theo dÕi nghÈo ĐÔ thỊ theo phƯƠng phÁp cÙng tham...

100
Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012) Tháng 11 năm 2012 THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIA

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)Tháng 11 năm 2012

THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊTHEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIA

Oxfam22 Lê Đại Hành, Hà NộiViệt NamĐT: 04 - 3 945 4362/ 04 - 3 945 4406Fax: 04 - 3 945 4365/ 04 - 3 945 4405Email: [email protected]

ActionAid VietnamTầng 2, tòa nhà HEAC14 - 16 Hàm Long, Hà Nội Việt NamĐT: 04 - 3943 9866Fax: 04 - 3943 9872Email: [email protected]

THE

O D

ÕI N

GH

ÈO

ĐÔ

THỊ TH

EO

PH

ƯƠ

NG

PH

ÁP

NG

THA

M G

IAB

áo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

c A

AV-O

XFA

M-0

7121

2/A

MV

Page 2: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế
Page 3: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

MỤC LỤCLỜI TỰA I

LỜI CẢM ƠN III

TỪ VIẾT TẮT V

TÓM LƯỢC VII

GIỚI THIỆU 1Mục tiêu của Báo cáo 1Phương pháp nghiên cứu 2

PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ NGHÈO ĐÔ THỊ 91. Diễn biến nghèo đô thị: các đo lường khác nhau 91.1. Chuẩn nghèo chi tiêu của NHTG và TCTK 91.2. Chuẩn nghèo thu nhập chung của Chính phủ 101.3. Chuẩn nghèo thu nhập riêng của từng địa phương 101.4. Nhận thức người dân về thay đổi cuộc sống trong 5 năm qua 121.5. Nguyên nhân hộ đi lên, thoát nghèo trong 5 năm qua 14

PHẦN 2. CÁC KHÍA CẠNH ĐA CHIỀU CỦA NGHÈO ĐÔ THỊ 212. Tính đa chiều của nghèo bản xứ 212.1. Thiếu nguồn nhân lực 222.2. Thiếu khả năng chuyển đổi sinh kế 232.3. Thiếu vốn xã hội 252.4. Hạn chế tiếp cận dịch vụ công 262.5. Môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn 27

3. Tính đa chiều của nghèo nhập cư 283.1. Chi phí cuộc sống cao 293.2. Việc làm bấp bênh 303.3. Thiếu hòa nhập xã hội 303.4. Hạn chế tiếp cận dịch vụ công 323.5. Môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn 32

PHẦN 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM CỦA GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ 354. Học vấn và tay nghề 354.1. Học vấn 354.2. Việc làm và tay nghề 41

5. Tính dễ bị tổn thương và An sinh xã hội 485.1. Tính dễ bị tổn thương 485.2. Bảo hiểm 525.3. Trợ cấp tiền mặt 53

6. Bất bình đẳng 606.1. Bất bình đẳng về kết quả 606.2. Bất bình đẳng về cơ hội 626.3. Bất bình đẳng về quá trình 65

7. Xã hội hóa 657.1. Nhận thức của người dân về xã hội hóa 657.2. Đóng góp và chia sẻ kinh phí 667.3. Đa dạng hóa dịch vụ 687.4. Tham gia và trao quyền 69

Page 4: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

8. Các vấn đề đặc thù của người nhập cư 718.1. Xu hướng các dòng nhập cư 718.2. Vai trò của người nhập cư đối với phát triển địa phương 728.3. Lịch sử di chuyển, chiến lược vươn lên của người nhập cư 738.4. Các nhóm nhập cư gặp khó khăn đặc thù 758.5. Các bất lợi của công nhân nhập cư nhìn từ số liệu phỏng vấn 78

PHẦN 4. HƯỚNG ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ BỀN VỮNG 859. Đề xuất thảo luận 859.1. Kết luận 859.2. Hướng đến giảm nghèo đô thị bền vững ở Việt Nam 85

Page 5: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

ILời tựa

Thay mặt ActionAid Quốc tế tại Việt Nam

Hoàng Phương ThảoTrưởng Đại diện

LỜI TỰA 1

Đầu năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Điều này đã, đang và sẽ mang đến nhiều cơ hội cho Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức, đặc biệt trong việc đảm bảo chia sẻ lợi ích gia nhập WTO tới mọi người dân, bao gồm cả nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương.

Trong bối cảnh đó, ActionAid Quốc tế tại Việt Nam và Oxfam, những tổ chức làm việc lâu năm hỗ trợ người nghèo và thiệt thòi nhất ở Việt Nam cùng với các đối tác địa phương thực hiện sáng kiến “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia” từ đầu năm 2007.

Sáng kiến này nhằm mục đích theo dõi định kỳ hàng năm các kết quả giảm nghèo, gắn với những thay đổi về đời sống của người nghèo và dễ bị tổn thương tại một số cộng đồng dân cư điển hình ở cả khu vực đô thị và nông thôn trên cả nước. Chúng tôi mong muốn đóng góp một số khuyến nghị cho thảo luận chính sách tại cấp quốc gia, cũng như cho việc điều chỉnh và thiết kế các chương trình của ActionAid và Oxfam tại Việt Nam.

Chúng tôi hy vọng Quý vị sẽ tìm thấy những điều bổ ích và thú vị trong báo cáo tổng hợp theo dõi nghèo đô thị 5 năm (2008-2012) này.

Thay mặt Oxfam

Andy Baker Giám đốc

1 Nghiên cứu này có sự đóng góp của nhiều tổ chức và cá nhân. Các ý kiến, quan điểm, kết luận, và đề xuất trình bày trong nghiên cứu này không nhất thiết là quan điểm chính sách của ActionAid, Oxfam hay tổ chức và nhà nghiên cứu nào có tài liệu được trích dẫn trong báo cáo này.

Page 6: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế
Page 7: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

IIILời cảm ơn

LỜI CẢM ƠNBáo cáo tổng hợp về theo dõi nghèo đô thị này là nỗ lực tập thể, và không thể hoàn thành nếu thiếu sự đóng góp quan trọng của rất nhiều người.

Chúng tôi xin cảm ơn lãnh đạo và cán bộ của các tổ chức ActionAid Quốc tế tại Việt Nam (AAV) và Oxfam đã đóng góp những ý kiến quí báu trong suốt các bước thiết kế, triển khai thực địa, và viết báo cáo. Một số cán bộ của ActionAid và Oxfam đã trực tiếp tham gia các chuyến thực địa, chia sẻ những kiến thức và kinh nghiệm hữu ích về phương pháp và nội dung nghiên cứu.

Chúng tôi xin cảm ơn sự cho phép và tạo điều kiện thuận lợi của UBND, các Sở ban ngành liên quan ở cấp thành phố và cấp quận, huyện nơi tiến hành các đợt theo dõi nghèo đô thị trong 5 năm qua (2008-2012). Chúng tôi xin cảm ơn các thành viên Nhóm nòng cốt ở huyện Đông Anh (TP. Hà Nội), quận Kiến An (TP. Hải Phòng) và quận Gò Vấp (TP. Hồ Chí Minh) gồm cán bộ Sở ban ngành, các tổ chức đoàn thể ở cấp thành phố và quận, huyện, các cán bộ phường, xã đã phối hợp chặt chẽ, dành nhiều thời gian và nỗ lực để hoàn thành công tác thực địa cũng như viết báo cáo theo dõi nghèo của từng điểm khảo sát. Chúng tôi xin đặc biệt cảm ơn các cán bộ khu phố, tổ dân phố, thôn xóm đã cùng tham gia và hỗ trợ công tác thực địa. Sự tham gia tích cực và điều phối nhịp nhàng của các đối tác địa phương của ActionAid gồm Trung tâm vì Người Lao động Nghèo (CWR) trực thuộc LĐLĐ thành phố Hải Phòng, Ban Quản lý Chương trình Hỗ trợ Phát triển quận Gò Vấp trực thuộc UBND quận Gò Vấp (TPHCM) và Ban Công tác Xã hội xã Kim Chung, huyện Đông Anh (Hà Nội) là không thể thiếu để đợt theo dõi nghèo đô thị này được thực hiện thành công.

Cuối cùng, chúng tôi xin bày tỏ những lời cảm ơn chân thành nhất tới những người dân nghèo nam và nữ, những công nhân nhập cư, những thanh niên và trẻ em tại các tổ dân phố, thôn xóm đã dành thời gian chia sẻ những thuận lợi và khó khăn trong đời sống, những nhận xét, dự định và mong muốn trong tương lai của mình thông qua các cuộc thảo luận nhóm và phỏng vấn sâu. Nếu không có sự tham gia tích cực của họ, đợt theo dõi nghèo này đã không thể thực hiện được.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi người quan tâm2. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

Nhóm tư vấn công ty Trường Xuân (Ageless)Hoàng Xuân Thành (Trưởng nhóm), cùng vớiĐinh Thị Thu PhươngHà Mỹ ThuậnĐinh Thị GiangLưu Trọng QuangĐặng Thị Thanh HòaNguyễn Thị HoaTrương Tuấn Anh

2 Các ý kiến đóng góp có thể gửi cho: anh Hoàng Xuân Thành, Trưởng nhóm tư vấn, Giám đốc Công ty Trường Xuân (Ageless): (04) 39434478 (văn phòng), 091 334 0972 (di động), emai: [email protected]; chị Trần Hồng Điệp, Cán bộ Chương trình Vận động Chính sách và Truyền thông, Oxfam, (04) 39454362, email: [email protected]; chị Dương Minh Nguyệt, Cán bộ Điều phối Chính sách, ActionAid Quốc tế tại Việt Nam, (04) 39439866,

email: [email protected].

Page 8: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế
Page 9: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

VTừ viết tắt

TỪ VIẾT TẮTAAV ActionAid Quốc tế tại Việt NamANTT An ninh trật tựBBĐ Bất bình đẳngBHXH Bảo hiểm xã hộiBHYT Bảo hiểm y tếBTXH Bảo trợ xã hộiCĐ Cao đẳngCLB Câu lạc bộCN Công nhânCSHT Cơ sở hạ tầngCWR Trung tâm vì Người Lao động NghèoC&D Trung tâm Hợp tác Phát triển Nguồn Nhân lựcDTTS Dân tộc thiểu sốĐBKK Đặc biệt khó khănĐH Đại họcGD-ĐT Giáo dục - Đào tạoHĐND Hội đồng Nhân dânHIV/AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịchHN Hà NộiHP Hải PhòngHSSV Học sinh sinh viênKCN Khu công nghiệpLĐLĐ Liên đoàn Lao độngLĐ-TBXH Lao động và Thương binh Xã hộiMTTQ Mặt trận Tổ quốcNghị định 49 Chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập (theo

Nghị định số 49/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ)Nghị định 67 Chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội (theo Nghị Nghị định 13 định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 của Chính phủ, được

sửa đổi bổ sung theo Nghị định số 13/2010/NĐ-CP ngày 27/2/2010 của Chính phủ)

NHCSXH Ngân hàng Chính sách Xã hộiNHTG Ngân hàng Thế giới (WB)QHXH Quan hệ xã hộiSXKD Sản xuất kinh doanhTCTK Tổng cục Thống kêTHCS Trung học Cơ sởTHPT Trung học Phổ thôngTPHCM Thành phố Hồ Chí MinhUBND Ủy ban Nhân dânUNDP Chương trình Phát triển Liên hợp quốcVHLSS Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt NamXĐGN Xóa đói giảm nghèoXHH Xã hội hóaXKLĐ Xuất khẩu lao độngWTO Tổ chức Thương mại Thế giới

1 USD ≈ 20.900 VNĐ hoặc đồng (tại thời điểm tháng 11/2012)

Page 10: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế
Page 11: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

VIITóm lược

TÓM LƯỢC

Nghèo tại Việt Nam vẫn thường được coi là một vấn đề chủ yếu ở khu vực nông thôn; nhưng đô thị hóa nhanh chóng đang đặt ra nhu cầu giải quyết những khía cạnh nghèo đặc thù và những hình thức nghèo mới tại khu vực đô thị.

Trong 5 năm qua, cuộc sống của đa số người nghèo đô thị đã được cải thiện, dù mức cải thiện còn chậm. Nhiều hộ gia đình đã vươn lên thoát nghèo nhờ chuyển đổi sinh kế hiệu quả và đầu tư cho giáo dục của con cái. Trong bối cảnh đô thị hóa, việc bị thu hồi đất, thiếu học vấn và tay nghề có thể khiến một số hộ trở nên nghèo khổ hơn, nhưng cũng có thể giúp một số hộ khác có cơ hội chuyển đổi sinh kế để vươn lên, như xây phòng trọ cho thuê và buôn bán dịch vụ nhỏ. Nhiều hộ nghèo đã cố gắng vay mượn, tiết kiệm chi tiêu đầu tư cho con ăn học để sau này có việc làm ổn định với thu nhập cao hơn.

Tỷ lệ nghèo đô thị tại các thành phố lớn của Việt Nam đã ở mức thấp nếu xét đơn thuần theo các tiêu chí thu nhập hoặc chi tiêu. Tuy nhiên, khi nhìn dưới góc độ nghèo đa chiều, tình trạng nghèo đô thị trầm trọng hơn nhiều. Thiếu lao động và tay nghề, thiếu khả năng chuyển đổi sinh kế, thiếu vốn xã hội, hạn chế tiếp cận dịch vụ công, môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn là 5 thiếu hụt cơ bản của người nghèo bản xứ. Người nhập cư nghèo còn chịu thêm bất lợi đặc thù về chi phí cuộc sống cao ở đô thị, thiếu hòa nhập xã hội dẫn đến khó tiếp cận các dịch vụ công và hệ thống an sinh xã hội chính thức.

Người nghèo đô thị gặp nhiều bất lợi khi đối mặt với đa cú sốc trong 5 năm qua, điển hình là lạm phát cao trong năm 2008 và 2011, khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008-2009, và suy giảm tăng trưởng kinh tế trong nước năm 2012. Đa số người nghèo đô thị tiếp cận kém với hệ thống an sinh xã hội, do làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và trong khu vực phi chính thức. Các chính sách hỗ trợ bảo hiểm và các chương trình trợ cấp tiền mặt cần được cải tiến về xác định đối tượng thụ hưởng và mức hỗ trợ.

Chi phí giáo dục cao là một gánh nặng lớn với người nghèo đô thị. Hiện đang có sự mất cân đối về chất lượng nguồn nhân lực (đặc biệt là tay nghề kỹ thuật) với nhu cầu của thị trường lao động. Thanh niên tốt nghiệp THPT đang thiếu các thông tin hướng nghiệp khách quan và chuyên sâu. Các chương trình hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho người nghèo đô thị chưa phát huy hiệu quả như mong muốn. Công nhân làm việc trong các ngành thâm dụng lao động ít được trang bị các kỹ năng có thể chuyển đổi (khi xin việc tại doanh nghiệp khác). Nhiều thanh niên tốt nghiệp cao đẳng, đại học khó tìm kiếm việc làm phù hợp với ngành học.

Người dân ngày càng quan tâm đến các khía cạnh của bất bình đẳng. Chính sách xã hội hóa đã giúp huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp giảm nghèo, giáo dục và y tế. Tuy nhiên, xã hội hóa vẫn thường được hiểu thiên về đóng góp kinh phí cho các dịch vụ, dẫn đến làm tăng gánh nặng tài chính cho người nghèo và góp phần gia tăng bất bình đẳng về tiếp cận dịch vụ.

Kết quả theo dõi nghèo trong 5 năm qua cho thấy, giảm nghèo đô thị tại Việt Nam đang gặp những thách thức mới và cần cách tiếp cận mới. Nếu các thách thức không được giải quyết đúng đắn, chất lượng cuộc sống của người nghèo bản xứ và nhập cư sẽ khó cải thiện, tính dễ bị tổn thương cao, và bất bình đẳng sẽ tiếp tục tăng lên.

Báo cáo này đề xuất tám vấn đề các nhà lập chính sách nên quan tâm: 1. Đo lường nghèo đa chiều để nhận diện đúng tình trạng nghèo đô thị. Cần xây

dựng một hệ thống theo dõi, đánh giá thường xuyên để thiết kế chính sách hỗ trợ các nhóm đặc thù, trong đó bao gồm bộ công cụ đo lường tác động của các cú sốc đến các nhóm khó khăn và dễ bị tổn thương. Đây sẽ là sự cải thiện đáng kể so với các đợt “rà soát nghèo” thuần túy theo thu nhập vào cuối năm.

Page 12: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

VIII Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

2. Thiết kế các chính sách hỗ trợ thích hợp và không phân biệt đối xử đối với người nhập cư, không phụ thuộc vào tình trạng hộ khẩu. Cần hỗ trợ người nhập cư về tìm kiếm và bảo đảm việc làm an toàn, tiếp cận hệ thống an sinh xã hội và giảm chi phí cuộc sống tại đô thị. Có thể cải thiện “vốn xã hội” của người nhập cư bằng cách tạo cơ hội tham gia nhiều hơn vào các hoạt động cộng đồng, dịch vụ tự giúp, sinh hoạt tổ nhóm, các hoạt động văn hóa, truyền thông về pháp luật và các kỹ năng sống với sự tham gia tích cực của các bên liên quan.

3. Qui hoạch đô thị và phân bổ ngân sách dựa trên qui mô tổng dân số bao gồm cả người nhập cư, nhằm từng bước giải quyết sự quá tải của các dịch vụ nhà ở (chú trọng cấp thoát nước, vệ sinh môi trường), dịch vụ giáo dục và y tế, trong đó ưu tiên đầu tư cho các địa bàn ngoại vi thành phố đang chuyển đổi có đông người nghèo và người nhập cư, nhất là những người ở cùng con nhỏ.

4. Đầu tư mạnh hơn cho chương trình giảm nghèo đô thị. Việc làm tại đô thị gắn với và tiền gửi về nhà của người nhập cư đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sinh kế đa dạng hóa của cư dân nông thôn. Do đó, chương trình giảm nghèo đô thị cần được phân bổ nguồn lực thích đáng hơn. Cần thực hiện nghiêm túc hướng dẫn của Bộ LĐ-TBXH về rà soát nghèo với những hộ ở trên địa bàn từ 6 tháng trở lên, không phân biệt về tình trạng hộ khẩu và tình trạng cư trú.

5. Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội toàn diện, dễ tiếp cận,không phân biệt đối xử với người nhập cư ở khu vực đô thị. Đơn giản hóa thủ tục và hợp nhất các chính sách an sinh xã hội rời rạc hiện nay. Mở rộng đối tượng được hỗ trợ mua thẻ BHYT nhằm đạt được mục tiêu BHYT toàn dân. Mở rộng đối tượng được nhận trợ cấp tiền mặt thường xuyên đến toàn bộ nhóm “nghèo lõi” ở đô thị và nhóm nghèo có con nhỏ. Có chính sách trợ cấp kịp thời cho nhóm gặp rủi ro dẫn đến đời sống khó khăn, bao gồm cả người nhập cư. Nâng mức trợ cấp tiền mặt để đạt được hiệu quả thực tế; đồng thời xây dựng cơ chế điều chỉnh kịp thời các mức hỗ trợ theo diễn biến giá cả. Xây dựng cơ chế chi trả thuận tiện và cơ chế tư vấn, giám sát trong các chương trình trợ cấp tiền mặt. Đồng thời, xây dựng cơ chế theo dõi, phản hồi về thực hiện các chính sách an sinh xã hội (thông qua các công cụ thẻ báo cáo công dân, kiểm toán xã hội, chất vấn công khai, phân tích ngân sách địa phương...).

6. Sửa đổi các chính sách hỗ trợ học nghề hiệu quả, dễ tiếp cận với lao động nghèo đô thị, như các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nghề cho công nhân, chính sách hỗ trợ các hình thức vừa học vừa làm gắn với các cơ sở ngành nghề dân doanh, các hiệp hội doanh nghiệp tại đô thị (không nhất thiết chỉ gắn với các “trung tâm dạy nghề” chính thức). Tăng cường cung cấp thông tin hướng nghiệp khách quan, chuyên sâu cho nhóm học sinh tốt nghiệp THPT.

7. Xây dựng cơ chế cụ thể nhằm tăng cường sự tham gia và trao quyền, nhất là trong giáo dục và y tế. Kiểm soát chặt chẽ việc các nhà trường “vận động” cha mẹ phụ huynh đóng góp các khoản khác nhau, nhằm giảm chi phí giáo dục cho người nghèo đô thị.

8. Xây dựng các chính sách hiệu quả hơn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, thúc đẩy trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, thúc đẩy chính thức hóa các hoạt động thuộc khu vực phi chính thức. Các chính sách này trong trung và dài hạn sẽ có tác dụng hỗ trợ người nghèo, người nhập cư giảm rủi ro về việc làm và tiếp cận tốt hơn với hệ thống an sinh xã hội.

Page 13: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

1Giới thiệu

GIỚI THIỆU

MỤC TIÊU CỦA BÁO CÁOViệt Nam đã thay đổi nhanh chóng trong vòng 25 năm qua. Từ chỗ là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trong những năm gần đây. Năm 1993, có gần 60% dân số Việt Nam thuộc diện nghèo; tỷ lệ này đã giảm xuống còn 14% vào năm 20083.

Trong giai đoạn 2007-2012, Chính phủ Việt Nam tiếp tục thực hiện một số chính sách cải cách nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và giúp những hộ gia đình nghèo còn lại thoát nghèo. Việc trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào đầu năm 2007đã đánh dấu một chuyển biến quan trọng của Việt Nam nhằm hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Đất nước đang thay đổi nhanh chóng, mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức cho người dân Việt Nam, đặc biệt là nhóm người nghèo ở cả khu vực nông thôn và thành thị.

Nhằm theo dõi những thay đổi mà Việt Nam trải qua sau khi gia nhập WTO và thực hiện các chính sách cải cách, các tổ chức phi Chính phủ quốc tế gồm Oxfam và ActionAid đã phối hợp với các đối tác địa phương tại những tỉnh mà các tổ chức có chương trình hỗ trợ để xây dựng một mạng lưới theo dõi tình trạng nghèo có sự tham gia nhằm mục tiêu:

“Tiến hành theo dõi định kỳ tình trạng nghèo của các nhóm dễ bị tổn thương tại một số cộng đồng dân cư điển hình, trong bối cảnh gia nhập WTO cùng với các chính sách cải cách của Chính phủ đến năm 2012, nhằm cung cấp các phân tích và đề xuất cho thảo luận chính sách, cũng như cho việc thực hiện các chương trình, dự án của Oxfam, ActionAid và các đối tác”.

Mục đích của việc theo dõi nghèo lặp lại hàng năm là: • Cung cấp các thông tin nghiên cứu định tính hữu ích về tình trạng nghèo và

phát triển bổ sung cho các số liệu thống kê và điều tra nghèo của nhà nước và các tổ chức.

• Xây dựng một mạng lưới quan trắc “cảnh báo sớm” nhằm xác định những thay đổi đời sống người nghèo và dễ bị tổn thương trong bối cảnh gia nhập WTO và các chính sách cải cách của Chính phủ.

• Nâng cao năng lực địa phương và thúc đẩy sự tham gia của người dân vào quá trình theo dõi nghèo phục vụ công tác giảm nghèo một cách hiệu quả và công bằng.

Mạng lưới theo dõi nghèo đô thị được triển khai từ năm 2008 tại thành phố Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2009, mạng lưới theo dõi nghèo đô thị được mở rộng thêm thành phố Hà Nội. Báo cáo tổng hợp kết quả theo dõi nghèo đô thị vòng 1 năm 2008, vòng 2 năm 2009, vòng 3 năm 2010 và vòng 4 năm 2011 đã được ấn hành4.

Báo cáo này trình bày kết quả theo dõi nghèo đô thị liên tục trong 5 năm (từ 2008 đến 2012) tại 3 điểm quan trắc thuộc thành phố Hà Nội, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh.

3 TCTK, “Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam năm 2008”, NXB Thống kê, Hà Nội, 2010. 4 Tham khảo Báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo tổng hợp năm 2008”,

tháng 4 năm 2009, Oxfam và ActionAid Quốc tế tại Việt Nam; Báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo tổng hợp vòng 2 năm 2009”, tháng 11 năm 2009, Oxfam và ActionAid Quốc tế tại Việt Nam; Báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo tổng hợp vòng 3 năm 2010”, tháng 11 năm 2010, Oxfam và ActionAid Quốc tế tại Việt Nam; và Báo cáo “Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo tổng hợp vòng 4 năm 2011”, tháng 10 năm 2011, Oxfam và ActionAid Quốc tế tại Việt Nam.

Page 14: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

2 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Phương pháp nghiên cứuKhảo sát lặp lại hàng nămĐiểm khác biệt của sáng kiến theo dõi nghèo này là khảo sát lặp lại hàng năm để thấy rõ những thay đổi về tình hình giảm nghèo qua các năm tại các điểm khảo sát. Nhóm nòng cốt hàng năm sẽ quay trở lại những địa điểm đã khảo sát, làm lại bài tập phân loại hộ với đúng danh sách của năm trước, phỏng vấn lặp lại một số hộ gia đình và doanh nghiệp điển hình… Duy trì sự tham gia liên tục qua các năm của các thành viên trong Nhóm nòng cốt tại từng thành phố cũng giúp cho việc theo dõi những thay đổi về tình trạng nghèo theo thời gian tại các điểm khảo sát thuận lợi hơn.

Địa điểm khảo sátTại mỗi thành phố sẽ chọn một (01) phường hoặc xã mang tính điển hình về tình trạng nghèo của người bản xứ và người nhập cư. Dựa vào quan hệ làm việc sẵn có của AAV và Oxfam với đối tác địa phương, các địa điểm tiến hành theo dõi nghèo đô thị được lựa chọn như sau:

• Thành phố Hà Nội: theo dõi nghèo được tiến hành tại xã Kim Chung thuộc huyện ngoại thành Đông Anh, nơi tập trung các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong Khu công nghiệp Bắc Thăng Long

• Thành phố Hải Phòng: theo dõi nghèo lặp lại được tiến hành tại phường Lãm Hà thuộc quận ven đô Kiến An.

• Thành phố Hồ Chí Minh: theo dõi nghèo lặp lại được tiến hành tại phường 6 thuộc quận ven đô Gò Vấp.

Trong mỗi phường hoặc xã, hai (02) tổ dân phố hoặc thôn xóm được lựa chọn để tiến hành theo dõi nghèo. Như vậy, tổng cộng có 3 phường/xã và 6 tổ dân phố/thôn xóm tham gia vào đợt khảo sát nghèo đô thị.

Mục tiêu của mạng lưới theo dõi nghèo không nhằm đưa ra các số liệu thống kê mang tính đại diện, mà nhằm cung cấp các minh chứng định tính và ý kiến chia sẻ của người dân phục vụ cho thảo luận chính sách và xây dựng các chương trình phát triển. Do vậy, các xã, phường được lựa chọn có mục đích thể hiện sự đa dạng giữa các điểm khảo sát (Bảng 1).

BẢNG 1. Các điểm khảo sát nghèo đô thị

Nguồn: Phiếu thông tin cấp phường/xã, số liệu đến tháng 8/2012

Phường/ xã

Kim Chung

Lãm Hà

Phường 6

Quận/ huyện

Đông Anh

Kiến An

Gò Vấp

Thành phố

Hà Nội

Hải Phòng

TP.HCM

Vị trí địa lý

Ngoại thành

Ngoại vi đô thị

Ngoại vi đô thị

Tổng diện

tích đất(ha)

395

175

165

Tổng số hộ gia đình

thường trú (hộ)

2,822

3,344

2,600

Tổng số nhân khẩu thường trú

(người)

10,913

12,652

14,976

Tổng số nhân khẩu

tạm trú (người)

24,305

4,500

14,599

Tỷ lệ hộ nghèo tại thời điểm khảo sát

7/2012 (%)

2.1

0.4

1.8

Page 15: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

3Giới thiệu

Thành phố

Quận/Huyện

Phường/Xã

Tổ dân phố/Thôn xóm

Tổng số hộ thường trú (hộ)

Tổng số nhân khẩu thường trú

Tổng số nhân khẩu tạm trú

Tỷ lệ hộ nghèo cuối 2011 (%)

Tỷ lệ hộ cận nghèo cuối 2011 (%)

Tỷ lệ hộ sử dụng nước vòi (%)

Tỷ lệ hộ sử dụng điện lưới (%)

Tỷ lệ hộ có hố xí tự hoại/bán tự hoại (%)

Tỷ lệ hộ sống trong nhà tạm (%)

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi SDD (%)

Tổng số người đang nhận trợ giúp XH hàng tháng (theo NĐ 67/CP)

Trong đó:

Trẻ em mồ côi

Người cao tuổi cô đơn

Người tàn tật

Người nhiễm HIV/AIDS

Người đơn thân nuôi con còn nhỏ

Tỷ lệ trẻ nhập học trong độ tuổi tiểu học (%)

Tỷ lệ trẻ nhập học trong độ tuổi trung học cơ sở (%)

Tỷ lệ trẻ nhập học trong độ tuổi trung học phổ thông (%)

Số hộ đang vay các nguồn vốn ưu đãi (hộ, tương đương % tổng số hộ)

Thôn Nhuế

950

3.685

2.743

1,9

0,7

65

100

100

0

11

21

0

1

14

2

4

100

100

100

150(15,8%)

Tổ 3(tổ 2 cũ)

156

568

0

0

0

100

100

100

0

0

1

0

0

1

0

0

100

100

100

31(20%)

Tổ 25

60

240

405

0

0

100

100

100

0

0

0

0

0

0

0

0

100

100

100

5(9,4%)

Thôn Bầu

1.026

4.122

15.878

2,3

0,4

100

100

100

0,1

0,1

10

0

0

7

0

3

100

100

100

214(20,8%)

Tổ 14(tổ 30

cũ)

166

700

130

0,6

1,2

100

100

100

0

0

4

0

1

0

0

3

100

100

100

5(5%)

Tổ 27

64

428

490

32,8

15,6

70

100

100

0

0

2

0

0

2

0

0

100

100

100

18(28%)

TP. Hà Nội

Đông Anh

Kim Chung

TP. Hải Phòng

Kiến An

Lãm Hà

TP. Hồ Chí Minh

Gò Vấp

Phường 6

Một số đặc điểm chính của 6 tổ dân phố/thôn là các điểm khảo sát trong theo dõi nghèo đô thị được nêu ở Bảng 2.

BẢNG 2. Một số đặc điểm của 6 tổ dân phố/thôn khảo sát

Nguồn: Phiếu thông tin cấp tổ dân phố/thôn xóm, số liệu đến tháng 8/2012(Chú thích: N/A – không có số liệu)

Page 16: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

4 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Nhóm nòng cốt thực hiện theo dõi nghèoMột nhóm nòng cốt về theo dõi nghèo của từng quận/huyện được thành lập bao gồm 15-20 người:

• ĐạidiệncácđốitácđịaphươngcủachươngtrìnhActionAidtrênđịabàn,nhưTrung tâm vì Người Lao động Nghèo (CWR) tại TP. Hải Phòng và Ban Quản lý Chương trình Hỗ trợ Phát triển quận Gò Vấp tại TPHCM.

• ĐạidiệnmộtsốcơquancấpthànhphốnhưSởLĐ-TBXH,HộiPhụnữvàLiênđoàn Lao động.

• Đạidiệncáccơquancấpquận/huyệnnhưphòngLĐ-TBXH,phòngTàichính-Kế hoạch, phòng Tài nguyên-Môi trường và Hội Phụ nữ.

• Đạidiện từcácphường/xã, tổdânphố/thônxómđược lựachọn tiếnhànhkhảo sát.

Nhóm nòng cốt có trách nhiệm trực tiếp tiến hành các công việc theo dõi tình trạng nghèo tại các điểm khảo sát trên địa bàn mình, từ khâu tổ chức, triển khai thu thập thông tin và tóm tắt thông tin thực địa. Nhóm nòng cốt được tập huấn nâng cao năng lực và hỗ trợ kỹ thuật của Nhóm tư vấn công ty Trường Xuân (Ageless) và cán bộ chương trình Oxfam, ActionAid.

Khung theo dõi nghèo đô thịVòng theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia lần thứ năm trong năm 2012 gồm 3 chủ đề chính liên kết với nhau.

Chủ đề 1: Tổng quan nghèo đô thị: diễn biến nghèo đô thị theo các phương pháp đo lường khác nhau, nhận xét của người dân về quá trình rà soát nghèo, cảm nhận thay đổi cuộc sống; nhận thức về bất bình đẳng và xã hội hóa ở đô thị. Chủ đề này nhằm cung cấp một bức tranh chung về nghèo đô thị và người nghèo bản xứ tại các điểm quan trắc thông qua tiếng nói của chính người dân và cán bộ cơ sở.

Chủ đề 2: Nghèo đa chiều: các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị. Chủ đề này nhằm tổng kết các khía cạnh nghèo đô thị và các vấn đề mới nổi liên quan đến người nghèo bản xứ và người nhập cư.

Chủ đề 3: Nghèo đô thị và người nhập cư: các khía cạnh đặc thù của nghèo đô thị liên quan đến nhóm nhập cư làm việc trong khu vực phi chính thức và công nhân nhập cư. Chủ đề này tìm hiểu về đặc điểm, học vấn, tay nghề, điều kiện sống, kế sinh nhai, tính dễ bị tổn thương của nhóm nhập cư tại khu vực đô thị.

Đợt theo dõi nghèo đô thị vòng 5 năm 2012, bên cạnh việc tổng kết những thay đổi trong 5 năm qua (2008-2012) của nghèo đô thị, còn khảo sát kỹ hơn một số đề tài trọng tâm có ảnh hưởng lớn đến giảm nghèo đô thị trong bối cảnh mới, gồm học vấn và tay nghề, tính dễ bị tổn thương và an sinh xã hội, nhận thức về bất bình đẳng, xã hội hóa, và các vấn đề đặc thù của người nhập cư.

Khảo sát thực địaVòng theo dõi nghèo đô thị thứ năm được tổ chức từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2012. Thời gian khảo sát thực địa theo phương pháp cùng tham gia tại mỗi phường/xã trong vòng 1 tuần. Các công cụ thu thập số liệu chính là:

Thảo luận nhóm: được thực hiện với nhóm cán bộ phường/xã, nhóm nòng cốt tổ dân phố/thôn xóm và với các nhóm dân cư địa phương gồm nhóm nam, nhóm nữ, nhóm nghèo, nhóm không nghèo, nhóm cán bộ viên chức, nhóm thanh niên và một số nhóm nhập cư (công nhân nhập cư, bán hàng rong, chạy xe ôm, thợ xây, đấm bóp, ve chai). Các công cụ đánh giá có sự tham gia như xếp loại mức sống hộ, đường thời gian, bài tập bìa màu, liệt kê và xếp hạng, sơ đồ phân tích sinh kế... đã được sử dụng để hiểu hơn về phân hóa giàu

Page 17: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

5Giới thiệu

nghèo, tiểu sử cộng đồng, diễn biến sinh kế, bối cảnh rủi ro, phản hồi của người dân về việc thực hiện các chương trình và dự án ở địa phương. Theo dõi nghèo đô thị vòng 5 năm 2012 đã thực hiện được 63 cuộc thảo luận nhóm với sự tham gia của 365 người dân, công nhân nhập cư và cán bộ cơ sở, trong đó có 152 nam giới và 213 phụ nữ, hầu hết là người Kinh.

Phỏng vấn sâu ghi lại câu chuyện điển hình: phỏng vấn sâu một số hộ nghèo, cận nghèo, thoát nghèo, tái nghèo điển hình (trong đó có các hộ thuộc diện nghèo nhất, phụ nữ làm chủ hộ), hộ khá, hộ nhập cư tại mỗi tổ dân phố/thôn xóm để hiểu sâu hơn quan niệm về nghèo, điều kiện sống, tình trạng dễ bị tổn thương, cách chống đỡ vượt qua khó khăn và phản hồi về chính sách. Theo dõi nghèo đô thị vòng 5 năm 2012 đã thực hiện được 94 cuộc phỏng vấn sâu, trong đó có 28 người là nam giới, 66 người là nữ giới.

Phiếu phỏng vấn nhóm công nhân nhập cư: sử dụng một bảng hỏi dành riêng cho nhóm công nhân nhập cư làm việc trong các doanh nghiệp, tập trung vào tìm hiểu thông tin về đặc điểm nhân khẩu, điều kiện sống và làm việc, tính dễ bị tổn thương. Địa điểm phỏng vấn tại một số khu nhà trọ công nhân trên địa bàn, chọn mẫu theo phương pháp bắt gặp ngẫu nhiên. Do đặc điểm công nhân thường thay đổi nơi làm việc và nơi ở trọ, nên mẫu điều tra năm 2012 không lặp lại mẫu điều tra trong các năm trước. Theo dõi nghèo đô thị vòng 5 năm 2012 đã hoàn thành được 180 phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư tại Hà Nội, Hải Phòng và TPHCM. Trong số 180 người trả lời phiếu phỏng vấn có 55 người là nam giới, 125 người là nữ giới; 175 người Kinh và 5 người DTTS.

Phiếu thông tin: cán bộ theo dõi cung cấp các số liệu thống kê về phường/xã và tổ dân phố/thôn xóm tiến hành khảo sát. Quan sát trực tiếp và chụp ảnh là công cụ cung cấp các thông tin bổ sung.

Phỏng vấn cán bộ: Ngoài các công cụ trên đây, chuyến khảo sát còn thực hiện 10 cuộc phỏng vấn cán bộ các ban ngành cấp quận/huyện.

Phương pháp kiểm tra chéo thông tin trong nghiên cứu định tính được sử dụng xuyên suốt báo cáo, nhằm cố gắng đưa ra các nhận xét đã được kiểm chứng qua nhiều nguồn thông tin, như số liệu báo cáo của địa phương, thảo luận nhóm, phỏng vấn sâu, số liệu phỏng vấn bảng hỏi và quan sát, phân tích của nhóm nghiên cứu.

Báo cáo tổng hợp 5 năm này phản ánh các kết quả khảo sát chính thu được từ các điểm quan trắc thuộc ba thành phố trong giai đoạn 2008-2012, nhấn mạnh vào những thay đổi được người dân cảm nhận về tình trạng nghèo đô thị và những thông điệp chính sách rút ra từ diễn biến nghèo tại các điểm quan trắc5. Cấu trúc của báo cáo gồm 4 Phần, trong đó Phần 1 nêu tổng quan về diễn biến nghèo đô thị trong 5 năm qua; Phần 2 trình bày các khía cạnh đa chiều của người nghèo bản xứ và người nghèo nhập cư tại khu vực đô thị; Phần 3 nêu một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị; và Phần 4 là các kết luận và khuyến nghị hướng đến giảm nghèo đô thị bền vững tại Việt Nam.

5 Các thông tin thứ cấp được trích nguồn riêng. Các thông tin không trích nguồn trong báo cáo này được tổng hợp từ ghi chép thực địa theo dõi nghèo đô thị trong 5 năm từ 2008 đến 2012 tại 3 thành phố Hà Nội, Hải Phòng và TPHCM.

Page 18: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế
Page 19: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

PHẦN 1.TỔNG QUAN VỀ NGHÈO ĐÔ THỊ

Page 20: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

8 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Page 21: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

9PHẦN 1. Tổng quan về nghèo đô thị

PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ NGHÈO ĐÔ THỊViệt Nam đang trải qua quá trình đô thị hóa nhanh chóng. Dự báo đến năm 2020 dân số đô thị sẽ đạt tỷ lệ 45% tổng dân số, so với gần 30% năm 20096. Đô thị hóa nhanh chóng dẫn đến nghèo ở Việt Nam ngày càng trở thành một vấn đề ở đô thị, cũng như ở nông thôn.

1.DIỄN BIẾN NGHÈO ĐÔ THỊ: CÁC ĐO LƯỜNG KHÁC NHAUTình trạng nghèo tại Việt Nam thường được đo định lượng bằng chuẩn nghèo chi tiêu của Ngân hàng Thế giới/Tổng cục Thống kê (NHTG/TCTK) hoặc chuẩn nghèo thu nhập của Chính phủ. Nghèo đa chiều còn có thể đánh giá định tính qua nhận thức của người dân.

1.1. Chuẩn nghèo chi tiêu của NHTG và TCTKChuẩn nghèo chi tiêu của NHTG/TCTK được xây dựng từ năm 1993 và được cập nhật theo biến động giá ở các năm có thực hiện Khảo sát mức sống hộ gia đình Việt Nam (VHLSS). Tỷ lệ nghèo đô thị theo chuẩn nghèo chi tiêu của NHTG/TCTK giảm rất chậm trong giai đoạn 2004-2008 (Bảng3). Lý do chính là nghèo đô thị theo cách đo tiền tệ này đã đi vào “lõi”, tỷ lệ nghèo còn rất thấp nên khó giảm thêm. Tác động của các rủi ro và cú sốc cũng làm chậm tiến trình giảm nghèo. Người nghèo ở khu vực đô thị phụ thuộc vào kinh tế tiền mặt, do đó chịu ảnh hưởng bất lợi trực tiếp của việc làm bấp bênh và giá cả tăng cao trong thời gian qua.

