ĐẶt vẤn ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/vaac_360/114/6/bai 29 … · web viewnghiên cứu...

129
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HIV VÀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM CỦA CÁC NỮ THÀNH VIÊN CÂU LẠC BỘ HOA PHƯỢNG - HẢI PHÒNG, NĂM 2009 - 2010 Đào Việt Tuấn Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Hải Phòng TÓM TẮT Đề tài nghiên cứu khoa học: “Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HIV và kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng lây nhiễm của các nữ thành viên CLB Hoa Phượng – Hải Phòng năm 2009-2010” được thực hiện tại thành phố Hải Phòng. Với mục tiêu xác định tỷ lệ nhiễm HIV và mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng lây nhiễm HIV của nhóm đối tượng phụ nữ tại CLB Hoa Phượng, nhằm góp phần tăng cường các biện pháp can thiệp dự phòng trong nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV cao và trong cộng đồng. Điều tra tiến hành trong 10 tháng (từ tháng 9/2009 đến tháng 8/2010). Đối tượng nghiên cứu gồm 1432 phụ nữ đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại CLB Hoa Phượng. Tiến hành phỏng vấn theo bảng kiểm thông tin và phiếu phỏng vấn trực tiếp. Số liệu thu được phân tích và xử lý trên phần mềm SPSS 13.0. Kết quả nghiên cứu chính thu được: tỷ lệ nhiễm HIV chung 4,1%, cao trong nhóm đã ly thân/ly hôn 5,2% và nhóm có trình độ học vấn tiểu học 9,7%; tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm có tiêm chích ma túy cao 60,84 lần so với nhóm không tiêm chích; 85,7% có nhiều hơn 2 bạn tình; 70,9% sử dụng BCS thường xuyên; 72,6% nhận thức đúng về dự phòng lây nhiễm HIV, cao ở nhóm có trình độ từ THPT trở lên; 70,0% biết thông tin về phòng lây nhiễm HIV từ giáo dục viên sức khỏe; 97,5% biết kết quả xét nghiệm của bản thân; nhưng 88,9% không muốn bộc lộ tình trạng nhiễm HIV. SUMMARY Research project: “Study on HIV prevalence and HIV knowledge, attitude and practices among Hoa Phuong club’s female members in 2009- 2010” was conducted in HaiPhong city. The purpose is to determine the HIV prevalence and have describe the knowledge, attitude, prevention practices of the female subjects in Hoa Phuong club in order to have better intervention on prevention of HIV among the community. The research was conducted in 10 months (form 9/2009 to 8/2010). Subjects are 1432 females come for counseling and HIV testing at the Hoa Phuong club. Research methods are questionnaire and direct interview. The data was analyzed and processed by SPSS 13.0. The result: general HIV prevalence 4.1%, high in the divorce/separated group (5.2%) and primary school education level (9.7%); the group uses drugs have higher transmission prevalence than non- drugs group by 60.84 times; 85.7% have more than 2 sex partners; 70.9% uses condom regularly; 72.6% show good awareness on HIV, mostly with high school education level and above; 70% learned HIV prevention knowledge from health instructors; 97.5% know their test result but 88.9% don’t want to reveal their HIV status. ĐẶT VẤN ĐỀ Hải Phòng là một trong những thành phố lớn của cả nước, gồm 15 quận huyện với 223 xã, phường, thị trấn với dân số trên 1,8 triệu người; là thành phố cảng; trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của miền duyên hải Bắc bộ và các tỉnh phía Bắc. Từ ca nhiễm HIV đầu tiên năm 1993, hiện tại Hải Phòng đã có tỷ lệ nhiễm HIV tới 0,5% dân số. Từ năm 2002, Hải Phòng đã triển khai các cơ sở tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện nhằm giúp người dân và đối tượng nguy cơ dễ dàng tiếp cận với xét nghiệm phát hiện bệnh. Tại CLB Hoa Phượng, triển khai các hoạt động tiếp cận cộng đồng, khám các bệnh lây truyền qua đường tình dục và tư vấn xét nghiệm tự nguyện phòng lây nhiễm HIV can thiệp cho nhóm phụ nữ có nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường tình dục, khách hàng và bạn tình của họ. Để hiểu về nhóm đối tượng có nguy cơ và nhận thức của họ về dự phòng lây nhiễm HIV nhằm góp phần tăng cường các biện pháp can thiệp dự 127

Upload: others

Post on 22-May-2020

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM HIV VÀ KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM CỦA CÁC NỮ THÀNH VIÊN

CÂU LẠC BỘ HOA PHƯỢNG - HẢI PHÒNG, NĂM 2009 - 2010

Đào Việt TuấnTrung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Hải Phòng

TÓM TẮTĐề tài nghiên cứu khoa học: “Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm HIV và kiến thức, thái độ, thực hành về dự

phòng lây nhiễm của các nữ thành viên CLB Hoa Phượng – Hải Phòng năm 2009-2010” được thực hiện tại thành phố Hải Phòng. Với mục tiêu xác định tỷ lệ nhiễm HIV và mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng lây nhiễm HIV của nhóm đối tượng phụ nữ tại CLB Hoa Phượng, nhằm góp phần tăng cường các biện pháp can thiệp dự phòng trong nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV cao và trong cộng đồng. Điều tra tiến hành trong 10 tháng (từ tháng 9/2009 đến tháng 8/2010). Đối tượng nghiên cứu gồm 1432 phụ nữ đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại CLB Hoa Phượng. Tiến hành phỏng vấn theo bảng kiểm thông tin và phiếu phỏng vấn trực tiếp. Số liệu thu được phân tích và xử lý trên phần mềm SPSS 13.0. Kết quả nghiên cứu chính thu được: tỷ lệ nhiễm HIV chung 4,1%, cao trong nhóm đã ly thân/ly hôn 5,2% và nhóm có trình độ học vấn tiểu học 9,7%; tỷ lệ nhiễm HIV ở nhóm có tiêm chích ma túy cao 60,84 lần so với nhóm không tiêm chích; 85,7% có nhiều hơn 2 bạn tình; 70,9% sử dụng BCS thường xuyên; 72,6% nhận thức đúng về dự phòng lây nhiễm HIV, cao ở nhóm có trình độ từ THPT trở lên; 70,0% biết thông tin về phòng lây nhiễm HIV từ giáo dục viên sức khỏe; 97,5% biết kết quả xét nghiệm của bản thân; nhưng 88,9% không muốn bộc lộ tình trạng nhiễm HIV.

SUMMARYResearch project: “Study on HIV prevalence and HIV knowledge, attitude and practices among Hoa

Phuong club’s female members in 2009- 2010” was conducted in HaiPhong city. The purpose is to determine the HIV prevalence and have describe the knowledge, attitude, prevention practices of the female subjects in Hoa Phuong club in order to have better intervention on prevention of HIV among the community. The research was conducted in 10 months (form 9/2009 to 8/2010). Subjects are 1432 females come for counseling and HIV testing at the Hoa Phuong club. Research methods are questionnaire and direct interview. The data was analyzed and processed by SPSS 13.0. The result: general HIV prevalence 4.1%, high in the divorce/separated group (5.2%) and primary school education level (9.7%); the group uses drugs have higher transmission prevalence than non- drugs group by 60.84 times; 85.7% have more than 2 sex partners; 70.9% uses condom regularly; 72.6% show good awareness on HIV, mostly with high school education level and above; 70% learned HIV prevention knowledge from health instructors; 97.5% know their test result but 88.9% don’t want to reveal their HIV status.

ĐẶT VẤN ĐỀHải Phòng là một trong những thành phố lớn của cả nước, gồm 15 quận huyện với 223 xã, phường, thị

trấn với dân số trên 1,8 triệu người; là thành phố cảng; trung tâm công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của miền duyên hải Bắc bộ và các tỉnh phía Bắc. Từ ca nhiễm HIV đầu tiên năm 1993, hiện tại Hải Phòng đã có tỷ lệ nhiễm HIV tới 0,5% dân số. Từ năm 2002, Hải Phòng đã triển khai các cơ sở tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện nhằm giúp người dân và đối tượng nguy cơ dễ dàng tiếp cận với xét nghiệm phát hiện bệnh. Tại CLB Hoa Phượng, triển khai các hoạt động tiếp cận cộng đồng, khám các bệnh lây truyền qua đường tình dục và tư vấn xét nghiệm tự nguyện phòng lây nhiễm HIV can thiệp cho nhóm phụ nữ có nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường tình dục, khách hàng và bạn tình của họ. Để hiểu về nhóm đối tượng có nguy cơ và nhận thức của họ về dự phòng lây nhiễm HIV nhằm góp phần tăng cường các biện pháp can thiệp dự phòng trong nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV cao và trong cộng đồng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với 2 mục tiêu:

Xác định tỷ lệ nhiễm HIV của các nữ thành viên CLB Hoa Phượng trong năm 2009-2010.Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về dự phòng lây nhiễm HIV.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐối tượng là phụ nữ đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại CLB Hoa Phượng, quận Lê Chân, thành phố

Hải Phòng từ 01/9/2010 đến 31/8/2010.Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp dịch tễ học mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu và phương pháp chọn

mẫu: cỡ mẫu là 1432 người, chọn mẫu toàn bộ.Phương pháp thu thập, xử lý và phân tích số liệu: Điều tra viên phỏng vấn từng đối tượng bằng

bảng hỏi và tiến hành lấy máu xét nghiệm HIV. Các phiếu điều tra được xử lý, sau đó nhập và phân tích số liệu trên phần mềm SPSS 13.0.

127

Page 2: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN1. Đặc điểm chung: Tuổi trung bình là 26,0 ± 4,2; chủ yếu xuất thân từ thành phố Hải Phòng 47,5%

và đến từ các tỉnh khác 31,7%. Tỷ lệ chị em sống độc thân cao 89,9%, 10,1% đang sống với chồng, bạn tình. Trình độ học vấn của chị em hạn chế, tỷ lệ học từ THCS trở xuống chiếm tỷ lệ 77,7%.

2. Một số đặc điểm về nhiễm HIV: Tổng số 1432 mẫu, tỷ lệ nhiễm HIV của nhóm đối tượng nghiên cứu là 4,1%. Nhiễm HIV gặp ở hai nhóm tuổi 20 – 29 và 30 – 39, tỷ lệ mắc là 4,7% và 5,4%, sự khác biệt tỷ lệ mắc giữa hai nhóm này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Tỷ lệ phụ nữ nhiễm HIV trong nhóm xuất thân từ nông thôn 5,4%, xuất thân từ thành phố 3,2%, xuất thân từ tỉnh khác; tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất trong nhóm đã ly thân/ly hôn là 5,2% và thấp nhất trong nhóm đối tượng chưa kết hôn 2,3% (p < 0,05); cao nhất với nhóm đối tượng có trình độ học vấn Tiểu học 9,7% và thấp nhất trong nhóm có trình độ học vấn Trung học phổ thông 2,1% (p < 0,05).

Nhóm có TCMT tỷ lệ nhiễm HIV là 28,1%, không TCMT là 0,6%. Nguy cơ lây nhiễm HIV ở đối tượng nữ có TCMT cao gấp 60,84 lần so với không TCMT với tỷ suất chênh OR = 60,84 ; 95% CI (28,22 – 131,16). 2,4% đối tượng nữ có < 1 bạn tình nhiễm HIV và 4,4% có > 2 bạn tình nhiễm HIV.

Kiến thức về phòng lây nhiễm HIV:Bảng 1: Tỷ lệ biết về dịch vụ phòng lây nhiễm HIV theo nguồn thông tin

Nguồn thông tin Số lượng Tỷ lệ (%)Giáo dục viên sức khoẻ 1003 70,0

Nhân viên y tế 57 4,0Bạn tình 30 2,1

Bạn chích chung 3 0,2Khách hàng khác 195 13,6

Thông tin đại chúng 144 10,1Tổng cộng 1432 100

Thông tin về lây nhiễm HIV và dịch vụ chăm sóc chủ yếu từ nguồn thông tin chuyên nghiệp 74,0%, trong đó từ giáo dục viên sức khỏe chiếm tới 70,0%, nhân viên y tế 4,0%, thông tin đại chúng, khách hàng khác giới thiệu 23,7% và bạn tình, bạn chích chung rất thấp 2,3%.

Bảng 2: Tỷ lệ biết yếu tố nguy cơ của bản thân Biết yếu tố nguy cơ của

bản thân Số lượng Tỷ lệ (%)

Không có nguy cơ 128 9,0Tiêm chích ma tuý 27 1,9

Mại dâm 1162 81,1Có tình dục với nhiều người 115 8,0

Tổng cộng 1432 100Phụ nữ sinh hoạt tại CLB tự đánh giá nguy cơ của bản thân là mại dâm (81,1 %), QHTD với nhiều người

(8,0 %), có 1,9 % phụ nữ biết nguy cơ là TCMT. Phụ nữ có nhiều bạn tình cùng với TCMT gây ra sự nguy hiểm không chỉ làm tăng thêm nguy cơ nhiễm HIV cho bản thân mà còn làm tăng nguy cơ lây nhiễm HIV cho cộng đồng.

Bảng 3: Tỷ lệ biết yếu tố nguy cơ của bạn tìnhBiết yếu tố nguy cơ của bạn tình Số lượng Tỷ lệ (%)

Không có bạn tình 7 0,5Bạn tình không có nguy cơ 7 0,5

Bạn tình là người nhiễm HIV 15 1,0Bạn tình TCMT 90 6,3

Bạn tình là mãi dâm 7 0,5Bạn tình có tình dục với nhiều người khác 1306 91,2

Tổng cộng 1432 100Hầu hết phụ nữ tại CLB tự đánh giá các yếu tố nguy cơ bạn tình của mình, bạn tình có tình dục với

nhiều người khác 91,2%, TCMT 6,3%. Phụ nữ biết bạn tình là người nhiễm HIV là 1,0%, cần trang bị kiến thức phòng lây nhiễm HIV không chỉ cho các phụ nữ mà cả bạn tình, khách hàng của họ để góp phần giảm nguy cơ lây nhiễm HIV cho cộng đồng.

Bảng 4: Tỷ lệ trả lời đúng câu hỏi về phòng lây nhiễm HIV Tiêu chí Trả lời đúng Tỷ lệ (%)

1. Chung thủy một bạn tình có thể bảo vệ lây nhiễm HIV 1426 99,62. BCS phòng lây nhiễm HIV qua QHTD 1427 99,7

3. Một người trông bề ngoài khỏe mạnh có thể là người nhiễm HIV 1306 91,24. Muỗi đốt không truyền HIV 1258 87,8

5. Dùng chung phương tiện công cộng, ăn chung không lây nhiễm HIV 1144 79,9Trả lời đúng cả 5 câu hỏi 1040 72,6

Hầu hết chị em trả lời đúng các câu hỏi 1, 2 với tỷ lệ là 99,6%, 99,7%. Các câu hỏi 3,4,5 tỷ lệ trả lời đúng thấp hơn 91,2%, 87,8% và 79,9%. Đúng cả 5 câu hỏi là 72,6%. Tỷ lệ nhiễm trên phụ nữ có kiến thức đúng về dự phòng lây nhiễm HIV là 3,7%, không trả đúng là 5,1%. Không có sự khác biệt giữa việc

128

Page 3: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

trả lời đúng kiến thức về phòng lây nhiễm HIV với tình trạng nhiễm HIV với p > 0,05; OR = 0,71; 95% CI (0,41 – 1,23).

Tỷ lệ phụ nữ sinh hoạt tại CLB có kiến thức đúng về phòng lây nhiễm HIV cao nhất ở nhóm tuổi > 50 (83,2%). Các nhóm tuổi 30 - 39; 40 - 49 và 20 - 29 là 82,8%, 77,2% và 73,9%, thấp nhất ở nhóm tuổi < 19 (50,6%) với p < 0,05. Trả lời đúng kiến thức về phòng lây nhiễm HIV cao nhất ở nhóm từ Trung cấp trở lên (92,9%) và THPT (97,9%); trình độ THCS, Tiểu học là 19,6%, 31,4%. Thấp nhất trong nhóm không đi học 15,0 %, với p < 0,05.

3. Thái độ về phòng lây nhiễm HIV: Phụ nữ sinh hoạt tại CLB được tiếp cận các thông tin và dịch vụ và họ muốn biết về nguy cơ nhiễm HIV của bản thân, tham gia phỏng vấn có 43,6% chị em sinh hoạt tại CLB báo cáo đã từng xét nghiệm HIV trước đây và biết kết quả XN. Tỷ lệ phụ nữ đến tư vấn và XN một lần đầu trong năm chiếm tỷ lệ cao 90,4%, đến lần thứ hai trong một năm là 9,6%. Kháng thể HIV sẽ xuất hiện trong máu người bệnh từ 1 – 3 tháng sau khi nhiễm, trong số chị em XN đến một lần đầu trong năm không loại trừ có trường hợp đang trong giai đoạn HIV cấp tính, các XN phát hiện kháng thể thường không phát hiện được người nhiễm HIV.

Kết quả nghiên cứu cho thấy có 97,5% chị em quay lại lấy kết quả xét nghiệm HIV của mình, nhưng phần lớn làm XN vô danh, có tới 88,9% không muốn bộc lộ danh tính của mình với các cán bộ y tế trực tiếp phỏng vấn. Việc chị em không bộc lộ danh tính sẽ làm cho công tác quản lý đối tượng rất khó khăn, đặc biệt là theo dõi, chăm sóc phụ nữ nhiễm HIV. Có 76/1432 chị em đi XN cùng bạn tình và bộc lộ tình trạng HIV của mình với bạn tình, tỷ lệ chỉ là 5,3 %. Thái độ bộc lộ tình trạng HIV của mình sẽ giúp cho chị em và bạn tình giảm hoặc ngừng các hành vi nguy cơ để tránh làm lây lan HIV sang người khác, quan trọng hơn có thể hỗ trợ những chị em nhiễm HIV đương đầu với bệnh tật cả về tâm lý và sự chăm sóc hỗ trợ.

4. Thực hành về phòng lây nhiễm HIVBảng 5: Tỷ lệ các thực hành tình dục trong vòng 1 tháng trước khi XN

Thực hành Số lượng Tỷ lệ (%)< 1 bạn tình 205 14,3≥ 2 bạn tình 1227 85,7

Không có QHTD 7 0,5Sử dụng BCS mỗi lần quan hệ 1016 70,9

Không sử dụng/sử dụng không thường xuyên 409 28,6Kết quả nghiên cứu cho thấy số phụ nữ có từ 2 bạn tình trở lên chiếm tỷ lệ 85,7%, Trong nhóm phụ

nữ nhiễm HIV có 25,9% (15/58) có hành vi không sử dụng hoặc sử dụng không thường xuyên BCS khi QHTD với khách hàng, bạn tình. Có tới 28,6% phụ nữ sinh hoạt tại CLB có hành vi không sử dụng hoặc sử dụng không thường xuyên BCS khi QHTD. Sử dụng BCS là biện pháp tốt nhất phòng lây nhiễm HIV qua QHTD. Trong số 409 chị em không sử dụng/sử dụng không thường xuyên BCS khi QHTD có 35,2% chị em không thích sử dụng, 62,8% do bạn tình không đồng ý, 2,0% chị em báo cáo không sẵn có BCS.

KẾT LUẬN Tỷ lệ nhiễm HIV chung của nhóm đối tượng nghiên cứu là 4,1%. Chủ yếu gặp ở hai nhóm tuổi 20 –

29 và 30 – 39 với tỷ lệ mắc là 4,7% và 5,4%. Theo địa dư: nông thôn 5,4%; thành phố 3,2%; tỉnh khác 4,4% v; Theo tình trạng hôn nhân: cao

nhất nhóm ly thân/ly hôn 5,2% và thấp nhất nhóm chưa kết hôn 2,3%; Theo học vấn: cao nhất nhóm TH 9,7% và thấp nhất nhóm THPT 2,1%.

Theo tình trạng TCMT: tỷ lệ nhiễm HIV ở nữ TCMT (28,1%) cao hơn so với nhóm không TCMT (0,6%) với tỷ suất chênh OR = 60,84; p < 0,05.

Thông tin về phòng lây nhiễm chủ yếu được biết đến từ giáo dục viên sức khỏe (70,0%). Hiểu biết nguy cơ lây nhiễm HIV của bản thân là mại dâm, có QHTD với nhiều người (89,1%); TCMT (1,9%); nguy cơ của bạn tình như có tình dục với nhiều người khác (91,2%); TCMT (6,3%), người nhiễm HIV (1,0%).

Nhận thức đúng về dự phòng lây nhiễm HIV là 72,6%, cao nhất ở nhóm tuổi > 50 (83,2%), cao ở nhóm có trình độ từ Trung cấp và THPT (92,9% và 97,9%).

Tỷ lệ lấy kết quả xét nghiệm cao 97,5%; nhưng không muốn bộc lộ tình trạng nhiễm HIV, tỷ lệ không muốn bộc lộ với nhân viên y tế là 88,9%, với bạn tình là 94,7%.

85,7% có nhiều hơn 2 bạn tình; 70,9% sử dụng BCS thường xuyên; 25,9% phụ nữ nhiễm HIV không sử dụng/ sử dụng không thường xuyên BCS khi QHTD.

KIẾN NGHỊTruyền thông giáo dục nâng cao kiến thức về dự phòng lây nhiễm HIV, tư vấn xét nghiệm tự nguyện

thông qua các tuyên truyền viên giáo dục sức khỏe, tăng cường sâu hơn về nội dung, vận động chị em có thái độ tích cực hơn trong việc đi xét nghiệm HIV định kỳ.

Truyền thông thực hành tình dục an toàn, hướng dẫn sử dụng BCS đúng cách, thường xuyên với không chỉ riêng với các chị em mà còn đối với khách hàng, bạn tình của họ, đồng thời tăng cường cung cấp, tiếp thị BCS rộng rãi với độ bao phủ lớn hơn nữa.

129

Page 4: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Tăng cường liên kết các dịch vụ xét nghiệm, chuyển gửi điều trị, tạo cơ hội cho phụ nữ tiếp cận với các dịch vụ hỗ trợ tư vấn, khám chữa bệnh, cai nghiện ma tuý và tạo công ăn việc làm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế (2010), Kết quả Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học IBBS tại Việt

Nam năm 2006-2009, Hà Nội.2. Bộ Y tế, Cục Phòng, chống HIV/AIDS(2008), Tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện, Nhà xuất bản Y học,

trang 11 – 13, 45 – 50.3. Bộ Y tế (2009), Ước tính và dự báo nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam năm 2007 – 2012, Hà Nội, trang 38

– 40.4. Lưu Minh Châu và CS (2004), Tỷ lệ nhiễm và yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm mại dâm tại

Hải Phòng – Kết quả nghiên cứu RDS, Mạng Thông tin Nghiên cứu HIV Việt Nam- Tổng cục Dân số, Kế hoạch hoá Gia đình, Hà Nội.

5. Đại học Y Hà Nội (2004), Phương pháp nghiên cứu khoa học trong Y học và Sức khoẻ cộng đồng, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.

6. Đào Đình Đức, Lê Đăng Hà và CS (2004), Lâm sàng nhiễm HIV/AIDS, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.7. Nguyễn Trần Hiển (2005), Lượng giá nguy cơ nhiễm HIV/AIDS ở quần thể gái mại dâm tại 7 tỉnh, Viện

Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội.8. Tổng cục Thống kê, Viện VSDT Trung ương, và ORC Macro (2006), Điều tra Dân số và Chỉ số AIDS

của Việt Nam năm 2005 VPAIS, Hà Nội.9. Viện Vệ sinh dịch tễ (2005), Tỷ lệ nhiễm HIV và các chỉ số AIDS trong quần thể dân cư bình thường 15

– 49 ở vùng thành thị và nông thôn Việt Nam, Hà Nội.

KHẢO SÁT KHẢ NĂNG CHI TRẢ CHI PHÍ ĐIỀU TRỊ METHADONE CỦA BỆNH NHÂN CHUẨN BỊ THAM GIA MÔ HÌNH XÃ HỘI HÓA

METHADONE TẠI TP. HỒ CHÍ MINH

Tiêu Thị Thu Vân, Nguyễn Thị Thúy Ngà, Phạm Thị Thu Thúy,Hán Đình Hòe, Vũ Thị Tường Vi

TÓM TẮTNghiên cứu cắt ngang được thực hiện trên 300 bệnh nhân đang và chuẩn bị điều trị Methadone (MMT) tại

TP.HCM năm 2012. Mục đích của nghiên cứu nhằm tìm hiểu khả năng chi trả chi phí điều trị Methadone của bệnh nhân chuẩn bị tham gia mô hình xã hội hóa chương trình Methadone tại TP.HCM. Kết quả phân tích cho thấy 91% bệnh nhân mong muốn tiếp tục tham gia điều trị Methadone dù phải đóng phí điều trị. Mức phí trung bình mà bệnh nhân có thể trả được là 20.698 vnd/ngày/bệnh nhân. 27,1% bệnh nhân có khả năng chi trả phí dưới 10.000vnd/ngày/người, 41,9% bệnh nhân có khả năng trả từ 10.000 vnd – 20.000vnd/ngày/người và 31% có khả năng trả từ 21.000 vnd/ngày trở lên.Về hình thức chi trả: 51% bệnh nhân muốn trả theo tháng, 34% trả theo từng ngày. 90,1% bệnh nhân lựa chọn dịch vụ khám bệnh là ưu tiên hàng đầu, 83,2% lựa chọn dịch vụ tư vấn tâm lý là ưu tiên thứ hai, 87% bệnh nhân mong muốn nhận dịch vụ điều trị Methadone của nhà nước thay vì các dịch vụ tư nhân. Kết quả nghiên cứu cho thấy kế hoạch thu 1/3 chi phí điều trị của bệnh nhân Methadone đáp ứng được nhu cầu điều trị và phù hợp với khả năng kinh tế của người bệnh.

SUMMARYCross sectional study was conducted on 300 patients who was preparing or already taking Methadone

medication treatment (MMT) in HCM city 2012. The purpose of the study is to find out the affordability for the MMT of the patients who was about to take part in the Methadone program’s socialization model in HCM city. The result shows 91% of the patients want to continue Methadone treatment despite the treatment fee. Patients can usually pay for 20.698 VND/day/person. 27.1% of the patients can pay below 10.000 VND/day/person, 41.9% can afford from 10.000 VND – 20.000 VND/day/person and 31% can pay 21.000 VND and above. Regarding the payment method: 51% of the patients want to pay monthly, 34% want to pay daily, 90.1% of the patients prioritized on medical examination service, 83.2% chose psychology consultation as second priority, 87% wanted to receive government Methadone treatment instead of private services. Study result shows that collecting one third of the treatment fee from Methadone patient is sufficient for their treatment needs and economic viability.

130

Page 5: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

ĐẶT VẤN ĐỀThành phố Hồ Chí Minh được xem là một trong những nơi có số người nghiện ma túy cao, ước tính có

khoảng trên 15.000 người sử dụng ma túy. Do đó với năm (05) điểm điều trị Methadone tính đến 11/2012 gồm Quận 4, 6, 8, Thủ Đức và Bình Thạnh chỉ mới có thể đáp ứng được một phần nhỏ số người có nhu cầu tham gia điều trị của người sử dụng ma túy. Cơ sở điều trị Methadone hiện nay chủ yếu do tài trợ, bệnh nhân tham gia chương trình được điều trị miễn phí hoàn toàn. Tuy nhiên từ cuối năm 2011, ngân sách tài trợ cắt giảm một cách nhanh chóng và nhất thiết cần phải tìm kiếm các mô hình với chi phí hiệu quả và bền vững và chuyển sang cơ chế bền vững cho Nhà nước.

Theo Kế hoạch Phát triển bền vững Chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại TP.HCM giai đoạn 2012 – 2015: Thực hiện xã hội hóa chương trình Methadone, triển khai việc thu phí từ bệnh nhân và sử dụng nguồn thu để vận hành cơ sở và bao gồm trả một phần hoặc toàn bộ lương cho nhân viên, tiến tới giảm dần ngân sách Nhà nước chi cho chương trình theo công thức 1/3: ngân sách Nhà nước 1/3, viện trợ 1/3 và bệnh nhân tham gia trả 1/3. Để thực hiện tốt kế hoạch xã hội hóa chương trình Methadone trong thời gian tới, nghiên cứu này là bằng chứng khoa học về khả năng chi trả chi phí điều trị, nhu cầu gói dịch vụ của bệnh nhân Methadone khi tham gia chương trình xã hội hóa Methadone tại Tp.HCM.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐịa điểm nghiên cứu:Nghiên cứu triển khai tại 5 điểm Methadone của Tp.HCM: quận 4, 6, 8, Bình Thạnh và Thủ Đức.Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân đang điều trị Methadone; Người nghiện chích ma túy đã đăng ký tham gia chương trình điều

trị Methadone nhưng chưa được điều trị; Gia đình/thân nhân của bệnh nhân đang điều trị/có nhu cầu điều trị Methadone tại TP.HCM.

Cỡ mẫu:Thực hiện phỏng vấn bằng bảng hỏi cấu trúc trên 300 bệnh nhân Methadone, bao gồm bệnh nhân đang

điều trị và chuẩn bị điều trị. Ngoài ra, thực hiện phỏng vấn sâu 15 gia đình (cha mẹ - người bảo lãnh cho bệnh nhân tham gia điều trị Methadone).

Phương pháp chọn mẫu:Kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản được sử dụng để chọn ra số mẫu cần thiết cho nghiên cứu. Dựa

vào danh sách bệnh nhân có sẵn của 5 quận, sau đó chọn ngẫu nhiên từ 1 đến n số mẫu của từng điểm Methadone. Sử dụng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện để chọn ra 15 gia đình bệnh nhân tham gia vào nghiên cứu.

Quản lý và phân tích dữ liệu:Dữ liệu thu thập về, được nhập và làm sạch trên phần mềm nhập liệu SPSS 17.0, gỡ băng phỏng vấn

sâu sang phần mềm Word 2007. Các biên bản phỏng vấn, dữ liệu thu thập từ các bảng hỏi được lưu giữ và quản lý tại UBPC AIDS TP.HCM.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUĐặc điểm nhân khẩu học:Tổng số mẫu nghiên cứu là 300, trong đó 90,7% là nam giới. Tuổi trung bình của người tham gia nghiên

cứu là 33 tuổi, tuổi thấp nhất là 22 và cao nhất là 61 tuổi. 40% bệnh nhân có trình độ cấp III (lớp 10 – 12), 38% có việc làm và thu nhập trung bình 3,2 triệu đồng/tháng, 78,7% bệnh nhân tự nhận điều kiện kinh tế gia đình thuộc diện trung bình, 91% người được hỏi mong muốn tiếp tục được tham gia điều trị Methadone dù có phải đóng phí, và 75% người cho rằng họ có khả năng chi trả chi phí điều trị lâu dài, miễn sao họ được tham gia chương trình.

Khả năng chi trả phí điều trị/ngày:41,9% bệnh nhân đồng ý đóng góp chi phí điều trị từ 10.000 vnd – 20.000 vnd/ngày, 27,1% có khả năng

đóng dưới 10.000 vnd/ngày, 18,8% có khả năng đóng từ từ 21.000 vnd - 30.000vnd/ngày, và 12% còn lại có khả năng đóng từ 31.000 vnd – trên 50.000 vnd/ngày. Số tiền trung bình bệnh nhân có khả năng đóng góp là 20.693 vnd/ngày (thấp nhất =1.000 vnd; cao nhất = 100.000vnd).

Biểu đồ 1. Khả năng đóng phí điều trị/ngày của bệnh nhân Methadone

131

Page 6: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Nhu cầu của bệnh nhân khi tham gia điều trị có đóng phí:Hình thức chi trả chi phí điều trị:51% mong muốn trả phí điều trị theo tháng, tiếp theo 34% mong muốn được trả phí điều trị theo ngày,

14% thích trả theo từng tuần và ngoài ra 1% lựa chọn theo hình thức khác với lý do “có tiền nhiều sẽ trả tháng, ít tiền chỉ trả được theo từng ngày…”. 86,8% ưu tiên lựa chọn loại hình dịch vụ Methadone của Nhà nước và 13,2% thích loại hình dịch vụ do tư nhân lập ra.

Nhu cầu lựa chọn dịch vụ ưu tiên: Nhìn chung, đa số bệnh nhân đều ưu tiên dịch vụ khám bệnh định kỳ với 90,1%, ưu tiên thứ hai là lựa

chọn dịch vụ Tư vấn hỗ trợ tâm lý -tuân thủ điều trị với với 83,2%. Hoạt động sinh hoạt nhóm được xếp ưu tiến thứ ba với 21,6%, còn lại là dịch vụ hỗ trợ thủ tục hành chính và tư vấn giới thiệu chuyển gửi dịch vụ y tế - xã hội với tỉ lệ tương đương nhau, chiếm trên dưới 20%.

Biểu đồ 2: Dịch vụ ưu tiên của bệnh nhân khi tham gia điều trị có đóng phí

Ngoài ra, bệnh nhân cũng mong muốn thời gian mở cửa của phòng khám nên bắt đầu từ 6h00 sáng và kết thúc lúc 5h00 chiều để thuận tiện cho những người đang đi làm, hoặc được mang thuốc theo khi đi làm xa ra khỏi TP.HCM,…

Vai trò của gia đình:Bên cạnh sự nỗ lực của bệnh nhân khi tham gia vào điều trị thì vai trò gia đình cũng ảnh hưởng không

nhỏ đến kết quả điều trị MMT của các bệnh nhân khi tham gia vào chương trình. 75% bệnh nhân nhận được sự hỗ trợ chi phí điều trị từ cha mẹ, và 77,3% nhận được sự hỗ trợ về chăm sóc sức khỏe từ vợ/chồng.

BÀN LUẬNVấn đề xã hội hóa chương trình Methadone và khả năng chi trả chi phí điều trị Methadone của bệnh

nhân là vấn đề cần quan tâm để đảm bảo tính bền vững của chương trình tại TP.HCM trong giai đoạn hiện nay.

Với 41,9% bệnh nhân có khả năng đóng phí điều trị từ 10.000 vnd – 20.000 vnd/ngày/người cho thấy được cho là phù hợp với mức phí đề xuất của kế hoạch thu phí bệnh nhân MMT của UBND TP. HCM trong giai đoạn 2013 – 2014 mức thu phí tối đa là 10.000đ/ngày/bệnh nhân/cơ sở điều trị chính và 8.000đ/ngày/bệnh nhân/điểm phát thuốc. Và đến năm 2015 dự kiến mức thu phí tối đa tại 1 cơ sở điều trị chính là 20.000 đồng/ngày/bệnh nhân, tại điểm phát thuốc vệ tinh là 18.000đ/ngày.

Có một số ít bệnh nhân không thể tiếp tục tham gia điều trị MMT nếu phải đóng phí vì điều kiện kinh tế gia đình rất khó khăn, không có khả năng chi trả chi phí điều trị. Do đó, để đảm bảo duy trì điều trị MMT cho bệnh nhân, chính quyền địa phương và phía chương trình cần xem xét từng đối tượng cụ thể để có những hỗ trợ phù hợp như: miễn giảm phí cho bệnh nhân nghèo, khó khăn theo quy định của chương trình (miễn giảm 20% cho bệnh nhân nghèo về chi phí điều trị).

Những bệnh nhân có khả năng trả mức phí điều trị càng cao đồng nghĩa với việc tỉ lệ lựa chọn loại hình dịch vụ tư nhân tăng lên. Do đó, thành phố cần xem xét kỹ lưỡng việc mở các phòng khám và điều trị MMT tư nhân trong thời gian tới để đáp ứng nhu cầu cũng như mong đợi của bệnh nhân.

KẾT LUẬNKết quả nghiên cứu cho thấy khả năng chi trả chi phí điều trị Methadone của bệnh nhân hoàn toàn phù

hợp với mức giá đề xuất Kế hoạch thu phí bệnh nhân MMT của UBND TP. HCM giai đoạn 2013 – 2014. Đây là bước quan trọng chuẩn bị tốt cho việc triển khai mô hình xã hội hóa chương trình Methadone tại TP.HCM trong thời gian tới được hiệu quả, phù hợp với thực tế và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của bệnh nhân khi tham gia điều trị Methadone có đóng phí.

132

Page 7: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế, 2009, “Đánh giá mô hình triển khai thí điểm điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện

bằng thuốc Methadone tại TP Hải Phòng và TP Hồ Chí Minh”. Dự thảo kết quả đánh giá đợt I. Hà Nội.2. Bộ Y tế, 2007, “Hướng dẫn điều trị thay thế cai nghiện CDTP bằng thuốc Methadone”. Nhà xuất bản Y

học. Hà Nội.3. Bộ Lao Động – Thương Binh và Xã hội Việt Nam, (2010) “Dự thảo chương trình điều trị nghiện từ năm

2011 – 2015”.4. Cục Phòng, Chống HIV/AIDS, 2009, “Đánh giá bước đầu triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất

dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại TP.HCM và Hải Phòng”5. Dự án Sáng kiến Chính sách y tế của USAID tại Việt Nam , 2011, “Nghiên cứu đánh giá bước đầu hiệu

quả triển khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Hải Phòng và TP.HCM”.

6. Guohong Chen, Takeo Fujiwara. “Đánh giá tác động sau một năm triển khai chương trình điều trị thay thế heroin bằng Methadone tại Jiangsu, Trung Quốc”. Substance Abuse: Research and Treatment 2009:3 61–70

7. M.Connock, A.Juarez-Garcia, et al, (2007) “Điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng methadone và buprenorphine: tổng quan và đánh giá kinh tế”, Health Technology Assessment 2007; Vol.11:No.9.

NGHIÊN CỨU KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ VỀ PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS VÀ CÁC BỆNH LTQĐTD CỦA NGƯỜI DÂN 3 XÃ CUÔRKNIA, TÂN HOÀ,

EABAR HUYỆN BUÔN ĐÔN TỈNH ĐẮK LẮK NĂM 2011

Nguyễn Thị Kim Phượng, Lê Đình Vinh, H’ouil ByăTrung tâm Phòng, chống HIV/AIDS

TÓM TẮTNghiên cứu mô tả cắt ngang 200 người dân tại 3 xã của huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk, nhằm mục tiêu

đánh giá kiến thức hiểu biết, thái độ của người dân về HIV/AIDS - các bệnh lây truyền qua đường tình dục và các yếu tố liên quan. Kết quả nghiên cứu cho thấy 83,5% làm nông, trình độ văn hóa thấp tiểu học và chưa hết tiểu học chiếm 71,5%, thu nhập thấp trung bình/tháng từ 1.000.000 đồng trở xuống chiếm 76%, có 3 con trở lên chiếm 50%, đọc - nghe và hiểu tiếng kinh thành thạo 66% - 68%.

35,5% người dân cho rằng HIV là virus gây suy giảm miễn dịch, không có khả năng chữa khỏi bệnh chiếm 48%, người nhiễm HIV/AIDS nhìn bề ngoài không phân biệt 19%, hiểu biết đầy đủ về các đường lây truyền HIV/AIDS chiếm 28,5%, hiểu biết đầy đủ về cách phòng, chống chiếm 31,5%, những người mắc bệnh LTQĐTD có thể giúp HIV dễ lan truyền hơn 45,5%; 39,5% có thái độ đúng về HIV/AIDS.

SUMMARYDescriptive cross-sectional study was conducted on 200 residents of 3 communes in Buon Don dicstrict,

Dak Lak province. The purpose was to assess the subject knowledge, attitude toward HIV/AIDS – communicable diseases and related factors. The study shows that 83.5% are farmers; 71.5% have primary school education level or haven’t finished it; 76% have low regular income of 1.000.000 million VND or lower; 50% have more than 3 childern; 66%-68% can read and speak Kinh fluently.

35.5% believe HIV is Human immunodeficiency virus infection, 48% believe it is incurable; 19% can’t distinguish between HIV/AIDS patients; 28.5% know all HIV/AIDS transmission routes; 31.5% know how to prevent it; 45.5% know sexual contact makes HIV easier to spread.; 39.5% have the right attitude toward HIV/AIDS.

ĐẶT VẤN ĐỀBuôn Đôn là một huyện biên giới cách thành phố Buôn Ma Thuột 25 km về hướng Tây Bắc theo con

đường tỉnh lộ số 1. Có 7 xã, không có thị trấn, 96 thôn, buôn. Buôn Đôn có 13 dân tộc sinh sống, là huyện năng động nhất về kinh doanh du lịch trong tỉnh Đắk Lắk. Để đánh giá hiệu qủa công tác phòng chống HIV/AIDS trong những năm qua và có cơ sở phát triển công tác truyền thông phòng, chống HIV/AIDS trong

133

Page 8: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

những năm tới xuống vùng nông thôn, nơi có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu kiến thức và thái độ về phòng, chống HIV/AIDS và các bệnh LTQĐTD của người dân 3 xã Cuôr knia, Tân Hoà, Ea Bar huyện Buôn Đôn, tỉnh Đắk Lắk”.

Mục tiêu nghiên cứu:1. Mô tả kiến thức và thái độ về phòng chống nhiễm HIV/AIDS và các bệnh lây truyền qua đường tình

dục của người dân.2. Mô tả các yếu tố liên quan đến kiến thức và thái độ về phòng chống nhiễm HIV/AIDS của người

dân ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐối tượng nghiên cứuNgười dân 3 xã Cuôr Knia, Tân hoà, Ea Bar huyện Buôn Đôn, tỉnh Đăk Lăk tuổi từ 18 đến 60.Thời gian và địa điểm nghiên cứuTừ ngày 5/2011-8/2011tại 3 xã Cuôr Knia, Tân hoà, Ea Bar huyện Buôn Đôn tỉnh Đắk Lắk.Phương pháp nghiên cứuThiết kế: Mô tả cắt ngang.Cỡ mẫu nghiên cứu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu sau:

n = Z2(1- a/2). p(1-p)

d2

p = 0,5 (theo tỷ lệ của nghiên cứu của Hoàng Huy Phương và CS về kiến thức hiểu biết về HIV/AIDS của người dân huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình năm 2009 là 50,3%)[3], d = 7% (sai số cho phép) => n # 200 người dân.

Chọn mẫu: Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống phân tầng theo dân tộc học, chọn 10 cụm (xã Eabar: 4 cụm, Tân Hòa: 2 cụm, Cuôr Knia: 2), số người phỏng vấn ở mỗi cụm được xác định cỡ mẫu chia cho số cụm, dựa vào sổ quản lý nhân khẩu tại xã.

Phương pháp thu thập số liệu: Sử dụng phiếu phỏng vấn gồm 40 câu hỏi soạn sẵn được thực hiện bởi 4 diều tra viên.

Phương pháp phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm SPSS.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU1. Các đặc điểm văn hóa và xã hộiLứa tuổi 20-49 chiếm tỷ lệ 82,5%, tỷ lệ nam, nữ gần tương đương nhau. Nam chiếm 53%, nữ 47%. Dân

tộc Êđê và dân tộc khác (Tày, Nùng, Thái, Mường…) chiếm 80%, trình độ học vấn thấp tiểu học và chưa hết tiểu học chiếm 71,5%, nghề nghiệp chủ yếu làm nông chiếm 83,5%, thu nhập trung bình/tháng từ 1.000.000 đồng trở xuống chiếm 76%. có 3 con trở lên chiếm 50%, khả năng đọc tiếng kinh thành thạo 66%, nghe và hiểu tiếng kinh thành thạo 68%.

2. Kết quả nghiên cứu2.1. Kiến thức và thái độ của người dân về HIV và các bệnh lây truyền qua đường tình dụcBảng 1. Tỷ lệ hiểu biết chung của người dân về HIV/AIDS

Các chỉ số n=200 Tỷ lệ %

Tác nhân gây bệnh Hiểu đúng 71 35,5Hiểu sai 129 64,5

Khả năng điều trị Hiểu đúng 96 48,0Hiểu sai 104 52,0

Nhận biết bên ngoài Hiểu đúng 38 19,0Hiểu sai 162 81,0

Mức hiểu biết cả 3 đường lây truyền Hiểu đúng 103 51,5Hiểu sai 97 48,5

Mức hiểu biết đầy đủ về các đường lây

Hiểu đúng 57 28,5Hiểu sai 143 71,5

35,5% cho rằng HIV là virus gây suy giảm miễn dịch; không có khả năng chữa khỏi bệnh chiếm 48%; nhìn bề ngoài người nhiễm HIV không phân biệt được 19%; hiểu biết đầy đủ về 3 đường lây là 51,5%, tuy nhiên tỷ lệ người dân hiểu biết đầy đủ về các đường lây truyền chỉ chiếm 28,5% vì ngoài trả lời đúng 3 đường lây, người dân vẫn cho rằng dùng chung chén, bát và (hoặc) muỗi đốt cũng bị lây nhiễm HIV.

Bảng 2. Tỷ lệ hiểu biết của đối tượng về cách phòng chống HIV/AIDS

TT Cách phòng chống Tỷ lệ %1 Chung thuỷ một bạn tình 70,62 Sử dụng BCS đúng cách khi QHTD 68,93 Không tiêm chích ma tuý/không dùng chung BKT 56,94 Không tiếp xúc với máu, dịch hoặc truyền máu người nhiễm HIV /không xuyên chích qua da 19,05 Phụ nữ nhiễm HIV muốn sinh con phải đến cơ sở Y tế để được tư vấn hỗ trợ 24,26 3 cách phòng chống (1,2,3) 31,5

134

Page 9: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

3 cách phòng tránh nhiễm HIV chiếm tỷ lệ cao nhất là chung thuỷ 01 bạn tình chiếm 70,6 %, tiếp đến là sử dụng BCS đúng cách khi QHTD chiếm 68,9% và không TCMT hoặc không dùng chung BKT chiếm 56,9%, tuy nhiên biết đầy đủ cả 3 cách chỉ chiếm 31,5%.

Bảng 3. Tỷ lệ nhận biết các bệnh LTQĐTD HIV/AIDS

Nội dung Tỷ lệ % Nội dung Tỷ lệ %Lậu 72,4 Mụn rộp sinh dục/Herpes sinh dục 6,5

Giang mai 52,0 Chlamydia 2,4Nấm âm đạo, âm hộ 13,8 Viêm gan B 16,3

Sùi mào gà 6,5 Trùng roi âm đạo 5,7Viêm âm đạo 22,8 HIV/AIDS 78,0

Các bệnh LTQĐTD được người dân biết đến chủ yếu là bệnh HIV/AIDS chiếm 78%, lậu 72,4%, giang mai 52,0%. Bệnh sùi mào gà, chlamydia, trùng roi âm đạo …ít được người dân biết đến.

Bảng 4. Tỷ lệ hiểu biết về bệnh LTQĐTD liên quan đến HIV/AIDS (n=200)

Các chỉ số Tần số Tỷ lệ %

Bệnh LTQĐTD giúp nhiễm HIV dễ lan truyền Có 79 45,5Không 121 54,5

Cách phòng các bệnh LTQĐTD Đúng 77 38,5sai 123 61,5

Có 45,5% cho rằng những người mắc các bệnh LTQĐTD có thể giúp HIV dễ lan truyền hơn, 38,5% cho rằng để phòng các bệnh LTQĐTD phải chung thuỷ 1 vợ 1 chồng và dùng BCS đúng cách khi quan hệ với bạn tình.

Bảng 5. Tỷ lệ thái độ của người dân về HIV/AIDS (n=200)

Thái độ chung về HIV/AIDS Tần số Tỷ lệ %Đúng 79 39,5Sai 30 15

Không có thái độ 91 45,5

39,5% có thái độ đúng về HIV/AIDS nghĩa là không đồng ý với quan điểm người nhiễm HIV/AIDS sẽ bị cộng đồng phân biệt, xa lánh và kỳ thị; người nhiễm HIV/AIDS sẽ bị mất việc làm hoặc không có việc làm; những đứa trẻ bị nhiễm HIV/AIDS sẽ không được đến trường học hoặc bị bạn bè xa lánh, hắt hủi.

2.2. Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thái độ về phòng, chống nhiễm HIV/AIDS của người dân

Bảng 6. Mối liên quan gữa giới, nhóm dân tộc, trình độ học vấn, kinh tế với kiến thức chung về HIV/AIDS (n=200)

Các yếu tố liên quanKiến thức chung

pĐúng Sain=45 % n=155 %

Giới Nam 37 34,9 69 65,1 <0,05Nữ 8 8,5 86 91,5

Nhóm dân tộc Kinh 15 37,5 25 62,5 <0,05Êđê, khác 30 18,8 130 81,3

Trình độ học vấn THCS trở lên 30 52,6 27 47,4 <0,05Tiểu học trở xuống 15 10,5 128 89,5

Mức thu nhập/tháng ≤ 1 triệu đồng 23 14,8 132 85,2 <0,05> 1 triệu đồng 22 48,9 23 51,5Đều có sự khác biệt về giới, nhóm dân tộc, trình độ học vấn và mức thu nhập với kiến thức chung về

HIV/AIDS có ý nghĩa thống kê (p<0,05).Bảng 7. Mối liên quan giữa giới, dân tộc, trình độ học vấn, kinh tế với thái độ về HIV/AIDS (n=200)

Các yếu tố liên quanThái độ

pĐúng Sai/không có thái độn=79 % n=121 %

Giới Nam 67 63,2 39 36,8 <0,05Nữ 12 12,8 82 87,2

Nhóm dân tộc Kinh 25 62,5 15 37,5 <0,05Êđê, khác 54 33,8 106 66,2

Trình độ học vấn THCS trở lên 41 71,9 16 28,1 <0,05Tiểu học trở xuống 38 26,2 105 73,8

Mức thu nhập/tháng ≤ 1 triệu đồng 44 28,4 111 71,6 <0,05> 1 triệu đồng 35 77,8 10 22,2Đều có sự khác biệt về giới, nhóm dân tộc, trình độ học vấn và mức thu nhập với thái độ đúng về

HIV/AIDS có ý nghĩa thống kê (p<0,05).

135

Page 10: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

BÀN LUẬN1. Đặc điểm về văn hóa xã hộiNét nổi bật của người dân là 83,5% làm nông, trình độ văn hóa thấp tiểu học và chưa hết tiểu học chiếm

71,5%, thu nhập thấp trung bình/tháng từ 1.000.000 đồng trở xuống chiếm 76%, khả năng đọc - nghe và hiểu tiếng kinh thành thạo 66%-68%.

2. Kiến thức của người dân về HIV/AIDS và bệnh LTQ ĐTD33,5% người dân cho rằng HIV là virus gây suy giảm miễn dịch, không có khả năng chữa khỏi bệnh

chiếm 48%, người nhiễm HIV nhìn bề ngoài không phân biệt 19%, hiểu biết đầy đủ về các đường lây truyền chỉ chiếm 28,5% vì có một số người dân cho rằng dùng chung chén, bát và (hoặc) muỗi đốt cũng bị lây HIV, những kết quả này cũng thấp hơn so với kết quả điều tra của Phạm Thọ Dược và Cs [1].

Hiểu biết về 3 cách phòng tránh nhiễm HIV/AIDS chiếm tỷ lệ cao, chung thuỷ 01 bạn tình chiếm 70,6%, sử dụng BCS đúng cách khi QHTD chiếm 68,9%, Không TCMT hoặc không dùng chung BKT chiếm 56,9%, tuy nhiên hiểu biết đầy đủ về các cách phòng, chống chỉ đạt 31,5%, kết quả này thấp hơn nghiên cứu của Hoàng Huy Phương và Cs [3], Phạm Thọ Dược và Cs [1].

Các bệnh LTQĐTD được người dân nghe nhiều HIV/AIDS 78,0%, lậu 72,4%, giang mai 52%; 45,5% người dân cho rằng những người mắc bệnh LTQĐTD có thể giúp HIV dễ lan truyền hơn; 38,5% hiểu biết đúng về cách phòng các bệnh LTQĐTD; 39,5% có thái độ đúng về HIV/AIDS.

3. Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thái độ phòng chống nhiễm HIV/AIDS Đều có sự khác biệt về giới, nhóm dân tộc, trình độ học vấn và mức thu nhập với kiến thức chung và

thái độ về HIV/AIDS có ý nghĩa thống kê (p<0,05).KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊQua kết quả điều tra cho thấy trình độ học vấn thấp, thu nhập thấp, khả năng đọc - nghe và hiểu tiếng

kinh thành thạo chưa đến 70%, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ kiến thức hiểu biết chung về HIV/AIDS của người dân huyện Buôn Đôn còn thấp và nhận thức thái độ về HIV/AIDS chưa cao.

Trên cơ sở kết quả nghiên cứu có một số khuyến nghị như sau:Tăng cường công tác truyền thông tại cơ sở, tuyển chọn cộng tác viên làm công tác tuyên truyền phải là

những người có khả năng biết cả tiếng kinh và tiếng Êđê hoặc là người đồng bào tại chỗ, lồng ghép tuyên truyền vào các cuộc họp thôn, buôn, khối, phố.

Tài liệu tuyên truyền bằng tờ rơi, tranh ảnh, áp phích về HIV/AIDS và các BLTQĐTD cho tuyến huyện phải bằng 2 thứ tiếng gồm tiếng kinh và tiếng Êđê.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Phạm thọ Dược và Cs (2010), Điều tra kiến thức, thái độ và hành vi về HIV/AIDS của cộng đồng dân

cư ở TP. Buôn Ma Thuột, ĐắkLắk, Y học thực hành số 697+698, tr144-148.2. Trương Tấn Minh và Cs (2010), Đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi về phòng chống nhiễm HIV/AIDS

trên người dân 15 – 49 tuổi tại Khánh Hòa năm 2008, Các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Tập san Y học thực hành (số 742+743), tr 66-71.

3. Hoàng huy Phương và CS (2010), Đánh giá kiến thức, thái độ, thực hành về phòng, chống HIV/AIDS của người dân từ 15-49 tuổi ở huyện Hoa Lư và TP Ninh Bình năm 2009 , Các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, Tập san Y học thực hành (số 742+743), tr 124-130.

ĐÁNH GIÁ HÀNH VI NGUY CƠ NHIỄM HIV Ở NAM MẮC CÁC NHIỄM KHUẨN LÂY TRUYỀN QUA ĐƯỜNG TÌNH DỤC

TẠI THÀNH PHỐ HUẾ NĂM 2012Lý Văn Sơn1, Trần Thị Ngọc1, Lê Viết Khánh2, Nguyễn Văn Quý3, Trương Linh3,

Nguyễn Thị Lệ1, Nguyễn Lê Tâm1, Lê Hữu Sơn1, Nguyễn Hữu Huệ1, Lê Văn Vinh1, 1 Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Thừa Thiên Huế

2 Bệnh viện Trung Ương Huế3 Trung tâm phòng chống bệnh xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế

TÓM TẮTBằng phương pháp mô tả điều tra ngang với 200 bệnh nhân nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua

đường tình dục (STIs) tại thành phố Huế đến khám chữa bệnh tại phòng khám STI - Trung tâm phòng, chống bệnh xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế và khoa Da liễu - Bệnh viện Trung ương Huế năm 2012. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV là 2,0%; không hông sử dụng bao cao su trong lần quan hệ tình dục gần nhất chiếm tỷ lệ trên 70%. Sử dụng bao cao su tất cả và đa số các lần khi quan hệ tình dục với bạn tình chiếm tỷ lệ 59,5%, thỉnh thoảng là 35,0% và không bao giờ sử dụng bao cao su là 5,5%.

Nam mắc hội chứng tiết dịch niệu đạo có nhiễm HIV, có sự khác biệt, có ý nghĩa thống kê với P<0,05.

136

Page 11: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

SUMMARYThe study used cross-sectional research method on 200 STI male patient coming to STI clinic- Thua

Thien Hue Center for Control and Prevention of Social Disease and Department of dermatology- Hue central hospital in 2012. The result shows current HIV prevalence is 2.0%; 70% patients did not use condom during their most recent sex. 59.9% use condom consistently. 35.0% often use condom and 5.5% never use it.

Male who get urethral discharge syndrome are likely to infect with HIV (p<0,05).

ĐẶT VẤN ĐỀTrong những năm gần đây, khi đại dịch HIV/AIDS lan tràn khắp thế giới, việc phòng, chống các nhiễm

khuẩn lây truyền qua đường tình dục lại càng trở nên cấp bách hơn vì giữa nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục và HIV/AIDS có mối liên hệ mật thiết với nhau, nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục thì có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng như vô sinh, mù loà,... ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế, văn hoá, xã hội. Thành phố Huế - thành phố Festival, thành phố du lịch, trong những năm gần đây xuất hiện nhiều cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí có những hoạt động mại dâm trá hình, giải pháp can thiệp theo Quyết định số 4321/QĐ-BYT, ngày 16/11/2011 về việc ban hành Quy chế phối hợp hoạt động phòng, chống các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục và phòng, chống HIV/AIDS của Bộ Trưởng Bộ Y tế; chúng tôi tiến hành “Đánh giá hành vi nguy cơ nhiễm HIV ở nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục tại thành phố Huế, năm 2012”, với mục tiêu:

1. Xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục tại thành phố Huế năm 2012.

2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến nguy cơ lây nhiễm HIV nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục tại thành phố Huế.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUBệnh nhân nam từ 16 tuổi trở lên, có hành vi dân sự, mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình

dục trên địa bàn thành phố Huế đến khám chữa bệnh tại khoa Da liễu - Bệnh viện Trung ương Huế và phòng khám STI - Trung tâm phòng, chống bệnh xã hội tỉnh Thừa Thiên Huế từ ngày 01/6/2012 đến 30/9/2012.

Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:

2

22/1

d)p1.(p.n a

Z =1,96; p = 4%; d = 0,03. Tính n = 164. Chọn n = 200 bệnh nhân nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục. Số liệu nghiên cứu

được xử lý theo phần mềm thống kê EPI INFO 6.04. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN1. Tỷ lệ hiện nhiễm HIVBảng 1. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nam STIs

Hiện nhiễm HIV Số lượng Tỷ lệ (%) Khoảng tin cậy 95%Hiện nhiễm 4 2,0 0,55-5,04

Chưa hiện nhiễm 196 98,0 94,96-99,45Tổng cộng 200 100

Tỷ Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nam STIs là 2,0%; khác với nghiên cứu Benzaken A, Sabido M và cộng sự (2012), “HIV lây truyền qua đường tình dục tại các vùng biên giới: phân tích tình huống về sức khỏe tình dục ở Amazon của Brazil”, 285 người đàn ông có tỷ lệ mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục là Neisseria gonorrhoeae (1,1%), giang mai (3,2%), herpes simplex virus type-2 (51,1%), vi rút viêm gan B (7,5%), virus viêm gan C (0,7%) và HIV là 1,4% [3].

Wang QQ, Chen XS và cộng sự (2011), “HIV / STD mô hình và các yếu tố nguy cơ liên quan của nó trong số những người tham gia phòng khám nam STD tại Trung Quốc: một tiêu điểm cho sự can thiệp HIV”, trong 2951 người đàn ông đã đồng ý tham gia thử nghiệm HIV và giang mai có tỷ lệ nhiễm HIV là 0,7%; giang mai (10,7%) N. Gonorrhoeae (4,3%) C. Trachomatis (6,9%) [8].

2. Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ lây nhiễm HIV ở nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục

Theo nhóm tuổi:Bảng 2. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi N Số HIV/AIDS (+) Tỷ lệ % P<25 49 1 2,0

P>0,0525- 29 37 2 5,4>=30 114 1 0,9

Tổng cộng 200 4 2,0Tỷ lệ hiện nhiễm HIV theo nhóm tuổi không có sự khác biệt với P>0,05. Nghiên cứu chúng tôi khác

Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các yếu tố liên quan đến HIV huyết thanh dương tính ở trẻ, những người đàn ông nông thôn Nam Phi”, tổng số 1.277 nam giới, độ tuổi từ 15-26, ở 70

137

Page 12: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

làng nông thôn tỉnh Eastern Cape, Nam Phi có 2% những người đàn ông bị nhiễm HIV, cho thấy HIV dương tính có liên quan đến tuổi (OR 1,55, KTC 95%: 1,22-1,95) [6].

Theo tuổi QHTD lần đầu tiên:Bảng 3. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV theo tuổi QHTD lần đầu tiên

Tuổi QHTD lần đầu tiên N Số HIV/AIDS (+) Tỷ lệ % P<20 66 2 3,0

P>0,0520-24 95 1 1,0>=25 39 1 2,6

Tổng cộng 200 4 2,0Tỷ lệ hiện nhiễm HIV theo tuổi QHTD lần đầu tiên không có sự khác biệt với P>0,05. Nghiên cứu chúng

tôi khác Bo Wang, Xiaoming Li, Bonita Stanton (2007) “Khác biệt giới tính trong nhận thức liên quan đến HIV, các hành vi rủi ro tình dục, và lịch sử các bệnh lây truyền qua đường tình dục trong số những người di cư Trung Quốc đến phòng khám", khi nghiên cứu 537 nam giới báo cáo rằng QHTD lần đầu tiên xảy ra khi họ còn trẻ hơn 18 tuổi (P = 0,0007) [4].

Theo CDC (2009) khi nghiên cứu “Xét nghiệm HIV trong số học sinh phổ thông - Hoa Kỳ, 2007”; 14.103 học sinh từ 157 trường, trong số các sinh viên đã từng có quan hệ tình dục, tỷ lệ xét nghiệm HIV giảm theo độ tuổi quan hệ tình dục đầu tiên, từ 30,7% trong số sinh viên là người đầu tiên có quan hệ tình dục trước 13 tuổi đến 12,6% trong số học sinh là người đầu tiên có quan hệ tình dục ở tuổi 17 năm hoặc lớn hơn (P <0.001) [5].

Theo báo cáo công tác phòng, chống HIV/AIDS của Bộ Y tế, đường lây truyền qua đường sinh dục trong 6 tháng đầu năm 2012 chiếm tỷ lệ cao nhất là 45%, tăng 3% so với cùng kỳ năm 2011. Đây là lần đầu tiên các trường hợp nhiễm HIV mới phát hiện lây qua đường tình dục, nhiều hơn lây qua đường máu. Cảnh báo này sẽ là có thể trở thành yếu tố chính làm lây truyền HIV ở Việt Nam trong những năm tiếp theo và khả năng khống chế lây nhiễm HIV qua đường tình dục sẽ khó khăn hơn nhiều lần so với việc khống chế lây nhiễm HIVqua đường tiêm chích ma túy. Mặt khác, PGS.TS Nguyễn Thanh Long, Thứ trưởng Bộ Y tế đã khuyến nghị, trong công tác phòng, chống HIV/AIDS hiện nay cần tiếp tục đẩy mạnh các biện pháp can thiệp dự phòng lay truyền HIV qua đường tình dục ở những nhóm người có hành vi nguy cơ cao sang nhóm người có nguy cơ thấp và cộng đồng. Do đó, nghiên cứu nam STI nhiễm HIV theo QHTD lần đầu tiên cũng cần được can thiệp và phòng, chống lây nhiễm HIV qua QHTD lần đầu tiên ở các nhóm tuổi trẻ [1].

Theo mắc hội chứng tiết dịch niệu đạoBảng 4. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV theo mắc hội chứng tiết dịch niệu đạo

Hội chứng tiết dịch niệu đạo N Số HIV/AIDS (+) Tỷ lệ % PCó 84 4 4,8 P<0,05Không 116 0 0

Tổng cộng 200 4 2,0Nam mắc hội chứng tiết dịch niệu đạo có nhiễm HIV, có sự khác biệt, có ý nghĩa thống kê với P<0,05. Nghiên cứu chúng tôi khác với Chen L, Jha P, Stirling B và cộng sự (2007), nghiên cứu “Yếu tố nguy cơ

tình dục nhiễm HIV sớm và nâng cao các bệnh dịch HIV ở châu Phi cận Sahara”, cho thấy 31% nam giới nhiễm HIV có trả tiền cho quan hệ tình dục so với 18% của nam giới không bị nhiễm bệnh với OR = 1,75 (KTC 95%: 1,30-2,36). Lây nhiễm herpes sinh dục týp 2 mang nguy cơ lớn nhất nhiễm HIV ở nam giới với OR = 6,97 (KTC 95%: 4,68-10,38) [7].

Nhiễm trùng lây qua đường tình dục (NTLQĐTD) không loét, nguy cơ lây nhiễm HIV từ 2-5 lần, có loét từ 3-11 lần, tuy nhiên tỷ lệ bệnh nhân mắc NTLQĐTD không loét (như hội chứng tiết dịch niệu đạo) lại thường gặp hơn có loét. Có một số bệnh lây truyền qua đường tình dục chỉ cho thấy dấu hiệu của bệnh sau khi đã nhiễm bệnh được hàng tháng hoặc thậm trí hàng năm, như bệnh do Chlamydia tới 70% trường hợp không có triệu trứng hoặc người nhiễm vi rút viêm gan B, C hoặc nhiễm vi rút HIV, thường không thấy bất kỳ dấu hiệu gì của bệnh này trong nhiều năm sau khi bị lây nhiễm. Do đó, nhiều người trong số này không đi khám, không chữa bệnh vì bệnh nhân không có triệu chứng, người bệnh thiếu kiến thức nên đã không tìm đến các cơ sở y tế để khám và điều trị đúng, kịp thời dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng [2].

Chỉ có đi khám, đi tư vấn và làm xét nghiệm HIV mới biết được mình có bị nhiễm bệnh hay không mà thôi!

KẾT LUẬNNghiên cứu đề tài “Đánh giá hành vi nguy cơ nhiễm HIV ở nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua

đường tình dục tại thành phố Huế, năm 2012”, chúng tôi nhận thấy:Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở nam STIs là 2,0%, Một số yếu tố liên quan đến nguy cơ lây nhiễm HIV ở nam mắc các nhiễm khuẩn lây truyền qua đường

tình dục Theo tuổi QHTD lần đầu tiên dưới 20 tuổi là 3,0%; từ 25 tuổi trở lên là 2,6% và từ 20-24 tuổi là 1,0%;

P>0,05.Theo nhóm tuổi dưới 25 tuổi là 2,0%; 25-29 là 5,40% và từ 30 tuổi trở lên là 0,9%; P>0,05.Theo mắc hội chứng tiết dịch niệu đạo là 4,8% cao hơn không mắc hội chứng tiết dịch niệu đạo là 0%, có

sự khác biệt, có ý nghĩa thống kê với P<0,05.

138

Page 13: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KIẾN NGHỊ1. Tuyên truyền vận động sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục và khám sức khoẻ định kỳ cho phụ

nữ bán dâm và khách làng chơi.2. Vận động các chủ cơ sở vui chơi giải trí tham gia chương trình 100% BCS đảm bảo độ phủ của BCS “

mọi lúc, mọi nơi”. TÀI LIỆU THAM KHẢO1. AIDS và cộng đồng (2012), số 09 (169) 2012 năm thứ 14, tr. 28-29.2. Trường Đại học Y Hải Phòng (2010), “Virus gây suy giảm miễn dịch ở người”, Bài giảng HIV/AIDS, ma

tuý và rượu, NXB Y học, tr.9-14, 128.3. Benzaken A, Sabidó M, Galban E, Rodrigues Dutra DL, Leturiondo AL, Mayaud P (2012), “HIV and

sexually transmitted infections at the borderlands: situational analysis of sexual health in the Brazilian Amazon”, Sex Transm Infect. 2012 Feb 7, Fundação Alfredo da Matta, Manaus, Amazonas, Brazil.2012 Jun;88(4):294-300. Epub 2012 Feb 7.

4. Bo Wang, Xiaoming Li, Bonita Stanton, Xiaoyi Fang, Guojun Liang, Hui Liu, Danhua Lin and Hongmei Yang (2007), “Gender Differences in HIV-Related Perceptions, Sexual Risk Behaviors, and History of Sexually Transmitted Diseases Among Chinese Migrants Visiting Public Sexually Transmitted Disease Clinics”, AIDS Patient Care STDS. 2007 January; 21(1): 57–68. doi: 10.1089/apc.2007.06-0031.

5. CDC (2009), “HIV Testing Among High School Students --- United States, 2007”; MMWR 2009, June 26, 2009/58(24); 665-668.

6. Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J, Jama N, Khuzwayo N, Koss M, Puren A, Duvvury N (2006), “Factors associated with HIV sero-positivity in young, rural South African men”, Int J Epidemiol. 2006 Dec;35(6):1455-60. Epub 2006 Oct 9.

7. Chen L, Jha P, Stirling B, Sgaier SK, Daid T, et al. (2007), “Sexual Risk Factors for HIV Infection in Early and Advanced HIV Epidemics in Sub-Saharan Africa: Systematic Overview of 68 Epidemiological Studies”, PLoS ONE 2(10): e1001. doi:10.1371/journal.pone.0001001

8. Wang QQ, Chen XS, Yin YP, Liang GJ, Jiang N, Dai T, Huan XP, Yang B, Liu Q, Zhou YJ, Wang BX (2011), “HIV/STD pattern and its associated risk factors among male STD clinic attendees in China: a foci for HIV intervention”, BMC Public Health. 2011 Dec 26;11:955.

CẢI THIỆN QUY TRÌNH GIÚP TĂNG TỶ LỆ PHỤ NỮ MANG THAI SỬ DỤNG SỚM DỊCH VỤ TƯ VẤN – XÉT NGHIỆM HIV TỰ NGHUYỆN

TẠI TRUNG TÂM CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN TỈNH ĐỒNG THÁP NĂM 2012-2013

Trần Thị Ngọc Anh1, Phạm Thị Thùy Linh2, Nguyễn Thị Út1, Trần Thị Ánh Nguyệt1

1Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản tỉnh Đồng Tháp2Trường Đại học Y tế Công cộng

TÓM TẮTĐồng Tháp là một trong 15 tỉnh có số trường hợp nhiễm cao nhất cả nước với hình thái lây nhiễm chủ yếu

qua đường tình dục. Vì thế, số trường hợp nhiễm HIV ở phụ nữ mang thai (PNMT) trong tỉnh ngày càng xuất hiện nhiều. Tuy nhiên, tỷ lệ PNMT đồng ý xét nghiệm HIV trong toàn tỉnh năm 2011 chưa cao, chỉ đạt 38,7% và giảm 27,61% so cùng kỳ năm 2010. Tại phòng khám của Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) tỉnh, là nơi chuyên cung cấp dịch vụ chăm sóc tiền sản, khám thai, KHHGĐ, chỉ có khoảng 61,70% PNMT sử dụng dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện (so chỉ với tiêu là 70%). Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm CSSKSS Đồng Tháp đã quyết định áp dụng các công cụ Cải thiện chất lượng (QI) để can thiệp làm tăng tỷ lệ tư vấn, xét nghiệm HIV cho PNMT đến chăm sóc tiền sản tại Trung tâm. Phòng khám đã áp dụng các công cụ bao gồm vẽ sơ đồ diễn tiến của quy trình, vẽ khung xương cá để phân tích các nguyên nhân dẫn tới vấn đề và từ đó đưa ra các giải pháp và hoạt động cải thiện. Phòng khám đồng thời thu thập số liệu đo lường liên tục 3 chỉ số chất lượng tại phòng khám, bao gồm Tỷ lệ PNMT được tư vấn sớm, Tỷ lệ PNMT được XNHIV sớm, và Tỷ lệ PNMT XNHIV(+) để đánh giá trước và sau can thiệp cải thiện chất lượng. Kết quả sau 12 tháng thực hiện cải thiện, tỷ lệ PNMT được tư vấn sớm tăng từ 79,6% lên 85,1%; tỷ lệ PNMT được XNHIV sớm tăng từ 61,7% lên 74,6% (vượt chỉ tiêu đề ra). Phòng khám tiếp tục duy trì các hoạt động cải thiện, đến tháng 7 năm 2013 đã đạt 90,5% PNMT được XNHIV sớm. Rõ ràng áp dụng cải thiện quy trình đã góp phần tăng cường chất lượng dịch vụ và nâng cao số lượng PNMT được hưởng lợi từ XNHIV sớm tại Đồng Tháp. Trong tương lai, phòng khám sẽ áp dụng mở rộng cải thiện quy trình cho các hoạt động khác nhằm tăng cường chất lượng và hiệu quả của công tác tư vấn, xét nghiệm HIV cho PNMT và dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con.

139

Page 14: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

SUMMARYDong Thap is one of 15 provinces with highest number of infected cases through sexual transmission.

Therefore, the number of HIV positive cases among pregnant women is increasing in the province. However, not many pregnant women took the HIV test in Dong Thap 2011, only 38.7% and decrease 27.61% by the same quarter in 2010. In provincal center for reproductive health care (CRHC), which provide prenatal care, antenatal care services, family planning, there are only 61.70% pregnant women took the voluntary HIV test (compare to 70% goal). To improve the quality of HIV/AIDS prevention and control activities, Dong Thap CRHC applied quality improvement tool (QI) in order to increase the number of HIV counseling and testing for pregnant women at the center. The clinic used tools like process mapping, fishbone diagram to analyze the causes and bring solutions or improvements. The clinic also constantly collect 3 quality indexes, they are the prevalence of pregnant women taking early counsel, prevalence of women taking HIV test early and the prevalence of pregnant women have positive HIV result in order to assess after and before intervention to improve quality. After 12 months of improving, the prevalence of women get early counsel rise from 79.6% to 85.1%; prevalence of pregnant women taking earlyHIV test increases from 61.7% to 74.6% (pass the predetermined target). The clini continue improvement activities, by 7/2013 there are 90.5% pregnant women took early HIV test. These procedure improvements had clearly improved the service quality and increased the number of pregnant women benefit from early HIV test in Dong Thap. In the future, the clinic will continue to improve the procedures for other activities in order to improve the quality and effectiveness of counseling, HIV testing for pregnant women and HIV prevention for mother and child.

ĐẶT VẤN ĐỀĐồng Tháp là một tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long, có tổng diện tích 3238,7km2. Tỉnh có

dân số tính đến 12/2012 là 1.763.837 người, với mật độ trung bình 484 người/km2. Bao quanh Đồng Tháp là các tỉnh có tình hình buôn bán, sử dụng ma túy và mại dâm phức tạp như An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An. Đặc biệt, phía Bắc tỉnh có đường biên giới với dài 48km tiếp giáp Campuchia, thuận lợi cho việc lưu thông buôn bán ma túy và di trú của gái mại dâm tràn về Đồng Tháp.

Từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tháng 12 năm 1992, đến ngày 30/04/2013 (sau 21 năm), tổng số nhiễm HIV được phát hiện ở Đồng Tháp đã tăng lên 5.710 người. Trong đó, số người chuyển sang AIDS là 2.353, và tử vong là 1007. Số nhiễm HIV được phát hiện mới trung bình khoảng 36 trường hợp/tháng. Đồng Tháp là một trong 15 tỉnh có số trường hợp nhiễm cao nhất cả nước. Tình hình lây nhiễm HIV ở Đồng Tháp có nét đặc thù của hình thái lây nhiễm HIV ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long là lây truyền qua đường tình dục, với tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ mại dâm của khu vực này năm 2011 theo giám sát trọng điểm là 2,38%.

Dù chương trình phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai mạnh mẽ ở tỉnh Đồng Tháp với nhiều hoạt động cụ thể, tỷ lệ nhiễm HIV trong tỉnh vẫn tiếp tục tăng. Những người chưa biết tình trạng nhiễm của mình thì không nhận thức được sự cần thiết duy trì hành vi lành mạnh để tránh lây nhiễm. Trong khi đó, những người đã nhiễm HIV lại không sử dụng triệt để các biện pháp phòng lây nhiễm cho con cái họ, người thân và những người khác trong cộng đồng, hoặc không sử dụng triệt để các dịch vụ hỗ trợ chăm sóc và điều trị. Điều này khiến cho nhiễm HIV ngày càng xuất hiện nhiều ở đối tượng phụ nữ mang thai (PNMT).

Tổng số PNMT đồng ý xét nghiệm HIV (XNHIV) trong toàn tỉnh năm 2011 chưa cao, chỉ có 11.550 PNMT được XNHIV (chiếm 38,7% số PNMT trong năm, giảm 27,61% so cùng kỳ năm 2010), trong đó có 38 PNMT có kết quả XNHIV(+) (chiếm 0,3% tổng số người làm xét nghiệm). Năm 2011, tại phòng khám của Trung tâm Chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) tỉnh chỉ có khoảng 61,70% PNMT sử dụng dịch vụ XNHIV tự nguyện. Nhằm nâng cao chất lượng hoạt động phòng chống HIV/AIDS, Trung tâm CSSKSS Đồng Tháp đã quyết định áp dụng các công cụ Cải thiện chất lượng (QI) để can thiệp làm tăng tỷ lệ tư vấn, xét nghiệm HIV cho PNMT đến chăm sóc tiền sản tại Trung tâm.

MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP CAN THIỆPMục tiêu cải thiện:Tăng tỷ lệ phụ nữ mang thai sử dụng sớm dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện tại Trung tâm Chăm sóc

Sức khỏe Sinh sản tỉnh Đồng Tháp từ 61,70% (1.736/2.814) vào năm 2011 lên 70% vào năm 2012.Phương pháp cải thiện:Để đạt được mục tiêu cải thiện chất lượng đề ra, các cán bộ của phòng khám của Trung tâm đã xây

dựng sơ đồ diễn tiến nhằm mô tả các hoạt động đang được thực hiện liên quan tới việc tư vấn và xét nghiệm cho PNMT tại Trung tâm, từ đó xem xét những khía cạnh có thể cải thiện trong các hoạt động này.

140

Page 15: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Hình 1. Sơ đồ diễn tiến quy trình tư vấn xét nghiệm cho PNMT đến khám tiền sản

Dựa vào sơ đồ diễn tiến, phòng khám xây dựng 3 chỉ số chính nhằm đo lường hiệu quả của quy trình này và hướng tới mục tiêu cải thiện chất lượng. Các chỉ số bao gồm:

Tỷ lệ PNMT được tư vấn sớm = Số PNMT được tư vấn về XNHIVTổng số PNMT lần đầu đến khám tiền sản

Tỷ lệ PNMT được XNHIV sớm = Số PNMT được XNHIVTổng số PNMT lần đầu đến khám tiền sản

Tỷ lệ PNMT XNHIV(+) = Số XNHIV(+)Tổng số PNMT được XNHIV

Dựa trên các chỉ số được đặt ra, phòng khám thu thập số liệu theo dõi các hoạt động trong 12 tháng của năm 2011, tính toán cho 2 chỉ số đầu tiên theo thời gian và xem xét mức độ hoàn thành cả 3 chỉ số tại thời điểm cuối năm.

Hình 2. Biểu đồ thể hiện kết quả thực hiện quy trình tư vấn XNHIV của phòng khám năm 2011

Như vậy, phòng khám nhận thấy tỷ lệ PNMT được tư vấn về XNHIV trong lần khám tiền sản đầu tiên tương đối tốt, trung bình đạt 78,9%, và đạt mức cao hơn trong những tháng cuối năm 2011. Tuy nhiên, tỷ lệ PNMT chấp nhận và làm XNHIV còn chưa cao, chỉ đạt trung bình 61,7%. Trong khi chỉ tiêu Sở y tế giao cho Trung tâm phải đạt 70% năm 2011. Tỷ lệ kết quả XNHIV(+) trong số PNMT ở Trung tâm năm 2011 là 0,23%.

Phòng khám tiếp tục phân tích các nguyên nhân dẫn tới tình trạng này, sử dụng sơ đồ khung xương cá nhằm tìm ra nguyên nhân gốc rễ để can thiệp.

141

Page 16: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Hình 3. Sơ đồ khung xương cá phân tích nguyên nhân của vấn đề cần cải thiện

Từ phân tích trên, phòng khám nhận thấy các nguyên nhân khiến chỉ số 2 của mình không đạt như mong đợi là do mảng truyền thông về lợi ích của XNHIV cho PNMT còn chưa hiệu quả, khiến PNMT không nhận thức được sự cần thiết của dịch vụ này. Mặt khác, tại khu vực phòng khám còn thiếu biển chỉ dẫn và nhân viên tiếp đón hướng dẫn về việc tiếp cận phòng tư vấn XNHIV. Cuối cùng, do cán bộ phòng khám còn kiêm nhiệm nên thực sự chưa dành thời gian và kỹ năng tư vấn chưa đủ hiệu quả để PNMT đồng ý làm XNHIV. Để giải quyết những nguyên nhân này, phòng khám đã xây dựng kế hoạch tăng cường công tác truyền thông tại phòng khám, tập huấn nâng cao kỹ năng tư vấn cho cán bộ y tế để tăng cường hoạt động tư vấn XNHIV, bố trí bảng hướng dẫn và nhân viên tiếp đón chỉ đường tới phòng tư vấn XNHIV và xin thêm xét nghiệm hỗ trợ miễn phí cho PNMT.

KẾT QUẢ CAN THIỆP CẢI THIỆN CHẤT LƯỢNGSau một năm phòng khám đã thực hiện các hoạt động cải thiện chất lượng, với một số kết quả hoạt động

bao gồm:02 cán bộ y tế đã được tập huấn nâng cao kỹ năng tư vấn.Lịch tư vấn đã được chủ động sắp xếp trong giao ban hàng tuần, đảm bảo luôn có một tư vấn tại mỗi

phòng tư vấn và phòng khám tiền sản.Bố trí được sơ đồ hướng dẫn PNMT tới phòng tư vấn.Tăng cường được 2.300 xét nghiệm HIV miễn phí.Tổ chức được 12 buổi sinh hoạt nhóm lồng ghép tư vấn XNHIV với chương trình dinh dưỡng cho PNMTThực hiện được 12 buổi giám sát hỗ trợ tư vấn các trường hợp khó.Song song với những hoạt động cải thiện này, phòng khám duy trì việc thu thập số liệu đo lường các chỉ

số chất lượng.

Hình 4. Biểu đồ thể hiện kết quả thực hiện quy trình tư vấn XNHIV của phòng khám năm 2012 và 7 tháng đầu năm 2013

142

Page 17: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Sau 12 tháng can thiệp (từ 01/2012 đến 12/2012), tỷ lệ PNMT sử dụng sớm dịch vụ xét nghiệm HIV tự nguyện tại Trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản tỉnh Đồng Tháp đã đạt 74,6%, vượt mức mục tiêu đề ra (Hình 4).

BÀN LUẬNSau khi đánh giá kết quả can thiệp cải thiện chất lượng hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện tại

phòng khám tiền sản của Trung tâm CSSKSS, phòng khám nhận thấy các hoạt động cải thiện đã góp phần giúp cho quy trình tư vấn XNHIV được thực hiện tốt hơn. Những hoạt động có hiệu quả mà nhóm đã đưa vào chuẩn hóa bao gồm:

Duy trì sơ đồ hướng dẫn PNMT tới phòng tư vấn XNHIV.Tiếp tục bố trí nhân viên tiếp đón hướng dẫn PNMT đến phòng tư vấn.Duy trì hỗ trợ xét nghiệm HIV miễn phí.Tăng cường tư vấn về lợi ích của xét nghiệm HIV và phát tờ rơi thường xuyên.Xếp lịch và phân công cán bộ cụ thể để tư vấn cho PNMT.Duy trì lồng ghép truyền thông tư vấn xét nghiệm HIV với truyền thông về dinh dưỡng cho PNMT.Duy trì giám sát hỗ trợ tư vấn các trường hợp khó.Có thể thấy, tình hình PNMT tiếp cận và sử dụng dịch vụ tư vấn XNHIV phụ thuộc rất lớn vào khâu tư

vấn. Nếu cán bộ không được tập huấn để có kỹ năng tư vấn HIV thì sẽ rất khó khăn cho việc thực hiện quy trình này. Mặt khác, nếu khâu tư vấn đã được cải thiện nhưng cán bộ khám thai không hướng dẫn khách hàng đến phòng tư vấn, thì cũng không thể tăng tỷ lệ PNMT tiếp cận dịch vụ. Cho đến tháng 7 năm 2013, hiệu quả từ việc duy trì các hoạt động cải thiện được thể hiện rõ bởi tỷ lệ PNMT được tư vấn và XNHIV tăng vượt bậc so với mục tiêu cải thiện ban đầu đề ra, lần lượt đạt 96,7% và 90,5% (Hình 4).

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊÁp dụng các công cụ cải thiện chất lượng có thể giúp cải thiện các quy trình làm việc ở nhiều lĩnh vực

khác nhau, mang lại hiệu quả cao mà không đòi hỏi chi phí nhiều, có thể dựa vào ngân sách sẵn có. Phòng khám tiền sản của Trung tâm CSSKSS tỉnh Đồng Tháp đã áp dụng các công cụ này, xây dựng và triển khai những hoạt động cải thiện chất lượng giúp tăng tỷ lệ PNMT tiếp cận và sử dụng dịch vụ XNHIV sớm, nhằm góp phần tăng cường công tác phòng tránh lây truyền HIV từ mẹ sang con. Kết quả sau 12 tháng thực hiện cải thiện, tỷ lệ PNMT được tư vấn sớm tăng từ 79,6% lên 85,1%; tỷ lệ PNMT được XNHIV sớm tăng từ 61,7% lên 74,6% (vượt chỉ tiêu đề ra). Phòng khám sẽ tiếp tục duy trì nhóm cải thiện chất lượng, đồng thời khuyến nghị:

Tiếp tục áp dụng cải thiện chất lượng nhằm tăng tỷ lệ PNMT quay trở lại nhận kết quả xét nghiệmTiếp tục áp dụng cải thiện chất lượng nhằm tăng tỷ lệ PNMT có kết quả HIV(+) đến nhận thuốc điều trị

dự phòng lây truyền cho conTiếp tục gửi cán bộ tập huấn về tư vấn xét nghiệm HIV ở tuyến trênTăng cường kinh phí cho hoạt động truyền thông tư vấn bằng hình ảnh (phòng chờ được trang bị máy

chiếu, tờ rơi về lợi ích của XNHIV cho PNMT)TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế, Cục phòng chống HIV/AIDS (2012), Báo cáo giám sát trọng điểm năm 2011), Hà Nội 2012.2. Nguyễn Ngọc Quý (2011), Cải thiện quy trình khách hàng trở lại nhận kết quả xét nghiệm HIV tại các

phòng VCT của Đồng Tháp. Báo cáo kết quả cải thiện chất lượng, Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Đồng Tháp, 2011.

3. Trung Tâm Chăm sóc Sức khỏe sinh sản tỉnh Đồng tháp (2011), Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2011, Đồng Tháp 2011.

4. Trung Tâm Chăm sóc Sức khỏe sinh sản tỉnh Đồng tháp (2012), Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2012, Đồng Tháp 2012.

5. Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Đồng Tháp (2012), Báo cáo kết quả hoạt động phòng chống HIV/AIDS năm 2011, Đồng Tháp 2011.

6. Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Đồng Tháp (2012), Báo cáo kết quả hoạt động phòng chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2012, Đồng Tháp 2012.

7. Trường Đại học Y tế Công cộng (2007), Áp dụng quản lý chất lượng toàn diện trong phòng chống HIV/AIDS, Nhà xuất bản Y học 2007.

8. Trường Đại học Y tế Công cộng (2010), Giám sát, hỗ trợ nhân viên thực hiện công việc hiệu quả trong Chương trình Phòng chống HIV/AIDS (tài liệu dành cho học viên), Hà Nội 2010.

143

Page 18: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KHẢO SÁT HÀNH VI NGUY CƠ LÂY NHIỄM HIV TRÊN CÁC ĐỐI TƯỢNG NAM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY,

PHỤ NỮ BÁN DÂM, NAM QUAN HỆ TÌNH DỤC ĐỒNG GIỚI TẠI KHÁNH HÒA NĂM 2012

Trần Thị Kim Dung, Trần Văn Tin, Nguyễn Thị Ngọc Loan, Nguyễn Thị Thảo Ly

TÓM TẮTMục tiêu: Xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở các quần thể: Nam nghiện chích ma túy(NCMT); Phụ nữ bán

dâm (PNBD); Nam quan hệ tình dục đồng giới(MSM) tại Khánh Hòa năm 2012;Mô tả các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV ở nam NCMT; PNBD; MSM và đo lường độ bao phủ các

chương trình dự phòng, chăm sóc và điều trị.Địa điểm và thời gian: Từ tháng 5/2012 đến tháng 12/2012 tại Khánh Hòa.Cỡ mẫu: 700 gồm: 200 mẫu nam NCMT, 200 mẫu PNBD và 300 mẫu MSM.Phương pháp: Điều tra cắt ngang, phân tích mô tả. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm HIV ở các nhóm như sau: NCMT: 6,5%(13/200), PNBD: 2%, MSM: 1,3%.Tỷ lệ PNBD đã từng TCMT là 2%.Tỷ lệ PNBD nhiễm HIV có TCMT là 50%, tỷ lệ MSM đã từng TCMT là

4,7%, tỷ lệ MSM nhiễm HIV có TCMT là 0%.38,5% Nam NCMT tiêm chích ma túy lần đầu tiên dưới 20 tuổi, trung bình số lần TCMT trong 1 tháng là 24

lần, tỷ lệ dùng chung BKT trong tháng là 32%, tỷ lệ có QHTD với gái mại dâm trong 12 tháng qua là 25,5%.Số lần bán dâm trung bình trong tháng của PNBD là 38; 86,5% có sử dụng BCS trong lần QHTD gần

nhất, tỷ lệ dùng BCS thường xuyên với khách trong 1 tháng qua là 42%, với khách quen là 54,5%.Tỷ lệ MSM bán dâm trong 12 tháng là 31%, tỷ lệ thường xuyên sử dụng BCS với bạn tình nam trong vòng

1 tháng là 55,9%.Tỷ lệ biết nơi TVXNTN đối với các nhóm TCMT, PNBD, MSM lần lượt là: 81,5%; 86%; 61.0%.Tỷ lệ người nhiễm HIV được điều trị ARV là 33.3%, trong đó nhóm TCMT là 46,2%, nhóm PNBD là 25%,

nhóm MSM là 0%.Khuyến nghị: Tiếp tục triển khai chương trình can thiệp giảm tác hại, phát BKT, BCS cho các nhóm có

nguy cơ nhiễm HIV cao: NCMT, PNBD và đặc biệt là nhóm MSMTruyền thông quảng bá rông rãi các dịch vụ dự phòng, tư vấn xét nghiệm tự nguyện, chăm sóc điều trị

HIV/AIDS… để thu hút những người có hành vi nguy cơ cao và người nhiễm HIV/AIDS được sớm tiếp cận các dịch vụ phù hợp.

SUMMARYObjective: To determine the HIV prevalence in the following populations: men who are injecting drug

users (IDUs), female prestitutes; men who have sex with men (MSM) in Khanh Hoa 2012. To describe HIV transmission risk among IDUs, female prestitutes, MSMs and to measure the coverage

of prevention, care and treatment programs.Location and time: From 5/2012 to 12/2012 in Khanh Hoa.Sample size: 700 subjects including: 200 IDUs, 200 female prostitues và 300 MSMs.Methodology: Cross-sectional study, descriptive analysis. Result: HIV prevalence in the mentioned groups: IDU: 6.5% (13/200), female prostitutes: 2%, MSM:

1.3% Prevalence of prostitutes who inject drugs is 2%. HIV prevalence of female prostitutes who inject drugs is

50%; 4.7% MSM have history of drug injection, HIV prevalence of MSM who inject drugs is 0%.38.5% IDUs had their first drug injection under 20 years old, average number of monthly drug injections is

24 times, prevalence of monthly needle and syringe shares is 32%, prevalence of sex with prostitutes in the last 12 months is 25.5%

Average time of monthly sex transaction is 38; 86.5% used condom in their most recent sex, prevalence of condom usage with clients in one month is 42%, 54.5% with regular clients.

Prevalence of MSM selling sex in the last 12 months is 31%, prevalence of condom usage during sex with male partners in one month is 55.9%.

Prevalence of Knowing HIV voluntary conseling and testing location among IDUs, female prostitutes and MSMs are: 81.5%; 86%; 61% respectively.

Prevalence of HIV patients taking ARV treatment is 33.3%, 46.2% among IDUs, 25% in female prostitues, 0% in MSM.

Recommendation: Continue deploying harm reduction programs, give needles, syringes, condom for HIV high risk group: IDUs, prostitutes and MSMs esprcially.

Promote widely the prevention services, voluntary testing, HIV/AIDS treatment… in order to attract people with high risk or infected with HIV/AIDS to access proper services.

144

Page 19: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

ĐẶT VẤN ĐỀDịch HIV/AIDS ở Việt Nam bao gồm nhiều hình thái dịch khác nhau trên toàn quốc và vẫn tập trung chủ

yếu ở ba nhóm quần thể có hành vi nguy cơ lây truyền HIV cao: người TCMT, MSM và PNBD. Tính đến 30/06/2012, tổng số ca nhiễm HIV còn sống trên toàn quốc là là 204.019 ca, với 58.569 người chuyển sang giai đoạn AIDS hiện vẫn còn sống và 61.856 ca tử vong liên quan đến AIDS(1).

Hiện nay dịch đang có xu hướng chững lại so với các năm trước đây nhưng chứa đựng các yếu tố nguy cơ lan tràn dịch ở một số tỉnh, thành phố thể hiện qua việc hiểu biết về HIV/AIDS trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao còn thấp, tỷ lệ dùng chung BKT trong nhóm TCMT rất cao từ 22 - 44% trong các lần tiêm chích. Tỷ lệ sử dụng BCS trong nhóm PNMD tuy đã có những cải thiện nhưng vẫn chỉ dừng ở mức từ 50 - 65%; Tỷ lệ bao phủ của các chương trình can thiệp cả về địa bàn và số lượng được can thiệp vẫn còn hạn chế, mức độ hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong các nhóm nguy cơ cao vẫn diễn ra ở các mức độ cho phép khả năng tạo ra lây nhiễm HIV ra cộng đồng(6).

Tại Khánh Hòa trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 04/1993 đến 30/6/2012 toàn tỉnh đã phát hiện 2889 người nhiễm HIV, 1611 đã tiến triển đến giai đoạn AIDS và đã có 1037 người tử vong. Số người nhiễm HIV còn sống hiện quản lý được là 850 người(5).

Cùng với cả nước Dịch HIV/AIDS ở Khánh Hòa cũng có xu hướng chững lại tuy nhiên diễn biến vẫn còn mang tính chất phức tạp. Các đối tượng nguy cơ cao như người TCMT, PNBD và đặc biệt gần đây ở những MSM vẫn có tỷ lệ nhiễm tương đối cao. Qua giám sát trọng điểm năm 2011 tỷ lệ nhiễm ở đối tượng NCMT là 7.67, đối tượng PNBD là 0.67 và đối tượng MSM là 1.0%

Giám sát trọng điểm HIV được thực hiện ở Khánh Hòa 1994, tuy nhiên việc đánh giá các hành vi nguy cơ lây nhiễm của các đối tượng nguy cơ cao trong giám sát trọng điểm vẫn chưa được thực hiện. Để khảo sát các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của các nhóm này Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Khánh Hòa tiến hành nghiên cứu: “ Khảo sát hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trên các đối tượng tiêm chích ma túy, phụ nữ bán dâm, nam quan hệ tình dục đồng giới tại Khánh Hòa năm 2012”.

Mục tiêu:Xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở các quần thể: nam NCMT; PNBD;MSM tại tỉnh Khánh Hòa năm 2012;Mô tả các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV ở nam NCMT; PNBD; MSM và đo lường độ bao phủ các

chương trình dự phòng, chăm sóc và điều trị.Kết quả của nghiên cứu sẽ giúp cho các nhà quản lý có những bằng chứng để từ đó có những biện pháp

can thiệp thích hợp giúp phòng ngừa lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng một cách hiệu quả. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐối tượng và cỡ mẫu nghiên cứu:Thực hiện Thông tư số 09/2012/TT-BYT ngày 24/5/2012 của Bộ Y tế:STT Đối tượng nghiên cứu Cỡ mẫu

1 Nghiện chích ma túy 2002 Phụ nữ mại dâm 2003 Nam quan hệ tình dục đồng giới 300

Tổng cộng 700Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 5-2012 đến tháng 12-2012.Phương pháp nghiên cứu: Điều tra cắt ngang.Phương pháp xử lý thống kê:Nhập và làm sạch số liệu: Sử dụng phần mềm Epidata phiên bản 3.1.Sử dụng phần mềm EPI-INFO 7 để phân tích và quản lý số liệu. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬNĐặc điểm nhân khẩu- xã hội học các quần thể nghiên cứu:

Nhóm tuổi NCMT PNMD MSMn % n % n %

< 20 26 13.0 11 5.5 77 25.720 –<25 43 21.5 41 20.5 96 32.025 – 29 29 14.5 51 25.5 25 8.3>=30 102 51.0 97 48.5 102 34.0

Tổng cộng 200 100 200 100 300 100Tuổi trung bình (biến thiên) 32 (16-54) 31 (18-55) 27 (16-57)

Tình trạng hôn nhânChưa lập gia đình 103 51.5 48 24.0 242 80.7Đang có vợ/chồng 63 31.5 47 23.5 37 12.3

Đã ly dị 24 12.0 81 40.5 17 5.7Đã ly thân 1 0.5 6 3.0 1 0.3

Góa vợ/ chồng 4 2.0 7 3.5 0 0.0Sống chung, không kết hôn 5 2.5 11 5.5 3 1.0

Tổng cộng 200 100 200 100 300 100Ở ba quần thể TCMT, PNBD và MSM nhóm tuổi trên 30 chiếm tỷ lệ cao nhất lần lượt là 51%, 48.5%,

34%, tuổi trung bình của hai quần thể TCMT và PNBD cao hơn so với nhóm MSM (32, 31 và 27).

145

Page 20: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Tỷ lệ chưa lập gia đình cao ở toàn bộ các đối tượng nghiên cứu. Có sự khác biệt về tình trạng hôn nhân ở nhóm nam và nữ, nhóm PNBD tỷ lệ chưa lập gia đình chỉ có 24% trong khi nhóm NCMT và nhóm MSM lần lượt là 51.5% và 80.7% điều này cũng phù hợp với độ tuổi của các đối tượng nghiên cứu.Tỷ lệ ly dị, ly thân rất cao ở nhóm PNBD (43.5%), thấp ở nhóm MSM (6.0%). Tỷ lệ sống chung nhưng không kết hôn cao nhất thuộc về nhóm PNBD (5.5%) còn lại các nhóm NCMT và MSM lần lượt là 2.5% và 1.0%.

Tỷ lệ hiện nhiễm HIV:

Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở quần thể TCMT là 6,5% (13/200) thấp hơn tỷ lệ hiện nhiễm toàn quốc năm 2011 (13,4%); PNBD là 2% (4/200) thấp hơn tỷ lệ hiện nhiễm toàn quốc năm 2011 (2,97%), cao hơn so với các năm 2010 & 2011(2010: 1.5; 2011: 0.7) ở Khánh Hòa, tỷ lệ hiện nhiễm của MSM là 1,3% (4/300) thấp hơn năm 2011 ở TP Hồ Chí Minh(14%), Hà Nội (6,7%), An Giang (3%), nhưng cao hơn năm 2011 của Khánh Hòa (1%).

Hành vi nguy cơ:

TT Hành vi nguy cơ TCMT PNBD MSMn % n % n %

1 Tuổi lần đầu TCMT< 20 77/200 38.5 2/4 50.0 6/14 42.86

20 – 24 61/200 30.5 1/4 25.0 1/14 7.1425 – 29 20/200 10.0 0/4 0.0 7/14 50.0

≥30 42/200 21.0 1/4 25.0 0 0.02 Thời gian TCMT

≤1 năm 13 6.5 0 0.0 1/14 7.14≤ 3 năm 46 23.0 0 0.0 3/14 21.43> 3 năm 141 70.5 4 100.0 10/14 71.43

3 Dùng BKT sạch trong lần TC gần nhất 191 95.5 4/4 100.0 10/14 71.434 Dùng chung BKT trong tháng qua

Tất cả các lần 2 1.0 0 0.0 0 0.0Đa số các lần 7 3.5 0 0.0 0 0.0

Đôi khi 55 27.5 0 0.0 2 33.3Không bao giờ 136 68.0 0 0.0 4 66.7

5 QHTD với GBD trong 12 tháng qua 51 25.56 Dùng BCS trong lần QHTD gần nhất 80 64.5 173 86.5 181 60.337 Dùng BCS khi bán dâm trong tháng qua

Tất cả các lần 109 54.5 19/34 55.9Đa số các lần 55 27.5 2/34 5.9

Đôi khi 19 9.5 10/34 29.4Không bao giờ 17 8.5 3/34 8.8

Tỷ lệ TCMT ở đối tượng PNBD và MSM tương đối thấp (2% và 4,66%), tuổi TCMT ở tất cả các nhóm đều rất trẻ đa số dưới 30 tuổi. Trên 70% các đối tượng đã từng TCMT có thâm niên TCMT trên 3 năm. Tỷ lệ đã từng dùng chung BKT ở nhóm TCMT là 32%, MSM là 33.3%. Tỷ lệ dùng BCS ở tất cả các lần khi bán dâm ở PNBD và MSM là 54,5% và 55,9%, vẫn còn 8,5 % PNBD và 8,8% MSM không bao giờ dung BCS khi bán dâm.

Tiếp cận các dịch vụ:

STT Loại dịch vụ TCMT PNBD MSMn % n % n %

1 Biết nơi TV&XN HIV 163 81.5 172 86.0 143 47.72 XN HIV biết kết quả trong 12 tháng qua 100 50.0 121 60.5 87 29.03 Từng khám STIs trong 3 tháng qua 47 23.5 127 63.5 63 21.04 Nhận BKT sạch trong vòng 6 tháng qua 146 73.0 153 67.5 5 35.75 Nhận BCS miễn phí trong 6 tháng qua 6 3.0 174 87.0 81 27.06 Điều trị ARV 6/13 46.2 1/4 25.0 0/4 0.07 Tham gia điều tra 68 34.0 63 31.5 62 20.7

Tỷ lệ biết nơi tư vấn xét nghiệm HIV cao nhưng tỷ lệ xét nghiệm và biết kết quả xét nghiệm HIV trong 12

146

Page 21: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

tháng qua đều thấp hơn ở tất cà các nhóm. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ1. Kết luậnTỷ lệ nhiễm HIV ở các đối tượng nguy cơ cao trong giám sát trọng điểm tại Khánh Hòa nhìn chung thấp

hơn toàn quốc và cao hơn một số tỉnh miền TrungCác nhóm nguy cơ nhiễm HIV cao ở Khánh Hòa đa số vẫn còn có hành vi lây nhiễm HIV như dủng

chung BKT, không dùng BCS trong tất cả các lần quan hệ tình dục.Đa số các đối tượng nghiên cứu đã được tiếp cận hoặc biết đến các dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV

nhưng hành vi của các nhóm đối tượng này vẫn tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm và cho cộng đồng.

2. Khuyến nghịTiếp tục triển khai chương trình can thiệp giảm tác hại, phát BKT, BCS cho các nhóm có nguy cơ nhiễm

HIV cao: NCMT, PNBD, đặc biệt là nhóm quần thể MSM cần được can thiệp cả bề sâu và bề rộng.Cần truyền thông quảng bá rộng rãi các dịch vụ dự phòng HIV, TVXNTN, chăm sóc điều trị HIV/AIDS…

tại địa phương để thu hút những người có hành vi nguy cơ cao và người nhiễm HIV/AIDS được sớm tiếp cận các dịch vụ phù hợp.

Cần tiếp tục triển khai GSTĐ kết hợp với khảo sát hành vi ở các nhóm có hành vi nguy cơ cao tại Khánh Hòa trong những năm tiếp theo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế-Cục phòng, chống HIV/AIDS (2011), “Báo cáo Tình hình dịch nhiễm HIV toàn quốc năm 2011”.2. Bộ Y tế-Cục phòng, chống HIV/AIDS (2011), “Báo cáo kết quả Thí điểm lồng ghép một số câu hỏi

hành vi vào chương trình giám sát trọng điểm HIV/STI trong các nhóm nguy cơ cao ở Việt Nam năm 2011.3. Dự án Phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam-Ban chỉ đạo dự án tỉnh Khánh Hòa (2012) “Kế hoạch hoạt

động năm 2012”.4. Nguyễn Trần Hiển, (2010) “Tình hình chiều hướng nhiễm HIV/AIDS trên thế giới và Việt Nam”, Báo

cáo tại Hội nghị khoa học toàn quốc về HIV/AIDS lần thứ IV. 5. Sở Y tế Khánh Hòa-Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS (2012) “Báo cáo công tác phòng, chống

HIV/AIDS tỉnh Khánh Hòa đến 31/6/2012”.6. Ủy ban quốc gia phòng chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm(2012) ”Chiến lược quốc

gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030” ngày 25/5/2012.

ĐIỀU TRA HÀNH VI PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS TRONG NHÓM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY TẠI TIỀN GIANG NĂM 2012

Trần Thị Thủy Hà TT. PC HIV/AIDS Tiền Giang

TÓM TẮTNghiên cứu được thực hiện tại tỉnh Tiền Giang trên 200 NCMT tại cộng đồng. Người NCMT có sử dụng

chung BKT chiếm 23,5%, trong số này chỉ 6,4% luôn làm sạch BKT trong khi 78,7% không bao giờ súc rửa BKT.

Trong lần QHTD gần nhất: 37,1% NCMT có sử dụng BCS với vợ, người yêu; 52% sử dụng BCS với GMD và 31,6% sử dụng BCS với bạn tình bất chợt.

Tỷ lệ luôn sử dụng BCS: với vợ, người yêu dưới 30%, với GMD 48,7%, với bạn tình bất chợt 29,4%. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong năm 2012 là 6,5%, tỷ lệ mắc Giang mai là 1,5%, mắc Lậu 3,5% và Chlamydia

là 2%. SUMMARYStudy was conducted on 200 IDUs in Tien Giang province. IDUs who share needles, syringes took up

23.5%, among them only 6.4% always clean needles, syringes while 78.7% never clean it.In the most recent sexual intercourse: 37.1% IDUs used condom with their wife, girl friend; 52% used

condom with prostitutes and 31.6% used condom with sudden partners.100% prevalence of condom usage: 30% with wife, girl friend; 48.7% with prostitutes and 29.4% with

sudden partners. HIV prevalence in 2012 is 6.5%, Syphilis prevalene is 1.5%, 3.5% with Gonorrhea and 2% with

147

Page 22: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Chlamydia.ĐẶT VẤN ĐỀTheo Bộ Y tế, tính đến ngày 30/12/2011, cả nước hiện có 197.335 người nhiễm HIV hiện còn sống, trong

đó có 48.720 bệnh nhân AIDS và đã có 52.325 người tử vong do HIV/AIDS. Phân bố người nhiễm HIV theo đường lây truyền trong số người nhiễm HIV được báo cáo trong năm

2011 cho thấy: lây truyền qua đường máu chiếm tỷ lệ cao nhất 46,7%, tỷ lệ này có giảm hơn 3% so với cùng kỳ năm 2010. Phân tích tỷ lệ người nhiễm HIV theo đối tượng, người nghiện chích ma tuý chiếm chủ yếu 41%.

Xu hướng nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy tiếp tục có xu hướng giảm, năm 2011 tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy tại cộng đồng là 13,4%, năm 2010 tỷ lệ này là 17,24%. Tuy nhiên một số tỉnh tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma túy vẫn còn rất cao như Điện Biên 45,7%, Hồ Chí Minh 39,3%, các tỉnh có tỷ lệ nhiễm HIV cao Thái Nguyên 25,9%, Quảng Ninh 24,8%, Hà Nội 20,7%, Cần Thơ 20%. Về tình hình sử dụng chung bơm kim tiêm trong nhóm nghiện chích ma túy ở các tỉnh triển khai giám sát hành vi cho thấy tỷ lệ người nghiện chích ma túy cho biết sử dụng chung bơm kim tiêm trong lần gần nhất này vẫn còn cao ở các tỉnh Bình Dương (57,9%), Nghệ An (42%), TP Hồ Chí Minh (39,3%), Đà Nẵng (39%), Cà Mau (36,5%), Quảng Trị (36,3%), Thanh Hóa (27,7%), Hải Dương (25,7%), với tỷ lệ này cho thấy hành vi nguy cơ lây truyền HIV trong nhóm nghiện chích ma túy vẫn rất cao và tiềm ẩn nguy cơ làm tăng tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này.

Tại Tiền Giang tính đến cuối năm 2011 đã phát hiện 3.212 trường hợp nhiễm HIV, 1.123 chuyển AIDS và 687 người tử vong do HIV/AIDS.

Phân tích trong số người nhiễm HIV, người nghiện chích ma túy chiếm tỷ lệ cao nhất là 18,7%, những đối tượng khác chiếm tỷ lệ thấp.

Hoạt động can thiệp giảm tác hại trên nhóm NCMT có nhiều tiến bộ với bình quân mỗi người NCMT nhận 31 bơm kim tiêm (BKT) sạch/ tháng.

Năm 2009, Tiền Giang tiến hành 01 cuộc điều tra trên nhóm NCMT cộng đồng. Kết quả cho thấy tỷ lệ hiện nhiễm HIV là 10% thấp hơn tỷ lệ hiện nhiễm NCMT trên toàn quốc và thấp hơn kết quả GSTĐ của nhóm NCMT trường trại (39%). Nghiên cứu cho thấy nhóm NCMT có hành vi tiêm chích ma túy sớm (có trường hợp mới 15 tuổi), sử dụng lại BKT nhiều lần, có nhiều bạn tình, không thường xuyên sử dụng BCS với bạn tình…đều là những hành vi dẫn đến nguy cơ nhiễm HIV. Nghiên cứu “Điều tra hành vi phòng chống HIV/AIDS trong nhóm nghiện chích ma túy tại Tiền Giang năm 2012” với các mục tiêu sau:

Xác định một số đặc trưng cơ bản của nhóm nghiện chích ma túy ở Tiền Giang. Xác định tỷ lệ hiểu biết về HIV/AIDS và các tỷ lệ có liên quan đến lây nhiễm HIV (sử dụng chung BKT, tỷ

lệ sử dụng BCS…) ở nhóm nghiện chích ma tuý. Xác định tỷ lệ nhiễm HIV, Giang mai, Lậu và Chlamydia.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUThiết kế nghiên cứu: Điều tra cắt ngang.Thời gian tiến hành: Từ 01 đến 30/06/2012.Tiêu chuẩn nghiên cứu: Người NCMT được định nghĩa là những người đã từng sử dụng các loại ma

tuý không phải thuốc y tế kê đơn bằng cách tiêm trong 6 tháng qua, đang sinh sống ngoài cộng đồng. Phương pháp chọn mẫu: Tiêu chuẩn chọn mẫu: Người có tiêm chích ma túy trong 6 tháng qua.Cỡ mẫu cần điều tra là ít nhất 360 người. Đối tượng NCMT được điều tra sẽ được chọn từ những tụ

điểm đã được lập bản đồ và từ danh sách sẵn có (số đối tượng NCMT được quản lý tại tỉnh).Phương pháp lấy mẫu: Dựa trên kết quả lập bản đồ. Tuy nhiên, qua kết quả điều tra lập bản đồ năm

2012, số lượng người NCMT tại địa bàn < 360 người. Vì vậy, phương án lấy mẫu toàn bộ nhóm NCMT được lựa chọn.

Phương pháp thu thập số liệu:Đối tượng được phỏng vấn theo mẫu phiếu khảo sát.Lấy máu trích huyết thanh để xét nghiệm HIV và Giang mai tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Tiền

Giang.Mẫu nước tiểu được thu thập, bảo quản ở nhiệt độ 00C được chuyển tiếp Viện Pasteur TP.HCM để xét

nghiệm phát hiện Lậu và Chlamydia theo kỹ thuật PCR.Phương pháp xử lý số liệu:Bộ câu hỏi mã hoá chuẩn để sử dụng cho điều tra cơ bản. Toàn bộ phiếu được nhập vào máy tính

chương trình Epi Info 6.04 và xử lý bằng Stata 8.0. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬNMột số đặc trưng cơ bản của nhóm NCMT ở Tiền Giang năm 2012:Mẫu nghiên cứu gồm 200 người NCMT, trong đó, 96,5% là nam giới, 3,5% là nữ giới, dân tộc Kinh chiếm

100% đối tượng nghiên cứu. Về tính ngưỡng: đạo Phật 85,5%, đạo Tin Lành, Cao Đài chiếm tỷ lệ thấp 1,5%, Thiên chúa 5,0%, không

theo tôn giáo nào 8,0%. Tuổi trung bình của nhóm NCMT là 28 (n = 200). Tuy nhiên một số em mới 14 tuổi, ngược lại có người

148

Page 23: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

tuổi khá cao là 62 tuổi. So sánh với năm 2009, tuổi trung bình của người NCMT tăng hơn 3 tuổi.Trình độ học vấn: Nhóm mù chữ và tiểu học chiếm đến 29,5% (trong đó 1% thuộc nhóm mù chữ), nhóm

trung học cơ sở và trung học phổ thông 69,5%, chỉ 1% học đến cao đẳng, đại học. So sánh với năm 2009, các tỷ lệ này tương đương.

Về tình hình cư trú 89% (n= 200) sống với gia đình, sống một mình 7%, sống với bạn bè 3% và 1% sống lang thang.

Về tình trạng hôn nhân: Ở goá hoặc ly thân, ly dị chiếm 14%, chưa lập gia đình chiếm 67,5%, đang có vợ, chồng hoặc sống chung không hôn nhân chiếm 18,5%. So sánh với năm 2009, tỷ lệ NCMT sống với vợ, chồng giảm hơn 5%.

Trong 12 tháng qua, người NCMT thường di chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác để tìm nguồn thuốc, tìm bạn chích, tìm ổ chích…nên số NCMT đi khỏi tỉnh hơn 1 tháng đến các tỉnh lân cận như: Tp. Hồ Chí Minh, Vĩnh Long, Bà Rịa Vũng Tàu, Bến Tre, Long An, An Giang… chiếm 31,5%. Đặc biệt có 26,5% NCMT từng có tiêm chích ma túy ở các tỉnh, thành phố khác, vì vậy nguy cơ lây lan HIV giữa các địa phương với nhau là đáng báo động.

Do trình độ văn hóa khá thấp nên NCMT “không đọc báo” chiếm 53,5% và chỉ có 9% đọc báo hàng ngày. Tuy nhiên, trong số người có đọc báo, tỷ lệ người đọc được thông tin về HIV chiếm tỷ lệ khá cao 67,7%.

Tình hình nghe đài cũng tương tự với tình hình đọc báo với 58% “không nghe đài”, có nghe đài hàng ngày chiếm 12% tổng số NCMT. Trong số người có nghe đài, tỷ lệ người nghe được thông tin về HIV chiếm tỷ lệ khá cao 84,5%.

Truyền hình là hình thức truyền thông được “quan tâm” nhiều nhất với tỷ lệ 64% xem ti vi hàng ngày, số không xem ti vi chiếm tỉ lệ rất thấp 5,5%. Trong số người có xem ti vi, tỷ lệ người xem được thông tin về HIV chiếm tỷ lệ 66,1%.

So sánh với năm 2009, tỷ lệ người NCMT tiếp cận các phương tiện thông tin đại chúng có khuynh hướng giảm.

Công tác truyền thông giữ vai trò rất quan trọng trong việc làm thay đổi các hành vi nguy cơ trong phòng chống HIV/AIDS. Nhóm NCMT tham gia hoạt động truyền thông với 66,1% (n= 56) tham gia họp đồng đẳng và 26,8% tham gia mít tinh, hội họp, diễu hành, nhưng các tỷ lệ này đều thấp hơn so với năm 2009.

Tỷ lệ người NCMT nhận được các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS của các chương trình, dự án của tỉnh hiện còn khá khiêm tốn: 43% nhận được BCS; 50% nhận được BKT; 35,5% nhận được tờ rơi có thông tin về HIV/AIDS và chỉ có 2% được giới thiệu đến các dịch vụ khám chữa các BLTQĐTD. Các tỷ lệ này đều thấp hơn so sánh với năm 2009.

Người NCMT nhận được các thông tin về HIV/AIDS chủ yếu qua lực lượng GDVĐĐ chiếm 37,5%, từ bạn chích là 35,5%, từ cán bộ y tế 16%; từ cán bộ các đoàn thể là 6% và 10,5% từ sinh hoạt câu lạc bộ.

Kiến thức, thái độ liên quan đến bệnh lây qua đường tình dục (BLTQĐTD) và HIV trong nhóm NCMT năm 2012:

Mắc BLTQĐTD là yếu tố thuận lợi cho nhiễm HIV do tạo ngõ vào hoặc làm suy giảm miễn dịch. Qua khảo sát năm 2012, 45% (n = 200) người NCMT biết đúng ít nhất một triệu chứng của BLTQĐTD, điều này rất quan trọng vì biết được triệu chứng có thể giúp người NCMT tự phát hiện bệnh và đi khám bác sĩ kịp thời.

Có 77,1% (n= 175) số NCMT biết rằng dùng bao cao su (BCS) khi quan hệ tình dục (QHTD); 16% biết chung thủy với 1 bạn tình; 16% biết không sử dụng chung BKT có thể giúp hạn chế lây nhiễm HIV. Tuy nhiên, chỉ có 13,7% số NCMT biết đúng cả 3 cách phòng lây nhiễm HIV như trên. Nhìn chung có sự suy giảm lớn kiến thức về biện pháp sử dụng BCS và BKT so với năm 2009.

Tỷ lệ NCMT hiểu chưa đúng về các đường lây truyền HIV chiếm tỷ lệ khá cao 17,1%. Có 5,1% số NCMT cho rằng ăn chung và 19,4% số NCMT cho rằng muỗi đốt có thể lây truyền HIV.

Qua khảo sát 47,4% người NCMT cho rằng họ có nguy cơ đã bị nhiễm HIV; 36,7% cho rằng không có nguy cơ và 15,8% không biết có nguy cơ hay không.

