tài liệu tư tưởng hồ chí minh trường Đại học sư phạm tphcm

8
Trang 1 Trong phn định nghĩa tư tưởng HChí Minh có đon viết: “Tư tưởng HChí Minh… là kết quca svn dng sáng to và phát trin chnghĩa Mác – Lênin vào điu kin cthnước ta”. Hãy phân tích và chng minh lun đim nói trên. Tư tưởng HChí Minh là mt hthng quan đim toàn din và sâu sc vnhng vn đề cơ bn ca cách mng Vit Nam. Trong hthng quan đim đó có nhiu lun đim hết sc sáng to, thhin svn dng và phát trin sáng to chnghĩa Mác Lênin vào hoàn cnh cthnước ta. Nhng quan đim sáng to ca HChí Minh rt phong phú, đa dng, bao quát nhiu mt, nhiu lĩnh vc, đã được thc tin cách mng Vit Nam chng minh tính đúng đắn và giá trto ln. Nhđứng vng trên quan đim ca chnghĩa Mác - Lênin, xut phát tnhu cu, đặc đim ca các nước thuc địa nói chung và Vit Nam nói riêng để tiếp thu và vn dng chnghĩa Mác - Lênin, HChí Minh cũng đã tiếp thu, bo vvà phát trin sáng to bng nhng lun đim mi mà thi mình Lênin chưa có điu kin khám phá. Mt trong nhng lun đim hết sc sáng to đã góp phn làm phong phú kho tàng lý lun chnghĩa Mác - Lênin, đó là lun đim: Cách mng gii phóng dân tc cn tiến hành chđộng, sáng to và có khnăng giành thng li trước cách mng vô sn chính quc. Vn dng công thc ca C. Mác: “Sgii phóng ca giai cp công nhân phi là snghip ca bn thân giai cp công nhân”, Người đi đến lun đim: “Công cuc gii phóng anh em (tc nhân dân thuc địa – TG) chcó ththc hin được bng snlc ca bn thân anh em”. Quan đim ca Lênin khi cho rng: “Giai cp vô sn thuc địa có khnăng tgii phóng nếu có sgiúp đỡ ca giai cp vô sn chính quc”, Người đi đến lun đim: “Cách mng thuc địa có tính độc lp tương đối ca nó và cách mng thuc địa là mt trong nhng cái cánh ca cách mng vô sn”. Cách mng gii phóng dân tc thuc địa phi phthuc vào cách mng vô sn chính quc. Khi cách mng vô sn chính quc thành công thì cách mng vô sn thuc địa mi thành công. HChí Minh cho rng, cách mng gii phóng dân tc thuc địa và cách mng vô sn chính quc có mi quan hmt thiết vi nhau và là quan hbình đẳng chkhông phi quan hchính ph, lthuc. Các mng gii phóng dân tc thuc địa có tính chđộng và có thtnra khi thi cơ đến. HChí Minh nhn thy rng chnghĩa dân tc là truyn thng lâu đời ca các dân tc thuc địa. Nó to ra sc mnh khng lđể các dân tc thuc địa đấu tranh chng li mi ách xâm lăng. Khi nghiên cu vchnghĩa tư bn, vthuc địa, HChí Minh đã phát hin ra rng: “tt csinh lc ca chnghĩa tư bn quc tế đều ly các xthuc địa. Đó là nơi chnghĩa tư bn ly nguyên liu cho các nhà máy ca nó, nơi nó đầu tư, tiêu thhàng, mnhân công rmt cho đạo quân lao động ca nó, và nht là tuyn nhng binh lính bn xcho các đạo quân phn cách mng ca nó” và “nc độc và sc sng ca con rn độc tư bn chnghĩa đang tp trung các thuc địa hơn là chính quc”, nó gieo rc nhng chính sách áp bc, bóc lt vô cùng thâm độc lên nhân dân thuc địa, mà theo quy lut chung thì “đâu có áp bc, đó có đấu tranh”, ách áp bc càng nng, tinh thn đấu tranh càng cao. So vi nhân dân lao động chính quc, nhân dân lao động thuc địa bbóc lt nng nhơn, báp bc tàn nhn hơn. Vì thế, khi thi cơ cách mng đến, cách mng thuc địa