Năm 2010, NHTG/TCTK đã đề xuất một chuẩn nghèo chi tiêu mới cao hơn hẳn so với chuẩn nghèo cũ sử dụng từ năm 1993 cho phù hợp với cơ cấu chi tiêu hiện tại của hộ gia đình Việt Nam và biến động giá cả theo thời gian và theo vùng. Theo chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ nghèo đô thị năm 2010 là 6% (so với tỷ lệ rất thấp là 3,3% năm 2008 theo chuẩn nghèo cũ). Tỷ lệ nghèo đô thị cao hơn tại các thành phố nhỏ - những nơi có đặc điểm “giống với vùng nông thôn” nhiều hơn so với các thành phố lớn. Hiện tại, số lượng người nghèo ở khu vực đô thị chiếm 8,6% tổng số người nghèo ở Việt Nam năm 20107. BẢNG 3. Tỷ lệ người nghèo tại Việt Nam theo chuẩn nghèo chi tiêu của NHTG/TCTK, giai đoạn 1993–2010 (%)

6 Năm 2009, Việt Nam có 29,6% dân số sống ở khu vực thành thị so với 23,7% vào năm 1999. Giữa hai cuộc Tổng điều tra dân số năm 1999 và 2009, tỷ lệ tăng bình quân năm của dân số thành thị là 3,4%/năm, trong khi ở khu vực nông thôn là 0,4%/năm. Nguồn: TCTK, Kết quả Tổng điều tra dân số năm 2009.

7 Ngân hàng Thế giới, “Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới”, tháng 6/2012.

Cả nước

Đô thị

Nông thôn

1993

58.1

25.1

66.4

1998

37.4

9.5

44.9

2002

28.9

6.6

35.6

2004

19.5

3.6

25.0

2006

16.0

3.9

20.4

2008

14.5

3.3

18.7

2010

20.7

6.0

27.0

Nguồn: • TCTK,“Kếtquảkhảosátmứcsốnghộgiađìnhnăm2008”,NXBThốngkê,HàNội,2010 • NgânhàngThếgiới,“Khởiđầutốt,nhưngchưaphảiđãhoànthành:ThànhtựuấntượngcủaViệt

Nam trong giảm nghèo và những thách thức mới”, tháng 6/2012.Ghi chú: • Chuẩnnghèochitiêumớiápdụngtừnăm2010theođềxuấtcủaNHTG/TCTKlà 653.000 đồng/

người/tháng,

Page 22: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

10 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

2004

18.1

8.6

21.2

2006

15.5

7.7

17.0

2008

13.4

6.7

16.1

2010

10.7

5.1

13.2

2010

14.2

6.9

17.4

2011

12.6

5.1

15.9

1.2. Chuẩn nghèo thu nhập chung của Chính phủCứ 5 năm một lần Chính phủ lại ban hành chuẩn nghèo thu nhập mới để tiến hành tổng rà soát hộ nghèo trên toàn quốc, làm căn cứ để thực hiện các chính sách an sinh xã hội. Theo chuẩn nghèo thu nhập của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ hộ nghèo đô thị giảm chậm ở mức hơn 1 điểm phần trăm 1 năm.

Tại thời điểm cuối năm 2010, Chính phủ đã ban hành chuẩn nghèo thu nhập mới cho giai đoạn 2011-2015 tăng gần gấp đôi so với chuẩn nghèo thu nhập cũ giai đoạn 2006-2010. Theo chuẩn nghèo mới thì tỷ lệ hộ nghèo đô thị toàn quốc năm 2010 đã tăng gần 2 điểm phần trăm, nhưng sang năm 2011 tỷ lệ nghèo đô thị theo chuẩn nghèo mới đã giảm về mức của năm 2010 theo chuẩn nghèo cũ (Bảng 4)..

1.3. Chuẩn nghèo thu nhập riêng của từng địa phương Theo qui định của Việt Nam, mỗi tỉnh/thành phố có thể đề ra chuẩn nghèo thu nhập riêng của mình tùy thuộc vào mặt bằng giá cả và mức sống dân cư ở từng địa phương, miễn là không thấp hơn chuẩn nghèo thu nhập chung của Chính phủ.

Căn cứ vào mức chi phí cuộc sống tại đô thị và khả năng cân đối ngân sách thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo của từng thành phố, Hà Nội và TP HCM đã liên tục điều chỉnh tăng chuẩn nghèo riêng của mình. Đầu năm 2011, thành phố Hà Nội đã ban hành chuẩn nghèo riêng cao hơn gấp rưỡi so với chuẩn nghèo chung của Chính phủ. TP HCM đã áp dụng chuẩn nghèo riêng từ năm 2009 cao hơn gấp đôi so với chuẩn nghèo mới của Chính phủ. Riêng thành phố Hải Phòng, sau duy nhất một năm 2010 áp dụng chuẩn nghèo riêng, sang năm 2011 đã quay trở lại sử dụng chuẩn nghèo chung của Chính phủ (Bảng 5). Trong bối cảnh chi phí sinh hoạt cao ở các đô thị lớn, tăng chuẩn nghèo giúp nhận diện chính xác hơn tình trạng nghèo. Chi phí sinh hoạt ở Hải Phòng cao không kém gì Hà Nội, nên chuẩn nghèo thu nhập thấp của Hải Phòng có thể không phản ánh được thực tế của tình trạng nghèo tại đây.

BẢNG 4. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam theo chuẩn nghèo thu nhập của Chính phủ, giai đoạn 2006-2011 (%)

Nguồn: • TCTK,“MộtsốkếtquảchủyếutừKhảosátmứcsốnghộdâncưnăm2010”,tháng6/2011; • Sốliệunghèonăm2011theothôngcáo“Tìnhhìnhkinhtế-xãhộiquý1năm2012”củaTCTKtrên

trang webhttp://www.gso.gov.vn/default.aspx?tabid=621&ItemID=12291Ghi chú: • ChuẩnnghèocũcủaChínhphủgiaiđoạn2006-2010làthunhậpbìnhquântừ200.000đồng/người

tháng trở xuống ở nông thôn và từ 260.000 đồng/người/tháng ở thành thị. Tỷ lệ hộ nghèo các năm 2004, 2006, 2008 và 2010 được TCTK tính theo chuẩn nghèo giai đoạn 2006-2010 có điều chỉnh theo trượt giá của từng năm tương ứng.

• ChuẩnnghèomớicủaChínhphủgiaiđoạn2011-2015 là thunhậpbìnhquân từ400.000đồng/người/tháng trở xuống ở nông thôn và từ 500.000 đồng/người/tháng trở xuống ở thành thị (Quyết định số 09/2011/QĐ-TTg ngày 30/1/2011 của Thủ tướng Chính phủ)

Chuẩn nghèo thu nhập cũ Chuẩn nghèo thu nhập mới

Cả nước

Đô thị

Nông thôn

Page 23: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

11PHẦN 1. Tổng quan về nghèo đô thị

2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Phường/xã

Xã Kim Chung

Phường Lãm Hà

Phường 6

Quận/ huyện

Đông Anh

Kiến An

Gò Vấp

Thành phố

Hà Nội

Hải Phòng

TPHCM

Vị tríđịa lý

Ngoại thành công nghiệp

hóa

Ngoại vi đô thị hóa

Ngoại vi đô thị hóa

2005

-

-

3.6

2006

6.6

1.54

2.2

2007

3.8

0.93

1.26

2008

1.7

0.68

0

đầu 2009

5.0

-

9.1

cuối 2009

5.2

0.51

8.1

đầu 2010

-

1.28

-

cuối 2010

3.1

0.5

5.76

cuối 2011

2.1

0.44

2.58

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo cũ (%)

Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo mới (%)

200.000 ở nông thôn260.000 ở đô thị

270.000 ở nông thôn350.000 ở đô thị

200.000 ở nông thôn260.000 ở đô thị

500.000

330.000 ở nông thôn500.000 ở đô thị

400.000 ở nông thôn500.000 ở đô thị

550.000 ở nông thôn750.000 ở đô thị

400.000 ở nông thôn500.000 ở đô thị

300.000 ở nông thôn390.000 ở đô thị

1.000.000 (không phân biệt nông thôn hay đô thị)

BẢNG 5. Chuẩn nghèo của Chính phủ và chuẩn nghèo riêng của ba thành phố lớn trong từng thời kỳ (thu nhập bình quân: đồng/người/tháng)

BẢNG 6. Tỷ lệ hộ nghèo tại các điểm quan trắc, giai đoạn 2005-2011

Nguồn: Các quyết định về chuẩn nghèo của UBND TP Hà Nội, TP Hải Phòng và TP HCM

Nguồn: Số liệu rà soát hộ nghèo 2005-2011 tại các điểm quan trắc

Tương ứng với chuẩn nghèo thu nhập riêng của từng thành phố, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2011ở ba điểm quan trắc tiếp tục giảm, và hiện đều ở mức rất thấp (Bảng 6). Tiền lương, tiền công của người dân đã tăng lên theo xu hướng lạm phát chung cũng đóng góp vào xu hướng giảm tỷ lệ hộ nghèo chính thức. Riêng tại phường Lãm Hà (Hải Phòng) hầu như chỉ còn nhóm “nghèo lõi” nên tỷ lệ hộ nghèo khó giảm thêm. Tuy nhiên, Hải Phòng áp dụng chuẩn nghèo chung của Chính phủ, nên tỷ lệ nghèo sẽ cao hơn nếu Hải Phòng áp dụng chuẩn nghèo phù hợp với mặt bằng giá cả địa phương.

Quá trình rà soát nghèo tại các điểm quan trắc đã kỹ lưỡng hơn trong 5 năm qua. Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) thực hiện phiếu điều tra thu nhập theo mẫu riêng của TP HCM, chi tiết hóa các khoản thu ở khu vực đô thị (so với mẫu phiếu điều tra thu nhập của Bộ LĐ-TBXH có nhiều hạng mục chỉ phù hợp với khu vực nông thôn). Phường Lãm Hà (Hải Phòng) đã có sáng kiến thiết kế thêm phần chi tiêu trong phiếu điều tra nhằm kiểm tra chéo thông tin do hộ gia đình kê khai, đảm bảo chính xác hơn. Cán bộ phường/xã đã phối hợp với cán bộ tổ dân phố/thôn đến tận từng hộ gia đình để nắm rõ thực tế đời sống hộ, giảm thiểu tình trạng “lọt và sót” hộ nghèo. Một số tồn tại ghi nhận ở các năm 2010 trở về trước như tính cả tiền trợ cấp xã hội vào thu nhập của hộ, đưa những hộ mới xây nhà ra khỏi nghèo không xét đến thu nhập… đã được khắc phục.

Chuẩn nghèo chung của Chính phủ

Chuẩn nghèo riêng của TP. Hà Nội

Chuẩn nghèo riêng của TP. Hải Phòng

Chuẩn nghèo riêng của TP. HCM

Page 24: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

12 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn và hạn chế trong quá trình rà soát hộ nghèo tại khu vực đô thị. Rất khó nắm bắt thu nhập tiền mặt với các ngành nghề phi chính thức, và khó kiểm chứng thông tin tự khai về thu nhập của hộ gia đình.

Tài liệu nghiệp vụ điều tra xác định hộ nghèo giai đoạn 2011-2015 của Bộ LĐ-TBXH đã qui định đưa toàn bộ các hộ gia đình đã sinh sống trên địa bàn từ 6 tháng trở lên không phụ thuộc vào tình trạng hộ khẩu (có hay không) và tình trạng cư trú (đăng ký thường trú, tạm trú hoặc thậm chí không đăng ký) vào diện điều tra nghèo8. Thực tế tại các điểm quan trắc, mới chỉ có một số ít hộ tạm trú dài hạn hoặc có nhà đất ổn định được đưa vào diện điều tra nghèo. Hầu hết hộ nhập cư ở trọ chưa được xét đến.

Có một số lý do khiến hầu hết người nhập cư chưa được đưa vào bình xét nghèo tại đô thị. Thứ nhất, khái niệm “hộ nhập cư” chưa được làm rõ. Các cán bộ cơ sở tại các điểm quan trắc cho biết, họ rất khó xác định thế nào là một “hộ nhập cư” và không được hướng dẫn cụ thể về điều này. Trong tài liệu nghiệp vụ của Bộ LĐ-TBXH cũng thiếu một bước qui trình “lập danh sách hộ rà soát nghèo”, thiếu qui định cụ thể “thế nào là hộ nhập cư”. Vì vậy, cán bộ cơ sở thường chỉ đưa một số trường hợp dễ nhận biết là hộ nhập cư vào diện bình xét nghèo, và không đưa vào bình xét những trường hợp khó nhận biết hơn.

--- “Chúng tôi công nhận ở đây có nhiều người nhập cư trên 6 tháng, nếu tính ra số lượng thì không kém dân có hộ khẩu ở đây. Nhưng Nhà nước không xét nghèo cho cá nhân, mà hộ nhập cư thì chúng tôi cũng không xác định được, có văn bản nào đâu, phường cũng không chỉ ra được. Chỉ những trường hợp đã quá rõ ràng rồi, họ có vợ chồng con cái, có nhà, hoặc cả nhà thuê lưu cữu ở đây lâu rồi thì mới đưa vào. Chứ những người khác, kể cả hai bố con vào làm ăn ở đây chúng tôi cũng không thể xác nhận họ là hộ gia đình để mà bình xét.”

(Nhóm cán bộ Khu phố 4, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Thứ hai, chưa có cơ chế và quy trình kiểm tra liên thông giữa nông thôn (nơi xuất cư) và thành thị (nơi nhập cư). Cán bộ làm công tác rà soát nghèo ở các địa bàn đô thị thường lo ngại hộ nhập cư vẫn được xét nghèo ở quê nhà, hoặc hộ nhập cư có đời sống tạm bợ tại đô thị nhưng vẫn có nhà cửa khang trang và có các thu nhập từ nông nghiệp tại quê. Thứ ba, tại những địa bàn ven đô thị có đông hộ nhập cư sinh sống, nếu đưa toàn bộ hộ nhập cư vào diện rà soát nghèo sẽ cần thêm rất nhiều nhân lực, thời gian và kinh phí để thực hiện rà soát nghèo. Cán bộ địa phương cũng lo ngại không có ngân sách để thực hiện các chính sách hỗ trợ “phát sinh” đối với nhóm nhập cư này.

1.4. Nhận thức người dân về thay đổi cuộc sống trong 5 năm quaHầu hết cán bộ cơ sở và người dân cho rằng, đời sống chung được cải thiện trong 5 năm qua. Bài tập phân loại hộ tại 6 tổ dân phố và thôn thuộc diện khảo sát cho thấy, trong 5 năm qua nhóm hộ có đời sống đi lên rõ rệt thường chiếm tỷ lệ 55-65%; nhóm hộ có đời sống đi lên vừa phải chiếm khoảng 30-35%; và khoảng 5-10% còn lại là nhóm hộ có đời sống đi lên với tốc độ rất chậm, thậm chí có số ít không cải thiện (Bảng 7).

Nhóm đi lên rõ rệt thường là những người có nhiều phòng trọ cho thuê, con cái đi làm có thu nhập cao, hoặc kinh doanh buôn bán lớn, gia đình không ai ốm đau bệnh tật. Nhóm đi lên vừa phải có vài ba phòng trọ, kinh doanh buôn bán nhỏ, hoặc lao động tự do nhưng có nguồn thu ổn định và một số hộ có lương hưu, con cái đã lớn có công ăn việc làm ổn định. Nhóm có đời sống đi lên chậm là những hộ già cả cô đơn, bệnh tật, con nhỏ, đơn thân, công việc làm thuê lao động thủ công bấp bênh hoặc làm ruộng. Riêng Tổ 14, phường Lãm Hà (Hải Phòng), theo đánh giá của cán bộ và người dân, tỷ lệ hộ có đời sống đi lên rõ rệt khá thấp (chỉ khoảng 25%), rơi vào một số hộ làm dịch vụ vận tải có nhiều hợp đồng và hộ kinh doanh buôn bán tốt. Nguyên nhân chính là đa số hộ gia đình trong Tổ14 thiếu những đột phá về sinh kế - chủ yếu làm nghề tự do hoặc làm xích lô thu nhập thấp và bấp bênh.

8 Nguồn: trang web của Bộ LĐ-TBXH: http://giamngheo.molisa.gov.vn/vn/Tinhhinhthuchien/Chidaodieuhanh

Page 25: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

13PHẦN 1. Tổng quan về nghèo đô thị

BẢNG 7. Đặc điểm của 3 nhóm hộ tại các điểm quan trắc trong 5 năm qua (2008-2012)

Nguồn: Thảo luận nhóm cán bộ thôn/tổ dân phố và người dân, tháng 7-8/2012

Dù còn khó khăn, chất lượng cuộc sống của người nghèo đô thị đã được cải thiện trong 5-10 năm qua.

--- “5 năm về trước chúng tôi không có tiền mua thịt ăn nhưng đến nay đã dám mua thịt ăn, kinh tế trong nhà cũng khá hơn rồi. Nhà giàu họ ăn 1kg thịt mông, mình thì cũng phấn đấu hàng ngày 2 lạng thịt.”

(Nhóm nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Giờ nghèo nhưng cũng mãn nguyện rồi, trước đây nghèo thiếu thốn đủ thứ, giờ nghèo nhưng nhà cửa, đường sá cũng tốt hơn, trước lấy gì mà ăn, giờ các cháu đều được đi học, mình cũng mua được thịt, đậu…”

(Nhóm khó khăn Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Giàu, nghèo như nhau, bây giờ hộ nào cũng phải cho con ăn học hết cấp 3.”(Nhóm trung bình khá Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Cán bộ cơ sở và người dân thường phân biệt người nghèo đô thị thành hai nhóm rõ rệt: nghèo kinh niên (hộ khó có khả năng thoát nghèo) và nghèo tạm thời (có khả năng thoát nghèo). Trong đó, hộ nghèo kinh niên thường chiếm khoảng 20-30% trong tổng số hộ nghèo còn lại ở Kim Chung (Hà Nội) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), và chiếm hầu hết trong số hộ nghèo còn lại ở Lãm Hà (Hải Phòng) - nơi sử dụng chuẩn nghèo chung của Chính phủ. Sự khác biệt giữa hộ nghèo kinh niên và hộ nghèo tạm thời thể hiện rõ nhất ở đặc điểm lao động. Hộ nghèo tạm thời có số lao động cao hơn (2-3 lao động), có ý chí làm ăn nhưng đông người ăn theo, gặp rủi ro (sức khỏe, làm ăn), công việc hiện tại chưa ổn định. Đời sống những hộ này trong 5 năm vừa qua có những cải thiện nhưng còn chậm.

--- “Có nhà có đông con cái đi học, có nhà thì gặp rủi ro bệnh tật nhưng họ có lao động, có ý chí làm ăn, nếu được hỗ trợ thì sẽ khá lên.”

(Nhóm cán bộ Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Kim Chung(Hà Nội)

Lãm Hà(Hải Phòng)

Phường 6(Gò Vấp, TP

HCM)

Nhóm 1:Hộ có đời sống cải thiện

rõ rệt

Nguồn thu ổn định: làm ăn kinh doanh lớn (như kinh doanh Vật liệu xây dựng); có nhiều phòng trọ; bán buônCon cái có nghề ổn định, thu nhập cao

Làm vận tảiBuôn bán thuận lợi, có cửa hàng, kiot, tham gia chơi họ để tích lũy.

Gia đình không ai ốm đau Nhiều phòng trọ cho thuê, kinh doanh buôn bán lớn

Nhóm 2:Hộ có đời sống cải

thiện vừa phải

Có ít phòng cho thuê hơn so với nhóm 1Kinh doanh, buôn bán nhỏCon cái lớn có việc làm

Có nguồn thu nhập ổn định từ lao động tự doLàm công nhân trong các nhà máyCó phòng cho thuê

Có phòng cho thuê,có lương hưuCon lớn có việc ổn định

Nhóm 3:Hộ có đời sống cải thiện

chậm

Cô đơn, già cả, bệnh tật;Đông conLàm ruộng, không có nhà trọMột số vướng vào nghiện hút

Thiếu lao động; ốm đau, già cả, con nhỏ, vướng vào nghiện hút… Thiếu kiến thức làm ăn, không dám vay vốn. Công việc bấp bênh

Không có hoặc có ít phòng cho thuêCon cái lao động tự doHộ già cả, có người bệnh tậtNgười bản xứ không có nhà, phải thuê ở trọ

Page 26: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

14 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Hộ nghèo kinh niên hầu hết chỉ có 1 lao động chính, thường là các hộ đơn thân nuôi con nhỏ, già cả neo đơn, tàn tật nặng, không có đất đai… Đời sống của nhóm nghèo kinh niên không có nhiều thay đổi trong 5 năm qua, các chính sách hỗ trợ rất khó có tác động đến nhóm này (Hộp 1).

--- “Những hộ này chỉ chết mới hết nghèo thôi, cho nhiều nhưng hiệu quả thì không thấy đâu. Nên đưa vào diện trợ cấp xã hội thôi.”

(Nhóm cán bộ xã Kim Chung, Hà Nội)

HỘP 1. Phụ nữ đơn thân nghèo nhất thôn Bầu

Chị N.T.H. (sinh năm 1965) là hộ nghèo nhất ở thôn Bầu, xã Kim Chung (Hà Nội). Chồng chị đã mất năm 2005 do bị bệnh gan, hiện chị sống với con gái. Vì phải bán hết đất thổ cư lấy tiền chữa bệnh, làm đám ma và lễ đổi áo cho chồng, nên hiện nay chị ở trong một túp lều tạm khoảng 10m2 trên mảnh đất nông nghiệp ở rìa thôn của anh trai chồng cho mượn. Túp lều tạm của 2 mẹ con chị không có điện, không có nước sạch.

Hiện nay, nguồn thu nhập chính của 2 mẹ con chị dựa vào 2 sào ruộng và số tiền trợ cấp xã hội hàng tháng cho gia đình. Chị dành 5 thước đất trồng rau muống quanh năm để bán. Chị cũng mượn thêm ruộng của người trong thôn để làm 10 thước lạc, 1 sào sắn. Do những năm gần đây, số lượng người bán rau tăng lên, cạnh tranh nhiều hơn nên thu nhập của chị cũng giảm. Chị vẫn đi làm ruộng và bán rau với mong muốn con đi học để sau này thoát nghèo. Nhưng con gái chị vì mặc cảm nhà nghèo đã nhiều lần muốn nghỉ học.

“Việc bán rau giờ cũng khó, chỉ được 10-20 mớ, mỗi mớ 2 nghìn đồng, ngày cùng lắm cũng chỉ được 50 nghìn đồng. Con gái nó không thích học, năm ngoái có lên lớp, năm nay không đi họp phụ huynh nữa rồi, con gái chắc sẽ nghỉ học ở nhà phụ mẹ làm rau muống.”

Xã cũng quan tâm nhưng vì hoàn cảnh éo le nên nhiều hỗ trợ không đến được gia đình chị. Năm 2010, MTTQ xã cũng muốn hỗ trợ xây nhà cho 2 mẹ con chị nhưng không được do chị không có đất. Năm 2011, hội Phụ nữ xã định giúp nhà chị khoan giếng nhưng cũng vì ở đất ruộng, không có điện nên chị cũng không khoan được. Do sợ không trả được nợ nên chị cũng chưa bao giờ vay vốn.

Hiện nay chi tiêu ngày càng nhiều do con lớn dù đã rất tằn tiện. Mong muốn lớn nhất của chị bây giờ là có một mái nhà để giúp cho đời sống của hai mẹ con chị bớt khổ.

“Vất lắm, không có đồng nào thừa ra, không có tiết kiệm, giờ cái gì cũng đắt. Đi chợ 1 buổi 20 nghìn đồng, tiêu tốn lắm. Cháu đòi may quần áo mới, lấy đâu ra. Cũng không có ai cho mình quần áo cả. Hiện nay chị vẫn ở túp lều, chỉ mong có cái nhà để cho 2 mẹ con đỡ khổ.”

1.5. Nguyên nhân hộ đi lên, thoát nghèo trong 5 năm quaQua khảo sát, có nhiều nguyên nhân cụ thể dẫn đến đời sống hộ đi lên, thoát nghèo trong 5 năm qua (giai đoạn 2008-2012) tại các điểm quan trắc. Tựu chung lại, có thể gộp thành 2 nhóm nguyên nhân chính là: (i) chuyển đổi sinh kế; và (ii) cải thiện giáo dục.

Chuyển đối sinh kế

Trong bối cảnh đô thị hóa, nhiều hộ khó khăn đã tận dụng cơ hội để chuyển đổi sinh kế thành công. Có nhiều hình thức chuyển đổi sinh kế như xây phòng trọ cho thuê, chuyển từ xích lô sang xe tải, kinh doanh buôn bán nhỏ…

Page 27: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

15PHẦN 1. Tổng quan về nghèo đô thị

HỘP 2. Hộ cực nghèo sử dụng tiền đền bù làm nhà trọ nên đời sống đã đỡ hơn

Hộ N.T.L (46 tuổi) tại thôn Bầu, xã Kim Chung (Hà Nội) trước đây là hộ nghèo lõi của thôn. Gia đình có 4 người, chồng bị bệnh thần kinh (hàng tháng được nhận trợ cấp 350 nghìn đồng) và 2 con gái (sinh năm 1988 học hết lớp 1, sinh năm 1994 học hết lớp 4) “ngây ngây, dại dại” do di truyền từ bố, hiện đã bỏ học, không có công ăn việc làm. Một mình chị nuôi cả gia đình “một mình chị làm hết, cấy, gặt, cho bố con đi chăn bò thì mình phải đi tìm cả bố và con”.

Trước năm 2007 chị chủ yếu làm ruộng và chăn nuôi để sống. Đến năm 2007, KCN mở rộng lấy 1,5 sào ruộng và đền bù cho gia đình chị được 74 triệu. Nhờ anh em, họ hàng động viên, chị vay thêm 5 triệu để đầu tư xây 7 phòng trọ. Năm 2008 gia đình chị còn khó khăn do giá phòng còn thấp, lại phải trả nợ. Khi đó, gia đình chỉ còn 4 sào ruộng, nhưng 2 sào do ảnh hưởng bởi KCN không cấy được. Cả gia đình 4 miệng ăn chỉ trông vào 2 sào ruộng và 1,4 triệu tiền phòng/tháng.

Năm 2009, khi gia đình bán bò trả hết nợ, cuộc sống đỡ hơn rất nhiều. Giá phòng trọ mấy năm gần đây cũng tăng giá nên thu nhập của gia đình chị cũng tăng lên. Năm 2012, chị làm thêm nghề trông trẻ. “Trước không làm phòng trọ, không đủ ăn, phải vay mượn suốt. Mới đầu làm phòng trọ cũng chưa đủ ăn đâu, vì giá còn thấp. Đến nay đã trả nợ xong, giá phòng tăng hơn còn đủ ăn một chút.”

Xây phòng trọ giúp nhiều hộ thoát nghèo. Tại cả ba điểm quan trắc, tận dụng lợi thế gần KCN, nhà máy, trường học, nhu cầu thuê phòng của người nhập cư cao, không ít hộ đã mạnh dạn đầu tư vào phòng trọ, có nguồn thu ổn định giúp đời sống đi lên. Điển hình tại thôn Bầu, xã Kim Chung (Hà Nội) có 12 hộ trong danh sách nghèo năm 2008 và đến năm 2012 đã thoát nghèo thì đều có lý do chính là xây phòng trọ cho thuê. Một số hộ 5 năm trước thuộc diện cực nghèo, đến nay đời sống đã đỡ hơn trước rất nhiều do có nguồn thu nhập thường xuyên từ phòng trọ.

Cách đầu tư vào sinh kế và quản lý chi tiêu của hộ gia đình đóng vai trò quan trọng. Việc bị thu hồi đất có thể khiến một số hộ trở nên nghèo khổ hơn vì mất nguồn sinh kế nông nghiệp, nhưng cũng có thể giúp một số hộ khác có cơ hội chuyển đổi sinh kế để vươn lên, với điều kiện số tiền đền bù thu hồi đất được sử dụng hợp lý (Hộp 2).

Chồng ốm nằm viện

Giá phòng trọ tăng dần Đời sống đỡ hơn

2005 Được hỗ trợ bò

Bán nốt bò mẹ và bò con để trả nợ (nợ từ trước đây do không có tiền ăn; nợ tiền vay xây nhà trọ)

Bán bò con

Đền bù 1,5 sào ruộng, được 74 triệu Vay thêm 5 triệu xây 7 phòng trọ

Mức sống tương đối

Cực nghèo

Nghèo

2007 2008 2009 2010 2011 2012

Page 28: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

16 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Tuy nhiên, từ sau năm 2010, quỹ đất để xây phòng cạn dần. Lợi nhuận từ các phòng trọ mới xây dựng không còn được như những năm trước do chi phí xây dựng tăng cao. Tính từ năm 2005 đến 2012 tại xã Kim Chung (Hà Nội), chi phí xây phòng trọ tăng 5-6 lần (từ 3-4 triệu/phòng lên 18-20 triệu/phòng) trong khi giá cho thuê phòng trọ chỉ tăng 2,5-3 lần (từ 200 nghìn đồng/tháng lên 500-600 nghìn đồng/tháng). Đa số hộ không tiếp cận được vốn vay ưu đãi dài hạn để xây phòng trọ. Với một số hộ nghèo cố gắng cầm cố đất vay vốn để xây phòng trọ, họ đang phải đối mặt với khó khăn thời gian hoàn vốn dài hơn, phải chi tiêu rất tiết kiệm để trả nợ ngân hàng.

--- “Cách đây 4-5 năm thì xây phòng trọ còn được chứ bây giờ khó lắm, đầu tư gần 20 triệu/phòng, với giá thuê là 500 nghìn một phòng thì đến bao giờ mới hoàn gốc, lại còn trả lãi hàng tháng. Anh nào giàu còn tiền sẵn rồi thì đầu tư được, chứ anh nghèo vay lãi là không dám đâu.”

(Nhóm cán bộ thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Chuyển đổi phương tiện làm ăn giúp đời sống một số hộ gia đình đi lên. Tính từ năm 2008 đến năm 2012, tổ 14, phường Lãm Hà (Hải Phòng) đã có 9 hộ chuyển đổi từ xích lô sang xe ô tô tải nhỏ, có nhiều ưu thế hơn về khối lượng và thời gian vận chuyển. Đa số các hộ này phải tự lo về nguồn vốn chuyển đổi bằng cách vay anh em họ hàng, bán đất, nhờ người nhà thế chấp vay ngân hàng thương mại giúp, mua trả góp... Nhờ làm ăn thuận lợi, nhiều hộ đã có tích lũy và trả được hết nợ mua xe ô tô, cải thiện đời sống gia đình (Hộp 3). Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) một số hộ chuyển đổi xe 3 bánh tự chế sang các nghề xe ôm, buôn bán nhỏ từ năm 2009 đến nay đã thoát nghèo.

HỘP 3. Chuyển đổi từ xích lô sang ô tô tải giúp đời sống cải thiện

Bác Đ.V.C (51 tuổi), tổ 14, phường Lãm Hà - Hải Phòng là trường hợp điển hình đời sống khá lên do chuyển đổi từ xích lô sang xe tải nhỏ. Vợ chồng bác C. có hai người con, một người hiện đã ra ở riêng. Trước năm 2007, gia đình bác chủ yếu bằng nghề xích lô. Mặc dù cố gắng xoay xở nhiều cách kiếm tiền khác như nuôi gà, con trai chạy taxi nhưng do thu nhập không ổn định nên đời sống gia đình còn nhiều khó khăn.

Năm 2009, gia đình mạnh dạn vay vốn cho con trai chuyển đổi sinh kế sang chạy xe tải. Tổng số vốn gia đình bác vay là 185 triệu, trong đó vay họ hàng gần 100 triệu, nhờ gia đình ở quê vay vốn ngân hàng thương mại 50 triệu. Từ khi mua xe, bác cùng con trai lo việc chạy xe, vợ bác vẫn làm xích lô. Xe tải có việc đều, mỗi tháng bác để ra được hơn 10 triệu đồng. Đến năm 2011, chỉ sau hơn 2 năm mua xe, bác đã trả hết nợ.

Đến năm 2012, thu nhập từ xe tải và xích lô giảm một nửa do thị trường xây dựng tại địa phương đình trệ. Cuộc sống không được như hai năm trước, nhưng không còn phải trả nợ nên chi tiêu cơ bản của gia đình vẫn được đảm bảo, “xe tải làm cũng đủ ăn, đủ tiêu, 3-4 triệu/tháng, ngoài ra còn tiền lặt vặt từ xích lô.”

Vay mượn gần 100 triệu của họ hàng Vay ngân hàng 50

triệu Con trai lái taxi thu nhập không ổn định

2 vợ chồng chạy xích lô

Chạy xe tải đem lại thu nhập cao, hơn 10 triệu/tháng, trả

hết nợ tiền xe

Thu nhập giảm ½ vì ngành xây dựng

giảm Bác gái ít đi xích lô

Mức sống tương đối

Bác trai nghỉ làm xích lô Bác gái vẫn chạy xích lô Mua xe tải nhỏ 185 triệu

Bỏ nuôi gà do thu nhập không cao

Nghèo

Trung bình

Khá

2007 2008 2009 2010 2011 2012

Page 29: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

17PHẦN 1. Tổng quan về nghèo đô thị

Chuyển đổi sang kinh doanh dịch vụ. Tại các điểm quan trắc, một số hộ chuyển sang buôn bán, dịch vụ nên đời sống khá lên. Đặc biệt là những trường hợp có đất mặt tiền, có vốn (có tích lũy từ đi làm thuê, được hỗ trợ từ người thân hoặc vay vốn). Điển hình là một số hộ từ làm thuê chuyển sang cung ứng vật liệu xây dựng nhờ nhạy bén với thị trường xây dựng trong quá trình đô thị hóa.

Cải thiện giáo dục

Nhiều hộ nghèo dù hoàn cảnh kinh tế khó khăn vẫn cố gắng đầu tư cho con cái đi học. Một số hộ có con cái học tập tốt, sau khi ra trường có việc làm ổn định với thu nhập khá đã quay lại hỗ trợ cha mẹ trả nợ, cải thiện kinh tế, đưa gia đình vượt lên (Hộp 4) (Xem thêm phần 4 - Học vấn và tay nghề).

HỘP 4. Con ăn học thành tài giúp gia đình vươn lên thoát nghèo

Cô L.T.D, 52 tuổi ở thôn Nhuế (Kim Chung, Hà Nội) có chồng đã mất cách đây 11 năm, một mình cô nuôi 2 con ăn học bằng việc làm thuê trong nội thành Hà Nội. Năm 2002, cô D. đi bệnh viện mất hơn 10 triệu đồng, con trai cả của cô thi trượt đại học, gia đình lúc này rất khó khăn. Năm 2003, con trai cả thi lại đại họcvà đỗ Đại học Bách khoa với số điểm cao.

Hàng năm cô phải đi vay họ hàng, vay lãi ngoài để cho con đóng học. Đến năm học thứ 3 (năm 2005), con trai bắt đầu đi dạy gia sư để tự trang trải tiền học, cô chỉ hỗ trợ thêm vài trăm nghìn/tháng. Năm 2006, con trai bị biếu cổ phải nằm viện và không đi dạy thêm được nữa. Cô lại phải lo toàn bộ cho phí cho con nằm viện, ăn học nên tiếp tục vay lãi nhiều. Năm 2007, con trai được 3 công ty hỗ trợ tiền học, cô không còn phải lo tiền đóng học đầu năm. Cũng trong năm này, nhờ họ hàng giúp đỡ cho vay, gia đình cô xây được 3 phòng trọ. Và, để chuẩn bị cho con tốt nghiệp và đi làm, cô vay 20 triệu từ Quỹ tín dụng xã để mua máy tính và xe máy cho con.

Năm 2008, sau khi ra trường con trai cô làm tại KCN Thăng long. Do làm tốt, con trai cô được công ty tạo điều kiện đi học và có thu nhập cao. Nhờ có thu nhập ổn định, con cô cũng giúp gia đình mua sắm và trang trải nợ nần cũ. Năm 2009, con trai cô thi đỗ Tài năng trẻ nhận được học bổng trị giá 3000 USD và một chiếc xe máy. Sau đó, con cô đi du học tại Pháp. Năm 2010, hộ cô D. được xét thoát nghèo. Năm 2011, con trai gửi về cho cô 30 triệu để trả nợ (tiền mua xe và máy tính lúc ra trường) và hỗ trợ mẹ trong công việc gia đình và nuôi em ăn học. Việc con trai cô học giỏi, được đi du học dù gia đình trước đây nghèo cũng góp phần giúp cô tự tin hơn trong thôn xóm“đi đâu trong xóm cũng có thể ngẩng cao đầu”.

2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011 2012

Con đi làm gia sư, tự đóng học,

tiền nhà, tiền mua thức ăn

Thoát nghèo

Con trai thi đỗ Tài năng trẻ, nhận học bổng 3000 USD

và 1 xe máy Đi du học

Pháp

Con làm cho Panasonic, được tạo điều kiện học tập và có thu nhập cao, giúp gia đình

mua sắm, sửa nhà cửa

Con học giỏi, được 3 công ty tài trợ 10 triệu đồng trang trải

tiền học phí Vay 20 triệu từ

QTD xã mua xe, máy tính cho

con đi làm Vay mượn xây

nhà trọ Con đi học gửi về 30 triệu trả nợ và giúp đỡ gia đình

Con mổ, không đi làm gia

Con đỗ đại học, vay mượn cho con ăn học

Mức sống tương đối

Cực nghèo

Nghèo

Trung bình

Page 30: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

18 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Page 31: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

19PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

PHẦN 2.CÁC KHÍA CẠNH ĐA CHIỀUCỦA NGHÈO ĐÔ THỊ

Page 32: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

20 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Page 33: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

21PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

PHẦN 2. CÁC KHÍA CẠNH ĐA CHIỀU CỦA NGHÈO ĐÔ THỊTCTK lần đầu tiên vào năm 2008 đã tính toán chỉ số nghèo đa chiều trẻ em dựa trên số liệu VHLSS9. UNDP đã tài trợ dự án “Hỗ trợ đánh giá sâu về tình trạng nghèo đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh” vào năm 2009, áp dụng cách tiếp cận đo lường nghèo đa chiều theo 8 tiêu chí: thu nhập, giáo dục, y tế, tiếp cận hệ thống an sinh xã hội, chất lượng và diện tích nhà ở, dịch vụ nhà ở, tham gia các hoạt động xã hội và an toàn xã hội10.

Trong khuôn khổ sáng kiến theo dõi nghèo, báo cáo của Oxfam và ActionAid đã phân tích sự thay đổi các chiều nghèo ở một số cộng đồng nông thôn Việt Nam trong 5 năm (2007-2011) có sự kết hợp giữa số liệu điều tra phiếu hỏi và thông tin định tính11. Báo cáo năm 2012 của NHTG cập nhật tình trạng nghèo Việt Nam đã sử dụng các số liệu phân tích nghèo đa chiều trẻ em do UNICEF cung cấp12.

2. TÍNH ĐA CHIỀU CỦA NGHÈO BẢN XỨNhận thức về nghèo của người dân và cán bộ cơ sở tại 3 điểm quan trắc thực sự mang tính đa chiều.

--- “Nghèo nó là một dây chuyền, học vấn thấp dẫn đến công việc kém, công việc kém là thu nhập thấp, rồi không có nhà ở… cũng rơi vào nghèo.”

(Nhóm cán bộ phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Nghèo thì cái gì cũng khó như nhau, không có tiền thì học hành, chữa bệnh cũng vất vả. Phải có nghề, có sức khỏe, có trình độ, thiếu những cái ấy thì vẫn là nghèo.”

(Nhóm hộ khó khăn Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Trông vào mấy sào ruộng, vài thước rau, bệnh tật, trình độ thấp thì nghèo. Có việc làm ổn định, mạnh khỏe, con cái học lên cao là không nghèo.”

(Nhóm hộ nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Theo cách tiếp cận nghèo đa chiều, có thể tổng hợp thành 5 chiều thiếu hụt chính có liên quan đến nhau của người nghèo bản xứ, đó là: thiếu lao động và kỹ năng; thiếu khả năng chuyển đổi sinh kế; thiếu vốn xã hội; thiếu tiếp cận các dịch vụ công; và môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn (Hình 1).

Nhận thức của cán bộ cơ sở và người dân về thứ tự tầm quan trọng của các chiều nghèo đã có sự thay đổi trong 5 năm qua. Năm 2008, thiếu lao động được coi là chiều thiếu hụt nghiêm trọng nhất. Tuy nhiên, năm 2012 tại 2/3 điểm quan trắc, thiếu khả năng chuyển đổi sinh kế được coi là chiều thiếu hụt lớn nhất. Lý do là trong bối cảnh đầy rủi ro cú sốc, sinh kế của người nghèo đô thị rất bấp bênh, việc chuyển đổi sinh kế cũng gặp nhiều khó khăn hơn. Hạn chế về tiếp cận giáo dục cũng ngày càng được người dân quan tâm hơn so với những năm trước.