Có 97% NCMT biết nơi có thể mua hoặc lấy BKT và BCS. Nhà thuốc là nơi được biết đến nhiều nhất với 72,7%, 37% biết qua GDVĐĐ. Bạn chích cũng là nguồn có thể lấy BKT và nhà hàng- khách sạn là nguồn cung cấp BCS cho NCMT.

Tình hình sử dụng chất gây nghiện ở nhóm NCMT năm 2012:Uống nhiều rượu/bia ảnh hưởng tới năng lực quyết đoán và hành vi ứng xử của nhóm NCMT, rượu bia

có thể khiến họ quên hoặc khinh xuất không sử dụng BKT sạch khi tiêm chích cũng như không sử dụng BCS khi QHTD. Đáng ngại là tới 88% (n = 200) NCMT có uống rượu bia.

Người NCMT nguy cơ nhiễm HIV cho bản thân và lây cho người khác càng cao do khả năng bị lây qua cả đường tình dục lẫn đường tiêm chích. Qua khảo sát năm 2012 loại thuốc gây nghiện thường được sử dụng nhiều nhất là heroin 98%; thuốc lắc 15%; thuốc an thần 9%; thuốc phiện 9,5%.

Tuổi bắt đầu tiêm ma túy rất gần với tuổi bắt đầu có sử dụng ma túy, cho thấy không lâu sau khi sử dụng ma túy người nghiện nhanh chóng chuyển qua tiêm chích ma túy.

Số NCMT từng đi cai nghiện chiếm tỷ lệ khá cao 19%, trung bình số lần được đưa đi cai nghiện là 1 lần. Tuy nhiên cũng có trường hợp phải đi cai nghiện 4 lần vẫn chưa thể ngưng sử dụng ma túy.

Có 43% người NCMT phải tiêm heroin ít nhất 1 lần trong ngày và dưới 13% phải tiêm ít nhất 1 lần trong

149

Page 24: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

tháng.Đa số người NCMT (63%) có thời gian tiêm chích khoảng 2 năm, số người có thời gian tiêm chích trên 5

năm chiếm 22%.Tỷ lệ NCMT có sử dụng chung BKT chiếm 23,5% là tỷ lệ khá cao, trong số này chỉ 6,4% luôn làm sạch

BKT trong khi 78,7% không bao giờ súc rửa BKT, đây là nguy cơ làm lây nhiễm HIV rất lớn.Quan hệ tình dục và sử dụng bao cao su ở nhóm NCMT năm 2012:QHTD càng sớm thì nguy cơ mắc các BLTQĐTD và HIV càng cao, đặc biệt khi có nhiều bạn tình. Trung

bình tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở nhóm NCMT ở Tiền Giang là 18,6 tuổi, cá biệt có người NCMT quan hệ lần đầu lúc 12 tuổi.

Mỗi NCMT có trung bình 4 bạn tình (vợ, người yêu/ GMD/ bạn tình bất chợt) trong 12 tháng qua, tuy nhiên, có thể không có bạn tình nào hoặc kỷ lục của một người NCMT là có 90 bạn tình trong năm qua. Kết quả này phù hợp với các cuộc truy quét quyết liệt của các lực lượng phòng chống tệ nạn xã hội tại Tiền Giang trong thời gian qua và phù hợp với diễn biến tự nhiên về nhu cầu tình dục của người NCMT, càng NCMT lâu năm thì nhu cầu tình dục càng ít.

Mỗi người NCMT có trung bình 2 người bạn tình là vợ/ người yêu trong 12 tháng qua, tuy nhiên, cũng có thể không có vợ, người yêu, hoặc có thể có đến 50 người khác nhau trong năm.

Mỗi NCMT có trung bình khoảng 1 người bạn tình là gái mại dâm (GMD) trong 12 tháng qua, tuy nhiên, cũng có NCMT có quan hệ với 20 GMD khác nhau.

Mỗi NCMT có trung bình 1 người bạn tình là bạn tình bất chợt trong 12 tháng qua, tuy nhiên, cũng có NCMT có đến 20 bạn tình bất chợt khác nhau/ năm.

Sử dụng BCS với vợ, người yêu:Có 37,1% (n= 143) NCMT có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với vợ, người yêu, BCS có được từ

mua ở nhà thuốc và do GDVĐĐ cung cấp. Những NCMT không sử dụng BCS do họ không thích hay thấy không cần thiết sử dụng. Tỷ lệ luôn sử dụng hay thường xuyên sử dụng BCS còn thấp chưa đến 30%.

Sử dụng BCS với GMD:Có 52% (n= 76) người NCMT sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với GMD, BCS có được từ mua ở

nhà thuốc, ở nhà hàng- khách sạn và do GDVĐĐ cung cấp. Những NCMT không sử dụng BCS do họ không thích hay thấy không cần thiết sử dụng. Tỷ lệ luôn sử dụng hay thường xuyên sử dụng BCS chiếm 48,7%.

Sử dụng BCS với bạn tình bất chợt:Có 31,6% (n= 57) NCMT có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với bạn tình bất chợt, BCS có được

từ mua ở nhà thuốc, nhà hàng- khách sạn hay do GDVĐĐ cung cấp. NCMT không sử dụng BCS do họ không thích hoặc thấy không cần thiết sử dụng. Tỷ lệ luôn sử dụng hay thường xuyên sử dụng BCS còn thấp là 29,4%.

Sử dụng BCS thường xuyên và đúng cách khi QHTD đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phòng lây nhiễm HIV và các BLTQĐTD, đặc biệt người NCMT có rất nhiều loại bạn tình. Ưu điểm là nhóm NCMT rất có ý thức trong việc sử dụng BCS với 52,6% (n= 76) khi quan hệ với GMD nhưng chỉ 31,6% (n= 57) với bạn tình bất chợt và chỉ 37,1% đối với vợ/người yêu trong lần QHTD gần đây nhất. Vì vậy cần đẩy mạnh công tác truyền thông sử dụng BCS với bạn tình bất chợt và với vợ,chồng/người yêu.

Chỉ hơn 40% NCMT nhận BCS miễn phí từ các GDVĐĐ, điều này chứng tỏ công tác tiếp cận để cấp phát BCS miễn phí của mạng lưới GDVĐĐ ở Tiền Giang hoạt động kém hiệu quả hơn so với năm 2009. Số NCMT không được phát BCS thì mua ở cửa hàng dược phẩm hoặc lấy BCS từ nhà hàng- khách sạn. Nhãn hiệu BCS được sử dụng nhiều nhất là OK với 50-70% số NCMT sử dụng. Bao cao su nhãn hiệu VIP cũng được sử dụng nhưng với tỉ lệ thấp không đáng kể. Khi quan hệ với các loại bạn tình, người NCMT đều tự ý thức sử dụng BCS với khoảng trên 70% tự quyết định sử dụng BCS.

Tuy nhiên vấn đề đáng quan tâm là vẫn có hơn 52% số NCMT không bao giờ sử dụng BCS đối với bạn tình bất chợt và gần 48% không bao giờ sử dụng BCS đối với vợ,chồng/người yêu, số liệu này thấp hơn so với năm 2009, cho thấy hiệu quả chương trình can thiệp giảm tác hại nhằm tăng tỷ lệ sử dụng BCS trong thời gian 2009-2012 giảm hơn so với trước đây. Khi được hỏi lý do không sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình thì lý do chính là không thấy cần thiết ở cả 3 nhóm (vợ/người yêu, bạn tình bất chợt, GMD).

Tình hình nhiễm HIV và bệnh lây qua đường tình dục ở NCMT:Có 12,5% (n = 200) NCMT tường thuật có triệu chứng của BLQĐTD trong 12 tháng qua như đau, loét,

sùi hay chảy mủ đường sinh dục, trong đó 28% đến cơ sở đến cơ sở y tế nhà nước và 12% đến y tế tư nhân để được khám và điều trị. Có 28% được tư vấn sử dụng BCS, tuy nhiên chỉ gần 24% trong số có triệu chứng BLQĐTD ngừng QHTD và 12% dùng BCS khi quan hệ trong thời gian có triệu chứng, do đó, khả năng làm lây truyền BLTQĐTD và HIV cho vợ, người yêu cũng như gái mại dâm và bạn tình bất chợt là rất cao, vì vậy chúng ta cần có những biện pháp quản lý, tuyên truyền và điều trị STI tốt hơn nữa. Tỷ lệ mắc Giang mai là 1,5%, tỷ lệ mắc Lậu 3,5% và Chlamydia là 2%.

Ngoài ra, tất cả NCMT được khảo sát đều nhận được hỗ trợ về phòng chống HIV dưới nhiều hình thức khác nhau như bao cao su, tờ bướm, tờ rơi, được thông tin giáo dục truyền thông về phòng chống HIV/AIDS từ đồng đẳng viên, cán bộ y tế hay cán bộ các ban ngành đoàn thể; được giới thiệu đi khám chữa BLQĐTD.

Chỉ 24,5% (n = 200) NCMT được khảo sát đã từng đi xét nghiệm HIV. Điều này cho thấy cần tăng cường quảng bá dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện HIV trên các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như

150

Page 25: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

qua một số kênh khác như mạng lưới đồng đẳng viên, cộng tác viên, y bác sĩ ở các cơ sở y tế. Trong số người NCMT có đi làm xét nghiệm (n = 49) thì 59,2% là tự nguyện còn hơn 40% còn lại là do được yêu cầu. Đa số NCMT (61,2%) khi đi xét nghiệm đều nhận được kết quả. Tỷ lệ được tư vấn trước và sau xét nghiệm cũng chưa cao, với 69,4% được tư vấn trước và 51% được tư vấn sau xét nghiệm. Tỷ lệ HIV dương tính trong nhóm NCMT lần khảo sát này là 6,5% (n=200) thấp hơn năm 2009.

Nhiễm HIV và các BLTQĐTD của nhóm NCMT ở Tiền Giang 2009 và 2012

Giang mai Dương tínhÂm tính 190 2,1

97,9 200 1,598,5

Lậu Dương tínhÂm tính

200 3,596,5

Chlamydia Dương tínhÂm tính

200 2,098,0

HIV Dương tínhÂm tính 190 10,0

90,0 200 6,593,5

KẾT LUẬNTỷ lệ hiện nhiễm HIV trong năm 2012 là 6,5% thấp hơn tỷ lệ nhiễm HIV trong nghiên cứu năm 2009 của

nhóm NCMT tại tỉnh và thấp hơn tỷ lệ nhiễm năm 2011 của TPHCM là 40%. Tuy nhiên, do cách chọn mẫu là chỉ giới hạn trong địa bàn 4 huyện can thiệp và do ảnh hưởng của nhiều đợt truy quét tệ nạn quyết liệt, nên nhiều điểm nóng NCMT phân tán hơn và có nhiều khả năng khó tiếp cận điều tra được những NCMT có nguy cơ bị nhiễm HIV cao hơn, cho nên tỷ lệ hiện nhiễm HIV này có thể thấp hơn thực tế ở Tiền Giang.

Nghiên cứu cho thấy nhóm NCMT có hành vi tiêm chích ma túy sớm (có trường hợp mới 14 tuổi), sử dụng BKT nhiều lần không súc rửa, có nhiều bạn tình, không thường xuyên sử dụng BCS với bạn tình…đều là những hành vi dẫn đến nguy cơ nhiễm HIV.

Chương trình can thiệp giảm tác hại (cấp phát BKT, BCS….) là một chương trình khá thành công và hữu hiệu ở nhiều nước trên thế giới, trong việc phòng ngừa HIV/STI, các chỉ số qua kết quả điều tra năm 2009 khá lạc quan nhưng hầu hết chỉ số này đều theo chiều hướng kém hơn trong năm 2012. Do đó, cần xem xét lại hiệu quả hoạt động của nhóm GDVĐĐ nghiện chích ma túy và có thể cần tiến hành đánh giá và tuyển mới lại lực lượng này. Do vậy các chương trình dự phòng và can thiệp vẫn cần phải được cải thiện hơn nữa.

MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ DÂN SỐ, XÃ HỘI VÀ HÀNH VI PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS CỦA NHÓM NAM QUAN HỆ ĐỒNG TÍNH (MSM)

TẠI TIỀN GIANG NĂM 2011Trần Thị Thủy Hà

TT. Phòng, chống HIV/AIDS TG

TÓM TẮTNghiên cứu được thực hiện tại tỉnh Tiền Giang trên 400 MSM cộng đồng.Trong lần QHTD gần nhất: 40% MSM có sử dụng BCS với bạn tình nam có nhận tiền; 27% có sử dụng

với nam bán dâm, 40% với bạn tình thường xuyên nam. Tỷ lệ thường xuyên sử dụng BCS: với bạn tình nam có nhận tiền 32,2%, với nam bán dâm 15,4%, với

bạn tình thường xuyên nam 30,5%. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV là 2,5%, tỷ lệ phát hiện Lậu sinh dục 0,5%, Lậu trực tràng 0,75% và Chlamydia là

26,5%. SUMMARYThe study was conducted on 400 MSM in community in Tien Giang province.In the first sexual intercourse: 40% MSM used condom with paid-partner, 27% used condom with male

prostitutes, 40% used condom with regular male sex partners.Prevalence of regular condom usage: 32.2% with paid male partner, 15.4% with male prostitutes, 30.5%

with regular male partners.HIV prevalence is 2.5%, genital gonorrhea prevalence is 0.5%, rectal gonorrhea prevalence is 0.75% and

Chlamydia prevalence is 26.5%

151

Page 26: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

ĐẶT VẤN ĐỀTình dục giữa nam với nam xuất hiện ở tất cả các xã hội, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, những hành vi

này phần lớn thường bị xã hội kỳ thị. Tình dục đồng giới nam nếu không sử dụng các biện pháp bảo vệ, có nguy cơ lây nhiễm HIV rất cao. Cho dù con số có thể khác nhau giữa các quốc gia và các khu vực, nhưng ít nhất 5-10% các ca nhiễm HIV trên toàn thế giới là do quan hệ tình dục đồng giới nam. Ở châu Á, nam có quan hệ tình dục đồng giới bị ảnh hưởng nặng nề bởi HIV. Ước tính tỉ lệ hiện nhiễm HIV trong quần thể này ở Phnom Penh, Campuchia là 14%; ở Andrha Pradesh, Ấn Độ là 16%; và ở Bangkok, Thái Lan lên tới 28%. Những người nam quan hệ tình dục không an toàn với nam cũng có thể quan hệ tình dục không an toàn với phụ nữ. Bằng cách đó, họ đã trở thành cầu nối lây truyền vi-rút cho các cộng đồng dân cư.

Theo kết quả Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam (2005-2006), tỉ lệ hiện nhiễm HIV ở nhóm MSM dao động rất lớn 9,4% (Hà Nội), 5,3% (TP. HCM). Tỉ lệ có sử dụng bao cao su thường xuyên trong tháng qua với mại dâm nam trong là 24,4%; với bạn tình thường xuyên nam là 29%.

Tại Tiền Giang, tính đến cuối năm 2011 đã phát hiện 3.212 ca HIV (1.710 người trong tỉnh và 1.502 người ngoài tỉnh), 1.123 ca AIDS và 687 ca tử vong.

Theo số liệu thống kê ở Tiền Giang, hiện nay, trung bình cứ 100.000 dân đã có 100 người nhiễm HIV, trong đó có 56 người tiến triển đến giai đoạn AIDS và 39 người tử vong. Nhóm tuổi 20 - 29 có tỷ lệ cao nhất (49,01%), kế đến nhóm tuổi 30 – 39 (33,27%), nhóm tuổi 40 – 49 (9,36%).

Tỷ lệ nhiễm nam / nữ xấp xỉ: 2/1 (Nam: 66,26%, Nữ: 33,74%).Phân tích trong tổng số đối tượng nhiễm HIV cho thấy nhóm, nghiện chích ma túy chiếm tỷ lệ cao nhất

18,77%, bệnh nhân lao 13,27%, bệnh nhân nghi AIDS 15,85%, phạm nhân chiếm tỷ lệ 4,62%, bệnh nhân hoa liễu 3,33%, những đối tượng khác chiếm tỷ lệ thấp. Nguy cơ lây nhiễm qua đường máu chiếm 21,99%, qua quan hệ tình dục chiếm 40,23% số trường hợp phát hiện, điều này cho thấy đã có sự chuyển dịch nguy cơ lây nhiễm qua đường máu là chính sang xu hướng qua quan hệ tình dục.

Theo số liệu điều tra vẽ bản đồ năm 2010 của ngành y tế cho thấy có khoảng 544 MSM hiện đang sinh sống tại tỉnh tập trung nhiều nhất tại TP. Mỹ Tho và Thị xã Gò Công. Tuy nhiên, từ trước đến nay, chúng ta vẫn chưa thể tiếp cận nhóm đối tượng này để tìm hiểu hành vi nguy cơ và giúp họ thay đổi những hành vi này.

Nhằm tìm hiểu một số đặc điểm về dân số, văn hóa, xã hội, kiến thức HIV/AIDS, hành vi tình dục và thực hành sử dụng bao cao su, tỉ lệ hiện nhiễm HIV và một số bệnh lây truyền qua đường tình dục... của nhóm MSM để đưa ra những biện pháp hạn chế lây nhiễm HIV hữu hiệu cho nhóm đối tượng này, được sự tài trợ của Dự án Phòng, chống HIV/AIDS do Ngân hàng Thế giới tài trợ, Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Tiền giang tiến hành đề tài nghiên cứu: “Một số đặc điểm về dân số, xã hội và hành vi phòng, chống HIV/AIDS của nhóm nam có quan hệ đồng tính (MSM) tại Tiền Giang năm 2011” với những mục tiêu như sau:

- Xác định một số đặc điểm về dân số, xã hội, kiến thức về HIV/AIDS, hành vi tình dục và thực hành sử dụng bao cao su của nhóm MSM.

- Xác định tỷ lệ hiện nhiễm HIV và các BLTQĐTD của nhóm MSM.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Thiết kế nghiên cứu: Điều tra cắt ngang.2. Thời gian tiến hành: Từ tháng 07/2011 đến tháng 11/2011.3. Tiêu chuẩn nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu là những người nam có quan hệ tình dục (miệng hoặc hậu môn) với bạn tình nam

trong 12 tháng qua, bao gồm:Những người nam tự nhận là người đồng tính (gay) và người lưỡng tính (bi-sexual).Những người nam tự nhận là dị tính (heterosexual) nhưng có quan hệ tình dục cùng giới. Nhóm nam vị thành niên (dưới 18 tuổi) có quan hệ tình dục đồng giới.Những người nam có ham muốn tình dục cùng giới lẫn những người quan hệ tình dục đồng giới do bị

cưỡng ép (nam bán dâm…).4. Phương pháp chọn mẫu Trước khi tiến hành điều tra, bản đồ địa dư-xã hội của nhóm nam quan hệ đồng giới được hoàn chỉnh để

xác định địa điểm điều tra và quyết định lựa chọn mẫu điều tra. Dựa vào số liệu thu thập được trong quá trình lập bản đồ, chúng tôi lập khung mẫu cho từng nhóm. Cỡ

mẫu cần điều tra là ít nhất 360 người. Đối tượng MSM được điều tra sẽ được chọn từ những tụ điểm đã được lập bản đồ và danh sách sẵn có (số đối tượng MSM được quản lý tại tỉnh). Tại mỗi tụ điểm được chọn sử dụng phương pháp hòn tuyết lăn để lấy đủ MSM mỗi cụm.

- Tuy nhiên, qua kết quả điều tra lập bản đồ năm 2011, số lượng MSM tại địa bàn tối đa khoảng 500 người. Vì vậy, phương án lấy mẫu toàn bộ nhóm MSM được lựa chọn.

5. Phương pháp thu thập số liệuĐối tượng được phỏng vấn theo mẫu phiếu khảo sát, được xét nghiệm HIV tại Trung tâm Phòng, chống

HIV/AIDS Tiền Giang. Dịch sinh dục và hậu môn được soi tươi và cấy tìm vi khuẩn Lậu, xét nghiệm miễn

152

Page 27: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

dịch phát hiện Chlamydia do phòng xét nghiệm Viện Pasteur TP. HCM thực hiện. 6. Phương pháp xử lý số liệuBộ câu hỏi mã hoá chuẩn để sử dụng cho điều tra cơ bản. Toàn bộ phiếu được nhập bằng chương trình

Epidata 3.1 và xử lý bằng chương trình Epi Info 6.04 và Stata 8.0.KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN1. Một số đặc trưng cơ bản của nhóm MSM ở Tiền GiangMẫu nghiên cứu gồm 400 MSM, dân tộc Kinh chiếm 98,5% đối tượng nghiên cứu.Về tính ngưỡng, đạo Phật 74,8%, số theo tôn giáo khác như Tin Lành, Hòa Hảo, Cao Đài chiếm tỷ lệ

thấp 2,4%; Thiên chúa 5%; không theo tôn giáo 18,0%.Tuổi trung bình là 25 (n = 400). Tuy nhiên một số em mới 16 tuổi, ngược lại có người tuổi khá cao là 59

tuổi. Nhóm tuổi < 20 chiếm tỷ lệ cao nhất 36,5%; nhóm 20 – 24 và trên 30 tuổi cũng chiếm tỷ lệ khá cao khoảng 25% cho mỗi nhóm.

Trong tổng số MSM tham gia khảo sát, các anh có trình độ học vấn thuộc nhóm mù chữ và tiểu học chiếm 17,8% trong đó có 2,8% thuộc nhóm mù chữ, nhóm trung học cơ sở 43,3%, trung học phổ thông 32,5%, và 6,5% số anh học đến cao đẳng, đại học.

Về tình hình cư trú 95,4% (n = 393) MSM là người sinh sống lâu năm tại tỉnh; 4,6% từ tỉnh khác chuyển đến.

Hiện 77,4% MSM sống với gia đình, số MSM sống một mình 10,0%, số sống với bạn bè 3,0%, sống với bạn tình nam 6,3% và 3,3% sống với vợ, bạn tình nữ.

Về tình trạng hôn nhân, số MSM đã từng kết hôn với phụ nữ chiếm 12,7% (trong đó ở góa hoặc ly thân, ly dị chiếm 8,2%, số MSM đang có vợ chiếm 4,5%), số MSM chưa lập gia đình chiếm 79,8%, sống như vợ chồng với bạn tình nam 7,5%.

Uống nhiều rượu/ bia ảnh hưởng đến năng lực quyết đoán và hành vi ứng xử của mọi người nói chung và đặc biệt ở nhóm MSM, rượu bia cũng có thể khiến cho họ quên hoặc khinh xuất không sử dụng BKT sạch khi tiêm chích cũng như không sử dụng BCS khi QHTD. Đáng ngại là tới 51,1% (n = 400) các anh được khảo sát có uống rượu bia hàng ngày hoặc cách 2 – 3 ngày/ lần.

Thu nhập hàng tháng của nhóm MSM khá cao với 55,4% có thu nhập trên 2 triệu đồng / tháng và 27,9% có thu nhập từ 1 – 2 triệu đồng/ tháng.

2. Kiến thức, thái độ về BLTQĐTD và HIV trong nhóm MSMMắc các BLTQĐTD là yếu tố thuận lợi cho HIV tạo ngõ vào hoặc làm suy giảm miễn dịch. Qua khảo sát,

55,3% (n= 400) biết ít nhất một triệu chứng của BLTQĐTD, điều này rất quan trọng vì biết được triệu chứng có thể giúp người MSM tự phát hiện bệnh và đi khám bác sĩ kịp thời.

MSM có nghe các thông tin về HIV/AIDS trước đó chiếm 93,3%. Trong đó, có 88,5% (n= 400) biết nên sử dụng bao cao su (BCS) khi quan hệ tình dục (QHTD); 70,2% biết chung thủy với một bạn tình; 90,0% biết không sử dụng chung BKT có thể giúp hạn chế lây nhiễm HIV. Đặc biệt là có đến 64,7% số MSM biết đúng cả 3 cách phòng lây nhiễm HIV như trên, đây là một tỷ lệ cao hơn nhiều so với nhóm PNMD và NCMT ở Tiền Giang trong các cuộc khảo sát trước đó.

Tỷ lệ MSM hiểu chưa đúng về các đường lây nhiễm HIV chiếm tỷ lệ khá cao 37,7%. Có 14% số MSM cho rằng ăn chung và có 32,5% số MSM cho rằng muỗi đốt có thể lây truyền HIV.

Qua khảo sát 38,9% cho rằng họ có nguy cơ đã bị nhiễm HIV; 54,2% cho rằng không có nguy cơ và 6,9% không biết có nguy cơ hay không.

Trên 94% người MSM biết nơi có thể mua hoặc lấy BCS. Nhà thuốc là nơi được biết nhiều nhất với 85%, trên 36% biết các cơ sở y tế, 3,7% qua GDVĐĐ và 22,2% biết có thể lấy BCS từ nhà hàng - khách sạn và các nơi khác.

Tuy nhiên, để có hiểu biết về các biện pháp phòng tránh HIV và phản đối các quan niệm sai lầm về các đường lây truyền HIV chỉ có 7,0%.

3. Tình hình sử dụng chất gây nghiện ở nhóm MSMNgười có sử dụng ma túy thì nguy cơ nhiễm HIV cho bản thân và lây cho người khác càng tăng do khả

năng bị lây qua cả đường tình dục lẫn đường tiêm chích.Qua khảo sát năm 2011 có 17,3% từng sử dụng chất gây nghiện. Trong đó, loại thuốc gây nghiện từng

được sử dụng nhiều nhất là thuốc lắc 13,0%; bồ đà 10,1%; heroin 7,2%; thuốc an thần 2,9%; thuốc phiện 1,4%; kẹo nhựa 1,4%.

Tuổi bắt đầu có sử dụng ma túy là 20 tuổi, tuổi nhỏ nhất là 14 và nhiều nhất là 45 tuổi. Có 8 người chiếm 2% nhóm MSM có tiêm chích ma túy trong tháng qua

Tỷ lệ người MSM có sử dụng chung BKT với bạn chích chiếm 37,5% là tỷ lệ khá cao, trong số 25% người luôn sử dụng chung BKT với người khác. Trong lần tiêm chích gần đây nhất chỉ có 50,0% người có sử dụng BKT sạch.

4. Quan hệ tình dục, sử dụng BCS với bạn tình nam của MSMQuan hệ tình dục càng sớm thì nguy cơ mắc các BLTQĐTD và HIV càng cao, đặc biệt khi đi kèm với

nhiều bạn tình. Trung bình tuổi quan hệ tình dục lần đầu ở nhóm MSM ở Tiền Giang là 17,5, cá biệt có người QHTD lần đầu lúc 11 tuổi và nhiều nhất là 29 tuổi.

153

Page 28: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Xu hướng quan hệ tình dục khá phức tạp: 43,4% chỉ thích bạn tình nam, 31,5% thích bạn tình là nam hơn nữ, thích nam nữ như nhau hoặc thích nữ hơn chiếm 25,1%.

Điều này cũng được thể hiện qua 80,3% tự nhận mình là “bóng kín”, 8,0% tự nhận mình là “bóng lộ” và 11,8% cho mình là “đàn ông đích thực”.

Bạn tình khi QHTD lần đầu là nam chiếm 65,5%, là nữ chiếm 34,2%, 0,3% là người chuyển giới. Trong tháng qua hơn 70,0% có bạn tình là nam giới. Trong quan hệ tình dục 32,3% luôn là “người cho”; 16,7% luôn là “người nhận”, 17,8% không có QHTD qua đường hậu môn với bạn tình nam trong 12 tháng qua.

Bình quân, trong tháng MSM có 01 bạn tình nam, số lượng bạn tình nam tối đa là 20 người.Gần 30% bán dâm cho nam giới với QHTD có nhận tiền. Trong số đó 12% MSM có lượng khách hàng

nam khá cao (≥ 04 người/ tháng). Ngược lại, có 6,5% MSM mua dâm với nam trong 3 tháng qua, trong đó 5,3% có QHTD với ≥ 02 người/ tháng.

Gần 65% có bạn tình thường xuyên là nam giới trong 3 tháng qua, trong đó 40% có từ 1 – 2 người; 25% có từ 3 người trở lên.

Có 91,3% có QHTD qua đường miệng với bạn tình nam trong 3 tháng qua và 4,3% có QHTD với người nước ngoài (kể cả Việt kiều) trong 12 tháng qua (n= 400).

Sử dụng BCS trong QHTD có nhận tiền với bạn tình namGần 40% (n= 118) người có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất có nhận tiền với bạn tình nam. Tỷ lệ

thường xuyên sử dụng BCS (≥ 80% số lần có QHTD) với bạn tình nam còn thấp đạt 32,2%. Sử dụng BCS trong QHTD với mại dâm nam:Gần 27% (n= 26) người MSM có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với nam bán dâm. Tỷ lệ thường

xuyên sử dụng BCS (≥ 80% số lần có QHTD) với mại dâm nam còn thấp đạt 15,4%. Sử dụng BCS trong QHTD với bạn tình thường xuyên nam:Gần 40% (n= 279) người MSM có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với bạn tình thường xuyên

nam trong 3 tháng qua. Tỷ lệ thường xuyên sử dụng BCS (≥ 80% số lần có QHTD) với bạn tình thường xuyên nam còn thấp 30,5%.

Việc sử dụng BCS thường xuyên và đúng cách khi QHTD đóng vai trò vô cùng quan trọng trong phòng lây nhiễm HIV và các BLTQĐTD, đặc biệt là ở người MSM có nhiều loại bạn tình. Tuy nhiên, việc sử dụng BCS thường xuyên của nhóm MSM khi QHTD với nam mại dâm chỉ hơn 15% (n= 26), với bạn tình thường xuyên hơn 30% (n= 279) và chỉ 32% (n= 118) với QHTD có nhận tiền là một vấn đề đáng quan ngại. Vì vậy cần đẩy mạnh công tác truyền thông sử dụng BCS với tất cả các loại bạn tình ở nhóm MSM.

5. Quan hệ tình dục, sử dụng BCS với bạn tình nữ của MSMXu hướng QHTD nhóm MSM khá phức tạp với những người thích nam nữ như nhau hoặc thích nữ hơn

nam chiếm đến 25,1%.Có 37% có QHTD với bạn tình nữ, 12% với PNMD, 2,8% có QHTD nhận tiền với bạn tình nữ và 32,8%

có QHTD với bạn tình nữ thường xuyên trong 12 tháng qua. Sử dụng BCS trong QHTD có nhận tiền với bạn tình nữ trong 12 tháng qua:Có 63,6% (n= 11) người có sử dụng BCS trong lần QHTD có nhận tiền gần đây nhất với bạn tình nữ. Tỷ

lệ thường xuyên sử dụng BCS với bạn tình nữ đạt 90,9% Sử dụng BCS trong QHTD với phu nữ mại dâm trong 12 tháng qua:Có 37,5% (n= 48) người có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với phụ nữ mại dâm. Tỷ lệ thường

xuyên sử dụng BCS với phụ nữ mại dâm còn thấp đạt 29,2%. Sử dụng BCS khi QHTD với bạn tình nữ thường xuyên trong 12 tháng qua:Có 39,7% (n= 131) người có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất với bạn tình thường xuyên nữ trong

12 tháng qua. Tỷ lệ thường xuyên sử dụng BCS với bạn tình thường xuyên nữ còn thấp 33,2%.Nhìn chung tỷ lệ có sử dụng BCS trong lần QHTD gần nhất và tỷ lệ thường xuyên sử dụng BCS của

nhóm MSM khi QHTD với bạn tình nữ cao hơn so với bạn tình nam. Vì vậy cần đẩy mạnh công tác truyền thông luôn sử dụng BCS với tất cả các loại bạn tình, đặc biệt là với bạn tình nam ở nhóm MSM.

6. Tình hình nhiễm HIV và BLTQĐTD ở MSMCó 7,8% (n= 400) số MSM tường thuật có triệu chứng của BLTQĐTD trong 12 tháng qua như loét, sùi

hay chảy mủ, dịch ở đường sinh dục, trong đó 2,5% nhiễm HIV, 0,75% phát hiện có vi trùng Lậu ở dịch hậu môn và 0,5% phát hiện có vi trùng Lậu ở dịch sinh dục, có 26,5% phát hiện nhiễm Chlamydia sinh dục. Vì vậy, chúng ta cần có những biện pháp quản lý, tuyên truyền và điều trị các bệnh lây truyền qua đường tình dục tốt hơn.

Chỉ hơn 7% (n= 400) MSM được khảo sát đã từng đi xét nghiệm HIV. Điều này cho thấy cần tăng cường quảng bá dịch vụ tư vấn xét nghiệm tự nguyện HIV trên các phương tiện truyền thông đại chúng cũng như qua một số kênh khác như mạng lưới đồng đẳng viên, cộng tác viên, y bác sĩ ở các cơ sở y tế. Tỷ lệ được tư vấn trước và sau xét nghiệm còn khá thấp, với 4,8% được tư vấn trước và sau xét nghiệm. Tỷ lệ HIV dương tính trong nhóm MSM lần khảo sát này là 2,5% (n= 400). Tỷ lệ này tương đối thấp so với nhóm NCMT ở các tỉnh thành lân cận.

Nhiễm HIV và các BLTQĐTD của nhóm MSM:

154

Page 29: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Triệu chứng/ Bệnh Số người trả lời Tỉ lệ (%)

Có triệu chứng BLTQĐTD/ 12 tháng Chảy mủ/ dịch, loét, sùi BPSD/ 3 tháng quaChảy mủ/ dịch, loét, sùi HM/ 3 tháng qua 400 7,8

6,3Lậu sinh dục Có 400 0,5

Lậu trực tràng Có 400 0,75Chlamydia sinh dục Có 400 26,5

HIV Dương tínhÂm tính

40010

3902,597,5

KẾT LUẬNNghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá một số đặc điểm về dân số, hành vi phòng, chống

HIV/AIDS, tỷ lệ hiện nhiễm HIV và một số bệnh lây truyền qua QHTD ở nhóm MSM tại cộng đồng tỉnh Tiền Giang, phần nào phản ánh được những đặc điểm của nhóm MSM ở Tiền Giang.

Tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong nghiên cứu này là 2,5%, thấp hơn tỷ lệ hiện nhiễm HIV trong năm 2010 của nhóm MSM trên toàn quốc, tuy nhiên tỷ lệ này khá cao so với các tỉnh lân cận trong khu vực ĐBSCL. Sự giao lưu giữa nhóm MSM ở Tiền Giang và Tp. Hồ Chí Minh khá lớn, nên nhiều khả năng nhóm MSM Tiền Giang có nhiều hành vi có nguy cơ lại chưa được tiếp cận can thiệp nên tỷ lệ nhiễm HIV hiện cao hơn nhiều so với tỷ lệ nhiễm HIV của nhóm PNMD ở Tiền Giang (0,3%).

Vì vậy, cần tiến hành ngay các biện pháp can thiệp dự phòng lây nhiễm HIC/AIDS trên nhóm MSM là thông điệp chính được rút ra từ nghiên cứu này.

NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG DỊCH VỤ TƯ VẤN XÉT NGHIỆM HIV CỦA PHỤ NỮ MẠI DÂM TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Huệ &CSVăn phòng UBPC AIDS TPHCM

TÓM TẮTNghiên cứu này giúp xác định những yếu tố ảnh hưởng đến việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ tư vấn xét

nghiệm tự nguyện HIV (VCT) của phụ nữ mại dâm (PNMD) tại thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Qua nghiên cứu, các yếu tố rào cản đã được nhận diện bao gồm: thiếu kiến thức, thiếu tiếp cận với các thông tin, không biết địa chỉ điểm xét nghiệm HIV, ít tiếp xúc với giáo dục viên đồng đẳng/cộng tác viên (GDVĐĐ/CTV), sợ không được bảo mật thông tin, sợ bị kỳ thị phân biệt đối xử. Những yếu tố mang tính khuyến khích PNMD sử dụng VCT như có thời gian hoạt động mại dâm (MD) tại TP HCM từ 3 tháng trở lên, tiếp cận nhiều nguồn thông tin, biết cụ thể địa chỉ các điểm VCT, nhân viên dịch vụ VCT có thái độ thân thiện và bảo mật thông tin. Những yếu tố được xác định có tính tương tác mạnh ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ VCT của PNMD là có thời gian hoạt động từ 3 tháng trở lên, biết thông tin về VCT, biết địa chỉ của điểm VCT, có tần xuất tiếp xúc với giáo dục viên đồng đẳng/cộng tác viên (GDVĐĐ/CTV) nhiều hơn. Qua phân tích cho thấy phụ nữ mại dâm đường phố (PNMDĐP) là nhóm có nguy cơ cao hơn do tần suất tiếp cận GDVĐĐ/CTV thấp, kiến thức, nhận thức về HIV thấp, ít biết các thông tin về dịch vụ VCT hơn do đó sẽ là nhóm cần những can thiệp dự phòng HIV hiệu quả của chương trình giảm hại.

SUMMARYThis study will help to determine the bearing factors, how to access the HIV voluntary counseling, testing

(VCT) for female prostitutes in Ho Chi Minh City. In this study, some hindering factors have been addressed: Lack of knowledge, limited access to information sources, lack of knowledge of HIV test location, inadequate contacts with peer instructors/collaborators, afraid of lack of confidentiality, afraid of discrimination. Factors that encourage prostitutes to go to VCT: Working time in HCM City is more than 3 months, having access of multiple information sources, knowing the exact location for VCT, friendly VCT staffs and good information confidentiality. Factors that are determined to be decisive effects on VCT usage of the subjects are: operated for more than 3 months, has information about VCT including location, meet peer instructors/collaborators more frequently. Analysis shows that female street prostitutes group has a higher risk due to low frequency of peer instructors/collaborators meeting, bad knowledge, awareness about HIV, less knowledge about VCT services. Therefore, they need effective HIV prevention interventions from the harm reduction program.

ĐẶT VẤN ĐỀ

155

Page 30: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Từ năm 1993 các hoạt động can thiệp phòng lây nhiễm HIV trên PNMD đã được Văn phòng Thường trực Ủy ban phòng chống AIDS thành phố (PAC) triển khai. Đội ngũ GDVĐĐ thực hiện hoạt động tiếp cận, truyền thông thay đổi hành vi và phân phát miễn phí các vật dụng như bao cao su (BCS) bơm kim tiêm (BKT) cho PNMD. Năm 2003 dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện (VCT) được triển khai tại thành phố và mở rộng từ năm 2005. Đến nay đã có 22/24 Quận/Huyện có chương trình VCT.

Tuy nhiên các nghiên cứu về hành vi và sinh học (IBBS) 2006-2009 của Viện Vệ sinh dịch tể Trung ương (NIHE) cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm PNMD gia tăng. Mại dâm khách sạn (MDKS): từ 6% - 16%, mại dâm đường phố (MDĐP): từ 11% -16%, Tỉ lệ PNMD tham gia xét nghiệm HIV và nhận kết quả thấp (MDNH từ 20%-34%, MDĐP là 19-44%). Kết quả giám sát trọng điểm tại thành phố trong 3 năm 2010 -2012 cho kết quả với tỷ lệ thấp (47 %, 54%, 52%) PNMD xét nghiệm HIV trong 12 tháng qua. Qua các nghiên cứu trên nhóm PNMD các thông tin về tỷ lệ nhiễm HIV, tỷ lệ tiếp cận, sử dụng các dịch vụ BCS, BKT và VCT được thu thập, tuy nhiên do mức độ dễ bị tổn thương của nhóm PNMD, hiểu biết của chúng ta về các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ VCT còn hạn chế. Việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ VCT sẽ giúp nhóm nghiên cứu khuyến nghị các giải pháp nhằm cải thiện việc sử dụng dịch vụ VCT ở PNMD tại TPHCM, đồng thời khuyến nghị để dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV hiện có tại thành phố trở nên thân thiện và đáp ứng nhu cầu của các nhóm PNMD tốt hơn.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứu: Những PNMD trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong thời điểm nghiên

cứu, bao gồm:+ PNMD đường phố (MDĐP).+ PNMD trong cơ sở dịch vụ như nhà hàng, khách sạn...sau đây gọi tắt là MDNH.2. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang (Cross-sectional).Thời gian: Nghiên cứu trên được tiến hành từ tháng 06 đến tháng 10/2012. Kỹ thuật chọn mẫu: Dựa vào kết quả mapping những tụ điểm mại dâm và ước lượng số phụ nữ hành

nghề mại dâm trên địa bàn TP.HCM năm 2011. Sử dụng biện pháp chọn mẫu phân tầng: gồm 2 tầng: tầng 1: nhóm MDNH, tầng 2: nhóm MDĐP. MDNH/nhóm MDĐP = 9.548/5.695 nhóm MDNH chiếm 63%.

Cỡ mẫu: N=384 với MDNH: 242; MDĐP:142.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU1. Khái quát nét đặc tính cỡ mẫuTrên 82% số phỏng vấn có độ tuổi từ 30 trở xuống, trong đó gần 48% từ 18-24 tuổi. Gần 41% MDĐP trên

30 tuổi, MDNH dưới 30 tuổi chiếm trên 96%. Về học vấn, gần 54% PNMD có trình độ Trung học cơ sở (cấp hai) trở xuống. Số có trình độ Phổ thông trung học (cấp ba) chiếm khoảng 22%, và chưa đến 2% học Trung cấp, Cao đẳng, Đại học. Tỷ lệ mù chử và học cấp 1 cao trong nhóm MDĐP (39%). Trên 73% PNMD là người ngoại tỉnh. Về tình trạng hôn nhân tỷ lệ độc thân có người yêu của MDNH chiếm gần 45% trong khi MDĐP thì tình trạng ly thân ly hôn cao là 30%. Nghiên cứu phát hiện có 87% PNMD báo cáo đã hoạt động mại dâm tại thành phố từ 3 tháng trở lên.

2. Những kết quả chính Phân tích số liệu về thời gian hoạt động mại dâm cho thấy những PNMD hoạt động từ 3 tháng trở lên biết

được thông tin về VCT cao hơn hai lần so với người từ dưới 3 tháng (44% so 22%), tuy nhiên vẫn có khoảng 11% PNMD không biết thông tin về VCT. So sánh giữa hai nhóm PNMD có cùng thời gian hoạt động mại dâm từ 3 tháng trở lên nhưng MDNH biết rõ thông tin về VCT hơn MDĐP (49% so 35%). 15% MDĐP không biết thông tin về xét nghiệm HIV và nhóm MDNH là 8,7%.

Bảng 1. Biết thông tin về VCT với thời gian làm việc và nơi làm việc (N=384)

Biết thông tin về VCTThời gian làm công việc này ở TP.HCM Tổng

≥ 3 tháng Dưới 3 thángTần số % Tần số % Tần số %

Nơi làm việc

Nhóm MDĐP

Không biết 15 12,2% 6 31,6% 21 15%Biết rõ 43 35,0% 4 21,0 % 47 33%

Không biết cụ thể 65 52,8% 9 47,4% 74 52 %Tổng 123 100% 19 100% 142 100%

Nhóm MDNH

Không biết 11 5,2% 10 32,3% 21 8,7%Biết rõ 103 48,8% 7 22,6% 110 45,5%

Không biết cụ thể 97 46% 14 45,1% 111 45,8%Tổng 211 100% 31 100% 242 100%

Tỷ lệ có xét nghiệm HIV trong 6 tháng qua ở PNMD là gần 54%, trong đó có 62% MDNH xét nghiệm HIV 6 tháng qua và MDĐP là 39%. Khi phân tích đa biến về nơi làm việc theo thời gian hoạt động mại dâm và báo cáo có xét nghiệm HIV trong 6 tháng qua. Kết quả có 60% PNMD có thời gian hoạt động từ 3 tháng trở lên xét nghiệm HIV và chỉ có 24% PNMD từ dưới 3 tháng xét nghiệm. Khi phân tích giữa hai nhóm mại dâm dù có cùng thời gian hoạt động từ 3 tháng trở lên nhưng nhóm MDKS có tỷ lệ xét nghiệm HIV cao hơn hẳn so với MDĐP (66,8% so 43,1%).

Bảng 2. Nơi làm việc, theo thời gian làm việc với sử dụng VCT 6 tháng (N=374)

156

Page 31: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Xét nghiệm HIV/AIDS trong 6 tháng qua Thời gian làm công việc này ở TP.HCM Tổng≥ 3 tháng Dưới 3 tháng Tần số %Tần số % Tần số %

Nơi làm việc của

Nhóm MDĐP Không 70 56,9% 16 84,2% 86 60, 6%Có 53 43,1% 3 15,8% 56 39,4%

Tổng 123 100% 19 100% 142 100%

Nhóm MDNH Không 70 33,2% 22 71% 92 38%Có 141 66,8% 9 29% 150 62%

Tổng 211 100% 31 100% 242 100%Phân tích cũng cho kết quả những PNMD nhận thông tin từ GDVĐĐ/CTV thì tỷ lệ xét nghiệm HIV trong 6

tháng qua cao hơn hẳn so với những PNMD không nhận được thông tin từ GDVĐĐ/CTV (63% so 46%). Bảng 3. Biết thông tin về XN HIV từ đồng đẳng/CTV với xét nghiệm HIV trong 6 tháng qua (N342)Biết thông tin về XN HIV từ đồng đẳng/ cộng tác viên

(Câu B2)Xét nghiệm HIV trong 6 tháng qua Tổng

Có KhôngCó 146 (63,2%) 85 (36,8%) 231 (67,5%)

Không 51(46%) 60 (54%) 111 (32,5%)Tổng 197 145 342 (100%)

BÀN LUẬNSự phân bố giữa hai nhóm PNMD trong các đặc tính của mẫu tuổi có sự chênh lệch cao nhóm mại dâm

đường phố có độ tuổi già hơn, tuổi trung bình cũng cao hơn. Mại dâm khách sạn có độ tuổi trẻ hơn và số trên 30 tuổi chiếm tỷ lệ rất thấp. Có thể giải thích do sự khắc nghiệt và đào thải của môi trường trong các cơ sở dịch vụ vui chơi giải trí nên lớn tuổi hơn khó có thể tiếp tục hoạt động mại dâm, hoặc do lớn tuổi các MDNHphải chịu quy luật đào thải, ra đón khách ở các tụ điểm đường phố. Đó là lý do MDNH luôn trẻ, xinh đẹp và hấp dẫn hơn MDĐP.

Nghiên cứu cho thấy trên 67% PNMD hoạt động từ 3 tháng trở lên và và tương đồng với việc biết thông tin về VCT cao hơn so với các chị có thời gian hoạt động từ 3 tháng trở xuống. 48% PNMD không biết thông tin cụ thể về VCT cho chúng ta suy nghĩ về việc cung cấp thông tin của đội ngũ GDVĐĐ có thể chưa hiệu quả và chưa thật sự làm cho PNMD thấy có nguy cơ. Khi so sánh việc biết thông tin về VCT giữa hai nhóm PNMD, dù có thời gian hoạt động MD tương đồng thì số MDĐP biết rõ thông tin về VCT thấp hơn MDNH (35% so với 49%) và cũng là nhóm có tỷ lệ hoàn toàn không biết thông tin về xét nghiệm HIV cao hơn. Vì vậy có thể nói nhóm MDĐP là nhóm ít tiếp cận với thông tin về dịch vụ xét nghiệm HIV hơn so với nhóm MDKS. Một tỷ lệ khá cao PNMD được tiếp cận qua kênh bạn bè, và qua kênh truyền thông đại chúng. Giữa hai nhóm thì nhóm MDNH được PE tiếp cận và cung cấp thông tin cao hơn hẳn MDĐP (69% và 45%), nguồn thông tin từ chủ/quản lý chiếm gần 20%, trong khi MDĐP chưa tới 3%. những phát hiện này cần được xem xét để phát triển thêm các hình thức truyền thông hiệu quả và chi phí hơn.

Các yếu tố có tương quan mạnh với việc xét nghiệm và tần xuất xét nghiệm HIV là thời gian hoạt động MD trên 3 tháng, biết thông tin về VCT, được GDVĐĐ tiếp cận. Những yếu tố như tuổi, học vấn và tình trạng gia đình không có mối tương quan với sử dụng dịch vụ xét nghiệm HIV.

Nghiên cứu cho thấy MDĐP là nhóm ít tiếp cận GDVĐĐ/CTV, kiến thức HIV thấp, nhận thức HIV thấp, biết thông tin về dịch vụ VCT và địa điểm VCT ít hơn nhóm MDNH, nên khó sử dụng nếu VCT không thân thiện, không bảo mật, có thu tiền hoặc địa điểm không thuận lợi cho đi lại. Nghiên cứu đã khẳng định thêm việc cần xây dựng thái độ làm việc thân thiện của các nhân viên dịch vụ xét nghiệm để qua đó gia tăng PNMD đến sử dụng dịch vụ VCT.

KẾT LUẬNYếu tố rào cản càng nhiều khả năng tiếp cận dịch vụ hỗ trợ phòng chống HIV/AIDS càng thấp (thời gian hoạt

động mại dâm tại thành phố ngắn, tần suất gặp giáo dục viên đồng đẳng ít, học vấn thấp. Những PNMD tiếp cận thông tin về các dịch vụ VCT càng nhiều, có thời gian hoạt động bán dâm tại thành phố từ 3 tháng trở lên thì khả năng sử dụng dịch vụ này càng gia tăng.

CÁC KHUYẾN NGHỊ1. Qua nghiên cứu cho thấy nguồn thông tin qua bạn bè cùng hành nghề, qua chủ/ quản lý và qua truyền

thông đại chúng chiếm gần 50% do đó cần đẩy mạnh việc sử dụng các hình thức tiếp cận theo mạng xã hội của nhóm bán dâm. Cần nghiên cứu thêm để biết nhu cầu và mong muốn của PNMD theo từng nhóm để thiết kế các thông điệp truyền thông phù hợp. Hoạt động vận động chủ/quản lý của MDNH cần đẩy mạnh hơn nữa và nội dung thông điệp truyền thông vận động đi VCT cần được xây dựng chi tiết và cụ thể giúp GDVĐĐ/CTV truyền đạt dễ nhớ hơn.

2. Lồng ghép để xây dựng các mô hình xét nghiệm HIV phù hợp: lưu động, cố định, trả phí, miễn phí… trong đó xác định nhóm MDĐP cần được tiếp tục hỗ trợ miễn phí do tính dễ bị tổn thương và có nguy cơ cao hơn, nhóm MDNH thiết kế các can thiệp cần lưu ý đến xã hội hoá hoặc chi trả một phần.

3. Các nghiên cứu về nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế công/tư của PNMD cũng cần được thực hiện để xác định nhu cầu cũng như khẳng định khuynh hướng xử dụng hệ thống y tế này của PNMD.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

157

Page 32: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

1. Chương trình AIDS toàn cầu: đánh giá chương trình AIDS Quốc gia Geneva.1994./Global programme on AIDS. Evaluation of a national AIDS programme.

2. Bộ Y tế. Kết quả Chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam 2005-2006. Nhà xuất bản Y học, 2006: 5-16.

3. Báo cáo Viện Vệ Sinh Dịch Tể Trung Ương “Nghiên cứu hành vi và sinh học (IBBS) tại TP HCM năm 2009.

4. Báo cáo thường niên từ năm 2001- 2011. Ủy Ban Phònng chống AIDS thành phố Hồ Chí Minh/VPTT.5. Báo cáo tổng kết 15 năm chương trình can thiệp giảm tác hại phòng lây nhiễm HIV tại TPHCM (1993 -

2008). Ủy Ban Phònng chống AIDS thành phố Hồ Chí Minh/VPTT.6. Cục phòng, chống HIV/AIDS. Tình hình dịch, số liệu (http://www.vaac.gov.vn/).

TỈ LỆ TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ METHADONE VÀ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI NGHIỆN HEROIN ĐIỀU TRỊ TẠI QUẬN 6, TP HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Hằng1, Nguyễn Đỗ Nguyên2

1 Trung tâm y tế dự phòng quận 6, thành phố Hồ Chí Minh 2 Bộ môn dịch tễ, khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh

TÓM TẮTĐặt vấn đề: Tuân thủ điều trị đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong sự thành công của chương trình điều

trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone (MMT). Quận 6, TP Hồ Chí Minh đã được triển khai chương trình MMT từ năm 2008 đến nay. Tuy nhiên vẫn không có thống kê chính thức về tỉ lệ tuân thủ điều trị Methadone trong giai đoạn duy trì và các yếu tố liên quan.

Mục tiêu: Xác định tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì và mối liên quan giữa tuân thủ điều trị với các đặc điểm về dân số, tiền sử bệnh, tiền sử sử dụng chất gây nghiện và quá trình điều trị methadone.

Phương pháp: Nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu những bệnh nhân điều trị methadone tại Quận 6,Thành phố Hồ Chí Minh có hồ sơ bệnh án được mã hóa số.Dữ kiện khảo sát là dữ kiện thứ cấp từ bệnh án do bác sĩ điều trị ghi nhận sẵn và được thu thập với bộ câu hỏi soạn sẵn. Các số thống kê mô tả gồm tần số và tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì phân bố theo đặc tính mẫu. Xác định mối liên quan giữa tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì với đặc tính mẫu bằng phép kiểm chi bình phương.

Kết quả: Có tất cả 454 người được chọn vào nghiên cứu, đa số là nam, 31-40 tuổi, sống chung với gia đình (94%), 57% có trình độ học vấn thấp, thu nhập 500.000 đồng/tháng (93%), đã từng sử dụng các CDTP và thuốc lá. Liều methadone duy trì trung bình > 60mg, thời gian tham gia điều trị đa số > 24 tháng và đồng nhiễm cùng HIV (50%), VGC (50%), VGB (15%), Lao (13%). Tuân thủ hoàn toàn (63%), mức độ tuân thủ tốt (87%).Tỉ lệ tuân thủ cao có ý nghĩa thống kê ở nhóm có thời giam tham gia điều trị lâu, liều cao >120mg và có nhiễm viêm gan C.

Kết luận: Cần xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe thích hợp để phòng ngừa nghiện chích heroin trong cộng đồng cũng như mở rộng chương trình MMT để đáp ứng nhu cầu thực tế của cộng đồng.

Từ khóa: tuân thủ điều trị, methadone, MMT.SUMMARYProposal: Compliance in treatment plays an important role in the success of the Methadone medical

treatment (MMT). MMT program has been deployed in District 6, Ho Chi Minh City since 2008. However, there haven’t been any official statistics of the prevalence of Methadone treatment compliance during maintenance phase and related factors.

ĐẶT VẤN ĐỀNghiện các chất dạng thuốc phiện luôn là một vấn đề nóng và đang gây khủng hoảng toàn cầu.Trên thế

giới có khoảng 16 triệu người sử dụng chất dạng thuốc phiện bất hợp pháp; chiếm 0,4% tổng dân số trong độ tuổi từ 15 đến 64 [2]. Việt Nam tính tới cuối tháng 5 năm 2012 cả nước có 171.000 người nghiện chất dạng thuốc phiện có hồ sơ quản lý, trong đó nghiện heroin chiếm 85% [4]. Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số người nghiện cao nhất Việt Nam. Quận 6,Thành phố Hồ Chí Minh có hơn 571 người ngiện heroin đứng thứ 2 trong 24 quận huyện trên địa bàn thành phố và chương trình MMT đã được triển khai tại Quận 6 từ tháng 5 năm 2008 đến nay. Tuy nhiên, vẫn không có thống kê chính thức về tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì và các yếu tố liên quan. Nghiên cứu này được thực hiện với mục tiêu là

158

Page 33: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

xác định tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì và mối liên quan giữa tuân thủ điều trị với các đặc điểm về dân số, tiền sử sử dụng chất gây nghiện, tiền sử bệnh và quá trình điều trị methadone. Đây là nghiên cứu mở đầu và nghiên cứu này để đánh giá hiệu quả của chương trình điều trị methadone đồng thời xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe thích hợp để phòng ngừa nghiện chích heroin trong cộng đồng cũng như cung cấp những thông tin nền cần thiết cho các nghiên cứu đánh giá lâu dài sau này.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUMột nghiên cứu đoàn hệ hồi cứu những bệnh nhân điều trị methadone tại Quận 6,Tp. Hồ Chí Minh từ

năm 2008 đến năm 2013 có hồ sơ bệnh án được mã hóa số. Đối tượng được chọn vào nghiên cứu là các bệnh nhân tham gia điều trị methadone trong giai đoạn duy trì ít nhất một tháng tại thời điểm nghiên cứu. Người thu thập số liệu là nhân viên y tế tham gia điều trị, đã được huấn luyện và có giấy chứng nhận về điều trị methadone đồng thời được tập huấn về cách thu thập số liệu. Dữ kiện khảo sát là dữ kiện thứ cấp từ bệnh án do bác sĩ điều trị ghi nhận và được thu thập với bộ câu hỏi soạn sẵn. Đặc tính mẫu của đối tượng nghiên cứu được ghi nhận khi bắt đầu điều trị bao gồm nhóm tuổi (18-30, 31-40 và >40), dân tộc (kinh,khác), tôn giáo (không tôn giáo và có tôn giáo), tình trạng cư trú (ở chung với gia đình và không ở chung với gia đình), tình trạng học vấn (mù chữ, cấp 1-2 và từ cấp 3 trở lên), thu nhập cá nhân (< 500.000 đ và từ 500.000 đ trở lên), nghề nghiệp (có việc làm ổn định và không có việc làm ổn định); chất gây nghiện từng sử dụng (chất dạng thuốc phiện, ATS, cần sa, thuốc an thần, rượu/ bia và thuốc lá), hành vi nguy cơ (mại dâm, MSM, vợ/chồng nhiễm HIV. Đặc tính mẫu của đối tượng nghiên cứu được ghi nhận khi bắt đầu vào giai đoạn duy trì bao gồm liều methadone duy trì (≤ 20, >20-60, > 60-120, >120), chất gây nghiện hiện sử dụng (rượu/bia và thuốc lá), số lượng thuốc lá sử dụng (< 10, 10-20 điếu, > 20 điếu), các bệnh liên quan (HIV, VGB, VGC, lao). Dữ kiện được phân tích bằng phần mềm stata 11. Các số thống kê mô tả gồm tần số và tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì phân bố theo đặc tính mẫu. Xác định mối liên quan giữa tuân thủ điều trị methadone trong giai đoạn duy trì với đặc tính mẫu bằng phép kiểm chi bình phương. Đề cương nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng duyệt đề cương của khoa Y tế Công cộng, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh. Tất cả các thông tin của bệnh nhân được bảo mật và chỉ phục vụ cho nghiên cứu.

