thi vĂn - easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/bui toc 14.doc · web viewchÁn ĐỜi...

34
THI VĂN CHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không rồi ? Tám trăm Bành Tổ mà chi chớ, Ba chục Nhan Hồi cũng vậy thôi. Hoàn cảnh nông thôn hầu lỡ khóc, Văn minh đô thị dễ buồn cười. Đường lên Thượng Đế xa xôi quá ! Trông gặp Diêm vương kể chuyện chơi. Bùi mộng Vũ TIỄN CHÚ NAM SƠN DU HỌC Tình nghĩa anh em biết lấy chi, Ít nhiều thổ sản mấy vần thi. Nước đương kén chọn người tài đức, Học để tìm tòi nghĩa trí tri. Vì muốn đi sâu nguồn triết lý, Hầu mong đạt đến chỗ tinh vi. Khuyên ai cố gắng công tu tập, Con cháu Rồng Tiên tiếng giữa ni. Bùi Mộng Vũ (1) Bài họa vận của Ô. Bùi Tấn: Ở ĐỜI Đã trót sinh ra đứng giữa trời, Làm người hồ dễ sống cho rồi ! Bạc đen thói tục hiềm chi bấy, Son sắt lòng ta vẫn thế thôi. Cửa Hạnh còn vang câu chỉ dạy, Sân Lai đương rộn tiếng nô cười. Đôi đường ngưỡng phủ tròn sau trước, Tùng cúc tiêu dao mặc sức chơi ! NHỚ MẸ THƯƠNG THÂN Ôi hoa cải vàng hương thơm kín đáo Khơi trong ta bao kỷ niệm xa xôi ! Thời niên thiếu không bao giờ hồi đáo Như Mẹ ta đã vĩnh viễn khuất rồi ! Mẹ là người suốt một đời cần mẫn,

Upload: others

Post on 26-Dec-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

THI VĂN

CHÁN ĐỜI (1)

Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không rồi ?Tám trăm Bành Tổ mà chi chớ, Ba chục Nhan Hồi cũng vậy thôi. Hoàn cảnh nông thôn hầu lỡ khóc, Văn minh đô thị dễ buồn cười. Đường lên Thượng Đế xa xôi quá !Trông gặp Diêm vương kể chuyện chơi.

Bùi mộng Vũ

TIỄN CHÚ NAM SƠN DU HỌC

Tình nghĩa anh em biết lấy chi, Ít nhiều thổ sản mấy vần thi. Nước đương kén chọn người tài đức, Học để tìm tòi nghĩa trí tri. Vì muốn đi sâu nguồn triết lý, Hầu mong đạt đến chỗ tinh vi. Khuyên ai cố gắng công tu tập, Con cháu Rồng Tiên tiếng giữa ni.

Bùi Mộng Vũ

(1) Bài họa vận của Ô. Bùi Tấn: Ở ĐỜI

Đã trót sinh ra đứng giữa trời, Làm người hồ dễ sống cho rồi !Bạc đen thói tục hiềm chi bấy, Son sắt lòng ta vẫn thế thôi. Cửa Hạnh còn vang câu chỉ dạy, Sân Lai đương rộn tiếng nô cười. Đôi đường ngưỡng phủ tròn sau trước, Tùng cúc tiêu dao mặc sức chơi !

NHỚ MẸ THƯƠNG THÂN

Ôi hoa cải vàng hương thơm kín đáo Khơi trong ta bao kỷ niệm xa xôi !Thời niên thiếu không bao giờ hồi đáo Như Mẹ ta đã vĩnh viễn khuất rồi !

Mẹ là người suốt một đời cần mẫn, Chẳng bao giờ con thấy Mẹ nghỉ ngơi !Có lẽ chỉ mười hai lần thai sản, Mẹ mới nằm, mỗi bận mấy ngày thôi !

Từ buồng kín tối om đương dưỡng sản, Mẹ vẫn truyền lệnh nội tướng không ngừng. Ngày kỵ giỗ Mẹ càng thêm nhọc bận, Quên cả ăn, chỉ uống thứ rượu nồng.

Dù vất vả nhưng dung nhan thư thớiVà y trang sạch sẽ đến tuyệt vời,

Page 2: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Đầu tóc Mẹ chẳng bao giờ bù rối, Đồ trong nhà được xếp đặt có nơi.

Con thích nhất là vườn rau của MẹNhư tánh người: ngăn nắp và xanh tươi. Mỗi đầu Xuân, ngày Tết con nghỉ lễ, Rời trường xa về ăn Tết thật vui !

Trời tháng chạp, tiết Lập Xuân mát mẻ, Về đến nhà, chẳng hỏi Mẹ ở đâu. Con chạy thẳng ra vườn rau của MẹGặp Mẹ yêu đương chăm sóc rau màu.

Con ngây ngất hôn hoa vàng của cải, Con say sưa hít thở gió thơm ngò. Con cuống quít làm Mẹ già sợ hải: “Khéo gảy bông để giống đó, thầy Ngô !”

Con yêu Mẹ, yêu vườn rau xinh đẹp, Hoa cải vàng gợi nhớ mẹ vô biên. Cải còn nở, có bao giờ lại chếtTrong lòng con hình ảnh Mẹ dịu hiền !

Mẹ, hỡi Mẹ ! cũng một đời cần mẫn, Chăm vườn hoa Dân tộc mấy mươi năm. Con đã gắng trồng hoa rất cẩn thận: Nghiêp trăm năm đâu được phép sai lầm !

Nay hồng, cúc ... đương nở hoa đâu đấyBiết hoa nào còn nhớ kẻ làm vườn ?Thương mẹ già chẳng bao giờ còn thấy !Ai thương ta lận đận lạc mái trường ?

Đất trích Nam Hà 28 Tết Quí Hợi 10-2-1983

Ảo giản Phan Ngô

THÁI SƠN NGÂM

Ca dao: Công cha như núi Thái sơn (Trích đoạn đầu)

Nhìn Linh vị khói hương nghi ngút, Nhớ Cha xưa sùi sụt đòi cơn !

Nỗi tan hợp, cảnh mất còn, Cuộc đời dâu bể chúng con đau lòng !

Cha xưa vốn giống dòng thi lễ, Cửa Phi Y, cội rễ Hoan châu.

Băng núi cả, vượt sông sâu, Tổ tiên xây dựng bước đầu Vĩnh Trinh.

Bao khó nhọc công trình xiết kể, Lấy cần lao, hiếu đễ làm lòng.

Của đầy đủ, cháu con đông, Cũng hàng vọng tộc, cũng dòng danh gia.

Noi gương sáng ông cha thuở trước, Thêm thận cần cương trực khác người.

Sân Trình đứng tuyết (1) thiếu thời, Bạn yêu, thầy mến có lời ngợi khen:

Chính từ chàm tạo nên xanh đấy,

Page 3: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Nhưng màu xanh đẹp mấy lần hơn ! (2)Tuổi xuân đôi chín vừa tròn,

Chỏng lều cựu học chỉ còn một khoa. Nợ sách đèn gác qua mộng cũ, Cảnh nông tang vui thú hôm mai.

Vó câu ruổi khắp gần xa: Lục thôn, Thập xã, Xuân Đài, Phú Hanh.

Tài hoạt bát, dáng thanh, tính trẻ, Đi đến đâu kẻ nể người thương.

Ba sinh kiếp trước vấn vương, Nếp nhà khoa bảng, Tạ đường (3) Long Xuyên.

Xe chỉ thắm đẹp duyên cầm sắt, Phận bố kinh xứng bậc nghi gia.

Xướng tùy giữ trọn đạo nhà, Bể Đông tát cạn có là khó đâu.

