thỦ cÔng nghiỆp quẢng nam – ĐÀ nẴng...phân tích các yếu tố tác động đến...
TRANSCRIPT
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN MINH PHƯƠNG
THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
(1802 - 1945)
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 62 22 03 13
HUẾ, 2017
Công trình được hoàn thành tại khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế
Người hướng dẫn khoa học :
PGS.TS. Bùi Thị Tân
PGS.TS. Trương Công Huỳnh Kỳ
Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Ngọc Cơ,
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Quang Hải, Viện
Sử học
Phản biện 3: PGS.TS. Trần Thuận, Trường ĐH
KHXH&NV – ĐHQG thành phố Hồ Chí Minh
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận
án cấp Đại học Huế họp tại:..........................................
Vào hồi…….ngày….. tháng…… năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại:
1. Thư viện Quốc gia.
2. Thư viện Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế.
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Quảng Nam - Đà Nẵng là vùng đất chiến lược của nước ta kể từ
khi sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia Đại Việt (1306). Các nghề và làng
nghề truyền thống sớm ra đời và phát triển trên vùng đất Quảng Nam –
Đà Nẵng.
Các vua Nguyễn đã chọn Đà Nẵng làm nơi đón tiếp các sứ thần,
quan hệ ngoại giao, thương mại, Quảng Nam là đất “tả trực” của kinh
đô Huế tạo điều kiện cho kinh tế trong đó có thủ công nghiệp tiếp tục
tạo nên những bước tiến mới.
Thời thuộc Pháp, thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng có
những bước phát triển nhất định với nhiều sự biến chuyển đặt trong
mối quan hệ chung của thủ công nghiệp cả nước.
Trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đang tiếp tục đặt ra vấn đề là phải
nghiên cứu và đề ra phương án tốt cho sự phát triển thủ công nghiệp,
thủ công nghiệp vẫn có vai trò khá quan trọng trong việc tạo ra nguồn
hàng xuất khẩu, phục vụ đời sống và giữ gìn bản sắc dân tộc.
Việc tái hiện lại một cách có hệ thống thủ công nghiệp Quảng
Nam - Đà Nẵng (1802-1945) sẽ giúp chúng ta hiểu rõ về quá trình ra
đời phát triển của thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng trong mối
tương quan với nền thủ công nghiệp của cả nước trong thời kì này. Mặt
khác, sẽ giúp chúng ta thấy được những đặc trưng cơ bản của thủ công
nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng và tác động của nó đối với đời sống
kinh tế, văn hoá, chính trị và xã hội cùng những phong tục, tập quán
của cư dân trên mảnh đất này.
2. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
2.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc làm rõ chính sách đối với thủ công nghiệp của
nhà Nguyễn và Pháp, so sánh tình hình thủ công nghiệp Quảng Nam –
Đà Nẵng giữa hai thời kỳ trước thời thuộc Pháp và thời thuộc Pháp,
luận án nhằm khôi phục bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng (1802-1945), khẳng định những nét đặc trưng thông qua việc
nghiên cứu một số nghề và làng nghề tiêu biểu, làm rõ đóng góp của
thủ công nghiệp đối với tình hình kinh tế, xã hội và văn hóa trong tiến
trình lịch sử của vùng đất này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích các yếu tố tác động đến sự phát triển của thủ công
nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng qua các thời kỳ lịch sử.
Nghiên cứu tình hình thủ công nghiệp ở Quảng Nam – Đà Nẵng
từ 1802 - 1945, trong đó có nghiên cứu cụ thể một số nghề, làng nghề
thủ công tiêu biểu
Rút ra những đặc điểm, đóng góp của thủ công nghiệp đối với
địa phương Quảng Nam – Đà Nẵng. Đưa ra những giải pháp nhằm bảo
tồn và phát triển các nghề, làng nghề tiêu biểu ở Quảng Nam – Đà
Nẵng.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà
Nẵng từ năm 1802 đến trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 trên các
phương diện:
- Thủ công nghiệp nhà nước.
- Thủ công nghiệp dân gian.
- Quan hệ sản xuất.
- Kỹ thuật và bước tiến về kỹ thuật.
- Nguồn nguyên liệu, thị trường, nhân công, đời sống người thợ.
- Các tác động bên ngoài có ảnh hưởng đến thủ công nghiệp.
- Tác động của thủ công nghiệp đối với địa phương trên các khía
cạnh: kinh tế và đời sống, chính trị và xã hội, văn hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Khảo sát và nghiên cứu tình hình phát triển thủ
công nghiệp trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Về thời gian: Từ năm 1802 đến trước Cách mạng tháng Tám
năm 1945. Trong đó chia thành hai thời kỳ là trước thời Pháp thuộc (từ
1802 – 1885, trước tháng 7/1885) và thời Pháp thuộc (1885 - 1945, sau
khi ký Hiệp ước Patenôtre đến trước Cách mạng tháng Tám).
Về nội dung: Những yếu tố tác động đến thủ công nghiệp Quảng
Nam – Đà Nẵng. Cơ cấu ngành nghề, tổ chức sản xuất, sản phẩm và
tiêu thụ sản phẩm tiêu biểu qua các thời kỳ lịch sử. Đặc điểm, vai trò,
tác động của thủ công nghiệp đối với tình hình kinh tế, xã hội và văn
hóa địa phương.
4. NGUỒN TƯ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Nguồn tư liệu
- Nguồn tư liệu lưu trữ: chủ yếu là Châu bản triều Nguyễn, văn
bản của chính quyền thuộc địa...
- Các công trình của các nhà nghiên cứu, các tác giả đã được
xuất bản trong và ngoài nước.
- Nguồn tư liệu điền dã tại địa phương:
Tư liệu thư tịch tại các làng nghề
Tư liệu truyền miệng
Nguồn tư liệu thu thập được thông qua việc phỏng vấn các
nghệ nhân, những người lớn tuổi tại các làng nghề.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng phương pháp
lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ yếu. Bên cạnh đó, chúng
tôi còn sử dụng các phương pháp so sánh, thống kê, đối chiếu, phân
tích, tổng hợp trên cơ sở khảo cứu các nguồn tài liệu văn bản, thực địa
và tiếp xúc nhân chứng. Đồng thời cũng vận dụng phương pháp so
sánh đồng đại, lịch đại để làm nổi bật các vấn đề cần thiết.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
* Về mặt khoa học:
- Bổ sung và hệ thống tư liệu về thủ công nghiệp Quảng Nam-
Đà Nẵng từ 1802 đến 1945.
- Tái hiện lại bức tranh thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng
từ 1802 đến 1945, thông qua đó làm rõ quá trình phát triển, một số đặc
điểm cơ bản, tác động của nó đối với tình hình phát triển kinh tế, xã
hội và văn hóa của địa phương.
- Góp phần vào việc nghiên cứu lịch sử nghề thủ công Việt Nam.
* Về mặt thực tiễn:
- Góp phần nghiên cứu lịch sử kinh tế địa phương tỉnh Quảng
Nam, thành phố Đà Nẵng và cả nước.
- Đề tài là cơ sở khoa học đề xuất những biện pháp nhằm bảo
tồn, khôi phục phát triển kinh tế thủ công nghiệp trong quá trình đô thị
hóa của Quảng Nam - Đà Nẵng trong giai đoạn hiện nay cho phù hợp
với tiềm năng của nó. Bên cạnh đó, chúng tôi đề xuất một số nội dung
liên quan đến vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống của địa phương trong thời kỳ hội nhập.
6. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận án bao gồm 4 chương:
Chương 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2. Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm
1802 đến năm 1885.
Chương 3. Thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm
1885 đến năm 1945.
Chương 4. Đặc điểm, vai trò của thủ công nghiệp Quảng Nam -
Đà Nẵng (1802-1945).
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam đã được tiến hành từ
thời Pháp thuộc qua một số bài viết trên báo chí, một số công trình
được xuất bản. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bắt đầu nghiên
cứu có tính hệ thống.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG
NGHIỆP VIỆT NAM
Nghiên cứu về thủ công nghiệp Việt Nam đã được tiến hành
từ thời Pháp thuộc qua một số bài viết trên báo chí, một số công trình
được xuất bản. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bắt đầu nghiên
cứu có tính hệ thống.
Việt Hồng (1946), Tư bản Pháp với nền kinh tế Việt Nam,
NXB Xã hội, HN. Phan Gia Bền (1957), Sơ thảo lịch sử phát triển
thủ công nghiệp Việt Nam, NXB Văn Sử Địa, HN. Nguyễn Thế Anh
(1971), Kinh tế & Xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, NXB
Lửa Thiêng, SG. Nghiêm Phú Ninh (1986), Con đường phát triển
tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp Việt Nam, NXB Thông tin lý luận,
HN. Vũ Huy Phúc (1996), Tiểu thủ công nghiệp Việt Nam 1858 – 1945,
NXB KHXH, HN. Bùi Thị Tân, Vũ Huy Phúc (1998), Kinh tế thủ
công nghiệp và phát triển công nghệ Việt Nam dưới triều Nguyễn,
NXB Thuận Hóa, H. Nguyễn Văn Khánh (2000), Cơ cấu Kinh tế -
Xã hội Việt Nam thời thuộc địa (1858-1945), NXB ĐHQG HN...
1.3. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUẢNG NAM –
ĐÀ NẴNG CÓ ĐỀ CẬP ĐẾN THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG
NAM – ĐÀ NẴNG
A.J. Gouin (1883), Tourane et le centre de l’ Annam,
Imprimerie Rouillé Ladevère. Marcel Monnier (1899) Le tour d’
Asie, Eplon, Nourrit et Cie, Imprimeurs – E’diteurs. G.H. Monod
(1900), Les montagnes de marbre à Tourane. Năm 1905,
Ricquebourg (1905), La légende de la montagne de marbre
(Tourane). A. Sallet (1924), La légende de la montagne de marbre
(Tourane), Les montagnes de marbre, Atlas de L’Indochine. J.L.