KẾT QUẢBảng 1: Mô tả đặc tính mẫu được ghi nhận khi bắt đầu điều trị (N=454)

Đặc điểm N (%) Đặc điểm N (%)Giới tính

Nam 424 (93)Tình trạng học vấnMù chữ và cấp 1-2 258 (57)

Nhóm tuổi31-40 295 (65)

Thu nhập cá nhân (n=267)500 000đ trở lên 248 (93)

Dân tộcKinh 369 (81)

Nghề nghiệpCó việc làm ổn định 251 (55)

Hành vi nguy cơMại dâm

MSMVợ/chồng nhiễm HIV

8 (2)7 (2)25 (6)

Chất gây nghiện từng sử dụngChất gây nghiện dạng thuốc phiện

(CDTP): HeroinATS

Cần saThuốc an thần

Ruợu biaThuốc lá

450 (99)20 (4)16 (3)8 (2)

129 (28)442 (98)

Tình trạng cư trúỞ chung với gia đình 428 (94)

Tôn giáoKhông tôn giáo 379 (83)

Bảng 2: Mô tả đặc tính mẫu khi bắt đầu vào liều duy trì (N=454)Đặc tính N (%)

Liều duy trì<20

21-6060-120>120

6 (1)60 (13)198 (44)190 (42)

Chất gây nghiện đang sử dụngRượu/biaThuốc lá

21 (5)310 (69)

Số lượng thuốc lá sử dụng<10 điếu

10-20 điếu>20 điếu

26 (8)270 (86)

16 (5)Các bệnh liên quan

HIVViêm gan BViêm gan C

Lao

223 (50)67 (15)223 (50)60 (13)

Bảng 3: Quá trình điều trị MMT được ghi nhận trong giai đoạn duy trì (N=454)

159

Page 34: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Đặc tính N (%)Thời gian điều trị

<12 tháng12-24 tháng>24 tháng

85 (19)98 (22)269 (59)

Tuân thủ hoàn toàn 386 (63)Mức độ tuân thủ

Tuân thủ tốtTuân thủ trung bình

Tuân thủ kém

393 (87)22 (5)39 (8)

Tác dụng phụ 19 (4)Tác dụng phụ (n=19)

Táo bónGỉam ham muốn tình dục

19 (100)2 (10)

Bảng 4: Mối liên hệ đặc tính mẫu được ghi nhận khi bắt đầu điều trị và tuân thủ điều trị

Đặc tính Tuân thủN (%)

RR(KTC 95%) p

Giới tínhNữ

Nam15 (50)281 (66) 1,33 (0,92- 1,91) 0,07

Nhóm tuổi18-3031-40>40

81 (64)195 (66)20 (61)

11,03 (0,88- 1,20)0,94 (0,70- 1,28)

0,720,70

Dân tộcKinhKhác

240 (65)56 (66) 1,01 (0,85- 1,20) 0,88

Tôn giáoCó tôn giáo

Không tôn giáo52 (69)244 (64) 0,93 (0,78- 1,10) 0,41

Tình trạng cư trúKhông ở chung với gia đình

Ở chung với GĐ18 (72)276 (64) 0,90 (0,70- 1,16) 0,45

Tình trạng học vấn< Cấp 3

Cấp 3 trở lên159 (62)135 (69) 1,12 (0,98- 1,28) 0,10

Nghề nghiệpKhông có việc làm

Có việc làm126 (62)168 (67) 1,09 (0,95- 1,25) 0,23

Thu nhập cá nhân< 500 000 đ

500 000đ trở lên11 (58)166 (67) 1,16 (0,78- 1,71) 0,42

Bảng 5: Mô tả đặc tính mẫu khi vào liều duy trì và tuân thủ điều trị

Đặc tính Tuân thủN (%)

RR(KTC 95%) p

Liều duy trì<60

60-120>120

49 (75)125 (63)119 (62)

10,84 (0,71- 1,00)0,84 (0,70- 0,99)

0,050,04

Uống rượu biaKhông

Có282 (65)12 (57) 0,87 (0,60- 1,27) 0,43

Hút thuốc láKhông

Có99 (70

195 (63) 0,90 (0,79- 1,04) 0,15

Thời gian điều trị<12 tháng

12-24 tháng>24 tháng

64 (75)73 (74)157 (58)

10,99 (0,84- 1,17)0,76 (0,66- 0,91)

0,900,002

Tác dụng phụ

160

Page 35: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KhôngCó

281 (65)11 (58) 0,89 (0,60- 1,31) 0,51

HIVKhông

Có146 (64)146 (65) 1,02 (0,89- 1,17) 0,80

Viêm gan BKhông

Có248 (65)44 (66) 1,01 (0,84- 1,22) 0,88

Viêm gan CKhông

Có158 (70)134 (60) 0,86 (0,75- 0,99) 0,03

LaoKhông

Có259 (66)33 (55) 0,83 (0,65- 1,05) 0,08

Có tất cả 454 người được chọn vào nghiên cứu khi bắt đầu chương trình MMT đa số là nam trong nhóm tuổi 31-40, độc thân, phần lớn sống chung với gia đình, có 46% trình độ văn hóa mù chữ và cấp 1-2, chỉ có 57% có việc làm ổn định và thu nhập từ 500.000 đồng/tháng, chủ yếu là nghiện heroin (99%) (bảng 1). Liều methadone duy trì từ 60-120 và > 120 chiếm tỉ lệ tương đối bằng nhau, và có 98% có hút thuốc lá và đồng nhiễm HIV (50%), VGC (50%) và nhiễm VGB thấp (bảng 2). Thời gian tham gia chương trình > 24 tháng chiếm đa số, 63% tuân thủ hoàn toàn và mức độ tuân thủ tốt trong suốt giai đoạn duy trì là 87% (bảng 3). Không có mối liên quan nào giữa đặc tính mẫu và tuân thủ điều trị (bảng 4). Tỉ lệ tuân thủ điều trị cao có ý nghĩa thống kê ở nhóm tham gia điều trị lâu, liều cao >120mg và mắc VGC (bảng 5).

BÀN LUẬNĐặc tính của những người nghiện heroin điều trị methadone tại Quận 6, Tp.Hồ Chí Minh: Nhóm tuổi gặp

nhiều nhất 31-40 tuổi, nam chiếm đa số, trình độ văn hóa thấp, do đó công tác tuyên truyền các kiến thức vế phòng ngừa nghiện chích heroin cho họ gặp rất nhiều khó khăn. Như vậy công tác tuyên truyền phòng tránh nghiện chích heroin cần đa dạng hơn về mọi mặt để có những biện pháp tuyên truyền hữu hiệu. Đa số các đối tượng nghiện heroin không có việc làm ổn định và thu nhập không cao nên sống ràng buộc hoàn toàn hoặc một phần vào gia đình hoặc xã hội. Các đối tượng nghiện heroin thường đồng nhiễm chung với HIV và VGC cao, trong khi VGB trong nhóm điều trị MMT không cao so với dân số trong cộng đồng có thể do VGB đã có vaccine phòng bệnh và đã tiêm ngừa rộng rãi trong cộng đồng từ nhiều năm nay nên có miễn dịch với HBV. Tỉ lệ nhiễm Lao là 13% gấp 3 lần so với tỉ lệ nhiễm Lao trong cộng đồng là 4,6%. Một trong những nguyên nhân có thể là do các đối tượng đồng nhiễm HIV, nghiên cứu cho thấy 13% đối tượng nhiễm HIV có đồng thời nhiễm Lao. Ngoài ra còn có thể do sự suy yếu của cơ thể khi bị lệ thuộc các CDTP dẫn đến việc cơ thể thiếu hụt miễn dịch dễ mắc các bệnh truyền nhiễm.

Tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone: Tỉ lệ tuân thủ điều trị methadone hoàn toàn (65%), tuân thủ tốt (87%). Do chưa có các nghiên cứu tương tự nên chúng ta không có số liệu cụ thể để so sánh. So sánh với mức độ tuân thủ điều trị ARV, nghiên cứu cắt ngang tại TPHCM mức độ tuân thủ chiếm 69% [3] và tại Vũng Tàu (95%) [1]. So sánh với mức độ tuân thủ trong điều trị Lao thì tỉ lệ này tương đối giống nhau. Mức độ tuân thủ điều trị ở mỗi nghiên cứu có khác nhau là tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Thứ nhất là việc ảnh hưởng của các yếu tố dân tộc, xã hội của đối tượng nghiên cứu. Thứ hai, cách đo lường tuân thủ và mức độ tuân thủ của các chương trình khác nhau cũng khác nhau.

Những yếu tố liên quan với tuân thủ điều trị methadone: Tỉ lệ tuân thủ điều trị cao có ý nghĩa thống kê ở nhóm tham gia điều trị lâu >24 tháng và mắc VGC. Thời gian điều trị càng dài thì mức độ tuân thủ càng cao, các y văn trước đây cũng chứng minh được điều tương tự [5]. Khi các đối tượng tham gia chương trình càng dài thì mức độ lệ thuộc heroin ngày càng cải thiện, đồng thời các đối tượng sẽ nhận thấy được lợi ích từ chương trình MMT nếu tuân thủ điều trị tốt. Ngoài ra còn có thể do thời gian càng dài, các đối tượng không tuân thủ có khả năng đã dừng chương trình, chỉ còn lại các đối tượng ngay từ đầu đã tuân thủ điều trị. Nguy cơ tuân thủ của nhóm có liều <60mg (75%) và >120mg (63%), khác với nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy liều càng cao thì khả năng không tuân thủ càng cao [6]. Điều này có thể là do các đối tượng trong nghiên cứu các mức phân bố liều duy trì khác nhau, trong khi ở Trung Quốc liều tiêu chuẩn dùng để so sánh là <20mg tại nghiên cứu này là 60mg.

Những điểm mạnh và hạn chế của nghiên cứu Nghiên cứu không tránh khỏi bỏ sót những đối tượng nghiện heroin không được tham gia chương trình MMT. Dù đã chọn mẫu toàn bộ nhưng mẫu nghiên cứu chưa đủ lớn để đánh giá các mối liên quan.

Kết quả nghiên cứu cho thấy cần xây dựng chương trình giáo dục sức khỏe thích hợp để phòng ngừa nghiện chích heroin trong cộng đồng cũng như mở rộng chương trình MMT để đáp ứng nhu cầu thực tế của cộng đồng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

161

Page 36: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

1. Phạm Minh An (2011), “Tỉ lệ tuân thủ điều trị ARV và các yếu tố liên quan ở bệnh nhân HIV/AIDS người lớn tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu năm 2010”, Luận án chuyên khoa II Quản lý y tế.

2. Nguyễn Hữu Đức (2007), “Tác hại của ma túy và chất gây nghiện”, Trường ĐHYD - TP. HCM, http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/data/news/2003/12/1830/xxxtachaicuamatuyvachatgaynghien.htm, accessed on 14 may 2012.

3. Hà Thị Minh Đức (2009), “Kiến thức thực hành về tuân thủ điều trị bênh nhân HIV/AIDS tại phòng khám ngoại trú quận 10 thành phố Hồ Chí Minh năm 2009”.

4. Ministry of Public Security, "Vietnam National Report on Situation of Illicit Drugs in 2011 and the first 6 months on 2012”.

5. Osterberg L, Blaschke T(2005), “Drug therapy: Coherence to medication”, NEJM, 487-946. Xiao L, Wu Z et al (2011), “Quality of life of outpatients in Methadone Maintenance Treatment clinics”

J.J Acquir Immune Defic Syndr, 53(1), 116-20.

FANSIPAN CHALLENGE: AN INNOVATIVE MODEL TO INCREASE HIV TESTING AND COUNSELING UPTAKE

AMONG KEY AFFECTED POPULATIONS IN HO CHI MINH CITY

Authors: Son, Vo Hoang 1; Ban, Le T. 1; Hanh, Nguyen Thu1; Hue, Nguyen Thi2; Hai, Nguyen Van2; Cong, Bui Khanh3; Hai, Nguyen Quoc3; Deen Gu1, Caroline Francis1

1 Family Health International (FHI 360)2 Provincial AIDS Committee of Ho Chi Minh City

3 MMT patients

SUMMARYKeywords: Challenge, expedition leaders, Information Communication Technologies, peer-driven, PWID,

HIV, Vietnam.Issue: The traditional Peer education outreach model is expensive, coverage of the prevention program

was 29% of PWIDs in HCMC and referrals PWIDs to HIV testing Counseling (HTC) uptake is limited (22% in 2012). External donor funding declines across many health-related areas nationwide and the Government of Vietnam takes on greater ownership. Cost-effective and sustainable outreach innovative to increase HTC uptake and link to care & treatment among PWID networks in HCMC is critical.

Project: HCMC-PAC with technical and financial support from USAID/ SMARTA has implemented the Fansipan Challenge, which part game, part interpersonal communications intervention, uses peer- driven approach to reach PWID and their sexual/injecting partners to promote HTC uptake and link to care &treatment services. Those reached by the expedition leaders become members of his team, with points awarded for successful testing uptake and enrollment in HIV care & treatment. Contacts, testing and HIV care & treatment enrollment are recorded by ICT system with data inputs via mobile telephones by leaders after a contact and by members themselves after being tested. SMS messages are provided weekly as the challenge promotional strategy and various prizes are awarded for team/individuals who first “reach the peak”. The Challenge started on May 31st with 14 expedition leaders in 7 teams.

Results: Status Report (June 3 – September,31, 2013).425 people were reached306 or 72% individuals were assessed as "high risk" 249 or 58.58% of people- tested for HTC 181 or 42.58% of these individuals were first time testers58 or 23.29% of HIV overall positivity rate recorded15 enrolled in care/treatment4 LTFUs enrolled in care/treatmentLessons learned:The initial success of Fansipan suggests that alternative outreach models are feasible in Vietnam. Even

more importantly, these models can be monitored and revised to meet the changing needs of clients through the creative use of mobile technologies.

TÓM TẮT

162

Page 37: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Từ chính: Thách thức, đội trưởng, hệ thống công nghệ thông tin, Mạng lưới đồng đẳng, Người tiêm chích ma túy, HIV, Việt Nam. 

Thông tin chung:Chương trình can thiệp dự phòng HIV hiện tại mới chỉ tiếp cận được 1/3 số người tiêm chích ma túy

(TCMT), mô hình giáo dục đồng đẳng truyền thống chi phí cao, tỷ lệ chuyển gửi thành công tới dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV thấp. Các nguồn viện trợ Quốc tế cho lĩnh vực y tế của Việt Nam đang giảm dần đòi hỏi chính phủ VN tăng nguồn lực trong nước và sự tự chủ trong đáp ứng với dịch HIV/AIDS. Chương trình dự phòng cần áp dụng cách tiếp cận mới, có thể duy trì bằng nguồn lực của nhà nước, nhằm tăng tiếp cận và tăng sử dụng dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV và nối kết chăm sóc- điều trị trong mạng lưới người TCMT ở TP.HCM. 

Chương trình:Ủy ban Phòng chống AIDS TPHCM (PAC) với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chánh từ USAID/ SMARTA đã thí

điểm triển khai mô hình can thiệp có tên là Thách thức Fansipan. Mô hình này là sự kết hợp giữa trò chơi leo núi, tiếp cận nhân rộng mạng lưới người TCMT và bạn tình/bạn chích của họ bắt đầu với hạt nhân là bệnh nhân MMT và hệ thống công nghệ thông tin nhắn tin trên điện thoại di động nhằm thúc đẩy sử dụng dịch vụ tư vấn xét nghiệm HIV (HTC) và nối kết với các dịch vụ chăm sóc điều trị. Những bệnh nhân MMT, hạt nhân của mạng lưới, sẽ là các đội trưởng của cuộc đua leo lên đỉnh núi Fansipan và họ sẽ tiếp cận những người TCMT khác trong mạng lưới của họ, kết nạp họ làm thành viên mới của đội, ghi điểm cho đội của mình và tăng thêm điểm khi các thành viên mới sử dụng dịch vụ HTC và đăng ký tiếp vào chương trình chăm sóc và điều trị. Hệ thống công nghệ thông tin à (ICT) sẽ tự động ghi lại lượt tiếp cận, sử dụng dịch vụ HTC, chuyển gửi đến các dịch vụ chăm sóc và điều trị thông qua các tin nhắn được gửi trực tiếp từ các đội trưởng sau mỗi lần liên hệ và bởi chính các thành viên sau khi xét nghiệm HIV. Hệ thống ICT còn gửi tin nhắn cung cấp thông tin và thông điệp truyền thông thay đổi hành vi, khuyến khích các thành viên tích cực tham gia tiếp cận và làm XN HIV để tích đủ điểm cho đội mình nhanh về đích.Thách thức bắt đầu từ ngày 31 tháng 5 với 14 đội trưởng trong 7 đội.

Kết quả: Báo cáo giai đoạn (3/6 – 31/9/ 2013)425 người được tiếp cận306 hay 72% những cá nhân được đánh giá nguy “cơ cao” 249 hay 58,58% người xét nghiệm HIV 181 hay 42,58% những người này xét nghiệm lần đầu 58 hay 23,29% nhiễm HIV được ghi nhận 19 người được nối kết với chương trình chăm sóc- điều trị (trong đó bao gồm 4 trường hợp bỏ điều trị

được nối kết điều trị lại)Bài học: Các kết quả ban đầu của Thách thức Fansipan cho thấy mô hình này có thể huy động sự tham gia của

chính người hiện đang hưởng lợi (bệnh nhân MMT) tiếp cận thêm nhiều nhóm đích trong mạng lưới của họ, từ đó tăng tỷ lệ sử dụng dịch vụ TVXN HIV tại TP HCMC. Mô hình này có thể được theo dõi và điều chỉnh để đáp ứng tốt hơn với nhu cầu của đối tượng đích và áp dụng cho các can thiệp khác, đặc biệt là hệ thống công nghệ thông tin mạng trực tuyến, tích hợp tin nhắn trên điện thoại di động. 

Background:Ho Chi Minh City (HCMC) is located in the south region of Viet Nam. It is described by the World Health

Organization and others as a high burden area for HIV and concentrated among most-at-risk-population groups including people who inject drugs (PWID), men who have sex with men (MSM) and female sex workers (FSW)). Although the number of newly HIV infected people identified each year is declining, it remains as high as 4,000 -5,000 new infections identified each year. HIV prevalence among MARPs ranges from 47.8% (IBBS 2009) among people who inject drugs (PWID) [although according to the HIV sentinel surveillance among PWID trends are decreasing from 51.8% to 29.3% (2008 – 2012)], 16.7% (IBBS 2009) among men who have sex with men (MSM), and 16% (IBBS – 2009) among both street and EE based female sex workers (FSWs).

Vietnam moves into middle-income country status, it is clear that external funding for HIV prevention and care is declining. Programs now must be more economical – to foster Government and civil society ownership - more impactful - to avert HIV infections – and more sustainable than ever before. As the traditional Peer education outreach model is expensive, coverage of the prevention program was 29% of PWIDsi in HCMC. Besides that, PEs have reached “current clients”, however it has not expanded to new/hidden client networks and referrals PWIDs to HIV testing Counseling (HTC) uptake is limited (22% in 2012). Moreover, the need for increasing the participation, ownership and responsible shared from target population such as MMT patients help themselves & their friends. Cost-effective and sustainable outreach innovative to increase HTC uptake and link to care & treatment among PWID networks in HCMC is critical.

Project:

163

Page 38: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

HCMC AIDS Committee (PAC) with technical and financial support from USAID/ SMARTA has implemented the Fansipan Challenge, which was initiated for extending and strengthening prevention efforts among high risk drug use networks by involving active MMT patients in district 8 and Binh Thanh District to reach unexposed drug use/their sexual partner networks to increase HIV testing and counseling uptake among PWIDs networks as link care and treatment service as well in Ho Chi Minh city. Part game, part interpersonal communications intervention, the Fansipan challenge uses peer- driven approach with MMT patients as the first and second seeds to reach PWID and their sexual/injecting partner networks with HIV testing and counseling service promotional messaging. Those reached by the expedition leaders become part of his team, with points awarded for successful testing uptake and enrollment in HIV care & treatment. Teams strive to reach 3143 points over a six-month period, or the height of Fansipan Mountain (3143 meters). Contacts, testing and HIV care & treatment enrollment are recorded by Information Communication Technology (ICT) system with data inputs via mobile telephones by leaders after a face to face contact and by members themselves after being tested. SMS messages are provided biweekly as the challenge promotional strategy and various prizes are awarded for team/individuals who first “reach the peak”.

Fansipan Challenge tests assumptions about outreach methodologies in Vietnam and responds to challenge that influence who we reach and how we reach them. The Challenge strives to:

Go beyond traditional outreach networks by using methadone maintenance treatment clients to access drug users and their partners who are not regularly exposed to HIV prevention and care services. The Challenge uses peer-driven approaches to expand coverage across a variety of hard-to-access drug use networks. Peers receive no monthly stipend for their efforts and just one day of orientation before the Challenge begins.

Test the utility of mobile technologies as a critical and cost-effective component of a country-owned response. In the Challenge, mobile technologies are used to follow up clients; record HIV testing uptake; and provide promotional messaging in place of continuous (and expensive) face-to-face contacts. The Fansipan ICT system tracks coverage, illustrates networks, and verifies service uptake. Can mobile technologies replace some labor-intensive components of outreach, particularly follow up contacts and monitoring? Are digital channels “safe spaces” for key affected populations to share private information? Fansipan Challenge wants to find out...

Engage vulnerable people and mobilize demand for services through creative communications. It’s clear that information alone is not enough to promote positive behaviors. Gamification – where game thinking and mechanics leverage people’s natural desires for competition, achievement and status – rewards players who accomplish desired tasks, like being tested for HIV.

Who will reach the summit?Seven teamsThree “expedition leader” roundsUp to 406 persons reached1 in 3 individuals assessed as “high needs or focus” category70% - or 284 individuals - test for HIVAccumulating points helps teams “move up the mountain”The Fansipan Challenge awards points for the following behaviors:15 points per contact60 points for HIV testing uptake250 points for HIV care/treatment enrollment The goal: 3143 point or the height of Fansipan mountain (3143 meters)Points are awarded to teams, not individuals. To accumulate enough points, “expedition” leaders build up

their teams and encourage individuals to test for HIV and enroll in care and treatment services if they are HIV positive. Uptake is verified through Fansipan system linkages with the National HIV Testing database and care and treatment clinic enrollment records.

“What’s in it for expedition Leaders”? Fansipan Challenge rewardsThe Fansipan Challenge rewards positive behaviors. Individuals who provide their HIV testing code to the

Fansipan ICT system automatically receive a mobile telephone top up credit. “Climbers” also have the opportunity to win Fansipan merchandise and gift certificates during Fansipan Challenge special events that take place over the 6- month period. Summit Awards for expedition leaders and team members include Samsung smartphones, HCMC Certificates of Contribution, and restaurant/travel vouchers.

How are we doing? The Fansipan Challenge records program progress in real-time. After four months of programming, the first and second round of expedition leaders are wildly exceeding our reach estimates. Three of the seven teams have over reached the summit, which suggests that the length of the Challenge can be reduced from six months to three months and then cascaded to new rounds, with new leaders reaching new people.

Fansipan’s focus on behaviors – particularly testing for HIV – is reaping positive results (see expedition Update in text box and graphics next page). Of the 425 individuals reached, 306 persons (or 72%) were assessed as high risk or “focus”. 249 persons – 58.58% - tested for HIV after contact with the expedition

164

Page 39: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

leader and used the Fansipan ICT system to text in their HTC codes. Fansipan strives to access those who may not be served by traditional outreach programming. Of

individuals testing for HIV, 42.58% indicated that this was the first time they had been tested. The overall HIV positivity rate stands at 23.29%, suggesting that Fansipan is indeed targeting highest risk individuals. Four persons, who were lost to follow up and have currently been enrolled in HIV care and treatment services by peer expedition leader efforts.

Results: Status Report (June 3 – September 31, 2013)The Fansipan Challenge records program progress in real-time. Here’s initial results:425 people were reached306 or 72% individuals were assessed as "high risk" 249 or 58.58% of people- tested for HTC 181 or 42.58% of these individuals were first time testers58 or 23.29% of HIV overall positivity rate recorded15 enrolled in care/treatment4 LTFUs enrolled in care/treatment

Note: 19 people enrolled in Care and treatment including 4 people, who lost to follow up & 15 new infected people.

Team Reach H+ PercentageBao Lua 99 9 9.09%

Bao Tuyet 15 2 13.33%Gio Loc 30 1 3.33%Mua Bao 50 5 10.00%Thac Lu 114 27 23.68%Tia chop 100 14 14.00%Sam Set 17 0 0.00%

Total 425 58

Fansipan’s focus on behaviors – particularly testing for HIV – is reaping positive results. Comparable data from 12 HIV testing sites in Ho Chi Minh City indicate that just 20 HIV tests are performed among people who inject drugs each month. Fansipan will conduct further analyses of uptake data to illustrate the number of persons re-testing for HIV, newly testing positive, etc. as we continue the climb to the summit

Lessons learnt:Strong support and smooth coordination between MMT, HTC, OPC at district & city level from PAC.Timely supportive supervision from the technical team (MMT counselors, PAC coordinator, USAID,

165

Page 40: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

SMARTTA) to expedition leaders.MMT counselors’ role is very important as directly management & support to expedition leaders.The new model has implemented and adapted a little bit based on needs and issues of expedition

leaders.Recruiting “right expedition leaders”, who are committed, enthusiasm and patient to take part in the

Fansipan Challenge are successful initial steps of the program. A challenge keeps “ expedition leaders’ willing” in recruiting new team members and refer them to HTC

uptake and enroll in care treatment. Regularly shared experience between expedition leaders & documented & shared the implementation

steps. Good ICT system and IT administrator.Conclusion - Mountain climbing in other localesUSAID/SMART TA will continue to support the HCMC PAC to implement, monitor and refine the

Fansipan Challenge over the coming two months. The Challenge will then be expanded to Hai Phong (and selected North provinces) as per the lessons learned in Ho Chi Minh City.

Fansipan’s ICT system will be adapted for use with other vulnerable populations, particularly MSM and FSWs. Here the system will be linked to USAID/SMART TA’s social media engagement strategy that strives to increase demand and uptake of critical HIV services through a variety of media and interpersonal channels.

The initial success of Fansipan suggests that alternative outreach models are feasible in Vietnam. Even more importantly, these models can be monitored and revised to meet the changing needs of clients through the creative use of mobile technologies. USAID/SMART TA looks forward to “climbing more mountains” as it trials different approaches for positive health impact in Vietnam.

SỬ DỤNG MA TÚY TỔNG HỢP DẠNG AMPHETAMINE (ATS) TRONG NHÓM NAM QUAN HỆ TÌNH DỤC ĐỒNG GIỚI (MSM) TẠI VIỆT NAM

Bùi Thị Minh Hảo1, Nguyễn Văn Hùng2, Phạm Đức Mạnh2,Lê Minh Giang1, Todd P. Korthuis3

1Trường Đại học Y Hà Nội, Việt Nam2Cục phòng chống HIV/AIDS

3Đại học Khoa học và Sức khỏe Oregon, Hoa Kỳ

TÓM TẮTĐặt vấn đề: Mặc dù dịch HIV tại Việt Nam tập trung trong nhóm tiêm chích ma túy, ngày càng nhiều

bằng chứng cho thấy sử dụng ATS, đặc biệt tại thành thị đang tăng trong các nhóm đối tượng có nguy cơ cao. Nghiên cứu này tiến hành tại 3 thành phố lớn nhằm xác định tỷ lệ sử dụng ATS và mối liên quan với hành vi tình dục không an toàn trong nhóm MSM.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu ngang trên 270 nam 18 – 45 tuổi, quan hệ tình dục đồng giới trong 30 ngày qua sử dụng phương pháp chọn mẫu đối tượng giới thiệu đối tượng tại Hà Nôi, Đà Nẵng, và Hồ Chí Minh năm 2011. Phân tích đa biến xác định mối tương quan giữa sử dụng ATS với hành vi tình dục không an toàn.

Kết quả: Tuổi trung bìnhcủa đối tượng là 23,3 (SD 5,7); 42.8% có trình độ học vấn cấp 3 trở lên, 14,1% hiện sống với vợ/ bạn tình và 13,3% sử dụng heroin trong năm qua. 85,9% đã từng và 73,3% hiện đang sử dụng ATS, trong đó 55,9% sử dụng theo đường uống, 37,4% hút. Lý do sử dụng ATS lần đầu là do bạn bè (69,6%), tò mò (57,0%); 51,9% sử dụng ATS lần đầu tiên cùng với rượu. Số bạn tình trung bình trong tháng qua là 3 (SD 4,3), 62,0% không thường xuyên sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục. Phân tích đa biến cho thấy trình độ học vấn cấp 3 trở lên (aOR 0,34, 95% CI 0,18 0,65), đang sử dụng ATS (aOR 2,04, 95% CI 1,09 3,81) tương quan với hành vi tình dục không an toàn trong năm qua.

Kết luận: Tỷ lệ MSM trong nghiên cứu sử dụng ATS là rất cao và có liên quan đến hành vi tình dục không an toàn. Điều này cho thấy việc mở rộng can thiệp giảm sử dụng ATS trong nhóm MSM là cần thiết trong chương trình phòng chống HIV tại Việt Nam.

Từ khóa: Ma túy tổng hợp dạng Amphetamine (ATS), nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), Việt Nam.SUMMARY

166

Page 41: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Background: While the HIV epidemic in Vietnam has been driven by heroin injection, growing evidences show that ATS consumption has increased, especially in urban settings, among some high risk populations. This study was conducted in three big cities in order to explore the prevalence of ATS use and examine its association with unprotected sex among MSM.

Method: A cross-sectional survey was conducted in 2011 among 270 MSM recruited through snowballing in Hanoi, Da Nang and Ho Chi Minh city. Multivariate analysis examined the association between ATS use and unprotected sex.

Result: Participants had a mean age of 23.3 (SD 5.7); 42.8% had high school education or higher, 14.1% were living with a spouse or sexual partner and 13.3% also used heroin in the last year. ATS use was prevalent with 85.9% reporting lifetime and 73.3% reporting current use, of which 55.9% reported oral intake and 37.4% smoked ATS. First-time ATS use was in the context of peer pressure (69.6%), curiosity (57.0%), concomitant alcohol use (51.9%). 62.0% reported having unprotected sex with a mean of 3 (SD 4.3) sexual partners. In multivariable analysis, higher education (aOR 0.34, 95% CI 0.18 0.65), and current ATS use (aOR 2.04, 95% CI 1.09 3.81) were associated with having unprotected sex.

Conclusion: ATS use was high prevalent among MSM in our study and was associated with unprotected sex. This suggests that an expansion of intervention to reduce ATS use among MSM is needed to prevent further HIV transmission in Vietnam.

Keywords: Amphetamine-Type Stimulants (ATS), Men who have sex with men (MSM), Unprotected sex, Vietnam.

ĐẶT VẤN ĐỀTheo cơ quan phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hiệp quốc (UNODC), tình trạng sử dụng các

chất kích thích dạng amphetamine (ATS) đang gia tăng một cách đáng lo ngại trong nhóm thanh thiếu niên tại tất cả các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam [7]. Nghiên cứu gần đây ở một số quốc gia châu Á gồm Thái Lan và Campuchia cho thấy việc sử dụng ATS rất phổ biến trong nhóm thanh thiếu niên, đặc biệttrong các nhóm có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV là nữ mại dâm (FSW) và nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM), trong khi nghiên cứu tại Mỹ cho thấy ATS được sử dụng rất phổ biến trong nhóm MSM [4], [5]. Nghiên cứu IBBS tại Việt Nam cho thấy tỷ lệ MSM sử dụng các chất gây nghiện trong nhóm MSM ở Hà Nội (HN) tăng từ 22,8% (2006) lên 31,8% (2009) và thành phố Hồ Chí Minh (HCM) từ 21,0% lên đến 25,3% trong cùng thời gian này [1], [3]. Năm 2010 – 2011, trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS, trường Đại học Y Hà Nội với sự tài trợ của Văn phòng liên hiệp quốc phòng chống ma túy và tội phạm (UNODC) đã tiến hành một điều tra về tình hình sử dụng ATS xuất hiện ở Việt Nam là hồng phiến, thuốc lắc và đá nhóm trong nhóm MSM, FSWs và nam sử dụng ma túy. Bài viết này sử dụng một phần kết quả của nghiên cứu trên với hai mục tiêu nghiên cứu:1. Mô tả thực trạng sử dụng các chất ma túy tổng hợp dạng amphetamine trong nhóm nam bán dâm đồng giới tại Việt Nam. 2. Xác định mối liên quan giữa sử dụng ma túy tổng hợp dạng amphetamine với hành vi tình dục có nguy cơ.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐối tượng nghiên cứuNam giới từ 18 – 45 tuổi, có quan hệ tình dục đồng giới trong 30 ngày qua tự nguyện tham gia nghiên

cứu.Thời gian nghiên cứu: Tháng 12/2010 đến tháng 5/2011.Địa điểm nghiên cứu: Hà Nội, Hồ Chí Minh.Cỡ mẫu nghiên cứuCỡ mẫu nghiên cứu tổng thể là 270 đối tượng, trong đó tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là 100 đối

tượng, tại Đà Nẵng là 70 đối tượng tham gia nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu và chọn mẫuĐiều tra cắt ngang sử dụng phương pháp đối tượng giới thiệu đối tượng cho đến khi đạt đủ cỡ mẫu cần

thiết.Đạo đức nghiên cứuĐề cương nghiên cứu đã được hội đồng đạo đức trường ĐHYHN thông qua.Sự tham gia nghiên cứu của đối tượng là tự nguyện và vô danh.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUThông tin chung về đối tượng nghiên cứuBảng 1: Các đặc điểm nhân khẩu và xã hội của đối tượng nghiên cứu

Đặc điểm Tổng(N = 270)

ATS (-)(N = 72)

ATS (+)(N = 198) Giá trị p

Tuổi trung bình 23,3 ± 5,7 23,7 ± 6,5 23,2 ± 5,4 0,495Trình độ học vấn cấp 3 trở lên 43,0 71,1 38,4 0

Hiện sống cùng gia đình 54,4 55,6 54,0 0,825Hiện đang đi làm 77,0 84,2 75,9 0,257

Thu nhập

167

Page 42: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Dưới 2 triệu đồng/tháng 33,0 39,5 31,90,6432 – 3 triệu đồng/tháng 33,3 28,9 34,1

Trên 3 triệu đồng/tháng 33,7 31,6 34,0Sử dụng heroine 12 tháng qua 13,3 6,9 15,7 0,063

Đã từng xét nghiệm HIV 65,9 73,6 63,1 0,108Bạn tình đồng giới 30 ngày qua

Một bạn tìnhHai bạn tình

Ba bạn tình trở lên

44,424,830,8

57,117,225,7

39,827,632,6

0,038

Nhận xét: Đối tượng tham gia nghiên cứu có tuổi trung bình là 23,3 (SD = 5,7), có trình độ học vấn cao, và hiện đang có công việc mang lại thu nhập thường xuyên. 71,1% đối tượng không sử dụng ATS có trình độ học vấn từ cấp 3 trở lên, khác biệt có ý nghĩa thống kê so với 38,4% đối tượng trong nhóm đang sử dụng ATS. Nhóm sử dụng ATS có tỷ lệ sử dụng heroin cũng như có nhiều hơn 1 bạn tình đồng giới trong 30 ngày qua cao hơn nhóm không sử dụng ATS, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê

Thực trạng sử dụng ma túy tổng hợp trong nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới tại Việt Nam

Biểu đồ 1: Tỷ lệ sử dụng ATS của MSM tại Việt Nam

Nhận xét: 85,9% đối tượng đã từng, và 73,3% hiện đang sử dụng một trong các loại ATS, trong đó tỷ lệ đã từng thử thuốc lắc là cao nhất (81,9%). Tỷ lệ đối tượng đã từng sử dụng hàng đá khá tương đồng với tỷ lệ hiện đang sử dụng (khoảng 57%).

Bảng 2: Đặc điểm lần sử dụng ATS đầu tiênHồng phiến (n = 29) Thuốc lắc (n = 221) Đá (n = 156)

Địa điểm sử dụng lần đầu tiênNhà riêng 13,8 2,7 10,2

Nhà của bạn bè/ bạn tình 17,2 7,7 24,0Bar, Sàn nhảy 34,5 70,6 8,9

Khách sạn/ Nhà nghỉ 27,6 14,0 51,4Khác 6,9 4,5 5,5

Lý do sử dụng lần đầu tiênTò mò, muốn biết tác dụng 51,7 60,6 55,8

Muốn phê 27,6 16,3 21,8Bạn bè rủ sử dụng 72,4 75,1 73,1

Bạn tình rủ sử dụng 13,8 12,2 10,9Người bán ATS rủ sử dụng 6,9 0,5 1,3

Khác 0,0 6,8 4,5Cách sử dụng ATS lần đầu tiên

Hút 31,0 0,0 76,8Hít 20,7 0,0 15,5

Uống 48,3 92,3 6,4Khác 0,0 7,7 1,3

Chất sử dụng cùng ATSKhông 34,5 23,6 63,5Rượu 37,9 59,3 23,7Heroin 6,9 0,0 0

Các chất khác 20,7 18,1 14,1Người sử dụng ATS cùng

Bạn bè 89,7 95,0 94.,2Bạn tình 13,8 13,6 9,6

Khách hàng mua dâm 6,9 2,3 1,9Khác/Sử dụng một mình 3,5 1,4 2,6

Nhận xét: Trong khi có sự tương đồng trong lý do cũng như người cùng sử dụng trong lần sử dụng đầu

168

Page 43: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

thì địa điểm sử dụng đầu tiên của từng loại ATS lại cho thấy sự khác biệt đáng kể: phần lớn đối tượng sử dụng thuốc lắc tại sàn nhảy (70,6%), và sử dụng đá tại các địa điểm kín đáo, riêng tư . Phần lớn đối tượng dùng đá lần đầu tiên theo cách hút (76,8%), thuốc lắc theo cách uống (92.,3%), hồng phiến theo nhiều cách sử dụng khác nhau gồm uống, hút và hít. Gần 60% đối tượng dùng thuốc lắc cùng với rượu trong lần sử dụng đầu tiên.

Bảng 3: Mối tương quan giữa sử dụng ATS với hành vi tình dục không an toàn sử dụng phân tích đơn biến và đa biến (n=270).

Không sử dụng bao cao su thường xuyên khi QHTD

n (%)Giá trị p OR (95%CI) OR (95%CI)

Phân tích đơn biến Phân tích đa biếnTuổi

0,321≤ 26 tuổi (n = 214) 134 (63,2%) 1,0 --≥ 27 tuổi (n = 56) 31(57,4%) 0,74 (0,41 - 1,34)Trình độ học vấn

0,007≤ Cấp 3 (n = 154) 107 (69,5%) 1,0 1,0> Cấp 3 (n = 116) 62 (53,5%) 0,53 (0,32 - 0,88) 0,34 (0,18 – 0,65)

Hiện đang sống cùngBạn bè 84 (49,7%) 0,043 1,0 1,0

Thành viên gia đình 85 (50,3%) 1,68 (1,0 –2,77) 1,62 (0,88 – 2,96)Hiện đang đi làm

0,463Không (n=62)Có (n=208)

36 (58,1%)133 (63,9%)

1,01,17 (0,66 – 2,1) --

Thu nhập

0,1<2 triệu (n=89) 54 (60,7%) 1,0 --2 – 3 triệu (n = 90) 64 (71,1%) 1,36 (0,74–2,52)>3 triệu (n = 91) 50 (56,0%) 0,79 (0,44–1,43)

Đang sử dụng ATS0,004Không (n = 72)

Có (n = 198)35 (48,6%)

134 (67,7%)1,0

2,08 (1,19-3,61)1,0

2,04 (1,09 – 3,81)Sử dụng heroin

0,623Không (n = 234)Có (n = 36)

148 (63,3%)21 (58,3%)

1,01,14 (0,56 - 2,33)

1,02,08 (0,92 – 4,68)

Đã từng xét nghiệm HIV0,001Không (n = 92)

Có (n = 178)70 (76,1%)99 (55,6%)

1,02,56 (1,47-4,47)

1,02,23 (1,2 – 4,15)

Số bạn tình đồng giới 30 ngày qua

1 74 (44,3%) 0,6881,0

1,02 44 (26,4%) 1,19 (0,63-2,24) 1,04 (0,49 – 2,19)

≥ 3 49 (29,3%) 0,88 (0,49- 1,57) 0,80 (0,41 – 1,58)* Biến thành phố được đưa vào mô hình phân tích đa biến để loại trừ nhiễuNhận xét: Mô hình phân tích đơn biến cho thấy trình độ học vấn là yếu tố bảo vệ, trong khi đó sử dụng

ATSvà đã từng xét nghiệm HIV làm tăng nguy cơ tình dục không an toàn của đối tượng. Trong mô hình phân tích đa biến, sử dụng ATS làm tăng hơn 2 lần nguy cơ tình dục không an toàn của đối tượng.

BÀN LUẬNATS cho thấy sự khác biệt trong lựa chọn địa điểm sử dụng tại các địa điểm tập trung đông người của

đối tượng so với heroine [1], [3], [5]. Có thể do tác động của ATS sau khi sử dụng là tăng hưng phấn làm cho người sử dụng muốn hoạt động liên tục và các địa điểm vui chơi công cộng có âm nhạc và sàn nhảy chính là nơi phù hợp nhất [4]. Mặc dù cách sử dụng ATS của các đối tượng hiện nay thường không phải chích mà chủ yếu là hút và uống, tuy nhiên, nghiên cứu này đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa sử dụng ATS với hành vi tình dục không an toàn và khẳng định nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm đối tượng này do việc sử dụng ATS mang lại. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp và bổ sung thêm bằng chứng cho các nghiên cứu trên thế giới (Thái Lan, Campuchia, Mỹ) về nguy cơ HIV trong nhóm đối tượng sử dụng ATS không phải theo đường tiêm chích. Kết quả nghiên cứu về MSM sử dụng ATS ở Mỹ đã chỉ ra mối liên quan chặt chẽ giữa hành vi sử dụng ATS với các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV như quan hệ tình dục với nhiều bạn tình, quan hệ tình dục không sử dụng bao cao su và tỷ lệ nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục, bao gồm cả HIV rât cao [2], [4], [5]. Trong nghiên cứu này, sự khác biệt về số lượng bạn tình cũng như mối liên hệ của yếu tố này với hành vi tình dục không an toàn mặc dù chưa được thể hiện qua các mô hình phân tích đơn biến và đa biến, yếu tố này cũng cần được cân nhắc và tìm hiểu thêm trong các nghiên cứu tiếp theo. Kết quả nghiên cứu cũng gợi ý các can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV trong đối tượng có hành vi nguy cơ cao cần phải chú ý đến ATS và các hành vi nguy cơ liên quan đến sử dụng ATS, các can thiệp truyền thông dự phòng sử dụng, tái sử dụng và nghiện ATS cần được tiến hành sớm.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

169

Page 44: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Kết luậnTỷ lệ sử dụng ATS trong nhóm MSM tham gia nghiên cứu khá cao cho thấy mức độ phổ biến của việc sử

dụng ATS trong nhóm đối tượng này.Có mối liên quan chặt chẽ giữa hành vi sử dụng ATS hiện tại với hành vi tình dục không an toàn.Kiến nghịMở rộng các can thiệp dự phòng sử dụng ATS cũng như mối liên quan giữa sử dụng ATS với các hành

vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm MSM.TÀI LIỆU THAM KHÁO1. Bộ Y tế (2006) Kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS)

tại Việt Nam 2005 – 2006.2. Colfax G, Santos GM, Chu P, Vittinghoff E, Pluddemann A, Kumar S, Hart C. Amphetamine-group

substances and HIV. Lancet. 2010 Aug 7;376(9739):458-74.3. FHI, USAID, NIHE, CDC, PEPFAR (2012). Báo cáo kết quả điều tra kết hợp hành vi và các chỉ số sinh

học (IBBS) tại Việt Nam vòng 2 năm 2009. 4. Clatts, M.C, Le, G.M, Goldsamt, L.A & Yi, H. (2007). Male sex work and HIV risk among young heroin

users in Hanoi. Sexual Health, 4, 261 – 267.5. L. Maher., et al. (2011) Amphetamine type stimulant use and HIV/STIs risk behaviour among young

female sex workers in Phnom Penh, Cambodia. International Journal of Drug Policy 22 (2011) 203 – 209.6. Mimiaga MJ., et al. (2010) “It's a quick way to get what you want”: a formative exploration of HIV risk

among urban Massachusetts men who have sex with men who attend sex parties. AIDS Patient Care STDS. 2010 Oct; 24 (10): 659 - 74.

7. UNODC (2012). Patterns and Trends of Amphetamine-Type Stimulants and Other Drugs: Asia and the Pacific. 2012a.

VAI TRÒ CỦA DỊCH VỤ Y TẾ CHUNG TRONG TĂNG CƯỜNG XÉT NGHIỆM HIV Ở NHÓM NAM BÁN DÂM ĐỒNG TÍNH

Vũ Đức Việt1,Nguyễn Minh Sang1, Nguyễn Văn Hùng2, Phạm Đức Mạnh2, Lê Minh Giang1,3

1 Trung tâm nghiên cứu và đào tạo HIV/AIDS, Trường Đại học Y Hà Nội2 Cục phòng chống HIV/AIDS

3 Bộ môn Dịch tễ, Trường Đại học Y Hà Nội

TÓM TẮTĐặt vấn đề: Tiếp cận và chuyển gửi xét nghiệm HIV cho nam bán dâm đồng tính (NBDĐT) chủ yếu được

thực hiện bởi các chương trình dự phòng chuyên biệt như tiếp cận cộng đồng, tư vấn xét nghiệm tự nguyện. Vai trò của các dịch vụ y tế chung trong xét nghiệm HIV ít được chú ý đến. Bài viết này phân tích mối liên hệ giữa sử dụng dịch vụ y tế chung và xét nghiệm HIV trong nhóm NBDĐT.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang chọn mẫu theo phương pháp địa điểm-thời gian (Time-Location-Sampling) trên nam giới có bán dâm đồng tính trong 90 ngày qua tại Hà Nội, Nha Trang và TP Hồ Chí Minh từ 1/2009 đến 7/2011. Phỏng vấn NBDĐT bằng bộ câu hỏi về tiền sử xét nghiệm HIV và sử dụng dịch vụ y tế.Phân tích đa biến sử dụng phần mềm STATA 11.1.

Kết quả: Trong số 654 NBDĐT có bán dâm trong vòng 30 ngày qua, 18% có xét nghiệm HIV trong vòng 2 năm qua và 50,6% có khám sức khỏe tổng quát trong năm qua. Phân tích đa biến hiệu chỉnh theo tuổi, trình độ học vấn và thành phố cho thấy NBDĐT có nhiều khả năng được xét nghiệm HIV hơn khi đã từng trao đổi với nhân viên y tế về hành vi tình dục đồng tính (aOR=7,13; 95%CI: 4,09-12,45). Các yếu tố khác có liên quan đến tăng xét nghiệm HIV là có khám sức khỏe tổng quát trong năm qua, thu nhập cao, nhận được bao cao su và/hoặc chất bôi trơn trong sáu tháng qua.

Kết luận: Nghiên cứu cho thấy sử dụng dịch vụ y tế chung liên quan đến tăng cường khả năng xét nghiệm HIV trong nhóm NBDĐT. Những nỗ lực dự phòng cần chú ý hơn nữa tới vai trò của các dịch vụ y tế chung, đặc biệt là những dịch vụ có khả năng trao đổi về tình dục đồng tính nam và tư vấn xét nghiệm HIV.

Từ khóa: Nam bán dâm đồng tính, Dịch vụ y tế, HIV, xét nghiệm HIV.SUMMARY

170

Page 45: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Introduction: HIV testing for male sex workers (MSW) was mainly promoted by targeted programs like outreach work and peer education. Little was known about the role of general health services in HIT testing. This paper analyze association between utilization of general health services and HIV testing among MSW.

Method: A cross-sectional study using Time-Location-Sampling method was conducted among 710 men who reported exchanging sex for money and/or other materials in the last 90 days in Hanoi, Nha Trang and Ho Chi Minh city from 1/2009 to 7/2011. HIV tests were conducted according to the MOH procedures. MSW's characteristics including utilization of general health services were measured through questionnaires. Multivariate analysis was conducted using STATA 11.1 software.

Results: Among 654 MSW reporting exchanging sex in the last 30 days, 18% reported getting HIV in the last 2 years and 50,6% getting general health check-up in the last year. Multivariate analysis adjusted by age, education, and city showed that MSW who ever talked with health care providers about their male-to-male sex behaviors were more likely to get HIV test (aOR=7,13; 95%CI: 4,09-12,45). Other factors related to getting HIV test were getting general health check-up in the last year, high income, receiving free condoms and/or lubricant in the last six months.

Conclusion: The study showed that utilization of general health services was associated with increase in getting HIV test among MSW. HIV prevention interventions should pay more attention to the role of general health services, especially where MSW are being able to talk about their male-to-male sex and HIV testing.

ĐẶT VẤN ĐỀXét nghiệmphát hiện sớm HIV là một nội dung quan trọng, một biện pháp hữu ích trong các chương trình

can thiệp, làm giảm lây truyền HIV/AIDS. Xét nghiệm HIV đồng thời với tư vấn sau xét nghiệm góp phần giúp cho các cá nhân hiểu được những nguy cơ lây nhiễm HIV của bản thân, thay đổi hành vi nguy cơ cũng như giúp họ tìm kiếm dịch vụ chăm sóc y tế nếu như kết quả xét nghiệm dương tính. Tiếp cận và chuyển gửi xét nghiệm HIV cho các nhóm đối tượng có nguy cơ cao như người nghiện chích ma túy và phụ nữ mại dâm chủ yếu được thực hiện bởi các chương trình như đồng đẳng viên tiếp cận cộng đồng, các hoạt động tiếp thị xã hội. Trong khi vai trò của các dịch vụ y tế chung trong việc thúc đẩy xét nghiệm HIV ít được chú ý đến.

Những vấn đề sức khỏe, lây nhiễm HIV trong nam có quan hệ đồng tính được biết đến nhiều hơn. Giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) năm 2009 cho thấy nhóm này có tỷ lệ mắc HIV cao và có xu hướng tăng, từ 9,4% năm 2006 đến 17,4% năm 2007 tại Hà Nội và từ 5,3% lên 16,7% ở thành phố Hồ Chí Minh (1,2). Tuy nhiên tỷ lệ được xét nghiệm HIV vẫn còn thấp, dưới 30% cho cả 4 tỉnh được giám sát năm 2009 (2). Đặc biệt, nhóm nam đồng tính có bán dâm có nguy cơ nhiễm HIV cao hơn liên quan đến đặc điểm bán dâmcó nhiều bạn tình và số lần quan hệ tình dục cao.Cũng như các nhóm “bên lề” xã hội khác, nhóm nam bán dâm đồng tính (NBDĐT) gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế, trong đó có xét nghiệm HIV. Nhiều người đã không đi đến với các dịch vụ y tế khi có vấn đề sức khỏe do sợ phải đối mặt với kỳ thị phân biệt đối sử liên quan đến đặc điểm tình dục đồng giới và hành vi bán dâm. Một nghiên cứu thực hiện gần đây ở Trung Quốc trên nhóm nam có quan hệ đồng tính đã cho thấy một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy việc xét nghiệm HIVlà thái độ đồng cảm của nhân viên y tế(3). Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu vai trò của việc tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế nói chung đối với xét nghiệm HIV trong NBDĐT. Bài viết này phân tích mối liên hệ giữa sử dụng dịch vụ y tế chung và việc xét nghiệm HIV trong nhóm NBDĐT tại 3 thành phố ở Việt Nam.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUPhương pháp lấy mẫu theo thời gian - địa điểm (Time-Location Sampling) được sử dụng bao gồm đánh

giá cộng đồng nhằm xác định các thông tin về thời gian, địa điểm mà NBDĐT thường xuất hiện và ước tính số lượng NBDĐT từ đó xác định khung chọn mẫu. NBDĐT tham gia nghiên cứu được tuyển chọn từ những địa điểm khảo sát. Tiêu chí đủ điều kiện tham gia nghiên cứu bao gồm: 1) sinh ra có giới tính sinh học là nam giới, 2) trong độ tuổi 16-35, 3) hiện đang cư trú tại thành phố khảo sát, 4) có quan hệ tình dục với ít nhất một người nam để đổi lấy tiền hoặc lợi ích vật chất khác trong vòng 90 ngày qua; và 5) tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.

Những người tham gia hoàn thành bảng câu hỏi về nhiều đặc điểm nhóm NBDĐT và lấy mẫu xét nghiệm HIV. Mẫu xét nghiệm được vận chuyển đến phòng xét nghiệm Viện Pasteur Hồ Chí Minh, Viện Pasteur Nha Trang và tại Hà Nội. Xét nghiệm HIV sử dụng phương pháp ELISA Genscreen HIV1/2V2 (Biorad), E Murex HIV 1.2.0 (Abbott) xác định HIV-1/2. Số liệu được thu thập ở Hà Nội từ 4/2010 đến 12/2010, Nha Trang từ 6/2010 đến 12/2010 và thành phố Hồ Chí Minh từ 12/2012 đến 7/2011.

Tổng cộng có 710 NBDĐT đã tham gia vào nghiên cứu, bài viết này phân tích số liệu trên 654 NBDĐT có bán dâm trong 30 ngày qua, sử dụng phầm mềm Stata 11. Phân tích mô tả được thực hiện để kiểm tra phân bố của các biến và yếu tố có khả năng liên quan như đặc điểm nhân khẩu học, các hành vi tình dục. Tỷ suất chênh thô (OR) và tỷ suất chênh hiệu chỉnh (OR hiệu chỉnh) với khoảng tin cậy (CI) 95%trong mô hình phân tích đa biến được thực hiện và tính toán.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUTrong tổng số 654 nam có bán dâm đồng tính trong 30 ngày qua, tỷ lệ được xét nghiệm HIV trong vòng 2

năm qua là 17,9%. Có 50,6% số người tham gia có khám sức khỏe tổng quát trong vòng một năm qua, số còn lại chưa từng khám sức khỏe tổng quát hoặc đã khám hơn một năm qua. Có 17,9% số người tham gia

171

Page 46: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

đã tường trao đổi với nhân viên y tế về quan hệ tình dục đồng giới của họ. Ngoài sự khác biệt về một số đặc điểm nhân khẩu kinh tế, tiếp cận bao cao su/chất bôi trơn, có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ có khám sức khỏe tổng quát và có trao đổi về quan hệ tình dục đồng tính giữa hai nhóm có và không có xét nghiệm HIV trong vòng 2 năm qua, xem chi tiết trong Bảng 1.

Bảng 1: Một số đặc điểm của nam bán dâm đồng tínhXét nghiệm HIV trong 2 năm qua (N=654)

Không CóĐặc điểm n=537 n=117

n % n %Thành phố

Hà Nội 184 34,3 33 28,2Nha Trang 139 25,9 12 10,3

TP Hồ Chí Minh 214 39,8 72 61,5Tuổi (GTTB±ĐLC) 22.1±3.9 22.7±3.8Cấp học cao nhất

Dưới Trung học Phổ thông 231 43,0 37 31,6Trung học Phổ thông 213 39,7 50 42,8Cao đẳng, Đại học 93 17,3 30 25,6

Thu nhập trong tháng quaDưới 3 triệu đồng 184 34,2 20 17,1

3-5 triệu đồng 169 31,6 41 35,0Trên 5 triệu đồng 184 34,2 56 47,9

Khám sức khỏe tổng quátChưa bao giờ 232 43,2 14 12,0Dưới một năm 231 43,0 100 85,5Trên một năm 74 13,8 3 2,6

Đã từng trao đổi với nhân viên y tế về tình dục đồng giớiKhông 486 90,5 51 43,6

Có 51 9,5 66 56,4Nhận được BCS và chất bôi trơn miễn phí trong sáu tháng qua

Không 343 63,9 37 31,6Có 194 36,1 80 68,4

Tham gia các CLB MSM trong 12 tháng quaKhông 478 89,0 63 53,9

Có 59 11,0 54 46,1Phân tích đơn biến cho thấy NBDĐT có tỷ lệ xét nghiệm HIV cao hơn ở những người có đi khám sức

khỏe tổng quát dưới một năm và những người đã từng trao đổi với nhân viên y tế về quan hệ tình dục đồng tính. Phân tích đa biến hiệu chỉnh theo tuổi, trình độ học vấn và thành phố cũng cho thấy NBDĐT có nhiều khả năng được xét nghiệm HIV hơn khi có khám sức khỏe tổng quát trong năm qua (OR hiệu chỉnh=3,7; 95%CI: 1.87-7,33); và đã từng trao đổi với nhân viên y tế về hành vi tình dục đồng giới (OR hiệu chỉnh=7,13; 95%CI: 4,09-12,45). Các yếu tố khác có liên quan đến tăng xét nghiệm HIV là thu nhập trong tháng qua trên 3 triệu đồng, nhận được bao cao su và/hoặc chất bôi trơn trong sáu tháng qua, và có tham gia các câu lạc bộ MSM trong 12 tháng qua (xem chi tiết trong Bảng 2).

Bảng 2: Các yếu tố liên quan tới xét nghiệm HIV trong 2 năm quaXét nghiệm HIV Xét nghiệm HIV

ORthô

(95%C.I.‡)ORhiệu chỉnh ¥

(95%C.I.‡)Thành phố

Hà Nội 1 1Nha Trang 0,48(0,24-0,97)* 1.42(0,58-3,46)

TP Hồ Chí Minh 1,88(1,19-2,96)** 4.61(2,38-8,92)***

Tuổi 1,04(0,99-1,09) 0,98(0,91-1,05)Cấp học cao nhất

Dưới Trung học Phổ thông 1 1Trung học Phổ thông 1,47(0,92-2,33) 1,0(0,55-1,82)Cao đẳng, Đại học 2,01(1,18-3,45)* 1,26(0,63-2,53)

Thu nhập trong tháng quaDưới 3 triệu đồng 1 1

3-5 triệu đồng 2,23(1,26-3,96)** 2,09(1,02-4,26)*

Trên 5 triệu đồng 2,8(1,62-4,85)*** 2,43(1,22-4,81)*

Khám sức khỏe tổng quátChưa bao giờ 1 1Dưới một năm 7,17(3,98-12,9)*** 3,7(1,87-7,33)***

172

Page 47: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Trên một năm 0,67(0,19-2,4) 0,67(0,17-2,62)Đã từng trao đổi với nhân viên y tế về tình dục đồng giới

Không 1 1Có 12,33(7,74-19,64)*** 7,13(4,09-12,45)***

Nhận được BCS và chất bôi trơn miễn phítrong sáu tháng quaKhông 1 1

Có 3,82(2,49-5,86)*** 2,0(1,12-3,56)*

Tham gia các CLB MSM trong 12 tháng quaKhông 1 1

Có 6,94(4,41-10,92)*** 3,97(1,99-7,95)***

R-Square 0,3563¥: Phân tích đa biến hồi quy logistic, * p<0,005, ** p<0,01, *** p<0,001

BÀN LUẬNNghiên cứu cho thấy tỷ lệ NBDĐT có xét nghiệm HIV trong vòng 2 năm qua ở mức khá thấp, dưới 18%

trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi. Trong số những người được xét nghiệm HIV, có tới trên 60% là ở TP Hồ Chí Minh. Kết quả tại thành phố Hồ Chí Minh tương đồng với một nghiên cứu trước đó cho thấy tỷ lệ xét nghiệm cao và có xu hướng tăng lên, từ 37% năm 2009 đến 50% năm 2010 (4).Kết quả này có thể được giải thích là do những can thiệp trong nhóm NBDĐTtại thành phố Hồ Chí Minh được quan tâm chú ý và phát triển sớm hơn các thành phố khác.

