thÔng ĐiỆp ủa giáo tông...
TRANSCRIPT
1
THÔNG ĐIỆP
Của Giáo Tông Phan-sinh
LAUDATO SI’
VỀ NỖI ÂU LO CHO NGÔI NHÀ CHUNG
NỘI DUNG
LAUDATO SI‘ „Chúc tụng Chúa“ [1-2]
Ta không thể vô tình với bất cứ thứ gì trên địa cầu này [3-6]
Hợp nhất trong một âu lo [7-9]
Thánh Phan-sinh ở Assisi [10-12]
Lời kêu gọi của tôi [13-16]
CHƯƠNG 1
Những gì đang xẩy ra trong ngôi nhà chung của chúng ta [17-19]
I. Ô nhiễm môi sinh và biến đổi khí hậu [20-26]
Ô nhiễm, Rác thải và Văn hoá xài rồi bỏ [20-22]
Khí hậu là tài sản chung [23-26]
II. Vấn đề nước [27-31]
III. Mất đa dạng sinh thái [32-42]
IV. Phẩm chất cuộc sống xuống cấp và đổ vỡ xã hội [43-47]
V. Bất công xã hội trên thế giới [48-52]
VI. Điểm yếu của những phản ứng [53-59]
VII. Khác biệt quan điểm [60-61]
CHƯƠNG 2
Tin Mừng tạo dựng [62-100]
I. Ánh sáng do đức tin mang lại [63-64]
II. Sự khôn ngoan của các trình thuật kinh thánh [65-75]
III. Bí mật vũ trụ [76-83]
IV. Thông điệp của từng tạo vật trong mối hoà hợp với toàn tạo dựng [84-88]
V. Một cộng đồng hoàn vũ [89-92]
VI. Của cải được quyết định chung [93-95]
VII. Cái nhìn của đức Giê-su [96-100]
2
CHƯƠNG 3
Con người tạo ra khủng hoảng môi sinh [101-136]
I. Kĩ thuật: Sáng tạo và quyền lực [102-105]
II. Toàn cầu hoá mô hình kĩ trị [106-114]
III. Khủng hoảng và các tác động của chủ nghĩa quy nhân hiện đại [115-136]
IV. Chủ nghĩa tương đối thực hành [122-123]
V. Cần thiết bảo vệ lao động [124-129]
VI. Đổi mới sinh học xuất phát từ việc nghiên cứu [130-136]
CHƯƠNG 4
Một Môi Sinh Học toàn diện [137-162]
I. Môi Sinh Học môi trường, kinh tế và xã hội [138-142]
II. Môi Sinh Học văn hoá [143-146]
III. Môi Sinh Học cuộc sống thường ngày [147-155]
IV. Nguyên tắc Công Ích [156-158]
V. Công lí xuyên thế hệ [159-162]
CHƯƠNG 5
Vài tiêu chí để định hướng và hành động [163-201]
I. Đối thoại môi sinh trong chính trị quốc tế [164-175]
II. Đối thoại trước những quan niệm chính trị mới… [176-181]
III. Đối thoại và Minh bạch trong các tiến trình quyết định [182-188]
IV. Chính trị và Kinh tế đối thoại để triển nở toàn diện con người [189-198]
V. Tôn giáo đối thoại với các khoa học [199-201]
CHƯƠNG 6
Giáo dục và Linh đạo môi sinh [202-246]
I. Thay đổi lối sống [203-208]
II. Giáo dục nhắm tới cuộc liên minh giữa nhân loại với môi sinh [209-215]
III.Hoán cải môi sinh [216-221]
IV. Niềm vui và Hoà bình [222-227]
V. Tình yêu trong lãnh vực dân sự và chính trị [228-232]
VI. Các dấu chỉ mầu nhiệm và nghỉ lễ [233-237]
VII. Ba Ngôi và quan hệ giữa các tạo vật [238-240]
VIII. Nữ Vương toàn tạo dựng [241-242]
IX. Bên kia mặt trời [243-245]
Lời nguyện cho địa cầu chúng ta
Ki-tô hữu cầu nguyện cùng với tạo dựng
3
1. „Laudato si’ – Lạy Chúa, chúc tụng Chúa“, thánh Phan-sinh ở Assisi đã hát lên như thế.
Qua bài hát tuyệt vời này, ngài nhắc nhở chúng ta, ngôi nhà địa cầu của chúng ta cũng giống
như một bà Chị sống chung trong nhà, và như một người Mẹ hiền vẫn ôm ta vào lòng: „Lạy
Chúa, Chị và Mẹ địa cầu chúng con - những kẻ nuôi dưỡng, hướng dẫn và cung cấp hoa trái
muôn loài lẫn muôn hoa đẹp và thảo mộc cho chúng con, chúc tụng Ngài“ 1
2. Bà Chị này lớn tiếng kêu la về những thiệt hại tài sản đã được Thiên Chúa gieo vào lòng
Chị, những thiệt hại gây ra bởi sự lạm dụng cũng như do việc sử dụng thiếu ý thức của chúng
ta. Vì nghĩ rằng, mình là kẻ sở hữu cũng như chủ nhân của những sản vật đó, chúng ta mặc
sức phá hoại. Bạo lực của trái tim vốn bị thương tổn vì tội lỗi của chúng ta thể hiện rõ nét qua
những triệu chứng bệnh hoạn mà chúng ta thấy nơi đất đai, nước, khí và nơi các sinh vật. Thứ
đất đai đang „than thở và trong cơn đau chuyển bụng sinh“ (Rm 8,22) do chúng ta dẫm đạp và
phá hoại này hiện thân nơi những người nghèo, là thành phần dễ bị bỏ rơi và bị đối xử tàn tệ
nhất. Chúng ta quên rằng, chính chúng ta cũng là đất (xem St 2,7). Rằng cơ thể của chúng ta
được cấu tạo bởi những thành tố của địa cầu; chính bầu khí của nó cung cấp cho ta hơi thở;
chúng ta sống động và tươi mát là nhờ nguồn nước của nó.
Ta không thể vô tình với bất cứ thứ gì trên địa cầu này
3. Hơn 50 năm trước, khi thế giới đang bên bờ chiến tranh nguyên tử, thánh Giáo Tông Gio-
an XXIII đã viết một Thông Điệp, trong đó ngài không những chống lại chiến tranh, mà còn
đưa ra một đề nghị hoà bình. Ngài gởi thông điệp „Hoà bình trên địa cầu“ của ngài cho „hoàn
vũ công giáo“, đồng thời cũng gởi tới „tất cả mọi người thiện chí“. Trước những thiệt hại môi
sinh khắp nơi trên thế giới, giờ đây tôi cũng muốn gởi thư này tới mọi người hiện diện trên
trái đất. Với Tông Thư „Niềm vui Tin Mừng“, tôi thúc đẩy tín hữu mình tiến hành cuộc đổi
mới đang dang dở. Giờ đây với Thông Điệp này, tối muốn đặc biệt có được một cuộc đối
thoại với mọi người về ngôi nhà chung của chúng ta.
4. Tám năm sau „Hoà bình trên địa cầu“, chân phước Giáo Tông Phao-lô VI đề cập tới vấn đề
môi sinh vào năm 1971, ngài gọi đó là một khủng hoảng, một „hậu quả bi đát“ của hành động
thiếu cân nhắc của con người. „Việc lạm dụng khai thác thiên nhiên cách vô tội vạ dẫn tới
nguy cơ huỷ diệt thiên nhiên và nguy cơ chính mình trở thành nạn nhân của sự phá hoại đó“ 2. Trước diễn đàn Uỷ Ban Lương Nông Quốc Tế (FAO) ngài cũng nói về khả thể (possibility)
của một „thảm hoạ môi sinh như là hậu quả do xã hội kĩ nghệ gây ra“ và nhấn mạnh tới „sự
cấp thiết phải thay đổi tận căn cách hành xử của con người“, vì „những tiến bộ tuyệt vời của
khoa học, những thành công vô cùng lạ lùng của kĩ thuật, sự phát triển kinh tế thần sầu rốt
cuộc sẽ quật ngược trở lại con người, nếu như những tiến bộ, thành công và phát triển đó
không đi kèm với một tiến bộ thực sự về mặt xã hội và đạo đức“ 3.
5. Thánh Gio-an Phao-lô II quan tâm hơn về đề tài này. Ngài ghi nhận trong Thông Điệp đầu
tiên của mình: „Con người xem ra thường chỉ nhìn môi sinh tự nhiên hoàn toàn như một vật
dụng để dùng và tiêu thụ ngay“4. Về sau ngài kêu gọi toàn thế giới hãy làm một cuộc hoán
cải môi sinh5. Nhưng đồng thời ngài cũng cho hay, con người quá ít dấn thân „cho việc bảo
1 Bài hát mặt trời: Fonti Francescane (FF) 263 (bản tiếng Đức: Franziskus-Quellen, Kevelaer 2009, tr. 40-41).
2 Tông Thư Octogesima adveniens (14. 05.1971), 21: AAS 63 (1971), tr. 416-417.
3 Diễn văn đọc trước FAO dịp kỉ niệm 25 năm thành lập cơ quan (16. November 1970), 4: AAS 62 (1970), tr.
833. 4 Tông Thư Redemptor hominis (04.03.1979), 15: AAS 71 (1979), tr. 287.
5 Xem buổi gặp gỡ chung (17. Januar 2001), 4: L’Osservatore Romano (đức ngữ), Năm thứ 31, Số 4
(26.01.2001), tr. 2; Insegnamenti24/1 (2001), tr. 179.
4
tồn những điều kiện đạo đức của một khoa ‚Nhân Môi Sinh Học‘ đáng cậy“ 6. Phá huỷ môi
sinh con người là điều vô cùng đáng ngại, vì Thiên Chúa không những uỷ thác thế giới cho
con người, mà Người còn ban tặng họ chính sự sống vốn phải được bảo vệ, bằng mọi cách
không để nó bị tiêu diệt. Mọi nỗ lực bảo vệ và làm đẹp thế giới chỉ có thể thực hiện, đặc biệt
khi ta „đổi mới (tận gốc) các lối sống, các phương cách sản xuất và tiêu thụ và các cơ cấu
quyền lực mọc rễ đã và đang chế ngự các xã hội ngày nay“7. Sự phát triển con người đúng
nghĩa vốn mang tính đạo đức và đòi hỏi một sự kính trọng nhân vị tối đa; nó đồng thời cũng
đòi hỏi sự quan tâm đến thế giới tự nhiên và đến „bản chất của mọi thực thể và sự tương tác
của chúng trong trật tự sẵn có […]“8. Do đó, ý hướng của con người muốn cải tạo thực tại
phải được phát triển trên nền tảng coi thực tại này là sản phẩm gốc do Thiên Chúa trao tặng
cho ta 9.
6. Vị tiền nhiệm của tôi, Biển-đức XVI, đã lặp lại yêu cầu phải „loại bỏ những nguyên nhân
thuộc cơ cấu làm cho nền kinh tế thế giới ra sai lạc chức năng và [phải] điều chỉnh lại cái mô
hình phát triển xem ra không bảo đảm được việc tôn trọng môi sinh […]10
. Ngài lưu ý, ta
không thể phân tích được thế giới, nếu chỉ nhìn nó dưới một khía cạnh đơn độc mà thôi, là vì
„tác phẩm Thiên Nhiên chỉ là một và không thể phân chia“, nó bao gồm luôn trong nó môi
sinh, sự sống, tính dục, gia đình và các tương tác xã hội. Vì thế, „phá vỡ thiên nhiên […] cũng
là phá hại văn hoá, vốn là yếu tố tổ chức việc sống chung của con người“11
. Giáo Tông Biển-
đức XVI cho rằng, hành động thiếu trách nhiệm của chúng ta đã tạo ra quá nhiều thương tổn
cho môi sinh tự nhiên. Cả môi sinh xã hội cũng bị nhiều thương tổn. Tất cả chỉ vì một cái xấu
duy nhất, đó là quan điểm cho rằng, cuộc sống của ta chẳng bị chi phối bởi những chân lí bất
khả bác nào, vì vậy nó chẳng bị hạn chế bởi một biên giới nào cả. Người ta quên rằng, „con
người […] không chỉ là tự do tự tạo ra chính mình. Con người không tạo ra chính mình. Con
người là tinh thần và ý chí, đồng thời cũng là tự nhiên“12
. Với âu lo của một người cha, ngài
mời gọi chúng ta xác nhận sự kiện này: tạo dựng sẽ bị huỷ hoại „khi chúng ta coi chính mình
là thẩm quyền quyết định cuối cùng, khi ta coi mọi sự đều thuộc quyền sở hữu và tiêu thụ của
mình. Và việc tiêu thụ tạo dựng sẽ xẩy ra, khi ta chẳng còn công nhận một thẩm quyền nào
cao hơn nữa, và chỉ còn biết đến có mỗi cái muốn của mình mà thôi“13
.
Hợp nhất trong cùng một âu lo
7. Các đóng góp của các giáo tông đều dựa trên suy tư của rất nhiều nhà khoa học, triết học,
thần học và nhiều tổ chức xã hội; các suy của họ làm giàu cho Giáo Hội về những đề tài liên
hệ. Song chúng ta cũng đừng quên rằng, ngoài Giáo Hội công giáo còn có các giáo hội và
cộng đoàn ki-tô giáo khác – cũng như các tôn giáo khác – cũng cưu mang những âu lo này và
đã có những suy tư đáng quý về những đề tài gây trăn trở chung này. Như một thí dụ, tôi ngắn
gọn đề cập ở đây vài suy tư của Thượng Phụ đáng kính Ba-thô-lô-mê-ô, hai chúng tôi cùng
mang hi vọng về một sự hợp nhất trọn vẹn giữa hai Giáo Hội ki-tô giáo.
6 Tông Thư Centesimus annus (01.05.1991), 38: AAS 83 (1991), tr. 841
7 Như trên, 58: AAS 83 (1991), S. 863.
8 Gio-an Phao-lô II., Tông Thư Sollicitudo rei socialis (30.12.1987), 34: AAS 80 (1988), S. 559.
9 Xem Tông Thư Centesimus annus (01.05.1991), 37: AAS 83 (1991), tr. 840.
10 Diễn văn đoàn ngoại giao đọc trước Toà Thánh (08.01. 2007): AAS 99 (2007), tr. 73.
11 Tông Thư Caritas in veritate (29. 06.2009), 51: AAS 101 (2009), tr. 687.
12 Diễn văn đọc trước Quốc Hội đức (22.09.2011): L’Osservatore Romano (dt.) Năm 41, Số 39 (30.09.20011), tr.
5; AAS 103 (2011), tr. 664. 13
Gặp gỡ hàng giáo phẩm giáo phận Bozen-Brizen (6.08.2008): AAS 100 (2008), tr. 634.
5
8. Thượng phụ Ba-thô-lô-mê-ô đặc biệt kêu gọi mỗi người hãy sám hối theo cách riêng của
mình về những gì mình đã làm hại tới địa cầu đang sống, „vì tất cả chúng ta, mỗi người một
ít, đều đã tạo ra những thiệt hại môi sinh“, nên chúng ta được kêu gọi thú nhận „những hành
vi tác hại lớn hay nhỏ của mình vào việc gây biến dạng và phá hoại tạo dựng“14
. Ngài không
ngừng mạnh mẽ lên tiếng về điểm này và đòi hỏi chúng ta phải thú nhận tội lỗi chống lại tạo
dựng của mình: „Chúng ta đã huỷ hoại sự đa dạng sinh học trong tạo dựng của Thiên Chúa;
chúng ta đã huỷ hoại sự nguyên vẹn của trái đất, bằng cách làm biến đổi khí hậu, bằng cách
phá rừng tự nhiên và phá các vùng ẩm ướt của nó; chúng ta đã làm hại nhau và gây bệnh cho
nhau, bằng cách gây ô nhiễm các nguồn nước, đất đai và không khí qua các chất thải độc hại
– tất thảy những điều đó đều là tội“15
. Là vì „gây một tội ác cho thiên nhiên cũng có nghĩa là
phạm tội đối với chính mình và với Thiên Chúa“16
.
9. Thượng Phụ Ba-thô-lô-mê-ô đồng thời nhấn mạnh tới các nguyên nhân đạo đức và tinh
thần của các bài toán môi sinh. Những bài toán này đòi hỏi chúng ta phải tìm lời giải không
những trong kĩ thuật, mà cả trong việc hoán cải bản thân, bởi vì nếu không thì ta cũng chỉ mới
chữa những triệu chứng bên ngoài mà thôi. Ngài đề nghị chúng ta chấp nhận hi sinh thay vì
tiêu thụ, dám thả ra thay vì ôm vào, biết chia sẻ thay vì hoang phí, biết sống tiết chế với ý
thức „cho đi chứ không phải đơn giản đầu hàng. Đó là một cách yêu thương, từng bước từ
chỗ hi sinh cái tôi muốn cho cái địa cầu của Thiên Chúa cần. Đó là một giải thoát khỏi sự sợ
hãi, tham muốn và cưỡng ép“17
. Ngoài ra, ngài còn kêu gọi Ki-tô hữu „nhìn nhận thế giới như
một mầu nhiệm cộng đoàn, như một phương tiện chia sẻ với Thiên Chúa và tha nhân trên
bình diện hoàn vũ. Đó là xác tín khiêm tốn của chúng ta, rằng cái thiên linh và nhân linh đã
gặp nhau trong những chi tiết nhỏ nhất của tấm áo nguyên vẹn của tạo dựng thiên chúa, ngay
cả trong hạt bụi li ti của địa cầu chúng ta“18
.
Thánh Phan-sinh ở Assisi
10. Tôi muốn tiếp tục khai triển Thư Chung của tôi với một gương sáng đẹp có thể kích động
chúng ta. Tôi đã lấy tên ngài như một thứ mẫu mực và một thứ cảm hứng khi tôi được bầu
vào chức vụ Giám Mục Roma. Tôi tin thánh Phan-sinh là một gương sáng trọn vẹn cho việc
quan tâm tới người yếu đuối và cho một khoa môi sinh học toàn diện, vui tươi và sống thực.
Ngài là thánh quan thầy của tất cả những ai làm việc và nghiên cứu trong lãnh vực môi sinh,
và ngài cũng được yêu mến bởi nhiều người không phải là Ki-tô hữu. Ngài tỏ ra quan tâm đặc
biệt tới tạo dựng thiên chúa và tới những kẻ kì cùng nghèo khó và cô đơn. Ngài yêu thích sự
vui tươi và ngài được yêu mến nhờ tính vui vẻ, lòng quảng đại hi sinh lẫn trái tim mở rộng
của ngài. Ngài là một nhà thần bí và một kẻ hành hương luôn sống với Thiên Chúa, với tha
nhân, với thiên nhiên và với chính mình trong bình dị và hoà điệu lạ lùng. Qua ngài người ta
nhận ra được mức độ quyện chặt bất khả phân li giữa sự bình an tâm hồn với nỗi lo lắng cho
thiên nhiên, cho công lí đối với người nghèo, cho sự dấn thân xã hội.
11. Chứng tá của ngài cũng cho chúng ta thấy rằng, một nền môi sinh toàn diện đòi hỏi cái
nhìn khai phóng trước những phạm trù vượt trên ngôn ngữ toán học hay sinh học và chúng
nối kết chúng ta với những gì đích thực nhất của con người. Khi yêu một người, lòng chúng ta
14
Message upon the World Day of Prayer for the Protection of Creation (01.09.2012). 15
Diễn văn đọc trước Hội nghị Môi sinh, Santa Barbara, Kalifornien (8.11.1997); Xem John Chryssavgis, On
Earth as in Heaven: Ecological Vision and Initiatives of Ecumenical Patriarch Batholomew, Bronx, New York
2012. 16
Như trên 17
Diễn văn ở tu viện Utstein, Norwegen (23.06.2003). 18
Bartholomäus, Diễn văn ở hội nghị thượng đỉnh I, Global Responsibility and Ecological Sustainability:
Closing Remarks, Istanbul (20.06.2012).
6
rộn ràng thế nào, thì tâm hồn thánh nhân cũng rộn ràng như thế, mỗi khi ngài chiêm ngưỡng
mặt trời, mặt trăng hay những con vật nhỏ bé nhất, và phản ứng của ngài là ca hát chúc tụng
và đưa các loài thụ tạo khác vào trong lời ca của mình. Ngài gặp gỡ toàn bộ thụ tạo và ngay cả
giảng cho hoa đồng nội nghe „và mời chúng cùng ca khen Thiên Chúa, tưởng như chúng cũng
là những thực thể có lí trí“19
. Phản ứng của ngài vượt lên trên sự đánh giá tri thức hay sự tính
toán kinh tế, là vì đối với ngài, mỗi tạo vật là một bà chị hay người anh gắn bó với ngài bằng
mối dây yêu thương trìu mến. Vì thế, ngài cảm thấy mình được mời gọi phải bảo vệ những gì
hiện hữu. Môn đồ của ngài, thánh Bô-na-ven-tu-ra, kể: „Càng nghĩ tới việc mọi tạo vật đều
bắt nguồn từ Thiên Chúa, ngài càng yêu mến chúng quá đỗi. Do đó ngay những thụ tạo nhỏ
nhất ngài cũng gọi chúng bằng Anh hay Chị“20
. Ta không nên cho xác tín đó của ngài mang
chất lãng mạn phi lí, bởi vì xác tín đó sẽ dẫn tới những hệ quả trên hành vi của chúng ta. Nếu
chúng ta không tiếp cận thiên nhiên và môi sinh với thái độ ngạc nhiên và thán phục, nếu
chúng ta không còn giao tiếp với thế giới bằng ngôn ngữ của cái đẹp và tình huynh đệ, hành
xử của chúng ta sẽ trở thành cung cách của kẻ thống trị, của kẻ tiêu thụ hay của người chỉ biết
bóc lột tài nguyên vốn bất lực trong việc định giới hạn cho các nhu cầu trước mắt của mình.
Trái lại, khi ta cảm thấy có mối ràng buộc với những gì hiện hữu, đương nhiên ta sẽ trở nên
giản dị và dịu dàng. Sự nghèo khó và giản dị của thánh Phan-sinh chẳng phải là một sự tiết
chế mang tính cách thuần tuý bề ngoài, nhưng chúng hàm chứa một cái gì đó rất triệt để: từ
chối biến thực tại thành đồ vật tiêu thụ và thành đối tượng thống trị.
12. Mặt khác, thánh Phan-sinh làm gương cho ta về việc sống tinh thần Tin Mừng, biết nhìn
thiên nhiên như một cuốn sách đẹp, qua đó Thiên Chúa nói với chúng ta và cho chúng ta thấy
nét đẹp và lòng từ ái của Người: „Qua chiều kích và vẻ đẹp của tạo vật ta thấy được Đấng
Tạo Dựng“ (Kn 13,5), và „thực tại không nhìn thấy được của Người, quyền năng và thiên tính
của Người sẽ được trí khôn con người nhận ra qua các công trình tạo dựng“ (Rm 1,20). Vì
thế, thánh nhân luôn yêu cầu phải để hoang một góc vườn trong tu việc, để cho cỏ dại mọc, và
những ai biết ngỡ ngàng trước chúng có thể hướng mắt nhìn lên Thiên Chúa là đấng tạo ra nét
đẹp đó 21
. Thế giới không chỉ là một vấn nạn cần giải quyết, mà còn là một bí ẩn tạo niềm vui,
để chúng ta chiêm ngưỡng với lời ca chúc tụng.
Lời kêu gọi của tôi
13. Phải bảo vệ ngôi nhà chung của chúng ta. Thách đố khẩn thiết này cũng bao hàm âu lo
làm sao nối kết được toàn gia đình nhân loại vào trong việc kiếm tìm một mô hình phát triển
toàn diện và bền vững, bởi vì chúng ta biết rằng, mọi sự rồi cũng có thể đổi thay được. Đấng
Tạo Dựng sẽ không bỏ rơi chúng ta; Người sẽ chẳng bao giờ rút lui khỏi chương trình tình
yêu của Người, cũng chẳng hối hận vì đã tạo nên chúng ta. Nhân loại hãy còn khả năng chung
tay làm việc, để xây dựng ngôi nhà thế giới. Tôi muốn nói lên sự nhìn nhận, lời khích lệ và
cám ơn của tôi đối với tất cả những ai đang góp tay trong bất cứ một lãnh vực nào nhằm bảo
vệ mái nhà chung của chúng ta. Đặc biệt cám ơn những ai đang nỗ lực giúp giải quyết những
hậu quả bi thảm do việc phá hoại môi sinh gây ra trên cuộc sống của những người nghèo nhất
trong thế giới. Những người trẻ đang đòi buộc chúng ta phải thay đổi. Họ tự hỏi, làm sao có
thể xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn, mà không phải nghĩ tới khủng hoảng môi sinh và đau
khổ của những người bị loại ra biên lề.
19
Thomas von Celano, Erste Lebensbeschreibung des hl. Franziskus, I. Buch, XXIX, 81: FF 460
(Franziskusquellen, Kevelaer 2009, tr. 248). 20
Legenda Maior, VIII, 6: FF 1145 (Ấn bản Đức: nt., tr. 736). 21
Xem Thomas von Celano, Zweite Lebensbeschreibung des hl. Franziskus, CXXIV, 165: FF 750
(Franziskusquellen, Kevelaer 2009, tr. 390).
7
14. Tôi khẩn thiết mời gọi một cuộc đối thoại mới, nhằm tìm ra cách thức kiến tạo tương lai
cho hành tinh của chúng ta. Chúng ta cần một cuộc đối thoại đưa chúng ta về cùng một mối,
bởi vì mọi người chúng ta đều phải đối diện và muốn giải quyết cái thách đố của bài toán môi
sinh do con người gây ra hiện nay. Phong trào môi sinh khắp nơi trên thế giới đã trải qua một
hành trình dài đầy biến cố và đã tạo nên được nhiều hội đoàn công dân giúp nhạy cảm hoá
vấn đề. Tiếc rằng nhiều nỗ lực tìm lời giải cụ thể cho khủng hoảng môi sinh đã không thành
công, không phải chỉ vì thái độ chối từ của các nhà cầm quyền, mà cả do sự thờ ơ của những
người khác. Có nhiều nguyên do khiến nhiều người – trong đó có cả Ki-tô hữu – gây cản trở
bước đường tìm kìm lời giải: từ việc không nhìn nhận có vấn đề tới sự vô tâm thờ ơ, từ muốn
yên tâm tiếp tục trên đường mòn tới thái độ nhắm mắt tin tưởng vào những lời giải của kĩ
thuật. Chúng ta cần một sự đoàn kết hoàn vũ. Như các giám mục Nam Phi nói, „cần tài năng
và nhiệt tình của mọi người, để tu bổ lại những thiệt hại do sự lạm dụng của con người đối
với tạo dựng của Thiên Chúa“22
. Tất cả chúng ta có thể cùng chung tay gìn giữ tạo dựng như
là những dụng cụ của Thiên Chúa, mỗi người theo văn hoá, kinh nghiệm, sáng kiến và khả
năng riêng của mình.
15. Tôi hi vọng Thông Điệp đóng góp vào học thuyết xã hội của Giáo Hội này sẽ giúp chúng
ta nhìn ra chiều kích lớn lao, mức độ khẩn thiết và nét đẹp của cái thử thách đang diễn tra
trước mắt chúng ta. Trước tiên, tôi sẽ lược qua một vài khá cạnh về cuộc khủng hoảng môi
sinh hiện nay, trong đó đưa ra những kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất về vấn đề, để
đánh động chúng ta, và từ đó giúp cho bước đường đạo đức và thiêng liêng tiếp theo có được
một căn bản cụ thể. Từ viễn ảnh đó, tôi sẽ lấy lại một số chỉ dẫn trong truyền thống do-thái và
ki-tô giáo, để tạo cho việc dấn thân cho môi sinh của chúng ta có được một mối quan hệ lớn
hơn. Sau đó, tôi cố gắng đi sâu vào nguồn cội của tình trạng hiện nay, để không những mô tả
những triệu chứng, mà còn tìm hiểu những nguyên nhân sâu xa của nó. Qua cách này, chúng
ta sẽ đề nghị một khoa Môi Sinh Học đa chiều có khả năng nói lên được chỗ đứng đặc biệt
của con người trong thế giới và các tương quan của họ với thực tại bao quanh mình. Dựa theo
ánh sáng của suy tư này, tôi muốn đưa ra một số tiêu chí rõ ràng cho việc đối thoại và hành
động; chúng không những có liên quan tới mỗi người trong chúng ta, mà còn cho cả chính trị
quốc tế. Và vì tin chắc rằng, mỗi đổi thay đều cần phải có những nguyên do thúc đẩy và một
đường lối giáo dục, cuối cùng tôi sẽ đề nghị một vài đường hướng giúp con người trưởng
thành, những đường hướng này được soi sáng từ kho tàng kinh nghiệm linh đạo ki-tô giáo.
16. Dù mỗi chương bàn một vấn đề riêng và đi theo một phương pháp riêng, nhưng trong đó
vẫn xuất hiện những đề tài quan trọng đã bàn trong các chương trước, nhưng nay được xét
dưới một cái nhìn khác. Điều này đặc biệt đúng cho một số chủ đề nền tảng vốn được bàn
trong suốt bản văn. Chẳng hạn: mối tương quan chặt chẽ giữa những người nghèo và tình
trạng dễ nhiễm bệnh của địa cầu; xác tín về mối liên hệ quyện lẫn trong nhau của tất cả mọi
thứ trong thế giới; phê phán mô hình quyền lực mới và các hình thái quyền lực xuất phát từ kĩ
thuật; mời gọi con người hãy tìm kiếm một lối hiểu mới về kinh tế và tiến bộ; mỗi một thụ tạo
đều có một giá trị riêng; ý nghĩa nhân sinh của môi sinh; sự cần thiết của những cuộc đối thoại
thẳng thắn và chân thành; trách nhiệm nặng nề của chính trị quốc tế và chính trị địa phương;
văn hoá tiêu dùng phung phí và đề nghị một lối sống mới. Những đề tài này sẽ chẳng bao giờ
bàn xong, nhưng chúng luôn được nhắc đi bàn lại, mỗi lần dưới một góc độ khác và trở nên
phong phú hơn.
22
Đại hội các giám mục nam phi, Pastoral Statement on the Environmental Crisis (05.09.1999).
8
CHƯƠNG I
Những gì đang xẩy ra cho ngôi nhà chung của chúng ta
17. Những suy tư thần học hay triết lí về tình trạng của nhân loại và thế giới có thể nghe ra
chán tai và trừu tượng, trừ khi chúng là một phân tích mới mẻ về tình trạng hiện nay của
chúng ta, một tình trạng chưa từng xảy ra trong lịch sử nhân loại. Vì vậy, trước khi xét xem
đức tin có thể nào mang lại những động lực và những yêu cầu mới trước tình hình thế giới ta
đang sống hôm nay không, tôi muốn tóm tắt vài điều về những gì đang xảy ra cho ngôi nhà
chung của chúng ta
18. Ngày nay, những thay đổi gia tăng liên tục của nhân loại và trái đất gắn liền với sự gia
tăng nhịp sống và công việc trở thành một hiện tượng mà ta có thể gọi là „rapidación“ (tăng
tốc). Cho dù sự thay đổi là một phần động lực của các hệ thống phức tạp, song cái tốc độ áp
chế trên hành động con người hôm nay đi ngược lại nhịp tiến hóa sinh học vốn có những bước
tiến triển tự nhiên rất chậm. Hơn nữa, mục tiêu của sự thay đổi nhanh chóng và liên tục này
không nhất thiết hướng tới công ích hoặc tới sự phát triển toàn diện và bền vững của con
người. Thay đổi là điều đáng mong ước, nhưng nó sẽ tạo ra âu lo, khi nó trở nên có hại cho
thế giới và cho phẩm chất cuộc sống của phần lớn nhân loại.
19. Sau một thời gian nhắm mắt tin tưởng vào sự tiến bộ và vào khả năng con người, giờ đây
một phần nhân loại bước vào giai đoạn í thức mạnh mẽ hơn. Người ta càng ngày càng nhạy
cảm hơn với thiên nhiên và quan tâm bảo vệ nó. Càng ngày càng thật sự lo lắng và nhức nhối
trước những gì đang xẩy ra trên hành tinh của mình. Chúng ta hãy lược qua – chắc chắn sẽ
không đầy đủ - một số vấn nạn không thể che đậy được nữa và ngày nay đang làm chúng ta
thao thức âu lo. Mục đích không phải là để gom góp thông tin hay để thoả mãn trí tò mò,
nhưng để đau khổ nhận ra những sai trái đang diễn ra trên thế giới, biến đau khổ này thành nỗi
đau riêng của mình, và từ đó nghĩ xem mỗi người có thể đóng góp được gì.
I. Ô nhiễm và biến đổi khí hậu
Ô nhiễm, chất thải và nền văn hóa „xài rồi vứt”
20. Một số loại hình ô nhiễm ảnh hưởng tới cuộc sống hằng ngày của người dân. Hít thở các
chất độc trong khí quyển là những hậu quả lớn tác hại trên sức khỏe, đặc biệt cho giới nghèo,
và nó gây ra hàng triệu trường hợp chết sớm. Chẳng hạn họ bị bệnh vì hít phải quá nhiều khói
phát sinh từ những nhiên liệu được sử dụng để nấu ăn hoặc sưởi ấm. Cũng có trường hợp ô
nhiễm ảnh hưởng đến tất cả mọi người, gây ra bởi việc vận chuyển, khí thải công nghiệp,
những chất làm đất và nước bị nhiễm axít, các loại phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm,
thuốc diệt cỏ và các độc tố sử dụng trong nông nghiệp nói chung. Kĩ thuật gắn bó với lợi
nhuận kinh doanh thường tự cho mình là phương cách duy nhất để giải quyết các vấn đề,
nhưng thật ra nó thường chẳng có khả năng nhìn ra những gì sâu kín trong các mối quan hệ
giữa các sự vật, và vì thế kĩ thuật này đôi khi chỉ giải quyết được một vấn đề, nhưng đồng thời
lại tạo nên những vấn đề khác.
21. Cũng cần phải xét đến tình trạng ô nhiễm gây ra do rác rưởi, kể cả những rác rưởi nguy
hiểm, đang được thải ra trong nhiều nơi khác nhau. Mỗi năm, có hàng trăm triệu tấn rác rưởi
9
được thải ra, trong đó có nhiều loại không tự phân hủy sinh học được: rác của gia đình, của
doanh nghiệp và các cơ sở y tế, rác từ phá dỡ các công trình xây dựng, rác điện tử và rác công
nghiệp, các loại rác mang rất nhiều độc tố và rác nguyên tử. Trái đất, ngôi nhà của chúng ta,
đang ngày càng giống như một đống rác khổng lồ. Tại nhiều nơi trên hành tinh, những người
lớn tuổi than thở tiếc nuối, vì những cảnh quan đẹp đẽ ngày trước giờ đang bị rác rưởi tràn
ngập. Rác công nghiệp và các sản phẩm hóa học được sử dụng trong các thành phố và các
vùng nông nghiệp có thể gây ra nơi cơ thể của dân cư các vùng lân cận hiệu ứng tích luỹ sinh
học (Bioakkumulation); hiện tượng này cũng xẩy ra ở những nơi có hiện diện chất độc với
hàm lượng thấp. Thường khi sức khoẻ người dân đã bị ảnh hưởng tới mức không thể phục hồi
được nữa, lúc đó người ta mới đưa ra những biện pháp chống đỡ.
22. Những vấn đề này có dây mơ rễ má mật thiết với một nền văn hóa „xài rồi vứt”, văn hoá
này lại liên quan đến những người bị đẩy ra lề xã hội và cả đến những đồ vật sớm bị vứt vào
thùng rác. Lấy một ví dụ, hầu hết những loại giấy mà chúng ta sản xuất ra đều bị vứt bỏ,
không tái chế. Chúng ta chẳng dễ gì chấp nhận lối hoạt động của các hệ sinh thái tự nhiên làm
mẫu mực cho mình: Thực vật tổng hợp chất dinh dưỡng làm thức ăn cho những động vật ăn
cỏ; những động vật này lại trở thành thức ăn cho động vật ăn thịt; những động vật ăn thịt này
sản xuất ra một lượng đáng kể các chất thải hữu cơ nuôi sống những thế hệ thực vật mới.
Nhưng hệ thống công nghiệp của chúng ta, vào cuối chu kỳ sản xuất và tiêu thụ, đã không
phát triển được khả năng hấp thụ và tái sử dụng chất thải và các phó phẩm. Chúng ta vẫn chưa
giải quyết được việc tạo nên một mô hình sản xuất kiểu vòng kín có khả năng bảo tồn các
nguồn tài nguyên cho thế hệ hiện tại và tương lai, bằng cách hạn chế càng nhiều càng tốt việc
sử dụng các nguồn tài nguyên không tái tạo, điều hòa mức tiêu thụ tài nguyên, tăng tối đa hiệu
quả sử dụng tài nguyên, cũng như tái sử dụng và tái chế tài nguyên. Xem xét nghiêm túc vấn
đề này có lẽ sẽ là một cách để đối phó với thứ văn hóa „xài rồi vứt” đang làm hại toàn bộ
hành tinh của ta. Nhưng phải công nhận, các tiến bộ trong lĩnh vực này còn rất hạn chế.
Khí hậu như một lợi ích chung
23. Khí hậu là một lợi ích chung, thuộc về mọi người và cho mọi người. Ở cấp độ toàn cầu, nó
là một hệ thống phức tạp liên quan đến nhiều điều kiện thiết yếu đối với cuộc sống con người.
Các nhà khoa học đều đồng ý, khí hậu địa cầu của chúng ta đang ấm lên một cách đáng lo
ngại. Trong những thập kỉ gần đây, việc ấm lên của khí hậu làm cho mực nước biển ngày
càng dâng cao, và dường như còn kéo theo những hiện tượng thời tiết vô cùng khắc nghiệt,
cho dù không thể xác định một cách khoa học nguyên nhân gây nên của từng hiện tượng đặc
thù ấy. Nhân loại được kêu gọi sớm nhận ra sự cần thiết phải thay đổi lối sống và thay đổi
việc sản xuất và tiêu thụ, nhằm đối phó với đà gia tăng độ nóng của khí hậu hoặc ít nhất là
khắc phục những nguyên nhân do con người gây nên hoặc làm cho tình trạng ra gia trọng
thêm. Đúng là có những nhân tố khác tác động (như hoạt động núi lửa, quỹ đạo và trục trái
đất cũng như chu kì hoạt động của mặt trời thay đổi), nhưng một số nghiên cứu khoa học cho
thấy tình trạng toàn cầu nóng lên cao nhất trong những thập kỉ gần đây là do sự tập trung cao
độ của các loại khí nhà kính (khí các-bon, mê-tan, ô-xit ni-tơ và những thứ khí khác), tạo ra
chủ yếu do sinh hoạt của con người. Vì độ tích tụ dày đặc trong bầu khí quyển, các khí này
kìm giữ những tia nắng nóng của mặt trời do mặt đất phản chiếu, không cho chúng khuyếch
tán ra trong không gian. Vấn đề trở nên trầm trọng đặc biệt, khi chúng ta theo đuổi một mô
hình phát triển dựa trên việc tận dụng các nhiên liệu hóa thạch, các nhiên liệu này nay đang là
trọng tâm của hệ thống năng lượng trên toàn thế giới. Một nhân tố tác động xấu nữa, đó là
thói quen thay đổi việc sử dụng đất đai, chủ yếu phá rừng để canh tác, ngày càng tăng.
24. Địa cầu nóng lên làm ảnh hưởng tới tới chu kì carbon. Nó tạo nên một vòng tròn luẩn
quẩn khiến tình trạng đã trầm trọng lại càng trầm trọng hơn. Nó ảnh hưởng đến các nguồn tài
10
nguyên cần thiết sẵn có như nước uống, năng lượng và việc sản xuất nông nghiệp ở các vùng
khí hậu nóng, và dẫn đến sự tuyệt chủng phần nào các sinh vật khác nhau của hành tinh. Tình
trạng băng hà tan chảy ở hai địa cực và trên các vùng núi có thể dẫn đến việc thoát khí mêtan
rất nguy hiểm, và sự phân huỷ các chất hữu cơ đông lạnh có thể làm phân tán lượng khí
carboníc nhiều hơn nữa. Tất cả mọi thứ đang trở nên tồi tệ, vì các khu rừng nhiệt đới bị phá
hủy; nếu không, chúng sẽ giúp làm giảm bớt tình trạng biến đổi khí hậu. Sự ô nhiễm do khí
các-bon khiến cho đại dương gia tăng nồng độ a-xít, gây bất lợi cho các chuỗi thức ăn ở biển.