Fontana (1925), L’Annam: Ses provinces, ses ressources
Phan Du (1974), Quảng Nam qua các thời đại, quyển thượng,
Khảo cổ tùng thư, Sài Gòn. Huỳnh Công Bá (1991), “Bài Văn bia
chùa Phổ Khánh”, Tạp chí Hán Nôm, (11). Nguyễn Văn Xuân
(1995), Phong trào Duy Tân, NXB Đà Nẵng. Dương Trung Quốc
(1997), “Đà Nẵng trong mối tương quan với đô thị cổ Hội An”, Tạp
chí Non Nước, (1). Nguyễn Đình Đầu (1998), “Đà Nẵng qua các thời
đại”, Tạp chí Xưa và Nay, (54B). Nguyễn Thừa Hỷ, Đỗ Bang,
Nguyễn Văn Đăng (2000), Đô thị Việt Nam dưới triều Nguyễn, NXB
Thuận Hóa, H…
1.4. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỦ CÔNG
NGHIỆP QUẢNG NAM – ĐÀ NẴNG
Phạm Hữu Đăng Đạt (2003, 2013) Chuyện kể làng nghề đất
Quảng và Chuyện xưa đất Quảng, NXB Đà Nẵng. Nguyễn Phước
Tương (2003), Bà chúa Tàm Tang xứ Quảng, NXB Đà Nẵng. Hồ Vũ
Thị Minh Châu (2004), “Nghề ươm tơ dệt lụa làng Thi Lai (xã Duy
Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam) từ thế kỷ XVII đến năm
2002”, luận văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại học
Huế. Trung tâm Quản lý Bảo tồn Di tích Hội An (2008), Nghề truyền
thống Hội An, Quảng Nam. Hội văn nghệ dân gian thành phố Đà
Nẵng (2009), Nghề và làng nghề truyền thống đất Quảng, NXB Đà
Nẵng. Huỳnh Ngọc (2012), “Nghề đá mỹ nghệ Non Nước (Đà
Nẵng)”, luận văn Thạc sĩ sử học, Trường Đại học Khoa học – Đại
học Huế. Dương Thị Ngọc Bích (2014), “Làng nghề điêu khắc đá
Non Nước tại Phường Hòa Hải, Quận Ngũ Hành Sơn, Thành phố Đà
Nẵng (truyền thống và biến đổi)”, luận án Tiến sĩ Nhân học Văn hóa,
Viện KHXH, HN.
1.5. NHỮNG KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐƯỢC LUẬN ÁN KẾ
THỪA
Các công trình nghiên cứu liên quan đến thủ công nghiệp
Quảng Nam - Đà Nẵng từ năm 1802 đến 1945 đã tập trung nghiên
cứu về nghề và làng nghề thủ công trên vùng đất Quảng Nam – Đà
Nẵng là những tư liệu làm nền tảng để chúng tôi đi sâu vào nghiên
cứu, chọn lọc, tổng hợp, phân tích, đánh giá dưới góc độ sử học làm
tiền đề giải quyết mục tiêu nghiên cứu đã đề ra.
1.6. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
Sự tác động của tình hình chính trị, xã hội, kinh tế đến thủ
công nghiệp, sự phát triển của thủ công nghiệp, các nghề thủ công
tiêu biểu (nhu cầu và sự phát triển, sự phân bố của nghề, nguyên liệu,
công cụ sản xuất, kỹ thuật, tổ chức sản xuất, sản phẩm, sản lượng, thị
trường và tiêu thụ, vai trò kinh tế), các làng nghề thủ công tiêu biểu
(điều kiện tự nhiên và sự ra đời của làng, nguồn gốc nghề, quá trình
phát triển, bí quyết làng nghề thành tựu tiêu biểu...), sự biến đổi trong
cơ cấu ngành nghề, một số nét mới trong sự phát triển thủ công
nghiệp...
Sự phát triển của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng qua
các thời kỳ lịch sử từ 1802 đến 1945.
Các nghề, làng nghề thủ công tiêu biểu từ 1802 đến 1945.
Làm rõ đóng góp của thủ công nghiệp đối với tình hình kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng.
Những nét đặc trưng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà
Nẵng từ 1802 đến 1945.
Chương 2
THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1885
2.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỦ CÔNG
NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM
1885
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm ở vị trí trung độ của đất nước và từ
thế kỷ XV xem là "yết hầu của miền Thuận - Quảng", là giao điểm nối
liền ba miền Bắc - Trung - Nam với các nước trong khu vực Đông Nam
Á và các nước lân cận. Nơi đây sớm phát triển giao thương trong và
ngoài nước. Điều này đã góp phần thúc đẩy sản xuất, trong đó có thủ
công nghiệp phát triển, nhằm cung ứng nguồn hàng cho hoạt động
thương nghiệp.
2.1.1.2. Địa hình
Quảng Nam - Đà Nẵng có đầy đủ các dạng địa hình từ núi,
đồi, sông, biển, vịnh đến đồng bằng, hải đảo và vùng cồn bãi cát ven
biển. Với đầy đủ các dạng địa hình: núi đồi, sông, biển, vịnh hồ, đồng
bằng, hải đảo, Quảng Nam - Đà Nẵng có điều kiện thuận lợi để phát
triển kinh tế. Trên nền tảng ấy, thủ công nghiệp sớm ra đời và phát
triển, tạo nên sự đa dạng trong cơ cấu ngành nghề của địa phương.
2.1.1.3. Khí hậu
Quảng Nam - Đà Nẵng nằm trong phạm vi của đới rừng á xích
đạo, được điều tiết bởi biển nên hai mùa mưa - nắng khí hậu đều hiền
hòa, dễ chịu, thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi, cũng như hoạt động
của một số ngành thủ công.
2.1.1.4. Nguồn tài nguyên
Quảng Nam – Đà Nẵng có diện tích rừng rộng lớn và là rừng
nhiệt đới giàu nguyên liệu quý cung cấp cho các ngành sản xuất mà
chủ yếu là các ngành nghề thủ công.
Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều loại khoáng sản: sắt, chì,
kẽm, vàng, thiết, than đá, mica, đá cẩm thạch, đá vôi... nhưng trữ
lượng không lớn.
Hệ thống sông biển cung cấp nguồn lợi thủy hải sản đa dạng,
phong phú và trữ lượng lớn đã sớm phát triển việc đánh bắt nuôi
trồng thủy hải sản. Cùng với đó, nghề làm muối, chế biến thủy hải
sản, làm mắm đã sớm hình thành và phát triển.
2.1.2. Các nhân tố lịch sử - xã hội
2.1.2.1. Về lịch sử vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng
Quảng Nam là đất đế đô của nhiều vương triều Champa trong
nhiều thế kỷ: Gangajaya, Indrapura.
Từ một “vùng đất sính lễ”, Đà Nẵng đã sáp nhập vào lãnh thổ
quốc gia Đại Việt. Các chúa Nguyễn và nhà Nguyễn sau này luôn chọn
xứ Quảng làm hậu dinh. Thời Pháp thuộc, Quảng Nam - Đà Nẵng chịu
ảnh hưởng của hai cuộc khai thác thuộc địa kéo dài đến tận năm 1945.
2.1.2.2. Con người và truyền thống xứ Quảng
Cốt cách của con người trên vùng đất này tính ham học hỏi,
tính tìm tòi, rộng mở. Cùng với đó, khí hậu khắc nghiệt đã thôi thúc
hình thành bản lĩnh chế ngự thiên nhiên, tính cần cù, chịu thương,
chịu khó.
Bên cạnh đó, con người xứ Quảng có tình hài hòa, hiếu
khách, thích giao thiệp, khéo léo trong ứng xử, nhạy bén trong buôn
bán. Cùng với đó, vun đắp thêm truyền thống hiếu học, thích khám
phá, tìm tòi.
2.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng trước năm 1802
và di sản để lại
Những lớp cư dân đầu tiên đến khai phá vùng Thuận
Quảng có nguồn gốc từ Thanh, Nghệ, Tĩnh. Từ thế kỷ XVII trở về
sau, cư dân từ đồng bằng sông Hồng, sông Thái Bình đến tụ cư
trên vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng rất đông. Họ đã mang theo
những nghề thủ công từ đồng bằng Bắc Bộ, làm đa dạng các nghề
thủ công tại xứ Quảng.
2.1.4. Tình hình chính trị, xã hội và kinh tế Quảng Nam-Đà Nẵng
(1802-1885)
2.1.4.1. Tình hình chính trị
Quảng Nam – Đà Nẵng - vùng đất “tả trực” của đế kinh nên
Nhà Nguyễn rất chú trọng với nhiều lần thay đổi. Quảng Nam tiếp
tục đóng vai trò là dinh trấn bên cạnh kinh đô Huế và Đà Nẵng
được chọn làm nơi đón tiếp các sứ thần đến quan hệ ngoại giao,
thương mại…
Từ ngày 01/9/1858 đến ngày 23/3/1860, nhân dân Quảng Nam
– Đà Nẵng đã sát cánh cùng quân đội triều đình ngăn chặn âm mưu
xâm lược của Pháp tại Đà Nẵng.
Ngày 5/6/1862, triều đình Huế đã ký với Pháp Hiệp ước
Nhâm Tuất bao gồm 12 điều, trong đó điều 5, điều 6, người Pháp
được tự do buôn bán, tự do đậu thuyền và tự do đi lại trên con đường
bộ từ cửa biển đến kinh đô. Với hai hiệp ước Quý Mùi (1883), Giáp
Thân (1884), về danh nghĩa, Đà Nẵng vẫn thuộc chủ quyền của triều
Nguyễn nhưng Pháp đã từng bước làm chủ dần mọi hoạt động ở hải
cảng này: tổ chức quan thuế, tự do lập phố, kiểm soát cửa khẩu...
2.1.4.2. Tình hình xã hội
Đầu thế kỷ XIX, về cơ bản, các giai cấp và tầng lớp xã hội ở
nước ta vẫn giữ nguyên như trước: địa chủ và nông dân, thợ thủ công
và thương nhân, cùng các tầng lớp sĩ phu, văn thân và quan lại.
Đời sống của nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng phần lớn
“khốn khổ, bần cùng, thực trạng xã hội có những diễn biến phức
tạp”.
2.1.4.3. Tình hình kinh tế
Đất nước được thống nhất nên các ngành nghề và giao lưu
hàng hóa có điều kiện phát triển và mở rộng khắp đất nước, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và nhà nước. Việc mở rộng các cơ
sở và phương tiện đường thủy như đào nối các con sông trong nội
địa. Tại Quảng Nam – Đà Nẵng các con kênh được đào để tưới tiêu
đồng thời thuận lợi trong giao thông như: Kênh Thanh Hà, kênh
Minh Châu, kênh Phú Xuân, kênh Thanh Khê, kênh Địch Thái,
kênh Đức An, kênh Bạch Câu.