Mở rộng tiếp cận xét nghiệm HIV góp phần làm giảm nguy tỷ lệ mắc bệnh trong các nhóm có nguy cơ cao nói chung và trong nam có trao đổi tình dục với nam nói riêng. Tuy nhiên, tỷ lệ đượcxét nghiệm HIV ởNBDĐT trong nghiên cứu của chúng tôi và ở một số nhóm nguy cơ trong nghiên cứu khác (4)vẫn còn khá thấp. Một số nguyên nhân có thể dẫn đến việc những đối tượng có nguy cơ không đến làm xét nghiệm như những rào cản như địa vị kinh tế xã hội, không có bảo hiểm y tế, kỳ thị, thiếu thông tin, kiến thức và do có niềm tin sai lạc về dịch vụ y tế. Nghiên cứu này đã cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa sử dụng dịch vụ y tế nói chung cũng như trao đổi với nhân viên y tế về quan hệ tình dục đồng tính với tình trạng xét nghiệm HIV của nam bán dâm đồng tính. Kết quả nghiên cứu cùng với nghiên cứu trên các nhóm khác củng cố bằng chứng tiếp cận các dịch vụ y tế là một yếu tố quan trong tăng cường sử dụng xét nghiệm HIV(5,6).

Trong phân tích kết quả nghiên cứu, mối liên quan giữa sử dụng dịch vụ y tế chung với tình trạng xét nghiệm HIV cũng được xem xét trong mối liên hệ với các yếu tố đã được chứng minh là có liên quan khác. Ngoài những đặc điểm nhân khẩu xã hội, chúng tôi cũng đưa vào phân tích đa biến biến tiếp cận bao cao su và chất bôi trơn cũng như việc tham gia các câu lạc bộ nam quan hệ tình dục với nam. Sau khi hiệu chỉnh theo những biến này, mối liên quan giữa sử dụng dịch vụ y tế chung và tình trạng xét nghiệm HIV vẫn có ý nghĩa về mặt thống kê.

Nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng thiếu sử dụng các dịch vụ y tế là một trong những yếu tố dẫn đến tình trạng sức khỏe kém của bệnh nhân nói chung cũng như bệnh nhân HIV/AIDS nói riêng. Trong khi đó tham gia và sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe có thể bị ảnh hưởng bởi những thông tin mà người bệnh nhận được từ người thân, bạn bè và nhân viên y tế. Do vậy, những hỗ trợ về mặt tinh thần, thông tin có thể là rất quan trọng trong việc củng cố lòng tin và tăng cường sử dụng dịch vụ y tế.

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊNghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên cho thấy sử dụng dịch vụ y tế chung liên quan đến tăng cường

khả năng xét nghiệm HIV trong nhóm NBDĐT. Hạn chế của nghiên cứu là trong thiết kế ban đầu không nhằm mục đích tìm hiểu các đặc điểm chi tiết của dịch vụ y tế, như nhân viên cung cấp dịch vụ có được đào tạo tập huấn về HIV/AIDS, cơ sở cung cấp dịch vụ có thuộc hệ thống chuyển gửi xét nghiệm và điều trị HIV/AIDS. Nghiên cứu tiếp theo có thể tìm hiểu thêm mối quan hệ của các yếu tố này với việc tăng cường xét nghiệm và điều trị HIV cho nam bán dâm đồng tính cũng như những nam có quan hệ tình dục với nam giới. Từ kết quả của nghiên cứu, chúng tôi khuyến nghị can thiệp dự phòng cần chú ý hơn nữa tới vai trò của các dịch vụ y tế chung, đặc biệt những nơi nam quan hệ tình dục đồng tính dễ tiếp cận và có cơ hội trao đổi với người cung cấp dịch vụ về hành vi tình dục đồng tính của họ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế. Kết quả giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) 2006. Bộ y tế; 2006. 2. Bộ Y tế. Kết quả giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) 2009. Hà Nội: Bộ Y tế;

2011. 3. Zhang L, Xiao Y, Lu R, Wu G, Ding X, Qian H, et al. Predictors of HIV testing among men who have sex with

men in a large Chinese city. Sex Transm Dis. 2013 Mar; 40(3):235–40. 4. Colby D. Results of Research on MSW in Hochiminh city 2010. Hochiminh city, Vietnam; 2010.5. Desai MM, Rosenheck RA, Desai RA. Prevalence and correlates of human immunodeficiency virus testing and

posttest counseling among outpatients with serious mental illness. J Nerv Ment Dis. 2007 Sep; 195(9):776–80. 6. Wenzel SL, Rhoades H, Tucker JS, Golinelli D, Kennedy DP, Zhou A, et al. HIV risk behavior and access to

services: what predicts HIV testing among heterosexually active homeless men? AIDS Educ Prev Off Publ Int Soc AIDS Educ. 2012 Jun; 24(3):270–9.

173

Page 48: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KẾT QUẢ CAN THIỆP PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS THÔNG QUA TIẾP THỊ XÃ HỘI BƠM KIM TIÊM VÀ BAO CAO SU

BA TỈNH MIỀN NAM NĂM 2012Phạm Đức Mạnh1, Trương Văn Hải2, Nguyễn Thanh Hương3, Nguyễn Thái Quỳnh Chi3

Cục Phòng, chống HIV/AIDS, Bộ Y tế Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS (Creata) – Đại học Y Hà Nội

Trường Đại học Y tế Công cộng

TÓM TẮTĐặt vấn đề: Những khó khăn trong việc tiếp cận Bơm kim tiêm (BKT) sạch và Bao cao su (BCS) của

nhóm nguy cơ cao là rào cản trong phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS. Dự án DKT/Việt Nam “Giảm tác hại thông qua tiếp thị xã hội bơm kim tiêm và bao cao su” triển khai ở 3 tỉnh phía Nam giáp biên giới Campuchia trong thời gian từ 1/2011 – 4/2012. Nghiên cứu này đánh giá kết quả, những khó khăn thách thức từ can thiệp tiếp thị xã hội BKT và BCS tại tỉnh Long An.

Đối tượng và phương pháp: Sử dụng thiết kế nghiên cứu định tính (bao gồm phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm và quan sát) kết hợp định lượng (sử dụng các số liệu thứ cấp sẵn có).

Kết quả: Tổng số BKT đã phát ra cho đối tượng nguy cơ cao là 1.080.300 BKT và 294.660 BCS. Sản phẩm BKT và BCS trợ giá của dự án được người sử dụng đánh giá là có chất lượng tốt hơn so với những sản phẩm phát miễn phí khác. Đa số người sử dụng ma túy có nhu cầu sử dụng BKT 1ml hơn loại 3ml. Tuy nhiên thiếu nước cất đi kèm với BKT, dung tích của BKT chưa đáp ứng được nhu cầu của người dùng. Màu và mùi của BCS chưa phù hợp với nhu cầu người dùng. Thách thức chương trình phải đối mặt là phải cạnh tranh với các sản phẩm miễn phí và sản phẩm bán tại nhà thuốc về chất lượng. Đồng đẳng không có phụ cấp cố định, chưa được chứng nhận tư cách pháp nhân.

Kết luận: Tiếp thị xã hội và phân phối BKT và BCS trợ giá thực hiện có hiệu quả góp phần giảm nguy cơ lây nhiễm HIV và STIs. Tuy nhiên tính sẵn có và chất lượng sản phẩm chưa có sự cạnh tranh ảnh hưởng đến tính bền vững của chương trình.

Từ khóa: HIV, Tiếp thị xã hội, Bơm kim tiêm, Bao cao su.SUMMARYBackground: Difficulties to access to clean needles and condom of IDUs and FSWs is a barrier to

HIV/AIDS prevention. This study aimed at evaluating the results, and challenges of social marketing needles and condoms intervention.

Subject and Methods: Using the combination of quantitative research and qualitative research methods. Result: The total number of needles were provided the high-risk subjects is 1.080.300 needles and 294.660

condoms. Needles and condoms which are subsidized by the intervention are recognized by subjects for its better quality in comparision with other free products. One of the challenges that the program face is to compete with free products and products in pharmacies in terms of its quality. Conclusion: Social marketing and distribution of subsidized needles and condoms seems to effectively contribute to reduce HIV/STIs risk. However, the availability and quality of the products have influences on the sustainablity of the intervention.

Từ khóa: HIV, social marketing, needle and syringe, condom.ĐẶT VẤN ĐỀĐại dịch HIV/AIDS vẫn đang là mối đe dọa sức khỏe toàn cầu, theo ước tính của UNAIDS, đến cuối năm

2011, thế giới có khoảng 34 triệu người đang sống với HIV. Riêng trong năm 2011 số lượng các trường hợp mới mắc HIV là 2,5 triệu người, và 1,7 triệu người đã tử vong liên quan đến HIV. [9]. Tại Việt Nam theo báo cáo của Bộ Y tế, tính đến ngày 30/6/2012 số các trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 204.019 trường hợp, 58.569 bệnh nhân AIDS hiện còn sống và 61.856 trường hợp tử vong do AIDS [3].

Hiệu quả của hoạt động tiếp thị xã hội trong các chương trình can thiệp giảm tác hại dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS, can thiệp đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu khác nhau trên thế giới [6], [8]. Trong bối cảnh cần tiếp tục duy trì các hoạt động can thiệp giảm hại khi các dự án chương trình tài trợ từ nước ngoài cắt, giảm ở Việt Nam, cách tiếp cận của TTXH có hiệu quả và dần được đối tượng đích chấp nhận. Nghiên cứu này nhằm đánh giá kết quả, những khó khăn, thách thức từ can thiệp tiếp thị xã hội BKT và BCS tại tỉnh Long An trong thời gian từ 1/2011 – 4/2012.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứu và tiêu chí lựa chọnĐối tượng nghiên cứu: Cán bộ nhóm TSU văn phòng Bangkok, cán bộ điều phối dự án DKT, cán bộ

nghiên cứu của PHAD, Lãnh đạo UBND tỉnh, cán bộ điều phối của DKT tại tỉnh, cán bộ TT PC HIV/AIDS tỉnh, người NCMT và PNMD, chủ nhà thuốc, tuyên truyền viên đồng đẳng, người đại diện trong hệ thống phân phối sản phẩm.

Tiêu chí nghiên cứu: Tiêu chí gồm đối tượng tham gia hỗ trợ kỹ thuật, điều phối/quản lý, tham gia nghiên cứu đánh giá kết thúc dự án, lãnh đạo trung tâm HIV, tham gia phân phối và tiếp cận, chủ nhà thuốc.

2. Thời gian và địa điểm thu thập thông tin

174

Page 49: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Thời gian: 27/11 – 03/12/2012.Địa điểm: Tỉnh Long An.3. Phương pháp nghiên cứu, chọn mẫu và cỡ mẫuPhương pháp nghiên cứu định tính và kết hợp sử dụng các số liệu định lượng sẵn có nhằm đánh giá kết

quả thực hiện của chương trình TTXH.Số liệu định lượng: Thu thập tất cả các báo cáo hàng tháng/quý từ các nguồnSố liệu định tính: Thu thập thông tin từ cán bộ điều phối dự án DKT qua email. Phỏng vấn sâu (10

người); thảo luận nhóm (2 nhóm), mỗi nhóm 5 – 7 người tuyên truyền viên đồng đẳng và quan sát/đóng vai đối tượng quan sát là nhà thuốc.

4. Thu thập, phân tích, quản lý số liệuSố liệu thứ cấp: (1) Kết quả thực hiện các hoạt động TTXH về BKT&BCS đã triển khai tại văn phòng

quản lý dự án của DKT và ban quản lý dự án tỉnh Long An: báo cáo, tài liệu sẵn có của dự án, báo cáo đánh giá đầu và cuối dự án; (2) Báo cáo đánh giá cuối kỳ dự án DKT do PHAD thực hiện.

Số liệu sơ cấp: Bao gồm phỏng vấn sâu và Thảo luận nhóm được ghi âm, gỡ băng và phân tích theo chủ đề bằng phần mềm Nvivo 8.

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN1. Kết quả hoạt động của chương trình can thiệp và những khoảng trống Kết quả phân phối BKT và BCS Loại BKT phân phối tại các tỉnh can thiệp là 24/24h. Long An, chương trình can thiệp của DKT đã phân

phát tổng số 1.080.300 BKT [5]. Các hình thức được phân phối đến người NCMT là (1) tại nhà TTVĐĐ, (2) TTVĐĐ đến và bán tại điểm nóng, (3) người NCMT gọi điện thoại và TTVĐĐ mang BKT đến, và (4) đặt một hộp đựng BKT ở một góc nào đó, khi người NCMT gọi điện thoại đến thì chỉ chỗ cho họ đến lấy.

“Mình để cái hộp sẵn, mình nói với người ta, thí dụ mình đi không được, ban đêm người ra điện mình không được thì mình đặt cái hộp ở đó, mình nhé chỗ nào đó rồi khi nó điện cho mình thì mình nói mày lại chỗ đó, chỗ cột điện số mấy số mấy đó để lấy” (TLN_TTVĐĐ 2, nam, 42 tuổi).

Các loại BCS được DKT bán trợ giá tại các tỉnh bao gồm Prudence Mix 5 (loại 5 mùi) và Prudence Chocolate. Can thiệp giảm tác hại của DKT tại Long An đã phân phát tổng số 294.660 BCS [5]. BCS được phân phát theo hai hình thức: (1) Bán trực tiếp cho PNMD và (2) Bỏ mối tại các nhà nghỉ/khách sạn/quán ăn. Đây chính là một trong những điểm mạnh của việc đưa hoạt động TTXH bán trợ giá sản phẩm vào các chương trình can thiệp giảm hại. Chiến lược can thiệp giảm tác hại bằng TTXH có hiệu quả tích cực trong việc tăng việc sử dụng BCS [7].

Ngừng cung cấp nước cất đi kèm với BKT là không phù hợpChỉ cung cấp BKT mà không kèm theo nước cất, do đó khách hàng mua BKT 24/24h nhưng vẫn phải ra hiệu

thuốc để mua nước cất. Hạn chế này dẫn tới việc không đạt được mục tiêu giảm tác hại của dự án. Một mặt hạn chế khác là nếu phải ra hiệu thuốc để mua nước cất thì họ sẽ mua BKT khác được đánh giá là sắc hơn và không để lại sẹo khi chích. Những hạn chế này làm ảnh hưởng đến số lượng BKT và BCS phân phối ra.

“Đầu tiên thì mấy anh bên sử dụng ma túy cũng ít sử dụng BCS thành ra cũng có phản ánh lên thì họ ngưng cái đó lại nhưng cũng chỉ có BKT thôi, không có nước cất nên buộc các anh phải ra tiệm thuốc tây để mua nước cất. Có nhiều người họ cũng phiền” (TLN_TTVĐĐ 2, nam, 25 tuổi).

Dung tích BKT của dự án chưa đáp ứng nhu cầu của đối tượng đíchTại Long An, đối tượng NCMT thích sử dụng loại BKT 1ml hơn loại 3ml. Tuy nhiên, khi dự án gửi hàng

về thì số lượng BKT 3ml lại nhiều hơn loại 1ml. Lý do mà họ thích sử dụng BKT 1ml vì nó đủ lớn, tiết kiệm thuốc và không để lại dấu vết sau khi chích. Như vậy cần phải có những thay đổi để đáp ứng nhu cầu cho khách hàng sử dụng loại BKT 1ml nhiều hơn.

“Đồng đẳng nói là khách hàng chỉ thích kim loại 1ml, DKT đưa xuống loại 3ml nhiều hơn loại 1ml nên đầu ra hạn chế, không được như ý muốn… Em cũng phản ánh với văn phòng dự án là ở Long An nhu cầu loại 1ml nhiều hơn mà sao không có nhiều bơm 1ml thì họ nói đa số các tỉnh của DKT xài loại 3ml nhiều hơn nên họ sản xuất bơm 3ml nhiều hơn 1ml” (PVS_ĐPV dự án tỉnh).

Trong 3 tỉnh dự án thì có 2 tỉnh đại đa số đối tượng có nhu cầu về loại BKT 1ml. Tuy nhiên, nhu cầu này chưa được đáp ứng kịp thời. Theo một trong những nguyên tắc của TTXH – định hướng khách hàng – chương trình được thực hiện dựa trên nhu cầu của đối tượng đích sẽ đạt kết quả tốt hơn.

Màu và mùi của BCS chưa phù hợp với nhu cầu của đối tượng đíchTheo đánh giá của nhóm TTVĐĐ, khách hàng không thích BCS có màu và có mùi, khách hàng thích loại

không màu và không mùi hơn. Tuy nhiên, nếu vẫn là loại có màu và có mùi thì chỉ có 03 loại là chuối, bạc hà, và sô cô la là chấp nhận được. Còn 03 loại cam, dâu, và đặc biệt là sầu riêng rất khó phân phối.

“Cái sô cô la lại dễ bán hơn cái 5 màu lộn xộn”…”Cái mùi bạc hà, chuối, sô cô la là chấp nhận được còn mùi thì không thể chấp nhận được” (TLN_TTVĐĐ 2, nữ).

2. Khó khăn/thách thức mà can thiệp tiếp thị xã hội phải đối mặt Sản phẩm trợ giá phải cạnh tranh với các sản phẩm khác về mặt chất lượngSản phẩm của DKT có giai đoạn tốt hơn sản phẩm phát miễn phí của một số dự án khác, có giai đoạn

không tốt bằng. Đây chính là một yếu tố mà DKT cần lưu ý trong quá trình thực hiện các chương trình TTXH của mình vì đối tượng đích thường tin tưởng những sản phẩm mà họ phải bỏ tiền ra mua hơn là những sản

175

Page 50: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

phẩm được phát miễn phí. Do đó chất lượng của các sản phẩm trợ giá cần được lưu ý cải thiện hơn nữa.“Cái đó sản phẩm trợ giá phân phối dễ hơn cái miễn phí. Tại vì cái tâm lý của người ta, cái miễn phí chắc

là hàng dỏm. Bán thì cảm thấy nó chất lượng hơn tí” (TLN_TTVĐĐ 2, nam, 42 tuổi).Ngoài ra, sản phẩm BKT 24/24h trợ giá của DKT được đánh giá là có độ sắc hơn BKT phát miễn phí của

các dự án khác, tuy nhiên không sắc bằng BKT mua ở nhà thuốc. Nhóm đánh giá được. Loại BKT 1ml miễn phí của dự án Lif-Gap mà người NCMT thích sử dụng, nhưng loại BKT này khác BKT 24/24h của DKT ở chỗ đây là loại BKT gọi là “Low dead-space”. Với loại BKT này, khi chích thuốc sẽ được đẩy ra ngoài hết, thì loại BKT này giúp tiết kiệm được thuốc một cách tối đa.

“Cái này của Life – Gap đợt sau, kim nó bén hơn tí. Với lại nó có thêm cái phía trong này chị, cái nhỏ nhỏ này, nó giúp đẩy thuốc ra hết luôn”…”Nó ít bị hao hơn cái kia”... “Nó đẩy thuốc ra hết hoàn toàn, không bị dính thuốc lại, nó tiết kiệm hơn” (TLN_TTVĐĐ 2, nam).

Ngoài ra tác dụng của loại BKT “Low dead – space” này giúp hạn chế nguy cơ lây nhiễm HIV nếu dùng chung BKT. Bởi vì khi dùng lượng máu đọng lại ở đầu bơm và đầu kim tiêm là ít hơn so với loại BKT “high dead – space”, do vậy nguy cơ lây nhiễm cũng giảm đi. Nhiều dự án giảm tác hại trên thế giới cũng đang tập trung vào việc cung cấp loại BKT này [2], [10]. Như vậy, BKT phát miễn phí vừa sắc hơn, vừa giúp đối tượng tiết kiệm thuốc một cách tối đa, trong khi đó, BKT 24/24h của DKT là loại (high dead – space) nếu không có sự thay đổi về chất lượng thì sẽ khó cạnh tranh được với BKT phát miễn phí.

TTVĐĐ tham gia chưa có phụ cấp cố định, được chứng nhận “tư cách pháp nhân”TTVĐĐ tham gia dự án DKT khi triển khai không có phụ cấp cố định hàng tháng. Nhóm phân phối BKT được

nhận phụ cấp theo quy định của dự án là 250.000 đồng với điều kiện mỗi tháng bán tối thiểu là 5 hộp (50.000 đồng/hộp), còn nhóm phân phối BCS thì không có phụ cấp gì, mà chỉ được hoa hồng do bỏ mối là rất thấp.

Để TTVĐĐ thực hiện được tốt nhiệm vụ của mình, họ rất cần được các dự án cấp cho họ một cái thẻ tiếp cận viên đồng đẳng. Năm 2010, Bộ y tế và Bộ Công an đã phối hợp với nhau ban hành Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BYT-BCA “Quy định việc cấp, quản lý và sử dụng thẻ nhân viên tiếp cận cộng đồng tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự án phòng lây nhiễm HIV” [1].

Khả năng bền vững của chương trình tiếp thị xã hội Dự án đã kết thúc các hoạt động từ cuối tháng 4/2012 và nguồn hàng phân phối cũng dừng luôn từ thời

điểm đó, các sản phẩm BKT và BCS không còn để phân phối cho các đối tượng đích. Không chỉ với dự án DKT mà với tất cả các dự án, vấn đề về tính bền vững luôn là một thách thức. Các hoạt động của dự án cần được lồng ghép vào kế hoạch của chương trình phòng chống HIV/AIDS của tỉnh. Cần bảo chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu cho khách hàng là một trong những yếu tố duy trì tính bền vững của chương trình can thiệp.

“Mình lồng ghép trong dự án 2 của kế hoạch hành động phòng chống AIDS quốc gia. Trong chương trình can thiệp giảm tác hại, mình sử dụng chung một nguồn kinh phí cho CTV, các cán bộ phụ trách” (PVS_Lãnh đạo TT PC HIV/AIDS tỉnh).

KẾT LUẬNChương trình can thiệp giảm tác hại, tiếp thị xã hội BKT và BCS tại 3 tỉnh Miền Nam đã được thực hiện

có hiệu quả, mở ra một kênh can thiệp giảm hại thông qua mô hình TTXH bằng BKT, nước cất và BCS có trợ giá nhằm nâng cao hiệu quả giảm hại. Điều đó giúp địa phương duy trì phòng chống lây nhiễm HIV và STIs trong bối cảnh nguồn tài trợ bị cắt giảm. Những hạn chế không đảm bảo tính sẵn có của sản phẩm, chất lượng chưa có sự cạnh tranh. Chưa có phụ cấp/hoa hồng phù hợp và chưa có chứng nhận “tư cách pháp nhân” cho mạng lưới TTVĐĐ. Điều đó ảnh hưởng đến tính bền vững của chương trình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế &Bộ Công an (2010). Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BYT-BCA.2. Bobashev GV, Zule WA (2010). Modeling the effect of high dead-space syringes on the HIV epidemic

among injiecting drug users. Addiction. 105(8): 1439 – 1447.3. Cục phòng chống HIV/AIDS (2012). Báo cáo công tác, phòng chống HIV/AIDS 6 tháng đầu năm và trọng

tâm 6 tháng cuối năm 2012. Báo cáo số 755/BC-BYT.4. Viện Dân số, Sức khỏe và Phát triển (PHAD) (2012). Báo cáo đánh giá cuối kỳ về kiến thức, thái độ và hành

vi sử dụng bơm kim tiêm và bao cao su trong nhóm đối tượng đích. Dự án “Giảm tác hại các tỉnh biên giới Việt Nam”. Hà Nội, 6/2012.

5. DKT International: http://www.dktinternational.org/country programs/vietnam/. 6. Lorraine Yap, Zunyou Wu, Wei Liu, Zhongqiang Ming, Shaoling Liang (2002). A rapid assessment and its

implications for a needle social marketing intervention among injecting drug users in China. International Journal of Drug Policy, 13 (2002).

7. Medley A., Kenedy C., O’Reilly K., Sweat M. (2009). Effectiveness of peer education intervention in developing countries: a systematic review and meta-analysis. AIDS Education Prevention, 21 (3)

8. Michael D. Sweat, Julie Denison, Caitlin Kenedy, Virginia Tedrow, Kevin O’Reilly (2012). Effect of condom social marketing use in developing countries: a systematic review and meta-analysis, 1990-2010. Bulletin of World Health Organization 2012.

9. UNAIDS (2012). AIDS epidemic update 2012.10. Zule WA (2012). Low dead-space syringes for preventing HIV among people who inject drugs: promises

and barriers. Curr Opin HIV/AIDS. 7(4): 369-375.

176

Page 51: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KIẾN THỨC VÀ THÁI ĐỘ VỀ MA TÚY CỦA CÁN BỘ Y TẾ MỘT SỐ TỈNH PHÍA BẮC VIỆT NAM NĂM 2011

Nguyễn Bích Diệp, Nguyễn Văn Huy, Lê Thị Hương, Lê Minh Giang Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội

TÓM TẮTĐặt vấn đề: Dịch HIV ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn tập trung với tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất trong

nhóm nghiện chích ma túy. Do vậy, kiến thức cơ bản, đầy đủ cùng thái độ tích cực của cán bộ y tế (CBYT) với ma túy có vai trò quan trọng trong việc cung cấp các dịch vụ y tế đáp ứng nhu cầu của người nhiễm HIV. Nghiên cứu nhằm đánh giá kiến thức và thái độ đối với ma túy của CBYT một số tỉnh phía Bắc Việt Nam.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 610 CBYT chọn ngẫu nhiên từ các bệnh viện đa khoa tỉnh và quận/huyện ở Hà Nội, Quảng Ninh và Điện Biên. Phỏng vấn CBYT bằng bộ câu hỏi về kiến thức và thái độ đối với ma túy và điều trị nghiện ma túy (NMT) . Kiến thức được đánh giá bằng tần suất và tỷ lệ (%) số câu trả lời đúng; đánh giá thái độ sử dụng thang điểm Likert về các mức độ đồng ý với các quan điểm đối với ma túy và điều trị NMT.

Kết quả: Loại ma túy phổ biến CBYT biết đến là Heroin (84%) và thuốc phiện (74%), ma túy tổng hợp chưa được biết đến nhiều. Tỷ lệ CBYT hiểu về các đặc điểm của NMT cũng như hội chứng cai Heroin rất thấp. Để chẩn đoán một người đang sử dụng Heroin, 88,7% cho rằng dựa vào xét nghiệm nước tiểu. Dưới 30% CBYT có kiến thức về điều trị Methadone và lợi ích của phương pháp này. Các câu trả lời về thái độ chủ yếu ở mức không chắc chắn, đối với cả quan điểm tích cực và chưa tích cực.

Kết luận: CBYT trong nghiên cứu có kiến thức còn hạn chế và thái độ chưa tích cực đối với ma túy và NMT. Cần tăng cường các hoạt động đào tạo nhằm nâng cao kiến thức, từ đó giúp thay đổi thái độ của CBYT về vấn đề này.

Từ khóa: Methadone, Ma túy, Kiến thức, Thái độ, Cán bộ y tế.SUMMARYIntroduction: HIV epidemic in Vietnam has been concentrated with the highest prevalence among

injection drug users. Therefore, basic knowledge and positive attitude of health workers toward illicit drugs play a vital role in providing health services in order to meet the needs of people living with HIV. This study aims to investigate the knowledge about and attitude toward illicit drugs of health workers in some Northern provinces in Vietnam.

Method: A cross sectional study was conducted on 610 health workers chosen randomly from provincial and district hospitals in Hanoi, Quang Ninh and Dien Bien. Health workers were interviewed with a questionnaire comprising knowledge about and attitudes toward illicit drugs and drug addiction treatment. Knowledge was assessed by the percentage of correct answers, whereas assessment of attitudes used Likert scale.

Results: Popular illicit drugs known by health staff are heroin (84%) and opium (74%). Amphetamine-type stimulants are not so commonly known among health workers. The number of health worker who understand the characteristics of drug addiction and withdrawal syndrome is limited. In order to diagnose a person using heroin, 88.7% choose urine test. Less than 30% of health workers have knowledge of methadone maintenance therapy and its benefits. Answers regarding attitudes are mainly uncertain, both positive and negative views.

Conclusion: Health workers in this study have limited knowledge about and unpostitive attitude toward illicit drug. It is necessary to strengthen training activities and enhance knowledge which could change attitudes toward illicit drug of health workers.

ĐẶT VẤN ĐỀDịch HIV ở Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn tập trung với tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất trong nhóm nghiện

chích ma túy (NCMT) [4]. Theo kết quả điều tra năm 2009, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT vẫn ở mức cao, lên tới 56% ở Quảng Ninh và Điện Biên; ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tỷ lệ này lần lượt là 21% và 46% [2]. Mặc dù so với năm 2006, xu hướng dịch HIV trong nhóm NCMT có xu hướng ổn định hoặc giảm ở nhiều tỉnh, tỷ lệ dùng chung bơm kim tiêm còn cao; đáng lưu ý là tỷ lệ này vẫn có xu hướng gia tăng ở một số tỉnh/thành phố như Đà Nẵng, Hà Nội và Quảng Ninh [1, 2]. Nhiều nghiên cứu cũng đã cho thấy tỷ lệ đồng nhiễm với nhiều vấn đề sức khỏe khác như HIV và các bệnh truyền nhiễm khác ở người nghiện ma túy rất cao [5]. Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế của người sử dụng ma túy (SDMT) nói chung và người NCMT nói riêng rất lớn. Đây là nhóm đối tượng rất cần được quan tâm trong các chương trình can thiệp phòng chống lây nhiễm HIV và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

CBYT là những người trực tiếp tiếp xúc và cung cấp các dịch vụ y tế cho người bệnh nói chung và người

177

Page 52: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

SDMT nói riêng. Do vậy, việc CBYT được trang bị kiến thức đầy đủ và có thái độ đúng đối với ma túy có vai trò quan trọng giúp tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế của người SDMT cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ mà họ nhận được. Cho đến nay, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu đánh giá kiến thức và thái độ của CBYT đối với ma túy. Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kiến thức và thái độ của CBYT đối với ma túy tại một số tỉnh phía Bắc Việt Nam trong năm 2011.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứuCBYT ở các bệnh viện đa khoa tỉnh và quận/huyện và các trung tâm y tế dự phòng ở Hà Nội, Quảng

Ninh và Điện Biên.2. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3 – 11 năm 2011.3. Phương pháp nghiên cứuThiết kế nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt ngang.Mẫu nghiên cứu: 610 CBYT được lựa chọn ngẫn nhiên trên danh sách của các bệnh viện đa khoa từ

cấp huyện trở lên ở Hà Nội (n = 334), Quảng Ninh (n = 149) và Điện Biên (n = 117). Tỷ lệ bác sỹ ở các tỉnh tỷ lệ với số lượng bác sỹ theo báo cáo chính thức ở các tỉnh này.

Phương pháp thu thập thông tin: Phỏng vấn trực tiếp sử dụng bộ câu hỏi cấu trúc đánh giá kiến thức và thái độ đối với ma túy và điều trị nghiện ma túy. Đánh giá thái độ sử dụng thang điểm Likert về các mức độ đồng ý với các quan điểm đối với ma túy và điều trị NMT (1-Rất không đồng ý, 2-Không đồng ý, 3-Không chắc chắn/không trả lời, 4-Đồng ý, 5- Rất đồng ý).

Xử lý số liệu: Sử dụng phần mềm STATA 10.0. Mô tả tần suất và tỷ lệ (%) đối với biến định tính, trung bình và độ lệch chuẩn (SD) đối với biến định lượng.

Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được Hội đồng đạo đức của Trung tâm phòng chống và kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), và Trường Đại học Y Hà Nội xét duyệt. Đối tượng tham gia nghiên cứu hoàn toàn tình nguyện và được nhận 100.000 đồng sau khi kết thúc phỏng vấn.

KẾT QUẢ1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứuPhần lớn đối tượng nghiên cứu ở nhóm tuổi từ 30 – 39 (chiếm 52,1%), làm việc tại Hà Nội (56,4%), trình

độ chuyên môn ở mức tốt nghiệp bác sỹ (46,6%). Thâm niên công tác trung bình là 16 năm (SD = 8,8), lĩnh vực công tác chủ yếu là lâm sàng (70,8%) và tại các cơ sở y tế tuyến tỉnh (92,6%). Tỷ lệ bác sỹ nam và nữ tham gia nghiên cứu khá đồng đều (52,5% nam và 47,5% nữ). Chỉ có 9,2% bác sỹ đã từng được đào tạo về Methadone. Số người SDMT mà CBYT đã từng tiếp xúc trung bình là 19 người (SD = 35,4), dao động từ 0 – 225 người.

2. Kiến thức liên quan đến ma túy và điều trị nghiện ma túyBảng 1. Kiến thức về các loại ma túy và nghiện ma túy

Kiến thức về các loại ma túy và NMT n (%)TB ± SD (NN – LN)

Kể tên một số loại ma túy 510 (83,6)Heroin 183 (30,0)Cần sa 197 (32,2)

Amphetamine 88 (14,4)Đá (Methamphetamine) 76 (12,5)Thuốc phiện (Morphine) 452 (74,1)

Thuốc lắc (Estacy) 273 (44,8)Tài mà 42 (6,9)

Chẩn đoán một người hiện đang sử dụng HeroinDựa vào tiền sử và các dấu hiệu lâm sàng 37 (12,0)

Xét nghiệm máu 242 (39,7)Xét nghiệm nước tiểu 541 (88,7)Xét nghiệm nước bọt 4 (0,7)Đặc điểm của NMT 0,9 ± 1,0 (0 – 6)Tăng liều sử dụng 136 (22,3)

Hội chứng cai khi ngừng hoặc giảm liều 56 (9,2)Cảm giác thèm ghê gớm phải sử dụng 219 (35,9)

Sao nhãng các thú vui, sở thích trước đây 69 (11,3)Không kiểm soát được số lượng và thời gian sử dụng 49 (8,0)

Biết tác hại mà vẫn tiếp tục sử dụng 27 (4,4)

Bảng 1 trình bày kiến thức của CBYT về các loại ma túy và NMT. Loại ma túy CBYT biết đến nhiều nhất là Heroin (84%) và thuốc phiện (74%), ma túy tổng hợp chưa được biết đến nhiều. Để chẩn đoán một người hiện đang sử dụng Heroin, tỷ lệ CBYT cho rằng dựa vào xét nghiệm nước tiểu và xét nghiệm máu để chẩn đoán một người hiện đang sử dụng Heroin lần lượt là 88,7% và 39,7%. CBYT trung bình biết 1/6 đặc điểm của NMT.

178

Page 53: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Bảng 2. Kiến thức về hội chứng cai Heroin

Kiến thức về hội chứng cai n (%)TB ± SD (NN – LN)

Biểu hiện chính của hội chứng cai Heroin 1,6 ± 1,3 (0 – 6)Ngáp liên tục 125 (20,5)Giãn đồng tử 22 (3,6)

Buồn nôn, tiêu chảy, nôn 113 (18,5)Chảy nước mắt, nước mũi, vã mồ hôi 129 (21,2)

Đau toàn thân 151 (24,8)Vật vã 420 (68,9)

Nguyên nhân của hội chứng cai Heroin 294 (48,2)Thời gian xuất hiện hội chứng cai Heroin 176 (28,9)

Bảng 2 cho thấy kiến thức của CBYT về hội chứng cai Heroin. 48,2% biết nguyên nhân của hội chứng cai; 28,9% biết về thời gian xuất hiện. CBYT trung bình biết 1 – 2/6 biểu hiện của hội chứng cai. Biểu hiện được biết đến nhiều nhất là vật vã (68,9%) và ít nhất là giãn đồng tử (3,6%).

Bảng 3. Kiến thức về điều trị Methadone

Kiến thức về điều trị Methadone n (%)TB ± SD (NN – LN)

Hiểu biết về điều trị thay thế Methadone 155 (25,4)Đường dùng Methadone 286 (46,9)

Lợi ích của điều trị thay thế Methadone 0,8 ± 1,2 (0 – 6)Giảm sử dụng ma túy 167 (27,4)

Dự phòng lây nhiễm HIV 77 (12,6)Bệnh nhân có cuộc sống tốt hơn 105 (17,2)

Bệnh nhân hòa nhập cộng đồng tốt hơn 48 (7,9)Giảm tội phạm 49 (8,0)

Giảm tỷ lệ tử vong do ma túy 20 (3,3)Liên quan đến kiến thức về điều trị Methadone: 25,4% CBYT hiểu biết đúng về điều trị Methadone,

46,9% biết về đường dùng của Methadone. CBYT biết trung bình 1/6 lợi ích của điều trị Methaodone.3. Thái độ đối với người SDMT và điều trị NMTBảng 4. Thái độ đối với người sử dụng ma túy và điều trị nghiện ma túy

Thái độ đối với người SDMT TB ± SDSDMT chỉ xảy ra ở những người có nhân cách yếu hoặc có gen di truyền 2,0 ± 1,0

Cha mẹ là người phải chịu trách nhiệm về hành vi SDMT của con cái 2,9 ± 1,1Những người SDMT phải được đưa vào trại cai nghiện hoặc tù để bảo vệ cho cộng đồng 2,8 ± 1,2

Nếu được lựa chọn thì tôi không muốn liên quan gì đến những đối tượng SDMT, kể cả việc chữa bệnh cho họ 2,3 ± 1,0

Người SDMT nói chung dễ manh động và không trung thực khi đến các cơ sở y tế 3,9 ± 0,9Những người SDMT không muốn bản thân bị nhiễm HIV cũng như không muốn lây truyền HIV cho

người khác 3,4 ± 1,0

Thái độ đối với điều trị NMTĐiều trị cai nghiện miễn phí cho người SDMT là một đầu tư tốt của chính phủ 3,9 ± 1,0

Cai nghiện tập trung và bắt buộc là cách làm không có hiệu quả đối với những người SDMT 2,9 ± 1,1Điều trị thay thế nghiện heroin bằng Methadone miễn phí là một đầu tư tốt của nhà nước và các tổ

chức quốc tế nhằm giúp người SDMT ổn định cuộc sống 3,9 ± 0,9

Không nên coi những người SDMT là tội phạm vì việc nghiện/lệ thuộc ma túy giống như một bệnh lý/vấn đề sức khỏe 3,8 ± 0,9

Bảng 4 cho thấy thái độ của CBYT đối với người SDMT và điều trị NMT. Phần lớn các câu trả lời ở mức 3 (tương ứng với không chắc chắn/không trả lời). Mức độ đồng ý đối với các quan điểm tích cực về điều trị NMT cao hơn so với người SDMT.

BÀN LUẬN1. Kiến thức liên quan đến ma túy và điều trị NMTNhìn chung, kiến thức về ma túy và điều trị NMT của các CBYT tham gia nghiên cứu chưa tốt. Đối với

ma túy, đa số CBYT chỉ nắm được các kiến thức phổ thông, ví dụ như các loại ma túy là Heroin và Morphine, sử dụng xét nghiệm nước tiểu để chẩn đoán một người đang SDMT, hoặc biểu hiện vật vã của hội chứng cai Heroin. Tỷ lệ CBYT biết về các loại ma túy tổng hợp rất thấp, trong khi việc sử dụng các chất này ngày càng phổ biến [3]. Hiểu biết về NMT và hội chứng cai của CBYT cũng rất hạn chế, cả về biểu hiện, nguyên nhân và thời gian xuất hiện. Ngoài ra, một số kiến thức liên quan trực tiếp đến việc khám lâm sàng bệnh nhân có SDMT cũng rất hạn chế, ví dụ như dấu hiệu giãn đồng tử, ngáp liên tục, buồn nôn, tiêu chảy, nôn của hội chứng cai và xét nghiệm máu để chẩn đoán tình trạng hiện đang sử dụng. Tỷ lệ hiểu biết về điều trị thay thế Methadone cũng như lợi ích của phương pháp điều trị này đều ở mức khiêm tốn. Như vậy, có thể thấy rằng kiến thức về lĩnh vực ma túy của các CBYT hiện nay còn rất hạn chế, cả về dự phòng, khám lâm sàng cũng như điều trị cho người SDMT nói chung và người NMT nói riêng.

179

Page 54: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

2. Thái độ đối với người sử dụng ma túy và điều trị nghiện ma túyCác số liệu cho thấy CBYT có thái độ chưa tích cực đối với người SDMT cũng như việc điều trị NMT, tuy

nhiên, thái độ đối với việc điều trị NMT tích cực hơn, thể hiện ở mức độ đồng ý đối với các quan điểm tích cực cao hơn. Đa số CBYT cho rằng nghiện/lệ thuộc ma túy là một vấn đề sức khỏe và ủng hộ việc chính phủ đầu tư cho việc điều trị cai nghiện miễn phí. Trên thực tế, Việt Nam hiện đang trong giai đoạn triển khai thí điểm điều trị thay thế Methadone và phương pháp này bước đầu đã cho thấy hiệu quả tích cực, đối với cả tình trạng SDMT cũng như các vấn đề sức khỏe và xã hội khác của người bệnh [7]. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những định kiến nhất định đối với người SDMT. Đa số CBYT cho rằng người SDMT dễ manh động và không trung thực khi đến các cơ sở y tế và lưỡng lự với quan điểm cho rằng người SDMT phải được đưa vào tại cai nghiện hoặc vào tù để bảo vệ cho cộng đồng. Điều này phần nào thể hiện thái độ kỳ thị của CBYT đối với người SDMT – là một trong những nguyên nhân góp phần hạn chế khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế của người nghiện, đặc biệt nếu họ có đồng nhiễm HIV [6].

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊCBYT trong nghiên cứu có kiến thức còn hạn chế và thái độ chưa tích cực đối với ma túy và việc lệ thuộc

vào ma tuý. Cần tăng cường các hoạt động đào tạo nhằm nâng cao kiến thức, từ đó giúp thay đổi thái độ của CBYT về ma tuý và người sử dụng ma tuý.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế, Viện Vệ Sinh Dịch Tễ TW, FHI360 (2009). Báo cáo chương trình giám sát kết hợp hành vi và

các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam năm 2006.2. Bộ Y tế, Viện Vệ Sinh Dịch Tễ TW, FHI360 (2012). Báo cáo chương trình giám sát kết hợp hành vi và

các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam năm 2009.3. Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên hợp quốc, Văn phòng tại Việt Nam (UNODC)

(2012). Các chất kích thích dạng Amphetamine ở Việt Nam.4. Cục Phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam (VAAC) (2012). Báo cáo tiến độ phòng, chống AIDS Việt Nam

năm 2012.5. Adrian M. (2006). Addiction and sexually transmitted disease (STD), human immunodeficiency virus,

(HIV), and acquired immune deficiency syndrome (AIDS): their mutual interactions. Subst Use Misuse. 41(10-12):1337-48.

6. Ahsan Ullah AK. (2011). HIV/AIDS-Related Stigma and Discrimination: A Study of Health Care Providers in Bangladesh. J Int Assoc Physicians AIDS Care (Chic). 10(2):97-104

7. Tam T. M. Nguyen, et al. (2012). Methadone Maintenance Therapy in Vietnam: An Overview and Scaling-Up Plan. Adv Prev Med. Aricle ID: 732484. 5 pages.

SỬ DỤNG ĐA MA TÚY TRONG NHÓM NAM SỬ DỤNG HEROIN TẠI 3 THÀNH PHỐ CỦA VIỆT NAM

Bùi Thị Minh Hảo1, Lùng Bích Ngọc1, Nguyễn Thu Trang1, Lê Minh Giang1,2

1Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS, trường Đại học Y Hà Nội.2Bộ môn Dịch tễ học trường Đại học Y Hà Nội.

TÓM TẮTĐặt vấn đề: Bên cạnh nỗ lực hạn chế tốc độ gia tăng tỷ lệ HIV trong nhóm nam sử dụng/tiêm chích

heroin, chương trình phòng chống HIV Việt Nam đang gặp thách thức khi một số báo cáo gần đây cho thấy tình trạng sử dụng đồng thời heroin với các ma túy khác, đặc biệt là ma túy tổng hợp dạng amphetamine (ATS), trong nhóm này ngày càng tăng. Nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả tỷ lệ và các hình thức sử dụng các loại ATS trong nhóm này tại Việt Nam.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu ngang trên 271 nam tuổi từ 18 – 45, sử dụng heroin trong 12 tháng qua bằng phương pháp chọn mẫu đối tượng giới thiệu đối tượng tại Hà Nội, Đà Nẵng, và Hồ Chí Minh năm 2011. Phân tích mô tả để xác định thực trạng sử dụng các ATS trong nhóm đối tượng này.

Kết quả: Tuổi trung bình của đối tượng là 29,7 (SD 6,8), trình độ học vấn chủ yếu là cấp 2 và cấp 3 (79,7%) 67,9% chưa kết hôn hoặc đã ly hôn. Đối tượng sử dụng heroin chủ yếu theo đường chích (68,6%), 10,2% dùng chung bơm kim tiêm trong 30 ngày qua; 9,6% biết mình nhiễm HIV. Phần lớn đối tượng đã từng (90,4%) và hiện đang (75,3%) sử dụng ATS, trong đó đã từng và hiện đang sử dụng hồng phiến là 28,8% & 14,8%, thuốc lắc 77,1% & 42,2%, và đá 80,1% & 64,8%. Mặc dù có sự tương đồng về lý do sử dụng lần đầu của hồng phiến, thuốc lắc và đá, nhưng sự khác biệt về cách sử dụng các loại ATS

180

Page 55: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

này thể hiện trong hình thức sử dụng (hút/hít/uống/chích), địa điểm sử dụng (công cộng/giải trí/kín đáo), cũng như cách kết hợp sử dụng với các chất gây nghiện khác (rượu/heroin …).

Kết luận: Các can thiệp phòng chống HIV cho người sử dụng/tiêm chích heroin cần quan tâm đến thực trạng và nguy cơ từ việc sử dụng đồng thời heroin với các ma túy khác.

Từ khóa: Ma túy tổng hợp dạng Amphetamine (ATS), đa ma túy, nam sử dụng/tiêm chích heroin, Việt Nam.

SUMMARYIntroduction: Beside the efforts to reduce HIV prevalence among male injection drug users, HIV

prevention programs in Vietnam have faced with challenges when recent studies show that there is increasing use in both heroin and other illicit drugs, especially amphetamine-type stimulants (ATS). This study aims to describe that rate and different forms of ATS use among male injection drug users in Vietnam.

Method: A cross sectional study was conducted on 271 men aged 18-45 who used heroin in the past 12 months. Data was collected by snowballing in Hanoi, Da Nang, and Ho Chi Minh City in 2011. Descriptive analysis is used to understand the ATS use in this population.

Results: The mean age of participants was 29.7 (SD 6.8) with educational level mostly middle school or secondary school (79.7%) and marital status of single or divorced (67.9%). The participants consumed heroin comprising the most commonly injecting drug (68.6%); 10% shared needles in the past 30 days; 9.6% knew that they were HIV infected. The majority already used (90.4%) and are using (75.3%) ATS, in which already used and are using amphetamines (hồng phiến), ecstasy (thuốc lắc), and ice crystal (đá) as followed 28.8% and 14.8%, 77.1% and 42.2%, 80.1% and 64.8%. Despite the similar reasons for using amphetamines, ecstasy, and ice crystal, the differences of using these ATS appeared in the drug administrations (smoking, inhaling, drinking, injecting), locations (public, entertaining places, private), and ATS used in combination with other substances (alcohol, heroin…).

Conclusion: HIV prevention and intervention programs should pay close attention to the situations and risks of using these drugs simultaneously.

Keywords: Amphetamine-type stimulant (ATS), multi drug, Vietnam, male injection drug users, Vietnam.

ĐẶT VẤN ĐỀNgười sử dụng/ tiêm chích ma túy tại Việt Nam vẫn là đối tượng có nguy cơ lây nhiễm HIV và các bệnh

lây truyền qua đường tình dục (STDs) cao nhất. Mặc dù những nỗ lực can thiệp tích cực trong những năm gần đây đã mang lại kết quả khi tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này đã giảm 3% so với năm 2010 [1,2], sự kết hợp giữa HIV/AIDS và ma tuý đã khiến nhóm này gặp rất nhiều thách thức. Thêm vào đó, việc sử dụng đồng thời heroin và các loại ma túy khác trong nhóm người sử dụng heroin cũng bắt đầu phổ biến trong những năm gần đây. Năm 2004, một nghiên cứu quy mô lớn trên 1175 nam thanh niên sử dụng ma túy tại Hà Nội đã phát hiện nhiều đối tượng sử dụng hiện đang heroin có dùng thêm nhiều loại ma túy khác. Tương tự như vậy, các vòng điều tra IBBS đều phát hiện và khẳng định việc sử dụng nhiều loại ma túy khác bên cạnh heroin của nhóm đối tượng này. Tuy nhiên, các nghiên cứu này thường chỉ quan tâm đến các nguy cơ do hành vi sử dụng heroin hoặc tình dục, do đó, các thông tin liên quan đến việc sử dụng các loại ma túy khác trong nhóm này chỉ dừng lại ở tỷ lệ đã báo cáo đã từng sử dụng, mà chưa có được các thông tin cụ thể của thực trạng này. Vì vậy, năm 2010 – 2011, Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo HIV/AIDS với sự hỗ trợ của UNODC đã triển khai một nghiên cứu về tình hình sử dụng các loại ma túy tổng hợp dạng amphetamine trong nhóm những người hiện đang sử dụng heroin tại 3 thành phố lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh, với các mục tiêu sau:

Mô tả thực trạng sử dụng các loại ma túy tổng hợp dạng amphetamine trong nhóm nam hiện đang sử dụng heroine tại Việt Nam.

Mô tả đặc điểm sử dụng các loại ma túy tổng hợp trong nhóm nhóm nam hiện đang sử dụng heroine tại Việt Nam.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐối tượng nghiên cứu: Nam giới từ 18 – 45 tuổi, có sử dụng heroin trong thời gian 01 năm qua tự nguyện tham gia nghiên cứu.Thời gian nghiên cứu: Tháng 12/2010 đến tháng 5/2011.Địa điểm nghiên cứu: Hà Nội, Đà Nẵng và Hồ Chí Minh.Cỡ mẫu nghiên cứu: Tổng số đối tượng tham gia nghiên cứu là 271, trong đó lần lượt tại Hà Nội, thành

phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng là 100, 101 và 70 đối tượng.Phương pháp nghiên cứu và chọn mẫu: Điều tra cắt ngang sử dụng phương pháp đối tượng giới thiệu

đối tượng cho đến khi đạt đủ cỡ mẫu cần thiết.Đạo đức nghiên cứuĐề cương nghiên cứu đã được hội đồng đạo đức trường ĐHYHN thông qua.Sự tham gia nghiên cứu của đối tượng là tự nguyện và vô danh.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUĐặc điểm đối tượng nghiên cứu

181

Page 56: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Bảng 1: Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu

Thông tin chung Chung(N = 271)

ATS (-)(N = 67)

ATS (+)(N = 204) p

TB ± SD TB ± SD TB ± SD% % %

Tuổi trung bình 29,7 ± 6,8 32,1 ± 6,7 29,0 ± 6,6 < 0,01Trình độ học vấn

> 0,05Mù chữ và cấp 1 16,6 19,4 15,7

Cấp 2 41,3 38.8 42,2Cấp 3 38,4 40,3 37,7

Trên cấp 3 3,7 1,5 4,4Tình trạng hôn nhân

> 0,05Độc thân 54,6 43,3 58,3

Sống với bạn tình 10,3 10,5 10,3Kết hôn 21,8 29,8 19,1

Ly dị/ly thân/góa 13,6 16,4 12,3Tình trạng công việc

> 0,05Không đi làm 19,9 14,9 21,6

Làm tại cơ quan/ tổ chức 15,5 17,9 14,7Làm tự do 58,3 58,2 58,3

Khác 6,3 9,0 5,4Thu nhập hiện tại

> 0,05

Không có thu nhập 13,3 7,5 31Dưới 2 triệu 18,4 11,9 422 – 3 triệu 27,3 26,9 563 – 5 triệu 29,2 40,3 52

Trên 5 triệu 11,8 13,4 17Hiện đang tiêm chích heroine 68,6 67,2 69,1 > 0,05

Dùng chung BKT 30 ngày qua (trong nhóm tiêm chích) 10,2 11,1 9,9 > 0,05Biết mình đã nhiễm HIV 9,6 11,9 8,8 > 0,05

Nhận xét: Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm đối tượng, trong đó nhóm sử dụng ATS (29,7) trẻ hơn so với nhóm không sử dụng ATS (32,1). Phần lớn đối tượng có trình độ học vấn cấp 2& 3, sống độc thân, thu nhập chủ yếu từ lao động tự do và không có sự khác biệt giữa hai nhóm sử dụng và không sử dụng ATS.Có sự khác biệt trong thu nhập giữa hai nhóm, trong đó nhóm sử dụng ATS có thu nhập cao hơn (17,0% so với 13.4%), tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ đối tượng hiện đang tiêm chích heroine (68,6%) cao, trong đó 10,2% dùng chung bơm kim tiêm khi tiêm chích ma túy 30 ngày qua, đáng chú ý là gần 10% đối tượng biết mình đã nhiễm HIV.

Thực trạng sử dụng các chất ma túy tổng hợp dạng amphetamine trong nhóm nam sử dụng ma túy tại Việt Nam

Biểu đồ 1: Tỷ lệ sử dụng các ma túy tổng hợp dạng amphetamine

Nhận xét: 90,4% đối tượng đã từng sử dụng và 75,3% hiện đang sử dụng một trong các loại ATS. Trong đó, đá được sử dụng phổ biến nhất với 80,1% đã từng sử dụng và gần 65% hiện đang sử dụng, các tỷ lệ này với thuốc lắc là 77,1% và 42,2%; hồng phiến là 28,9% và 14,8%.

182

Page 57: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Biểu đồ 2: Tần suất sử dụng các loại ATS trong 90 ngày qua

Nhận xét: Tần suất sử dụng hồng phiến trong 90 ngày qua là cao nhất với 37,5% đối tượng báo cáo sử dụng một vài lần/tuần. Hơn một nửa đối tượng sử dụng thuốc lắc với tần suất một vài lần/tháng (51,8%). Tần suất sử dụng hàng đá cao nhất ở mức độ một vài lần/tháng (31,2%) và thấp nhất ở mức độ một lần/tuần (17,0%).

Đặc điểm sử dụng các chất ma túy tổng hợp dạng amphetamine trong nhóm nam sử dụng ma túy tại Việt Nam

Bảng 2: Đặc điểm lần sử dụng ATS lần đầu tiên

Hồng phiến(n = 78)

Thuốc lắc(n= 209)

Hàng đá(n = 217)

TB ± SD TB ± SD TB ± SD% % %

Tuổi sử dụng lần đầu tiên 24,9 ± 5,8 24,7 ± 6,1 26,9 ± 6,6Địa điểm sử dụng lần đầu tiên

Nhà riêng 30,8 1,0 11,5Nhà của bạn bè/ bạn tình 17,9 2,4 12,0

Bar, Sàn nhảy 14,1 83,3 8,3Khách sạn/ Nhà nghỉ 30,8 12,4 62,7

Khác 6,4 1,0 5,5Lý do sử dụng lần đầu tiênTò mò, muốn biết tác dụng 71,8 74.,6 71,9

Muốn phê 18,0 7,7 8,8Bạn bè rủ sử dụng 62,8 66.5 64,1Bạn tình rủ sử dụng 2.56 1,4 2,8

Người bán ATS rủ sử dụng 1,3 1,9 0,9Khác 1,3 74,6 2,3

Các chất sử dụng cùng ATS trong lần sử dụng đầu tiênKhông sử dụng chất nào khác 25,6 27,8 63,1

Rượu 11,5 61,7 10,1Heroin 57,7 4,3 11,5

Các chất khác 7,7 11,0 15,7

Nhận xét: Độ tuổi lần đầu tiên sử dụng không có sự khác biệt nhiều giữa các loại ma túy tổng hợp dạng amphetamine. Tuổi sử dụng hồng phiến và thuốc lắc lần đầu là 25 (SD = 6) và hàng đá là 27 tuổi (SD = 7). Địa điểm sử dụng các loại ATS khá khác nhau. Hồng phiến chủ yếu được sử dụng tại nhà riêng hoặc khách sạn, nhà nghỉ trong khi đó có đến 83,3% đối tượng sử dụng thuốc lắc tại các quán bar, sàn nhảy. 62,7% đối tượng sử dụng hàng đá tại khách sạn, nhà nghỉ.

Hai lý do chủ yếu của việc sử dụng ATS là tò mò (trên 70%) và do được bạn bè khuyến khích rủ rê(trên 60%). 57,7% đối tượng sử dụng hồng phiến lần đầu tiên cùng heroin trong khi thuốc lắc được sử dụng chủ yếu cùng với rượu (61,7%) và hàng đá được sử dụng gần như độc lập với 63,1% đối tượng không sử dụng chất nào khác trong lần đầu sử dụng đá.

Bảng 3: Các hình thức sử dụng ATS theo thời gian

Các cách sử dụng ATS Hồng phiến (n = 78) Thuốc lắc (n= 209) Hàng đá (n = 217)% % %

Lần sử dụng ATS đầu tiênHút 62,8 78,5 71,9Hít 21,8 14,4 16,6

Uống 14,1 7,2 10,6Tiêm chích 1,3 0,0 0,9

183

Page 58: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Các lần sử dụng ATS tiếp theoHút 5,1 0,0 20,3Hít 2,6 0,0 0,5

Uống 2,6 23,4 0,0Tiêm chích 18,0 0,0 1,4

Trong 90 ngày quaHút 45,0 3,5 93,8Hít 10,0 0,0 3,4

Uống 15,0 90,8 2,9Tiêm chích 32,5 0,9 1,1

Nhận xét: Có sự khác biệt trong cách sử dụng lần đầu tiên với từng loại ATS, cũng như trong các lần sử dụng tiếp theo, đặc biệt là với hồng phiến và thuốc lắc.Hút là lựa chọn phổ biến đối với cả 3 loại ATS trong lần sử dụng đầu tiên và tiếp tục được duy trì trong sử dụng tiếptheo đối với hàng đá. Tỷ lệ đối tượng chuyển sang chích hồng phiến tăng dần trong các lần sử dụng tiếp theo.Có sự khác biệt trong hình thức sử dụng các loại ATS trong 90 ngày qua: hàng đá chủ yếu là hút (93,7%), thuốc lắc là đường uống (90,8%), hồng phiến là hút (45,0%) và tiêm chích (32,5%).

