thị trường bán lẻ châu Á - khóa luận mẫu 10 điểm

142
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Châu Á đang nổi lên là châu lục phát triển năng động nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ luôn được ghi nhận thuộc vào những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Sự vươn lên mạnh mẽ của châu lục từng bị lãng quên này được thể hiện qua nhiều khía cạnh, trong đó sự phát triển của thị trường bán lẻ là một trong những bức tranh rõ nét nhất minh chứng cho thời kỳ đỉnh cao của châu Á. Thị trường châu Á trong thời đại hiện nay không chỉ đi theo những xu thế đã được tạo dựng trên thế giới mà dần thể hiện vị thế chủ động khi tạo ra những bước ngoặt trong lịch sử phát triển của nền kinh tế toàn cầu. Một trong những khuynh hướng nổi bật trong lĩnh vực thương mại toàn cầu trong thế kỷ 20 chính là sự mở rộng lãnh địa kinh doanh của các tập đoàn bán lẻ ra khỏi biên giới quốc gia. Và có thể nói rằng, sự kiện các tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Âu và Bắc Mỹ đặt chân vào thị trường châu Á là một cột mốc trong lịch sử thương mại thế giới. Thời kỳ trước những năm 1980, tầm ngắm của các nhà bán lẻ châu Âu chỉ dừng lại ở các quốc gia châu Âu khác. Một số lượng nhỏ chỉ bắt đầu 1

Upload: linh-chi-hoang

Post on 29-Jul-2015

212 views

Category:

Documents


2 download

TRANSCRIPT

Page 1: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Châu Á đang nổi lên là châu lục phát triển năng động nhất thế giới. Tốc độ

tăng trưởng kinh tế của các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ luôn được

ghi nhận thuộc vào những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới. Sự vươn lên

mạnh mẽ của châu lục từng bị lãng quên này được thể hiện qua nhiều khía cạnh,

trong đó sự phát triển của thị trường bán lẻ là một trong những bức tranh rõ nét

nhất minh chứng cho thời kỳ đỉnh cao của châu Á. Thị trường châu Á trong thời

đại hiện nay không chỉ đi theo những xu thế đã được tạo dựng trên thế giới mà

dần thể hiện vị thế chủ động khi tạo ra những bước ngoặt trong lịch sử phát triển

của nền kinh tế toàn cầu.

Một trong những khuynh hướng nổi bật trong lĩnh vực thương mại toàn

cầu trong thế kỷ 20 chính là sự mở rộng lãnh địa kinh doanh của các tập đoàn

bán lẻ ra khỏi biên giới quốc gia. Và có thể nói rằng, sự kiện các tập đoàn bán lẻ

hàng đầu châu Âu và Bắc Mỹ đặt chân vào thị trường châu Á là một cột mốc

trong lịch sử thương mại thế giới. Thời kỳ trước những năm 1980, tầm ngắm của

các nhà bán lẻ châu Âu chỉ dừng lại ở các quốc gia châu Âu khác. Một số lượng

nhỏ chỉ bắt đầu chú ý đến thị trường Bắc Mỹ và thành công của họ ở khu vực này

khá khiêm tốn. Tương tự, sự xâm chiếm của các doanh nghiệp bán lẻ đến từ Mỹ

hay Canada vào thị trường Châu Âu không mang lại kết quả thành công như

mong đợi. Chỉ đến khi các tập đoàn bán lẻ ở hai châu lục phát triển nhất thế giới

này bắt đầu tìm kiếm cơ hội và tiến đến thị trường châu Á, khái niệm toàn cầu

hóa khu vực bán lẻ mới thực sự bước sang một trang mới.

Thị trường bán lẻ Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung. Đây là

thị trường luôn được đánh giá cao và thường xuyên nhận được những dự báo khả

quan về mức độ cũng như tốc độ phát triển trong thời gian tới. Tuy nhiên, thị

trường bán lẻ vẫn đang ở giai đoạn đầu phát triển. Vì vậy, thị trường bán lẻ Việt

Nam vẫn rất cần những định hướng phát triển chi tiết, hợp lý.

1

Page 2: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Xuất phát từ thực tế đó, em chọn đề tài: “Thực trạng thị trường bán lẻ

châu Á và những kiến nghị đối với Việt Nam”.

2. Mục đích nghiên cứu

Thứ nhất, khái quát về mặt lý luận, phân tích những đặc điểm chính của

thị trường châu Á hiện nay cũng như những xu thế phát triển mới trong tương lai.

Một số thị trường tiêu biểu cũng được phân tích nhằm rút ra những bài học cho

những thị trường phát triển sau. Bên cạnh đó, khóa luận cũng đưa ra những đánh

giá về những tập đoàn bán lẻ lớn đến từ châu lục khác hay những tập đoàn bán lẻ

mạnh nhất châu Á thông qua việc tìm hiểu những yếu tố quyết định thành công

của những tập đoàn này.

Thứ hai, từ những phân tích đánh giá rút ra trên thị trường châu Á, rút ra

những kinh nghiệm cho sự phát triển của thị trường bán lẻ Việt Nam trong quá

trình quy hoạch, phát triển thị trường theo hướng hiện đại hóa.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của bài khóa luận là các hoạt động, xu hướng bán lẻ

đang diễn ra trên thị trường châu Á nói chung và thị trường bán lẻ Việt Nam nói

riêng. Đặc biệt trên thị trường Việt Nam, các nghiên cứu dành sự chú ý cho

những ảnh hưởng từ việc trở thành thành viên của WTO đến thị trường Việt

Nam.

Phạm vi nghiên cứu tập trung nhiều vào thị trường Đông Á và Đông Nam

Á, bao gồm 10 quốc gia ASEAN, Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Hàn

Quốc. Nghiên cứu của bài khóa luận không bao gồm Nhật Bản do thị trường bán

lẻ ở quốc gia này đã phát triển khá lâu và hiện nay đã được xếp vào một trong

những thị trường có dấu hiệu bão hòa.

4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở kết hợp các phương pháp

phân tích – tổng hợp, kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích, đánh giá nhằm rút

ra những bài học kinh nghiệm hợp lý.

2

Page 3: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

5. Kết cấu khóa luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục thuật ngữ viết tắt và tài liệu tham

khảo, nội dung của luận văn của em được chia làm ba phần:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về thị trường bán lẻ.

Chương 2: Thực trạng thị trường bán lẻ châu Á.

Chương 3: Thị trường bán lẻ Việt Nam và những kiến nghị nhằm phát

triển thị trường trong tương lai.

Trong quá trình hoàn thành luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự

hướng dẫn nhiệt tình cũng như những ý kiến đóng góp vô cùng quý giá của Thạc

sỹ Nguyễn Thị Xuân Hường. Em xin gửi tới cô lời cảm ơn chân thành và sâu

sắc nhất. Luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót do đề tài tương đối

rộng trong khi khuôn khổ của bài khóa luận lại hạn chế. Em rất mong nhận được

sự thông cảm và góp ý từ phía các thày cô và các bạn.

3

Page 4: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ

TRƯỜNG BÁN LẺ

I. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ PHÂN LOẠI THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ

1. Các khái niệm về bán lẻ

1.1 Thị trường bán lẻ

Thị trường bán lẻ: được hiểu là thị trường trên đó người bán (cá nhân hay

các công ty, gọi chung là nhà bán lẻ) bán sản phẩm trực tiếp đến người mua

(người tiêu dùng cuối cùng).

Dịch vụ bán lẻ: Theo tài liệu số MTN.GNS/W/120 được xây dựng trong

vòng đàm phán Urugoay dựa trên hệ thống phân loại sản phẩm của Liên Hợp

Quốc thì bán lẻ là một trong bốn nhóm dịch vụ chính của dịch vụ phân phối.

Dịch vụ phân phối được quy định bao gồm:

Dịch vụ đại lý hoa hồng

Dịch vụ bán buôn

Dịch vụ nhượng quyền thương mại

Dịch vụ bán lẻ

1.2 Nhà bán lẻ

1.2.1 Nhà bán lẻ:

Nhà bán lẻ là người bán sản phẩm (hàng hóa hay dịch vụ) đến khách hàng.

Khách hàng mua sản phẩm vì mục đích tiêu dùng của cá nhân hay gia đình mình.

Bán lẻ là khâu kinh doanh cuối cùng trong chuỗi phân phối hàng hóa/dịch vụ của

nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Nhà sản xuất tạo ra sản phẩm và phân phối đến

cho các nhà bán buôn. Nhà bán buôn lại phân phối sản phẩm nhận từ nhà sản

xuất đến các nhà bán lẻ khác. Cuối cùng, nhà bán lẻ sẽ bán lại sản phẩm đến

4

Page 5: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

người tiêu dùng. Trong chuỗi phân phối, nhà bán buôn có thể đồng thời hoạt

động như nhà bán lẻ và ngược lại.

1.2.2 Chức năng của nhà bán lẻ trên thị trường:

Tập hợp và cung cấp một chuỗi các loại hàng hóa/dịch vụ khác nhau

Nhà bán lẻ sẽ gom sản phẩm từ các nhà bán buôn và bán lại cho người

tiêu dùng. Sản phẩm mang các nhãn hiệu khác nhau với số lượng, chủng loại,

kích cỡ, màu sắc đa dạng. Tuy vậy, mỗi nhà bán lẻ thường tập trung vào một số

lĩnh vực nhất định.

Chia nhỏ sản phẩm

Nhà bán buôn phân phối sản phẩm theo từng lô hàng hay kiện hàng với số

lượng lớn. Nhà bán lẻ có nhiệm vụ chia nhỏ những sản phẩm này phục vụ nhu

cầu tiêu dùng cá nhân.

Lưu trữ hàng tồn kho

Một chức năng quan trọng của nhà bán lẻ là lưu trữ hàng hóa phục vụ nhu

cầu người tiêu dùng. Thông qua chức năng này, nhà bán lẻ giúp người tiêu dùng

giảm thiểu chi phí dự trữ hàng hóa. Khoản đầu tư cho việc dự trữ hàng hóa của

người tiêu dùng do đó có thể chuyển thành các khoản đầu tư khác mà người tiêu

dùng có thể hưởng lãi suất như khoản tiền gửi tiết kiệm.

Cung cấp dịch vụ hỗ trợ

Bên cạnh chức năng chính là bán hàng hóa, nhà bán lẻ còn cung cấp cho

khách hàng những dịch vụ khiến cho việc mua sắm của họ trở nên dễ dàng và

thuận lợi hơn như việc trưng bày một số mẫu thử sản phẩm mới cho khách hàng

dùng miễn phí hay ở một tầm cao là cho khách hàng vay tiền để mua hàng của họ

Với tất cả chức năng trên của mình, nhà bán lẻ đã thực hiện được nhiệm

vụ quan trọng nhất là làm gia tăng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà khách hàng

nhận được.

5

Page 6: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Từ những khía cạnh đã phân tích ở trên, chúng ta có thể định nghĩa hoạt

động bán lẻ là hoạt động kinh doanh làm gia tăng giá trị đối với hàng hóa hay

dịch vụ bán cho người tiêu dùng vì mục đích sử dụng của cá nhân hay gia đình.

Hoạt động bán lẻ không chỉ diễn ra trong các cửa hàng mà còn bao gồm các hoạt

động bán hàng qua điện thoại, qua mạng Internet, các dịch vụ chăm sóc, làm đẹp,

v.v.

2. Những đặc điểm của thị trường bán lẻ

Trên thị trường bán lẻ, hàng hóa được bán đến tay người tiêu dùng cuối

cùng. Người này mua hàng theo nhu cầu và sử dụng cho bản thân hay gia đình

mà không bán lại nhằm mục đích kinh doanh hay bất cứ mục đích sinh lời nào

khác. Đây được coi là đặc điểm cơ bản phân biệt thị trường bán lẻ với các thị

trường giao dịch hàng hóa khác.

Thị trường bán lẻ cung cấp hàng hóa với những chủng loại đa dạng, nhãn

hiệu và có thể phục vụ mọi đối tượng khách hàng sinh sống ở các vùng địa lý

khác nhau. Hàng hóa trên thị trường bán lẻ có thể được phân thành hai loại:

Nhóm các sản phẩm lương thực, thực phẩm và các loại hàng hóa liên quan

(food sector), bao gồm: lương thực (gạo, ngũ cốc, bột mì,…); thực phẩm (tươi

sống hay đã qua chế biến); đồ uống (rượu, bia, nước giải khát); .v.v.

Nhóm các sản phẩm phi thực phẩm (non-food sector), bao gồm: đồ điện tử

dân dụng hay gia dụng; hóa mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe hay sắc

đẹp; các sản phẩm thời trang: hàng dệt, may, da giày…; văn phòng phẩm;

sách báo; đồ chơi; máy tính và các phần mềm máy tính; .v.v.

3. Phân loại các loại hình thức bán lẻ trên thị trường

Cách phân chia cơ bản nhất và được sử dụng nhiều nhất khi phân tích hay

nghiên cứu thị trường bán lẻ là phân loại dựa vào mô hình kinh doanh. Theo đó

thị trường bán lẻ bao gồm hai hình thức kinh doanh chính:

6

Page 7: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

3.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống

Biểu đồ I.1: Phân loại hệ thống bán lẻ truyền thống

Trong các mô hình bán lẻ truyền thống, chợ là hình thức bán lẻ sơ khai

nhất, tồn tại từ khi loài người bắt đầu thoát khỏi thời kỳ tự cung tự cấp và bắt đầu

biết trao đổi những thứ mình sản xuất thừa, không dùng đến. Trong xã hội hiện

đại ngày nay chợ vẫn tồn tại ở các quốc gia phát triển nhất tới các quốc gia kém

phát triển.

3.2 Hệ thống bán lẻ hiện đại

Theo công ty nghiên cứu thị trường thuộc tập đoàn IBM (Hoa Kỳ) năm

2007, Euromonitor và Nielsen 2008, hệ thống kinh doanh bán lẻ hiện đại gồm

những mô hình chính sau:

3.2.1 Trung tâm mua sắm (department store)

Trung tâm mua sắm là một tổ hợp thương mại lớn bao gồm các gian hàng

bán lẻ hàng hóa hay cung cấp dịch vụ. Tất cả những gian hàng này được bố trí

dưới cùng một mái vòm, cung cấp đa dạng các chủng loại mặt hàng từ các mặt

hàng tiêu dùng thiết yếu tới các hàng hóa lâu bền, bao gồm: quần áo, sản phẩm

dệt may, giày dép, đồ điện tử, đồ chơi, nội thất, phần mềm máy tính, trang sức,

mỹ phẩm, dụng cụ thể thao, v.v. Trung tâm mua sắm lớn nhất trên thế giới hiện

7

Hệ thống bán lẻ truyền thống

ChợCác cửa hàng độc lập:

+ tiệm tạp hóa+ cửa hàng bán sỉ

Đại lý của nhà sản xuất, phân phối

Page 8: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

nay là trung tâm Shinsegae Centum City của tập đoàn Shinsegae (Hàn Quốc) đặt

tại thành phố Busan.

3.2.2 Đại siêu thị (hypermarket)

Đại siêu thị là các mô hình kinh doanh bán lẻ có quy mô lớn nhất với tổng

diện tích sàn vào khoảng 30.000 mét vuông. Số mặt hàng bày bán có thể lên tới

25.000. Các mặt hàng lương thực, thực phẩm chiếm từ một phần ba đến hai phần

ba tổng số sản phẩm bày bán. Tại các đại siêu thị, người tiêu dùng có thể mua

sắm các mặt hàng khác không nằm trong nhóm lương thực, thực phẩm như mỹ

phẩm, các sản phẩm chăm sóc sức khỏe.

3.2.3 Siêu thị (supermarket)

Siêu thị được xây dựng trên mô hình người mua sắm tự phục vụ. Diện tích

sàn của các siêu thị nằm trong khoảng từ 5.000 đến 30.000 mét vuông. Số loại

sản phẩm bày bán vào khoảng 15.000. Khoảng hai phần ba các sản phẩm bày bán

trong siêu thị là lương thực, thực phẩm. Thông thường các siêu thị còn cung cấp

thêm quầy đồ ăn sẵn và hiệu bánh mỳ.

3.2.4 Cửa hàng tiện ích (convenience store)

Các cửa hàng tiện ích là các mô hình cửa hàng bán lẻ quy mô nhỏ. Diện

tích mỗi cửa hàng thường dưới 3000 mét vuông, số các mặt hàng bày bán dưới

5000 loại. Các cửa hàng này thường mở ở những nơi giao thông thuận lợi, tập

trung dân số, giờ hoạt động thường muộn hơn các loại hình khác. Sản phẩm bày

bán chủ yếu là các mặt hàng tiêu dùng hàng ngày và giá cả thường cao hơn so

với hàng hóa trong siêu thị.

3.2.5 Cửa hàng giảm giá (discount store):

Là hệ thống các cửa hàng cho phép khách hàng tiếp cận với những chủng

loại hàng hóa giá rẻ, ở vị trí khá thuận lợi về giao thông. Đặc điểm của mô hình

kinh doanh này là chi phí mặt bằng thấp, số lượng nhân lực giới hạn, tiết kiệm

đầu tư vào marketing. Hàng hóa được trưng bày với số lượng khá đa dạng. Mỗi

thời điểm, cửa hàng sẽ giảm giá một số loại mặt hàng nhất định. Diện tích mỗi

8

Page 9: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

cửa hàng loại này thường từ 300 đến 1000 mét vuông sản. Mô hình kinh doanh

này có thể được tìm thấy ở những khu vực cho thuê diện tích sàn với giá rẻ hay

tầng hầm của các trung tâm mua sắm lớn.

3.2.6 Cửa hàng mỹ phẩm, sản phẩm chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp (drugstore)

Là các cửa hàng bán lẻ chuyên bán các loại thuốc (thường là thuốc bán

không cần kèm đơn thuốc) và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe như thực phẩm

chức năng,.. Ngoài ra, ở các cửa hàng loại này, người tiêu dùng có thể tìm thấy

các loại hàng hóa mỹ phẩm như dầu gội, sữa tắm, mỹ phẩm hay các sản phẩm

làm đẹp. Ở một số nơi, bánh kẹo và báo, tạp chí cũng được trưng bày để phục vụ

khách hàng.

Ngoài ra còn có một số cách phân loại khác, như:

Dựa vào cơ sở bán lẻ thì có hai hình thức bán lẻ là:

- Bán lẻ có cửa hàng (tại các siêu thị, chợ, cửa hàng tiện ích,…)

- Bán lẻ không có cửa hàng (bán hàng qua điện thoại, catalog, internet, qua

máy bán hàng tự động,.v.v)

Dựa vào loại hình sở hữu có ba hình thức bán lẻ (theo Retailing

management – Levy):

- Hình thức bán lẻ do tư nhân làm chủ

- Hình thức bán lẻ do công ty làm chủ

- Hình thức bán lẻ nhượng quyền

II. VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ

1. Thị trường bán lẻ đóng vai trò là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu

dùng

Hàng hóa sản xuất ra có thể được phân phối trực tiếp đến tay người tiêu

dùng hoặc thông qua các kênh trung gian. Hình thức phân phối qua trung gian

còn gọi là phân phối gián tiếp.

9

Page 10: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Trong nền sản xuất chuyên môn hóa hiện nay, kênh phân phối trực tiếp

ngày càng trở nên ít phổ biến do doanh nghiệp sản xuất phải dành một khoản đầu

tư tương đối lớn cho hoạt động phân phối. Hình thức này không thể phù hợp với

các doanh nghiệp quy mô vừa hoặc nhỏ. Trong khi đó, phương thức phân phối

hàng hóa gián tiếp lại thể hiện rõ ưu thế của mình. Bằng việc đưa hàng hóa do

doanh nghiệp mình sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng thông qua các

trung gian, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí và thời gian. Nhà bán lẻ

đóng vai trò là người trung gian cuối cùng trong khâu phân phối hàng hóa đến

tay người tiêu dùng. Tùy thuộc vào đặc điểm, tính chất của sản phẩm, quy mô

của doanh nghiệp sản xuất, nhà bán lẻ có thể đóng vai trò là trung gian duy nhất

hay là một trong các trung gian trong quá trình phân phối hàng hóa từ khi xuất

kho nhà sản xuất đến khi bán được cho người tiêu dùng cuối cùng.

2. Thị trường bán lẻ giúp cung cấp thông tin từ người tiêu dùng đến nhà sản

xuất và ngược lại

Trên thị trường bán lẻ, người bán và người mua có mối quan hệ trực tiếp.

Họ gặp gỡ và giao dịch với nhau. Nhờ đó, người bán lẻ thu được những thông tin

sơ cấp về khách hàng của mình. Nhà bán lẻ có cơ hội tìm hiểu và nghiên cứu

những nhu cầu của người tiêu dùng qua đó tìm cách đáp ứng được những nhu cầu

đó. Thông qua việc bán hàng đến người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán lẻ có thể

thu thập được những phản hồi của khách hàng về chất lượng sản phẩm, mẫu mã,

bao bì đóng gói,… Từ đó họ có thể truyền tải đến người sản xuất

Trong quá trình tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng, nhà bán

lẻ hoàn toàn có khả năng tìm hiểu những nhu cầu có thể xuất hiện trong tương lai

và giúp nhà sản xuất bắt kịp được những xu hướng thị trường để lên chiến lược

mở rộng sản xuất.

Ngược lại, nhà sản xuất cũng có thể thông qua thị trường bán lẻ để nghiên

cứu thái độ của thị trường khi đón nhận một sản phẩm hay kế hoạch sản xuất mới

trong tương lai.

10

Page 11: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Tóm lại, thông tin chính là chìa khóa dẫn đến thành công cho bất cứ doanh

nghiệp trong bất cứ ngành nào. Và nhờ vào những thông tin trên thị trường bán

lẻ, nhà sản xuất có thể điều chỉnh kế hoạch sản xuất, cải tiến sản phẩm theo

hướng thỏa mãn tối đa thị hiếu người tiêu dùng. Người tiêu dùng, nhờ vào việc

nghiên cứu những biến động trên thị trường cũng có thể điều chỉnh hành vi mua

sắm của mình theo hướng có lợi nhất với chi phí thấp nhất và tiết kiệm được thời

gian.

3. Thị trường bán lẻ phản ánh tình hình sản xuất, kinh doanh và mức sống

của người dân trong một quốc gia

Sự tồn tại của thị trường bán lẻ là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và

phát triển của các ngành sản xuất trong xã hội. Mục đích của bất cứ ngành sản

xuất nào là tạo ra sản phẩm và bán đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy, sự

hoạt động của thị trường bán lẻ tạo điều kiện cho các ngành sản xuất, kinh doanh

tồn tại và hoạt động bình thường.

Thị trường bán lẻ không chỉ giải quyết đầu ra, tiêu thụ sản phẩm cho quá

trình sản xuất mà còn làm gia tăng GDP của quốc gia. Doanh thu bán lẻ trên mỗi

thị trường thể hiện sức khỏe của một nền kinh tế: quy mô, tình hình phát triển

hay những xu hướng trong nền kinh tế đất nước đó. Bên cạnh đó, những chuyển

dịch trên thị trường bán lẻ còn cho thấy sự thay đổi trong mức sống của người

dân. Thị trường bán lẻ tăng trưởng tốt đồng nghĩa với thu nhập trung bình của

người dân quốc gia đó đang tăng lên, sức mua cải thiện, chất lượng đời sống

nâng cao. Ngoài ra, bán lẻ cũng là khu vực thu hút lực lượng lao động lớn, góp

phần tạo ra công ăn việc làm cho một tỷ lệ lớn người lao động trên thế giới.

4. Thị trường bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã

hội

Bốn khâu trong quá trình tái sản xuất xã hội gồm: sản xuất – phân phối –

trao đổi – tiêu dùng. Thị trường bán lẻ là khâu trung gian giữa sản xuất và tiêu

11

Page 12: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

dùng. Do đó nó đảm bảo một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất trên.

Không có các hoạt động của thị trường bán lẻ thì quá trình tái sản xuất không thể

diễn ra được do đó không thể mở rộng phát triển nền kinh tế.

12

Page 13: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ

CHÂU Á

I. CÁC XU THẾ NỔI BẬT TRÊN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á HIỆN

NAY

1. Hệ thống bán lẻ hiện đại dần thay thế các cửa hàng truyền thống

1.1 Thay đổi trong hành vi tiêu dùng của người dân châu Á

Sự phát triển của hệ thống bán lẻ hiện đại xuất phát từ những thay đổi sâu

sắc trong xã hội các quốc gia châu Á.

Thứ nhất, thu nhập trung bình của châu lục này đã tăng lên một cách đáng

kể kéo theo sự xuất hiện của tầng lớp trung lưu và thượng lưu với số lượng ngày

càng lớn.

Thứ hai, và cũng là nguyên nhân quan trọng hơn cả chính là sự thay đổi về

vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Nếu những năm đầu của thế kỷ 20, tỷ lệ

phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động trên cả châu Á chưa đến 20% thì trong

thập kỷ đầu của thế kỷ 21, số lượng phụ nữ làm việc đã xấp xỉ số lượng nam giới.