2.1.5. Chính sách của triều Nguyễn đối với thủ công nghiệp
Về chính sách đối với thủ công nghiệp của triều Nguyễn có
thể quy lại trong chế độ công tượng và chế độ biệt nạp.
Chế độ công tượng của triều Nguyễn đã trói chân những
người thợ vào hoạt động của công trường hay các xưởng thủ công
tại chốn kinh thành, gây ảnh hưởng đến đời sống gia đình và
tương lai con cái họ. Lính thợ phải làm việc lâu dài, có khi đến già
mới cho nghỉ.
Ngoài chế độ công tượng, nhà nước còn gián tiếp khai thác
sức lao động của thợ thủ công tự do và nửa tự do (làm việc ở các
tượng cục địa phương) ở các tỉnh thành, làng xã bằng chế độ thuế sản
phẩm (biệt nạp).
2.2. THỦ CÔNG NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Dưới triều Nguyễn nhất là thời Minh Mạng, triều đình đứng
ra khai thác hàng chục mỏ quý như mỏ vàng, mỏ than, mỏ kẽm, mỏ
bạc... Bên cạnh các xưởng chế tạo vũ khí đóng ở kinh đô Huế, tại
nhiều tỉnh thành, nhà Nguyễn cũng đặt các công xưởng, tập trung
thợ thuyền sản xuất vũ khí cung cấp cho quân lính đóng trên địa
bàn.
Bên cạnh đó, dấu ấn thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng
đối với thủ công nghiệp nhà nước thể hiện qua các sản phẩm được
dâng tiến triều đình, những thợ giỏi tham gia các công xưởng nhà
nước hay nhân lực, vật lực thực hiện theo chế độ công tượng và biệt
nạp.
2.3. THỦ CÔNG NGHIỆP DÂN GIAN
2.3.1. Các nghề thủ công tiêu biểu
Theo Nghề và làng nghề thủ công truyền thống đất Quảng,
Quảng Nam – Đà Nẵng có khoảng 100 nghề thủ công và có thể chia
thành khoảng 10 nhóm ngành nghề:
- Nghề dệt vải
- Nghề dệt chiếu
- Nghề may
- Nghề đan lát
- Nghề chế biến nông sản, lương thực, thực phẩm
- Nghề chế tạo công cụ lao động, phương tiện sinh hoạt
Nghề mộc
Nghề đóng cối xay lúa
Nghề đóng ghe thuyền
Nghề kim khí
- Nghề chế biến vật liệu, hương liệu
Nghề gốm
Nghề làm giấy
Nghề làm hương (nhang)
Các nghề được trình bày: nhu cầu, sự ra đời và phát triển, địa
phương hình thành nghề và có nghề phát triển, nguồn nguyên liệu,
cách thức sản xuất, kỹ thuật, thị trường và tiêu thụ, vai trò kinh tế.
2.3.2. Các làng nghề thủ công tiêu biểu
- Làng điêu khắc đá Non Nước
- Làng làm mắm Nam Ô
- Làng đúc đồng Phước Kiều
- Làng dệt chiếu Cẩm Nê
- Làng gốm Thanh Hà
- Làng mộc Kim Bồng
- Làng dệt vải Mã Châu
Các làng nghề được trình bày: địa phương hình thành nghề
(tương ứng với địa phương ngày nay), nguồn gốc của nghề, nghệ
nhân truyền nghề, nguồn nguyên liệu, công cụ sản xuất, kỹ thuật, bí
quyết nghề nghiệp, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, vai trò kinh tế.
2.3.3. Những nét mới trong thủ công nghiệp Quảng Nam - Đà Nẵng
thười Nguyễn so với trước
Thủ công nghiệp đã tách khỏi nông nghiệp và đóng vai trò
tương xứng trong cơ cấu ngành nghề của địa phương.
Việc tổ chức sản xuất đã mang một số đặc điểm của phương
thức “công nghiệp”.
Với việc Đà Nẵng là hải cảng chính thức và duy nhất là nơi
giao thương với nước ngoài đã giúp cho hàng hóa trong đó có mặt
hàng thủ công nghiệp theo chân thương lái nước ngoài xuất khẩu
sang các nước tạo nên thị trường ngoài nước bên cạnh nội thương
truyền thống.
Triều đình phong kiến cũng đã chú trọng đến việc đầu tư theo
kiểu công xưởng như trường hợp khai thác vàng Bồng Miêu cho thấy
được lối tư duy mới trong đầu tư khai thác nhằm mang lại lợi nhuận.
Chương 3
THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG
TỪ NĂM 1885 ĐẾN NĂM 1945
3.1. CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TRONG BỐI CẢNH LỊCH
SỬ MỚI
3.1.1. Tình hình chính trị
Sau khi ký Hiệp ước Harmand và Hiệp ước Patenotre, về mặt
đối ngoại, nước ta đặt dưới sự “bảo hộ” của nước Pháp.
Thời Pháp thuộc, Quảng Nam – Đà Nẵng có hai chế độ chính
trị khác nhau: Đà Nẵng là thành phố nhượng địa của Pháp, Quảng
Nam là phần đất giao cho triều đình nhà Nguyễn cai trị nhưng lại có
chính phủ Pháp bảo hộ.
3.1.2. Chính sách khai thác thuộc địa của Pháp
Hiệp ước Harmand (1883) và Hiệp ước Patenôtre (1884)
được ký kết, nước Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp. Thực dân
Pháp đã tiến hành hai cuộc khai thác thuộc địa: lần thứ nhất (1897 -
1914), lần thứ hai (1919-1929). Qua hai lần khai thác thuộc địa của
Pháp, tình hình kinh tế - xã hội Quảng Nam – Đà Nẵng có nhiều
chuyển biến.
Pháp cũng tập trung khai thác khoáng sản. Các công ty của
Pháp thu lãi cao bằng con đường biến tư sản người Việt và người
Hoa thành đại lý tiêu thụ của Pháp và chèn ép, thu mua nông thổ sản,
các sản phẩm thủ công với giá rẻ rồi đem bán trong nước hoặc xuất
khẩu với giá cao.
3.1.3. Sự chuyển biến về xã hội
Nhìn chung từ khi Pháp biến Quảng Nam - Đà Nẵng thành
nhượng địa, và xứ bảo hộ, kinh tế hoàng hóa tư bản chủ nghĩa đã làm
chuyển biến mạnh xã hội phong kiến đương thời và dẫn đến sự biến động
mới về cơ cấu giai cấp xã hội tại mảnh đất này.
Là thành phố nhượng địa, Đà Nẵng được Pháp tập trung xây
dựng, đẩy mạnh quá trình đô thị hóa. Trong giai đoạn đầu, Pháp chủ
yếu xây dựng cơ sở hạ tầng, một số kiến trúc kiên cố được xây dựng
làm công sở, hệ thống cầu đường, giao thông vận tải và cung ứng điện
nước được xây dựng. Việc thiết kế và quy hoạch thành phố theo mô
thức phương Tây đã làm diện mạo phố phường Đà Nẵng khác hẳn với
đô thị cổ và làm biến đổi to lớn bộ mặt nông thôn truyền thống. Đà
Nẵng trở thành nơi thu hút đông đảo nhân lực ở miền Trung, nhưng
do chính sách thuộc địa, thực dân Pháp chú trọng phát triển thương
mại, ít mở mang công nghiệp nên số công nhân chính ngạch không
nhiều, tập trung chưa cao.
Giới tư sản, trước hết là tư sản Hoa Kiều, nhờ biết tổ chức
mạng lưới thương mại rộng lớn, vốn liếng dồi dào, làm đại lý tiêu thụ
và thu mua hàng của các công ty Pháp rất đắc lực. Tư sản người Việt
ở Quảng Nam - Đà Nẵng cũng ngày càng phát triển. Nhu cầu nhập
cảng và tiêu thụ hàng hóa của Pháp ngày càng tăng làm cho việc
buôn bán trở nên tập trung và có quy mô rộng lớn hơn nên các công
ty và hiệu buôn của người Việt đã ra đời. Thế lực tư sản người Việt ở
Quảng Nam - Đà Nẵng nhỏ bé, không thể cạnh tranh nổi với tư bản
Pháp và tư sản người Hoa. Là tư sản ở một nước thuộc địa, họ bị
chèn ép, lép vế.
Cùng với sự phát triển đô thị, tầng lớp tiểu thị dân tập hợp
khá đông: tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, những người làm nghề
tự do, những viên chức công tư sở, giáo viên, học sinh... Sự xâm
nhập của sách báo tiến bộ, sách báo cách mạng đã thức tỉnh một bộ
phận trí thức học sinh có hoài bão giải phóng dân tộc cũng như có tư
tưởng canh tân.
Giai cấp công nhân có nguồn gốc từ nông dân lao động, thợ
thủ công bị bần cùng hóa, học sinh ra trường không kiếm được công
ăn việc làm. Số lượng công nhân ăn lương chính ngạch rất ít, chủ yếu
hưởng lương công nhật, thợ học việc và “cu li”. Phần lớn gia đình công
nhân vẫn gắn bó với nông thôn, hoặc có người ra làm công nhân theo
thời vụ rồi trở về làm nông.
3.1.4. Sự biến đổi trong kinh tế
Với mục tiêu tối thượng là vơ vét, thu về lợi nhuận, Pháp
cũng tập trung khai thác khoáng sản.
Về tổng thể thì cơ cấu ngành nghề vẫn giống so với thời kỳ
trước song một số ngành nghề giảm suốt, khó khăn, trong đó phải kể
đến nghề nung vôi hàu, nghề làm muối, nghề nấu rượu, nghề ươm tơ
dệt lụa... các nghề và làng nghề khác vẫn duy trì và phát triển.
Ngoài những nghề thủ công đã có từ trước tiếp tục tồn tại và
phát triển, trong giai đoạn này xuất hiện một số nghề mới như nghề
làm guốc mộc Xuân Dương, nghề khảm xà cừ, nghề làm kính thủy
tinh, nghề nhôm, nghề đăng ten, nghề thuộc da, nghề làm mũ cối,
nghề chế biến chè, chế biến cafe, chế biến cao su, làm pháo, làm đèn
dầu hỏa.