9 TCTK, “Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2008”, NXB Thống kê, Hà Nội, 201010 TP Hà Nội, TP HCM và UNDP, Báo cáo “Đánh giá Nghèo đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh”, tháng 9/201011 Oxfam và ActionAid Quốc tế tại Việt Nam, “Theo dõi nghèo theo phương pháp cùng tham gia tại một số cộng đồng dân cư

nông thôn Việt Nam - Báo cáo tổng hợp 5 năm (2007-2011)”, tháng 5/2012. 12 Ngân hàng Thế giới, “Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo và

những thách thức mới”, dự thảo cuối cùng tháng 6/2012.

Page 34: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

22 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Thiếu lao động và kỹ năng

Thiếu khả năng chuyển đổi sinh

kế

Thiếu vốn xã hội

Hạn chế tiếp cận dịch vụ công

Môi trường sống kém tiện nghi và

thiếu an toàn

Nghèo bản xứ

HÌNH 1. Các yếu tố chính của nghèo đô thị

Môi trường sống liên quan đến nhà ở và cơ sở hạ tầng đã được cải thiện nhiều trong 5 năm qua. Hầu hết nhóm thảo luận cho rằng tầm quan trọng của thiếu hụt về “môi trường sống” năm 2012 đã giảm so với năm 2008. Tuy nhiên, thiếu hụt về “vui chơi, giải trí” là một khía cạnh mới nổi trong 5 năm qua. Khi đời sống chung được cải thiện, những yếu tố tinh thần của môi trường sống ngày càng được người dân quan tâm hơn.

2.1. Thiếu lao động và kỹ năngThiếu lao động vẫn là hạn chế cố hữu của hộ nghèo bản xứ. Bài tập thống kê nguồn nhân lực của hộ nghèo (theo chuẩn nghèo thu nhập của từng địa phương) năm 2012 cho thấy, hộ nghèo thường thuộc diện có người tàn tật, ốm đau dài ngày, phụ nữ đơn thân, già cả. Một số hộ có người vướng vào ma túy, cuộc sống rất khó khăn. Điển hình như tại thôn Nhuế, xã Kim Chung (Hà Nội), trong số hộ nghèo năm 2012 thì 100% chỉ có 1 lao động chính, 40% có người già cả, hơn 70% có người ốm đau dài ngày hoặc tàn tật. Tương tự tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), gần 80% hộ nghèo chỉ có 1 lao động chính (trong đó 60% là phụ nữ đơn thân) và 80% có người ốm đau hoặc tàn tật.

Thiếu học vấn và tay nghề ngày càng được người dân quan tâm. Các nhóm thảo luận đều thấy rõ những hạn chế của lớp người lớn tuổi (trên 35-40 tuổi) trước đây không được học hành nên giờ chỉ làm công việc phổ thông bấp bênh, đời sống khó khăn. Hầu hết người dân cho rằng, hiện nay lớp trẻ cần có học vấn ít nhất hết bậc THPT khi đi xin việc làm (xem thêm phần 4 - Học vấn và tay nghề).

--- “Bây giờ lao động mà không học hành hẳn hoi là không ăn thua. Đi đâu mà bảo chưa hết cấp 3 thì đừng có nghĩ đến xin được việc. Tầm tuổi 35 - 40 ngày xưa không học hành gì giờ khổ lắm.”

(Nhóm nòng cốt thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Trước thì học hết cấp 2 là đi làm được, chỉ cần xét đến sức khỏe, chứ bây giờ thì làm công nhân cũng cần hết cấp 3. Giờ hộ nghèo cũng ý thức học hơn trước. Giờ không có trình độ không làm được gì cả. Năm 2008 không đòi hỏi cao về chất lượng nhân lực, 14-15 tuổi có chút tay nghề là người ta nhận hết, giờ thì khó nhận. Hồi xưa xin việc dễ hơn, giờ thì khó xin hơn rồi”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Page 35: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

23PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

2.2. Thiếu khả năng chuyển đổi sinh kếNghề nghiệp không ổn định là một nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng “nghèo tạm thời” của nhóm nghèo bản xứ (có sức lao động nhưng thu nhập thấp và bấp bênh). Tại những địa bàn ngoại vi đô thị như Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)người nghèo thường làm những công việc buôn bán nhỏ, phụ bán quán, phụ hồ, lao động theo ngày, xe ôm... Do trình độ học vấn thấp, thiếu kỹ năng tay nghề nên người nghèo khó có thể chuyển đổi sang các công việc thuộc khu vực chính thức có mức thu nhập ổn định hơn, cũng như khó tiếp cận với hệ thống an sinh xã hội. Tại địa bàn đang đô thị hóa như xã Kim Chung (Hà Nội), những thành viên hộ nghèo, trong đó đa phần là phụ nữ, vẫn làm nông nghiệp đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do đất sản xuất ngày càng thu hẹp, hệ thống tưới tiêu bị ách tắc.

Trong 5 năm qua, nghề nghiệp của người nghèo có sự dịch chuyển theo hướng đa dạng hơn (Hình 2). Một số nghề mới phát sinh bên cạnh những nghề cũ. Tại thôn Bầu và thôn Nhuế (Kim Chung, Hà Nội), năm 2012 số người nghèo làm nông nghiệp đã giảm mạnh so với năm 2008; một số nghề mới nổi lên như cho thuê phòng trọ (mỗi hộ nghèo chỉ có 2-3 phòng do diện tích đất hẹp và thiếu vốn), buôn bán nhỏ, nấu ăn, công nhân, trông trẻ… Tại tổ 27, phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), do có lợi thế gần công viên nên số người nghèo chuyển sang bán giải khát, tạp hóa đã tăng mạnh.

Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) trong năm 2010 đã hoàn tất hỗ trợ cho các đối tượng có xe 3-4 bánh tự chế thuộc diện phải đình chỉ tham gia giao thông13. Toàn phường có 18 trường hợp được hỗ trợ, trong đó có 7 hộ nghèo được hỗ trợ 7 triệu đồng/xe, 11 hộ còn lại đươc hỗ trợ 5 triệu đồng/xe. Tất cả những hộ này không tham gia chương trình học nghề do đã lớn tuổi, chỉ có 2 hộ có phương án chuyển đổi sang xe lam và xe ôm để vay ưu đãi 10 triệu đồng từ Quĩ giảm nghèo, số còn lại chỉ nhận phần hỗ trợ cho không và tự chuyển đổi sang chạy xe ôm, buôn bán nhỏ. Đến năm 2012, có 4/7 hộ nghèo đã thoát nghèo.

Người nghèo đã được vay vốn thuận lợi hơn trong 5 năm qua, góp phần giúp cho một số hộ chuyển đổi sinh kế và cải thiện cuộc sống. Qui mô vốn cho hộ nghèo vay đã tăng lên, phổ biến ở mức 10-30 triệu đồng/hộ, so với mức 5-10 triệu đồng/hộ cách đây 5 năm.

Vay vốn của NHCSXH. Tại các thôn/tổ dân phố đều hình thành tổ vay vốn để tạo thuận lợi cho người dân vay vốn từ NHCSXH. Hai nguồn vốn được nhiều người tiếp cận nhất là vay SXKD và vay HSSV. Một số ý kiến tại xã Kim Chung (Hà Nội) cho biết, những hộ nghèo đã vay vốn HSSV sẽ rất khó vay thêm nguồn SXKD. Hơn nữa, mức vay từ NHCSXH còn thấp. Thực tế tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), hầu hết hộ nghèo không có nhu cầu vay vốn hoặc không tiếp cận được nguồn vốn SXKD của NHCSXH. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) từ giữa tháng 6/2011 NHCSXH siết chặt đối tượng vay, chỉ cho vay mới đối tượng hộ nghèo theo chuẩn nghèo quốc gia - thấp hơn rất nhiều so với chuẩn nghèo của riêng TP HCM. Thực tế tại TP HCM hầu như không còn hộ nghèo theo chuẩn quốc gia, nên việc tiếp cận nguồn vốn này cũng gặp khó khăn.

13 Quyết định số 548/2009/QĐ-TTg ngày 29/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ

Page 36: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

24 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

HÌNH 2. Cơ cấu việc làm của thành viên hộ nghèo tại điểm quan trắc, 2008 - 2012

Thôn Nhuế - Hà Nội 2008

Trông trẻ5%

Nông nghiệp70%

Làm thuê tự do5%

Vệ sinh môi trường

5%

Mò cua- bắt ốc5%

Nuôi cá5%

Máy xát5%

Thú y thôn bản3%

Sữa chữa xe đạp5%

Bán hàng thuê3%

Nấu ăn khu công nghiệp

22%

Mò cua- bắt ốc3%

Làm thuê tự do

10%

Phụ hồ14%

Nông nghiệp40%

Thôn Nhuế - Hà Nội 2012

Thôn Bầu - Hà Nội 2008

Nông nghiệp88%

Vệ sinh môi trường

3%

Phụ hồ3%

Bảo vệ 6%

Thôn Bầu - Hà Nội 2012

Nông nghiệp55%

Xe ôm4%

Buôn bán nhỏ7%

Vệ sinh môi trường

7%

Phòng trọ cho thuê

15%

Trông trẻ4%

Phụ hồ4%

Công nhân4%

Phường Lãm Hà - Hải Phòng 2008

Buôn bán nhỏ15%

Công nhân5%

Thu lượm đồng nát,

osin, rửa bát thuê20%

Lao động tự do

45%

Xe ôm, lái xe10%

Sửa xe đạp5%

Phường Lãm Hà - Hải Phòng 2012

Buôn bán nhỏ15%

Công nhân20%

Thu lượm đồng nát,

osin, rửa bát thuê20%

Lao động tự do

30%

Xe ôm, lái xe10%

Sửa xe đạp5%

Tổ dân phố 27 - TP HCM 2008

Phụ hồ22%

Phụ bán quán

2%

Xe ôm2%

Bán giải khát, tạp hóa

13%Công nhân

(may, cơ khí, dược)36%

Thợ sơn, thợ điện

5%

Bán rau5%

Nhân viên nhà hàng

4%

Nghề khác (MC, bảo vệ,

bán vé số, trích cá, cò

đất…)11%

Tổ dân phố 27 - TP HCM 2012

Phụ hồ18%

Phụ bán quán

3%

Xe ôm4%

Bán giải khát, tạp hóa

36%

Công nhân (may, cơ khí, dược)

4%

Thợ sơn, thợ điện

7%

Bán rau14%

Nhân viên nhà hàng

7%

Nghề khác (MC, bảo vệ,

bán vé số, trích cá, cò

đất…)7%

Page 37: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

25PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

Vay vốn Quỹ tín dụng. Mô hình “Quỹ tín dụng xã” tại xã Kim Chung được đánh giá là thành công nhất trong 6 mô hình của huyện Đông Anh (Hà Nội) nhờ số tiền huy động lớn đạt 60 tỷ đồng. Nhờ được vay vốn từ Quỹ và sử dụng đúng mục đích, nhiều hộ trong xã đã có đời sống đi lên. Tuy nhiên, số hộ nghèo tiếp cận với nguồn vốn còn hạn chế, do Quỹ thường ưu tiên những hộ có đất đai rộng và có hướng sản xuất kinh doanh khả thi.

Vay vốn từ Quỹ Giảm nghèo được triển khai khá thành công từ nhiều năm nay tại phường 6 (Gò Vấp,TP HCM). Tính đến tháng 6/2012, có 59 hộ đang vay vốn tại Quỹ, trong đó khoảng 70% hộ vay vốn để mua xe máy; 15% buôn bán; 10% mở rộng kinh doanh, chuyển đổi nghề, XKLĐ; 5% học nghề. Theo thống kê của cán bộ XĐGN của phường, từ 2008 đến 2012, có 15 hộ vay vốn từ Quỹ để xây nhà trọ và hiện đã trả hết nợ. Tuy nhiên, tình trạng chậm trả lãi và nợ đọng vẫn xảy ra đối với một số hộ nghèo. Một số hộ nghèo khác vì lo ngại “không biết làm gì để trả nợ” nên không dám vay từ Quỹ.

2.3. Thiếu vốn xã hộiNgười nghèo đô thị có mối quan hệ xã hội hạn hẹp, và tình trạng này chưa có nhiều cải thiện trong 5 năm qua. Mối quan hệ xã hội của người nghèo chủ yếu trong gia đình họ hàng hay với những hộ cùng gia cảnh trong phạm vi hẹp. Người nghèo thường ngại tiếp xúc với những nhóm có điều kiện kinh tế khá hơn mình. Tại các vùng ngoại vi đô thị hóa, lối sống cộng đồng làng xã đang phai nhạt dần, thay bằng lối sống đô thị biệt lập “ai biết nhà nấy”. Để giảm chi phí, người nghèo phải cắt giảm các chi phí xã hội càng làm các mối quan hệ của họ trở nên hẹp hơn.

--- “Cả làng này mình chỉ chơi với một chị cùng đội, chị ấy có 3 con đang ăn học, cũng nghèo như mình. Thường cắt chung, cấy chung, đùm bọc nhau. Hai chị em giúp nhau vì cùng cảnh.”

(N.T.H, hộ nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Người nghèo đùm bọc lẫn nhau, người giàu thì đóng cửa then cài, còn người nghèo chỉ chơi với người nghèo cùng hoàn cảnh với nhau. Cũng tại mình mặc cảm, mình nghèo không tiếp xúc với người ta thôi.”

(Nhóm hộ nghèo Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Một số hoạt động chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau có lợi cho người nghèo. Tại đa số điểm quan trắc, các hình thức góp quĩ của các đoàn thể thường ở qui mô nhỏ. Riêng tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), quĩ tiết kiệm của các chi hội Phụ nữ phát động từ 2007 đến nay khá mạnh, 18/20 chi hội có tổng vốn quĩ 400 triệu đồng để cho phụ nữ nghèo, phụ nữ khó khăn vay. Tại Lãm Hà còn có hình thức “chơi họ”14 để giúp nhau vốn làm ăn được nhiều người hưởng ứng. Lợi thế của chơi họ là linh hoạt, tiện lợi cho người tham gia; khi cần tiền người chơi có thể xin rút trước. Số tiền góp họ hàng tháng tùy vào khả năng tài chính của từng nhóm chơi, từ vài trăm nghìn đến vài triệu đồng. Chơi họ đã giúp cho nhiều hộ gia đình có một khoản tiền nhất định để đầu tư hoặc chi tiêu vào những công việc lớn.

Người nghèo còn rất hạn chế tham gia vào các hoạt động xã hội tại địa phương do tự ti, mải lo “cơm áo gạo tiền” hàng ngày, thời gian làm việc kéo dài và thất thường, đi làm về mệt mỏi. Người nghèo không thường xuyên tham gia họp tổ dân phố. Nếu có đi họp, người nghèo cũng thường ngồi nghe thụ động, ít khi phát biểu ý kiến,hoặc chỉ phát biểu khi có các vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của họ. Một số hộ nghèo cho rằng, họ ít đi họp và ít nêu ý kiến vì thấy mình không có nhiều tiền đóng góp nên không dám phát biểu ý kiến hoặc ý kiến của mình không được lắng nghe.

14 Chơi họ (còn gọi là phường) là hình thức vay vốn giữa các cá nhân với nhau theo kiểu huy động và trả góp. Đây là một giao dịch dân sự về vay mượn tài sản, được pháp luật cho phép và được qui định tại Nghị định 144/2006/NĐ-CP. Chu trình giao dịch của “họ” tính theo “bát”, có bát kéo dài 1 năm, 2 năm tùy theo số lượng người tham gia bát họ đó. Số tiền đóng góp hàng tháng, thứ tự người lấy tiền đều được “họ” thỏa thuận thống nhất. Có họ người lấy tiền trước phải trả lãi, có họ không lãi.

Page 38: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

26 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

--- “Ở đây có làm trụ sở, làm đường tui đi họp một buổi. Họ bảo biểu quyết thì tui đồng ý. Nghĩ mình đâu có đóng được bao nhiêu, toàn nhờ láng giềng bà con hết. Hộ giàu họ đóng nhiều hơn cứ để họ nói, mình nói cũng không ai nghe.”

(Nhóm hộ nghèo Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Trên thực tế, sự tham gia các hoạt động chung của người nghèo đô thị phụ thuộc rất nhiều vào sự quan tâm của chính quyền, đoàn thể ở địa phương, đặc biệt phụ thuộc vào sự nhiệt tình và cách vận động, thuyết phục của tổ trưởng tổ dân phố.

2.4. Hạn chế tiếp cận dịch vụ côngHạn chế trong tiếp cận dịch vụ giáo dục, y tế của người nghèo so với người khá giả tại khu vực đô thị thường xuất phát từ nguyên nhân thiếu nguồn tài chính và thiếu quan hệ xã hội.

Giáo dục: Hầu hết bậc cha mẹ nghèo tại các điểm quan trắc rất quan tâm đến việc học hành của trẻ. Tại các điểm quan trắc không ghi nhận sự phân biệt giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong tiếp cận giáo dục phổ thông. Trong 5 năm qua, ở cả ba điểm quan trắc không xảy ra tình trạng trẻ em trong độ tuổi Tiểu học và THCS phải nghỉ học giữa chừng do hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Tuy nhiên, trẻ em nghèo gặp nhiều thiệt thòi trong việc học tập. Do thường phải phụ giúp cha mẹ nên thời gian học hành và vui chơi của trẻ em nghèo có hạn. Gia đình khó khăn nên các em thường ít đi học thêm, việc mua sắm đồ dùng học tập cũng hạn chế. Một số cha mẹ nghèo mải kiếm sống hoặc cha mẹ không hòa thuận dẫn đến ít đi họp phụ huynh học sinh, không kiểm tra bài vở thường xuyên khiến trẻ lơ là việc học tập.

Người nghèo đô thị gặp nhiều khó khăn trong việc chi trả các chi phí giáo dục. Vào thời điểm đầu năm học những bậc phụ huynh nghèo phải rất vất vả lo tiền đóng học cho con, nhiều trường hợp phải vay nợ, đóng rải rác làm nhiều lần hoặc chậm nộp đến tận cuối năm. Nhiều hộ nghèo không đủ khả năng đầu tư cho con học lên cao, chủ yếu cố gắng cho con học hết bậc THPT để ra đi làm (xem thêm phần 4 - Học vấn và tay nghề).

Một số chính sách của Nhà nước đã có những tác động tích cực đến giáo dục của trẻ em. Việc xây dựng, cải tạo trường lớp để từng bước khắc phục tình trạng quá tải của các trường học. Trẻ thuộc hộ nghèo vẫn được miễn tiền học phí. Từ năm 2010, chính sách hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định 49 đã giúp hộ nghèo trang trải được một phần các khoản đóng góp cho nhà trường ở bậc học phổ thông. Chính sách vay vốn ưu đãi cho HSSV của NHCSXH đã giúp nhiều hộ nghèo, hộ khó khăn có tiền đầu tư cho con ăn học ở bậc trung cấp, cao đẳng, đại học. Thủ tục vay HSSV tương đối đơn giản, mức cho vay cũng được điều chỉnh tăng phù hợp hơn với mặt bằng giá cả (hiện nay là 1 triệu đồng/tháng).

--- “Út học cao đẳng kế toán 2 năm rồi, lúc đầu không muốn đi học vì nhà không có tiền. Được vay nguồn HSSV, vay 4 kỳ rồi, may có nguồn này đỡ. Lúc trước (2010) vay ngoài 4 triệu đồng tiền học cho con, sau đó vay ngân hàng trả nợ. Trong năm 2011, vay vốn HSSV được 8,6 triệu (2 đợt), đỡ cho con út ăn học. Nhờ Nhà nước giúp đỡ, nếu không vay vốn HSSV chắc phải vay ngoài lãi cao lắm.”

(T.T.L, khu phố 4, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), lớp học tình thương do chùa Kỳ Quang (từ lớp 1 đến lớp 5) và trường THCS An Nhơn (từ lớp 6 đến lớp 9) tổ chức vẫn phát huy hiệu quả. Thời gian học linh động, thường vào buổi chiều và buổi tối sau khi các em đi làm phụ giúp cha mẹ về. Các em tham gia không phải đóng học phí và được nhà trường hỗ trợ sách vở. Chương trình học của các em tương đương với chương trình đang giảng dạy tại các trường nên giúp các em thuận lợi khi đi học và có thể tham gia các kỳ thi vượt cấp.

Y tế: Người nghèo vẫn gặp bất lợi khi khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT tại các bệnh viện, do bản thân họ thiếu tiền để trang trải các chi phí phát sinh, do tình trạng quá tải của các bệnh viện, do sự chênh lệch về chất lượng dịch vụ và thái độ đối xử giữa người nghèo và

Page 39: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

27PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

người giàu. Năm 2012, bệnh viện Gò Vấp (TPHCM) đã mở thêm 2 cơ sở khám chữa bệnh cho người dân nhưng tình trạng người dân đi từ sáng sớm để chờ khám chữa bệnh vẫn tiếp tục diễn ra.

Ngay ở tuyến y tế phường/xã, vẫn tồn tại tình trạng quá tải. Tại xã Kim Chung (Hà Nội) và phường Lãm Hà (Hải Phòng), tình trạng này trầm trọng hơn trong 5 năm qua, đặc biệt trong những đợt tiêm chủng cho trẻ em dưới 6 tuổi. Trạm y tế xã Kim Chung (Hà Nội) được đăng ký khám chữa bệnh ban đầu theo thẻ BHYT, nhưng phụ thuộc vào việc cấp phát thuốc của BHXH huyện. Do số lượng người khám đông nên không đủ thuốc, Trạm thường phải chuyển bệnh nhân đi các tuyến khác. Riêng Trạm y tế phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), mặc dù được đầu tư trang thiết thị và nhân lực, có thể đáp ứng được nhu cầu khám từ 300-500 lượt bệnh nhân/ngày nhưng số lượng người đến khám tại Trạm rất ít (trung bình 500 lượt người/tháng). Nguyên nhân chủ yếu là do trạm không phải là điểm khám chữa bệnh ban đầu cho đối tượng tham gia BHYT, người bệnh thường đến thẳng các bệnh viện cấp quận và thành phố.

Các dịch vụ khám chữa bệnh miễn phí rất có lợi cho người nghèo. Chương trình hàng năm của các trạm y tế khám bệnh miễn phí cho người già, khám phụ khoa cho phụ nữ thu hút khá đông người nghèo. Phòng khám đông y từ thiện của chùa Kỳ Quang (Gò Vấp, TP HCM) đã trở thành điểm đến quen thuộc đối với người nghèo của quận Gò Vấp. Tại đây, người nghèo được khám, chữa bệnh và phát thuốc miễn phí, bao gồm cả tư vấn miễn phí về HIV/AIDS. Nhiều hộ nghèo tại Phường 6 cho biết, đây là loại hình dịch vụ y tế chính mà họ sử dụng khi đau ốm và khá hài lòng về chất lượng khám chữa bệnh cũng như thái độ của các lương y tại đây.

2.5. Môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toànNgười nghèo thường sinh sống trong các hẻm sâu, cụm dân cư biệt lập, ven đê, ven nghĩa trang... vốn là những nơi thoát nước kém, đường sá lầy lội vào mùa mưa, điện nước không đảm bảo.

Trong 5 năm qua, CSHT tại các điểm khảo sát đã được cải thiện nhiều nhờ đầu tư lớn của Nhà nước, và một phần do người dân tự đóng góp. Năm 2008, cả ba điểm quan trắc đều chưa có nước sạch, thì đến năm 2012 nước sạch đã được lắp đến từng nhà. Năm 2012, đa số các tuyến đường dân sinh đã được bê tông hóa. Dịch vụ thu gom rác thải hoạt động tốt hơn đã giúp cải thiện vệ sinh môi trường. Sự thay đổi trong 5 năm qua về CSHT thể hiện rõ nhất tại Tổ 14 phường Lãm Hà (Hải Phòng). Năm 2008, người dân Tổ 14 chỉ có đường đất lầy lội và phải dùng chung công tơ điện tổng với giá điện gấp 3-4 lần giá bình thường; đến 2012 đường chính qua tổ và đa số đường nội tổ được làm mới, các hộ gia đình đã được lắp công tơ điện riêng khiến người dân rất phấn khởi.

Chất lượng nhà ở và tài sản cơ bản của hộ nghèo đã cải thiện đáng kể trong 5 năm qua. Tình trạng nhà tạm bợ, rách nát tại các điểm khảo sát hầu như không còn. Đa số hộ nghèo sống trong các ngôi nhà cấp 4, mái fibro xi măng, diện tích trung bình 30-50 m2. Hầu hết hộ nghèo cũng có các đồ đạc cơ bản (tivi, xe máy, điện thoại), tuy nhiên đồ đạc của họ đa số là đồ cũ giá trị thấp, một số hộ đã cố gắng mua đồ đạc mới theo hình thức trả góp.

Chính sách hỗ trợ về nhà ở (quĩ “chống dột”, nhà đại đoàn kết, nhà tình thương, vay vốn ưu đãi sửa chữa nhà) đã có những tác động tích cực đến việc cải thiện nhà ở của hộ nghèo. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), nhờ quĩ hỗ trợ chống dột và vốn vay ưu đãi từ Quỹ phát triển nhà ở TP HCM15 nhiều hộ nghèo đã sửa chữa, nâng cấp nhà ở, một số hộ đã ngăn phòng cho thuê có thêm thu nhập. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), năm 2011 MTTQ, hội Phụ nữ đã hỗ trợ 3 nhà đại đoàn kết do vận động các mạnh thường quân đóng góp.

15 Quỹ phát triển nhà ở TP HCM là tổ chức tài chính nhà nước trực thuộc UBND TP HCM, cho người có thu nhập thấp vay vốn 15 triệu đồng/hộ để nâng cấp, sửa chữa, cải tạo nhà ở với lãi suất 0,6%/tháng. Người vay vốn phải tham gia tiết kiệm và trả góp lãi và gốc hàng tháng trong thời gian 3-5 năm. Trong giai đoạn 2009-2012, có 42 hộ tại phường 6 đã vay vốn từ Quỹ này với tổng dư nợ là 630 triệu đồng.

Page 40: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

28 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Tuy nhiên, một số ít hộ nghèo có hoàn cảnh đặc biệt gặp khó khăn về nhà ở. Tại xóm Chùa, tổ 27 (phường 6, Gò Vấp, TP HCM) hiện đang vẫn có 4 hộ bản xứ đang phải thuê nhà ở trọ, trong đó có 2 hộ ở trọ ngay trên chính mảnh đất của mình đã bán đi do trước đây quá túng thiếu. Tại thôn Bầu (Kim Chung, Hà Nội), có 1 trường hợp hai mẹ con hộ phụ nữ đơn thân nghèo phải dựng một túp lều khoảng 10m2 trên đất ruộng để sinh sống. Những hộ này không có điều kiện để tiếp cận với những hỗ trợ về nhà ở của chính quyền, đoàn thể.

Còn nhiều mặt yếu kém về CSHT và qui hoạch xây dựng tại các điểm khảo sát vẫn chưa được giải quyết. Nhiều đoạn đường trục nội xóm, liên xóm vẫn là đường đất, rất lầy lội vào mùa mưa. Tình trạng úng lụt cục bộ nặng do thoát nước kém vẫn xảy ra khi trời mưa to. Một số quy hoạch “treo” và đề án “chậm thực hiện” chưa có nhiều chuyển biến trong 5 năm qua, điển hình là quy hoạch khu cây xanh và công viên tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM). Trụ sở UBND phường Lãm Hà và Trạm y tế của phường Lãm Hà (Hải Phòng) vẫn đang phải thuê nhà dân, trong khi chờ công trình trụ sở mới (khởi công trong năm 2012). Tại các điểm quan trắc có rất ít không gian vui chơi công cộng cho trẻ em. Trẻ em nghèo chơi đá bóng ở đường phố hoặc tại những khu đất trống nhưng thường bị bảo vệ tổ dân phố hoặc một số gia đình trong khu dân cư ngăn cấm.

Tình trạng ô nhiễm môi trường do nguồn nước thải, khí thải từ các nhà máy vẫn là vấn đề bức xúc của người dân, trong đó có hộ nghèo. Trên địa bàn xã Kim Chung (Hà Nội) và phường Lãm Hà (Hải Phòng) tập trung nhiều nhà máy, xí nghiệp ở gần khu dân cư đông đúc. Hệ thống thoát nước mặt chưa hoàn thiện, nên xảy ra tình trạng ứ đọng thường xuyên. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), nguồn nước thải từ các nhà máy chưa qua xử lý chảy qua khu dân cư đã ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý của người dân. Đặc biệt tại xã Kim Chung (Hà Nội), người dân lo lắng về môi trường sống bị ảnh hưởng lâu dài bởi tác động của các nhà máy trong KCN Bắc Thăng Long gần đó.

--- “Trong 5 năm qua, môi trường ảnh hưởng trầm trọng. Năm năm về trước, mương máng trong veo, cá nhiều. Giờ thì toàn nước thối đen. Tôi thấy 10-15 trường hợp thôn Bầu chết toàn do ung thư, đa số chết dưới 60 tuổi. Lượng khí thải khu công nghiệp cũng nhiều quá...”

(Nhóm hộ trung bình thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Tình trạng sở hữu nhà đất bấp bênh, chưa có “sổ đỏ” vẫn khá phổ biến trong nhóm hộ nghèo. Tại Tổ 14 phường Lãm Hà (Hải Phòng), gần 90% người dân chưa có sổ đỏ từ nhiều năm nay. Nguyên nhân người dân không làm số đỏ do đất thiếu nguồn gốc hợp pháp, giấy tờ viết tay, thuế làm số đỏ quá cao, một số ít hộ có đất phạm vào hành lang an toàn đê điều, và do người dân thiếu thông tin về thủ tục. Tại Tổ 27 (phường 6, Gò Vấp, TP HCM), đa số hộ nghèo chưa có sổ đỏ do ở trên đất của chùa Phổ Chiếu cắt cho hoặc nằm trong qui hoạch công viên. Không có sổ đỏ nên người dân khó có cơ hội thế chấp đất đai vay vốn ngân hàng để phát triển kinh tế.

An ninh trật tự là vấn đề rất quan tâm của người dân trong 5 năm qua, đặc biệt tại xã Kim Chung (Hà Nội). Số lượng người nhập cư ngày càng đông, tiêu cực xã hội (lô đề, cờ bạc, trộm cắp…) nổi lên gây tâm lý lo lắng cho người dân. Năm 2011, xã Kim Chung là một trong 10 xã/phường được xác định là trọng điểm về an ninh trật tự của thành phố Hà Nội. Xã đã thành lập “tổ tự quản của công nhân nhập cư về an ninh trật tự” với sự tham gia của chủ nhà trọ làm tổ trưởng, dưới sự quản lý của công an huyện Đông Anh. Mô hình đã đạt được những kết quả bước đầu, tình hình an ninh trật tự năm 2012 đã được đảm bảo hơn.

3.TÍNH ĐA CHIỀU CỦA NGHÈO NHẬP CƯNếu xét đơn thuần về thu nhập, người nhập cư thường không thuộc diện nghèo do có sức lao động và thường chăm chỉ làm ăn. Đa phần người nhập cư đều có thu nhập hàng triệu đồng mỗi tháng trở lên, cao hơn so với chuẩn nghèo. Tuy nhiên, khi nhìn dưới góc độ nghèo đa chiều, tình trạng nghèo của người nhập cư trầm trọng hơn nhiều.

Page 41: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

29PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

Chi phí cuộc sống cao

Việc làm bấp bênh

Thiếu hòa nhập xã hội

Hạn chế tiếp cận dịch vụ công

Môi trường sống kém tiện nghi và

thiếu an toàn Nghèo nhập cư

HÌNH 3. Các yếu tố chính của nghèo nhập cư

--- “Họ có thu nhập cao hơn nhiều người ở đây, so với chuẩn 1 triệu thì họ không nghèo đâu. Nhưng họ ở khổ hơn, không giao lưu gì, học hành thiệt thòi hơn mình nhiều. Không nghèo tiền tài nhưng nghèo ở cái tinh thần.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tình trạng nghèo nhập cư tại các điểm quan trắc thể hiện ở 5 chiều thiếu hụt chính: chi phí cuộc sống cao ở đô thị; việc làm bấp bênh, rủi ro thường trực; thiếu hòa nhập xã hội; hạn chế tiếp cận dịch vụ công; môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn (Hình 3).

16 Thông tư 05/2011/BCT ngày 25/2/2011 của Bộ Tài chính quy định: cứ 4 người tại nhà ở tập thể, nếu có thể kê khai được (căn cứ vào giấy đăng ký tạm trú dài hạn) thì được tính là một hộ gia đình để áp dụng giá bán lẻ điện sinh hoạt bậc thang. Nếu không kê khai được thì tính mức giá 1.651 đồng/kWh (là giá bán lẻ điện sinh hoạt của bậc thang từ 151-200 kWh).

17 Diện tích từ 8 – 10 m2, mái fibrô, nền xi măng hoặc gạch hoa loại rẻ, không có gác xép, công trình phụ chung.18 Diện tích khoảng 12 m2, mái fibrô, nền gạch hoa, không có gác xép, công trình phụ khép kín19 Diện tích khoảng 15 m2, mái fibrô, nền xi măng hoặc gạch hoa loại rẻ, có gác xép (khoảng 7 m2), công trình phụ khép kín.

3.1. Chi phí cuộc sống caoChi phí cuộc sống tăng cao trong khi thu nhập không tăng tương xứng là khó khăn được nhắc đến nhiều nhất trong nhóm người nhập cư tại các thành phố. Giá phòng trọ trong những năm vừa qua liên tục tăng do lạm phát chung và nhu cầu thuê tăng. So với năm 2008, giá phòng năm 2012 đã tăng khoảng hơn 2 lần (Bảng 8). Người nhập cư tại các điểm khảo sát vẫn đang dùng chung công tơ tổng và phải trả giá điện thỏa thuận với chủ nhà ở mức cao, khoảng 2.500-3.500 đồng/kWh; chưa ghi nhận trường hợp nào người ở trọ (ở chung theo phòng) được hưởng mức giá điện như hộ thường trú16.

BẢNG 8. Giá phòng trọ tại các điểm quan trắc, 2008 - 2012 (đồng/tháng)

Kim Chung(Hà Nội)17

Lãm Hà(Hải Phòng)18

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)19

7/2008

-

250,000

700 - 800,000

7/2009

250 - 300,000

350,000

900 - 1,000,000

7/2010

350 - 450,000

400 - 500,000

1,200,000

7/2011

450 - 500,000

600,000

1,300 - 1,400,000

7/2012

500 - 550,000

700,000

1,500 - 1,600,000

Page 42: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

30 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Xu hướng người nhập cư cả 2 vợ chồng ở cùng con nhỏ tại các thành phố (không gửi con về quê cho ông bà nuôi như trước đây) đang tăng lên. Theo số liệu phỏng vấn công nhân nhập cư, hiện có khoảng 70% công nhân có con nhỏ để con sống cùng với cha mẹ, chỉ có 30% gửi về quê. Các cặp vợ chồng có con nhỏ thuê phòng trọ riêng sẽ phải trả tiền thuê cao hơn so với thuê phòng trọ chung theo dãy. Họ phải trang trải chi phí chăm sóc và cho trẻ đi học khá cao. Thực tế tại các điểm quan trắc, những hộ nhập cư khó khăn thường rơi vào hộ ở cùng 2-3 con nhỏ, bố mẹ làm nghề lao động phổ thông (Xem thêm phần 8 - Các vấn đề đặc thù của người nhập cư).

Có nhiều khoản người nhập cư phải chi tiêu nhiều hơn so với ở quê nhà, gồm chi phí điện thoại, quần áo và các chi phí xã hội như thăm hỏi ốm đau, mừng đám cưới, sinh nhật của đồng hương, bạn trọ... Số tiền định kỳ gửi về nhà để giúp gia đình cũng là một gánh nặng chi phí của một số thanh niên nhập cư có gia đình khó khăn ở quê.

Sau khi trừ đi các khoản chi phí, hầu hết người nhập cư chỉ còn lại ngân quĩ chi tiêu rất tằn tiện cho lương thực - thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác. Khảo sát tại các điểm quan trắc cho thấy, bữa ăn của đa số người nhập cư rất đạm bạc.

3.2. Việc làm bấp bênhCông nhân nhập cư trong 5 năm qua phải đối mặt với đa cú sốc như lạm phát (năm 2008, 2011), khủng hoảng tài chính thế giới (2008 - 2009), suy giảm tăng trưởng kinh tế (2012), làm bộc lộ rõ tính bất ổn định nghề nghiệp của nhóm này. Trong bối cảnh rủi ro, một số công nhân mất việc hoặc thiếu việc làm phải tìm công việc khác hoặc về quê.

Những bất lợi về “học vấn và tay nghề” là gốc rễ của việc làm bấp bênh tại đô thị. Nhu cầu của cư dân đô thị hiện nay cũng đã khác trước. Một số nghề đã giảm hẳn nhu cầu khiến người nhập cư phải chuyển sang các công việc khác, ví dụ như xích lô, đấm bóp dạo... Thu nhập của nhóm nhập cư làm công việc tự do phụ thuộc vào các yếu tố thời tiết, mùa vụ và tiến độ công trình. Chính sách quản lý đô thị ngày càng chặt chẽ cũng ảnh hưởng bất lợi đến nhóm nhập cư làm nghề bán hàng rong.

Xu hướng thay đổi hành vi tiêu dùng của người dân đô thị có nguy cơ ảnh hưởng bất lợi đến nghề buôn bán nhỏ/bán hàng rong. Ngày càng nhiều người mua sắm tại siêu thị do lo ngại về vấn đề chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm; giá cả của các siêu thị cũng không cao hơn bên ngoài. Ngay tại xã Kim Chung (Hà Nội), đến năm 2012 đã có 4 siêu thị mini.

--- “Giờ thì mua siêu thị nhiều hơn hẳn trước. Siêu thị Big C, Co-op Mart nườm nượp người vào. Quanh đây thôi tính sơ đã 4-5 cái siêu thị rồi. Người ta mang tiền triệu để sắm, chỉ thiếu cái gì vặt thì vào chợ mua thôi. Siêu thị giờ không thiếu thứ gì, giá cả cũng không mắc lắm, nhiều cái còn rẻ hơn ở chợ nữa, chất lượng đảm bảo hơn chợ.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Cũng giống như người nghèo bản xứ, người nhập cư phải đa dạng hóa sinh kế. Một số công nhân nhập cư làm nghề buôn bán nhỏ, người chạy xe ôm làm thêm giờ, người bán hàng rong bán thêm mặt hàng hoặc làm thêm nghề phụ để có thêm thu nhập... nhưng vẫn là những công việc phi chính thức tính bấp bênh cao.

3.3. Thiếu hòa nhập xã hộiThiếu hòa nhập xã hội là khó khăn đặc thù của người nhập cư, trong bối cảnh Việt Nam vẫn giữ hệ thống “hộ khẩu” và còn nhiều thủ tục, chính sách gắn với hộ khẩu (dù đã giảm nhiều so với trước). Không có hộ khẩu và không được bình xét là hộ nghèo, người nhập cư khó dựa vào các thiết chế chính thức, khó tiếp cận với hệ thống an sinh xã hội tại đô thị.

Mối quan hệ xã hội của người nhập cư thường chỉ giới hạn trong khu nhà trọ, nhà máy, bạn bè làm việc và anh em đồng hương. Mạng lưới “phi chính thức” này rất quan trọng với người nhập cư. Những người đến trước giúp những người đến sau tiếp cận thông tin việc làm; giúp ổn định cuộc sống, làm quen với công việc trong giai đoạn đầu chuyển đến đô thị.

Page 43: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

31PHẦN 2. Các khía cạnh đa chiều của nghèo đô thị

Tại các điểm khảo sát, người nhập cư rất ít tham gia vào các hoạt động xã hội tại địa phương. Có nhiều lý do dẫn đến người nhập cư ít tham gia vào các hoạt động xã hội: công việc nặng nhọc, căng thẳng, thời gian kéo dài, hay về muộn; tập tính lưu động cao, thường xuyên thay đổi chỗ làm và chỗ ở trọ; quan hệ xã hội phạm vi hẹp trong nhóm đồng hương, bạn trọ; xu hướng tiết kiệm cắt giảm chi phí xã hội; không được tổ dân phố và các đoàn thể mời tham gia… Hơn nữa, kế hoạch của phần lớn người nhập cư là để dành dụm tiền sau một thời gian sẽ về quê, do đó họ thường ưu tiên duy trì các quan hệ xã hội ở quê nhà hơn là phát triển các quan hệ xã hội ở thành phố.

Thiếu hòa nhập xã hội còn xuất phát từ định kiến của một bộ phận người bản xứ với người nhập cư. Bên cạnh việc thừa nhận những ảnh hưởng tích cực của dòng người nhập cư, người dân bản xứ thường kết nối sự gia tăng các vấn đề “tệ nạn xã hội”, “tắc đường” , “rác thải bừa bãi”… với dòng người nhập cư.