Ở một số nước Đông Á như Hàn Quốc, Đài Loan, … trung bình tỷ lệ nữ giới trên

nam giới trong lực lượng lao động là khoảng 91-93/100. Chính vì sự thay đổi

mang tính cách mạng đó, xu hướng tiêu dùng trong xã hội châu Á cũng thay đổi

mạnh mẽ. Khi ngày càng nhiều phụ nữ đi làm, họ có khuynh hướng tiết kiệm thời

gian mua sắm và nấu nướng của mình. Do vậy, những thực phẩm đã qua chế biến

ngày càng trở nên phổ biến.

Bên cạnh đó, việc sử dụng rộng rãi của tủ lạnh và các dụng cụ điện tử hiện

đại khác trong gia đình cho phép người dân có thể đi chợ hàng tuần, thay vì hàng

ngày như thời kỳ trước đây. Hơn nữa, do sự phát triển của các phương tiện cá

nhân và hệ thống đường xá, cơ sở hạ tầng được xây dựng và nâng cấp đã tạo điều

13

Page 14: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

kiện cho người tiêu dùng, đặc biệt là phụ nữ có thể lựa chọn mua sắm ở các khu

vực xa trung tâm với số lượng hàng hóa mua sắm lớn hơn nhiều lần.

Theo các bản nghiên cứu thị trường của Nielsen được tiến hành vào năm

2008 và 2009, người dân ở hầu hết các đô thị lớn của các quốc gia châu Á

thường đi mua hàng ở các đại siêu thị trung bình hai đến ba lần/tháng. Mục đích

mua sắm của họ thường phục vụ cho việc dự trữ thực phẩm, mua lương thực sử

dụng hàng ngày hay các đồ dùng, sản phẩm chăm sóc sức khỏe. Theo Nielsen

2009, Hàn Quốc nơi 96% dân cư thành thị đến siêu thị mua sắm hàng tháng giữ

tỷ lệ cao nhất so với các quốc gia châu Á còn lại.

Một nguyên nhân khác tạo nên sự thay đổi trong thói quen mua sắm của

người châu Á xuất phát từ chính sự điều chỉnh của các mô hình bán lẻ hiện đại.

Người châu Á, khác với người phương Tây, vốn có thói quen sử dụng những

thực phẩm tươi sống nên mô hình bán lẻ truyền thống như chợ từ lâu đã trở thành

một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân ở đây. Nhận thức được

điều đó, các siêu thị và đại siêu thị đã dần dần giới thiệu và xây dựng các quầy

bán hàng tươi sống như thịt gia súc, gia cầm, rau xanh để đáp ứng thị hiếu tiêu

dùng ở châu lục này. Hiện nay, cũng theo Nielsen, tỷ lệ người dân Trung Quốc

mua thực phẩm tươi sống từ chuỗi các đại siêu thị đang đứng đầu toàn châu Á

khi mô hình bán lẻ này được chọn là địa điểm mua sắm thường xuyên hàng tươi

sống cho hơn 60% người dân Trung Quốc hiện đang sinh sống ở các đô thị

(Nielsen 2009).

1.2 Sự xuất hiện và phát triển của các mô hình bán lẻ hiện đại

1.2.1 Lịch sử ra đời của các cửa hàng bán lẻ hiện đại

Tuy thói quen tiêu dùng của người châu Á chỉ thay đổi mạnh từ khoảng

nửa sau thế kỷ 20 nhưng trên thực tế, mô hình các cửa hàng mua sắm hiện đại đã

xuất hiện ở Trung Quốc từ đầu thế kỷ 20. Cửa hiệu mua sắm đầu tiên này được

xây dựng theo ý tưởng của một thương nhân Trung Quốc sống ở Australia. Một

14

Page 15: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

số cửa hàng mua sắm hiện đại như Wing On và Sincere ở Thượng Hải mở cửa từ

trước năm 1949 vẫn duy trì hoạt động đến thời điểm này. Các trung tâm mua sắm

hiện đại bắt đầu được xây dựng với số lượng lớn trên khắp châu lục vào khoảng

những năm 1980 và bùng nổ vào khoảng những năm 1990 của thế kỷ trước.

Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại xuất hiện ở châu Á ngày một tăng.

Đặc biệt, cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập, các nền kinh tế châu Á đã

và đang đón nhận những làn sóng đầu tư nước ngoài mạnh mẽ vào khu vực bán

lẻ hiện đại. Trong ba mô hình kinh doanh bán lẻ hiện đại là đại siêu thị, siêu thị

và cửa hàng tiện ích thì mô hình thứ ba được ghi nhận là tăng trưởng mạnh nhất

trong những năm vừa qua và được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trong tương lai gần.

1.2.2 Vị trí của hệ thống bán lẻ hiện đại trên thị trường hiện nay

Hệ thống bán lẻ hiện đại ngày một thể hiện ưu thế vượt trội so với hệ

thống bán lẻ truyền thống. Tính đến thời điểm tháng 3 năm 2009, theo Nielsen

2009, số lượng các cửa hàng bán lẻ hàng tiêu dùng truyền thống trên khắp châu

Á chỉ tăng 1% lên khoảng hơn 12.3 triệu. Số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại

tăng đến 16% trong năm 2009. Tốc độ tăng trưởng về số lượng chuỗi cửa hàng

bán lẻ truyền thống và hiện đại ở một số quốc gia được thể hiện trong bảng sau:

QUỐC GIA

HỆ THỐNG BÁN LẺ

TRUYỀN THỐNG

HỆ THỐNG BÁN LẺ

HIỆN ĐẠI

Hàn Quốc -10 +7

Đài Loan -9,5 0

Trung Quốc -4 +13

Ấn Độ +5 +18

Singapore -6 +1

Malaysia +3 +5

Bảng II.1: Tốc độ tăng trưởng số lượng các cửa hàng bán lẻ (%) 2007 – 2008

Nguồn: Nielsen 2009

15

Page 16: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thị phần hệ thống bán lẻ hiện đại giành được cũng không ngừng tăng lên.

Tính đến hết năm 2007, hệ thống bán lẻ hiện đại đã giành thị phần lớn hơn các

loại hình bán lẻ truyền thống. Cụ thể ở một số nước châu Á: ở Hàn Quốc, thị

phần của hệ thống bán lẻ truyền thống giảm xuống từ 15.9% trong năm 2008

xuống chỉ còn 13.9% năm 2009 trong khi đó ở Đài Loan, hệ thống này chỉ nắm

giữ hơn 6% thị phần. Biểu đồ sau cho thấy sự thay đổi về thị phần của hai mô

hình bán lẻ truyền thống và hiện đại trên khắp châu Á nói chung.

2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008

35 39 41 44 46 48 50 52 53

65 61 59 56 54 52 50 48 47

Hệ thống bán lẻ hiện đại Hệ thống bán lẻ truyền thống

Biểu đồ II.1: Thị phần (%) của hệ thống bán lẻ truyền thống và hiện đại ở

Châu Á (trừ Nhật Bản)

Nguồn: Nielsen 2009

2. Sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu Âu Mỹ

ngày càng lớn

2.1 Tình hình mở rộng của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu ra khắp châu Á

Châu Á vươn lên là khu vực phát triển nhanh nhất và năng động nhất thế

giới. Khu vực này ngày càng thu hút được sự chú ý của các nhà đầu tư nước

ngoài, đặt biệt là các nền kinh tế được coi là những con rồng châu Á (Hàn Quốc,

Singapo, Đài Loan, Hồng Kông). Ngành công nghiệp bán lẻ châu Á trong những

năm gần đây luôn phát triển với tốc độ nhanh hơn tốc độ phát triển trung bình

16

Page 17: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

của ngành bán lẻ toàn cầu và thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ. Thị

trường châu Á thực sự chứng kiến sự đổ bộ của những nhà bán lẻ toàn cầu vào

những năm 1980 khi tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Pháp là Carrefour bắt đầu hiện

diện ở Đài Loan. Đặc biệt từ khi chính phủ Trung Quốc bắt đầu nới lỏng những

quy định hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thương mại bán lẻ, thị trường

Châu Á liên tục đánh dấu sự có mặt của những đại gia bán lẻ hàng đầu thế giới.

Tính đến thời điểm hiện tại, cả năm tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới (xét về quy

mô doanh số) là: Wal-mart (Hoa Kỳ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Metro và

Schwarz (Đức) đều đã hoạt động ở Châu Á.

Vào những năm 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, các

nước Đông Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore luôn là

những đích ngắm hấp dẫn nhất đối với các nhà bán lẻ thế giới. Sau sự xuất hiện

của Carrefour, Trung Quốc tiếp tục là điểm đến của Wal-mart và trở thành thị

trường chính của tập đoàn bán lẻ này ở châu Á.

Sang đến những năm đầu của thế kỷ 21, xu hướng đầu tư vào Trung Quốc

vẫn tiếp tục duy trì và phát triển. Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ toàn cầu đã bắt đầu

chuyển hướng sang một số thị trường mới nổi khác: các tiểu vương quốc Ả rập

thống nhất, Ấn Độ và các nước Đông Nam Á (ASEAN). Các tiểu vương quốc Ả

Rập thống nhất với thu nhập quốc dân tính trên đầu người được xếp vào loại cao

trên thế giới và các chính sách thương mại ngày càng được điều chỉnh theo

hướng mở cửa đã thu hút một số lượng không nhỏ các nhà bán lẻ phương Tây,

đặc biệt là về lĩnh vực bán lẻ các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ. Các tập đoàn bán lẻ từ

châu Âu và Bắc Mỹ cũng ngày càng chú trọng hơn đến thị trường Đông Nam Á

đầy tiềm năng. Khu vực này được coi là một trong những khu vực năng động

nhất trong châu lục và nhanh chóng phục hồi sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu

năm 2008. Tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới là Wal-mart hiện đã lên kế hoạch

xâm nhập thị trường này trong khoảng thời gian 5 năm tới.

17

Page 18: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

2.2 Lợi thế của các tập đoàn lớn từ Âu, Mỹ

2.2.1 Tài chính

Các tập đoàn bán lẻ lớn nhất của thế giới hiện diện trên thị trường châu Á

đều có lợi thế vượt trội về vốn. Chỉ tính riêng 4 đại gia đứng đầu danh sách 250

nhà bán lẻ toàn cầu là Wal-mart, Carrefour, Metro và Tesco đã có tổng doanh thu

vào khoảng gần 730 tỷ đô la trong năm 2008 với lợi nhuận thuần khoảng 20,6 tỷ

đô. Chỉ riêng Wal-mart đã có doanh thu bán lẻ năm 2008 là hơn 407 tỷ đô la.

Trong khi đó, tập đoàn bán lẻ AS Watson của Hồng Kông là tập đoàn bán lẻ

đứng đầu châu Á xét về quy mô doanh số thu được từ hoạt động bán lẻ cũng chỉ

đạt 15 tỷ đô la (Deloitte 2010, tr.13). Bên cạnh lợi thế vượt trội về mặt tài chính,

các tập đoàn bán lẻ toàn cầu này còn sở hữu hàng chục năm kinh nghiệm hoạt

động trên thị trường quốc tế. Đây là điểm mà phần lớn nhà bán lẻ châu Á chưa có

được.

Tài chính và kinh nghiệm là những lợi thế cạnh tranh ban đầu mà những

đại gia bán lẻ trên thế giới sở hữu khi thâm nhập vào thị trường châu Á. Nguồn

vốn khổng lồ là điều kiện ban đầu giúp các tập đoàn bán lẻ này xây dựng các

chiến lược thôn tính các thị trường châu Á. Tiềm lực tài chính hùng hậu cho phép

những tập đoàn này có thể xác định thua lỗ từ 5 đến 7 năm, thậm chí là 10 năm

khi bắt đầu hoạt động ở một thị trường mới. Bên cạnh đó, nguồn vốn khổng lồ

giúp các tập đoàn này có thể đầu tư lớn vào các hoạt động marketing xúc tiến bán

hàng, đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao do có khả năng chi trả những

mức lương hết sức cạnh tranh và xây dựng các chương trình chăm sóc khách

hàng thực sự hấp dẫn. Nguồn lực tài chính còn cho phép các tập đoàn bán lẻ này

ứng dụng những công nghệ quản lý hàng đầu, tăng hiệu quả hoạt động. Công

nghệ hiện đại chính là lợi thế vượt trội thứ hai giúp các tập đoàn này thành công

trên thị trường châu Á.

18

Page 19: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

2.2.2 Công nghệ

Công nghệ, cùng với kinh nghiệm quản lý tiên tiến chính là bí quyết dẫn

đến thành công của các nhà bán lẻ đến từ châu Âu và Bắc Mỹ khi mở rộng địa

bàn hoạt động sang các quốc gia châu Á. Hầu hết các nhà bán lẻ, đặc biệt trong

lĩnh vực kinh doanh thời trang, đều tiến hành việc thu thập thông tin trực tiếp

ngay từ điểm bán hàng. Thông tin này ngay sau đó sẽ được nhà bán lẻ tổng hợp

và xử lý và trao đổi với chính với những nhà cung cấp sản phẩm. Các kế hoạch

sản xuất cũng như xử lý hàng tồn kho nhanh chóng được xây dựng. CPRF - một

hệ thống tân tiến được nhiều nhà bán lẻ phương Tây lựa chọn, trong đó có công

ty thời trang Zara đến từ Tây Ban Nha cho phép nhà bán lẻ hợp tác với nhà cung

ứng đưa ra những dự báo và thử nghiệm tính khả thi trước khi áp dụng.

Một công nghệ hiện đại khác được nhiều tập đoàn hàng đầu như Wal-mart

(Mỹ) hay Metro (Đức) sử dụng là RFID. Đây là một hệ thống nhận dạng tự động

từ xa được tập đoàn bán lẻ lớn nhất thế giới này áp dụng từ năm 2006. Mọi kiện

hàng phân phối đến các trung tâm bán lẻ của Wal-mart trên khắp thế giới đều

được gắn một con chip máy tính siêu nhỏ. Con chip này cho phép truyền tải mọi

thông tin về lô hàng và từng sản phẩm trong lô hàng đến với các máy tính chủ.

Việc gắn chip này không tốn nhiều chi phí, tiết kiệm sức lao động và đặc biệt có

thể chống trộm cướp, phát hiện hàng bị hư hỏng hay những thiếu sót trong quá

trình vận chuyển.

Trong công tác quản lý khách hàng, rất nhiều nhà bán lẻ phương Tây đã

áp dụng hệ thống CRM. Hệ thống hiện đại hỗ trợ hiệu quả cho các doanh nghiệp

trong việc đưa ra các chiến lược, chương trình hướng tới đội ngũ khách hàng

thân thiết, một nguồn mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp trong bất cứ hoàn

cảnh nào. Ưu điểm của hệ thống này là nó thích hợp với mọi loại hình kinh

doanh, từ các hàng bán đồ ăn nhanh bình dân tới các trung tâm thương mại xa xỉ.

Ngoài ra, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu liên tục lắp đặt các thiết bị ngay

trong các khu bán hàng của mình để hỗ trợ khách hàng và nhân viên. Ở một số

địa điểm bán hàng tại châu Á, Metro đã lắp đặt những máy scan tinh vi cho phép

19

Page 20: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

khách hàng thanh toán không cần sự có mặt của nhân viên thu ngân và tiết kiệm

thời gian chờ đợi trong những thời điểm quá đông khách đến mua sắm. Sắp tới,

tập đoàn bán lẻ lớn nhất của Đức này đang lên kế hoạch sẽ thử nghiệm hỗ trợ

khách hàng trong khi mua sắm bằng cách cung cấp cho họ một máy tính nhỏ

giúp họ nhanh chóng tìm được mặt hàng cần mua và nơi đặt món hàng đó.

2.3 Sự hiện diện của một số tập đoàn bán lẻ Âu Mỹ lớn nhất tại châu Á

2.3.1 Carrefour

Người khổng lồ đến từ Pháp Carrefour là tập đoàn bán lẻ phương Tây đầu

tiên thâm nhập thị trường châu Á. Vào năm 1989, tập đoàn này đã bắt tay với

một công ty cổ phần của Đài Loan là Uni President Enterprises Corporation. Sau

khi gặt hái được những kinh nghiệm từ các hoạt động kinh doanh ở thị trường

Đài Loan, Carrefour nhanh chóng mở rộng phạm vi sang các quốc gia châu Á

khác, bao gồm các quốc gia tiểu vương quốc Ả Rập và một số nước Nam Á như

Pakistan (Wikipedia 2010).

Năm 2007 đánh dấu một cột mốc trong lịch sử phát triển của đại gia bán lẻ

lớn thứ hai thế giới này ở châu Á khi tập đoàn cho ra đời 36 đại siêu thị ở châu

lục này. Tính riêng ở Trung Quốc con số đại siêu thị được xây dựng trong năm

2007 đã là 22. Đây là số lượng lớn chưa từng thấy trong một năm (Wikipedia

2010).

Nhân tố dẫn đến thành công của nhà bán lẻ này khi mở rộng hoạt động

sang các nước khác nói chung và châu Á nói riêng chính là ở cách quản lý linh

hoạt và đặc biệt là việc phân cấp quản lý theo đó cho phép người lãnh đạo trên

mỗi thị trường được toàn quyền ra những quyết định liên quan tới việc điều chỉnh

kế hoạch kinh doanh sao cho phù hợp với tập quán và truyền thống của từng thị

trường cụ thể. Vì vậy, thành công của Carrefour trên thị trường châu Á theo như

quản lý tập đoàn này tổng kết là do họ đã thích nghi được với tình hình đặc trưng

của châu lục. Carrefour theo đuổi chiến lược kinh doanh với các mô hình bán lẻ

vô cùng phong phú, từ các đại siêu thị đến các cửa hàng tiện ích. Bằng cách đa

20

Page 21: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

dạng hóa hệ thống cửa hàng bán lẻ của mình, Carrefour đã tận dụng được tính

kinh tế của chi phí bằng việc chia xẻ chi phí cho các hoạt động hậu cần,

marketing, nghiên cứu,… giữa các mô hình kinh doanh khác nhau.

2.3.2 Wal-mart

Tập đoàn bán lẻ có trụ sở đặt tại bang Arkansas (Hoa Kỳ) này là nhà bán

lẻ lớn nhất thế giới với doanh thu hàng năm lên tới 400 tỷ đô la Mỹ. Số lượng lao

động làm việc cho Wal-mart gần 2 triệu người (tính đến hết năm 2008), trong đó

có đến 500.000 lao động ở các thị trường ngoài nước Mỹ. Thông qua hơn 2500

cửa hàng của mình ở nước ngoài, Wal-mart phục vụ cho khoảng hơn 140 triệu

khách hàng mỗi tuần (Wal-mart Corporate 2010).

Trên thị trường châu Á, người khổng lồ này tập trung chính vào hai thị

trường là Nhật Bản và Trung Quốc. Wal-mart bắt đầu kinh doanh trên thị trường

quốc gia đông dân nhất thế giới vào năm 1996. Liên tục sau đó, tập đoàn này mở

thêm các cửa hàng bán lẻ của mình ở Hàn Quốc (1997) và Nhật Bản (2002). Và

chỉ sau 10 năm, nhà bán lẻ này đã có hơn 50 trung tâm bán lẻ (supercenter) chỉ

tính trên thị trường Trung Quốc. Cùng trong năm 2006, Wal-mart đã thành công

trong việc mua lại tập đoàn bán lẻ lớn nhất ở Trung Quốc vào thời điểm đó là

Trust-Mart và trở thành nhà bán lẻ số một trên thị trường này. Các trung tâm bán

lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc trưng bày và bán hơn 20.000 chủng loại sản

phẩm, bao gồm cả đồ điện tử, thiết bị gia dụng bên cạnh các loại lương thực, thực

phẩm khác (Wal-mart Corporate 2010). Thành công của nhà bán lẻ trên thị

trường có sức mua lớn nhất toàn cầu này là đã biết kết hợp những ưu điểm của

mô hình kinh doanh siêu thị và các khu trung tâm mua sắm. Loại hình trung tâm

bán lẻ của Wal-mart ở Trung Quốc tạo cho khách hàng sự thuận lợi trong việc

mua sắm hàng hóa tiêu dùng hàng ngày cũng như những thiết bị lâu bền sử dụng

trong gia đình chỉ với việc đi đến một địa điểm trong cùng một khoảng thời gian.

Các trung tâm bán lẻ này còn giúp Wal-mart tiết kiệm được chi phí nhân công

một cách đáng kể. Thay vì phải thuê số lượng lao động tương ứng với một siêu

thị và một trung tâm mua sắm, bằng việc thiết lập các trung tâm bán lẻ, số lượng

21

Page 22: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

nhân viên chỉ cần một phần hai trong khi doanh số vẫn được duy trì ngang với

việc mở cả hai loại hình kể trên.

Một trong những bí quyết thành công của Wal-mart khi mở rộng hoạt

động ra toàn cầu chính là việc áp dụng công nghệ cao, đặt biệt là RFID như đã

phân tích ở trên. Nhà bán lẻ này đã chọn chính châu Á để thử nghiệm cho tính

khả dụng của công nghệ này và ngay lập tức đã gặt hái được kết quả tốt đẹp. Bên

cạnh đó, thành công của Wal-mart ở châu Á đạt được còn là nhờ vào chiến lược

xây dựng niềm tin từ các nhà sản xuất bằng việc thu hút họ vào các sáng kiến

hoạt động quy mô lớn. Nhà bán lẻ này bỏ rất nhiều công sức lựa chọn một chuỗi

những nhà sản xuất và giữ quan hệ lâu bền và tốt đẹp với họ. Do đó, tập đoàn này

luôn đảm bảo nguồn hàng hóa giá rẻ nhất trên thị trường. Ở thị trường châu Á

nơi đa số người dân còn quan tâm nhiều hơn đến giá cả hàng hóa, lợi thế về giá

của Wal-mart gần như không tập đoàn nào có thể cạnh tranh được.

2.3.3 Tesco

Tesco là tập đoàn bán lẻ nằm trong top 5 nhà bán lẻ lớn nhất thế giới năm

2009 dựa trên doanh số bán lẻ đồng thời là nhà bán lẻ lớn nhất ở Anh Quốc.

Tesco bắt đầu xâm nhập thị trường châu Á vào cuối những năm 1980,

hiện nay tập đoàn này đã trở thành một trong những nhà bán lẻ phương Tây lớn

nhất trên thị trường châu lục này, là đối thủ cạnh tranh chính của Carrefour và

Walmart. Sự phát triển của Tesco ở châu Á có thể thấy qua một số biểu đồ sau:

Biểu đồ II.2: Số lượng các cơ sở bán lẻ và doanh thu của Tesco trên thị

trường châu Á 2000-2008

Nguồn: Tesco 2008, tr.17-21

Có thể thấy qua hai biểu đồ trên, quy mô hoạt động kinh doanh của Tesco

ở châu Á không ngừng tăng lên. Tesco hiện đã giành được lợi thế cạnh tranh trên

hai thị trường lớn nhất ở châu Á là Trung Quốc và Ấn Độ. Để có được thành

công trên thị trường châu Á, Tesco đã theo đuổi chiến lược kinh doanh linh hoạt.

Tập đoàn này không chỉ tập trung vào hình thức đại siêu thị như ở khu vực Tây

22

Page 23: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Âu

còn đa dạng hóa các mô hình kinh doanh khác, đặc biệt là các siêu thị, siêu thị

nhỏ, cửa hàng tiện ích. Các hệ thống trung tâm bán lẻ của Tesco như Home plus

hay Homever đã trở nên phổ biến cả ở các thành phố, trung tâm mua sắm mới và

về cả vùng nông thôn.

Đặc biệt, sự thành công của Tesco nằm ở chiến lược kinh doanh lấy khách

hàng bản địa là trung tâm, đặc biệt chú ý việc đáp ứng những nhu cầu mới xuất

hiện của người dân châu Á. Điều khác biệt mà tập đoàn này đang cố gắng tạo

dựng cho mình là trở thành nhà bán lẻ đầu tiên phát hiện và tìm cách thỏa mãn

thị hiếu khách hàng. Bên cạnh đó, nhà bán lẻ này cũng ngày một chú trọng hơn

vào các hoạt động vì lợi ích cộng đồng, gây dựng được hình ảnh một công ty

nước ngoài kinh doanh có trách nhiệm trên mỗi thị trường mà Tesco có mặt.