Khoảng năm năm trước sau phỏng kể, Cơ đồ nên tráng lệ nguy nga.

Thần hôn định tỉnh mẹ cha, Chỉ cam nội ngoại vẹn hòa đôi bên.

Nhạn kêu sương đòi phen nhắc nhở, Nợ tang bồng há lỡ chí trai,

Từ hương hoạn, bậc thạc tài, Tiếng thơm mười dặm với đời góp công.

Ngoài xã dân, hết lòng tín thứ, Trong thân bằng, lấy chữ nghĩa nhân.

Ơn trên mưa móc gội nhuần, Hoa thêu lên gấm, hương lan dặm phần.

Giấc Vu sơn ngày xuân êm ái, Mộng hùng xà ba gái, ba trai,

Tảo vong bớt một ấu hài, Ân cần nuôi nấng, một hai dạy bày.

Chọn bạn lành thầy hay bắt chước, Mong gái trai đều được nên người.

Cù lao trời rộng bể khơi, Cao sâu chín chữ không dời lòng con.

Số nhi thảy đương còn thơ ấu, Bỗng đất bằng sét thấu bên tai !

Ô toàn thói tạo ghen đời, Nhà Huyên phút chốc ra người thiên thu !

Tre khóc măng giọt châu lã chã, Chén bôi quyên não dạ tuổi thơ.

Tương tư đứt gánh bất ngờ, Bến Ngần sùi sụt, cầu Ô bẽ bàng !

Vì con trẻ thầm than nuốt tủi, Thế mẹ hiền an ủi chở che.

Cảnh đơn chiếc, dạ tái tê, Giao loan chắp mối khó bề bỏ qua.

Duyên các đằng này ai đưa đẩy, Bên ngoại gia còn đấy thân di.

Quả mai ba bảy đương thì, Khuôn thiêng lừa lọc nhắm về cầu hôn.

Cúi xét tình, dưới con đều toại, Ngất tỏ lòng, trên Ngoại tán thành.

Page 4: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Bấy giờ gương vỡ lại lành, Trăng già khéo chọn, trời dành lương duyên ...

Bùi Tấn

Ghi chú: (1) Do chữ: “Lập tuyết Trình môn”

(2) Do câu: “Thanh xuất ư lam nhi thắng ư lam”

(Màu xanh lấy từ chất chàm ra, nhưng lại đẹp hơn chàm)

(3) Vương, Tạ là những tôn môn, vọng tộc trong sách xưa. Cổ thi có câu:Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,

Kim nhập tầm thường bá tánh gia.

TRẮC DĨ NGÂM

Trắc bì dĩ hề, chiêm vọng mẫu hề. (Kinh Thi)(Trích một đoạn)

... Nhưng trẻ tạo khéo là trêu cợt, Bỗng đất bằng sét chợt bên tai.

Các con đương thảy ấu hài, Mẹ hiền phút chốc hôm mai lìa trần.

Bao xiết nỗi thở than thương xót, Tre khóc măng nhỏ giọt lệ sầu.

Bôi quyên ngắm chén thêm đau, Bâng khuâng chín chữ cao sâu khôn lường.

Gánh tương tư giữa đường bỗng đứt, Quốc lẻ đôi thổn thức canh dài.

Cảnh đơn chiết, dạ ai hoài, Tục huyền đành phải nhắm người tề gia.

Tay Nguyệt lão phúc nhà dun rủi, Đây thân di đương tuổi đào tơ.

Phong tư dung mạo đều vừa, Thật là cá nước duyên ưa phải thì.

Dì thay mẹ, con thời hưởng ứng, Niềm ốc ô, Ngoại cũng thỏa lòng,

Trăm năm khăng khít giải đồng, Càng âu duyên mới, càng nồng nghĩa xưa.

Duyên các đằng gió đưa thuận nẻo, Công việc nhà liền khéo lo toan.

Nông tang nghiệp cũ sẵn sàng, Kiệm cần giữ nếp chỉnh trang trong ngoài.

Hàng trợ tá cắt sai đúng chỗ, Khi khó khăn giúp đỡ đến cùng.

Hay thương người, khéo xét công, Khiến cho trên dưới thủy chung hết lòng.

Page 5: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Bóng dâu tà bên song hôm sớm, Lòng tri niên thấp thỏm đôi đường.

Cao đường phơ phất mái sương, Chỉ cam luôn trọn lễ thường thần hôn.

Nghĩa tào khang giữ tròn kỉnh giới, Bậc bố kinh cũ mới cân nhau.

Xướng tùy đạo cả nhớ câu, Trong ngoài êm ấm, trước sau vẹn toàn.

Mộng ngày xuân Vu san đẹp giấc, Sân hòe thêm tươi nứt hai cành.

Sách đèn đương độ tuổi xanh, Con thơ lớn nhỏ học hành ra công.

Đối con trẻ một lòng ưu ái, Không phân chia trai gái trước sau.

Hiếu hòa đức hạnh làm đầu, Dốc lòng xây dựng, lo âu đủ bề.

Cảnh thanh bình đương khi vui vẻ, Cuộc phong trần ai vẽ nên tranh.

Giặc kia khủng bố dân lành, Cùng trong hoàn cảnh phải đành tản cư.

Rời Phú Gia, lần từ chạy nữa, Thọ Lâm rồi, lại trở Bình Yên.

Bao vây bố ráp liên miên, Gia đình sau phải tìm miền lánh thân.

Vùng Hương Ngự đặt chân tạm trú, Tránh can qua, tiện chỗ học hành.

Thời gian trên đất thần kinh, Hoàng hôn khói tỏa, bao tình nhớ quê.

Nhớ lại lúc xuân về mai nở, Nhớ những khi còn thuở thanh nhàn.

Giã gạo đêm tối hát vang, Tiếng chày thôn nữ, nhịp nhàng canh thâu.

Nhớ lại thuở Gò Đầu ngắm cảnh, Bóng tà dương lấp lánh rặng tre.

Ngập ngừng trên lối đường quê, Nghêu ngao mục tử, nặng nề đàn trâu.

Nơi đất khách gạo châu củi quế, Việc tảo tần nào nệ khó khăn.

Đời sống dầu có nhọc nhằn, Ăn tiêu chật vật, tinh thần thảnh thơi.

Thi phú xưa tính thời ưa thích, Truyện Kiều xem, điển tích làu thông.

Hồn thơ lai láng bên lòng, Nghìn năm tấc dạ, mấy dòng còn đây ... (1)

Bùi Tấn

Ghi chú: - (1): Xin trích dẫn đôi vần thơ Bà đã khẩu ứng trong đêm Rằm tháng Bảy năm Quý Tỵ (1953):

Page 6: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

TRĂNG RẰM

Trăng rằm lạc đến phòng ta, Khiến người lữ thứ không nhà bơ vơ.

Ta nay nhặt ít vần thơ, Giữa trời núi Ngự, bên bờ sông Hương.

LÒNG QUÊ

Sau những năm trời xa cố hương, Tôi về làng cũ thấy đau thương, Mái nhà êm ấm ngày xưa đãLạnh lẽo thềm rêu cỏ ngập tường.

Lòng trẻ thơ ngây vắng tiếng cười, Ôi còn đâu nữa cố hương ơi !Còn đâu tiếng sáo diều lơ lửng Khi bóng hoàng hôn xuống ngập trời.

Tôi đứng bên thềm hoang lạnh cũNghẹn ngào không nói mắt rưng rưng. Hoa sen năm trước tơi bời rụng, Những cánh chim bay cũng ngập ngừng !

Đâu nữa cố hương ngày ấm cúngGia đình sum họp mái nhà xưa ?Chiến tranh, ôi chiến tranh tàn phá, Hiu hắt hồn quê mắt lệ mờ !