3.2. THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG TỪ 1885
ĐẾN 1945
3.2.1. Khái quát tình hình sản xuất thủ công nghiệp ở Quảng
Nam – Đà Nẵng thời thuộc địa
3.2.1.1. Khái quát
Các nghề thủ công như làm đường, ươm tơ, dệt lụa lĩnh, tuýt
xo, dệt chiếu, làm hàng mỹ nghệ phát triển như lưu thông thuận lợi,
nhanh chóng. Một số tư sản người Việt đầu tư kinh doanh một số mặt
hàng thủ công nghiệp như Lý Quý chuyên kinh doanh về bông vải
sợi nội địa lưu thông cả ba kỳ. Một số thương nhân người Hoa và
người Ấn Độ kinh doanh vải lụa.
Một số ngành nghề mới như may máy, làm đăng – ten, thủy
tinh, đóng dày dép, làm pháo, cắt tóc, làm đèn dầu hỏa. Việc nhập
khẩu những nguyên liệu, hóa chất mới đã góp phần làm cho sản xuất
thủ công đạt chất lượng tốt hơn, đẹp hơn. Việc xuất khẩu hàng hóa
qua cảng Đà Nẵng thuận lợi đã thu hút các nguồn hàng lâm thổ sản
như gỗ quý, vỏ quế, cau khô, dầu rái.
3.2.1.2. Các nghề mới
Ngoài những nghề thủ công đã có từ trước tiếp tục tồn tại và
phát triển, trong giai đoạn này xuất hiện một số nghề mới như nghề
làm guốc mộc Xuân Dương, nghề khảm xà cừ, nghề nhôm, nghề làm
kính thủy tinh, nghề đăng ten, nghề thuộc da, nghề làm mũ, nghề chế
biến trà, chế biến cafe, chế biến cao su...
3.2.1.3. Các làng nghề mới
Các làng nghề thủ công trước đây tiếp tục tục tồn tại, một số
làng nghề mới ra đời:
- Nghề đẽo guốc mộc Xuân Dương
- Các làng đan lát
- Làng đẽo cối xay đá Xuân Tây
- Làng kẹp quế Tích Phước
3.2.2. Các nghề thủ công tiêu biểu
Về cơ bản vẫn là các nghề thủ công thời kỳ trước, song các
nghề thủ công trong thời kỳ này mang những nét mới. Các nghề
thủ công tiêu biểu bao gồm:
- Nghề đan lát
- Nghề mộc
- Nghề rèn
- Nghề đóng ghe thuyền
- Nghề xay xát lúa gạo
- Nghề nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa
- Nghề nhuộm vải
- Nghề may
- Nghề nấu rượu
- Nghề ép dầu phụng
- Nghề làm đường
- Nghề làm bún
- Nghề chế biến thủy hải sản
- Nghề gốm
- Nghề làm hương
3.2.3. Các làng nghề thủ công tiêu biểu
Các làng nghề thủ công tiêu biểu với những điểm mới, sự
phát triển so với thời kỳ trước.
- Làng thủ công mỹ nghệ Non Nước
- Làng nghề làm mắm Nam Ô
- Làng nghề đúc đồng Phước Kiều
- Làng nghề Dệt chiếu Cẩm Nê
- Làng nghề dệt chiếu Bàn Thạch
- Làng nghề gốm Thanh Hà
- Làng nghề Mộc Kim Bồng
- Làng nghề dệt vải Mã Châu
- Nghề làm lồng đèn Hội An
Chương 4
MỘT SỐ NHẬN XÉT THỦ CÔNG NGHIỆP
QUẢNG NAM - ĐÀ NẴNG (1802 - 1945)
4.1. MỘT SỐ ĐIỂM NỔI BẬT
4.1.1. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng phát triển trên
vùng đất có điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa và đô thị
Nằm ở vị trí trung độ của đất nước, nằm trên tuyến đường
thiên lý Bắc - Nam, nằm ở vị trí cửa ngõ của kinh đô Huế, với hai
cảng biển Hội An và Đà Nẵng, Quảng Nam - Đà Nẵng là giao điểm
nối liền ba miền Bắc - Trung - Nam với các nước trong khu vực
Đông Nam Á và các nước lân cận. Nơi đây sớm phát triển giao
thương trong và ngoài nước.
Quảng Nam – Đà Nẵng có đến hai thương cảng lớn có mối
quan hệ mật thiết với nhau là Hội An và Đà Nẵng. Sau khi Hội An
suy thoái, Đà Nẵng vươn lên trở thành phố cảng, cửa ngõ thông
thương với thế giới bên ngoài.
Nhà Nguyễn đặt trị sở tại dinh trấn Thanh Chiêm, từ sự kích
thích của trị sở Quảng Nam với vai trò là một trung tâm kinh tế, các
ngành nghề thủ công cổ truyền khá phong phú, đa dạng và gắn liền
với chiều hướng phục vụ giai cấp phong kiến và tự cung cấp.
4.1.2. Các nghề và làng nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà Nẵng
phong phú, đa dạng hơn các tỉnh Nam Trung Bộ
Sự đa dạng của thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng thể
hiện qua sự đa dạng về số lượng các nghề, làng nghề, sự phân bố các
nghề, làng nghề, nguồn gốc các làng nghề.
Vùng Đất Quảng Nam – Đà Nẵng có đến trên dưới 100 nghề
thủ công. Công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều
Nguyễn thời Tự Đức và thời Duy Tân thống kê số lượng nghề thủ
công ở Quảng Nam đa dạng nhất so với các tỉnh Nam Trung kỳ.
Sự phát triển theo hướng chuyên nghiệp dẫn đến sự hình
thành các làng nghề thủ công. Ở Quảng Nam – Đà Nẵng có trên dưới
40 làng nghề thủ công. Mỗi làng nghề có một sản phẩm đặc trưng tạo
nên thương hiệu của làng nghề.
Các nghề và làng nghề có sự phân bố rộng khắp các vùng
miền từ các đô thị (Đà Nẵng, Hội An, Thanh Chiêm), các nơi tập
trung đông dân cư như các chợ, các thị trấn, thị tứ (Phong Thử, Vĩnh
Điện, Tân An, Ái Nghĩa, Hà Lam, Hương An), từ các vùng nông thôn,
các vùng sông biển, vùng đồng bằng, miền núi...
Về nguồn gốc, đa số các nghề thủ công ở Quảng Nam – Đà
Nẵng có nguồn gốc truyền vào từ đất Bắc, các nghề tiếp biến văn hóa
Việt – Chăm, một vài nghề do người dân đi làm ăn xa học nghề
truyền lại và một số nghề do thực dân Pháp du nhập, phát triển trong
công cuộc khai thác thuộc địa, phục vụ nhu cầu xuất cảng tư bản.
Sự đa dạng phong phú còn thể hiện ở số lượng mặt hàng thủ
công buôn bán và xuất khẩu. Tại Hội An, các mặt hàng thủ công xuất
khẩu nổi tiếng là tơ, lụa, đường. Ngoài ra, còn có các sản phẩm mộc
Kim Bồng (bàn ghế, trường kỷ, giường, tủ), gốm sứ Thanh Hà (gạch
lát, ngói âm dương, ngói ấm, bộ ấm, chén trà, lục bình, chén đĩa sứ),
giấy quyến, gương đồng, cá chuồng khô…
4.1.3. Thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng từng bước phát
triển theo kinh tế thị trường ở giai đoạn đầu của kinh tế tư bản
chủ nghĩa
Thủ công nghiệp với các nghề và làng nghề chủ yếu gắn với
làng xã, thể hiện tính tự cung tự cấp, đáp ứng nhu cầu của một vùng
đất với cư dân đông. Một số cơ sở sản xuất thủ công nghiệp thể hiện
sản xuất theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Điều này được thể hiện:
Thứ nhất, một số cơ sở sản xuất thủ công lớn đã vượt ra khỏi
giới hạn tự cung tự cấp, sản xuất khép kín trong phạm vi gia đình.
Nhiều người chủ, thương nhân, người giàu có đã xuất vốn, sắm máy
móc, thuê thợ để sản xuất trên một quy mô rộng lớn hơn là sản xuất
thủ công nghiệp cá thể. Điều này được thể hiện rõ qua các làng nghề
nổi tiếng như mắm Nam Ô, điêu khắc đá Non Nước, mộc Kim Bồng,
đúc đồng Phước Kiều, gốm Thanh Hà...
Thứ hai, trong sản xuất có sự phân công lao động theo hướng
mới. Đầu thế kỷ XX, trong sản xuất thủ công nghiệp, sự phân công
lao động thể hiện rất rõ rệt. Trong sản xuất là sự phân công giữa
“chủ” và “thợ”, trong thợ phân thành thợ cả, thợ bạn, thợ học việc,
thợ chính, thợ phụ...
Sự phân công còn thể hiện theo công đoạn của quá trình sản
xuất: người chuyên cung cấp nguyên liệu, người chuyên sản xuất ra
sản phẩm, người chuyên tiêu thụ sản phẩm.
Thứ ba, hoạt động tiêu thụ sản phẩm tiến hành theo phương
thức mới. Cuối thế kỷ XIX, nhất là đầu thế kỷ XX, hoạt động trao đổi
buôn bán thực sự gọi là “kinh doanh”. Người làm kinh doanh mà dân
gian vẫn thường gọi là “con buôn”, “mối lái” ngày càng nhiều với
phương thức buôn bán đa dạng hơn, chú trọng đến thị hiếu của từng
thị trường trong từng vùng miền của đất nước hay của nước ngoài.
Không chỉ chú trọng về tiêu thụ sản phẩm, người kinh doanh còn có
cả trong việc thu mua, bao tiêu nguyên liệu để cung cấp cho các cơ
sở sản xuất.
4.2. TÁC ĐỘNG CỦA THỦ CÔNG NGHIỆP QUẢNG NAM –
ĐÀ NẴNG (1802-1945)
4.2.1. Đối với kinh tế và đời sống
Với bàn tay tài hoa, những nghệ nhân đã tạo ra công cụ sản
xuất: nông cụ, ngư cụ và ngay cả công cụ cho các nghề thủ công. Thủ
công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp và ngư nghiệp phát triển, tạo ra
một thị trường trao đổi, buôn bán.