--- “Ngày xưa ở đây cuộc sống yên bình, các cháu nhập cư đến làm cho người dân có đồng ra đồng vào nhưng phức tạp cũng nhiều. Nhiều nhà giờ phải nhắc con cái không cho chơi với công nhân sợ học nhau yêu đương sớm. Mà tệ nạn giờ cũng nhiều hơn trước. Ngày nào cũng thấy mấy chị xinh xinh diện áo hai dây là các nhà cũng hết vía.”

(Nhóm hộ nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Tham gia vào các tổ nhóm, CLB có thể giúp người nhập cư cải thiện vốn xã hội. Trong 5 năm qua, tại các điểm quan trắc có nhiều nhóm hoạt động dành cho người nhập cư, do các đoàn thể và các chương trình phát triển hỗ trợ thành lập. Ví dụ: Nhóm công nhân nhập cư, CLB nhà trọ, Nhóm công nhân vượt khó, CLB ông bà cháu… Ý nghĩa của các tổ nhóm, CLB là tạo ra nhiều hoạt động sinh hoạt định kỳ giúp người nhập cư được giao lưu văn hóa, tiếp thu những kiến thức về pháp luật và các kỹ năng sống. Tuy nhiên, hoạt động của đa số nhóm và CLB người nhập cư tại các điểm quan trắc không bền vững, khi không còn hỗ trợ thường tan rã hoặc hoạt động cầm chừng (Hộp 5).

HỘP 5. Các tổ nhóm, CLB công nhân nhập cư khó duy trì

Tại xã Kim Chung (Hà Nội), đã từng thành lập 10 nhóm “công nhân nhập cư” nhờ sự hỗ trợ của C&D (5 nhóm thành lập 2008, 5 nhóm thành lập 2010) do hội Phụ nữ xã điều phối. Mỗi nhóm có khoảng 30 công nhân tham gia. Nhóm tổ chức họp hàng tháng để thảo luận về các chủ đề mà các thành viên cùng quan tâm và sinh hoạt văn nghệ. Tuy nhiên, đến tháng 7/2011 các nhóm công nhân nhập cư đã tạm ngừng hoạt động với lý do chính là không còn hỗ trợ. Hiện nay các nhóm công nhân nhập cư được duy trì thông qua quản lý của các “trưởng ngõ”20. Tuy nhiên hoạt động hiện nay chỉ được tổ chức 3 tháng/lần và lồng ghép vào các sinh hoạt của Hội phụ nữ nên không thu hút được nhiều công nhân tham gia.

Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), CLB thanh niên nhà trọ được thành lập từ năm 2009 do Đoàn phường phụ trách. Hoạt động chủ yếu của CLB là tổ chức các buổi giao lưu, văn nghệ, tuyên truyền về CSSKSS, an toàn giao thông, tham gia các hoạt động xung kích tình nguyện vào dịp thành lập Đoàn… giúp nhóm công nhân nhập cư trên địa bàn có nhiều cơ hội hơn trong việc nâng cao vốn xã hội. Tuy nhiên, từ đầu năm 2011, CLB thanh niên nhà trọ đã tạm ngừng hoạt động, do Đoàn phường thiếu kinh phí, và do các thành viên người nhập cư không có thời gian hoặc thiếu nhiệt tình tham gia.

Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), một nhóm “Công nhân vượt khó” (khoảng 30 thành viên) và ba nhóm “Phụ nữ nhập cư” (mỗi nhóm 15-20 thành viên) được thành lập từ năm 2006. Các nhóm tổ chức họp hàng tháng đề cùng tìm hiểu về các kỹ năng sống

20 Một chủ nhà trọ lớn được phân công làm tổ trưởng “tổ tự quản của công nhân nhập cư về an ninh trật tự”, áp dụng thí điểm tại Kim Chung từ năm 2011

Page 44: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

32 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

3.4. Hạn chế tiếp cận dịch vụ côngHạn chế về giáo dục, y tế là bất lợi chung của người nghèo. Về giáo dục, do trường công lập quá tải nên các trường thường ưu tiên tuyển trẻ em bản xứ. Nhiều trẻ em nhập cư (đặc biệt ở bậc học Mẫu giáo) phải học ở các trường dân lập với chi phí cao hơn (và chất lượng nhiều nơi kém hơn). Về y tế, tình trạng quá tải tuyến y tế xã/phường vẫn tiếp tục xảy ra tại Kim Chung (Hà Nội) và Lãm Hà (Hải Phòng) nên một số trẻ em nhập cư không được hưởng đầy đủ dịch vụ. Một số trẻ em nhập cư phải về quê tiêm chủng hoặc tiêm theo dịch vụ do cha mẹ chưa biết thông tin về thủ tục đăng ký tiêm chủng tại phường cho trẻ, do trạm y tế thiếu vắcxin... Người nhập cư làm nghề tự do vẫn ít quan tâm đến BHYT tự nguyện. Giá mua BHYT liên tục tăng nên người nhập cư phải cân nhắc với các khoản chi phí khác, hoặc họ chưa nắm được thông tin về nơi mua. Người nhập cư vẫn lựa chọn tự đi mua thuốc ở ngoài khi gặp bệnh thông thường, chỉ đến bệnh viện khi có bệnh nặng. Đại diện các trạm y tế xã/phường và các nhóm nữ nhập cư cho biết, việc khám phụ khoa của phụ nữ nhập cư lao động tự do rất hạn chế mặc dù với thời gian lao động kéo dài, khả năng mắc bệnh của chị em khá cao.

3.5. Môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn

Những bất lợi về điều kiện sống thường gắn liền với xu hướng cắt giảm tối đa chi phí cuộc sống ở đô thị của người nhập cư. Nhiều người nhập cư chọn sinh sống tại những vùng ngoại vi cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, có giá đất rẻ, giá nhà trọ rẻ. Nhà ở chật chội, ô nhiễm môi trường, thoát nước kém, đường sá lầy lội, điện nước chất lượng không tốt và giá cao, an ninh trật tự không đảm bảo là những khó khăn chung tại những vùng ngoại vi này. Phụ nữ nhập cư chịu nhiều thiệt thòi hơn so với nam giới khi môi trường sống không tốt. Ví dụ, phụ nữ gặp bất tiện hơn nam giới khi sử dụng khu vệ sinh và khu tắm dùng chung.

Những khó khăn về môi trường sống đã giảm bớt nhiều tại các điểm quan trắc trong 5 năm qua nhờ những cải thiện về CSHT và nhà ở. Mặc dù vậy, vì lựa chọn nơi ở dựa trên chi phí thấp nên nhiều người nhập cư vẫn phải chịu những thiếu hụt về môi trường sống. Khoảng 2-3 năm gần đây tại các điểm quan trắc có nhiều phòng trọ xây mở rộng hơn về diện tích, đầy đủ hơn về trang thiết bị nhưng hầu hết người nhập cư vẫn chấp nhận sống tại những phòng trọ chất lượng thấp với giá rẻ hơn.

--- “Vợ chồng chị vẫn sống ở nhà cũ thôi. Cũng muốn nhưng ở đây quen rồi, phòng mới đẹp hơn giá cao hơn, hai vợ chồng làm lương thấp quá không chịu nổi.”

(N.T.T, Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Mấy năm nay nhà xây theo kiểu chồng tầng nhiều, phòng ốc rộng hơn nhưng công nhân thì không thích lắm vì giá cao hơn. Gia đình ở thì nhiều, các cháu độc thân nó vẫn thích ở phòng cũ hơn.”

(Nhóm nòng cốt thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Người nhập cư tại xã Kim Chung (Hà Nội) và Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) vẫn chủ yếu dùng nước giếng khoan do chi phí sử dụng nước máy khá cao (tại Kim Chung, mức giá nước máy áp dụng đối với kinh doanh nhà trọ là 12 nghìn đồng/m3). Nước giếng không qua hệ thống lắng lọc nên có nguy cơ bị ô nhiễm do ở gần khu công nghiệp (xã Kim Chung, Hà Nội) hoặc gần nghĩa địa cũ (phường 6, Gò Vấp, TP HCM).

(chăm sóc sức khỏe sinh sản, bình đẳng giới, phòng chống bạo lực gia đình, HIV/AIDS, kế hoạch chi tiêu…) và sinh hoạt văn nghệ. Các thành viên trong nhóm còn hỗ trợ nhau trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, từ năm 2010 đến nay các nhóm này hoạt động thất thường, số lượng công nhân tham gia không đầy đủ do bận việc hoặc do thay đổi chỗ ở.

Page 45: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

33PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

PHẦN 3.MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRỌNG TÂMCỦA GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ

Page 46: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

34 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Page 47: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

35PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

PHẦN 3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRỌNG TÂM CỦA GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊPhần này sẽ trình bày một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị, cần đặc biệt quan tâm trong giai đoạn tới, bao gồm: học vấn và tay nghề, tính dễ bị tổn thương và an sinh xã hội, bất bình đẳng, xã hội hóa, và những vấn đề đặc thù của người nhập cư tại đô thị.

4. HỌC VẤN VÀ TAY NGHỀ4.1. Học vấnTại cả ba điểm quan trắc, giáo dục ngày càng được người dân quan tâm. Ngay cả những hộ khó khăn cũng cố gắng cho con ăn học, nhiều hộ coi đây là hướng thoát nghèo. Thành tích“phổ cập giáo dục” là một trong những minh chứng cho nỗ lực này, phường Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) đã phổ cập bậc THPT, riêng xã Kim Chung (Hà Nội) phổ cập bậc THCS. Trình độ học vấn của công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 có sự cải thiện rõ rệt so với mẫu khảo sát năm 2008. Năm 2012, 53% công nhân tốt nghiệp THPT, so với năm 2008 chỉ có 30% (Bảng 9). Tỷ lệ công nhân nữ tốt nghiệp THPT năm 2012 (62%) đã tăng mạnh so với năm 2008 (28%), trong khi tỷ lệ công nhân nam tốt nghiệp THPT năm 2012 không thay đổi so với năm 2008 (đều là 33%).

BẢNG 9. Trình độ học vấn của công nhân nhập cư (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2008 và 2012

Không đi học/ chưa tốt nghiệp tiểu học

Tốt nghiệp tiểu học

Tốt nghiệp THCS

Tốt nghiệp THPT

Tốt nghiệp THPT và đã qua trường dạy nghề/CN kỹ thuật

Tốt nghiệp trường Trung cấp

Tốt nghiệp CĐ, ĐH

Kim Chung (Hà Nội)

2008

-

-

-

-

-

-

-

2012

0

0

2

81

5

7

5

2008

0

0

25

33

12

23

7

2012

0

0

11

37

17

13

22

2008

2

3

47

27

3

8

3

2012

0

1

37

42

1

12

7

2008

1

3

38

30

7

16

5

2012

0

1

16

53

8

11

11

Lãm Hà (Hải Phòng)

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

Trung bình

Lựa chọn sau khi tốt nghiệp THCS

Tại các điểm quan trắc, đa số các em học tiếp lên THPT, chỉ có tỷ lệ rất nhỏ các em dừng học. Tại tổ dân phố 14 (Lãm Hà, Hải Phòng), trong 5 năm qua chỉ có 2 trường hợp nghỉ học sau khi học hết cấp II; còn tại tổ 3 (Lãm Hà, Hải Phòng) trong 5 năm qua không có em nào dừng học ở cấp II. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), cán bộ khuyến học cho biết toàn xã hàng năm chỉ có khoảng 5% học sinh nghỉ học khi hết cấp II. Những em dừng học ở bậc THCS để đi làm khó tìm được việc làm tốt, gặp nhiều hạn chế trong việc nâng cao học vấn tay nghề. Theo ý kiến của các nhóm thanh niên, những bạn dừng học ở bậc THCS thường thuộc hộ gia đình nghèo, đông con, bố mẹ không có điều kiện đầu tư cho con ăn học hoặc ít quan tâm đến việc học của con cái, dẫn đến các bạn có học lực yếu. Xu hướng là các bạn nam nghỉ học ở bậc THCS nhiều hơn các bạn nữ.

Page 48: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

36 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

--- “Ba mẹ em không có thời gian, bỏ bê con đấy cho ông bà, lớn lên chút ông bà về quê thế là tự chơi vơi nhau. Có khi không học tối đi đánh bài mà bố mẹ không biết. Học hết cấp II là may lắm rồi đấy, bây giờ có đánh cũng không giải quyết được gì, nó là quá trình rồi.”

(Đ.V.Đ, Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Nhà em tám anh chị em lận, em là áp út, các anh chị trước cũng đi làm phổ thông thôi. Tính học lên cấp III nhưng không được, đi làm luôn để phụ ba mẹ.”

(N.V.D, khu phố 5, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Những bạn nghỉ học ở bậc THCS thường đi làm lao động tự do hoặc làm trong các xưởng nhỏ (giày da, may mặc, làm thạch rau câu, tái chế nhựa…), công việc vất vả và thường không được đảm bảo về các chế độ BHXH, BHYT và các phúc lợi xã hội khác. Thời gian làm việc của công nhân tại các xưởng nhỏ thường dài hơn so với công nhân làm việc trong KCN hoặc doanh nghiệp lớn. Thu nhập của lao động trong các xưởng nhỏ cũng thấp (chỉ khoảng 2-2,5 triệu đồng/tháng) nên khó dành tiền để đầu tư tiếp cho học hành. Mối quan hệ hạn hẹp khiến thông tin của nhóm này rất hạn chế; họ cũng ít chủ động hỏi các thông tin về học nghề.

--- “Học cấp I, cấp II chỉ xin làm các xưởng gia công thôi, hoặc đi làm tự do được chăng hay chớ. Có cấp III thì xin được vào mấy công ty Nhà nước với liên doanh, chế độ đảm bảo hơn.”

(Nhóm thanh niên lao động phổ thông Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Lựa chọn sau khi tốt nghiệp THPT

Đối với học sinh đã tốt nghiệp THPT có bốn hướng lựa chọn chính: (i) học những trường Đại học ”tốp trên”; (ii)học các trường ĐH “tốp dưới”, CĐ, trung cấp chuyên nghiệp; (iii) đi học trường nghề; (iv) rẽ ngang đi làm.

Tỷ lệ thanh niên bản xứ tốt nghiệp THPT học lên những trường ĐH “tốp trên” không nhiều. Các nhóm thảo luận thường chia các trường ĐH ra thành 2 nhóm: “tốp trên” và “tốp dưới”. “Tốp trên” là những trường quốc gia lớn, có điểm thi đầu vào cao, có truyền thống đào tạo nhiều năm. Sinh viên tốt nghiệp những trường này có khả năng xin việc cao hơn do chất lượng đào tạo được cho là tốt hơn. “Tốp dưới” là những trường dân lập, trường mới nâng cấp từ CĐ lên ĐH ở các tỉnh, các vùng với điểm đầu vào thấp hơn, truyền thống đào tạo còn ít, chưa được người dân và các nhà tuyển dụng tin tưởng.

--- “Văn bản không có nhưng tụi em ai cũng biết là có hai loại trường. Trường tốp trên kiểu như Kinh tế, Khoa học tự nhiên, Bách khoa, Sư phạm kỹ thuật, Y dược…, toàn những trường điểm vào cao, xin việc đúng ngành dễ. Mấy ông đại học dân lập, chuyển từ cao đẳng lên, hay ở Quy Nhơn, An Giang đều là trường loại hai, tốp dưới hết.”

(Nhóm thanh niên Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Hầu hết học sinh sau khi tốt nghiệp THPT đều mong muốn học tại các trường ĐH “tốp trên” nhưng thực tế số lượng được đi học tại các trường này còn ít. Cả xã Kim Chung (Hà Nội), mỗi năm chỉ có khoảng 1/10 trong số em đi học Trung cấp, CĐ, ĐH được vào học tại những trường ĐH lớn tại trung tâm thành phố. Chất lượng học phổ thông còn thấp được cho là lý do chính khiến số đỗ vào các trường ĐH lớn không nhiều.

--- “Ở đây hàng năm mà đỗ vào mấy trường xịn thì ít lắm, đếm trên đầu ngón tay. Tại vì chất lượng của mấy trường phổ thông Ngô Tất Tố, Bắc Thăng Long ở đây còn thấp, các cháu thi vào trường đại học lớn thì không đủ điểm.”

(Nhóm cán bộ xã Kim Chung, Hà Nội)

Ngược lại, tỷ lệ thanh niên bản xứ tốt nghiệp THPT đi học các trường ĐH “tốp dưới”, cao đẳng, trung cấp chiếm số lượng lớn. Các trường này đang cố gắng nâng cao chất lượng đào tạo; đặc biệt quan tâm đến việc dạy “kỹ năng mềm” (làm việc nhóm, giao tiếp), tiếng

Page 49: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

37PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Anh, vi tính, hoặc tư vấn cho các em đi học tại các trung tâm bên ngoài, thậm chí coi việc có các chứng chỉ kỹ năng đó là tiêu chuẩn tốt nghiệp. Tuy nhiên, một số nhóm thanh niên phản ánh việc dạy và học kỹ năng mềm, ngoại ngữ, tin học còn mang tính hình thức, chất lượng thấp.

--- “Trường em học hai lớp kỹ năng giao tiếp và làm việc nhóm là bắt buộc. Muốn ra trường phải có chứng chỉ này. Nhưng mà không thực chất lắm, giao tiếp học 3 buổi thôi là đã có chứng chỉ rồi.”

(Nhóm thanh niên Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Tỷ lệ thanh niên bản xứ tốt nghiệp THPT đi học các trường nghề còn thấp. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng) và xã Kim Chung (Hà Nội), học nghề sau khi tốt nghiệp THPT chỉ là sự lựa chọn của một số ít thanh niên. Tâm lý trọng bằng cấp, lo ngại chất lượng đào tạo nghề thấp và khó kiếm việc làm phù hợp sau khi học nghề được coi là những lý do chính khiến đa số chưa mặn mà với các trường nghề.

--- “Chị có nghĩ là học nghề xong hơn gì với những người cấp III không? Em khẳng định là không. Giá mà chỗ đào tạo họ liên kết gì cơ, học xong được đảm bảo gì hơn cơ, chứ như bây giờ học xong cấp III đào tạo vài tuần với cả người học vài năm ra không khác gì nhau, chỉ ăn nhau cái thâm niên làm việc thôi.”

(Nhóm lao động phổ thông thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Tụi em ở quê chưa từng nghĩ đến việc phải học nghề, đi học nghề thì đi học trung cấp hay cao đẳng còn hơn.”

(Nhóm thanh niên Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Riêng tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), theo đánh giá của cán bộ cơ sở và người dân, số thanh niên đi học trường nghề chính quy sau khi tốt nghiệp THPT đã tăng lên (dù còn ở mức thấp) trong 5 năm qua. Một số học sinh chủ động tính đến việc đi học nghề do: được tư vấn từ nhà trường THPT; sự khuyên bảo của cha mẹ; một số trường dạy nghề trên địa bàn TP HCM được đánh giá là đào tạo có uy tín, học sinh sau khi tốt nghiệp trường nghề đáp ứng được với yêu cầu công việc của các doanh nghiệp.

--- “Học trường nghề Cao Thắng hoặc trường Tôn Đức Thắng còn hơn mấy đứa đi học Trung cấp chuyên nghiệp nhiều. Học nghề xong nó xin được việc luôn, chớ mấy đứa học Trung cấp kia còn khó lắm. Con tôi cùng với mấy đứa bạn nó rủ nhau thi trường nghề. Tôi thấy thế chắc ăn nên cũng động viên cháu.”

(Nhóm cán bộ phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tỷ lệ thanh niên học xong THPT rẽ ngang đi làm không cao ở các vùng đô thị. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), có dưới 10% thanh niên bản xứ học xong THPT rẽ ngang đi làm, đây thường là con em hộ nghèo hoàn cảnh khó khăn không thể đi học tiếp hoặc thi không đỗ vào CĐ, ĐH.

Tuy nhiên, tỷ lệ thanh niên học xong THPT rẽ ngang đi làm khá cao tại các vùng ngoại thành. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), có khoảng 1/3 số học sinh học xong THPT đi làm ngay.Có nhiều lý do khiến các bạn thanh niên tại xã Kim Chung (Hà Nội) đi làm ngay sau khi học xong THPT. Thứ nhất, cơ hội làm việc tại các KCN có sức hút khá lớn (có tiền ngay, thuận tiện gần nhà…). Nhóm cán bộ xã cho biết, trước khi KCN mở rộng năm 2006, học sinh tại Kim Chung sau khi tốt nghiệp THPT thường cố gắng thi vào một trường CĐ hoặc ĐH, nếu không đỗ thì năm sau thi lại. Thứ hai, nhiều người lo ngại xin việc làm sau khi tốt nghiệp các bậc học CĐ, ĐH gặp khó khăn. Thứ ba, tâm lý cho rằng con gái không cần học quá cao vẫn còn tồn tại. Nhiều em gái đi làm tại KCN sau vài ba năm thì lập gia đình.

--- “Em thấy đi làm ngay cũng hay, người các tỉnh còn đổ xô về mình làm thuê, mình ở đây có nhà cửa hẳn hoi sao không đi làm. Em thấy đi học cao xong về khó xin việc lắm, lại xin mấy cái việc như ở KCN thì cũng chán.”

(Nhóm thanh niên lao động phổ thông thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Page 50: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

38 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

--- “Học lên cao thì con trai nó còn gắng được, chứ con gái thì không đỗ cái là xin đi công nhân, làm đều đều 1, 2 năm thì lấy chồng.”

(Nhóm nòng cốt thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Hầu hết thanh niên cho rằng tự bản thân họ quyết định việc nghỉ học. Tâm lý muốn kiếm tiền để sống tự lập là lý do chính khiến nhiều thanh niên muốn đi làm ngay sau khi tốt nghiệp THPT. Bảng 10 cho thấy, 84% công nhân nhập cư có trình độ THPT trong mẫu khảo sát 2012 cho biết họ tự quyết định nghỉ học, 74% cho rằng lý do nghỉ học chính là muốn kiếm tiền.

BẢNG 10. Lý do nghỉ học và Người ảnh hưởng đến quyết định nghỉ học của công nhân nhập cư trình độ THPT, 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Lý do

Chi phí học quá cao

Ở quê không có trường cao, không muốn đi học xa

Không thấy học cao thu được nhiều lợi ích

Cần kiếm tiền

Thích làm việc ở thành phố hơn là đi học

Không học giỏi nên không muốn học tiếp

Khác

Người ảnh hưởng

Bố mẹ/gia đình

Bạn bè

Hàng xóm ở quê nhà

Tự bản thân quyết định

Khác

Lý do nghỉ học

Trung bình

23

0

1

74

5

18

4

Trung bình

15

3

2

84

2

Nam

6

0

6

78

6

11

5

Nam

17

0

0

83

0

Nữ

27

0

0

73

5

19

4

Nữ

14

4

3

85

3

Người ảnh hưởng đếnquyết định nghỉ học

Đối với các bạn thanh niên ở nông thôn không học tiếp mà di cư ra thành phố làm công nhân, chi phí học CĐ, ĐH rất lớn cũng là một lý do quan trọng. Số liệu phỏng vấn cho thấy, 23% công nhân nhập cư có trình độ THPT cho rằng họ dừng học sớm vì lý do chi phí học tập cao. Nữ giới nhấn mạnh đến lý do này hơn so với nam giới (27% so với 6%). Tại các điểm quan trắc, những sinh viên ngoại tỉnh theo học CĐ, ĐH tại các thành phố lớn thường phải chi phí tối thiểu 2,5 - 3 triệu đồng/tháng (chi phí còn cao hơn nếu sinh viên theo học các trường bán công, dân lập). Đây là số tiền khá lớn so với đa số gia đình ở nông thôn. Nhờ chính sách cho vay ưu đãi đối với HSSV, nhiều gia đình đã bớt lo lắng hơn về kinh phí cho con đi học. Tuy nhiên, mức vay hiện nay (1 triệu đồng/tháng) mới đáp ứng khoảng 1/3 tổng chi phí hàng tháng của sinh viên.

--- “Học cấp III xong em không thi đại học, em không muốn đi học nữa mà muốn đi làm. Bố mẹ bảo dù khó khăn mấy cũng cho em đi học được nhưng em không muốn khổ bố mẹ. Bạn bè em học xong cũng rủ nhau xuống Hà Nội làm gần hết. Lúc đấy chúng em chả đứa nào nghĩ đến học nghề gì hết cả, chỉ nghĩ là kiếm tiền ngay thôi.”

(H.T.H, công nhân nhập cư, xã Kim Chung, HN)

Lo ngại xin việc làm khó khăn cũng là lý do được một số nhóm thanh niên tại xã Kim Chung (Hà Nội) và phường Lãm Hà (Hải Phòng) đề cập đến. Nhiều bạn trẻ lo ngại khó xin việc làm do không có quan hệ, quyền thế.

Page 51: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

39PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

--- “Học trường xịn thì xin việc dễ chứ cũng học cùng ngành mà ở cao đẳng thì khó xin lắm, hoặc xin được thì những việc không thích lắm. Như chị họ em học cao đẳng kế toán ở Xuân Mai mất 3 năm xong về không có việc, giờ xuống đây bán hàng quần áo được có hơn 2 triệu một tháng. Ngày trước em cũng thích đi học kế toán như chị nhưng thấy chị thế em nản quá. Em đi làm công nhân ở KCN lương còn cao hơn chị.”

(N.T.A. dân tộc Mường, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Em biết nhiều bạn học xong giờ bằng bỏ không, chả làm được gì hơn những người khác. Học đại học mà thường thường, lại thân cô thế cô thì khó lắm. Mình làm thực tế ngoài đời nhiều khi kiếm thành quả nhiều hơn nhiều.”

(Nhóm thanh niên lao động phổ thông thôn Bầu, Kim Chung, Hà Nội)

Ngoài ra, một số thanh niên cho rằng đi làm ngay cũng là một cách để lập nghiệp, trong quá trình đó họ sẽ học thêm để nâng cao học vấn và tay nghề.

--- “Bây giờ không nhất thiết phải vào ĐH, ai cũng đi học ĐH hết trơn thì lấy ai làm công nhân, em cứ cố thì thi 2-3 năm cũng đỗ nhưng em không thích. Em cứ đi làm vài năm đã, làm ăn có tiền vốn em tính tiếp, lúc đó tính đi học lên cũng chưa muộn.”

(Nhóm thanh niên lao động phổ thông, Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Học sinh THPT ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận thông tin hướng nghiệp hơn, nhưng vẫn thiếu những thông tin khách quan và chuyên sâu. Thảo luận với các nhóm thanh niên tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) cho thấy, hiện nay học sinh có nhiều kênh thông tin để tham khảo về ngành học. Điều này có sự cải thiện rõ rệt so với cách đây 5 năm. Nhóm thanh niên nhập cư cho biết, thời điểm họ tốt nghiệp THPT trước đây có rất ít kênh thông tin hướng nghiệp. Lúc đó, sách “Những điều cần biết” của Bộ GĐ-ĐT xuất bản trước mỗi kỳ tuyển sinh CĐ, ĐH gần như là kênh duy nhất với họ.

Sự tư vấn của các trường trung cấp, CĐ, ĐH cũng trở thành một kênh thông tin đối với học sinh trước mỗi kỳ tuyển sinh. Tuy nhiên, nhiều trường đưa thông tin một chiều thiếu khách quan (Hộp 6).

HỘP 6. Hiện tượng “loạn thông tin” hướng nghiệp

Tại cả ba điểm quan trắc, các nhóm thanh niên đều đề cập đến việc các trường trung cấp, CĐ, ĐH về các trường THPT để giới thiệu về trường mình. Khi giới thiệu, các trường luôn đề cập đến những thế mạnh của trường mình, ít khách quan.

“Hồi cuối lớp 12, trường ĐH Hải Phòng về trường em giới thiệu ngành kinh tế em cũng thích, sau lại mấy trường nữa lại gửi tờ rơi về em cũng thấy hay hay. Trường nào nói cũng hay, họ hứa khi nào ra trường sẽ giới thiệu việc làm. Nhiều thông tin quá, em chả biết đâu mà lần.”

(Nhóm thanh niên Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Một số bạn đã học xong CĐ, ĐH phản hồi rằng, nếu lúc tốt nghiệp THPT có thông tin khách quan hơn về thị trường lao động thì có thể lúc đó các bạn đã chọn trường khác.

“Năm nào họ cũng gửi tờ rơi về, bọn em ai cũng có. Chả biết họ đào tạo thế nào nhưng nói hay lắm, nào học xong sẽ giới thiệu việc làm cho. Sau mấy năm em mới biết, nghe họ tư vấn thì đúng là chết.”

(Nhóm thanh niên thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

Page 52: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

40 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Học sinh tại khu vực đô thị tiếp cận thông tin hướng nghiệp thuận lợi hơn so với học sinh tại khu vực ngoại thành/nông thôn (Bảng 11).

BẢNG 11. Xếp hạng các kênh thông tin hướng nghiệp đối với học sinh

Nguồn: Thảo luận với 4 nhóm thanh niên tại phường 6, Gò Vấp, TP HCM, 8/2012

Học sinh đô thị

Báo chí, internet

Tư vấn hướng nghiệp của Thành đoàn, nhà trường

Sách “Những điều cần biết” củaBộ GĐ-ĐT

Cha mẹ

Người thân có trình độ học vấn cao

Tư vấn trực tiếp của các trường ĐH

Tờ rơi, tờ gấp của một số trường CĐ, ĐH

Ngày hội việc làm cho thanh niên

Các chương trình “thử làm sinh viên” của một số trường ĐH

Học sinh nông thôn

Sách “Những điều cần biết” của Bộ GĐ-ĐT

Người thân có trình độ học vấn cao hiện đang làm việc tại đô thị

Internet

Tờ rơi, tờ gấp của một số trường CĐ, ĐH

Thứ tự

1

2

3

4

5

6

7

8

9

Nhờ có nhiều thông tin hơn, việc lựa chọn ngành học của thanh niên tại khu vực đô thị đã có những chuyển biến tích cực trong thời gian gần đây. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) và phường Lãm Hà (Hải Phòng) học sinh chọn ngành học theo hướng ngày càng đa dạng hơn để thích ứng với thị trường lao động rộng lớn tại các thành phố.

--- “Cách đây khoảng 3-4 năm, học sinh người thành phố chạy theo ngành kế toán, kinh doanh, ngân hàng, xuất nhập khẩu nhiều. Giờ thì khác rồi, chúng nó chọn ngành đa dạng lắm. Chúng nó thấy mấy chị học kế toán ra mà việc cũng không tốt lắm. Cơ khí cũng nhiều đứa chọn vì thấy nhu cầu cần nhiều, ngay Gò Vấp đây cũng khá nhiều việc làm.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Mấy năm nay ở quê thi đại học hỏi ra đâu cũng thấy Quản trị kinh doanh, kế toán không à. Họ chạy theo xu hướng xã hội nhiều mà hổng biết đông người học thế lấy gì ra mà làm, cạnh tranh cao lắm. Nhưng trên này họ khác, có người chọn kinh tế, ngoại thương. Tầm tầm thi cơ khí, môi trường, điện... Những ngành này thành phố có nhiều nhu cầu, ra là hết veo à.”

(Nhóm thanh niên có trình độ cao Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Đối với một số hộ khá ở đô thị, cha mẹ có vai trò quan trọng trong việc hướng nghiệp cho con cái. Sự định hướng này có tính chất lâu dài, căn cứ trên học lực của con cái, kinh nghiệm bản thân, tiềm lực kinh tế gia đình, và có sẵn quan hệ để xin việc sau này. Hộ nghèo thường vẫn để cho con cái tự tìm hiểu là chính.

--- “Ở đây, em nào sắp thi là cha mẹ người ta xem từ hàng năm trước, xem trường này, hỏi trường kia. Chứ đâu như nông thôn, đầu tắt mặt tối, cứ bảo con thích trường nào thì thi trường ấy. Có muốn cũng không định hướng được. Suy từ bản thân mình ra thì mình thấy là thiệt thòi hơn các bạn thành phố nhiều quá.”

(Nhóm thanh niên nhập cư Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Đối với thanh niên ngoại thành/nông thôn, vẫn còn rất ít kênh thông tin hướng nghiệp. Trong nhiều trường hợp, tấm gương và sự tư vấn của một vài người cùng quê đã học tập và làm việc “thành đạt” tại thành phố có ảnh hưởng lớn đến việc lựa chọn nghề nghiệp của

Page 53: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

41PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

học sinh nông thôn. Ngay tại xã Kim Chung (Hà Nội) - chỉ cách trung tâm Hà Nội chưa đến 20 km, việc tiếp cận thông tin hướng nghiệp của thanh niên bản xứ không khá hơn so với thanh niên nông thôn. Khoảng 5 năm trở lại đây, một số trường CĐ, ĐH có tổ chức cho học sinh THPT của xã tham gia buổi tư vấn hướng nghiệp. Tuy nhiên, do số lượng tham gia có hạn (mỗi lớp cử vài bạn tham gia) nên sức ảnh hưởng cũng không lớn.

Sự thiệt thòi về thông tin của học sinh ngoại thành/nông thôn dẫn đến nhiều ngườichọn ngành học không phù hợp. Không ít sinh viên sau 1 năm học ĐH mới biết mình chọn sai ngành học và thi lại ngành học khác; có người học văn bằng 2 nhằm xin việc theo ngành học mới. Đây là sự lãng phí về thời gian, tiền bạc đối với thanh niên và gia đình họ.

--- “Em tôi lắm đứa học xong năm nhất mới biết ngành đấy không phù hợp, có đứa cố thi sang trường khác. Cái đấy không ít đâu. Học sinh thành phố khác hơn, họ biết họ cần học gì rõ hơn mình.”

(Nhóm thanh niên nhập cư Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Có những trường CĐ, ĐH số học sinh đô thị thi vào ít do biết rằng cơ hội việc làm không hấp dẫn như trước, trong khi đó số học sinh nông thôn do ít thông tin nên vẫn thi vào nhiều.

--- “Hàng Hải mấy năm nay ở đây có ai học đâu, thế mà người bên Thái Bình nhà em cứ thi ầm ầm, ai cũng bảo Hàng Hải lắm tiền. Ở đây sau vụ Vinashin là bớt đi nhiều, lại vụ Vinalines nữa càng ít người thi vào trường Hàng Hải.”

(Nhóm thanh niên nhập cư, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Tuy nhiên, còn một bộ phận thanh niênvẫn trọng bằng cấp CĐ, ĐH, chỉ quan tâm tới việc chọn trường vừa sức thi, ít quan tâm đến cơ hội việc làm sau tốt nghiệp.

--- “Đối với nông thôn, có người con đỗ đại học là rất mừng rồi, tự hào với hàng xóm láng giềng rồi, chuyện việc làm khoan hãy tính. Ba mẹ đâu có biết nhiều người cũng khổ lắm chớ, có bằng đó mà có giúp gì đâu.”

(Nhóm thanh niên trình độ cao Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

4.2. Việc làm và tay nghềTâm lý muốn làm trong khu vực công của thanh niên tại khu vực đô thị đã giảm so với trước đây. Hiện nay, các bạn thanh niên tại các điểm khảo sát thường hướng đến việc làm tại khu vực tư nhiều hơn, do: (i) Cơ hội việc làm nhiều hơn, có nhiều lựa chọn; (ii) Yếu tố “quan hệ” nhẹ nhàng hơn khi xin việc so với khu vực công; (iii) Chế độ đãi ngộ cho người lao động dựa trên hiệu quả công việc và năng lực là chính; (iv) Tính năng động của khu vực tư - sự dịch chuyển việc làm (“nhảy việc”) của người lao động giữa các công ty sau quá trình tích lũy kinh nghiệm dễ dàng hơn so với khu vực công. Một số bạn còn cho rằng, những bạn trẻ chỉ muốn làm trong khu vực công thường có phần năng lực hạn chế, ỷ lại vào quan hệ và tiền bạc của gia đình.

--- “Bây giờ mấy ai nghĩ đến Nhà nước nữa, em thích làm bên ngoài vì bên ngoài lấy công việc để đánh giá năng lực “đếm việc chứ không đêm giờ”. Em làm xuất nhập khẩu 9h tối hàng mình còn trên máy bay thì mình còn phải đợi. Đấy là trách nhiệm, chứ không như công chức “đếm giờ chứ không đếm việc”. Chỉ người ỷ lại, thích hưởng thụ mới thích làm Nhà nước thôi.”

(Nhóm thanh niên Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Việc làm ở đây nhiều, doanh nghiệp không thiếu, trên Hà Nội còn phong phú hơn. Làm công ty này có kinh nghiệm mình chuyển công ty khác thoải mái, cứ như thế mà lên chứ không đợi đến tuổi thăng chức như Nhà nước.”

(Nhóm thanh niên Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Việc áp dụng những kiến thức đã học vào công việc sau khi ra trường còn hạn chế. Hầu hết thanh niên trình độ Trung cấp, CĐ, ĐH qua phỏng vấn đều cho rằng, họ gặp nhiều khó

Page 54: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

42 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

khăn để thích nghi với công việc. Những người học các trường kỹ thuật phàn nàn nhiều nhất do học lý thuyết nhiều, ít cơ hội thực hành, máy móc phục vụ giảng dạy lạc hậu.

--- “Em học Cao đẳng Giao thông hơn 3 năm mà có hơn một năm cuối là học chuyên ngành, 2 năm trước toàn học môn cơ bản. Khoa em đáng lẽ ra học xong là mọi người đi làm ở những công ty sản xuất ô tô hoặc xưởng sửa chữa ô tô. Nhưng đi tuyển bọn em khó đáp ứng được lắm. Người ta cho cái xe Camry 3.0 bị hỏng ra bảo sửa là tắc ngay”.

(T.V.T, nhân viên kinh doanh, thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Em không đem được gì mấy kiến thức từ trong trường ra ngoài thực tế. Trường thì học máy móc của năm bao nhiêu đến giờ lạc hậu lắm rồi.”

(Đ.T.L, sinh viên tốt nghiệp trường nghề, Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Một số nhà tuyển dụng tại Gò Vấp (TP HCM) cho rằng, đang tồn tại sự mất cân đối lớn giữa nhu cầu thị trường lao động và chất lượng nguồn nhân lực. Các doanh nghiệp tuyển dụng lao động về ngành kỹ thuật còn đánh giá cao chất lượng lao động thanh niên đã tốt nghiệp một số trường nghề có uy tín hơn là những người đã tốt nghiệp CĐ, ĐH (cùng chuyên ngành) do có kiến thức thực tế hơn và yêu cầu mức lương phù hợp với doanh nghiệp hơn.

Một số sinh viên lựa chọn đi làm thêm trong quá trình đi học. Các bạn thường đi làm thêm về các lĩnh vực liên quan đến ngành học của mình để sau này có kinh nghiệm và kỹ năng thực tế.

--- “Mình làm tuyển dụng mình cũng có chút đánh giá riêng, cũng là sinh viên kinh tế nhưng từ Hà Nội, Huế vào đây khác với sinh viên học tại Sài Gòn nhiều. Ở đây năng động, tự tin hơn nhiều. Phần nhiều đã va chạm thực tế rồi nên đi làm thích nghi được ngay.”

(P.V.T, nhà tuyển dụng, Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Nhiều thanh niên học xong trung cấp, CĐ, ĐH phải đi làm trái nghề, thậm chí đi làm công nhân tay nghề thấp. Có hơn 20% công nhân nhập cư (hầu hết là lao động tay nghề thấp) trong mẫu khảo sát năm 2012 đã tốt nghiệp trường trung cấp chuyên nghiệp hoặc CĐ, ĐH. Một cựu sinh viên khoa kinh tế vận tải biển tại Hải Phòng sống tại Tổ 14, phường Lãm Hà (Hải Phòng), hiện đang làm công nhân tại một doanh nghiệp cho biết, khoảng 80% lao động tại công ty có trình độ từ Trung cấp trở lên, tuy nhiên, chỉ có khoảng 10% trong số đó là làm công việc quản lý, còn lại vẫn đang làm công nhân.

--- “Chị gái em học ngành Quan hệ quốc tế, chuyên ngành Chính trị quốc tế. Học xong giờ chị đi làm Khu công nghiệp, hưởng lương giống như người tốt nghiệp cấp 3. Em thấy phí quá...”

(Nhóm thanh niên thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

Cán bộ và người dân tại các điểm quan trắc đưa ra nhiều lý do khiến thanh niên đi làm trái ngành. Thứ nhất, nhiều người theo học những ngành nhu cầu thị trường hẹp do lúc chọn ngành chưa tính toán kỹ. Thứ hai, năng lực chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường do chất lượng đào tạo của các trường còn thấp. Một số người chọn ngành học không đúng với khả năng của mình nên không thực sự tâm huyết với nghề.

--- “Hồi đăng ký thi em cứ đăng ký thôi, cũng chưa biết học xong thì làm gì. Đi học rồi mới biết mình không thích lắm, nhưng đã đâm lao thì theo lao. Sau khi ra trường em đi làm công nhân viễn thông, cũng chả hơn gì so với những người học xong lớp 12 được công ty đào tạo một tháng, lương cũng giống nhau thôi. Doanh nghiệp không ưu tiên gì, trường thì đào tạo bọn em thầy không ra thầy thợ cũng chẳng ra thợ.”