Upload: lee-ein

Post on 29-Nov-2014

4.411 views

Category:

Documents


4 download

DESCRIPTION

 

TRANSCRIPT

Page 1: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 1

Trong phần định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh có đoạn viết: “Tư tưởng Hồ Chí Minh… là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta”. Hãy phân tích và chứng minh luận điểm nói trên.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm đó có nhiều luận điểm hết sức sáng tạo, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn và giá trị to lớn.

Nhờ đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng để tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cũng đã tiếp thu, bảo vệ và phát triển sáng tạo bằng những luận điểm mới mà ở thời mình Lênin chưa có điều kiện khám phá. Một trong những luận điểm hết sức sáng tạo đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Vận dụng công thức của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa – TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”.

Quan điểm của Lênin khi cho rằng: “Giai cấp vô sản ở thuộc địa có khả năng tự giải phóng nếu có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở chính quốc”, Người đi đến luận điểm: “Cách mạng thuộc địa có tính độc lập tương đối của nó và cách mạng thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.

Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Khi cách mạng vô sản ở chính quốc thành công thì cách mạng vô sản ở thuộc địa mới thành công. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau và là quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ chính phụ, lệ thuộc. Các mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có tính chủ động và có thể tự nổ ra khi thời cơ đến.

Hồ Chí Minh nhận thấy rằng chủ nghĩa dân tộc là truyền thống lâu đời của các dân tộc thuộc địa. Nó tạo ra sức mạnh khổng lồ để các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống lại mọi ách xâm lăng.

Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, về thuộc địa, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra rằng: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó” và “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”, nó gieo rắc những chính sách áp bức, bóc lột vô cùng thâm độc lên nhân dân thuộc địa, mà theo quy luật chung thì “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, ách áp bức càng nặng, tinh thần đấu tranh càng cao.

So với nhân dân lao động ở chính quốc, nhân dân lao động ở thuộc địa bị bóc lột nặng nề hơn, bị áp bức tàn nhẫn hơn. Vì thế, khi thời cơ cách mạng đến, cách mạng thuộc địa

Page 2: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 2

không thể ngồi yên trông chờ sự giúp đỡ của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà nhân dân thuộc địa phải chủ động “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà nó còn có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước. Đây là một quan điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến rất to lớn vào kho tàng lý luận Mác – Lênin, đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn qua thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Theo chủ nghĩa Mác – Lênin thì Đảng cộng sản là sản phẩm của chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân. Tuy nhiên, quan điểm của Hồ Chí Minh cho rằng: “Đảng Cộng sản cViệt Nam là sản phẩm kết hợp Chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam”.

Chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam “không những là cái cẩm nang thần kỳ, là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi đến chủ nghĩa xã hội”. Với ý nghĩa đó, chủ nghĩa Mác – Lênin trở thành cơ sở lý luận dẫn đường cho cách mạng Việt Nam.

Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao vai trò của cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam trong tiến trình cách mạng. Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở lý luận của phong trào công nhân là cơ sở thực tiễn kiểm nghiệm chủ nghĩa Mác – Lênin

Ngoài ra, Hồ Chí Minh đã nhận thấy vai trò to lớn của phong trào yêu nước của các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam. Do đó, Người đã thêm yếu tố phong trào yêu nước vào thành cơ sở thực tiễn thứ hai cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy với việc nhận thấy vai trò của phong trào yêu nước và đưa nó vào thành một trong ba nhân tố kết hợp cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, quan điểm của Hồ Chí Minh được đánh giá có ý nghĩa sáng tạo, góp phần bổ sung là phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Có thể thấy hệ thống quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một sự sao chép mà là kết quả của “sự vận dụng sáng tạo và phát triển” chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta.