Nếu xu hướng hiện nay cứ tiếp tục, thế kỉ này cũng có thể chứng kiến sự thay đổi khí hậu lạ
thường và một sự tàn phá chưa từng có nơi các hệ sinh thái, kèm với những hậu quả nghiêm
trọng cho tất cả chúng ta. Mực nước biển dâng cao, chẳng hạn, có thể gây nên những tình
huống cực kì nghiêm trọng, nếu chúng ta nghĩ đến một phần tư dân số thế giới đang sống ở
ven biển hoặc ở gần đó, và nghĩ đến phần lớn các thành phố lớn của chúng ta đều nằm ở các
khu vực ven biển.
25. Biến đổi khí hậu là vấn đề toàn cầu với những hệ lụy nghiêm trọng về môi trường, xã hội,
kinh tế, chính trị và phân phối hàng hóa. Nó tiêu biểu cho một trong những thách đố chính
yếu đối với nhân loại ngày nay. Có thể các nước đang phát triển sẽ thấy được tác động tồi tệ
nhất của nó trong những thập kỷ sắp tới. Nhiều dân nghèo sống tại các khu vực đặc biệt bị ảnh
hưởng bởi hiện tượng khí hậu nóng lên, và việc sinh kế của họ phụ thuộc rất lớn vào các tài
nguyên thiên nhiên và vào các cơ xưởng gắn liền với hệ sinh thái như nông nghiệp, ngư
nghiệp và lâm nghiệp. Họ không có những hoạt động tài chính hoặc nguồn lực nào khác có
thể giúp họ thích ứng với biến đổi khí hậu hoặc đối mặt với những thảm họa thiên nhiên, và
họ cũng chẳng mấy tiếp cận được với các dịch vụ xã hội và bảo hiểm. Chẳng hạn, các biến
đổi khí hậu khiến các thú vật và thực vật, những loại ít có khả năng thích ứng được với sự
biến đổi môi trường, phải di tản; và điều này lại ảnh hưởng đến các nguồn sản xuất của những
người nghèo nhất, họ bị buộc phải rời bỏ nhà cửa, khiến tương lai của họ và con cái hết sức
bấp bênh. Thảm thương nhất là những cuộc di dân vì đói khổ do hậu quả tàn phá môi sinh
ngày càng tăng, nhưng luật pháp quốc tế lại không công nhận tư cách tị nạn của họ. Họ ra đi,
mang trên đầu gánh nặng cuộc sống mà chẳng có được sự bảo vệ pháp lí nào. Đáng buồn thay,
sự thờ ơ trước những cảnh đau khổ như vậy lại rất phổ biến, thậm chí hiện nay đang diễn ra
trên toàn thế giới. Sự thiếu nhạy cảm của chúng ta đối với những bi kịch của anh chị em mình
cho thấy chúng ta đã mất ý thức trách nhiệm đối với đồng loại, một yếu tố làm nền cho việc
xây dựng mọi xã hội dân sự.
26. Nhiều người trong giới làm chủ nhiều tài nguyên và quyền lực kinh tế hoặc chính trị xem
ra chỉ tập trung vào việc che giấu thực trạng vấn đề hoặc che đậy các triệu chứng của nó, và
họ chỉ cố gắng làm giảm thiểu một vài ảnh hưởng tiêu cực của biến đổi khí hậu mà thôi.
Nhưng nhiều triệu chứng cho thấy, các hậu quả kia có thể trầm trọng hơn, nếu chúng ta cứ
tiếp tục tiến hành những phương thức sản xuất và các thói quen tiêu thụ như hiện nay. Vì thế,
việc cấp thiết là phải có được những chương trình chính trị, để giảm thiểu hữu hiệu lượng khí
carbon và các khí gây ô nhiễm khác trong những năm tới, chẳng hạn như thay thế việc sử
dụng các nhiên liệu hóa thạch đồng thời gia tăng các nguồn năng lượng có thể tái tạo. Trên
bình diện toàn cầu, việc khai thác năng lượng sạch và có thể tái tạo đang ở mức tối thiểu. Hiện
đang cần phải phát triển những kĩ thuật thích hợp cho việc tích trữ điện. Một số quốc gia đã
đạt được tiến bộ đáng kể, mặc dù vẫn còn rất ít ỏi so với tỷ lệ cần thiết phải đạt được. Đã có
sự đầu tư vào các phương tiện sản xuất và vận chuyển ít tốn kém năng lượng và nguyên liệu
thô hơn, cũng như vào các phương pháp xây dựng và tân tạo nhà cửa bớt tốn kém năng lượng
hơn. Nhưng những nỗ lực này vẫn còn rất hạn chế.
II. Vấn đề nước
11
27. Những dấu chỉ khác về tình trạng hiện tại có liên quan đến sự cạn kiệt các nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Tất cả chúng ta đều biết, không thể duy trì mức tiêu thụ hiện nay ở những
nước đã phát triển và nơi các tầng lớp xã hội giàu có; ở những nơi này người ta có thói quen
tiêu xài và phế thải ở mức độ chưa từng có. Việc khai thác địa cầu đã vượt quá giới hạn chấp
nhận được và chúng ta vẫn chưa giải quyết được vấn nạn nghèo đói.
28. Nước uống tinh khiết là một vấn đề quan trọng hàng đầu, vì nó là thứ không thể thiếu
được trong cuộc sống của con người và trong việc hỗ trợ các hệ sinh thái trên cạn và dưới
nước. Các nguồn nước sạch rất cần thiết cho việc chăm sóc y tế, cho nông nghiệp và công
nghiệp. Việc cung cấp nước vẫn tương đối ổn định, nhưng hiện nay nhiều nơi có nhu cầu vượt
quá khả năng cung ứng lâu bền, gây nên những hậu quả đáng kể trong ngắn hạn cũng như dài
hạn. Các thành phố lớn phụ thuộc vào những nguồn cung cấp nước ở mức cao đã phải trải qua
những giai đoạn bị thiếu nước, và vào những thời điểm quan trọng, việc quan lí những nguồn
cung cấp này của thành phố đôi khi thiếu giám sát đầy đủ và thiếu sự phân phối công bằng.
Phi châu là nơi đặc biệt thiếu nước; ở đây phần lớn dân chúng không có đủ nước uống an toàn
hoặc bị khổ sở trong mùa hạn hán, vì họ gặp trở ngại trong sản xuất nông nghiệp. Một số quốc
gia có những vùng rất phong phú nước, trong khi lại có những vùng khác rất khó khăn vì quá
khan hiếm nước.
29. Một vấn đề đặc biệt nghiêm trọng là phẩm chất của nước mà người nghèo đang sử dụng,
khiến cho họ mỗi ngày có nhiều người chết vì dùng nước không sạch hoặc bị nhiễm những
chứng bịnh truyền nhiễm liên quan đến nước, trong đó có những bệnh gây ra do các vi sinh
vật và các chất hóa học. Bệnh dịch tả và kiết lỵ, gây ra bởi những thiết bị chứa nước không
phù hợp và thiếu vệ sinh, là nguyên nhân quan trọng tạo đau đớn và tử vong nơi trẻ em.
Nguồn nước ngầm ở nhiều nơi đang bị đe dọa bởi sự ô nhiễm phát sinh do những hoạt động
khai thác khoáng sản, nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt trong những quốc gia thiếu những
quy định thích hợp hoặc thiếu kiểm soát. Đây không chỉ là vấn đề chất thải của kĩ nghệ.
Những chất tẩy rửa và những sản phẩm hóa học, thường được sử dụng ở nhiều nơi trên thế
giới, vẫn tiếp tục đổ vào sông, hồ và biển của chúng ta.
30. Trong khi phẩm chất nguồn nước có sẵn càng ngày càng giảm, thì một vài nơi lại có
khuynh hướng tư nhân hoá các nguồn nước vốn đã khan hiếm, biến chúng trở thành hàng hoá
kinh doanh theo các quy luật thị trường. Thật ra, việc tiếp cận với nguồn nước uống an toàn là
một nhân quyền cơ bản và phổ quát, vì nó rất cần thiết để con người sống còn và do đó nó là
một điều kiện để thực hiện những nhân quyền khác. Thế giới chúng ta đang có một món nợ xã
hội rất lớn đối với những người nghèo chưa được tiếp cận với nguồn nước uống an toàn, vì họ
bị từ chối quyền được sống phù hợp với phẩm giá bất khả xâm phạm của họ. Món nợ này có
thể trả phần nào bằng việc gia tăng tài trợ để cung cấp nước sạch và dịch vụ vệ sinh cho người
nghèo. Nhưng nước tiếp tục bị lãng phí, không chỉ ở những quốc gia đã phát triển, mà còn ở
cả những quốc gia đang phát triển có nguồn nước dồi dào. Điều này cho thấy, vấn đề nước
uống phần nào liên quan đến chuyện giáo dục và văn hóa, bởi vì người ta ít nhận thức được sự
nghiêm trọng của lối hành xử đó trong một bối cảnh có sự chênh lệch lớn.
31. Tình trạng gia tăng khan hiếm nước sẽ dẫn đến sự gia tăng chi phí thức ăn và gia tăng giá
thành của một số sản phẩm khác vốn lệ thuộc vào việc sử dụng nước. Một số nhà nghiên cứu
cảnh báo, có thể trong vài chục năm tới sẽ xẩy ra nạn thiếu nước trầm trọng, nếu ta không có
những hành động ngay bây giờ. Các thiệt hại môi sinh có thể làm hại hàng tỉ người, nhưng rõ
12
ràng việc kiểm soát nước bởi các đại doanh nghiệp đa quốc gia có thể sẽ là một trong những lí
do gây xung đột chính trong thế kỉ này 23
.
III. Mất đa dạng sinh thái
32. Các tài nguyên của trái đất cũng đang bị phá hoại do lối nhìn chỉ nhắm tới cái lợi trước
mắt của các nhà kinh tế, thương mại và sản xuất. Việc phá rừng già và các thảm thực vật
khiến cho một số chủng loại biến mất; những chủng loại này có thể lại là những tài nguyên vô
cùng quan trọng trong tương lai, không chỉ cho thực phẩm, mà còn cho việc chữa bệnh và cho
nhiều công dụng khác nữa. Nhiều chủng loại khác nhau mang trong mình những di tử có khả
năng trở thành các tài nguyên bản lề trong tương lai, nhằm đáp ứng một nhu cầu nào đó của
con người hay giải quyết một vấn đề nào đó của môi sinh trong tương lai.
33. Tuy nhiên, chỉ suy nghĩ về công dụng „tài nguyên“ có thể khai thác của các loài đó mà
thôi thì không đủ. Các loài đó vốn tự chúng đã có giá trị. Mỗi năm, có hàng ngàn loài thực vật
và động vật biến mất hẳn, những thứ mà chúng ta sẽ không bao giờ biết đến và con cái chúng
ta cũng sẽ không bao giờ nhìn thấy. Phần lớn bị tuyệt chủng do những hoạt động của con
người. Vì chúng ta mà hàng ngàn loài chẳng còn hiện diện để tôn vinh Thiên Chúa hoặc để
mang thông điệp của chúng cho chúng ta. Chúng ta không có quyền huỷ hoại chúng.
34. Có lẽ việc biến mất của một động vật có vú hay một loài chim nào đó làm chúng ta bối rối,
là vì chúng hiện diện cụ thể hơn trước mắt chúng ta. Nhưng để hoạt động tốt, các hệ sinh thái
cũng cần sự có mặt của nấm, tảo, giun, côn trùng, bò sát và vô số các vi sinh vật đa dạng khác.
Một số loài tương đối hiếm hơn, thường mắt ta không thấy, nhưng lại đóng một vai trò quyết
định trong việc duy trì sự cân bằng sinh thái cho một địa điểm cụ thể. Đúng là con người phải
can thiệp, khi một hệ địa lí rơi vào tình trạng nguy kịch. Nhưng sự can thiệp của con người
ngày nay vào một thực tại vô cùng phức tạp như thực tại thiên nhiên đã tới độ nguy hiểm, vì
càng can thiệp càng gây ra thảm hoạ, thảm hoạ lại đòi phải can thiệp tiếp. Kết quả thường là
một vòng tròn luẩn quẩn: can thiệp để giải quyết khó khăn, nhưng thường lại làm cho khó
khăn thành gia trọng hơn. Chẳng hạn nhiều loài chim và côn trùng bị giết chết bởi chất độc do
kĩ thuật sản xuất ra để phục vụ nông nghiệp. Nhưng nông nghiệp lại cần những loài chim và
côn trùng này, vì thế khi chúng biến mất, nông nghiệp phải dùng những kĩ thuật khác để bù lại,
và những kĩ thuật này lại có thể gây tác hại cho nông nghiệp. Chúng ta phải biết ơn các nhà
khoa học và các kỹ sư đã có những nỗ lực tuyệt vời trong việc tìm kiếm giải pháp cho các vấn
đề do con người tạo ra. Nhưng khi nhìn thế giới một cách tỉnh táo hơn, chúng ta thấy rằng
mức độ can thiệp của con người, thường nhắm phục vụ lợi ích kinh doanh và tiêu dùng, đang
thực sự làm cho trái đất của chúng ta bớt phong phú và bớt đẹp đi, bị hạn chế và buồn thảm
hơn, cho dù những tiến bộ kĩ thuật và lượng hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục gia tăng vô hạn.
Dường như chúng ta nghĩ rằng, mình có thể sử dụng những sản phẩm do mình tạo ra để thay
thế vẻ đẹp vốn không thể thay thế và phục hồi được.
35. Khi đánh giá mức độ ảnh hưởng môi trường của bất kì một công ti nào, người ta thường
quan tâm tới những tác động trên đất, nước và khí, mà chẳng luôn để ý đặc biệt tới những hậu
quả trên sự đa dạng sinh học, như thể người ta coi việc mất mát một vài chủng loài hay một
vài nhóm động và thực vật là chuyện chẳng quan trọng lắm. Những đường cao tốc, các canh
tác mới, các hàng rào thép, các đập chắn và những kiến trúc khác lấy đi những không gian
sống, và đôi khi chúng làm cho những không gian này ra manh mún đến nỗi không còn chỗ di
chuyển hoặc đường qua lại cho muông thú, khiến nhiều loài đứng trước cơ nguy bị tuyệt
23
X. Lời chào các thành viên của FAO (20.11.2014); AAS 106 (2014), tr. 985.
13
chủng. Có những giải pháp thay thế - như việc thiếp lập những hành lang sinh học – giúp ít ra
làm giảm được mức độ tác hại của những công trình xây dựng đó, nhưng mới chỉ thấy rất ít
quốc gia có được những biện pháp nhìn xa này. Đối với một vài loài được dùng cho mục đích
thương mại, người ta đã không luôn luôn nghiên cứu cách phát triển của chúng, thành ra lại
phải giết giảm số lượng hàng loạt, để tái tạo lại sự cân bằng cho hệ sinh thái.
36. Việc chăm sóc các hệ sinh thái đòi hỏi phải vượt qua cái lợi trước mắt để nhìn xa, bởi vì
khi chỉ nghĩ tới thành quả kinh tế nhanh và dễ trước mắt, chẳng ai còn quan tâm tới việc bảo
vệ chúng. Nhưng cái giá của những thiệt hại do sự tắc trách ích kỉ sẽ lớn hơn nhiều so với cái
lợi kinh tế mà ta có thể đạt được. Sự mất mát hay thiệt hại nghiêm trọng cho một số chủng
loài hẳn có liên quan tới những giá trị, mà ta không thể tính trước được. Vì thế, chúng ta có
thể sẽ là những chứng nhân câm tiếng của những bất công vô cùng lớn, khi ta đòi hỏi cho
mình những cái lợi lớn, rồi để cho phần nhân loại còn lại hôm nay và các thế hệ mai sau phải
trả những khoản phí khổng lồ cho các thiệt hại môi sinh.
37. Một số quốc gia đã có được những tiến bộ trong việc giữ gìn một số địa điểm và vùng –
trên đất cũng như ngoài đại dương -, những nơi mọi can thiệp của con người bị cấm chỉ, vì có
thể gây biến dạng hay làm sai lệnh tình trạng ban đầu của chúng. Khi chăm sóc đa dạng sinh
thái trong các vùng giàu chủng loại, các nhà chuyên môn nhất quyết đòi buộc phải quan tâm
đặc biệt tới các loài hiếm hoặc ít được bảo vệ hữu hiệu tại địa phương. Có những nơi cần
chăm sóc cách đặc biệt hơn, vì tầm quan trọng to lớn của chúng đối với hệ sinh thái hoàn vũ
hoặc vì chúng là những nguồn nước dự trử quan trọng bảo đảm cho những loại hình sự sống
khác.
38. Vùng Amazona và lưu vực sông Congo, hoặc các nguồn nước lớn và băng sơn ở các cực
địa cầu là những thí dụ; đây là những địa điểm giàu đa dạng sinh thái và được coi là những
buồng phổi của địa cầu. Chúng ta biết tầm quan trọng của những nơi này đối với toàn bộ địa
cầu, và vai trò của chúng đối với tương lai nhân loại cũng đã rõ. Sự đa dạng sinh học trong
các hệ sinh thái của rừng già nhiệt đới có độ phức tạp vô cùng lớn, mà chúng ta hầu như
không thể biết hết được; nhưng khi các rừng già bị đốt cháy hoặc san bằng, để lấy đất canh
tác, thì vô số chủng loài sẽ biến mất chỉ trong vài năm, chưa nói đến việc các vùng đó có thể
sẽ biến thành sa mạc khô cằn. Tuy nhiên, mỗi lần đề cập tới những vùng này, người ta lại bị
rơi vào thế lưỡng nan, là vì người ta không thể xem thường những lợi ích kinh tế mang tính
toàn cầu. Nhân danh việc bảo vệ những nơi này, quốc tế nhiều khi có thể hành động ngược lại
quyền tự chủ của các quốc gia liên hệ. Quả thật đã có những „đề nghị […] quốc tế hoá vùng
Amazona: Nhưng những đề xuất này hoàn toàn chỉ phục vụ cho những lợi ích kinh tế của các
tập đoàn xuyên quốc gia mà thôi”24
. Phải công nhận công lao của các tổ chức quốc tế và các
hội đoàn xã hội dân sự đã làm thức dậy ý thức của người dân và khiến họ dấn thân – kể cả
việc dùng những phương tiện áp lực chính đáng -, để thúc đẩy chính quyền nước mình: thực
thi những nhiệm vụ bất chuyển nhượng của họ, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên
bản quốc, mà không bán mình cho quyền lợi của các tập đoàn quốc tế hay các tập đoàn thiếu
đứng đắn ở địa phương.
39. Việc thay thế hệ thực vật tự nhiên bằng những đồn điền thường chỉ trồng một loại cây mà
thôi, lắm khi cũng không được điều nghiên đầy đủ. Khi loại cây trồng mới này không hợp với
đất, hệ đa dạng sinh thái sẽ bị thiệt hại trầm trọng. Cả những vùng ẩm ướt được biến thành
ruộng rẫy canh tác cũng mất đi tính đa dạng vô cùng quan trọng vốn có của chúng. Việc biến
mất các hệ sinh thái rừng đước ven biển cũng là một nguy hiểm không nhỏ.
24
Đại hội các giám mục trung mĩ và vùng biển Ka-ri-bic. Dokument von Aparecida (29.06.2007), 86.
14
40. Các đại dương không chỉ chứa đựng lượng nước lớn nhất của địa cầu, mà còn là nơi giàu
đa dạng sinh vật nhất. Nhiều loài trong biển chúng ta chưa biết, nhưng đang bị đe doạ tuyệt
chủng bằng nhiều cách. Mặt khác, sự sống trong các sông, hồ, biển và đại dương, vốn nuôi
sống một phần lớn dân số địa cầu, hiện đang bị tác hại do việc khai thác cá một cách vô kiểm
soát, khiến cho một số loài đang giảm sút nhanh. Với các lối đánh bắt cá chọn lọc, người ta
vứt đi bao nhiêu là loại cá đã sa lưới. Đặc biệt bị đe doạ là các hải sinh vật, mà chúng ta chẳng
bao giờ nghĩ tới, chẳng hạn như các loại phiêu sinh, vốn là những thành tố quan trọng trong
chuỗi thực phẩm đại dương; chúng là thức ăn quan trọng cho các loại hải sản, và các loải này
lại là thức ăn của con người. .
41. Khi chúng ta bước vào vùng biển nhiệt đới và bán nhiệt đới, chúng ta sẽ gặp hàng loạt đá
ngầm san hô; tầm quan trọng của chúng có thể sánh với vai trò các rừng già đối với trái đất,
bởi vì chúng chứa độ một triệu chủng loài, trong đó có cá, cua, động vật thân mềm, bọt biển
và tảo v.v. Nhiều vùng san hô nay đã hết sinh sản hoặc đang ở vào giai đoạn thoái hoá: „Ai đã
làm cho thế giới kì diệu biển cả trở thành những nghĩa trang hết màu sắc trong lòng
biển?“25
Hiện tượng này đa phần là do kết quả ô nhiễm từ việc phá rừng, đơn canh nông
nghiệp, rác thải kĩ nghệ và những lối đánh bắt cá có hại, nhất là lối dùng thuốc nổ và chất xi-
a-nít. Nguy hơn, là nhiệt độ nước biển lại gia tăng. Tất cả những điều đó giúp ta nhận ra hậu
quả có thể tai hại cho thiên nhiên của bất cứ sự can thiệp nào, những hậu quả mà thoạt nhìn
chẳng ai nhận ra, và thấy được những hình thức sử dụng tài nguyên nào sẽ gây ra những hậu
quả tai hại, không những cho các sinh vật sống trong nước, mà còn xuống cả tới đáy đại
dương.
42. Cần phải đầu tư nhiều hơn nữa vào việc nghiên cứu, để hiểu rõ hơn về phản ứng của các
hệ sinh thái và để phân tích các biến số tác động của bất cứ một biến đổi quan trọng nào của
môi sinh. Vì mọi loài đều liên hệ với nhau, chúng ta phải coi trọng nhau trong yêu thương và
thán phục, và tất cả chúng ta đều cần nhau. Mỗi vùng chủ quản có trách nhiệm chăm sóc gia
đình chung này. Họ cần có một bảng kiểm kê đầy đủ các loài trong vùng trách nhiệm, để lập
ra những chương trình và chiến lược bảo vệ, trong đó cần nhất phải quan tâm tới những loải
đang bị đe doạ tuyệt chủng.
IV. Phẩm chất cuộc sống suy thoái và xã hội tan rã
43. Khi hiểu rằng, con người cũng là một tạo vật trong thế giới này, có quyền sống và vui
hưởng hạnh phúc, và ngoài ra còn có một phẩm giá đặc biệt, thì chúng ta không thể không
công nhận, những tác động của hư hại môi sinh, của mô hình phát triển hiện nay và của nền
văn hoá xài rồi bỏ có ảnh hưởng trên cuộc sống con người.
44. Ngày nay chúng ta thấy, chẳng hạn, nhiều thành phố mọc lên cách quá trớn và vô trật tự,
trở nên có hại cho sức khoẻ con người, không phải chỉ vì ô nhiễm bởi các chất thải độc, mà
còn vì tình trạng hỗn độn, tắc nghẽn giao thông, tiếng động ồn ào và phong cảnh gai mắt.
Nhiều thành phố là những cấu trúc lớn thiếu hiệu quả kinh tế, tiêu thụ quá nhiều năng lượng
và nước. Có những khu phố vừa mới được cất lên thì hệ thống cống rãnh đã nghẹt, lộn xộn,
không đủ không gian xanh. Thật chẳng hợp với con người địa cầu tí nào cả, nếu chúng ta
ngày càng bị đè nặng thêm bởi bê-tông, sắt thép, nhựa đường và thuỷ tinh, và bị tước mất sự
chung đụng thể lí với thiên nhiên.
25
Đại hội các giám mục phi-luật-tân, Thư luân lưu What is Happening to our Beautiful Land? (29. 01.1988)
15
45. Việc tư hữu hoá đất đại trong một số vùng miền quê và thành thị khiến cho người dân khó
bước vào được những địa điểm có phong cảnh đẹp. Người ta lập ra những khu „sinh thái“
dành cho một số rất ít người, nơi đó người dân thường không được lai vãng, để dành yên tĩnh
giả tạo cho các ông bà ở trong đó. Một thành phố đẹp với nhiều không gian cây xanh được
chăm sóc thường chỉ thấy trong những vùng „an ninh“, còn những vùng nơi người nghèo ở thì
hoạ hoằn mới thấy được cây cối.
46. Trong số các yếu tố tạo biến đổi địa cầu cũng còn có các tác động của một số cải tiến kĩ
thuật về lao động, sự loại trừ xã hội, bất bình đẳng về cơ hội và về tiêu thụ năng lượng và về
các dịch vụ khác, sự phân tán xã hội, việc gia tăng bạo động và các hình thức mới về gây hấn,
buôn bán ma tuý và việc gia tăng nghiện ngập nơi giới trẻ, việc đánh mất căn tính. Đó là một
số dấu hiệu cho thấy sự phát triển trong hai trăm năm vừa qua không phải là một tiến bộ toàn
diện trên mọi mặt và không phải là sự cải tiến phẩm chất cuộc sống. Một số trong những dấu
chỉ này cũng là triệu chứng của một đổ vỡ xã hội thực sự, của một đoạn tuyệt âm thầm những
tương quan của hội nhập xã hội và cộng đoàn.
47. Thêm vào đó là những động năng của truyền thông và của thế giới số; dù đã tràn ngập
khắp nơi, chúng không giúp con người có khả năng sống khôn ngoan hơn, biết suy nghĩ chín
chắn hơn và mở rộng lòng thương yêu hơn. Trong khung cảnh này, sợ rằng minh triết của các
bậc thầy lớn trước đây sẽ tan biến đi trong tiếng động chia trí của lượng thông tin. Điều này
đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực làm cho các phương tiện truyền thông này trở thành động lực cho
một phát triền văn hoá mới của nhân loại, chứ không để chúng suy tàn đi trong gia sản vô
cùng phong phú của chúng. Sự khôn ngoan đích thực đạt được là do suy tư, đối thoại và gặp
gỡ chân thành giữa người với người, chứ nó không xuất phát từ việc tập trung được một
lượng dữ liệu lớn, những thứ sẽ làm ta chán và hoang mang và rốt cuộc trở thành một thứ ô
nhiễm môi sinh tinh thần. Đồng thời, những quan hệ cụ thể đầy thử thách giữa ta với tha nhân
đang có cơ bị thay thế bằng một thứ truyền thông do Internet mang lại. Mạng lưới Internet
cho phép ta tuỳ ý chọn lựa hay loại bỏ, từ đó làm nẩy sinh trong ta một thứ xúc cảm giả tạo,
chủ yếu do các thiết bị và màn hình tạo nên, chứ không hẳn do con người thật và thiên nhiên
đưa lại. Truyền thông ngày nay cho phép ta thông tin, trao đổi kiến thức và tình cảm với nhau.
Dù vậy, đôi khi chúng cũng ngăn cản không cho ta tiếp xúc trực tiếp với những lo âu, sợ hãi,
niềm vui của kẻ khác và với những kinh nghiệm phức tạp của họ. Vì thế chẳng lạ gì chuyện
con người ngày nay vẫn có những bất mãn sâu xa và đau đớn trong quan hệ với người khác và
vẫn cảm thấy cô đơn bệnh hoạn trước lượng khổng lồ những dịch vụ và sản phẩm do truyền
thông mang lại.
V. Bất bình đẳng xã hội trên toàn cầu
48. Môi trường con người và môi trường tự nhiên xuống cấp theo nhau, và chúng ta không thể
giải quyết đúng đắn việc phá hoaị môi trường, nếu không quan tâm tới những nguyên nhân
gây đổ vỡ trên bình diện con người và xã hội. Quả thật, sự suy thoái môi trường và xã hội tác
hại cách đặc biệt trên những người yếu đuối nhất của hành tinh: „Kinh nghiệm chung chung
trong cuộc sống hằng ngày cũng như nghiên cứu khoa học cho thấy, những người nghèo khổ
nhất là thành phần phải chịu hậu quả nặng nề nhất của các tổn thương môi sinh“26
. Chẳng
hạn, sự cạn kiệt lượng cá biển tác động đặc biệt trên các dân cư sống bằng chài lưới thủ công
và họ chẳng có gì để thay thế lượng thiếu hụt đó; nước ô nhiễm tác hại đặc biệt trên những
người nghèo nhất, vốn không có khả năng mua nước lọc trong chai; mực nước biển gia tăng
chủ yếu đánh vào những dân cư nghèo ven biển, vì họ không biết đi đâu. Hậu quả của những
26
HĐGM Bo-li-vi, Thư luân lưu El universo, don de Dios para la vida (2012), 17
16
hình thái xáo trộn hiện nay cũng hiện rõ nơi tuổi thọ vắn vỏi của nhiều dân nghèo, nơi các
cuộc chiến giành dật tài nguyên, và nơi nhiều vấn nạn khác vốn không được thời sự thế giới
để ý đến 27
.
49. Tôi muốn nhắc nhở ở đây, người ta thường không hiểu rõ các vấn nạn xẩy tới đặc biệt cho
những người bị đẩy ra lề xã hội. Họ là thành phần đông nhất của địa cầu, có tới hàng tỉ người.
Ngày nay họ đã xuất hiện trong các cuộc luận bàn chính trị và kinh tế thế giới, nhưng những
vấn đề của họ xem ra thường bị coi là phụ thuộc, là một câu hỏi mà người ta gần như vì bổn
phận phải giải quyết bên lề, nếu như câu hỏi đó không làm hại đến quyền lợi của những kẻ
quyền hành. Quả thật, chỗ đứng của họ trong các nghị trình hành động vẫn thường nằm ở cuối
bảng. Một phần là vì nhiều vị hàn lâm, nhiều vị tạo dư luận, nhiều trung tâm thông tin và
quyền lực ở quá xa họ, thường được đặt trong các thành phố, nơi không tiếp cận trực tiếp với
những vấn đề của họ. Những vị đó có cuộc sống quá thoải mái và suy tư ở một tầng cao, mà
đại đa số người dân thế giới không với tới được. Việc thiếu chung đụng thể lí cũng như thiếu
gặp gỡ, những gặp gỡ nhiều khi không có được vì sự phân rã trong các thành phố, đã làm tê
liệt lương tâm họ và khiến họ không nhìn ra được một phần thực tế vốn bị những phân tích có
định hướng che khuất. Điều đó đôi khi xuất hiện tay trong tay với những bài diễn văn „xanh“.
Nhưng ngày nay chúng ta buộc phải nhận chân rằng, một nghiên cứu môi sinh thật sự luôn
luôn biến thành một nghiên cứu xã hội, trong đó phải đưa công lí vào trong những cuộc luận
bàn về môi sinh, hầu nghe thấu được tiếng than khóc của người nghèo cũng như tiếng rên la
của địa cầu.
50. Thay vì giải quyết các vấn đề của người nghèo và nghĩ đến một thế giới khác, một vài
người chỉ biết đưa ra đề nghị giảm sinh sản. Quốc tế không ngừng áp lực trên các quốc gia
đang phát triển, buộc họ phải có những quyết định chính trị nào đó có lợi cho „y tế sinh đẻ“
để đổi lấy những viện trợ kinh tế. Nhưng „nếu quả thật việc phân phối không đồng đều về dân
số và tài nguyên sẵn có là nguyên do gây trở ngại phát triển và cách xử sự đúng đắn với môi
sinh, thì ta cũng phải công nhận, là việc tăng gia dân số hoàn toàn phù hợp với một cuộc phát
triển đầy đủ và liên đới“28
. Đổ thừa cho sự tăng gia dân số thay vì cho thói tiêu thụ chọn lọc
và thái quá của một số người, là thái độ tránh đi thẳng vào vấn đề. Đó là cách để cố biện minh
cho mô hình phân phối hiện nay, trong đó một thiểu số tự cho mình có quyền tiêu pha phung
phí đến mức độ không thể nào tổng quát hoá được, vì nếu thế, thì hành tinh sẽ không đủ chỗ
để chứa rác rưởi của một lối tiêu thụ như thế. Ngoài ra, chúng ta biết, khoảng một phần ba số
thực phẩm sản xuất bị vứt bỏ, và „thực phẩm bị vứt đi đó là thứ cướp giật từ bàn ăn của
người nghèo“29
. Dù sao, hẳn cần phải quan tâm tới tình trạng phân bổ dân số không đồng đều
trong các miền của quốc gia lẫn quốc tế, bởi vì việc gia tăng tiêu thụ có thể sẽ tạo ra những
tình trạng khu vực rắc rối do nhiều yếu tố kết hợp tạo ra, chẳng hạn do ô nhiễm môi sinh, giao
thông, xử lí rác rưởi, khan hiếm tài nguyên và phẩm chất cuộc sống.
51. Bất công xã hội không chỉ tác động trên mỗi cá nhân, mà còn trên toàn các quốc gia, và nó
buộc ta phải nghĩ tới vấn đề đạo đức trong các quan hệ quốc tế. Là vì có một „món nợ sinh
thái” thực sự - đặc biệt giữa phía bắc và phía nam – trong liên quan với nền thương mại thiếu
cân đối và những hậu quả của nó trong lãnh vực môi sinh và cả với thói quen xưa nay sử dụng
tài nguyên quá trớn nơi một số quốc gia. Việc xuất cảng một số nguyên liệu thô, để phục vụ
thị trường của các nước kĩ nghệ, đã gây ra những thiệt hại tại địa phương, chẳng hạn như việc
nhiễm thuỷ ngân nơi các mỏ vàng hay nhiễm lưu huỳnh nơi các mỏ đồng. Đặc biệt chúng ta
27
X. HĐGM Đức, Der Klimawandel: Brennpunkt globaler, intergenerationeller und ökologischer Gerechtigkeit
(tháng 9. 2006), 28-30. 28
HĐGT CL&HB, Kompendium der Soziallehre der Kirche, Freiburg 2006, 483. 29
L’Osservatore Romano (Đức.), Năm 43, Số 24 (14. 06.2013), tr. 2; Insegnamenti 1/1 (2013), tr. 280
17
phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng địa cầu như một bãi rác để chứa các khí thải; chúng
được tích tụ từ hai trăm năm nay và giờ đây đã đến độ đẩy mọi quốc gia trên thế giới vào
vòng thiệt hại. Địa cầu bị hâm nóng bởi lượng tiêu thụ khổng lồ của một vài quốc gia đã tác
hại lên những vùng nghèo nhất của địa cầu, đặc biệt ở Phi châu, nơi sự gia tăng nhiệt độ đi
kèm với hạn hán đã mang lại những hậu quả khủng khiếp trên việc thu hoạch nông phẩm.
Thêm vào đó là những thiệt hại do việc xuất cảng những rác độc ở thể rắn và lỏng tới các
nước đang phát triển và do hoạt động tác hại môi sinh của những công ti lấy vốn ở nước giàu
để sang các nước kém phát triển làm những chuyện mà ở nước họ không cho phép làm:
„Chúng tôi nhận thấy, các công ti đa quốc gia thường làm như vậy, và họ làm ở đây những
điều không được phép làm trong các quốc gia đã phát triển hoặc trong các nước gọi là thuộc
thế giới thứ nhất. Nói chung, khi đóng cửa rút đi, họ để lại những khoản nợ lớn đối với người
và môi trường như thất nghiệp, các làng mạc vắng tanh, một số dự trử thiên nhiên cạn kiêt,
nạn phá rừng, nông nghiệp và chăn nuôi địa phương bần cùng, những hố trống, những ngọn
đồi bị san bằng, sông suối ô nhiễm và một vài cơ sở xã hội ít ỏi phải đóng cửa vì không còn
trợ cấp sinh hoạt”.30
52. Nợ nước ngoài của các nước nghèo đã trở thành một phương tiện kiểm soát, nhưng ngược
lại nợ môi sinh thì lại không như vậy. Bằng nhiều cách khác nhau, các nước kém phát triển,
nơi có những nguồn dự trử sinh quyển quan trọng nhất, vẫn tiếp tục hi sinh hiện tại và tương
lai mình để giúp cho các quốc gia giàu có nhất phát triển. Đất đai của người nghèo khu vực
phía nam vốn phì nhiêu và ít bị ô nhiễm, nhưng họ lại không được quyền sở hữu những sản
vật và tài nguyên đó, để thoả mãn các nhu cầu sống của họ, vì họ bị ngăn chặn bởi một hệ
thống quan hệ thương mại và sở hữu ngớ ngẩn lạ lùng về mặt cấu trúc. Các nước phát triển
cần phải trợ giúp để giải quyết món nợ này, bằng cách họ cố gắng giảm thiểu tiêu thụ năng
lượng không tái tạo xuống một mức độ vừa phải và bằng cách giúp các trợ cụ, để các nước có
nhu cầu nhiều nhất lập được những dự án và chương trình chính trị giúp họ phát triển bền
vững. Những khu vực và quốc gia nghèo nhất rất ít có khả năng áp dụng những mô hình mới
hướng tới việc giảm thiểu ô nhiễm môi sinh, bởi vì họ không có đủ chuyên môn và tiền bạc,
để thiết lập và chi phí cho những phương pháp cần thiết. Vì thế cần ý thức rằng, trong sự biến
đổi khí hậu có những trách nhiệm khác nhau, và – như các giám mục hoa-kì đã nói – cần phải
„chú tâm đặc biệt tới nhu cầu của những người nghèo, những người yếu đuối và những người
bị thương tổn, trong một cuộc luận bàn thường bị thống trị bởi các lợi ích nhiều quyền thế
hơn“31
. Chúng ta phải tăng gia ý thức, rằng chúng ta là một gia đình nhân loại duy nhất.
Chẳng có ranh giới hay rào cản chính trị và xã hội nào cho phép chúng ta tự cô lập, và cũng
bởi cùng lí do đó, chẳng có một không gian nào cho việc toàn cầu hoá sự thờ ơ vô càm.
VI. Điểm yếu của những phản ứng
53. Những tình trạng này đã khiến cho chị trái đất cùng với thế giới bị bỏ rơi phải thở than,
chị đòi buộc chúng ta phải thay đổi đường lối. Chưa bao giờ chúng ta đối xử tệ và làm tổn
thương ngôi nhà chung của chúng ta như từ hai thế kỉ nay. Nhưng chúng ta được mời gọi trở
nên những khí cụ của Thiên Chúa Cha, để hành tinh này thể hiện được mơ ước của Người lúc
Người tạo dựng nó và phù hợp với chương trình hoà bình, tuyệt mĩ và toàn vẹn của Người.
Vấn đề là chúng ta vẫn thiếu một văn hoá cần thiết để đối đầu với cơn khủng hoảng này. Cần
phải tạo ra leaderships có khả năng hoạch định những con đường đáp ứng được các nhu cầu
của thế hệ hiện tại, trong lúc vẫn quan tâm tới mọi yếu tố và không để thiệt hại cho các thế hệ
về sau. Cần phải tạo nên một hệ thống pháp lí ấn định những biên giới không thể vượt qua và
30
Các giám mục vùng Patagonia-Comahue (Á-căn-đình), Thông điệp giáng sinh (th. 12.2009), 2. 31
HĐGM Hoa-kì, Global Climate Change: A Plea for Dialogue, Prudence and the Common Good (15. 06.
2001)
18
bảo đảm cho việc bảo vệ các hệ sinh thái, trước khi xuất hiện những hình thái quyền lực mới
do khuôn mẫu kĩ trị cưu mang, chúng rốt cuộc không những phá nát chính trị, mà còn cả tự do
và công lí.