(H.Đ.Đ, nhân viên kinh doanh, thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Page 55: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

43PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Thứ ba, do thiếu quan hệ hoặc tiền bạc để xin việc đúng ngành học. Lý do này được đề cập đến nhiều hơn tại xã Kim Chung (Hà Nội) và phường Lãm Hà (Hải Phòng), ít được đề cập đến tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM).

--- “Em biết nhiều bạn học xong giờ bằng bỏ không, chả làm được gì hơn những người khác. Học đại học mà thường thường, lại thân cô thế cô thì khó lắm. Mình làm thực tế ngoài đời nhiều khi kiếm thành quả nhiều hơn nhiều.”

(Nhóm lao động phổ thông thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Riêng tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), nhiều người cho rằng, họ chấp nhận đi làm trái ngành vì có mức thu nhập cao hơn.

--- “Thành phố có nhiều công việc, có thể học cái này ra nhưng thấy cái khác không liên quan lắm nhưng thu nhập cao hơn thì làm. Mình học thiết kế thời trang nhưng thấy kế toán hay hay, thu nhập tốt thì lại làm. Có người thân nhà mình nên được giúp đỡ.”

(Đ.T.V, Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Theo đa số các nhóm thảo luận, những thanh niên đã tốt nghiệp THPT không khó để tìm được việc làm tại các nhà máy, KCN. Họ thường xin việc thông qua giới thiệu của người thân/bạn bè đang làm việc tại doanh nghiệp, tiếp đến là qua thông báo tuyển người treo/dán tại cổng nhà máy, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng (Bảng 12).

BẢNG12. Các kênh thông tin giúp công nhân nhập cư biết đến công việc hiện tại (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Kênh thông tin

Người thân/ bạn bè đang làm việc tại đó giới thiệu

Qua thông báo tuyển người trên các phương tiện thông tin đại chúng

Qua thông báo tuyển người treo/ dán tại cổng nhà máy

Qua cơ quan/dịch vụ giới thiệu/môi giới việc làm

Người của doanh nghiệp về quê/nơi làm việc trước tuyển

Nhờ bạn bè/họ hàng có quen biết với doanh nghiệp

Không biết/không nhớ

Kim Chung(Hà Nội)

80

12

42

5

0

0

2

Trung bình

70

16

18

3

0

4

1

Lãm Hà(Hải Phòng)

72

10

5

3

0

12

0

Nam

66

11

9

4

0

9

0

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

58

27

8

2

0

2

0

Nữ

72

18

22

3

0

2

0

Tuy nhiên, theo ý kiến của một số nhà tuyển dụng tại Gò Vấp, lao động không có học vấn và tay nghề sẽ ngày càng gặp khó khăn khi đi xin việc, do hiện nay các doanh nghiệp ưu tiên lao động có học vấn và tay nghề hơn. Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ quận Gò Vấp (TP HCM) cho biết, trong bối cảnh kinh tế khó khăn năm 2012, nhiều doanh nghiệp phải cắt giảm nhân công, đối tượng cắt giảm chủ yếu là lao động phổ thông tay nghề thấp.

Page 56: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

44 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

BẢNG13. Các kỹ năng công nhân nhập cư học được tại nơi làm việc (%)

BẢNG14. Kỹ năng học từ doanh nghiệp trước giúp ích cho công nhân nhập cư khi đến doanh nghiệp sau (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Loại kỹ năng

Tay nghề kỹ thuật

Ngoại ngữ (tiếng Anh/Nhật/Hàn...)

Vi tính

Kỹ năng tính toán/đọc viêt cơ bản

Cách vận hành, quản lý doanh nghiệp, quản lý công nhân

Kỹ năng mềm (làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, giao tiếp…)

Không học được kỹ năng gì

Kim Chung(Hà Nội)

82

7

0

7

7

12

3

Trung bình

78

5

3

5

7

8

12

Lãm Hà(Hải Phòng)

65

3

5

7

5

8

25

Nam

86

6

4

0

4

7

11

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

87

5

5

2

10

3

7

Nữ

74

5

3

7

9

8

12

Giúp ích nhiều

Giúp ích ít

Không giúp ích

Kim Chung(Hà Nội)

31

19

50

Trung bình

20

42

38

Lãm Hà(Hải Phòng)

23

31

46

Nam

23

42

35

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

6

83

11

Nữ

18

42

40

Đa số công nhân nhập cư không đánh giá cao các kỹ năng học được tại nơi đang làm việc, do họ chỉ quen làm một khâu trong dây chuyền công nghiệp. Bảng 14 cho thấy, 38% công nhân nhập cư đã làm việc tại 2 doanh nghiệp trở lên trong mẫu khảo sát năm 2012 cho rằng, kỹ năng học được từ doanh nghiệp trước “không giúp ích” khi họ đến làm việc tại doanh nghiệp sau.

--- “Các doanh nghiệp giờ ưu tiên lao động có tay nghề để tự cứu mình, cái thời chỉ dựa vào lao động phổ thông sắp qua rồi. Công ty K.T của tôi có hơn 100 lao động giờ cắt chỉ còn 60 thôi, những lao động không có tay nghề chúng tôi đành phải cho nghỉ. Đơn hàng không có buộc phải cắt giảm lao động nhưng phải ưu tiên lao động lành nghề, họ mới chính là ưu thế giúp mình giảm giá thành sản phẩm và mong cạnh tranh được trên thị trường.”

(T.Q.V, chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ quận Gò Vấp, TP HCM)

Công nhân nhập cư chủ yếu học được tay nghề kỹ thuật tại nơi làm việc. Ngoài ra, một số ít công nhân cho biết họ còn học được các kỹ năng khác như ngoại ngữ, vi tính, kiến thức quản lý, các kỹ năng mềm…(Bảng 13).

Page 57: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

45PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Khi công nhân mới vào, doanh nghiệp thường dành thời gian từ 1 tuần đến 2 tháng để đào tạo nghề cho họ. Tuy nhiên, những hướng dẫn này chỉ tập trung vào những kỹ năng cơ bản để công nhân có thể làm tốt công việc tại dây chuyền mình tham gia, ít có ý nghĩa nếu chuyển sang dây chuyền khác hoặc chuyển sang doanh nghiệp khác.

--- “Làm ở đây là quen tay thôi, hướng dẫn 1 tuần là có thể làm được. Ngày này qua tháng khác làm rồi quen tay thôi chứ em thấy không phải kỹ năng gì cả. Em làm ở chuyền sản xuất chíp, cho em sang chuyền khác em cũng phải học lại từ đầu. Nếu muốn sang công ty khác lương cao hơn thì em cũng học lại từ đầu thôi.”

(H.T.T, công nhân nhập cư, xã Kim Chung, Hà Nội)

Một số công nhân nhập cư cho biết, điều giúp ích nhất đối với họ khi chuyển việc từ công ty này sang công ty khác là tác phong làm việc công nghiệp. Để làm quen được với nội qui lao động nghiêm ngặt của công ty, công nhân thường mất khoảng 2-3 tháng đầu. Trong thời gian này, một số người không thích nghi được phải xin nghỉ việc. Khi công nhân đã quen với tác phong công nghiệp, việc xin việc và thích nghi tại các doanh nghiệp mới dễ dàng hơn.

--- “Cái sợ nhất ở đây là giờ giấc, chậm 1 phút cũng tính thành nửa buổi, nhiều lần bị trừ lương nên em rút kinh nghiệm. Quen rồi thì đi đâu trong KCN cũng làm được việc.”

(N.T.A, dân tộc Mường, xã Kim Chung, Hà Nội)

Bảng 15 cũng cho thấy, có hơn 1/3 công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát 2012 cảm thấy khó tuân thủ nội qui của công ty. Nữ công nhân cảm thấy những nội qui này khó tuân thủ hơn nhiều so với nam công nhân.

BẢNG 15. Các nội quy công ty công nhân nhập cư khó tuân thủ, 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Tỷ lệ công nhân cho biết “nội quy công ty khó tuân thủ”

Những nội quy khó tuân thủ:

Đi làm đúng giờ

Không nói chuyện trong suốt giờ làm việc

Không nghỉ lâu (giải lao, nghỉ trưa)

Bị phạt tiền khi sản phẩm bị lỗi, hỏng hóc

Không sử dụng điện thoại di động trong giờ làm việc

Mặc trang phục bảo hộ lao động trong giờ làm việc

Khác

Kim Chung(Hà Nội)

76

18

68

21

61

71

5

0

Trung bình

36

18

49

38

60

48

9

3

Lãm Hà(Hải Phòng)

25

33

20

87

47

20

7

7

Nam

19

17

3

58

42

17

3

3

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

18

0

25

33

75

8

25

8

Nữ

46

19

58

34

64

55

1

0

Ít công nhân chủ động đưa ra đề xuất về các khóa đào tạo chuyên sâu. Tuy nhiên, khi được thúc đẩy, họ đều nhận thấy cần phải có những khóa học chuyên sâu để nâng cao trình độ và dễ dàng thích nghi khi chuyển sang doanh nghiệp khác.

Page 58: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

46 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Nguyện vọng, mong muốn

Sau khi đi làm một thời gian, nhiều công nhân tay nghề thấp sẽ tìm cách học tiếp để nâng cao học vấn, tay nghề theo hình thức “vừa học vừa làm”. Một số trường đã tạo điều kiện để công nhân có thể theo học được. Điển hình là trường Trung cấp kỹ thuật Bắc Thăng Long (Kim Chung, Hà Nội). Hiện nay, trường có khoảng 90% học sinh theo diện vừa học vừa làm. Nhà trường đào tạo 3 ca/ngày, tạo điều kiện cho học sinh đăng ký thời gian học phù hợp với thời gian đi làm.

Con em hộ nghèo ở đô thị, con em nông thôn có hoàn cảnh khó khăn thường ít có cơ hội đi học ĐH ngay sau khi tốt nghiệp THPT, vì vậy vừa học vừa làm là một hướng đi được nhiều thanh niên lựa chọn. Do phong trào XHH giáo dục đang mở rộng, cơ hội học bổ túc, tại chức, liên thông của các bạn thanh niên rất thuận lợi. Việc đi làm một thời gian sau đó mới đi học tiếp cũng giúp thanh niên định hướng nghề nghiệp rõ ràng hơn.

--- “Hiếm con em hộ nghèo đi học Đại học lắm. Thường thì tốt nghiệp cấp III xong thì vừa đi học vừa đi làm. Giờ có đến 60% là vừa học vừa làm. Trước thì tỷ lệ thấp hơn nhiều, họ không chú trọng mấy. Họ đi làm rồi nên biết ngành gì là phù hợp với mình hơn.”

(Nhóm cán bộ phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Nam công nhân thường có điều kiện hơn để nâng cao học vấn, tay nghề hơn so nữ công nhân. Qua trao đổi với một số bạn nữ thanh niên đang làm việc tại KCN Bắc Thăng Long (Kim Chung, Hà Nội), sau thời gian 8 - 12 tiếng làm việc hàng ngày, họ rất khó khăn để tiếp tục học tập. Một số bạn nữ khi đã có chồng phải dành thời gian chăm sóc gia đình nhiều hơn nên ít có thời gian để học.

--- “Bọn em là nữ làm kíp 12 tiếng mới xong, dư thời gian thì giặt quần áo, ăn uống thôi là không còn chút thời gian nào. Cô bạn làm cùng em trước cũng đi học kế toán nhưng giờ thì nghỉ rồi, mệt quá, không có thời gian mà theo.”

(Nhóm công nhân thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Ngay cả một số thanh niên đã có trình độ Trung cấp, CĐ, ĐH cũng tích cực học liên thông, tại chức để nâng cao học vấn (trong đó có những người đi học để “hợp thức hóa bằng cấp” hơn là thực sự nâng cao kiến thức làm việc). Thông thường, chỉ cần 1,5 năm với người đã tốt nghiệp CĐ, 2-3 năm với người đã tốt nghiệp Trung cấp là người học đã có được một tấm bằng ĐH.

Riêng nhóm thanh niên nhập cư lao động tự do ít có định hướng quay lại đi học hoặc chuyển sang làm ở khối doanh nghiệp. Họ thường làm lao động tự do ở thành phố cho đến khi lập gia đình, hoặc quá tuổi không thể tiếp tục làm thì quay về quê làm ăn.

--- “Tụi em thì chỉ làm tự do như này thôi, có tí vốn sau này về quê làm ăn, không nghĩ học hành gì cả.”

(Nhóm thanh niên lao động tự do Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Hiệu quả chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn

Tại ba điểm quan trắc, nhiều chương trình dạy nghề ngắn hạn đã được triển khai như chương trình dạy nghề cho lao động nông thôn (theo Quyết định 1956/QĐ-TTg), đề án hỗ trợ phụ nữ học nghề (theo Quyết định 295/QĐ-TTg), chính sách hỗ trợ học nghề cho lao động thuộc hộ nghèo của quận Gò Vấp, TP HCM…

Trên thực tế, hầu hết thanh niên không hào hứng với các chương trình học nghề ngắn hạn dù được sự hỗ trợ từ Nhà nước (miễn/giảm học phí, hộ nghèo được hỗ trợ kinh phí học tập, được giới thiệu việc làm sau khi học xong... ). Năm 2012, Phòng LĐ-TBXH quận Gò Vấp phối hợp với Trung tâm dạy nghề quận tổ chức Chương trình dạy nghề cho người nghèo. Tuy nhiên, ngay từ buổi truyền thông giới thiệu về dạy nghề rất ít người đi (phường 6 không có hộ nghèo nào tham gia). Quận phải giao chỉ tiêu cho mỗi phường cử 2 em đi học nhưng không đạt, cả quận chỉ có 6 em tham gia.

Page 59: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

47PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Có nhiều lý do khiến con em hộ nghèo không tham gia vào các chương trình dạy nghề ngắn hạn (3 tháng), như: (i) Người nghèo phải lo đi làm để có cái ăn trước mắt, không thể nghỉ làm dù chỉ trong một thời gian ngắn; (ii) Họ thích vừa làm vừa học, học nghề ngay tại xưởng hơn là theo các lớp học nghề chính thức; (iii) Người dân chưa tin tưởng về chất lượng của các lớp đào tạo nghề ngắn hạn. Nhiều người cho rằng, thời gian đào tạo ngắn (3 tháng) chưa đủ để cho học viên thành thạo tay nghề.

Thực hiện Nghị định 49, những em tham gia học nghề chính quy dài hạn cũng được nhận nhiều hỗ trợ (giảm 50% học phí đối với học sinh tốt nghiệp THCS đi học nghề). Điều này đã giúp gia đình giảm một phần chi phí và là động lực cho các em học sinh đi học nghề. Tuy nhiên, việc giải quyết đầu ra cho dạy nghề vẫn còn nhiều khó khăn.

Hiện nay đã có một số sáng kiến nhằm cải thiện hiệu quả học nghề ngắn hạn. Tại Gò Vấp (TP HCM), những lao động đang hành nghề tự do nếu có nhu cầu nâng cao tay nghề có thể tham gia các lớp ngắn hạn tại các trường Trung cấp nghề, Trung tâm dạy nghề. Cách dạy của những lớp này là “dạy theo nhu cầu”, học viên thấy thiếu kỹ năng gì thì bổ sung kỹ năng đó. Theo ý kiến của lãnh đạo một trường dạy nghề tại quận, số lượng học nghề ngắn hạn theo hình thức này tăng trong 2-3 năm gần đây.

--- “Trường có gần 30 lớp ngắn hạn với đủ các ngành nghề từ cắt tóc, nấu ăn, trang điểm cô dâu... Những người đi học ở đây hầu hết đã đi làm rồi, giáo viên dạy theo nhu cầu, họ cần cái gì thì mình dạy cái đó. Giáo viên những lớp này đều có kinh nghiệm thực tế rất tốt mới đáp ứng được chớ không lan man lý thuyết người ta không học.”

(Đại diện trường Trung cấp nghề Quang Trung, Gò Vấp, TP HCM)

Một sáng kiến nữa là đề án phối hợp giữa Hiệp hội Doanh nghiệp quận Gò Vấp và Hiệp hội dạy nghề nhằm xây dựng các chương trình dạy nghề. Tuy nhiên, đề án này mới bắt đầu triển khai (Hộp 7).

HỘP7. Liên kết giữa Hiệp hội doanh nghiệp Gò Vấp với Hiệp hội dạy nghề

Theo ông T.Q.V, chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ quận Gò Vấp (TP HCM), thị trường lao động hiện có tình trạng mất cân đối giữa chất lượng lao động và nhu cầu của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp phải bỏ chi phí, thời gian đào tạo lại công nhân viên.

Từ đầu năm 2012, Hiệp hội Doanh nghiệp Gò Vấp triển khai đề án đào tạo nghề có sự liên kết với Hiệp hội dạy nghề. Hiệp hội dạy nghề sẽ tổ chức tuyển sinh và cung cấp nơi dạy lý thuyết cho học viên. Hiệp hội Doanh nghiệp cung cấp giáo viên là những lao động xuất sắc trong các công ty. Mức học phí dự kiến tương đương với các trường nghề trên địa bàn Thành phố. Học viên vừa học vừa thực hành ngay tại các công ty trong Hiệp hội. Khi đã bắt đầu làm được việc tại doanh nghiệp, các học viên sẽ có thu nhập nhất định.

Sau khi tốt nghiệp, Hiệp hội Doanh nghiệp sẽ giới thiệu việc làm cho học viên ngay tại các công ty trong Hiệp hội hoặc các doanh nghiệp khác tại TP HCM và các tỉnh lân cận. Ông V. cho biết:

“Hiệp hội có quan hệ với tất cả Hiệp hội Doanh nghiệp trên địa bàn TP HCM và nhiều tỉnh khác. Vấn đề việc làm cho lao động đã qua đào tạo không thiếu và được cam kết hỗ trợ.”

Page 60: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

48 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

5. TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG VÀ AN SINH XÃ HỘI

5.1. Tính dễ bị tổn thương

Trong 5 năm qua, người nghèo đô thị phải đương đầu với nhiều cú sốc liên tục và đồng thời. Trong đó, đáng kể nhất là lạm phát cao (điển hình năm 2008 và 2011)21; khủng hoảng tài chính thế giới cuối 2008 - 2009; và suy giảm tăng trưởng kinh tế trong nước năm 2012.

Sự tăng giá điện, gas, thực phẩm, chi phí y tế và học hành làm cạn kiệt ngân quĩ của người nghèo, người về hưu, người thuộc đối tượng BTXH. Khi thu nhập tăng không tương xứng với mức lạm phát, phần tích lũy của hộ nghèo càng giảm, do đó tính dễ bị tổn thương càng tăng khi gặp những cú sốc, đặc biệt là chi phí y tế. Trong cơn bão giá, các cơ sở bảo trợ xã hội - nơi tiếp nhận, chăm sóc người già và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt cũng gặp nhiều khó khăn.

Người nhập cư tại các khu vực đô thị thuộc vào nhóm chịu tác động mạnh nhất của giá cả tăng. Bên cạnh chi phí tăng cho lương thực, thực phẩm và dịch vụ ăn uống, nhóm nghèo nhập cư còn phải trả chi phí cao hơn cho thuê nhà trọ, điện. Nhóm buôn bán nhỏ, bán hàng rong phải mua hàng với chi phí cao hơn, nên khi tăng giá bán thì số lượng khách hàng giảm như các nghề bán hoa quả, phở, bún, hủ tiếu, nước giải khát, quà vặt... Nhóm nhập cư có con nhỏ còn phải chịu các khoản chi phí phát sinh cho con trẻ như tiền sữa, bỉm, tiền học, gửi trẻ… Do phải dành thời gian chăm sóc con cái nên phụ nữ nhập cư có con nhỏ ít làm tăng ca, tăng giờ dẫn đến thu nhập thấp hơn.

Để chống đỡ với giá cả tăng, người nghèo bản xứ và người nhập cư đã áp dụng nhiều biện pháp, như giảm chi tiêu tối đa, làm thêm giờ hoặc thay đổi hành vi mua sắm (Hình 4). Người nông thôn di chuyển ra thành phố phụ thuộc nhiều hơn vào quê nhà ở nông thôn. Nhiều người về quê lấy gạo, rau, trứng lên thành phố ăn để giảm chi phí. Nhiều cặp vợ chồng nhập cư ở xa quê phải mời bố mẹ hoặc người thân ở quê lên thành phố trông con nhỏ giúp.

HÌNH 4. Những biện pháp chống đỡ của người nghèo bản xứ và người nhập cư trong bối cảnh giá cả tăng đầu năm 2011

21 Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2008 tăng 22,97% so với năm 2007, trong đó chỉ số giá lương thực tăng 49,16%, chỉ số giá thực phẩm tăng 32,36%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với năm 2010, trong đó chỉ số giá lương thực tăng 22,82%, chỉ số giá thực phẩm tăng 29,34%. Nguồn: trang web của TCTK(http://www.gso.gov.vn).

Page 61: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

49PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Các doanh nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn trong cơn bão giá. Giá nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng, vật liệu xây dựng, tiền thuê địa điểm... đều tăng. Áp lực cạnh tranh ngày càng lớn nên nhiều doanh nghiệp không thể tăng giá hàng hóa và dịch vụ để bù đắp chi phí tăng. Một số doanh nghiệp phải giảm quỹ lương và các trợ cấp khác cho công nhân viên.

Khủng hoảng tài chính thế giới tác động mạnh đến nhóm công nhân làm việc trong các ngành xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành giày da, may mặc, lắp ráp điện tử… đã phải cắt giảm công nhân với số lượng lớn trong giai đoạn quý 4/2008 đến quý 2/2009. Những công nhân còn lại không có tiền tăng ca, nhiều người chỉ được nhận 50-70% lương cơ bản do phải nghỉ dãn việc, luân phiên chờ việc. Nhiều công nhân trở về quê hoặc đi tìm công việc khác. Đến giữa năm 2009, khi đơn hàng bắt đầu phục hồi, các doanh nghiệp lại ở trong tình trạng thiếu lao động, mức độ biến động công nhân rất cao.

Nữ công nhân là nhóm dễ bị tổn thương hơn so với nam công nhân trong bối cảnh khủng hoảng. Nữ giới thường tập trung trong các ngành thâm dụng lao động - những ngành nhạy cảm hơn với biến động của thị trường xuất khẩu. Nữ công nhân còn gặp những bất lợi đặc thù như có bầu, sinh con nên dễ bị mất việc làm hơn so với nam công nhân.

Nhiều công nhân nhập cư quay về quê khi mất việc làm. Một số người tìm việc làm tại các khu công nghiệp, các doanh nghiệp ở gần nhà. Một số người bám trụ lại thành phố, làm nhiều nghề khác nhau như bán hàng rong, phụ hồ, phụ giúp nhà hàng… Phương án thứ ba của một số công nhân khác là vừa đi làm vừa tiếp tục đi học văn hóa và học nghề.

Phần đông người buôn bán nhỏ, bán hàng rong cho rằng thu nhập của họ năm 2009 không tăng, thậm chí là giảm do nhiều người cạnh tranh (trong đó có công nhân thất nghiệp chuyển sang buôn bán nhỏ) và nhu cầu giảm.

Suy giảm tăng trưởng kinh tế trong nước năm 2012 đặc biệt gây khó khăn cho các doanh nghiệp hướng tới thị trường nội địa. Nhiều doanh nghiệp đã ngừng kinh doanh nhưng do các thủ tục phá sản phức tạp nên vẫn tồn tại trên danh nghĩa. Tại Gò Vấp (TP HCM) và Kiến An (Hải Phòng) thấy rõ bức tranh này. Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ quận Gò Vấp cho biết, số thành viên của Hiệp hội giảm từ hơn 100 giữa năm 2011 xuống chỉ còn 60 hội viên giữa năm 2012. Cán bộ LĐLĐ quận Kiến An cũng cho biết, khoảng 30% số doanh nghiệp trên địa bàn quận gặp khó khăn kể từ cuối năm 2011, nhiều doanh nghiệp trong số đó đã ngừng hoạt động.

--- “Chưa bao giờ chúng tôi khó khăn như thế này. Kể cả lúc giá đầu vào tăng ngất trời chúng tôi vẫn sống được. Nhưng đến giờ thì một nửa số thành viên đã mất tiêu, họ chết lâm sàng rồi nhưng thủ tục phá sản phức tạp nên cứ để tên như vậy. Những anh còn lại cũng cận kề vực thẳm rồi.”

(Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp vừa và nhỏ quận Gò Vấp, TP HCM)

Các doanh nghiệp chống đỡ khó khăn bằng cách cắt giảm nhân công. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ phải cắt giảm tới 50% công nhân. Ví dụ, một công ty sản xuất bao bì tại quận Gò Vấp (TP HCM) có 120 công nhân nhưng từ đầu năm 2012 đã giảm xuống chỉ còn 60 công nhân. Số công nhân bị cắt việc thường là công nhân mới vào làm, tay nghề còn thấp. Việc tuyển mới công nhân từ đầu năm 2012 của doanh nghiệp vừa và nhỏ rất hạn chế.

Riêng khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài hướng tới thị trường xuất khẩu (như các công ty Nhật Bản tại KCN Bắc Thăng Long - Hà Nội) công việc vẫn tương đối đều, việc làm và thu nhập của công nhân tại đây không bị ảnh hưởng lớn.

Lao động ở khu vực chính thức. Lao động có học vấn, tay nghề cao và đã làm lâu trong doanh nghiệp ít chịu ảnh hưởng của suy giảm, do các doanh nghiệp vẫn cố gắng đảm bảo chế độ cho họ. Lãnh đạo một số doanh nghiệp vừa và nhỏ cho biết, việc giữ chân công nhân có tay nghề, kinh nghiệm là rất cần thiết để đảm bảo số lượng và chất lượng cho các đơn hàng; đồng thời đây cũng là đội ngũ nòng cốt để công ty phục hồi sản xuất sau này.

Page 62: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

50 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Công nhân tay nghề thấp làm việc trong những ngành hướng tới thị trường nội địa (xe máy, cơ khí, nhựa, bao bì…) tại các điểm khảo sát thiếu việc làm trầm trọng, một số bị mất việc làm, số còn lại thường không tăng ca nên giảm thu nhập. Đại diện LĐLĐ quận Kiến An (Hải Phòng) cho biết, đã có hơn 3.000 lao động trên địa bàn quận mất việc làm, hơn 10.000 lao động khác chỉ có thu nhập tối thiểu.

Số liệu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012 cho thấy, gần 1/3 số công nhân cho biết thu nhập bị giảm sút so với bình thường (năm 2011 chỉ có 14%). Trong đó, nữ công nhân và công nhân mới vào làm việc dường như bị ảnh hưởng nhiều hơn (Bảng 16).

BẢNG16. Tình trạng giảm thu nhập của công nhân nhập cư, năm 2012

Nguồn: Số liệu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Bị giảm thu nhập trong 12 tháng qua (%)

Số tháng bị giảmthu nhập

% thu nhập bị giảm

Trung bình

29

2.6

18

Nam

24

2.3

16

Nữ

32

2.8

19

Lao động làm việc tại DN dưới 18 tháng

46

2.2

17

Lao động làm việc tại DN từ 18 tháng trở lên

24

2.9

20

Hơn một nửa số công nhân bị giảm thu nhập so với bình thường trong 12 tháng qua cho rằng, lý do là do doanh nghiệp thiếu việc làm. Tại Lãm Hà (Hải Phòng), gần 2/3 số công nhân nhập cư bị giảm thu nhập vì lý do này. Riêng tại Kim Chung (Hà Nội), lý do cá nhân như ốm đau lớn hơn so với lý do doanh nghiệp thiếu việc làm (Bảng 17).

BẢNG17. Lý do công nhân nhập cư bị giảm thu nhập, năm 2012 (%)

Nguồn: Số liệu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Kim Chung(Hà Nội)

63

44

0

25

6

Lý do

Bạn bị ốm

Nhà máy thiếu việc làm

Bạn được điều chuyển sang vị trí khác

Bạn bị trừ lương

Lý do khác

Trung bình

39

54

2

11

7

Lãm Hà(Hải Phòng)

32

63

0

5

0

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

26

53

5

5

16

Ngày càng nhiều công nhân lựa chọn cách về quê để làm tại các KCN gần nhà hoặc làm các công việc khác. Hiện nay, các KCN xuất hiện tại nhiều vùng nông thôn. Theo nhận xét của đại diện LĐLĐ quận Gò Vấp (TP HCM), từ cuối 2011 đến đầu 2012, khoảng 20% công nhân nhập cư trên địa bàn quận đã về quê, đa số với mục đích làm việc tại các KCN gần nhà. Kết quả phỏng vấn công nhân nhập cư cũng cho thấy, đang có một xu hướng khá rõ công nhân bỏ về quê làm cho các doanh nghiệp gần nhà.

Công nhân nhập cư giảm gửi tiền về nhà so với trước. Hơn 1/2 công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát 2012 cho biết không gửi tiền về nhà trong năm nay (Bảng 18).

Page 63: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

51PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

BẢNG18. Tỷ lệ công nhân nhập cư không gửi tiền về quê, 2008 và 2012 (%)

Nguồn: Số liệu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2008 và 2012

Kim Chung(Hà Nội)

---

40

Năm

2008

2012

Trung bình

41

54

Lãm Hà(Hải Phòng)

37

55

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

45

68

Căng thẳng trong quan hệ lao động giảm đi trong bối cảnh kinh tế khó khăn năm 2012. Cả thành phố Hải Phòng trong 8 tháng đầu năm 2012 chỉ có 1 cuộc “lãn công” của công nhân. Trong khi đó, chỉ riêng 4 tháng đầu năm 2011, thành phố Hải Phòng đã có 16 cuộc đình công (chủ yếu trong các doanh nghiệp giày da, may mặc) với nguyên nhân sâu xa là thu nhập thấp.

Lao động ở khu vực phi chính thức. Nhu cầu xây dựng giảm mạnh, tác động lớn đến việc làm của lao động tự do liên quan đến ngành xây dựng như phụ hồ, bốc vác, xích lô… Tại ba điểm quan trắc, năm 2012 hầu như không có nhà dân xây dựng mới (trong khi năm 2011 nhiều nhà xây mới). Một số hộ mới chuyển đổi từ xích lô sang ô tô tải hiện đang còn vay vốn ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn, họ phải xoay xở nhiều nơi, thậm chí vay lãi cao bên ngoài để có tiền nộp lãi hàng tháng. Một số người bi quan cho rằng, nếu tình hình này còn kéo dài, những hộ mới chuyển đổi sang ô tô tải có khả năng trắng tay.

--- “Năm nay khó khăn cực kỳ luôn, ô tô không có việc, xích lô không có việc, cả tháng mà chỉ đi được có 2 lần. Người ta không đập phá, xây dựng thì ô tô với xích lô cũng đói nốt. Năm ngoái còn đỡ một tí chứ năm nay thì chết cả khu này luôn, vì khu này chủ yếu làm xây dựng nhiều mà. Năm ngoái mà được 10 thì năm nay chỉ được 1 thôi, từ khi ăn Tết xong đến giờ đã thấy dấu hiệu rồi. Bốc vác năm nay tiền công không tăng mà còn rẻ hơn vẫn phải nhận, phải cạnh tranh để có việc. Việc như mọi năm nhận 3 triệu nhưng năm nay 2 triệu cũng phải nhận. Ông mới chuyển sang ô tô là mệt nhất, xoay các nơi để có tiền trả ngân hàng, thiếu thì vay lãi cao bên ngoài, 1 triệu thì mất 3 nghìn một ngày. Cứ thế này thì bán xe sớm trả ngân hàng.”

(Nhóm hộ trung bình Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Người dân thắt chặt chi tiêu trong khi số người bán hàng tăng lên khiến thu nhập của nhóm buôn bán nhỏ, hàng rong bị giảm. Tại chợ Lãm Hà (Hải Phòng), số người bán hàng tăng đáng kể, đa phần là công nhân các nhà máy trên địa bàn mất việc làm. Công nhân thường chỉ bán những mặt hàng cần ít vốn.

--- “Chưa bao giờ chị bán chán như năm nay, hàng không lên mà không ai mua. Người khác cũng thế, dân không mua là chính, một phần cũng là đông người bán quá. Chợ Lãm Hà người ở đâu cứ ùn ùn kéo về, công nhân mất việc ra làm nhiều. Họ bán mấy mớ rau, quần áo cũ, hoa quả ở cuối chợ, vốn vài trăm mà thu lại vốn nhanh. Nhưng nhiều người bán thế này nên cũng chả được bao nhiêu.”

(P.T.L, Tổ 15, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Nhu cầu thị trường trong nước giảm cũng ảnh hưởng đến công việc của nhóm buôn bán ve chai. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), nhiều người làm ve chai tạm thời chuyển về quê hoặc làm các công việc khác. Người làm nghề xe ôm cũng khó khăn do có nhiều dịch vụ chuyên chở cạnh tranh, khách hàng giảm.

--- “Làm ăn kém chưa từng thấy, năm ngoái giá cao nhưng cũng đỡ vì mua cao bán cũng cao, nhưng giờ thì bán giá thấp nhưng không mua giá thấp được vì cạnh tranh nhiều, có khi 1-2 trăm đồng người ta cũng lựa người khác bán. Ở khu trọ nhà tôi năm ngoái gần 20 người, giờ không còn tới chục người, họ về quê hoặc đi kiếm cái khác chứ làm ve chai không có ăn.”

(Nhóm nhập cư Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Page 64: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

52 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Để đối phó với kinh tế khó khăn, người lao động tự do thường phải tìm cách làm thêm giờ, nhưng nhiều người vẫn không có thu nhập tương đương như các năm trước.

--- “Em đi lượm ve chai giờ đi sớm, về muộn, tăng mỗi ngày 2-3 tiếng mà cũng không bằng mọi năm vì giá bán thấp quá. Ngày trước 7h tối mới đi, giờ 5-6h chiều đã đi rồi.”

(Nhóm nhập cư Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Vận động đóng góp. Suy giảm kinh tế khiến cho việc vận động doanh nghiệp tham gia các hoạt động XHH, hỗ trợ người nghèo khó khăn hơn nhiều so với mọi năm. Đại diện MTTQ quận Kiến An (Hải Phòng) cho biết, cả năm 2011, quận vận động các doanh nghiệp trên địa bàn hỗ trợ xây dựng được 51 căn nhà tình nghĩa, nhưng đến tháng 8 năm 2012 mới chỉ vận động được 3 căn. Mặt trận tổ quốc, các tổ dân phố cũng giảm hoặc ngừng vận động người dân, mạnh thường quân làm các công việc chung ở cơ sở trong năm 2012.

--- “Trước kinh tế khá vận động được nhiều chỗ, đến cuối 2011 và 2012 vận động khó hơn, vì giờ cũng là khó khăn chung, trước họ ủng hộ 10 triệu, nay cho 300-400 ngàn.”

(Nhóm cán bộ phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Một phần ba số doanh nghiệp trên địa bàn quận gặp khó khăn gần giải thể, ảnh hưởng đến vận động giảm nghèo. Tiền ủng hộ cho các hoạt động giảm hẳn.”

(Nhóm cán bộ quận Kiến An, Hải Phòng)

5.2. Bảo hiểmBảo hiểm xã hội. BHXH tự nguyện còn khá xa lạ với người dân. Luật BHXH được ban hành từ năm 2006 nhưng đa số người dân lao động phổ thông được hỏi đều không biết đến Luật này. Một số người có biết đến Luật nhưng chưa nhận thấy lợi ích của BHXH, trong khi người lao động tự do thu nhập thấp thường chỉ nghĩ đến cuộc sống trước mắt.

Việc đóng BHXH bắt buộc có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp. Với những công ty nước ngoài hoặc các doanh nghiệp lớn thì hầu hết công nhân đều được đóng các loại bảo hiểm. Nhưng một số doanh nghiệp tư nhân quy mô nhỏ vẫn trốn tránh trách nhiệm đóng bảo hiểm cho người lao động.

Bảo hiểm y tế. Việc cấp phát thẻ BHYT miễn phí cho các đối tượng hộ nghèo, đối tượng chính sách được thực hiện khá tốt tại các điểm quan trắc. Thẻ BHYT có ý nghĩa rất lớn với những người có bệnh mãn tính, điều trị dài hạn phải nằm viện (Hộp 8).

HỘP 8. Thẻ BHYT giúp ích cho hộ có người ốm đau thường xuyên đi bệnh viện

Chú T.K.L. 55 tuổi sống cùng vợ và một con gái nhiều năm ở Tổ 23, phường 6 (Gò Vấp, TP HCM). Nguồn thu nhập chính của gia đình là quầy bán nước mía, thỉnh thoảng vợ chú cắt rau muống đem ra chợ bán. Năm 2006, sau một trận sốt cao con gái chú bị bệnh thần kinh, thường xuyên phải vào bệnh viện rất tốn kém. Năm 2007, nhà chú được xét hộ nghèo và được cấp thẻ BHYT miễn phí. Từ khi có thẻ BHYT gia đình chú đỡ được phần lớn chi phí chữa bệnh cho con gái. Chú chia sẻ:

”Từ khi có thẻ bảo hiểm y tế cũng đỡ được nhiều. Nó bị bệnh thần kinh nên hay lên cơn lắm, có tháng lên cơn 3-4 lần, tháng này không đi thì tháng sau cũng phải đi. Ra vào viện liên tục. Có thẻ BHYT nên chú chỉ phải đóng 20% thôi, đợt rồi nó đi viện chỉ phải đóng có 300 nghìn đồng. Thường xuyên lên viện để khám và nhận thuốc”.

Năm 2012, đời sống gia đình chú khá hơn, lại được phường hỗ trợ làm nhà chính sách, nên đã ra khỏi danh sách nghèo, con gái chú được hỗ trợ 50% mua thẻ BHYT. Bản thân chú cũng mua thẻ BHYT để phòng thân khi ốm đau bệnh tật.

Page 65: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

53PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Việc mua BHYT tự nguyện của người dân tại các điểm quan trắc đã tăng lên trong những năm gần đây. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TPHCM), số thẻ BHYT bán được tính đến tháng 6/2012 đã gần bằng tổng số thẻ của cả năm 2011 (Bảng 19). Theo ý kiến của cán bộ chuyên trách tại các phường/xã khảo sát, số lượng người tạm trú mua thẻ BHYT tự nguyện cũng đã tăng dần.

Tuy nhiên, số thẻ BHYT bán ra còn quá nhỏ so với qui mô dân số của mỗi địa phương. Đối tượng hộ cận nghèo cũng rất ít người mua thẻ BHYT dù được hỗ trợ 50% giá mua thẻ BHYT22. Nhiều người dân chưa nhận thức được tầm quan trọng của thẻ BHYT (thường chỉ mua BHYT cho người già, người đau ốm thường xuyên). Giá mua thẻ BHYT liên tục tăng (theo mức lương cơ bản) cũng làm hạn chế số lượng người mua BHYT. Nhiều người chưa nắm được thông tin về ưu đãi khi mua thẻ BHYT tự nguyện theo hộ gia đình23. Nhiều người dân lo ngại mất nhiều thời gian chờ đợi và chất lượng khám chữa bệnh bằng thẻ BHYT không đảm bảo.

--- ”Mua cho chồng một chiếc, con là phải mua ở trường rồi, còn mình thì không mua vì chồng ốm hơn mình. Không biết thông tin là mua cả gia đình thì được giảm, loa bảo là ai mua thì mua chứ không bảo là được giảm. Có được giảm thì thanh niên không mua, chủ yếu là người già, người cao tuổi, người ốm mới mua chứ thanh niên trẻ thì ít mua lắm.”

(Nhóm hộ trung bình Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Trong 5 năm qua, các đoàn thể, các hội bảo trợ, cơ sở từ thiện vẫn rất tích cực vận động kinh phí từ các mạnh thường quân và doanh nghiệp để hỗ trợ người tàn tật, mồ côi, nhiễm HIV, nhiễm chất độc da cam... trên địa bàn. Riêng tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), hàng năm đã có sáng kiến vận động nguồn từ Hội bảo trợ bệnh nhân nghèo của Thành phố để cấp không khoảng trên 10 thẻ BHYT cho các thành viên thuộc hộ cận nghèo (có mức thu nhập 8-12 triệu đồng/người/năm) có hoàn cảnh khó khăn.

5.3. Trợ cấp tiền mặtĐợt theo dõi nghèo đô thị vòng 5 năm 2012 đã chú trọng tìm hiểu nhận thức của người dân và cán bộ cơ sở về các chương trình trợ cấp tiền mặt.

Đánh giá các chương trình hiện tại

Hai chương trình trợ cấp tiền mặt chính được thực hiện tại các điểm quan trắc là trợ cấp cho các đối tượng BTXH theo Nghị định 67 và Nghị định 13; và hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định 49. Ngoài ra còn có chính sách trợ cấp tiền điện cho người thu nhập thấp. Riêng TP HCM năm 2011 còn có chính sách hỗ trợ đột xuất cho hộ nghèo ĐBKK (thu nhập dưới

BẢNG19. Số lượng thẻ BHYT tự nguyện bán ra tại các điểm quan trắc

Nguồn: Số liệu do cán bộ chuyên trách của phường/xã cung cấp, 2010 - 2012.