Page 3: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 3

Trình bày một quan điểm sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong hệ thống quan điểm đó có nhiều luận điểm hết sức sáng tạo, thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta. Những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng, bao quát nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam chứng minh tính đúng đắn và giá trị to lớn. Một trong những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, đó là quan điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần phải chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Như chúng ta đã biết, Mác - Ăngghen là những người đã sáng lập ra học thuyết cách mạng và khoa học của giai cấp vô sản. Nếu như ở giai đoạn trước, Mác - Ăngghen chưa quan tâm nhiều đến cách mạng giải phóng dân tộc, thì ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, Lênin chú ý nhiều đến vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng giải phóng dân tộc. Lênin nhận ra vai trò to lớn của hệ thống thuộc địa thế giới trong việc nuôi sống và duy trì chủ nghĩa tư bản, tiềm năng cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa, từ đó đi đến khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, của toàn bộ quá trình cách mạng thế giới nói chung.

Nhờ đứng vững trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xuất phát từ nhu cầu, đặc điểm của các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng để tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh cũng đã tiếp thu, bảo vệ và phát triển sáng tạo bằng những luận điểm mới mà ở thời mình Lênin chưa có điều kiện khám phá. Một trong những luận điểm hết sức sáng tạo đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đó là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.

Vận dụng công thức của C. Mác: “Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “Công cuộc giải phóng anh em (tức nhân dân thuộc địa – TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản thân anh em”. Người đánh giá rất cao sức mạnh của một dân tộc vùng dậy chống đế quốc thực dân. Người chủ trường phát huy nỗ lực chủ quan của dân tộc, tránh tư tưởng bị động, trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài.

Quan điểm của Lênin khi cho rằng: “Giai cấp vô sản ở thuộc địa có khả năng tự giải phóng nếu có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở chính quốc”, Người đi đến luận điểm: “Cách mạng thuộc địa có tính độc lập tương đối của nó và cách mạng thuộc địa là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”.

Khái niệm “cách mạng thuộc địa” và mối quan hệ mật thiết giữa cách mạng vô sản ở chính quốc với cách mạng thuộc địa thực sự đã được đề cập tới trong lý luận của Lênin và trong đường lối của Quốc tế cộng sản. Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa phải phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc. Khi cách mạng vô sản ở chính quốc thành công thì cách mạng vô sản ở thuộc địa mới thành công. Hồ Chí Minh cho rằng, cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau và là quan hệ bình đẳng chứ không phải quan hệ chính phụ, lệ thuộc. Các mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa có tính chủ động và có thể tự nổ ra khi thời cơ đến.

Page 4: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 4

Hồ Chí Minh nhận thấy rằng chủ nghĩa dân tộc là truyền thống lâu đời của các dân tộc thuộc địa. Nó tạo ra sức mạnh khổng lồ để các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống lại mọi ách xâm lăng.

Khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, về thuộc địa, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra rằng: “tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản quốc tế đều lấy ở các xứ thuộc địa. Đó là nơi chủ nghĩa tư bản lấy nguyên liệu cho các nhà máy của nó, nơi nó đầu tư, tiêu thụ hàng, mộ nhân công rẻ mạt cho đạo quân lao động của nó, và nhất là tuyển những binh lính bản xứ cho các đạo quân phản cách mạng của nó” và “nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các thuộc địa hơn là ở chính quốc”, nó gieo rắc những chính sách áp bức, bóc lột vô cùng thâm độc lên nhân dân thuộc địa, mà theo quy luật chung thì “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”, ách áp bức càng nặng, tinh thần đấu tranh càng cao.