3. Một số công ty bán lẻ gốc Châu Á không ngừng mở rộng phạm vi kinh

doanh vượt khỏi biên giới quốc gia, khu vực

23

2000 2004 20080

100

200

300

400

500

600

700

800

900

1000

0

1000

2000

3000

4000

5000

6000

7000

26

200

885

437

2847

5988

số lượng các cơ sở bán lẻ doanh số

triệ

u Eu

ro

Page 24: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Trong bảng xếp hạng những nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hàng năm đều

xuất hiện những tên tuổi của các nhà bán lẻ châu Á. Những nhà bán lẻ châu Á

này không những thành công trong việc giữ vững thị phần trên thị trường nội địa

trước sự xâm nhập ngày càng mạnh mẽ của các tập đoàn Âu Mỹ mà còn ngày

càng mở rộng sang các thị trường trong cùng khu vực, thậm chí sang cả những

thị trường vốn là sân nhà của các tập đoàn hàng đầu thế giới. Một số tên tuổi tiêu

biểu có thể kể đến tập đoàn Lotte, Shinsegae của Hàn Quốc; Dailian, Bailian,

Gome Home Aplliance của Trung Quốc;… Trong khuôn khổ có hạn của một bài

khóa luận, tôi xin được đưa ra phân tích hai tập đoàn bán lẻ của châu Á hiện đang

rất thành công và liên tục có mặt trên những bảng xếp hạng những nhà bán lẻ lớn

nhất thế giới: AS Watson và Dairy Farm.

3.1 AS Watson

Chuỗi cửa hàng bán lẻ hàng mỹ phẩm và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe

Watson là một nhãn hiệu bán lẻ hàng đầu ở châu Á. Tiền thân của chuỗi cửa

hàng này là một cửa hiệu chuyên cung cấp thuốc cho người nghèo ở tỉnh Quảng

Đông, Trung Quốc từ năm 1828. Sau khi trải qua một số thay đổi về mô hình

hoạt động và chủ doanh nghiệp, năm 1871, một loạt hiệu thuốc mang tên Watson

ra đời. Hiện nay, chủ sỡ hữu của hệ thống các cửa hàng bán lẻ Watson là tập

đoàn Hutchinson có trụ sở chính ở Hồng Kông.

Từ năm 2005 đến nay, tập đoàn này đã từng giữ vị trí số 1 trong lĩnh vực

bán lẻ thuốc, mỹ phẩm và các sản phẩm bảo vệ sức khỏe. Theo nghiên cứu của

tập đoàn, mỗi tuần nhà bán lẻ này phục vụ hơn 25 triệu khách hàng trên khắp thế

giới. Hiện tập đoàn này đã hoạt động ở 34 quốc gia với hơn 87.000 lao động. 10

thị trường châu Á của tập đoàn này bao gồm: Trung Quốc, Ấn Độ, Hồng Kông,

Đài Loan, Macau, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philipin và Hàn Quốc. Chỉ tính

riêng ở Hồng Kông, tính đến hết năm 2009, Watson đã mở cửa 150 cửa hàng và

thuê đến 2000 nhân viên. Kế hoạch trong 2 năm tới (2010 và 2011), Watson dự

24

Page 25: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

định nâng số lượng cửa hàng của mình ở Trung Quốc lên 1000 và số lượng cửa

hàng bán lẻ toàn cầu lên 10000 (AS Watson Group 2009).

Phương châm kinh doanh của Watson là mang đến cho khách hàng trên

khắp thế giới những dịch vụ tư vấn chuyên nghiệp, những kinh nghiệm mua sắm

thú vị và cam kết đem đến cho khách hàng của mình giá trị lớn nhất mỗi ngày.

Các sản phẩm bày bán trong chuỗi các cửa hàng Watson có mức độ cá biệt hóa

cao với chất lượng được chuẩn hóa và đảm bảo tối đa. Ngoài mặt hàng chính là

thuốc và các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, nhà bán lẻ khổng lồ Watson còn mở

rộng kinh doanh bằng việc mở một số siêu thị chuyên bán buôn và phân phối đồ

uống: nước ngọt, rượu, bia và một số sản phẩm trà. Các cửa hàng trưng bày của

Watson cũng luôn được chú trọng về tính thẩm mỹ, và góp phần quan trọng trong

việc thu hút khách hàng.

3.2 Dairy Farm

Dairy Farm là một công ty đa quốc gia, thành viên của tập đoàn Jardine

Matheson. Nhà bán lẻ này được xếp thứ 128 trên bảng xếp hạng 250 nhà bán lẻ

toàn cầu. Lịch sử của Dairy Farm bắt đầu từ thế kỷ 19 tại Hồng Kông. Khi mới ra

đời, lĩnh vực kinh doanh chính của Dairy Farm là các sản phẩm liên quan tới sữa.

Cùng với thời gian, Dairy Farm đã mở rộng và trở thành một trong những tập

đoàn bán lẻ uy tín và năng động nhất châu Á. Doanh thu bán lẻ 2008 của Dairy

Farm đạt 6,7 tỷ đô la Mỹ và lợi nhuận gần 350 triệu đô (Deloitte 2010, tr.16).

Thành công của Dairy Farm đạt được là vì tập đoàn này đã biết cách đa

dạng hóa các mô hinh kinh doanh, bao gồm: siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng

chuyên doanh các sản phẩm chăm sóc sức khỏe, cửa hàng tiện ích, nội thất và

gần đây là cả các tiệm ăn cao cấp. Các thương hiệu quen thuộc trên các thị

trường châu Á như siêu thị Wellcome, ThreeSixty, Shop N Save, Hero; đại siêu

thị Giant; chuỗi cửa hàng chăm sóc sắc đẹp Mannings, Guardian; hàng loạt cửa

hàng tiện ích 7-Eleven (theo hợp đồng nhượng quyền của tập đoàn 7-Elenven,

Hoa Kỳ) ở Hồng Kông, Trung Quốc, Singapo hay nhãn hiệu Starmart; Cửa hàng

25

Page 26: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

nội thất IKEA;… đều thuộc quyền sở hữu của Dairy Farm. Tập đoàn này còn

nắm giữ 50% cổ phần của chuỗi hàng ăn uống cao cấp nhất Hồng Kông là

Maxim’s.

Một chiến lược khá quan trọng trong việc xây dựng thương hiệu Dairy

Farm trên thị trường châu Á là tập đoàn này rất quan tâm đến việc củng cố tên

tuổi của mình thông qua các hoạt động vì cộng đồng. Hoạt động gần đây nhất của

Dairy Farm đã hòa theo trào lưu “xanh” trên khắp thế giới. Đó là việc họ vận

động các chuỗi cửa hàng của mình cũng như khách hàng đến mua sắm không sử

dụng túi nilon mà thay vào đó là các túi vải thân thiện với môi trường. Tập đoàn

này cũng thực hiện những kế hoạch thu nhỏ kích cỡ hóa đơn và nhãn giá hàng

hóa nhằm tiết kiệm giấy cho Trái Đất. Bên cạnh đó, Dairy Farm cũng là một

trong những nhà bán lẻ châu Á hoạt động từ thiện mạnh mẽ nhất, như tham gia

ủng hộ thường niên quỹ bệnh nhân bệnh tim, trẻ em nghèo, các quỹ vì sự phát

triển của thanh thiếu niên hay chung tay trong cuộc tái thiết tỉnh Tứ Xuyên sau

vụ động đất lịch sử giữa năm 2009. Nhờ vào những hoạt động này, Dairy Farm

đã gây dựng được một hình ảnh hết sức thân thiện trong đời sống hàng ngày của

người dân châu Á.

II. TIỀM NĂNG VÀ NHỮNG KHUYNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRONG

TƯƠNG LAI

1. Tiềm năng

1.1 Thị trường bán lẻ châu Á vẫn đang ở giai đoạn trưởng thành trong khi

các thị trường ở Âu Mỹ đã rơi vào giai đoạn bão hòa

Thị trường bán lẻ châu Á trong những năm gần đây luôn được đánh giá là

thị trường hấp dẫn nhất trên thế giới. Các nền kinh tế được gọi là những con rồng

và những con hổ châu Á chứng kiến những bước tăng trưởng ấn tượng, đa số đều

ở mức trên 5%/năm và được dự đoán sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thời gian

26

Page 27: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

tới. Trong khi đó, thị trường bán lẻ Tây Âu và Bắc Mỹ hầu hết đều trải qua giai

đoạn tăng trưởng từ những năm cuối thế kỷ 20 và hiện nay một số thị trường lớn

đã trở nên bão hòa.

Hậu quả từ cơn bão khủng hoảng tài chính 2008 đã đem lại cục diện mới

cho nền kinh tế thế giới. Các nền kinh tế lớn nhất thế giới như Mỹ, Anh, Đức đều

công bố rơi vào suy thoái. Doanh thu bán lẻ trên các thị trường phát triển nhất

toàn cầu đều sụt giảm trầm trọng. Trong khi đó, thị trường bán lẻ châu Á vẫn tiếp

tục ghi nhận tăng trưởng mạnh, đặc biệt là doanh thu từ phân đoạn các mặt hàng

tiêu dùng nhanh (FMCG). Khối lượng sản phẩm bán ra ở hầu hết các quốc gia

đều tăng vào năm 2008, cá biệt ở một số quốc gia, tỷ lệ tăng trưởng còn đạt mức

hai con số. Biểu đồ sau cho thấy tình hình tăng trưởng về khối lượng FMCG ở

một số quốc gia châu Á (Nielsen 2009).

Singapo Ấn Độ Việt Nam Trung Quốc

69

18

9

Chart Title

Biểu đồ II.3: Tỷ lệ tăng trưởng FMCG (%) tính đến tháng 3 năm 2009

Nguồn: Nielsen 2009

Theo bảng xếp hạng “chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu” - GRDI của A.T

Kearney về những thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, các quốc gia châu Á

luôn giành được những thứ hạng cao trong tổng số 30 quốc gia được xếp hạng.

Những vị trí số 1 trong những năm gần đây đều thuộc về các nước châu Á (cụ thể

năm 2008, Việt Nam là thị trường hấp dẫn nhất; năm 2009: vị trí này thuộc về

Ấn Độ). Chúng ta có thể xem danh sách những quốc gia châu Á được lọt vào

bảng xếp hạng này năm 2008 và 2009:

27

Page 28: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

QUỐC GIA

THỨ TỰ

TRÊN BẢNG

XẾP HẠNG

2009

SỐ ĐIỂM

GRDI

2009

THỨ TỰ

XẾP HẠNG

NĂM 2008

THAY

ĐỔI VỀ

THỨ

TỰ

Ấn Độ 01 68 02 +1

Trung Quốc 03 56 04 +1

Các tiểu vương quốc Ả Rập 04 56 20 +16

Ả Rập Xê Út 05 56 07 +2

Việt Nam 06 55 01 -5

Malaysia 10 51 13 +3

Indonesia 22 46 15 -7

Philipin 25 41 26 +1

Thái Lan 26 40 24 -2

Bảng II.2: Các quốc gia châu Á được xếp hạng 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn

nhất thế giới

Nguồn: A.T Kearney2009, tr.5

28

Page 29: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1.2 Châu lục đông dân nhất thế giới, dân số trẻ và sức mua tăng

Mặc dù diện tích châu Á chỉ chiếm chưa đến 30% diện tích lục địa song số

dân châu Á hiện nay chiếm đến 60% dân số toàn cầu và hàng năm vẫn là châu

lục có tỷ lệ tăng dân số cao nhất thế giới.

Bên cạnh Trung Quốc, khu vực Đông Nam Á là khu vực có tỷ lệ tăng dân

số ở vào mức cao nhất trong châu lục và trên thế giới. Trong 5 năm vừa qua

(2004-2009) tỷ lệ này ở vào khoảng 1.2%/năm và được dự báo chỉ tăng trưởng

chậm lại trong vòng 15 đến 20 năm nữa (vào khoảng 0.7%/năm trong khoảng

2025-2050).

Khu vực Trung Đông (các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất và Ả Rập

Xê Út) tuy có quy mô dân số tương đối nhỏ hơn nếu so với khu vực Đông Nam

Á song có đến 80% dân số là dân thành thị, tỷ lệ dân số trẻ dưới 25 tuổi cũng ở

mức khá cao, chiếm tới 60% dân số (A.T Kearney 2009, tr.11).

Đây cũng là khu vực có dân số trẻ với nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh trong

những năm vừa qua. Lượng cầu nội địa ở châu Á đã giúp nền kinh tế châu lục

này chống chọi với khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008 và đảm bảo cho

tăng trưởng kinh tế ở khu vực vẫn duy trì ở mức cao. Hầu hết các nền kinh tế

châu Á vẫn đang trong giai đoạn chuyển đổi và một tỷ lệ lớn các quốc gia này

đang dần điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế tập trung vào khai thác, đẩy

mạnh nhu cầu tiêu dùng nội địa của người dân. Xã hội châu Á hiện đang xuất

hiện một bộ phận không nhỏ người dân có nhu cầu và khả năng chi trả cho việc

mua sắm, tiêu dùng các mặt hàng xa xỉ, những nhãn hiệu thời trang toàn cầu

ngay cả trong thời kỳ khủng hoảng. Vì vậy, mảng thị trường hàng xa xỉ trong

thời gian tới được hứa hẹn sẽ chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ, là vùng đất đầy

tiềm năng cho các nhãn hiệu thời trang, hàng tiêu dùng hàng đầu thế giới.

1.3 Chính phủ các quốc gia châu Á dần điều chỉnh các chính sách thương

mại theo hướng mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ

29

Page 30: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra từ Thái Lan năm 1997 và ảnh

hưởng hầu hết đến các quốc gia châu Á khác đã khiến Chính phủ các quốc gia

này từng nghĩ đến việc đóng cửa các thị trường của mình nhằm hạn chế sự tiếp

xúc với toàn cầu hóa. Tuy nhiên, quan niệm này đã nhanh chóng được loại bỏ khi

họ dần nhận thức được rằng khủng hoảng gây tác động xấu đến nền kinh tế do cơ

cấu nền kinh tế của đất nước chưa hợp lý và hiệu quả. Đồng thời, những lợi ích

to lớn mà toàn cầu hóa đem lại là không thể phủ nhận. Vì vậy, sau khi khủng

hoảng tài chính, các quốc gia châu Á lại theo đuổi các chính sách hội nhập sâu

rộng và mở cửa hầu hết các thị trường của mình, đặc biệt là thị trường bán lẻ.

Trong khu vực châu Á, khu vực Đông Á là khu vực phát triển và năng

động nhất, bao gồm 10 quốc gia ASEAN, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và

Đài Loan. Cụ thể ở một số thị trường như sau: Indonesia nâng mức vốn đầu tư

nước ngoài vào khu vực bán lẻ từ 49% lên 100%. Ở Hàn Quốc, tỷ lệ vốn tối thiểu

các nhà bán lẻ nước ngoài có thể đầu tư từ 15-20% hiện đã tăng lên 100%. Bên

cạnh đó, nước này còn sửa đổi Bộ Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài xóa bỏ mọi

hạn chế về việc sở hữu nước ngoài trong lĩnh vực đất đai, bất động sản. Malaysia

hiện đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ của mình (World Bank 2000, tr.146-

149). Trung Quốc sau 3 năm gia nhập WTO, từ thời điểm tháng 12 năm 2004 đã

thực hiện đầy đủ cam kết mở cửa thị trường bán lẻ, cho phép các công ty bán lẻ

nước ngoài được vào thị trường nội địa. Bên cạnh đó, nước này cũng đang dần

nới lỏng những quy định yêu cầu những nhà bán lẻ nước ngoài khi vào nước này

mở các cửa hàng bán lẻ phải xin phép từ chính phủ Trung Ương (Business in

Asia 2005).

Ở khu vực Nam Á, Ấn Độ trở thành thị trường hấp dẫn nhất. Thị trường

Ấn Độ được xếp hạng nhất trong các thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới năm

2009 (A.T Kearney 2009, tr.5). Nước này đã cho phép nhà đầu tư được mở các

cơ sở bán sỉ “cash and carry” 100% vốn trực tiếp.

2. Khuynh hướng phát triển trên thị trường bán lẻ châu Á trong tương lai

30

Page 31: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

2.1 Thương mại điện tử sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ

Cơ quan thống kê số liệu liên quan đến Internet thế giới (Internet world

stats) cho biết số lượng người sử dụng Internet hàng ngày ở châu Á tính đến thời

điểm cuối quý hai năm 2009 chiếm đến gần 43% tổng số người dùng Internet

trên toàn thế giới. Theo đó, châu Á có hơn 738,2 triệu người sử dụng Internet.

Tính từ năm 2002 đến 2009, số lượng này đã tăng 545,9%, tỷ lệ tăng nhanh nhất

toàn thế giới (Internet World Stats 2009). Đặc biệt, số lượng người dùng Internet

không chỉ tập trung ở thành thị, các thành phố lớn mà ngày càng mở rộng sang

các vùng nông thôn. Dự báo Internet ngày càng trở nên phổ biến trong xã hội

châu Á.

Trước cơ hội đầy hứa hẹn về một kênh bán lẻ hiện đại và mang đến những

ưu thế vượt trội như vậy, các nhà bán lẻ châu Á vẫn chưa khai thác triệt để.

Thương mại điện tử hiện mới chỉ chiếm giữ một phần khá khiêm tốn trong hoạt

động của các doanh nghiệp bán lẻ đến từ châu Á. Theo báo cáo về bán lẻ toàn

cầu năm 2009 mà Deloitte đưa ra thì doanh thu bán lẻ từ thương mại điện tử mới

chỉ chiếm khoảng 0.6% tổng doanh thu của bán lẻ của khu vực châu Á (Deloitte

2010, tr.31). Vì vậy, chắc chắn trong thời gian tới, các doanh nghiệp bán lẻ trên

thị trường sẽ đầu tư nhiều hơn vào việc triển khai kênh bán hàng đầy tiềm năng

này vì đây là phương thức kinh doanh đem lại cho doanh nghiệp bán lẻ châu Á

rất nhiều lợi ích:

Thứ nhất, trong tình hình giá thuê mặt bằng ở các nền kinh tế sôi động

nhất châu Á như Trung Quốc, Singapore, Đài Loan, Việt Nam, .v.v. liên tục tăng

và nguồn cung còn hạn chế, việc bán hàng qua mạng giúp các doanh nghiệp bán

lẻ không phải chú ý nhiều đến việc thuê mặt bằng trưng bày hàng hóa. Chi phí

thuê cửa hàng có thể được tiết kiệm đáng kể.

Thứ hai, thương mại điện tử giúp các nhà bán lẻ có thể tiếp cận được với

nguồn khách hàng lớn hơn nhiều. Địa bàn hoạt động hoàn toàn có thể mở rộng,

không chỉ giới hạn ở một khu vực nhất định như việc bán hàng trực tiếp thông

31

Page 32: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

qua các cửa hàng, khu mua sắm. Những nhà bán lẻ lựa chọn thêm kênh bán hàng

này thậm chí có thể vươn tới những thị trường ở ngoài quốc gia mình với chi phí

thấp nhất. Ngoài ra, thời gian hoạt động khi bán hàng qua mạng cũng sẽ linh hoạt

hơn rất nhiều, cho phép doanh nghiệp hoạt động đến 24 giờ mỗi ngày.

Thứ ba, thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp bán lẻ nhỏ có thế cân

bằng hơn với các doanh nghiệp lớn do quy mô các doanh nghiệp không phải là

nhân tố quyết định nhất đối với sự thành công của các doanh nghiệp bán lẻ

thương mại điện tử. Thương mại điện tử sẽ là một trong những lựa chọn hàng

đầu của các doanh nghiệp bán lẻ mới nổi ở châu Á trong quá trình cạnh tranh với

các đại gia bán lẻ phương Tây như Carrefour hay Wal-mart.

Một lợi ích rõ ràng mà hoạt động bán lẻ qua mạng có thể đem lại chính là

nó giúp doanh nghiệp dễ dàng tiến hành các hoạt động nghiên cứu hành vi tiêu

dùng của khách hàng, tìm hiểu thị trường và các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và

gián tiếp tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Trong khi đó, người tiêu dùng cũng thu được rất nhiều lợi ích khi mua

hàng qua các cửa hàng điện tử này. Người dân châu Á hiện nay, đặc biệt là người

dân ở các quốc gia công nghiệp mới phát triển hay đang phát triển đang có xu

hướng tiết kiệm tối đa thời gian mua sắm và lựa chọn hàng hóa của mình.

Thương mại điện tử cung cấp cho họ những lựa chọn tối ưu nhất trong thời gian

ngắn nhất.

2.2 Nhượng quyền thương mại trên thị trường bán lẻ sẽ ngày càng phổ biến

2.2.1 Khái niệm về nhượng quyền thương mại

Nhượng quyền thương mại (thuật ngữ Tiếng Anh: franchising) có lịch sử

từ nước Mỹ. Đây là một ý tưởng kinh doanh được thực hiện giữa hai bên: phía

chuyển giao quyền và phía mua quyền. Phía chuyển giao quyền có thể là một tổ

chức: công ty sản xuất hàng hóa hay dịch vụ. Phía mua quyền thường là những

cá nhân hay cũng có thể gặp một số tổ chức kinh doanh độc lập. Hợp đồng

32

Page 33: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

nhượng quyền được thiết lập trên cơ sở người mua quyền phải trả hai loại phí cho

bên chuyển giao: tiền bản quyền thương hiệu và phí để được thực hiện các hoạt

động kinh doanh với tên và công nghệ của phía chuyển giao (thường được tính

trên doanh số hàng tháng hoặc hàng năm). Đồng thời, bên mua cũng phải cam

kết với bên nhượng quyền phải tổ chức kinh doanh theo đúng tiêu chuẩn và quy

trình được quy định bởi phía chuyển giao.

2.2.2 Hoạt động nhượng quyền trên thị trường bán lẻ châu Á

Hoạt động nhượng quyền diễn ra khá mạnh mẽ trên thị trường bán lẻ châu

Á trong thời gian qua, đặc biệt là việc nhượng quyền các cửa hàng tiện ích

(convenience store). 7-Eleven, chuỗi cửa hàng tiện ích bán lẻ lớn nhất thế giới có

trụ sở chính đặt ở Dallas, Hoa Kỳ là thương hiệu có hoạt động chuyển nhượng

thành công nhất ở châu Á tính đến thời điểm này. 7-Eleven đã chuyển nhượng

thành công gần 30,000 cửa hàng tiện ích ở 14 quốc gia, bao gồm các thị trường

chủ yếu ở châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan.

7-Eleven hiện nay đang tiến hành hai mô hình nhượng quyền ở thị trường châu

Á: mô hình nhượng quyền truyền thống dành cho các cá nhân hay công ty bắt

đầu hoạt động và chương trình chuyển đổi mô hình kinh doanh cho các cá nhân,

tổ chức kinh doanh hiện hữu (7-Eleven 2010). Dairy Farm, một trong những nhà

bán lẻ châu Á thành công nhất cũng đang đẩy mạnh các hoạt động chuyển

nhượng của mình trên các thị trường mới nổi của châu Á. Đây là doanh nghiệp

đầu tiên và duy nhất ở châu Á thực hiện hoạt động nhượng quyền các cửa hàng

chuyên kinh doanh sản phẩm liên quan đến sữa.

Trong thời gian tới, hoạt động nhượng quyền sẽ tiếp tục phát triển trên thị

trường bán lẻ châu Á, đặc biệt là việc nhượng quyền các mô hình bán lẻ qua các

cửa hàng tiện ích do những đặc thù của thị trường này.

33

Page 34: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thứ nhất, các tập đoàn bán lẻ nước ngoài khi muốn đặt chân vào châu Á

nhưng chưa đủ khả năng để nghiên cứu hay chưa thực sự nắm rõ về thị trường

này có thể phát triển mạng lưới mà không phải trực tiếp điều hành hoạt động của

các cửa hàng. Hoạt động nhượng quyền cho phép họ bắt tay với các doanh

nghiệp/cá nhân ở châu Á. Phía mua quyền này thường có hiểu biết nhất định về

thị trường nội địa, dễ dàng tìm kiếm các nguồn cung hàng ổn định, giá hợp lý. Do

vậy, phía mua quyền sẽ giúp quảng bá nhãn hiệu được chuyển nhượng.

Thứ hai, đối với các nhà bán lẻ châu Á, tiến hành mua nhượng quyền tỏ ra

khá phù hợp với những doanh nghiệp vừa và nhỏ hay các cá nhân. Do đặc thù

của hoạt động nhượng quyền là chi phí bỏ ra không lớn bằng việc gây dựng

thương hiệu và cửa hàng kinh doanh hoàn toàn mới, việc mua nhượng quyền sẽ

trở nên hấp dẫn hơn. Bên cạnh đó, hoạt động theo các hợp đồng nhượng quyền từ

các nhà bán lẻ lớn, có tên tuổi, bên mua quyền được tiếp thu nhiều về kinh

nghiệm quản lý, tổ chức chuỗi cửa hàng. Thông thường, bên được nhượng quyền

sẽ được bên chuyển giao quyền hỗ trợ trong quá trình xây dựng, thiết kế gian

hàng hay lựa chọn danh mục hàng hóa, và kể cả việc đào tạo nhân viên. Điều này

có ý nghĩa rất quan trọng đối với những tổ chức mới hoạt động, thiếu kinh

nghiệm kinh doanh.

2.3 Xu hướng M&A ngày một gia tăng

2.3.1 Khái niệm M&A trên thị trường bán lẻ

- Mua lại (Acquisition): là việc một doanh nghiệp bán lẻ có tiềm lực tài

chính mua lại hoặc thôn tính một doanh nghiệp khác. Trong trường hợp này

không có pháp nhân mới nào ra đời và thông thường doanh nghiệp bị thôn tính sẽ

không còn tồn tại trên cơ sở pháp lý.