Kim Chung(Hà Nội)

166

265

105

Tổng số thẻ năm 2010

Tổng số thẻ năm 2011

Số thẻ tính đến 6/2012

Lãm Hà(Hải Phòng)

500

959

826

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

936

960

826

22 Mới đây, Nhà nước đã quyết định tăng mức hỗ trợ từ 50% lên 70% chi phí mua thẻ BHYT cho người thuộc hộ gia đình cận nghèo (Quyết định số 797/QĐ-TTg ngày 26/6/2012 Thủ tướng Chính phủ). Trong lộ trình thực hiện BHYT toàn dân, Bộ Y tế đang đề xuất các mức hỗ trợ mua thẻ BHYT cao hơn cho nông dân, sinh viên, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo…

23 Mức đóng khi mua thẻ BHYT tự nguyện theo hộ gia đình: Người thứ nhất trong hộ gia đình mỗi tháng đóng bằng 4,5% lương tối thiểu chung; từ người thứ hai, thứ ba, thứ tư đóng lần lượt bằng 90%, 80%, 70% mức đóng của người thứ nhất; từ người thứ năm trở đi mức đóng bằng 60% của người thứ nhất.

Page 66: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

54 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

8 triệu đồng/người/năm) với mức 100 nghìn đồng/người/tháng và nhóm đối tượng BTXH với mức 50 nghìn đồng/người/tháng trong 9 tháng.

Tác động. Trợ cấp tiền mặt theo Nghị định 67 và Nghị định 13 giúp các đối tượng BTXH đỡ được một phần chi phí sinh hoạt. TP HCM đã nâng mức hỗ trợ cơ bản lên 240 nghìn đồng/tháng từ cuối 201024. TP Hà Nội cũng đã nâng mức hỗ trợ cơ bản cho các đối tượng BTXH lên 350 nghìn đồng/tháng từ cuối 201125. Riêng TP Hải Phòng vẫn giữ mức hỗ trợ 180 nghìn đồng/tháng theo Nghị định 13 của Chính phủ. Tuy nhiên, theo hầu hết các nhóm thảo luận, mức hỗ trợ còn thấp so với mặt bằng giá cả hiện nay; rất ít nhóm cho rằng những hỗ trợ này có thể có tác động thực tế đến giáo dục, y tế. Chỉ có một số nhóm tại địa bàn còn mang đặc trưng nông thôn như xã Kim Chung (Hà Nội) cho rằng mức tiền hỗ trợ BTXH 350 nghìn đồng/tháng hiện nay có thể được dành dụm để hỗ trợ thêm học hành cho con cái.

--- “Bà tôi hơn 80 tuổi, Nhà nước cho 180 nghìn một tháng, tiền này chỉ đủ bà mua trầu, thi thoảng mua đồ ăn sáng thôi, không làm được gì với ngần ấy tiền một tháng được.”

(V.Đ.Q, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Chồng tàn tật, mỗi tháng nhà nước cho 350 nghìn, có khi 2 tháng lấy một lần, khi nào đóng tiền học cho con cũng có món trông vào.”

(Nhóm nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

Hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định 49 đã giúp hộ nghèo giảm được một phần các khoản đóng góp cho nhà trường. Với cách áp dụng trừ luôn số tiền hỗ trợ vào khoản tiền đóng góp đã giúp cho hộ nghèo đỡ được áp lực lo tiền học cho con vào đầu năm học. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định 49 được thực hiện cùng với các hỗ trợ khác của mạnh thường quân và nhà tài trợ đã giúp hộ nghèo giảm được chi phí học tập.

--- “Con tôi đứa học cấp I, đứa học cấp II đều được nhà trường thương giảm cho một nửa tiền đóng học đầu năm, nếu không thì chết, chồng ốm, mình ốm, nhà chỉ trông vào ruộng thôi.”

(N.T.H, hộ nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Được giảm một nửa tiền đóng góp đầu năm, các cháu cũng được phát sách giáo khoa miễn phí nữa, gia đình giảm được một khoản tiền lớn đầu năm rồi.”

(N.T.K.P, đơn thân nuôi con nhỏ phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Đối tượng hỗ trợ. Theo người dân tại các điểm khảo sát, đối tượng hưởng lợi theo chính sách trợ cấp tiền mặt còn hẹp, chưa bao quát được những đối tượng khó khăn cần trợ giúp. Hầu hết hộ gặp rủi ro đột xuất như đau ốm, tai nạn khiến đời sống đi xuống không được trợ cấp hàng tháng.

Hầu hết người nhập cư chưa được tiếp cận với các chính sách trợ cấp tiền mặt tại nơi tạm trú, phải về quê để làm hồ sơ. Lý do được cán bộ các phường/xã khảo sát đưa ra là không chắc chắn người đó đã được hưởng hỗ trợ tại quê hay chưa. Thực tế việc đi lại về quê làm thủ tục nhận trợ cấp của người nhập cư rất khó khăn, đặc biệt tại TP HCM có nhiều người đã thoát ly khỏi quê rất nhiều năm. Riêng tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), người nhập cư trên 80 tuổi tạm trú dài hạn đã được xét nhận hỗ trợ tại địa phương, với điều kiện có xác nhận của địa phương nơi đăng ký hộ khẩu thường trú.

Tại một số địa bàn đông dân cư, khâu rà soát còn sót đối tượng. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), một số đối tượng thuộc diện hưởng trợ cấp tiền mặt nhưng không biết thông tin để làm

24 Quyết định số 87/2010/QĐ-UBND ngày 22 tháng 12 năm 2010 của UBND TP HCM.25 Quyết định số 34/2011/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2011 của UBND TP Hà Nội.

Page 67: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

55PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

đơn xin được hỗ trợ. Các thôn trong xã đều rất đông dân (mỗi thôn khoảng 2-3 nghìn người) chưa kể người nhập cư, nên cán bộ thôn khó nắm rõ mọi đối tượng.

--- “Người ta có làm hồ sơ thì mình mới biết được, thôn này dân vài nghìn khẩu, chia khu Đông, khu Tây, lại bao nhiêu người ở trọ nên khó mà biết hết được hoàn cảnh người ta.”

(Nhóm nòng cốt thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Làm hồ sơ. Theo quy định, người thuộc diện hưởng trợ cấp phải tự làm hồ sơ. Tuy nhiên, một số người không nắm được thông tin, một số không thể tự làm hồ sơ như quy định, một số khác chưa chủ động làm thủ tục do ngại tốn chi phí, ngại va chạm với các cơ quan hành chính. Tại một số địa bàn, cán bộ chính sách của xã/phường hoặc cán bộ thôn/tổ dân phố thường làm giúp hồ sơ cho các đối tượng.

--- “Báo trường hợp này lên phường, cán bộ chính sách phường sẽ làm hồ sơ giúp. Chứ còn các cụ già hay người tàn tật thì cũng khó làm, gia đình họ cũng ngại va chạm, cũng không biết làm thế nào cho xong nên nhờ trên là nhanh nhất.”

(Cán bộ tổ dân phố phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Một số người tàn tật nặng nhưng thiếu xác nhận của bệnh viện, do gia đình chưa chủ động đưa đi khám hoặc do cán bộ cán bộ địa phương thiếu hướng dẫn cụ thể về các thủ tục. Một số thủ tục còn khá tốn thời gian và chi phí. Ví dụ, đối tượng tâm thần phải đi khám bệnh và ở bệnh viện theo dõi từ 1 – 1,5 tháng mới có kết quả.

--- “Đi khám tâm thần thì phải vào bệnh viện ở đấy theo dõi hơn 1 tháng mới có kết quả được. Thời gian đấy tiền ai lo đây, thuốc thang ăn uống ở viện, rồi còn việc ở nhà. Vào đấy ở cùng với người điên người nhà ta cũng lo chứ, có khi đang bệnh nhẹ lại thành bệnh nặng.”

(Nhóm cán bộ xã Kim Chung, Hà Nội)

Thông tin. Thông tin tuyên truyền về các chương trình, dự án tại khu vực đô thị thường qua loa truyền thanh hoặc họp thôn/tổ dân phố, tuy nhiên hiệu quả của các kênh thông tin còn thấp. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), khi được hỏi về chính sách hỗ trợ chi phí học tập cho con em hộ nghèo (theo Nghị định 49), hầu hết người nghèo đều không biết, họ chỉ biết là nhà trường đã giảm tiền đóng học cho gia đình họ, còn lý do vì sao được giảm thì họ không biết. Một số hộ còn cho rằng, nhà trường “thương” nên giảm chi phí cho con em họ.

Tổ trưởng tổ dân phố, trưởng thôn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin và hỗ trợ người dân làm hồ sơ hưởng trợ cấp. Tại những thôn/tổ dân phố có cán bộ nhiệt tình, sát sao với công việc sẽ giúp cho các đối tượng hưởng lợi ít bị sót, lọt. Tuy nhiên, tổ trưởng tổ dân phố/trưởng thôn cũng chỉ biết một số thông tin (không chi tiết) về Nghị định 67 và 13, và biết rất ít thông tin về Nghị định 49 và các chính sách hỗ trợ khác.

Hình thức chi trả. Với chính sách hỗ trợ chi phí học tập theo Nghị định 49, tại các điểm quan trắc việc chi trả thực hiện thông qua nhà trường. Các trường thường trừ trực tiếp tiền hỗ trợ cả năm (630 nghìn đồng/học sinh/năm học) vào các khoản đóng góp của học sinh. Khi tiền hỗ trợ chuyển về xã, xã sẽ chuyển thẳng sang phía nhà trường. Cách chi trả này thuận lợi cho hộ nghèo vì giảm được nỗi lo tiền đóng học đầu năm. Tuy nhiên, cách này cũng gây khó khăn cho cán bộ chính sách xã/phường vì hiện nay có quá nhiều chính sách XH với cách thức làm hồ sơ và thanh toán khác nhau.

--- “Hiện đang phải làm 2 loại hỗ trợ cùng một lúc, mỗi loại lại một kiểu khác nhau. Mà đây chỉ là một mảng thôi chứ Chính sách còn nhiều mảng khác nữa nên thấy rất mệt.”

(Cán bộ chính sách xã hội xã Kim Chung, Hà Nội)

Với chính sách trợ cấp tiền mặt cho các đối tượng BTXH theo Nghị định 67 và Nghị định 13, các điểm quan trắc đều áp dụng hình thức chi trả trực tiếp cho người hưởng lợi tại trụ

Page 68: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

56 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

sở phường/xã. Người được nhận hỗ trợ, đặc biệt là người già thấy hình thức này phù hợp nhất với mình vì tính sở hữu cao, được giao lưu gặp gỡ mọi người.

--- “Người già con cháu lo rồi, nhưng thích có tiền riêng, được tiêu gì mình thích, có khi mua quà cho cháu cũng không phải xin ai. Mỗi tháng ra phường lĩnh tiền lại được gặp gỡ mọi người, tiện ra chợ chơi cũng thoải mái.”

(Nhóm BTXH, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tuy nhiên, một số nơi có sự linh động trong cách chi trả. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), thôn Nhuế ở xa trung tâm xã nên cán bộ chính sách xã về tận trụ sở thôn phát tiền. Tại tổ 14 phường Lãm Hà (Hải Phòng), tổ trưởng tổ dân phố lên phường nhận giúp về vì muốn giúp đỡ người già, người tàn tật trong tổ đỡ phải đi lại.

Ý kiến, đề xuất về thiết kế chương trình trợ cấp tiền mặt trong tương lai

Cách xác định đối tượng thụ hưởng. Tất cả các nhóm đều khẳng định, xác định đối tượng thụ hưởng nên căn cứ vào nhiều yếu tố gia cảnh, không chỉ xét trên thu nhập. Các nhóm tại xã Kim Chung(Hà Nội) cho rằng, đối tượng hưởng lợi nên bao gồm những người gặp rủi ro bệnh tật, có đông con nhỏ đi học, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Nhóm cán bộ phường Lãm Hà (Hải Phòng) nhận xét, chuẩn nghèo hiện nay quá thấp, nếu căn cứ vào đây để xét đối tượng được nhận hỗ trợ thì nhiều trường hợp khó khăn sẽ bị bỏ qua.

--- “Có anh tâm thần chả làm được gì cho gia đình nhưng nhà anh không phải hộ nghèo thì cũng đành vậy thôi. Nhưng nếu có trợ cấp thì cũng đỡ đi một phần chi phí, coi như nuôi được miệng anh ta thì nhà cũng vươn lên dễ hơn.”

(Nhóm cán bộ xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Tôi cũng thấy, anh cứ tập trung mãi cho người dưới đáy là không ổn, cần thêm cả những những người trên trên một chút để cho đời sống họ khá lên. Cho anh tàn tật không làm ăn gì 500 nghìn một tháng là rất quý, nhưng cho anh không tàn tật nhưng mấy đứa con đi học, nhà neo người thì họ còn quý hơn, mấy năm sau anh thấy nhà họ khác hơn đấy.”

(Nhóm cán bộ phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Theo ý kiến của các nhóm thảo luận, những đối tượng sau đây tại các khu vực đô thị nên được hưởng trợ cấp tiền mặt hàng tháng:

• Hộtàntật,tâmthầnhiệnđanghưởngtrợcấptheoNghịđịnh67vàNghịđịnh13.

--- “Nhà nước vẫn đang hỗ trợ người tàn tật, tâm thần theo cái 67 (Nghị định 67), họ là khổ nhất rồi, hỗ trợ là phải.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

• HộnghèođôthịtạiHảiPhòng(lýdolàchuẩnnghèothấp),giađìnhthiếulaođộng hoặc có người ốm đau thường xuyên.

--- “Anh hộ nghèo ở đây thì không thoát được rồi, nên cho họ hưởng trợ cấp coi như nuôi họ.”

(Nhóm cán bộ phường Lãm Hà, Hải Phòng)

• Hộkhôngmaygặprủirotainạn,ốmđaubệnhtậtnặng(khôngnhấtthiếtthuộchộ nghèo), mất đi lao động chính.

--- “Hộ mất đi lao động chính thì khó khăn không tả nổi, giống như là không còn chân đi. Hỗ trợ nhóm này để cho con cái họ có chỗ trông vào mà đi lên.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

• Hộgiađìnhcókinhtếkhókhăn(laođộngtựdo,thuầnnôngnghiệpcóthunhậpthấp) nhưng có đông con nhỏ đang trong tuổi đi học, do chi phí học tập ở khu vực đô thị rất lớn.

Page 69: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

57PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

--- “Cần nhất là đối tượng này, họ hưởng mới là có ý nghĩa nhất. Đời người làm cha làm mẹ lo nhất là học hành cho con, giờ cái gì cũng đội lên, nhà nghèo mà nuôi con ăn học thì khó khăn bội phần. Có tiền hỗ trợ cố định là cứu cánh còn gì.”

(Nhóm nòng cốt thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Làm lao động tự do khổ, thu nhập thấp, con cái muốn đóng học mà không có tiền. Hỗ trợ nhóm này là phù hợp để họ lo cho con ăn học.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

• Ngườinhậpcưcóhoàncảnhkhókhăn.Đâylàđốitượnghiệnđangnằmngoàicác chương trình trợ cấp tiền mặt của Nhà nước.

--- “Những người đã thoát ly hẳn quê hương vào đây thì cũng nên xét đến họ. Có nhiều hộ khó khăn lắm, ở cái nhà rách rưới, trong nhà chả có gì, cũng như mình ở đây thôi, mà có khi nghèo hơn vì phải thuê nhà.”

(Nhóm nghèo Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Mức trợ cấp tối thiểu. Bản thân nhóm người nghèo, nhóm BTXH thường không muốn xác định mức tiền hỗ trợ tối thiểu cho gia đình mình. Họ cho rằng, chính sách trợ cấp “cho bao nhiêu là quý bấy nhiêu”, “không dám đòi hỏi”. Bản thân hộ nghèo thường có tâm lý “có nhiều tiêu nhiều, có ít tiêu ít”, nên hỏi thế nào là “tối thiểu” họ cũng khó xác định.

--- “Trên cho bao nhiêu là quý ngần ấy, gia đình không dám đòi hỏi. Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống, biết bao nhiêu là ít, bao nhiêu là nhiều. Không có thì em vẫn phải xoay bằng được chứ không có thuốc chồng không sống được, con không đi học được.”

(N.T.H, hộ nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Hỏi cũng khó lắm, có tháng tiêu 4 triệu, mà có tháng 1 triệu cũng xong. Nói chung là có bao nhiêu tiêu ngần ấy, không có thì bớt ăn bớt tiêu đi. Nhà nước xét cho được bao nhiêu gia đình rất trân trọng.”

(Nhóm hộ nghèo Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Mức tiền 500 nghìn đồng/hộ/tháng được tất cả các nhóm cán bộ xã/phường và thôn/tổ dân phố tại Kim Chung (Hà Nội) và Lãm Hà (Hải Phòng) đưa ra. Với xã Kim Chung (Hà Nội), lý do đưa ra là số tiền trên đủ để mua gạo và rau cho một hộ gia đình 4-5 khẩu (khoảng 400 nghìn đồng/tháng), số còn dư dùng để đầu tư cho học hành của con cái. Với phường Lãm Hà (Hải Phòng), lý do là số tiền này đủ tiền điện, nước và gas tối thiểu hàng tháng cho một hộ gia đình.

Riêng các nhóm tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) cho rằng mức trợ cấp tối thiểu phải 1 triệu đồng/tháng mới có thể có đủ đảm bảo 4 nhu cầu tối thiểu là: điện, nước, gạo, gas. Nếu có khoản tiền này, những hộ gia đình khó khăn sẽ yên tâm làm việc và có hướng thoát nghèo.

--- “Năm rồi Quỹ XĐGN phường cũng hỗ trợ những hộ nghèo dưới 8 triệu ĐBKK mỗi khẩu 100 ngàn một tháng rồi. Hỗ trợ cũng không thấm vào đâu. Nếu Chính phủ có chính sách khác mà cũng chỉ hỗ trợ như vậy thì không thành, vì mục đích của mình là mong hộ đó vươn lên chứ không phải cung cấp thêm để họ sống đỡ qua ngày. Nếu vậy thì phải 1 triệu, người ta đảm bảo được những nhu cầu tối thiểu mới nghĩ xa hơn được.”

(Nhóm cán bộ phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tìm hiểu mục đích sử dụng tiền trợ cấp của người dân cũng là một căn cứ để xác định mức trợ cấp tối thiểu. Đa số nhóm thảo luận cho rằng người dân sẽ sử dụng tiền hỗ trợ trước hết để trang trải các nhu cầu đời sống thiết yếu hàng ngày (Hình 5). Cụ thể, có 18/19 nhóm cho rằng người được nhận hỗ trợ sẽ sử dụng để mua gạo, 15/19 nhóm cho rằng sẽ sử dụng tăng cường thức ăn cải thiện dinh dưỡng cho gia đình, 12/19 nhóm cho rằng sẽ sử dụng để đóng tiền điện, nước và gas cho gia đình. Việc sử dụng số tiền trợ cấp để ưu tiên

Page 70: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

58 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

đầu tư cho giáo dục, y tế, phát triển kinh tế gia đình ít được nhắc đến hơn (giáo dục: 4/19 nhóm; y tế: 3/19 nhóm; phát triển kinh tế gia đình: 2/19 nhóm); lý do đưa ra là số tiền trợ cấp nhỏ, trong khi chi phí cho học tập của con cái, chữa bệnh cho người ốm đau trong gia đình và đầu tư phát triển kinh tế cần số tiền lớn hơn nhiều.

--- “Tiền hỗ trợ của Nhà nước nếu là 500 nghìn thì tôi dùng để trả điện nước trước đã, học hành thì tính bằng nguồn khác. Điện nước là cố định, mình trả được thì cái khác lo dễ hơn.”

(Nhóm hộ khó khăn Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

HÌNH 5. Thứ tự ưu tiên sử dụng tiền trợ cấp hàng tháng (giả định)

Riêng tại xã Kim Chung (Hà Nội) - địa bàn còn mang nét nông thôn, đa số các nhóm khẳng định sẽ ưu tiên sử dụng tiền trợ cấp cho học hành của trẻ em.

--- “Muốn đầu tư cho con đi học vượt lên. Đời mình cố lo gạo để khỏi đói. Bây giờ phải lo chữ cho các con.”

(Nhóm BTXH thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Tất cả các nhóm thảo luận và người dân được phỏng vấn đều cho rằng, không có sự phân biệt nam nữ trong việc sử dụng tiền trợ cấp. Riêng những hộ khó khăn thường có xu hướng ưu tiên giáo dục cho con út hơn với lý do những người con đầu trước đây đã phải nghỉ học sớm, họ muốn con út được đầu tư nhiều hơn để thay đổi cuộc sống gia đình.

--- “Mình có tiền sẽ đầu tư cho thằng út vì anh chị nó đã thiệt thòi rồi, chỉ hy vọng vào nó học hành khá lên làm mát mặt cả nhà.”

(Nhóm nghèo xã Kim Chung, Hà Nội)

Phụ nữ được cho là người giữ tiền trợ cấp hiệu quả hơn so với nam giới, vì phụ nữ vốn là người giữ tiền trong gia đình. Tuy nhiên, các nhóm người dân cũng cho rằng các quyết định chi tiêu cần được đồng thuận của cả phụ nữ và nam giới trong gia đình.

--- “Phụ nữ cần kiệm hơn, để phụ nữ giữ tiền là hợp hơn cả. Chỉ có điều tiêu là phải tiêu chung, cứ công khai là không sao cả.”

(Nhóm hộ khó khăn tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Phương thức chi trả và theo dõi tác động. Cách chi trả tại trụ sở phường/xã được hầu hết nhóm cho là phù hợp nhất, lý do là:

Page 71: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

59PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

• Ngườinghèođôthịthườnghaydichuyển,chỉcónhậntiềnởphườngmớixácnhận được chính xác hộ đó có còn tại địa bàn hay không.

--- “Người nghèo ở đây hay di chuyển lắm, họ đi làm ăn hay đi đâu đó cũng ít khai báo với chính quyền. Có người hiện trong danh sách nghèo tổ tôi nhưng họ đi đâu tôi không biết.”

(Nhóm nòng cốt tổ dân phố 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

• Nếunhậntiềntạitrụsởphường/xã,ngườidânsẽýthứcđượcđâylàkhoảntiềnhỗ trợ của Nhà nước.

--- Cứ gửi tiền về xã, có trên có dưới, là quy luật rồi, qua cán bộ rồi mới đến dân, thế mới danh chính ngôn thuận”

(Nhóm nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

• Cánbộđịaphươngdễtưvấnchongườidânhơnvềcáchsửdụngtiềnhỗtrợ,vàcó thể theo dõi số tiền đó sử dụng như thế nào.

--- “Chuyển tiền qua phường là hợp lý nhất vì như thế chúng tôi mới biết là họ sử dụng tiền như thế nào, không ai quản lý rồi thì tiền đấy cũng đi đâu mất tiêu hết thôi.”

(Nhóm cán bộ tổ dân phố 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Khi được gợi ý một số cách chi trả khác, đa số các nhóm cán bộ phường/xã, tổ dân phố đều cho rằng, cách chi trả qua bưu điện (có bưu tá mang đến tận hộ gia đình) cũng khá thuận lợi cho hộ gia đình vì không phải đi lại.

--- “Mang đến tận nhà là lý tưởng nhất rồi. Mấy chị em người ta cũng ngại lên xã lấy tiền. Nhưng mà phải không mất phí cơ, được mấy trăm mà mất phí thì cũng khổ.”

(Nhóm nòng cốt thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Một số hộ nghèo lại không quan tâm nhiều đến cách chi trả như thế nào. Với họ, điều cốt yếu là họ được nhận đủ tiền, không thất thoát.

--- “Cách làm thế nào không quan trọng, miễn là đủ tiền của Nhà nước cho là được.” (N.T.H, hộ nghèo xã Kim Chung, Hà Nội)

Hầu hết các nhóm đều cho rằng, cần thiết có người tư vấn, hướng dẫn cho các đối tượng được nhận hỗ trợ vì: (i) có người tư vấn mới quản lý được việc sử dụng tiền hỗ trợ, tránh thất thoát; và (ii) người được nhận hỗ trợ thường là những người làm ăn kinh tế kém hơn những hộ khác nên cần được tư vấn để tìm hướng giảm nghèo phù hợp.

Người thực hiện tư vấn. Tất cả các nhóm cán bộ đều cho rằng, nên giao cho đoàn thể (ví dụ, Hội Phụ Nữ) phối hợp với tổ trưởng tổ dân phố tư vấn vì cho rằng đây là nhóm nắm rõ nhất đời sống của từng hộ gia đình, nên có thể hướng dẫn tốt nhất. Tuy nhiên, hầu hết các nhóm người dân cho rằng, cán bộ XĐGN là người tư vấn phù hợp nhất vì cho rằng cán bộ XĐGN là người tư vấn phù hợp nhất vì các cán bộ này có chuyên môn.

Riêng nhóm hộ khó khăn Tổ 3, phường Lãm Hà (Hải Phòng) cho rằng, họ thấy không cần thiết phải có người hướng dẫn cách làm ăn. Lý do họ đưa ra là bản thân họ cũng biết cách làm ăn nhưng vì sức khỏe kém nên đời sống mới khó khăn, họ cho rằng cán bộ Nhà nước có thể giỏi những công việc bàn giấy nhưng chưa hẳn đã hơn người dân trong thực tế sản xuất kinh doanh.

Page 72: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

60 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

6. BẤT BÌNH ĐẲNGBa dạng “bất bình đẳng” (BBĐ) chính được các nhóm nêu lên là “BBĐ về kết quả” (tập trung vào kết quả kinh tế ở các khía cạnh thu nhập, chi tiêu và tài sản), “BBĐ về cơ hội” (tập trung vào tiếp cận giáo dục, y tế và việc làm) và “BBĐ về quá trình” (vai trò của quyền thế và quan hệ). Các nhóm đều cho rằng các dạng BBĐ liên quan chặt chẽ với nhau, tuy nhiên mỗi nhóm có nhận thức khác nhau về các dạng BBĐ.

6.1. Bất bình đẳng về kết quảPhần lớn các nhóm ở đô thị nhận thức về BBĐ dựa trên chi tiêu và tài sản hơn là dựa trên thu nhập. Lý do là người bên ngoài khó nhận thấy thu nhập trong nền kinh tế tiền mặt ở đô thị. Riêng tại xã Kim Chung (Hà Nội) - nơi còn mang tính chất nông thôn, người dân vẫn ước đoán được thu nhập của các hộ gia đình khác nhất là thu nhập từ phòng trọ, nên một số nhóm (cán bộ, hộ trung bình/khá) tại đây vẫn nhận thức về BBĐ dựa trên thu nhập là chủ yếu.

--- “Nhìn vào chi tiêu biết ngay đâu là hộ nghèo, đâu là hộ giàu, hộ nghèo lao động cả ngày lễ Tết, không có thời gian mà giải trí, có chăng thì đi dạo công viên rồi về, đi chợ thì cầm làn ra chợ, cứ thấy ai xách túi nilon rau, đậu về là hộ nghèo. Hộ giàu thì vui chơi, giải trí, du lịch nước ngoài, hội hè, có đi mua sắm thì vào siêu thị, đi bằng ô tô…”

(Nhóm hộ trung bình Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TPHCM)

--- “Bất bình đẳng nhìn vào cách chi tiêu và tài sản nhà người ta thì rõ hơn. Thu nhập thì không biết người ta đi làm kiếm được bao nhiêu tiền cả.”

(Nhóm thanh niên lao động tự do Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Thu nhập là nhìn đầu tiên. Đi chơi hỏi nhà mày có mấy phòng trọ. Nhà nào có 30-40 phòng trọ thì khá hơn rồi. Nếu không có phòng trọ là nghèo quá rồi.”

(Nhóm hộ khá thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Các nhóm đô thị nhìn vào khác biệt nghề nghiệp để giải thích chênh lệch giàu - nghèo. Người có việc làm ổn định, vị trí cao hoặc kinh doanh lớn (chủ có nhiều phòng trọ, cán bộ Nhà nước hoặc quản lý doanh nghiệp) có cơ hội sung túc hơn. Người lao động tự do thu nhập không ổn định nên vẫn khó khăn.

Cả ba điểm quan trắc đều là những phường/xã ven đô, do đó quá trình đô thị hóa là tác nhân quan trọng làm tăng chênh lệch về kinh tế. Trước đây, đời sống của người dân tương đối đồng nhất. Tuy nhiên, sinh kế của người dân trở nên đa dạng sau khi đô thị hóa. Một bộ phận kịp thời chuyển đổi sinh kế đã vượt lên. Một số hộ không tận dụng được cơ hội chuyển đổi đời sống vẫn khó khăn.

--- “Ngày xưa khu Đông này ai dám nói mình giàu đâu, quanh đi quanh lại vài sào ruộng với con lợn thôi. Từ ngày thu hồi đất mới thấy vênh nhau đấy chứ. Ông quen biết rộng đi buôn đất, dùng lưỡi thôi cũng được tiền trăm triệu. Có nhà làm cây cảnh bán vào nội thành mấy năm nay làm ăn lên lắm. Nhiều nhà có phòng cho thuê cũng đỡ hơn. Chứ chúng tôi vẫn làm ruộng thì nghèo vẫn hoàn nghèo.”

(Nhóm nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Diện tích đất được coi là một yếu tố quan trọng tác động đến BBĐ kết quả ở khu vực ven đô thị. Những hộ có nhiều đất có thể chuyển nhượng lấy tiền đầu tư vào kinh doanh hoặc xây phòng trọ cho thuê.

--- “Ở đây giàu nhất là những ông lắm đất, ngày xưa đất này là ao đầm, Nhà nước phân cho về đây mình rào lại nuôi con lợn con gà. Ai ngờ sau này giá đất lên cao như thế, người dân chuyển sang xây phòng trọ cho thuê. Có nhà cắt 1 - 2 ô bán đi lấy vốn làm ăn. Giờ nhà giàu ở đây phòng trọ nhiều, có người tháng thu 30 - 40 triệu như

Page 73: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

61PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

chơi. Người nghèo bên xóm Chùa thì ngày xưa không phải không có đất nhưng bán đi mà không biết sử dụng tiền, nghề ngỗng thì bấp bênh nên ngày càng nghèo.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6,Gò Vấp, TP HCM)

Chênh lệch giữa người nhập cư và người bản xứ. Với người nhập cư, đối tượng so sánh của họ thường là chủ nhà và những người bản xứ mà họ gặp gần nơi sinh sống và làm việc. Các nhóm nhập cư thường cho rằng, người bản xứ có cơ hội thuận lợi để phát triển kinh tế hơn so với họ, vì người bản xứ không mất chi phí thuê nhà trọ và có thể tận dụng lợi thế đất đai để tạo thu nhập.

--- “Tụi em thấy người từ quê lên khó giàu lắm, quanh năm ở trọ, làm bao nhiêu thì tiền nhà trọ với điện nước cũng đã hết phân nửa rồi. Người ở đây họ làm nhàn nhã mà cũng đủ ăn, đất rộng xây nhà trọ cho thuê. Mấy người nghèo ở đây ngăn phòng ra mỗi tháng cũng có tiền triệu.”

(Nhóm thanh niên nhập cư lao động phổ thông Tổ 25, phường 6,Gò Vấp, TP HCM)

Người nhập cư còn phải trả giá điện, giá nước cao hơn nhiều so với người bản xứ.

--- “Bọn em cảm nhận thấy bất bình đẳng với người bản xứ, ví dụ mình phải mất tiền thuê nhà, còn tiền điện, tiền nước mình là người ở trọ lại phải trả cao hơn so với người ở đây, họ được hưởng theo giá của Nhà nước.”

(Nhóm công nhân nhập cư phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Hầu hết các nhóm cho rằng, trong 5 năm qua BBĐ về kết quả đang tăng lên. Tại vùng nông thôn ngoại thành đang chuyển đổi mạnh như Kim Chung (Hà Nội), đa số các nhóm nhìn vào BBĐ tương đối nhiều hơn, họ thường cho rằng người giàu và người nghèo “cùng tiến” nhưng tốc độ tiến của hộ giàu nhanh hơn hộ nghèo.

--- “Bất bình đẳng về thu nhập tăng lên. Do xuất phát điểm người giàu rất cao, người nghèo xuất phát điểm thấp. Cả người giàu và người nghèo cùng tiến nhưng người giàu tiến nhanh, người nghèo tiến chậm.”

(Nhóm thanh niên thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Tại các vùng đô thị ngoại vi đã tương đối ổn định như Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), các nhóm nhìn vào BBĐ tuyệt đối nhiều hơn.

--- “Tui tiến được 3-4 lần, họ chỉ cần tiến được 1-2 lần là cũng bỏ xa mình rồi, giống như tui từ mái dầu lên mái tôn thì họ đã từ nhà 2 tấm lên nhà 5 tấm, tui từ đi bộ sang mua được xe máy thì họ đã bỏ xe máy mua được xe hơi ấy.”

(Nhóm nghèo Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tất cả các nhóm đều bày tỏ thái độ chấp nhận BBĐ về kết quả kinh tế, với điều kiện BBĐ bắt nguồn từ các yếu tố chính đáng như có vốn, năng lực, trình độ, ý chí tiến thủ, biết chấp nhận rủi ro, chăm chỉ. Tuy nhiên, họ không chấp nhận BBĐ do các yếu tố không chính đáng mà có (như lợi dụng đặc quyền đặc lợi, lạm dụng quyền lực, tham nhũng, trốn thuế, buôn lậu).

--- “Ở đây có nhà 40 phòng trọ. Người ta đã giàu càng giàu thêm. Nhiều khi tự an ủi động viên, chấp nhận nghèo. Xã hội phải có người giàu, người nghèo, có người khôn, người ngu, mình chấp nhận cái hèn. Chấp nhận bất bình đẳng, mỗi người một số phận.”

(Nhóm nhận trợ cấp BTXH thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Người ta giàu do người ta có khả năng, mình chấp nhận, còn mình trình độ văn hóa thấp, ai làm được bao nhiêu thì được không ghen tị, vì họ giàu là do có tài của họ. Nhưng những người giàu lên không chính đáng thì không thích được, như buôn bán trái phép chẳng hạn.”

(Nhóm hộ nghèo Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Page 74: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

62 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

BẢNG 20. Phổ cập giáo dục tại các điểm quan trắc

Bậc học đã phổ cập

THCS

THPT

THPT

Kim Chung - Hà Nội

Lãm Hà - Hải Phòng

Phường 6 - Gò Vấp, TP HCM

Năm

2010

2008

2003

Khi so sánh giữa nông thôn và đô thị, một số nhóm cho rằng, mức học vấn ở nông thôn đã được cải thiện nhiều và ngày càng giảm khoảng cách so với đô thị. Số thanh niên nông thôn được học lên cao đẳng, đại học ngày càng nhiều trong 5 năm qua.

BBĐ về tiếp cận giáo dục giữa người bản xứ và người nhập cư được nhận thức rất rõ tại các điểm quan trắc. Những người nhập cư có con nhỏ đang theo học tại đô thị cho biết họ chịu nhiều thiệt thòi so với người bản xứ. Do quá tải, các trường công lập thường xét cho con em người bản xứ trước, người nhập cư thường phải gửi con theo học các trường dân lập với chi phí cao, hoặc gửi con về quê học. Một số người nhập cư tại xã Kim Chung (Hà Nội) cho biết, họ phải chịu mức đóng góp cho nhà trường cao hơn so với người bản xứ.

--- “Người nhập cư lúc nào cũng khó khăn. Chính quy họ xét người có hộ khẩu trước. Người nhập cư cho con đi học tư thục, rủi ro cao, chi phí cao mà chất lượng chưa bằng được.”

(Nhóm thanh niên lao động tự do Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Lúc đầu con nhập học đóng tiền “xây dựng” cao hơn người địa phương, mình phải đóng 500 nghìn còn người ở đây chỉ đóng 300 nghìn. Nhà trường bảo mình ở nơi khác đến nên phải đóng cao hơn.”

(Chị B.T.T, công nhân nhập cư xã Kim Chung,Hà Nội)

Chênh lệch về chất lượng giáo dục được nhiều nhóm khác nhau nhắc đến. Đa số nhóm bản xứ cho rằng, chất lượng giáo dục ở ven đô thấp hơn so với nội đô. Lý do là các trường ở khu vực trung tâm thành phố có giáo viên giỏi hơn, có truyền thống hơn so với các trường tại nơi họ đang sinh sống. Do đó, những hộ khá giả tại xã Kim Chung (Hà Nội) thường cho con theo học tại các trường trong trung tâm Hà Nội, còn con em hộ nghèo thường chỉ học ngay tại địa phương. Tại Lãm Hà (Hải Phòng), nhiều người dân cũng cho rằng chất lượng của các trường tại các quận nội đô hơn hẳn so với quận ngoại vi Kiến An nên nhà giàu thường cố gắng lo cho con em học tại những trường ở nội đô.

--- “Trong xã có nhiều cháu sang bên Hà Nội học lắm, nhà giàu, bố mẹ hiểu biết nên muốn đầu tư cho con từ bé. Sang đấy giáo viên giỏi hơn, trường người ta có truyền thống rồi nên con mình cũng dễ khá lên. Con em nông dân chúng tôi thì cho con học trường làng thôi.”

(Nhóm nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Sang bên kia cầu Niệm là thấy chất lượng khác hẳn. Bên này nhà nào có điều kiện cũng chạy bằng được cho con sang đấy học. Nhà nào bình bình mới để con chôn chân bên này.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

6.2. Bất bình đẳng về cơ hộiBBĐ trong tiếp cận giáo dục đã được thu hẹp trong 5 năm qua theo cảm nhận của các nhóm thảo luận. Nhiều hộ nghèo coi việc học hành của con cái là một hướng thoát nghèo và chịu đầu tư cho giáo dục. Chính sách“phổ cập giáo dục” đã đạt được những kết quả khả quan (Bảng 20).

Page 75: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

63PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

Các nhóm nhập cư cảm nhận rất rõ chênh lệch về chất lượng giáo dục giữa nông thôn và đô thị. Chênh lệch này thể hiện ở chất lượng giáo viên, sự đầu tư của gia đình cho giáo dục của con cái, cơ sở vật chất trường học, điều kiện tiếp cận thông tin của học sinh nông thôn so với thành phố. Số lượng học sinh nông thôn học xong THPT ngày càng tăng nhưng số đủ năng lực để thi vào các trường ĐH quốc gia “tốp trên” (được cho là có chất lượng tốt hơn) tại Hà Nội và TP HCM chiếm tỷ lệ rất thấp, đa phần theo học các trường trung cấp, cao đẳng hoặc đại học cấp vùng/tỉnh.

--- “Học sinh ở quê cũng nhiều người được đi học các trường đại học ở TP HCM nhưng so với học sinh ở thành phố thì làm sao bằng được. Học sinh ở đây cứ vài người tốt nghiệp cấp III thì có 1 người đi học đại học, ở quê thì vài chục người mới có một người, còn lại theo học mấy trường bậy bạ.”

(Nhóm thanh niên Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Chênh lệch giữa người giàu và người nghèo đối với các dịch vụ giáo dục cao cấp được cho là ngày càng tăng. Người giàu có điều kiện kinh tế nên đầu tư cho con em nhiều hơn so với hộ nghèo. Họ thường lựa chọn “trường điểm, lớp chọn” cho con em mình, trong khi đó người nghèo thường chỉ cho con học theo đúng phân tuyến của ngành giáo dục. Những dịch vụ giáo dục chi phí cao (trường quốc tế, học tiếng Anh với người nước ngoài, du học...) hầu như chỉ dành cho con em hộ khá giàu.

--- “Nhà mình thì học thêm tiếng Anh tại trường thôi không có tiền đóng, cô giáo nhắc khéo nhiều lần. Con nhà người ta thì vô học tiếng Anh với người Tây học phí hàng mấy triệu một tháng. Mình nghèo mới thấy bất công nó có từ tấm bé. ”

(Nhóm hộ khó khăn Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Nhiều người nghèo và người nhập cư cho biết, biện pháp khả dĩ để thu hẹp BBĐ chất lượng giáo dục là tích cực đầu tư cho con cái đi học tốt hơn. Tại các điểm quan trắc, nhiều hộ rất khó khăn nhưng vẫn cố gắng làm thuê, vay mượn để cho con đi học thêm, học tiếng Anh.

--- “Con mình phải đi học thêm đều đều, nhà có tiền học thêm ở trung tâm thành phố, mình nghèo cho con học thêm tại trường. Mình đi làm hồ, cấy thuê cũng chỉ vì cho con đi học thôi.”