So với nhân dân lao động ở chính quốc, nhân dân lao động ở thuộc địa bị bóc lột nặng nề hơn, bị áp bức tàn nhẫn hơn. Vì thế, khi thời cơ cách mạng đến, cách mạng thuộc địa không thể ngồi yên trông chờ sự giúp đỡ của cách mạng vô sản ở chính quốc, mà nhân dân thuộc địa phải chủ động “đem sức ta mà giải phóng cho ta”.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa không những phụ thuộc hoàn toàn vào cách mạng vô sản ở chính quốc mà nó còn có khả năng nổ ra và giành thắng lợi trước. Đây là một quan điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn, một cống hiến rất to lớn vào kho tàng lý luận Mác – Lênin, đã được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn qua thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.

Lấy một ví dụ, Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khôn khéo của Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo có phương pháp; chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt. Vì thế, cho đến ngày Tổng khởi nghĩa Tháng Tám, tuy ta chưa có đội quân chủ lực mạnh nhưng đã có đủ các loại lực lượng vũ trang phát triển khắp nơi, ta có ưu thế về lực lượng chính trị so với kẻ thù; Đảng đã phát huy ưu thế đó, chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, với nghệ thuật lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức khởi nghĩa khéo léo, tài tình, Đảng đã đưa cuộc Tổng khởi nghĩa đến thắng lợi trọn vẹn trong cả nước.

Page 5: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 5

Từ quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức, hãy nêu lên tầm quan trọng của việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức sinh viên sư phạm – những thầy cô giáo tương lai.

Hồ Chí Minh đánh giá đạo đức là cái gốc của con người cách mạng, là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con người, như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang. Hồ Chí Minh nói, không phải cứ viết lên trán hai chữ “cộng sản” là được dân tin, dân yêu, người dân chỉ tin tưởng, quý mến những người có cái tâm trong sáng, có đạo đức cao đẹp.

Trong sự nghiệp cách mạng xây dựng chủ nghĩa xã hội, đạo đức được đánh giá là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ có tính nhân văn cao đẹp, trong đó con người xem nhau là đồng chí, là anh em. Do đó, đạo đức được bổ sung sẽ tạo nên giá trị to lớn cho chủ nghĩa xã hội. Những người cộng sản là những người trọn đời cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho chủ nghĩa xã hội. Do vậy, tư cách đạo đức của họ sẽ là những mẫu mức làm đẹp xã hội và trở thành tấm gương để nhân dân noi theo.

Trong thời kỳ hiện nay, đạo đức có vai trò cực kỳ quan trọng, giúp định hướng con người đến chân, thiện, mỹ. Nền kinh tế thị trường một mặt giúp con người phát huy tính năng động, sáng tạo, chủ động tham gia cống hiến cho đất nước. Mặt khác, có những yếu tố tiêu cực của kinh tế thị trường có thể làm con người trở nên hời hợt, vô cảm trước người khác, trước vận mệnh của đất nước, từ đó dễ rơi vào lối sống thực dụng, rơi vào chủ nghĩa cá nhân. Do đó, đạo đức có vai trò định hướng cho con người, giúp họ phân biệt thiện ác, tốt xấu, từ đó nhìn nhận lại bản thân, khắc phục điểm xấu, vương đến cái tốt, trở thành những công dân gương mẫu tích cực xây dựng xã hội ngày một phồn vinh.

Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng:

- Trung với nước, hiếu với dân - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư - Yêu thương con người - Có tinh thần quốc tế trong sáng

Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới:

- Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức - Xây đi đôi với chống - Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời

* Lúc sinh thời Hồ Chủ Tịch rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức cho thế hệ trẻ. Bác nói: “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô dụng’’. Bác còn chỉ rằng: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng. Công tác giáo dục đạo đức trong trường học là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của nhà trường XHCN”. Như vậy Đức và Tài là hai phạm trù cơ bản để đánh giá nhân cách của một con người. Cho nên để phát triển nhân cách phải hình thành, rèn luyện phẩm chất đạo đức, giá trị đạo đức phù hợp.