- Sáp nhập (Merger): là việc hai hai nhiều doanh nghiệp bán lẻ kết hợp

với nhau. Trường hợp này một pháp nhân mới sẽ ra đời và đi vào hoạt động.

Pháp nhân mới này sẽ có giá trị lớn hơn từng doanh nghiệp hoạt động đơn lẻ.

2.3.2 Xu hướng M&A trên thị trường bán lẻ châu Á

34

Page 35: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Xu hướng M&A trên thị trường bán lẻ châu Á hiện nay diễn ra sôi nổi

nhất tập trung vào loại hình doanh nghiệp sau:

- Doanh nghiệp sở hữu các trung tâm mua sắm hay cửa hàng hạ giá: một

trong những vụ M&A lớn nhất diễn ra trong thời điểm 2008-2009 là việc công ty

bất động sản Simplex của Nhật Bản mua lại chuỗi trung tâm mua sắm

Mitsukoshi-Ikebukuro với giá 705 triệu đô la (KPMG 2009, tr.6).

- Doanh nghiệp bán hàng qua mạng hay qua catalog: vụ M&A lớn nhất

trong mảng này diễn ra khi Ebay mua lại công ty chuyên kinh doanh qua mạng

của Hàn Quốc là GMarket Inc với giá 1,2 tỷ đô la Mỹ (KPMG 2009, tr.6).

Trong năm 2008-2009, số các vụ M&A trên lĩnh vực bán lẻ châu Á đều

giảm về cả số lượng lẫn giá trị do ảnh hưởng từ suy giảm kinh tế toàn cầu. Tuy

nhiên, theo đánh giá của nhiều tổ chức kiểm toán, tư vấn hàng đầu trong lĩnh vực

M&A, từ sau quý 1 năm 2010, thị trường bán lẻ châu Á sẽ chứng kiến số lượng

các vụ M&A sẽ lại tăng trở lại. Công ty KPMG đã đưa ra những dự báo về tình

hình M&A trên lĩnh vực bán lẻ toàn cầu, trong đó châu Á giữ vị trí là thị trường

mục tiêu số 2 trên thế giới, được xếp trên cả thị trường châu Mỹ.

35

34.1

18.8

47.1

Chart Title

Trung Á/châu Á- Thái Bình Dươngchâu Mỹchâu Âu và Trung Đông

Page 36: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Biểu đồ II.4: Giá trị các hợp đồng M&A theo khu vực (6/2008-6/2009)

Nguồn: KPMG 2009, tr.6

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nằm ở hai lý do chính sau:

Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính 2008 đã khiến nhiều doanh

nghiệp châu Á gặp nhiều rắc rối về kinh tế và giá trị công ty liên tục sụt giảm.

Điều này sẽ tạo điều kiện cho nhiều nhà bán lẻ đến từ các quốc gia phát triển hay

chính trong cùng châu lục có kết quả kinh doanh tốt và nguồn lực tài chính ít bị

sụt giảm có cơ hội tiến hành hoạt động mua lại.

Thứ hai, trước tình hình thị trường ngày càng xuất hiện nhiều tập đoàn bán

lẻ khổng lồ đến từ phương Tây, các nhà bán lẻ châu Á sẽ có xu hướng liên kết lại

với nhau. Nhận thức được những lợi ích từ M&A như tiết kiệm chi phí nhân

viên, tiếp thu công nghệ mới, đạt hiệu quả của quy mô hay giành được thị phần,

tăng thế cạnh tranh, các doanh nghiệp bán lẻ có thể đẩy mạnh các hoạt động

M&A để đứng vững trong cuộc chơi ngày càng khốc liệt này.

2.4 Hệ thống bán lẻ hiện đại sẽ tiếp tục chiếm ưu thế

Trong bối cảnh hầu hết các quốc gia châu Á đều bị ảnh hưởng từ cuộc

khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường bán lẻ của mỗi quốc gia được dự đoán

sẽ có những thay đổi đáng kể. Theo dự đoán, trong tương lai, hệ thống bán lẻ

hiện đại với ba mô hình kinh doanh: đại siêu thị, siêu thị và cửa hàng tiện ích sẽ

vẫn giữ thế vượt trội nhưng sẽ xuất hiện thêm các mô hình bán lẻ mới.

Cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra vào năm 2008 đã làm thay đổi thói

quen tiêu dùng, mua sắm có một bộ phận không nhỏ người tiêu dùng châu Á. Họ

đã trở nên ngày càng quan tâm đến giá cả hàng hóa và các chương trình khuyến

mại giảm giá mà các nhà bán lẻ đưa ra. Theo thống kê của công ty nghiên cứu thị

trường Nielsen năm 2009, có đến 70% dân châu Á chú ý nhiều đến giá cả hơn so

với năm 2008 (Nielsen 2009). Kết quả là họ chỉ mua những thứ thực sự cần thiết

36

Page 37: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

hơn là những thứ bắt mắt và cố gắng giảm số lượng hàng hóa phải mua và ngày

càng muốn tìm kiếm những sản phẩm giảm giá.

Trước tình hình đó, thị trường châu Á trong thời gian tới được dự báo sẽ

chứng kiến sự bùng nổ của một loạt các cửa hàng giảm giá (discount stores).

Các cửa hàng giá rẻ trong thời gian gần đây đã gây dựng cho mình một

khối lượng khách hàng khá đông đảo và một văn hóa mới mẻ. Rất nhiều người

tiêu dùng châu Á đã tạo ra hoặc chạy theo trào lưu “săn lùng hàng hạ giá” vào

các thời điểm nghỉ lễ, hình thành một nét sinh hoạt mới mẻ trong xã hội châu Á.

Ngoài hệ thống cửa hàng hạ giá, thị trường bán lẻ châu Á trong thời gian

tới, theo cơ quan nghiên cứu thị trường thuộc IBM (IBM 2007, tr.44-50), sẽ

chứng kiến sự ra đời và bùng nổ của một số loại hình bán lẻ hiện đại sau:

Siêu thị nhỏ (mini-mart)

Là mô hình bán lẻ tự phục vụ quy mô nhỏ hơn siêu thị, thường được đặt ở

các khu dân cư. Số lượng sản phẩm được bán trong các siêu thị với các chủng

loại chính là thực phẩm tươi sống, lương thực khô và các sản phẩm phục vụ nhu

cầu sử dụng hàng ngày của các hộ gia đình. Khác với các cửa hàng tiện ích, các

siêu thị nhỏ này không bán bánh kẹo cao cấp, thuốc lá hay báo, tạp chí. Diện tích

mỗi siêu thị khá nhỏ, chỉ từ 100 đến 300 mét vuông. Giá bán ở đây chỉ ngang

bằng giá ở các chợ truyền thống nhưng hàng hóa được trình bày có tính thẩm mỹ

cao và đảm bảo về vệ sinh.

Do ở nhiều thị trường ở các quốc gia châu Á, một tỷ lệ không nhỏ người

mua sắm thường đi bộ hay sử dụng các phương tiện giao thông công cộng nên

các đại siêu thị ở xa khu trung tâm hay các siêu thị lớn nằm trong các khu mua

sắm sầm uất thường không phù hợp. Vì vậy, mô hình nằm trong các khu dân cư

này có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai.

Đại siêu thị cỡ nhỏ (compact hypermarket)

Đây là loại hình đại siêu thị quy mô nhỏ, với số lượng, chủng loại hàng

hóa ít hơn đại siêu thị. Mô hình kinh doanh này khắc phục được những khó khăn

37

Page 38: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

về mặt bằng kinh doanh cũng như những hạn chế về mặt pháp lý mà các đại siêu

thị thường gặp phải. Ngoài ra, do số lượng hàng hóa ít hơn, việc mua sắm ở mô

hình bán lẻ này sẽ thuận lợi và tiết kiệm đáng kể về thời gian so với mua sắm ở

các đại siêu thị. Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện những đặc điểm vượt trội so với

các siêu thị như cho phép người mua sắm tiếp cận với các khu ẩm thực hay giải

trí. Diện tích mỗi cửa hàng từ 2000 đến 6000 mét vuông và thường được xây

dựng nhiều tầng.

Cửa hàng bán sản phẩm chuyên dụng (specialty store)

Mô hình cửa hàng này mục đích phục vụ cho người có thu nhập cao trong

xã hội, sản phẩm được cá biệt hóa, thường là sản phẩm sạch, nguồn gốc thiên

nhiên, sản phẩm chức năng, bổ dưỡng, chất lượng thượng hạng. Diện tích mỗi

cửa hàng từ khoảng 200 đến 500 mét vuông. Các cửa hàng này thường là các đại

lý độc quyền trong một khu vực địa lý nhất định.

Cửa hàng tiện ích kiểu mới (convenience plus)

Các cửa hàng này thường được đặt ở trung tâm, những phố mua sắm sầm

uất, hay các khu mua sắm trong các khu dân cư tập trung hay gần những trạm

xăng, điểm dừng xe buýt. Hàng hóa được bán thường là lương thực, thực phẩm

khô và thực phẩm tươi sống, bánh mỳ, thuốc lá, bánh kẹo, báo, tạp chí và các

hàng hóa thiết yếu khác. Giá hàng hóa đắt hơn siêu thị từ 10 đến 15%. Diện tích

mỗi cửa hàng từ 200 đến 800 mét vuông.

III. HAI THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ ĐIỂN HÌNH CỦA CHÂU Á GIAI ĐOẠN

2000 ĐẾN NAY

Như đã phân tích ở trên, hầu hết các quốc gia châu Á đều theo đuổi mô

hình kinh tế mở, tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài vào hoạt động trong

lĩnh vực bán lẻ. Tuy nhiên, mỗi quốc gia chọn cho mình một hướng đi riêng với

lộ trình mở cửa đặc trưng. Ở một số quốc gia sau khi thị trường bán lẻ được mở

38

Page 39: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

cửa, thị trường đã hoàn toàn bị chi phối bởi các tập đoàn bán lẻ phương Tây. Bên

cạnh đó, cũng có những quốc gia với những chính sách thương mại khôn ngoan

đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước mình đứng vững trong cuộc cạnh tranh

với nhà đầu tư nước ngoài. Đến đây tôi xin đưa ra hai ví dụ điển hình về quá

trình mở cửa thị trường bán lẻ ở Thái Lan và Hàn Quốc.

1. Thái Lan

1.1 Chính sách mở cửa thị trường một cách ồ ạt của Chính phủ Thái Lan

Thái Lan chính thức gia nhập WTO vào năm 1995. Tuy nhiên nước này

lại không cam kết bất cứ điều khoản nào về thực hiện tự do hóa dịch vụ bán lẻ.

Chỉ khi cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 nổ ra, do thiếu vốn trầm trọng,

Chính phủ Thái Lan đã tìm mọi cách thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào thị

trường bán lẻ. Cuối những năm 1980, nhà đầu tư nước ngoài chỉ được phép hoạt

động trên thị trường bán lẻ dưới hình thức liên doanh với doanh nghiệp nội địa và

nắm giữ không quá 49% tổng số vốn. Tuy nhiên, sau khủng hoảng 1997, Chính

phủ đã ngay lập tức cho phép các cơ sở bán lẻ 100% vốn nước ngoài được hoạt

động nếu nhà đầu tư bỏ vốn tối thiểu 2,5 triệu Euro.

1.2 Thất bại của các doanh nghiệp bán lẻ Thái Lan trên thị trường nội địa

Hệ quả của chính sách mở cửa không kiểm soát của chính phủ Thái Lan

đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới mảng bán lẻ truyền thống của quốc gia này. Hàng

loạt cửa hàng bán lẻ truyền thống ở thủ đô Băng Cốc và các tỉnh khác đã bị phá

sản, đặc biệt là ở những vùng xuất hiện các cửa hàng tiện ích hoạt động dưới

hình thức nhượng quyền thương hiệu. Trong khi đó, những nhà bán lẻ nước

ngoài bằng việc kinh doanh bán hàng qua các cửa hiệu giảm giá dần tạo vị trí độc

quyền trên thị trường nước này. Đến năm 2001, tức là chưa đầy 5 năm sau khi

mở cửa thị trường, hệ thống bán lẻ qua các cơ sở giảm giá (discount stores) đã

chiếm được 23% thị phần. 97% chuỗi các cửa hàng giảm giá thuộc sở hữu của

các nhà bán lẻ nước ngoài. Trong khi đó, thị phần của hệ thống bán lẻ truyền

39

Page 40: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

thống sau khi giảm gần 10.000 cửa hàng đã sụt giảm mạnh, từ 74% xuống còn

46% (Macedo, Jorge và Chino, Tadao 2003, tr.31).

Tình hình còn xấu hơn khi chính những nhà cung cấp trong nước cũng bị

ảnh hưởng rất nghiêm trọng. Sự ra đời của các cửa hàng giảm giá đã đẩy một số

lượng lớn nhà cung cấp Thái Lan vào thế bất lợi trong các vụ mặc cả giá bán

hàng hóa.

Sự kiện này đã gây ảnh hưởng sâu sắc tới xã hội Thái Lan, tạo nên làn

sóng phản đối toàn cầu hóa mạnh mẽ trong người dân nước này. Chính phủ Thái

Lan đối mặt với sức ép phải đóng cửa thị trường bán lẻ của mình. Trong tình

trạng đó, một loạt các chính sách “chữa cháy” đã được Chính phủ đưa ra, chủ yếu

là các biện pháp về mặt quản lý. Có thể kể đến một số biện pháp như việc Chính

phủ hỗ trợ cho việc thành lập các cửa hàng bán lẻ cộng đồng (community retail

shops), đào tạo đội ngũ quản lý cho những cửa hàng bán lẻ nhỏ, thiết lập bộ phận

tư vấn Retail Clinic,… (Macedo, Jorge và Chino, Tadao 2003, tr. 32-33).

Vai trò của Chính phủ tập trung vào việc tháo gỡ khó khăn về mặt tài

chính cho hệ thống các cửa hàng bán lẻ truyền thống hay các siêu thị bán lẻ quy

mô nhỏ. Tuy nhiên, những biện pháp này không phát huy được tối đa tác dụng do

không được xây dựng và thực thi một cách hệ thống, tác động chỉ dừng ở mức

tạm thời. Bên cạnh đó, việc Chính phủ sửa đổi lại các bộ Luật đã làm cản trở quá

trình tự do hóa thương mại, cạnh tranh bình đẳng trên thị trường. Doanh nghiệp

bán lẻ của Thái Lan ngày càng mất tính cạnh tranh so với các doanh nghiệp nước

ngoài.

2. Hàn Quốc

2.1 Chính sách của Chính phủ Hàn Quốc về thị trường bán lẻ

Hàn Quốc bắt đầu mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ của mình vào năm

1996. Nhờ đó, ngành công nghiệp nước này chứng kiến sự xuất hiện của nhiều

40

Page 41: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

mô hình kinh doanh mới cùng với sự lớn dần về mặt quy mô của các doanh

nghiệp bán lẻ cả trong nước lẫn nước ngoài.

Để tăng tính hiệu quả của thị trường bán lẻ, Chính phủ Hàn Quốc đã thực

hiện từng bước quá trình tự do hóa trên thị trường bán lẻ. Chính sách bán lẻ của

nước này được chia làm ba giai đoạn:

Giai đoạn 1: bắt đầu diễn ra vào khoảng giữa năm 1989 đến giữa năm

1991. Vào giai đoạn này, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện nới lỏng các quy định

về việc các công ty nước ngoài có thể thiết lập các chi nhánh hay thực hiện đầu

tư trực tiếp vào đất nước.

Giai đoạn 2: tiếp nối giai đoạn 1, thực hiện trong khoảng giữa năm 1991

đến giữa năm 1993. Vào thời điểm này, các doanh nghiệp nước ngoài có thể mở

các cửa hàng ở Hàn Quốc. Tuy nhiên, Chính phủ quy định diện tích của mỗi cửa

hàng không được quá 1000 mét vuông. Bên cạnh đó, số lượng cửa hàng mà mỗi

doanh nghiệp nước ngoài được mở cũng không được lớn hơn con số 10.

Giai đoạn 3: thực hiện vào giữa năm 1993 đến năm 1995. Trong thời kỳ

này, những quy định về diện tích cũng như số lượng cửa hàng các nhà bán lẻ

nước ngoài được phép mở quy định trong giai đoạn hai được nới rộng hơn.

Doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ trên thị trường Hàn

Quốc có thể mở đến 20 cửa hàng với diện tích mỗi cửa hàng có thể là 3000 mét

vuông.

Ủy ban thương mại lành mạnh Hàn Quốc (KFTC)

Thành lập từ đầu những năm 1980, Ủy ban này có 4 nhiệm vụ chính là:

khuyến khích cạnh tranh công bằng; củng cố quyền lợi khách hàng; thiết lập môi

trường cạnh tranh cho các doanh nghiệp nội địa vừa và nhỏ và hạn chế sự bành

trướng, lạm dụng của các tập đoàn khổng lồ. Trong 4 chức năng này, Ủy ban đã

thực hiện mạnh mẽ nhất chức năng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong

nước, đặc biệt là sau khi Hàn Quốc thực hiện những cam kết của mình trong

khuôn khổ WTO. Ủy ban này đã đưa vào thi hành 9 bộ luật trong đó có “Những

41

Page 42: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

quy định về độc quyền (Monopoly regulation) và Luật về “Thương mại bình

đẳng” (Fair Trade Act). Cụ thể trong lĩnh vực bán lẻ, nếu bất cứ doanh nghiệp

nào đang chiếm được phần lớn thị trường lạm dụng vị trí của mình với mục đích

cạnh tranh không công bằng, KFTC sẽ ra lệnh cho doanh nghiệp phải giảm giá

hàng loạt, ngay lập tức chấm dứt hành vi của mình. Đồng thời, KFTC sẽ công bố

rộng rãi vi phạm của doanh nghiệp đó hoặc sử dụng các biện pháp theo các bộ

luật liên quan. Doanh nghiệp có thể chịu phạt lên tới 3% tổng doanh thu trong

thời kỳ xảy ra vi phạm. Chính những biện pháp này đã giúp Chính phủ tối thiểu

hóa sự bành trướng của các tập đoàn bán lẻ khổng lồ và bảo vệ các nhà bán lẻ

trong nước quy mô nhỏ không bị phá sản khi thị trường được mở cửa hoàn toàn

(KFTC 2010).

2.2 Thành công của các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc trong việc giữ thị

phần của mình trước sự xâm chiếm của các tập đoàn quốc tế

Sự thành công của các nhà bán lẻ nội địa của Hàn Quốc được đánh dấu

bằng sự kiện tập đoàn bán lẻ hàng đầu thế giới Wal-mart phải rút khỏi thị trường

này bằng việc bán lại 16 cửa hàng trên khắp Hàn Quốc cho Shinsegae với mức

giá được cho rằng đã gây ra một khoản lỗ khổng lồ: 882 triệu đô la Mỹ vào năm

2006. Ngay trước đó, một tập đoàn bán lẻ khổng lồ khác, Carrefour cũng phải rút

khỏi thị trường Hàn Quốc bằng việc bán lại 32 cửa hàng bán lẻ của mình cho một

doanh nghiệp nội địa là E-land theo một hợp đồng trị giá 1,85 tỷ đô la Mỹ

(Renee, Kim B 2006, tr3-7). Shinsegae là nhà bán lẻ lớn nhất Hàn Quốc, chiếm

tới 30% thị phần cả thị trường bán lẻ. Tập đoàn này được xếp hạng 85 trong top

250 nhà bán lẻ lớn nhất toàn cầu xét trên doanh số bán lẻ vào năm 2008. Doanh

thu bán lẻ của Shinsegae vào khoảng trên 10 tỷ đô (Deloitte 2010, tr.13).

Đây được coi là sự thành công khá bất ngờ vì trước đó hai đại gia này gần

như chưa khi nào gặp phải thất bại khi vươn ra các thị trường quốc tế. Thành

công của những nhà bán lẻ hàng đầu Hàn Quốc có thể được giải thích bằng

những lý do sau:

42

Page 43: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thứ nhất, về địa điểm kinh doanh: trong khi các doanh nghiệp bán lẻ đến

từ phương Tây lựa chọn địa điểm xây dựng cửa hàng là những khu diện tích lớn,

thường ở các vùng ngoại ô, xa trung tâm thì các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc

lại lựa chọn cho mình những cửa hiệu ở các khu trung tâm. Người dân Hàn Quốc

khác người dân phương Tây ở một điểm rất quan trọng là họ đi mua sắm thường

xuyên hơn. Vì vậy, mặc dù các cửa hàng của nhà bán lẻ trong nước diện tích nhỏ

song có thuận lợi về giao thông đã thu hút được số lượng khách nhiều hơn.

Thứ hai là về sản phẩm. Văn hóa Hàn Quốc rất ưa chuộng việc sử dụng

các sản phẩm sản xuất trong nước. Nắm bắt được tâm lý này, các nhà bán lẻ Hàn

Quốc luôn tìm cách tối đa hóa danh mục sản phẩm của mình bằng những sản

phẩm nội địa. Bên cạnh đó, người Hàn Quốc cũng rất quan trọng đến cách trưng

bày sản phẩm hay chính xác hơn chính là tính thẩm mỹ của mỗi gian hàng. Trong

khi tập đoàn bán lẻ từ phương Tây do quá chú trọng tới việc tận dụng từng

khoảng không gian nhỏ để bày được nhiều hàng hóa đã quên mất việc đầu tư vào

cách bài trí gian hàng. Ngược lại, trong các cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp

Hàn Quốc, hàng hóa được bày rất đẹp mắt, thuận tiện cho khách hàng có thể tự

tay kiểm tra thay vì phải nhờ tới sự trợ giúp của nhân viên phục vụ. Hàng hóa

bán trong các cửa hiệu như E-mart hiếm khi bị gói kỹ trong hộp kín như hàng

hóa bày bán trong chuỗi các siêu thị của Wal-mart hay Carrefour. Ngoài ra, lựa

chọn về chủng loại sản phẩm cũng được các tập đoàn bán lẻ Hàn Quốc sử dụng

để cạnh tranh với các tập đoàn châu Âu và Bắc Mỹ. Người dân Hàn Quốc thích

mua những sản phẩm tươi sống thay vì sản phẩm qua chế biến. Do đó, trong mỗi

siêu thị của Shinsegae hay Lotte, người tiêu dùng có thể dễ dàng tìm kiếm thực

phẩm theo nhu cầu của mình tại các quầy thực phẩm tươi sống trong khuôn viên

siêu thị. Trong khi đó, Wal-mart hay Carrefour lại tập trung trưng bày các sản

phẩm đóng hộp, thực phẩm khô hay đồ điện tử gia dụng.

Lý do thứ ba chính là các chương trình khuyến khích mua hàng. Các cửa

hàng của E-mart hay Lotte đã thành công bằng việc thuê những nhân viên sử

dụng các hệ thống loa cỡ lớn hay xếp hàng vào giờ mở cửa và chào đón khách

43

Page 44: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

hàng bằng những tràng vỗ tay lớn. Phong cách này đã thu hút được sự chú ý của

một số lượng lớn khách hàng.

Lý do thứ tư khiến các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc giành được ưu thế

là ở chỗ họ đã biết xây dựng mối quan hệ mật thiết với những nhà sản xuất, cung

cấp hàng hóa nội địa. Wal-mart hay Carrefour luôn tìm cách hạ thấp giá mua

hàng để đạt được lợi thế về giá sản phẩm bán ra bằng những cách tác động lên

nhà sản xuất, phân phối sản phẩm. Nhiều trường hợp, những tập đoàn lớn này đã

tận dụng ưu thế về mặt tài chính của mình để gây sức ép với nhà cung cấp, khiến

một số lượng lớn tỏ ra hết sức bất bình. Khi xuất hiện trên thị trường Hàn Quốc,

các nhà bán lẻ phương Tây này đã gặp phải nhiều vụ khởi kiện từ nhà sản xuất,

ảnh hưởng đến uy tín của mình. Nhà sản xuất nội địa do đó khá e dè trong việc

bắt tay với những nhà bán lẻ này. Trong khi đó, những nhà bán lẻ hàng đầu Hàn

Quốc đã tận dụng cơ hội để củng cố mối quan hệ của mình với những nhà cung

cấp truyền thống. Vì vậy, họ luôn đảm bảo được nguồn hàng dồi dào, giá cả ổn

định cung cấp cho khách hàng.

Bài học rút ra được từ thành công của những nhà bán lẻ Hàn Quốc là họ

đã nắm rõ tâm lý, hiểu được văn hóa, truyền thống, thói quen mua sắm của người

tiêu dùng nội địa. Từ đó, họ có thể điều chỉnh những chiến lược phù hợp với

những biến động trên thị trường.