54. Rõ ràng, phản ứng chính trị thế giới quá yếu. Sự thất bại của các hội nghị thượng đỉnh
toàn cầu về môi trường cho thấy mức độ chính trị lệ thuộc vào kĩ thuật và tài chánh như thế
nào. Có quá nhiều lợi ích cá biệt, và các lợi ích kinh tế đã dễ dàng thắng thế công ích cũng
như dễ dàng léo lái thông tin, để cho các kế hoạch của họ không bị ảnh hưởng. Vì thế Văn
Kiện Aparecida đòi hỏi, „không được dành ưu tiên cho lợi ích của các nhóm kinh tế trong
những can thiệp vào các tài nguyên thiên nhiên, những can thiệp […] vốn phá hoại các nguồn
sự sống một cách phi lí“32
. Liên minh kinh tế - kĩ thuật rốt cuộc loại ra ngoài tất cả những gì
không liên quan tới các lợi ích tức thời của nó. Như thế, chúng ta chỉ có thể chờ đợi được
những tuyên ngôn ngoài miệng, một vài hoạt động nhân ái đây đó và ngay cả những nỗ lực
gây quan tâm tới môi sinh, trong lúc trên thực tế các các tổ chức xã hội muốn tạo những đổi
thay thật sự thì bị coi là những tay lãng mạn chỉ gây phiền toái và trở ngại, cần phải tránh.
55. Một số quốc gia đang dần dần đạt được những tiến bộ quan trọng; họ có những cách kiểm
soát hữu hiệu hơn và đang thật sự ra công chống lại tham nhũng. Người dân bén nhạy hơn về
vấn đề môi sinh, cho dù bén nhạy này chưa đủ để có thể làm thay đổi những thói quen tiêu thụ
có hại xem ra không giảm mà còn gia tăng và phát triển. Một đơn cử giản dị là việc gia tăng
sự dụng các máy điều hoà nhiệt độ với công suất càng ngày càng lớn. Các thị trường trực tiếp
hưởng lợi từ loại máy này lại không ngừng khuyến khích người mua. Nếu ai từ ngoài hành
tinh nhìn vào dân địa cầu, hẳn họ phải lạ lùng về thói quen tiêu xài đôi lúc xem ra như tự sát
này.
56. Trong khi đó, các thế lực kinh tế tiếp tục biện minh cho hệ thống toàn cầu vốn đặt căn bản
trên đầu cơ và lợi nhuận này; họ chẳng muốn quan tâm gì tới bối cảnh chung và cả tới những
tác hại trên nhân phẩm và môi trường. Vì thế, rõ ràng có sự bện chặt vào nhau giữa việc suy
thoái các điều kiện môi trường với những suy thoái trong lãnh vực con người và đạo đức.
Nhiều người sẽ nói, họ không cố ý hành xử trái đạo đức, là vì nỗ lực đánh lạc hướng liên tục
của kinh tế và kĩ thuật làm cho người ta không còn lòng dạ nào nghĩ tới thực tế giới hạn và
chóng qua của thế giới. Do đó, cho tới nay „mọi thứ yếu đuối như môi sinh hoàn toàn bất lực
trước các lợi ích của một nền thị trường thần thánh, vốn muốn mình trở thành quy luật tuyệt
đối“33
.
57. Ta có thể thấy trước được khả năng xẩy ra những cuộc chiến mới; người ta nhân danh
những yêu sách cao cả để âm thầm tranh giành nhau một số tài nguyên cạn kiệt. Chiến tranh
luôn tạo ra những thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường cũng như cho gia sản văn hoá của
các dân tộc; và các nguy cơ trở thành ghê gớm, khi ta nghĩ tới các vũ khí nguyên tử và hoá
học. Là vì „mặc dù các thoả thuận quốc tế cấm chiến tranh hoá học, vi trùng và sinh học, trên
thực tế việc thí nghiệm các loại vũ khí tấn công mới với khả năng làm thay đổi sự cân bằng tự
nhiên vẫn tiếp tục được thực hiện trong các phòng thí nghiệm”34
. Cần phải có sự quan tâm
nhiều hơn nữa của giới chính trị, để kịp thời ngăn ngừa và dập tắt những hoàn cảnh có thể tạo
ra chiến tranh. Nhưng thứ quyền lực bị khoá tay bởi tài chánh lại thường tìm cách né tránh
những nỗ lực đó, và các chương trình chính trị cũng thường thiếu nhìn xa. Tại sao con người
32
Đại hội các giám mục Mĩ châu La-tinh và vùng Ka-ri-bic, Dokument von Aparecida (29.06.2007), 471 33
TT, Evangelii gaudium (24. 11.2013), 56: AAS 105 (2013), S. 1043. 34
Gio-an Phao-lo II, Thông điệp hoà bình 1990, 12: L‘Osservatore Romano (Đức), Năm.19, Số 50 (15. 12.1989),
tr. 7; AAS 82 (1990), tr.. 154
19
ngày nay muốn ôm giữ một thứ quyền lực sẽ được nhớ tới như là một thực thể bất lực trong
việc can thiệp những khi cần thiết và khẩn cấp?
58. Một số quốc gia có những thành công trong việc cải thiện môi trường, như làm sạch lại
nhiều con sông bị ô nhiễm hàng chục năm qua, hay khôi phục lại những cánh rừng, làm đẹp
các cảnh quang bằng việc phục hồi môi trường hay bằng những đồ án kiến trúc có giá trị nghệ
thuật cao hoặc có được những tiến bộ trong việc sản xuất năng lượng sạch, trong việc cải tiến
hệ thống giao thông và nhiều thứ khác. Nhưng những biện pháp đó không giải quyết được vấn
nạn toàn cầu, dù vậy chúng cho thấy là con người có khả năng can thiệp một cách tích cực. Vì
con người được tạo dựng lên để yêu thương và dù họ có những hạn chế, trong họ rõ ràng vẫn
nẩy lên những mầm chồi đoàn kết, bao dung và phúc lợi.
59. Song song ta thấy mọc lên một thứ môi sinh học hời hợt và giả tạo, nó hỗ trợ cho một tình
trạng uể oải nào đó và một sự thong dong vô trách nhiệm. Như vẫn thường xẩy ra trong những
thời điểm khủng hoảng nặng nề, trong đó đòi hỏi những quyết định can đảm, chúng ta có
khuynh hướng nghĩ rằng, những gì đang xẩy đến sẽ chẳng rõ ràng gì cả. Xét trên bề mặt,
ngoài một vài dấu chỉ thấy được về sự ô nhiễm và đổ nát, xem ra mọi thứ vẫn chưa đến nỗi tệ
và hành tinh của chúng ta vẫn còn có thể tiếp tục xoay trong một thời gian dài dưới những
điền kiện hiện tại. Thái độ trốn tránh đó giúp ta giữ nguyên lối sống, thói quen sản xuất và
tiêu thụ của ta. Đó là cách con người vốn chuẩn bị để nuôi dưỡng mọi tật xấu tự huỷ của
mình: Nó nhắm mắt để tránh nhìn thấy, chiến đấu để tránh công nhận, đẩy lùi các quyết định
quan trọng và hành động như thể chẳng có gì xẩy ra.
VII. Ý kiến khác biệt
60. Cuối cùng, chúng ta thấy rằng, có nhiều quan điểm khác nhau khi phân tích hiện trạng và
và nhiều hướng suy nghĩ khác nhau trên đường giải pháp khả thi. Một số người khăng khăng
tin vào huyền thoại tiến bộ và quả quyết, các vấn đề môi sinh chắc chắn sẽ được giải quyết
bằng những chương trình kĩ thuật mới, mà chẳng cần phải bận tâm tới chuyện đạo đức và
chẳng cần phải có những đổi thay lớn. Ở một cực khác, có người cho rằng, mọi can thiệp của
con người đều có thể là một đe doạ, ảnh hưởng nguy hại trên hệ sinh thái toàn cầu. Vì thế họ
đề nghị phải hạn chế bớt sự có mặt của con người trên hành tinh và phải ngăn cấm mọi hình
thức can thiệp của con người. Các viễn ảnh khả thi tương lai sẽ ở giữa hai cực này, bởi vì
không phải chỉ có một con đường để giải quyết mà thôi. Đây có thể là cơ hội đóng góp trong
những cuộc đối thoại, hấu tìm ra những giải pháp toàn diện.
61. Trước nhiều vấn nạn cụ thể, Giáo Hội không có nhiệm vụ đưa ra những đề nghị chung
quyết, và Giáo Hội phải lắng nghe và hỗ trợ cuộc tranh luận chân thực của các nhà khoa học,
bằng cách tôn trọng những quan điểm khác biệt. Nhưng khi thẳng thắn nhìn vào thực tế,
chúng ta cũng đủ thấy, là ngôi nhà chung của chúng ta đang hư hỏng nghiêm trọng. Với niềm
hi vọng, chúng ta tin rằng chắc chắn sẽ tìm được một lối ra, rằng chúng ta luôn có khả năng
đổi hướng đi và chúng ta chắc chắn sẽ làm được một cái gì, để giải quyết vấn đề. Tuy nhiên,
xem ra đang có những triệu chứng đổ vỡ, vì tốc độ của những biến đổi và hư hao quá nhanh.
Điều này phản ảnh qua những thảm hoạ thiên nhiên trong các khu vực cũng như qua khủng
hoảng xã hội và cả tài chánh, bởi vì các vấn đề thế giới không thể được phân tích hay giải
thích một cách tách biệt. Có những khu vực giờ đây đang gặp nguy cơ đặc biệt, và bỏ ra ngoài
mọi dự báo tai hoạ, rõ ràng ta không thể chận đứng nguy cơ đổ vỡ của hệ thống hoàn vũ hiện
nay được nữa trên một số mặt, là vì chúng ta đã không còn nghĩ tới mục đích của hành vi con
20
người: „Khi nhìn vào các vùng khác nhau của hành tinh, chúng ta đau đớn nhận ra ngay, là
nhân loại đã không còn tin vào những mong đợi của Thiên Chúa nữa”35
.
CHƯƠNG 2
Tin Mừng tạo dựng
62. Tại sao một văn kiện muốn gởi tới hết mọi người thiện chí lại đưa vào một chương có liên
quan đến những xác tín niềm tin? Tôi biết rất rõ, một số người trong lãnh vực chính trị và triết
học kiên quyết không chấp nhận tư tưởng về một Đấng Tạo Hoá hoặc coi điều đó là không
quan trọng, tới độ coi khả năng đóng góp của các tôn giáo vào sự phát triển môi sinh và con
người toàn diện là điều không hợp lí. Một số người khác lại coi tôn giáo chỉ là một lãnh vự
văn hoá phụ, có thể tạm chấp nhận sự có mặt của nó. Tuy nhiên, dù với những cách tiếp cận
thực tại khác nhau, khoa học và tôn giáo có thể bước vào một cuộc đối thoại tích cực, nó có
thể mang lại hoa trái cho cả hai và đưa cả hai lại gần nhau.
I. Ánh sáng do đức tin mang lại
63. Trước sự phức tạp của cuộc khủng hoảng sinh thái và đa nguyên nhân của nó, chúng ta
phải công nhận, không thể nào có được lời giải bằng chỉ một lối duy nhất giải thích và biến
đổi thực tại. Cũng phải cần đến cả sự trợ giúp của các kho báu văn hoá các dân tộc, của nghệ
thuật và thơ phú, của đời sống nội tâm và linh đạo. Nếu chúng ta thực sự muốn xây dựng một
khoa môi sinh học cho phép sửa chữa được hết những gì chúng ta đã tàn phá, thì ta không thể
loại trừ bất cứ một ngành khoa học và bất cứ một hình thái minh triết nào, ngay cả minh triết
tôn giáo và ngôn ngữ của nó . Hơn nữa, Giáo Hội công giáo luôn sẵn sàng đối thoại với triết
học, và điều này cho phép nó có được nhiều tổng hợp khác nhau giữa đức tin và lí trí. Riêng
về các vần đề xã hội, có thể nhận ra điều đó nơi sự phát triển Học Thuyết Xã Hội Công Giáo,
một học thuyết càng ngày càng phong phú trước những thách đố mới.
64. Mặt khác, dù Thông Điệp này mở ra việc đối thoại với mọi người, để chúng ta tìm kiếm
những con đường giải thoát chung, tôi muốn ngay từ đầu cho thấy, những xác tin đức tin có
thể cung cấp cho các Ki-tô hữu và tín hữu các tôn giáo khác những động lực quan trọng cho
việc giữ gìn thiên nhiên và chăm lo cho những anh chị em nghèo yếu nhất. Nếu đơn giản
„được làm người“ là tư tưởng có thể lay động con người, khiến họ chăm sóc thiên nhiên,
trong đó chính họ là một thành phần, thì „đặc biệt các Ki-tô hữu […] xác định rằng, các công
tác của họ trong lãnh vực tạo dựng, các bổn phận của họ đối với thiên nhiên và Đấng Tạo
35
Nt., Buổi tiếp tín hữu chung (17. 01.2001), 3: L’Osservatore Romano (dt.) Jg. 31, Nr. 4 (26. 01.2001), tr.. 2;
Insegnamenti24/1 (2001), tr.. 178
21
Hoá là một thành phần của đức tin của họ“36
. Vì thế, đây là một điều có lợi cho nhân loại và
thế giới, khi những người có đức tin như chúng tôi là kẻ ý thức được rõ hơn về những bổn
phận môi sinh, những bổn phận vốn xuất phát từ các xác tín đức tin của chúng tôi.
II. Sự khôn ngoan của các trình thuật kinh thánh
65. Ở đây không cần nhắc lại toàn bộ thần học tạo dựng, chúng ta chỉ tự hỏi, các trình thuật
quan trọng của Kinh Thánh đã nói gì về mối quan hệ giữa con người với thế giới. Trình thuật
tạo dựng thứ nhất trong Sách Sáng Thế có nói về kế hoạch tạo dựng con người của Thiên
Chúa. Sau khi tạo nên người nam và người nữ, „Thiên Chúa nhìn ngắm những gì Người đã
làm: Quả là rất tốt đẹp” (St 1,31). Kinh Thánh dạy, mỗi con người được tạo nên vì tình yêu
và được tác tạo giống hình ảnh của Thiên Chúa (x. St 1,26). Câu này cho ta thấy phẩm giá lớn
lao của mỗi con người, „vốn không chỉ là một điều gì đó, nhưng là một ai đó. Con người này
có khả năng tự nhận ra mình, biết điều khiển mình, biết sống tự do và biết hiệp thông với
những người khác”37
. Thánh Gio-an Phao-lô II nhắc nhở, tình yêu đặc biệt của Đấng Tạo Hoá
dành cho mỗi người đã trao cho họ một phẩm giá vô biên”38
. Những người dấn thân bảo vệ
nhân phẩm có thể tìm thấy ở nơi niềm tin ki-tô giáo những lí do sâu xa nhất cho công tác của
họ. Thật tuyệt vời biết bao, khi biết chắc rằng, mỗi sự sống con người sẽ không rơi vào hỗn
mang vô vọng, vào trong một thế giới hoàn toàn tình cờ hay vào trong những vòng luẩn quẩn
bất tận! Đấng Tạo Dựng có thể nói với mỗi người chúng ta: „Trước khi cho ngươi thành hình
trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi” (Gr 1,5). Chúng ta được „hoạch định“ trong trái tim thiên
chúa, và như vậy: „mỗi chúng ta là hoa trái từ một ý nghĩ của Thiên Chúa. Mỗi một người
chúng ta đều được Người mong muốn có mặt, đều được yêu thương, đều là cần thiết”39
.
66. Các trình thuật tạo dựng trong Sách Sáng Thế chứa đựng, theo ngôn ngữ biểu tượng và kể
chuyện của nó, những giáo huấn sâu sắc về thân phận con người và thực tại lịch sử của họ.
Những trình thuật này cho thấy rõ, sự sống con người được bắt rễ trong ba mối tương quan
nền tảng và quấn chặt lấy nhau: quan hệ với Thiên Chúa, với tha nhân và với đất đai. Theo
Kinh Thánh, ba mối quan hệ thiết yếu này đã bị phá vỡ, cả bên ngoài lẫn bên trong chúng ta.
Sự đổ vỡ này là tội lỗi. Mối hoà hợp giữa Đấng Tạo Dựng, nhân loại và toàn thể tạo vật đã bị
phá vỡ bởi sự kiêu căng của chúng ta muốn chiếm chỗ Thiên Chúa, vì chúng ta không chấp
nhận mình là tạo vật của Người. Thực tế đó cũng đã làm cho chúng ta hiểu sai nhiệm vụ „làm
chủ“ (x. St 1,28), „canh tác“ và „gìn giữ“ trái đất của mình (St 2,15). Kết quả là mối quan hệ
hoà hợp nguyên thuỷ giữa con người và thiên nhiên trở nên mâu thuẫn (x. St 3,17-19). Vì thế,
quả là ý nghĩa, khi ta cắt nghĩa mối hoà hợp giữa thánh Phan-sinh ở Assisi với mọi loài thụ
tạo như là một sự hoá giải cuộc đoạt tuyệt ấy. Thánh Bô-na-ven-tu-ra nói, Phan-sinh đã trở lại
được „trong tình trạng trước tội tổ tông, vì ngài đã thuận hoà với các tạo vật“40
. Khác xa mô
hình của Phan-sinh, tội lỗi ngày nay cho thấy sức tàn phá của chúng qua chiến tranh, qua
nhiều hình thái bạo động và ngược đãi, qua việc bỏ rơi những người yếu thế nhất và qua
những tấn công vào thiên nhiên.
67. Chúng ta không phải là Thiên Chúa. Trái đất đã có mặt trước chúng ta và nó được ban
tặng cho chúng ta. Điều này giúp chúng ta trả lời lời cáo buộc đối với tư duy do-thái –ki-tô
36
Gio-an Phao-lô II, Thông điệp ngày hoà bình thế giới 1990, 15: AAS 82 (1990), tr. 156 37
Sách Giáo Lí Công Giáo, 357. 38
x. Thông điệp gởi những người tàn tật. Tông du mục vụ ở Đức (16.11.1980). Insegnamenti 3/2 (1980), tr.
1232 39
. Biển-đức XVI, Bài giảng ngày nhận chức giáo tông (24.04.2005): AAS 97 (2005), 711. 40
x. Bonaventura, The Major Legend of Saint Francis, VIII, 1, in Francis of Assisi: Early Documents, vol. 2,
New York-London-Manila, 2000, 586.
22
giáo: Người ta bảo, vì Sách Sáng Thế mời gọi con người „làm chủ“ trái đất (x. St 1,28), nên
việc khai thác thiên nhiên man rợ của con người từ đó đã được khích lệ bởi sự trình bày con
người như là kẻ thống trị và phá hoại. Đấy không phải là cách giải thích Kinh Thánh đúng
theo như lối hiểu của Giáo Hội. Nếu đúng là Ki-tô hữu chúng ta thỉnh thoảng hiểu sai Kinh
Thánh, thì ngày nay ta phải mạnh mẽ cải chính, rằng trình thuật kinh thánh cho biết, con
người được tạo thành theo hình ảnh Thiên Chúa và được Người uỷ thác công việc làm chủ vũ
trụ không có nghĩa là con người có quyền thống trị tuyệt đối trên mọi tạo vật khác. Các bản
văn kinh thánh cần phải được đọc trong ngữ cảnh của chúng, với một lối diễn giải đúng đắn,
và chúng ta cần nhớ rằng, chúng mời gọi chúng ta „trồng trọt“ và „chăm sóc“ khu vườn thế
giới (x. St 2,15). „Trồng trọt” có nghĩa là canh tác, cày bừa hay kinh doanh. Còn „chăm sóc“
là bảo vệ, trông coi, gìn giữ, trông chừng. Điều này hàm chứa một mối quan hệ qua lại có
trách nhiệm giữa con người và thiên nhiên. Mỗi cộng đồng có thể lấy từ đất những gì cần cho
sự sống còn của mình, nhưng đồng thời cũng có bổn phận phải bảo vệ nó và bảo đảm sự sinh
hoa trái dồi dào của nó cho các thế hệ kế tiếp. Là vì „đất là của Thiên Chúa“ (Tv 24,1), „đất và
muôn loài trong đó” (Đnl 10,4) đều thuộc về Người. Vì vậy, Thiên Chúa không chấp nhận bất
kì yêu sách tư hữu tuyệt đối nào cả. „Đất không được bán đứt, vì đất là của Ta, còn các ngươi
chỉ là ngoại kiều và khách trọ nhà Ta” (Lv 25,23).
68. Trách nhiệm đối với trái đất của Thiên Chúa này có nghĩa là con người, vốn là loài giàu lí
trí, phải tôn trọng các luật của tự nhiên và thế quân bình nhạy cảm nơi các loài thụ tạo, „bởi vì
Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành. Người định nơi cho tất cả đến muôn đời muôn
thuở, ban truyền lề luật, luật đó chẳng hề qua” (Tv 148,5b-6). Do đó, các lề luật có trong
Kinh Thánh đều đào sâu các mối quan hệ, không chỉ giữa con người với nhau, mà còn giữa
con người với các sinh vật khác. „Khi anh (em) thấy lừa hay bò của người anh em mình ngã
trên đường, thì đừng bỏ mặc làm ngơ […] Nếu trên đường đi, anh (em) gặp một tổ chim, ở
trên bất cứ cây nào hay ở dưới đất, trong đó có chim con hoặc trứng, và chim mẹ đang ủ chim
con hay ấp trứng, thì anh (em) không được bắt cả mẹ lẫn con” (Đnl 4, 6). Cũng theo chiều
hướng này, việc nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy không chỉ có ý dành cho con người, mà còn „để
bò lừa của ngươi được nghỉ ngơi” (Xh 23,12). Như thế rõ ràng, Kinh Thánh không có chỗ cho
chủ nghĩa chuyên quyền lấy con người làm trung tâm, mà chẳng màng gì đến các loài thụ tạo
khác.
69. Khi chúng ta được phép sử dụng cách có trách nhiệm các đồ vật, chúng ta đồng thời được
mời gọi nhận ra rằng, các tạo vật khác cũng có một giá trị riêng của chúng trong mắt Thiên
Chúa „chính bằng sự hiện diện của chúng, chúng chúc tụng và vinh danh Người”41
, vì „Thiên
Chúa vui mừng về các công trình của Người” (Tv 104,31). Chính vì con người có phẩm giá
đặc biệt và có lí trí, họ được kêu gọi tôn trọng tạo dựng với những quy luật bên trong của nó,
vì „Ðức Chúa dùng khôn ngoan đặt nền cho trái đất” (Cn 3,19). Ngày nay, Giáo Hội không
đơn giản nói rằng, các loài thụ tạo khác phải hoàn toàn phục vụ lợi ích của con người, như thể
tự chúng chẳng có một giá trị nào và chúng ta có thể mặc sức thống trị chúng. Vì thế Hội
Đồng Giám Mục Đức dạy: Nơi các thụ tạo khác „ta có thể nói về một sự ưu tiên của cái thực
thể trên sự hữu dụng“42
. Sách Giáo Lí phê bình trực tiếp và mạnh mẽ chủ nghĩa quy nhân
(Anthropozentrismus) sai lệnh: „Mỗi thụ tạo có một sự tốt lành và hoàn hảo riêng của nó […]
Sự khác nhau của các loài thụ tạo phản chiếu lên, mỗi loài một cách, nét cá biệt được Thiên
Chúa ban cho chúng, một tia khôn ngoan và tốt lành vô biên của Thiên Chúa. Do đó, con
41
Sách Giáo Lí Công Giáo, 2416. 42
HĐGM Đức, Zukunft der Schöpfung – Zukunft der Menschheit. Einklärung der Deutschen Bischofskonferenz
zu Fragen der Umwelt und der Energieversorgung, (1980), II, 2.
23
người phải tôn trọng bản tính tự nhiên tốt lành nơi mỗi tạo vật và tránh sử dụng chúng trái
với trật tự của chúng“43
.
70. Trong câu chuyện của Ca-in và A-ben, chúng ta thấy sự ghen tị đã khiến Ca-in phạm một
bất công ghê gớm đối với em mình. Điều này lại gây nên một đoạn tuyệt quan hệ giữa Ca-in
và Thiên Chúa cũng như giữa Ca-in và mảnh đất mà ông bị trục xuất ra khỏi. Đoạn văn đó
được tóm gọn lại trong cuộc trao đổi bi đát giữa Thiên Chúa và Ca-in. Thiên Chúa hỏi: „A-
ben, em ngươi ở đâu?” Ca-in trả lời không biết, và Thiên Chúa nhấn tiếp: „Ngươi đã làm gì?
Từ ruộng đất, máu của em ngươi đã kêu thấu đến Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa, lưu đày
khỏi đất canh tác” (St 4,9-11). Việc không quan tâm tới nỗ lực chăm sóc và gìn giữ một quan
hệ đúng đắn với tha nhân, vốn là người tôi phải chăm sóc và bảo vệ, sẽ phá huỷ mối tương
quan của tôi với chính bản thân tôi, với người khác, với Thiên Chúa và với trái đất. Khi tất cả
các mối quan hệ này bị sao lãng, khi công lí không còn ngự trị trên mặt đất nữa, thì theo Kinh
Thánh, toàn bộ sự sống sẽ rơi vào nguy hiểm.Đó là điều câu truyện No-e dạy ta, khi Thiên
Chúa đe doạ sẽ tiêu diệt nhân loại, vì họ mãi không có khả năng sống đúng theo những đòi
hỏi của công lí và hoá bình: „Ta thấy, mọi xác phàm đã tới lúc tận số; vì bởi chúng mà trái
đất ngập đầy bạo lực” (St 6,13). Trong những câu chuyện xưa đầy tính biểu tượng này đã hàm
sẵn một xác tín của ngày hôm nay rằng, mọi sự đều liên thuộc với nhau, và sự lo lắng đích
thực cho chính sự sống của ta và các mối quan hệ của ta đối với thiên nhiên không thể tách lìa
khỏi tình huynh đệ, công lí và sự trung tín với người khác.
71. Mặc dù „xấu xa của con người càng ngày càng tăng trên mặt đất” (St 6,5) và Thiên Chúa
„hối hận […] vì đã tạo ra con người trên địa cầu” (St 6,6), Người vẫn quyết định mở ra một
con đường cứu độ qua ông Nô-ê, người vô tội và công chính còn sót lại. Bằng cách đó Người
cho nhân loại cơ hội làm lại từ đầu. Chỉ một người tốt, mà hi vọng đã không tan biến! Truyền
thống kinh thánh cho thấy rõ, sự tái lập này bao hàm việc tái khám phá và tôn trọng các tiết
nhịp đã được Đấng Tạo Dựng khắc ghi trong thiên nhiên. Chúng ta thấy điều này qua luật sa-
bát, chẳng hạn. Đến ngày thứ bảy, Thiên Chúa nghỉ, xếp lại mọi công việc của Người. Người
truyền cho dân Ít-ra-en dành thứ bảy làm ngày nghỉ ngơi, gọi là ngày sa-bát (x. St 2,2-3; Xh
16,23; 20,10). Ngoài ra, cứ mỗi bảy năm, sẽ có một năm sa-bát cho dân Is-ra-en và đất đai của
họ (x. Lv 25,1-4), năm đó người người nghỉ ngơi và đất đai cũng được nghỉ ngơi miễn gieo
trồng và gặt hái, để dành thì giờ cần thiết cho cuộc sống và tiếp đãi khách (x. Lv 25,4-6). Và
cuối cùng, sau bảy tuần của năm, nghĩa là sau bốn mươi chín năm, sẽ có một năm dành cho
việc tha thứ chung và cho „sự tự do của mọi người trong nước“ (x. Lv 25,10). Luật này là một
nỗ lực nhắm bảo đảm sự quân bình và công bằng trong các mối quan hệ giữa con người với
nhau và với đất đai, nơi họ sinh cư và trồng trọt. Đồng thời, đó cũng là một sự công nhận trái
đất và hoa trái của nó là quà tặng dành cho toàn thể dân chúng. Những ai canh tác và gìn giữ
đất đai buộc phải chia sẻ hoa trái, đặc biệt cho người nghèo, người goá bụa, các cô nhi và
người xa lạ: „Khi các ngươi thu hoạch mùa màng từ ruộng rẫy, các ngươi đừng vét sạch mọi
thứ. Đừng mót hết. Đừng thu hoạch lại trong vười nho, và đừng nhặt những trái rơi rớt. Hãy
để cho những người nghèo và người xa lạ thu lượm những thứ đó (Lv 19,9-10).
72. Các Thánh Vịnh thường khuyên chúng ta chúc tụng Thiên Chúa là Đấng Tạo Dựng,
„Đấng đã làm cho đất đai hình thành trên mặt nước, vì tình thương của Người thiên thu vạn
đại“ (Tv 136,6). Các Thánh Vịnh cũng mời gọi các tạo vật khác hoà chung lời ca tụng: „Ca
tụng Chúa đi, này vầng ô bóng nguyệt, ca tụng Người, muôn tinh tú rạng soi. Ca tụng Chúa
đi, hỡi cửu trùng cao vút, cả khối nước phía trên bầu trời. Nào ca tụng thánh danh Đức Chúa,
vì Người ra lệnh, là hết thảy được tạo thành” (Tv 148,3-5). Chúng ta không chỉ hiện diện
43
Sách Giáo Lí Công Giáo, 339.
24
bằng quyền năng của Thiên Chúa, mà còn hiện diện trước Người và kết hợp với Người. Vì
thế, chúng ta tôn thờ Người.
73. Các sách của các vị tiên tri mời gọi chúng ta hãy tìm lại sức mạnh tâm hồn trong những
lúc gặp khó khăn, bằng cách chiêm ngắm Thiên Chúa, Đấng tạo thành vũ trụ. Quyền năng vô
biên của Thiên Chúa không khiến chúng ta chạy trốn khỏi tình phụ tử dịu dàng của Người,
bởi vì ở nơi Người sự trìu mến và quyền năng đan xen trong nhau. Thực ra, tất cả mọi nền
linh đạo đúng đắn đều bao gồm việc đón nhận tình yêu thiên chúa và đồng thời thờ phượng
Người vì Người quyền năng vô biên. Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa giải thoát và cứu chuộc
cũng là Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ, và hai cách hành động này của Người bện chặt sâu xa với
nhau: „Lạy Ngài là đức Chúa và Thượng Đế của con! Ngài đã tạo thành trời đất bằng sức
mạnh vĩ đại và cánh tay dơ cao của Ngài. Không có gì mà Ngài không làm được![...] Ngài đã
dùng dấu lạ điềm thiêng […] đưa dân Is-ra-en ra khỏi Ai-cập“ (Gr 32,17, 21). „Đức Chúa là
Thiên Chúa vĩnh cửu, là Đấng sáng tạo toàn cõi đất. Người không mệt mỏi, chẳng nhọc nhằn,
trí thông minh của Người khôn dò thấu. Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi; ai kiệt lực,
Người làm cho nên cường tráng” (Is 40,28b-29).
74. Cuộc lưu đày Ba-by-lon đã tạo ra một khủng hoảng tinh thần; khủng hoảng này khiến
niềm tin của dân Is-ra-en vào Thiên Chúa càng thêm sâu đậm, bởi vì nó cho họ thấy rõ quyền
năng tạo tác của Thiên Chúa, để họ tìm lại niềm hi vọng trong hoàn cảnh bất hạnh. Nhiều thế
kỉ sau, trong một hoàn cảnh thử thách và bách hại khác, khi Đế Quốc Rô-ma tìm cách áp đặt
sự thống trị tuyệt đối, tín hữu ít-ra-en lại một lần nữa tìm thấy an ủi và hi vọng, khi họ củng
cố được niềm tin nơi Thiên Chúa và hát: „Lạy Chúa là Thiên Chúa toàn năng, sự nghiệp Ngài
thật lớn lao kỳ diệu. Lạy đức Vua trị vì muôn nước, đường lối Ngài quả chân thật công
minh!” (Kh 15,3). Thiên Chúa đã có thể tạo nên vũ trụ từ hư không, thì Người cũng có thể can
thiệp vào thế giới này và có thể chiến thắng mọi hình thái sự dữ. Như vậy, không có bất công
nào mà không thể bị huỷ diệt.
75. Không thể chấp nhận một nền linh đạo, trong đó bỏ qua chuyện Thiên Chúa là Đấng
quyền năng và Đấng tạo dựng. Nếu như thế, thì ta rốt cuộc có lẽ đang thờ những quyền lực
thế giới nào khác hay chúng ta đang thay thế Thiên Chúa và dám dẫm đạp lên toàn thể thực
tại do Người tạo dựng. Cách hay nhất để khôi phục chỗ đứng đúng đắn cho con người và
chấm dứt yêu sách muốn trở thành kẻ thống trị tuyệt đối của họ, là mang lại cho họ hình ảnh
người Cha, Đấng vừa tạo dựng vừa là sở hữu chủ duy nhất của thế giới. Là vì nếu không, thì
con người vẫn luôn có khuynh hướng muốn bắt thực tại phải tuân theo các quy luật lợi ích
riêng của họ.
III. Mầu nhiệm vũ trụ
76. Nơi truyền thống do-thái – ki-tô giáo, từ „tạo dựng” có nghĩa rộng hơn „thiên nhiên”, bởi
vì từ này có liên hệ với kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa, qua đó mọi thụ tạo đều có một
giá trị và ý nghĩa riêng. Thiên nhiên thường được xem là một hệ thống vốn có thể nghiên cứu,
hiểu và điều khiển được; trong khi tạo dựng chỉ có thể hiểu được như là một quà tặng xuất
phát từ đôi tay rộng mở của Thiên Chúa Cha, và như là một thực tại được soi sáng bởi tình
yêu vốn mời gọi chúng ta cùng nhau kết hợp trong một cộng đoàn bao trùm mọi sự.
77. „Qua Lời thiên chúa, bầu trời được tạo dựng” (Tv 33,6). Điều này cho chúng ta hay, thế
giới xuất hiện như là kết quả từ một quyết định, chứ không phải từ hỗn mang hay tình cờ, và
điều này làm cho thế giới càng thêm đáng quý đáng trọng. Có một quyết định tự do, quyết
định này được diễn tả trong Lời sáng tạo. Vũ trụ không hình thành như kết quả của một quyền
25
năng độc đoán, như một sự thể hiện sức mạnh hay một ý muốn khẳng định bản thân. Tạo
dựng cư ngụ trong trật tự tình yêu. Toàn bộ tạo dựng hình thành do tình yêu thiên chúa: „Ngài
yêu thương mọi loài hiện hữu, không ghê tởm bất cứ loài nào Ngài đã làm ra, vì giả như Ngài
ghét loài nào, thì đã chẳng dựng nên nó” (Kn 11,24). Do đó, mọi loài thụ tạo là đối tượng của
sự dịu dàng của Cha, Đấng đã trao cho nó một vị trí trong thế giới. Ngay cả sự sống thoáng
qua của sinh vật nhỏ bé nhất cũng là đối tượng của tình yêu Người, và dù chỉ hiện hữu trong
một vài giây lát, Thiên Chúa vẫn nâng niu nó với sự trìu mến của Người. Thánh Ba-si-li-ô cả
nói, Đấng Tạo Hoá cũng là „lòng nhân ái vô bờ bến”44
, và thi sĩ Dante Alighieri nói về „tình
yêu làm chuyển động mặt trời và các tinh tú”45
. Vì thế, chúng ta đi từ những công trình tạo
dựng của Thiên Chúa „tới lòng thương xót đầy yêu thương của Người“46
.
78. Tư tưởng do-thái – ki-tô giáo đồng thời cũng giải thiêng thiên nhiên. Mặc dù vẫn tiếp tục
ngưỡng mộ sự cao cả và bao la của thiên nhiên, tư tưởng này không còn coi thiên nhiên là
thánh thiêng nữa. Bằng cách đó, nó nhấn mạnh hơn nữa trách nhiệm của chúng ta đối với
thiên nhiên. Việc quay trở về với thiên nhiên không được gây tác hại trên tự do và trách
nhiệm của con người - vốn là một thành phần của thế giới, có nghĩa vụ phải vun trồng các khả
năng của mình, hầu bảo vệ thiên nhiên và phát triển những tiềm năng của nó. Nếu chúng ta
nhận ra giá trị, sự mỏng dòn cũng như những khả năng của thiên nhiên mà Thiên Chúa đã đặt
để nơi nó, thì giờ đây, chúng ta phải chấm dứt ngay niềm tin của mình vào huyền thoại tiến bộ
vật chất vô giới hạn. Một thế giới mỏng manh cùng với một con người được Thiên Chúa uỷ
thác cho việc chăm sóc thế giới, đang kêu gọi lí trí chúng ta hãy nhận biết cách điều hướng,
hành xử và hạn chế quyền lực của mình thế nào cho đúng.
79. Trong vũ trụ được hình thành bởi những hệ thống mở và liên thông này, chúng ta có thể
khám phá ra vô số những hình thái quan hệ và tham gia. Điều này đưa chúng ta tới ý nghĩ, là
cái toàn thể cũng đang mở ra cho sự siêu việt của Thiên Chúa, trong đó cái toàn thể đang triển
nở. Đức tin giúp ta lí giải được ý nghĩa và vẻ đẹp nhiệm mầu của thực tại. Tự do con người có
thể cung cấp cho ta một giải pháp khôn ngoan để hướng sự phát triển đi về hướng tích cực,
nhưng nó đồng thời cũng có thể tạo ra những bất túc mới, những căn nguyên đau khổ mới và
những đổ vỡ thực sự. Đấy là lịch sử căng thẳng và bi thảm của con người, nó có thể mở ra tự
do, tiến bộ, giải thoát hay dẫn vào bước đường đổ vỡ và triệt hại lẫn nhau. Vì thế, qua việc
làm của mình, Giáo Hội không những muốn nhắc nhở con người về bổn phận bảo vệ thiên
nhiên của họ , mà còn „muốn đặc biệt bảo vệ con người trước việc họ tự huỷ diệt mình”47
.
80. Tuy nhiên Thiên Chúa, Đấng mong muốn làm việc với chúng ta và cần đến sự hợp tác của
chúng ta, cũng có thể biến những sự dữ chúng ta gây nên thành sự lành, vì „Thánh Linh có
một quyền năng sáng tạo vô biên, phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa, Người cũng biết cách
tháo gỡ các thân phận khúc mắc và đen tối nhất của con người”48
. Một cách nào đó, Thiên
Chúa muốn tự giới hạn mình, khi Người tạo nên một thế giới còn cần phát triển để kiện toàn,
trong đó có sự hiện diện nhiều điều mà chúng ta coi là xấu xa, nguy hiểm, nguyên nhân của
khổ đau, song thực ra đó là một phần của „cơn đau chuyển bụng sinh“ , chúng khuyến khích
chúng ta cộng tác với Đấng Tạo Dựng 49
. Thiên Chúa đi vào trong sâu thẳm của mọi tạo vật,
mà vẫn không hạn chế sự tự chủ của tạo vật, và điều này cũng tạo chính danh ngôn thuận cho
44
Hom. in Hexaemeron, I, 2, 10: PG 29, 9. 45
Divina comedia, Paradiso, Canto XXXIII, 145. 46
Biển-đức XVI, Giáo lí (09.11. 2005), 3: Insegnamenti 1 (2005), 768. 47
Nt., TT. Caritas in Veritate (29.06.2009), 51: AAS 101 (2009), 687. 48
Gio-an Phao-lô II, Giáo lí (24.04.1991), 6: Insegnamenti 14 (1991), 856. 49
Sách Giáo Lí cắt nghĩa, Thiên Chúa đã muốn tạo dựng một thế giới vốn đang trên đường tiến tới sự toàn hảo
sau cùng của nó, và sự toàn hảo này bao hàm sự hiện diện của bất toàn và sự dữ thể lí; x. Sách Giáo Lí Công
Giáo, 310
26
sự tự chủ của các các tạo vật trên trái đất 50
. Sự hiện diện này của Thiên Chúa bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của mọi hữu thể, nó „là sự tiếp tục công cuộc tạo dựng”51
. Thần Linh thiên
chúa đổ đầy vũ trụ với những khả năng cho phép mọi vật tự chúng luôn có thể tạo ra một cái
gì đó mới mẻ: „Thiên nhiên chẳng là gì khác ngoài lí trí của một nghệ thuật nào đó, chính xác
đó là nghệ thuật của Thiên Chúa; nghệ thuật này tạo dấu ấn trên tất cả mọi vật, và nhờ đó
mọi vật có thể tiến về một mục tiêu nào đó: cũng giống như nhà đóng tàu cung cấp gỗ, để gỗ
tự chuyển dịch trở thành một con tàu”52
.