Để phát triển giáo dục và đào tạo đạt hiệu quả cao, trước tiên phải nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Giáo viên ở bất kỳ cấp học nào, bậc học nào cũng là người giữ trọng trách trước một thế hệ. Việc hình thành những phẩm chất đạo đức của người thầy giáo cho sinh viên là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của nhà trường sư phạm cần được quan tâm ngay từ khi họ bước vào trường: “Tri thức có thể có được bằng cách luyện cấp tốc trong

Page 6: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 6

một thời gian ngắn nhưng phẩm chất kĩ năng nghề nghiệp thì không thể có được trong ngày một ngày hai... Những phẩm chất đó muốn có phải được tổ chức giáo dục chặt chẽ ngay từ khi sinh viên mới bước vào trường”.

Nghề dạy học đòi hỏi rất cao yêu cầu về cả phẩm chất và năng lực, người giáo viên phải là tấm gương sáng cho học sinh noi theo. Chính vì thế những sinh viên sư phạm, những người thầy cô giáo trong tương lai cần phải học tập, rèn luyện để có những phẩm chất đạo đức, năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của người giáo viên trong giai đoạn cách mạng mới.

Một sinh viên sư phạm cần phải học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần trung với nước, hiếu với dân suốt đời, tu dưỡng chăm lo cho sự nghiệp giáo dục với tư cách của một giáo viên chân chính, đào tạo và giáo dục cả một thế hệ là đào tạo cả một Đất Nước, thực hiện và chấp hành đúng chính sách của Đảng và Nhà nước đề ra, có lối sống lành mạnh có văn hóa tại nơi ở và nơi công tác. Sẵn sàng cầm súng chiến đấu mỗi khi Đất Nước lâm nguy, đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người, sẵn sàng hi sinh vì độc lập dân tộc.

Sinh viên sư phạm cần phải tích cực ra sức học tập để trau dồi tri thức đầy đủ, bởi chỉ có vậy mới hoành thành tốt sự nghiệp trồng người. Làm việc phải học tập cần cù, siêng năng, làm việc có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao. Cần phải thấy rằng, giáo dục là một nghĩa vụ, trách nhiệm của người giáo viên. Cần phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, không lãng phí một cách vô ích. Cần phải tôn trọng giữ gìn của công và của dân, không lấy tiền của dân, không tiêu cực, tham nhũng trong ngành giáo dục. Không tự cao tự đại, phải biết nhận thấy khuyết điểm của mình và sửa đổi nhanh chóng để phù hợp với các chuẩn mực đạo đức. Lương tâm nghề nghiệp phải được đề cao, phục vụ hết mình cho giáo dục nước nhà, sống thật, không dối trá, lừa lọc,… Phải lo cho học sinh – những mầm móng thế hệ tương lai sau này, đặt lợi ích cá nhân ra sau.

Yêu thương thế hệ học sinh, những người thân trong gia đình, thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp,… Xem học sinh như những đứa con của mình, chăm lo và quan tâm chúng một cách chu đáo. Không nên thù hận bất kỳ ai. Tình yêu thương dành cho những người khó khăn trong cuộc sống, ủng hộ và có những hành động thiết thực mang tính nhân đạo, chống sự kỳ thị trong cuộc sống, yêu thương giữa con người với con người.

Có tinh thần đoàn kết không chỉ trong toàn thể dân tộc mà còn đoàn kết quốc tế, sẵn sàng tiếp thu những kiến thức mới bên ngoài để áp dụng cho nền giáo dục nước nhà, trau dồi kỹ năng giao tiếp nước ngoài trong công cuộc hội nhập quốc tế.

Qua đây, cám ơn chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những đức tính mà thế hệ sinh viên nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung cần phải học từ Người rất nhiều, Người thực sự là tượng đài bất diệt trong lòng mỗi công dân Việt Nam, cũng cần cám ơn Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối và chính sách phù hợp cho đất nước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa, một con đường bền vững trong tương lai và khiến bạn bè quốc tế phải nể phục trong công cuộc hội nhập toàn cầu.

