngày càng tăng trên thế giới; hút thuốc; ô nhiễm không khí từ các phương
Các thay đổi lối sống và môi sinh là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến con người ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với các tác nhân ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh sản của chính từng cá thể và các thế hệ sau đó.
tiện giao thông, các nhà máy; ô nhiễm nguồn nước sử dụng; thực phẩm chứa độc chất…
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ là cứu tinh.
Trở ngại lớn nhất của điều trị vô sinh nam chủ yếu là các nguyên nhân đến nay chưa được hiểu rõ. Với các xu hướng và cơ chế ảnh hưởng khả năng sinh sản nêu trên, việc chẩn đoán xác định nguyên nhân hiếm muộn nam giới rõ ràng rất khó khăn: thứ nhất, khó xác định nguyên nhân mắc phải của chính bệnh nhân; thứ hai, hầu như không chẩn đoán và điều trị hồi phục nếu là nguyên nhân do các biến đổi di truyền đã phát sinh từ bố mẹ… Do đó, các biện pháp nội khoa và ngoại khoa cổ điển sẽ ít có giá trị trong điều trị hiếm muộn cho nam giới. Trong bối cảnh đó, vai trò của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ngày càng trở nên quan trọng.
Sự xuất hiện của thụ tinh trong ống nghiệm ( IVF ), đặc biệt với kỹ thuật ICSI đã giúp giải quyết khá triệt để vấn đề hiếm muộn nam. Các báo cáo tổng kết ở Mỹ và châu Âu qua các năm đều cho thấy tăng số chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, trong đó ICSI là kỹ thuật chiếm đa số. Kỹ thuật ICSI giúp một tinh trùng có thể thụ tinh trực tiếp với trứng để tạo phôi mà không phải vượt qua các trở ngại ở đường sinh dục nữ và hàng rào bảo vệ trứng. Điều này giúp nam giới rối loạn số lượng và chức năng tinh trùng ở các mức độ khác nhau có thể có con của chính mình. Tuy nhiên, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chủ yếu giúp vượt qua các trở ngại về sinh lý để giúp cặp vợ chồng có con chứ không điều trị trực tiếp nguyên nhân. Do đó, về lâu dài, cần đến các giải pháp toàn diện mang tính toàn cầu để cải thiện lối sống và ngăn chặn biến đổi xấu của môi trường sống. Đây hiện là một thách thức lớn của nhân loại.
BS. Hồ Mạnh Tường
Về lâu dài, cần đến các giải giải pháp toàn diện mang tính toàn cầu để cải thiện lối sống và ngăn chặn biến đổi xấu của môi trường sống. Đây hiện là một thách thức lớn của nhân loại.