81. Cả con người cũng cần phải có những bước tiến hoá, nhưng họ đã tạo được một cái gì mới
vốn không thể giải thích đầy đủ được bởi sự tiến hoá của các hệ thống mở khác. Mỗi người
chúng ta mang trong mình một căn tính riêng có khả năng bước vào đối thoại được với người
khác và với chính Thiên Chúa. Khả năng suy nghĩ, lí luận, sáng kiến, giải thích và sáng tạo
nghệ thuật cũng như các khả năng hoàn toàn mới của con người cho thấy họ có một cái gì độc
đáo vượt lên trên lãnh vực thể lí và sinh lí. Phẩm chất mới mẻ ở đây là từ một vũ trụ vật chất
xuất hiện một hữu thể con người; sự xuất hiện này phải do bàn tay tác động trực tiếp của
Thiên Chúa, phải do từ một lời mời đặc biệt đưa nó vào đời và đặt nó vào trong tương quan
thân mật cha – con với Thiên Chúa. Nhìn từ các trình thuật kinh thánh, chúng ta coi con người
là một chủ thể, chủ thể này không bao giờ có thể bị đẩy xuống hàng đối tượng được.
82. Nhưng cũng thật sai lầm, khi coi các loài sinh vật khác thuần tuý là những đối tượng hoà
toàn lệ thuộc vào sự thống trị tàn bạo của con người. Khi thiên nhiên bị coi như một đối tượng
hoàn toàn phục vụ cho lợi nhuận và quyền lợi, chúng ta hẳn sẽ gặp những hậu quả nghiêm
trọng cho xã hội. Lối nhìn cổ xuý cho sự chuyên quyền của kẻ mạnh gây cho đa số trong nhân
loại biết bao là bất công, bất bình đẳng và bạo lực, là vì như thế các tài nguyên sẽ rơi vào tay
những kẻ tới trước hoặc mạnh hơn: Người thắng thu tóm tất cả. Lí tưởng hài hoà , công bình,
huynh đệ và hoà bình, như đức Giê-su đề nghị, hoàn toàn mâu thuẫn với mô hình suy nghĩ
trên đây. Và đức Giê-su đã nói nói về những người quyền thế thời Người như sau: „Anh em
biết, những nhà cai trị áp bức các dân tộc của họ và những người quyền thế lạm dụng quyền
cai trị của họ. Còn anh em không nên làm như vậy, trái lại ai trong anh em muốn làm lớn,
người đó hãy làm người phục vụ anh em“. (Mt 20,25-26).
83. Cùng đích của vũ trụ nằm trong sự viên mãn của Thiên Chúa, một sự viên mãn đã thành
sự rồi qua Chúa Ki-tô phục sinh – Người là điểm tựa của tiến trình trưởng thành 53
. Như vậy,
chúng ta có thêm một lập luận khác nữa, để khước từ mọi sự thống trị tàn bạo và vô trách
nhiệm của con người trên các loại thọ tạo khác. Mục đích chung cuộc của các tạo vật khác
không phải là chúng ta. Nhưng tất cả sẽ cùng với chúng ta và qua chúng ta tiến về đích điểm
chung, chính là Thiên Chúa, trong một sự viên mãn siêu việt, trong đó Chúa Ki-tô phục sinh
ôm trọn và chiếu sáng tất cả. Là vì con người, vốn được phú ban cho sự thông minh, tình yêu
và luôn quy hướng về sự viên mãn của đức Ki-tô, được mời gọi để dẫn đưa hết mọi loại thụ
tạo về với Đấng Tạo Dựng của chúng.
IV. Thông điệp của mỗi tạo vật trong sự hài hoà của toàn công
trình tạo dựng 50
x. CĐ Vaticano II, Hiến chế mục vụ Gaudium et Spes, 36. 51
Tô-ma Aquino, Summa Theologiae, I, q. 104, art. 1 ad 4 52
Nt, In octo libros Physicorum Aristotelis expositio, Lib. II, lectio 14. 53
Chống lại chân trời này ta có một bài viết liên hệ của Teilhard de Chardin; x. Phao-lô VI, Address in a
Chemical and Pharmaceutical Plant (24.02.1966): Insegnamenti 4 (1966), 992-993; Gio-an Phao-lô II, Letter to
the Reverend George Coyne (01.06.1988): Insegnamenti 11/2 (1988), 1715; Biển-đức XVI, Homily for the
Celebration of Vespers in Aosta (24 July 2009):Insegnamenti 5/2 (2009), 60.
27
84. Khi khẳng định con người là một hình ảnh của Thiên Chúa, ta không được quên, mỗi một
tạo vật đều có một phận vụ và không tạo vật nào dư thừa cả. Toàn bộ vũ trụ vật chất là một
biểu hiện tình yêu thiên chúa, một biểu hiện sự trìu mến vô biên của Người dành cho ta. Đất
đai, nước, núi non - mọi thứ đều được Thiên Chúa âu yếm. Lịch sử tình bằng hữu của mỗi
chúng ta với Thiên Chúa luôn gắn liền với một không gian địa lí; không gian này biến thành
một dấu chỉ rất riêng tư, và mỗi chúng ta đều giữ trong đầu cái nơi chốn gợi cho mình nhiều
kỉ niệm êm đẹp đó mỗi khi nhớ đến. Ai đã lớn lên bên những ngọn núi hay khi còn nhỏ đã
một lần quỳ gối múc uống nước dòng suối hoặc đã đùa chơi trên công trường cư phố của
mình, khi trở lại chốn cũ, đều cảm thấy như gặp lại bản sắc của mình.
85. Thiên Chúa đã viết một cuốn sách quý, „mà các dòng chữ của cuốn sách ấy là vô số
những tạo vật hiện diện trong vũ trụ”54
. Các giám mục ca-na-đa đã nói, không tạo vật nào bị
loại ra khỏi sự tự tỏ hiện này của Thiên Chúa: „Từ những cảnh trí mênh mông cho tới các
dạng hình sự sống bé nhỏ nhất, thiên nhiên luôn luôn là một nguồn diệu kì và kinh ngạc. Nó
cũng là một mạc khải liên tục của Thiên Chúa”55
. Các giám mục nhật-bản, về phần mình, đã
đưa ra những tư tưởng thật hấp dẫn: „Cảm được lời ca của mỗi tạo vật đang cất lên để mừng
sự hiện hữu của chúng có nghĩa là ta đang vui sống trong tình yêu thiên chúa và trong hi
vọng”56
. Sự chiêm ngắm tạo dựng này cho phép ta khám phá ra nơi mỗi sự vật một giáo huấn
nào đó mà Thiên Chúa muốn trao cho chúng ta, bởi vì „đối với người tin, chiêm ngắm công
trình tạo dựng cũng là nghe thấy một thông điệp, nghe được một giọng nói nghịch lí và thầm
lặng”57
. Vì thế ta có thể nói: „Ngoài sự mạc khải đúng nghĩa trong Kinh Thánh , Thiên Chúa
cũng tỏ hiện ra trong những tia nắng mặt trời hoặc trong bóng đêm đang đổ xuống“58
. Khi
con người chú ý tới hành động tự tỏ hiện của Thiên Chúa đó, họ học được cách nhận ra chính
mình qua quan hệ với các tạo vật khác: „Tôi tỏ hiện chính bản thân mình qua cách tôi diễn
đạt thế giới; tôi tìm hiểu sự thánh thiêng của chính mình bằng cách tìm cách giải mã sự thánh
thiêng của thế giới”59
.
86. Toàn thế vũ trụ với các quan hệ đa dạng của nó cho thấy Thiên Chúa cách tuyệt vời nhất
cùng với sự giàu sang vô biên của Người. Thánh Tô-ma A-qui-nô đã khôn khéo nhấn mạnh
rằng, sự đa dạng và khác nhau „xuất phát từ ý định của vị tác nhân đầu tiên”, Đấng đã muốn
là „điều người này không có được, để trình bày về lòng nhân của Thiên Chúa, họ sẽ được
thay thế bởi điều kia“60
, vì lòng nhân của Người „không thể được diễn tả đầy đủ bởi một tạo
vật mà thôi“61
.Vì thế, chúng ta phải nhận biết sự đa dạng của mọi vật trong các quan hệ đa
dạng của chúng 62
. Như vậy, ta sẽ hiểu tốt hơn về ý nghĩa và mục đích của bất cứ một thụ tạo
nào, khi ta chiêm ngắm nó trong toàn bộ kế hoạch của Thiên Chúa. Như Sách Giáo Lý dạy:
„Thiên Chúa muốn có sự phụ thuộc lẫn nhau của các tạo vật. Mặt trời và mặt trăng, cây bách
diệp và đoá hoa đồng nội, chim ưng và chim sẻ - tất cả nói lên bao nhiêu là cái bất bình đẳng
và khác nhau, cho thấy không tạo vật nào tự nó là đầy đủ cả, chúng hiện hữu trong tương
thuộc vào nhau, để phục vụ và bổ túc cho nhau“63
.
54
Gio-an Phao-lô II, Giáo lí (30.01.2002),6: Insegnamenti 25/1 (2002), 140. 55
HĐGM Ca-na-đa, Uỷ Ban Xã Hội, Pastoral Letter You Love All that Exists… All Things are Yours, God,
Lover of Life” (04.10.2003), 1. 56
HĐGM Nhật, Reverence for Life. A Message for the Twenty-First Century (01.01. 2000), 89. 57
Gio-an Phao-lô II, Giáo lí (26.01.2000), 5: Insegnamenti 23/1 (2000), 123. 58
Nt., Giáo lí (02.08.2000), 3: Insegnamenti 23/2 (2000), 112. 59
Paul Ricoeur, Philosophie de la Volonté, t. II: Finitude et Culpabilité, Paris, 2009, 216. 60
Summa Theologiae, I, q. 47, art. 1 61
Nt. 62
x. Nt., art. 2, ad 1; art. 3. 63
Sách Giáo Lí Công Giáo, 340.
28
87. Khi chúng ta ý thức được mọi sự hiện hữu đều phản ảnh Thiên Chúa, tự thâm tâm ta sẽ
cảm thấy cần phải cảm tạ Người về tất cả mọi tạo vật của Người và cùng với các tạo vật
phượng thờ Người, như bài ca tuyệt diệu của thánh Phan-sinh ở Assisi:
“Ngợi khen Ngài, lạy Chúa,
với muôn loài tạo vật của Ngài,
đặc biệt ông anh Mặt Trời,
Anh là ánh sáng ban ngày, và nhờ Anh, Ngài chiếu sáng chúng con.
Anh đẹp và tỏa ánh rạng ngời,
Anh biểu tượng cho Ngài Đấng Tối Cao.
Ngợi khen Ngài, lạy Chúa,
vì chị Trăng và muôn tinh tú,
Ngài tạo nên họ trên nền trời
sáng trong, cao quí và diễm lệ.
Ngợi khen Ngài, lạy Chúa,
vì anh Gió, khí và mây
và vì mọi thời tiết thanh quang
nhờ đó mà Ngài bảo tồn muôn vật.
Ngợi khen Ngài, lạy Chúa,
vì chị Nước,
chị thật ích lợi và khiêm nhu và quí hóa và trinh trong.
Ngợi khen Ngài, lạy Chúa,
vì anh Lửa,
nhờ anh, Ngài soi sáng màn đêm,
anh đẹp và vui tươi và hùng tráng và mạnh mẽ”64
.
88. Các giám mục ba-tây nhấn mạnh, toàn bộ thiên nhiên không những thể hiện Thiên Chúa,
mà đồng thời còn là nơi để Người ngự. Thần khí sự sống của Người có mặt trong mỗi tạo vật,
và tạo vật mời gọi chúng ta bước vào mối quan hệ với Người 65
. Khám phá ra sự hiện diện
này khiến ta phải trau dồi „những nhân đức sinh thái”66
. Nhưng khi nói lên điều đó, chúng ta
không được quên rằng, vẫn luôn có một khoảng cách vô biên với Thiên Chúa, và mọi thứ
thuộc về thế giới này không có được sự viên mãn của Người. Bằng không, có lẽ chúng ta
cũng chẳng làm cho các tạo vật hài lòng, là vì như thế chúng ta sẽ không chấp nhận vị trí
riêng có và đúng đắn của chúng, và rốt cuộc sẽ chờ đợi nơi chúng điều mà, vì quá nhỏ bé,
chúng không thể mang lại được cho chúng ta.
V. Một hiệp thông hoàn vũ
89. Mọi tạo vật trong thế giới không thể được coi là một gia sản vô chủ: Tất cả là sở hữu của
Ngài, lạy Chúa, người bạn của sự sống (x. Kn 11,26). Điều này giúp chúng ta xác tín rằng, vì
cùng do một người Cha chung sinh ra, mọi tạo vật vũ trụ đều liên kết với nhau bằng một sợi
dây vô hình và tất cả hợp thành một thứ gia đình hoàn vũ, một cộng đoàn cao cả thôi thúc
64
Canticle of the Creatures, in Francis of Assisi: Early Documents, New York-London-Manila, 1999, 113-114 65
X. HĐGM Ba-tây, A Igreja e a Questão Ecológica, 1992, 53-54. 66
Nt., 61
29
chúng ta tương kính lẫn nhau trong khiêm tốn, yêu thương và thánh thiện. Ở đây tôi muốn
nhắc lại, „Thiên Chúa quá gần gũi với thế giới bao quanh chúng ta, đến nỗi sự sa mạc hoá
đất đai được coi như thể là một căn bệnh đối với mỗi người, và khi một chủng loại nào đó
biến mất, chúng ta than khóc như thể mình bị cụt chân cụt tay”67
.
90. Điều đó không có nghĩa là mọi sinh vật đều ngang nhau, và nó tước mất khỏi con người
giá trị đặc biệt kéo theo trách nhiệm vô cùng to lớn của họ. Cũng không có nghĩa là coi trái
đất như một vị chúa tể tước đi khỏi ta sứ mệnh cộng tác với nó và che chở những yếu kém của
nó. Những suy nghĩ kiểu đó rốt cuộc có thể sẽ tạo nên nơi ta những tương quan sai lầm mới,
để ta trốn tránh thực tế trước mắt 68
. Đôi khi chúng ta thấy một số người khăng khăng chối bỏ
mọi vai trò ưu tiên của con người, và chúng ta đã không can thiệp để bảo vệ cái phẩm giá
tương đồng giữa các con người trước một cuộc chiến dành tranh nhau những chủng loại khác.
Chúng ta hẳn phải quan tâm, không để cho các sinh vật khác bị đối xử một cách vô trách
nhiệm. Lẽ ra chúng ta phải đặc biệt nổi giận trước những bất công ngay giữa chúng ta, bởi vì
chúng ta tiếp tục nhắm mắt trước cảnh một số người tự coi mình xứng đáng hơn những người
khác. Chúng ta chẳng còn nhận ra rằng, một số người phải ngụp lặn trong nghèo nàn hèn hạ
mà không có lối ra, trong khi một số khác chẳng biết làm gì với tài sản của họ, chỉ biết kiêu
căng khoe mẽ sự trổi vượt của mình và tha hồ phung phí, một sự phung phí nếu tổng quát hoá
được thì địa cầu sẽ bị nổ tung. Trên thực tế, chúng ta vẫn tiếp tục nhắm mắt trước một số
người tự coi họ là người hơn và có nhiều quyền hơn những kẻ khác.
91. Sẽ là giả dối, khi bảo rằng, mình hiệp thông sâu xa với các tạo vật khác trong thiên nhiên,
nhưng đồng thời trong tâm mình lại thiếu sự dịu dàng, thương cảm và lo lắng cho con người
đồng loại. Điều này phản ảnh rõ nơi những người đấu tranh chống nạn buôn bán các loài vật
đang có cơ tuyệt chủng, trong khi họ lại dửng dưng với nạn buôn người, chẳng quan tâm gì
tới người nghèo hoặc ra sức làm hại những người mà họ không thích. Điều này gây nguy
hiểm cho việc đấu tranh bảo vệ môi sinh. Không phải ngẫu nhiên, khi thánh Phan-sinh trong
bài ca tạo vật của ngài có thêm: „Chúc tụng Ngài, lạy Chúa, bởi những ai sẵn sàng tha thứ vì
tình yêu của Ngài“. Tất cả mọi sự đều kết nối với nhau. Do đó, quan tâm đến môi trường cũng
gắn liền với tình yêu thật sự đối với con người và với sự dấn thân liên lỉ vào các vấn đề xã
hội.
92. Mặt khác, khi tâm chúng ta thật sự mở ra cho sự hiệp thông hoàn vũ, thì chẳng có gì và
chẳng có ai bị loại trừ ra khỏi tình huynh đệ này. Như vậy, điều sau đây cũng đúng: Sự thờ ơ
hoặc độc ác đối với các tạo vật khác trong thế giới này rốt cuộc thế nào rồi cũng ảnh hưởng
một cách nào đó trên cách cư xử của ta đối với tha nhân. Chúng ta chỉ có một trái tim, và
chúng ta can tâm hành hạ thú vật thế nào, thì cũng một thứ đê tiện đó sẽ khiến ta đối xử tệ bạc
với tha nhân như vậy. Mọi độc ác đối với bất cứ một tạo vật nào đều „trái với phẩm giá con
người“69
. Chúng ta không thể coi mình là kẻ có lòng thương yêu, nếu chúng ta loại trừ bất cứ
một thực tại nào ra khỏi sự quan tâm của mình. „Hoà bình, công lí và bảo vệ tạo vật là ba chủ
đề tuyệt đối liên hệ với nhau, không thể tách lìa, không thể suy xét riêng từ cái một mà không
một lần nữa rơi vào chủ nghĩa giản lược”70
. Mọi sự đều có liên can với nhau, và mọi người
đều là anh chị em cùng chung một cuộc lữ hành kì diệu, được đan dệt với nhau bởi tình yêu
Thiên Chúa dành cho mọi loại thọ tạo của Người, và tình yêu ấy cũng hiệp nhất chúng ta
trong tình yêu trìu mến với anh mặt trời, chị mặt trăng, anh sông và mẹ đất.
67
Evangelii Gaudium (24.11.2013), 215: AAS 105 (2013), 1109. 68
X. Biển-đức XVI, TT. Caritas in Veritate (29.06.2009), 14: AAS 101 (2009), 650. 69
Sách Giáo Lí Công Giáo, 2418. 70
HĐGM Cộng Hoà Đô-mi-nic, Pastoral Letter Sobre la relación del hombre con la naturaleza (21.01.1987).
30
VI. Của cải được quyết định chung
93. Bất luận là người có niềm tin hay không, ngày nay chúng ta đều đồng ý với nhau rằng, về
cơ bản trái đất là một gia sản chung, mọi người có thể thừa hưởng hoa trái của nó. Đối với
người tin, điều này trở nên một vấn đề của lòng trung tín với Đấng Tạo Dựng, bởi vì Thiên
Chúa tạo nên thế giới cho mọi người. Vì thế, mọi tiếp cận với môi sinh phải bao gồm một
viễn tượng về xã hội, trong đó các quyền nền tảng của những người khốn cùng nhất phải được
quan tâm. Của công cũng như quyền sử dụng tài sản này phải được đặt ưu tiên trên của cải tư,
và đó là „quy tắc vàng“ của việc hành xử xã hội và là „nguyên tắc nền tảng của toàn bộ trật
tự đạo đức xã hội”71
. Truyền thống ki-tô giáo chưa bao giờ nhìn nhận tư hữu là một quyền
tuyệt đối và bất khả xâm phạm; truyền thống này luôn nhấn mạnh tới vai trò xã hội của mọi
loại tư hữu. Thánh Gio-an Phao-lô II đã mạnh mẽ khẳng định giáo huấn này bằng cách xác
nhận „Thiên Chúa ban trái đất cho toàn thể nhân loại, để họ nuôi sống mọi thành viên, không
loại trừ hay ưu tiên cho bất cứ ai”72
. Đấy là những lời lẽ mạnh bạo. Ngài nhấn mạnh, „một
kiểu phát triển không tôn trọng và cổ võ các quyền cá nhân, xã hội, kinh tế, chính trị, kể cả
quyền của các quốc gia và dân tộc, quả không xứng với con người”73
. Ngài giải thích rất rõ,
„Giáo Hội quả thật bảo vệ quyền tư hữu chính đáng, nhưng đồng thời cũng xác định rõ, là
luôn luôn có một sự „thế chấp xã hội“ trên tất cả mọi tài sản riêng, để tất cả mọi của cải đều
có thể phục vụ mục đích chung mà Thiên Chúa đã trao cho chúng”74
. Và ngài khẳng định:
Như vậy sẽ „không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, nếu quà tặng này chỉ được dùng để
mang lại phúc lợi cho một số ít người mà thôi“75
. Điều này rõ ràng mâu thuẫn với những thói
quen bất chính của một phần nhân loại 76
.
94. Người giàu và người nghèo có phẩm giá ngang nhau, vì „cả hai đều được Đức Chúa tạo
dựng” (Cn 22,2). “Sang hay hèn đều do Người tạo tác” (Kn 6,7), và “Người cho mặt trời của
Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt” (Mt 5,45). Điều này đưa tới những hệ quả
cụ thể, như đã được Hội Đồng Giám Mục Pa-ra-guay tuyên bố: „Mọi nông dân đều có quyền
tự nhiên sở hữu một lô đất vừa phải, trên đó họ có thể dựng nhà ở, canh tác nuôi sống gia
đình và có được an sinh cuộc sống. Quyền này phải được bảo đảm, để việc thực thi trở thành
thực sự chứ không phải ảo tưởng. Điều đó có nghĩa là ngoài việc làm chủ tài sản, người nông
dân còn phải được tận hưởng các phương tiện giáo dục kĩ thuật, tín dụng, bảo hiểm, và buôn
bán”77
.
95. Môi sinh là tài sản chung; nó là gia sản của toàn thể nhân loại và mọi người đều có trách
nhiệm về nó. Nếu ai biến một cái gì đó thành của riêng, thì chỉ là để quản lý nó vì thiện ích
chung của tất cả. Nếu chúng ta không làm như vậy, chúng ta sẽ đổ gánh nặng lên lương tâm,
vì đã không công nhận sự hiện hữu của người khác. Vì thế, Hội Đồng Giám Mục Tân-tây-lan
đã tự hỏi, đâu là ý nghĩa của giới răn „Ngươi không được giết người“, khi „hai mươi phần
trăm dân số thế giới tiêu xài các tài nguyên đến độ cướp đi phương tiện cần thiết để sống còn
của các quốc gia nghèo và của các thế hệ tương lai”78
.
VII. Cái nhìn của đức Giê-su 71
Gio-an Phao-lô II, TT. Laborem Exercens (14.09.1981), 19: AAS 73 (1981), 626 72
TT. Centesimus Annus (01.05.1991), 31: AAS 83 (1991), 831. 73
TT. Sollicitudo Rei Socialis (30.12.1987), 33: AAS 80 (1988), 557. 74
Address to Indigenous and Rural People, Cuilapán, Mexico (29.01.1979), 6: AAS 71 (1979), 209 75
Homily at Mass for Farmers, Recife, Brazil (07.07.1980): AAS 72 (1980): AAS 72 (1980), 926. 76
X. Thông điệp ngày hoà bình thề giới 1990, 8: AAS 82 (1990), 152. 77
HĐGM Pa-ra-guay, Pastoral Letter El campesino paraguayo y la tierra (12.06.1983), 2, 4, d. 78
HĐGM Tân-tây-lan, Statement on Environmental Issues (01.09.2006).
31
96. Đức Giê-su tin vào Thiên Chúa Tạo Dựng của Kinh Thánh và Người đã nói một điều cơ
bản: Thiên Chúa là Cha (x. Mt 11,25). Trong khi trò chuyện với các môn đệ, đức Giê-su luôn
yêu cầu họ hãy nhận biết mối quan hệ phụ tử mà Thiên Chúa có đối với hết mọi loại thụ tạo
của Người. Bằng lời lẽ dịu dàng cảm động, Người nhắc nhớ, tất cả mọi người trong số họ đều
quan trọng trước mắt Thiên Chúa: „Năm con chim sẻ chỉ bán được hai hào, phải không? Thế
mà Thiên Chúa đã chẳng quên con nào” (Lc 12:,). Hãy xem chim trời: chúng không gieo,
không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng” (Mt 6:26).
97. Chúa Giê-su đã có thể yêu cầu những người khác chú ý đến vẻ đẹp vốn có trong thế giới,
bởi chính Người luôn tiếp xúc với thiên nhiên và dành cho nó một sự chú ý với đầy niềm vui
và kinh ngạc. Khi lai vãng tới một vùng nào trên đất nước, Người thường dừng lại để chiêm
ngắm vẻ đẹp được Cha gieo trồng và mời các môn đệ hãy nhận ra thông điệp thánh nơi mọi
loài: „Ngước mắt lên mà xem, đồng lúa đã chín vàng đang chờ ngày gặt hái!” (Ga 4,35).
„Nước Trời cũng giống như chuyện hạt cải người nọ lấy gieo trong ruộng mình. Tuy nó là
loại nhỏ nhất trong tất cả các hạt giống, nhưng khi lớn lên, thì lại là thứ lớn nhất" (Mt 13,31-
32).
98. Đức Giê-su sống hoà hợp trọn vẹn với tạo dựng, và những người khác ngạc nhiên: „Ông
này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?” (Mt 8,27). Người không xuất
hiện như một kẻ xa lạ và như một nhà tu khắc kỉ có ác cảm với những gì thoải mái trong cuộc
sống. Người nói về chính mình: „Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại
bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi’” (Mt 11,19). Người
không liên can gì tới những triết lí khinh thường thân xác, vật chất và các sự vật trong thế giới
này. Tuy nhiên, những thứ triết lí nhị nguyên thiếu lành mạnh đó, theo dòng lịch sử, đã để lại
ảnh hưởng khá mạnh trên một số nhà tư tưởng ki-tô giáo và đã làm méo mó bộ mặt của Tin
Mừng. Đức Giê-su làm việc với đôi tay của mình và tiếp xúc hàng ngày với thứ vật chất đã
được Thiên Chúa tạo ra, để nắn đúc nó theo sự khéo léo của đôi tay. Rõ ràng, Người đã dành
một phần lớn đời mình cho công việc đó, trong một cuộc sống giản dị đến kinh ngạc: „Ông ta
không phải là bác thợ, con bà Ma-ri-a sao?” (Mc 6,3). Bằng cách đó Người thánh hoá lao
động và tạo cho nó có một giá trị đặc biệt hầu giúp ta trưởng thành. Thánh Gio-an Phao-lô II
dạy: „Khi con người chấp nhận cực nhọc của lao động trong sự hiệp nhất với đức Ki-tô chịu
đóng đinh vì chúng ta, bằng cách đó họ cùng cộng tác với Con Thiên Chúa trong việc cứu độ
nhân loại”79
.
99. Theo lối hiểu của Ki-tô Giáo về thực tại, số phận của mọi tạo dựng đều đi qua mầu nhiệm
đức Ki-tô, một mầu nhiệm hiện diện ngay từ thuở ban đâu: „vì trong Người và qua Người
muôn vật được tạo thành” (Cl 1,16) 80
. Phần mở đầu Tin Mừng Gio-an (1,1-18) cho thấy hành
động sáng tạo của đức Ki-tô như là Lời của Thiên Chúa (Logos). Nhưng tiếp đó, bản văn làm
cho chúng ta ngỡ ngàng với câu: và Lời đó đã „thành xác phàm“ (Ga 1,14). Một trong ba
Ngôi đã đi vào vũ trụ được tạo thành và đã gắn liền thân phận mình với vũ trụ cho tới thập giá.
Từ khởi đầu địa cầu, nhưng đặc biệt kể từ biến cố nhập thể, mầu nhiệm đức Ki-tô tác động
một cách bí ẩn trong toàn thể thực tại tự nhiên, mà vẫn không vì thế làm giảm thiểu tính tự
chủ của thực tại.
100. Kinh Thánh Tân Ước không chỉ nói cho chúng ta về đức Giê-su trần thế và mối quan hệ
rất cụ thể và đầy yêu thương của Người với thế giới. Kinh Thánh còn cho thấy Ngài đã sống
79
TT. Laborem Exercens (14.09.1981), 27: AAS 73 (1981), 645. 80
Vì thế thánh Ju-ti-nô đã có thể nói về „những hạt giống của Lời“ trong thế giới: x. II Apologia 8,1-2; 13.3-6:
PG 6, cột 457-458; 467
32
lại và vinh hiển, hiện diện trong toàn bộ công trình tạo dựng với sự thống trị bao toả của
Người: „Thiên Chúa đã muốn ở lại trong đức Ki-tô với toàn bộ sự viên mãn của Người, để
qua đức Ki-tô làm hoà lại với mọi sự. Người muốn đưa tất cả mọi sự trên trời dưới đất đến
cùng đức Ki-tô, Đấng đã tạo nên hoà bình nơi thập giá bằng máu của mình” (Cl 1,19-20).
Điều này dẫn chúng ta đến chỗ tận cùng mọi thời gian, đó là khi Chúa Con trao hết mọi sự
cho Chúa Cha và Thiên Chúa là tất cả trong mọi sự (x. 1 Cr 15,28). Như thế, các tạo vật trên
thế giới này xuất hiện trước mắt chúng ta không còn chỉ như một thực tại tự nhiên, là vì Đấng
Phục Sinh đã bao toả chúng cách nhiệm mầu và hướng chúng đi về đích viên mãn. Cũng
những bông hoa đồng nội và muông chim đó, mà Người đã nhìn chúng với đôi mắt phàm
nhân đầy thán phục, giờ đây được chan hoà sự hiện diện rạng rỡ của Người.
CHƯƠNG 3
Chính con người tạo ra khủng hoảng sinh thái
101. Chỉ mô tả các hội chứng của cuộc khủng hoảng mà thôi thì chẳng lợi gì, nếu ta không ý
thức rằng, căn nguyên của nó chính là do con người tạo nên. Đang có một lối hiểu sai về sự
sống và về hoạt động của con người, và lối hiểu sai vốn đi ngược lại thực tế này đã tới mức
gây hại cho thế giới quanh ta. Tại sao chúng ta không thể dừng lại để suy nghĩ về điểm này?
Ở đây, tôi đề nghị chúng ta chú tâm vào cái mô hình kĩ trị đang thống trị hiện nay cũng như
vào vị trí và hoạt động của con người trong thế giới.
I. Kĩ thuật: khả năng sáng tạo và sức mạnh
102. Nhân loại đang bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó sự tinh xảo kĩ thuật đang dẫn
chúng ta tới một ngả tư đường. Chúng ta là những người thừa hưởng những đợt sóng đổi thay
lớn từ hai thể kỷ nay: máy hơi nước, đường sắt, điện báo, điện lực, xe hơi, máy bay, kĩ nghệ
hóa chất, thuốc tây, kĩ thuật thông tin, và gần đây hơn, cuộc cách mạng số hóa, kĩ thuật người
máy, các kĩ thuật sinh học và các kĩ thuật nano. Quả là chính đáng, khi chúng ta hân hoan vui
mừng trước các tiến bộ này và trước các khả dĩ bao la mà chúng tiếp tục mở ra cho ta, là vì
„khoa học và kĩ thuật là một sản phẩm tuyệt vời của óc sáng tạo thiên phú của con người” 81
.
Ngay từ đầu, con người đã quen biến đổi thiên nhiên cho những mục đích hữu dụng của mình,
vì thế kĩ thuật „nói lên mối căng thẳng của tinh thần con người trong việc từng bước khắc
phục những hạn chế vật chất”82
. Kĩ thuật đã giúp con người thắng vượt được vô số điều xấu
hằng làm hại và hạn chế họ. Chúng ta chỉ có thể biết ơn và đánh giá cao sự tiến bộ kĩ thuật
này, đặc biệt trong lãnh vực y khoa, cơ khí và truyền thông. Và tại sao ta lại không công nhận
những nỗ lực của nhiều nhà khoa học và kĩ thuật, những người đang góp phần vào việc tìm ra
các phương thế cho một lối phát triển bền vững?
81
Gio-an Phao-lô II., Diễn văn đọc trước các đại diện khoa học, văn hoá và các lớp nghiên cứu cao cấp thuộc
đại học của Liên Hiệp Quốc, Hiroshima (25.02.1981), 3: L’Osservatore Romano (Đức) Năm. 11, Nr. 11
(13.03.1981), tr. 6; AAS 73 (1981), tr. 422. 82
Biển-đức XVI., TT Caritas in veritate (29. 06.2009), 69: AAS 101 (2009), tr. 702.
33
103. Khoa học kĩ thuật, khi được hướng dẫn đúng đắn, có thể tạo nên những phương tiện quan
trọng để cải tiến phẩm chất cuộc sống con người, từ các đồ gia dụng đến những hệ thống giao
thông, cầu đường, công trình xây dựng và những điểm công cộng quan trọng. Nó cũng có thể
tạo ra cái đẹp và giúp những người đang chìm ngập trong thế giới vật chất „nhảy” vào được
trong thế giới của cái đẹp. Ai có thể phủ nhận nét đẹp của một chiếc máy bay hay một toà nhà
chọc trời? Nhiều tác phẩm tuyệt vời về hội hoạ và âm nhạc có được là nhờ sử dụng các
phương pháp kĩ thuật tân thời. Như vậy, qua sự tìm tòi cái đẹp nơi các nhà sáng tạo kĩ thuật và
qua những người chiêm ngưỡng cái đẹp đó, chúng ta có thể đưa mình đạt tới một sự hoàn
thiện bản thân thật sự nào đó.
104. Nhưng ta cũng không thể quên rằng, năng lượng hạt nhân, kĩ thuật sinh học, kĩ thuật tin
học, hiểu biết về DNA và nhiều năng lực khác mà ta đạt được, đã trao cho ta một sức mạnh
khủng khiếp. Chính xác hơn, chúng trao vào tay những ai có được sự hiểu biết đó và nhất là
những ai nắm sức mạnh kinh tế và thực thi sức mạnh này có được một khả năng thống trị ghê
gớm trên toàn nhân loại và toàn thế giới. Chưa bao giờ nhân loại có nhiều quyền lực trên
chính mình như lúc này, nhưng cũng chẳng có gì bảo đảm rằng, họ sẽ khôn ngoan sử dụng
quyền lực đó, nhất là khi ta nghĩ tới cung cách sử dụng quyền lực của họ trong hiện tại. Ta chỉ
cần nghĩ đến những quả bom hạt nhân thả xuống giữa thế kỷ 20, cũng như tới những tốn kém
lớn về kĩ thuật mà Quốc Xã đức, cộng sản và các chế độ độc tài khác đã dùng để giết hàng
triệu người dân – đó là chưa nói tới chiến tranh ngày nay càng ngày càng thủ đắc được những
phương tiện kĩ thuật giết người tinh vi hơn. Ai đang nắm trong tay những sức mạnh to lớn đó?
Và rồi ai cũng sẽ nắm được những sức mạnh đó? Thật hết sức nguy hiểm, khi một phần rất
nhỏ nhân loại lại nắm trong tay quyền lực này.
105. Người ta có khuynh hướng tin rằng, „mọi tăng gia quyền lực đều là một ‚tiến bộ‘; đều là
một gia tăng về an ninh, sự hữu dụng, phúc lợi, sinh lực, giá trị“83
, cứ như thể là các thực tại,
điều thiện, sự thật đều thoát thai từ chính quyền lực kĩ thuật và kinh tế. Quả thật, „con người
hiện đại đã không được huấn luyện để sử dụng quyền lực cách đúng đắn”84
, bởi nhịp phát
triển to lớn của kĩ thuật đã không tiến đồng bộ với sự phát triển về trách nhiệm, các giá trị và
lương tâm con người. Mỗi thời đại thường có được rất ít nhận thức về những hạn chế của
chính mình. Vì thế, có lẽ nhân loại ngày nay không nhận ra sự nghiêm trọng của các thách đố
mà họ đang phải đối diện. „Khả năng con người có thể sử dụng sai quyền lực của mình không
ngừng [gia tăng]“, khi „họ chẳng có những quy chuẩn về tự do (hướng dẫn), mà chỉ hành
động theo những thúc ép giả định của cái lợi và của sự an toàn“85
. Con người không hoàn
toàn tự trị. Tự do của ta sẽ trở nên bệnh hoạn, khi ta tự trao thân cho các thế lực vô thức mù
quáng, cho các nhu cầu tức thì, cho tư lợi và bạo lực. Trong trường hợp này, chúng ta bị đặt
trần trụi trước ngay quyền lực không ngừng gia tăng của chính mình, mà chẳng có được
phương tiện cần thiết nào để kiểm soát nó. Có thể có những cơ chế kiểm soát hời hợt bề ngoài
nào đó, nhưng chúng ta có thể xác nhận rằng, con người ngày nay không có một nền đạo lí
lành mạnh, chẳng có một văn hóa và linh đạo thực sự có khả năng đặt ra những giới hạn và
đưa nó vào trong một khung tự chế rõ ràng.
II. Toàn cầu hóa khuôn mẫu kĩ trị
106. Vấn nạn căn bản còn nằm sâu hơn và khác hơn, đó là việc nhân loại quả thật đã chấp
nhận kĩ thuật và sự phát triển của nó theo một mô mẫu đồng nhất và một chiều. Mô mẫu này
tạo ra hình ảnh về một Chủ thể vốn nương theo lối lập luận thuần lí và hợp lí dần dần ôm trọn
83
Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, tr. 87.
84 Như trên
85 Như trên, tr. 87-88.
34
lấy đối tượng bên ngoài và qua đó chiếm hữu nó. Chủ thể này triển nở bằng cách đặt ra
phương pháp khoa học và thực nghiệm, mà thực chất là một kĩ thuật chiếm đoạt, chế ngự và
cải biến. Xem ra chủ thể đang đứng trước một cái gì đó vô hình vốn hoàn toàn đặt dưới sự lèo
lái của chính mình. Xưa nay con người vẫn can thiệp vào thiên nhiên. Nhưng trong một thời
gian dài, họ hành động tuân theo những khả thể (possibilities) do chính các sự vật cung cấp.
Họ đón nhận những gì chính thực tại tự nhiên cho phép, như thể đang đưa bàn tay ra đón lấy.
Nhưng giờ đây ngược lại, họ quay ra khai thác bòn rút mọi thứ có thể từ thiên nhiên, mà quên
đi hoặc làm ngơ trước cái thực tại trước mắt. Vì thế, con người và sự vật không còn đưa bàn
tay thân hữu ra cho nhau nữa; mối giao hảo trở thành thù hận. Từ đó người ta dễ nẩy ra quan
niệm về một sự phát triển không ngừng và vô biên, một lối phát triển làm nức lòng các nhà
kinh tế, các chuyên gia tài chính và kĩ thuật. Nhưng lối phát triển này dựa trên một tin tưởng
dối trá rằng, tài nguyên địa cầu là một kho bất tận, và điều đó khiến cho người ta ra công
„vắt“ cạn kiệt địa cầu. Đây là một nhận định sai lầm, rằng „ta có thể có được một số lượng vô
tận các năng lượng và tài nguyên trong thiên nhiên, rằng ta có thể tái sinh chúng ngay và,
rằng ta có thể dễ dàng khắc phục các hậu quả tiêu cực của việc khai thác trật tự thiên nhiên” 86
.
107. Vì thế, chúng ta có thế nói, căn nguyên của nhiều vấn nạn trong thế giới hiện nay là
khuynh hướng – nhiều khi vô thức – coi phương pháp học và các mục đích của khoa học - kĩ
thuật là thứ định hình đời sống con người và vận hành xã hội. Ta có thể nhận ra các hậu quả
của việc áp dụng lối suy nghĩ đó trên toàn thực tại xã hội và con người qua những suy thoái
của môi trường; nhưng suy thoái này cũng chỉ là một dấu chỉ của cái thứ chủ nghĩa giản lược
vốn tác hại trên mọi khía cạnh đời sống con người và xã hội. Chúng ta phải nhận rằng, các sản
phẩm do kĩ thuật tạo ra không trung lập, bởi chúng tạo ra một khung cảnh cuối cùng dẫn tới
một lối sống bị điều kiện hóa và chúng hướng các khả thể xã hội vào vòng quyền lợi của một
số nhóm quyền lực. Có những quyết định xem ra thuần tuý mang tính thực tế cụ thể, nhưng
thật ra chúng là những quyết định hướng tới sự chọn lựa một lối sống xã hội mà mình muốn
phát huy.