Page 7: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 7

Nhận thức và vận dụng tư tưởng đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính” của Hồ Chí Minh trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của bản thân hiện nay.

Trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao và thực hiện nghiêm minh những đức tính cần kiệm liêm chính. Người xem đây là nguyên tắc, là phẩm chất cơ bản có liên quan mật thiết với các nhiệm vụ và công tác hoạt động cách mạng khác nhau và thiếu chúng thì khó dẫn đến thành công một cách trọn vẹn, triệt để.

Trong bài viết “Cần, kiệm, liêm, chính” đăng trên báo Cứu Quốc số ngày 30-5, 31-5, 1-6 và 2-6 năm 1949, ngay ở phần mở đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết những vấn đề trên trong tương quan với các quy luật của tự nhiên và xã hội bằng 6 câu thơ như sau:

“Trời có bốn mùa: Xuân, hạ, thu, đông,

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc

Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính

Thiếu một phương, thì không thành đất

Thiếu một đức, thì không thành người”.

Qua đó cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao 4 đức tính trên như điều kiện cần đối với mỗi người trong đời sống và hoạt động xã hội. Nếu là người tham gia hoạt động cách mạng trực tiếp, 4 đức tính ấy lại càng phải quán triệt và hành động triệt để hơn, có hiệu quả hơn, nghiêm minh hơn. Đây là một phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mỗi người, là đại cương đạo đức Hồ Chí Minh. Ngày nay, ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân dân theo là để đem lại hạnh phúc cho dân. Đó cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”.

Theo Bác, Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, bền bỉ trong công việc cụ thể của mình. Cần phải gắn với kế hoạch, nếu không thì mọi việc sẽ rối tung, kém hiệu quả. Cần phải đi với chuyên, cần cù mà dốt nát thì hiệu quả thấp, có khi trở thành phá hoại. Điều này đến nay vẫn còn nguyên giá trị nhận thức và thực tiễn.

Về nội dung chữ Kiệm, Bác viết: Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, bừa bãi. Lãng phí là kẻ thù của tiết kiệm. Hiện tại, không ít người lãng phí và lợi dụng của công để làm việc riêng, thiếu tinh thần chí công vô tư. Đó là điều đáng trách, nếu không muốn nói là nhỏ nhen, tầm thường, dẫn đến tham ô, lãng phí. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của nhân dân, của nước, của bản thân mình. Phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to; không xa xỉ, hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù.

Liêm, theo Bác, đó là luôn tôn trọng của công và của dân, phải trong sạch, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, vì vật mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiêu thụ. Chữ Liêm, theo Bác, còn phải hiểu theo nghĩa rộng là trung với Tổ quốc, hiếu với nhân dân. Có như thế, thì không bao giờ vụ lợi. Tất cả vì sự nghiệp của Đảng, của dân tộc. Chữ Liêm theo tinh thần, đạo đức của người cách mạng cao cả là thế!

Page 8: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh trường Đại học Sư phạm TPHCM

Trang 8

Nội dung của Chính, theo Bác là “không tà, nghĩa là thẳng thắn, đúng đắn. Điều gì không đúng đắn, thẳng thắn, tức là tà”. Hiểu rộng ra là phải làm theo chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; không làm sai, không vì lợi ích cá nhân để ngày càng phát huy điều chính, giảm và tiêu diệt điều tà. Đối với mình – không tự cao tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình. Đối với người – không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc. Đối với việc – để việc công lên trên việc tư, việc nhà. Việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh.