Bùi Hoàn 1958

NGẠO ĐỜI

Tớ vẫn hay mang tiếng ngạo đời, Mà ai có biết tớ khinh ai ? Khinh người lắm của, mà thờ của, Khinh kẻ cao ngôi, chẳng xứng ngôi. Khinh ả chung tình, chung cửa miệng, Khinh chàng ái quốc, ái đầu môi. Tớ khinh đại để là khinh thế, Đâu giám khinh chi cả mọi người.

Bùi Thế Mỹ (1) Tân Thế kỷ 1924

ĐỀ BỨC TRANH TÙNG LỘC

Chiều mát dạo rừng còi,

Page 7: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Bên khe đất một đồi. Đội trời đạp đất đứng, Dương sừng trợn mắt coi. Cỏ hoa chen lẫn bóng, Cây đá lợp trong ngoài.Nước, núi, mây một sắc, (2)Chi xiết dạ ai hoài !

Bùi Thế Mỹ Kỳ Lân báo 1927

(1) Thi văn của Bùi Thế Mỹ đã đăng trong các báo trong khoảng thời gian: 1922-1943. Nơi đây xin trích một số bài từ GIÒNG THỜI GIAN – Thi văn tuyển tập Bùi Thế Mỹ, Phương Lan – do Khuynh Diệp tùng thư xuất bản năm 1971.

(2) Thơ Vương Bột có câu: “Lạc hà dữ cô vụ tề phi,

Thu thủy cộng tràng thiên nhất sắc”

Phỏng dịch: Rán chiều, cánh nhạn cùng bay,

Nước thu, trời thẳm khéo thay một màu !

CẢM TÁC (1)

Chưa dứt tai kia, đến nạn nầy !Trời già, ông định thử tôi vay ?Thân cò, đã lắm phen xuôi ngược, Sức ngựa, nài bao dặm vắn dài. Dâu bể, ví mà xoay đến nỗi,Đá vàng, quyết chẳng phụ cùng ai !Hai mươi lẻ tám thu nay mới, Gặp đặng người tôi ước những ngày.

Bùi Thế MỹXuân 1932

XUÂN HỨNG

Cỏi trần từ mới có ta, Một xuân nầy nữa đã là ba mươi.

Trăm năm trong hạn người đời, Được bao nhiêu hãy vui cười bấy nhiêu.

Thế sự phù vân hà túc toán (2)

Lo mà chi, buồn chán nữa mà chi Gánh phong trần vai những nặng tri tri, Cũng nên dứt ưu ty cho nhẹ bớt.

Tế suy vật lý tu hành lạc,

Page 8: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Hà dụng phiền lao khổ thử thân (3)

Ừ, thôi thì, khi đêm mưa, khi lá rụng, Cơn gió hạ, lúc mưa xuân, Theo tuế tự truy hoan cùng tạo vật. Chơi cũng mất, không chơi cũng mất, Cái niên hoa thấm thoát có chờ ai ?Mừng xuân ta lại cứ say !

Bùi Thế Mỹ Xuân Quý Dậu 1933

(1) Tác giả gởi cho người bạn đời: Nữ sĩ Phương Lan.(2) Việc đời như mây nổi, có đáng chi mà kể. (3) Xét kỹ nguyên do cuộc sống, thì nên vui chơi là hơn,

Sao lại đem điều lo nghĩ để khổ xác thân.

BỠN MỘT ÔNG BẠN “CÓ MÈO”

Một bên thì vợ, một bên mèo, Nông nỗi này xem cũng chán phèo !Bà vợ cằn nhằn, ba, bốn, bỏ, Cô mèo năn nỉ, một, hai, theo. Mất lòng mẹ nó, thì nguy hiểm, Bỏ bụng cô mi, cũng ngặt nghèo. Nặng nhẹ hai bên tình một khối, Anh hùng lắm lúc cũng buồn teo !

Bùi Thế Mỹ

KÌA ... KÌA ... NGHE TIẾNG CHUÔNG MAI

Rảnh rang lên tiếng gọi đời, Bỏ khi lửa đốt, bỏ hồi than nung.

Đã kêu, kêu khắp Tây, Đông Sông Ngưu sóng dậy, nùi Nùng cây lay !

Văn chung tức khởi (1)

Bạn ta ơi ! chỗi dậy kẻo trưa rồi. Kìa ai đương xô xát bốn phương trời, Mà ai vẫn chưa thôi cơn túy mộng.

Nhật dĩ xuất hề chung dĩ động,

Khuyến quân cấp khởi, khởi văn chung (2)

Chuông gọi hồn: Khoan nhặt tiếng boong boong. Dậy ! dậy ! dậy ! mà trông nước tổ. Ai gầy dựng giang sơn cẩm tú ?Mà ai đành nằm ngủ hỡi chăng ai ?Kìa, kìa nghe tiếng chuông mai ...

Page 9: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Bùi Thế Mỹ

(1) Nghe tiếng chuông, liền thức dậy. (2) Trời đã rạng đông, chuông đã đổ,

Khuyên chàng mau dậy ... dậy nghe chuông.

HỌC ĐƯỜNG CẢM TÁC

Trong mấy năm trời, dạy trẻ em, Quê người, đất khách, tủi thân hèn. Ngọt, bùi, chua, chát, mùi từng trải, Danh lợi, giàu sang, giấc chả thèm. Vinh nhục, nhục vinh, đà lắm nỗi, Thị phi, phi thị, biết bao phen. Thiệt vàng vô lửa càng kheo sắc, Bùi đục cười ai cố nhuộm sen !

Phương Lan (1)

MƯA THU

Lợp đợp bên tai tiếng vẳng nghe, Giọt sầu như gợi khách phòng the. Cỏ hoa man mác, màu phai lợt, Non nước thê lương, cảnh vắng hoe !Ríu rít lùm cây, chim réo bạn, Rã rời mặt nước, kiến tan bè. Nổi chìm cuộc thế, ai mà nghĩ ?Hỏi lại ông Trời sự khắc khe.

Phương Lan

(1) – Thi văn của nữ sĩ Phương Lan – Phu nhân của Bùi Thế Mỹ – đã từng đăng trên các báo: Phụ nữ Tân văn, Công Luận, Dân báo Tân sanh Phụ nữ, Tiếng Dội, Phổ Thông, Thần Chung trong thời gian 1930-1968. Các bài này trích từ DÒNG THỜI GIAN – Thi văn tuyển tập Bùi Thế Mỹ Phương Lan – xuất bản năm 1971.

EM LÀ ... (1)

Em là ngọn cỏ bên đàng, Bụi hồng ấy bạn, cát vàng ấy duyên.

Ai vui chợ búa thị thiềng, Em vui non nước, ngoài miền trần gian.

Em là ... kẻ mến giấc vàng, Tỉnh rồi lại muốn mơ màng say sưa.

Nhớ lời hẹn tóc, thề tơ, Đã yêu ... yêu đến bao giờ, vẫn yêu.

Page 10: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Em là ... mặt nước, cánh bèo, Thác gành bao quản, sớm chiều linh đinh.

Đã sanh vào cỏi phù sinh, Lấy gan sắt đá, chống kình phong ba.

Em là ... chim yến hót ca, Cho đời buồn thảm, hóa ra vui vầy.

Mặc dầu lẻ bạn, lạc bầy, Hót ca, miễn được giải khuây lòng người.

Em là ... một kẻ chán đời, Ai thương cũng được, ai cười cũng cam.

Em là ... Sư nữ Giác Duyên, Bao giờ cũng vẫn con thuyền tế nhân !