44

Page 45: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ

VIỆT NAM VÀ NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

THỊ TRƯỜNG TRONG TƯƠNG LAI

I. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM

1. Khái quát về thị trường bán lẻ Việt Nam

1.1 Các loại hình kinh doanh bán lẻ khá phong phú đa dạng

1.1.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn chiếm ưu thế

Thị trường bán lẻ Việt Nam nhìn chung là thị trường phân tán và quy mô

còn khá khiêm tốn nếu xét trên quy mô dân số. Chợ và các cửa hàng theo kiểu hộ

gia đình vẫn chi phối cả thị trường. Mặc dù quy định mới về việc cấm bán hàng

rong tại một số quận nội thành ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã được ban

hành từ tháng 2/2008, loại hình này vẫn giữ vai trò đáng kể trong thói quen mua

sắm của người Việt Nam.

Đặc biệt ở khu vực nông thôn nơi có hơn 70% dân số Việt Nam đang sinh

sống, hệ thống bán lẻ truyền thống chiếm vị trí gần như áp đảo.

Theo thống kê của RNCOS, trong thời kỳ từ 2006 đến nay, doanh thu từ

hệ thống bán lẻ truyền thống đang giữ khoảng 90% tổng doanh thu bán lẻ hàng

hóa trên thị trường. Riêng tại thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh, nơi xuất hiện

ngày càng nhiều các mô hình bán lẻ hiện đại, thị phần của hệ thống bán lẻ truyền

thống vào khoảng 75-80% (RNCOS 2008, tr.62).

1.1.2 Các loại hình kinh doanh bán lẻ hiện đại khá phong phú, đa dạng

Hệ thống bán lẻ hiện đại hiện đang tồn tại ở Việt Nam dưới rất nhiều hình

thức khác nhau: trung tâm mua sắm, trung tâm thương mại, đại siêu thị, siêu thị,

siêu thị nhỏ, cửa hàng tiện ích, cửa hàng chuyên doanh,…

45

Page 46: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thành phố Hồ Chí Minh là nơi siêu thị đầu tiên xuất hiện ở Việt Nam.

Tháng 10 năm 1993, siêu thị đầu tiên được mở là một siêu thị thuộc sở hữu nhà

nước. Tính từ thời điểm đó tới nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia

tăng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và sự tăng trưởng mạnh mẽ của

ngành du lịch nội địa đã thúc đẩy các mô hình bán lẻ hiện đại nở rộ ở Việt Nam.

Sự tăng lên về số lượng các cửa hàng bán lẻ hiện đại ở 6 thành phố lớn là Hà

Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ và Hồ Chí Minh có thể được thể

hiện trong bảng sau trong tương quan với số lượng các cửa hàng thuộc kênh bán

lẻ truyền thống.

KÊNH BÁN LẺ 2006

2007 2008

SỐ

LƯỢNG

TỶ LỆ

TĂNG (%

SO VỚI

2006)

SỐ

LƯỢNG

TỶ LỆ

TĂNG (%

SO VỚI

2007)

Hiện đại (các loại

hình siêu thị và cửa

hàng tiện ích)

230 368 60 425 15,5

Truyền thống 88.035 96.957 10 99.687 2,8

Bảng III.1: Số lượng cửa hàng bán lẻ theo loại hình tại 6 thành phố

lớn nhất Việt Nam

Nguồn: Global Agriculture

Information Network – GAIN 2010, tr.3-11

Hệ thống bán lẻ hiện đại của Việt Nam ngoài việc phân chia dựa trên mô

hình kinh doanh còn có thể phân loại dựa trên hình thức sở hữu. Theo đó, các cửa

hàng bán lẻ hiện đại có thể được phân thành ba loại với những đặc trưng sau:

46

Page 47: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thuộc sở hữu nhà nước: mặc dù siêu thị bán lẻ hiện đại đầu tiên của Việt

Nam là của nhà nước song các cửa hàng bán lẻ loại này đang ngày càng mất

dần thị phần trên thị trường bán lẻ. Tốc độ tăng trưởng của mô hình kinh

doanh bán lẻ thuộc sở hữu nhà nước cũng thấp nhất, chỉ đạt khoảng 12%/năm

trong giai đoạn từ 2002-2008 (RNCOS 2008, tr.56).

Thuộc sở hữu tư nhân hay các doanh nghiệp trong nước: loại hình này đang

dẫn đầu về số lượng các cửa hàng, chiếm vị trí áp đảo trên thị trường bán lẻ.

Tốc độ tăng trưởng hàng năm đều trên 20% (RNCOS 2008, tr.56).

Sài Gòn Co.op Mart – Nhà bán lẻ hàng đầu Việt Nam

Ví dụ thành công nhất về nhà bán lẻ Việt Nam không thuộc sở hữu nhà nước

là chuỗi siêu thị Co.opMart. Từ khi siêu thị đầu tiên ra đời (Co.pMart Cống

Quỳnh) năm 1996, Saigon-Co.op đã không ngừng phát triển và trở thành hệ

thống siêu thị bán lẻ lớn nhất Việt Nam với hơn 40 siêu thị. Hệ thống siêu thị

Co.opMart là một trong những hệ thống siêu thị lớn trong nước với sự đầu tư

hiện đại, công nghệ quản lý chuyên nghiệp. Thành công của chuỗi siêu thị Sài

Gòn Co.op Mart có được là do những người lãnh đạo ngay từ thời kỳ đầu đổi

mới đã nhanh chóng thay đổi tư duy, học hỏi kinh nghiệm bán lẻ từ các thị

trường phát triển trong khu vực và trên thế giới, sớm phát triển mô hình kinh

doanh theo hướng hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển chung của thị trường.

Thành công của Sài Gòn Co.op Mart đáng kể nhất là doanh nghiệp bán lẻ duy

nhất của Việt Nam được bầu chọn trong top 500 nhà bán lẻ hàng đầu châu Á

trong sáu năm liên tiếp (2004-2009)

Thuộc sở hữu nước ngoài: mặc dù các mô hình kinh doanh này mới chỉ giữ

thị phần nhỏ trên thị trường nhưng tăng trưởng khá mạnh, gần 20%/năm và

dự đoán sau khi thị trường được hoàn toàn mở cửa thì sẽ đạt mức tăng lớn

hơn đáng kể (RNCOS 2008, tr.58).

47

Page 48: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Trên thị trường bán lẻ Việt Nam, Big C và Metro là hai tập đoàn bán lẻ đến

từ nước ngoài có hoạt động rộng khắp nhất. Hai tập đoàn này sẽ được trình bày

trong phần kế tiếp khi phân tích về sự phát triển của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu.

1.2 Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động

và chiếm lĩnh thị trường

Mặc dù phải đến thời điểm 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam mới mở

cửa cho các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động theo những cam kết

trong khuôn khổ WTO, trên thực tế, các cơ sở bán lẻ 100% vốn đầu tư nước

ngoài đã có mặt ở Việt Nam từ cuối những năm 1990.

Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài lớn hiện đang hoạt động trên thị

trường Việt Nam gồm có chuỗi siêu thị Big C của tập đoàn Casino (Pháp), các

đại siêu thị bán buôn của Metro Cash & Carry (Đức), tập đoàn Parkson của

Malaysia, Dairy Farm của Hồng Kông, Lotte của Hàn Quốc,.v.v. Trong phần này

em xin được phân tích mô hình kinh doanh bán lẻ của một số tập đoàn nước

ngoài tại Việt Nam.

Big C

Big C thuộc quyền sở hữu của tập đoàn Casino. Đây là một trong những

tập đoàn bán lẻ hàng đầu châu Âu với hơn 9.000 cửa hàng tại hàng chục các quốc

gia châu Âu và châu Á. Số lượng nhân viên của tập đoàn này lên tới 190.000.

Big C xuất hiện ở Việt Nam bằng việc mở siêu thị ở Đồng Nai vào năm

1998. Hiện nay, Big C đã mở rộng hoạt động của mình sang hầu hết các thành

phố lớn của Việt Nam, bao gồm: thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng,

Huế, Đà Nẵng, Biên Hòa, với tổng số 10 đại siêu thị và siêu thị bán lẻ. Big C ở

Hà Nội (Bourbon Thăng Long) là đại siêu thị lớn nhất trong chuỗi 10 trung tâm.

Mỗi trung tâm mua sắm của Big C phục vụ trên 50.000 mặt hàng với chủng loại

vô cùng phong phú. Ở các siêu thị của Big C, khách hàng có thể lựa chọn thực

phẩm tươi sống, hàng tạp hóa, quần áo, đồ trang trí nội thất, cũng như các mặt

hàng điện máy như đồ gia dụng và thiết bị nghe nhìn. Giá của các mặt hàng trong

48

Page 49: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

chuỗi các siêu thị Big C đều có giá cả cạnh tranh và một số lượng lớn được bán

với giá thấp hơn giá bán tại các chợ truyền thống.

Metro Cash & Carry

Trung tâm Metro đầu tiên khai trương ở Việt Nam vào tháng 3 năm 2002

tại thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến thời điểm cuối năm 2009, tập đoàn Metro

đã có 9 đại siêu thị hoạt động ở Việt Nam: 3 trung tâm tại thành phố Hồ Chí

Minh, 1 trung tâm tại thành phố Biên Hòa, 2 trung tâm ở thủ đô Hà Nội, và ở

thành phố khác là Cần Thơ, Đà Nẵng và Hải Phòng. Theo kế hoạch, trong năm

2010, 4 trung tâm mua sắm của Metro sẽ tiếp tục ra đời trên thị trường bán lẻ

Việt Nam.

Cash and Carry là trả tiền mặt và vận chuyển. Phương thức kinh doanh

này còn khá mới mẻ trên thị trường Việt Nam nhưng đã khá phổ biển và gặt hái

được thành công trên các thị trường phát triển. Nhóm khách hàng mục tiêu là các

khách hàng chuyên nghiệp, thường xuyên mua sắm với khối lượng lớn. Nhóm

khách hàng này bao gồm các nhà bán buôn, nhà phân phối, các đại lý, chủ các

cửa hiệu tạp hóa, nhà hàng, khách sạn,… Metro chỉ phục vụ cho những khách

hàng có thẻ hội viên.

Parkson

Parkson thuộc sở hữu của công ty Malaysia hiện đang quản lý hơn 70

trung tâm ở Malaysia và Trung Quốc.

Tại Việt Nam, Parkson bắt đầu mở trung tâm mua sắm đầu tiên ở thành

phố Hồ Chí Minh vào năm 2005 và đến nay đã có tất cả 6 trung tâm mua sắm

Parkson ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng. Mô hình kinh doanh của

Parkson là chuỗi các trung tâm mua sắm tập trung những nhãn hiệu thời trang,

mỹ phẩm và các sản phẩm thời thượng nhất trên thế giới nhằm vào đối tượng

khách hàng mục tiêu là tầng lớp trung lưu và thượng lưu trong xã hội. Phương

châm kinh doanh của Parkson là đem đến cho khách hàng những trải nghiệm

mua sắm thú vị và độc đáo bằng việc thiết kế những gian hàng có tính thẩm mỹ

49

Page 50: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

cao, một bộ sưu tập vô cùng đa dạng những nhãn hàng nổi tiếng nhất trên thế

giới. Parkson luôn đưa ra những chương trình khuyến mại giảm giá lớn vào mỗi

dịp lễ, tết đặc trưng trên mỗi thị trường.

Best Carings

Best carings là chuỗi siêu thị chuyên kinh doanh hàng điện tử gia dụng.

Chuỗi cửa hàng này ra đời là kết quả của hợp đồng nhượng quyền thương mại

giữa công ty Tiếp thị Bến Thành và tập đoàn bán lẻ điện tử của Nhật bản là Best

Denki.

Từ năm 1999, công ty Tiếp thị Bến Thành đã kinh doanh sản phẩm điện tử

gia dụng và liên tục giữ vị trí doanh nghiệp bán buôn sản phẩm điện máy lớn

nhất Việt Nam. Doanh thu từ hoạt động kinh doanh của công ty luôn tăng trưởng

ở mức trên 50% suốt từ năm 2006.

Tập đoàn bán lẻ điện tử Nhật Bản Best Denki bắt đầu hoạt động trên thị

trường quốc tế từ năm 1985. Tính đến thời điểm hết năm 2009, tập đoàn này đã

có 40 cửa hàng trên khắp châu Á.

Phương châm kinh doanh của Best Carings Việt Nam là kết hợp giữa thế

mạnh của sự hiểu biết về nhu cầu người tiêu dùng trong nước của Carings và

phương pháp tiếp cận khách hàng của doanh nghiệp Nhật Bản. Siêu thị Best

Carings đi vào hoạt động đầu tiên vào năm 2008 ở Hà Nội. Đây là siêu thị điện

máy đạt tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên ở thành phố này với công nghệ quản lý,

phong cách trưng bày và dịch vụ khách hàng đều theo tiêu chuẩn Nhật Bản. Hiện

nay chuỗi siêu thị của Best Carings ở Việt Nam đã mở được 3 siêu thị ở 3 thành

phố lớn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Kế hoạch kinh doanh

của Best Carings là đến hết năm sẽ có 11 cửa hàng trên khắp Việt Nam và trở

thành nhà bán lẻ điện máy lớn nhất, hoạt động chuyên nghiệp nhất ở Việt Nam.

1.3 Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn yếu kém

50

Page 51: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1.3.1 Quy mô nhỏ

Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nói chung đều gặp khó khăn về vốn. Có

thể lấy một ví dụ rất điển hình. Một siêu thị bán lẻ do một doanh nghiệp Việt

Nam mở thường chỉ được đầu tư số vốn chưa đến 10 tỷ trong khi đó nhà bán lẻ

nước ngoài có thể đầu tư gấp 13 lần, lên đến 130 tỷ. Một hệ quả khá rõ ràng là

doanh thu bình quân của một siêu thị Việt Nam chỉ bằng 35% một siêu thị của

nước ngoài (Hồng, Văn 2009).

Nguồn vốn hạn chế là một trong những thách thức lớn nhất mà doanh

nghiệp Việt Nam phải đối mặt trong cuộc đua với những tập đoàn bán lẻ nước

ngoài. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán lẻ

nhưng còn mở rộng quy mô kinh doanh sang một số lĩnh vực khác như xuất nhập

khẩu nên vốn dành cho hoạt động bán lẻ lại càng bị hạn chế.

Do thiếu vốn, các nhà bán lẻ Việt Nam không thể đầu tư cho nghiệp vụ

hậu cần: bến bãi, kho hàng hay phương tiện chuyên chở. Điều này khiến cho các

nhà bán lẻ Việt Nam ngày càng tụt lại trong cuộc đua với những nhà bán lẻ nước

ngoài chuyên nghiệp. Vì đầu tư vào kho bãi rất nhỏ bé, họ không thể dự trữ số

lượng hàng lớn do vậy không thể nhanh nhạy đáp ứng nhu cầu thị trường như các

nhà bán lẻ nước ngoài. Bên cạnh đó, phần lớn kho hàng của các doanh nghiệp

bán lẻ Việt Nam đều rơi vào tình trạng khá lạc hậu, không được trang bị đầy đủ

hệ thống làm mát. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hàng hóa bán ra.

Hạn chế về phương tiện chuyên chở cũng làm giảm tính cạnh tranh của

các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Nếu trên các thị trường phát triển và trong

các chuỗi siêu thị bán lẻ của các nhà đầu tư nước ngoài, xe chuyên chở hạng

nặng, lên tới trên 30 tấn và xe container hay pallet xuất hiện ngày càng nhiều, các

hệ thống siêu thị của nhà bán lẻ Việt Nam vẫn sử dụng hệ thống xe hạng nhẹ

dưới 7 tấn. Năng lực chuyên chở hạn chế khiến các doanh nghiệp Việt Nam tốn

nhiều thời gian hơn và không thể đưa đến khách hàng những dịch vụ nhanh nhất,

chất lượng nhất.

51

Page 52: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1.3.2 Trình độ quản lý lạc hậu

Do lĩnh vực bán lẻ hiện đại của Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu vào khoảng

những năm 1990 nên kinh nghiệm các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có được

khá hạn chế. Đội ngũ quản lý thiếu cơ hội tiếp cận với những mô hình bán lẻ đã

thành công trên thế giới. Tỷ lệ những nhà quản lý có kinh nghiệm trên thị trường

quốc tế còn ở mức rất nhỏ. Mô hình quản lý ở hầu hết các cơ sở bán lẻ của Việt

Nam đều khá cứng nhắc, kém linh hoạt.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực làm quản lý cũng rất thiếu hụt. Trên thị

trường lao động nói chung, lượng cầu về những vị trí quản lý quan trọng (từ

trưởng phòng trở lên) luôn vượt quá lượng cung. Do vậy, các công ty trên thị

trường luôn phải tìm mọi cách thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao bằng việc

đưa ra các ưu đãi về lương và các hình thức hỗ trợ khác. Các doanh nghiệp bán lẻ

Việt Nam vì tiềm lực tài chính hạn chế, không có kinh nghiệm trong việc xây

dựng các chương trình đãi ngộ công nhân viên nên thường tỏ ra yếu thế trong

việc tuyển dụng những vị trí hàng đầu có khả năng chỉ đạo hoạt động kinh doanh,

vạch chiến lược dài hạn cho công ty. Đây là một cản trở rất lớn cho sự thành

công của các doanh nghiệp nước nhà.

1.3.3 Chất lượng nguồn nhân lực nói chung còn thấp

Nguồn lao động làm việc trong ngành bán lẻ hiện nay phần lớn đều không

được đào tạo bài bản. Nguyên nhân chính là do ở Việt Nam hiện chưa có một

chương trình đào tạo chính quy nào về ngành bán lẻ. Nhân viên làm việc trong

các siêu thị hầu hết chỉ tốt nghiệp phổ thông.

Bên cạnh đó, bản thân các doanh nghiệp cũng không tỏ ra thực sự hiệu

quả trong quá trình đào tạo nhân viên của mình. Tình trạng thường thấy ở các

siêu thị, cửa hàng tiện ích do doanh nghiệp Việt Nam làm chủ là hiểu biết của

nhân viên về các loại hàng hóa thường rất hạn chế. Số lượng nhân viên có đủ

kiến thức để giải đáp mọi thắc mắc của khách hàng chỉ là một tỷ lệ rất nhỏ. Một

hạn chế nữa của đội ngũ nhân viên làm việc cho các nhà bán lẻ Việt Nam là trình

52

Page 53: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

độ ngoại ngữ (tiếng Anh) rất yếu kém. Phần lớn không đủ khả năng giao tiếp với

khách hàng ngoại quốc. Điều này dẫn đến tình trạng là ngày càng nhiều khách

hàng nước ngoài e dè khi đi mua sắm trong các siêu thị của Việt Nam. Đây là

một điều rất đáng tiếc vì đối tượng này thường là những khách hàng khá tiềm

năng, sức mua trung bình lớn hơn khách hàng Việt Nam và do vậy có thể đem lại

khoản doanh thu đáng kể.

1.3.4 Hoạt động liên kết hạn chế

Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vào thời điểm hiện nay vẫn chưa nhận

thức được đầy đủ tầm quan trọng của việc liên kết. Trên cả nước hiện mới chỉ ghi

nhận hai tổ chức của các nhà bán lẻ trong nước. Đó là Hiệp hội các nhà bán lẻ

Việt Nam (AVR) và công ty cổ phần cổ phần Đầu tư và phát triển hệ thống phân

phối Việt Nam (VDA).

Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam – AVR.

AVR được thành lập vào tháng 7 năm 2007 sau khi Việt Nam trở thành

thành viên WTO. Trước tình hình các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài xâm nhập

vào Việt Nam với tốc độ ngày càng tăng, 100 doanh nghiệp hoạt động trong

ngành bán lẻ và các lĩnh vực liên quan đến bán lẻ đã tập hợp nhằm cùng nhau

phát triển trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn. Vào thời

điểm thành lập, hiệp hội có 100 thành viên. Hiện nay số lượng thành viên đã lên

hơn 150.

Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển hệ thống phân phối Việt Nam

Theo sáng kiến của 4 doanh nghiệp phân phối hàng đầu Việt Nam là Tổng

công ty Thương mại Hà Nội (Hapro), Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra),

Liên hiệp Hợp tác xã thương mại thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) và

Công ty Cổ phần Tập đoàn Phú Thái (Phu Thai Group), VDA được thành lập ra

vào ngày 01 tháng 02 năm 2007. Số vốn ban đầu là 1.500 tỷ đồng để xây dựng cơ

sở hạ tầng thương mại, trong đó có hệ thống tổng kho với các trang thiết bị hiện

53

Page 54: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

đại. Mục tiêu của công ty là trở thành tập đoàn phân phối số 1 Việt Nam (Kiều,

Hương 2007).

Lợi ích của liên kết để cạnh tranh với các công ty nước ngoài là khá rõ

ràng. Tuy nhiên, trên thị trường bán lẻ Việt Nam hiện nay, ngoài hai liên kết nói

trên thì gần như chưa xuất hiện liên minh đáng chú ý nào giữa các doanh nghiệp

nội địa hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Nguyên nhân dẫn đến tình hình trên có

thể kể tới đầu tiên là do phần lớn các doanh nghiệp chưa nhận thức được sức

mạnh đến từ việc liên kết. Rất nhiều doanh nghiệp lo sợ bí quyết kinh doanh của

họ có thể bị doanh nghiệp khác đánh cắp.

Do chưa hiểu rõ được vai trò của liên kết, và những liên kết trên thị trường

mới chỉ hạn chế ở mục đích hỗ trợ thành viên về vốn hay xây dựng thương hiệu,

các tổ chức liên kết của các nhà bán lẻ Việt Nam chưa phát huy được ý nghĩa to

lớn của mình.

2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động thị trường bán lẻ

Cam kết của Việt Nam trong khuôn khổ WTO:

Những dịch vụ phân phối Việt Nam cam kết mở cửa khi gia nhập WTO,

bao gồm dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán buôn, dịch vụ bán lẻ (kể cả

hoạt động bán hàng đa cấp) và dịch vụ nhượng quyền thương mại.

Những loại hàng hóa nhà đầu tư nước ngoài được phép phân phối tại Việt

Nam:

Từ ngày 11/1/2010, không có bất cứ sự hạn chế nào về hàng hóa nhà đầu

tư nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam, miễn là hàng hóa đó được sản

xuất tại Việt Nam hoặc được nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.

Các hình thức nhà đầu tư nước ngoài có thể thực hiện hoạt động phân phối ở

Việt Nam:

Lập liên doanh với đối tác Việt Nam: từ ngày 1/1/2008 không còn

bất cứ hạn chế nào về tỷ lệ vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài.

54

Page 55: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Lập doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài (thực hiện từ sau

1/1/2009)

Hạn chế chung cho cả hai hình thức này là họ chỉ được phép cung cấp

dịch vụ bán lẻ thông qua các cơ sở bán lẻ (siêu thị, cửa hàng tiện ích,…). Tuy

nhiên, các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được tự động mở

một cơ sở bán lẻ. Việc mở thêm cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở thứ nhất phải được cơ

quan nhà nước có thẩm quyền cho phép.

Như vậy, kể từ thời điểm 1/1/2009, thị trường bán lẻ Việt Nam đã mở cửa

cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoạt động. Quá trình thực hiện

theo đúng cam kết của WTO này đã có tác động trực tiếp và mạnh mẽ lên những

chủ thể chính trên thị trường bán lẻ Việt Nam.

2.1 Tác động tích cực

2.1.1 Đối với thị trường bán lẻ Việt Nam nói chung

Kể từ thời điểm 1/1/2009, hầu như mọi rào cản trên thị trường bán lẻ Việt

Nam đều được dỡ bỏ. Việc này đồng nghĩa với việc đầu tư của doanh nghiệp bán

lẻ nước ngoài sẽ không ngừng tăng lên. Trên thị trường bán lẻ Việt Nam, cạnh

tranh sẽ trở nên sôi động hơn. Bên cạnh đó, hình thức các loại doanh nghiệp cũng

trở nên đa dạng hơn, tình hình liên kết giữa các doanh nghiệp nước ngoài và các

doanh nghiệp nội địa cũng như giữa các doanh nghiệp nội địa với nhau càng trở

nên phổ biến. Kết quả là nhiều hình thức sở hữu mới ra đời làm cho thị trường

bán lẻ của nước ta càng trở nên phong phú. Thị trường sẽ ngày càng hướng tới

các mô hình kinh doanh tiên tiến trên thế giới.

Khi thị trường bán lẻ Việt Nam được mở cửa hoàn toàn, hàng loạt các

trung tâm mua sắm, đại siêu thị, siêu thị, cửa hàng tiện ích,… sẽ ra đời. Điều này

chắc chắn sẽ dẫn đến nhu cầu tìm kiếm một số lượng lao động khổng lồ. Ngành

bán lẻ hiện nay vẫn dẫn đầu là ngành sử dụng lao động nhiều nhất trong nền kinh

tế toàn cầu. Việc mở cửa thị trường bán lẻ Việt Nam còn tạo điều kiện cho lao

55

Page 56: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

động Việt Nam được làm việc trong môi trường có tính quốc tế cao, được đào tạo

bài bản và tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại của thế giới.