108. Không được phép nghĩ tới khả năng có thể bảo vệ một mô mẫu văn hoá khác và tới việc
sử dụng kĩ thuật như một dụng cụ thuần túy. Ngày nay khuôn mẫu kĩ trị đã trở nên ưu thế đến
nỗi rất khó mà khước từ được những phương tiện của nó, và càng khó hơn trong việc sử dụng
nó mà không nắm vững luận lí của nó. Ta sẽ bị coi là „phản văn hoá“, nếu như ta chủ trương
một lối sống nhắm tới ít nhiều thoát ra khỏi ảnh hưởng của kĩ thuật, của các chi phí của nó và
của sức mạnh toàn cầu hoá lẫn đoàn lũ hoá của nó. Thật ra kĩ thuật có khuynh hướng lôi tất cả
mọi thứ vào trong cái luận lí sắt của nó, và „người cưu mang kĩ thuật biết rằng, kĩ thuật suy
cho cùng chẳng phải hướng tới lợi ích hay phúc lợi, song nó hướng tới sự thống trị; một sự
thống trị với ý nghĩa cực đoan nhất của nó“ 87
. Và vì thế „nó tìm cách chụp lấy các thành tố
của thiên nhiên cũng như các thành tố của cuộc sống con người“88
. Khả năng quyết định, sự
tự do đúng nghĩa nhất và không gian cho sự sáng tạo cá nhân vì thế bị giảm dần.
109. Khuôn mẫu kĩ trị cũng có khuynh hướng bá chủ kinh tế và chính trị. Kinh tế thu dụng
mọi tiến bộ kĩ thuật để sinh lợi, mà chẳng quan tâm gì tới ảnh hưởng tiêu cực tiềm ẩn lên con
người. Tài chánh bóp nghẹt các nền kinh tế hiện thực. Người ta đã chẳng rút ra được bài học
nào từ cuộc khủng hoảng tài chánh toàn cầu, còn việc rút kinh nghiệm từ sự suy thoái môi
trường lại càng vô cùng chậm. Một vài giới cho rằng, nền kinh tế và kĩ thuật hiện nay sẽ giải
quyết hết mọi vấn đề môi trường; cũng vậy, họ dùng lối lập luận ít hàn lâm hơn để khẳng định
86
HĐGC CL&HB, Kompendium der Soziallehre der Kirche, Freiburg 2006, 462. 87
Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, tr. 63-64.
88 Như trên, tr. 64.
35
rằng, những vấn đề đói nghèo toàn cầu sẽ được giải quyết chỉ bằng sự tăng trưởng thị trường.
Đây không phải là vấn đề hiệu quả của các lí thuyết kinh tế, những lí thuyết mà ngày nay có
lẽ chẳng còn ai dám bênh vực, nhưng là việc ghép những lí thuyết đó vào trong sự phát triển
kinh tế cụ thể. Cả những người tuy không nói ra sự đồng ý của mình về điều này, họ cũng ủng
hộ chúng bằng hành động của họ, khi họ chẳng màng gì tới việc sản xuất cân bằng hơn, phân
phối của cải tốt hơn, có thái độ đúng đắn hơn với môi trường hoặc nghĩ tới quyền của các thế
hệ tương lai. Qua thái độ của họ, ta thấy họ chỉ cần làm sao đạt được tối đa lợi nhuận là đủ.
Thị trường tự nó không bảo đảm sự phát triển toàn diện và việc hội nhập xã hội của con người 89
. Trong lúc đó, chúng ta đang chứng kiến „một thứ phát triển thặng dư phung phí và chỉ
hướng tới tiêu thụ, nó tương phản cách không thể chấp nhận được với tình trạng nghèo khổ
bất nhân kéo dài” 90
, và ta thì lại quá chậm trong việc hình thành các định chế kinh tế và
chương trình xã hội nhằm mang lại cho những người nghèo nhất cơ hội được chung phần các
tài nguyên căn bản. Ta sẽ chẳng bao giờ có thể nhận ra được hết đâu là những căn nguyên sâu
xa nhất của tình trạng mất cân đối hiện nay, những căn nguyên có liên quan tới hướng đi, các
mục tiêu, ý nghĩa và khung cảnh xã hội của sự tăng trưởng kinh tế và kĩ thuật.
110. Sự chuyên môn hóa trong kĩ thuật khiến ta khó nhìn ra được bức tranh toàn thể. Các kiến
thức mảnh vỡ chỉ làm tròn được chức năng chúng, khi chúng nhắm tới những ứng dụng cụ
thể; nhưng thường thì chúng lại làm cho ta không nhận ra được ý nghĩa của cái toàn thể,
không nhận ra được những mối tương quan giữa các sự vật, không nhận ra chân trời rộng vốn
sẽ trở nên chẳng còn quan trọng. Chính điều này không cho phép ta tìm ra được những con
đường thích hợp để giải quyết những vấn nạn phức tạp trong thế giới hiện đại – nhất là những
vấn nạn có liên quan tới môi sinh và người nghèo; những vấn nạn này hẳn không thể giải
quyết chỉ bằng một quan điểm duy nhất hay bằng một thứ quyền lợi duy nhất. Để có thể có
được những lời giải cho các vấn nạn lớn, khoa học cần phải bao quát tất cả những kiến thức
do các lãnh vực khác mang lại, trong đó có cả triết học và đạo đức xã hội. Nhưng đây là điều
ngày nay rất khó có thể làm nổi. Vì thế, người ta cũng không thể nhận biết được những chân
trời đạo đức đích thật, để có thể dùng đó mà quy chiếu. Cuộc sống đang trên đà phó mặc cho
các hoàn cảnh do kĩ thuật điều kiện hoá, và kĩ thuật thì lại được hiểu như là phương tiện chính
để cắt nghĩa cuộc đời. Trong thực tế cụ thể diễn ra trước mắt, chúng ta thấy xuất hiện nhiều
triệu chứng nói lên sự sai lầm – chẳng hạn như môi trường suy thoái, lo âu và mất cảm thức
về cuộc sống cũng như mất cảm thức cộng đoàn. Thêm một lần nữa điều này cho thấy: „thực
tại quan trọng hơn tư tưởng“91
.
111. Văn hóa sinh thái không thể bị giản lược vào một loạt các lời giải khẩn cấp và từng phần
cho các vấn nạn liên quan tới ô nhiễm và huỷ hoại môi trường và tới sự cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên. Có lẽ cần phải có một lối nhìn, một lối suy nghĩ, một chính sách, một chương
trình giáo dục, một lối sống và một linh đạo khác cùng hợp sức chống lại cuộc tấn công của
mô mẫu kĩ trị. Nếu không, thì những sáng kiến tuyệt vời nhất về môi sinh rốt cuộc cũng bị rơi
vào trong thứ luận lí đã phổ cập khắp hoàn vũ đó. Nếu chỉ đơn giản tìm lời giải kĩ thuật cho
mọi vấn đề môi sinh đang có, ta sẽ có cái nhìn cô lập đối với những chuyện mà trong thực tế
chúng vốn liên thuộc với nhau, và ta cũng nhắm mắt trước những vấn đề đích thực và sâu xa
của hệ thống hoàn vũ.
112. Nhưng một lần nữa chúng ta có thể mở rộng tầm nhìn. Chúng ta có đủ tự do để hạn chế
và lèo lái kĩ thuật; chúng ta có thể đưa nó vào phục vụ cho một kiểu tiến bộ khác, một kiểu
89
X. Biển-đức XVI., TT Caritas in veritate (29. 06.2009), 35: AAS 101 (2009), tr. 671. 90
Nt., 22: AAS 101, tr. 657. 91
TT. Evangelii gaudium (24. 11.2013), 231: AAS 105 (2013), tr. 1114.
36
lành mạnh hơn, nhân bản hơn, xã hội hơn, toàn diện hơn. Trong nhiều hoàn cảnh ta có thể
thoát ra khỏi khuôn mẫu kĩ trị đang thống trị, chẳng hạn như khi các tập thể hợp tác xã của
những nhà sản xuất nhỏ chấp nhận phương tiện sản xuất ít ô nhiễm hơn, và từ đó chọn một
cách sống, một lối thoải mái, một sự sống chung nhẹ phần thụ hưởng hơn. Hoặc khi kĩ thuật
được ưu tiên dùng để giải quyết những vấn đề cụ thể của người khác, với ước mong giúp họ
sống có nhân phẩm hơn và ít khổ đau hơn. Hoặc khi ta muốn tạo ra cái đẹp, và khi sự chiêm
ngưỡng cái đẹp của ta vượt thắng được ma lực chỉ muốn coi người đối diện của mình là một
đồ vật và ma lực này giờ đây trở nên một thứ cứu rỗi diễn ra nơi cái đẹp và nơi người chiêm
ngưỡng. Xem ra như thế thì giữa nền văn minh kĩ thuật hiện nay đã hiện diện sẵn một nhân
loại đích thực rồi; nhân loại này mời gọi tất cả cùng hướng về một hợp đề mới; dù chẳng được
ai để ý tới, họ vẫn như là một thứ sương mai đang thấm qua khe hở của cánh cửa khép kín.
Phải chăng đó là một hứa hẹn - cho dù phải đối diện với bao nhiêu khó khăn – luôn mãi kéo
dài, dấy lên như một sức đối kháng bền bĩ của những gì được coi là đích thực?
113. Mặt khác, xem ra con người chẳng còn tin vào một tương lai hạnh phúc nữa; họ chẳng
còn mù quáng chờ mong một ngày mai tươi sáng trong tình trạng thế giới ngày nay và vào
những năng lực của kĩ thuật. Họ nhận ra thực tế này, là tiến bộ khoa học và kĩ thuật không đi
đôi với tiến bộ của nhân loại và lịch sử; và họ biết, bước đường dẫn tới tương lai hạnh phúc
nằm trên một lộ trình khác. Dù vậy, người ta ít nghĩ tới việc từ chối những khả thể do kĩ thuật
cung ứng cho mình. Nhân loại đã thay đổi tận căn, và những cái mới liên tục và đầy dẫy khiến
cho họ chỉ biết chạy theo về một hướng duy nhất, đó là hướng hời hợt bề ngoài. Thật khó cho
chúng ta giờ đây muốn dừng lòng để suy nghĩ tìm về lại chiều sâu của cuộc sống. Nếu kiến
trúc phản ảnh tinh thần của một thời đại, thì những công trình xây dựng khổng lồ và những
chuỗi nhà cùng kiểu hiện nay nói lên tinh thần của một nền kĩ thuật đã toàn cầu hoá, trong đó
sự không ngừng đổi mới các sản phẩm đi liền với một nỗi buồn tẻ nặng nề. Chúng ta không
chấp nhận cảnh này và cứ muốn đặc biệt suy nghĩ về ý nghĩa và cùng đích cuộc sống mình.
Nếu không, chúng ta có lẽ cũng chỉ là hợp thức hóa hiện trạng và cần nhiều thêm những cái
tạm bợ để giúp mình tiếp tục chịu đựng sự trống rỗng.
114. Những gì diễn ra trên đây đặt chúng ta trước nhu cầu khẩn thiết cần phải tiến hành một
cuộc cách mạng văn hoá can đảm. Khoa học và kĩ thuật không trung lập; chúng có thể mang
những ý định và khả thể khác nhau ngay từ lúc khởi đầu cho tới lúc kết thúc một tiến trình và
chúng có thể diễn ra dưới nhiều cách. Chẳng ai muốn trở về thời ăn lông ở lỗ. Nhưng chúng ta
cần phải có những bước nhỏ đi lên, để nhìn thực tại với một con mắt khác; cần thu góp những
những tiến bộ tích cực và bền vững và đồng thời cần tìm lại những giá trị và những mục tiêu
lớn vốn đã bị tiêu huỷ bởi cơn hoang tưởng trơ trẽn của thời đại.
III. Khủng hoảng và các hậu quả của chủ nghĩa duy nhân hiện đại
115. Chủ nghĩa duy nhân hiện đại, nghịch lí thay, rốt cuộc coi trọng lí trí kĩ thuật hơn thực tại,
là vì „loại người này chẳng cảm nhận được thiên nhiên như là một quy chuẩn có giá trị hay
một nơi cung cấp cho họ chỗ sinh trú. Họ nhìn thiên nhiên như một thứ gì mặc sức xài, như
một sự vật, như một không gian và chất liệu cho một công trình trong đó nhét vào đủ thứ mà
chẳng quan tâm việc rồi ra nó sẽ như thế nào“ 92
. Với kiểu đó, giá trị vốn có của thế giới suy
giảm dần. Nhưng nếu con người không tái khám phá ra chỗ đứng thật sự của mình, họ sẽ
không hiểu ngay chính họ và rốt cuộc đi đến mâu thuẫn với chính thực tại của mình. „Không
những Thiên Chúa đã trao cho con người trái đất, để họ sử dụng dựa trên đường hướng sự
thiện ban đầu được Thiên Chúa phú ban nơi họ. Mà ngay chính con người cũng là một quà
92
Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, tr. 63.
37
tặng của Người, vì thế họ phải quý trọng cấu trúc tự nhiên và đạo đức đã được Người cài sẵn
nơi con người“ 93
.
116. Trong thời Hiện Đại đã xuất hiện một thứ chủ nghĩa duy nhân thái qúa. Chủ nghĩa này,
dưới nhiều bộ mặt khác nhau, cho tới ngày nay vẫn làm hại những điểm quy chiếu chung và
những nỗ lực củng cố các mối liên hệ xã hội. Vì thế, đã đến lúc phải quan tâm trở lại cái thực
tại với những giới hạn do nó thiết định; và những giới hạn này, mặt khác, lại giúp ta có thể tạo
được một sự phát triển con người và xã hội lành mạnh lẫn hiệu quả hơn. Một sự trình bày
không thoả đáng nền nhân chủng học ki-tô giáo có thể làm ta hiểu sai về tương quan giữa con
người với môi sinh. Thường thường người ta hay nhìn việc thống trị thế giới qua lăng kính
giấc mơ của Prométhé. Lối nhìn này tạo cho ta cảm tưởng, chỉ những kẻ yếu đuối mới ưu tư
cho thiên nhiên mà thôi. Nhưng ta sẽ có một lối nhìn đúng, khi ta hiểu vai trò „thống trị“ vũ
trụ của con người chỉ có nghĩa là vai trò của một người quản lí có trách nhiệm 94
.
117. Sở dĩ chúng ta thiếu quan tâm tới những tác hại thiên nhiên và hậu quả môi sinh trong
các quyết định của mình, rõ ràng là vì chúng ta rất ít để ý tới thông điệp tiềm sẵn trong thiên
nhiên và trong các cấu trúc riêng của nó. Một khi chúng ta đã không nhìn ra ngay trong thực
tại mình giá trị của một người nghèo, của một thai phôi, của một người tàn tật – chỉ cần nêu
một vài thí dụ thôi -, thì chúng ta rất khó nghe ra tiếng kêu la của chính thiên nhiên. Tất cả
mọi thứ đều nối kết với nhau. Một khi con người coi mình độc lập với thực tại và xuất hiện
như một kẻ thống trị tuyệt đối, thì chính nền tảng cuộc đời của họ cũng sụp đổ, là vì „thay vì
chu toàn nhiệm vụ của một người thợ của Thiên Chúa trong công trình tạo dựng, thì họ lại
ngồi thế vào chỗ của Thiên Chúa và như vậy rốt cuộc họ tạo ra việc chống lại thiên nhiên“95
.
118. Tình cảnh này đẩy chúng ta vào một chứng tâm thần phân liệt thường xuyên, qua đó việc
tôn vinh kĩ trị không những khiến ta phủ nhận các giá trị tự tại của các sinh vật khác, mà còn
phủ nhận luôn mọi thứ giá trị đặc trưng của con người. Nhưng ta không thể phủ nhận sự hiện
hữu của loài người. Không thể đổi mới quan hệ với thiên nhiên, nếu không có một đổi mới
nơi chính con người. Không thể có sinh thái học, nếu không có một nhân chủng học tương
xứng. Khi con người chỉ được coi như một sinh vật giữa muôn sinh vật khác và sinh vật này
chỉ là sản phẩm của một tình cờ hay của một thứ tất định thiên nhiên, lúc đó „ý thức trách
nhiệm của ta có nguy cơ sẽ biến mất khỏi lương tâm“96
. Một chủ nghĩa duy nhân sai lầm
không nhất thiết phải thế chỗ cho một chủ nghĩa „duy sinh” (Biozentrismus), bởi điều này có
thể lại tạo ra một mất thăng bằng mới, khiến ta không những không giải quyết được các vấn
đề, mà cũng còn tạo ra thêm những vấn nạn khác. Ta không thể đòi hỏi con người phải dấn
thân nghiêm túc đối với thế giới, nếu như họ cùng lúc không công nhận và đề cao các khả
năng đặc biệt về tri thức, ý chí, tự do và trách nhiệm của con người.
119. Việc phê phán một chủ nghĩa duy nhân sai lạc cũng không buộc phải đánh giá thấp tầm
quan trọng những quan hệ giữa con người. Nếu cuộc khủng hoảng sinh thái hiện nay là dấu
chỉ bên ngoài của cuộc khủng hoảng đạo đức, văn hóa và tinh thần của thời Hiện Đại hoặc nó
mở cửa tháo lồng cho khủng hoảng đó, ta sẽ không thể nói được rằng, quan hệ của ta đối với
thiên nhiên và môi trường đã trở lại tốt đẹp, nếu như trước đó ta đã không cải thiện được hết
mọi quan hệ nền tảng giữa người với người. Nếu tư duy ki-tô giáo đòi cho con người có một
giá trị đặc biệt hơn các tạo vật khác, thì đó là cơ hội để ta đề cao giá trị của từng nhân vị, và
93
Gio-an Phao-lô II., TT. Centesimus annus (1. 05.1991), 38: AAS 83 (1991), tr. 841. 94
X. Tuyên ngôn Love for Creation. An Asian Response to the Ecological Crisis. Hội thảo do Liên hiệp các
HĐGM Á châu (Tagaytay, 31. 01 - 5. 02.1993), 3.3.2 95
. Gio-an Phao-lô II., TT. Centesimus annus (1. 05.1991), 37: AAS 83 (1991), tr. 840. 96
Biển-đức XVI., Thông điệp ngày hoà bình thế giới 2010, 2: L’Osservatore Romano (Đức) Năm 39, Số 52/53
(25. 12.2009), tr. 4; AAS 102 (2010), tr. 41
38
qua đó nó giúp ta công nhận tha nhân. Cái cao thượng nơi con người trước sau vẫn là khả
năng đi tới với tha nhân qua lối xưng hộ thân mật „anh - chị“ cùng với tất cả khả năng nhận
diện, yêu thương và đối thoại với nhau. Vì thế, để có được quan hệ đúng đắn với tạo dựng, ta
không cần phải giảm thiểu chiều kích xã hội của con người, cũng không cần giảm thiểu chiều
kích siêu việt lẫn sự sẵn sàng mở lòng ra với Thiên Chúa trong tình „cha - con“ của họ. Là vì
ta không thể tách rời quan hệ với thiên nhiên ra khỏi quan hệ giữa người với người và quan hệ
giữa con người với Thiên Chúa. Bằng không, đó chẳng qua chỉ là chủ nghĩa cá nhân lãng mạn
được nguỵ trang trong vẻ đẹp môi sinh và là một sự khép kín ngột ngạt trong căn buồng nội
tại của mình.
120. Bởi tất cả mọi sự đều liên quan với nhau, nên việc bảo vệ thiên nhiên cũng không tương
hợp với việc biện minh cho sự phá thai. Có lẽ chẳng có được một lối giáo dục nào giúp ta
chấp nhận những người yếu đuối hiện diện quanh mình, những người đôi khi làm ta khó chịu
hoặc mất thoải mái, nếu như ta không bảo vệ một thai phôi người, cho dù việc sinh nở thai
phôi này có thể là nguyên nhân của những bực mình và khó khăn: „Khi cảm thức chấp nhận
một sự sống mới nơi cá nhân hay xã hội mất, những hinh thức chấp nhận có lợi cho sự sống
xã hội khác cũng sẽ khô héo“ 97
.
121. Chúng ta cần phát triển một tổng hợp mới có sức vượt qua những luận cứ giả tạo của các
thế kỉ gần đây. Trong khi vẫn trung thành với bản sắc và gia sản sự thật đón nhận từ đức Giê-
su Ki-tô, Ki-tô Giáo luôn vẫn tự sám hối và chứng tỏ điều đó qua việc sẵn sàng đối thoại với
những hoàn cảnh lịch sử đổi thay; và qua những đối thoại này, Ki-tô Giáo cho nhân loại thấy
sự mới mẻ vĩnh hằng của mình 98
.
Chủ nghĩa Tương Đối thực hành
122. Một chủ nghĩa duy nhân sai lầm tạo cơ hội cho một lối sống sai lầm. Trong Tông Thư
Evangelii Gaudium, tôi đã ghi nhận rằng, chủ nghĩa tương đối thực hành trong thời đại chúng
ta „còn nguy hiểm hơn chủ nghĩa tương đối trong lí thuyết”99
. Khi con người tự coi mình là
trung tâm, rốt cuộc họ sẽ dành ưu tiên tuyệt đối cho những ưu thế mà họ có được do hoàn
cảnh tạo ra, và tất cả những gì còn lại đều trở thành thứ tương đối. Vì thế, chẳng lạ gì sự hiện
diện mọi nơi mọi lúc của mô hình kĩ trị cũng như việc tôn sùng quyền lực vô hạn của con
người đã làm nẩy sinh thứ chủ nghĩa tương đối vốn coi tất cả đều trở thành không quan trọng,
nếu như chúng không trực tiếp phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Lối luận lí này giúp ta hiểu,
tại sao có một số thái độ vốn làm hại cho môi sinh và xã hội lại nuôi dưỡng lẫn nhau.
123. Văn hóa của chủ nghĩa tương đối cũng là thứ bệnh đó. Nó khiến con người lợi dụng lẫn
nhau và đối xử với nhau như những đồ vật, khi họ bắt kẻ khác lao động cưỡng bách hoặc bắt
làm nô lệ để trả nợ. Cùng từ lối suy nghĩ đó, người ta lạm dụng tình dục trẻ em hoặc thả mặc
những người già không còn phục vụ được cho lợi ích của mình nữa. Đó cũng chính là não
trạng của những kẻ nói: Hãy để bàn tay vô hình của thị trường điều chỉnh nền kinh tế, vì
những hậu quả tai hại của kinh tế trên xã hội và thiên nhiên là điều không thể tránh được. Một
khi không có những chân lí khách quan hoặc các nguyên tắc chắc chắn ngoài việc thỏa mãn
các chương trình và nhu cầu trực tiếp của mình - thì đâu là giới hạn cản ngăn việc mua bán
người, tổ chức tội phạm, buôn bán ma tuý, khai thác công nhân các mỏ kim cương, mua bán
da những con thú sắp tuyệt chủng? Phải chăng lối suy nghĩ kiểu tương đối đó cũng là đầu mối
97
Nt., TT. Caritas in veritate (29.06.2009), 28: AAS 101 (2009), tr. 663. 98
Xem Vinzenz Lérins, Commonitorium primum, Ch. 23; PL 50, Mục 668: „Ut annis scilicet consolidetur,
dilatetur tempore, sublimetur aetete.“ 99
Nr. 80: AAS 105 (2013), tr. 1053.
39
cho việc thu mua các bộ phận thân thể người nghèo để bán lại hoặc để dùng vào việc thí
nghiệm, cho việc „vứt bỏ“ trẻ con, bởi vì chúng không hợp với những mong ước của cha mẹ?
Thói quen „xài rồi bỏ“, một thói quen tạo ra bao nhiêu là rác rưởi, chỉ vì chúng không hợp với
ý muốn tiêu xài vô độ của mình, cũng là hậu quả của lối suy nghĩ tương đối thực hành trên
đây. Chúng ta không thể bảo rằng, các chương trình chính trị hay sức mạnh luật pháp đủ để
ngăn chận các cung cách hành xử có hại cho môi sinh. Là vì khi văn hóa lụn bại và chẳng ai
công nhận một chân lí khách quan hoặc các nguyên tắc có giá trị phổ quát nữa, thì lúc đó luật
pháp chỉ còn được xem là những áp đặt độc đoán hoặc những chướng ngại cần phải tránh.
Sự cần thiết phải bảo vệ lao động
124. Bất cứ giải pháp nào tiến đến một nền môi sinh học toàn diện, trong đó không loại trừ
con người, đều nhất thiết phải tính đến giá trị của lao động, như thánh Gio-an Phao-lô II đã
khôn ngoan phát triển trong thông điệp Laborem Exercens của ngài. Ta hãy nhớ lại câu truyện
tạo dựng trong Kinh Thánh, theo đó Thiên Chúa đã đặt con người vào trong khu vườn vừa
được tạo nên (xem St 2,15), không những để họ bảo quản (giữ gìn chăm sóc) những thứ đã có,
mà còn để làm cho chúng sinh hoa kết quả (vun trồng). Qua cách đó, các người làm công và
các thợ thủ công cùng hỗ trợ việc tạo dựng đời đời (Sir 38,34 LXX). Thật ra sự can thiệp của
con người, với mục đích đưa tạo dựng về hướng phát triển hợp lí, là một hình thái thích hợp
nhất để bảo quản nó, vì đó là một dụng cụ của Thiên Chúa dùng để giúp làm phát lộ ra những
tiềm năng mà Người đã đặt để sẵn trong các sự vật: „Đức Chúa đã tạo ra thuốc thang từ đất,
và người khôn ngoan sẽ không coi thường chúng” (Sir 38,4).
125. Khi chúng ta muốn suy nghĩ tìm hiểu, đâu là những quan hệ phù hợp giữa con người và
thế giới chung quanh, chúng ta hẳn thấy cần phải hiểu đúng ý nghĩa của lao động. Là vì khi
nói đến mối liên hệ giữa con người và các sự vật, tất nhiên sẽ nẩy ra câu hỏi về ý nghĩa và
mục đích của hành động con người trên thực tại. Ta không chỉ nói tới lao động chân tay hoặc
lao động với đất đai, mà tới tất cả mọi thứ lao động tạo biến đổi thực tại hiện hữu, từ việc tạo
lập một phúc trình xã hội đến việc phác họa một chương trình phát triển kĩ thuật. Mọi hình
thái lao động đều đòi hỏi một quan niệm về tương quan mà con người có thể có hoặc phải có
với kẻ khác. Trong liên quan với lòng ngưỡng phục trước tạo vật, như ta thấy nơi thánh Phan-
sinh ở Assisi, linh đạo ki-tô giáo cũng hình thành nên một quan niệm tốt lành về lao động,
như ta có thể thấy chẳng hạn nơi chân phước Charles de Foucauld và các đệ tử của ngài.
126. Chúng ta cũng có thể học được ít nhiều nơi truyền thống lâu đời của cuộc sống tu viện.
Ban đầu, lối sống đó có thể được hiểu như là một cách thế chạy trốn cuộc đời, trốn tránh tình
trạng truỵ lạc nơi các thành phố. Vì thế, các tu sĩ tìm vào sa mạc, vì họ xác tín rằng, đó là nơi
phù hợp cho việc gặp gỡ Thiên Chúa. Về sau, thánh Biển-đức ở Nursia khuyên các tu sĩ mình
nên sống thành cộng đoàn và nên kết hợp việc cầu nguyện, học hành với lao động chân tay
(„ora et labora“). Việc đưa lao động chân tay được đổ đầy ý nghĩa tâm linh vào cuộc sống tu
sĩ quả là một cuộc cách mạng. Người ta học cách tìm kiếm sự trưởng thành và nên thánh trong
sự thẩm thấu lên nhau giữa nhận lãnh và lao động. Cách sống lao động đó khiến ta cẩn thận
và quý trọng môi sinh hơn và làm cho quan hệ của ta đối với thế giới trở nên tiết độ lành
mạnh.
127. Chúng ta nói, „con người là tác giả, là trung tâm và là cùng đích của mọi đời sống kinh
tế và xã hội”100
. Nhưng khi khả năng chiêm ngưỡng và kính trọng nơi con người có vấn đề,
100
CĐ Vaticano II, Hiến chế Gaudium et spes, 63.
40
thì những điều kiện khiến ta hiểu méo mó về lao động sẽ nẩy sinh 101
. Cần luôn nhớ rằng, con
người „có khả năng tự tạo cho mình phúc lợi vật chất, thăng tiến đạo đức và triển nở tinh
thần“102
. Lao động có thể là lãnh vực để triển nở những đức tính đa diện của cá nhân, trong đó
diễn ra nhiều chiều kích của đời sống: sáng tạo, hoạch định tương lai, phát triển tài năng, thực
thi các giá trị, thông tin với người khác, một thái độ tôn thờ. Vì thế, trong thực tại xã hội hoàn
vũ hôm nay, chúng ta cần phải vượt qua những quyền lợi giới hạn của các xí nghiệp cũng như
vượt qua sự duy lí đáng ngờ của kinh tế, để „tiếp tục dành ưu tiên cho nỗ lực làm sao cho mọi
người có được công ăn việc làm“103
.
128. Chúng ta được tạo dựng với sứ mạng làm việc. Ta không được chủ trương dùng tiến bộ
kĩ thuật để càng ngày càng thay thế việc làm của con người, bởi điều này sẽ có hại cho chính
nhân loại. Việc làm là một nhu cầu, nó là một phần ý nghĩa của cuộc sống trên trái đất, là con
đường dẫn tới trưởng thành, tới phát triển nhân sinh và hoàn thiện bản thân. Trong ý nghĩa đó,
việc giúp người nghèo tiền bạc luôn chỉ là một giải pháp mang tính tạm thời, để họ vượt qua
hoàn cánh bế tắc khẩn cấp mà thôi. Mục tiêu lớn luôn vẫn là làm sao giúp họ có được một
cuộc sống xứng đáng qua công ăn việc làm. Nhưng kinh tế lại hướng tới việc giảm chi phí sản
xuất, bằng cách dùng tiến bộ kĩ thuật thông qua máy móc để thay thế con người. Đây cũng lại
là một cách cho thấy con người có thể làm hại chính mình ra sao. Việc giảm công ăn việc làm
„cũng ảnh hưởng tiêu cực trên lãnh vực kinh tế […]; nó xói mòn dần ‚vốn liếng xã hội‘, nghĩa
là toàn bộ những quan hệ được xây dựng trên sự tín nhiệm, tin cậy và tôn trọng luật lệ, những
quan hệ này tối cần thiết cho sự sống chung của bất cứ xã hội dân sự nào“104
. Rốt cuộc: „cái
giá nhân sinh cũng luôn là cái giá của kinh tế, và những rối loạn kinh tế luôn luôn kéo theo
sự thiệt hại cho con người“105
. Ngưng đầu tư vào con người, để nhằm lợi nhuận trước mắt, là
lối kinh doanh có hại cho xã hội.
129. Để tiếp tục có thể tạo công ăn việc làm, điều cấp bách là thăng tiến một nền kinh tế ủng
hộ sự đa dạng sản xuất và tính sáng tạo trong doanh nghiệp. Thí dụ, có rất nhiều hệ thống sản
xuất thực phẩm nhỏ ở miền quê đang nuôi một phần lớn dân chúng thế giới, trong khi họ xử
dụng một phần đất khá nhỏ và tốn ít nước cũng như thải ra ít rác rưởi hơn; chẳng hạn như trên
những thửa ruộng hay miếng vườn nhỏ, qua việc săn bắn, hái lượm hoa trái rừng, hay việc
đánh cá thủ công. Những nền kinh tế qui mô, đặc biệt trong khu vực nông nghiệp, rốt cuộc đi
tới chỗ ép các tiểu nông bán đất đai của họ hoặc bỏ các lối sản xuất truyền thống. Một số ít
trong họ cố gắng chuyển sang các loại hình sản xuất đa dạng, nhưng cuối cùng cũng nhận
thấy vô ích bỏ cuộc, vì không chen chân vào được những thị trường vùng và toàn cầu, hay vì
hệ thống hạ tầng bán sản phẩm và chuyên chở chỉ phục vụ cho những công ti lớn. Các nhà
chức trách có quyền và bổn phận phải ra những biện pháp rõ ràng và kiên quyết, để nâng đỡ
việc sản xuất đa dạng và các nhà sản xuất nhỏ. Để có sự tự do kinh tế, trong đó ai cũng cũng
có thể hưởng lợi thực sự, đôi khi cần phải hạn chế những kẻ nắm trong tay quá nhiều tài
nguyên và tài chánh. Một tự do kinh tế thuần lí thuyết, trong khi trên thực tế lại có những điều
khoản ngăn cản không cho nhiều người hưởng phần phúc lợi hoặc cản trở họ trong việc tìm
công ăn việc làm, thì đó là luận điệu mâu thuẫn chỉ tạo tiếng xấu cho các nhà lãnh đạo chính
trị mà thôi. Doanh nghiệp là một sứ mệnh cao cả, có nhiệm vụ tạo ra phúc lợi và cải tiến thế
giới cho mọi người; nó có thể trở thành một phương cách rất hiệu quả trong việc phát triển
vùng nơi đặt nhà máy, nhất là khi người ta hiểu rằng, tạo công ăn việc làm là một phần tất
nhiên trong việc phục vụ công ích của họ.
101
X. Gio-an Phao-lô II., TT. Centesimus annus (1. 05.1991), 37: AAS 83 (1991), tr. 840. 102
Phao-lô VI., TT. Populorum progressio (26.03.1967), 34: AAS 59 (1967), tr. 274. 103
Biển-đức XVI., TT. Caritas in veritate (29. 06.2009), 32: AAS 101 (2009), tr. 666. 104
Nt. 105 Nt.
41
Các cải tiến sinh học xuất phát từ việc nghiên cứu
130. Theo lối nhìn triết học và thần học về con người và tạo vật, mà tôi đã cố gắng trình bày
trên đây, thì rõ ràng nhân vị với lí trí và khoa học đặc biệt của nó chẳng phải là một yếu tố
phụ thuộc bên ngoài, để ta được phép hoàn toàn loại bỏ nó. Mặc dù con người có thể can thiệp
vào thế giới thực vật và động vật và sử dụng chúng khi cần cho sự sống của họ, sách Giáo Lí
Công Giáo dạy rằng, việc thí nghiệm thú vật chỉ chính danh, „khi chúng nằm trong một giới
hạn hợp lí và góp phần vào việc chữa lành hoặc cứu sự sống“106
. Sách cũng nhắc nhở kĩ là
quyền lực con người có giới hạn: „Để các thú vật đau đớn hay bị giết một cách vô ích là điều
đi ngược lại phẩm giá con người“107
. Tất cả mọi sử dụng và mọi thí nghiệm đều „đòi hỏi tôn
trọng sự toàn vẹn của tạo vật”108
.
131. Ở đây tôi muốn lấy lại quan điểm trung dung của thánh Gio-an Phao-lô II. Ngài nhấn
mạnh đến những lợi ích của tiến bộ khoa học và kĩ thuật, chúng „cho thấy […] con người có
sứ mệnh cao cả là dường nào, khi họ tham dự có trách nhiệm vào hành động sáng tạo của
Thiên Chúa”, nhưng đồng thời cũng nhắc nhở, „không có một can thiệp nào vào một lãnh vực
của hệ sinh thái mà không nghĩ đến các hậu quả của nó trên các lãnh vực khác”109
. Ngài giải
thích, Giáo Hội đánh giá cao những đóng góp „có được từ việc nghiên cứu và ứng dụng khoa
sinh học phân tử […], khoa này được bổ sung bằng các môn khác như di truyền học và ứng
dụng kĩ thuật của nó vào nông nghiệp và kĩ nghệ”110
, nhưng cũng nói rằng, điều này không
cho phép „lạm dụng bừa bãi di truyền học”111
, khi lạm dụng này phủ nhận các hậu quả tiêu
cực của những can thiệp kia. Không thể ngăn cản sự sáng tạo của con người. Nếu một nghệ sĩ
không thể bị cấm sử dụng tài năng sáng tạo của mình, thì những kẻ có năng khiếu đặc biệt
trong việc phát triển khoa học và kĩ thuật cũng không thể bị cấm sử dụng tài năng thiên phú
để phục vụ kẻ khác của họ. Song song, ta cũng phải luôn xét đi nghĩ lại về các mục tiêu, hậu
quả, toàn cảnh và các giới hạn đạo đức của hoạt động này của con người, vì nó là một hình
thái quyền lực bao hàm rất nhiều rủi ro.
132. Các can thiệp của con người trên thế giới động vật và thực vật – kể cả những biến đổi
gen do khoa kĩ sinh học ngày nay tạo ra – cần phải được tiến hành trong khung suy tư trên đây,
hầu có thể khai thác được các tiềm năng sẵn có trong thực tại vật chất. Việc đức tin coi trọng
lí trí đòi hỏi sự quan tâm tới những gì do chính khoa sinh học, được nghiên cứu không bị chi
phối bởi lợi ích kinh tế, có thể dạy ta về các cấu trúc sinh học cũng như về các khả năng và
biến thái của chúng. Dù sao, một can thiệp trên thiên nhiên được coi là chính đáng, khi nó
„giúp cho chính thiên nhiên triển nở theo bản sắc riêng, một bản sắc như Thiên Chúa đã
muốn cho nó“112
.
133. Thật khó đưa ra một phán đoán tổng quát về những biến đổi về mặt di truyền nơi thực và
động vật (GMO) trong địa hạt y khoa hay trong chăn nuôi đồng cỏ và nông nghiệp, bởi giữa
106
Sách Giáo Lí Công Giáo, 2417 107
Nt., 2418 108
Nt., 2415 109
Thông điệp ngày hoà bình thề giới 1990, 6: L’Osservatore Romano (Đức) Năm 19, Số 50 (15. 12.1989), tr. 7;
AAS 82 (1990), tr. 150. 110
. Diễn văn đọc trước Viện Giáo Tông Các Khoa Học (3. Oktober 1981), 3: L’Osservatore Romano (Đức)
Năm 11, Số 48 (27. 11.1981), tr. 10; Insegnamenti 4/2 (1981), tr. 333. 111
Thông điệp ngày hoà bình thề giới 1990, 7: L‘Osservatore Romano (dt.) Năm 19, Số 50 (15. 12.1989), tr.
7; AAS 82 (1990), tr. 151. 112
Gio-an Phao-lô II, Diễn văn trong đại hội lần thứ 35 của Hiệp Hội Y Sĩ Thế Giới (29.101983), 6: AAS 76
(1984), tr. 394.
42
chúng có những thay đổi rất khác nhau và đòi hỏi phải có những lối nhận định khác nhau. Mặt
khác, các rủi ro chẳng phải bao giờ cũng do chính kĩ thuật tạo ra, mà là do sự ứng dụng chúng
không khéo hoặc quá trớn. Thật ra, các biến thái di truyền trong quá khứ và hiện tại thường do
chính thiên nhiên tạo ra. Các thay đổi diễn ra do sự can thiệp của con người cũng chẳng phải
là một hiện tượng mới mẻ của thời nay. Việc thuần hóa thú vật, việc lai giống và các thực
hành xưa cũ khác vốn được chấp nhận rộng rãi có thể được kể vào khung suy tư này. Ta cần
nhớ rằng, việc con người tạo biến đổi di truyền của các ngũ cốc xuất phát từ sự quan sát tiến
trình thay đổi của một vi khuẩn, vi khuẩn này tự nó đã tạo ra một biến đổi bộ di truyền nơi
một thực vật. Nhưng trong thiên nhiên, quy trình biến đổi diễn ra chậm, không thể so sánh
được với tốc độ nhanh do các tiến bộ kĩ thuật hiện đại tạo ra, cho dù các tiến bộ này được xây
trên nền tiến triển khoa học đã kéo dài từ nhiều thế kỉ.