Phương Lan Thu 1930

TRÊN ĐƯỜNG VẠN LÝ (2)

Xuống đèo, rồi lại trở lên đèo, Khỏi khúc bình nguyên, đến khúc eo, Giữa nội nghêu ngao, thằng mục hát, Bên non tấp tểnh, chú tiều trèo. Trăng lòng cổ thọ, mây che khuất, Xe tít hồng trần, gió rượt theo. Đất khách như ưa người lữ thứ, Đường trần quen nỗi bước cheo leo !

Phương Lan

(1) Nữ sĩ Phương Lan gởi cho chồng(3) Nữ sĩ sáng tác trong chuyến tàu suốt Sài Gòn – Nha Trang – Đà Nẵng, khi theo chồng bị trục

xuất về xứ Quảng.

PHẬN GÁI

Tường đông ong bướm vắng xôn xao, Nghĩ cũng hổ ngươi khách má đào. Duyên phận chỉn e ngồi chịu rét, Nợ tình không lẽ gánh đi rao. Trái mai ba bảy con lo lắm, Bến nước mười hai mẹ tính sao ?Lỡ cỡ khó toan mà khó liệu, Cúi thời không thấp, với không cao !

Bùi Cần

Page 11: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

VIỆC ĐỜI

Co tay tính thử đã bao lâu, Từ thuở xuân xanh đến bạc đầu. Mặc sức nhảy bay trời đất rộng, Bền lòng lặn lội bể sông sâu. Phải chăng, hơn thiệt đều dư biết, Cay đắng, ngọt bùi nõ thiếu đâu. Nhưng cũng phải phòng khi bất trắc, Biển hồ không sợ, sợ ao trâu.

Bùi Cần

MẮT MỜ

Khi đầu bị bệnh mới sơ sơ, Nhìn ngó gần xa thấy mập mờ. Thăm viếng người quen, nghe tiếng nói, Kiếm tìm vật dụng, lấy tay rơ. Về phương giải trí, khôn xem sách, Đến chuyện mua vui, hết đánh cờ. Lẽ có tối rồi, thì có sáng, Tuần hoàn tin tưởng ở thiên cơ.

Bùi Cần

NHỚ BÓNG NGƯỜI XƯA

Ái ân ân ái mấy cho vừa, Lắm tuổi, già càng lại lắm ưa. Nằm nghĩ luống thương người nghĩa cũ, Ngồi buồn chạnh nhớ bạn tình xưa. Xót thay hình ảnh còn tươi tốt, Thảm bấy mộ phần chịu nắng mưa !Bể cạn, non mòn, sầu khó dứt, Suối vàng hồn bạn biết cho chưa

Bùi Cần

LỜI THUẬT

Trước linh tọa đêm khuya vắng vẻ, Cảm ân tình thỏ thẻ đôi câu.

Tuy là tình trọng nghĩa sâu, Âm dương hai ngả biết đâu mà tìm.

Đêm nằm thấy những điềm mộng tưởng, Chợt tỉnh rồi mường tượng ngày xưa.

Thuận đường gió đẩy duyên đưa, Thuyền tình ghé bến cũng vừa ngày xuân.

Hai cha mẹ thầm mừng con trẻ,

Page 12: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Hôn nhân thành vui vẻ nhân duyên. Khi về mọi việc cần chuyên,

Chẳng than khó nhọc, không phiền đắng cay. Thờ cô cựu hằng ngày thăm viếng, Đối phu lang không tiếng sai ngoa.

Anh em trên thuận dưới hòa, Một sân hòe quế, một nhà cúc lan.

Này cô bác, xóm làng lui tới, Nghĩa mặn nồng cũng ngợi tiếng khen.

Nông tang công việc làm ăn, Thức khuya dậy sớm lắm phen tân cần.

Đến ngày kỵ lạp Tiền nhân, Nữ công, nữ hạnh tảo tần hôm mai.

Thấy người chích cánh sa vai, Lòng thành giúp đỡ không nài thiệt hơn.

Nhờ cội phúc Tiền nhân để lại, Trổ sáu nhành bông trái xuê xoan.

Trai thời lo việc nông tang, Gái thời học tập lo đường cửi canh.

Dựng đôi lứa xây thành gia thất, Trai gái đều xây cất ở riêng.

Phước nhà rể thảo dâu hiền, Trai trung gái hiếu vẹn tuyền gia phong.

Vợ chồng được song song tuổi hạc, Hưởng thái bình gió mát, trăng thanh.

Chẳng may gặp buổi chiến tranh, Vợ Nam, chồng Bắc đã đành thế thôi.

Cửa nhà có đôi ngôi bỏ dở, Tản cư rồi theo ở với con.

Đủ mùi vật lạ miếng ngon, Thuốc thang bồi bổ tưởng còn được lâu.

Trông thái bình ngõ hầu trở lại, Hiệp vợ chồng, con cái cho vui.

Hay đâu theo ngọn gió xuôi, Hồn về Tiên cảnh, kiếp lui cỏi trần.

Có quí tử mộ phần xây cất, Thành trong ngoài, trông thật nghiêm trang.

Thượng sơn hạ thủy rõ ràng, Mừng thay phước địa để hoàn phước nhơn.

Trăm năm gắn chặt keo sơn, Con nhờ phước mẹ, cháu ơn lộc bà.

Đôi hàng thuật lại nôm na, Dầu chăng hay dở cũng là tình xưa.

Bùi Cần

NHỚ THẦY XƯA

Lời của người con khóc Ô. Bùi Biên

Nhớ Thầy xưa xứng bậc nam nhi, Vai gánh một giang sơn đồ sộ. Giữa những kẻ anh tài vị ngộ, Thầy sớm đà đạt chí trượng phu.

Page 13: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Trán Thầy cao như núi đội mây mù, Mắt Thầy rộng như ruộng đồng xanh bát ngát. Chí Thầy lớn như nước nguồn đổ thác, Chảy không ngừng, tụ với bể Đông. Thầy là hiện thân của cả non sông, Hùng vĩ của đất nước nguồn Trung Phước. Kể từ khi thanh niên thầy trổi bước, Đem chí kinh doanh xây dựng cơ đồ. Trải bao phen ruộng ngập đất khô, Khi giải nắng, lúc dầm mưa, thức khuya dậy sớm. Nước nguồn độc bao phen đau ốm, Thầy vẫn kiên tâm xẻ núi xây đường. Lấp đám sâu đào đám cạn, khai mương, Đắp đập, ngăn sông làm xe lấy nước. Núi thụt lùi để Thầy tiến bước, Núi xây thành bảo vệ ruộng nương. Thầy vươn thân một buổi chiều sương, Tay chống nạnh đứng trên cao xa ngắm, Thầy hiện lớn trên nền trời mờ sậm, Mỉm nụ cười thỏa chí bình sinh !

Trích Bảo Phước lưu tập Gia phả của Ô. B. Bùi Biên trang 49

NHỚ NHÀ

Năm rồi ăn Tết ngoài khơi, Gió tuôn sóng vỗ nước trời mênh mông.

Năm nay giữa cảnh trời Đông, Ngoài hiên mưa tuyết như bông phủ đầy.

Đường đi nội cỏ nhành cây, Ngồi bên lò sưởi trời Tây nhuốm buồn.

Nhớ nhà giọt lệ sầu tuôn, Nhớ sông, nhớ bến, xứ nguồn cây đa.

Nhớ mả Mẹ nơi phương xa, Trên gò vắng vẻ mưa sa ướt dầm.

Nhớ Thầy tóc bạc hoa râm, Còn đương nặng gánh lo thâm cang tràng.

Nhớ Bà Ngoại dưới Bảo An, Già nua tuổi tác còn đang đứng chờ.

Bên hiên trông cháu ngẩn ngơ, Cháu khôn đi mất bao giờ trở lui.