(Nhóm nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

BBĐ trong tiếp cận y tế đang tăng lên trong 5 năm qua, đây là vấn đề bức xúc được nhiều nhóm đề cập. Người nghèo thường khám theo BHYT nên chất lượng dịch vụ ở mức tối thiểu, trong khi người khá giả khám dịch vụ nên được hưởng dịch vụ chất lượng cao hơn. Nhiều người còn phản ánh thái độ phân biệt đối xử của nhân viên y tế. Người giàu có tiền “phong bì” nên thường được nhân viên y tế quan tâm hơn.

--- “Hộ có tiền hay không có tiền đến bệnh viện là biết. Hộ nghèo thì xếp hàng từ sáng tới tối, BHYT thì thái độ hạng bét, thuốc thang cũng hạng bét, muốn thuốc ngoại tốt phải ra ngoài mua, người nghèo lấy đâu ra. Hộ giàu thì khỏi xếp hàng, thái độ thì khỏi nói, bỏ tiền ra là nhanh và thuốc tốt… Mà hộ giàu giờ cũng đến những bệnh viện tốt như Anh Vũ, Hồng Đức, tốt nhưng giá cũng chát. Hộ nghèo ai dám vào những chỗ đó? Không chấp nhận được.”

(Nhóm trung bình Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Bất bình đẳng y tế trong 5 năm qua ngày càng tăng, càng trầm trọng. Người có tiền khác với người không có tiền. Chính sách Nhà nước thì tốt nhưng thực thi thì bất cập. Vào bệnh viện anh nào có tiền biết ngay, săn đón từ cổng bệnh viện vào trong, kể cả bệnh viện công hay bệnh viện tư. Có tiền thì phố cũng không bằng quê”.

(Nhóm hộ khá và trung bình thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Hầu hết các nhóm cho rằng, việc phân hóa dịch vụ y tế theo khả năng chi trả là tất yếu. Nhưng cả người dân và cán bộ cơ sở đều bức xúc với sự thái độ phân biệt đối xử trong tiếp cận dịch vụ y tế và cho rằng không thể chấp nhận.

Page 76: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

64 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

--- “Thôi thì bảo anh giàu anh đi bệnh viện xịn, anh dùng thuốc tốt hơn là quyền anh, anh làm ra tiền anh hưởng thụ. Nhưng thái độ của bác sĩ là không thích. Cùng là người, người ta lại là người nghèo khó, đến bệnh viện mà cứ như ăn mày đến cửa quan, cái gì cũng tiền. Như thế là sao chớ, không thể để như thế được.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

BBĐ về tiếp cận việc làm được nhiều nhóm quan tâm, đặc biệt là nhóm thanh niên.

BBĐ việc làm giữa khu vực công và khu vực tư. Các bậc cha mẹ ở xã Kim Chung (Hà Nội) và phường Lãm Hà (Hải Phòng) vẫn có tâm lý thích con cái làm “cán bộ” tại khu vực công hơn so với khu vực tư, với lý do công việc gần nhà, nhàn nhã, ổn định. Số lượng việc làm trong khu vực công không nhiều trong khi nhu cầu lớn dẫn đến nhiều người dựa vào quan hệ hoặc tiền bạc để có được việc làm. Nhóm hộ nghèo và thanh niên khá bức xúc với dạng BBĐ này, cho rằng ngày càng tăng.

--- “Vào hành chính Nhà nước thì phải có tiền. Các bà này dám giao tiếp với ai mà xin. Phụ thuộc vào tiền, quan hệ ngày càng tăng chứ không bớt. Con mình có học xong đại học có muốn về địa phương làm cũng khó.”

(Nhóm nhận trợ cấp BTXH thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Học đại học cũng khó xin việc, con mình năm nay học năm 2 đại học, tính dần tích tiền mà chạy cho nó. Nhưng nhà mình lấy đâu ra tiền, mà có tiền thì cũng không quen biết. Muốn quen biết thì có 2 kiểu, một là người nhà không thì phải phong bì thật dày sẽ có nghề đẹp. Xu thế này hiện đang tăng lên.”

(Nhóm hộ nghèo Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Riêng tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), các nhóm cho rằng vai trò của quan hệ, quyền thế trong tiếp cận việc làm đã giảm đi, do cơ hội làm việc tại khu vực tư rất rộng lớn tại thành phố.

--- “Ra trường đến đâu là hầu như đi làm đến đó. Có ít trường hợp bây giờ phải chạy vào Nhà nước lắm, trừ trường hợp xin vào Tổng công ty.”

(Nhóm cán bộ Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Ở đây thì khác, làm bệnh viện Nhà nước không được thì chúng nó đi làm bệnh việc tư nhân, không được nữa thì đi làm phòng khám. Vừa đi làm vừa đi học, nhảy việc như tôm tươi, vì khi học lên và có kinh nghiệm thì họ chuyển chỗ có thu nhập và đãi ngộ tốt hơn.”

(N.V.Đ, cán bộ Khu phố 4, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

BBĐ việc làm giữa người bản xứ và người nhập cư được thể hiện trên khía cạnh cơ hội tiếp cận thông tin về thị trường lao động. Người dân đô thị có cơ hội tiếp cận thông tin tốt hơn so với người dân nông thôn, vì vậy việc lựa chọn nghề nghiệp của họ tốt hơn.

--- “Họ đấu trên sân nhà, mình là người trên sân khách, từ quê lên đây kém họ nhiều. Họ quen biết nhiều hơn mình, mình chỉ có mấy người cùng quê cũng khó giống như mình.”

(Nhóm thanh niên Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Một số nhóm thảo luận cho biết, vẫn có một số công việc tại thành phố được ưu tiên cho người có hộ khẩu. BBĐ việc làm giữa người bản xứ và nhập cư được cho là không hợp lý, và một số nhóm thảo luận cho rằng Nhà nước cần có những can thiệp nhằm giảm BBĐ này.

--- “Xin đi làm, người ta muốn giữ người hộ khẩu ở thành phố vì họ ở lâu dài. Hai tay nghề bằng nhau nhưng mình không được có niềm tin bằng người bản xứ.”

(Nhóm công nhân nhập cư phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

BBĐ việc làm giữa người có trình độ cao và trình độ thấp được những nhóm thanh niên lao động phổ thông đề cập đến. Họ thường cho rằng, người lao động có trình độ nhàn hạ hơn và có thu nhập ổn định hơn so với người lao động chân tay.

Page 77: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

65PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

--- “Trình độ cao làm việc nhẹ nhàng, trình độ thấp làm việc nặng nhọc. Về tiền thì em làm phụ hồ ngày cũng hơn 200 ngàn, anh chị khác đi làm văn phòng cũng cỡ thế hoặc hơn chút thôi. Thế nên chấp nhận. Vấn đề là ở tụi em, muốn nhàn hạ thì ráng mà học lên nữa.”

(Nhóm thanh niên lao động phổ thông Tổ 27, phường 6, Gò Vấp,TP HCM)

6.3. Bất bình đẳng về quá trìnhBBĐ về quá trình được cho là ngày càng tăng trong 5 năm qua. Các nhóm thảo luận thường nhấn mạnh đến vai trò không chính đáng của quan hệ, quyền thế và tham nhũng, coi đây là yếu tố bao trùm, ảnh hưởng đến các dạng BBĐ khác. Tại các điểm quan trắc là khu vực ven đô thị, vai trò của đặc quyền đặc lợi, tiền bạc được đặc biệt nhấn mạnh trong BBĐ về cơ hội việc làm trong khu vực công (xem mục 6.2 ở trên). Người có quan hệ, quyền thế ngày càng giàu hơn do tiếp cận với những nguồn lực và thông tin thuận lợi hơn. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), những người đầu cơ đất đai vượt hẳn lên trong quá trình đô thị hóa, ngược lại những người mất đất lại chịu nhiều thiệt thòi trong chuyển đổi sinh kế.

--- “Người ta có quan hệ biết chỗ mua đất bán sang tay cũng có tiền. Mình không có đành vậy vậy thôi.”

(Nhóm hộ khó khăn tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Bảo mỗi tháng lương Nhà nước 2-3 triệu sống thế nào mà người ta làm nhà tầng, đất có mấy mảnh, họ quen biết nhiều hơn, dễ kiếm tiền hơn mình.”

(Nhóm hộ nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

Đa số các nhóm đều không chấp nhận các dạng BBĐ do sử dụng quan hệ, quyền thế không chính đáng gây ra, coi đây là bất công xã hội.

--- “Không chấp nhận được những người lợi dụng quan hệ mà lên chức, kiếm tiền từ đất đai, chạy việc cho người khác. Không chặn cái này lại nó dẫn đến bất công toàn xã hội.”

(Nhóm hộ nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Riêng các nhóm thanh niên có trình độ cao ở Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) nhắc đến vai trò tích cực của “vốn xã hội” dưới dạng tận dụng các mối quan hệ, quen biết trong xin việc làm ở khu vực doanh nghiệp tư. Họ đánh giá cao các mối quan hệ dựa trên khía cạnh thân quen, đồng hương giúp giới thiệu việc làm mà không phải dựa trên tiền bạc.

--- “Mình có đứa em học xong chưa có việc, có bạn bè giới thiệu bảo chỗ nó có tuyển việc phù hợp, lương cũng được nhắc em vô đăng ký. Cũng phỏng vấn, nếu trúng chỉ mời một bữa nhậu là xong, không tiền bạc gì. Như thế là giúp nhau phát triển.”

(Nhóm thanh niên trình độ cao Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

7. XÃ HỘI HÓA“Xã hội hóa” (XHH) trong phát triển địa phương, giáo dục, y tế… là chính sách lớn của Nhà nước. Theo người dân và cán bộ cơ sở tại các điểm quan trắc, XHH có những tác động hai chiều cả tích cực và tiêu cực đến giảm nghèo và bất bình đẳng tại khu vực đô thị.

7.1. Nhận thức của người dân về xã hội hóa“Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “chung tay đóng góp” là cách hiểu phổ biến nhất về XHH của tất cả các nhóm thảo luận, thể hiện dưới dạng người dân, nhà hảo tâm và doanh nghiệp chia sẻ kinh phí với Nhà nước trong xây dựng CSHT, trong giáo dục, y tế và các công việc khác ở địa phương.

Page 78: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

66 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

--- “Nghĩ đến xã hội hóa là Nhà nước bao nhiêu phần trăm, phụ huynh bao nhiêu phần trăm, Nhà nước và nhân dân cùng làm.”

(Nhóm cán bộ xã Kim Chung, Hà Nội)

“Đa dạng hóa dịch vụ” là cách hiểu phổ biến thứ hai về XHH, chủ yếu trong các nhóm cán bộ, người trung bình/khá giả và thanh niên. Theo cách hiểu này, XHH là có thêm nhiều loại hình dịch vụ giáo dục, y tế ngoài Nhà nước để người dân lựa chọn.

--- “Xã hội hóa cũng là có thêm tư nhân làm y tế, thêm trường dân lập, bán công.”(Nhóm thanh niên Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Riêng khía cạnh “tham gia và trao quyền” của XHH được rất ít nhóm đề cập.

7.2. Đóng góp và chia sẻ kinh phíXHH trong xây dựng CSHT. Trong 5 năm qua, tại các điểm quan trắc có nhiều hoạt động xây dựng CSHT từ nguồn tiền XHH, như làm đường ngõ xóm, lắp ống nước, công tơ điện, đèn chiếu sáng... Tại xã Kim Chung (Hà Nội), khoảng 70% hệ thống đường xương cá được bê tông hóa trong 2-3 năm trở lại đây dựa trên đóng góp của cộng đồng. Mức đóng góp tùy từng đoạn đường từ 3-7 triệu/hộ; có những hộ khá góp lên tới 30-40 triệu đồng. Năm 2012, xã Kim Chung xây dựng nghĩa trang trên 4 tỷ đồng, trong đó thành phố hỗ trợ 800 triệu đồng, số tiền còn lại vận động doanh nghiệp và người dân đóng góp. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), trong 5 năm qua có khoảng 20 doanh nghiệp ủng hộ 1,2 tỷ làm 100m đê, nâng cấp mặt đường. Các hộ gia đình còn hiến đất, góp hơn 10 tỷ đồng để xây dựng CSHT. Riêng Tổ 14 phường Lãm Hà đã thực hiện tốt việc vận động bà con cùng đóng góp để tự làm dốc lên đê, biển số nhà, hoặc góp thêm vào nguồn kinh phí của Nhà nước để làm đường ngõ, điện sinh hoạt… Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) cũng đẩy mạnh vận động người dân góp tiền làm đường hẻm, làm trụ sở tổ dân phố…

--- “Đường ở trong thôn hầu như là bà con tự làm với nhau, có đoạn Nhà nước hỗ trợ, có đoạn không. Nhà khó, nhà giàu đều cố gắng đóng góp. Có đường đi lại cũng tiện, như ngày xưa khổ lẳm. Đóng góp có thảo luận trước nên đồng thuận đóng.”

(Nhóm cán bộ thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Bây giờ thay đổi nhiều. Dân đóng góp mỗi nhà 1 đồng hồ được hưởng giá điện Nhà nước. Đường sá đẹp hơn trước nhiều. Ai cũng tự nguyện đóng góp, mình nghèo cũng cố gắng.”

(Nhóm hộ nghèo tổ dân phố số 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

XHH trong giảm nghèo. Thông qua các cuộc vận động “Ngày vì Người Nghèo”, “Quỹ Mái ấm Tình thương”, “Quỹ Xóa đói Giảm nghèo”…, nhiều hộ nghèo, hộ khó khăn đã được giúp đỡ về nhà ở và đời sống. Vào các đợt lễ Tết hộ nghèo, hộ khó khăn đều có quà của phường/xã từ nguồn XHH. Nhiều mạnh thường quân, doanh nghiệp, cơ sở tôn giáo (điển hình là chùa Kỳ Quang tại quận Gò Vấp, TP HCM) đã cùng chung tay hỗ trợ người nghèo bằng nhiều hình thức. Một số hoạt động quyên góp nhằm hỗ trợ chuyển đổi sinh kế cho người nghèo được người dân đánh giá cao. Điển hình là sáng kiến hỗ trợ xe máy cho người nghèo chạy xe ôm tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) đã giúp một số hộ nghèo cải thiện cuộc sống (Hộp 9).

Page 79: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

67PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

HỘP 9. Sáng kiến hỗ trợ xe máy tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên

Hộ gia đình chị N.T.P. 38 tuổi tại Tổ 27, phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) có 4 người, gồm 2 vợ chồng và 2 con trai (con lớn 15 tuổi học hết lớp 6 nghỉ học; con nhỏ đang học lớp 4). Chị làm nghề bán bánh mỳ, chồng chị làm bốc xếp nhưng năm 2009 anh phải bỏ việc do mổ ruột thừa. Chi phí chữa trị bệnh cho anh rất tốn kém, chị phải vay ngoài 30 triệu nặng lãi và mượn thêm của họ hàng 10 triệu.

Chồng chị sức yếu chuyển sang chạy xe ôm, nhưng do xe cũ nên hay hỏng và ít khách. Năm 2010, tổ dân phố thấy anh chị khó khăn nênbình xét vào hộ nghèo. Nhờ đó anh có thẻ BHYT đỡ được tiền thuốc khám. Năm 2011, UBND phường 6 có sáng kiến vận động các mạnh thường quân giúp đỡ 3 gia đình khó khăn trong Phường, trong đó có anh chị, mỗi gia đình 1 chiếc xe máy còn tốt trị giá 10 triệu đồng. Nhờ có xe mới, anh chạy xe ôm cho thu nhập cao hơn trước. Anh chị còn được vay quỹ XĐGN của phường 5 triệu để trả bớt nợ ngoài. Chồng chị tâm sự:

“Có xe mới không phải sửa; xăng tốn ít hơn; đi an toàn hơn; khách khó tính cũng đi, trước xe cũ thì sửa hoài, đi lại tốn nhiều xăng, nhiều người kén xe lại không muốn đi, đi lại kém an toàn… giờ nó cũng giúp tăng thêm thu nhập mặc dù không nhiều, mình cũng cảm ơn phường đã quan tâm giúp đỡ, giờ nắng mưa cũng cho nó vào trong nhà, bảo vệ kỹ lắm.”

Trước đây, anh chị phải dùng nước và điện nhờ hàng xóm, phải trả 3000 đồng/số điện. Năm 2012, anh chị đã lắp được đường nước, đường điện riêng. Con lớn cũng chịu khó đi làm thêm để phụ tiền giúp bố mẹ.

2007 2008 2009 2010 2011 2012

Chồng mổ ruột thừa Vay nặng lãi 30

triệu Vay HPN 3 triệu

Xét nghèo có BHYT đỡ

tiền thuốc khám chữa

bệnh

Vay quỹ XĐGN 5 triệu để trả bớt nợ

lãi cao Được nhận

hỗ trợ xe máy

Con trai cả phụ giúp mẹ bán bánh mì Chồng mất sức lao động, chuyển sang

nghề xe ôm, thu nhập thấp

Chạy xe ôm có thu nhập cao hơn trước Con lớn đi làm thêm

Có điện, nước máy riêng

Mức sống tương đối

Cực nghèo

Nghèo

XHH trong giáo dục là vấn đề được các nhóm thảo luận đề cập đến nhiều nhất. Cha mẹ học sinh thường được huy động đóng góp nhiều khoản tiền để phục vụ nhu cầu thiết yếu của học sinh như nước uống, ăn bán trú, giấy kiểm tra..., để cải tạo, tu bổ trường lớp, mua sắm đồ dùng, trang thiết bị dạy và học, tổ chức hoạt động ngoại khóa như “Quỹ cây xanh”, “Quỹ phong trào”, “Quỹ xã hội hóa”, “Quỹ hỗ trợ giáo dục”, “Quỹ cha mẹ học sinh”... Về cơ bản, xã hội hóa đã giúp cải thiện trường lớp, nâng cao điều kiện học tập cho học sinh.

Mặt trái của XHH về đóng góp và chia sẻ kinh phí. Lo ngại lớn nhất của người dân là nhiều khoản đóng góp trong phong trào XHH quá lớn so với thu nhập của hộ nghèo. Một số hoạt động về nguyên tắc có miễn giảm cho hộ nghèo nhưng vì coi đó là “trách nhiệm”, vì “tự ái”, vì lo con cái xấu hổ với bạn bè, e ngại thầy cô không quan tâm tới con mình... nên hộ nghèo vẫn cố chạy vạy tiền để đóng góp. Hầu hết các nhóm thảo luận cho rằng họ chấp nhận việc đóng góp vì coi các hoạt động XHH là có ích cho cộng đồng. Họ chỉ khuyến nghị chính quyền, đoàn thế nên can thiệp để mức đóng góp phù hợp với hộ nghèo.

--- “Họp thôn thống nhất mỗi hộ đóng ba triệu, thôn đứng ra làm được hơn hai năm rồi. Mình nghèo cũng vẫn đóng, không thiếu đồng nào, không có thì vay mượn mà

Page 80: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

68 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

đóng. Làm đường đóng nhiều nhưng là tốt cho dân nên mình ủng hộ, nhưng mức đóng phù hợp là được.”

(Nhóm người nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Xã hội hóa là tất yếu rồi, cứ để trường học xập xệ cũng thương con. Chỉ mong Nhà nước có quy định rõ để đóng cho phù hợp, còn nhà giàu họ góp nhiều kệ họ.”

(Nhóm hộ khó khăn tổ dân phố 14, Lãm Hà, Hải Phòng)

7.3. Đa dạng hóa dịch vụXHH đã giúp nở rộ các loại hình dịch vụ trong 5 năm qua. Trong giáo dục, có sự phát triển hệ thống các trường (công lập, dân lập, bán công, tư thục, trường quốc tế…) và các loại hình đào tạo (chính quy, tại chức, từ xa, học thêm…). Trong y tế, có sự phát triển của nhiều loại hình y tế như phòng khám đa khoa, bệnh viện tư nhân. Một số bệnh viện có bộ phận dịch vụ với trang thiết bị chất lượng tốt hơn.

Về giáo dục. Đa số nhóm thảo luận cho rằng, đa dạng hóa các loại hình giáo dục giúp mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục cho trẻ em. Trước đây, khi chỉ có hệ thống trường công lập, tỷ lệ học sinh học lên các bậc học cao hạn chế hơn. Đa dạng hóa các loại hình đào tạo giúp mở rộng cơ hội học tập cho nhiều đối tượng khó khăn không có điều kiện học chính quy, họ có thể vừa học vừa làm.

--- “Trước kia, mỗi quận chỉ có một trường cấp III, cháu nào học giỏi hẳn mới vào được. Bây giờ thì nhiều trường hơn, không đủ điểm vào trường công thì vào bán công, dân lập.”

(Nhóm nòng cốt Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

--- “Trước kia chật vật mới thi được vào trường đại học, cao đẳng thi cũng không dễ. Bây giờ thì người ta mời mình đi học, cứ đủ điểm sàn là các trường có giấy gọi đi học.”

(Nhóm thanh niên Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Về y tế. XHH y tế đã tạo điều kiện cho các dịch vụ y tế tư nhân phát triển (phòng khám tư, bệnh viện tư, hành nghề y dược tư nhân, khám “dịch vụ”…), tạo điều kiện cho người dân có nhiều lựa chọn nơi khám chữa bệnh thích hợp với điều kiện kinh tế của mình.

Tại những địa bàn có hệ thống bệnh viện tư đã phát triển mạnh từ lâu như tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), người dân nhất là nhóm hộ khá/trung bình cho biết nhìn chung các bệnh viện tư có dịch vụ tốt, thái độ nhiệt tình và tình trạng “nhận phong bì” được giảm thiểu. Bệnh viện tư hiện cũng được nhận khám chữa bệnh theo BHYT, làm tăng sự cạnh tranh giữa bệnh viện tư và bệnh viện công có lợi cho người bệnh.

Tuy nhiên, tại những địa bàn hệ thống bệnh viện tư mới phát triển như tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), người dân vẫn chủ yếu đến các bệnh viện công do chi phí thấp hơn. Một số người dân phản ánh có tình trạng bệnh viện tư làm quá nhiều xét nghiệm (có thể không thật cần thiết), đẩy phí lên cao gây khó khăn cho người nghèo, người ít có khả năng chi trả.

Mặt trái của XHH về đa dạng hóa giáo dục, y tế. Người dân phàn nàn rằng XHH tạo ra xu hướng thương mại hóa quá mức hoạt động giáo dục. Nhiều mặt trái của giáo dục phát sinh, như học thêm tràn lan, chạy trường chạy lớp, đưa “phong bì” cho giáo viên...

--- “Xã hội hóa phải xem lại. Hiện nay tiêu cực chạy trường chạy lớp phổ biến chứng tỏ nhiều trường chất lượng chưa được. Tình trạng học thêm ngày càng phổ biến, 10 năm trước học thêm chỉ có mức độ, nay các cháu học ngày học đêm, không có ngày nghỉ. Cháu tôi chỉ có chiều thứ 7 là nghỉ, còn toàn đi học, có buổi 2 ca, chạy xô. Không học ở trường lại học nhà cô, học nhiều mà không có thời gian làm bài. Học thêm cũng cần thiết nhưng phải vừa phải.”

(Nhóm cán bộ Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Page 81: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

69PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

XHH còn được cho là góp phần tạo ra sự mất cân đối “thừa thầy thiếu thợ” trong giáo dục. Những năm gần đây, có quá nhiều trường đại học tuyển sinh với điều kiện dễ hơn trước. Sinh viên đại học ra trường nhiều nhưng khó xin việc khó khăn đúng ngành học.

--- “Giáo dục cần gắn tốt nghiệp Đại học gắn việc làm, ví dụ trường Công nghiệp quá nhiều người ra, chạy theo đà, trước 3 người trong lớp đỗ đại học, nay đại trà hóa, “phổ cập” hóa đại học rồi, nhưng việc ra lại chẳng có.”

(Nhóm hộ trung bình khá Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Các hộ gia đình phải dành nguồn chi tiêu lớn cho các dịch vụ giáo dục và y tế, đặc biệt là khi chữa bệnh nặng hoặc khi học lên những bậc học cao. Điều này tạo ra những tác động tiêu cực đối với hộ nghèo và hộ khó khăn.

--- “Nhà chị cấy 5 sào, mỗi năm thu hơn 1 tấn thóc, trồng rau muống gần 1 sào, mỗi ngày thu 7 chục ngàn. Chỉ trông vào ngần ấy thôi, đầu năm hai đứa mỗi đứa đóng hơn 1 triệu chị vay mượn tứ tung. Chị thấy ngày càng nghèo đi.”

(Nhóm hộ nghèo thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

--- “Thời mình thì lo mỗi cái học phí với xây dựng, giờ đẻ ra những khoản gì gì mình không hiểu. Mẹ chồng mình xưa làm ruộng có 6 người con ngày xưa đứa nào cũng được ăn học đến cấp III mới thôi, nếu mà ở thời đại này cứ làm ruộng như mẹ thì con thất học hết. Đóng góp không tưởng nổi.”

(Nhóm hộ nghèo thôn Bầu, Kim Chung, Hà Nội)

Nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước với hộ nghèo về giáo dục, y tế khó thể hiện được ý nghĩa thực tế, trong bối cảnh chi phí sử dụng hai dịch vụ này ngày càng tăng mạnh.

--- “Con hộ nghèo đi học thì được hỗ trợ 70 nghìn một tháng, tính cả năm chỉ được hơn 600 nghìn, không đủ một phần ba tiền đóng đầu năm học. Chính sách hỗ trợ là tốt nhưng không kìm được các khoản đóng góp thì cũng không thấm vào đâu cả.”

(Nhóm cán bộ thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

XHH giáo dục, y tế dẫn đến sự hình thành dịch vụ 2 cấp. Trong giáo dục, người có tiền có thể cho con em theo học tại những trường điểm, trường quốc tế; trong y tế người có khả năng chi trả sẽ được khám dịch vụ, chọn bác sĩ giỏi, dùng thuốc đặc trị đắt tiền.Theo đa số nhóm thảo luận, thái độ phục vụ có sự khác biệt do ảnh hưởng của XHH, vì những người có tiền được đối xử tốt hơn so với những người không có tiền.

--- “Muốn chạy vào trường tốt cũng mất vài triệu. Mình nghèo tiền đâu mà chạy? Hộ khá chạy cho con vào trường điểm, trường tốt, không có tiền con mình học ở trường đây thôi.”

(Nhóm hộ nghèo Tổ 14, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Hộ giàu có tiền để mua thuốc đặc trị, thái độ của y bác sĩ đối với họ cũng ân cần hơn; hộ nghèo chờ từ sáng tới tối, không có tiền gãy chân cũng không quan trọng bằng các bệnh khác, cứ ngồi đó. Không có người nhà, để đó, không có phong bì thì đợi vậy.”

(Nhóm hộ khá Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

7.4. Tham gia và trao quyềnCác nhóm đều cho rằng, xây dựng CSHT nhỏ dựa trên sự đóng góp của người dân là hoạt động có sự tham vấn, phản hồi, giám sát hiệu quả nhất. Khi làm một công trình CSHT nào đó thường thông qua nhiều cuộc họp bàn dân chủ, thống nhất ý kiến của người dân.Trong quá trình thực hiện, Ban giám sát nhân dân được thành lập, gồm cán bộ thôn/tổ dân phố và những người dân có hiểu biết, trách nhiệm. Ban sẽ thực hiện nhiệm chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động xây dựng và thông báo lại cho người dân qua họp thôn/tổ dân phố (Hộp 10). Các cuộc vận động đóng góp hỗ trợ người nghèo, người khó khăn cũng được thực hiện khá minh bạch, ai đóng góp bao nhiêu đều được nêu danh sách công khai.

Page 82: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

70 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Mặt trái của XHH về tham gia, trao quyền. Thực tế thường chỉ có cán bộ cơ sở, người khá giả đóng góp nhiều tiền của là có nhiều ý kiến về việc xây dựng CSHT tại địa phương. Người nghèo khả năng đóng góp thấp nên thường tự ti, rất ít khi phát biểu, chỉ biểu quyết đồng ý theo số đông.

--- “Mới làm đường năm ngoái, hồi đó họp làm đường, nhà này không đi họp, mình chả có nhiều đóng góp nên cũng chả có ý kiến. Mọi người quyết hết cả rồi, đã quyết định làm rồi, mình sao cũng được. Mỗi nhà đóng 3 triệu đồng, nhà mình khó khăn không có tiền, mình chỉ đóng được 1 triệu đồng, lương có 1,5 triệu đồng, đóng coi như là hết tháng lương đấy.”

(L.T.T, hộ nghèo thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

Trong giáo dục, hầu hết các hoạt động XHH đều từ nhà trường đưa xuống, rất ít ý tưởng xuất phát từ phía phụ huynh. Ban đại diện cha mẹ học sinh trên thực tế chưa đại diện cho nhóm cha mẹ nghèo. Bản thân cha mẹ học sinh thường ngại phát biểu ý kiến về đóng góp tiền vì cho rằng ý kiến của mình không có trọng lượng, hoặc ngại có ý kiến trái chiều sẽ ảnh hưởng đến việc học tập của con mình ở trường (Hộp 11).

--- “Đại diện ban phụ huynh (ông này có điều kiện) nêu ra bao nhiêu mọi người đóng bấy nhiêu, do ngại không dám ý kiến. Mình đi họp cho cháu, về nói với con dâu là bố định phát biểu về đóng góp gì mà nhiều thế, con nó nói luôn “thôi thôi bố đừng phát biểu, người ta đánh dấu cháu bố thì khổ nó.”

(Nhóm cán bộ Tổ 3, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

HỘP10. Ban giám sát xây dựng giúp tăng cường sự tham gia của người dân

Ban giám sát xây dựng chốt dân phòng khu phố 4 (phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Tháng 3/2011, khu phố 4 xây dựng chốt dân phòng với số tiền vận động hơn 100 triệu đồng. Một ban giám sát đã được bầu ra gồm 6 người (Chi ủy, cán bộ khu phố, tổ dân phố, hội Cựu chiến binh, người dân), có phân công mỗi người giám sát một ngày, đảm bảo công khai minh bạch (mua vật tư đều có so sánh giá, có hóa đơn, có quyết toán tài chính thông báo trước dân). Trong quá trình xây dựng, do nhà thầu làm xà gỗ ngắn hơn so với thiết kế nên Ban giám sát đã yêu cầu làm lại.

Đến tháng 4/2011, chốt dân phòng khu phố 4 đã hoàn thành. Qua việc xây dựng chốt dân phòng đã nâng cao được vai trò giám sát cộng đồng, tăng cường sự tham gia của người dân vào các hoạt động xã hội của địa phương.

Ban giám sát công trình làm đường và cống thoát nước tại tổ 14 (Lãm Hà, Hải Phòng)

Năm 2011, Tổ dân phố 14 vận động người dân đóng góp 91 triệu, hiến 13m2 đất cùng với ngân sách Nhà nước làm đường bê tông dài 300m và lắp đặt 400m cống thoát nước (tổng trị giá công trình khoảng hơn 700 triệu đồng). Thông qua họp dân, tổ đã thành lập Ban giám sát gồm 3 người (2 người dân có kinh nghiệm xây dựng và chi hội trưởng Cựu chiến binh của tổ).

Ban giám sát thường xuyên kiểm tra việc thi công và sử dụng vật liệu của thợ. Một số đoạn thấy không đạt yêu cầu, Ban giám sát yêu cầu bên thi công làm lại. Một người dân chia sẻ:

“Giám sát như thế này công trình trước chưa bao giờ có, bà con vui vì mình cũng được làm chủ. Nhưng mình không có bản vẽ thiết kế nên chỉ giám sát theo kinh nghiệm thôi. Công trình do tiền Nhà nước là chủ yếu, dân mình chỉ có một phần nhỏ thêm vào thôi nên không thể đòi hỏi có được hợp đồng, thiết kế được.”

Page 83: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

71PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

--- “Giáo dục đóng góp giờ nhiều quá. Nhiều nhưng khi đi họp phụ huynh cũng chẳng ai dám có ý kiến, chỉ ngậm bồ hòn làm ngọt.”

(Nhóm trung bình khá Tổ 27, phường 6, Gò Vấp, TPHCM)

HỘP11. Ban đại diện cha mẹ học sinh chủ yếu đồng ý với việc đóng góp

Anh M.T. ở tổ dân phố 14, phường Lãm Hà (Hải Phòng) hiện đang có con học cấp II, là một thành viên của Ban đại diện cha mẹ học sinh. Năm học 2011 - 2012, trường của con anh có ý tưởng xây lại tường rào xung quanh trường. Trong cuộc họp với nhà trường, trong Ban đại diện có nhiều ý kiến không đồng ý với ý tưởng này vì cho rằng tường vẫn còn mới, và nếu xây lại số tiền phụ huynh phải đóng góp sẽ rất lớn (khoảng 500 - 700 nghìn đồng/học sinh). Tuy nhiên, khi biểu quyết, hầu hết đều giơ tay đồng ý. Sau vài năm tham gia Ban đại diện, kinh nghiệm anh rút ra “không có ý kiến gì” là tốt nhất.

“Lúc đề xuất thì phản đối nhiều nhưng khi biểu quyết thì đồng ý phần lớn. Giờ trong ban phụ huynh có “cò” rồi, dân mình thì a dua, thấy người ta đồng ý thì mình cũng đồng ý… Người không có ý kiến gì mới là người có kinh nghiệm đi họp. Biết nói ra cũng chả giải quyết được gì, tốt nhất là đóng tiền.”

Ngoài ra, một số khoản đóng góp lặp đi lặp lại hàng năm để mua một loại thiết bị, đồ dùng giống nhau. Theo một số phụ huynh học sinh, nhiều loại thiết bị, đồ dùng không thể hao mòn hoặc bỏ đi trong vòng một năm học được. Điều này có thể dẫn đến sự nghi ngờ tính minh bạch, công khai việc sử dụng tiền đóng góp của nhà trường.

8.Các vấn đề đặc thù của người nhập cư

8.1. Xu hướng các dòng nhập cưCác dòng nhập cư đến các điểm quan trắc khá đa dạng. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), người nhập cư đến từ khoảng 30 tỉnh, hầu hết ở phía Bắc và Bắc Trung bộ. Sau mỗi kỳ thi tốt nghiệp PTTH hàng năm, học sinh mới tốt nghiệp từ các tỉnh Phú Thọ, Bắc Giang, Hưng Yên, Thái Nguyên, Thanh Hóa… đổ về Kim Chung tìm việc làm trong KCN rất đông. Tại phường Lãm Hà (Hải Phòng), người nhập cư thường đến từ các các huyện ngoại thành hoặc tỉnh giáp ranh như Thái Bình, Hải Dương. Riêng tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), người nhập cư đến từ rất nhiều tỉnh thành trong cả nước.

Có sự phân hóa về vùng miền, giới tính của các dòng nhập cư theo từng ngành nghề. Điều này thể hiện rõ tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), nơi đa dạng các dòng nhập cư nhất trong ba điểm quan trắc. Người đến từ một số tỉnh phía Bắc như Vĩnh Phúc, Phú Thọ chuyên làm nghề thu lượm ve chai, phụ hồ, bán hàng rong; người từ các tỉnh miền Trung làm công nhân, bán vé số, người đến từ các tỉnh miền Tây Nam Bộ chuyện phục vụ tại các nhà hàng. Có những nghề cả nam và nữ đều làm như công nhân, bán vé số. Có những nghề hầu như chỉ có nam giới làm như bảo vệ, đấm bóp, xe ôm, thợ hồ... Có những nghề phụ nữ làm là chủ yếu như ve chai, giúp việc nhà, phụ bán quán... Trong 5 năm qua, xu hướng “nữ hóa dòng nhập cư” thể hiện rõ nhất ở việc tăng số lượng phụ nữ đến thành phố làm công nhân trong các KCN, làm phụ bán quán và giúp việc nhà.

Xu hướng di cư theo nhóm đồng hương khá phổ biến. Đa số người nhập cư tại các điểm quan trắc thường dựa vào mạng lưới anh em họ hàng, bạn bè đồng hương để tìm kiếm việc làm và chỗ ở.

--- “Trước đây em có chú ruột ra làm trước, sau đó chú kéo ra làm cùng. Xin vào công ty cũng thuận tiện. Nhiều người thông qua bạn bè, họ nói chỗ này thiếu người mai

Page 84: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

72 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

vào làm, mình đến là người ta nhận ngay. Nhiều người làm một thời gian quen việc lại kéo anh em, bạn bè ra làm cùng.”

(Nhóm công nhân nhập cư phường Lãm Hà, Hải Phòng)

Số lượng người nhập cư tại các địa bàn năm 2012 đã tăng lên so với năm 2008. Tổng số người tạm trú tại xã Kim Chung (Hà Nội) đã tăng từ khoảng 20.000 người năm 2008 lên 24.300 người năm 2012, hiện hơn gấp đôi số người thường trú trên địa bàn xã. Số lượng người tạm trú tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) tăng từ 12.000 người năm 2008 lên 14.600 người năm 2012, hiện bằng xấp xỉ số người thường trú trên địa bàn phường. Riêng số lượng người nhập cư tại Lãm Hà (Hải Phòng) tăng lên chủ yếu thuộc nhóm đi về trong ngày, nên không có con số thống kê cụ thể.

Mặc dù dòng người đến tăng, ví dụ do KCN mở rộng qui mô nên cần thêm công nhân (xã Kim Chung – Hà Nội) hoặc do trên địa bàn có thêm các trường CĐ, ĐH nên tăng số sinh viên tạm trú (phường 6 – Gò Vấp), nhưng lại có một dòng người đi khỏi cũng ngày càng tăng để về quê kiếm việc hoặc tìm kiếm việc làm ở nơi khác.

Số lượng người nhập cư đi về trong ngày cũng tiếp tục tăng tại các địa bàn khảo sát trong 5 năm qua. Xu hướng này thể hiện khá rõ tại xã Kim Chung (Hà Nội) và phường Lãm Hà (Hải Phòng). Nhiều người dân tại các địa bàn nông thôn lân cận đến các khu vực ven đô thị để làm các nghề tự do như buôn bán nhỏ, chạy xe ôm, lượm ve chai, phá dỡ công trình...theo hình thức sáng đi tối về.

--- “So với 5 năm trước, lượng người nhập cư từ các địa phương lên đây tăng nhiều, hầu hết người ở các tỉnh đến đông; người ở Vĩnh Bảo, Tiên Lãng là nhiều, ngoài ra còn có người ở Hải Dương, Thái Bình, Nam Định.”

(Nhóm nhập cư lao động tự do, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

8.2. Vai trò của người nhập cư đối với phát triển địa phươngNhận xét chung của cán bộ và người dân tại các điểm quan trắc là, người nhập cư đến sinh sống và làm việc đã đem lại nhiều lợi ích cho người dân bản xứ.

Người nhập cư đang làm nhiều công việc cần thiết ở đô thị mà người bản xứ không muốn làm (như phụ hồ, giúp việc nhà, thu gom phế liệu, bán hàng rong...). Để phục vụ nhu cầu của người nhập cư, các loại hình dịch vụ như cho thuê nhà trọ, buôn bán nhỏ, trông giữ trẻ... phát triển rất mạnh. Điển hình tại thôn Bầu (Kim Chung, Hà Nội), số phòng trọ năm 2012 đã tăng gấp khoảng 1,5 lần so với năm 2008 (Hộp 12).

--- “Người nhập cư mang lại rất nhiều thuận lợi cho người dân địa phương, nhờ có người nhập cư nên hầu hết các dịch vụ tại địa phương đều phát triển. Nhiều nhà trước đây làm nông nghiệp, chân lấm tay bùn. Từ khi có người nhập cư đến chuyển sang buôn bán, cho thuê nhà trọ, có cuộc sống như công nhân viên chức...”

(Nhóm cán bộ xã Kim Chung, Hà Nội)

29 Số liệu đến tháng 8/2012 do cán bộ văn phòng - thống kê (phường 6 – Gò Vấp, TP HCM) và cán bộ dân số (xã Kim Chung – Hà Nội) cung cấp.

Page 85: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

73PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

HỘP 12.Cho thuê phòng trọ trở thành thu nhập chính của người dân tại thôn Bầu (Kim Chung - Hà Nội)

Thôn Bầu hiện có 1026 hộ thường trú, trong đó hơn 800 hộ có phòng cho thuê. Hộ nhiều nhất có khoảng 50 phòng, hộ ít nhất có từ 3-5 phòng. Hiện có khoảng 16.000 người nhập cư đang tạm trú trên địa bàn thôn, chủ yếu làm công nhân tại KCN Bắc Thăng Long. Giá cho thuê trọ hiện dao động từ 500-600 nghìn đồng/phòng/thángvới phòng trọ rộng khoảng 8-10 m2.

Thôn Bầu trước đây là thôn nông nghiệp. Từ khi KCN Bắc Thăng Long đi vào hoạt động (2003), một số hộ gia đình trong thôn bắt đầu xây phòng trọ cho thuê. Đến năm 2005-2006, KCN mở rộng, lượng công nhân đổ về địa phương nhiều hơn, số lượng phòng trọ tăng mạnh. Thu nhập từ phòng trọ trở thành nguồn thu nhập chính của hộ gia đình trong thôn. Ngoài ra, người dân trong thôn còn có thêm các nguồn thu khác từ buôn bán hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu của công nhân nhập cư.