134. Dù hiện không có bằng chứng thuyết phục về những nguy hại có thể có trên con người
do việc biến đổi di truyền ngũ cốc gây ra - và trong một vài vùng việc dùng những loại ngũ
cốc này đã mang lại phát triển kinh tế giúp giải quyết nhiều vấn đề -, thì trước sau vẫn tồn
đọng nhiều khó khăn quan trọng, mà ta không thể coi thường được. Tại nhiều nơi, sau khi du
nhập các loại cây nông nghiệp này, đất canh tác màu mỡ dần tập trung vào tay một số ít điền
chủ, do bởi „các nhà sản xuất nhỏ từ từ biến mất, vì mất đất canh tác họ buộc phải rút khỏi
việc sản xuất trực tiếp”113
. Những kẻ yếu kém nhất trở thành dân lao động tạm thời, và nhiều
nông dân cuối cùng kéo nhau vào các khu ngoại ô nghèo nàn ven các thành phố. Sự bành
trướng các loại cây nông nghiệp này có hậu quả phá hủy mạng lưới phức tạp của các hệ sinh
thái, làm suy giảm đa dạng sản xuất và ảnh hưởng trên các nền kinh tế hiện nay và mai sau
của địa phương. Trong nhiều nước, chúng ta thấy có chiều hướng hình thành những tập đoàn
thống lãnh thị trường sản xuất ngũ cốc và các sản phẩm cần thiết khác cần cho quốc gia họ.
Và việc sản xuất các ngũ cốc vô trùng lại càng làm cho tình trạng lệ thuộc trở nên trầm trọng,
vì rốt cuộc các nông dân bị bó buộc phải mua ngũ cốc của các nhà sản xuất lớn.
135. Rõ ràng, cần phải luôn quan tâm theo dõi vấn đề trên mọi khía cạnh liên quan đến đạo
đức. Vì thế, phải có một cuộc thảo luận rộng rãi và đầy trách nhiệm về mặt khoa học và xã
hội; một cuộc thảo luận có khả năng thu tập được mọi thông tin sẵn có và đi thẳng được vào
vấn đề. Nhiều khi các thông tin đã không được trình bày đầy đủ, mà vì quyền lợi – hoặc mang
tính chính trị, kinh tế hay ý hệ - người ta đã chỉ đưa ra một số chọn lọc mà thôi. Điều này
khiến ta khó có được một phán quyết cân bằng và khôn ngoan cho các vấn đề khác nhau,
những vấn đề vốn đòi hỏi phải được nhìn trong liên quan nhiều mặt. Cần có chỗ thảo luận, để
tất cả những ai trực tiếp hoặc gián tiếp liên can (nông gia, người tiêu thụ, nhà chức trách, khoa
học gia, nhà sản xuất hạt giống, dân chúng sống gần các đồng ruộng được phun thuốc diệt
trùng, và những kẻ khác) có thể nói lên những khó khăn của mình hoặc có được những thông
tin đầy đủ và đáng cậy, để họ có được những quyết định hướng đến nền công ích hiện tại và
tương lai. Đây là một vấn đề môi sinh phức tạp, đòi hỏi phải nhìn hết mọi khía cạnh khi muốn
giải quyết; và điều này đòi hỏi ít nhất phải nỗ lực hơn nữa trong việc tài trợ những công trình
nghiên cứu độc lập và liên ngành khác nhau, để có thể có được ánh sáng mới cho vấn đề.
136. Mặt khác, cũng có điều thật đáng lo ngại, đó là một vài phong trào môi sinh vốn tranh
đấu cho sự vẹn toàn của môi trường và đưa ra những yêu sách chính đáng đòi hạn chế việc
nghiên cứu khoa học, nhưng đôi khi lại không đòi hỏi áp dụng chính những nguyên tắc đó cho
sự sống con người. Nói chung, họ biện minh cho việc vượt rào của các nhà khoa học, khi
những người này dùng thai phôi người để thí nghiệm. Họ quên rằng, giá trị bất khả nhượng
của một con người nằm bên ngoài các mức độ phát triển của nó. Cũng một lập luận, khi kĩ
thuật bất chấp các nguyên tắc đạo đức chính yếu, nó rốt cuộc sẽ coi mọi thứ thực hành đều
113
Uỷ Ban Giám Mục về Mục Vụ Xã Hội của Á-căn-đình, Una tierra para todos (tháng 6.2005), 19.
43
chính danh hợp lệ. Như chúng ta đã thấy trong chương này, khi kĩ thuật cắt lìa khỏi đạo lí, nó
sẽ rất khó tự hạn chế được quyền lực của nó.
CHƯƠNG 4
Một Môi Sinh Học Toàn Diện
137. Vì mọi thứ đều liên quan với nhau và những vấn nạn hiện nay đòi buộc phải có một cái
nhìn bao quát mọi khía cạnh của cuộc khủng hoảng toàn cầu, tôi đề nghị chúng ta xét tới một
khoa Môi Sinh Học Toàn Diện với nhiều yếu tố khác nhau, trong đó hẳn bao gồm cả chiều
kích nhân sinh và xã hội.
I. Môi Sinh Học về môi trường, kinh tế và xã hội
138. Môi Sinh Học nghiên cứu các quan hệ giữa các sinh vật với môi trường sinh trưởng của
chúng. Điều này cũng đòi hỏi ta phải suy nghĩ và thảo luận xem, đâu là những điều kiện để
sống và để sống còn của một xã hội, và trong suy tư lẫn thảo luận đó chúng ta cần sẵn sàng
thành tâm nghi ngờ về những mô hình phát triển, sản xuất và tiêu thụ hiện nay. Không dư
thừa để nhắc lại rằng, tất cả mọi thứ đều liên thuộc với nhau. Thời gian và không gian không
độc lập với nhau, và ngay cả các nguyên tử và các hạt cơ bản cũng không thể được nhìn như
những thực thể biệt lập. Các phần tử vật lí, hoá học và sinh vật khác nhau trong hành tinh liên
hệ với nhau như thế nào, thì các chủng loài cũng liên kết với nhau như một màng lưới, mà
chúng ta không bao giờ có thể nhận biết và thấu hiểu hết được. Chúng ta cùng có chung với
nhiều sinh vật một phần khá lớn các thông tin di truyền. Vì thế, những cái biết vụn vỡ và rời
rạc sẽ trở thành một thứ thiển cận, nếu chúng không được lồng vào trong một cái nhìn bao
quát về thực tại.
139. Khi đề cập tới „môi sinh“, người ta đặc biệt muốn nói tới quan hệ hiện có giữa thiên
nhiên và xã hội sống trong đó. Điều này khiến ta nghĩ sai rằng, thiên nhiên là một cái gì nằm
ngoài chúng ta, nó đơn giản là một cái khuôn của cuộc sống chúng ta. Không, chúng ta được
lồng trong thiên nhiên, là một phần của nó và sống thẩm thấu trong nhau. Để hiểu nguyên
nhân tác hại môi sinh ở một nơi nào, cần phải phân tích cả cách sinh hoạt của xã hội và kinh
tế, lối hành xử cũng như cách hiểu thực tại của xã hội đó. Trước những biến đổi có tầm mức
rộng lớn, chúng ta không thể tìm ra được một lời giải riêng biệt và độc lập cho mỗi lãnh vực
của vấn nạn. Phải tìm những lời giải bao quát toàn diện, trong đó phải để ý đến các quan hệ
hỗ tương giữa các hệ thống thiên nhiên với nhau và với hệ thống xã hội. Không có hai khủng
hoảng bên nhau, một của thiên nhiên và một của xã hội, nhưng là một khủng hoảng xã hội –
môi sinh duy nhất và phức tạp. Cần phải có một giải pháp toàn diện để diệt nghèo đói, để trả
phẩm giá lại cho những người bị bỏ rơi và đồng thời để bảo trì thiên nhiên.
44
140. Vì tính cách đa diện và phức tạp của vấn đề, việc xét khả năng phù hợp môi sinh của một
dự án cần phải được giao phó phần lớn trách nhiệm cho các nhà nghiên cứu và phải để cho họ
nhiều tự do khi nghiên cứu và làm việc chung. Việc điều nghiên liên tục này có thể cũng giúp
ta biết, các cá thể sinh vật quan hệ với nhau như thế nào và chúng cùng nhau tạo nên những
đơn vị lớn hơn, mà ngày nay ta gọi là những „hệ thống môi sinh“, như thế nào. Qua đó, không
những ta biết được cách nên sử dụng chúng ra sao, mà còn hiểu được đâu là giá trị riêng của
từng loài, những giá trị độc lập với việc sử dụng chúng. Mỗi sinh vật tự nó đều tốt và lạ lùng
thế nào, vì chúng tất cả đều là sản phẩm của Thượng Đế, thì việc sống chung hài hoà giữa
chúng trong một không gian hay „hệ thống“ cũng tốt và lạ lùng như thế. Cả cho dù chúng ta
không ý thức, cuộc sống của chúng ta vốn cũng nằm trong một mạng lưới liên thuộc như thế.
Chúng ta phải hiểu rằng, các hệ thống môi sinh có ảnh hưởng trên việc chuyển hoá thán khí,
lọc nước, ngăn ngừa dịch bệnh, kết cấu đất đai, làm tiêu tán các chất thải và ảnh hưởng trên
nhiều chuyện khác nữa, mà ta không nghĩ hoặc biết tới. Nhiều người, một khi đã ý thức, sẽ
hiểu ra rằng, chúng ta đang sống và hành động trên nền tảng của một thực tại đã được ân ban
cho chúng ta, trước khi ta xuất hiện và nó vượt ra ngoài khả năng tạo tác của chúng ta. Vì vậy,
khi nói tới sự „sử dụng bền vững“, ta phải luôn cùng nghĩ tới khả năng tái sinh của từng hệ
thống môi sinh trong nhiều lãnh vực và bình diện khác nhau của nó.
141. Mặt khác, sự phát triển kinh tế có khuynh hướng tạo ra những tự động hoá và đồng dạng
hoá, nhằm đơn giản hoá các quá trình và giảm thiểu các chi phí. Vì thế, cần có một Môi Sinh
Học kinh tế có khả năng áp đặt một lối nhìn bao quát hơn về thực tại. Là vì „để có được một
phát triển bền vững, việc bảo vệ môi sinh phải là thành phần của tiến trình phát triển và
không được xem nó tách rời khỏi tiến trình đó“114
. Nhưng đồng thời lúc này đây cũng cấp
thiết cần phải có một nền nhân bản; nền nhân bản này vốn tự nó quy hợp các lãnh vực tri thức
khác nhau - trong đó có cả tri thức kinh tế - về một mối, để hướng tới một cái nhìn bao quát
và hoà hợp hơn. Ngày nay, việc phân tích các vấn đề môi sinh không thể tách khỏi việc khảo
sát khung cảnh nhân sự, gia đình, các điều kiện làm việc, các quan hệ thị tứ và tương quan của
mỗi người với chính họ, tương quan này xác định cách thức họ đối xử với người khác và với
môi trường đang sống. Có một tương giao qua lại giữa các hệ thống môi sinh và giữa các lãnh
vực quy chiếu xã hội khác nhau, và qua đó một lần nữa ta thấy „toàn thể vượt lên trên thành
phần“115
.
142. Nếu mọi sự có tương quan với nhau, thì tình trạng lành mạnh của các định chế trong một
xã hội cũng tác động trên môi sinh và trên phẩm chất cuộc sống con người: „Mọi tổn thương
tình đoàn kết và tình huynh đệ công dân đều tạo thiệt hại cho môi sinh“116
. Trong ý nghĩa này,
Môi Sinh Học xã hội đương nhiên mang tính định chế và nó dần dần vươn tới nhiều cấp khác
nhau, bắt đầu từ tế bào nền tảng gia đình, qua làng xã, quốc gia cho tới đời sống quốc tế.
Trong mỗi cấp xã hội và giữa chúng với nhau hình thành nên những định chế điều hoà quan
hệ giữa người và người. Tất cả những gì gây thiệt hại cho các định chế này, đều kéo theo
những hậu quả nguy hại: có thể đó là sự mất tự do hay thiếu công lí và bạo động. Chính quyền
các nước dựa trên một nền tảng tổ chức bất ổn, người dân phải bị thiệt thòi và thành phần
hưởng lợi là những kẻ đục nước béo cò. Đâu đâu trong các cơ quan hành chánh quốc gia,
trong các lãnh vực xã hội hay trong các quan hệ giữa người dân xuất hiện đầy dẫy những hành
vi bất chấp luật pháp. Luật lệ được soạn thảo đúng đắn đấy, nhưng cũng chỉ là những mớ chữ
vô hồn. Trong tình trạng này, ta có thể hi vọng việc làm luật và những điều khoản liên quan
tới môi sinh còn hiệu nghiệm được hay không? Chúng ta dư biết, một số quốc gia có những
114
Tuyên Bố Rio về Môi Sinh và Phát Triển, (14. 06.1992), Nguyên tắc 4. 115
Xem TT Evangelii gaudium (24. 11.2013), 234: AAS 105 (2013), tr. 1116 116
Biển-đức XVI., TT Caritas in veritate (29. 06. 2009), 51: AAS 101 (2009), tr. 687
45
luật lệ bảo vệ rừng rõ ràng, nhưng rừng ở đó vẫn bị phá hoại đều đều. Thêm nữa, điều xẩy ra
trong một vùng này sẽ ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên những vùng khác. Chẳng hạn,
việc tiêu thụ ma tuý trong các xã hội giàu có luôn kéo theo sự gia tăng nhu cầu cung cấp sản
phẩm nơi những miền nghèo đói; trong những miền này chính quyền hư hỏng vì tham nhũng
hối lộ, mạng người bị coi rẻ và rốt cuộc môi sinh bị tàn phá.
II. Môi Sinh Học văn hoá
143. Bên cạnh gia sản thiên nhiên, các gia sản lịch sử, nghệ thuật và văn hoá cũng bị đe doạ
như thế. Các gia sản này là một phần bản sắc chung của một địa phương và là nền tảng cho
việc xây dựng một thành phố có thể sống được. Chẳng phải luôn luôn là điều đáng mong
muốn, khi chúng ta đập bỏ đi cái cũ để dựng lại một thành phố mới, xem ra hợp với môi sinh
hơn. Nhưng cần phải làm sao kết hợp lịch sử, văn hoá, kiến trúc của một nơi chốn, để bản sắc
nguồn cội của nó vẫn được tiếp tục lưu giữ. Vì thế, Môi Sinh Học đòi hỏi việc bảo trì các gia
sản văn hoá – trong nghĩa rộng nhất – của nhân loại. Một cách gián tiếp, nó đòi hỏi phải quan
tâm tới các văn hoá địa phương khi điều nghiên các vấn nạn liên quan đến môi sinh học, bằng
cách để cho các chuyên viên khoa học – kĩ thuật đối thoại với người dân địa phương. Khi nghĩ
đến quan hệ của con người đối với môi sinh, ta phải nghĩ đến văn hoá, không phải chỉ trong ý
nghĩa của những đền đài kỉ niệm quá khứ, nhưng đặc biệt trong ý nghĩa linh hoạt, năng động
và tương tác của chúng.
144. Lối nhìn nặng tiêu thụ của con người, vốn được vận hành bởi bánh xe kinh tế toàn cầu
hoá hiện nay, có khuynh hướng muốn đồng dạng hoá các văn hoá và xoá mờ đi sự đa dạng
văn hoá vốn là một kho báu của nhân loại. Vì vậy, ý hướng muốn giải quyết mọi khó khăn
bằng những điều khoản luật lệ chung hay bằng các áp dụng kĩ thuật, khiến cho người ta quên
mất tính đa tầng của các vấn đề tại địa phương, những vấn đề vốn cần sự góp tiếng nói của
người dân tại chỗ. Những diễn tiến mới trong quá trình phát triển phải được lớn lên từ văn hoá
địa phương riêng, chứ chúng không thể luôn luôn do bàn tay ở ngoài đưa vào lược đồ. Vì
cuộc sống và thế giới luôn ở thế động, nên các cách giải quyết cũng cần phải linh hoạt và
năng động. Các giải đáp thuần tuý kĩ thuật có cơ nguy chỉ chữa được những triệu chứng bên
ngoài, mà không giải quyết được những vấn nạn đích thực. Cần phải nhìn từ quan điểm quyền
lợi của các dân tộc và các nền văn hoá, để từ đó hiểu được rằng, sự phát triển của một nhóm
xã hội đòi hỏi một quá trình lịch sử của một nền văn hoá nhất định nào đó, và nó cũng đòi hỏi
các diễn viên xã hội tại địa phương đó phải là thành phần luôn dấn thân tiên phong, khởi đi từ
văn hoá riêng của họ. Ngay cả khái niệm „phẩm chất cuộc sống“ cũng là thứ ta không thể áp
đặt ý nghĩa cho nó được, mà nó phải được hiều từ bên trong thế giới biểu tượng và thói quen
của một nhóm người nhất định.
145. Nhiều loại hình bóc lột và phá hoại môi sinh rất độc đáo không những có thể làm cạn
kiệt tài nguyên sinh sống của một địa phương, mà còn tiêu diệt luôn các khả năng xã hội,
những khả năng vốn đã giúp cho người dân ở đó có một lối sống riêng, có một căn cước văn
hoá trải qua bao nhiêu đời và giúp họ hiểu ra ý nghĩa của sự sống và của việc chung sống với
nhau. Sự kiện một văn hoá biến mất cũng trầm trọng, đôi khi còn gia trọng hơn, như việc biến
mất một loài vật hay thực vật. Áp lực của một lối sống khuynh đảo, vốn gắn liền với một lối
sản xuất nào đó, cũng có hại không thua gì việc huỷ hoại môi sinh.
146. Trong ý nghĩa đó, cần phải đặc biệt quan tâm tới những cộng đồng thổ dân và các truyền
thống của họ. Họ không đơn giản là một thiểu số trong muôn vàn thiểu số khác, mà phải là tác
nhân đối thoại chính, đặc biệt khi có những dự án lớn xâm phạm vào vùng sinh cư của họ. Là
vì đối với họ, đất đai không phải là một tài sản kinh tế, mà là một tặng phẩm của Thượng Đế
46
và của tổ tiên họ đang an nghỉ trong đó; là một không gian linh thiêng, mà họ phải tương tác
gắn bó, để nuôi dưỡng bản sắc và các giá trị chủng tộc. Khi họ ở lại trong lãnh địa mình, thì
chính họ là người chăm sóc tốt nhất cho đất đai. Nhưng tại nhiều nơi trên thế giới họ đang bị
người khác áp lực chiếm đất, để thực hiện những dự án khai thác mỏ cũng như các kế hoạch
cây trồng và chăn nuôi, mà chẳng quan tâm gì tới việc phá hoại thiên nhiên và văn hoá.
III. Môi Sinh Học trong cuộc sống thường ngày
147. Một phát triển được gọi là đích thực, khi phát triển đó đưa tới một cải tiến toàn diện về
phẩm chất cuộc sống của con người; và điều này có nghĩa là chúng ta cần nghiên cứu không
gian sống của họ. Những gì diễn ra chung quanh ta ảnh hưởng lên cách nhìn cuộc đời, cách
cảm và cách hành động của ta. Đồng thời, chúng ta dùng môi trường trong căn phòng, trong
nhà ở, nơi chỗ làm việc và trong vùng phố của mình để nói lên bản sắc của mình. Chúng ta cố
gắng thích nghi với môi trường, nhưng trong một môi trường vô trật tự, hỗn loạn hay bị quá
tải về âm thanh và thị giác, thì những kích thích thái quá này sẽ khiến ta khó có thể tạo được
một bản sắc thích ứng và hạnh phúc cho mình.
148. Với những người hay nhóm người có khả năng tháo gỡ được những hạn chế của môi
trường, bằng cách làm thay đổi các hậu quả và điều kiện bất lợi và biết cách điều hoà được
cuộc sống mình trong cảnh ngổn ngang và bất an đó, thì óc sáng tạo và lòng bao dung của họ
thật đáng phục. Chẳng hạn như ở một vài nơi, mặt tiền nhà ở của họ xuống cấp trầm trọng,
nhưng những con người đáng kính đó đã cố gắng bảo trì các phòng ốc bên trong hay họ vẫn
cảm thấy sống thoải mái vì lòng nhiệt thành và giao tình của người chung quanh. Cuộc sống
xã hội tích cực và thoải mái của bà con làm toả sáng lên không gian sống xem ra bất lợi chung
quanh. Đôi khi Môi Sinh Học nhân sinh quả đáng khen, nó giúp cho những người nghèo có
thể triển nở được giữa muôn vàn sự hạn chế. Cảm giác bị gò bó vì nhà cửa phòng ốc chật hẹp
trong một không gian quá đông người sẽ được tháo gỡ, khi người ta cùng nhau tạo lập được
những quan hệ thân thiết ấm cúng, khi họ cùng nhau hình thành được những cộng đoàn, khi
những hạn chế môi trường trong lòng mỗi người được cân bằng bởi cảm giác gần gũi vì mình
được chấp nhận trong mạng lưới cộng đồng. Có như thế, bất kì một địa phương nào cũng sẽ
không còn là hoả ngục nữa, trái lại nó trở thành nơi chốn cho một cuộc sống đáng sống.
149. Rõ ràng, những hoàn cảnh sống quá thiếu thốn, trong đó không có chỗ cho sự hài hoà và
cơ hội hội nhập, là môi trường thuận lợi cho những lối hành xử bất nhân và những lạm dụng
của các tổ chức tội phạm. Những thúc ép khó khăn hàng ngày có thể xô đẩy người dân trong
các sinh cư có vấn đề tại các thành phố lớn vào lối sống nặc danh, mất gốc, dẫn tới những
hành động phi tập thể và sẵn sàng bạo động. Dù vậy, tôi muốn nhấn mạnh rằng, yêu thương
vẫn là yều tố mạnh hơn. Trong những hoàn cảnh này, nhiều người vẫn có khả năng thắt chặt
mối dây liên kết và chung sống, họ phá tung cái tôi và cánh cửa ích kỉ, để biến những o ép
thành kinh nghiệm hợp đoàn. Kinh nghiệm cứu độ tập thể này thường dẫn tới những phản ứng
sáng tạo, để cùng nhau sơn phết làm đẹp lại một ngôi nhà hay một khu phố 117
.
150. Do sự tương tác giữa không gian và lối hành xử của con người, những người làm dự án
cho nhà cửa, khu phố, các điểm công cộng và các thành phố cần sự trợ lực của nhiều lãnh vực
chuyên môn khác nhau, để giúp họ hiểu ra được những diễn tiến, những biểu tượng và cách
hành xử của con người. Có được một công trình đẹp, chưa đủ, vì có những cái đẹp khác quý
117
Một vài tác giả nhắc tới các giá trị, mà người ta vẫn thường xếp vào „villas“, chabolas hoặc „favellas“ trong
Lateinamerika lebt: Xem Juan Carlos Scannone SJ, “La irrupción del pobre y la lógica de la gratitud”, trong:
Juan Carlos Scannone y Marcelo Perine (Hrsg.), Irrupcíon del pobre y quehacer filosófico. Hacia una nueva
racionalidad, Buenos Aires 1993, tr.. 225-230.
47
hơn, như phẩm chất sống của con người, việc thích ứng của họ vào môi trường, việc họ gặp
gỡ và giúp đỡ nhau. Do đó, điều rất quan trọng: phải luôn quan tâm tới quan điểm của người
dân sống tại chỗ khi nghiên cứu các dự án thành phố.
151. Các công viên, cảnh quang và những tụ điểm thành phố cần phải được chăm sóc. Bởi vì
chúng tạo cho ta cảm giác gắn bó, bám rễ và cảm tưởng rằng, chúng ta đang „ở nhà“ trong
một thành phố vẫn vươn tay ôm ấp và dẫn ta về một mối. Các khu phố cần có sự hội nhập tốt
và người dân làm sao có được cái nhìn tổng thể, chứ không sống tách biệt mỗi khu mỗi phố
và không có cảm tưởng rằng, toàn thành phố và dân thành này chẳng dính dáng gì tới tôi cả.
Mọi biện pháp chỉnh trang cảnh quang có lẽ cần nhận thức điểm này: các yếu tố khác nhau
của một địa điểm tạo nên một tổng thể, tổng thể này vốn được người dân ở đó nhìn nhận như
là một hình ảnh liên quan tới kho tàng biểu tượng phong phú của họ. Nhờ vậy, họ không còn
xem ai là người xa lạ nữa và mỗi người đều là một thành phần của cái „chúng ta“ do họ cùng
nhau tạo nên. Và cũng vì thế, cần nên tránh việc sửa đi sửa lại một số địa điểm trong một làng
hay trong một thành phố.
152. Nạn thiếu nhà ở là một vấn đề trầm trọng trong nhiều nơi trên thế giới, cả trong thành
phố lớn lẫn nơi thôn dã, bởi vì ngân sách nhà nước chỉ có thể đáp ứng được một phần nhỏ nhu
cầu mà thôi. Không chỉ người nghèo, mà đa phần xã hội đều gặp khó khăn vô cùng lớn về nhà
ở. Việc sở hữu một căn hộ có liên quan nhiều tới phẩm giá của con ngưởi và tới sự triển nở
của gia đình. Đây là một vấn nạn cốt lõi của Môi Sinh Học nhân sinh. Khi một nơi nào đó
xuất hiện những tụ điểm nhà cửa nhếch nhác và lộn xộn, thì điều đầu tiên nên tính tới, là hãy
đô thị hoá khu sinh cư ấy, chứ đừng nên bứng gốc sống của người dân đi và xua đuổi họ. Khi
cần phải đưa ra chương trình dãn dân hay chuyển cư cho những người nghèo sống trong
những khu ngoại ô bẩn thỉu hay trong những chung cư tập thể nguy hiểm, thì không nên „tạo
thêm đau khổ chồng chất […], trước hết nên thông tin đầy đủ cho họ, đề nghị với họ những
khả thể cư trú khác xứng hợp và cần phải trực tiếp nói chuyện với họ“118
. Đồng thời cần phải
có sáng kiến đưa những khu phố có vấn đề hội nhập vào trong một thành phố hiếu khách.
„Đẹp thay những thành phố vượt thắng được sự nghi ngờ bệnh hoạn, hội nhập được những
người khác vào trong sự khác biệt của mình và biến hội nhập này thành một yều tố phát triển!
Đẹp thay những thành phố mà trong đồ án kiến trúc của chúng sẵn có những không gian tạo
thuận lợi cho việc nối kết, lập quan hệ và chấp nhận những kẻ khác!“119
.
153. Phẩm chất sống trong các thành phố có liên quan nhiều với các điều kiện giao thông,
những điều kiện vốn thường là nguyên nhân gây khổ sở lớn cho người dân. Nhiều xe trong
các thành phố chạy lòng vòng với chỉ một hay hai người trên xe. Dòng giao thông vì thế gặp
khó khăn, mức độ ô nhiễm tăng, tốn kém một lượng nhiên liệu không tái sinh khổng lồ. Do
đó, cần phải xây thêm xa lộ và bãi đậu, nhưng như thế thì các cấu trúc thành phố lại bị ảnh
hưởng. Nhiều chuyên viên đồng ý rằng, phải dành ưu tiên cho các phương tiện giao thông
công cộng. Tuy nhiên một số biện pháp cần thiết, vốn rất khó được người dân dễ dàng chấp
thuận, đã không cải tiến được nhiều tình trạng giao thông; điều này được biển hiện qua việc
đối xử bất công các hành khách trong một số thành phố có quá đông người, phức tạp hoặc vì
thiếu vì phương tiện chuyên chở hay thiếu an ninh.
154. Phải chịu đựng cuộc sống hỗn loạn trong các thành phố thì khó mà nói tới việc công
nhận phẩm giá đặc biệt của con người được. Nhưng điều này cũng không làm ta quên hoặc
không để ý gì tới tình trạng khó khăn của một số người dân thôn quê, nơi thiếu thốn các
118
HĐGTHB & CL, Kompendium der Soziallehre der Kirche, Freiburg 2006, 482. 119
TT Evangelii gaudium (24. 11. 2013), 210: AAS 105 (2013), tr. 1107.
48
phương tiện phục vụ căn bản và nơi có những người thợ bị bạc đãi phải sống trong cảnh nô lệ
và chẳng có hi vọng vào một cuộc sống xứng đáng.
155. Môi Sinh Học nhân sinh cũng bao gồm một khía cạnh rất quan trọng: cần phải thiết lập
tương quan giữa đời sống con người và luật đạo đức, một luật đã được khắc ghi trong tâm tính
của họ. Tương quan này không thể thiếu, nếu muốn xây dựng một môi trường sống xứng đáng
hơn cho con người. Giáo Tông Biển-đức XVI nói, có một „Môi Sinh Học con người“, bởi vì
„con người cũng có một căn tính mà họ phải coi trọng, và họ không thể nhồi nặn căn tính đó
tuỳ hứng“120
. Với quan điểm này, ta phải công nhận, thân xác chúng ta đặt chúng ta trước một
tương quan trực tiếp đối với môi sinh và đối với các sinh vật khác. Cần phải chấp nhận thân
xác mình như là quà tặng của Thượng Đế, để đón nhận và chấp nhận toàn bộ thế giới như là
tặng phẩm của người Cha trên trời và như là ngôi nhà chung; trong khi đó trái lại, lập luận chủ
trương thống trị chính thân xác mình nhiều khi biến thành một thứ lập luận - đôi khi kín đáo –
muốn thống trị tạo dựng. Điều căn bản của một Môi Sinh Học đích thực là tập biết cách chấp
nhận thân xác mình, săn sóc nó và tôn trọng ý nghĩa đa tầng của nó. Cũng cần thiết không
kém là việc tôn trọng phái tính (nam hay nữ) của thân xác mình, để nhận ra chính mình khi
giao tiếp với người khác phái. Có như thế, ta mới có thể vui vẻ chấp nhận khả năng đặc biệt
của anh hay chị khác như là công trình của Thiên Chúa Tạo Dựng và làm giàu cho nhau. Và
cũng chính vì thế, quan điểm muốn „xoá bỏ sự khác biệt phái tính, bởi vì nó không còn biết
phải giải quyết ra sao nữa“121
là một quan điểm thiếu lành mạnh.
IV. Nguyên tắc Công Ích
156. Môi Sinh Học nhân sinh không tách rời khỏi khái niệm Công Ích, một nguyên tắc đóng
vai trò nền tảng và tạo hiệp nhất trong nền đạo đức xã hội. Đó là „toàn bộ những điều kiện
của đời sống xã hội giúp cho các nhóm hay các cá nhân trong nhóm có được sự triển nở đầy
đủ và dễ dàng hơn“122
.
157. Công Ích xuất phát từ việc tôn trọng nhân vị vì nhân vị, một nhân vị với những quyền
căn bản và bất khả chuyển nhượng hướng tới phát triển toàn diện con người. Dựa trên nguyên
tắc Bổ Trợ, Công Ích cũng đòi hỏi hạnh phúc xã hội và sự triển nở của các nhóm trung gian
khác nhau. Trong các nhóm này, tế bào nền tảng gia đình trổi vượt lên trên tất cả. Sau hết,
Công Ích đòi hỏi an bình xã hội, nghĩa là sự ổn định và an ninh của một trật tự nào đó; trật tự
này không thể thực hiện được, nếu không có sự quan tâm đặc biệt đối với công lí phân phối,
bởi vì việc gây tổn thương nền công lí này luôn tạo ra bạo hành. Toàn bộ xã hội – trong đó
đặc biệt có nhà nước – có bổn phận phải bênh vực và hỗ trợ Công Ích.
158. Trong tình hình xã hội toàn cầu hiện nay, trong đó có quá nhiều bất công xã hội và càng
ngày càng có nhiều người bị đẩy ra lề và bị cướp mất các nhân quyền căn bản, nguyên tắc
Công Ích - được coi là một hệ quả đương nhiên và không thể tránh được - tức khắc trở thành
một lời hô hào đoàn kết và là một chọn lựa ưu tiên cho những người nghèo khổ nhất. Chọn
lựa này đòi hỏi phải rút ra những hậu quả về sự quy định chung đối với các của cải trên địa
cầu; nhưng, như tôi đã cố gắng trình bày trong lá thư Evangelii gaudium 123
- nó đòi hỏi trước
hết phải nhận biết phẩm giá vô biên của người nghèo dưới ánh sáng các xác tín đức tin sâu xa
120
Diễn văn đọc trước Quốc Hội Đức ở Berlin (22. 09.2011): L’Osservatore Romano (Đức) Năm 41, số 39 (30.
09.2011), tr. 5; AAS 103 (2011), tr. 668. 121
Buổi tiếp chung (15. 04. 2015), L’Osservatore Romano (Đức), Năm 45 (2015), Số 17 (24. 04.2015), tr. 2. 122
Công Đồng Chung Vaticano II, Hiến chế mục vụ Gaudium et spes, 26: AAS 58 (1966) tr. 1046. 123
Xem Số 186-201: AAS 105 (2013), tr. 1098-1105.
49
nhất. Chỉ cần nhìn vào thực tế, để hiểu rằng, trong thời điểm hiện nay chọn lựa này là một yêu
sách đạo đức căn bản cho việc thực hiện Công Ích cách hữu hiệu.
V. Công lí xuyên thế hệ
159. Khái niệm Công Ích cũng bao gồm cả những thế hệ tiếp nối. Các cuộc khủng hoảng kinh
tế thế giới đập vào mắt ta với những tàn phá ghê gớm, đã cho thấy, khi chúng ta không nhận
ra mình cùng chung một số phận, trong đó có cả những thế hệ mai sau, thì hậu quả có thể sẽ
khủng khiếp như thế nào. Không có đoàn kết thế hệ, sẽ không thể có phát triển bền vững. Khi
ta nghĩ tới việc phải để lại những gì trên địa cầu này cho các thế hệ mai sau, đó là lúc ta bước
sang một luận lí khác, luận lí về tặng phẩm được ban tặng cho ta và ta phải trao đi tiếp. Một
khi trái đất được trao ban cho ta, thì ta không còn có thể nghĩ tới tiêu chuẩn hiệu năng duy lợi.
Ở đây, ta không nói tới một thái độ chọn lựa, nhưng tới một câu hỏi nền tảng về công lí, bởi vì
trái đất mà chúng ta nhận được cũng thuộc về những kẻ sẽ tới sau chúng ta. Các giám mục bồ-
đào-nha đã yêu cầu phải nhận lấy trách nhiệm công lí đó: „Môi sinh đặt nền trong lô-gic nhận
lãnh. Nó là một của cải vay mượn, mà mỗi thế hệ nhận lãnh phải trao đi tiếp cho thế hệ kế
tiếp“124
Một Môi Sinh Học toàn diện có cái nhìn xa rộng như thế.
160. Chúng ta muốn trao lại cho thế hệ con em đang lớn lên của chúng ta thứ trái đất nào?
Câu hỏi này không đặt ra cho từng phần môi sinh, là vì ta không thể nào chia nhỏ vấn đề ra
được. Khi chúng ta đặt vấn đề về chuyển tiếp sinh môi, chúng ta muốn nói đến trước hết chiều
hướng phát triển chung của nó, các giá trị và ý nghĩa của nó. Khi câu hỏi căn bản này không
được chú ý tới, tôi không tin các nỗ lực môi sinh của chúng ta sẽ có thể có được những âm
hưởng quan trọng. Nhưng nếu nó được can đảm đặt ra, tất nhiên nó sẽ dẫn chúng ta tới những
câu hỏi rất trực tiếp khác: Tại sao chúng ta sống trong thế giới này, tại sao chúng ta lại đi vào
cuộc sống này, tại sao chúng ta làm việc và nỗ lực, tại sao chúng ta cần trái đất này? Vì thế,
chẳng cần phải nói thêm, là chúng ta phải lo lắng cho các thế hệ tiếp nối. Chúng ta cần ý thức
rằng, chính phẩm giá của chúng ta đang gặp nguy hiểm. Chúng ta là những người đầu tiên
quan tâm tới việc muốn để lại cho nhân loại đang tới sau chúng ta một địa cầu có thể sống
được. Đấy là là một bi kịch cho chính chúng ta, vì nó soi mói tới ý nghĩa của chính cuộc sống
chúng ta trên địa cầu này.
161. Chúng ta không thể coi thường hoặc mỉa mai những dự đoán đầy nguy hiểm đã được đưa
ra. Chúng ta có thể sẽ để lại cho các thế hệ sau quá nhiều gạch vụn, sa mạc và rác rưởi. Nhịp
độ tiêu thụ, sự hoang phí và và sự biến đổi môi trường đã vượt qua khả năng của hành tinh
chúng ta, đến nỗi lối sống không phanh hiện nay chỉ có thể kết thúc trong các tai hoạ, như
chúng ta vẫn thấy xẩy ra đều đặn ở một vài nơi. Các hậu của của tình trạng mất cân bằng hiện
nay có thể giảm ảnh hưởng tuỳ theo những gì ta làm hiện nay, nhất là tuỳ vào ý thức trách
nhiệm của chúng ta đối với những người sau này sẽ phải nhận hậu quả.
162. Cái khó khiến chúng ta không hết sức quan tâm tới thử thách này có liên quan với sự suy
đồi đạo đức và văn hoá kéo theo suy đồi môi sinh. Con người hậu hiện đại luôn đang gặp
nguy hiểm vì quá cá nhân chủ nghĩa; và nhiều vấn đề xã hội có dây mơ rễ má với chủ nghĩa
ăn xổi và ích kỉ hiện nay, với các khủng hoảng gia đình và các quan hệ xã hội, với những khó
khăn chấp nhận người đồng loại. Thường thói quen tiêu xài quá lố của cha mẹ gây tác hại trực
tiếp trên con cái, khiến cho con cái khó có được một mái nhà hay tạo lập được một gia đình
riêng. Nỗi bất lực khiến chúng ta không thể quan tâm nghĩ đến các thế hệ tương lai được,
cũng là cái bất lực của chúng ta trong việc mở rộng các quyền lợi hiện tại và nghĩ tới những
124
HĐGM Bồ-đào-nha, Thư chung Responsabilidade solidária pelo bem comum (15. 09.2003), 20.
50
người bị đẩy ra bên ngoài dòng chảy phát triển. Đừng chỉ nghĩ tới những người nghèo trong
tương lai mà thôi. Mà hãy nghĩ tới những người nghèo hiện nay, thế cũng đủ rồi, họ chỉ sống
được có ít năm trên trái đất và họ không thể chờ đợi thêm được nữa. Vì thế, „bên cạnh một
đoàn kết chân thành xuyên thế hệ […] ta cũng cần phải nhấn mạnh tới sự khẩn thiết đạo đức
về một tình đoàn kết đổi mới trong thế hệ“125
.
CHƯƠNG 5
Vài tiêu chí để định hướng và hành động
163. Tôi đã cố gắng phân tích tình trạng hiện nay của nhân loại, trong đó có cả những đổ vỡ
trên hành tinh chúng ta đang sống lẫn những nguyên nhân phá huỷ môi sinh do con người tạo
ra. Việc phân tích thực tại này đặt chúng ta trước nhu cầu cần phải thay đổi đường lối và nó
đã đề ra cho chúng ta một số biện pháp cần làm. Giờ đây tôi muốn đề nghị những con đường
chung cho việc đối thoại, chúng sẽ giúp ta thoát ra khỏi dòng xoáy tự huỷ, mà mình đang lặn
ngụp trong đó.
I. Đối thoại môi sinh trong chính trị quốc tế
164. Từ giữa thế kỉ trước và sau khi vượt thắng nhiều khó khăn, chúng ta đã dần dần ý thức
được rằng, hành tinh này là quê hương và nhân loại là một dân tộc cùng đang chung sống
dưới một mái nhà chung. Một thế giới liên thuộc không chỉ có nghĩa là những hậu quả tai hại
về lối sống, cách sản xuất và thói tiêu thụ đều ảnh hưởng trên tất cả mọi người, song trước hết
nó có nghĩa là phải đề ra những giải đáp xuất phát từ một viễn ảnh toàn cầu, chứ không phải
chỉ để bảo vệ quyền lợi cho một vài quốc gia. Sự liên thuộc đòi hỏi ta phải nghĩ tới một thế
giới duy nhất và một chương trình chung. Nhưng chính cái trí khôn tạo nên sự phát triển kĩ
thuật vượt bực đã không có khả năng tìm ra được những hình thái hữu hiệu cho một lãnh đạo
(leaderships) quốc tế, hầu giải quyết được các vấn nạn môi sinh nghiêm trọng và các khó khăn
nguy kịch của xã hội. Các biện pháp của từng quốc gia riêng rẽ không thể giải quyết được
những vấn nạn nền tảng. Ở đây, chúng ta nhất thiết phải cần một sự đồng thanh toàn cầu,
chẳng hạn, để đặt kế hoạch cho một nền nông nghiệp đa dạng và bền vững, để phát triển
những hình thái năng lượng có thể tái tạo và hợp môi sinh tối đa, để nâng cao hiệu năng trong
việc sử dụng năng lượng, để thúc đẩy việc quản lí đúng đắn hơn các tài nguyên từ rừng và
biển và để bảo đảm cho mọi người có nước sạch để dùng.