BÀN LUẬNĐối tượng sử dụng ATS còn khá trẻ, đặc biệt đối tượng hiện đang sử dụng ATS trẻ hơn hẳn so với

nhóm đối tượng không sử dụng ATS với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.Điều này cho thấy xu hướng sử dụng đồng thời heroin với ATS là phổ biến trong nhóm người sử dụng heroin trẻ tuổi.Tuổi trung bình của các đối tượng tham gia nghiên cứu này cũng tương đồng với một số nghiên cứu khác về tình hình sử dụng các chất gây nghiện [2,3]. Đây cũng là lứa tuổi có nhu cầu tình dục cao và hoạt động tình dục mạnh mẽ, do đó sẽ dễ có các hành vi nguy cơ liên quan đến tình dục hơn nếu sử dụng đồng thời nhiều loại ma túy [3].

Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy tình trạng phổ biến của việc sử dụng đồng thời nhiều loại ma túy trong một thời điểm, với 69% đối tượng sử dụng ATS cùng với hành vi tiêm chích heroin. Mặc dù tỷ lệ đã từng sử dụng thuốc lắc và đá không có sự khác biệt nhiều (77% và 80%), nhưng tỷ lệ hiện đang sử dụng lại có sự chênh lệch khá lớn. 64,8% đối tượng cho biết hiện đang sử dụng đá, trong khi chỉ có 42,2% sử dụng thuốc lắc và 14,8% sử dụng hồng phiến. Điều này phản ánh những thay đổi hiện nay trong xu hướng sử dụng các loại ATS, trong đó ma túy đá đang ngày càng trở thành trào lưu mới của giới trẻ. Xu hướng giảm sử dụng thuốc lắc và tăng sử dụng hàng đá cũng tương đồng với xu thế chung của một số nước châu Á hiện nay [4].

Tuy lý do sử dụng của các loại ATS khá tương đồng nhưng hình thức sử dụng và địa điểm sử dụng các loại ma túy tổng hợp dạng amphetamine có sự khác biệt khá lớn. Hồng phiến và hàng đá chủ yếu được sử dụng qua đường hút (45,0% và 93,8%)và chủ yếu ở khách sạn, nhà nghỉ trong khi thuốc lắc chủ yếu được uống (90,8%) tại các quán bar hay sàn nhảy. Hình thức sử dụng ATS chủ yếu bằng uống hoặc hút tuy không trực tiếp liên quan đến nguy cơ lây nhiễm HIV như hình thức tiêm chích ma túy nhưng có thể gián tiếp làm tăng tỷ lệ nhiễm HIV do các loại ATS này thường được sử dụng trong bối cảnh tình dục [5].

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊKết luậnTỷ lệ sử dụng đồng thời các ma túy khác, đặc biệt là ATS, trong nhóm nam sử dụng heroine rất cao.Có sự khác biệt trong cách lựa chọn hình thức và địa điểm sử dụng đối với từng loại ATS của đối tượng

nghiên cứu.Khuyến nghịCác can thiệp cho đối tượng sử dụng heroin cần quan tâm đến thực trạng và nguy cơ từ việc sử dụng

đồng thời heroin với các ma túy khác.TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế (2012). Báo cáo tình hình nhiễm HIV/AIDS và hoạt động phòng, chống HIV/AIDS năm 2011.

phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu năm 2012. Trang 73. 2. IBBS 2009. Results from the HIV/STI integrated biological and behavioral surveillance (IBBS) in

Vietnam, round II —2009. 3. Ms Huệ (2010).Tình hình sử dụng cùng lúc nhiều loại chất gây nghiện ở đối tượng tiêm chích ma túy

tại TPHCM. Tạp chí Y học thực hành số 742 + 743. trang 245 – 251.4. UNODC (2012). Patterns and Trends of Amphetamine-Type Stimulants and Other Drugs: Asia and the

Pacific. 2012a5. Colfax G, Santos GM, Chu P, Vittinghoff E, Pluddemann A, Kumar S, Hart C. Amphetamine-group

substances and HIV. Lancet. 2010 Aug 7; 376(9739):458-7

184

Page 59: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

TÌM HIỂU CÁC MẠNG LƯỚI TÌNH DỤC CỦA NAM GIỚI CÓ QUAN HỆ TÌNH DỤC LƯỠNG TÍNH Ở HÀ NỘI

Đặng Văn Khoát, Phạm Hạnh Vân, Siobhan, Peter Higgs và cộng sự

TÓM TẮTNghiên cứu của Viện Burnet Australia và VICOMC ở Việt Nam nhằm mục đích tìm hiểu các mạng lưới

của nam giới có quan hệ tình dục lưỡng giới ở Hà Nội.Phối hợp nghiên cứu định tính với 96 nam giới có quan hệ tình dục (QHTD) đồng tính (MSM) và định lượng với 249 MSM và bạn tình của họ trong thời gian 2010-2011. Kết quả cho thấy MSM có QHTD với cả nam và nữ (lưỡng tính) là đa dạng, bao gồm cả những người có khuynh hướng tình dục đồng tính hoặc dị tính, cả những người có hoặc không có sở thích tình dục đồng tính nhưng vì nhiều lý do khác về kinh tế, xã hội. MSM có QHTD lưỡng tính có hành vi nguy cơ cao hơn, số bạn tình nhiều hơn và ít sử dụng bao cao su thường xuyên hơn. Họ đặc biệt có vai trò kết nối các mạng lưới QHTD đồng tính và QHTD dị tính.Khuyến nghị: MSM có QHTD lưỡng tính cần được quan tâm đặc biệt để dự phòng HIV cho nam giới và cho cả phụ nữ, những người là bạn tình hoặc vợ của MSM có QHTD lưỡng tính.

SUMMARYThe study was conducted by Australian Burnet Institute and Vietnamese VICOMC in order to understand

the networks of bisexual men in Hanoi. We conducted both qualitative research on 96 men who have sex with men (MSM) and quantitative research on 249 MSMs and their partners in 2010-2011. Result shows that MSMs who have sex with both men and women (bisexual) are diversified, including those having bisexual or heterosexual tendancy, even those who do not like bisexual but bound by other economic, social reasons. We emphasized that MSMs have bisexual sex also have higher risk, more sex partners and less condom usage. Especially, they have a role in connecting bisexual and heterosexual sex networks. We recommend taking special attention to MSMs having bisexual sex to prevent HIV for both men and women, sex partners or wives of bisexual.

ĐẶT VẤN ĐỀViện Burnet tiến hành nghiên cứu “Tìm hiểu các mạng lưới tình dục của nam giới có QHTD với cả nam

và nữ tạiViên Chăn, Lào và Hà Nội, Việt Nam”.Nghiên cứu ở Việt Nam có sự hợp tác giữaViện Burnet với Trung tâm Huy động Cộng đồng Việt Nam (VICOMC). Báo cáo nghiên cứu này dựa chủ yếu vào báo cáo nêu trên công bố vào tháng 9.2011; và được bổ sung vào tháng 6.2013. Ở châu Á, các ước tính về tỷ lệ của nam đã từng có QHTD đồng tính (MSM) rất khác nhau, từ 33% đến18% (1), (4). Một sốphụ nữ, chủ yếu là đã kết hôn thường được xem là có cơ thấp, sẽ nhiễm HIV do bạn tình hoặc chồng của họ, trong đó có những MSM có QHTD đồng tính (4). Ở Việt Nam, theo báo cáo tháng 3.2012 của Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS; phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm về “Tiến độ phòng chống AIDS Việt Nam năm 2012 giai đoạn 2012-2011”, tỉ lệ nhiễm HIV ở Hà Nội trong nhóm MSM bán dâm là từ 14.8% đến 14,3% và trong nhóm MSM không bán dâm là 19,8% (IBBS 2009) (1). Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm tìm hiểu các mạng lưới tình dục của MSM, vai trò kết nối của MSM có QHTD lưỡng tính ở Hà Nội và thêm các bằng chứng về tiềm năng lây truyền HIV giữa các mạng lưới tình dục khác nhau của MSM.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUNghiên cứu định tínhTập trung vào lý do dẫn đến QHTD đồng tính, nơi và việc hẹn hò, thương lượng và QHTD, ảnh hưởng

của thời điểm và nơi diễn ra các hành vi tình dục. Các phương pháp là lập bản đồ, ghép cặp hợp lý (pair-wise ranking), thảo luận nhóm trọng tâm (TLN) và phỏng vấn người thông tin chủ chốt.Nghiên cứu định tính bao gồm 14 cuộc TLN do điều tra viên đồng đẳng tiến hành với 96 MSM tham gia trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 10.2010. Những người tham gia (NTG) được tuyển chọn tại những nơi MSM thường lui tới.

Nghiên cứu định lượngTìm hiểu khuynh hướng tình dục, hành vi tình dục thâm nhập, số và loại bạn tình, kiến thức về HIV lây

qua đường tình dục, việc sử dụng bao cao su thường xuyên, và lập bản đồ mạng lưới tình dục trong quý 4 năm 2010. Nghiên cứu vận dụng bảng câu hỏi chọn mẫu hướng về người được phỏng vấn, nam và nữ có bảng hỏi riêng.Những NTG là MSM lưỡng tính và các bạn tình của họ.Mười hạt giống (HG - seed) ban đầu đã được tuyển chọn, trong đó có hai người nghiện chích ma túy. Đó là những người báo cáo có QHTD lưỡng tính trong 12 tháng qua. Những HG này sau đó đã tuyển chọn 49 điểm kết nối (ĐKN1 - node) trong vòng sóng đầu tiên; 49 ĐKN1 này lại tuyển chọn 155 ĐKN2 của vòng sóng thứ hai; 155 ĐKN2 này sau đó tuyển chọn 32 ĐKN3 trong vòng sóng thứ ba.Tổng cộng có 246 NTG được tuyển chọn và 239 người được i

185

Page 60: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

đưa vào kết quả phân tích dữ liệu.Đạo đức nghiên cứuHội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Trường Đại học Y tế Công cộng Hà Nội đã duyệt đề tài

vào tháng 3.2010.Phân tíchKết quả phỏng vấn được xử lý và phân tích bằng phần mềm stataSTATA 11 11.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUNghiên cứu định tínhMSM ở Hà Nội thường hẹn hò với nhau ở công viên, bờ hồ, sàn nhẩy, quán bar, phòng tắm hơi, mát xa;

còn QHTD thường là ở khách sạn, nhà nghỉ, sauna, ở công viên, các chợ tình và ở các cơ sở khép kín. Họ đã nói về sở thích tình dục.“Mình thích QHTD đồng tính để thỏa mãn chứ không phải để yêu.Khi mình chán nữ thì mình tìm nam” hoặc “Mình thích nam vì mình có thể là người cho và cũng có thể là người nhận.Còn phụ nữ, họ chỉ nằm và chờ ta thôi”.Có bạn kể “Có một hôm, thày giáo bảo mình đến phòng ngủ của thày xem phim và thế là mình bị ép phải QHTD”. Bạn khác nhớ lại: “Hồi nhỏ mình chơi với các bạn ở vườn hoa hàng Đậu. Các dì (là nam) dụ dỗ bọn mình đến nhà, bảo QHTD và cho tiền. Bạn khác kể chuyện QHTD đồng tình ở nơi chỉ có đàn ông: “Mình đi bộ đội. Ở Hà Giang rét quá và hai đứa thường ngủ chung chăn. Sau lần đầu ôm ấp, cả hai đứa đều ngượng; nhưng rồi lại thích “yêu” nhau. Hết nghĩa vụ cả hai đứa đều lấy vợ và chuyện cũ chỉ còn là kỷ niệm”.

Rượu làm dễ quên bao cao su (BCS): “Chính mình say rượu khi QHTD đồng tính mình cũng chẳng dùng BCS”. Rượu còn tiếp tay cho lạm dụng tình dục: “Mình uống rượu say với mấy đứa bạn ở nhà nghỉ. Sáng hôm sau, mình mới biết mình đã phải làm bot. Nhưng không thằng nào nhận đêm qua đã lạm dụng mình”.

Có bạn cho rằng “Tôi nghĩ ma túy làm cho mình hứng lên và QHTD lâu hơn.Khi dùng amphetamin, tôi chẳng quan tâm bạn tình mình là ai”. Ma túy liên quan đến mại dâm: “Những người tiêm chích ma túy như mình cần tiền, các bạn của mình hầu hết bán dâm..Mà bán dâm ít nguy hiểm hơn là trộm cắp”. “Còn mình đã lấy vợ được một năm nhưng thất nghiệp.Mình phải QHTD đồng tính để có tiền”. Bạn khác nói thẳng: “Nam giới như tôi cóQHTDlà để kiếm tiền. Người khác là gay có vợ nhưng vẫn thích QHTD đồng tính”. Có bạn tâm sự: “Anh ta là gay người nước ngoài đã giúp mình rất nhiều nhưng không cần mình trả nợ. Mình đã QHTD với anh ta như để trả ơn”.

Họ có thê tin ở bạn tình: “It khi tôi dùng BCS, chỉ dùng BCS khi mình không tin tưởng thôi”. Có khi là thiếu BCS: “Mình chỉ dùng BCS ở sauna vì ở đó sẵn có. Nơi khác thì không, kiếm đâu ra BCS”. Có khi vì mùi vị BCS “Minh không dùng bao cao su khi quan hệ tình dục đường miệng, mùi vị nó khó chịu lắm”.

Có bạn chia sẻ “Mình cố gắng giấu kín vì họ không cởi mở đâu. Vợ mình nếu biết cũng không tha đâu”. Nhưng cũng có bạn hi vọng “Đôi khi mình cảm thấy xấu hổvì mình là MSM. Thái độ cuả xã hội đang thay đổi. Hi vọng trong tương lai xã hội sẽ có cái nhìn khác về MSM”.

Nghiên cứu định lượngCó 177 NTG đã trả lời và cho thấy MSM lưỡng tính so với với nam đồng tính và dị tính có số bạn tình

nhiều nhất (11,5 so với 2,5 và 2,5) kể cả số bạn tình là nam (7 so với 2 và 0) và số bạn tình là nữ (4 so với 0 và 2). Tuy nhiên họ lạicó mức độ sử dụng BCS thường xuyên (16%) ít hơn MSM đồng tính (35%). Tỉ lệ sử dụng BCS trong quan hệ với những người chuyển giới của MSM lưỡng tính thấp hơn so với MSM đồng tính (39% và 50%), với nam giới cũng vậy (28% và 35%). Tất cả NTG có kiến thức khá về sử dụng bao cao su, nhưng thực tế lại ít khi dùng bao cao su thường xuyên.

Bản đồ về các mạng lưới tình dục dưới đây cho thấy các mạng lưới tình dục của MSM không loại trừ nhau và đặc biệt MSM có QHTD lưỡng tính có vai trò chủ chốt kết nối các mạng lưới này do có QHTD với cả nam và nữ.

BÀN LUẬNNơi hẹn hò và nơi QHTD có ảnh hưởng đến việc sử dụng bao cao su, nơi đó có sẵn bao cao su hay

không.Vì thế, nên khuyến khích và bình thường hóa việc trong túi có bao cao su; đa dạng hóa việc cung cấp miễn phí bao cao su đảm bảo đễ dàng và kín đáo tiếp nhận.Những lý do dẫn đến QHTD đồng giới là đa dạng, không phải chỉ có yếu tố khuynh hướng tình dục mà còn là sở thích tình dục, hoặc ở nơi chỉ có nam giới với nhau. QHTD đồng tính có thể đồng thuận hay cưỡng ép, trả ơn hoặc mua bán dâm. Từ hiểu biết về BCS đến việc dùng thường xuyên BCS còn một khoảng cách lớn; MSM lưỡng tính trong nghiên cứu này có các hành vi có nguy cơ cao hơn MSM đồng tính hoặc MSM dị tính. Lý do họ nêu ra tương tự như một nghiên cứu về “Tiếp cận MSM ở TP Hồ Chí Minh”: Không sử dụng BCS vì nó giảm khoái cảm, bạn tình là quen biết và khỏe mạnh, hoặc không có sẵn BCS (3).

Các mạng lưới xã hội và tình dục ngày càng được quan tâm trong nghiên cứu. Một nghiên cứu về “Các đặc điểm xã hội và tình dục với các đối tác tình dục trong các phụ nữ Hoa Kỳ gốc Phi có nguy cơ cao ở thành phố” của Grieb SM và CS đã cho thêm bằng chứng về sử dụng ma túy đồng hành với mạng lưới QHTD.

Chúng tôi cho rằng HIV và các bệnh lây qua đường tình dục (STIs) khác là nhiễm trùng dựa trên hành vi,

186

Page 61: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

tiến triển của dịch trong một quần thể không xảy ra một cách thống nhất hoặc ngẫu nhiên, mà là kết quả tương tác xã hội thân mật và phức tạp giữa hai hoặc nhiều người. Nguy cơ của một cá nhân nhiễm trùng không chỉ phụ thuộc vào đặc điểm và hành vi của cá nhân, mà còn vào đặc điểm và hành vi những đối tác của mình, và những đối tác của các đối tác đó. Rủi ro, nói cách khác, phụ thuộc vào toàn bộ mạng lưới và vào mức độ và cơ cấu liên hệ QHTD trong cả hệ thống. Trong sơ đồ các mạng lưới của NTG dưới đây, ô vuông màu xanh đại diện cho NTG là nam và vòng tròn mầu đỏ đại diện cho NTG là nữ. Những ô màu xanh lớn nhất đại diện cho 10 NTG là hạt giống. Mạng thành phần lớn nhất (bên dưới sơ đồ) có 95 NTG liên kết bốn hạt nhân (E, J, B và I), làm nổi bật tầm quan trọng của cấu trúc mạng cho lây nhiễm HIV. Sáumạng thành phần nhỏ hơn (với các hạt nhân A, C, D, F, G, H) nằm ở phần trên sơ đồ. Điều này nhấn mạnh một thực tế là các loại khác nhau của mạng lưới tình dục là không loại trừ lẫn nhau và những người đàn ông lưỡng tính có thể là diểm liên kết giữa họ với nhau. Nâng cao hiểu biết về các hoạt động tình dục của những MSM lưỡng tính là cần thiết cho việc lập chương trình dự phòng lây nhiễm HIV và STI cho họ.

Sơ đồ các mạng lưới xã hội và tình dục của MSM ở Hà Nội

KẾT LUẬNNam giới có quan hệ tình dục với nam giới là khái niệm để chỉ hành vi tình dục. Những người có QHTD

lưỡng tính là đa dạng, kể cả những người có khuynh hướng tình dục đồng tính hoặc dị tính, cả những người có hoặc không có sở thích tình dục đồng tính nhưng vì nhiều lý do khác về kinh tế, xã hội.

Nam giới có QHTD lưỡng tính có hành vi nguy cơ cao hơn, số bạn tình nhiều hơn và ít sử dụng bao cao su thường xuyên hơn. Họ đặc biệt có vai trò kết nối các mạng lưới QHTD đồng tính và QHTD dị tính, họ cần được quan tâm đặc biệt để dự phòng HIV cho nam giới và cho cả phụ nữ, những người là bạn tình hoặc vợ của MSM có QHTD lưỡng tính

KHUYẾN NGHỊNên có các nghiên cứu sâu rộng hơn về các mạng lưới xã hội và tình dục của MSM và MSM có quan hệ

tình dục lưỡng tính.Nên sớm có các văn bản về quyền của MSM, chăm sóc sức khỏe và sức khỏe tình dục, sinh sản cho

MSM.Cần có các chiến lược truyền thông cụ thể cho từng nhóm MSM nhất là cho MSM có QHTD lưỡng tính.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Ủy ban Quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma túy, mại dâm. Báo cáo tiến độ phòng

chống AIDS Việt Nam năm 2012. Nhà xuất bản Hồng Đức. 3.2012. Tr. 16-19.2. FHI. Reaching men who have sex with men in HCMC. 2006. P. 38.3. M. Boulton, G. Hart and R. Fizpatrick. The sexual behavior of bisexual men in relation to HIV

transmission. Published on line 25.9.2007.4. Siobhan Redden, Pham Thi Hanh Van, Peter Higgs, Dang Van Khoat, Rebecca Jenkinson, Chad

Hughes, Mike Toole. Exploring sexual networks of men who have sẽ with men in Hanoi, Viet Nam. Burnet Institute, 3.2011.

187

Page 62: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ LÂY NHIỄM HIV CỦA KHÁCH HÀNG ĐẾN TƯ VẤN VÀ XÉT NGHIỆM HIV TỰ NGUYỆN TẠI TRUNG TÂM PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

TỪ 2008 – 2011

Trương Tấn Nam, Lê Thành Chung, Huỳnh Thị Hồng NgọcTrung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Thành phố Đà Nẵng

TÓM TẮT Trong thời gian 4 năm từ tháng 01 năm 2008 đến tháng 12 năm 2011, phòng tư vấn và xét nghiệm HIV tự

nguyện đặt tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng tiếp nhận 7346 lượt khách hàng đến tư vấn, trong đó có 7308 khách hàng xét nghiệm HIV chiếm 99,5% và có 7210 khách hàng quay lại nhận kết quả đạt 98,7% khách hàng xét nghiệm. Trong tổng số khách hàng xét nghiệm có 250 khách hàng có kết quả HIV dương tính chiếm 3,4%. Lý do khách hàng đến xét nghiệm HIV tự nguyện là do Tiêm chích ma túy, mại dâm, khách hàng của mại dâm và có nhiều bạn tình. Trung bình số lần giao hợp âm đạo cao hơn trung bình số lần giao hợp qua hậu môn, tuy nhiên số lần sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục trung bình chỉ 11.6%. Có sự liên quan có ý nghĩa thống kê giữa kết quả xét nghiệm HIV dương tính với giới tính, nhóm tuổi, hành vi quan hệ tình dục, tiêm chích ma túy, tình trạng hôn nhân, số lượng bạn tình và hành vi sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục.

SUMMARYIn 4 years duration (1/2008 to 12/2011), the HIV voluntary counseling and testing center located in Da

Nang HIV/AIDS control center had received 7346 arrivals, 7308 clients came to take HIV test (99.5%) and 7210 clients came back for result (98.7%). 250 of them have HIV-positive result (3.4%). Customers came for HIV test voluntary are because of drug injection, prostitution or having multiple sex partners. On average, the number of vaginal sex is higher than the number of anal sex, but condom usage during sex only stays at 11.6%. There are statistically significant connections between positive HIV test result with gender, age group, sexual intercourse behavior, drug injection, marital status, number of sex partner and condom usage in sex.

ĐẶT VẤN ĐỀKể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào tháng 4/1993 thì đến 31/12/2011 tại thành phố

Đà Nẵng đã phát hiện có 1472 ca có xét nghiệm HIV dương tính, trong đó 583 người chuyển sang giai đoạn AIDS và 323 nguời tử vong do AIDS. Nguy cơ lây nhiễm HIV chủ yếu do tiêm chích ma tuý (49,5%), và có xu hướng giảm dần qua các năm. Tuy nhiên nguy cơ lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục không an toàn đang có xu hướng tăng dần trong 3 năm gần đây.

Cùng với việc nỗ lực triển khai các chương trình can thiệp giảm tác hại nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư, thành phố cũng tiến hành tư vấn và xét nghiệm HIV sàng lọc trên các đối tượng khác nhau để từ đó có thể phát hiện các ca nhiễm HIV mới. Việc phát hiện mới các đối tượng nhiễm HIV hàng năm cũng rất quan trọng vì từ đó có thể tiến hành tiếp cận truyền thông thay đổi hành vi làm giảm nguy cơ lây nhiễm sang cộng đồng cũng như giới thiệu bệnh nhân đến cơ sở điều trị. Đồng thời trong những năm gần đây, đa số các ca mới đượ phát hiện nhiễm HIV chủ yếu từ phòng tư vấn và xét nghiệm tự nguyện.

Từ suy nghĩ trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Đánh giá các yếu tố nguy cơ của khách hàng đến tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS từ tháng 01/2008 đến tháng 12/2011.

Mục tiêu nghiên cứu:1. Mô tả một số thông tin cơ bản của khách hàng đến tư vấn và xét nghiệm HIV tự nguyện.2. Đánh giá những yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV trong khách hàng đến tư vấn và xét nghiệm HIV tự

nguyện. 3. Tìm hiểu mối liên quan giữa hành vi nguy cơ cao cũng như đặc điểm của khách hàng với tỷ lệ nhiễm

HIV của khách hàng.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:Đối tượng nghiên cứuLà những khách hàng cá nhân tự nguyện đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại Phòng tư vấn và xét nghiệm

tự nguyên đặt tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Đà Nẵng từ 01/01/2008 đến 31/12/2011.Thời gian và địa điểm nghiên cứuThời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 đến tháng 10 năm 2012.Địa điểm nghiên cứu: Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng trước đây đặt tại 315

188

Page 63: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Phan Chu Trinh và từ tháng 12/2011 đặt tại 311/42 Trường Chinh thành phố Đà Nẵng.Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu hồi cứu.Phương pháp và công cụ thu thập thông tin: Lấy thông tin từ phiếu thu thập thông tin sẵn có của

khách hàng cá nhân tự nguyện đến tư vấn và xét nghiệm HIV tại Phòng tư vấn và xét nghiệm tự nguyên đặt tại Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Đà Nẵng từ 01/01/2008 đến 31/12/2011.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUMột số đặc điểm của khách hàngBảng 1: Đặc điểm của khách hang

Đặc tính Tần số (n=7346) Tỷ lệ (%)Nhóm tuổi16-19 tuổi20-24 tuổi25-29 tuổi30-39 tuổi40-49 tuổi

Trên 50 tuổi

4771881180818591073250

6.525.624.625.314.63.4

Nơi cư trúThị trấn/thành phố

Nông thônTỉnh khác

Người nước ngoài

604274

12264

82.21.016.70.1

Giới tínhNamNữ

40723254

55.744.3

Trình độ học vấnKhông đi học

Từ tiểu học trở xuốngTHCSPTTH

Cao đẳng, đại học

3563

194726042118

0.58.726.535.428.8

Tình trạng hôn nhânChưa kết hôn

Đã kết hôn/sống với người yêuĐã ly hôn/ly thân

Góa

368522851191185

50.231.116.22.5

Các kênh thông tin giúp khách hàng tiếp cận dịch vụ

69.3

28

3.9

3.1

0.3

0.1

0 20 40 60 80

Thông tin đại chúng

GDVĐĐ

Nhân viên y tế

Khác

Bạn tình

Bạn chích chung

Biểu 1: Các kênh thông tin giới thiệu khách hàng đến với dịch vụ

Tỷ lệ khách hàng đồng ý xét nghiệm và quay lại nhận kết quảBảng 2: Tỷ lệ khách hàng xét nghiệm và quay lại nhận kết quả

Nội dung Số lượng Tỷ lệ %Tỷ lệ khách hàng được tư vấn/Số khách hàng đến 7346 100

Tỷ lệ khách hàng đồng ý xét nghiệm/ Khách hàng tư vấn 7308 99.5Tỷ lệ khách hàng quay lại nhận kết quả XN/Số KH xét nghiệm 7210 98.7

Tỷ lệ khách hàng xét nghiệm ghi tên/ Số khách hàng xét nghiệm 2898 39.7Tỷ lệ khách hàng dương tính 250 3.4

189

Page 64: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Phân bố số lượt khách hàng theo nguy cơ của bản thân khách hàng

48.3

23

15.6

10

3.2

2.3

0 10 20 30 40 50 60

Nguy cơ khác

Mại dâm nam hoặc nữ

Có tình dục với nhiều người

Không có nguy cơ

Tiêm chích ma túy

Có tình dục đồng giới nam

Biểu 2: Phân bố số lượt khách hàng theo nguy cơ của bản thân khách hàng

Phân bố số lượt khách hàng theo nguy cơ của bạn tình khách hàng

25.9

24.5

19.4

14

8.6

2.7

2.3

1.5

0.8

0 5 10 15 20 25 30

Bạn tình có tình dục với nhiều người khác

Bạn tình là mại dâm

Bạn tình có tình dục với mại dâm

Bạn tình không có nguy cơ

Không có bạn tình

Bạn tình là người nhiễm HIV

Bạn tình có tình dục đồng giới nam

Bạn tình TCMT

Nguy cơ khác

Biểu 3: Phân bố số lượt khách hàng theo nguy cơ của bạn tình của khách hàng

Mối liên quan giữa nhiễm HIV với tình trạng sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục của khách hàng trong 30 ngày qua

Bảng 3: mối liên quan giữa nhiễm HIV với tình trạng sử dụng bao cao su

Kết quả xét nghiệm HIV Tình trạng sử dụng bao cao su Tổng cộng pKhông sử dụng Có sử dụngÂm tính 4484 2567 7051

P<0.05Dương tính 223 27 250Tổng cộng 4707 2594 7301

Mối liên quan giữa nhiễm HIV với tình trạng mắc bệnh lây truyền qua đường tình dục của khách hàng trong 3 tháng qua

Bảng 4: Mối liên quan giữa nhiễm HIV với tình trạng mắc bệnh STI

Kết quả xét nghiệm HIV Tình trạng mắc bệnh STD Tổng cộng PKhông mắc bệnh Có mắc bệnhÂm tính 6650 400 7050 P>0.05Dương tính 229 21 250

Tổng cộng 6879 421 7300

BÀN LUẬNLý do khách hàng đến sử dụng dịch vụ, kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn lý do của khách hàng là

do có hành vi nguy cơ cao như tiêm chích ma túy, mại dâm hay khách hàng của mại dâm hoặc bản thân họ không có nguy cơ nhưng họ là bạn tình người tiêm chích ma túy hay mại dâm chiếm tỷ lệ khá cao lên đến 73%.

Phân tích hành vi bạn tình của khách hàng thì kết quả cho thấy phần lớn bạn tình của khách hàng có nguy cơ cao rõ ràng như: Có tình dục với nhiều người khác (25,9%), bạn tình là mại dâm (24,5%) hay bạn tình có quan hệ tình dục với mại dâm (19,4%), trong khi đó bạn tình không có nguy cơ (14%) hoặc không có bạn tình chỉ (8,6%).

Phân tích tỷ lệ nhiễm HIV với nguy cơ của bản thân khách hàng cho thấy nhóm tiêm chích ma túy có tỷ lệ nhiễm HIV cao nhất: 31.0%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ nhiễm HIV giữa những người có tiêm chích ma túy và không tiêm chích ma túy (P<0.05), đồng thời nghiên cứu cũng cho thấy những khách hàng có tiêm chích ma túy có nguy cơ nhiễm HIV cao gấp gần 18 những khách hàng không tiêm chích ma túy.

190

Page 65: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊKết luậnNghiên cứu mô tả với phương pháp hồi cứu số liệu trên 7346 phiếu thu thập thông tin khách hàng đến

với phòng TVXNTN thuộc Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS từ năm 2008-2011. Kết quả nghiên cứu thu nhận được như sau: Các nhóm hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV của khách hàng phổ biến là mại dâm nam hoặc nữ (23%), có tình dục với nhiều người (15,6%), bạn tình có tình dục với nhiều người khác (25,9%) và bạn tình là mại dâm (24,5%). Trong số khách hàng có kết quả xét nghiệm dương tính thì nhóm khách hàng tiêm chích ma túy chiếm tỷ lệ 31.0% và nhóm có quan hệ tình dục với nhiều người chiếm 4.2% và nhóm cho rằng bản thân không có nguy cơ chiếm 2.9%.

Khuyến nghịTiếp tục truyền thông thay đổi hành vi trên các nhóm có hành vi nguy cơ cao như ma tuý, mại dâm, có

nhiều bạn tình để phòng chống nhiễm HIV.Duy trì và đẩy mạnh truyền thông trên phương tiện thông tin đại chúng để thu hút nhiều hơn nữa các đối

tượng đến làm xét nghiệm HIV tự nguyện tại các phòng VCT. Đặc biệt phối hợp với các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố trong công tác tuyên truyền và giới thiệu những khách ngi ngờ đến các phòng tư vấn vả xét nghiệm HIV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế - Cục phòng, chống HIV/AIDS (2008). “Hướng dẫn tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện”.2. Đoàn Chí Hiền, Trần Thị Ngọc và cộng sự (2009). Nghiên cứu kiến thức và một số yếu tố nguy cơ lây

nhiễm HIV ở khách hàng đến tại phòng tư vấn, xét nghiệm HIV tự nguyện Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Thừa Thiên Huế.

3. Lục Duy Lạc và cộng sự (2009). Đánh giá tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS ở khách hàng đến xét nghiệm Tự nguyện tại phòng tư vấn sức khoẻ cộng đồng thị xã Thủ Dầu Một tỉnh Bình Dương.

4.Lưu Thị Minh Châu, Trần Như Nguyên, Nguyễn Trọng Thắng, Hoàng Nam Thái, Lưu Nhật Minh (2008).Văn phòng Dự án LIFE-GAP Bộ y tế: Báo cáo chia sẽ kinh nghiệm hoạt động tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện Dự án Life - Gap Bộ Y tế

5. Phạm văn Hưng (2008). Đánh giá các yếu tố nguy cơ của khách hàng đến tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện tại Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS tỉnh Bình Định.

6. Viện Vệ sinh Dịch tễ trung ương (2011). Kết quả nghiên cứu IBBS 2 vòng. 7. Avert. History of AIDS (http://www.avert.org/aids-timeline.htm).

KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS TRONG CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ 15-49 TUỔI

TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG NĂM 2011-2012

Trần Thanh Thuỷ1, Phạm Thị Đào1, Trương Tấn Nam1 và cộng sự1 Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng

TÓM TẮTMục tiêu: Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư 15-

49 tuổi tại thành phố Đà Nẵng năm 2011-2012. Phương pháp: Đây là nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành trong cộng đồng dân cư 15-49 tuổi,

được phân chia thành 2 khu vực: nội thành và vùng ven, nông thôn thuộc địa bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu cho thấy 97,2% người tham gia phỏng vấn đã từng nghe nói về HIV/AIDS. Hiểu biết

đúng và đầy đủ về HIV/AIDS là 45,8%, trong đó nhóm 15-24 là 46,1%. Thái độ tích cực với người nhiễm HIV/AIDS được báo cáo bởi 21,1% đối tượng, trong đó nhóm 15-24 là 19,3%. 14,4% đối tượng nghiên cứu đã từng được xét nghiệm HIV, trong đó 90,7% được nhận kết quả xét nghiệm nhưng chỉ có 50,5% được tư vấn sau xét nghiệm. Tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện được báo cáo bởi 10,5% đối tượng. Tivi và báo chí là nguồn cung cấp thông tin phổ biến, tương ứng 94,8% và 64,2%, trong khi đó thông tin từ tờ rơi là 30,1% và cán bộ y tế xã, phường là 33,2%. Các quận nội thành có tỷ lệ hiểu biết đúng về lây truyền HIV và có thái độ tích cực với HIV/AIDS cũng như nhận bao cao su, tư vấn xét nghiệm tự nguyện cao hơn có ý nghĩa thống kê so với khu vực vùng ven, nông thôn. Có sự khác biệt về nguồn cung cấp thông tin phòng, chống HIV/AIDS giữa hai khu vực.

191

Page 66: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

SUMMARYObjective: To investigate knowledge, attitudes and practices of HIV/AIDS prevention among community

people aged 15-49 in Danang City over the period of 2011-2012. Methdos: This is a descriptive cross-sectional study conducted in the community aged 15-49 years,

divided into two areas: the inner city and suburban areas, rural areas in the central city of Da Nang. Research results: showed that 97.2% of participants interviewed had heard of HIV/ AIDS. Knowing the

correct and complete information about HIV/ AIDS is 45.8%, of which 46.1% are 15-24 years old. Positive attitudes to people with HIV / AIDS were reported by 21.1% of subjects, of which 15-24 years old is 19.3%. 14.4% of study participants had been tested for HIV, of which 90.7% were receiving test results, but only 50.5% received post-test counseling. HIV counseling and voluntary HIV testing was reported by 10.5% of subjects. Television and newspapers are good sources for information dissemination, respectively 94.8% and 64.2%, whereas informationfrom the leaflet is 30.1% and from the commune health care staff is 33.2%. Subjects who living in districts have the right understanding of the rate of HIV transmission and have a positive attitude to HIV/ AIDS as well as receive condoms, voluntary counseling and testing significantly higher than the regional statistics suburban and rural areas. There are different sources of information about HIV/AIDS between the two regions.

ĐẶT VẤN ĐỀHIV/AIDS là vấn đề y tế công cộng đang được quan tâm hiện nay. Kể từ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên

được phát hiện vào tháng 4/1993, đến tháng 31/12/2012 toàn thành phố Đà Nẵng đã phát hiện 1.559 trường hợp nhiễm HIV, 677 bệnh nhân AIDS và 398 người tử vong do AIDS. Theo báo cáo giám sát phát hiện HIV/AIDS, mỗi năm thành phố phát hiện trung bình 110-130 trường hợp nhiễm HIV mới, trong đó: đối tượng nhiễm HIV không phải nghiện chích ma tuý, mại dâm chiếm đến 74,4%; lây nhiễm HIV qua quan hệ tình dục không an toàn tăng từ 15% trong giai đoạn 1993-2000; lên 45,6% trong giai đoạn 2001-2005 và chiếm 76% trong tổng số ca nhiễm HIV mới trong giai đoạn 2006-2011; số phụ nữ phát hiện nhiễm HIV chiếm trên 40% trong tổng số các ca nhiễm HIV mới trong 3 năm gần đây. Trong 7 quận, huyện của thành phố, lây nhiễm HIV tập trung chủ yếu tại 4 quận nội thành là Hải Châu, Thanh Khê, Sơn Trà và Liên Chiểu. Đây cũng là khu vực triển khai nhiều dự án, các can thiệp phòng, chống HIV/AIDS.

Từ năm 2003, chương trình phòng, chống HIV/AIDS thành phố bắt đầu tiếp nhận các dự án can thiệp phòng, chống HIV/AIDS từ dự án LIFE-GAP, DFID, World Bank và FHI, qua đó các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS được tăng cường mạnh mẽ, góp phần khống chế và kiểm soát lây lan dịch ở địa phương ở mức độ thấp như hiện nay. Tiếp tục triển khai chương trình phòng, chống HIV/AIDS trong bối cảnh mới, trên cơ sở tổng kết hoạt động phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2005-2010 và thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2020 và tầm nhìn 2030, UBND thành phố ban hành Kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng đến năm 2020. Kế hoạch của thành phố đặt ra các mục tiêu cụ thể trong công tác phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn thành phố, trong đó phấn đấu tăng tỷ lệ người dân trong độ tuổi 15 đến 49 tuổi hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS đạt 90% và không kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm HIV đạt 90% vào năm 2020.

Nhằm đo lường kết quả thực hiện mục tiêu nâng cao tỷ lệ hiểu biết về phòng, chống HIV/AIDS của người dân thành phố Đà Nẵng của Kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2005-2010, đồng thời cung cấp các số liệu nền cho hoạt động lập kế hoạch phòng, chống HIV/AIDS giai đoạn 2011-2015 và đến năm 2020, qua đó vận động các dự án, chương trình can thiệp phòng, chống HIV/AIDS trên địa bàn thành phố; nhóm nghiên cứu Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS thành phố Đà Nẵng tiến hành nghiên cứu đề tài: Khảo sát kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư 15-49 tuổi tại thành phố Đà Nẵng năm 2011-2012.

Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu này là:Mô tả kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) phòng, chống HIV/AIDS trong cộng đồng dân cư 15-49 tuổi

trên địa bàn thành phố. Tìm hiểu khả năng tiếp cận với một số dịch vụ dự phòng và điều trị HIV của người dân sống trên địa bàn

thành phố.So sánh sự khác biệt về KAP cũng như khả năng tiếp cận với một số dịch vụ của người dân giữa các

quận nội thành và các quận, huyện vùng ven, nông thôn.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứuNgười dân từ 15-49 tuổi sống trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.Tiêu chuẩn loại trừ: Đối tượng không hợp tác để trả lời phỏng vấn hoặc/ và đi vắng trong thời gian nghiên

cứu.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứuTừ tháng 5 -10 năm 2011: Tại 3 quận, huyện vùng ven và nông thôn là quận Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ và

huyện Hoà Vang).Từ tháng 4 - 9 năm 2012: Tại 4 quận nội thành là Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu và Sơn Trà).3. Phương pháp nghiên cứu

192

Page 67: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

3.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 3.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫuCỡ mẫu: Áp dụng cách tính cỡ mẫu cho chùm 30 cụm, trong đó mỗi cụm được tính theo công thức

khuyến cáo của WHO:

n =

Trong đó: α= 5%; 1- β = 95%; Po = 0.5; Pa = Kết quả mong đợi trong đánh giá này 0.75; n: là số mẫu cho mỗi cụm và sau khi tính toán n = 38, tuy nhiên sẽ có một số trường hợp sẽ từ chối không tham gia (ước tính 5%) nên dự kiến mỗi chùm sẽ có cỡ mẫu là 40.

Phương pháp chọn lựa đối tượng điều tra: mẫu cụm nhiều giai đoạn. Tổng số mẫu thu thập cho nghiên cứu này là 2.389 mẫu, trong đó: 1.200 mẫu thu thập trong tháng 5/2012 tại 4 quận nội thành và 1189 mẫu trong tháng 6/2011 tại 3 quận, huyện vùng ven và nông thôn.

4. Công cụ thu thập số liệuBộ câu hỏi được chuẩn hoá, gồm 6 nội dung chính: Thông tin nhân khẩu học; Hôn nhân và sức khoẻ tình

dục; Sử dụng ma tuý; Kiến thức, thái độ và thực hành phòng, chống HIV/AIDS; Hiểu biết về các bệnh lây truyền qua đường tình dục; Các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS được tiếp cận. Điều tra viên cần 30 phút để hoàn thành cuộc phỏng vấn.

5. Xử lý số liệuSố liệu được nhập bằng phần mềm EPIDATA và xử lý, phân tích bằng phần mềm SPSS phiên bản 17,

có sử dụng các thuật toán thống kê ứng dụng trong y học để so sánh sự khác biệt về các tỷ lệ giữa 2 khu vực nghiên cứu.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN1. Đặc điểm đối tượng tham gia nghiên cứu59,2% đối tượng nghiên cứu là nữ giới. Tuổi trung bình là 31,6 tuổi, trong đó thanh thiếu niên từ 15-24

chiếm 32,7%. Trình độ học vấn chủ yếu tập trung ở bậc THCS (33,5%) và THPT (33,3%). Tỷ lệ đối tượng có trình độ học vấn sau PTTH ở các quận trung tâm cao hơn các quận vùng ven (31,8% so với 20,9%). Có 15 loại hình nghề nghiệp báo cáo, trong đó đa số là đối tượng buôn bán hoặc làm dịch vụ (22,9%) và học sinh, sinh viên chiếm 21,6%. 88% báo cáo xem tivi được hàng ngày, trong khi đó tiếp cận với báo chí và đài phát thanh hàng ngày lần lượt là 33,1% và 13,6%. Ở các quận, huyện vùng ven, tỷ lệ tiếp cận thông tin từ loa đài cao hơn so với quận nội thị (P=0.00) và thấp hơn đối với nguồn thông tin báo chí (P=0.00).

2. Hiểu biết về lây truyền HIV/AIDSBảng 1: Tỷ lệ hiểu biết về lây truyền HIV phân bố theo khu vực

Nội dung Nội thành Vùng ven, NT Chung PĐã nghe nói về HIV/AIDS N= 1200 % N=1189 % N=2389 %

Có nghe nói 1180 98.3 1141 96.0 2321 97.2 0.000Không nghe nói 20 1.7 48 4.0 68 2.8

Hiểu biết về lây truyền HIV N= 1200 % N=1189 % N=2389 %Sống chung thủy có thể phòng tránh nhiễm HIV 1084 90.3 997 83.9 2061 86.3 0.00

Muỗi đốt không lây truyền HIV 881 73.4 760 63.9 1641 68.7 0.00Luôn dùng BCS cho tất cả các lần quan hệ tình dục

có thể phòng tránh HIV 1073 89.4 982 82.6 2055 86.0 0.00

Ăn uống chung không lây truyền HIV 1012 84.3 968 81.4 1980 82.9 0.03Không QHTD làm giảm nguy cơ lây nhiễm 1015 84.6 918 77.2 1933 80.9 0.00

Dùng chung BKT có thể lây nhiễm HIV 1162 96.8 1115 93.8 2277 95.3 0.00Người khỏe mạnh có thể nhiễm HIV 983 81.9 902 75.9 1885 78.9 0.00

Kiến thức đầy đủ về HIV 642 53.5 453 38.1 1095 45.8 0.00Kiến thức đầy đủ về HIV trong nhóm 15-24 tuổi 204/387 52.7 156/395 39.5 360/782 46.1 0.00

97,2% người tham gia phỏng vấn cho biết đã từng nghe nói về HIV/AIDS, trong đó tỷ lệ đối tượng trả lời phỏng vấn ở các quận nội thành nghe nói về HIV/AIDS cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các quận, huyện vùng ven, nông thôn (P=0,000). Hiểu biết về các đường lây truyền HIV khá tốt, với trên 80% trả lời đúng các biện pháp phòng tránh và đường lây truyền, ngoại trừ chỉ có 68,7% trả lời đúng về nguy cơ lây nhiễm HIV do muỗi/ côn trùng đốt. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời đúng về các đường lây truyền và cách phòng tránh (như dùng chung bơm kim tiêm, chung thuỷ, sử dụng bao cao su) cao hơn so với các đường không lây truyền (như muỗi đốt, ăn uống chung, người khoẻ mạnh có thể nhiễm HIV). Đặc điểm này khá phổ biến trong nhiều nghiên cứu KAP cộng đồng như ở điều tra dân số và HIV/AIDS (VPAIS, 2006); ở Khánh Hoà (Trương Tấn Minh, 2008), ở Ninh Bình (Hoàng Huy Phương, 2009).

Kiến thức đầy đủ về HIV theo chỉ số đánh giá quốc gia (CSDPQG-20) trong nhóm nghiên cứu đạt 45,8% và 46,1% nhóm đối tượng 15-24 tuổi, tỷ lệ này cao hơn điều tra quốc gia năm 2006, trong đó 39% phụ nữ và

193

Page 68: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

51% nam giới trong độ tuổi 15-49 có hiểu biết đầy đủ (VPAIS, 2006), kết quả điều tra quốc gia về Thanh niên và vị thành niên tuổi 15-24 tại Việt Nam (SAVY) năm 2009 cũng cho thấy 42,5% thanh niên 15-24 hiểu biết đúng và đủ về HIV/AIDS, trong đó nam là 44,1% và nữ là 40,8% (UNGASS, 2010, P5); và thấp hơn so điều tra MICS4 2010-2011 (UNGASS, 2012). So sánh giữa hai khu vực thấy rằng, tỷ lệ hiểu biết về lây truyền HIV của đối tượng nghiên cứu ở các quận nội thành (53,5% hiểu biết đầy đủ) tốt hơn ở các quận, huyện vùng ven (tương ứng với 38,1%) trong cả hai nhóm 15-49 và nhóm 15-24 tuổi; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (P=0,00).

Bảng 2: Tỷ lệ hiểu biết đúng về cách lây truyền HIV từ mẹ sang con theo khu vực

Hiểu biết đúng về lây truyền HIV từ mẹ sang con

Nội thành Vùng ven, NT Chung PN=1200 % N=1189 % N=2389 %Lúc mang thai 1055 87,9 933 78,5 1988 85.7 0.00

Lúc đẻ 650 54,2 466 39,2 1116 48.1 0.00Lúc cho con bú 492 41,0 362 30,4 854 36.8 0.00

Kể được cả 3 giai đoạn 427 35,6 286 24,1 713 30.7 0.03

85,7% đối tượng nghiên cứu biết về nguy cơ lây từ mẹ sang con (LTMC) trong lúc mang thai; nguy cơ lây trong khi đẻ và cho con bú được báo cáo với tỷ lệ thấp hơn nhiều, lần lượt là 48,1% và 36,8%. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời đúng cả 3 giai đoạn lây nhiễm HIV từ mẹ sang con là rất thấp, chiếm 30,7%. Đặc điểm này có thể liên quan đến nội dung truyền thông phòng, chống HIV/AIDS đưa đến cộng đồng vì PLTMC là chương trình mới được triển khai tại thành phố từ năm 2009. Có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê về khu vực liên quan đến hiểu biết LTMC, trong đó các quận nội thành có tỷ lệ người dân trả lời đúng về các nguy cơ LTMC cao hơn có ý nghĩa thống kê so với người dân tại các quận, huyện vùng ven, nông thôn (P<0,05).

3. Thái độ kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV/AIDSBảng 3: Tỷ lệ có thái độ tích cực đối với người nhiễm HIV/AIDS phân bố theo địa bàn

Thái độ không kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV

Nội thành Vùng ven, NT Chung PN=1200 % N=1189 % N=2389 %Ăn hoặc mua thức ăn tại cửa hàng của người nhiễm

HIV 698 58.2 721 60.6 1419 59.4 0.129

Không muốn giữ bí mật về tình trạng nhiễm HIV của thành viên gia đình 469 39.1 424 35.7 893 37.4 0.170

Sẵn sàng chăm sóc thành viên gia đình bị nhiễm HIV khi bị đau ốm tại nhà 1121 93.4 1074 90.3 2195 91.9 0.083

Chấp nhận nữ giáo viên bị nhiễm HIV nhưng khỏe mạnh được phép tiếp tục giảng dạy 842 70.2 783 65.9 1625 68.0 0.128

Người nhiễm HIV KHÔNG phải thấy xấu hổ về bản thân 837 69.8 728 61.2 1565 65.5 0.000

Người nhiễm HIV KHÔNG có lỗi khi mang bệnh tật về cộng đồng 804 67.0 617 51.9 1421 59.5 0.000

BIẾT về người bị từ chối không được chăm sóc y tế vì bị nghi ngờ hoặc đang bị nhiễm HIV 10 0.8 10 0.8 20 0.8 0.991

BIẾT về người không được tham gia các hoạt động xã hội hoặc cộng đồng vì bị nghi ngờ hoặc đang bị

nhiễm HIV5 0.4 9 0.8 14 0.6 0.481

BIẾT về người bị xa lánh, trêu chọc vì họ bị nghi ngờ hoặc đang bị nhiễm HIV 19 1.6 17 1.4 36 1.5 0.601

Có thái độ tích cực với người nhiễm HIV (CS23)* 277 23.1 226 19.0 503 21.1 0.032Có thái độ tích cực với người nhiễm HIV trong nhóm

15-24* 87/387 22.5 64/395 16.2 151/782 19.3 0.452

Thái độ tích cực với người nhiễm HIV/AIDS không tương ứng với hiểu biết về lây nhiễm HIV. Tỷ lệ người trả lời phỏng vấn có thái độ tích cực với người nhiễm HIV theo chỉ số đánh giá quốc gia (CSDPQG-23) trong nghiên cứu này là 21,1% và tỷ lệ này ở 15-24 tuổi thấp hơn (19,3%). Chỉ có hơn một nửa có quan niệm tích cực về người nhiễm HIV, cụ thể: 65,5% đồng ý rằng người nhiễm HIV KHÔNG phải thấy xấu hổ về bản thân hay 59,5% đồng ý khi cho rằng người nhiễm HIV KHÔNG có lỗi khi mang bệnh tật về cộng đồng. Việc thực hành về chung sống với HIV được chấp nhận với tỷ lệ thấp hơn, như có đến 32% không chấp nhận để một nữ giáo viên nhiễm HIV tiếp tục công việc giảng dạy của mình; 40,6% không đồng ý đến ăn tại cửa hàng người nhiễm HIV bán và có đến 62,6% muốn giữ bí mật về tình trạng nhiễm HIV của thành viên trong gia đình. Thực tế tỷ lệ đối tượng nghiên cứu biết về các trường hợp nhiễm HIV cụ thể bị kỳ thị hay phân biệt đối xử là rất thấp. Chỉ có 1,5% biết những trường hợp nhiễm hoặc nghi ngờ nhiễm HIV bị cộng đồng xa lánh hay trêu chọc và tỷ lệ biết về các trường hợp nhiễm HIV bị hạn chế các quyền về y tế, xã hội còn thấp hơn, tương ứng là 0,8% và 0,6%. Điều này một mặt có thể liên quan đến đặc điểm tâm lý lo sợ đối với tính chất

194

Page 69: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

“nan y” của căn bệnh này như chưa có vaccine dự phòng, chưa có thuốc chữa nên đã khiến cộng đồng giữ thái độ “thận trọng”, e dè với người nhiễm mặc dù có hiểu biết tốt về các con đường làm lây truyền bệnh. Mặt khác, chiến lược truyền thông phòng, chống HIV/AIDS địa phương chưa coi trọng về truyền thông các con đường không làm lây nhiễm HIV; chưa đẩy mạnh truyền thông về kỳ thị và phân biệt đối xử với người nhiễm HIV mà chủ yếu vẫn truyền thông thay đổi các hành vi nguy cơ cao phòng lây nhiễm HIV.

Phân tích thống kê cho thấy, tỷ lệ trả lời phỏng vấn ở quận nội thành có thái độ tích cực hơn với người nhiễm HIV (P=0,032), trong đó tỷ lệ có quan điểm tích cực về người nhiễm cao hơn quận, huyện vùng ven, nông thôn (P=0,000), tuy nhiên, tự báo cáo về thực hành chung sống với HIV lại không có sự khác biệt.

4. Quan hệ tình dục và sử dụng bao cao suBảng 4: Tự báo cáo về QHTD trong 12 tháng qua

Nội dung Nam Nữ TổngTiền sử QHTD N=975 N=1414 N=1665 % P

Đã từng 653 (67%) 1012 (71.6%) 1665 69.7 0.022Chưa bao giờ 322 (33%) 402 (28.4%) 724 30.3Loại bạn tình trong

12 tháng qua N=653 N=1012 N=1665 % Ít nhất Trung bình Nhiều nhất

Vợ/chồng/người yêu 615 950 1563 93.9 1 1.01 2Bạn tình bất chợt 28 6 34 2.04 1 1.24 3

Gái mại dâm 26 26 4.0 1 1.54 4Khách làng chơi 2 2 0.2 1 1.5 2

Có đến 70% đối tượng tham gia trả lời phỏng vấn cho biết đã từng có quan hệ tình dục và tỷ lệ này ở nữ (71,6%) cao hơn nam (67%), P=0,02. Đặc điểm này có thể do tỷ lệ kết hôn ở nữ (65,4%) là cao hơn nam (53,4%).

70% người tham gia phỏng vấn báo cáo có quan hệ tình dục trong 12 tháng qua, tương ứng với tỷ lệ báo cáo đã từng quan hệ tình dục, trong đó 94% quan hệ với bạn tình thường xuyên (vợ/chồng/người yêu). Tỷ lệ tự báo cáo có quan hệ tình dục với bạn tình bất chợt và gái mại dâm lần lượt là 2% và 4%, có 2 trường hợp nữ báo cáo về quan hệ tình dục với khách làng chơi trong 12 tháng qua. Quan hệ tình dục với bạn tình bất chợt chủ yếu được báo cáo bởi đối tượng nam (28 Nam, chiếm 4,3% nam và 6 nữ, chiếm 0,06%). Về số lượng bạn tình trung bình trong 12 tháng qua, những người báo cáo có quan hệ tình dục với bạn tình thường xuyên thì chỉ có trung bình 01 bạn tình và số lượng bạn tình trung bình trong 1 năm qua đối với bạn tình bất chợt, gái mại dâm và khách làng chơi lần lượt là 1,24; 1,54 và 1,5 người.

Phân tích báo cáo sử dụng bao cao su cho thấy 57,4% báo cáo không bao giờ sử dụng bao cao su và chỉ có 29,8% sử dụng ở lần QHTD gần nhất quan hệ tình dục với bạn tình thường xuyên trong tháng qua. Lý do chính cho việc không sử dụng BCS trong QHTD với bạn tình thường xuyên chủ yếu cho là không cần thiết (40,1%), bản thân không thích dùng (18,3%), không nghĩ đến việc dùng BCS (15,4%), hoặc đã dùng các biện pháp tránh thai khác (12,2%). Các lý do liên quan đến BCS như tính sẵn có (3,7%), bạn tình phản đối (2,8%) hay BCS quá đắt (0%) được đề cập với tỷ lệ rất thấp. Tỷ lệ báo cáo có sử dụng BCS với bạn tình bất chợt trong 1 năm qua và với gái mại dâm trong 1 tháng qua tương ứng là 88,8% và 83,3%. Nguyên nhân của việc không sử dụng BCS trong lần QHTD gần đây nhất với bạn tình bất chợt chủ yếu vẫn do ý thức về sự cần thiết cần thiết của sử dụng bao cao su (4/6 trường hợp, chiếm 66,7%).

Trong nghiên cứu này hiện tượng có nhiều bạn tình là rất ít và đặc điểm này tương tự với nhiều nghiên cứu cộng đồng về HIV/AIDS khác (VPAIS, 2006) và nhiều khả năng đối tượng nghiên cứu che dấu hành vi nhạy cảm này. Việc sử dụng bao cao su tuỳ thuộc vào đối tượng bạn tình là ai và quan niệm về khả năng lây nhiễm HIV của họ hay mức độ cần thiết cần phải sử dụng bao cao su, trong đó mức độ cần thiết sử dụng BCS trong hầu hết các lần quan hệ tình dục tăng dần từ bạn tình thường xuyên (21,2%), bạn tình bất chợt (74%) và gái mại dâm (83,3%).

5. Đặc điểm sử dụng ma tuýBảng 5: Tỷ lệ báo cáo đã từng sử dụng ma túy

Sử dụng ma túy Nội thành Vùng ven, NT Chung PN=1200 % N=1189 % N=2389 %Đã từng 17 1.4 4 0.3 21 0.9 <0.05Chưa bao giờ 1183 98.6 1185 99.7 2368 99.1

Tổng 1200 1189 2389 100

Tỷ lệ tự báo cáo từng sử dụng ma tuý là 0,9%, trong đó tỷ lệ ở các quận nội thành (17 trường hợp) cao hơn so với quận, huyện vùng ven (4 trường hợp), P<0.05. Trong số 19 trường hợp báo cáo đã từng sử dụng ma tuý, chỉ có 1 trường hợp báo cáo sử dụng thuốc phiện (chiếm 5,3%), 3 trường hợp dùng heroin (chiếm 15,8%); trong khi đó phần lớn các trường hợp báo cáo sử dụng ma tuý tổng hợp (12/19 người, chiếm 63,2%), cần sa/tài mà/bù đà (10/19 trường hợp, chiếm 52,6%). 2/21 trường hợp, chiếm 9,5% báo cáo

195

Page 70: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

đã từng tiêm chích ma tuý. 6. Tiếp cận với dịch vụ dự phòng HIV/AIDSBảng 6: Xét nghiệm HIV

Xét nghiệm HIV Nội thành Vùng ven, NT Chung PTiền sử XN HIV N=1200 % N=1189 % N=2389 %

Đã từng 188 15.7 155 13.0 343 14,4 0.13Chưa bao giờ 1012 84.3 1034 87.0 2046 85,6Nhận kết quả xét nghiệm 188 % N = 155 % 343 %

Có 171 91.0 140 90.3 311 90,7 0.90Không 17 9.0 15 9.68 32 9,3Được tư vấn sau xét nghiệm 171 140 311

Có 95 55.6 62 44.3 157 50,5 0,03Không 76 44.4 78 55.7 154 49,5Nơi làm xét nghiệm 188 155 343Bệnh viện thành phố 114 60.6 66 42.6 180 52,5

0,00

TTYT quận, huyện 28 14.9 36 23.2 64 18,7TT tư vấn xét nghiệm tự nguyện 23 12.2 13 8.39 36 10,5

Phòng KHHGĐ 1 0.5 8 5.16 9 2,6Phòng khám lưu động 4 2.1 0 0 4 1,2

Cơ sở y tế nhà nước khác 3 1.6 12 7.74 15 4,4Bệnh viện/phòng khám tư 9 4.8 13 8.39 22 6,4Phòng xét nghiệm tư nhân 3 1.6 2 1.29 5 1,5Cơ sở y tế tư nhân khác 3 1.6 5 3.23 8 2,3

Khác 0 0.0 0 0 0 0,0

14,4% đối tượng phỏng vấn đã từng xét nghiệm HIV, cao hơn so với nghiên cứu quốc gia năm 2006 với 5% người dân từ 15-49 trả lời đã từng xét nghiệm HIV (VPAIS, 2006). 90,7% nhận kết quả xét nghiệm song chỉ có 50,5% được tư vấn sau xét nghiệm. Không tư vấn sau xét nghiệm sẽ bỏ mất cơ hội truyền thông, giáo dục về các hành vi an toàn cho người xét nghiệm. Do đó, chất lượng tư vấn xét nghiệm cần quan tâm.