4.2.2. Đối với chính trị và xã hội
Sự phát triển của thủ công nghiệp đã thúc đẩy sự phát triển
của các ngành kinh tế khác mà trực tiếp là nông nghiệp và thương
nghiệp, giúp cho kinh tế của địa phương phát triển, cùng với đó là
quá trình tụ cư, sinh sống, tìm đến của các luồng dân cư ngày càng
đông.
Sự phát triển của nền thủ công nghiệp hàng hóa cùng với nền
thương mại phát triển, với vai trò của cảng biển, đô thị Hội An và Đà
Nẵng đã khiến cho vùng đất Quảng Nam – Đà Nẵng có điều kiện tiếp
thu sớm tư tưởng tư sản phương Tây và hình thành tư tưởng duy tân.
Thủ công nghiệp cũng là một cơ sở kinh tế để đánh giá một
nền chính trị có còn tiến bộ, còn có vai trò đối với lịch sử hay không.
Khi nhà nước chăm lo khuyến khích, các nghề và làng nghề phát
triển là biểu hiện nền chính trị ổn định, phát triển. Khi thủ công
nghiệp bị đình đốn, người thợ thủ công phải phá bỏ công cụ sản
xuất... là biểu hiện nguy cơ đối với nền chính trị, và thực tế chế độ
phong kiến, chế độ thực dân đều đã trải qua những thời kỳ như vậy.
Thủ công nghiệp hấp dẫn các nhà tư bản Pháp, nhưng thủ
công nghiệp cũng góp phần tạo ra những phong trào đấu tranh để
chôn vùi nền thống trị của Pháp. Nhân dân Quảng Nam – Đà Nẵng
trong đó có đông đảo những người thợ thủ công đã tham gia công
cuộc chống thực dân Pháp xâm lược, cùng với nhân dân cả nước đập
tan xiềng xích nô lệ, giành lấy độc lập tự do.
4.2.3. Đối với văn hóa
4.2.3.1. Góp phần bảo tồn những giá trị tri thức bản địa
Những tri thức bản địa được hình thành trong quá trình học
hỏi từ truyền thống, sáng tạo những cái mới, vận dụng và kết hợp cả
hai yếu tố truyền thống và hiện đại nhưng vẫn giữ được bản chất,
những nét tinh anh mang tính đặc trưng của vùng đất này.
4.2.3.2. Góp phần làm phong phú lễ hội địa phương
Các làng nghề đều lưu giữ gốc tích, xuất xứ của nghề, ông tổ
làng nghề, người có công và truyền bá, dạy nghề cho làng, cùng với
đó là các lễ cúng tổ nghề, ngày hội làng nghề....
4.2.3.3. Sự gắn kết, giữ gìn tâm hồn những người con xa quê
Những người con lớn lên, vì một lý do nào đó phải xa quê,
khi nhớ quê bắt nguồn từ nỗi nhớ những món ăn mang đậm hương vị
quê nhà đã tạo nên dư vị không thể nào quên được.
4.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA NHẰM BẢO TỒN VÀ PHÁT
TRIỂN THỦ CÔNG NGHIỆP TRUYỀN THỐNG XỨ QUẢNG
Giải quyết nguồn nguyên liệu
Phát huy vai trò của nghệ nhân truyền nghề.
Chú trọng việc đào tạo nghề cho thế hệ trẻ.
Đầu tư vốn, tổ chức sản xuất.
Tìm đầu ra của sản phẩm, nghiên cứu thị hiếu của người
dùng.
Xây dựng tuyến điểm du lịch, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Sự liên kết, phối hợp giữa các địa phương.
Giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường.
Có sự cân đối giữa phát triển kinh tế và gìn giữ nét đẹp văn
hóa truyền thống.
Xây dựng bảo tàng làng nghề.
KẾT LUẬN
1. Nhìn chung, thủ công nghiệp Quảng Nam – Đà Nẵng
(1802 - 1945) phát triển hơn so với thời kỳ trước. Điều này được
khẳng định qua sự hình thành và phát triển các đô thị, các thị trấn,
các trung tâm hành chính, kinh tế, quân sự, hệ thống chợ, sự mở
mang về giao thông... đã đẩy nhanh sự tăng trưởng số lượng thợ thủ
công, nối liền các làng nghề thủ công với các trung tâm, đô thị, thị
trấn, một số nghề mới ra đời, kỹ thuật được cải tiến, chất lượng sản
phẩm được nâng cao, sự xuất hiện các nhân tố mới theo phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
2. Quá trình hình thành và phát triển: Mặc dù thời gian hình
thành muộn nhưng các nghề truyền thống với những sản phẩm đặc
biệt thể hiện tài năng sáng tạo của nghệ nhân trên mảnh đất này đã
sớm tạo được dấu ấn sâu sắc trong nền kinh tế - xã hội và văn hóa
của địa phương cũng như cả nước.
3. Cấu trúc của thủ công nghiệp: Thủ công nghiệp Quảng
Nam – Đà Nẵng thời kỳ này bao gồm thủ công nghiệp nhà nước và
thủ công nghiệp dân gian
4. Tổ chức sản xuất: Các nghề thủ công đã có mặt hầu khắp
trong các làng xã, ban đầu, quy mô nhỏ, tự phát, mang tính gia đình,
không có sự kết hợp, tổ chức thành các đội, các xưởng thủ công nên
hiệu quả không cao. Tuy nhiên, ở một số làng nghề như Kim Bồng,
Thanh Hà, Non Nước, Phước Kiều, những người thợ cả thuê người
làm và thợ học nghề, để phụ giúp trong việc sản xuất. Về phương
thức sản xuất, các nghề thủ công không đòi hỏi nhiều vốn, mà chỉ cần
sự khéo léo chân tay hay kinh nghiệm của người thợ cả.
Cùng với sự phát triển, nhiều nghề thủ công nổi tiếng đã phát
triển thành làng nghề chuyên nghiệp, quá trình tổ chức sản xuất quy
mô, quy cũ, chặt chẽ hơn song cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ
phường, hội, chưa trở thành công xưởng.
5. Sản phẩm và tiêu thụ: Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX,
với những chuyển biến của tình hình kinh tế - xã hội, cùng với quá
trình xuất cảng tư bản, sự phát triển của ngoại thương, đã đưa sản
phẩm của thủ công nghiệp mở rộng về thị trường, không bó hẹp trong
quan hệ nội thương mà đã trở thành hàng hóa theo các thương thuyền
đến với thị trường các nước trên thế giới.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ
1. Nguyễn Minh Phương (2013), “Nghề làm mắm Nam Ô trước
năm 1945”, in trong kỷ yếu Hội nghị khoa học sau đại
học lần thứ nhất, Trường Đại học sư phạm – Đại học
Huế, tr. 361 – 367, NXB Đại học Huế.
2. Nguyễn Minh Phương (2017), “Nghề làm đường Quảng
Nam đầu thế kỷ XX”, Tạp chí Khoa học Công nghệ Đại
học Đà Nẵng, (8), tr. 44-47.
3. Nguyễn Minh Phương (2017), “Nghề đúc đồng Phước Kiều
dưới triều Nguyễn”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế, (6B),
tr. 211 - 220.
HUE UNIVERSITY
UNIVERSITY OF PEDAGOGY
NGUYEN MINH PHUONG
QUANG NAM – DANANG CRAFT INDUSTRY
(1802 - 1945)
HISTORICAL DISSERTATION RESUME
Field of study: Vietnam history
Code: 62 22 03 13
HUE, 2017
The dissertation accomplished at History
Department, University of Pedagogy
- Hue University
Supervisor:
Assoc. Prof. Dr.Bui Thi Tan
Assoc. Prof. Dr. Truong Cong Huynh Ky
Examiner 1: …………..........................……
Examiner 2: …………....……………………
Examiner 3: ..................................................
The dissertation defended at Dissertation Council at Hue
University at …………, on ………………., 2017
The dissertation could be available at:
1. The National Library.
2. The Library of Pedagogical University - Hue University
1
INTRODUCTION
1. RATIONALE
Quang Nam – Danang is a strategic area of land of
Vietnam since it is integrated into The Great Vietnam territory
(1306). The traditional crafts and craft villages came into beings
and developed in the early time in Quang Nam - Danang.
The Nguyen kings have chosen Danang as a welcoming
place for the embassadors, diplomats and traders. In this way,
Quang Nam is “themain gateway”toHue and paves the way for
economic development including that of craft industry with new
development strides.
During French-dependent time, Quang Nam - Da Nang
has maded certain progress with several changes in the common
relation with the national craft industry.
In the current context of market economy development
on socialism-oriented basis of our country, the demand for
investigation into the good measures for the development of the
craft industry. Truly craft industry still plays an important role in
producing the exports to serve daily life and preserve the
national cultural features.
The systematic review of Quang Nam Danang craft
industry system (1802-1945) helps us further understand this
region’s development process in relation to the national craft
industry during the period. In addition, it could help us realize the
basic typical features of Quang Nam Danang craft industry and
its effects on the economic, cultural, political and social life
together with the customs, habits of the residents of this land.
2. AIMS AND OBJECTIVES OF THE STUDY
2.1. Aims of the Study
Via the description and clarification of the policy on the
craft industry of Nguyen dynasty with France, the comparison of
Quang Nam Danang craft industry in the pre-French -dependent
and the French-dependent periods, the dissertation is to review
2
Quang Nam Danang craft industry picture within the stage of
1802-1945, to verify its typical features through the study of
some representative crafts and craft villages, to clarify the
contribution of the craft industry to the economic, cultural and
social development in the historical process of this land.
2.2. Objectives of the Study
The study is aimed:
- To analyze the factors influencing the development of
Quang Nam Danang craft industry through various historical
phases.
- To study Quang Nam Danang craft industry between
1802 – 1945via some typical crafts and craft industry villages.
- To withdraw the features, the contributions of craft
industry to the local Quang Nam Danang and to put forward
resolutions for the preservation and development of the crafts
and craft villages in Quang Nam Danang.
3. OBJECTS AND SCOPE OF STUDY
3.1. Objects of the Study
The dissertation studies Quang Nam Danang craft
industry from 1802 back to the pre-August revolutionary point
of time in 1945 in respect of:
- The state craft industry.
- The folk craft industry.
- Production relations.
- Technical and technical advancement.
- The source of material, market, workers, and the
workers’ life.
- The external effect on the craft industry.
- The influence of craft industry on localities in terms of
economy and life, politics, society and culture.