165. Chúng ta biết, kĩ thuật ngày nay đặt nền trên việc đốt các nguyên liệu hoá thạch lấy từ
lòng đất – đó là những thứ rất có hại cho môi sinh như than và dầu hoả, còn khí đốt thì ít hại
hơn. Cần phải thay thế những nguyên liệu này càng sớm càng tốt. Bao lâu chưa có đủ những
nguồn nhiên liệu có thể tái tạo, mà lẽ ra người ta đã phải bắt đầu khai thác rồi, chúng ta có thể
125
Biển-đức XVI., Thông Điệp ngày hoà bình thế giới 2010, 8: L’Osservatore Romano (Đức) Năm 39, Số. 52/53
(25. 12.2009), tr. 5; AAS 102 (2010), tr. 46; AAS 102 (2010) tr. 45.
51
còn chấp nhận việc tiếp tục sử dụng hạn chế những nguyên liệu ô nhiễm kia như là những giải
pháp chuyển tiếp. Nhưng cộng đồng quốc tế đã không đạt được những thoả thuận đầy đủ về
trách nhiệm của những người phải chịu chi phí cho việc chuyển đổi năng lượng. Trong các
thập niên qua, vấn đề môi sinh đã dấy lên những cuộc tranh luận công khai, nhờ đó xã hội dân
sự có được nhiều dấn thân mạnh mẽ và quảng đại. Nhưng chính trị và các tập đoàn kinh tế đã
phản ứng rất chậm, hoàn toàn không theo kịp được các thách đố toàn cầu. Với hiện trạng đó ta
có thể nói: Trong khi nhân loại thời hậu kĩ nghệ có lẽ sẽ bị lịch sử phê phán như là một trong
những loại người vô trách nhiệm nhất, thì loài người của đầu thế kỉ 21 hi vọng sẽ được ghi
nhận như là những người hào hiệp nhận lấy trách nhiệm to lớn vào mình.
166. Phong trào bảo vệ môi sinh trên thế giới đã có một bước đi dài và được phong phú hoá
bằng nỗ lực của nhiều tổ chức xã hội dân sự. Ở đây không thể kê ra hết được danh tính của
mọi tổ chức cũng như lịch sử những đóng góp của họ. Song nhờ sự dấn thân của họ, các vấn
nạn môi sinh càng ngày càng đi vào nghị trình công và trở thành lời mời gọi cho những suy tư
đường dài. Dù vậy, các cuộc họp quốc tế về môi sinh trong những năm gần đây đã không đáp
ứng được mong đợi, người ta đã không đạt được những thoả thuận thực sự hữu hiệu và quan
trọng, vì thiếu quyết tâm chính trị.
167. Điển hình là cuộc nghị hội về địa cầu năm 1992 ở Rio de Janeiro. Ở đó người ta tuyên
bố: „Con người là tâm điểm của các nỗ lực hướng tới một nền phát triển bền vững“126
. Dựa
vào nội dung của bản Tuyên Bố Stockholm (1972), người ta long trọng chấp nhận việc hợp
lực quốc tế hành động để bảo vệ hệ thống môi sinh trên toàn địa cầu; người ta xác nhận việc
đòi bồi thường tài chánh đối với những ai gây ô nhiễm môi sinh; xác nhận việc kiểm tra về
mặt môi sinh đối với mọi dự án hay chương trình lớn. Người ta đề nghị ấn định lượng khí thải
tối đa được phép trong bầu khí quyển, hầu ngăn chặn đà nóng lên của địa cầu. Một nghị trình
với chương trình hành động và một thoả ước về đa dạng sinh thái cũng được soạn thảo, và
một tuyên ngôn nền tảng về rừng cũng được phổ biến. Dù kết quả cuộc nghị hội vượt ngoài
mọi mong ước và mang tầm vóc tiên tri đối với thời đó, nhưng các thoả thuận đã ít được thực
hiện, vì thiếu những cơ chế thích hợp để kiểm tra, để tái soát định kì và chế tài những kẻ bất
tuân. Cần phải có những phương tiện nhanh và hữu hiệu để thực hiện chương trình do các
nguyên tắc đề ra.
168. Hai thoả ước sau đây là những kinh nghiệm tích cực: Quy Ước Basel về chất thải độc
hại, trong đó đề ra một hệ thống thông báo, kiểm tra và các quy chuẩn căn bản, và Thoả Ước
Washington về bảo vệ các loài, trong đó quy định việc mua bán quốc tế các thực và động vật
có nguy cơ diệt chủng và quy định việc kiểm tra thực hiện. Nhờ Thoả Ước Wien bảo vệ tầng
Ô-zôn, được thực hiện và điều chỉnh qua Biên Bản Montreal, mà người ta xem ra đang thành
công trong việc giải quyết vấn đề hạn chế tầng khí đó.
169. Về mặt giữ đa dạng sinh thái và ngăn cản sa mạc hoá, không có những thành công đáng
kể. Về mặt biến đổi khí hậu, hiện có rất ít tiến bộ. Việc giảm khí nhà kính (Treibhausgas) đòi
hỏi thực tâm, can đảm và trách nhiệm đặc biệt của các quốc gia quyền lực nhất và gây ô
nhiễm môi sinh mạnh nhất. Nghị Hội Liên Hiệp Quốc ở Rio de Janeiro năm 2012, gọi tắt
„Rio+20“, về phát triển bền vững đã ra một tuyên bố bế mạc tỉ mỉ nhưng chẳng hiệu quả. Các
đàm phán quốc tế không đạt được tiến bộ đáng kể nào, vì một số nước đặt quyền lợi mình
quan trọng hơn công ích địa cầu. Những ai sẽ phải gánh chịu hậu quả, mà chúng tôi không
muốn kê ra đây, sẽ ghi nhớ việc thiếu lương tâm và trách nhiệm này. Trong khi Thông Điệp
đang được soạn thảo, cuộc thảo luận về biến đổi khí hậu đang diễn ra gay gắt. Ki-tô hữu
chúng ta cần tiếp tục cầu xin Thiên Chúa, để những tranh luận đang diễn ra có được những
126
Tuyên Bố Rio về Môi Sinh Và Phát Triển (14.06.1992), Nguyên tắc 1
52
tiến bộ cụ thể, hầu các thế hệ hậu sinh khỏi phải gánh chịu những hậu quả gây ra bởi những trì
hoãn cẩu thả này.
170. Một vài chiến lược hạ thấp lượng khí thải có hại cho môi sinh đang tìm cách quốc tế hoá
các chi phí môi sinh; điều này có nguy cơ là các quốc gia vốn ít tài nguyên phải gánh chịu
nhiều cam kết nặng nề về việc giảm lượng khí thải, so ra thì không thua gì các nước có mức kĩ
nghệ hoá cao nhất. Việc áp đặt những biện pháp này ảnh hưởng tiêu cực trên các nước đang
cần phát triển nhiều nhất. Như vậy, việc bảo vệ môi sinh lại tạo ra một sự bất công mới, vốn
luôn đè nặng lên vai các quốc gia yếu kém nhất. Bởi các hậu quả của biến đổi khí hậu rồi đây
sẽ xuất hiện trong thời gian dài, nên cho dù các biện pháp khắt khe được áp dụng ngay từ bây
giờ, thì một số nước ít tài nguyên vẫn cần sự giúp đỡ, để họ thích ứng được với các ảnh hưởng
vốn đã xuất hiện và đang làm hại nền kinh tế của họ. Trước sau gì thì cũng phải có những
trách nhiệm chung, nhưng trách nhiệm này cần được phân chia đúng người đúng chỗ, vì như
các giám mục ở Bolivien đã nói: „các nước nhờ lượng khí thải nhiều mà đạt được mức kĩ
nghệ hoá cao phải mang trách nhiệm nhiều hơn trong việc giải quyết các vấn nạn do họ gây
ra“127
.
171. Kế hoạch mua bán các „chứng chỉ khí thải“ có thể là cơ hội cho một loại đầu cơ mới, và
nó có lẽ không thích hợp cho biện pháp giảm khí thải có hại cho môi sinh trên toàn cầu.
Phương pháp này xem ra là một lối giải quyết nhanh và gọn. Lối giải quyết xem ra phản ảnh
một sự dấn thân cho môi sinh nào đó, song hoàn toàn không tạo nên một đổi thay tận căn nào
tương ứng với hoàn cảnh. Trái lại, nó có thể biến thành một cái cớ khiến người ta không còn
nhận ra vấn đề đích thực và nó cho phép hỗ trợ sự tiêu thụ quá lố trong một số quốc gia và
trong một số lãnh vực.
172. Các nước nghèo có nhu cầu cấp thiết phải ưu tiên thanh toán nạn nghèo đói trong nước
mình và phát triển người dân về mặt xã hội; cũng như phải phân tích lối tiêu xài tai tiếng nơi
một số tầng lớp ưu tú và phải kiểm soát tốt hơn chuyện tham nhũng hối lộ. Họ cũng phải phát
triển các hình thái tạo năng lượng phù hợp với môi sinh. Nhưng để thực hiện điều này, các
nước có mức phát triển cao với lượng khí thải độc hại lớn phải giúp họ lập phương án. Việc
sử dụng trực tiếp năng lượng mặt trời, là thứ vốn có sẵn và phong phú, đòi hỏi phải thiết lập
những cơ chế và trợ giúp, để các nước kém phát triển có thể tiếp cận được sự chuyển giao kĩ
thuật, có được những trợ giúp kĩ thuật và tài chánh, nhưng ở đây luôn phải quan tâm tới
những điều kiện cụ thể, bởi vì „sự tương hợp giữa các công trình xây dựng với nội dung mà
người ta soạn thảo cho chúng chẳng phải bao giờ cũng được lượng giá cách đúng đắn và phù
hợp“128
. Các chi phí có thể sẽ rất nhỏ, nếu ta đem so sánh với các nguy cơ có thể xẩy ra do
biến đổi khí hậu. Dù sao, đây trước hết là một quyết định đạo đức đặt nền tảng nơi sự đoàn
kết giữa các dân tộc.
173. Vì các thẩm cấp địa phương quá yếu, nên vô cùng cấp thiết phải có những thoả thuận
quốc tế, thì việc thực thi mới hiệu quả được. Quan hệ giữa các quốc gia phải tôn trọng chủ
quyền mỗi nước, nhưng cũng phải cùng nhau ấn định những phương cách nhằm ngăn ngừa
các thảm hoạ địa phương, vì kì cùng ra chúng sẽ gây thiệt hại cho tất cả mọi phía. Còn thiếu
những thẩm cấp quốc tế có quyền đưa ra những trói buộc và có thể cản ngăn những hành động
khó chấp nhận, như việc cấm các nước mạnh xuất cảng các phế liệu và kĩ nghệ độc hại cho
môi sinh sang các nước khác.
127
HĐGM Bolivien, Thư mục vụ về Môi sinh và Phát triển con người ở Bolivien El universo, don de Dios para
la vida (2012), 86. 128
Hội Đồng Giáo Tông Về Hoà Bình Và Công Lí (HĐGT HB&CL), Energia, Giustizia e Pace, Vatikan 2013,
IV, 1, tr. 56.
53
174. Cũng cần nói tới việc quản lí các đại dương. Dù đã có nhiều thoả ước cấp quốc tế và
miền, nhưng vì chúng quá phân tán và thiếu các cơ chế để quy định, kiểm soát và chế tài, nên
các nỗ lực cho tới nay đều thất bại. Lượng rác càng ngày càng tăng trên biển cũng như công
tác bảo vệ các miền biển bên ngoài biên giới quốc gia vẫn là một thách đố nặng nề. Vì thế,
chúng ta rốt cuộc cần có một hiệp định liên quan tới việc ấn định quy chế trật tự và cấu trúc
của toàn lãnh vực được gọi là „công ích toàn cầu“.
175. Lối lí luận ngăn cản chúng ta đưa ra những quyết định hữu hiệu để chận khuynh hướng
nóng lên của địa cầu cũng là những lí lẽ làm ta bó tay trong việc tiêu diệt nạn nghèo đói.
Chúng ta cần một phản ứng trải rộng khắp thế giới và có trách nhiệm trong nỗ lực vừa hạn
chế ô nhiễm môi sinh vừa giúp phát triển các nước và vùng nghèo đói. Trong thế kỉ 21, một
mặt ta thấy hệ thống nhà nước cũ vẫn được tiếp tục lưu giữ, nhưng mặt khác có sự thoái trào
quyền lực của các quốc gia dân tộc, đặc biệt do khuynh hướng lấn át quyền lực của các tổ
chức kinh tế và tài chánh xuyên quốc gia. Trong hoàn cảnh này, nhất thiết phải có những định
chế quốc tế mạnh và hữu hiệu với đủ thẩm quyền và sức mạnh, được các chính quyền quốc
gia thoả thuận trao phó một cách công bằng, để có thể đưa ra những chế tài. Cũng trong tinh
thần của học thuyết xã hội đã đề ra của Giáo Hội, Giáo Tông Biển-đức XVI đã xác định: „Để
điều hướng nền kinh tế thế giới, lành mạnh hoá những nền kinh tế suy sụp vì khủng hoảng,
ngăn ngừa khủng hoảng khỏi thêm gia trọng và từ đó làm tăng tình trạng mất cân đối sẵn có,
để thực hiện một cuộc tài giảm binh bị toàn diện và thích hợp, cũng như bảo đảm được hoà
bình và an toàn thực phẩm, bảo vệ được môi sinh và điều hoà được những cuộc di dân, sự
hiện diện của một quyền uy chính trị thế giới là điều vô cùng khẩn thiết, như vị tiền nhiệm
của tôi [thánh] Giáo Tông Gio-an XXIII đã nói tới“129
. Trong viễn tượng này, ngoại giao có
một nhiệm vụ quan trọng hoàn toàn mới trong việc thúc đẩy những chiến lược quốc tế, nhằm
đón đường những vấn nạn nguy kịch nhất, hầu tránh thiệt hại cho tất cả mọi dân mọi nước.
II. Đối Thoại trước những quan niệm chính trị mới mang tầm
quốc gia và địa phương
176. Kẻ thắng người thua không chỉ có giữa các quốc gia khác nhau, mà cả trong nội bộ
những nước nghèo, là nơi cần phải đề ra những trách nhiệm cụ thể rõ ràng. Vì thế, những vấn
nạn liên quan tới sự phát triển môi sinh và kinh tế không chỉ giải quyết theo những khác biệt
giữa các quốc gia, mà chúng còn là nội dung các chương trình chính trị của mỗi quốc gia và
địa phương.
177. Trước nguy cơ sử dụng vô tội vạ các khả năng con người, nhiệm vụ cấp thiết của mỗi
nước là phải có những hoạch định, điều hợp, thanh tra và chế tài trong phạm vi nước mình.
Làm sao một xã hội có thể quy định và canh chừng sự phát triển của mình trong một thế giới
không ngừng nẩy sinh những cải tiến kĩ thuật? Luật pháp là yếu tố có khả năng tạo trật tự, nó
dựa trên công ích đưa ra những quy định cho lối ứng xử phải phép. Các biên giới, mà một xã
hội lành mạnh, trưởng thành và độc lập phải quan tâm, gồm có: sự nhìn xa và cẩn trọng, các
quy định hợp lí, canh chừng việc thực thi các quy định, chống tham nhũng, các biện pháp
kiểm tra hữu hiệu những hậu quả ngoài ý muốn trong các tiến trình sản xuất, và can thiệp
trước những nguy cơ bất chừng hoặc có thể xảy ra. Phán quyết toà án phải càng ngày càng
hướng tới việc hạn chế các hoạt động kinh doanh gây ô nhiễm. Nhưng các khung chính trị và
định chế không chỉ được đặt ra để khống chế các thiếu sót, chúng còn có nhiệm vụ khuyến
129
TT Caritas in veritate (29.06.2009), 67: AAS 101 (2009), tr. 700.
54
khích các lối hành xử đúng đắn nhất và kích động óc sáng tạo, hầu tìm ra được những cách
thế giúp các sáng kiến cá nhân và tập thể được thực hiện dễ dàng.
178. Bi kịch của chính sách ăn xổi ở thì, vốn được hoan nghênh bởi các xã hội tiêu thụ, là việc
nhắm tới những phát triển ngắn hạn. Vì quan tâm tới các cuộc bầu cử, các chính quyền không
dễ gì dám đưa ra những biện pháp mất lòng dân, có thể gây hại cho mức tiêu thụ và đầu tư
ngoại quốc. Việc củng cố quyền lực cách thiển cận này khiến cho các chính quyền không dám
đưa vào nghị trình những chương trình môi sinh đường dài. Làm như thế, là người ta quên
rằng „thời gian có giá trị hơn không gian“130
; rằng chúng ta luôn sẽ gặt hái được nhiều hoa
trái hơn, nếu chúng ta quan tâm hơn tới việc giải quyết các tiến trình, hơn là làm chủ các
không gian quyền lực. Chính trị có tầm vóc, là khi trong những tình thế khó khăn người ta
biết hành xử theo những nguyên tắc quan trọng và luôn nghĩ tới công ích lâu dài. Quyền lực
chính trị phải trả một giá mắc, khi dám nhận vào mình một dự án dân tộc như thế.
179. Một vài nơi đã lập những hợp tác xã để khai thác các năng lượng tái chế; họ không
những tự cung cấp năng lượng cho địa phương mình, mà còn có thể bán ra lượng thặng dư.
Thí dụ đơn giản đó cho thấy: Thẩm cấp địa phương có thể làm một cái gì khác, trong khi trật
tự hiện hành của thế giới bất lực trước việc nhận trách nhiệm. Là vì ở địa phương, vì nghĩ tới
việc phải để lại gì cho các thế hệ con cháu, nên người ta đã có thể nhận vào mình một trách
nhiệm lớn hơn, tạo được một tinh thần tập thể mạnh hơn, một khả năng cẩn trọng đặc biệt
hơn, một sáng tạo đại độ hơn và một tình yêu nước. Những giá trị đó đã cắm rễ rất sâu nơi
người dân địa phương. Đôi khi, do tham nhũng, luật pháp tỏ ra bất cập, vì thế cần phải có áp
lực từ phía người dân. Qua các tổ chức ngoài chính quyền và các hiệp hội trung gian, xã hội
dân sự phải buộc chính quyền đưa ra những quy chế, những lối hành xử và kiểm tra. Nếu
người dân không kiểm soát quyền lực chính trị của quốc gia, miền và địa phương, thì họ cũng
không thể kiểm soát được các thiệt hại môi sinh. Mặt khác, các luật lệ địa phương có thể hữu
hiệu hơn, nếu có những giao kết giữa các đơn vị địa phương lân cận, hầu hỗ trợ nhau trong
cùng một chính sách môi sinh.
180. Không thể có được những giải pháp chung, vì mỗi nước, mỗi miền có những vấn đề và
hạn chế khác nhau. Điều này cũng đúng, là thực tế chính trị có thể đòi hỏi những biện pháp và
những kĩ thuật tạm thời, nhưng trong thiết kế phải luôn đề ra sẵn những bước chuyển tiếp có
tính cách bó buộc. Nhưng trong các lãnh vực quốc gia và địa phương luôn có nhiều chuyện để
làm về mặt hỗ trợ những hình thái tiết kiệm năng lượng. Điều này bao hàm sự khuyến khích
việc sản xuất công nghệ sao cho vừa hiệu quả tối đa về năng lượng vừa ít tốn nguyên liệu thô,
bằng cách rút khỏi thị trường những hàng hoá ít hữu lí về mặt năng lượng và có hại cho môi
sinh. Chúng ta cũng có thể nói tới một lối quản lí tốt về giao thông hay những hình thức xây
dựng và sửa sang nhà cửa, qua đó lượng năng lượng sử dụng và mức độ gây ô nhiễm được
giảm bớt. Mặt khác, chính sách ở địa phương cũng có thể làm giảm mức tiêu thụ, tạo phát
triển cho khâu kinh tế giải quyết và tái dụng đồ phế thải, bảo vệ các chủng loài và hoạch định
một nền nông nghiệp đa dạng với nhiều chu kì cây trồng khác nhau. Có thể hỗ trợ việc cải tiến
nông nghiệp trong các vùng nghèo qua các đầu tư vào hệ thống hạ tầng đất đai, vào việc tổ
chức thị trường quốc gia và địa phương, vào các hệ thống tưới tiêu, vào việc phát triển những
kĩ thuật nông nghiệp bền vững và vào nhiều thứ khác. Ta có thể giúp đẩy mạnh các hình thái
hợp tác hay việc tổ chức cộng đồng, đó là những phương cách bảo vệ quyền lợi của các nhà
sản xuất nhỏ và bảo vệ hệ thống môi sinh địa phương khỏi bị phá hoại. Có rất nhiều việc ta có
thể làm!
130 TT Evangelii gaudium (24.11.2013), 222: AAS 105 (2013), tr. 1111.
55
181. Cần nhất là phải có sự liên tục, không thể có chuyện mỗi lần thay đổi chính quyền lại
phải đổi thay chính sách bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu. Các kết quả đòi hỏi thời gian
rất lâu; chúng cần chi phí trước mắt, nhưng hiệu quả có thể chưa có ngay được trong một
nhiệm kì chính quyền. Vì thế, nếu không có áp lực của người dân và các định chế, người ta sẽ
chẳng muốn thực hiện, trở lực chống đối này càng mạnh, nếu đó là những vấn đề cần phải giải
quyết cấp thời. Khi một chính trị gia chấp nhận cho mình các trách nhiệm đi đôi với những
phí tổn đó, hành động của ông hẳn đi ngược lại tư duy chính trị và kinh tế ngày nay vốn luôn
nhắm tới hiệu quả và cái lợi trước mắt; nhưng nếu ông dám làm, ông sẽ tái nhận ra cái phẩm
giá mà Thiên Chúa đã trao cho ông như một con người, và lịch sử sau này sẽ ghi lại tên tuổi
ông như một chứng tá về tấm gương trách nhiệm cao cả. Phải ưu tiên cho các chính sách vững
chắc có khả năng đổi mới và điều hợp được các định chế cũng như giúp cho sự vận hành của
các cơ chế đó thoát ra ngoài mọi thứ áp lực và trì trệ xấu xa. Cũng phải nói thêm ở đây, mọi
biện pháp phòng ngừa tốt đẹp nhất rồi cũng sẽ thất bại, nếu thiếu các mục tiêu lớn, thiếu các
giá trị và một quan điểm nhân bản đầy ý nghĩa - những giá trị và quan điểm vốn giúp cho từng
xã hội có được một định hướng cao cả và bao dung.
III. Đối thoại và Minh bạch trong các tiến trình quyết định
182. Cần phải có những diễn tiến chính trị minh bạch thông qua đối thoại thì mới thấy được
khả năng có lợi cho môi sinh hay không nơi các công ti và dự án. Trái lại, tham nhũng thường
dùng hối lộ để che đậy khả năng gây hại môi trường của các dự án; họ âm thầm dàn xếp
những thoả thuận, để tránh những đòi hỏi thông tin từ bên ngoài.
183. Việc điều nghiên tính cách phù hợp với môi sinh không thể được thực hiện sau khi soạn
thảo một kế hoạch sản xuất hoặc bất cứ một chính sách hay một chương trình liên hệ nào. Nó
phải được tiến hành ngay từ đầu, bao gồm trên mọi lĩnh vực, minh bạch và không chịu bất cứ
một áp lực nào từ phía kinh tế hay chính trị. Nó phải gắn liền với sự điều nghiên về điều kiện
lao động và các hậu quả có thể có của chúng – chẳng hạn các hậu quả trên sức khoẻ tinh thần
và thể xác con người, trên kinh tế địa phương, trên an ninh. Có như vậy, người ta mới có thể
rút ra được kết luận về các kết quả kinh tế một cách thực tế hơn, thông qua việc lưu ý đến các
bối cảnh có thể xẩy ra, và nếu cần, gia tăng thêm đầu tư để tránh những hậu quả ngoài mong
muốn nhưng còn có thể chữa được. Điều cần thiết là phải luôn lấy ý kiến của mọi thành phần
xã hội liên hệ; họ có thể cung cấp cho ta những cái nhìn, cách giải quyết và phương án thay
thế khác. Người dân ngay tại địa phương phải là thành phần được hội ý trước tiên, để xem họ
muốn gì cho họ và con cái họ, và qua họ ta cũng có thể nghe được những mục tiêu vượt ngoài
cái lợi trực tiếp về mặt kinh tế. Phải gạt ra ngoài ý nghĩ „can thiệp“ vào môi sinh, để mọi phía
cùng nhau suy nghĩ và thảo luận về một chính sách. Sự tham gia đòi hỏi phải cung cấp đầy đủ
thông tin cho mọi phía tham dự, để họ biết được những quan điểm cũng như những rủi ro và
khả thể khác nhau; và cuộc luận bàn cũng không chỉ đóng khung trong việc lấy quyết định
cho dự án ban đầu, mà còn bàn cả những biện pháp kiểm soát và canh chừng liên tục. Trong
các cuộc thảo luận khoa học và chính trị, cần thẳng thắn và chân thật, không nên tự đóng
khung trong việc luật pháp có cho phép hay không.
184. Nếu có khả năng xẩy ra những nguy cơ làm hại tới công ích hiện tại hoặc tương lai,
trường hợp này đòi buộc „phải đưa lên bàn cân giữa các điểm lợi và hại của tất cả các
phương án đề nghị“131
. Điều này đặc biệt phải làm, khi một dự án có thể gây ra tốn kém quá
nhiều tài nguyên thiên nhiên, tạo gia tăng lượng khí thải hoặc chất thải, tạo ra rác rưởi hay
làm biến đổi quá nhiều cảnh quang và không gian sống của các loài cần được bảo vệ hay
131
HĐGT HB&CL, Kompendium der Soziallehre der Kirche, Freiburg 2006, 469
56
không gian chung của cộng đồng. Vì thiếu điều nghiên đầy đủ, một số dự án đã gây hại gia
trọng lên phẩm chất cuộc sống của một địa phương, bởi nhiều yếu tố, chẳng hạn: tiếng động
ồn ào, giới hạn tầm nhìn, mất các giá trị văn hoá, hậu quả của việc sử dụng điện hạt nhân. Văn
hoá tiêu thụ, vốn đặt ưu tiên cho tư lợi và cái lợi trước mắt, có thể bôi trơn các cửa giấy phép
rất nhanh hoặc rất giỏi che đậy các thông tin cần thiết.
185. Để biết một công ti có góp phần vào việc phát triển toàn diện và đích thực hay không, có
lẽ cần phải trả lời những câu hỏi sau đây trong toàn bộ cuộc luận bàn: Với mục đích gì? Tại
sao? Ở đâu? Khi nào? Bằng cách nào? Cho ai? Có những cơ nguy nào? Với giá nào? Ai chịu
chi phí, và họ làm sao để trả chi phí đó? Trong tiến trình suy xét, có những câu hỏi phải đặt
lên hàng ưu tiên. Chẳng hạn như ta biết, nước là một tài nguyên có hạn và không thể thiếu
được, và quyền căn bản này lại đòi hỏi việc hành xử các nhân quyền khác. Đó là điều chắc
chắn và nó trở thành điều kiện cho mọi phân tích về thiệt hại môi sinh trong một vùng.
186. Tuyên Bố Rio năm 1992 xác định: „Trong trường hợp có sự đe doạ của những thiệt hại
gia trọng và không thể đảo ngược, thì dù chưa có được một sự hiểu biết khoa học chắc chắn
về đề tài, ta cũng không thể trì hoãn trong việc đưa ra những biện pháp hữu hiệu, nhằm ngăn
ngừa sự xuống dốc của môi trường“132
. Nguyên tắc phòng ngừa này giúp bảo vệ những kẻ
yếu đuối nhất; họ có rất ít phương tiện để tự vệ và ít có khả năng đưa ra được những bằng
chứng không thể bác bỏ. Khi thông tin khách quan cho biết có thể có những thiệt hại gia trọng
và không thể đảo ngược, phải ngừng ngay hoặc sửa ngay dự án, cho dù chưa có một xác nhận
dứt khoát nào về thông tin đó. Trong trường hợp này, không phải phía người chống, mà là
phía thi hành dự án có bổn phận phải trưng ra bằng chứng khách quan và chắc chắn bảo đảm
sự an toàn cho môi trường lẫn cho dân chúng.
187. Điều đó không có nghĩa là chúng ta chống lại mọi thứ cải tiến kĩ thuật nhằm nâng cao
phẩm chất cuộc sống con người. Nhưng trong mọi trường hợp ta phải giữ nguyên tắc: lợi
nhuận không thể là tiêu chuẩn duy nhất để căn cứ, và khi, nhờ mức độ kiến thức gia tăng, ta
có thêm được những yếu tố để đánh giá, thì ta lại cần phải có một lượng định mới với sự góp
ý của tất cả mọi phía. Kết quả của cuộc luận bàn có thể là quyết định chấm dứt một dự án,
nhưng nó cũng có thể là một sửa đổi dự án hay việc phát triển những đề nghị thay thế.
188. Có những cuộc thảo luận về môi sinh khó đi tới được một thoả thuận chung. Một lần nữa
tôi nhấn mạnh, Giáo Hội không đòi hỏi cho mình yêu sách giải quyết các vấn đề khoa học,
Giáo Hội cũng không muốn thay thế chính trị, nhưng tôi yêu cầu một cuộc thảo luận thành
thực và minh bạch, để các nhu cầu riêng tư hay các ý hệ không làm hại tới công ích.
IV. Chính Trị và Kinh Tế đối thoại nhằm phát triển con người
toàn diện
189. Chính trị không được phục tùng kinh tế, và kinh tế không được phục tùng lệnh truyền và
nguyên tắc duy hiệu quả của kĩ thuật. Vì công ích, nhu cầu cấp thiết của chúng ta ngày nay là
chính trị và kinh tế phải quyết tâm cùng nhau đối thoại, nhằm phục vụ cho sự sống, nhất là sự
sống con người. Bằng mọi cách cứu nguy các ngân hàng, để rồi đẩy mọi gánh nặng lên đầu
người dân, mà không quyết tâm xét lại toàn bộ hệ thống và sửa đổi nó, là một cách hỗ trợ cho
sự toàn trị của hệ thống tài chánh, một hệ thống không có tương lai và sau một cuộc hồi sinh
lâu dài, tốn kém và giả tạo, có thể lại gây ra những khủng hoảng tiếp. Cuộc khủng hoàng tài
chánh năm 2007-2008 là cơ hội xây dựng một nền kinh tế mới, quan tâm hơn tới những
132 Tuyên Bố Rio về Môi Sinh và Phát Triển (14.06.1992), Nguyên tắc 15
57
nguyên tắc đạo đức và là cơ hội cho việc định chuẩn lại các hoạt động tài chánh đầu cơ và các
lối làm giàu ảo. Nhưng đã chẳng có một phản ứng nào đưa tới việc xét lại các tiêu chuẩn đã
lỗi thời, chúng vẫn tiếp tục chế ngự thế giới. Việc sản xuất chẳng phải luôn luôn hợp lí và nó
xem ra gắn chặt với những biến số kinh tế, những biến số này gán cho sản phẩm một giá trị
không tương ứng với giá trị thật của chúng. Điều này thường dẫn tới việc thặng dư một số sản
phẩm, tạo gánh nặng cho môi sinh một cách không cần thiết và đồng thời ảnh hưởng bất lợi
trên một số nhánh kinh tế khác 133
. Bong bóng tài chánh cũng là bong bóng sản xuất. Rốt cuộc
người ta đã không quyết tâm giải quyết vấn đề của nền kinh tế hiện thực, một nền kinh tế giúp
cải tiến và đa diện hoá việc sản xuất, giúp các công ti vận hành thích hợp, giúp các xí nhiệp
vừa và nhỏ phát triển và tạo thêm công ăn việc làm.
190. Trong liên quan này cần phải luôn nhớ, „việc bảo vệ môi sinh […] chẳng phải luôn luôn
[có thể] thực hiện được trên nền tảng một tính toán lợi hại về mặt tài chánh. Môi sinh là một
trong những hàng hoá mà các guồng máy thị trường không thể bảo vệ và hỗ trợ cách thích
hợp“134
. Một lần nữa, phải tránh tạo ra một quan niệm thần kì về thị trường, qua đó khiến ta
nghĩ rằng, vấn đề sẽ được giải quyết chỉ cần thông qua việc gia tăng lời lãi của xí nghiệp hay
của từng cá nhân. Có thực tế không, khi hi vọng rằng, ai bám chặt vào việc kiếm lãi tối đa,
người đó cũng là kẻ nghĩ tới các hậu quả môi sinh mà mình để lại cho các thế hệ nối tiếp?
Trong khung suy tư lời lãi chẳng có chỗ cho các ý nghĩ về nhịp điệu của thiên nhiên, về các
thời điểm suy tàn và tái sinh của nó và về sự phức hợp của hệ thống môi sinh, một hệ thống
có thể bị biến đổi nặng nề bởi bàn tay con người. Ngoài ra, khi đề cập tới sự đa dạng sinh thái,
người ta rốt cuộc coi môi sinh như là một bình chứa các tài nguyên kinh tế có thể khai thác,
nhưng họ đã chẳng thật tình quan tâm gì tới giá trị thật của các sự vật, tới ý nghĩa của chúng
đối với con người và các nền văn hoá, tới các điều lợi và nhu cầu của người nghèo.
191. Khi nêu lên các vấn nạn nầy, không ít người sẽ kết án, cho rằng, như vậy là người ta
muốn đi ngược lại mọi lí trí, muốn chống lại tiến bộ và chống lại sự phát triển của con người.
Nhưng chúng ta phải xác tín điều này: việc kìm hãm một nhịp độ nào đó của sản xuất và tiêu
thụ có thể lại mở ra một thứ tiến bộ và phát triển khác. Những nỗ lực sử dụng cách bền vững
các tài nguyên thiên nhiên không phải là việc làm vô ích, trái lại đó là một đầu tư trung hạn
cho những cái lợi kinh tế khác. Nếu đừng ngang bướng, chúng ta sẽ thấy rằng, việc hình thành
một nền sản xuất càng ngày càng cải tiến và ít hại cho môi sinh có thể sẽ mang lại nhiều lợi
nhuận hơn. Đây là con đường mở ra cho những khả thể khác; chúng vốn không kìm hãm sự
sáng tạo và ý thức về tiến bộ của con người, nhưng là chuyển năng lực này vào một ý hướng
mới.
192. Một lối phát triển sản xuất sáng tạo và đúng đắn hơn có thể, chẳng hạn, giúp điều chỉnh
việc sử dụng quá nhiều kĩ thuật cho tiêu thụ, trong khi lại quá ít kĩ thuật cho việc giải quyết
các vấn nạn dang dở của loài người. Đó có thể là việc tạo ra những quy trình khôn ngoan và
lợi nhuận hơn cho việc tái sử dụng, thay đổi công dụng và tái chế. Đó cũng có thể là việc giúp
cho nguồn điện lực trong các thành phố được sử dụng hữu hiệu hơn, và nhiều thứ khác nữa.
Sự phân nhánh rộng rãi của sản xuất tạo vô số cơ hội cho trí năng con người cải tiến và sáng
tạo, trong khi vẫn bảo vệ được môi sinh và tạo được thêm nhiều việc làm. Đây có thể là một
sự sáng tạo có khả năng làm triển nở nét cao quý của loài người, bởi vì quả là xứng đáng hơn,
nếu ta biết dùng trí thông minh cùng với can đảm và ý thức trách nhiệm để tìm ra những hình
thái phát triển bền vững và đúng đắn, nhằm phục vụ cho một quan niệm rộng lớn hơn về
133
Xem HĐGM Mễ-tây-cơ. Uỷ Ban Mục Vụ Xã Hội, Jesucristo, vida y esperanza de los indígenas y campesinos
(14.01.2008). 134
HĐGTHB&CL, Kompendium der Soziallehre der Kirche, Freiburg 2006, 470.
58
phẩm chất sự sống. Ngược lại, sẽ là điều ít xứng đáng, hời hợt và thiếu sáng tạo, khi ta chỉ
biết dùng trí năng để khăng khăng tìm kiếm những cách thức trấn lột thiên nhiên, chỉ với mục
đích có thêm nhiều cơ hội tiên thụ và có được nhiều lợi nhuận trước mắt.
193. Nơi một vài trường hợp, sự phát triển bền vững có kéo theo những hình thái phát triển
mới. Nơi những trường hợp khác, ta lại phải đối diện với lối phát triển vô độ và vô trách
nhiệm đã thâm canh cố đế từ nhiều chục năm. Dù vậy, ở đây ta cũng phải nghĩ tới việc hãm
đà nó lại, bằng cách đặt ra vài giới hạn hợp lí hoặc phải đổi hướng ngay, trước khi quá trễ.
Chúng ta biết, không có lí gì khi một số người càng ngày càng mặc sức tiêu xài và phá hoại,
trong khi một số người khác không có được cơ hội sống đúng với phẩm giá của mình. Vì thế,
đây là lúc một số nơi trên thế giới cần chấp nhận một sự tiết chế nào đó và hãy giúp đỡ, để
một số nơi khác trên thế giới có thể có được một sự cất cánh lành mạnh. Giáo Tông Biển-đức
XVI đã nói, „các xã hội tân tiến về mặt kĩ thuật [phải] sẵn sàng khuyến khích những phong
thái lối sống chừng mực, bằng cách hạ nhu cầu năng lượng của họ xuống và cải tiến các điều
kiện sử dụng“135
.
194. Để có được những mẫu mực mới về tiến bộ, chúng ta phải „hướng mô thức phát triển
toàn cầu sang một hướng [khác]“136
. Điều này bao hàm việc „suy nghĩ về ý nghĩa và những
mục đích của kinh tế, hầu điều chỉnh lại những sai trái và méo mó của nó“137
. Không nên
dung hoà giữa việc bảo vệ thiên nhiên với lợi nhuận tài chánh hay giữa việc bảo trì môi sinh
với sự tiến bộ, làm như thế là bất cập. Trong liên quan này, con đường dung hoà chỉ là một sự
đẩy lùi ngắn hạn sự sụp đổ. Chỉ còn cách phải định nghĩa lại Tiến Bộ. Một phát triển kinh tế
và kĩ thuật không để lại một thế giới tốt đẹp hơn và một cuộc sống xét chung có phẩm chất
hơn, thì không thể gọi là phát triển. Mặt khác, phẩm chất cuộc sống con người thường sút
giảm trước sự phát triển kinh tế, là vì do sự tàn phá môi trường, phẩm chất của thực phẩm sút
giảm hoặc do sự kiệt quệ một số tài nguyên thiên nhiên. Trong hoàn cảnh này, việc hô hào
phát triển bền vững trở thành những phương tiện để biện minh hoặc để đánh lạc hướng; người
ta có nói tới những giá trị của môi sinh đấy, nhưng những luận điệu này hàm chứa lí lẽ của
giới tài chánh và kĩ thuật; và rồi trách nhiệm của các công ti đối với xã hội và môi sinh
thường thu gọn lại vào trong những sinh hoạt điều nghiên tìm hiểu giới tiêu thụ và để đánh
bóng mình.