Trong số 343 đối tượng đã từng làm xét nghiệm HIV, nơi xét nghiệm HIV báo cáo phổ biến là các bệnh viện tuyến thành phố và quận, huyện, chiếm 71,2%, trong đó bệnh viện tuyến thành phố chiếm đến 52,5%. Chỉ có 10,5% đến các trung tâm tư vấn xét nghiệm tự nguyện. Điều này có thể liên quan đến lý do xét nghiệm do xuất phát từ được chỉ định hoặc được tư vấn khi đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế nhiều hơn tự nguyện tìm hiểu tình trạng huyết thanh của bản thân. So sánh 2 khu vực cho thấy, tỷ lệ báo cáo được nhận tư vấn sau xét nghiệm ở các quận nội thành cao hơn có ý nghĩa thống kê so với các quận, huyện vùng ven, nông thôn (P=0,03) và tỷ lệ đến các phòng TVXNTN cao hơn ở quận nội thành. Đặc điểm này có thể do các phòng TVXNTN đều nằm trên địa bàn các quận nội thành.

Bảng 7: Đặc điểm tiếp nhận các loại thông tin về HIV

Nhận thông tin về HIV/AIDS Nội thành Vùng ven, NT Chung PĐã từng nhận thông tin 1200 % 1189 % 2389 %Thông tin về HIV/AIDS 1180 98.3 1102 92.7 2282 95,5 0.00Thông tin về viêm gan 976 81.3 771 64.8 1747 73,1 0.00

Thông tin về tiêm chích an toàn 866 72.2 726 61.1 1592 66,6 0.00Thông tin về tình dục an toàn 921 76.8 772 64.9 1693 70,9 0.00

Thông tin về cai nghiện ma túy 882 73.5 743 62.5 1625 68,0 0.00Thông tin về giáo dục giới tính 810 67.5 648 54.5 1458 61,0 0.00

Thông tin về bệnh LTQĐTD 876 73.0 763 64.2 1639 68,6 0.00Khác 4 0.3 17 1.4 21 0,9 0.00

Cơ sở y tế tư nhân khác 3 1.6 5 3.23 8 2,3Khác 0 0.0 0 0 0 0,0 0.00

Nhận thông tin trong 12 tháng qua 1200 1189 2389Thông tin về HIV/AIDS 1169 97.4 1004 84.4 2173 91.0 0.00Thông tin về viêm gan 884 73.7 638 53.7 1522 63.7 0.00

Thông tin về tiêm chích an toàn 733 61.1 597 50.2 1330 55.7 0.00Thông tin về tình dục an toàn 781 65.1 614 51.6 1395 58.4 0.00

Thông tin về cai nghiện ma túy 773 64.4 609 51.2 1382 57.8 0.00Thông tin về giáo dục giới tính 685 57.1 520 43.7 1205 50.4 0.00

Thông tin về bệnh LTQĐTD 745 62.1 592 49.8 1337 56.0 0.00Khác 4 0.3 7 0.59 11 0.5 0.39

Tỷ lệ nhận thông tin về HIV/AIDS rất cao, 95,5% đã từng nhận thông tin và 91% nhận được trong vòng 12 tháng qua. Việc nhận được các thông tin mang tính chuyên đề như về các bệnh LTQĐTD, tình dục an

196

Page 71: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

toàn, tiêm chích an toàn, cai nghiện ma tuý, giáo dục giới tính được báo cáo với tỷ lệ dao động từ 61% đến 73,1%; và trong vòng 12 tháng qua, tỷ lệ này cùng được duy trì ở mức từ 50,4% đến 63,7%. Tỷ lệ báo cáo tiếp nhận thông tin về HIV/AIDS ở các quận nội thành cao hơn đáng kể các quận vùng ven và nông thôn (P=0.00) đối với tất cả các loại thông tin.

Bảng 8: Đặc điểm tiếp nhận các loại hỗ trợ về HIV

Nhận hỗ trợ PC HIV/AIDS Nội thành Vùng ven, NT Chung PĐã nhận hỗ trợ về PC HIV/AIDS 1200 % 1189 % 2389 %

Bao cao su 215 17.9 174 14.6 389 16.3 0.13Bơm kim tiêm 6 0.5 6 0.5 12 0.5 0.98

Khám chữa các bệnh LTQĐTD 80 6.7 114 9.59 194 8.1 0.00Xét nghiệm HIV 52 4.3 47 3.95 99 4.1 0.64

Thuốc điều trị HIV 1 0.1 1 0.08 2 0.08 0.99Thăm hỏi cơ quan, đoàn thể đến gia đình người nhiễm HIV 1 0.1 3 0.25 4 0.17 0.31

Không nhận được gì 906 75.5 835 70.2 1741 72.9 0.57Không để ý/không biết 64 5.3 145 12.2 209 8.8 0.00

Khác 10 0.8 48 4.04 58 2.4 0.00Nhận hỗ trợ về PC HIV/AIDS 12 tháng qua 1200 1189 2389

Bao cao su 160 13.3 99 8.33 259 10.8 0.00Bơm kim tiêm 3 0.3 2 0.17 5 0.2 0.66

Khám chữa các bệnh LTQĐTD 57 4.8 91 7.65 148 6.2 0.00Xét nghiệm HIV 30 2.5 27 2.27 57 2.4 0.71

Thuốc điều trị HIV 1 0.1 1 0.08 2 0.1 0.55Thăm hỏi cơ quan, đoàn thể đến gia đình người nhiễm HIV 2 0.2 2 0.17 4 0.2 0.99

Không nhận được gì 980 81.7 914 76.9 1894 79.3 0.79Không để ý/không biết 69 5.8 141 11.9 210 8.8 0.00

Khác 12 1.0 43 3.62 55 2.3 0.00

79,3% báo cáo chưa từng nhận được các hỗ trợ trong phòng, chống HIV/AIDS. Trong các loại dịch vụ hỗ trợ được liệt kê, tỷ lệ báo cáo trong cộng đồng về việc tiếp nhận các hỗ trợ này cũng rất thấp. Chỉ có 16,3% đã từng được nhận bao cao su và 8,1% đã từng được khám điều trị các bệnh LTQĐTD và tỷ lệ này trong 12 tháng trước thời điểm phỏng vấn còn thấp hơn nữa, tương ứng là 10,8% và 6,2%. Tỷ lệ đối tượng tại các quận nội thành báo cáo về việc nhận hỗ trợ là bao cao su, xét nghiệm HIV cao hơn đối tượng ở các quận vùng ven, nông thôn (P=0.00), ngược lại tỷ lệ báo cáo nhận dịch vụ khám chữa các BLTQĐTD ở các quận, huyện vùng ven, nông thôn lại cao hơn (P=0.00).

Bảng 9: Tỷ lệ tiếp cận các nguồn thông tin và hỗ trợ về HIV

Nguồn thông tin Nội thành Vùng ven, NT Chung PN=1200 % N=1189 % N=2389 %Tivi 1169 97.4 1096 92.2 2265 94.8 0.00Đài 326 27.2 371 31.2 697 29.2 0.00

Loa truyền thông 343 28.6 444 37.3 787 32.9 0.00Sách, báo, tạp chí 863 71.9 671 56.4 1534 64.2 0.00Tờ rơi, tờ bướm 455 37.9 265 22.3 720 30.1 0.00

Họp đoàn thể, địa phương 293 24.4 303 25.5 596 24.9 0.26Cán bộ chính quyền địa phương 269 22.4 236 19.8 505 21.1 0.18

CBYT xã phường 273 22.8 520 43.7 793 33.2 0.97Tổ chức quần chúng địa phương 38 3.2 187 15.7 225 9.4 0.00

Giáo dục viên đồng đẳng 191 15.9 41 3.45 232 9.7 0.70CB y tế thành phố, quận, huyện 530 44.2 211 17.7 741 31.0 0.19

Trường học, thầy cô giáo 416 34.7 340 28.6 756 31.6 0.00Tổ chức từ thiện, phi chính phủ 14 1.2 44 3.7 58 2.4 0.00

Không biết/không để ý 6 0.5 76 6.39 82 3.4 0.00Khác 94 7.8 73 6.14 167 7.0 0.00

Tivi là nguồn cung cấp thông tin phổ biến trong cộng đồng, được báo cáo bởi 94,8% đối tượng nghiên cứu, tiếp theo là sách, báo, tạp chí, 64,2% và 32,9% đối với loa phát thanh. Thông tin từ tờ rơi, tờ bướm chỉ được báo cáo bởi 30,1% đối tượng phỏng vấn. Trong các tổ chức, đoàn thể, cán bộ y tế xã, phường là nguồn hỗ trợ được đề cập đến nhiều nhất, 33,2%; tiếp theo là cán bộ y tế tuyến thành phố và quận, huyện là 31%; từ trường học, thầy cô giáo là 31,6%; và các cán bộ địa phương 9,4 đến 21,1%.

Loa, đài phát thành là phương tiện truyền thông được báo cáo với tỷ lệ cao hơn ở khu vực vùng ven, nông thôn (P=0,00). Ngược lại, sách, báo, tạp chí và tờ rơi lại được báo cáo với tỷ lệ cao hơn ở khu vực nội thành (P=0,00). Cán bộ y tế xã, phường, các tổ chức quần chúng ở địa phương được kể đến nhiều hơn ở địa bàn vùng ven và tương ứng, cán bộ y tế thành phố và quận, huyện, các nhóm đồng đẳng lại được báo

197

Page 72: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

cáo cao hơn ở các khu vực nội thị (P=0,00).KẾT LUẬN & KHUYẾN NGHỊ1. Kết luận97,2% người tham gia phỏng vấn đã từng nghe nói về HIV/AIDS, trong đó 90,7% nhận được thông tin về

HIV/AIDS trong vòng 1 năm qua.Hiểu biết đúng và đầy đủ về HIV/AIDS là 45,8%, trong đó nhóm 15-24 là 46,1%. 30,7% kể được đầy đủ 3

giai đoạn của quá trình lây truyền HIV từ mẹ sang con.Thái độ tích cực với người nhiễm HIV/AIDS được báo cáo bởi 21,1% đối tượng nghiên cứu, trong đó

nhóm 15-24 là 19,3%.14,4% đối tượng nghiên cứu đã từng được xét nghiệm HIV, trong đó 90,7% được nhận kết quả xét

nghiệm nhưng chỉ có 50,5% được tư vấn sau xét nghiệm.Tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện được báo cáo bởi 10,5% đối tượng90,7% nhận được thông tin chung về HIV/AIDS song thông tin hướng dẫn về tiêm chích an toàn, tình dục

an toàn, bệnh LTQĐTD thấp hơn, tương ứng là 57,5%, 58,5% và 56%. Tivi và báo chí là nguồn cung cấp thông tin phổ biến, tương ứng 94,8% và 64,2%, trong khi đó từ tờ rơi là 30,1% và cán bộ y tế xã, phường là 33,2%. Các hỗ trợ khác từ chương trình phòng, chống HIV/AIDS là rất hạn chế và nghèo nàn, 10,8% nhận bao cao su; 6,2% khám chữa các bệnh LTQĐTD; 2,4% xét nghiệm HIV và 79,3% báo cáo không nhận được gì.

Các quận nội thành có tỷ lệ hiểu biết đúng về lây truyền HIV, về PLTMC và có thái độ tích cực với HIV/AIDS tốt hơn có ý nghĩa thống kê so với khu vực vùng ven, nông thôn. Tỷ lệ báo cáo nhận bao cao su, tư vấn xét nghiệm tự nguyện ở khu vực nội thành cũng cao hơn đáng kể. Có sự khác biệt về nguồn cung cấp thông tin phòng, chống HIV/AIDS giữa hai khu vực, trong đó loa, đài phát thanh là phương tiện truyền thông được báo cáo với tỷ lệ cao hơn ở các địa bàn vùng ven, nông thôn (P=0,00), thì ngược lại, sách, báo, tạp chí và tờ rơi lại được báo cáo với tỷ lệ cao hơn ở các quận nội thành (P=0,00). Cán bộ y tế xã, phường, các tổ chức quần chúng ở địa phương được kể đến nhiều hơn ở địa bàn vùng ven (P=0,00).

2. Khuyến nghịTiếp tục thực hiện các hoạt động thông tin, giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi phòng, chống

HIV/AIDS để nâng cao hiểu biết đầy đủ về dự phòng lây nhiễm và có thái độ tích cực với người nhiễm HIV cho cộng đồng dân cư. Đặc biệt, chú trọng nhóm thanh thiếu niên, 15-24 tuổi vì hiểu biết về HIV/AIDS của nhóm còn hạn chế, xu hướng trẻ hoá tuổi bắt đầu quan hệ tình dục và sử dụng ma tuý. Tăng cường truyền thông về nguy cơ lây truyền HIV từ mẹ sang con và giới thiệu các dịch vụ PLTMC. Đẩy mạnh hơn truyền thông về bao cao su và sự cần thiết của sử dụng BCS phòng lây nhiễm HIV trong QHTD.

Xây dựng những thông điệp truyền thông ngắn gọn, súc tích để chuyển tải qua kênh tivi vì đây là kênh tiếp cận được với nhiều người dân, song cũng cần phát triển các hình thức truyền thông thích hợp trên báo chí, tờ rơi để cung cấp những thông tin đi sâu vào định hướng thay đổi thái đội và hành vi trong phòng, chống HIV/AIDS. Sử dụng biện pháp truyền thông thích hợp cho từng khu vực, ưu tiên hệ thống loa, đài cũng như mạng lưới cán bộ cơ sở ở các quận, huyện vùng ven và nông thôn.

Thực hiện các giải pháp đồng bộ trong phòng, chống kỳ thị và phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS để cộng đồng có cái nhìn tích cực hơn về người nhiễm HIV/AIDS. Chú trọng truyền thông về các đường không lây truyền HIV.

Tăng cường các hỗ trợ phòng, chống HIV/AIDS cho người dân và có các biện pháp để mở rộng phạm vi phục vụ, dễ tiếp cận và mang tính thân thiện của các dịch vụ dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS trên địa bàn thành phố. Cần lưu ý đến chất lượng công tác tư vấn xét nghiệm HIV.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế (2007), Bộ chỉ số theo dõi và đánh giá chương trình phòng, chống HIV/AIDS Quốc gia.2. Hoàng Huy Phương, Lê Hoàng Nam, Tạ Thị Lan Hương (2009) Đánh giá kiến thức, tahis độ, thực

hành về phòng, chống HIV/AIDS của người dân từ 15-49 tuổi ở huyện Hoa Lư và thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình năm 2009.

3. Tổng cục thống kê, Viện VSDT Trung ương và ORC Marco (2006) “Điều tra Dân số và Chỉ số AIDS của Việt Nam năm 2005”.

4. Trương tấn Minh, Trần Văn Tin, Nguyễn Vũ Quốc Bình (2008) Đánh giá kiến thức, thái độ, hành vi phòng, chống nhiễm HIV/AIDS trên người dân 15-49 tuổi tại Khánh Hoà.

5. Uỷ ban quốc gia phòng, chống AIDS và phòng, chống tệ nạn ma tuý, mại dâm (2012) Báo cáo tiến độ phòng, chống HIV/AIDS Việt Nam năm 2012.

6. Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng, 2012, Báo cáo tổng kết công tác phòng chống HIV/AIDS và phòng chống tệ nạn ma túy, mại dâm thành phố Đà Nẵng năm 2012.

198

Page 73: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

KẾT QUẢ KHẢO SÁT NHU CẦU BƠM KIM TIÊM, BAO CAO SU TRÊN NHÓM NGUY CƠ CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁPTiêu Thị Thu Vân, Trần Thịnh, Nguyễn Xuân Anh Dũng,

Lê Thanh Tùng Nhỏ, Mai Thị Hoài Sơn, Trương Thanh Thảo.Ủy ban phòng chống AIDS TP.HCM

TÓM TẮTNghiên cứu “Nhu cầu bơm kim tiêm, bao cao su của các nhóm nguy cơ cao tại TP.HCM: Thực trạng và

giải pháp” được thực hiện với mục tiêu đánh giá thực trạng tình hình sử dụng bơm kim tiêm (BKT) và bao cao su (BCS) của các nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Đối tượng nghiên cứu gồm 180 người TCMT, 240 người có hoạt động mãi dâm (bao gồm mại dâm đường phố và tiếp viên nhà hàng – khách sạn) và 140 nam giới có quan hệ tình dục đồng giới.

Kết quả 26% người tiêm chích ma túy không có khả năng có được BKT sạch khi cần dùng với lý do là không có tiền mua, điểm mua và nhận BKT không thuận lợi hay không tiện để BKT dự trữ ở trong nhà nên khi cần không có để sử dụng. Với việc sử dụng BCS, hầu hết các nhóm đối tượng đều ý thức được lợi ích của việc sử dụng BCS khi quan hệ tình dục để phòng tránh bệnh tật nói chung, HIV/AIDS nói riêng và tránh thai, chỉ có 5.4% đối tượng cho rằng sử dụng BCS không có lợi ích gì (bảng 19). Đa phần việc đề xuất sử dụng BCS khi quan hệ là do bản thân đối tượng quyết định hoặc cùng với bạn tình quyết định. Chỉ có tỷ lệ nhỏ (7.3%) do bạn tình đề xuất sử dụng BCS. Gần 1/2 (48.9%) người TCMT đã từng nhận BKT miễn phí và hơn 1/2 (56.2%) người có quan hệ tình dục thuộc các nhóm nguy cơ cao đã từng nhận được BCS miễn phí từ Chương trình Can thiệp Giảm tác hại.

Kết luận cần phát triển và mở rộng các mô hình cung cấp BCS/BKT hiện tại và duy trì mô hình cũ và phát triển các hình thức cấp phát chú ý đến đặc tính của từng nhóm đối tượng nguy cơ cao khác nhau, đặc biệt là nhóm “ẩn” mà chương trình chưa tiếp cận được, nhằm nâng cao và tác động đồng bộ.

SUMMARYThe research “The demand for needles, syringes and condoms among high-risk group in HCM City:

Situation and solution” was conducted in order to evaluate the needle and condom usage situation among the high-risk groups in Ho Chi Minh City.

Research subjects are 180 IDUs, 240 people engage in prostitution (including restaurant-hotel and street prostitution) and 140 males who have sex with male.

The result shows that 26% IDUs were unable to get cleen needles, syringes when needed because they did not have enough money, needle reward points or unable to store needles at home due to inconvenience. Regard of condom usage, most subject groups are aware of the benefits which are diseases, HIV/AIDS prevention or contraceptive. Only 5.4% subjects believe that condom doesn’t have any benefits (table 19). Most of condom usage proposals was decided by subjects or with their sex partners. Only a small fraction (7.3%) was proposed by their partners to use condom. About half (48.9%) of the IDUs reveieved free needles, syringes and more than half (56.2%) of subjects who have sexual intercourse in the high-risk groups have receieved free condom from the Harm Reduction Program.

In conclusion, the free condom/needle model needs to be improved and extended as well as matain the old model, develop allocation form that is high-risk group characteristics-oriented, especialy the “hidden” group which is still unreachable by the program, in order to improve and have synchronous effects.

ĐẶT VẤN ĐỀỞ Việt Nam, dịch AIDS vẫn tập trung chủ yếu trong các nhóm nguy cơ cao như nhóm nghiện chích ma

túy (TCMT), nhóm phụ nữ mại dâm (PNMD) và nhóm nam quan hệ tình dục đồng giới (MSM).Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2010, nước ta có 183.938 người đang sống với HIV, 44.022 bệnh nhân AIDS và 44.477 người chết vì AIDS. 13.915 ca nhiễm HIV mới, 6.510 ca chuyển sang giai đoạn AIDS và 2.556 ca chết vì AIDS là những con số ghi nhận được ở nước ta chỉ riêng trong năm 2010. (Nguồn: Cục Phòng Chống HIV/AIDS, 2011).

Tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), hiện có số khoảng 10 triệu dân cư, là địa phương có số người nhiễm HIV chiếm 25% số người nhiễm HIV của cả nước. Dự báo của năm 2010 cho biết, tỷ lệ hiện nhiễm HIV trên dân số người trưởng thành tại TPHCM (từ 15 tuổi trở lên) là khoảng 1,27%. Mô hình dự báo cho thấy tỷ lệ này sẽ tiếp tục tăng dần lên 1,53% vào năm 2015 nếu như các yếu tố hành vi nguy cơ vẫn giữ nguyên như hiện tại. Trong đó, số ca nhiễm HIV mới ở người trưởng thành sẽ tăng từ 6.152 trường hợp năm 2011 lên đến 7.102 trường hợp vào năm 2015. Thêm vào đó, nếu giữ nguyên mức độ các hoạt động can thiệp như thời điểm hiện tại của năm 2010, ước tính trong vòng 5 năm tới, TPHCM sẽ có thêm 33.132 trường hợp nhiễm HIV mới ở người trưởng thành (Nguồn: UBPC AIDS TP.HCM, 2010).

Để tăng cường hiệu quả của chương trình can thiệp giảm tác hại cho các nhóm nguy cơ cao tại cộng

199

Page 74: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

đồng, cũng như, hỗ trợ tích cực hơn cho thành viên của các nhóm này, trong việc tiếp cận và sử dụng các vật dụng giảm tác hại, dự phòng lây nhiễm HIV/AIDS như bao cao su, bơm kim tiêm, chất bôi trơn, nước cất. Được sự hỗ trợ về kinh phí của Tổ chức Ngân hàng Thế Giới (World Bank), Ban quản lý Dự án “Phòng Chống AIDS ở Việt Nam” tại TP.HCM đã phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Y học TP.HCM thực hiện khảo sát “Nhu cầu bơm kim tiêm, bao cao su của các nhóm nguy cơ cao tại TP.HCM: Thực trạng và giải pháp”.

Trong các chiến lược dự phòng lây nhiễm HIV, việc đảm bảo sự sẵn có, khả năng tiếp cận và sự chủ động tích cực của các cá thể trong việc sử dụng các phương tiện hỗ trợ phòng tránh HIV như BCS, BKT sạch, bất cứ khi nào có hành vi tình dục hoặc tiêm chích, đang được quan tâm hàng đầu vì nó đã chứng minh được vai trò quan trọng của nó trong việc góp phần làm giảm tỉ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng.

Mục tiêuĐánh giá thực trạng tình hình sử dụng BKT và BCS của các nhóm đối tượng có hành vi nguy cơ cao tại

thành phố Hồ Chí Minh.Xác định nhu cầu hiện nay về BKT và BCS cũng như các vật dụng khác dùng kèm theo như nước cất,

chất bôi trơn... của các nhóm nguy cơ cao tại TPHCM. Phân tích mức độ đáp ứng về số lượng, chất lượng và chủng loại của nguồn BKT, BCS cung cấp từ chương trình giảm hại.

Cung cấp thông tin cho những người quản lý chương trình về số lượng và chủng loại BKT, BCS cần thiết cho hoạt động can thiệp giảm tác hại dành cho các nhóm nguy cơ cao tại TP.HCM.

PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨUĐịa bàn và quần thể nghiên cứuĐịa bàn nghiên cứuSự lựa chọn địa bàn nghiên cứu được cân nhắc dựa trên 3 yếu tố sau theo mỗi nhóm đối tượng: Địa bàn có số lượng đối tượng đích trên mỗi nhóm lớn hơn 250 người (theo số liệu mapping từ UBPC

AIDS TPHCM).Địa bàn có nhiều điểm hoạt động của các nhóm đối tượng đích.Địa bàn được hỗ trợ chương trình BCS, BKT, GDĐĐ từ các tổ chức khác nhau.Quần thể nghiên cứu Khảo sát định lượng được tiến hành trên ba nhóm quần thể có nguy cơ cao nhất đó là người TCMT,

PNMD (bao gồm MDĐP và MDNH-KS) và MSM. Cỡ mẫu thu thập cho khảo sátCỡ mẫu cho khảo sát định lượng trên mỗi nhóm được tính theo công thức ước tính cỡ mẫu cho 1 tỷ lệ

như sau:

n ≥ [ Z(1-α /2)

/ e ]

2

x p (1-p) Cỡ mẫu tính được theo công thức cho các nhóm đối tượng tham gia nghiên cứu được xác định tổng

cộng ít nhất là 560 người, trong đó có 180 người TCMT, 240 người có hoạt động mãi dâm (bao gồm MDĐP và TVNH-KS) và 140 nam giới có quan hệ tình dục đồng giới.

Các chỉ số nghiên cứuHành vi tình dục trong đó bao gồm số lượng bạn tình và các loại bạn tình (“mại dâm”, “thường xuyên” và

“không thường xuyên”, nam giới và nữ giới).Sử dụng BCS khi QHTD với các loại bạn tình khác nhau.Thực hành hành vi khác liên quan đến sử dụng BCS và tình dục an toàn.Kiến thức và thái độ đối với HIV/AIDS.Sử dụng ma túy và chất gây nghiện (bao gồm tiêm chích ma túy và dùng chung BKT).Nhận thức về nguy cơ lây nhiễm HIV.Tiếp cận các can thiệp dự phòngng HIV/AIDS.Các câu hỏi về mạng lưới để tiến hành RDS.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUThực trạng và nhu cầu BCS, BKT của các nhóm quần thể nghiên cứuHành vi tiêm chích và thực trạng sử dụng BKTCó tổng cộng 220 người tham gia nghiên cứu đã từng có hành vi tiêm chích ma túy, 206 người hiện có

hành vi tiêm chích trong tháng vừa qua, trong đó 179 người thuộc nhóm TCMT, 23 người thuộc nhóm MDĐP và 4 người thuộc nhóm MSM. 70% người có hành vi tiêm chích ma túy trong tháng qua có tần suất tiêm chích ma túy từ 2 lần/ngày trở lên.

Trung bình 1 người tiêm chích ma túy đã sử dụng 66 cái BKT/tháng (thấp nhất là 1 cái, cao nhất là 120 cái). Đa phần (57.3%) sử dụng từ 60 cái BKT/tháng trở lên. 26% không có khả năng có được BKT sạch khi cần dùng với lý do là không có tiền mua, điểm mua và nhận BKT không thuận lợi hay không tiện để BKT dự trữ ở trong nhà nên khi cần không có để sử dụng.

Về những nơi thường mua/nhận BKT để sử dụng, kết quả phân tích cho thấy khi cần BKT thì nhà thuốc tây là địa điểm được người TCMT lui tới để mua nhiều nhất (80.6%), kế đến là nhận từ GDVĐĐ hoặc NVTCCĐ (39.3%), tiếp sau đó là TTTVHTCĐ và những điểm phân phối BKT miễn phí tại cộng đồng (17.0%), cuối cùng là mua/nhận tại bệnh viện, phòng khám (6.3%) hay từ bạn tình (6.8%).

200

Page 75: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Hành vi tình dục và thực trạng sử dụng BCSHầu hết (95.7%) người tham gia nghiên cứu đã có quan hệ tình dục, có 318 người có QHTD để trao đổi

lấy tiền hàng, trong đó 45 người thuộc nhóm TCMT, 240 người thuộc nhóm PNMD và 33 người thuộc nhóm MSM. Số lượng khách hàng trung bình trong tháng vừa qua của nhóm có hoạt động bán dâm là 24 khách hàng (thấp nhất 0 khách hàng, cao nhất 76 khách hàng), gần 41% người có số lượng khách hàng trong tháng từ 30 khách hàng trở lên.

Với việc sử dụng BCS, hầu hết các nhóm đối tượng đều ý thức được lợi ích của việc sử dụng BCS khi quan hệ tình dục để phòng tránh bệnh tật nói chung, HIV/AIDS nói riêng và tránh thai, chỉ có 5.4% đối tượng cho rằng sử dụng BCS không có lợi ích gì (bảng 19). Đa phần việc đề xuất sử dụng BCS khi quan hệ là do bản thân đối tượng quyết định hoặc cùng với bạn tình quyết định. Chỉ có tỷ lệ nhỏ (7.3%) do bạn tình đề xuất sử dụng BCS.

Tiếp cận với chương trình Can thiệp Giảm tác hạiGần 1/2 (48.9%) người TCMT đã từng nhận BKT miễn phí và hơn 1/2 (56.2%) người có quan hệ tình dục

thuộc các nhóm nguy cơ cao đã từng nhận được BCS miễn phí từ Chương trình Can thiệp Giảm tác hại. Qua đó phần nào thể hiện độ bao phủ các phương tiện giảm hại đến các đối tượng NCC (Bảng 21). Tuy nhiên kết quả này cũng cần được cân nhắc khi đưa ra nhận định vì không loại trừ ảnh hưởng của việc chọn mẫu dây chuyền có kiểm soát.

Trong việc nhận BCS, nhóm MSM và MDNH có tỷ lệ nhận BCS miễn phí từ chương trình tương đối cao hơn so với 2 nhóm còn lại. Nhóm TCMT cũng được tiếp cận khá tốt với chương trình phát BCS miễn phí, với tỷ lệ đã từng nhận BCS miễn phí là 45.5%.

Về tính sẵn có của BKT/BCS tại điểm cấp phát miễn phí, có 51% người được phỏng vấn cho biết họ thấy BKT, BCS miễn phí luôn sẵn có tại các điểm phân phối khi họ tới. Tuy nhiên, tính sẵn có của BKT và BCS miễn phí được các nhóm đối tượng nguy cơ cao đánh giá khác nhau. Qua đánh giá của nhóm MDĐP, MDNH và nhóm MSM cho thấy việc duy trì tính sẵn có của BCS qua các kênh cấp phát miễn phí khá tốt, đặc biệt thể hiện qua tỷ lệ đánh giá của nhóm MSM (73.6%).

Ước tính nhu cầu BKT, BCS Ước tính nhu cầu BKT theo tần suất tiêm chíchSố liệu thống kê cho thấy 70% số người TCMT tại TP.HCM có tần suất tiêm chích từ 2 – 3 lần/ngày,

khoảng 10% người có tần suất tiêm chích trên 3 lần/ngày (dựa trên bảng tần suất tiêm chích/ngày và tỉ lệ số người sử dụng trên 90 BKT/tháng). Nếu số người TCMT ở TP.HCM bằng đúng số ước tính là 15,000 người thì số lượng BKT mà cần dùng là 11,070,000 cái.

Ước tính nhu cầu BCS trên nhóm PNMDSố lượng BCS mà PNMD cần dùng cho khách hàng (Ước tính theo số lượng bạn tình trong tháng):

Số KH mua dâm trong tháng qua Số PNMD (ước tính 2009) Số BCS cần dùngMDĐP MDNH 1 tháng 1 năm

0-9 Khách hàng (16%-6%) 800 600 7,000 84,00010-19 Khách hàng (26%-34%) 1,300 3,400 70,500 846,00020-29 Khách hàng (17%-14%) 850 1,400 56,250 675,00030-39 Khách hàng (16%-14%) 800 1,400 77,000 924,00040-49 Khách hàng (13%-20%) 650 2,000 119,250 1,431,00050-59 Khách hàng (5%-9%) 250 900 63,250 759,000≥ 60 Khách hàng (7%-3%) 350 300 42,250 507,000

Tổng số 5,000 10,000 435,500 5,226,000

Ước tính nhu cầu BCS, CBT trên nhóm MSM88% số MSM có quan hệ tình dục với bạn tình trong tháng qua, hình thái bạn tình chủ yếu của nhóm

MSM là bạn tình thường xuyên hay bạn tình bất chợt, số lượng bao cao su trung bình một tháng mà nhóm MSM sử dụng là 13 cái. Tính chung tỉ lệ không sử dụng BCS với các loại bạn tình là 15%. Áp dụng cách tính tương tự như trên ta tính được số lượng BKT cần dùng cho nhóm MSM là 1,883,700 cái/năm (Bảng 22).

BÀN LUẬNNhu cầu BKTcủa nhóm NCMTNhóm TCMT đa số đối tượng TCMT sử dụng từ 60 BKT trở lên/tháng (2 BKT/ngày) và hiện tại vẫn còn tỷ

lệ khá lớn người TCMT có hành vi dùng BKT đã qua sử dụng. Tuy nhiên, phần lớn họ đều ý thức được lợi ích của việc dùng BKT sạch. Hiện nay, khi có nhu cầu sử dụng BKT, phần lớn người TCMT có thể dễ dàng mua được qua nhà thuốc, tiếp đến là có thể nhận miễn phí qua GDVĐĐ và các điểm đặt cố định. Ngoài việc được cung cấp BKT sạch, nhóm TCMT cũng tiếp cận khá tốt với chương trình BCS.

Chất lượng BKT miễn phí cũng bị đối tượng đánh giá là không phù hợp. Tuy nhiên, các đối tượng đang nhận BKT miễn phí từ chương trình vẫn mong muốn được tiếp tục nhận qua mạng lưới GDVĐĐ/NVTCCĐ

201

Page 76: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

và các cơ sở y tế nhà nước.Nhu cầu BCS của nhóm PNMDNhóm MDĐP đa số sử dụng trên 30 BCS/1 tháng (30-90 cái), tỷ lệ đã từng sử dụng chất bôi trơn khá

thấp. Có tỷ lệ duy trì sử dụng BCS với khách hàng thường xuyên khá cao. Loại BCS nhóm PNMD sử dụng cũng là BCS loại thông thường mà nhóm này có thể dễ dàng nhận từ GDVĐĐ/NVTCCĐ hoặc mua từ nhà thuốc. Có khoảng 55% – 60% PNMD trong mẫu nghiên cứu đã từng tiếp cận được với BCS miễn phí của chương trình, nhưng cũng chỉ khoảng 52 – 57% trong số họ đánh giá tốt về tính sẵn có của BCS tại các điểm cấp phát miễn phí. Về chất lượng của BCS, đa số đánh giá về chất lượng BCS miễn phí của chương trình khá tốt, phù hợp, tuy nhiên vẫn còn một vài hạn chế và có những thời điểm không có nguồn BCS để phát. Về số lượng, BCS cũng được cung cấp đầy đủ với nhu cầu sử dụng (đối với nhóm PNMD có nhận BCS miễn phí).

Nhu cầu BCS, chất bôi trơn của nhóm MSMNhóm MSM trong mẫu khảo sát có độ tuổi trung bình là 26, phần lớn là độc thân, có trình độ học vấn khá

cao (từ cấp 3 trở lên). Nhóm MSM có nhu cầu cao hơn trong việc sử dụng các loại BCS đặc biệt và chất bôi trơn. Phần lớn họ mua BCS và CBT từ nhà thuốc và sau đó là nhận từ GDVĐĐ/NVTCCĐ. Nhóm này có tỷ lệ sử dụng BCS trong tất cả các lần quan hệ với bạn tình thường xuyên và không thường xuyên khá cao.

Ước tính nhu cầu BKT/BCSBKT:11,070,000/năm (theo tần suất tiêm chích)12,418,056/năm (theo số BKT sử dụng trong tháng)11,744,028/năm (theo chủng loại. Trong đó: đầu đỏ 80%)11,744,028/năm (theo kênh phân phối. Trong đó kênh kinh doanh: 70%, kênh miễn phí trợ giá 30%)BCS:5.226.000/năm (ước tính theo số bạn tình trong tháng)8.142.000/năm (ước tính theo số BCS đã sử dụng trong tháng)8.386.260/năm (ước tính theo chủng loại. Trong đó 80% là loại BCS thông thường & tỷ lệ BCS cần cung

cấp cho nhóm NHKS chiếm 67%)8.386.260/năm (ước tính theo các kênh phân phối. Trong đó: nhà thuốc 50%, bán lẻ 20% và kênh miễn

phí trợ giá 30%)BCS & CBT cho nhóm MSM:1.883.700/năm (ước tính theo số lượng BCS dùng trong tháng qua. Trong đó BCS loại đặc biệt: 44%3,252,000 gói/typ CBT/nămKênh phân phối: 50% qua nhà thuốc, 20% qua điểm bán lẻ, 30% qua kênh miễn phí/trợ giá.KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊPhát triển mạng lưới và mở rộng các hình thức phân phối BKT, BCS cho nhóm nguy cơ cao.Phát triển và mở rộng các mô hình cung cấp BCS/BKT hiện tại.Duy trì mô hình cũ và phát triển các hình thức cấp phát chú ý đến đặc tính của từng nhóm đối tượng

nguy cơ cao khác nhau, đặc biệt là nhóm “ẩn” mà chương trình chưa tiếp cận được, nhằm nâng cao và tác động đồng bộ.

Đầu tư cho việc triển khai các mô hình mới.Mở rộng hình thức bán BCS trợ giá thông qua cửa hàng, các NHKS hoặc nhà thuốc.Các đối tượng TCMT cũng đã dần dần hình thành thói quen tự mua BKT tại nhà thuốc và đây cũng là

một kênh phân phối hiệu quả.Phân phối các loại BKT, BCS phù hợp với nhu cầu sử dụng của các nhóm.Tiếp tục vận động sự đồng thuận xã hội cho việc cung cấp BKT, BCS cho đối tượng NCC.TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Giám sát lồng ghép các chỉ số hành vi và sinh học HIV/STI tại Việt Nam, IBBS vòng 1, năm 2005-

2006.2. Giám sát lồng ghép các chỉ số hành vi và sinh học HIV/STI tại Việt Nam, IBBS vòng 2, năm 2009.3. Báo cáo khảo sát hành vi và sinh học (Giám sát trọng điểm HSS+) từ năm 2007 đến năm 2009 tại

TP.HCM.4. Báo cáo giám sát phát hiện tình hình dịch từ năm 2006-2010 của Ủy ban phòng, chống AIDS tại

TP.HCM.5. Báo cáo hoạt động can thiệp giảm tác hại từ năm 2006-2010 của Ban quản lý dự án phòng, chống

HIV/AIDS tại TP.HCM.

202

Page 77: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỬ DỤNG BAO CAO SU THƯỜNG XUYÊN

TRÊN NHỮNG NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG NGHIỆN CHÍCH MA TÚY TẠI HUYỆN QUAN HÓA VÀ MƯỜNG LÁT TỈNH THANH HÓA, NĂM 2010

Phạm Hoàng Anh, Nguyễn Bá Cẩn, Phạm Thị Vân Anh*Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Thanh Hóa

Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương, Hà Nội*

TÓM TẮTNhiễm HIV trên những người vợ có chồng nghiện chích ma túy (NCMT) trong thời gian gần đây đang là

vấn đề được quan tâm. Sử dụng bao cao su (BCS) thường xuyên trở thành phương pháp phòng tránh tốt nhất bảo vệ những người vợ khỏi bị lây nhiễm HIV từ những hành vi nguy cơ liên quan đến tiêm chích ma túy của chồng họ. Sử dụng số liệu từ cuộc điều tra hành vi nguy cơ lây nhiễm và tỷ lệ nhiễm HIV, Giang mai trên những người vợ có chồng nghiện chích ma túy tại huyện Mường Lát và Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa năm 2010, nghiên cứu này được tiến hành với mục đích xác định một số yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng bao cao su thường xuyên trong 200 người vợ có chồng NCMT tại 2 huyện nêu trên. Chọn mẫu theo phương pháp hòn tuyết lăn, sử dụng chủ yếu bộ số liệu của người vợ và chọn thêm một số biến từ bộ số liệu của người chồng để phân tích. Kết quả cho thấy cả yếu tố của người vợ lẫn yếu tố của người chồng ảnh hưởng đến việc sử dụng BCS thường xuyên trong người vợ. Kiến thức về HIV của những người vợ là yếu tố chính ảnh hưởng đến sử dụng bao cao su thường xuyên với chồng. Những người vợ có kiến thức HIV tốt sử dụng BCS gấp 33 lần so với những người vợ có kiến thức HIV khiêm tốn. Sự chênh lệch tuổi giữa vợ và chồng càng lớn thì khả năng sử dụng BCS càng ít. Những người chồng NCMT có mối quan hệ ngoài hôn nhân cũng là tác nhân ảnh hưởng đến ít sử dụng BCS với vợ. Chương trình thông tin giáo dục truyền thông, tư vấn xét nghiệm tự nguyện, chương trình cung cấp bao cao su cần được đẩy mạnh cho những vợ người NCMT.

SUMMARYHIV infection on the wives whose husbands are IDUs (IDUs) in recent times is a great concern. Using

condom often becomes the best preventive methods to protect wives from HIV infection risk behaviors related to injecting drug use of their husbands. Using survey data from risk behavior and HIV and syphilis prevalence on the wives whose husbands IDUs in Muong Lat and Quan Hoa district, Thanh Hoa province in 2010, this study was carried with the purpose of finding out the factors affecting condom use in 200 regular IDUs married wife in 2 districts mentioned above. Snowball sampling method was used based on mainly the use of the data and choose a wife from a variable number of data sets to analyze their husband. The results showed that both elements of the wife and the husband of factors affecting the use of condom of the wives. Knowledge about HIV is the wife of the main factors affecting the use of condoms regularly with her husband. Wives who have good knowledge of HIV using condoms 33 times higher than the wives have modest knowledge of HIV. The bigger the difference of age between husband and wife, the lesser the ability of condom use. The IDU husbands have extramarital relationships (affair) also the factors affecting less condom use with wives. Program information, education and communication, voluntary counseling and testing, the program provides condoms should be promoted for the wives of IDUs.

ĐẶT VẤN ĐỀSử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục là phương pháp an toàn và hiệu quả nhất để tránh lây nhiễm

HIV trong mối quan hệ bạn tình. Theo Liên Hiệp Quốc năm 2009, chỉ tính riêng các nước ở khu vực châu Á, tỷ lệ phụ nữ bị nhiễm HIV tăng từ 19% năm 2000 lên 35% năm 2008. Hàng triệu phụ nữ bị nhiễm HIV không phải là do chính bản thân họ mà do chồng/ bạn tình của họ tham gia vào những hành vi tình dục, tiêm chích không an toàn [1]. Dịch HIV/AIDS ở tỉnh Thanh Hóa cũng đang có xu thế thay đổi. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ ở tỉnh cũng không ngừng tăng lên, từ 10.4% năm 2006 lên 25.26% năm 2009. Con đường lây truyền HIV qua đường tình dục cũng tăng từ 16% năm 2006 lên 40% năm 2009. Trong khi người NCMT chiếm 55% số trường hợp nhiễm HIV trong tỉnh [5]. Nguy cơ lan truyền HIV từ chồng NCMT sang vợ là khá cao. Trong một nghiên cứu trước đây, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT ở Thanh Hóa là 29%. Chỉ có 26% người NCMT thường xuyên sử dụng BCS với vợ/người yêu trong khi 61% trong số họ là người quyết định sử dụng BCS khi quan hệ tình dục. Nguy cơ hơn, 66% người NCMT sử dụng BCS với gái mại dâm trong khi hơn 60% trong số họ bị nhiễm khuẩn lây truyền qua đường tình dục [3]. Bên cạnh đấy, theo Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2005, sử dụng BCS của người phụ nữ Việt Nam rất thấp chỉ 9%. Vì vậy, mục đích nghiên cứu này nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sử dụng BCS thường xuyên trên những người vợ có chồng NCMT để xây dựng kế hoạch can thiệp phù hợp cho cả người NCMT và vợ của họ.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.

203

Page 78: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

2. Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu được triển khai tại 2 huyện Quan Hóa và Mường Lát tỉnh Thanh Hóa năm 2010.

3. Đối tượng và cỡ mẫu nghiên cứu và tiêu chuẩn tuyển chọn: Những cặp vợ chồng từ 16-49 tuổi hiện đang sinh sống trên địa bàn huyện điều tra, trong đó người chồng hiện đang nghiện chích ma túy.

4. Cỡ mẫu và chọn mẫu400 đối tượng: 200 người NCMT và 200 người vợ của họ. Chọn mẫu theo phương pháp “hòn tuyết lăn”

thông qua nhân viên tiếp cận cộng đồng nhóm NCMT để chọn mẫu. 5. Phân tích số liệu: Phân tích số liệu bằng phần mềm STATA 10.0.KẾT QUẢ1. Các đặc điểm nhân khẩu xã hội của đối tượng nghiên cứu (N=400)Hơn một nửa cặp vợ, chồng tham gia nghiên cứu ở độ tuổi 25-34. Tuổi trung vị của người vợ là 27 và

của người chồng là 30. Phần lớn những người vợ có học vấn cao hơn chồng, gần 50% người vợ có trình độ học vấn phổ thông cơ sở trong khi hơn 50% người chồng chỉ học hết tiểu học hoặc mù chữ. Hơn 80% cả vợ lẫn chồng sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Đại đa số cặp vợ chồng là người dân tộc Thái.

Bảng 1: Các đặc trưng nhân khẩu xã hội của đối tượng nghiên cứu

Đặc trưng Vợ người NCMT (N=200) Chồng NCMT (N=200)N % N %

Tuổi 200 100 200 100≤ 24 65 32.5 38 19.0

25-34 96 48.0 116 58.0≥ 35 39 19.5 46 23.0

Trình độ học vấn 200 100 200 100<= Tiểu học 52 26.0 103 51.5

Trung học cơ sở 87 43.5 69 34.5>= Trung học phổ thông 61 30.5 28 14.0

Nghề nghiệp 200 100 200 100Nghề khác 20 10.0 35 17.5

Nông nghiệp 180 90.0 165 82.5Dân tộc 200 100 200 100

Dân tộc khác 43 21.5 46 23.0Dân tộc Thái 157 78.5 154 77.0

Chênh lệch tuổi giữa vợ và chồngTrung bình = 2.2

Trung vị = 2.0

Tuổi chênh lệch giữa vợ và chồng trong nghiên cưu này là 2 năm. Một phần ba số người vợ có kiến thức tốt về HIV trong khi tỷ lệ đó chỉ là 7.5% ở người chồng. Một nửa cặp vợ chồng đều cho rằng mình có nguy cơ cao nhiễm HIV. Tám mươi lăm phần trăm người chồng cho biết họ có bạn tình ngoài vợ của mình. Gần 80% số người vợ thuyết phục được chồng sử dụng BCS khi quan hệ tình dục.

Bảng 2: Đặc điểm về hành vi nguy cơ của đối tượng nghiên cứu

Đặc trưng N Tỷ lệ (%)Kiến thức HIV của vợ 200 100

Kiến thức thấp 83 41.5Kiến thức trung bình 53 26.5

Kiến thức tốt 64 32.0Kiến thức HIV của chồng 200 100

Kiến thức thấp 39 19.5Kiến thức trung bình 146 73.0

Kiến thức tốt 15 7.5Nhận thức về nguy cơ nhiễm HIV của vợ 200 100

Nguy cơ cao 110 55.0Không có nguy cơ 26 13.0

Không biết 74 37.0Nhận thức về nguy cơ nhiễm HIV của chồng 200 100

Nguy cơ cao 111 55.5Không có nguy cơ 39 19.5

Không biết 50 25.0Thương thuyết sử dụng BCS với chồng 200 100

Có 41 20.5Không 159 79.5

Mối quan hệ ngoài hôn nhân của chồng 200 100Không có bạn tình 30 15.0

Có bạn tình 170 85.0

204

Page 79: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

2. Sử dụng bao cao su trên những người vợ có chồng NCMT Biểu đồ 1 cho thấy tỷ lệ sử dụng BCS thường xuyên của những người vợ với chồng NCMT trong 12

tháng qua chiếm 35% trong khi không sử dụng BCS chiếm tới 65%.

Biểu đồ 1. Sử dụng bao cao su với chồng NCMT trong 12 tháng qua (N=200)

3. Xác định các yếu tố tác động đến sử dụng BCS thường xuyên trên những người vợ có chồng NCMT

Sử dụng mô hình hồi quy logistic đa biến để tìm ra các yếu tố có khả năng tác động đến việc sử dụng BCS thường xuyên trên những người vợ. Kết quả của bảng 3 cho thấy yếu tố tuổi, kiến thức về HIV, nhận thức nguy cơ nhiễm HIV, thương thuyết sử dụng BCS của người vợ, yếu tố nghề nghiệp và mối quan hệ ngoài hôn nhân của người chồng tác động lên việc sử dụng BCS thường xuyên của những người vợ đối với chồng trong vòng 12 tháng qua. Những người phụ nữ trên 34 tuổi ít sử dụng bao cao su hơn những người phụ nữ đang ở độ tuổi trẻ, tỷ lệ này là 76%. Khả năng sử dụng BCS thường xuyên trong người vợ có kiến thức tốt về HIV cao gấp 33 lần so với những người vợ có kiến thức khiêm tốn và hạn chế về HIV. Sự chênh lệch tuổi giữa vợ và chồng càng lớn thì việc sử dụng BCS thường xuyên với chồng lại càng giảm. Điều đó có nghĩa là nếu khoảng cách tuổi giữa vợ và chồng là 1 năm thì khả năng sử dụng BCS thường xuyên với vợ/chồng giảm 11%. Những người phụ nữ có thể thuyết phục chồng sử dụng BCS thì cơ hội sử dụng BCS thường xuyên với chồng cao gấp 5 lần so với những người phụ nữ không đàm phán sử dụng BCS. Điều thú vị là những người chồng NCMT có mối quan hệ ngoài hôn nhân thì có tới 84% trong số họ ít sử dụng BCS so với những người chồng chỉ có một bạn tình là vợ của mình.

Bảng 3. Mô hình hồi quy logistic đa biến giữa các yếu tố nguy cơ với việc sử dụng BCS thường xuyên trên những người vợ

Các yếu tố nguy cơ OR 95% CI PTuổi vợ

≤ 24®25 – 34 0,5 0,2 – 1,6 0,28

≥ 35 0,2 0,05 – 1,2 0,08Nghề nghiệp của vợ

Nghề khác ®Nghề nông 1.08 0,2-4,6 0,9

Trình độ học vấn của vợ≤ Tiểu học ®

Trung học cơ sở 0.3 0,1-1,4 0,1≥ Trung học phổ thông 1.4 0,3-6,3 0,6

Vợ người dân tộcDân tộc khác ®

Dân tộc Thái 1.6 0,4-6,7 0,4Kiến thức HIV của vợ

Kiến thức thấp ®Kiến thức trung bình 6.8 1,9-24,3 0,003

Kiến thức tốt 33.6 8,3-135,0 0,000Nhận thức nguy cơ nhiễm HIV của vợ

Nguy cơ cao ®Không có nguy cơ 8.5 1,9-37,9 0,004

Không biết 0.8 0,2-2,6 0,7

205

Page 80: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Thương thuyết sử dụng BCS với chồngCó ®

Không 5.1 1,3-19,7 0,01Nghề nghiệp của chồng

Nghề khác ®Nghề nông 33.2 5,7-193,4 0,000

Trình độ học vấn của chồng≤ Tiểu học ®

Trung học cơ sở 2.0 0,7-5,6 0,1≥ Trung học phổ thông 1.2 0,2-5,4 0,8

Chênh lệch tuổi giữa vợ và chống 0.8 0,7-1,0 0,06Kiến thức HIV của chồng

Kiến thức thấp ®Kiến thức trung bình 1.4 0,4-4,5 0,5

Kiến thức tốt 2.2 0,3-14,8 0,4Nhận thức nguy cơ lây nhiễm HIV của chồng

Nguy cơ cao ®Không có nguy cơ 0.6 0,2-2,0 0,4

Không biết 0.7 0,2-2,5 0,6Mối quan hệ ngoài hôn nhân của chồng

Không có bạn tình ®Có bạn tình 0.1 0,04-0,6 0,007

® = nhóm biến so sánh BÀN LUẬNCác yếu tố tác động lên sử dụng BCS của vợ đối với chồng đến từ cả phía người chồng và vợ của họ.

Khi người vợ có hiểu biết đầy đủ về HIV, mong muốn phòng tránh và tự bảo vệ mình không nhiễm HIV bằng cách sử dụng BCS thường xuyên được thể hiện rõ ràng trong nghiên cứu. Người vợ thương thuyết được với chồng sử dụng BCS thì khả năng sử dụng BCS cũng nhiều hơn. Tuy nhiên khi người chống có mối quan hệ ngoài hôn nhân việc sử dụng BCS lại ít xảy ra. Chênh lệch tuổi tác giữa vợ và chồng cũng là nguyên nhân khiến họ ít dùng BCS. Vì vậy đẩy mạnh hoạt động truyền thông thay đổi hành vi trong suy nghĩ của cả vợ và chồng trong việc sử dụng BCS không chỉ là kế hoạch hóa gia đình mà còn là cách phòng tránh các bệnh STIs và HIV hiệu quả.

KẾT LUẬNTăng cường truyền thông thay đổi hành vi trong việc sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục cho cả vợ

và chồng NCMT. Mở rộng tiếp cận các chương trình dự phòng HIV như cung cấp bao cao su, tư vấn xét nghiệm HIV tự nguyện cho cả cặp vợ chồng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Liên Hiệp Quốc Việt Nam (2010), Lây nhiễm HIV từ nam giới sang phụ nữ trong quan hệ bạn tình ở

Việt Nam. 2. Nguyễn T. A (2008), Dịch HIV tiềm ẩn trong người phụ nữ Việt Nam. Tạp chí BMC Public Health, 8:37.3. Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS, Báo cáo dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ tỉnh Thanh Hóa

(2009). Báo cáo kết quả điều tra tỷ lệ nhiễm HIV và hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm NCMT tại địa bàn các huyện triển khai dự án tỉnh Thanh Hóa năm 2008.

4. Sargodha (2008), Sự thật dấu kín, Nghiên cứu về nguy cơ nhiễm HIV, các yếu tố rủi ro và tỷ lệ nhiễm HIV trong người NCMT và vợ của họ tại Pakistan.

5. Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS (2010). Báo cáo kết quả công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2009 và định hướng kế hoạch năm 2010.

206

Page 81: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ THAY THẾ CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE TẠI THANH HÓA

Hoàng Bình Yên; Nguyễn Bá Cẩn; Nguyễn Văn Nhu; Vũ Huy Hoàng*; Phạm Hoàng Anh

Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Thanh Hóa*Tổ chức PEPFAR tại Việt Nam

TÓM TẮTQua 1 năm triển khai, chương trình điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện (CDTP) bằng Methadone

(MMT) của tỉnh Thanh Hoá đã và đang thu hút sự ủng hộ và quan tâm của lãnh đạo, nhân dân và cũng đặt ra nhu cầu cần mở rộng điều trị trên toàn tỉnh.

Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả một số kết quả của chương trình điều trị thay thế CDTP bằng thuốc Methadone cho người nghiện ma túy tại thành phố Thanh Hóa từ tháng 5/2011 đến tháng 5/2012

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả, kết hợp nghiên cứu định lượng và nghiên cứu định tính trên 338 bệnh nhân trong giai đoạn ổn định liều, người hỗ trợ trực tiếp bệnh nhân, cán bộ y tế điều trị trực tiếp cho bệnh nhân.

Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ bệnh nhân nhiễm HIV, HBV, HCV là 15%, 70%, 10% với lúc vào điều trị và trong điều trị không thay đổi. Kết quả điều trị bước đầu khá khích lệ và thể hiện ở các khía cạnh khác nhau từ việc duy trì thời gian điều trị, tuân thủ uống thuốc hàng ngày, dự phòng HIV, giảm tần xuất trung bình từ 60 lần/tháng xuống còn 1-2lần/tháng, giảm số lượng sử dụng Heroin và cải thiện chất lượng cuộc sống. Tích luỹ 82% số bệnh nhân tiếp tục điều trị sau hai năm và chỉ còn 17% bệnh nhân còn tiếp tục sử dụng ma tuý. Đồng thời tần xuất sử dụng ma tuý, tiêm chích chung, hành vi tình dục không an toàn, hành vi trộm cắp cũng giảm rõ rệt.

Kết luận: Điều trị thay thế CDTP bằng thuốc Methdone tại Thanh Hoá đã mang lại hiệu quả rõ rệt: 83% bệnh nhân đã dừng sử dụng ma tuý; không có trường hợp nhiễm mới HIV, HBV, HCV.

SUMMARYOver 1 year implement, addiction treatment programs opiates (opioids) by Methadone Maintenance

Therapy (MMT) in Thanh Hoa province has attracted interest and support from the leadership, people and well laid out the needs of wider treatment in the whole province.

Objectives: To describe the results of alternative treatment programs for opioid by methadone for drug addicts in Thanh Hoa from January 5/2011 to March 5/2012

Subjects and Methods: Cross-sectional descriptive study, researchers combined quantitative and qualitative study on 338 patients in the stable dose period, the direct support of the patient, the medical staff treatment directly to patients.

Results: The rate of HIV, HBV, HCV -infected patients was 15%, 70%, 10%, respectively compared with the first treatment time and the treatment did not change. Results from first-step treatment were quite encouraging and embodied in various aspects from maintaining the treatment period, compliance with daily medication, HIV prevention, reducing the average frequency of 60 times/ month to 1-2 times/month, reducing the number of heroin use and improved quality of life. Accumulated 82 % of the patients continued treatment after two years and only 17 % of patients continued to use drugs. At the same time, the frequency of drug use, injecting, sexual behavior is not safe, as well theft decreased markedly.

Conclusion: Opioid substitution treatment with drugs Methdone in Thanh Hoa has brought significant effect: 83% of patients had stopped using drugs, no new cases of HIV, HBV, HCV.

ĐẶT VẤN ĐỀ Thanh Hóa là một trong những tỉnh có số người nhiễm HIV cao so với các tỉnh khác trong cùng khu vực.