Quan niệm về nội dung của cần, kiệm, liêm, chính của Bác Hồ thật rõ ràng, giản dị mà sâu sắc, có giá trị lớn trong việc vận dụng vào học tập, rèn luyện một cách sáng tạo, cụ thể của từng người, từng cơ quan, đoàn thể trong từng hoàn cảnh khác nhau. Những nội dung trên đã thành phẩm chất cơ bản trong tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh. Bác luôn xem 4 đức tính trên là “chính sách lớn, đạo đức lớn”. Từng cá nhân, cơ quan, tập thể, từng ngành nghề căn cứ vào từng nhiệm vụ, từng giai đoạn, từng yêu cầu mà phải hiểu đúng và có sáng tạo 4 đức tính ấy một cách linh hoạt, đa dạng, tránh cứng nhắc. Bác thường nhấn mạnh và đề cao 4 loại tiết kiệm: đó là tiết kiệm tiền, tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm nguyên, nhiên, vật liệu, tiết kiệm thời giờ. Một yêu cầu sinh tử của Bác là kiệm phải đi liền với cần “như hai chân của con người”. Cần không phải chỉ thuần tuý là cần cù làm việc mà quan trọng hơn là phải có chất lượng, có hiệu quả, có năng suất cao. Cả cuộc đời của Bác Hồ là tấm gương sáng cho những đức tính cao đẹp nói trên. Mỗi việc làm, mỗi suy nghĩ và hiệu quả công việc cách mạng của Bác là một bài học cụ thể, sinh động của 4 đức tính cần, kiệm, liêm, chính mà không giấy mực nào ghi lại hết được.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đang ra sức học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Thiết nghĩ, chúng ta phải hiểu bản chất và nội dung cụ thể của cuộc vận động lớn này. Nếu không, dễ rơi vào hình thức chủ nghĩa, phản tác dụng. Mà muốn hiểu và làm đúng, thì chỉ soi vào từng ý kiến, từng bài viết và từng việc làm của Bác sẽ liên hệ thấy rõ mình làm đến đâu, hiểu đến mức nào và làm sai, vi phạm đến mức nào. Có như thế, cuộc vận động mới đi vào chiều sâu, đúng bản chất. Những hiện tượng tiêu cực, sai phạm của các cơ quan, cá nhân mà hàng ngày báo chí nêu là có thật, là tiếng chuông báo động về tình trạng xuống cấp đạo đức, có nguy cơ suy đồi, băng hoại về nhân cách trong xã hội hiện nay. Đảng và Nhà nước ta nhận thấy và dự cảm được điều này nên đã kịp thời chấn chỉnh và có biện pháp, chính sách lớn trong việc chống tham ô, lãng phí, chống tiêu cực – đặc biệt là trong cán bộ có chức, có quyền. Đó là động thái đúng đắn và tích cực nhằm thanh lọc và giáo dục, xử phạt nghiêm minh để đưa xã hội tiến lên, đem lại lòng tin cho mọi người đối với một xã hội tốt đẹp, công bằng, dân chủ và văn minh. Muốn vậy, phải hướng vào những mục tiêu vừa diện, vừa điểm; vừa trước mắt, vừa lâu dài; vừa vĩ mô, vừa vi mô… mới mong đạt được hiệu quả thiết thực và triệt để. Trong muôn vàn bài học đạo đức của Hồ Chí Minh, bài học về cần, kiệm, liêm, chính có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta hiện nay.

Để kết luận cho bài viết sơ lược này, xin dẫn ý kiến của một sử gia người Mỹ – bà Stenson – nhận định về Hồ Chí Minh: “Một số đông người đã bị tha hoá chạy theo đời sống vật chất, bất chấp cả nhân phẩm đạo đức, coi sự hưởng thụ là mục đích của cuộc sống thì nhân loại lại tìm về tấm gương sáng ngời nhân cách Hồ Chí Minh – một tấm gương cho mọi thế hệ tiếp theo”. Đó chính là nền tảng, là đạo đức thuộc về thì quá khứ, hiện tại và tương lai – Đạo đức Hồ Chí Minh