Nhớ Dì vẻ mặt ngậm ngùi, Hy sinh trách nhiệm thế người Chị yêu.

Nhớ cô em gái mỹ miều, Rồi đây sắp sửa khăn điều vấn ngang.

Nhớ Anh có ý phàn nàn, Tiếc ngày xuân hết lỡ đàng công danh.

Nhớ hai người Chị hiền lành, Khuyên chồng lập nghiệp, học hành thang mây.

Nhớ đàn em dại đông dầy, Thêm hai cháu nhỏ cả ngày khóc om.

Dành ăn đổ tháo chồm mồm, Đánh bài, đốt pháo với ham lượm tiền.

Page 14: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Xa gần nhớ kẻ xóm giềng, Bà con nội ngoại. Nhớ miền thượng du.

Nhớ đồng cỏ dưới sương mù, Núi cao chót vót, sông lừ đừ trôi.

Nhớ ruộng lúa, chè trên đồi, Bắp khoai sắn mía. Nhớ hồi năm xưa.

Dạo chơi ta những say sưa, Hay trên thuyền nhẹ gió đùa vi lau.

Chiều chiều ra đứng vườn sau, Đứng nhìn nước chảy xuôi mau rạc rào.

Nhìn mây lần biến nơi nao, Trông chim rủ bạn bay vào bụi tre.

Nghe phường mục tử nói vè, Nghêu ngao hòa với tiếng ve kêu sầu.

Xa gần nhớ chuyện đâu đâu, Nhớ mình chưa trả ơn sâu nợ Nhà.

Lyon (Pháp) Mùa đông 1939

Bùi ThạnhTrích Bảo Phước lưu tập trang 119

MẢ MẸ TÔI

Trời mưa rỉ rả Trên mả Mẹ tôiThan ôi buồn thảm.

Tỉ tê tiếng dếNhư thế lời aiHôm mai khóc hoài.

Lên thăm mả Mẹ Khói nhẹ hương bay Lung lay gió chiều.

Giọt nước mắt rơi Mẹ ơi có biếtBao xiết đớn đau !

Trung Phước 1937Bùi Thạnh

Trích Bảo Phước lưu tập trang 118

MÁ ƠI !

Má ơi ! Con đã về đây, Lạnh lùng dưới nấm mộ xây Má nằm !

Con đi thắm thoát mười năm, Trở về quê cũ mà lòng xót xa.

Khói hương quyện với nắng tà, Vườn hoang cỏ mọc, cửa nhà nơi đâu ?

Page 15: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Bốn bề vắng lặng trước sau, Nhìn phong cảnh cũ, lòng đau khôn cùng !

Nhà xưa giờ chỉ một vùng Cát dâng trắng xóa bên dòng sông sâu !

Hàng tre ngả bóng bên cầu, Lững lờ nước chảy một màu tang thương !

Hòn Ngang nhuộm ánh tà dương Cà Tang, Núi Chúa, Đại Bường xa trông.

Khe Le uốn khúc một dòng, Đồng Quan, Đồng Chợ, Đồng Hương mịt mờ !

Con về lòng thấy bơ vơ, Má ơi ! Hồn Má bây giờ nơi đâu !

Bùi Như HảiTrích Bảo Phước lưu tập trang 51

CHIẾC ÁO LEN XANH

Cứ mỗi độ Đông về trên cảnh vật, Cây sầu đông thân trụi đứng trơ cành. Trời u buồn chết cả màu xanh, Mưa rỉ rả gió lùa cơn lạnh đến.

Năm năm trước trong ngôi nhà thân mến, Nằm mê mang trong bịnh sốt thương hàn. Mẹ thì thương cho số phận đứa con trai, Lại ngại kiếp đời con ngắn ngủi.

Rồi một hôm khi mọi người say ngủ, Lại gần tôi Người cởi áo len ra:“Chiếc áo này con giữ lấy cho ChaCha sẽ ở bên lòng con mãi mãi”.

Nhưng than ôi ! cuộc đời đầy ngang trái, Đã âm thầm đưa đẩy đến cho tôi. Vào cuối Thu, một buổi sáng êm trời, Một tiếng nổ bao nhiêu người vĩnh biệt !

Và từ đó tháng ngày trôi mải miết, Xuân Hạ tàn liên tiếp đến Thu Đông. Trời rét run nhưng tôi vẫn ấm lòng, Bởi chiếc áo Cha già trao năm nọ.

Áo len ơi ! có tiền mua không khó, Nhưng lòng ta cảm thấy một chút gì. Tâm hồn ta được ấm bởi thân mi, Hình ảnh của người Cha đã mất !

Sài Gòn Mùa Đông 1957Bùi Như Hải

Trích Bảo Phước lưu tập trang 125

Page 16: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Vài nét về BÙI GIÁNG

Lược khảo: Ô. Bùi Văn Nam Sơn

Sơ lược Tiểu sử:

Ông BÙI GIÁNG là một thứ nam của Ông Bùi Thuyên và Bà Huỳnh thị Kiền.Ông sinh năm Bính Dần (1926) tại Thanh Châu, nơi song thân cư ngụ. Sau khi tốt nghiệp bậc Trung học, Ông có ghi danh vào Đại học Văn khoa. Nhưng không

thích uốn nắn theo con đường cử nghiệp, Ông đã ở nhà, dành hầu hết thì giờ để tự học, nghiên cứu, phiên dịch và sáng tác.

Trong thập kỷ 60 và đầu 70, thỉnh thoảng Ông có nhận dạy một ít giờ tại một số tư thục ở Sài Gòn.

Tác phẩm:

Văn nghiệp của BÙI GIÁNG đồ sộ. Trong tình hình tư liệu hiện nay, chưa thể tập hợp thành một thư tịch đầy đủ. Tác phẩm có thể tạm chia làm 4 loại:

1. – Giảng luận về Văn học2. – Bản dịch và Giảng luận về Triết học3. – Bản dịch về Văn học4. – Thơ, Văn sáng tác

Đôi lời tiếp dẫn: Ngô dữ Điểm giã !

(Ta cùng với Tăng Điểm vậy !)Khổng tử

Viết đôi lời hay nhiều lời về BG không bằng đọc BG. Đọc BG không bằng giao du với BG. Giao du với BG không bằng sống như BG. Mà sống như BG thì thật vui mà thật khó vậy.

Hiếm có tác giả nào mà khi ta đọc đôi câu cũng có thể cảm thụ được cái tinh thể của toàn bộ văn nghiệp đồ sộ, nhìn một hành vi mà thấy được phong độ dị thường của cả bình sinh. Một giọt nước mang cả lượng hải hàm của đại dương, nói như nhà Phật. Các bậc thâm trầm ngày xưa gọi đó là mở cửa thấy núi, một khí xuyên suốt (khai môn kiến sơn, nhất khí quán hạ) Phương Tây bảo rằng Văn là Người. Quả ở đây, Người trở thành Văn, Văn với Người không hai.

Anh Giáng là sao Văn khúc “hạ giáng” vào cửa họ Bùi ta chăng ? Là một Thi Quỉ hay Thi Tiên có một không hai trong nền văn Dân tộc ? Là một bậc La Hán tự phát nguyện trở thành xác thịt để khóc cười an ủi chúng sinh ? Khen hay chê, thích hay không, Anh vẫn thuộc vào loại thiên tài không định nghĩa được (génie indéfinissable) làm bằng một thứ nguyên liệu rất hiếm, là một giống chim lạ rất dễ tuyệt chủng mà Trời Đất – không nỡ làm dứt mạch Văn, làm cạn nòi Tình- lâu lâu lại cho phục sinh một lần. Thứ nguyên liệu ấy rất nhẹ đồng cân nên ít bám bụi, lung linh sương bóng (hốt hề hoảng hề), khó nắm bắt mà lại cũng rất kềnh càng, “quá cỡ thợ mộc”, nếu ta không chịu khó gắng sức lên một tí thì không đo lường được:

Hỏi tên rằng biển xanh dâu Hỏi quê rằng mộng ban đầu đã xa

Gọi tên rằng một, hai, baĐếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm

Bốn câu tự giới thiệu gợi ta nhớ đến René Char, một thi sĩ lớn của Pháp: Je par le de si loin

Comment m’entendez-vous ?Tôi nói từ cỏi rất xaNgài nghe tôi như thế nào ?