3.2. Scope of Study
The study is constrained to the examnination and
investigation into the development of craft industry in Quang
Nam province and Danang city from 1802 to 1885, before
3
7/1885) and the French-dependent stage (1885 – 1945, after
Patenotre Treaty to before August Revolution). Also, it studies
the factors influencing Quang Nam Danang craft industry, craft
mechanism, production organization, products and representative
product consumption through historical periods, the features,
roles, effects of craft industry on local economical, social and
cultural situation.
4. SOURCES OF DATA AND RESEARCH METHOD
4.1. Sources of data
- The archived source: mainly the Nguyen dynasty
administrative text archives, the text of local authority …
- The previous researchers’ and authors’ research
published domestically and overseas.
- The local authentic observation sources of data in terms
of text and speech through the interviews of the artists, the old
aged people at the craft villages.
4.2. Research Methods
The historical method and the logic method are mainly
used in combination with the comparison, statistic, analytical
approaches, synthetic approaches basing the textual, authentic
observation basis. Diachronic and synchronic methods are also
used to highlight the necessary items.
5. CONTRIBUTIONS OF THE DISSERTATION
* Theoretical contributions:
- Adding and systematizing the sources of data on Quang
Nam Danang craft industry from 1802 to 1945.
- Reviewing the picture of Quang Nam Danang craft
industry from 1802 to 1945 to clarify the developing process,
some basic features and its influence on the development of
economics, society and local cultures.
- Contributing to the research into the Vietnam history of
craft industry.
* Practical contributions:
4
- Contributing to the study of economic history of Quang
Nam, Danang in particular and that of Vietnam in general.
- The study is the scientific basis to put forward the
measures for preservation, restoration, and development of the
craft industry economy in the urbanization process of Quang
Nam, Danang during the present period due to its potential.In
addition, the preservation and enhancement of the traditional
cultural values of the local in the integration period are suggested.
6. ORGANIZATION OF THE DISSERTATION
Apart from the introduction, the conclusion, the reference
and the appendix, the dissertation consists of 4 chapters:
Chapter 1. Literature review
Chapter 2. Quang Nam, Danang craft industry from 1802
to 1885.
Chapter 3.Quang Nam, Danang craft industry from 1885 to
1945.
Chapter 4. Features, role of Quang Nam, Danang craft
industry from 1802 to 1945.
CHAPTER 1
LITERATURE REVIEW
1.1. RESEARCH PROBLEM
Research on Vietnam’s craft industry dates back to the
French colonial era with newspaper articles and some
pulications. After the 1945 August Revolution, the research has
been conducted in a systematic way.
1.2. PREVIOUS STUDIES
1.2.1. Previous Studies on Vietnam’s craft industry.
Studies on Vietnam’s craft industry date back to the
French colonial era with newspaper articles and several
pulications. After the 1945 August Revolution, the research has
been conducted in a structured way.
Viet Hong (1946), The French Capitalism and the
Vietnamese economy, Xa Hoi Publishing House, HN. Phan Gia
5
Ben (1957), An overview of Vietnam’s craft industry
development history Van Su Dia Publishing House, HN.
Nguyen The Anh (1971), Vietnam’s Economy & Society under
the Nguyen dynasty, Lua Thieng Publishing House, SG.
Nghiem Phu Ninh (1986), Development Road of Vietnam’s
small and handicraft industries, Thong tin ly luan Publishing
House, HN. Vu Huy Phuc (1996), Vietnam’s craft industry 1858
– 1945, KHXH Publishing House, HN. Bui Thi Tan, Vu Huy
Phuc (1998), Vietnam’s handicraft industry and craft
development under the Nguyen Dynasty, Thuan Hoa Publishing
House, H. Nguyen Van Khanh (2000), Vietnam’s eco-social
structure during colonial era (1858-1945), ĐHQG HN
Pulishing House, etc.
1.2.2. Studies on Quang Nam – Da Nang referring to Quang
Nam- Da Nang craft industry
A.J. Gouin (1883), Tourane et le centre de l’ Annam,
Imprimerie Rouillé Ladevère. Marcel Monnier (1899) Le tour
d’ Asie, Eplon, Nourrit et Cie, Imprimeurs – E’diteurs. G.H.
Monod (1900), Les montagnes de marbre à Tourane. Year
1905, Ricquebourg (1905), La légende de la montagne de
marbre (Tourane). A. Sallet (1924), La légende de la montagne
de marbre (Tourane), Les montagnes de marbre, Atlas de
L’Indochine. J.L. Fontana (1925), L’Annam: Ses provinces, ses
ressources
Phan Du (1974), Quang Nam through all eras, Volume 1,
Archeology Series, Sai Gon. Huynh Cong Ba (1991), “Pho
Khanh Pagoda’s Literature Stilae”, Han Nom Journal, (11).
Nguyen Van Xuan (1995), Duy Tan Movement, Da Nang
Publishing house. Duong Trung Quoc (1997), “Da Nang in
relation to Hoi An ancient town”, Non Nuoc Magazine, (1).
Nguyen Đinh Đau (1998), “Da Nang through all eras”, Xua và
Nay Magazine, (54B). Nguyen Thua Hy, Do Bang, Nguyen
Van Đang (2000), Vietnamese Urban under the Nguyen
Dynasty, Thuan Hoa Publishing House, H, etc.
6
1.2.3. Studies on Quang Nam- Da Nang craft industry
Pham Huu Dang Dat (2003, 2013) Stories about Quang
Nam craft villages và Quang Nam Old Stories, Da Nang
Publishing House. Nguyen Phuoc Tuong (2003), Tàm Tang
Goddess of Quảng Nam land, Da Nang Publishing House
(2004), “Silk-making industry at Thi Lai Village (Duy Trinh
commune, Duy Xuyen district, Quang Nam province) from the
17th century to 2002”, History Master’s Thesis, University of
Sciences – The University of Hue. Hoi An Center for Cultural
Heritage Management and Preservation (2008), Hội An
Traditional craft, Quảng Nam. Da Nang Association for folk
arts (2009), Quang Nam craft and traditional craft villages, Da
Nang Publishing House. Huynh Ngoc (2012), “Non Nuoc Fine-
art Stone Craft” (Da Nang)”, History Master’s Thesis,
University of Sciences – The University of Hue. Duong Thi
Ngoc Bich (2014), “Non Nuoc Stone Carving Craft at Hoa Hai,
Ngu Hanh Son district, Da Nang city (traditions and changes)”,
Cultural Anthropology Doctorate’s Thesis, Graduate Academy
of Social Sciences, HN.
1.3. PROBLEMS FOR FURTHER STUDIES
The impacts of eco-social and political situation on
handicraft industry, its development, typical craft industries
(demand and development, craft industry distribution,
materials, crafting tools, techniques, manufacturing, products,
production, market and consumption, economic role), typical
craft villages (natural conditions and emergence of craft
villages, origin of the craft, development, craft secrets of
typical craft village, etc.), changes in craft structure, some
novel features in craft development, etc.
The development of Quang Nam-DaNang craft through
various historical periods between 1802 and 1945.
Tyical craft industries and villages from 1802 to 1945.
7
The contribution of craft industry to the eco-social,
political and cultural development of Quang Nam-Da Nang
land.
Distinctive features of Quang Nam-Da Nang craft
industry between 1802 and 1945.
Chapter 2
CRAFT INDUSTRY IN QUANG NAM – DA NANG
FROM 1802 TO 1885
2.1. FACTORS INFLUENCE CRAFT INDUSTRY IN
QUANG NAM – DA NANG FROM 1802 TO 1885
2.1.1. Natural context
2.1.1.1. Geographical location
Quang Nam – Da Nang was located in the central region
of the country and since the fifteenth century it was considered the
main gateway of the “Thuận - Quảng region". It was also the
converging point connecting the three regions of the country
(Northern, Central, Sourthern) with Asean countries as well as
other Asian countries. The domestic and international trade
exchange practices had been developed here for a long time,
which contributed to promoting the production of various sectors,
especially craft industry to cater to the demand of commercial
activities.
2.1.1.2. Topography
Quang Nam – Da Nang owned a wide range of
typological features, from mountains, hills, rivers, seas, bays to
deltas, islands and coastal sand areas. With such great diversity
in terrain, Quảng Nam - Đà Nẵng had favorable conditions for
economic development. Based on this foundation, craft industry
was introduced and developed very soon, creating a diverse
structure in economic sectors of the locality.
2.1.1.3. Climatic conditions
Quang Nam – Da Nang was located in the tropical
monsoon climate area, regulated by the seas; therefore; during
the two seasons of rainy and dry, the climate was temperate,
8
comfortable and favorable for crop cultivating, animal husbandry
as well as craft activities.
2.1.1.4. Natural resources
Quang Nam – Da Nang was covered by a large area of
tropical rainforests rich in precious materials which satisfied
the demands of production sectors, especially craft industries.
Quang Nam – Da Nang owned various kinds of
minerals including iron, lead, zinc, gold, tin, coal, mica, marble,
annamite, lime stone..., though in small reserves.
The system of rivers and seas provided a diverse source
of aquatic products in large amounts; therefore; the
development of fishing and aquaculture had started very soon.
In addition, the crafts of salt-making, fishery processing and
fish sauce and salty fish making started and developed a long
time ago.
2.1.2. Historical and social factors
2.1.2.1. The history of Quang Nam – Da Nang
Quang Nam was the imperial city of many dynasties under
the Champa Kingdom for centuries such as Gangajaya and
Indrapura.
Originally knowns as “the festive land”, Da Nang was
meged into the territory of Dai Viet. The Nguyen Lords and
Nguyen dynasties always chose the land of Quang as the
location for their palaces. During the French domination period,
Quang Nam - Da Nang suffered by and were under great
influence of the two colonialization times lasting until 1945.
2.1.2.2. The people and tranditions of Quang Nam- Da
Nang
The nature and virtue of local people of this land
included inquisitiveness, curiosity, generosity and openness.
The severe climate motivated them to form the strong will and
resilence to conquer Mother Nature as well as the diligence and
hard work spirit.
9
In addition,Quang people were resourceful, sociable,
hospitable, friendly, tactful, and especially commercially
sensible. Quang people also bore the tradition of being keen on
study and exploration.