Từ ca nhiễm HIV đầu tiên phát hiện năm 1995 tại huyện Đông Sơn, đến hết tháng 3/2012 cộng tích lũy người nhiễm HIV/AIDS trên địa bàn toàn tỉnh là 5.760; trong đó có 3.063 người chuyển sang giai đoạn AIDS và 954 người đã tử vong do AIDS; 65,5% trong tổng số người nhiễm HIV là do tiêm chích ma túy, chủ yếu là các chất dạng thuốc phiện (CDTP).

Chương trình điều trị thay thế CDTP bằng Methadone được triển khai tại Thanh Hóa từ tháng 5/2011. Qua 1 năm hoạt động, việc triển khai một đánh giá đầu tiên dựa trên số liệu sẵn có từ việc chỉ đạo, điều phối và triển khai chương trình là điều cần thiết trong việc lên kế hoạch đầu tư và duy trì điều trị bằng MMT trong tương lai ở tỉnh Thanh Hóa.

Mục tiêu của nghiên cứu:Mô tả thực trạng tổ chức thực hiện điều trị thay thế Methadone.Đánh giá một số chỉ số sức khỏe, thể chất, tâm thần, hành vi, xã hội và chất lượng cuộc sống của bệnh

nhân.

207

Page 82: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUNghiên cứu cắt ngang mô tả: Định lượng kết hợp định tính và hồi cứu các hồ sơ bệnh án của 338 bệnh

nhân đang tham gia điều trị, 16 cán bộ y tế và 32 người hỗ trợ bệnh nhân.KẾT QUẢ Cơ sở điều trị nằm trong khuôn viên và được Trung tâm phòng chống HIV/AIDS tỉnh Thanh Hoá (TTPC

HIV/AIDS) chỉ đạo và hỗ trợ. Tại Cơ sở điều trị, hiện có 16 cán bộ, trong đó có 4 cán bộ kiêm nhiệm và 12 toàn thời gian. Nguồn nhân lực và một phần chi phí vận hành hiện tại hỗ trợ từ dự án WB. Thuốc Methadone bệnh nhân uống hàng ngày là từ chương trình PEPFAR. Cơ sở điều trị có các phòng tiếp đón, khám, tư vấn, xét nghiệm theo qui định và cũng có cơ hội liên kết với các dịch vụ điều trị ARV, tư vấn và xét nghiệm tự nguyện.

Bệnh nhân tiếp cận chương trình điều trị qua các nguồn thông tin là bạn bè, ti vi, qua mạng internet, hội phụ nữ, người nhà đi tìm hiểu. Một số bệnh nhân tham gia những đợt đầu điều trị, họ chưa biết hiệu quả của chương trình nên vào uống thử.

Lứa tuổi chủ yếu (trên 80%) tham gia điều trị là từ 20-39 tuổi; đa phần là nam giới, có 1 nữ nghiện ma tuý tham gia điều trị; trình độ học vấn đa phần (94,1%) là dưới phổ thông trung học. Trước điều trị bệnh nhân đa phần là thất nghiệp và làm nghề tự do, tỷ lệ thất nghiệp gần 50%; có 6 cán bộ tham gia điều trị. Tại thời điểm nghiên cứu tỷ lệ thất nghiệp đã giảm trên 16%, lao động tự do tăng lên 13%, số cán bộ tham gia điều trị giảm 1 do bị mất việc.

Tuổi lần đầu sử dụng ma tuý, tuổi thường xuyên sử dụng và tuổi chích lần đầu tập trung ở nhóm từ 18 đến dưới 30; sử dụng chung bơm kim tiêm khi chích chiếm gần 30% trong nhóm bệnh nhân.

Tỷ lệ bệnh tật HIV (17,5%), tỷ lệ Viêm gan B (10%) và Viêm gan C (69%); tỷ lệ bệnh nhân được điều trị ARV trong quá trình điều trị (72,9%). Sau 12 tháng điều trị không phát hiện trường hợp nhiễm HIV mới trong số bệnh nhân âm tính khi mới bắt đầu điều trị.

Tỷ lệ bỏ trị (18,7%), lý do chính của bỏ trị: Bị bắt đi cai nghiện tập trung (11%); bị bắt giam do vi phạm pháp luật (58%), bệnh nhân tử vong do các nhiễm trùng cơ hội trên bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối (7,3%); chuyển nơi sinh sống (12,7%); không rõ nguyên nhân (11%). Tỷ lệ bệnh nhân bỏ uống thuốc trong ngày có sự dao động từ 5% lên gần 12%, lý do chính của nhóm bệnh nhân này là do điều kiện công việc không về kịp giờ uống thuốc hoặc nhà quá xa điểm điều trị…

Đến thời điểm nghiên cứu chưa thấy có hiện tượng quá liều xảy ra. Liều Methadone từ 5 mg đến 245 mg/người/ngày. Liều điều trị trung bình của nhóm bệnh nhân có điều trị ARV 95mg/ngày nhưng liều trung bình của nhóm không điều trị ARV chỉ dao động ở mức dưới 60mg/ngày.

Tỷ lệ bệnh nhân còn tiếp tục sử dụng ma tuý giảm từ 100% xuống 17,3%. Điểm đặc biệt đáng chú ý là trong nhóm bệnh nhân vẫn còn sử dụng heroin trong quá trình điều trị thì tần suất và số lượng sử dụng đã giảm rất nhiều so với trước điều trị (bệnh nhân sử dụng từ 1-2 lần/tháng so với trước điều trị là trung bình 60 lần/tháng với liều sử dụng đã giảm hơn nhiều). Trước điều trị có khoảng 30% bệnh nhân có sử dụng chung bơm kim tiêm, sau 12 tháng điều trị không còn hiện tượng này. Tỷ lệ bệnh nhân có hành vi quan hệ tình dục không an toàn giảm từ 30,1% đến 7%.

Tỷ lệ bệnh nhân có triệu chứng của trầm cảm giảm từ 75% trước điều trị còn 5% sau 12 tháng; cân nặng tăng từ 1-20 kg/ bệnh nhân. Tỷ lệ bệnh nhân có việc làm ổn định tăng từ 26% tăng lên 52,4% tổng số bệnh nhân tham gia điều trị. Tỷ lệ bệnh nhân ổn định liều có tham gia công việc giúp đỡ gia đình đạt 82%.

Cải thiện kinh tế gia đình bệnh nhân: Kết quả phỏng vấn sâu người hỗ trợ bệnh nhân (HTBN) “Trước kia mỗi một ngày các cháu sử dụng mấy trăm, một tháng cộng lại thì mấy triệu liền, bây giờ thì khác rồi, nhà nước cho các cháu uống thuốc mà không mất tiền, đấy là cái điều quí lắm” (Người HTBN, nam, 62 tuổi).

Môi trường nơi có nhiều bệnh nhân điều trị thay đổi tích cực, nhất là về mặt trật tự xã hội, giảm tỷ lệ vi phạm pháp luật trong số những người tham gia chương trình. Tỷ lệ bệnh nhân có hành vi vi phạm pháp luật trước điều trị 35,4%, sau 12 tháng điều trị giảm xuống 1,3%. Kêt quả phỏng vấn sâu bệnh nhân “Đầu óc thanh thản, không cần phải suy nghĩ đến tiền nữa, nên không phạm tội” là ý kiến được đưa ra từ hầu hết bệnh nhân.

BÀN LUẬNCơ sở điều trị Methadone hoạt động theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Nhân lực được tập huấn và có số

lượng đầy đủ theo quyết định phê duyệt triển khai thí điểm điều trị nghiện các CDTP bằng thuốc Methadone. Đảm bảo để Cơ sở hoạt động khám bệnh, tư vấn và cấp phát thuốc cho bệnh nhân hàng ngày.

Để điều trị cho bệnh nhân được tốt hơn bác sỹ cần tập huấn chuyên sâu về kỹ năng điều trị Methadone cho bệnh nhân đang điều trị ARV hoặc đang điều trị lao, Tư vấn viên cần tập huấn chuyên sâu về tư vấn tâm lý cho bệnh vì tâm lý của bệnh nhân ảnh hưởng đến quá trình điều trị. Khi bệnh nhân thay đổi tâm lý, bệnh nhân có thể sử dụng lại các CDTP. Tập huấn tư vấn từng nhóm bệnh nhân và gia đình để các bệnh nhân và gia đình tự trao đổi và giúp đỡ nhau trong quá trình điều trị.

Bệnh nhân ở độ tuổi từ 20 đến 56 tuổi, độ tuổi từ 30 đến 39 chiếm tỷ lệ cao nhất với 56,8%; độ tuổi lần đầu sử dụng ma tuý, tuổi thường xuyên sử dụng ma tuý và tuổi chích ma tuý lần đầu của bệnh nhân tham gia nghiên cứu chủ yếu ở độ tuổi 18 đến 29. Kết quả này tương tự kết quả nghiên cứu đánh giá năm 2009 của Bộ Y tế về điều trị thí điểm Methadone tại Hải Phòng và TP. Hồ Chí Minh.

Trong 338 bệnh nhân tham gia nghiên cứu có 01 nữ bệnh nhân nghiện ma túy tham gia điều trị. Mặc dù

208

Page 83: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

trên thực tế có một số lượng hàng chục nữ tiêm chích ma túy trên địa bàn thành phố Thanh Hóa, nhưng họ chưa dám lộ diện để tham gia điều trị Methadone. Đây cũng là tình trạng chung của các Cơ sở điều trị tại Nam Định, Hà Nội, Thái Nguyên…Với các tỉnh/thành phố có thời gian điều trị lâu hơn như Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh thì tỷ lệ nữ cao hơn.

Đa số trình độ học vấn chủ yếu dưới phổ thông trung học (94,1%). Có thể nói học vấn thấp dẫn đến nhận thức về vấn đề sử dụng các chất gây nghiện chưa tốt và công ăn việc làm của bệnh nhân. Trước điều trị chủ yếu là nghề tự do (32,3%), tỷ lệ thất nghiệp (48,3%), có 06 người là cán bộ (1,5%); trong điều trị nghề tự do (45.5%) và thất nghiệp (32.9%); tỷ lệ bệnh nhân có việc làm thấp hơn nhiều so với trên 60% bệnh nhân có việc làm trong nghiên cứu tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009. Như vậy tỷ lệ thất nghiệp đã giảm xuống, bệnh nhân có việc làm nhiều hơn, tuy nhiên đa phần công việc mà bệnh nhân tham gia thường không ổn định; 01 cán bộ làm công tác đoàn ở phường Tân Sơn bị mất việc do khi tham gia điều trị không đảm đương được công việc hiện tại; 01 người được cơ quan cho nghỉ không hưởng lương; 03 cán bộ khác được cơ quan đồng ý cho tham gia chương trình điều trị Methadone. Điều này cho thấy đã có những nhận thức tích cực về chương trình Methadone của cộng đồng. Tuy nhiên, vẫn còn những rào cản nhất định đối với những người nghiện ma túy đang làm việc tại các cơ quan muốn tham gia chương trình.

Sau 1 năm điều trị tỷ lệ bệnh nhân còn tiếp tục sử dụng ma tuý giảm còn trên 17%, bệnh nhân chỉ còn sử dụng từ 1-2 lần/tháng so với trước điều trị là trung bình 60 lần/tháng với liều sử dụng đã giảm hơn nhiều. Số bệnh nhân đã từng sử dụng chung bơm kim tiêm khi tiêm chích chiếm tỷ lệ 29,25%, kết quả này có thể giải thích có tới 17,5% bệnh nhân nhiễm HIV trong tổng số bệnh nhân tham gia điều trị.

Liều Methadone trung bình từ 5 mg đến 210 mg/người/ngày; liều điều trị trung bình của nhóm bệnh nhân có điều trị ARV thường trên 100mg/ngày nhưng liều trung bình của nhóm không điều trị ARV chỉ dao động ở mức dưới 60mg/ngày. Nhóm bệnh nhân được điều trị ARV có NVP có liều điều trị Methadone cao hơn so với các bệnh nhân nghiện ma túy khác với cùng điều kiện về độ dung nạp, thời gian nghiện…vì NVP có tác dụng làm giảm nồng độ Methadone trong máu. Kết quả này phù hợp với hướng dẫn điều trị Methadone của Bộ Y tế.

Sau 12 tháng điều trị không phát hiện trường hợp nhiễm HIV mới trong số bệnh nhân âm tính khi mới bắt đầu điều trị. Có thể nói đây là thành công trong việc phòng lây nhiễm HIV của chương trình điều trị thay thế.

Sức khỏe của nhiều bệnh nhân được cải thiện, có bệnh nhân tăng đến 20 kg sau 12 tháng điều trị. Có thể giải thích khi uống Methdone bệnh nhân không còn sử dụng ma tuý, họ ăn ngủ điều độ hơn, do đó sức khoẻ của họ tăng lên; bệnh nhân quan tâm đến chính bản thân, đến gia đình và xã hội. Điều này cho thấy hiệu quả điều trị thay thế bằng thuốc Methadone làm thay đổi cuộc sống của bệnh nhân.

Tỷ lệ bệnh nhân ổn định liều có tham gia công việc giúp đỡ gia đình đạt 82%. Tất cả các gia đình bệnh nhân đều nhận thấy kinh tế gia đình ổn định hơn khi bệnh nhân không còn sử dụng các CDTP. Tỷ lệ có hành vi vi phạm pháp luật trước điều trị 35,4%, sau 12 tháng điều trị giảm xuống 1,3%. Hầu hết bệnh nhân đều cho rằng: những người nghiện các CDTP được điều trị Methadone họ không còn sử dụng ma tuý, do đó không còn các hành vi phạm tội liên quan đến ma tuý, giảm áp lực về tội phạm ma tuý đối với xã hội.

Nhu cầu điều trị Methadone cho người nghiện ma tuý trên địa bàn thành phố là rất lớn. Theo ước tính sô người nghiện CDTP trên toàn tỉnh là 5.420 người nghiện ma túy có hồ sơ quản lý và trên 10 huyện có số người nghiện trên 250. Do đó, mở rộng chương trình để người nghiện ma tuý tham gia là rất cần thiết.

KẾT LUẬNĐa phần bệnh nhân (83%) giảm và dừng sử dụng các CDTP; trên 90% tăng sức khoẻ; làm thay đổi cuộc

sống của bệnh nhân, bệnh nhân đã quan tâm đến bản thân và gia đình; giảm tỷ lệ tội phạm liên quan đến ma tuý. Mở rộng thêm mô hình điều trị là cần thiết. Đào tạo thêm về phối hợp điều trị ARV, Lao và Methadone; về tư vấn tâm lý và định hướng việc làm cho bệnh nhân và gia đình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế (2010), Quyết định số 3140/QĐ-BYT ngày 30/8/2010 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành

Hướng dẫn điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone và Hướng dẫn tổ chức thực hiện.

2. Bộ Y tế (2009), Đánh giá mô hình triển khai thí điểm điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Hải Phòng và Thành phố Hồ Chí Minh.

4. Hoàng Đình Cảnh,Nguyễn Thanh Long (2009), "Bước đầu đánh giá kết quả triến khai thí điểm điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Việt Nam", Y học Việt Nam, 356(1), pp. tr. 6 - 10.

5. Cục phòng chống HIV/AIDS,Trường Đại học Y tế Công cộng (2008), Chương trình phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam, Nhà xuất bản Y học.

6. Quốc hội (2006), Luật phòng, chống nhiễm vi rút gây ra Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 12 tháng 7 năm 2006.

7. Sở Y tế Thanh Hóa (2010), Báo cáo hoạt động phòng, chống HIV/AIDS năm 2009 của Thanh Hóa.8. Tổ chức Sức khoẻ Gia đình Quốc tế biên dịch (2008), Sổ tay thông tin điều trị Methadone cho bệnh

nhân.9. Trung tâm phòng chống HIV/AIDS Thanh Hóa (2011) Báo cáo hoạt động phòng, chống HIV/AIDS năm

2010

209

Page 84: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

10. Nguyễn Minh Tuấn, Trần Viết Nghị, Nguyễn Viết Thiêm,Nguyễn Kim Việt (2004), "Áp dụng điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone tại Viện Sức khoẻ tâm thần", Y học thực hành, 487(9), pp. tr. 40 - 44.

11. UỶ ban Quốc gia phòng chống AIDS và phòng chống tệ nạn ma tuý mại dâm. Bộ Y tế (2007), Chương trình hành động Quốc gia can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV giai đoạn 2007 - 2010, Hà Nội, 2007.

12. Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa (2012) Kế hoạch số 31/KH-UBND ngày 25/4/2012 triển khai chương trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc methadone tại Thanh Hóa, giai đoạn 2012-2015.

13. Andrew Siara, Sorensen James L., Guydish Joseph, Dulucchi Kevin,Greenberg Brian (2005), "Klowledge and Attitudes about Methadone maitenance among staff working in a therapeutic commity", Maintenance in the Addictions, 3(1), pp. 47 - 58.

14. Neaigus Alan, Mingfang Zao, Anna Gyarmathy V., Cisek Linda, FriedmanSamuel R.,Baxter Robert C. (2008), "Greater drug injecting risk for HIV, HBV, and HCV infection in a city where syringe exchange ang pharmacy syringe distribution are illegal", Bulletin of the New York Academy of Medicine, 85(3), pp. 309 - 322.

15. Pelet Anne, Bessn Jacques, Pecoud Alain,Favrat Bernard (2005), "Difficulties associated with outpatient management of drug abusers by general practitioners. A cross-sectional survey of general practitioners with and without methadone patients in Switzerland", BMC Family Practice, 6(51), pp. 1 - 7.

16. Peterson James A., Schwartz Robert P., Mitchell Shannon Gwin, Reisinger Heather Schacht, Kelly Sharon M., O'Grady Kevin E., Brown Bary S.,Agar Michael H. (2010), "Why don't out-of-treament individual enter methadone treatment programs?" Int J Drug Policy, 21(1), pp. 36 - 42.

KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NGHIỆN CÁC CHẤT DẠNG THUỐC PHIỆN BẰNG THUỐC METHADONE TẠI PHÚ THỌ NĂM 2012-2013

Hồ Quang Trung, Nguyễn Xuân Ngọc, Đỗ Tiến Bộ, Đinh Quang Tuấn và cộng sự Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Phú Thọ

TÓM TẮTNghiên cứu nhằm mô tả một số kết quả điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone. Nghiên cứu mô tả

cắt ngang kết hợp với hồi cứu hồ sơ bệnh án tất cả bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc Methadone tại Trung tâm PC HIV/AIDS Phú Thọ đến ngày 30/6/2013. Qua nghiên cứu cho thấy 83,5% bệnh nhân đánh giá chương trình điều trị là rất tốt, tốt và chỉ có 16,5% đánh giá là được nhưng còn khó khăn vì phải đi lại xa và phiền hà với việc uống thuốc hàng ngày tại cơ sở. Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng heroin giảm từ 100% trước khi tham gia điều trị xuống còn 26,2% sau 3 tháng, 18,6% sau 6 tháng và 14,8% sau 9 tháng. Tỷ lệ nhiễm HIV trước điều trị là 12,9%, nhiễm viêm gan siêu vi B là 5,1% và nhiễm viêm gan siêu vi C là 47,8%. Không phát hiện nhiễm mới HIV và các bệnh lây truyền qua đường máu trong số các bệnh nhân tham gia điều trị. Nhiều người đã có cải thiện sức khỏe, có việc làm và các quan hệ gia đình, xã hội. Tỷ lệ vi phạm pháp luật trước điều trị là 44,3% xuống còn 4,3% trong số bệnh nhân điều trị Methadone.

SUMMARYThe objective of this study is to investigate some key results of MMT (Methadone Maintenance Therapy)

program. This is a descriptive cross-sectional study in combination with retrospective medical records of all patients receiving methadone treatment at Phu Tho Center of HIV/ AIDS Prevention by 06/30/2013. The results showed that 83.5% of patients rated the treatment program was very good, good; and only 16.5% were rated as difficult as having to travel too far and troubles with the medication of day basis. Percentage of patients using heroin decreased from 100% before entering treatment to 26.2% after 3 months, by 18.6% after 6 months and by 14.8% after 9 months. HIV prevalence was 12.9% before treatment, HBV infection was 5.1% and HCV infection was 47.8%. There were no new HIV infections and blood-borne infections detected among patients entering treatment. Many people reported with health improvement, with getting job and have social and family relationships. The rate of commiting crime before treatment was 44.3%, decreased to 4.3% among patients treated with methadone.

210

Page 85: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

ĐẶT VẤN ĐỀTừ trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện vào năm 1995 đến nay, dịch HIV đã trở nên phổ biến

và lan rộng tại 13/13 huyện, thành, thị và trên 76% số xã, phường của tỉnh Phú Thọ; dịch HIV không chỉ tập trung ở thành phố, thị xã mà đã phát triển nhanh ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Theo kết quả giám sát của Trung tâm phòng, chống HIV/AIDS Phú Thọ tính đến ngày 30/6/2013, lũy tích số người nhiễm HIV tại tỉnh là 4088 trường hợp, trong đó bệnh nhân AIDS là 1233 người và số người tử vong do AIDS là 784 người. Trong những năm gần đây, lây nhiễm HIV do tiêm chích ma túy ở mức trên 70% trong số các ca mới được phát hiện và tỷ lệ nhiễm HIV trên nhóm NCMT ở mức rất cao từ 15-20. Mặt khác, cũng như các tỉnh thuộc khu vực tây bắc bắc bộ, tình trạng nghiện chích ma túy là rất cao, số thống kê được là 2282 người, số ước tính khoảng 4000-5000 người. Vì vậy, Phú Thọ là địa phương có nguy cơ cao khả năng bùng phát dịch nếu không có các biện pháp can thiệp dự phòng hợp lý.

Phú Thọ đã và đang thực hiện tốt chương trình can thiệp giảm tác hại (CTGTH) nhằm làm giảm tỷ lệ nhiễm HIV và nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS trong cộng đồng, trong đó điều trị bằng thuốc Methadone là một biện pháp đang được quan tâm triển khai. Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone (gọi tắt là điều trị Methadone) là biện pháp CTGTH quan trọng, đồng thời cũng góp phần rất tích cực trong công tác phòng chống tội phạm liên quan đến ma túy. Điều trị Methadone có thể giúp người nghiện CDTP (heroin) giảm và ngừng sử dụng heroin, mang lại nhiều lợi ích về sức khỏe, hiệu quả về kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh trật tự.

Chương trình điều trị Methadone đã được các nước trên thế giới và trong khu vực thực hiện từ những năm 1960 của thế kỷ XX, hiện đã rất phổ biến và thống nhất đánh giá điều trị Methadone là biện pháp đạt được nhiều mục tiêu về y tế, xã hội. Ở Việt Nam, sau giai đoạn điều trị thử nghiệm tại thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh (2008-2011) đã đánh giá đây là biện pháp rất hiệu quả liên quan đến giảm người nghiện, giảm tái nghiện, giảm lây nhiễm HIV và giảm tội phạm và cần mở rộng để đảm bảo các lợi ích về sức khỏe và xã hội. Chương trình điều trị Methadone tại Phú Thọ đã được sự quan tâm, giúp đỡ của Bộ Y tế, các Tổ chức quốc tế và bắt đầu điều trị cho bệnh nhân từ tháng 9/2012 tại Trung tâm PC HIV/AIDS, phường Gia Cẩm, thành phố Việt Trì. Số lượng bệnh nhân đã được tư vấn, khám và điều trị tính đến ngày 31/6/2013 là 320 người, hiện đang điều trị hàng ngày tại cơ sở là 255 người. Sau một năm triển khai chương trình đã thu được các kết quả tích cực, góp phần quan trọng trong công tác phòng, chống dịch HIV, phòng chống tội phạm và đem lại lợi ích tích cực cho bệnh nhân, gia đình và xã hội. Nhằm sơ bộ đánh giá hiệu quả của chương trình điều trị Methadone một cách toàn diện về các mặt y tế, xã hội và đưa ra các khuyến nghị nhằm thực hiện tốt chương trình trong thời gian tiếp theo, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Kết quả điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Phú Thọ giai đoạn 2012-2013, nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨUĐối tượng nghiên cứu: Là tất cả các bệnh nhân đang điều trị nghiện CDTP bằng thuốc Methadone tại

cơ sở điều trị Methadone Thời gian, địa điểm nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu: bệnh nhân điều trị Methadone từ tháng 9/2012

đến 30/6/2013. Địa điểm: bệnh nhân điều trị tại Trung tâm PC HIV/AIDS tỉnh Phú Thọ.Phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu hồ sơ,

bệnh án.Cỡ mẫu và kỹ thuật chọn mẫu: Cỡ mẫu là tất cả bệnh nhân hiện đang được điều trị tại cơ sở

Methadone. Phương pháp lựa chọn đối tượng điều tra: Đây là điều tra mô tả cắt ngang, tại thời điểm nghiên cứu tiến hành điều tra toàn bộ bệnh nhân hiện đang được điều trị, bao gồm 255 bệnh nhân.

Công cụ thu thập số liệu: Thiết kế bộ câu hỏi phù hợp với mục tiêu nghiên cứu để phỏng vấn bệnh nhân và hồ sơ bệnh án bệnh nhân để hồi cứu kết quả xét nghiệm nước tiểu, xét nghiệm HIV và viêm gan B, C.

Xử lý số liệu: Bằng chương trình Epi-Info 2000, có sử dụng các thuật toán thồng kê ứng dụng trong y học.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨUĐặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu về giới, nhóm tuổi, trình độ văn hóa, tình trạng hôn

nhân và việc làmBảng 1: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu về giới, nhóm tuổi, trình độ văn hóa, tình trạng hôn

nhân và việc làm

TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

1Giới tính (n =255)

NamNữ

2514

98,41,6

2

Nhóm tuổi (n =255)< 20 tuổi

20-29 tuổi30-45 tuổi> 45 tuổi

058

17918

022,770,27,1

211

Page 86: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

3

Trình độ văn hóa (n =255)Không biết chữ

Tiểu họcTrung học cơ sở

Trung học phổ thôngTC, CĐ, ĐH

24055

14513

0,715,721,656,95,1

4

Tôn giáo (n =255)Thiên chúa

Đạo phật (thời ông bà)Khác

0255

0

0100,0

0

5

Tình trạng hôn nhân (n =255)Chưa kết hôn

Đã kết hôn và sống chungLy hônLy thân

391861515

15,372,95,95,9

6

Nghề nghiệp (n =255)Viên chứcCông nhânNông dân

Lao động tự do

193085

121

7,411,833,347,4

Bảng 1 cho thấy, đa số bệnh nhân điều trị Methadone ở Phú Thọ là nam chiếm tới 98,4%, chỉ có 1,6% là nữ giới. Kết quả này khá tương đồng so với một số nghiên cứu như ở Hải Phòng (97,9%), Đà Nẵng (94,5%).

Nhóm tuổi tham gia điều trị: Không có bệnh nhân dưới 20 tuổi, bệnh nhân tập trung vào nhóm 20-29 tuổi (22,7%), nhóm 30-45 tuổi (79,2%) và nhóm > 45 tuổi là 7,1%. Nhóm 20-29 tuổi được điều trị tại Phú Thọ có tỷ lệ thấp (22,7%) hơn so với các nghiên cứu khác như ở thành phố Đà Nẵng (52,2%), thành phố Hồ Chí Minh (45,8%).

Trình độ của nhóm nghiên cứu có trình độ từ trung học phổ thông trở lên là 62%, khá cao so với một số tỉnh như thành phố Đà Nẵng (53,2%), Hải Phòng 46,6%, là điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt công tác tư vấn, tuyên truyền thực hiện chương trình điều trị. Tuy nhiên, vẫn còn 0,7% số người không biêt chữ và trình độ chỉ ở mức tiểu học 15,7%.

Chỉ có 15,3% số người trong nghiên cứu là chưa lập gia đình và có đến 72,9 % là đã có gia đình, sống chung. Số đã lập gia đình và sống chung cao hơn hẳn các nghiên cứu của các địa phương, là điều kiện thuận lợi khi thực hiện điều trị vì gia đình chính là nguồn động viên, cũng là động lực để bệnh nhân tham gia và tuân thủ điều trị.

Số người làm có việc làm ổn định là công chức, công nhân, nông dân chiếm tỷ lệ khá cao 52,5%, khá thuận lợi cho việc điều trị và tuân thủ điều trị. 47,4% số người có nghề lao động tự do, không có nghề nghiệp ổn định. Đây là khó khăn chung, nhưng với người đã được điều trị Methadone thì rất cần có sự quan tâm của gia đình, xã hội trong việc tìm kiếm việc làm, vì ngoài mưu sinh ra, có việc làm sẽ làm cho họ có niềm tin, quyên đi sự mặc cảm và không nhớ, tìm đến ma túy như trong quá khứ.

Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu về tình trạng nghiện, cai nghiện, chi phí mua ma túy và các nguồn thông tin chương trình điều trị Methadone

Bảng 2: Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu về tình trạng nghiện, cai nghiện, chi phí mua ma túy và các nguồn thông tin chương trình điều trị Methadone

TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

1

Thời gian nghiện ma túy (n = 255)< 5 năm

5-10 năm> 10 năm

3215073

12,558,828,6

2Đã có vi phạm pháp luật trước điều trị Methadone (n = 320)

Có vi phạm và đã chịu cải tạo giam giữKhông vi phạm 142

17844,355,7

3

Số tiền sử dụng cho việc mua ma túy/1 ngày trước điều trị Methadone (n = 255)

< 500 000 đ500 000- 1000 000 đ

1 000 000- 2 000 000 đ> 2 000 000 đ

165433512

64,716,813,74,7

4

Tiền sử cai nghiện ma túy (n = 255)Cai và tự cai

Cai tại Trung tâm GDLĐXH (06)Khác

255840

100,032,7

0

212

Page 87: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

5

Nguồn thông tin biết về chương trình điều trị Methadone (n = 255)Cán bộ y tế

Cán bộ chính quyền và ban ngành cơ sởGia đìnhBạn bè

Ti viBáo chí, áp phích, tờ dơi

Đài truyền thanh

16031

1121551471546

67,812,743,960,857,65,9

18,4

6

Nhận xét của người bệnh về điều trị Methadone (n = 255)Rất tốt

TốtĐược, còn hạn chế, khó khăn

+ Do phải đi lại xa cơ sở điều trị+ Phiền hà với việc uống hàng ngày tại cơ sở

12786

2913

49,833,7

11,45,1

Bảng 2 cho thấy, tỷ lệ số người nghiện ma túy dưới 5 năm chỉ có 12,5%, số người nghiện từ 5 năm trở lên chiếm 87,4%.

Số người đã có vi phạm pháp luật trước điều trị Methadone và đã chịu cải tạo giam giữ là 44,3% gần tương đương một số nghiên cứu khác (40% ở Hải Phòng), tỷ lệ vi phạm pháp luật vẫn ở mức cao do người nghiện phải tìm mọi cách để có tiền mua ma túy hàng ngày kể cả việc vi phạm pháp luật, trong khi không có việc làm, không có thu nhập. Sau 9 tháng điều trị Methadone, tỷ lệ vi phạm pháp luật giảm chỉ còn 4,3% và tỷ lệ vi phạm cũng giảm dần theo thời gian (biểu đồ 2).

Số tiền trung bình dùng để mua ma túy hàng ngày/1 người: < 500 00 đ là 64,7%; từ 500 000-1 000 000 đ là 16,8%; từ 1 000 000-2 000 000 đ là 13,7% và trên 2 000 000 đ là 4,7%.

100% số người được điều trị Methadone trước đây đã có nhận thức về tác hại của nghiện ma túy và cố gắng cai bằng các phương pháp khác nhau và tự cai nhưng không thành công. Số người đã cai nghiện tại Trung tâm GDLĐXH trước khi dến cơ sở điều trị Methadone chiếm 32,7% số bệnh nhân, thấp hơn một số địa phượng như thành phố Đà Nẵng (79,1%).

Thông tin biết về điều trị bằng Methadone bằng nhiều nguồn khác nhau và đều chiếm tỷ lệ cao: từ cán bộ y tế 67,8%; từ gia đình 43,9%; từ bạn bè 60,8%; từ TV 57,6%... thể hiện công tác tuyên truyền, tư vấn, sự đồng thuận cao của các cấp các ngành trong việc triển khai chương trình tại địa phương.

Nhận xét chung của nhóm được điều tra nghiên cứu về Methadone là tốt và rất tốt chiếm tỷ lệ 83,5%; nhận xét là được nhưng còn khó khăn cản trở về các vấn đề như phải đi lại xa cơ sở điều trị 11,4% và phiền hà khi phải hàng ngày đến uống thuốc tại cơ sở là 5,1%.

Tình trạng bệnh tật của bệnh nhân trước và trong quá trình điều trị MethadoneBảng 3: Tình trạng bệnh tật của bệnh nhân trước và trong quá trình điều trị Methadone

TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

1

Tình trạng nhiễm HIV/AIDS (n = 255)Trước điều trị Methadone

Sau điều trị 6 tháng (n = 128)Sau điều trị 9 tháng (n = 81)

3300

12,900

2

Tình trạng nhiễm viên gan BTrước điều trị Methadone

Sau điều trị 6 thángSau điều trị 9 tháng

1300

5,100

3

Tình trạng nhiễm viêm gan CTrước điều trị Methadone

Sau điều trị 6 thángSau điều trị 9 tháng

11200

47,800

4Cải thiện sức khỏe sau điều trị

Có cải thiện (tăng cân, thoải mái tư tưởng)Không cải thiện

22827

89,410,6

5Cải thiện quan hệ với gia đình, xã hội

Có cải thiệnKhông cải thiện

23718

92,97,1

Bảng 3 cho thấy 12,9% số bệnh nhân trước khi điều trị Methadone bị nhiễm HIV, tỷ lệ nhiễm cao hơn ở Thành phố Đà Nẵng (4,1%), nhưng thấp hơn thành phố Hải Phòng (27,3%).

5,1% nhiễm viêm gan siêu vi B, tỷ lệ nhiễm thấp hơn các điều tra khác như thành phố Đà Nẵng (14,5%), thành phố Hải Phòng (14,6%).

47,8% nhiễm viêm gan siêu vi C, tỷ lệ nhiễm cao hơn thành phố Hải Phòng (44,1%), nhưng thấp hơn thành phố Đà Nẵng (60%) và thành phố Hồ Chí Minh (71,5%). Sau gần một năm tổ chức điều trị Methadone,

213

Page 88: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

chưa phát hiện các ca nhiễm mới HIV, viêm gan siêu vi B, C trong số các bệnh nhân đang điều trị.Các vấn đề về cải thiện sau điều trị về sức khỏe và quan hệ xã hội của bệnh nhân với gia đình, xã hội và

ngược lại đều rất tốt, chiếm tỷ lệ từ 89,4% đến 94,9%. 10,6% số bệnh nhân không có cải thiện về sức khỏe do mắc các bệnh mãn tính, nguy hiểm khó hồi phục như AIDS giai đoạn cuối, viêm gan nặng.

Tình trạng bệnh tật của bệnh nhân trước và trong quá trình điều trị Bảng 4: Tình trạng sử dụng Heroin trước và sau điều trị Methadone

TT Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)

1Tình trạng sử dụng Heroin trước điều trị Methadone (n = 255)

Có sử dụngKhông sử dụng

2550

100,00

2

Tình trạng sử dụng Heroin trong khi đang điều trị Methadone (xét nghiệm có Heroin + trong nước tiểu)

Sau 3 tháng điều trị (n = 42)Sau 6 tháng điều trị (n = 86)Sau 9 tháng điều trị (n = 81)

111612

26,218,614,8

0

20

40

60

80

100

120

Trước điều trị sau 3 tháng sau 6 tháng sau 9 tháng

Biều đồ 1: Tỷ lệ bệnh nhân còn sử dụng Heroin theo thời gian

0.61.22.5

44.3

0

5

10

15

20

25

30

35

40

45

50

Trước điều trị sau 3 tháng sau 6 tháng sau 9 tháng

Biều đồ 2: Tỉ lệ bệnh nhân vi phạm pháp luật theo thời gian

Bảng 4 cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân còn sử dụng lại Heroin đã giảm rõ rệt từ 100% trước điều trị xuống còn 26,2% sau 3 tháng, 18,6% sau 6 tháng và 14,8% sau 9 tháng (biểu đồ 1).

Phân tích tình trạng sử dụng heroin trong nhóm bệnh nhân còn sử dụng lại heroin, cho thấy, bệnh nhân không chỉ giảm về hành vi sử dụng heroin, mà còn giảm cả về tần xuất, liều lượng: số bệnh nhân còn sử dụng heroin, trước điều trị, hầu hết các bệnh nhân này đều sử dụng heroin với tần xuất rất cao 4-10 lần/ngày, tuy nhiên, sau 6 tháng điều trị, tần xuất sử dụng chỉ còn từ 1-2 lần/một tháng và liều lượng giảm nhiều.

BÀN LUẬNĐặc điểm bệnh nhân điều trị nghiện chất dạng thuốc phiện bằng thuốc Methadone tại Phú Thọ, có đến

87,4% đã có tiền sử nghiện trên 5 năm; 44,3% vi phạm pháp luật và có 32,7% đã cai nghiện ma túy tại các Trung tâm GDLĐXH trước điều trị Methadone. Nhưng khi được điều trị Methadone, số bệnh nhân còn sử dụng Heroin giảm dần theo thời gian điều trị cả về số lần sử dụng và liều lượng từ 100% xuống 14,8% và

214

Page 89: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

phạm pháp liên quan đến ma túy cũng giảm mạnh từ 44,3% trước điều trị xuống 0,6% sau 9 tháng điều trị, vì vậy, đây là biện pháp điều trị rất cần được mở rộng và cần tạo các điều kiện thuận lợi cho nhân dân tiếp cận, sử dụng dịch vụ nhằm phòng chống đại dịch HIV và tội phạm liên quan đến ma túy.

100% bệnh nhân đánh giá việc điều trị Methadone có hiệu quả trong việc giảm và ngừng sử dụng Heroin, tuy nhiên, khó khănn cản trở về các vấn đề như đi lại xa, uống thuốc hằng ngày tại cơ sở, vì vậy, trong tương lai cũng rất cần các mô hình cung cấp dịch vụ thuận lợi cho người dân như mở rộng các địa điểm cung cấp thuốc hoặc cung cấp thuốc cho bệnh nhân trong vòng 10 ngày để tạo điều kiện chop bệnh nhân vừa điều trị vừa có điền kiện lao động, công ăn việc làm và tiets kiệm chi phí đi lại cho bệnh nhân.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊKết luậnĐặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu, có 98,4% đối tượng tham gia nghiên cứu là nam giới, 22,7%

nằm trong nhóm tuổi từ 20-30 tuổi, 70,2% nhóm tuổi từ 30-45 tuổi. 77,5% có trình độ văn hóa từ trung học phổ thông trở lên. 72,9% đã kết hôn và sống chung, số chưa kết hôn chiếm tỷ lệ 15,3%.

Có đến 87,4% số người điều trị Methadone đã nghiện ma túy từ 5 năm trở lên; 12,9% nhiễm HIV, 5,1% nhiễm viêm gan siêu vi B và 47,8% nhiễm viêm gan siêu vi C. 64,7% số người chi phí mua ma túy dưới 500 000 đ và 35,3% chi trên 500 000 đ trong một ngày; 32,7% bệnh nhân đã cai tại Trung tâm GDLĐXH 06 trước khi đến điều trị tại cơ sở Methadone. 83,5% số bênh nhân đánh giá điều trị bằng Methadone rất tốt và tốt, chỉ có 16,5% đánh giá là được do còn khó khăn vì phải đi lại xa và phiền hà với việc uống thuốc hàng ngày tại cơ sở.

Hiệu quả của điều trị Methadone đối với bệnh nhân: 89,4% bệnh nhân sau điều trị có cải thiện sức khỏe về thể chất, tâm thần: Tăng cân, ăn ngủ tốt, thoải mái về tinh thần, tự tin và có cải thiện quan hệ với gia đình và xã hội. Tỷ lệ bệnh nhân sử dụng heroin giảm từ 100% trước khi tham gia điều trị xuống còn 26,2% sau 3 tháng, 18,6% sau 6 tháng và 14,8% sau 9 tháng. Không phát hiện nhiễm mới HIV và các bệnh lây truyền qua đường máu trong số các bệnh nhân tham gia điều trị. Chất lượng cuộc sống của bản thân và gia đình bệnh nhân có cải thiện đáng kể, nhiều người đã có việc làm ổn định, góp phần hòa nhập gia đình, xã hội. Số người đã có vi phạm pháp luật trước khi vào điều trị Methadone (đã chịu cải tạo giam giữ) là 44,3%, sau 9 tháng điều trị tỷ lệ vi phạm pháp luật giảm chỉ còn 4,3%.

Khuyến nghịĐối với cấp Trung ương: Tiếp tục ban hành và điều chỉnh các văn bản pháp quy để thực hiện chương

trình điều trị Methadone, huy động các nguồn kinh phí để từng bước xã hội hóa dịch vụ, tạo điều kiện cho nhân dân tiếp cận dịch vụ thuận lợi, tiếp cận cộng đồng. Đề xuất thử nghiệm cấp thuốc Methadone 10 ngày/1 lần cho những người đã duy trì liều ổn định, chấp hành tốt quy định điều trị và có sự giám sát của gia đình.

Đảm bảo nguồn thuốc ổn định, nghiên cứu bổ xung việc quản lý và cấp phát thuốc Methadone đúng quy định.

Đối với cấp tỉnh: Mở mới các cơ sở điều trị và các điểm cấp phát thuốc, cụ thể hóa lộ trình điều trị bằng thuốc Methadone đến năm 2015.

Cần triển khai các nghiên cứu bổ xung để tiếp tục đánh giá hiệu quả can thiệp của chương trình, các khó khăn, rào cản trong việc tiếp cận chương trình của cộng đồng nhằm đề xuất các biện pháp mở rộng chương trình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Bộ Y tế, 2011, Báo cáo tổng kết công tác điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng

thuốc Methadone.2. Bộ Y tế, 2010, Đánh giá hiêu quả triển khai thí điểm chương trình điều trị nghiện các chất dạng thuốc

phiện bằng thuốc Methadone tại Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.3. Truyền nhiễm Việt Nam, số 01-2013, trg 48-52, Khảo sát tình hình bệnh nhân điều trị thay thê các chất

dạng thuốc phiện bằng Methadone tại thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2010-2012.4. Huỳnh Nguyễn Thị và CS, Hiệu quả của Methadone trong sức khỏe tâm thần, chất lượng cuộc sống

và hòa nhập cộng đồng của người tiêm chích ma túy tại Việt Nam, Y học thực hành số 781/2011, Bộ Y tế 2011, trg 364-365.

5. Tỉnh ủy Phú Thọ, 2013, Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị số 21-CT/TW ngày 26/3/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống và kiểm soát ma túy trong tình hình mới.

215

Page 90: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH VỀ PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS TRONG NHÓM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY

TẠI HUYỆN TAM KỲ VÀ THÀNH PHỐTHĂNG BÌNH TỈNH QUẢNG NAM NĂM 2011

1 Trần Văn Kiệm, 1 Đặng Văn Hải, 1 Chế Thị Việt Hoa, 1 Trần Văn Vũ, 1Cao Minh Thông, 1 Nguyễn Thị Thanh Hàng, 2Phan Thị Thu Hương, 2Nguyễn Văn Hùng và cs

1Trung tâm Phòng, chống HIV/AIDS Quảng Nam. 2Cục Phòng, chống HIV/AIDS

TÓM TẮTĐiều tra cắt ngang được tiến hành trên 220 người nam nghiện chích ma túy tại huyện Tam Kỳ và thành

phố Thăng Bình tỉnh Quảng Nam từ tháng 9 - 12/2011 Kết quả cho thấy, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm này là 6,8%. Có 96,8% người NCMT đã nghe nói về HIV/AIDS, trong đó có 89,2% biết HIV có thể lây truyền do dùng chung BKT; 83,6% biết có thể lây qua quan hệ tình dục (QHTD) không an toàn. Tỷ lệ dùng chung BKT còn khá phổ biến, tỷ lệ này trong 6 tháng qua là 33,2%. Tỷ lệ dùng lại bơm kim tiêm (BKT) đã sử dụng trong vòng 1 tháng qua là 23,5% và tỷ lệ đưa BKT đã dùng cho người khác sử dụng là 23,7%. Có 21,2% người NCMT nhiễm HIV(+) pha chung thuốc khi tiêm, 36,4% pha chung dung dịch tiêm chích trong 1 tháng qua. Tỷ lệ người NCMT sử dụng BCS khi QHTD là 29,3% với bạn tình thường xuyên (BTTX); 27,5% với bạn tình bất chợt (BTBC) và 77,9% với phụ nữ bán dâm (PNBD).

SUMMARY A cross-sectional study carried out among 220 injection male drug users (IDU) at Tam Kỳ district and

Thang Binh city, Quang Nam province from September to December 2011. The resuls show that the rate of HIV sero-positive was 6.8%. There were 96.8% of injection drug users who heard about HIV/AIDS, in which there were 89.2% who knew HIV transmittable by sharing syringes and needles; 83.6% who knew HIV transmittable by having unsafe sex. However, the rate of sharing syringes and needles was very common, which was 33.2% in the last 6 months. The rate of reuse of used syringes and needles during last month was 23.5% and the rate of handing used syringes and needles to other people was 23.7%. There were 21.2% of injection drug users with HIV sero-positive who share the same solution of drug, the rate of sharing the same solution of drug was 36.4% during last month. The rate of injection drug users who used condoms having sexual intercourses with regular partners was 29.3%, with casual partners was 27.5% and with sex workers was 77.9%.

ĐẶT VẤN ĐỀĐại dịch HIV/AIDS được biết đến từ đầu những năm 80 của thế kỷ trước và tính đến nay đã hơn 30 năm,

cả thế giới đã và đang đương đầu với đại dịch này. Theo nhận định của UNAIDS, HIV/AIDS vẫn tiếp tục gia tăng và tàn phá nặng nề trên khắp các châu lục. Ở Việt Nam, đường lây truyền HIV chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là đường máu mà chủ yếu tập trung ở những người nghiện chích ma túy. Những người nghiện chích ma tuý bị nhiễm HIV không chỉ lây nhiễm cho những người nghiện chích ma tuý khác mà còn có thể lây nhiễm cho bạn tình của họ qua quan hệ tình dục. Bởi vậy, sự lây truyền HIV từ nhóm nghiện chích ma tuý ra cộng đồng đang trở thành mối đe doạ tiềm ẩn. Và nỗ lực phòng, chống lây nhiễm HIV trong nhóm nghiện chích ma tuý có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ngăn chặn đại dịch này.

Mục tiêu nghiên cứu:- Mô tả thực trạng kiến thức, thái độ, thực hành về HIV/AIDS ở nhóm nghiện chích ma túy tại huyện Tam

kỳ và thành phố Thăng bình tỉnh Quảng Nam.- Phân tích một số yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV ở nhóm nghiện chích ma túy tại huyện Tam kỳ và thành

phố Thăng bình tỉnh Quảng Nam.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP1. Đối tượng nghiên cứu: Là những người nam nghiện chích ma túy từ 18 tuổi trở lên. 2. Phương pháp

nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang.2. Cỡ mẫu:Cỡ mẫu nghiên cứu: 220 đối tượng.Cách chọn mẫu: - Bước thứ nhất: chọn có chủ định huyện Tam Kỳ và thành phố Thăng Bình, tỉnh Quảng nam nơi có số

người NCMT và số nhiễm HIV cao.- Bước thứ hai: Dùng phương pháp chọn mẫu cụm.Lập bản đồ địa dư và xã hội có liên quan đến người nghiện chích ma túy, lên danh sách tất cả tụ điểm

tiêm chích ma túy tại 2 huyện nghiên cứu. Bốc thăm ngẫu nhiên số tụ điểm (cụm) để điều tra và lấy mẫu cho đến khi đủ số mẫu nghiên cứu.

3. Xử lý số liệu: Phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm EPI-INFO và excel.KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

216

Page 91: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

1. Thực trạng về kiến thức, thái độ, thực hành về phòng, chống HIV/AIDS của nhóm NCMT tại 2 huyện, thành phố tỉnh Quảng Nam

Bảng 1. Kiến thức, về HIV/AIDS của nam NCMT

Đặc điểm n Tỷ lệ (%)

Nghe nói về HIV CóKhông

220213

796,83,2

Hiểu đúng cách phòng ngừa nhiễm HIV

QHTD chung thủy với một bạn tình Luôn dùng BCS khi QHTDKhông dùng chung BKT

Không QHTDLuôn dùng BCS đúng cách khi QHTD qua hậu môn

21318717819055

143

87,883,689,225,767,1

Hiểu sai đường lây truyền Muỗi đốt có thể lây truyền HIVĂn chung với người nhiễm HIV có thể bị lây HIVSử dụng nhà vệ sinh công cộng có thể bị lây HIV

21332169

15,07,74,4

Quan niệm sai lầm Nhìn bề ngoài một người biết được tình trạng nhiễm HIVMột người trông khỏe mạnh thì không thể nhiễm HIV

2139233

43,115,3

Nhận xét: Đa số những người NCMT đã từng nghe nói đến HIV/AIDS (96,8%) nhưng chỉ khoảng 1/2 là có kiến thức cần thiết về HIV. Tỷ lệ biết cách phòng ngừa nhiễm HIV bằng cách không dùng chung BKT rất cao (89,2%), kế đến là QHTD chung thủy với một bạn tình 87,8%; luôn sử dụng BCS khi QHTD 83,6%. Tuy nhiên, điểm nổi bật về kiến thức của đối tượng trong nghiên cứu này là vẫn còn một số lượng lớn những người hiểu sai về các đường không làm lây truyền HIV như muỗi đốt (15%), ăn chung với người nhiễm (7,7%), sử dụng chung nhà vệ sinh công cộng (4,4%); đặc biệt là còn khá nhiều quan niệm sai lầm rằng nhìn một người bên ngoài khỏe mạnh thì người đó không bị nhiễm HIV (43,1%).

33,2%

23,5% 23,7%

0%5%

10%15%20%25%30%35%

Dï ng chung BKTtrong vßng 6

th ng

Dï ng BKT ®· södông trong vßng 1

th ng

§ a BKT ®· dï ngcho ng êi kh ctrong 1 th ng

Biểu đồ 1. Tỷ lệ người NCMT dùng chung BKT trong vòng 1 tháng và 6 tháng trước cuộc điều tra

Nhận xét: Biểu đồ trên cho thấy tỷ lệ sử dụng chung BKT trong những người NCMT vào năm 2011 tại Quảng Nam với hai khung thời gian đo lường: 6 tháng và 1 tháng trước cuộc điều tra. Dùng chung BKT còn tương đối phổ biến: tỷ lệ người NCMT dùng chung BKT trong khoảng thời gian 6 tháng trước cuộc điều tra tại Quảng Nam chiếm 33,2%. Tỷ lệ dùng lại BKT đã sử dụng trong vòng 1 tháng qua là 23,5%; tỷ lệ đưa BKT đã dùng cho người khác sử dụng trong vòng 1 tháng qua là 23,7%.

Bảng 2. Địa điểm mà người NCMT thường nhận hoặc mua được BKT sạch trong 6 tháng qua (n=220)

Địa điểm Số lượng Tỷ lệ %Hiệu thuốc 205 93,2

Tại cơ sở Y tế 12 5,5Người bán ma túy 15 6,8

Bạn cùng tiêm chích 17 7,7CB y tế 67 30,1

Đồng đẳng viên 98 46,4

Kết quả cho thấy có tới 93,2% người NCMT nhận hoặc mua được BKT sạch tại các cửa hàng dược; 46,4% nhận được BKT từ các đồng đẳng viên; 30,1% nhận được BKT từ cán bộ y tế; 7,7% nhận được từ bạn cùng tiêm chích; 6,8% nhận được từ người bán ma túy; 5,5% nhận được tại các cơ sở y tế. Ngoài ra một tỷ lệ thấp (chiếm 2,7%) nhận được BKT sạch từ chợ hoặc các cửa hàng bán rong trên phố, bạn tình...

Bảng 3. Mức độ sử dụng BCS khi QHTD trong vòng 12 tháng qua

217

Page 92: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

Sử dụng bao cao suThường xuyên Không thường xuyên

Số lượng Tỷ lệ % Số lượng Tỷ lệ %Bạn tình thường xuyên (n=175) 51 29,3 124 70,7

Bạn tình bất chợt (n=92) 25 27,5 67 72,5Phụ nữ mại dâm (n=65) 51 77,9 14 22,1

Nhận xét: Có 29,3% người trả lời là thường xuyên sử dụng BCS khi QHTD với bạn tình thường xuyên; 27,5% với bạn tình bất chợt và 77,9% với phụ nữ mại dâm. Vẫn còn tỉ lệ khá cao người NCMT không dùng bao cao su hoặc thỉnh thoảng mới dùng khi QHTD. Tỷ lệ này là 70,7% với bạn tình thường xuyên; 72,5% với bạn tình bất chợt và 22,1% với phụ nữ mại dâm. Đây là vấn đề cần phải lưu ý để sớm có những giải pháp can thiệp phù hợp nhằm làm giảm nguy cơ lây nhiễm trong quần thể và ra cộng đồng.

2. Một số yếu tố nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm NCMTBảng 4. Kết quả xét nghiệm HIV của đối tượng nghiên cứu (n = 220)

Nội dung Số lượng %Đồng ý lấy máu xét nghiệm 220 100,0

Kết quả xét nghiệm HIV dương tính 15 6,8

Nhận xét: Tỷ lệ người NCMT được phỏng vấn và đồng ý lấy máu làm xét nghiệm HIV là 100%, trong đó kết quả xét nghiệm HIV dương tính chiếm tỷ lệ là 6,8%. Tỷ lệ này thấp hơn tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT toàn quốc (chiếm 17,5%) nhưng cao hơn so khu vực miền Trung (chiếm 5,2%).

43,8

4,6

14,38,0

36,4

3,1

21,218,9

0%5%

10%15%20%25%30%35%40%45%50%

Hµnh vi nguy c¬ HIV (+)BKT n¹p s½n § Êu ®Çu kimChung DD TC Pha chung thuèc

Biểu đồ 2. Nguy cơ lây nhiễm HIV do pha chung thuốc, dung dịch TCMT,đấu đầu kim và sử dụng BKT nạp thuốc sẵn

Nhận xét: Có 21,2% người NCMT nhiễm HIV(+) có pha chung thuốc; 36,4% dùng chung dung dịch tiêm chích; 14,3% đấu đầu kim để chia thuốc và 43,8% sử dụng BKT đã nạp thuốc sẵn để tiêm chích ma túy.

Bảng 5. Nguy cơ lây nhiễm HIV liên quan đến QHTD với PNMD không sử dụng BCS

Yếu tố nguy cơHIV(+) HIV(-) Tổng cộng

SL % SL % SL %Không thường xuyên sử dụng BCS 2 10,5 17 89,5 19 100,0

Thường xuyên, hầu hết các lần sử dụng BCS 3 6,5 43 93,5 46 100,0Tổng 5 60 65

p < 0,05

Trong 5 người NCMT nhiễm HIV có 2 người không bao giờ sử dụng BCS khi QHTD với PNMD. Đây là nguồn lây truyền HIV quan trọng, gia tăng tốc độ lây lan và không gian truyền bệnh không chỉ trong nhóm quần thể có hành vi nguy cơ cao mà còn cho cả cộng đồng dân cư.

KẾT LUẬN1. Kiến thức, thái độ, thực hành của nhóm NCMT tại 2 huyện/thành phố tỉnh Quảng Nam

218

Page 93: ĐẶT VẤN ĐỀthuvien.vaac.gov.vn/bitstream/VAAC_360/114/6/Bai 29 … · Web viewNghiên cứu chúng tôi khác Jewkes R, Dunkle K, Nduna M, Levin J và cộng sự (2006), “Các

- Có 96,8% người NCMT đã nghe về HIV/AIDS, trong đó có 89,2% biết HIV có thể lây qua dùng chung BKT; 83,6% biết HIV có thể lây qua QHTD không được bảo vệ.

- Thực hành về phòng chống HIV/AIDS: Tỷ lệ dùng chung BKT khi tiêm chích ma túy trong 6 tháng qua là 33,2%

- Tỷ lệ NCMT dùng lại BKT đã qua sử dụng trong 1 tháng qua là 23,5% và đưa BKT đã sử dụng cho người khác dùng là 23,7%.

- 93,2% người NCMT mua, hoặc nhận được BKT sạch tại các hiệu thuốc; 46,4% từ các đồng đẳng viên; 30,1 % từ các cơ sở y tế...

- Sử dụng BCS khi QHTD: 29,3% với BTTX; 27,5% khi QHTD với BTBC và 77,9% với PNMD. 2. Một số yếu tố nguy cơ nhiễm HIV trong nhóm NCMT- Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT tại Quảng Nam là 6,8%.- Có 21,2% người NCMT nhiễm HIV(+) pha chung thuốc khi tiêm chích; 36,4% pha chung dung dịch tiêm

chích; 14,3% đấu đầu kim và 43,8% sử dụng BKT nạp sẵn.- Tỷ lệ nhiễm HIV của Đối tượng NCMT sử dụng BCS thường xuyên khi QHTD với PNMD trong 6 tháng

qua là 6,5%; trong khi đó ở nhóm không thường xuyên sử dụng BCS là 10,5%.KHUYẾN NGHỊTăng cường giáo dục, truyền thông phòng, chống HIV/AIDS cho đối tượng NCMT nói riêng và người dân

tỉnh Quảng Nam nói chung.Đẩy mạnh chương trình can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV như: Chương trình BKT và chương trình

BCS.Tăng cường hoạt động của nhóm đồng đẳng viên TCMT tại hai địa bàn nghiên cứu.TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Cục Phòng, chống HIV/AIDS - Bộ Y tế (2010), Báo cáo công tác phòng, chống HIV/AIDS năm 2010, kế

hoạch hoạt động năm 2011.2. Phạm Thị Đào (2010), ”Nghiên cứu tình hình nhiễm HIV của các học viên NCMT tại Trung tâm Giáo

dục dạy nghề 05-06 Thành phố Đà Nẵng”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, trang 87 - 91.

3. Nguyễn Thanh Long, Trịnh Hữu Vách và cs, (2009), ”Nghiên cứu kiến thức, thái độ và hành vi liên quan đến HIV/AIDS của người NCMT tại 7 tỉnh/thành phố Việt Nam sau 5 năm triển khai hoạt động can thiệp”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, trang 171 - 179.

4. Trương Tấn Minh, Trần Văn Tin và cộng sự (2009), ”Điều tra kiến thức, thái độ, hành vi về phòng, chống nhiễm HIV/AIDS và đánh giá tỷ lệ nhiễm HIV/AIDS trên nhóm NCMT tại Khánh Hòa”, Kỷ yếu các công trình nghiên cứu khoa học về HIV/AIDS giai đoạn 2006-2010, trang 72 - 79.

5. General Statistics Office, National Institute of Hygiene and Epidemiology, and Measure DHS - ORC Macro (2006), Vietnam Population and AIDS indicator Survey 2005.

6. UNAIDS (2010), AIDS epidemic update, December, pp 17 - 42.

219