2.1.2 Đối với các chủ thể trên thị trường bán lẻ trong nước

Đối với doanh nghiệp bán lẻ nội địa

Sau khi thị trường bán lẻ được mở cửa hoàn toàn, một số lượng lớn các

nhà bán lẻ toàn cầu sẽ đến Việt Nam, mang theo công nghệ mới, phong cách

quản lý hiện đại, chuyên nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam nhờ đó có cơ hội học

hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những nét tiên tiến mà các doanh nghiệp nước ngoài

mang lại. Thông qua cách thức làm việc chuyên nghiệp mà những nhà bán lẻ lớn

trên thế giới đem lại, doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp thu để không chỉ áp

dụng trên thị trường nội địa mà vươn ra quốc tế.

Do cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn, các doanh nghiệp trong

nước muốn tồn tại phải không ngừng cải thiện, loại bỏ những phong cách làm

việc quan liêu, bao cấp do ảnh hưởng từ thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung. Họ sẽ

quan tâm hơn nhiều đến việc đổi mới mình nhằm giữ thị phần trước sự đe dọa

của các tập đoàn dày dặn kinh nghiệm đến từ các nước phát triển.

Đối với nhà sản xuất trong nước

Các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào thị trường Việt Nam chắc chắn

sẽ giúp mở rộng thị trường đầu ra cho hàng ngàn sản phẩm của các nhà sản xuất

trong nước. Mỗi hệ thống mua sắm hiện đại là nơi trưng bày và bán hàng loạt các

chủng loại sản phẩm khác nhau. Cơ hội cho nhà sản xuất trong nước hợp tác với

các nhà bán lẻ nước ngoài nhằm giới thiệu sản phẩm của mình qua các tên tuổi

hàng đầu thế giới là rất lớn.

Bên cạnh đó, nếu các nhà sản xuất trong nước khẳng định được tên tuổi

của mình bằng các sản phẩm chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, giá cạnh tranh, cơ

hội trở thành nhà phân phối độc quyền cho các nhà bán lẻ lớn nhất thế giới hoàn

toàn có thể. Trong trường hợp đó, sản phẩm của họ chắc chắn sẽ có cơ hội xuất

hiện tại những thị trường phát triển nhất trên thế giới.

56

Page 57: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Đối với người tiêu dùng

Lợi ích đầu tiên và rõ ràng nhất là người tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội lựa

chọn hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của bản thân và gia đình. Các doanh

nghiệp nước ngoài vào Việt Nam chắc chắn sẽ giới thiệu một số lượng lớn các

mặt hàng mới, hiện đại và tiện ích hơn. Do đó, người tiêu dùng có thể chọn được

những mặt hàng chất lượng tốt nhất và giá cả cạnh tranh.

Việc các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới đặt chân vào Việt Nam sau khi

Chính phủ mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ giúp người tiêu dùng dần tiếp cận

với các phương thức kinh doanh hiện đại và thay đổi thói quen mua sắm của

người dân Việt Nam. Mặc dù trong thời gian gần đây, hệ thống bán lẻ hiện đại đã

giành được thị phần không nhỏ song kênh bán lẻ truyền thống vẫn chiếm ưu thế.

Vì vậy, cùng với việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ từ đầu năm 2009, số

lượng các cửa hàng, trung tâm bán lẻ hiện đại tăng lên sẽ đẩy nhanh quá trình

hiện đại hóa phong cách mua sắm của đa số người dân, kể cả người dân có mức

sống trung bình hay một bộ phận lớn người dân sống sống ở vùng nông thôn.

Bên cạnh đó, cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường bán lẻ Việt

Nam sẽ khiến các doanh nghiệp không ngừng đổi mới để tạo được lợi thế về giá

cũng như chất lượng sản phẩm hay dịch vụ khách hàng.

2.2 Tác động tiêu cực

Các cửa hàng bán lẻ truyền thống

Trong khi hệ thống bán lẻ truyền thống (chợ và các cửa hàng tạp hóa, cửa

hàng tư nhân) vẫn đang chiếm tỷ trọng áp đảo trên thị trường bán lẻ Việt Nam, sự

xâm nhập thị trường của các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới chắc chắn sẽ đe dọa

vị trí của loại hình bán lẻ này. Hệ thống bán lẻ truyền thống vẫn tồn tại và phát

triển cho đến ngày nay chính là nhờ lợi thế về giá. Tuy nhiên, khi các nhà bán lẻ

nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh, họ hoàn toàn có khả năng chi phối nguồn

cung đảm bảo hàng hóa của họ có giá bằng hoặc thấp hơn ngoài chợ. Thêm vào

57

Page 58: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

đó, hàng hóa ở các trung tâm bán lẻ hiện đại thường ít biến động hơn về giá cả sẽ

thu hút một lượng lớn khách hàng. Như vậy, công việc kinh doanh của một tỷ lệ

lớn các tiểu thương Việt Nam có nguy cơ bị phá sản.

Đối với doanh nghiệp bán lẻ

Cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam với các đại gia

bán lẻ toàn cầu có thể là cuộc cạnh tranh một mất một còn và phần thắng có

nhiều khả năng sẽ thuộc về những tập đoàn đa quốc gia với tài chính khổng lồ và

kinh nghiệm dạn dày.

Nhiều nhà bán lẻ nước ngoài như Wal-mart, Metro có lợi thế về giá vì họ

nắm được thế chủ động trước các nhà sản xuất, phân phối dựa vào sức mạnh tài

chính của mình nên kiểm soát được nguồn hàng và đảm giá thấp hơn đối thủ

cạnh tranh. Đây có thể là nguyên nhân khiến khách hàng từ bỏ các cửa hàng mua

sắm quen thuộc để đến với các trung tâm bán lẻ hiện đại.

Đối với nhà sản xuất nội địa

Cơ hội cho nhà sản xuất nội địa là rất lớn tuy nhiên thách thức cũng không

hề nhỏ.

Thứ nhất, để được trở thành nhà cung cấp sản phẩm cho các tập đoàn bán

lẻ hàng đầu thế giới, nhà sản xuất Việt Nam sẽ phải điều chỉnh hàng loạt các kế

hoạch sản xuất của mình để có thể cho ra những sản phẩm đáp ứng tiêu chuẩn

quốc tế. Những tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ khắt khe hơn những tiêu chuẩn mà

trong nước đang áp dụng.

Thứ hai, các nhà bán lẻ nước ngoài khi vào Việt Nam có thể sẽ mang theo

hàng hóa từ các nhà cung cấp độc quyền và lâu năm của họ từ nước ngoài.

Những hàng hóa này chưa tính đến khả năng được bán với giá thấp hơn sản phẩm

cùng loại sản xuất trong nước thì hoàn toàn có thể vượt trội về chất lượng, mẫu

mã, bao bì. Do đó, sản phẩm xuất xứ nội địa sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh

khá gay gắt và có thể sẽ đánh mất thị phần.

58

Page 59: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thứ ba, nếu các nhà sản xuất nội địa có thể trở thành nhà cung cấp cho

các chuỗi cửa hàng bán lẻ hiện đại thuộc sở hữu của các doanh nghiệp nước

ngoài, nguy cơ bị các doanh nghiệp này chèn ép không thể không tính đến. Các

tập đoàn bán lẻ luôn mong muốn hàng hóa bán trong chuỗi các cửa hàng của

mình có giá cả cạnh tranh nhất. Vì vậy, họ sẽ tận dụng tối đa ưu thế và tiềm lực

tài chính của mình để gây sức ép lên nhà cung cấp bằng việc ký kết các hợp đồng

dài hạn với giá cả thường bị cố định, khó thay đổi. Bên cạnh đó, nhà sản xuất

Việt Nam nói chung đều thiếu kinh nghiệm trên thị trường quốc tế và năng lực

khởi kiện khá hạn chế. Do đó họ khó có thể bảo vệ quyền lợi của mình trên thị

trường trước các nhà bán lẻ hùng mạnh.

Đối với người tiêu dùng

Mặc dù cơ hội tiếp cận với nguồn hàng phong phú hơn, giá cả cạnh tranh

và ổn định hơn là không thể phủ nhận, nguy cơ từ việc mở cửa là hoàn toàn có

thể xảy ra. Người Việt Nam từ trước đến nay vẫn coi trọng những giá trị truyền

thống phương Đông. Trong khi đó, các tập đoàn bán lẻ toàn cầu đang lên kế

hoạch xâm nhập thị trường Việt Nam chủ yếu đến từ Bắc Mỹ và Tây Âu. Khi

hoạt động ở Việt Nam họ sẽ liên tục giới thiệu những mặt hàng mới, kể cả những

mặt hàng chỉ phù hợp với lối sống phương Tây nên khó tránh khỏi ảnh hưởng

đến xã hội Việt Nam, tác động tiêu cực và làm mờ đi những giá trị truyền thống

hàng ngàn năm của người Việt.

3. Thuận lợi và khó khăn trong tương lai

3.1 Thuận lợi

3.1.1 Tốc độ tăng dân số cao, cơ cấu dân số trẻ, sức mua lớn

Tốc độ tăng dân số

Việt Nam là quốc gia có số dân đông thứ ba trong khu vực ASEAN và

đứng thứ 13 thế giới. Dân số Việt Nam theo thống kê vào tháng 4 năm 2009 đã ở

mức trên 85,7 triệu người. Trong thời kỳ 10 năm từ 1999 đến 2002 dân số Việt

59

Page 60: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Nam tăng trung bình 1,2%/năm. Dù trong thời gian gần đây dân số Việt Nam đã

có những dấu hiệu tăng trưởng chậm lại so với 50 năm cuối thế kỷ 20 song vẫn

cao hơn tỷ lệ tăng dân số thế giới 1,16% hàng năm (Tổng cục thống kê 2009).

Cùng với việc dân số tăng lên hàng năm, tốc độ đô thị hóa cũng đang diễn

ra ở Việt Nam khá mạnh mẽ, tốc độ trung bình năm 2007 và 2008 đều ở mức trên

2,5%. Chúng ta có thể thấy rõ hiện tượng gia tăng dân cư thành thị qua biểu đồ

sau:

2005 2006 2007 2008 200920

21

22

23

24

25

26

22.322.8

23.424.2

25.4

triệ

u n

ời

Biểu đồ III.1: số lượng dân cư sống ở các đô thị lớn ở Việt Nam 2004-2009

Nguồn: Tổng cục thống kê 2009

Cơ cấu dân số

Theo số liệu từ Tổng cục thống kê, Việt Nam vẫn là một nước có dân số

trẻ: dân số trong độ tuổi lao động cả nước là 55 triệu người. Vì vậy, so với một số

quốc gia khác trong cùng châu lục như Singapo hay Nhật Bản, sức mua của dân

số Việt Nam được đánh giá cao hơn và đầy tiềm năng. Bên cạnh đó, tỷ lệ dân số

Việt Nam biết chữ thuộc vào khoảng 98%, đây là một trong những tỷ lệ cao nhất

thế giới. Điều này khá thuận lợi cho các doanh nghiệp bán lẻ hoạt động trên thị

trường Việt Nam trong việc thực hiện các chiến lược marketing, quảng cáo, xúc

tiến mua hàng.

Sức mua hàng hóa

Thu nhập khả dụng của người dân Việt Nam liên tục tăng với tốc độ trung

bình 7%/năm trong những năm gần đây và được ước tính sẽ tiếp tục tăng trong

60

Page 61: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

những năm tới. Sự tăng trưởng của thu nhập khả dụng tính theo đầu người của

người Việt Nam đã khiến sức mua của người dân nói chung tăng.

Bên cạnh đó, thu nhập khả dụng tăng cũng kéo theo chi tiêu của người dân

vào các loại hàng hóa bán lẻ cũng tăng mạnh, tạo đà tăng cho thị trường bán lẻ.

Theo dự báo, chi tiêu của người Việt Nam từ nay đến năm 2012 sẽ tăng khoảng

gần 15%/năm. Sự gia tăng về thu nhập khả dụng tính trên đầu người và chi tiêu

của người dân Việt Nam nói chung giai đoạn 2002-2012 sẽ được biểu hiện rõ qua

biểu đồ sau:

2004 2006 2008 2010(dự báo)

2012(dự báo)

0

100

200

300

400

500

600

700

0100002000030000400005000060000700008000090000100000

306341

426

512

615

29575 38814

53102

69511

89685

thu nhập khả dụng/đầu người chi tiêu người dân nói chung

đô la

Mỹ

triệ

u đô

la M

ỹBiểu đồ III.2 : Thu nhập khả dụng/đầu người và chi tiêu người dân

Việt Nam 2002-2012

Nguồn: RNCOS 2008, tr.12-13

3.1.2 Kinh tế tăng trưởng nhanh bậc nhất khu vực và trên thế giới

Việt Nam liên tục dẫn đầu châu Á và trên thế giới về tốc độ tăng trưởng

kinh tế. Dự báo trong thời gian tới, GDP của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng

trên 5%.

Việt Nam cũng là một trong số các nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế

2008 sớm nhất. Theo bảng xếp hạng các thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất của

A.T.Kearney dựa vào GRDI, trong suốt khoảng thời gian 5 năm trở lại đây, Việt

61

Page 62: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Nam luôn có mặt trong top 30. Đặc biệt năm 2008, thị trường bán lẻ Việt Nam

được đánh giá số 1. Mặc dù năm 2009, thứ tự về trong bảng xếp hạng của thị

trường Việt Nam bị giảm xuống vị trí thứ 6 song các nhà đầu tư thế giới vẫn

đánh giá rất cao về thị trường bán lẻ của Việt Nam. Ngoài những nguyên nhân

như lòng tin của người tiêu dùng, mức độ mở cửa của thị trường thì mức độ tăng

trưởng và tính ổn định của nền kinh tế khiến các nhà đầu tư giữ được niềm tin

khi quyết định xâm nhập thị trường Việt Nam.

Doanh thu bán lẻ hàng hóa dịch vụ của Việt Nam cũng không ngừng tăng

lên trong thời gian qua. Trong đó doanh thu từ ngành bán lẻ thực phẩm tăng

mạnh nhất, khoảng 12%/năm trong khoảng thời gian từ 2003-2008. Doanh thu từ

thị trường bán lẻ của Việt Nam năm 2008 tương đương hơn 40% GDP danh

nghĩa của cả nước (RNCOS 2008, tr.27) và tỷ lệ này được xếp vào loại cao trong

khu vực châu Á, cao hơn cả Trung Quốc và Thái Lan, hai quốc gia có thị trường

bán lẻ tương đối phát triển. Các tổ chức kinh tế toàn cầu và các công ty phân tích

thị trường lớn nhất trên thế giới đều đưa ra những dự báo đầy lạc quan về thị

trường bán lẻ Việt Nam. Công ty RNCOS cho rằng doanh thu bán lẻ của Việt

Nam có thể đạt mức 85 tỷ đô la Mỹ vào năm 2012 còn phòng Thương mại của

Liên minh châu Âu Eurocham cũng dự báo thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ tăng

trên 50% trong khoảng 4-5 năm nữa.

3.1.3 Tập quán tiêu dùng thay đổi theo hướng hiện đại

Người tiêu dùng Việt Nam nói chung vẫn giữ những thói quen tiêu dùng

truyền thống. Đối với mặt hàng lương thực, thực phẩm, họ thích đi chợ hàng

ngày để mua thực phẩm cho gia đình mình. Một tỷ lệ khá lớn người Việt Nam

vẫn thích mua sắm ở các chợ hay cửa tạp hóa nhỏ do sự thuận lợi về giao thông,

tiết kiệm thời gian hoặc do mối quan hệ với người bán hàng. Trên thị trường Việt

Nam, các thực phẩm tươi sống được ưa thích hơn thực phẩm đã qua chế biến do

quan niệm về hàm lượng dinh dưỡng, độ “tươi” và đảm bảo của thực phẩm. Một

nguyên nhân nữa khiến nhiều người Việt Nam vẫn giữ thói quen mua thực phẩm

tươi hàng ngày là tỷ lệ các hộ gia đình có điều kiện sử dụng tủ lạnh và lò vi sóng

62

Page 63: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

còn khá khiêm tốn: chỉ khoảng 13% hộ gia đình sống ở các đô thị có lò vi sóng

(GAIN 2010, tr3-11).

Đối với mặt hàng phi thực phẩm, người Việt Nam vẫn giữ thói quen mua

sắm tại các cửa hàng tư nhân nhỏ nằm trên các khu phố mua sắm ở các đô thị

lớn. Nguyên nhân cũng ở sự thuận lợi về giao thông và đặc biệt là ưu thế về giá

cả so với hàng hóa bán ở các trung tâm mua sắm lớn.

Tuy nhiên, những năm gần đây, xu hướng tiêu dùng của người Việt Nam

ở thành thị đã xuất hiện những thay đổi theo hướng tiếp nhận phong cách mua

sắm hiện đại xuất phát từ những nguyên nhân sau:

Thứ nhất, mặc dù thu nhập trung bình của quốc gia vẫn ở mức thấp song

thu nhập khả dụng của người dân, đặc biệt là dân cư sống ở các thành phố lớn

tăng lên đáng kể. Điều này khiến họ không chỉ đặt mục tiêu giá cả lên đầu mà

ngày càng quan tâm đến chất lượng hàng hóa và dịch vụ khi đi mua sắm.

Thứ hai, lo ngại về vệ sinh an toàn thực phẩm ngày càng gia tăng sau một

loạt những phát hiện của cơ quan nhà nước có chức năng về các loại hàng hóa

bán ở các chợ hay cửa hàng tư nhân. Bên cạnh đó, nạn hàng giả, kém chất lượng

cũng ảnh hưởng đến một tỷ lệ không nhỏ người tiêu dùng khiến họ ngày càng

nhận thức được những lợi thế của việc mua sắm trong các khu bán lẻ hiện đại

Thứ ba, cũng giống như các xã hội châu Á nói chung, người tiêu dùng ở

Việt Nam ngày càng có xu hướng giảm bớt thời gian mua sắm. Vì vậy, việc có

thể mua được hàng loạt hàng hóa khác nhau ở cùng một địa điểm thu hút ngày

càng nhiều khách hàng.

Thứ tư, người tiêu dùng Việt Nam đang có xu hướng mua sắm kết hợp

giải trí cùng gia đình. Các khu thương mại với các tiện ích khác kèm theo như

khu đồ ăn nhanh, khu vui chơi cho trẻ em, hay thậm chí là các nhà hàng sang

trọng là sự lựa chọn của một số lượng ngày càng tăng người Việt Nam mỗi dịp

cuối tuần.

63

Page 64: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Thứ năm, quyết định mua sắm của người Việt Nam bị chi phối nhiều bởi

các chương trình quảng cáo hay khuyến mại, đặc biệt là đối tượng khách hàng

thanh thiếu niên. Về khía cạnh này, các cửa hàng mua sắm hiện đại luôn đi trước

các cửa hiệu truyền thống nên đã giành được thị phần tăng đáng kể.

3.2 Khó khăn

3.2.1 Thị trường thiếu quản lý

Quá trình quản lý của Nhà nước về thị trường bán lẻ nói chung vẫn tồn tại

nhiều thiết sót và bất cập.

Đối với hệ thống bán lẻ truyền thống, các cơ quan nhà nước có thẩm

quyền tỏ ra khá yếu kém trong việc quản lý cũng như quy hoạch. Chất lượng

hàng hóa bán trong những khu chợ hay cửa hàng tư nhân, tiệm tạp hóa vẫn đang

bị thả nổi. Chế tài xử phạt các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng vẫn

chưa đủ mạnh, phần lớn chỉ mang tính răn đe nên không thể phát huy hiệu quả

trong việc điều chỉnh thị trường. Tình trạng thiếu những quy hoạch cụ thể về hệ

thống bán lẻ truyền thống đã khiến hình thức này phát triển khá lộn xộn, các cơ

sở kinh doanh tồn tại tự phát, ảnh hưởng đến giao thông và kiến trúc đô thị.

Về các loại hình tổ chức thương mại hiện đại, Quy chế siêu thị, trung tâm

thương mại kèm theo Quyết định số 1371/2004/QĐ-BTM của Bộ trưởng Bộ

Thương mại (nay là Bộ Công thương) về trung tâm thương mại và siêu thị mặc

dù đã được ban hành từ năm 2004 song những quy định chủ yếu vẫn mang tính

hình thức và không sát thực tế. Bên cạnh đó, do tính đặc thù của một quy chế nên

không có bất cứ chế tài xử phạt nào đối với doanh nghiệp có hành vi vi phạm.

Trong tình hình tốc độ phát triển của thị trường Việt Nam theo hướng hiện đại

hóa ngày càng tăng với sự xuất hiện của ngày càng nhiều mô hình bán lẻ mới

như cửa hàng giảm giá, cửa hàng tiện ích, đại siêu thị, Quy chế đang tỏ ra lạc

hậu, không theo kịp thực tế.

64

Page 65: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Về việc mở cửa cơ sở thứ hai của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài,

Việt Nam đã quy định các doanh nghiệp phải chịu sự chi phối của ENT (Kiểm tra

nhu cầu kinh tế). ENT được hiểu là việc cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào tình

hình thực tế để xem xét việc cấp phép cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài. Trong khuôn khổ WTO, theo GATS, ENT được xây dựng dựa trên 3 tiêu

chí: số lượng các nhà bán lẻ trên một khu vực địa lý cụ thể; sự ổn định của thị

trường; quy mô địa lý của khu vực dân cư.

Tuy vậy, đến thời điểm này, sau ngày 1/1/2009 hơn một năm, Việt Nam

vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nào về ENT và cũng không đưa ra các tiêu chí cụ

thể để áp dụng ENT trong các văn bản pháp quy. Bên cạnh đó, một số khái niệm

như điểm bán lẻ, phân định rõ ENT và phân vùng địa lý hay đơn vị bán lẻ, người

tiêu dùng cuối cùng cũng chưa được xác định cụ thể. Vì vậy, các doanh nghiệp

khi muốn hoạt động ở Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, phức tạp do

không biết dựa vào những tiêu chí nào. Bản thân các cơ quan có thẩm quyền

cũng rất lúng túng trong công tác quản lý, hoạch địch chính sách.

Ngoài ra, trên thị trường bán lẻ Việt Nam, các hoạt động M&A hay

nhượng quyền thương mại đang diễn ra rất sôi động nhưng rất hiếm hoặc gần

như không có những luật, quy định cụ thể, chặt chẽ. Việc này đã tạo điều kiện

khiến nhiều doanh nghiệp dễ dàng lợi dụng kẽ hở để thực hiện các hành vi nhằm

giành thị phần một cách thiếu minh bạch, cạnh tranh không công bằng.

3.2.2 Lạm phát

Một trong những vấn đề đáng lo ngại trên thị trường Việt Nam chính là

tình trạng lạm phát bất thường. Việt Nam là một trong những nước trên thế giới

thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế 2008 sớm nhất. Tuy nhiên, rất nhiều nhà

kinh tế dự báo nguy cơ lạm phát quay trở lại. Điều này càng thể hiện rõ ràng sau

khi những con số về tỷ lệ tăng CPI được công bố. Năm 2009, CPI của Việt Nam

tăng 6.88% so với năm 2008. Quý 1 năm 2010, chỉ số này đã tăng tới 4,12%

(Tổng cục Thống kê 2010).

65

Page 66: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng trong năm 2009 đã khiến không ít

nhà đầu tư do dự khi tiến hành hoạt động kinh doanh tại thị trường Việt Nam.

Nguyên nhân khiến giá cả leo thang không thể không kể đến sự yếu kém của các

cơ quan có thẩm quyền trong việc điều hành giá cả. Tình trạng này dẫn đến việc

những nhà cung cấp tự ý nâng giá sản phẩm đầu ra trong khi giá cả trên thế giới

hay giá nguyên vật liệu đầu vào tương đối ổn định là một tình trạng khá phổ biến

trên thị trường bán lẻ Việt Nam, đặc biệt đối với các loại hàng hóa tiêu dùng

hàng ngày của người dân. Đáng lo ngại hơn, khi giá cả biến động, không chỉ

hàng hóa bán trong các khu chợ truyền thống hay cửa hàng tư nhân nhanh chóng

tăng theo mà cả hàng hóa bán trong siêu thị của Việt Nam cũng không nằm ngoài

xu thế chung.

Nguy cơ lạm phát tăng cao gây nhiều bất lợi trong việc thu hút nhà đầu tư

nước ngoài vào lĩnh vực bán lẻ. Các nhà bán lẻ lớn từ nước ngoài thường theo

đuổi chiến lược cạnh tranh về giá. Họ luôn cam kết đưa đến cho khách hàng của

mình lượng hàng hóa với giá cả ổn định trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy,

ở thị trường mà giá cả liên tục thay đổi theo chiều hướng tăng lên, họ không thể

ngay lập tức điều chỉnh giá bán của mình vì hành động đó sẽ ảnh hưởng tới uy tín

kinh doanh của các cơ sở bán lẻ. Do đó, doanh thu của những nhà bán lẻ này có

nhiều khả năng sẽ bị sụt giảm. Đây là lý do các nhà bán lẻ thường ưu tiên những

thị trường có nguồn cung dồi dào, giá cả ổn định để ít xảy ra việc phải liên tục

thay đổi chiến lược kinh doanh ảnh hưởng tới lợi nhuận của mình.