Page 17: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Nếu Thính là nghe ở vòng ngoài, còn Văn là lắng tai Chung Kỳ, nghe được ở bề sâu, bề xa thì nghe tiếng thơ BG giống như nghe một cơn mưa từ ngàn thu trước, đến hôm nay mới rớt hột trở về. Nguồn thơ ấy u huyền, bí nhiệm như một mê cung chỉ tự giải mã với người đồng điệu. Nó sâu xa, hùng hậu mà hồn nhiên, trong sạch và ngộ nghĩnh như những bài kệ khẩu chiếm của các Thiền sư. Nó cưỡng bức ngôn ngữ một cách dữ dội, không thương tiếc để giúp cho ngôn ngữ tự bộc lộ năng lực sinh hóa không cùng. Nó đẩy dòng Thơ Mới của Việt Nam đến chỗ tận cùng, từ đó khơi mở ra một chân trời với thi ca nhân loại: một hồn Thơ rất cổ kính đồng thời lại mang tâm thức hiện đại, đúng hơn, hậu-hiện đại (post-moderne), nơi đó mọi ý, mọi lời đều đa tầng, đa nghĩa, đa chức năng, nhằm bộc lộ cho được một cái gì rất Sơ nguyên, Đơn giản song đã trải qua biến dịch nên phong phú, điệp trùng.

Hồn thơ ấy bắt đầu từ những gì rất trần thế, không ít đau buồn từ thuở nhỏ: Bước xa bờ cỏ, xa đường thương yêu ...... Tóc xanh kỳ hẹn sai ngày Khóc ngang ngửa mộng, canh dài mấy phen ...... Giã từ khi bước chân ra Chết từ sơ ngộ màu hoa trên ngàn... Tuổi thơ nhiếp dẫn sai miềnĐổ xiêu phấn bướm, phi tuyền vọng âm ...

và khi lớn lên chứng kiến:Hải hùng bi kịch đồi tranh

Trùng quan vó ngựa tế nhanh trong mùThây người nát ở phía sau

Nghìn thu khép mắt khổ đau khôn hànlại trở thành nguồn thơ nghịch ngợm nhất, vui vẻ nhất xưa nay:

Tôi nói điệu điên rồ Ấy là vui vậy

Bùi quân bước được vào Hoan Hỷ địa, sau khi đã khóc ngang ngửa mộng, đã rú như beo rống, như hùm đổi hang trong những trận tung hoành bút mực. Sư tử biến thành hài nhi. Nhân loại mới nói cười như trẻ nhỏ. Quá trình chuyển hóa và đạt đạo của BG là tiêu biểu cho ý thức và tinh thần thời đại mà anh đã gặp gỡ, chia xẻ với những nhà tư tưởng và nghệ sĩ lớn Đông Tây.

Cái Vạn vật nhất thể ở khởi nguyên chưa phân ly thì còn hàm hỗn nhưng đầy sức sống. Biểu hiện nơi con người là các bậc Thánh hiền còn nguyên khối: họ là nhà thơ, nhà tư tưởng, nhà hành động. Huyền thoại và lý tính còn chan hòa vào nhau. Song, lô-gíc tất yếu của sự phát triển thúc đẩy sự phân ly, mang lại sự phồn tạp và cả những nguy cơ, thảm họa: sự phân ly giữa Lý tính (Apollon) và Đam mê (Dionysos), giữa Tư duy và Mơ mộng, giữa Đông và Tây, giữa Cơ giới và Tự nhiên ... Sự phân ly ấy còn trầm trọng khi con người thời đại xem sự phân ly là tự nhiên, lãng quên mất nguồn suối nguyên thủy và nhất là không tìm ra phương thuốc cứu nguy. Sa mạc lớn dần, chủ nghĩa hư vô lan tràn khắp chốn:

Trần gian bất tuyệt một lần Nghe triều biển rộng xa dần non xanh

... màu hoang đảo từ đây em sẽ ngó Cát xa bờ tơ chỉ rối chiêm bao

Làm sao nối lại non xanh và biển rộng, giữa cát và bờ ? Làm sao chuẩn bị cho một cuộc đối thoại tái hợp nhất thiết phải có giữa Đông và Tây ? Làm sao bắt lại nhịp cầu tương giao, tương ứng giữa thi ca và tư tưởng, hai lãnh vực vốn hoạt động theo quy luật, riêng cách nhau một vực thẳm mà lại có mối quan hệ tàng ẩn thâm thiết ở cội nguồn ?

Cành Lương mộc bão bùng về vây hãmSầu Thái sơn cô tịch lạnh liên miênHoài vọng uổng bên nỗi đời thê thảm Hờn núi sông-xin tái lập xanh miền

Tái lập lại một miền tương ứng xanh tươi sức sống nguyên sơ (anh cùng em đi hái lộc xanh đầu) để núi Thái sơn không bị sụp đổ, cành Lương mộc không bị hủy hoại (1) như lời thở than và

Page 18: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

mong mỏi của Đức khổng ngày xưa là đi lần theo con đường của Tăng Điểm tắm sông Nghi, hóng mát ở đền Vũ vu, rồi ca mà về (2) theo nghĩa sâu xa là thoát khỏi chấp trước, trở về nguồn cội với trí tuệ bao dung rộng mở:

Đời xiêu đổ nguồn xưa anh trở lạiGiữa hư vô em giữ nhé ngần này

Hiểm họa dập dồn. Cần một cứu tinh. Như mọi nhà nhân bản, BG lên tiếng kêu cứu và báo động. Cứu tinh chính là trí tuệ bao dung, mềm dẻo của nguyên lý Mẹ, của Thiên tính Nữ tràn ngập, rộn ràng trong thơ Giáng. (Theo quan điểm phân tâm, kẻ nói nhiều, nói công khai và không ngụy trang về tính nữ lại là kẻ không còn bị ẩn ức mà đã tìm được con đường thanh tẩy, giải thoát). Bởi vì Phật tổ có thể giác ngộ cho ta, nhưng Quan Âm mới ra tay cứu khổ. Phục Hy kiến lập quy củ, nhưng Nữ Oa mới chịu khó vá trời chở che con cháu. Âu Cơ, Thúy Kiều, Monroe, Phùng Khánh ... (3) đều là biểu tượng của Huyền Tẫn như thế cả:

Mẹ xin chiếu cố sa mù cho conNói những điều nghiêm trọng như vậy bằng ngôn ngữ vì ngôn ngữ là quê chung của Thi ca và

Tư tưởng và cũng là biểu tượng đẹp đẽ nhất của Mẹ: nó sinh sôi vô hạn, sinh hóa vô lường và luôn ẩn mật, tinh tế ở cả phần vô ngôn, ẩn ngữ. Ngôn ngữ biểu hiện ra nơi BG bằng ngụ ngôn, hoa ngôn, chi ngôn ... để gói ghém những gì uyên nguyên, sâu kín mà ngôn ngữ thông thường của khái niệm bị cục hạn không hàm chứa nổi:

Nguyên hình Nữ chúa trên ngày phù duNữ chúa là sức mạnh cứu khổ cứu nạn của Mẹ, làm Ngôi Lời cho nhân thế. Có thể hiểu tại

sao các tác phẩm cổ kim qua ngòi bút dịch thuật tài hoa của BG đều là những cơ hội để được tái tạo theo nguyên nghĩa chữ Dịch là chuyển hóa nhằm bắt nhịp cầu Ô thước như đã nói trên kia. Trong tay người thợ xoàng thì phiên dịch, sao chép ba lần là mất gốc (tam sao thất bản). Trong tay người thợ thiên tài, nó được nâng lên ba lần để có thể hợp giao với nhau ở phương trời mới. Kinh A Di Đà trang nghiêm; kinh Hoa Nghiêm thì bay bổng, rực rỡ muôn màu; nhưng cả hai đều nhất lý, chỉ tùy theo căn cơ của mỗi người.