Hiện nay, nhu cầu thuê trọ vẫn tăng trong khi diện tích đất trống hạn chế, khoảng 50 hộ trong thôn đã xây nhà trọ 2-3 tầng. Diện tích và nội thất của các phòng xây mới được cải thiện hơn, có giá cho thuê cao hơn một chút so với loại phòng trọ cũ.

Tuy nhiên, việc có quá đông người nhập cư cũng gây ra những áp lực nhất định về vệ sinh môi trường, giáo dục, y tế và ANTT. Theo ước tính của Công ty Vệ sinh môi trường xã Kim Chung (Hà Nội), lượng rác xả ra bình quân một ngày trong năm 2012 của riêng thôn Bầu là 15 tấn, cao gần gấp đôi so với cách đây 5 năm. Lượng người nhập cư ngày một tăng trong khi cơ sở vật chất, nhân lực không đáp ứng kịp cũng gây ra tình trạng quá tải tại các trường học, trạm y tế. Tệ nạn xã hội (trộm cắp, nghiện hút) tăng lên tại Kim Chung (Hà Nội) trong những năm gần đây cũng được cho là hệ lụy của lượng người nhập cư tăng nhanh.

--- “Khó khăn lớn nhất hiện nay của trạm đó là không ước tính được số lượng trẻ nhập cư đi tiêm chủng hàng tháng. Thời điểm tiêm chủng, nhiều gia đình mới đến nghe tin cũng đưa con đến tiêm gây ra tình trạng quá tải, thiếu vacxin”

(Đại diện Trạm Y tế phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Mối lo số một là môi trường, thứ hai là tệ nạn trộm cắp và nghiện hút, kẻ xấu trà trộn vào công nhân, người thuê nhà. Thanh niên địa phương cũng dễ bị lôi kéo, ảnh hưởng.”

(Nhóm trung bình khá thôn Bầu, xã Kim Chung, Hà Nội)

Một số người bản xứ còn có cái nhìn khá định kiến với người nhập cư. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), người bản xứ thường không có nhiều thiện cảm với nữ công nhân nhập cư vì cho rằng một số người ăn mặc không kín đáo, cách sinh hoạt không nề nếp. Nhiều bậc phụ huynh không muốn cho con em mình giao lưu với nhóm nữ công nhân nhập cư.

8.3. Lịch sử di chuyển, chiến lược vươn lên của người nhập cưPhần lớn người nhập cư đến thành phố theo sự giới thiệu của người nhà, bạn bè đồng hương. Ban đầu họ nhận được sự giúp đỡ của người thân về chỗ ở, tìm việc làm.

Người nhập cư chấp nhận làm nhiều công việc vất vả, thời gian kéo dài hơn so với người bản xứ không muốn làm. Một người có thể làm nhiều công việc phụ khác ngoài công việc chính thức. Một số thanh niên tốt nghiệp THPT cố gắng nâng cao học vấn tay nghề để có thu nhập cao hơn.

Có sự thay đổi về phân công lao động trong gia đình trước và sau khi đến đô thị. Khi còn ở quê, hầu như mọi công việc nấu ăn, giặt giũ, chăm sóc con nhỏ... do người phụ nữ đảm nhiệm. Nhưng khi cả hai vợ chồng cùng ra thành phố làm ăn, hai vợ chồng sẽ cùng chia sẻ công việc nhà (Hộp 13).

Page 86: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

74 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Tính bất ổn định trong công việc của người nhập cư khá cao. Họ thường không cố định trong một công ty (công nhân), một nghề (lao động tự do). Tính lưu động nghề nghiệp của người nhập cư càng cao khi nền kinh tế không ổn định.

Trong 5 năm qua, nhiều người nhập cư di chuyển từ thành phố về các vùng ngoại ô hoặc nông thôn. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), công nhân nhập cư có xu hướng chuyển dần ra các tỉnh phía Bắc do thu nhập không đáp ứng được chi phí cuộc sống. Hiện nay tại các tỉnh phía Bắc cũng có nhiều khu công nghiệp thu hút lao động. Một số người muốn về gần nhà làm để gần gũi gia đình, cho con ăn học. Tại Kim Chung (Hà Nội) và Lãm Hà (Hải Phòng), đã ghi nhận một số trường hợp mới chuyển từ miền Nam quay lại phía Bắc làm việc.

--- “Lý do chuyển việc ra ngoài này cũng vì gia đình, mình muốn chuyển về cho gần nhà. Trước đây làm trong Sài Gòn, làm công nhân cơ khí theo mùa vụ. Giờ vào công ty giấy T.Đ. làm bộ phận cơ nhiệt, công việc trước mắt cũng ổn định, cuộc sống cũng chỉ bình bình thôi.”

(Nhóm công nhân nhập cư, phường Lãm Hà, Hải Phòng)

--- “Năm nay làm ăn kém đi, công nhân thì lượng hàng giảm đi, việc ít, so với 6 tháng đầu năm ngoái thì giảm 20% lượng việc. Người về quê “cắm câu”, ngành xây dựng

HỘP 13. Phân công lao động hợp lý trong gia đình nhập cư

Anh V.V.H sinh năm 1982, quê ở tỉnh Vĩnh Phúc vào TP HCM từ năm 1997 làm nhiều nghề khác nhau như bơm ga máy lửa, bán bánh giò... Năm 2004, anh về quê lấy vợ là chị T. Năm 2005, hai anh chị quay lại TP HCM và tạm trú tại khu phố 4, phường 6 (Gò Vấp) cho đến bây giờ.

Khi quay lại TP HCM, anh quyết định chuyển sang làm đấm bóp vì nghề này có thu nhập cao. Công việc của anh thường đi vào lúc 7 giờ tối đến nửa đêm. Lúc đầu chưa có con, chị đi lượm ve chai (cũng thường làm từ nửa đêm). Năm 2008, anh chị sinh con gái, chị chuyển sang đi thu mua ve chai vào ban ngày. Hai vợ chồng thay nhau làm việc nhà và chăm sóc con nhỏ, ban ngày vợ đi làm thì chồng ở nhà trông con, và ngược lại đến tối chồng đi làm thì vợ ở nhà trông con. Thu nhập của hai vợ chồng cũng tạm ổn, mỗi năm anh chị gửi về quê và tiết kiệm được vài chục triệu. Năm 2010, khi con gái được hơn 1 tuổi anh chị cho con về quê để ông bà nuôi giúp.

Cuối năm 2011, nhận thấy nghề đấm bóp không có khách, anh đã chuyển sang làm nghề thu mua đồ cũ. Ban ngày hai vợ chồng cùng đi làm, buổi tối về cùng phân loại hàng hóa. Đến nay, sau 7 năm trở lại TP HCM, anh chị đã có lưng vốn hơn 200 triệu đồng gửi ngân hàng.

1997 2004 2005 2008 2011 2012

Trung bình

Mức sống tương đối

Khó khăn

Vào TP HCM

Về quê lấy vợ

Trở lại TP HCM

Sinh con

Chồng chuyển sang mua đồ cũ

Làm nhiều nghề

Chồng đấm bóp, vợ lượm ve chai

Vợ chuyển sang thu mua ve chai

Nghề đấm bóp ít việc

Page 87: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

75PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

BẢNG 21. Tỷ lệ cho biết có công nhân bỏ về quê, 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2012

Kim Chung(Hà Nội)

72

84

88

88

21

7

65

Tỷ lệ cho biết có xu hướng công nhân bỏ về quê

Lý do:

Lương thấp

Chi phí cuộc sống đô thị tốn kém

Áp lực công việc

Có doanh nghiệp ở quê tuyển lao động

Tận dụng lợi thế sẵn có (gần nhà, gạo sạch, rau sạch…)

Lý do cá nhân (lấy vợ/chồng, bố mẹ ốm đau…)

Trung bình

50

81

90

68

44

20

37

Lãm Hà(Hải Phòng)

48

76

93

59

83

52

10

Phường 6(Gò Vấp, TPHCM)

30

83

89

33

39

0

11

HỘP 14. Xu hướng về làm việc tại các KCN gần nhà của công nhân

Chị C.T.T, 31 tuổi, quê Hà Nam theo bạn bè vào TP HCM từ năm 2001, hiện đang làm công nhân tại công ty may Gamex Sài Gòn. Sau 11 năm xa nhà, chị đang có ý định quay trở về quê để làm việc và tiện chăm sóc gia đình. Chị cho biết, hiện nay cũng có nhiều người làm công nhân trong Nam muốn chuyển ra Bắc để làm gần nhà do chi phí cuộc sống cao, mức thu nhập không đáp ứng đủ.

“Định tháng 3 sang năm về nhà, về làm tại khu công nghiệp Duy Tiên gần nhà. Với lại do bố mẹ già yếu nên về làm giúp bố mẹ, chờ hết hợp đồng rồi ra thôi. Bạn bè chị trong này cũng ra ngoài đó cả rồi, không còn ai trong này. Ngoài Bắc các phụ cấp không bằng trong này nhưng không mất tiền nhà, tiền tàu xe đi lại.”

Đa số những người tính kế về quê lâu dài thường là công nhân nhập cư có con nhỏ, không có khả năng đưa người thân lên trông con hoặc không đủ tiền gửi con ở thành phố, hoặc những người có ý định về quê lập gia đình, chăm sóc bố mẹ già yếu (Hộp 14). Công nhân nữ nhập cư trên 40 tuổi bị mất việc hoặc tự nghỉ việc cũng có thể về quê.

năm nay công nhân về quê nhiều.”(Nhóm công nhân nhập cư Tổ 25, phường 6, Gò Vấp, TP HCM)

Bảng 21 cho thấy, một nửa số công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 cho biết có hiện tượng công nhân bỏ về quê. Ngoài những lý do phổ biến về khó khăn tại đô thị (chi phí cao, lương thấp, áp lực công việc cao), có 44% cho rằng công nhân bỏ về quê là do có doanh nghiệp ở quê tuyển lao động.

8.4. Các nhóm nhập cư gặp khó khăn đặc thùNhóm gia đình có con nhỏ

Xu hướng cả 2 vợ chồng nhập cư ở cùng con cái đang tăng lên, đặc biệt là khi trẻ còn nhỏ. Bố mẹ nhập cư muốn giữ con ở gần để tiện chăm sóc, giáo dục với điều kiện tốt hơn ở quê. Tại xã Kim Chung (Hà Nội) những gia đình công nhân giữ con ở lại thường trong độ

Page 88: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

76 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Nhóm vừa học, vừa làm

Đây là nhóm tập trung chủ yếu công nhân trẻ, mong muốn học hành để tìm cơ hội việc làm tốt hơn. Trong số đó không ít người lựa chọn làm công nhân nhập cư như là bước trung gian để tìm cơ hội học tập tại thành phố. Số lượng công nhân vừa học vừa làm tăng lên trong 5 năm qua (xem thêm phần 4 - Học vấn và tay nghề). Nhóm này ít có thời gian tăng ca, thêm giờ trong khi vừa phải lo chi phí cuộc sống vừa phải trang trải các chi phí học tập. Họ thường không có tiền tiết kiệm, nhiều khi phải nhờ sự hỗ trợ của người thân ở quê. Thời gian nghỉ ngơi của nhóm này cũng rất hạn chế (Hộp 16).

tuổi học Mầm non hoặc lớp 1, lớp 2. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM), độ tuổi đi học của trẻ nhập cư phổ biến là Mầm non và Tiểu học. Với độ tuổi của con lớn hơn, nhiều gia đình chọn phương án gửi con về quê hoặc cả nhà cùng về quê.

--- “Công nhân có con nhỏ ngày càng đông, không có điều kiện thì mới gửi cháu về cho ông bà, còn lại thì đều giữ lại ở đây.”

(Nhóm công nhân nhập cư thôn Nhuế, xã Kim Chung, Hà Nội)

Nhóm có con nhỏ phải thuê nhà trọ riêng rộng hơn với chi phí cao hơn. Nhiều chủ nhà trọ tại xã Kim Chung (Hà Nội) cho biết họ có tâm lý hạn chế cho gia đình có con nhỏ thuê do ngại ồn ào, điều kiện sinh hoạt phức tạp hơn so với người độc thân.

Trong 5 năm qua, cuộc sống của nhóm nhập cư có con nhỏ ngày càng khó khăn do chi phí cuộc sống tăng cao (Hộp 15). Lựa chọn của nhiều gia đình nhập cư có con nhỏ là đưa bố mẹ hoặc người thân từ quê lên trông con giúp trong lúc đi làm. Tại xã Kim Chung (Hà Nội), một số gia đình phải gửi con ở nhóm trẻ gia đình. Một số trường hợp khác 2 vợ chồng phải thay đổi giờ làm lệch nhau để có thời gian ở nhà chăm sóc con.

HỘP 15. Khó khăn của những gia đình lao động tự do có con nhỏ

Gia đình chị N.T.L. người nhập cư quê Vĩnh Phúc đang sống tại Tổ 27, phường 6 (Gò Vấp, TP. HCM). Chị L. làm nghề thu lượm ve chai, chồng chị làm phụ hồ. Chị có 2 cháu, cháu lớn năm nay 4 tuổi (đang gửi nhờ ông bà ngoại chăm sóc), cháu nhỏ 2 tuổi đang ở cùng bố mẹ. Anh chị phải nhờ một người em họ đang làm việc trong thành phố về ở cùng để phụ chăm sóc con nhỏ.

Hiện tại, thu nhập hàng tháng của chị được khoảng 3 triệu đồng, cộng thêm thu nhập của chồng khoảng 3,5 triệu đồng. Năm 2012, nhà trọ tăng giá lên 1,2 triệu đồng cộng thêm tiền điện, nước khoảng 300 nghìn đồng. Chị cho biết, chi tiêu của cả gia đình mỗi ngày chỉ dám trong 100 nghìn đồng, để dành tiền mua sữa, đồ ăn cho con.

“Chỉ dám chi 100 ngàn tiền ăn uống mỗi ngày, một tháng cũng hết 3-4 triệu rồi. Còn lại mua sữa cho con, nhiều khi không đủ, phải vay mượn tạm người nọ người kia.”

Khi được hỏi về những dự đình trong tương lai của gia đình, chị cho biết “đến đâu hay đến đó, vì nghề của mình lúc được lúc không”. Tuy nhiên, nếu cuộc sống khó khăn hơn, chị có thể tính đến chuyện đưa cả gia đình về quê sinh sống.

Page 89: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

77PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

HỘP 16. Những nỗ lực của công nhân vừa học vừa làm

Anh M.C.T, quê tại Thanh Hóa vào TP HCM từ năm 2006 sau khi tốt nghiệp THPT. Do không thi đỗ đại học nên anh quyết định vào TP HCM để làm công nhân. Anh vừa làm vừa ôn thi, nhưng thi đại học lần 2 không trúng, anh đăng ký nguyện vọng vào trường Trung cấp nghề Công nghiệp. Sau 2 năm học trung cấp, anh quyết tâm học tiếp liên thông lên Cao đẳng. Trong suốt thời gian học, anh vẫn đi làm công nhân.

Anh cho biết “người đi làm khó khăn một thì mình vừa học, vừa làm khó gấp 2-3 lần”. Một tháng thu nhập từ công việc tại xưởng được khoảng 3 triệu đồng. Tiền học phí mỗi tháng là 600 nghìn đồng, chi phí nhà trọ và ăn uống hết hơn 2 triệu. Như vậy hàng tháng anh không còn khoản tiết kiệm nào cho bản thân. Mỗi khi có chi phí phát sinh anh lại phải nhờ sự hỗ trợ của bố mẹ từ quê. Khó khăn nhưng anh T. cho biết sẽ tiếp tục cố gắng học cho xong để có cơ hội tìm được các công việc khác tốt hơn.

“Mình quyết tâm đi học, chỉ có học mới thay đổi cuộc đời được. Không quyết tâm là không học được đâu, nhiều khi đi làm về mệt lắm đến lớp chỉ muốn ngủ nhưng vẫn phải cố. Mình làm công việc này vì có thể xin nghỉ sớm được, chịu tiền ít một ít nhưng có thời gian để đi học. Sau này học xong có cái nghề rồi muốn về quê mở cái cửa hàng làm điện lạnh cũng dễ.”

Định hướng nghề nghiệp của hầu hết công nhân sau khi học xong là muốn tìm được công việc tốt hơn tại các cơ quan, xí nghiệp khác. Nếu không tìm được việc làm có thu nhập cao tại thành phố, một số dự định quay trở về quê tìm việc khi đã có một trình độ nhất định.

Nhóm dân tộc thiểu số

Số thanh nhiên nhập cư là người DTTS đến làm công nhân tăng lên trong 5 năm qua, ghi nhận chủ yếu tại xã Kim Chung (Hà Nội). Xu hướng nhóm công nhân là người DTTS tăng lên là do: (i) các công ty tại KCN tăng tuyển dụng lao động tại các địa bàn miền núi; (ii) thanh niên DTTS bắt đầu mạnh dạn di cư theo mối liên hệ đồng hương, anh em, bạn bè xuống làm việc trước. Theo thống kê của cán bộ phụ trách mảng dân số xã, trên địa bàn xã Kim Chung hiện có khoảng 15 dân tộc từ các tỉnh miền núi phía Bắc đến sinh sống và làm việc tại đây. Trong đó, đông nhất là dân tộc Tày, ngoài ra có cả những dân tộc khác như Mường, Nùng, Cao Lan... Hầu hết người DTTS về địa phương làm công nhân đều là thanh niên đã tốt nghiệp THPT, nhanh nhẹn, nói tiếng Kinh lưu loát.

Thời gian đầu do chưa quen với tác phong làm việc công nghiệp và lối sống, sinh hoạt ở thành phố nên nhóm DTTS gặp nhiều khó khăn. Họ thường co cụm trong một khu trọ, đi làm cùng nhau. Sau một thời gian họ quen dần với cuộc sống ở đô thị. Hầu hết thanh niên DTTS không xác định làm công nhân lâu dài ở thành phố, họ mong muốn sau này sẽ tìm được các công việc khác tại quê hoặc KCN gần nhà.

Nhóm có gia đình ở quê là hộ nghèo, phải gửi tiền về giúp gia đình

Với những người nhập cư có gia đình ở quê thuộc diện hộ nghèo/hộ khó khăn, áp lực gửi tiền về giúp đỡ gia đình lớn hơn so với người khác. Họ thường phải tiết kiệm chi tiêu tối đa, chấp nhận ăn uống và sinh hoạt kham khổ hơn những người khác.

Tại phường 6 (Gò Vấp, TPHCM), năm 2012 giá thu mua hạ, lượng hàng mua được ít nên nhiều người bán ve chai phải tăng thời gian làm việc để đảm bảo cuộc sống và có tiền gửi về giúp gia đình. Với mức thu nhập trung bình từ 2-3 triệu đồng/tháng nhưng nhiều người vẫn phải dành dụm để gửi khoảng 1 triệu đồng/tháng về nhà cho con cái ăn học. Họ chấp nhận sống trong những khu nhà trọ tập trung với điều kiện sống khá tồi tàn có mức giá thuê thấp (khoảng 350 nghìn đồng/người/tháng gồm cả tiền điện) để có tiền gửi về nhà.

Page 90: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

78 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

8.5. Các bất lợi của công nhân nhập cư nhìn từ số liệu phỏng vấnSố liệu phỏng vấn 180 công nhân nhập cư tại 3 điểm quan trắc giúp làm rõ thêm 6 chiều thiếu hụt đặc thù của công nhân nhập cư theo cảm nhận của chính họ: điều kiện sống kém tiện nghi và thiếu an toàn; điều kiện làm việc bất lợi; thiếu tiếp cận an sinh xã hội; việc làm, thu nhập bấp bênh; chi phí cuộc sống cao ở đô thị; thiếu hòa nhập xã hội (Bảng 22).

BẢNG 22. Bất lợi đa chiều và tiêu chí trong từng chiều đối với công nhân nhập cư

Hình 6 cho thấy, “chi phí cuộc sống cao” và “thiếu hòa nhập xã hội” là 2 chiều thiếu hụt cao nhất theo cảm nhận của công nhân nhập cư. Có 4/6 chiều thiếu hụt theo cảm nhận của công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 tăng so với mẫu khảo sát năm 2009, cụ thể là các chiều “điều kiện sống kém tiện nghi và thiếu an toàn”, “điều kiện làm việc bất lợi”, “thiếu hòa nhập xã hội” và “thiếu tiếp cận an sinh xã hội”.

HÌNH 6. Các chiều thiếu hụt theo cảm nhận của công nhân nhập cư, 2009 - 201230(%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Tiêu chí đo lường trong từng chiều

Tỷ lệ công nhân gặp khó khăn về điều kiện sống

Tỷ lệ công nhân gặp khó khăn về điều kiện làm việc

Tỷ lệ công nhân không đóng BHXH; hoặc

Tỷ lệ công nhân không có thẻ BHYT

Tỷ lệ công nhân có thu nhập bị giảm sút đột xuất từ 2 tháng trở lên trong 12 tháng qua

Tỷ lệ công nhân không có tiền gửi về nhà

Tỷ lệ công nhân không là thành viên của Công đoàn; hoặc

Tỷ lệ công nhân không nhận được sự giúp đỡ nào khi gặp khó khăn.

Chiều bất lợi

1. Điều kiện sống kém tiện nghi và thiếu an toàn

2. Điều kiện làm việc bất lợi

3. Thiếu tiếp cận an sinh xã hội

4. Việc làm, thu nhập bấp bênh

5. Chi phí cuộc sống cao ở đô thị

6. Thiếu hòa nhập xã hội

Page 91: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

79PHẦN 3. Một số vấn đề trọng tâm của giảm nghèo đô thị

BẢNG 23. Thiếu hụt về điều kiện sống, 2009 – 2012 (%)

BẢNG 24. Thiếu hụt về điều kiện làm việc, 2009 – 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Kim Chung(Hà Nội)

38

65

Kim Chung(Hà Nội)

47

47

2009

2012

2009

2012

Trung bình

21

29

Trung bình

27

34

Lãm Hà(Hải Phòng)

20

22

Lãm Hà(Hải Phòng)

25

30

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

5

2

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

10

27

Điều kiện làm việc bất lợi

Công nhân nhập cư tại các điểm quan trắc chủ yếu làm việc trong các ngành thâm dụng lao động như lắp ráp điện tử, may mặc, giày da…Bảng 24 cho thấy, chiều thiếu hụt về điều kiện làm việc theo cảm nhận của công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 tăng nhẹ so với mẫu khảo sát năm 2009 tại Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM). Riêng Kim Chung (Hà Nội), tỷ lệ này không tăng nhưng vẫn ở mức cao nhất trong 3 điểm quan trắc. Bốn vấn đề công nhân phàn nàn nhiều nhất về điều kiện làm việc là “ảnh hưởng bất lợi về nhiệt độ, hơi hóa chất, khói bụi, ánh sáng, tiếng ồn”, “thiếu thông tin về quyền và nghĩa vụ của người lao động/người sử dụng lao động”, “quá đông công nhân so với không gian làm việc”, và “công việc nhàm chán/căng thẳng/không có điều kiện vui chơi giải trí”.

Thiếu tiếp cận an sinh xã hội

Tỷ lệ công nhân trong mẫu khảo sát không được đóng BHXH, không có thẻ BHYT khá cao. Tại phường 6 (Gò Vấp, TP HCM) và Lãm Hà (Hải Phòng), nhiều công nhân làm việc trong các cơ sở tư nhân, xưởng sản xuất nhỏ không được hưởng các chế độ phúc lợi xã hội thiết yếu, và tình trạng này có xu hướng tăng lên trong thời gian qua trong bối cảnh đa cú sốc. Riêng tại Kim Chung (Hà Nội), công nhân nhập cư hầu hết làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (chủ yếu là công ty Nhật Bản) trong KCN Bắc Thăng Long được đảm bảo khá tốt các chế độ phúc lợi xã hội theo luật định(Bảng 25).

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Điều kiện sống kém tiện nghi và thiếu an toàn

Điều kiện sống của công nhân nhập cư còn gặp nhiều khó khăn. Bảng 23 cho thấy chiều thiếu hụt về điều kiện sống theo cảm nhận của công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 tăng nhẹ so với mẫu khảo sát năm 2009. Ba vấn đề công nhân phàn nàn nhiều nhất về điều kiện sống là “diện tích nhà ở chật chội”, “xa nơi vui chơi giải trí” và “môi trường ô nhiễm/kém vệ sinh”. Ở xã Kim Chung (Hà Nội), tỷ lệ công nhân cảm nhận cuộc sống kém tiện nghi và an toàn khá cao (65%). Họ thường sống trong phòng trọ theo dãy, diện tích nhỏ (dưới 10m2 ở chung 2-4 người), tường mỏng, mái fibro nên rất nóng bức vào mùa hè. ANTT phức tạp cũng là một mối lo của công nhân nhập cư ở Kim Chung. Ở phường Lãm Hà (Hải Phòng), nhiều người chấp nhận thuê phòng trọ xây từ trước năm 2000 tường bị ngấm nước, bể nước kém vệ sinh.

Page 92: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

80 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

BẢNG 25. Thiếu hụt về tiếp cận an sinh xã hội, 2009 – 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Không được đóng BHXH

Không có thẻ BHYT

Kim Chung(Hà Nội)

2009

2

15

2012

3

5

2009

40

27

2012

53

35

2009

35

55

2012

63

62

2009

26

32

2012

40

34

Lãm Hà(Hải Phòng)

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

Trung bình

BẢNG 26. Thiếu hụt về việc làm, thu nhập bấp bênh, 2009 – 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Không ký hợp đồng lao động

Thu nhập bị giảm sút từ 2 tháng trở lên

Kim Chung(Hà Nội)

2009

0

42

2012

0

20

2009

25

23

2012

18

28

2009

32

13

2012

3

20

2009

19

26

2012

7

23

Lãm Hà(Hải Phòng)

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

Trung bình

Việc làm, thu nhập bấp bênh

Tình trạng công nhân không có hợp đồng lao động chủ yếu xảy ra tại các xưởng tư nhân, cơ sở sản xuất nhỏ hoặc đối với lao động làm việc theo mùa vụ. Tuy nhiên, tình trạng này đã giảm đáng kể trong mẫu khảo sát năm 2012 so với mẫu khảo sát 2009. Có hơn 20% công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 có thu nhập sụt giảm từ 2 tháng trở lên, tỷ lệ này không có nhiều thay đổi so với mẫu khảo sát 4 năm trước. Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp thiếu việc làm (Bảng 26).

BẢNG 27. Tỷ lệ công nhân không gửi tiền về nhà, 2009 – 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Kim Chung(Hà Nội)

57

40

2009

2012

Trung bình

55

54

Lãm Hà(Hải Phòng)

42

55

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

67

68

Chi phí cuộc sống cao ở đô thị

Tỷ lệ công nhân không gửi tiền về nhà giúp đỡ gia đình chiếm trên 50% trong mẫu khảo sát năm 2009 và 2012 (Bảng 27). Đa số công nhân nhập cư được hỏi cho biết, sau khi trừ hết các khoản chi phí tiền thuê nhà trọ, tiền điện, tiền nước, ăn uống hàng ngày... họ còn rất ít tiền tiết kiệm cho bản thân và tiền gửi về nhà.

Phân tích kỹ hơn cho thấy, thu nhập hàng tháng của công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 đã tăng hơn hai lần so với năm 2008, tuy nhiên vẫn thấp hơn so với mức tăng chi tiêu trong cùng thời kỳ. Cụ thể, tổng thu nhập bình quân một tháng theo giá hiện hành của công nhân nhập cư trong mẫu khảo sát năm 2012 tăng khoảng 105% so với năm 2008; nhưng tổng chi tiêu cá nhân (không tính khoản tiết kiệm cho bản thân và tiền gửi về gia

Page 93: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

81PHẦN 4. Hướng đến giảm nghèo đô thị bền vững

BẢNG 28. Thu nhập - chi tiêu hàng tháng của công nhân nhập cư, 2008 – 2012Đơn vị tính: ‘000 VNĐ (nghìn đồng), giá hiện hành

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư, năm 2008 - 2012

Tổng thu nhập(=1+2+3)

1. Tổng chi tiêu cá nhân

Thuê nhà

Ăn uống

Quần áo

Đi lại

Vui chơi, giải trí

Chi phí xã hội, hiếu hỷ

Mua sắm cá nhân

Chi khác

2. Tiết kiệm cho bản thân

3. Gửi về gia đình

2012

3.448

2.684

459

1.097

167

181

108

246

136

290

364

402

2011

2.777

2.328

438

951

154

138

91

223

107

226

260

189

2010

2.180

1.679

369

666

97

129

80

158

77

103

209

292

2009

1.863

1.435

259

565

113

124

78

132

82

82

165

263

2008

1.677

1.247

197

526

77

84

51

127

62

123

196

234

đình) tăng tới 115% trong cùng thời kỳ. Trong bối cảnh đó, công nhân nhập cư phải hạn chế khoản tiền gửi về gia đình và tiền tiết kiệm cho bản thân. Năm 2012, tiền gửi về và tiền tiết kiệm cho bản thân chỉ chiếm 22% tổng thu nhập (năm 2008 là 26%)(Bảng 28).

BẢNG 29. Thiếu hụt về hòa nhập xã hội, 2009 – 2012 (%)

Nguồn: Phiếu phỏng vấn công nhân nhập cư năm 2009 và 2012

Không là thành viên của Công đoàn

Không nhận được giúp đỡ khi gặp khó khăn

Kim Chung(Hà Nội)

2009

27

30

2012

3

31

2009

38

35

2012

63

23

2009

53

8

2012

67

57

2009

39

24

2012

44

37

Lãm Hà(Hải Phòng)

Phường 6 (Gò Vấp, TP HCM)

Trung bình

Thiếu hòa nhập xã hội

Bảng 29 cho thấy, tỷ lệ công nhân không phải là thành viên của công đoàn khá cao, đặc biệt là tại phường Lãm Hà (Hải Phòng) và phường 6 (Gò Vấp, TP HCM). Qua khảo sát, hầu như không công nhân nào nêu lên được một ví dụ cụ thể về vai trò của công đoàn trong việc đại diện và bảo vệ lợi ích chính đáng của họ. Tính độc lập thấp của công đoàn cũng là một mối quan tâm của công nhân, do các cán bộ công đoàn thường cũng là cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, được các chủ doanh nghiệp trả lương. Khi gặp khó khăn, công nhân nhập cư chủ yếu dựa vào sự giúp đỡ của bạn bè, đồng hương song chủ yếu vẫn là động viên về tinh thần.

Page 94: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

82 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Page 95: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

83PHẦN 4. Hướng đến giảm nghèo đô thị bền vững

PHẦN 4. HƯỚNG ĐẾN GIẢM NGHÈOĐÔ THỊ BỀN VỮNG

Page 96: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

84 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

Page 97: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

85PHẦN 4. Hướng đến giảm nghèo đô thị bền vững

PHẦN 4. HƯỚNG ĐẾN GIẢM NGHÈO ĐÔ THỊ BỀN VỮNG9. ĐỀ XUẤT THẢO LUẬN

9.1. Kết luậnTrong 5 năm qua, cuộc sống của đa số người nghèo đô thị tại các điểm quan trắc đã được cải thiện. Cơ sở hạ tầng tốt hơn, nhà cửa khang trang hơn, tài sản gia đình nhiều hơn, học hành của trẻ em được quan tâm hơn. Nhiều hộ gia đình đã vươn lên thoát nghèo nhờ chuyển đổi sinh kế kịp thời trong bối cảnh đô thị hóa và đầu tư cho giáo dục của con cái để có việc làm ổn định với thu nhập cao hơn.

Nghèo đô thị tại các thành phố lớn của Việt Nam đã ở mức thấp nếu xét đơn thuần theo các tiêu chí thu nhập hoặc chi tiêu, kể cả khi tăng chuẩn nghèo. Tuy nhiên, khi nhìn dưới góc độ nghèo đa chiều, tình trạng nghèo đô thị trầm trọng hơn nhiều. Kết quả theo dõi nghèo đô thị trong 5 năm qua tiếp tục khẳng định rằng, thiếu nguồn nhân lực, thiếu khả năng chuyển đổi sinh kế, thiếu vốn xã hội, hạn chế trong tiếp cận dịch vụ công, môi trường sống kém tiện nghi và thiếu an toàn là những hạn chế, bất lợi cơ bản của người nghèo bản xứ. Người nhập cư nghèo còn chịu thêm bất lợi đặc thù về chi phí cuộc sống cao ở đô thị, thiếu hòa nhập xã hội dẫn đến khó tiếp cận các dịch vụ công và hệ thống an sinh xã hội chính thức.

Người nghèo đô thị gặp nhiều bất lợi khi đối mặt với đa cú sốc, điển hình là lạm phát cao trong năm 2008 và 2011, khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008-2009, và khó khăn của kinh tế trong nước năm 2012. Đa số người nghèo đô thị tiếp cận kém với hệ thống an sinh xã hội, do họ thường làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và trong khu vực phi chính thức. Các chính sách hỗ trợ bảo hiểm và các chương trình trợ cấp tiền mặt cần được cải tiến về xác định đối tượng thụ hưởng và mức hỗ trợ.

Chi phí giáo dục cao là một gánh nặng lớn với người nghèo đô thị. Hiện đang có sự mất cân đối về chất lượng nguồn nhân lực (đặc biệt về tay nghề kỹ thuật) với nhu cầu của thị trường lao động. Thanh niên tốt nghiệp THPT đang thiếu các thông tin hướng nghiệp khách quan và chuyên sâu. Các chương trình hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho người nghèo đô thị chưa phát huy hiệu quả. Công nhân làm việc trong các ngành thâm dụng lao động ít được trang bị các kỹ năng có thể chuyển đổi (khi xin việc tại doanh nghiệp khác). Nhiều thanh niên tốt nghiệp cao đẳng, đại học khó tìm kiếm việc làm phù hợp với ngành học.

Người dân ngày càng quan tâm đến các khía cạnh của bất bình đẳng. Chính sách xã hội hóa đã giúp huy động sự tham gia của toàn xã hội vào sự nghiệp giảm nghèo, giáo dục và y tế. Tuy nhiên, xã hội hóa vẫn thường được hiểu thiên về đóng góp kinh phí cho các dịch vụ, dẫn đến làm tăng gánh nặng tài chính cho người nghèo và góp phần gia tăng bất bình đẳng về tiếp cận dịch vụ.

9.2. Hướng đến giảm nghèo đô thị bền vững ở Việt NamKết quả theo dõi nghèo trong 5 năm qua cho thấy, giảm nghèo đô thị tại Việt Nam đang gặp những thách thức mới và cần cách tiếp cận mới. Nếu các thách thức không được giải quyết đúng đắn, chất lượng cuộc sống của người nghèo bản xứ và nhập cư sẽ khó cải thiện, tính dễ bị tổn thương cao, và bất bình đẳng sẽ tiếp tục tăng lên.

Báo cáo này đề xuất tám vấn đề các nhà lập chính sách nên quan tâm: 1. Đo lường nghèo đa chiều để nhận diện đúng tình trạng nghèo đô thị. Cần xây

dựng một hệ thống theo dõi, đánh giá thường xuyên để thiết kế chính sách hỗ trợ các nhóm đặc thù, trong đó bao gồm bộ công cụ đo lường tác động của các

Page 98: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

86 Theo dõi nghèo đô thị theo phương pháp cùng tham gia - Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

cú sốc đến các nhóm khó khăn và dễ bị tổn thương. Đây sẽ là sự cải thiện đáng kể so với các đợt “rà soát nghèo” thuần túy theo thu nhập vào cuối năm.

2. Thiết kế các chính sách hỗ trợ thích hợp và không phân biệt đối xử đối với người nhập cư, không phụ thuộc vào tình trạng hộ khẩu. Cần hỗ trợ người nhập cư về tìm kiếm và bảo đảm việc làm an toàn, tiếp cận hệ thống an sinh xã hội và giảm chi phí cuộc sống tại đô thị. Có thể cải thiện “vốn xã hội” của người nhập cư bằng cách tạo cơ hội tham gia nhiều hơn vào các hoạt động cộng đồng, dịch vụ tự giúp, sinh hoạt tổ nhóm, các hoạt động văn hóa, truyền thông về pháp luật và các kỹ năng sống với sự tham gia tích cực của các bên liên quan.

3. Qui hoạch đô thị và phân bổ ngân sách dựa trên qui mô tổng dân số bao gồm cả người nhập cư, nhằm từng bước giải quyết sự quá tải của các dịch vụ nhà ở (chú trọng cấp thoát nước, vệ sinh môi trường), dịch vụ giáo dục và y tế, trong đó ưu tiên đầu tư cho các địa bàn ngoại vi thành phố đang chuyển đổi có đông người nghèo và người nhập cư, nhất là những người ở cùng con nhỏ.

4. Đầu tư mạnh hơn cho chương trình giảm nghèo đô thị. Việc làm tại đô thị gắn với và tiền gửi về nhà của người nhập cư đóng vai trò quan trọng trong chiến lược sinh kế đa dạng hóa của cư dân nông thôn. Do đó, chương trình giảm nghèo đô thị cần được phân bổ nguồn lực thích đáng hơn. Cần thực hiện nghiêm túc hướng dẫn của Bộ LĐ-TBXH về rà soát nghèo với những hộ ở trên địa bàn từ 6 tháng trở lên, không phân biệt về tình trạng hộ khẩu và tình trạng cư trú.

5. Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội toàn diện, dễ tiếp cận, không phân biệt đối xử với người nhập cư ở khu vực đô thị. Mở rộng đối tượng được hỗ trợ mua thẻ BHYT nhằm đạt được mục tiêu BHYT toàn dân. Mở rộng đối tượng được nhận trợ cấp tiền mặt thường xuyên đến toàn bộ nhóm “nghèo lõi” ở đô thị và nhóm nghèo có con nhỏ. Có chính sách trợ cấp kịp thời cho nhóm gặp rủi ro dẫn đến đời sống khó khăn, bao gồm cả người nhập cư. Nâng mức trợ cấp tiền mặt để đạt được hiệu quả thực tế; đồng thời xây dựng cơ chế điều chỉnh kịp thời các mức hỗ trợ theo diễn biến giá cả. Xây dựng cơ chế chi trả thuận tiện và cơ chế tư vấn, giám sát trong các chương trình trợ cấp tiền mặt. Đồng thời, xây dựng cơ chế theo dõi, phản hồi về thực hiện các chính sách an sinh xã hội (thông qua các công cụ thẻ báo cáo công dân, kiểm toán xã hội, chất vấn công khai, phân tích ngân sách địa phương…).

6. Sửa đổi các chính sách hỗ trợ học nghề hiệu quả, dễ tiếp cận với lao động nghèo đô thị, như các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đào tạo nghề cho công nhân, chính sách hỗ trợ các hình thức vừa học vừa làm gắn với các cơ sở ngành nghề dân doanh, các hiệp hội doanh nghiệp tại đô thị (không nhất thiết chỉ gắn với các “trung tâm dạy nghề” chính thức). Tăng cường cung cấp thông tin hướng nghiệp khách quan, chuyên sâu cho nhóm học sinh tốt nghiệp THPT.

7. Xây dựng cơ chế cụ thể nhằm tăng cường sự tham gia và trao quyền, nhất là trong giáo dục và y tế. Kiểm soát chặt chẽ việc các nhà trường “vận động” cha mẹ phụ huynh đóng góp các khoản khác nhau, nhằm giảm chi phí giáo dục cho người nghèo đô thị.

8. Xây dựng các chính sách hiệu quả hơn nhằm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ, thúc đẩy trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, thúc đẩy chính thức hóa các hoạt động thuộc khu vực phi chính thức. Các chính sách này trong trung và dài hạn sẽ có tác dụng hỗ trợ người nghèo, người nhập cư giảm rủi ro về việc làm và tiếp cận tốt hơn với hệ thống an sinh xã hội.

GPXB số: 1415-2012/CXB/35/03-43/HĐ

Page 99: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế
Page 100: THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊ THEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIAoxfamblogs.org/vietnam/wp-content/uploads/2009/03/Urban-poverty... · Lời tựa I Thay mặt ActionAid Quốc tế

Báo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)Tháng 11 năm 2012

THEO DÕI NGHÈO ĐÔ THỊTHEO PHƯƠNG PHÁP CÙNG THAM GIA

Oxfam22 Lê Đại Hành, Hà NộiViệt NamĐT: 04 - 3 945 4362/ 04 - 3 945 4406Fax: 04 - 3 945 4365/ 04 - 3 945 4405Email: [email protected]

ActionAid VietnamTầng 2, tòa nhà HEAC14 - 16 Hàm Long, Hà Nội Việt NamĐT: 04 - 3943 9866Fax: 04 - 3943 9872Email: [email protected]

THE

O D

ÕI N

GH

ÈO

ĐÔ

THỊ TH

EO

PH

ƯƠ

NG

PH

ÁP

NG

THA

M G

IAB

áo cáo Tổng hợp 5 năm (2008 - 2012)

c A

AV-O

XFA

M-0

7121

2/A

MV