2.1.3. Craft industry of Quang Nam – Da Nang before 1802
and its heritages
The first generations of inhabitants came to explore
the land of Thuan Quang had their roots in Thanh, Nghe,
Tinh regions. From the 17th century, residents from the two
deltas of Red River and Thai Binh River also moved to settle
down in the land of Quang Nam – Da Nangin large numbers.
They brought along their traditional crafts from the Northern
delta region, diversifying the craft industry already existing
in the land of Quang.
2.1.4. The political and socio-economic situations of Quang
Nam-Da Nang (1802-1885)
2.1.4.1. Political
Quang Nam – Da Nang was the land of imperial city to
which the Nguyen dynasty attached great importance with
many times of reform. Quang Nam continued its role as a
imperial town in addition to the imperial center of Huế and Da
Nang was chosen as the venue for receiving the envoys of
diplomatic relations and trade.
From 01/9/1858 to 23/3/1860, the people of Quang Nam
– Da Nang wholeheartedly joined the royal army to defeat the
aggression conspiracy of the French in Da Nang.
On June 5, 1862, the Hue court signed the Nham Tuat
agreement with the French stipulating 12 articles in which the
articles No. 5 and No. 6 declared that the French were free to
trade, free to dock and free to travel on the pedestrian route
from the sea esturary to the imperial capital. With the two
agreements of Quy Mui (1883) and Giap Than (1884),
formally, Da Nang was still under the reign of Nguyen
Dynasty; however; the French step-by-step dominated every
10
every activity of this sea port including organizing tariffs and
duties, residential settlements, bordergate control...
2.1.4.2. Social
In the early 19th century, basically, social classes and
castes in our country remained the same, for example, landlords
and peasants, craftsmen and traders, feudal intellectuals,
scholars and mandarins.
The lives of Quảng Nam – Đà Nẵng people were mainly
miserably poor and the social context was full of complicated
progresses and chaos.
2.1.4.3. Economic
The nation was reunified; therefore; it was favorable
for all sectors and crafts as well as commodity exchanges to
develop and spread quickly throughout the country, meeting
the consumption demands of the people and the government.
The expansion of establishments and domestic water
transportation including the digging of domestic waterway
rivers helped to promote socio-economic development. In
Quang Nam – Da Nang, many canals were dug for irrigation
and transport purposes such as Thanh Ha, Minh Chau, Phú
Xuân, Thanh Khê, Địch Thái, Đức An, and Bạch Câu.
2.1.5. Policies of Nguyen Dynasty on craft industry
In terms of policies on craft industry of Nguyen
Dynasty, there were mainly two systems: central industrial
concentration and local product taxation.
The central industrial concentration was introduced to
intentionally bind the best craftsmen to the activities of
construction sites or craft workshops located in the capital,
causing great damage to their family life and the future of
their children. Craftsman soldiers had to make long-term
commitment to the royal work and were not set free until
they got too old to work.
In addition to the central industrial concentration
system, the state indirectly overexploited the labor of free
11
craftsmen and semi-free craftsmen (those working at local
workshops/basements) in different provinces and villages using
the system of product taxation.
2.2. STATE CRAFTSMEN INDUSTRY IN QUANG NAM
– DA NANG FROM 1802 TO 1885
Under the Nguyen Dynasty, especially the reign of King
Minh Mang, the royal government led the exploitation of tens
of precious mineral mines such as gold, coal, zinc, silver... In
addition to weapon-making factories based in the capital of Hue,
in many provinces, the Nguyen Dynasty also set up state
workshops and made the best craftsmen gather in one particular
zone to produce weapons for the soldiers stationed in the
locality.
Besides, the imprint of the local craft industry in Quảng
Nam – Đà Nẵng on the state craft industry manifested in its
diverse products offered to the royal court, the skilled
craftsmen working in state factories or the human resources and
material resources available under the systems of central
industrial concentration and local product taxation.
2.3. FOLK CRAFT INDUSTRY IN QUANG NAM – DA
NANG FROM 1802 TO 1885
2.3.1. Typical craft trades
According to the publishing work “Traditional craft
trades and trade villages in the land of Quang”, Quang Nam –
Da Nang had about 100 craft trades which could be divided into
10 main groups:
- Cloth Weaving
- Mat weaving
- Tailoring
- Bamboo weaving
- Produce and food processing
- Labor tool and daily means manufacturing
- Carpentry
- Rice-hulling mill making
12
- Bamboo boat making
- Metallic
- Material and seasoning making
- Ceramics and Pottery making
- Paper making
- Jossstick making
Such factors of the craft trades were mentioned
including demands, introduction and development, localities
where craft trades were formed and developed, material sources,
production techniques, methods, consumption markets and
economic roles.
2.3.2. Typical trade villages
- Non Nước marble sculpture
- Nam Ô fish sauce
- Phước Kiều bronze casting
- Cẩm Nê mat weaving
- Thanh Hà pottery
- Kim Bồng carpentry
- Mã Châu fabrics weaving
Such aspects of the trade villages were mentioned
including localities of craft origin (equivalent to current
localities), origin of craft trade, predecessor craftsmen, material
sources, production tools, techniques, occupational secrets,
products, consumption, market, and economic role.
2.3.3. New features of Quang Nam - Da Nang craft industry
under Nguyen Dynasty
Craft industry seperated from agriculture and played a
weighing role in the trade structure of the locality.
The organization of production activities owned a
number of features of the “industry” methodology.
The fact that Da Nang was the only official seaport
where trade exchanges with foreign countries were made
helped to promote various commodities including craft industry
13
products to foreign markets in addition to the existing domestic
markets.
The royal court also paid great attention to the
investment in building workshops and factories, for example,
the case of gold exploitation in Bong Mieu , which showed a
new thinking in exploitation investment for greater profit.
CHAPTER 3
QUANG NAM – DANANG CRAFT INDUSTRY
1885 - 1945
3.1 The affecting factors in the new historical context
3.1.1 Political situation
After signing the Harmand Treaty and the Patenotre
Treaty, our country was under the “protection” of France.
Under the France domination, there were two different political
regimes in Quang Nam – Danang: Danang was a concessionary
city of France meanwhile Quang Nam was the land which was
controlled by Nguyễn dynasty and was also protected by the
France government.
3.1.2 The colonial exploitation policy of France
When the Harmand treaty (1883) and the Patenôtre
(1884) were signed, Vietnam was the colony of France. The
French colonialism carried out two colonial exploitation
campaigns: the first time (1897-1914) and the second time
(1919-1929). After two times of exploitation of the French
colonialism, the social-economic situations underwent various
changes.
France focused on exploiting minerals. Companies from
France gained high interests by making Vietnamese and
Chinese bourgeois become the sales agencies for France and
forcing them and buying local agricultural and craft products
with low prices and then selling them domestically or exporting
with higher prices.
3.1.3 The social changes
14
In general, France made Quang Nam – Danang become the
concessionary and the protective area for the product economy
of capitalism which significantly changed the contemporary
feudal society and led to the dramatically variations in the
structure of social classes in this area.
Being the concessionary city, Danang was constructed
by France to stimulate the urbanization process. During the first
stage, France mainly focused on building the infrastructures
and some architectures were built to be offices, the bridge and
road systems, transportation and the water and electricity
suppliers were constructed. The city design and project
according to Western models made the appearance of Danang
streets different from the ancient towns and significantly
changed the traditional forms of countryside. Danang became
the attractive destinations for the workforce of the central area.
However, due to the colonial policy, the French colonialism
focused on developing commerce and lacking in expanding
industry so there was a shortage of professional workers.
Regarding to the bourgeois, thanks to the good relations
with big commercial organization networks and the plentiful
capital, the Chinese bourgeois became the effective sales
agency which buy products from French company. Vietnamese
bourgeois in Quang Nam – Danang also developed. The
increasing demands for import and consumption of products of
France made the sales be more focused in larger scales so some
Vietnamese companies and wholesales brands appeared. The
Vietnamese bourgeois in Quang Nam – Danang were weak and
unable to compete with the French capitalists and the Chinese
bourgeois. Being bourgeois of the colonial nations, Vietnamese
bourgeois were blocked and became inferior.
Along with the development of urbanization, the petty
bourgeois are quite crowded: small trader, smallholder,
craftsman, the freelancers, officers, teachers, students, etc. The
penetration of updated books and magazines on revolution
15
woke up some parts of educated students whose ambitions were
to liberate the nation and renovate.
The worker class who originated from farmers,
craftsman were impoverished, graduate students were
unemployed. The number of workers who earned salary from
their own profession were not popular. They mainly earned
money from day-work salary, apprentice workers and
“servants”. The majority of worker families still lived in
countryside or some people went to Danang to work as worker
and then returned to work as farmer.
3.1.4 The economic situation
With the priority aim is to exploit, gain benefits, France
focused on exploting the minerals.
Overall, the job structures were still the same as the previous
stage, however, there was a decrease and difficulties in some
fields, especially some jobs in oyster calcination, salt-making,
brewing, reeling and weaving, etc. Some other jobs and job
villages were still maintained and developed.
Apart from the some existing and developing traditional
crafting jobs, some new jobs appeared in this stage such as the
job of making Xuan Duong wood clogs, narced job, glass
blowing, making aluminum, making lace, leather, soldier’s hat,
making tea leaves, making coffee, making rubber, fireworks
and oil burning lamps.
3.2 Crafts production in Quang Nam – Da Nang between
1885 and 1945
3.2.1. Overview of crafts production in Quang Nam – Da
Nang in the Colonial era
3.2.1.1. Overview
The craft skills, such as making sugar, silk, weaving
fabric and tussore, weaving mats, making craft products,
developed very quickly. Some Vietnamese bougeois invested in
some handicraft products, for example, Ly Quy who was
known for domestic farbic throughout the nation. Some
16
Chinese and Indian businessmen involved in silk trade.
Then there emerged several new craft skills/industries,
like machine sewing, making antennaes, glass, shoes, crackers,
cutting hair, and making kerosene lamps. The importation of
new ingredients and chemicals contributed to the better and
finer quality of craft making. Smoothly exporting goods via the
Da Nang port also attracted businesses of forest merchandise
including precious types of wood, cinnamon bark, dried areca
nuts, and olive oil.
3.2.1.2.New craft skills
Apart from the existing craft skills, new skills emerged,
such as, making wooden shoes in Xuan Duong, making pearl
mosaics, aluminum, making glass products, making antennae,
tanning, making hats, brewing tea, making coffee, processing
latex, etc.