BG là Tiếp dẫn đạo sư trong ngôn ngữ Việt Nam hiện đại.

Văn nghiệp phong phú, anh hoa phát tiết của BG chắc sẽ còn làm tốn nhiều giấy mực của người đời sau.

Nhưng riêng cái huệ tâm và nguồn vui từ bi của anh Giáng là phước huệ dư dụ dành cho họ Bùi ta vậy. Hãy biết ơn anh.

Ghi chú: (1). – Đức Khổng tử khi gần mất đã than: Thái sơn kỳ đồi hồ, Lương mộc kỳ hoại hồ, Triết nhân kỳ

nuy hồ ?!

(2). – Ông Tăng Tích còn gọi là Tăng điểm và con là Ông Tăng Sâm thường gọi là Tăng tử đều là môn đệ của Đức Khổng tử. Một hôm được Đức Khổng hỏi về chí hướng của mỗi đệ tử đương ngồi hầu ngài, Ô. Tăng Điểm đã thưa: Dục hồ Nghi, phong hồ Vũ vu, vịnh nhi quy , ngụ ý muốn sống ngoài vòng cương tỏa của lợi danh. Đức Khổng tử tán đồng quan điểm đó, Ngài đã nói: Ngô dữ Điễm giã.

(3). – Các nhân vật nữ mà thi sĩ BG thường nhắc đến trong các tác phẩm của mình.

(4). – Huyền Tẫn (Huyền = nghĩa lý sâu kín; Tẫn = con thú giống cái) = Nguyên lý Mẹ (chữ trong Đạo Đức Kinh của Lão tử).

VỊNH THÚY KIỀU

Ngất tạnh mù khơi sóng loạn bèo, Thôi rồi nhụy thắm thoắt tàn xiêu. Lìa duyên dứt mộng bên trời giạt, Nhắm mắt đưa chân góc bể liều. Một thuở trao tình mùa diễm tuyệt,

Page 19: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Ngàn thu thâu hận nguyệt nguyên tiêu. Dưới đèn phương cảo phân vân dậy, Thê thiết vong hồn thoảng hắt hiu.

Cái điều bạc mệnh của hồng nhan, Âm hưởng từng cơn sóng dậy tràn. Khi tỉnh khi say khi chớm hỏi, Chợt cười chợt khóc chợt vừa vương. Năm canh bấc lụi nhòa lay lắt,Chín khúc tơ vò rối quẩn quanh. Thao thức vong hồn về kể lể, Đường sau này sẽ ... nghĩ mà kinh.

Bùi Giáng Mưa nguồn

LỜI SƠN NỮ

Gánh than lên bán Chợ Trời, Thiên Thần xúm hỏi: Em người ở đâu ?

Thưa rằng: Em ở rất lâuTrần gian dưới đó dãi dầu liên miên.

Bảo rằng: Chưa rõ tuổi tên. Thưa rằng: Tên tuổi là em đây rồi,

Nghĩa là: Sơn nữ đó thôi. Hỏi rằng: Sao chẳng thấy môi em cười ?

Thưa rằng: Cười gượng không vui, Nên đành mím miệng một đời cho qua.

Hỏi rằng: Dưới đó bông hoaNở vào mùa hạ hay là mùa xuân ?

Thưa rằng: Cái đó em quên, Vì chưng lo đốt than nên không nhìn.

Hỏi rằng: Một chút của tin, Muốn trao em giữ, em xin thứ gì ?

Thưa rằng: Em chẳng biết chi. Hỏi rằng: Em thích xiêm y không nào ?

Thưa rằng: Dày mỏng ra sao ?Bảo rằng: Toàn gấm lụa đào nhung hoa.

Thưa rằng: Chẳng hợp màu da, Toàn thân như Hột Chà Là em đen.

Bảo rằng: Hãy tắm suối tiên, Một giờ sau sẽ đổi đen ra hồng.

Thưa rằng: Em có tấm chồngYêu màu da cũ. Kiếu ông em về.

Bùi Giáng Lá Hoa Cồn

ANH LÙA BÒ VÀO ĐỒI SIM TRÁI CHÍN

Anh lùa bò vào đồi sim trái chín Cho bò ăn cỏ giữa rừng simAnh nhìn lên trời xanh đỏ chín Anh ngó bốn bề cây lá gió rung rinh

Anh nằm xuống để nhìn lên cho thỏa

Page 20: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Anh thấy lòng mở rộng đón trời xanh Chìm ngây ngất vào trong đôi mắt lả Anh lim dim cho chết lịm hồn mình

Anh quên mất bò đương gặm cỏ Anh chỉ nghe tiếng cọ rì rào Có hay không ? bò đương gặm đó ?Hay là đây tiếng gió thì thào ?Hay là đây tiếng suối lao xaoGiữa giòng cỏ xuôi ghềnh chảy xuống ?

Mùi thoang thoảng lách lau sương đượm Mùi gây gây gấy gấy của hương rừngMùi lên men phủ ngập mông lungKhông biết nữa mà cần chi biết nữa

Cây lá bốn bên song song từng lứa Sánh đôi nhau như ứa lệ ngàn ngàn Hạnh phúc trời với đất mang mang Với bò giữa rừng hoang đương gặm cỏVới người ngó ngất ngây đương nằm đóKhông biết trời đất có ngó mình không ?

Bùi Giáng Vĩnh Trinh-Thạch Bàn 1950

Mưa nguồn

ÁO XANH

Lên mù sương, xuống mù sươngBước xa bờ cỏ xa đường thương yêu

Tuổi thơ em có buồn nhiều Hãy xin cứ để bóng chiều bay qua

Biển dâu sực tỉnh giang hà Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh

Bùi Giáng Mưa nguồn

NHỮNG NHÀNH MAI

Những nhành mai sớm sương bên láNhững nhành liễu chiều gió bên cây Cũng lay lắt bởi đời xuân em ạ Thế nên chi anh cũng viết dòng này

Hồng vàng tụ bữa kia em có thấy Nước xuôi giòng là cổ độ nhìn theoTuổi mười sáu bây giờ lên gấp gảyMộng miên man là mây phủ lưng đèo

Buồn phố thị cũng xa bay như gió Cộ xe nhiều cũng nhảy bổng như hươu Bờ cõi dựng xuân xanh em còn đó

Page 21: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

Bến đào nguyên anh khoác áo khinh cừu

Tìm theo dấu chân người xưa tư lự Ở bên đường ngóng dõi khánh vân bay Mờ con mắt một lần lên tiếng thử Em ồ em, anh nói một lời này

Bùi Giáng Mưa nguồn

CẢM ĐỀ

Hãy đem tình lớp trước Thương lấy kẻ về sau ...

(Hồng Lâu Mộng)

Ẩn hiện tờ hoa bóng Tổ tiên, Bâng khuâng đêm vắng dở bên đèn. Từng dòng văn cũ khơi tìm thức, Công đức Tiền nhân há dám quên !