3.2.3 Mặt bằng bán lẻ: giá thuê cao, nguồn cung chưa dồi dào

Vấn đề mặt bằng bán lẻ luôn là vấn đề được quan tâm nhiều nhất đối với

bất cứ nhà bán lẻ nào, cả nước ngoài lẫn trong nước khi có dự định thâm nhập thị

trường bán lẻ ở bất cứ quốc gia nào. Để bắt đầu công việc kinh doanh của mình,

tính toán đầu tiên của một doanh nghiệp sẽ dành cho việc tìm kiếm vị trí đặt cơ

sở phù hợp với mức kinh phí đã định sẵn. Đặc biệt ở Việt Nam, nơi mật độ dân

số ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là khoảng trên

66

Page 67: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

2000-3000 người/km vuông, gấp đến 100 lần mật độ chuẩn trên thế giới thì vấn

đề tìm mặt bằng kinh doanh luôn là vấn đề số một với bất cứ doanh nghiệp nào.

Tổng diện tích mặt bằng bán lẻ của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội

tính đến nay khoảng 400.000m2, trong đó thành phố Hồ Chí Minh chiếm hơn

230.000m2 với 18 trung tâm thương mại. Tuy nhiên, con số này chưa đáp ứng đủ

nhu cầu (Ca, Hảo 2009). Nguồn cung chưa đáp ứng đủ cầu là nguyên nhân đẩy

giá cho thuê ở các trung tâm thương mại, đặc biệt là ở những khu trung tâm

thành phố lên cao. Biểu đồ sau so sánh mức giá thuê trung bình/mét vuông và giá

thuê cao nhất/mét vuông ở các trung tâm thương mại ở Hà Nội và thành phố Hồ

Chí Minh với một số thành phố khác trong khu vực.

Hồng Kông

Bắc Kinh

Singa

po

Bangk

ok

Manila

Jakart

a

Hà Nội

tp Hồ Chí Minh

0

100

200

300

400

500

600

700

800

900

giá thuê trung bình/m2/tháng

giá thuê cao nhất/m2/tháng

Biểu đồ III.3: Mức giá thuê trung bình/m2/tháng và mức giá thuê cao

nhất/m2/tháng mặt bằng bán lẻ tại các trung tâm thương mại ở một số

thành phố châu Á.

Nguồn: CBRE Việt Nam 2008, tr.18

Có thể thấy giá thuê trung bình ở hai thành phố lớn nhất Việt Nam còn cao

hơn ba thành phố trong khu vực ASEAN là Bangkok (Thái Lan), Manila

67

Page 68: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

(Philipin) và Jakarta (Indonesia). Mức thuê trung bình ở hai thành phố chính là

Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đều nằm trên mức 60$/m2/tháng trong khi

một số siêu thị trên địa bàn hai thành phố này thì với mức giá trên 25$/m2/tháng

họ đã khó kinh doanh có lãi (Ca, Hảo 2009).

Theo những thống kê của công ty CBRE, một trong những công ty hàng

đầu về tư vấn, quản lý bất động sản trên thế giới, thị trường Hà Nội và thành phố

Hồ Chí Minh hiện đang xuất hiện tình trạng dư cung mặt bằng bán lẻ hạng A

trong khi lại thiếu trầm trọng mặt bằng hạng B và C. Cũng theo công ty này, phải

đến năm 2013-2014 thì cung và cầu về bất động sản dành cho bán lẻ mới có thể

đạt mức cân bằng và giá thuê mới có hy vọng sẽ giảm xuống. Điều đó có nghĩa là

nhiều khu vực trung tâm thương mại hạng nhất, sang trọng sẽ tiếp tục được xây

dựng và bỏ không trong khi các doanh nghiệp bán lẻ vẫn gặp khó khăn trong việc

tìm cơ sở đặt các cửa hàng bán lẻ của mình.

Mặc dù giá thuê cao, các trung tâm thương mại ở nước ta thường không

đạt đủ những tiêu chuẩn quốc tế về chỗ đỗ phương tiện, tỷ lệ tối thiểu diện tích

cây xanh/tổng diện tích sàn, thiết bị chống cháy, nhà vệ sinh. Có thể lấy ví dụ

như khu trung tâm thương mại Vincom và Diamond Plaza, hai khu này được coi

là hai trung tâm lớn và hiện đại nhất thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh. Tuy

nhiên, diện tích dành cho bãi đỗ xe ở hai khu này khá hạn chế. Vào những đợt

đông khách đến mua sắm, bãi đỗ xe thường ở vào tình trạng quá tải và nhiều

khách bị từ chối giữ xe. Đây sẽ là lý do khiến nhiều tập đoàn bán lẻ nước ngoài

sẽ phải trì hoãn kế hoạch xâm nhập thị trường bán lẻ của Việt Nam vì không thể

tìm được địa điểm kinh doanh phù hợp với quy mô thương hiệu của mình.

Ngoài ra, việc xin giấy phép xây dựng cũng gặp nhiều khúc mắc. Quy

trình giải phóng mặt bằng ở Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập. Quá trình xin

cấp đất, cấp phép xây dựng thường khá phức tạp, tốn kém thời gian, công sức

cho nhà đầu tư.

68

Page 69: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

II. NHÓM KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ

VIỆT NAM

Mặc dù quá trình mở cửa thị trường bán lẻ sẽ gây một số tác động tiêu cực

lên các chủ thể trên thị trường song những lợi ích từ một thị trường tự do đem lại

lớn hơn nhiều lần. Tự do hóa thương mại trong đó bao gồm việc tạo điều kiện

cho những nhà bán lẻ nước ngoài thực hiện các hoạt động đầu tư không bị hạn

chế là một xu thế tất yếu của tất cả các nền kinh tế phát triển trên thế giới. Đó

cũng là cơ hội cho nhà bán lẻ trong nước có cơ hội cạnh tranh trên một sân chơi

rộng lớn và bình đẳng hơn. Để có thể tận dụng tối đa những ảnh hưởng tích cực

đồng thời giảm thiểu mặt hạn chế từ quá trình mở cửa thị trường bán lẻ, Nhà

nước cần phát huy vai trò tối quan trọng của mình. Một mặt, Nhà nước cần thực

hiện đầy đủ những cam kết mở cửa theo đúng lộ trình gia nhập WTO và hội nhập

vào xu thế phát triển chung của nền thương mại toàn cầu. Tuy nhiên quá trình mở

cửa phải thực hiện từng bước, không nên nóng vội dễ dẫn đến những thất bại như

trường hợp của Thái Lan. Mặt khác, Nhà nước cũng cần thể hiện rõ vai trò tích

cực trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước khắc phục những điểm yếu

còn tồn tại nhằm đứng vững trong tình hình mới. Những giải pháp mang tính vĩ

mô từ Chính phủ và Nhà nước sẽ không thể có tác dụng nếu thiếu sự đồng thuận

và hành động quyết liệt từ phía các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Bản thân các

doanh nghiệp này phải không ngừng nâng cao khả năng phân tích nắm vững tình

hình và nhanh chóng có thực hiện những thay đổi về mặt cơ cấu, tổ chức cũng

như chiến lược kinh doanh nhằm thích nghi với thị trường đổi mới. Tôi xin đưa

ra nhóm giải pháp cho Nhà nước và các doanh nghiệp như sau:

1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước

1.1 Giữ ổn định về kinh tế, chính trị

Nền kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá là một trong những nền kinh tế

ổn định nhất thế giới. Đây là một trong những yếu tố được nhà đầu tư nước ngoài

69

Page 70: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

quan tâm nhất khi quyết định rót vốn đầu tư vào bất cứ thị trường nào. Do vậy

trong thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục giữ vững ổn định nền chính trị để giữ

được niềm tin của nhà đầu tư.

Bên cạnh đó, Nhà Nước cần điều chỉnh vai trò của mình trong việc điều

tiết nền kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. Một trong những ưu điểm là Nhà nước có thể tham gia quản lý

kinh tế. Tuy nhiên, nhược điểm là nền kinh tế thường chậm trễ đón nhận những

xu hướng chung trên thế giới. Vì vậy trong thời gian tới, Chính phủ cần thể hiện

vai trò của mình trong việc nhanh chóng phản ứng trước biến động tình hình kinh

tế thế giới. Qua đó, Chính phủ có thể ban hành những chính sách tài khóa-tiền tệ

phù hợp, tạo điều kiện cho nền kinh tế vận hành theo những quy luật của thị

trường đồng thời vẫn có thể duy trì sự ổn định của toàn nền kinh tế xã hội chủ

nghĩa.

1.2 Hoàn thiện khung pháp lý về thương mại

Trước khi ra quyết định đầu tư vào bất cứ lĩnh vực nào, nhà đầu tư nước

ngoài hay trong nước đều phải dành thời gian và công sức nghiên cứu những

luật, quy định, thủ tục liên quan. Vì vậy, nếu Việt Nam có những bộ luật hoàn

chỉnh, minh bạch, công khai sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư tìm đến với thị trường

hơn. Hiện nay, Nhà nước đang cố gắng đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhiều

cấp, Bộ, ngành đã thực thi quy chế một cửa nhằm tạo thuận lợi tối đa cho các

doanh nghiệp trong quá trình hoàn thiện các thủ tục hành chính trước cũng như

trong suốt quá trình kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, có thể nói

rằng các cơ quan hành chính của Việt Nam vẫn làm việc chưa thực sự hiệu quả,

gây khó khăn cho doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vì vậy, trong thời gian tới,

Nhà nước cần đẩy mạnh quá trình cải cách về mặt hành chính, rút ngắn thời gian

cũng như thủ tục giấy tờ cấp phép đầu tư, kinh doanh.

Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cần nhanh chóng ban hành

những quy chế, quy định mới về thị trường bán lẻ, những mô hình kinh doanh

70

Page 71: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

hiện đại thay thế cho quy chế cũ đang ngày càng tỏ ra không còn phù hợp. Sau

khi thị trường bán lẻ được mở cửa theo đúng cam kết của Việt Nam trong WTO,

trên thị trường chắc chắn sẽ xuất hiện những hệ thống bán lẻ mới ngoài trung tâm

mua sắm và hệ thống siêu thị. Những luật, quy định mới không chỉ hỗ trợ cho

Nhà nước trong việc quản lý thị trường mà còn góp phần bảo vệ doanh nghiệp

trong nước.

Về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, hiện ở Việt Nam chưa có bộ luật thống

nhất nào quy định về quyền của người tiêu dùng. Điều này là hết sức bất lợi trong

tình hình thị trường có nhiều diễn biến phức tạp. Chính phủ cần nhanh chóng xây

dựng và đưa vào thực thi những Luật, quy định phù hợp nhằm đảm bảo quyền lợi

tối đa cho người tiêu dùng Việt Nam.

Ngoài ra, Chính phủ cũng cần liên tục sửa đổi các bộ luật liên quan như

Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Sở hữu trí tuệ cho phù hợp với tình

hình, giảm thiểu tình trạng nhiều bộ luật chồng chéo, điều chỉnh khác nhau cho

cùng một vấn đề gây không ít hiểu lầm cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Chính

phủ cũng cần khẩn trương soạn thảo những quy định điều chỉnh các hình thức

kinh doanh mới trên thị trường bán lẻ hiện đại như nhượng quyền, mua lại và sáp

nhập,…

Nhằm giải quyết những khó khăn về mặt bằng, Chính phủ cần hoàn thiện

Luật Đất đai và minh bạch hóa những dự án quy hoạch theo địa phương, vùng

miền nhằm rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho các doanh

nghiệp bán lẻ tìm được những địa điểm kinh doanh phù hợp.

Về vấn đề ENT, Chính phủ cần thúc giục cũng như hỗ trợ các địa phương

trong việc hoàn thiện những quy định liên quan theo tinh thần phù hợp với những

cam kết với WTO. Mục đích là giúp các địa phương không gặp khó khăn hay

chậm trễ trong quá trình cấp phép cho nhà đầu tư nước ngoài trong việc mở các

cơ sở bán lẻ sau cơ sở thứ nhất. Việc này đòi hỏi Chính phủ cùng các địa phương

phải rà soát những đặc điểm kinh tế của từng vùng miền để đảm bảo đưa ra

71

Page 72: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

những tiêu chí phù hợp với sự phát triển của thị trường bán lẻ, tạo môi trường

cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà bán lẻ và hỗ trợ được nhà bán lẻ nội địa.

1.3 Thực hiện các biện pháp điều hành, giám sát thị trường bán lẻ, hoàn

thiện các chế tài xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xâm

phạm lợi ích người tiêu dùng

Nhà nước cần đẩy mạnh công tác giám sát, quản lý thị trường nhằm đảm

bảo các hoạt động kinh doanh diễn ra trong môi trường cạnh tranh bình đẳng,

hiện đại. Gần đây trên thị trường luôn xuất hiện các hành vi cạnh tranh thiếu lành

mạnh hay các chương trình khuyến mại, quảng cáo không phù hợp với thuần

phong mỹ tục, truyền thống lâu đời của người Việt Nam. Nhà nước cần chặt chẽ

kiểm tra nhằm ngăn chặn mọi hành vi có thể gây ảnh hưởng xấu tới xã hội, đặc

biệt là hành động tuyên truyền, kích động việc sử dụng những sản phẩm làm lệch

hướng phát triển của tầng lớp thanh thiếu niên.

Hiện nay ngày càng xuất hiện những chiêu thức kinh doanh trục lợi của

một số doanh nghiệp bán lẻ gây phương hại đến người tiêu dùng như bán hàng

nhái các thương hiệu nổi tiếng, mập mờ trong việc đính nhãn mác, thời hạn sử

dụng sản phẩm,.. Nhà nước cần thể hiện vai trò của mình trong việc loại bỏ

những hành vi này nhằm đảm bảo người tiêu dùng được tiếp cận với các loại

hàng hóa chất lượng tốt, an toàn cho sức khỏe. Một trong những mối quan tâm

nhất hiện nay của người dân là chất lượng các sản phẩm thực phẩm bày bán ở các

chợ hay kể cả trong các siêu thị lớn. Các Bộ, Ban, ngành liên quan cần đặt ra

những tiêu chuẩn thống nhất trên cả nước về thực phẩm sạch. Đồng thời, Nhà

nước cũng cần mạnh tay xử lý những cơ sở vi phạm bằng những chế tài rõ ràng,

hợp lý. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng của nhà nước hay từng địa phương

phải liên tục thanh kiểm tra chất lượng hàng hóa, đặc biệt là những loại hàng liên

quan trực tiếp tới sức khỏe người tiêu dùng ở các cơ sở bán lẻ thay vì chỉ tập

trung vào một số tháng cao điểm và nới lỏng trong suốt thời gian còn lại.

72

Page 73: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1.4 Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động phân phối bán lẻ

Một cản trở lớn khiến các nhà đầu tư nước ngoài do dự khi đầu tư vào thị

trường bán lẻ Việt Nam hay các nhà bán lẻ trong nước ngại ngần khai thác các

thị trường mới là do hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay nói chung lạc

hậu và nhiều nơi xuống cấp trầm trọng. Vì vậy, để phát triển thị trường bán lẻ

Việt Nam, Chính phủ cần gấp rút đầu tư cải tạo các tuyến đường huyết mạch,

tuyến quốc lộ, xây mới cũng như sửa chữa cầu đường. Nhà nước có thể hỗ trợ

các doanh nghiệp trong nước bằng cách cho thuê đất làm kho bãi với giá ưu đãi

hay xây sẵn những hệ thống nhà kho hiện đại, diện tích lớn cho các doanh nghiệp

bán lẻ vừa và nhỏ thuê trong thời gian dài nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc

dự trữ nguồn hàng.

Để giúp hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ được diễn ra thuận lợi,

bên cạnh đầu tư vào hạ tầng đường xá, kho bãi, Nhà nước cần phải đảm bảo hệ

thống điện nước, viễn thông được triển khai rộng khắp. Điều này có ý nghĩa quan

trọng trong việc khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam mở rộng hoạt

động xuống các vùng nông thôn hay vùng miền núi xa xôi. Nó còn giải quyết

được vấn đề phát triển không cân xứng giữa các vùng miền, tăng cơ hội tiếp cận

với nguồn hàng hóa đa dạng cho người dân nông thôn và do vậy nâng cao cuộc

sống người dân ở những vùng xa đô thị.

Ngoài ra, Nhà nước cần tăng cường việc xây dựng các khu triển lãm, hội

chợ với diện tích lớn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam tiếp

cận người tiêu dùng, quảng bá thương hiệu của mình trên thị trường nội địa và

tìm kiếm được cơ hội kinh doanh tiềm năng.

1.5 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, hướng dẫn, khuyến khích người

tiêu dùng hướng tới hàng sản xuất trong nước

Sau khi trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại Thế giới

WTO, Việt Nam không được phép bảo hộ những ngành mà WTO quy định cho

73

Page 74: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

các quốc gia thành viên phải mở cửa hoàn toàn. Vì vậy, Chính phủ Việt Nam

không thể bảo hộ các doanh nghiệp bán lẻ trong nước hay phân biệt đối xử với

các doanh nghiệp đến từ các nước khác. Tuy nhiên Chính phủ vẫn có thể hỗ trợ

các doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau giúp doanh nghiệp nắm được

những quy định, bộ luật mới hay tiếp cận với các thị trường kinh doanh phát triển

trên thế giới.

Để tăng cường hiểu biết pháp luật quốc tế của các doanh nghiệp bán lẻ

trong nước, Chính phủ có thể mở các cuộc hội đàm, hội thảo hay các buổi nói

chuyện trong đó mời các chuyên gia đầu ngành làm chủ tọa về các vấn đề liên

quan đến luật quốc tế hay những cam kết trong khuôn khổ WTO mà Việt Nam

đang và sẽ áp dụng. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có thể xây dựng các cổng

thông tin điện tử tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong cùng ngành trao đổi

kinh nghiệm, nâng cao hiểu biết về lĩnh vực mà họ đang kinh doanh cũng như

giới thiệu những thay đổi về chính sách, luật pháp liên quan. Chính phủ cũng có

thể khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ mở rộng hoạt động về các vùng nông

thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa thông qua các ưu đãi về thuế.

Đối với người tiêu dùng, Chính phủ cũng có thể tác động khuyến khích họ

sử dụng hàng hóa sản xuất tại Việt Nam cũng như đi mua sắm tại các siêu thị

Việt Nam. Rút kinh nghiệm từ thành công của các chương trình “Người Việt

Nam dùng hàng Việt Nam”, Nhà Nước có thể thiết kế những kế hoạch mới nhằm

hướng người dân Việt Nam tới những cửa hàng bán lẻ do doanh nghiệp Việt

Nam làm chủ.

2. Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam

2.1 Tận dụng và phát huy lợi thế trên thị trường nội địa, hiểu biết rõ về thị

trường và người tiêu dùng trong nước

Không thể phủ nhận các doanh nghiệp nước ngoài khi xâm nhập vào thị

trường bán lẻ Việt Nam sở hữu rất nhiều lợi thế cạnh tranh vượt trội như tiềm lực

74

Page 75: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

tài chính, kinh nghiệm hoạt động quốc tế hay trang thiết bị công nghệ, quản lý tối

tân, .v.v. Tuy nhiên không phải nhà bán lẻ toàn cầu nào cũng có thể chiến thắng

các nhà bán lẻ nội địa vì trên thực tế, nhà bán lẻ nội địa cũng có những ưu thế

đáng kể trên sân nhà.

Các nhà bán lẻ Việt Nam có nguồn kiến thức khá vững vàng về khách

hàng mục tiêu của mình. Họ hoàn toàn có khả năng tìm hiểu và nghiên cứu về

truyền thống văn hóa cũng như những thị hiếu, phong cách tiêu dùng của người

dân Việt Nam. Trong hoạt động kinh doanh, việc hiểu biết sâu sắc văn hóa của

thị trường mình đang đầu tư là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại.

Nguyên nhân đại gia bán lẻ Wal-mart phải tuyên bố rút khỏi thị trường Hàn Quốc

là vì tập đoàn này không thay đổi phương cách kinh doanh phù hợp với tập quán

thị trường nội địa. Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần giữ vững và khai thác

triệt để lợi thế này của mình. Trong quá trình hoạt động mở rộng thị trường, các

doanh nghiệp cần chú ý xây dựng các chính sách sản phẩm hay tiếp cận khách

hàng phù hợp với truyền thống sinh hoạt, tập quán, tín ngưỡng của người dân

Việt Nam.

2.2 Nhạy bén nắm bắt thông tin, điều chỉnh theo những biến động thị trường

Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang xây dựng chiến lược kinh doanh

của mình theo hướng tập trung vào các cửa hàng bán lẻ hiện đại, và trong tương

lai có thể mở rộng hoạt động sang các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì

vậy, khả năng nắm bắt thông tin trên thị trường sẽ đóng vai trò là một trong

những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công của doanh nghiệp.

Trong tình hình thị trường bán lẻ trong nước cũng như trên thế giới liên

tục biến động, doanh nghiệp nào có được thông tin nhanh nhất và chính xác nhất,

doanh nghiệp đó sẽ vượt lên những doanh nghiệp khác và hội nhập được vào xu

thế chung. Ngược lại, những doanh nghiệp chậm trễ trong việc thu thập xử lý

thông tin sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu và tụt lại trong cuộc chơi ngày càng

khốc liệt.

75

Page 76: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Để có được thông tin hữu ích nhất phục vụ trực tiếp cho quá trình hoạt

động kinh doanh của mình, đầu tiên doanh nghiệp bán lẻ phải khôn khéo tiếp cận

người tiêu dùng. Nhờ đó, họ có thể hiểu được nhu cầu đang hiện hữu trên thị

trường đồng thời cũng có thể dự báo những nhu cầu chưa xuất hiện nhưng rất có

tiềm năng. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ cũng cần phải chú trọng nghiên

cứu tình hình lao động cũng như thu nhập của đối tượng khách hàng mục tiêu để

ra những quyết định phân phối đúng đắn.

Ngoài việc tiếp cận người tiêu dùng, các doanh nghiệp bán lẻ cũng cần

liên tục thu thập thông tin về các doanh nghiệp cùng hoạt động trong ngành để có

thể nắm được những chiến lược mở rộng mới của đối thủ cạnh tranh, về dịch vụ

cũng như chủng loại sản phẩm mà đối thủ của mình đang cung cấp cho khách

hàng. Thông qua đó, doanh nghiệp có thể phân tích những điểm mạnh, điểm yếu

và có thể tiếp thu những nét tiến bộ từ doanh nghiệp khác hay học tập từ những

thất bại trên thị trường.

2.3 Đầu tư vào thiết lập, củng cố thương hiệu riêng, không ngừng mở rộng

danh mục sản phẩm với chất lượng đảm bảo, giá cả cạnh tranh

2.3.1 Củng cố thương hiệu

Một thương hiệu mạnh sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của mỗi

doanh nghiệp, góp phần tạo dựng lợi thế cạnh tranh bền vững trên thị trường và

gia tăng giá trị về mặt tài chính cho bản thân doanh nghiệp. Thương hiệu của

doanh nghiệp sẽ thể hiện đầy đủ bản sắc của doanh nghiệp, tạo hình ảnh khác

biệt của doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Thành công trong việc xây

dựng thương hiệu là yếu tố quyết định sự thành công của bất cứ doanh nghiệp

nào. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doanh nghiệp bán lẻ nói riêng

trong thời gian gần đây đã nhận thức rõ hơn về vị trí của thương hiệu trong hoạt

động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, đầu tư vào việc xây dựng và quảng bá

thương hiệu của họ vẫn còn ở mức khiêm tốn. Vì vậy, trong thời gian tới, các

doanh nghiệp bán lẻ cần tăng cường sự hiểu biết về tầm quan trọng của thương

76

Page 77: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

hiệu. Đồng thời, họ cần phải có những chiến lược bảo vệ thương hiệu của mình

trong bối cảnh Luật Sở hữu trí tuệ ở Việt Nam vẫn chưa được thực thi đầy đủ và

nghiêm khắc.

2.3.2 Mở rộng danh mục hàng hóa, khách hàng mục tiêu

Bên cạnh việc đầu tư củng cố phát triển thương hiệu của mình, các doanh

nghiệp cũng cần liên tục đổi mới, đa dạng hóa danh mục sản phẩm. Các trung

tâm bán lẻ nước ngoài luôn vượt trội về chủng loại hàng hóa rất phong phú, tạo

điều kiện cho khách hàng thỏa sức lựa chọn. Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải

nghiên cứu thị hiếu khách hàng, đáp ứng kịp thời đầy đủ nhu cầu xuất hiện trên

thị trường bằng việc đem đến những mặt hàng mới nhất, phong phú về mẫu mã,

đa dạng về giá cả. Đặc biệt, các doanh nghiệp có thể mở rộng danh mục hàng hóa

bằng việc đưa vào giới thiệu nhiều mặt hàng xa xỉ, giá cao, chất lượng thượng

hạng đáp ứng nhu cầu của một bộ phận dân cư giàu có ngày càng tăng trong xã

hội. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng nên mở rộng đối tượng khách hàng mục

tiêu thay vì chỉ tập trung vào một nhóm cụ thể. Các doanh nghiệp nên chú trọng

hơn tới tầng lớp khách hàng thanh thiếu niên (độ tuổi dưới 20) vì phân đoạn này

hiện đang xuất hiện phong cách tiêu dùng hiện đại, khối lượng tiêu dùng lớn và

yêu cầu thường không quá khắt khe.