3.2.1.3. New craft villages
In addition to the existing craft villages, new ones were
formed:
- Xuan Duong wooden shoes making village
- Bamboo knitting villages
- Xuan Tay millstone making village
- Tich Phuoc cinnamon stick making village
3.2.2. Typical craft skills
Having developed from the craftsmanship of the
previous era, new skills were added, in which the typical
ones consisted of:
- Bamboo knitting
- Carpentry
- Forging
- Ship building
- Paddy rice grinding
- Silkworm raising, and silk weaving
- Fabric dying
- Sewing
17
- Wine making
- Peanut oil pressing
- Sugar making
- Rice vermicelli making
- Aquatic and sea food processing
- Pottery making
- Incense making
3.2.3. Typical craft villages
The typical craft villages also developed with new skills
and improvements compared to the previous times, including:
- Non Nuoc artisanship
- Nam O fish sauce
- Phuoc Kieu bronze casting
- Cam Ne mat weaving
- Ban Thach mat weaving
- Thanh Ha pottery
- Moc Kim Bong craftman
- Ma Chau fabric weaving
- Hoi An lantern making
Chapter 4
SOME COMMENTS ON THE QUANG NAM – DANANG
CRAFT INDUSTRY (1802 - 1945)
4.1. SOME SIGNIFICANT FEATURES
4.1.1. Quang Nam Danang craft industry was developed in
an area which qualified for the development in respect of
commodity economy and urbanization.
Quang Nam - Da Nang is located at the middle of the
country, on the north-south road, at the gateway of Hue capital.
Moreover, it is privileged with two seaports of Hoi An and Da
Nang. Therefore, Quang Nam - Da Nang functions as the
connecting point which links the three regions, North - Central
– South, of Viet Nam with countries in the Southeast Asia and
other neighboring countries. This place has been developing in
18
domestic and foreign trade.
Quang Nam - Da Nang has two major ports - Hoi An
and Da Nang, which have had intimate relationship. After Hoi
An’s recession, Da Nang became a port city as well as a trade
gateway to the world.
Nguyen Dynasty established an office of
administration in the town of Thanh Chiem, from the
stimulation of the Quang Nam’s office of administration which
acts as an economic center, the traditional handicrafts are rich,
diverse and they have the tendency to serve the feudal class and
self-supply.
4.1.2. Types of crafts and craft villages in Quang Nam - Da
Nang are richer and more diversified than other provinces
in the South Central Region.
The diversity of the craft industry in Quang Nam - Da
Nang is reflected in the number of occupations, craft villages,
the distribution of craft villages, and the origin of craft villages.
The region of Quang Nam - Da Nang has more than 100
types of crafts. The book “Dai Nam nhat thong chi” of the
National Institute of History under the Nguyen Dynasty during
the Tu Duc Dynasty and the Duy Tan Dynasty, recorded that
Quang Nam had the greatest number of types of crafts in
comparison with other provinces in the South Central Region.
Professional development led to the formation of craft
villages. In Quang Nam - Da Nang, there are approximately 40
handicraft villages. Each village has a unique product that
makes up the village's trademark.
Craft types and villages are widely distributed throughout
the region, from the urban areas (Da Nang, Hoi An, Thanh
Chiem), populated areas such as markets, towns, small towns
(Phong Thử, Vinh Phuc, Tan An, Ai Nghia, Ha Lam, Huong
An), to rural areas, coastal areas, delta areas and mountainous
areas…
In terms of origin, most of the crafts in Quang Nam - Da
19
Nang originated from the North region, some resulted from the
adjustment of Viet-Cham’s culture, some were derived by
locals working away, others were introduced by the French
colonialists and were developed in the colonial exploitation to
serve the need of exporting capital.
The diversity and abundance is also reflected in the
number of crafts for sale and export. In Hoi An, the famous
export crafts are silk and sugar. In addition, there are also Kim
Bong carpentry products (furniture, couches, beds, cabinets),
Thanh Ha ceramics (paving tiles, yin-yang tiles, warm tiles,
teapot sets, jars, porcelain dinnerware sets), thin paper, bronze
mirrors, dry fish ...
4.1.3. Craft Industry of Quang Nam-Danang has been
gradually developing according to the market economy in
the early stage of the capitalist economy
Craft industry in which crafts and craft villages have
mainly associated with the village community, shows its self-
sufficiency and meets the needs of a large population. Some
craft production establishments show their production in the
capitalist mode, which is shown as below:
Firstly, a number of large craft production
establishments have developed beyond the self-sufficiency and
self-contained production within the family. Many owners,
traders, wealthy people have invested capital, purchased
machinery, and hired workers to produce on a larger scale than
individual craft industry. This is evident in some famous
villages such as Nam O fish sauce, Non Nuoc stone carving,
Kim Bong carpentry, Phuoc Kieu bronze casting, and Thanh Ha
pottery...
Secondly, in production there is a division of labor in a
new direction. At the beginning of the twentieth century, in
craft industry, the division of labor was very clear. There is an
assignment between the "owner" and "worker". Moreover,
workers are also specifically divided into smaller groups, such
20
as masters, fellow-workers, apprentices, main workers, sub-
workers ...
The assignment is also shown in the process of
production: raw material suppliers, people who produce
products, people who specialize in consuming products.
Thirdly, the consumption of products is conducted in
the new mode. At the end of the nineteenth century, especially
at the beginning of the twentieth century, trading activities were
called "business". The number of business people who
commonly referred to "merchants" or "intermediaries" has
increased and they had more diversified trading methods,
paying attention to the tastes of each market in each region of
the country or of other foreign countries. Business people not
only focus on consumption of products, but also on the
purchase and “bao tiêu” raw materials to provide production
facilities.
4.2. The Impacts of Craft Industry in Quang Nam-Danang
(1802-1945)
4.2.1. Economy and Life
Talented craftmans have created means of production,
icluding farming tools, fishing equipment and even craft tools.
The craft industry has promoted the development of agriculture
and fishery, creating a market for trade and commerce.
4.2.2. Politics and Society
The development of craft industry has promoted the
development of other industries which are evident in
agriculture and commerce, helping the local economy to
develop. That results in the increase in the settlement and in the
number of people coming to live.
Due to the development of the craft industry along with
the development of commerce, Hoi An and Da Nang, with the
role of seaports, has made the area of Quang Nam - Da Nang
have a good condition for receiving Western bourgeois
ideology and the formation of a new idea.
21
Craft industry is also an economic base for assessing
whether a political system is still progressive, and whether it
has a role in history. When the state cares about and encourages
the development of crafts and craft villages, it is the
manifestation of political stability and development. When craft
industry is stagnant, artisans have to break down their
production tools ... which are a sign of the danger to politics. In
fact, feudalism and colonialism have gone through such period.
The craft industry appeals to French capitalists, but it
also contributes to the struggles that bury French rules. The
people of Quang Nam - Da Nang, in which a large number of
artisans participated in the fight against French colonialism,
together with the people of the country break the chain of
slavery and gain the independence and freedom.
4.2.3 In terms of culture and customs
4.2.3.1. Contribution to conserving values of native
knowledge
Native knowledge was form in the process of learning
traditions, creating the new and applying as well as combining
the traditional and the modern, yet still owing the typical
characteristics of the land.
4.2.3.2. Contribution to enriching local festivals
In craft villages, document related to origin of
occupations is always saved carefully. Besides, the local always
appreciate fathers of the occupations as well as those who have
made contribution to spreading out the occupation within the
village. Worship ceremony and festivals which are a tribute to
the fathers of occupations can also be found there.
4.2.3.3. Contributing to forming the attachment between those
leaving home and their homeland
Dishes having typical tastes of a land make those having
left the home town for some reason remember the old days and
their homeland.
22
4.3. CHALLENGES IN PRESERVING AND
DEVELOPING TRADITIONAL HANDICRAFTS IN
QUANG NAM PROVINCE
Managing the resources,
Enhancing the role of craftmen,
Focusing on training the young generations,
Raising capital and organizing production,
Looking for production output and investigating
preferences of consumers,
Establishing tourist destinations and boost export
activities,
Connecting and coordinating with other cities and
provinces,
Dealing with environmental pollution issues,
Balancing economic development and cultural
preservation,
Building up craft museums.
CONCLUSION
1. In general, handicraft in Quang Nam - Da Nang
(1802-1945) was more developed than the past. This period
saw the establishment of new urban areas, administrative -
economic - military centers and markets, the improvement of
production techniques, the expansion of traffic infrastructure, a
remarkable increase in the number of craft-men and stronger
connection between craft villages and town centers. Moreover,
in this stage, many new vocations were introduced alongside
with the advent of capitalist mode of production.
2. Process of formation and development: Although
being formed late, handicrafts and local specialities has shown
the talents and creativity of craft-men in the region, which left a
deep impression on the economy-society and culture of the
locality as well as the country.
23
3. Structure of handicraft: Handicraft in Quang Nam -
Da Nang in this period of time consisted of state handicrafts
folk handicrafts.
4. Production: At the beginning, handicrafts were
present in villages and communes at the small scale. The
production was spontaneous and run by families with no
collaboration. Therefore, the effiency was not high. However, it
was noted that in some craft villages such as Kim Bong, Thanh
Ha, Non Nuoc and Phuoc Kieu, the experienced craftmen
employed others and apprentices to support the production. In
terms of production mode, handicrafts did not require big
investment. They just need skills and experiences of the
craftmen.
Over time, many well-known handicrafts have
developed to professional craft villages. Although their scale of
production has become larger, they still have not achieved mass
production.
5. Production and consumption: In the late 19th century
and early 20th century, the changes of economic and social
settings and the expansion of export activities, craft products
had a wider market, which was no longer limited in the country.
They have come to countries around the world.
24
PUBLISHED STUDIES
1. Nguyễn Minh Phương (2013), “ Nam Ô Fish Sauce Making”,
Proceedings The first Scientific Conference of Hue
University, Pedagogy University of Hue, p. 361 – 367,
Hue University Publisher
2. Nguyễn Minh Phương (2017), “Quang Nam Sugar Making
in the 20th century”, Journal of Science and Technology
(8), pp. 44-47.
3. Nguyễn Minh Phương (2017), “Phước Kiều Bronze making
in Nguyen Dynasty”, Journal of Science , Hue University,
(6B), pp. 211 - 220.