Ơn trước, tình sau, nghĩa vẹn toàn, Dặm dài con cháu viết thêm trang. Tô bồi Gia tộc cùng ra sức, Rực rỡ trời xuân hoa hướng dương.

Bùi Văn Nam Sơn

CÂU ĐỐI

Kính tặng Ban Tu chính Phổ hệ

KỲ ĐẠO VIỄN, SỞ KIẾN VIỄN, KỲ ĐẠO TRƯỜNG, SỞ KIẾN TRƯỜNG, HẠO

HẠO TRƯỜNG GIANG, THƯƠNG HẢI ĐƯƠNG KHAN TINH VỆ (1) CHÍ;

THỬ TÂM THÀNH, TƯ VĂN THÀNH, THỬ TÂM KÍNH, TƯ VĂN KÍNH, MANG

MANG THIÊN CỔ, HOÀNG TUYỀN NĂNG GIÁM LÃO LAI (2) TÌNH.

Tạm dịch:

ĐẠO ẤY XA, SỞ KIẾN XA, ĐẠO ẤY DÀI, SỞ KIẾN DÀI, CUỒN CUỘN TRƯỜNG GIANG, BIỂN BIẾC KHÔN DỜI TINH VỆ CHÍ;

TÂM NÀY THÀNH, TƯ VĂN THÀNH, TÂM NÀY KÍNH, TƯ VĂN KÍNH, MIÊN MAN THIÊN CỔ, SUỐI VÀNG KHÁ CHỨNG LÃO LAI TÌNH.

Bùi văn Nam Sơn

Ghi chú: (1) : Thương hải vị điền, Tinh vệ hàm thạch (Biển xanh chưa thành ruộng, chim Tinh Vệ còn ngậm

đá lấp biển) (2) : Lão Lai: tên người con chí hiếu, người nước Sở, đời Xuân Thu.

Page 22: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

THƯ BỔ SUNG VỀ NGÀI BÙI TẤN CAO

Page 23: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

CHỨNG TỪ CỦA CÁC VỊ LÃO THÀNH TRONG TỘC

Page 24: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

BÁCH GIA TÁNH QUẬN DANH

Ghi chú:

Theo bảng Bách gia tánh quận danh – trích từ quyển Lịch Tàu – in trên đây, thì (kể từ trên xuống dưới và từ phải sang trái):

- tộc Bùi (hàng 5, cột 3) thuộc Hà Đông quận- tộc Đào (hàng 12, cột 2) thuộc Tế Dương quận- tộc Lê (hàng 6, cột 5) thuộc Kinh Triệu quận v.v…

Vậy những chữ: Hà Đông quận, Tế Dương quận, Kinh Triệu quận… là những danh xưng về âm cảnh, thuộc phạm vi tín ngưỡng, chứ không phải là những danh từ thực tế về địa lý. Do đó chúng ta không nên lầm tưởng rằng Tiền nhân chúng ta phát xuất từ Hà Đông ngoài Bắc mà theo các tài liệu dẫn chứng, các Ngài gốc từ Hoan Châu, Nghệ An (xin xem Sơ lược về Quá trình Tiến triển của Bùi Tộc trang 13-20).

Page 25: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

PHỔ HỆ NHÁNH BÙI Ở PHÚ LẠC (I)

Phiên âm:

Long phi Tân Tỵ vạn vạn niên

BÙI TỘC PHỔ HỆ

Lục thế tôn Bùi văn Ấm phụng lục

Page 26: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

PHỔ HỆ NHÁNH BÙI Ở PHÚ LẠC (II)

Phiên âm:

Duy Xuyên phủ Mậu Hòa trung tổng Phú Lạc xã Bùi tộc bổn tộcPhụng tu Phổ hệ sự. Ngã Thỉ tổ Bùi Quý công nguyên tại Nghệ An tỉnh tướng thổ Quảng Nam

dinh, lập xã Vĩnh Trinh thôn, giáng sanh chí:- Thượng Cao cao tổ Bùi Đại công Bùi Nhất lang, cập - Cao cao tổ Bùi tấn An tái kiến xã vu Phú Lạc xã.Kỷ kinh khai thác, phỉ lịch hiển thừa, nhật ốc tiêu phồn, diễn châu điệt diên trường. Khủng dũ

cửu nhi dũ thất kỳ chân; nhiếp cảm truy lục thế đợi liệt Bổn chi, tỉ: Tôn công tổ đức bách thế bất thiên, hiếu tử từ tôn vạn đợi như kiến.

Page 27: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

PHỔ HỆ NHÁNH BÙI Ở PHÚ LẠC (III)

Phiên âm:

Hiển Cao cao tổ khảo Bùi tấn An (thập nhi nguyệt sơ thất nhật kỵ)Hiển Cao cao tổ tỷ Dương thục nương (thập nhất nguyệt thập cửu nhật kỵ)

Sanh hạ chúng tử:

Bùi thị HoãnBùi thị NiệmBùi thị HiếnBùi văn vô danhBùi văn ThuậnBùi văn XuyênBùi văn Đả

Page 28: THI VĂN - Easyvnkyniem.easyvn.com/_easyweb/idt/tocbui/phohe/Bui Toc 14.doc · Web viewCHÁN ĐỜI (1) Muôn sự cho hay cũng bởi trời, Phải chăng số mạng nói không

THÀNH PHẦN BAN CUNG LỤC PHỔ HỆCanh Tuất 1970

STT PHƯƠNG DANH CHỨC VỤ GHI CHÚ1 Ô. Bùi Xước Cố vấn Cung cấp tài liệu23456789101112

Ô. Bùi Quán Ô. Bùi ThuầnÔ. Bùi Thường Ô. Bùi TấnÔ. Bùi Văn LuânÔ. Bùi Mộng Vũ Ô. Bùi Thế Kinh Ô. Bùi Quang LâmÔ. Bùi CầnÔ. Bùi Kiến Tín Ô. Bùi Phú

Cố vấnCố vấn

Trưởng banPhó banPhó banỦy viênỦy viênỦy viênỦy viênỦy viênỦy viên

In ấnCung cấp tài liệu

Tài chánh

THÀNH PHẦN BAN TU CHÍNH VÀ BỔ SUNG PHỔ HỆCanh Ngọ 1990

STT PHƯƠNG DANH CHỨC VỤ GHI CHÚ1 Ô. Bùi Tấn Trưởng ban 23456789101112

Ô. Bùi Văn LuânÔ. Bùi Quang LâmÔ. Bùi tấn Vĩnh Ô. Bùi Văn Anh Ô. Bùi Tình Ô. Bùi SiêngÔ. Bùi Minh TuyềnÔ. Bùi Văn Lập Ô. Bùi Hoàn Ô. Bùi Anh Việt Đệ Nhất Ô. Bùi Ty

Phó ban Ủy viênỦy viên Ủy viên Ủy viênỦy viênỦy viênỦy viênỦy viênỦy viênỦy viên

Tài chánhTài chánhTài chánh Hội họa

Trùng tu Phần mộIn ấn In ấnIn ấn

UỐNG NƯỚC NHỚ NGUỒNẨm thủy tư nguyện

(Cổ ngữ)

Noi gương tiến thủ giống hùng anh, Xây đắp Bình Khương cảnh hữu tình. Tưới nước trong veo, mương uốn khúc, Trổ bông thơm ngát, lúa bao quanh. Khánh Sơn bền chí gầy cơ nghiệp, Vĩnh địa bao đời rạng Tộc thanh. Quả tốt, Bùi môn nhờ phúc ấm, Thọ, khang, thịnh, đạt, nhớ nhân lành.

Ban Tu chính Phổ hệ (Trọng Thu Canh Ngọ, 1990)