2.3.3 Chú trọng đầu tư nghiên cứu đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường

Một điểm đáng chú ý là các doanh nghiệp bán lẻ cần nắm rõ tâm lý thích

các chương trình khuyến mại, quảng cáo của khách hàng Việt Nam và liên tục

đưa ra các chương trình hấp dẫn. Chuỗi siêu thị Big C cứ mỗi 3 tuần lại đưa ra

những tờ rơi quảng cáo rầm rộ cho hàng trăm mặt hàng giảm giá trong một thời

điểm nhất định. Giá cả của những mặt hàng này thậm chí còn thấp hơn những

mặt hàng tương tự bán trong chợ truyền thống. Đây là một ví dụ điển hình mà

các doanh nghiệp Việt Nam nên tiếp thu.

2.4 Đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, hiệu quả

77

Page 78: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Một trong những cách tốt nhất để tăng doanh thu từ hoạt động bán lẻ

chính là thành công trong việc thiết lập các mối quan hệ bền chặt với khách hàng.

Để có thể giữ chân khách hàng, bên cạnh lợi thế cạnh tranh về giá cả và chất

lượng, cung cách phục vụ của người bán hàng là yếu tố vô cùng quan trọng. Tuy

nhiên, dịch vụ chăm sóc khách hàng của các doanh nghiệp Việt Nam như đã

phân tích ở trên là một cản trở lớn giảm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp

này trong cuộc đua với các tập đoàn bán lẻ khổng lồ dày dặn kinh nghiệm của thế

giới. Chính vì vậy, tìm cách khắc phục điểm yếu này sẽ là chìa khóa giúp các

doanh nghiệp Việt Nam cải thiện được vị trí của mình trên thị trường.

Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam nên xây dựng các chương trình

tuyển dụng lao động một cách khách quan, minh bạch nhằm tìm kiếm những

người có năng lực thực sự, phù hợp với văn hóa doanh nghiệp, có tâm huyết với

nghề và có thể gắn bó lâu dài.

Thứ hai, do hiện nay ở Việt Nam vẫn chưa có trường đại học hay cao đẳng

nào đào tạo chuyên nghiệp về nhân viên bán lẻ hay chăm sóc khách hàng nên sau

tuyển dụng, việc cần thiết nhất là phải đầu tư cho quá trình đào tạo đội ngũ nhân

viên. Doanh nghiệp có thể mời những chuyên gia bán lẻ trong nước hay nước

ngoài thiết kế các khóa học nâng cao kiến thức cơ bản cũng như chuyên sâu cho

nhân viên của mình tùy thuộc vào vị trí trong hệ thống bán lẻ. Điều quan trọng

đầu tiên là phải hướng những nhân viên này thay đổi thái độ làm việc theo hướng

lấy khách hàng làm trung tâm. Những nhân viên có hiểu biết sâu rộng có khả

năng giải đáp mọi thắc mắc khách hàng, trợ giúp khách hàng một cách nhiệt tình,

niềm nở trong quá trình mua sắm sẽ đóng vai trò trực tiếp khuyến khích nhiều

khách hàng tìm đến cửa hàng và mua sắm nhiều hơn.

Thứ ba, vì những nhân viên có kinh nghiệm sẽ trở thành tài sản vô cùng

có giá trị đối với bất cứ doanh nghiệp hoạt động trong mọi lĩnh vực nên việc giữ

chân họ cùng có ý nghĩa rất lớn. Đặc biệt trong hoàn cảnh hiện nay, các công ty

luôn tìm cách thu hút những nhân viên có tài bằng những chế độ hết sức hấp dẫn,

nhất là các doanh nghiệp nước ngoài. Trước tình hình đó, các doanh nghiệp Việt

78

Page 79: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

Nam cần khôn khéo giữ chân nhân viên lâu năm của mình bằng mức lương,

thưởng hấp dẫn và các chương trình đãi ngộ hợp lý.

2.5 Đẩy mạnh đầu tư, áp dụng công nghệ cao để quản lý mọi khâu của hoạt

động kinh doanh

Công nghệ có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho bất cứ doanh nghiệp hoạt

động trên lĩnh vực nào. Đặc biệt trong tình hình cạnh tranh với các tập đoàn bán

lẻ khổng lồ đang sử dụng những phần mềm quản lý bán hàng hiện đại nhất thế

giới, các doanh nghiệp Việt Nam cần nhanh chóng đầu tư cải tiến công nghệ.

Nhà bán lẻ Việt Nam có thể nghiên cứu tính khả thi của việc áp dụng công nghệ

RFID (như đã phân tích ở chương II) để chuyên nghiệp hóa các công đoạn phân

phối, quản lý bán hàng và khách hàng. Công nghệ này đã được hầu hết những tập

đoàn bán lẻ lớn trên thế giới áp dụng và ngày càng chứng minh tính ưu việt của

nó.

Doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam nên đa dạng hóa các kênh bán lẻ của mình

và cần đẩy mạnh việc triển khai kênh bán hàng qua mạng. Số người Việt Nam sử

dụng Internet hiện đang tăng lên nhanh chóng, nhất là ở các vùng nông thôn. Con

số này tính đến thời điểm tháng 12 năm 2009 đã là 22,8 triệu người và được dự

tính sẽ lên tới gần 27 triệu trong vòng 2 năm tới (Internet World Stats 2009).

Như vậy tiềm năng để có thể triển khai kênh bán hàng này là rất lớn. Các

nhà bán lẻ Việt Nam cần chuẩn bị kiến thức, nguồn tài chính cũng như nhân lực

cho mảng kinh doanh này.

Bên cạnh đó, các nhà bán lẻ Việt Nam cần mở rộng việc lắp đặt các máy

POS phục vụ khách hàng thanh toán trực tiếp tại quầy thông qua các loại thẻ.

Ngoài ra, doanh nghiệp bán lẻ cũng nên chú trọng hợp tác với các ngân hàng để

giới thiệu các gói tín dụng khuyến khích mua hàng như mua hàng trả góp, chiết

khấu cho chủ thẻ của các ngân hàng liên kết hay tăng cường hệ thống bảo mật

khi khách hàng mua sắm qua mạng,...

79

Page 80: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

2.6 Thực hiện các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp bán lẻ khác và các

nhà sản xuất

Trước cuộc đua ngày càng quyết liệt trên thị trường bán lẻ Việt Nam giữa

các doanh nghiệp trong nước và các tập đoàn bán lẻ khổng lồ, doanh nghiệp Việt

Nam sẽ gặp rất nhiều thách thức để có thể đứng vững nếu họ không nhận ra được

yêu cầu cấp bách là phải thực hiện các hoạt động liên kết, cả chiều ngang và

chiều dọc.

- Liên kết theo chiều ngang là liên kết giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành,

trực tiếp cạnh tranh với nhau và chia sẻ cùng dòng sản phẩm trên thị trường.

Cụ thể trong ngành bán lẻ liên kết chiều ngang là liên kết giữa các nhà bán lẻ

cùng kinh doanh trên một thị trường cụ thể.

- Liên kết theo chiều dọc là liên kết giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung

ứng. Liên kết trong chiều dọc trong ngành bán lẻ có thể là giữa một (hay

nhiều nhà bán lẻ) với các công ty hoạt động trong lĩnh vực vận tải, kho bãi.

Thực chất, ở hầu hết các nước phát triển, việc liên kết giữa các doanh

nghiệp cùng ngành luôn được chủ các doanh nghiệp chú trọng do những ưu thế

vượt trội mà nó mang lại. Vì vậy, trong thời gian tới, các doanh nghiệp bán lẻ

Việt Nam cần tìm kiếm cơ hội liên kết với nhau để xây dựng những tổ chức vững

mạnh có tính cạnh tranh cao. Mỗi doanh nghiệp, tùy thuộc vào thị trường mục

tiêu, quy mô doanh nghiệp và chiến lược phát triển trong tương lai có thể lựa

chọn cho mình con đường liên kết phù hợp.

Gần đây, có một xu hướng được nhiều chuyên gia kinh tế đề xuất cho các

doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.

Đó là việc thành lập các liên minh mua hàng. Các liên minh này thực tế đã ra đời

và khá thành công trên các thị trường bán lẻ của các quốc gia phát triển. Tại đó,

các doanh nghiệp bán lẻ lớn thường chiếm lĩnh thị trường nhờ tính kinh tế của

quy mô. Do đó, các doanh nghiệp nhỏ, để sống sót trên thị trường cạnh tranh

khốc liệt đã liên minh lại với nhau để thành lập các liên minh mua hàng, nhằm

80

Page 81: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

giảm chi phí một cách tối đa. Bên cạnh chức năng cơ bản nhất là cung cấp cho

các doanh nghiệp thành viên những thông tin cập nhật về tình hình thị trường,

biến động giá cả, những liên minh này cho phép các thành viên tập trung các đơn

hàng cùng loại thành một đơn hàng thống nhất với số lượng lớn. Nhờ đó, liên

minh có thể được hưởng chiết khấu và kết quả là các doanh nghiệp tham gia có

thể tiết kiệm chi phí mua hàng. Bên cạnh đó, những liên minh này có thể đại diện

cho các thành viên của mình để tham gia vào các cuộc đàm phán với nhà phân

phối hay sản xuất nhằm mục đích đạt được những điều khoản có lợi nhất.

Các tổ chức liên kết giữa các nhà bán lẻ còn có khả năng hỗ trợ thành viên

nâng cao kinh nghiệm và kiến thức pháp luật, đặc biệt là khả năng khởi kiện.

Trong tình hình đa số các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn là các doanh nghiệp

vừa và nhỏ, việc những doanh nghiệp này tập hợp lại thành một tổ chức lớn có

thể tăng sức mạnh trong quá trình ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa. Trong

trường hợp có tranh chấp xảy ra, nhất là các tranh chấp có yếu tố nước ngoài, các

liên kết này hoàn toàn có khả năng thuê những luật sư nhiều kinh nghiệm và có

uy tín để bảo vệ quyền lợi tối đa cho các thành viên.

81

Page 82: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

KẾT LUẬN

Có thể thấy rằng, thị trường bán lẻ châu Á đang dần trở thành thị trường

hấp dẫn nhất thế giới, là điểm đến số một của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu. Trong

thời gian tới, khu vực bán lẻ của châu lục này sẽ tiếp tục là một trong những khu

vực diễn ra quá trình toàn cầu hóa mạnh mẽ nhất trên thế giới. Bên cạnh sự xuất

hiện của các nhà bán lẻ khổng lồ đến từ châu Âu và Bắc Mỹ, châu Á sẽ chứng

kiến sự lớn mạnh không ngừng của chính những nhà bán lẻ nội địa. Một số lượng

lớn các tập đoàn bán lẻ đến từ châu Á sẽ không ngừng phát triển để cạnh tranh

với các tập đoàn Âu Mỹ trên sân nhà đồng thời nhanh chóng vươn ra cả những

thị trường khác khắp toàn cầu.

Trong bối cảnh tự do hóa thương mại và hội nhập sâu rộng đang diễn ra

trên thế giới và trong khu vực, thị trường bán lẻ Việt Nam dù phát triển muộn

hơn song đang tích cực đón nhận và tiếp thu những xu thế chung. Sau khi trở

thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam đang dần từng bước thực hiện

quá trình mở cửa thị trường bán lẻ, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm đưa thị

trường phát triển theo hướng hiện đại hóa. Tuy nhiên, trong thời gian tới, thị

trường bán lẻ Việt Nam vẫn tồn tại nhiều vấn đề phải giải quyết dứt điểm. Một

trong những nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là việc các cơ quan nhà nước phải đẩy

nhanh quá trình hoàn thiện định hướng phát triển phù hợp, rõ ràng cho hệ thống

bán lẻ hiện đại cùng với việc quy hoạch cụ thể hệ thống truyền thống. Cùng với

việc thực hiện những cam kết mở cửa trong khuôn khổ WTO, Đảng và Chính

phủ cần nghiên cứu và áp dụng những biện pháp khuyến khích, hỗ trợ doanh

nghiệp trong nước tồn tại và phát triển được trong tình hình mới.

82

Page 83: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

83

Page 84: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

HỆ THỐNG CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT THUẬT NGỮ ĐẦY ĐỦ NGHĨA TIẾNG VIỆT

CPFRCollaborative Planning, Forecasting

and ReplenishmentHoạch định, dự báo và bổ sung theo

mô hình cộng tác

CRM Customer Relationship Management Quản lý quan hệ với khách hàng

ENT Economic Needs Test Kiểm tra nhu cầu kinh tế

FMCG Fast moving consumer goods Hàng hóa tiêu dùng nhanh

GATSGeneral Agreement on Trade in

ServicesHiệp định chung về thương mại dịch

vụ

GRDI Global Retail Development Index Chỉ số phát triển bán lẻ toàn cầu

KFTC Korean Fair Trade CommissionỦy ban thương mại lành mạnh Hàn

Quốc

M&A Merger and Acquisition Mua lại và sáp nhập

RFID Radio-Frequency Identification Hệ thống nhận dạng tự động từ xa

WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới

Page 85: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A.T.Kearney (2009), 2009 Global Retail Development Index, USA

2. AS Watson Group (2009), A.S Watson Group Announces Acceleration of

Global Expansion Plan, truy cập ngày 28/2/2010 từ trang web:

http://www.aswatson.com/eng/news_Nov24_2009.htm

3. Business in Asia (2005), China in Major Change:  Opens Retail, Distribution

Sectors to Foreign Businesses truy cập ngày 21/3/2010 từ trang web

http://www.business-in-asia.com/china_retail.html

4. Ca, Hảo (2009), Sôi sục giá thuê mặt bằng bán lẻ, truy cập ngày 02/03/2010 từ

trang web: http://vietnamnet.vn/kinhte/thitruong/200910/Soi-suc-gia-thue-

mat-bang-ban-le-873948/.

5. CB Richard Ellis (CBRE) Việt Nam (2008), Thị trường bất động sản bán lẻ Việt

Nam, Hà Nội.

6. Dawson, John và các cộng sự (2003), The internalization of retailing in Asia,

RoutledgeCurzon, Japan.

7. Dawson, John và Lee, Jung-Hee (2004), International retailing plans and

strategies in Asia, International Business Press, NY, USA, tr. 1-5 và 121-

132.

8. Deloitte (2010), Global Powers of retailing 2010, London.

9. Dennis, Charles; Fenech, Tino; và Merriless Bill (2004), E-retailing,

Routledge Business, USA.

10. Global Agriculture Information Network – GAIN (2010), Vietnam retail

food sector 2010, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 3-11

Page 86: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

11. Hồng Văn (2009), Nhà bán lẻ nội yếu vốn, thiếu liên kết, Thời báo Kinh tế

Sài Gòn, truy cập ngày 10/2/2010 từ trang web:

http://www.thesaigontimes.vn/Home/kinhdoanh/thuongmai/14160/.

12. IBM (2007), Food retail format in Asia – Understanding Format Success,

tr. 44-50, [bản nghiên cứu cho Coca Cola Retailing Research Council

Asia].

13. Internet World Stats (2009), Asia Marketing Research, Internet Usage,

Population Statistics and Information, truy cập ngày 10/2/2010 từ trang

web: http://www.internetworldstats.com/asia.htm

14. Kiều Hương, (2007), Ra mắt hệ thống phân phối lớn nhất Việt Nam , Trung

tâm Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Cục phát

triển doanh nghiệp, truy cập ngày 10/2/2010 từ trang web:

http://www.hotrodoanhnghiep.gov.vn/Default.asp?mod=News&action=list

&NewsID=4233&temp=HTDN_vn&Object=1&ItemID=102&Language=vn

15. Korean Fair Trade Commission, About KFTC – Who we are, truy cập ngày

20/2/2010 từ trang web http://eng.ftc.go.kr/about/overview.jsp.

16. KPMG (2009), Global M&A outlook for retail, international.

17. Levy, Micheal và Weitz, Barton(2001), Retailing management, McGraw

Hill.

18. Macedo, Jorge và Chino, Tadao (2003), Asia and Europe: services

liberalization, Asian Development Bank, Organisation for Economic

Co-operation and Development. Development Centre.

19. Nguyễn, Thị Thu Trang (2009), Cẩm nang doanh nghiệp về WTO và cam

kết WTO của Việt nam, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, tr.428-439.

20. Nielsen (2008), Retail and shopper trend in Asia-Pacific 2008, Australia.

Page 87: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

21. Nielsen (2009), A Challenging Year For Asian Shoppers, But Growth

Continues Unabated, truy cập ngày 25/02/2010 từ trang web

http://blog.nielsen.com/nielsenwire/consumer/a-challenging-year-for-asian-

shoppers-but-growth-continues-unabated/.

22. Nielsen (2009), Vietnam Pocket reference book 2009, HCM, Việt Nam.

23. Renee, Kim B (2006), Wal-Mart in Korea: Challenges of Entering a Foreign

Market, Hanyang University, School of Business, Seoul Korea, tr. 3 – 7.

24. RNCOS (2008), Vietnam retail analysis 2008-2012, HCM, Việt Nam.

25. Tesco (2008), Tesco in Asia 2008, Korea.

26. Tổng cục Thống Kê (2009), Dân số và lao động 2009

27. Tổng cục thống kê (2010), Tình hình kinh tế xã hội quý I – 2010, truy cập

ngày 17/4/2010 từ trang web: http://www.gso.gov.vn/default.aspx?

tabid=413&thangtk=03/2010

28. Wal-mart Corporate (2010) truy cập ngày 20/02/2010 từ trang web

http://walmartstores.com/AboutUs

29. Wikipedia, Carrefour, truy cập ngày 25/2/2010 từ trang web

http://en.wikipedia.org/wiki/Carrefour#Asia

30. World Bank (2000), East Asia – recovery and beyond, Washington D.C, tr.

146-149

31. 7-Eleven (2010), truy cập ngày 05/02/2010 từ trang web

http://www.franchise.7-eleven.com

Page 88: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU.............................................................................................................1

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN

LẺ................................................................................................................................4

I. Khái niệm, đặc điểm và phân loại thị trường bán lẻ.......................................4

1. Các khái niệm về bán lẻ.......................................................................................4

1.1 Thị trường bán lẻ................................................................................................4

1.2 Nhà bán lẻ...........................................................................................................4

2. Những đặc điểm của thị trường bán lẻ.................................................................6

3. Phân loại các loại hình thức bán lẻ trên thị trường...............................................6

3.1 Hệ thống bán lẻ truyền thống.............................................................................7

3.2 Hệ thống bán lẻ hiện đại.....................................................................................7

II. Vai trò của thị trường bán lẻ............................................................................9

1. Thị trường bán lẻ đóng vai trò là cầu nối giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.9

2. Thị trường bán lẻ giúp cung cấp thông tin từ người tiêu dùng đến nhà sản xuất

và ngược lại............................................................................................................10

3. Thị trường bán lẻ phản ánh tình hình sản xuất, kinh doanh và mức sống của

người dân trong một quốc gia................................................................................11

4. Thị trường bán lẻ đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái sản xuất xã hội...11

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CHÂU Á....................13

I. Các xu thế nổi bật trên thị trường bán lẻ Châu Á hiện nay.........................13

1. Hệ thống bán lẻ hiện đại dần thay thế các cửa hàng truyền thống.....................13

1.1 Thay đổi trong hành vi tiêu dùng của người dân châu Á.................................13

Page 89: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1.2 Sự xuất hiện và phát triển của các mô hình bán lẻ hiện đại.............................14

2. Sự hiện diện và tầm ảnh hưởng của các tập đoàn bán lẻ hàng đầu Âu Mỹ ngày

càng lớn..................................................................................................................16

2.1 Tình hình mở rộng của các tập đoàn bán lẻ toàn cầu ra khắp châu Á..............16

2.2 Lợi thế của các tập đoàn lớn từ Âu, Mỹ...........................................................18

2.3 Sự hiện diện của một số tập đoàn bán lẻ Âu Mỹ lớn nhất tại châu Á..............20

3. Một số công ty bán lẻ gốc Châu Á không ngừng mở rộng phạm vi kinh doanh

vượt khỏi biên giới quốc gia, khu vực....................................................................24

3.1 AS Watson........................................................................................................24

3.2 Dairy Farm.......................................................................................................25

II. Tiềm năng và những khuynh hướng phát triển trong tương lai................27

1. Tiềm năng...........................................................................................................27

1.1 Thị trường bán lẻ châu Á vẫn đang ở giai đoạn trưởng thành trong khi các thị

trường ở Âu Mỹ đã rơi vào giai đoạn bão hòa.......................................................27

1.2 Châu lục đông dân nhất thế giới, dân số trẻ và sức mua tăng..........................29

1.3 Chính phủ các quốc gia châu Á dần điều chỉnh các chính sách thương mại

theo hướng mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ.....................................................30

2. Khuynh hướng phát triển trên thị trường bán lẻ châu Á trong tương lai...........31

2.1 Thương mại điện tử sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ....................................31

2.2 Nhượng quyền thương mại trên thị trường bán lẻ sẽ ngày càng phổ biến.......33

2.3 Xu hướng M&A ngày một gia tăng.................................................................35

2.4 Hệ thống bán lẻ hiện đại sẽ tiếp tục chiếm ưu thế............................................37

III. Hai thị trường bán lẻ điển hình của châu Á giai đoạn từ 2000 đến nay...39

Page 90: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1. Thái Lan.............................................................................................................40

1.1 Chính sách mở cửa thị trường một cách ồ ạt của chính phủ Thái Lan.............40

1.2 Thất bại của các doanh nghiệp bán lẻ Thái Lan trên thị trường nội địa...........40

2. Hàn Quốc............................................................................................................41

2.1 Chính sách của chính phủ Hàn Quốc về thị trường bán lẻ...............................41

2.2 Thành công của các doanh nghiệp bán lẻ Hàn Quốc trong việc giữ thị phần

của mình trước sự xâm chiếm của các tập đoàn quốc tế........................................43

CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM VÀ

NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRONG

TƯƠNG LAI.............................................................................................................46

I. Thực trạng về thị trường bán lẻ Việt Nam.....................................................46

1. Khái quát về thị trường bán lẻ Việt Nam...........................................................46

1.1 Các loại hình kinh doanh bán lẻ khá phong phú đa dạng.................................46

1.2 Các tập đoàn bán lẻ nước ngoài ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động và

chiếm lĩnh thị trường..............................................................................................49

1.3 Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước còn yếu kém..........................................52

2. Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động thị trường bán lẻ.............55

2.1 Tác động tích cực.............................................................................................56

2.2 Tác động tiêu cực.............................................................................................58

3. Thuận lợi và khó khăn trong tương lai...............................................................60

3.1 Thuận lợi..........................................................................................................60

3.2 Khó khăn..........................................................................................................65

II. Nhóm kiến nghị nhằm phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam...................70

Page 91: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm

1. Nhóm giải pháp từ phía Nhà nước.....................................................................70

1.1 Giữ ổn định về kinh tế, chính trị......................................................................70

1.2 Hoàn thiện khung pháp lý về thương mại........................................................71

1.3 Thực hiện các biện pháp điều hành, giám sát thị trường bán lẻ, hoàn thiện các

chế tài xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và xâm phạm lợi ích

người tiêu dùng.......................................................................................................73

1.4 Hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hoạt động phân phối bán lẻ......................74

1.5 Hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước, hướng dẫn, khuyến khích người tiêu

dùng hướng tới hàng trong sản xuất trong nước....................................................74

2. Nhóm giải pháp từ phía các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam.......................75

2.1 Tận dụng và phát huy lợi thế trên thị trường nội địa, hiểu biết rõ về thị trường

và người tiêu dùng trong nước...............................................................................75

2.2 Nhạy bén nắm bắt thông tin, điều chỉnh theo những biến động thị trường......76

2.3 Đầu tư vào thiết lập, củng cố thương hiệu riêng, không ngừng mở rộng danh

mục sản phẩm với chất lượng đảm bảo, giá cả cạnh tranh.....................................77

2.4 Đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, hiệu quả.........................................78

2.5 Đẩy mạnh đầu tư, áp dụng công nghệ cao để quản lý mọi khâu của hoạt động

kinh doanh..............................................................................................................80

2.6 Thực hiện các hoạt động liên kết với các doanh nghiệp bán lẻ khác và các nhà

sản xuất...................................................................................................................81

KẾT LUẬN...............................................................................................................83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Page 92: thị trường bán lẻ châu Á - Khóa luận mẫu 10 điểm