195. Nguyên tắc lợi nhuận tối đa thường che khuất các hướng nhìn khác và nó phản ảnh một
khái niện kinh tế méo mó: Khi tăng sản xuất, người ta ít nghĩ tới việc gia tăng đó có hại cho
các tài nguyên tương lai hoặc cho sức khoẻ của môi trường hay không; khi phá rừng để tăng
sản xuất, chẳng ai màng tới sự mất mát vì đất đai bị tàn phá, nhiều loài sinh vật bị tiêu vong
hoặc gia tăng ô nhiễm môi trường. Điều này có nghĩa là các công ti tạo lợi nhuận bằng cách
chỉ tính và chỉ trả một phần rất nhỏ các chi phí. Một hành vi được gọi là có đạo đức, khi trong
đó „những chi phí kinh tế và xã hội liên quan tới việc sử dụng các tài nguyên môi sinh chung
được liệt kê công khai rõ ràng và những người hưởng thụ phải hoàn toàn chịu các chi phí đó,
chứ không phải là các dân tộc khác của những thế hệ về sau phải trả“138
. Dù hành vi trên đây
được thực hiện bởi thị trường, vốn là kẻ phân phối tài nguyên, hay bởi kinh tế kế hoạch của
một nhà nước, thì đâu đâu cũng có sự tính toán thực dụng, nhưng cái thực dụng này vốn chỉ là
một phân tích tĩnh của thực tại về các nhu cầu trước mắt.
135
Thông điệp ngày hoà bình thế giới, L’Osservatore Romano (Đức) Năm 39, Nr. 52/53 (25.12.2009), tr. 5; AAS
102 (2010), tr. 46. 136
Nt. 137
Nt., 5; AAS tr. 43. 138
Cùng tác giả, TT Caritas in veritate (29.06.2009), 50: AAS 101 (2009), tr. 686.
59
196. Còn về mặt chính trị? Chúng tôi muốn nhắc tới nguyên tắc bổ trợ (Subsidiarität), một
nguyên tắc bảo đảm cho sự tự do phát triển những khả năng có sẵn trên mọi bình diện, nhưng
đồng thời cũng đòi hỏi người nắm quyền phải mang trách nhiệm nhiều hơn đối với công ích.
Đúng là ngày nay có nhiều ngành kinh tế có nhiều quyền lực hơn chính nhà nước. Nhưng ta
không thể biện minh cho một nền kinh tế không có chính trị - vì như vậy thì kinh tế này
không có khả năng hỗ trợ cho một lối lập luận khác vốn có thể lèo lái những khía cạnh khác
nhau của cơn khủng hoảng hiện nay. Lối lập luận cho rằng, không thể trông mong có được
một sự thành tâm âu lo cho môi sinh, cũng là thứ lập luận ngăn cản việc quan tâm tới những
người yếu đuối nhất, bởi vì „với mô hình thành công của ‚luật cá nhân‘ hiện nay, người ta
xem ra chẳng thú vị gì đầu tư vào những lãnh vực có thể mang lại chút lợi lộc cho những
người chậm chân, những người yếu đuối và kém khả năng hơn“139
.
197. Chúng ta cần một chính trị với tư duy bao quát, có khả năng tạo đối thoại liên ngành, để
có thể giải quyết một lúc nhiều mặt của cơn khủng hoảng hiện nay. Chính trị thường bị tai
tiếng, là vì chính nó tạo ra những tham nhũng hối lộ và thiếu minh bạch trong chính sách
công. Nơi đâu nhà nước không làm tròn nhiệm vụ, ở đó một vài nhóm kinh tế có thể sẽ khoác
áo người làm ơn và giành lấy thực quyền một cách bất chính, bằng cách tự cho mình quyền
không cần phải tuân thủ luật lệ, ngay cả tạo cơ hội cho những băng đảng tội phạm, buôn
người, buôn ma tuý, bạo hành – là những thứ vốn rất khó tận diệt. Khi chính trị không có khả
năng phá vỡ cái lập luận ngược đời, và khi nó chỉ biết ba hoa mà thôi, thì chúng ta vẫn tiếp
tục như cũ, tiếp tục né tránh những vấn nạn lớn cần giải quyết của nhân loại. Một chiến lược
tạo đổi thay thực sự đòi hỏi phải rà soát lại toàn bộ các diễn tiến, bởi vì chỉ có những suy nghĩ
phiếm diện về môi sinh mà thôi, trong khi vẫn không đặt lại vấn đề về nền tảng lập luận của
chúng trong văn hoá hiện nay, thì không đủ. Một chính trị đúng đắn cần phải có khả năng đối
diện với thách đố này.
198. Chính trị và kinh tế thường hay đổ tội cho nhau trước những nghèo đói và phá hoại môi
sinh. Nhưng điều chúng ta chờ đợi nơi họ, là họ phải nhận ra những lỗi lầm của mình và phải
tìm ra những hình thức cộng tác để gia tăng công ích. Khi bên này vô vọng tìm cách tăng gia
lợi nhuận và bên kia thì chỉ biết tìm cách giữ và gia tăng quyền lực, thì kết quả chỉ là chiến
tranh hoặc những thoả thuận kín đáo, trong đó chẳng có chỗ cho việc bảo vệ môi sinh và cho
việc chăm sóc những người khốn cùng. Cả ở đây, nguyên tắc này cũng đúng: „Kết hợp quan
trọng hơn mâu thuẫn“140
.
V. Tôn Giáo đối thoại với các Khoa Học
199. Ta không thể khẳng định, các khoa học thực nghiệm có thể cắt nghĩa đầy đủ về sự sống,
về cấu trúc của mọi thụ tạo và về toàn thể thực tại. Nếu muốn làm điều này, các khoa học thực
nghiệm sẽ phải quá lạm vượt ra khỏi làn ranh phương pháp của chúng. Một khi suy tư trong
khuôn khổ đóng kín này, nét thẩm mĩ sẽ biến mất, và ta cũng không còn nhìn ra được chất thơ
và ngay cả khả năng lí trí, ý nghĩa và mục đích của sự việc 141
. Tôi muốn nhắc lại, „những bản
139
TT Evangelii gaudium (24.11.2013), 209: AAS 105 (2013), tr. 1107. 140
Ctg., 228: AAS 105, tr. 1113. 141
Xem TT Lumen fidei (29.06.2013), 34: AAS 105 (2013), tr. 577: „Ánh sáng Đức Tin [vẫn cháy], vì nó liên kết
với Sự Thật Tình Yêu, không tách xa khỏi thế giới vật chất, bởi chưng tình yêu vẫn luôn luôn sống động trong
thể xác và tinh thần. Ánh sáng Đức Tin là một ánh sáng nhập thể, xuất phát từ cuộc sống toả rạng của đức Giê-
su. Đức tin cũng toả sáng vật chất, nó được xây dựng trên trật tự vật chất và nó nhận biết rằng, vật chất mang
trong mình sự hài hoà và luôn mở ra cho trí hiểu cơ hội khám phá ngày càng thêm. Như thế khoa học được
hưởng lợi từ đức tin. Đức tin mời gọi người làm khoa học hãy mở lòng ra trước thực tại phong phú vô tận. Đức
tin giữ cho những đầu óc khoa học tỉnh táo, bằng cách không để cho họ bằng lòng với những công thức của
mình, và nó giúp nhà nghiên cứu hiểu rằng, thiên nhiên luôn vượt ra ngoài các công thức. Khi đức tin mời gọi
60
văn kinh điển tôn giáo có thể mang tầm quan trọng cho mọi thời và chúng luôn có sức đẩy mở
ra những chân trời mới […] Phải chăng là thái độ khôn ngoan và hữu lí, khi ta chẳng cần
thèm quan tâm tới chúng, vì chúng chỉ là một xác tín tôn giáo?“ 142
Quả là ngây thơ, khi bảo
rằng, các nguyên tắc đạo đức là thứ hoàn toàn trừu tượng, nên phải lược bỏ chúng ra khỏi bản
văn. Dù chúng xuất hiện dưới dạng ngôn ngữ tôn giáo, giá trị của chúng vẫn không vì thế mà
suy giảm trong các cuộc luận bàn công khai. Các nguyên tắc đạo đức khả tri bằng lí trí luôn
có thể xuất hiện dưới các thứ hính thức và ngôn ngữ khác nhau, kể cả ngôn ngữ tôn giáo.
200. Mặt khác, mọi lời giải do các khoa học đưa ra không thể giải quyết được các vấn nạn
quan trọng của thế giới, khi nó không quan tâm tới nhân loại, khi nó bỏ quên những động cơ
quan trọng giúp con người có thể sống chung, có thể chấp nhận hi sinh và hăng hái làm điều
thiện. Chắc chắn chúng ta sẽ phải kêu gọi những kẻ có đức tin hãy sống đúng và hành động
hợp với niềm tin của họ; ta sẽ 143
phải cảnh báo họ nên mở lòng ra lại cho hồng ân thiên chúa
và nên triệt để với các xác tín tình yêu, công lí và hoà bình của mình. Nếu thỉnh thoảng, dù vì
hiểu lầm các nguyên tắc riêng của mình, mà chúng ta đưa ra những lập luận biện minh cho
việc đối xử bất công với thiên nhiên, cho việc thống trị tàn bạo trên tạo dựng hay cho việc gây
chiến tranh, tạo bất công và dùng bạo lực, thì những kẻ có đức tin như chúng ta hẳn cũng có
thể nhận ra rằng, như thế là chúng ta đã bất trung với gia sản khôn ngoan, một gia sản lẽ ra
chúng ta phải chăm sóc bảo vệ. Nhiều khi các ranh giới văn hoá mỗi thời đại khác nhau có
ảnh hưởng trên ý thức về gia sản đạo đức và thiêng liêng riêng của mình, nhưng cũng chính
nhờ việc quay trở lại những cội nguồn của họ mà các tôn giáo biết phản ứng thích hợp hơn
trước các nhu cầu hiện tại.
201. Đa phần dân chúng địa cầu tự coi mình là người có đức tin, và điều này lẽ ra là duyên cớ
cho các tôn giáo bắt liên lạc đối thoại với nhau, để cùng nhau gìn giữ thiên nhiên, bảo vệ
người nghèo, xây dựng một màng lưới kính trọng và huynh đệ lẫn nhau. Đối thoại giữa chính
các nhà khoa học với nhau cũng là điều rất cần thiết, vì mỗi người trong họ đều muốn ở lại
trong lâu đài ngôn ngữ của mình, và sự chuyên môn hoá có khuynh hướng làm cho người ta
co cụm và tuyệt đối hoá kiến thức của ngành mình. Điều này tạo khó khăn cho việc giải quyết
các vấn đề môi sinh. Đối thoại cởi mở và chân tình giữa các phong trào môi sinh, vốn không
thiếu những màu áo ý hệ khác nhau, cũng là điều cấp thiết. Tầm gia trọng của khủng hoảng
môi sinh đòi hỏi tất cả chúng ta phải nghĩ tới công ích và phải lên đường tìm về đối thoại; nó
đòi hỏi ta kiên nhẫn, tự chế và đại độ, luôn lưu ý tới nguyên tắc: „Thực tại quan trọng hơn tư
tưởng“144
.
con người ngạc nhiên trước bí ấn của tạo dựng, nó mở rộng chân trời lí trí, để lí trí soi rõ hơn về thế giới trong đó
bao hàm việc nghiên cứu khoa học“. 142
TT Evangelii gaudium (24.11.2013), 256: AAS 105, tr. 1123. 143
Cùng tác giả, 231: AAS, 105, tr. 1114. 144
Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, tr. 66-67.
61
CHƯƠNG 6
Giáo dục môi sinh và linh đạo môi sinh
202. Nhiều chuyện phải định hướng lại, nhất là nhân loại cần phải thay đổi. Chúng ta thiếu ý
thức về nguồi cội chung, về sự tương thuộc lẫn nhau và về một tương lai chung. Ý thức nền
tảng này sẽ cho phép ta hình thành nên những xác tín mới, những cách cư xử mới và những
lối sống mới. Như vậy, chúng ta đang đứng trước một thách đố văn hoá, linh đạo và giáo dục
vốn cần rất nhiều thời gian để vượt qua.
I. Đổi mới lối sống
203. Vì thị trường có xu hướng tạo ra một cơ chế tiêu thụ vô cùng quyến rũ, để bán các hàng
hoá của nó, nên con người cuối cùng rơi vào cơn mê sắm sửa và tiêu xài một cách không cần
thiết. Chủ nghĩa tiêu thụ bệnh hoạn là bức xạ chủ quan của mô hình kinh tế-kĩ thuật. Điều sau
đây, như đã được nhà thần học Romano Guardini mô tả, xẩy ra: Con người „du nhập […] vào
mình những đồ dùng và những lối sống được thiết kế và áp đặt bởi sự hoạch định hữu lí và
bởi các sản phẩm chuẩn hoá của máy móc, và họ làm điều đó với cảm tưởng mình làm một
điều hợp lí và đúng“ 145
. Mô hình này tạo cho mọi người tin rằng, mình được tự do, bao lâu
còn được thoải mái tiêu xài; trong khi thật ra chỉ có một thiểu số nắm quyền kinh tế và tài
chánh là có tự do thật sự mà thôi. Trong bối cảnh mập mờ đó, con người thời hậu hiện đại
chẳng nhìn ra được cái lí đương nhiên mới nào, để có thể theo đó mà định hướng, và vì sự
vắng bóng căn tính này, người ta sống trong sợ hãi. Chúng ta có quá nhiều phương tiện cho
một vài mục tiêu mong manh và nghèo nàn.
204. Tình trạng hiện tại của thế giới „gây cảm giác bất trắc và bất an, cảm giác này lại tạo
điều kiện thuận lợi cho những hình thái vị kỉ tập thể […]“146
. Khi con người chỉ biết lo cho
mình và tự cô lập trong chính lương tâm mình, họ sẽ càng ngày càng đòi hỏi thêm nhu cầu.
Trái tim con người càng trở nên trống rỗng, họ càng cần thêm những thứ họ có thể mua, có
thể sở hữu và tiêu thụ. Trong hoàn cảnh này, khó có ai chấp nhận những giới hạn của thực tế
đặt ra cho mình. Như vậy, bộ mặt công ích thật sự cũng biến mất. Khi loại người này trở nên
145
Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, tr. 66-67.
146 Gio-an Phao-lô II., Sứ điệp cho ngày hoà bình thế giới 1990, 1: L’Osservatore Romano (Đức) Năm 19, Số 50
(15.12.1989), tr. 1; AAS 82 (1990), tr. 147
62
quyền thế trong xã hội, thì những chuẩn mực nào đi ngược lại những nhu cầu riêng của họ đều
bị họ cho ra lề. Vì thế, chúng ta không chỉ nghĩ tới hậu quả có thể xẩy ra của những hiện
tượng khí hậu kinh hoàng hay của các vụ thiên tai lớn, mà còn tới các tai hoạ xuất phát từ các
khủng hoảng xã hội, là vì lòng đam mê lối sống tiêu thụ - nhất là khi chỉ có một số rất ít người
có thể có được lối sống này – chỉ tạo ra bạo lực và huỷ hoại lẫn nhau mà thôi.
205. Dù vậy, chúng ta vẫn còn hi vọng. Là vì bên cạnh khả năng tự đào hố chôn mình, con
người cũng có thể tự chủ, có thể quay về đàng lành và hoàn thiện bản thân, dù phải chịu áp
lực của mọi thứ điều kiện hoá tinh thần và xã hội. Họ có khả năng nhìn lại mình một cách
thành thật, có thể nhận thấy những cái dư thừa nơi mình và tìm ra những con đường mới dẫn
tới sự tự do đích thật. Chẳng có một hệ thống nào có thể tiêu diệt hoàn toàn ước vọng và khả
năng của con người tìm về chân thiện mĩ. Từ đáy sâu tâm hồn, họ được Thiên Chúa ban cho
tiềm lực để đi tới. Tôi xin mỗi người trên thế giới này đừng quên phẩm giá của mình; không
ai có quyền tước đi phẩm giá của một con người.
206. Việc thay đổi lối sống có thể là một sức ép lành mạnh trên các giới quyền lực chính trị,
kinh tế và xã hội. Đó chính là điều mà các phong trào của giới tiêu thụ đã đạt được; bằng việc
tẩy chay một số hàng hoá, họ đã khiến cho các công ti phải thay đổi thái độ và phải xét lại mô
hình sản xuất với hậu quả gây ô nhiễm môi sinh của họ. Khi thói quen xã hội đe doạ tới nguồn
lãi, các công ti đương nhiên bị buộc phải thay đổi phương thức sản xuất. Điều này nhắc nhở
chúng ta về trách nhiệm xã hội của người tiêu dùng. „Mua không phải chỉ là một hành vi kinh
tế, nhưng cũng luôn luôn là một hành vi đạo đức“147
. Vì thế „đề tài ô nhiễm môi sinh“ của
ngày hôm nay bắt ta „nhìn lại thái độ sống của mỗi người“148
.
207. Đại Hiến Chương Địa Cầu mời gọi tất cả chúng ta hãy giã từ cái quá khứ tự huỷ diệt
mình để mở ra một khởi đầu mới. Nhưng chúng ta đã chưa tạo ra được một ý thức phổ quát,
để có thể thực hiện nó. Vì thế, tôi mạo muội đưa ra lại sự thách đố đáng giá này: „Chưa bao
giờ như lúc này, số phận chung của nhân loại bắt ta phải dám mở ra một khởi đầu mới cho
mình […]. Chúng ta hãy xây dựng thời đại chúng ta thành một thời đại, mà con người sẽ nhớ
đến như là một thời đại mới đầy kính trọng trước sự sống, một thời đại quyết tâm tiến lên trên
con đường phát triển bền vững, một thời đại tranh đấu mới cho công lí và hoà bình, và một
thời đại mừng đón sự sống“149
.
208. Chúng ta luôn luôn có khả năng bước ra khỏi mình để đi tới với tha nhân. Thiếu khả
năng này, ta sẽ không nhận ra giá trị tự tại nơi các tạo vật khác, sẽ chẳng thích thú làm gì cho
kẻ khác, và sẽ chẳng tự đặt giới hạn cho mình được, hầu tránh gây đau khổ hoặc tổn thương
cho đồng loại và cho môi trường chung quanh ta. Thái độ tự vượt ra khỏi chính mình, qua đó
ý thức xây lô-cốt và chủ trương tự quy bị phá vỡ, là cội nguồn của mọi quan tâm tới người
khác và tới môi sinh. Và đó cũng là cội nguồn tạo nên phản ứng đạo đức biết suy tính đến hệ
quả của mọi hành động và mọi quyết định của mình liên quan tới những gì bên ngoài chính
mình. Nếu thắng được chủ nghĩa cá nhân, chúng ta chắc chắn sẽ có được một kiểu sống khác
thay thế, và như vậy có thể biến đổi được xã hội.
II. Giáo dục nhắm tới cuộc liên minh giữa con người với môi sinh.
147
Biển-đức XVI., Tông Thư Caritas in veritate (29. Juni 2009), 66: AAS 101 (2009), tr. 699. 148
Nt., Sứ điệp ngày hoà bình thế giới 2010, 11: L’Osservatore Romano (Đức) Năm thứ 39, Số 52/53
(25.12.2009), tr. 5;AAS 102 (2010), tr. 48. 149
Erd-Charta, Den Haag (29.06.2000).
63
209. Ý thức quan tâm tới khủng hoảng văn hoá và môi sinh phải được diễn tả ra trong những
thói quen mới. Nhiều người trong chúng ta biết, sự tiến bộ ngày nay và việc dư thừa đồ đạc
lẫn thú vui chưa đủ để tạo ý nghĩa và niềm vui cho tâm hồn, nhưng họ vẫn cảm thấy không
thể dằn lòng trước những món hàng của thị trường. Tuổi trẻ trong những quốc gia có nhu cầu
phải thay đổi thói quen tiêu thụ mạnh nhất thường có tâm hồn rộng rãi và có nhiều ý thức môi
sinh mới, một số bạn trong họ đấu tranh cách lạ lùng cho việc bảo vệ môi sinh, nhưng tuổi trẻ
trong các nước này lớn lên trong khung cảnh dư đầy vật chất và tiêu thụ quá mức, vốn là
những yếu tố ngăn cản sự phát triển những thói quen khác. Vì vậy, ở đây chúng ta phải đối
diện với một thách đố về mặt giáo dục.
210. Giáo dục môi sinh đã mở rộng các mục tiêu của nó. Thoạt tiên, trọng tâm của nó là phổ
biến những thông tin khoa học và gây ý thức tránh các hiểm hoạ môi sinh. Giờ đây nó ngả
sang cả việc phê phán những „huyền thoại“ của Tân Tiến (Moderne) vốn dựa trên lí trí thực
dụng (như chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tiêu thụ, chủ trương tiến bộ, chủ trương cạnh tranh,
thị trường vô luật lệ) cũng như đi tìm những cân bằng sinh thái trên nhiều bình diện khác
nhau: cân bằng nội tại với chính mình, cân bằng đoàn kết với tha nhân, cân bằng tự nhiên với
mọi loài sinh vật và cân bằng thiêng liêng với Thiên Chúa. Giáo dục môi sinh có thể sẽ chuẩn
bị cho ta vươn tới được cái mầu nhiệm vốn là nền tảng ý nghĩa sâu xa cho một nền đạo đức
môi sinh. Mặt khác, có những nhà giáo dục có khả năng đề ra những con đường sư phạm mới
cho nền đạo đức môi sinh, qua đó họ thực sự giúp ta lớn lên trong tình đoàn kết, tinh thần
trách nhiệm và trong đồng cảm quan tâm tới nhau.
211. Nhưng lối giáo dục nhắm tới việc tạo ra một „thành phần tư sản môi sinh“ này đôi khi
chỉ hạn chế vào việc thông tin mà thôi, nó không tạo nên được những thói quen. Về lâu về dài,
hình pháp và luật lệ không đủ để ngăn chặn các thói hư tật xấu, dù có những kiểm soát hữu
hiệu. Muốn các quy tắc luật pháp có được hiệu quả vững bền, đòi hỏi đa số thành viên trong
xã hội phải hăng hái chấp nhận chúng và họ bắt đầu với việc tự biến cải mình. Chỉ qua việc
trau dồi những đức tính bền chắc, ta mới có thể hi sinh dấn thân cho môi sinh. Khi một người
có dư thừa tiền bạc để mua sắm tiêu xài nhiều hơn, nhưng lại cố gắng mặc ấm hơn để tiết
kiệm lò sưởi, thì có nghĩa là người đó đã chấp nhận và xác tín vào nhu cầu bảo vệ môi sinh.
Quả là điều cao cả, khi ta ý thức được việc bảo vệ tạo dựng khởi đi từ những hành vi nhỏ nhặt
thường ngày, và quả là tuyệt vời, khi giáo dục tạo ra được những thúc đẩy dẫn tới việc hình
thành một lối sống mới. Giáo dục hướng tới trách nhiệm môi sinh có thể thúc đẩy những lối
hành xử khác nhau có ảnh hưởng quan trọng và trực tiếp trên việc bảo vệ môi sinh, như tránh
dùng túi ni-lông hoặc túi giấy, hạn chế xài nước, phân loại rác rưởi, chỉ nấu vừa đủ ăn, đối xử
cẩn trọng với các sinh vật khác, ưu tiên dùng phương tiện giao phông công cộng hay đi chung
xe hơi với nhiều người khác, trồng cây, tắt đèn điện khi không cần thiết. Tất cả những cái đó
là những sáng tạo cao thượng đáng trọng, chúng nói lên nét ưu việt của con người. Cố gắng
tái sử dụng một cái gì đó, thay vì thoải mái vứt ngay đi, có thể là một hành vi tình yêu, nó nói
lên phẩm giá của chính chúng ta.
212. Đừng bảo rằng, những nỗ lực đó chẳng tạo biến đổi thế giới gì cả. Những hành vi này
khuyếch tán sự thiện ra trong xã hội, một sự thiện luôn mang lại những hoa trái vượt lên trên
những gì có thể thấy được. Sỡ dĩ như vậy là vì những hành vi đó tạo ra trong lòng địa cầu một
cái gì đó tốt đẹp – đôi khi vô hình - vốn luôn có chiều hướng toả lan. Ngoài ra, lối cư xử đó
giúp ta cảm lại được phẩm giá của mình, nó dẫn ta đi vào chiều sâu của cuộc sống và giúp ta
nhận ra sự quý hoá của cuộc sống trong thế giới này.
213. Có nhiều địa hạt giáo dục: nhà trường, gia đình, các phương tiện truyền thông, các lớp
giáo lí và nhiều cách khác. Một giáo dục học đường tốt trong thời niên thiếu có thể gieo vãi
những hạt mầm ảnh hưởng lên suốt cuộc đời. Nhưng tôi muốn xoáy trung tâm vào việc giáo
64
dục gia đình, vì „đó là nơi sự sống, vốn là tặng phẩm của Thiên Chúa, được chấp nhận cách
thích hợp và được bảo vệ trước những tấn công đa diện và là nơi sự sống có thể phát triển
phù hợp với những những nhu cầu tăng trưởng thật sự của con người. Gia đình là nơi sinh cư
của văn hoá sự sống chống lại cái gọi là văn hoá sự chết“150
. Trong gia đình, người ta nuôi
dưỡng những thói quen yêu đương ban đầu và việc chăm sóc cho sự sống, chẳng hạn như việc
sử dụng đúng đắn các đồ vật, việc giữ trật tự vệ sinh, việc để tâm tới hệ thống môi sinh tại chỗ
và việc bảo vệ mọi loài tạo vật. Gia đình là môi trường của giáo dục toàn diện, là nơi uốn nắn
các yếu tố đa biệt và gắn bó trong nhau của tiến trình tăng trưởng. Trong gia đình, người ta
học cách xin phép mà không qua mặt ai, học nói „cám ơn“ như là một lối tôn kính những gì
mình nhận, học cách kìm giữ tính hung hăng và vô độ và học cách xin lỗi vì đã gây ra một hư
hại nào đó. Những cử chỉ lễ phép nhỏ nhặt giúp xây dựng nhịp cầu văn hoá sống chung và
kính trọng những gì quanh mình.
214. Nhiệm vụ của chính trị và các tổ chức xã hội là nỗ lực đánh động quần chúng. Cả Giáo
Hội cũng có nhiệm vụ đó. Mọi cộng đoàn ki-tô hữu đều có nhiệm vụ quan trọng trong cuộc
giáo dục này. Tôi hi vọng các chủng viện và học viện dòng tu cũng sẽ dạy cho học viên cách
sống đạm bạc có trách nhiệm, biết nhìn thế giới với tâm tình biết ơn, biết quan tâm tới người
yếu đuối nghèo khó, tới môi sinh. Vì phạm vi vấn đề quá rộng, nên chỉ có các biện pháp trừng
phạt tội phá hại môi sinh của các định chế quyền hành mà thôi thì không đủ, mà còn cần sự
kiểm soát và giáo dục lẫn nhau giữa chúng ta.
215. Trong liên quan này ta „không được sao nhãng mối quan hệ giữa việc giáo dục thẩm mĩ
đúng đắn và việc giữ lành mạnh môi sinh“151
. Việc quan tâm và yêu mến cái đẹp giúp ta thoát
ra khỏi chủ nghĩa thực dụng duy lợi. Nếu người ta không học được cách nhận thức cái đẹp và
tôn vinh nó, thì cũng chẳng lạ việc họ có thể biến mọi thứ ra thành đồ dùng và mặc sức lạm
dụng chúng. Đồng thời, nếu muốn có được những đổi thay sâu xa, ta cần phải hiểu rằng, cung
cách hành xử bị ảnh hưởng thực sự bởi các mô mẫu tư duy. Giáo dục sẽ vô ích và các nỗ lực
của nó sẽ vô hiệu, nếu giáo dục đó không khuyếch tán ra được một hình ảnh mới về con
người, về sự sống, về xã hội và về các tương quan đối với thiên nhiên. Nếu không, mẫu tư duy
nhắm tới tiêu thụ do truyền thông và các cơ chế hữu hiệu của thị trường loan truyền, sẽ tiếp
tục thắng thế.
III. Hoán cải môi sinh
216. Gia sản linh đạo lớn lao của Ki-tô Giáo, vốn được hình thành nên trong dọc dài 20 thế kỉ
từ các kinh nghiệm cá nhân và cộng đoàn, là một đóng góp quan trọng cho nỗ lực đổi mới
nhân loại. Tôi muốn đề nghị tới các Ki-tô hữu một vài đường hướng linh đạo về môi sinh.
Những đường hướng này xuất phát từ giáo lí đức tin của chúng ta, bởi vì những gì Kinh
Thánh dạy đều tác động trên cách nghĩ, lối cảm và cuộc sống của chúng ta. Ở đây, chúng ta
không nói nhiều tới những tư tưởng, nhưng đặc biệt quan tâm tới những lí do thiêng liêng
thúc đẩy chúng ta hăng hái dấn thân cho việc bảo vệ môi sinh. Là vì, muốn hăng say dấn thân
cho một mục tiêu lớn nào đó, chỉ có giáo huấn mà thôi thì không đủ, chúng ta cần phải có một
„thần bí“ thôi thúc tinh thần, phải có „những lí do khích động nội tại thúc đẩy, khuyến khích
và tạo ý nghĩa cho những hành động của chúng ta“152
. Phải công nhận, Ki-tô hữu chúng ta
nhiều khi đã chẳng đón nhận và tiếp tục khai triển thêm cái gia sản mà Thiên Chúa đã ban cho
Giáo Hội – một gia sản với những yếu tố thiêng liêng vốn gắn liền với cuộc sống thân xác,
150
Gio-an Phao-lô II., TT.Centesimus annus (01.05.1991), 39: AAS 83 (1991), tr. 842 151
Nt., Sứ điệp ngày hoà bình thế giới 1990, 14: L‘Osservatore Romano (dt.) Năm thứ 19, Số 50 (15.12.1989), tr.
8; AAS82 (1990), tr. 155 152
Tông Thư Evangelii gaudium (24. November 2013), 261: AAS 105 (2013), tr. 1124
65
với thiên nhiên, với những thực tại trong thế giới này và liên kết cộng đoàn với tất cả những
gì quanh mình.
217. Khi „những sa mạc bên ngoài […] trong thế giới [tăng trưởng], vì những sa mạc bên
trong trở nên quá lớn“153
, thì khủng hoảng môi sinh là lời mời chúng ta phải làm một cuộc
hoán cải môi sinh tận căn. Nhưng chúng ta cũng phải thú nhận, một số Ki-tô hữu hăng say và
siêng năng cầu nguyện nhiều khi đã diễu cợt các nỗi âu lo cho môi sinh bằng chiêu bài hiện
thực (Realismus) và vụ thực (Pragmatismus). Những kẻ khác thì tiêu cực, chẳng muốn thay
đổi thói quen, rồi thì đường ai nấy đi. Như vậy, họ thiếu một cuộc hoán cải môi sinh, qua đó
làm cho tất cả những gì họ nhận được qua các cuộc gặp gỡ với đức Ki-tô và với thế giới
chung quanh đơm hoa kết trái. Thực thi sứ mạng bảo vệ công trình của Thiên Chúa là nhiệm
vụ nền tảng của một cuộc sống đạo đức; đây không phải là một việc tuỳ ý, làm cũng được mà
không cũng được, cũng không phải là một yếu tố có tính cách phụ thuộc của kinh nghiệm ki-
tô giáo.
218. Chúng tôi nhắc tới gương thánh Phan-sinh ở Assisi, để đề nghị coi mối giao tiếp lành
mạnh với tạo dựng như là một chiều kích của cuộc hoán cải đầy đủ của con người. Điều này
cũng bao gồm việc thú nhận các lỗi lầm, tật xấu hay những thiếu sót và thành tâm hối cải,
quyết tâm sửa đổi từ nội tâm. Việc hoán cải đã được các giám mục úc-đại-lợi nói tới như là
một cuộc làm hoà với tạo dựng: „Để thực hiện cuộc làm hoà này, chúng ta phải xét lại cuộc
sống chúng ta và nhận ra, đâu là những hành vi hoặc nỗi bất lực của chúng ta khiến cho tạo
dựng của Thiên Chúa ra băng hoại. Chúng ta phải hoán cải cũng như phải làm một cuộc biến
đổi tâm hồn“154
.
219. Nhưng việc hoán cải của từng cá nhân cũng không đủ để có thể giải quyết một tình trạng
phức tạp, như tình trạng đang phải đối diện của thế giới ngày nay. Từng cá nhân riêng rẽ,
chúng ta có thể sẽ mất khả năng và tự do trong việc chiến thắng lí lẽ của lí trí thực dụng, và
rồi cuối cùng bị cuốn vào thứ chủ nghĩa tiêu thụ vô đạo lẫn vô cảm đối với xã hội và môi sinh.
Vấn đề xã hội phải được giải quyết bằng sự chung tay của mạng lưới cộng đồng, chứ chúng
không phải là tập hợp của từng đóng góp cá nhân riêng rẽ. „Những đòi hỏi của công cuộc này
quá lớn, không thể giải quyết được bằng khả năng sáng kiến của từng người hay của một tập
hợp cá nhân riêng rẽ. Nó cần một tập hợp sức mạnh và một thực hiện chung“ 155
. Việc hoán
cải môi sinh cần thiết để tạo động lực cho sự thay đổi bền vững, như vậy, cũng là một cuộc
hoán cải tập thể.
220. Cuộc hoán cải này đòi hỏi sự kết hợp của nhiều quan điểm nền tảng khác nhau, để dấy
lên một sự dấn thân đại độ và đầy dịu dàng cho môi sinh. Trước hết, nó bao gồm yếu tố biết
ơn và miễn phí, nghĩa là việc công nhận thế giới là một quà tặng yêu thương của Cha trên trời.
Từ đó, biết khước từ, chẳng mong đợi sự đền đáp, rồi hành động một cách bao dung, dù chẳng
ai biết hoặc thừa nhận: „Tay trái ngươi không biết tay phải ngươi làm gì […] và Cha ngươi
vốn là Đấng cũng nhìn thấu điều ẩn giấu sẽ trả công cho ngươi“ (Mt 63-4). Cũng gồm cả yếu
tố đáng yêu này nữa: ý thức mình là một tập hợp cộng đoàn chung với các thực thể tạo vật
khác trong vũ trụ, chứ không tách lìa khỏi chúng. Người tin Chúa nhìn thế giới không từ bên
ngoài, mà từ bên trong và nhận ra sợi dây mà Cha trên trời dùng để nối kết họ lại với mọi loài.
Vì sự hoán cải môi sinh sẽ mở ra cơ hội nẩy nở cho những khả năng do Thiên Chúa ban cho
mình, nên nhờ vậy nó giúp cho kẻ có đức tin phát triển óc sáng tạo của mình và gia tăng nhiệt
153
Biển-đức XVI., Homilie zur feierlichen Amtseinführung (24. April 2005): L’Osservatore Romano (dt.) Nt. 35,
S. 17 (29. April 2005), tr. 3; AAS 97 (2005), tr. 710. 154
HĐGM Úc châu, A New Earth – The Environmental Challenge (2002). 155
Romano Guardini, Das Ende der Neuzeit, Würzburg 91965, tr. 72.
66
tình của họ trong việc đương đầu với các bi kịch của thế giới và sẵn sàng „dâng mình làm của
lễ sống động và thánh thiện đẹp lòng Thiên Chúa“ (Rm 12,1). Người tin Chúa không coi sự
ưu thế của mình là cơ hội cho vinh quang cá nhân hay là cớ cho một sự thống trị vô trách
nhiệm, trái lại coi đó là một khả năng riêng đòi hỏi mình phải có trách nhiệm to lớn, một trách
nhiệm bắt nguồn từ đức tin.
221. Một vài xác tin đức tin của chúng ta đã được nhắc tới đầu Thông Điệp này: Chẳng hạn
sự ý thức rằng, mọi tạo vật đều ít nhiều phản ảnh Thiên Chúa và đều có thể dạy ta một thông
điệp nào đó; hay niềm xác tín: đức Ki-tô đã khoác vào mình thế giới vật chất này và giờ đây
qua mầu nhiệm phục sinh, Người hiện diện trong thẳm sâu của mọi vật, chan tưới tình yêu và
xuyên chiếu ánh sáng của Người trên mọi vật đó; xác tín này sẽ giúp cho sự hoán cải của ta có
được ý nghĩa tràn đầy. Cũng vậy, đây là điều con người không được quên: Thiên Chúa đã tạo
dựng vũ trụ này và Người đã trao cho nó một trật tự và một động lực. Ai đọc Tin Mừng đoạn
đức Giê-su nói về muông chim và Người nói, „Thiên Chúa không quên sót một con nào“ (Lc
12,6), lẽ nào người đó còn có thể đối xử tàn tệ hoặc làm hại chúng? Tôi mời gọi tất cả các Ki-
tô hữu hãy làm sáng tỏ chiều kích đó lên trong cuộc hoán cải của mình, bằng cách hãy để cho
sức mạnh và ánh sáng của hồng ân đã lãnh nhận thấm nhập vào trong quan hệ của mình đối
với các tạo vật và với thế giới chung quanh, và hãy làm nổi bật lên cái tình huynh đệ cao cả
đối với toàn bộ tạo dựng, mà thánh Phan-sinh đã nêu gương cách sống động.
IV. Niềm vui và Hoà bình
222. Linh đạo ki-tô giáo đề nghị một lối hiểu mới về phẩm chất cuộc sống và khuyến khích
đạt tới một lối sống tiên tri và chiêm niệm giúp ta có thể vui sống mà chẳng phải nô lệ cho sự
tiêu thụ. Điều quan trọng là cần chấp nhận một giáo huấn xưa cũ vốn đã có trong các truyền
thống tôn giáo và cả trong Thánh Kinh. Đó là việc xác tín rằng „càng ít càng hay“. Càng chất
chứa thêm nhu cầu tiêu thụ, tâm hồn chúng ta càng lạc hướng và do đó chẳng còn đánh giá
được đúng từng sự vật và từng thời khắc. Ngược lại, thái độ hoà điệu với mọi thực tế, dù bé
nhỏ đến đâu, giúp ta có được thêm nhiều khả năng thấu hiểu và nhiều cơ hội hoàn thiện bản
thân. Linh đạo ki-tô giáo khuyến khích một sự phát triển có chừng mực và tinh thần biết vui
với cái ít ỏi mình có. Đó là một sự trở về với cái đạm bạc vốn giúp ta biết coi trọng cái nhỏ
nhặt, biết cám ơn những gì mình có được trong cuộc sống, mà không khư khư bám chặt vào
những gì đang có hoặc khó chịu về những gì mình không có. Lối sống đạm bạc này đòi hỏi
chúng ta phải tránh đầu óc chiếm hữu và giảm thiểu việc tích luỹ lạc thú.
223. Sẽ là một sự giải thoát cho chúng ta, nếu chúng ta biết thoả mãn với cái đạm bạc, biết
sống thoải mái và ý thức. Đây không có nghĩa là ta sống ít hơn, cường độ sống của ta bị giảm
đi, mà ngược lại. Trong thực tế, những ai biết dừng lại trước cơn say tìm kiếm những cái mình
không có, họ sẽ biết thưởng thức và biết sống từng giây phút hiện tại hơn: Chính họ là người
cảm nhận được sự quan trọng của từng cá nhân và sự việc, và học được cách tiếp cận cũng
như vui mừng với những điều đơn giản nhất. Nhờ đó, họ có thể hạn chế các nhu cầu không
được thoả mãn của mình, có thể giảm bớt mệt mỏi vì cơn ám ảnh thoả mãn. Với ít nhu cầu, ta
vẫn có thể có một cuộc sống tràn đầy, nhất là khi ta có khả năng hoán chuyển được sự thoả
mãn sang các cái khác, qua những cuộc gặp gỡ huynh đệ, qua việc phát triển những đặc sủng
của mình, qua âm nhạc, nghệ thuật, qua tiếp xúc với thiên nhiên hay qua cầu nguyện. Hạnh
phúc đòi hỏi phải biết hạn chế một vài nhu cầu đắm say của mình, và nhờ vậy ta mới có thể
sẵn sàng đón nhận được những cơ hội khác trong cuộc sống.
224. Trong thế kỉ qua, người ta không còn coi trọng sự đạm bạc và khiêm nhu. Khi một nhân
đức nào đó trong đời sống cá nhân và cộng đoàn bị bỏ bê, nó rốt cuộc sẽ gây ra nhiều mất
67
thăng bằng, cả trong môi sinh. Vì vậy, chỉ bàn tới sự nguyên vẹn của hệ thống môi sinh mà
thôi thì không đủ. Ta cũng phải dám đề cập tới sự nguyên vẹn của cuộc sống con người, tới
nhu cầu cần thúc đẩy các giá trị lớn và liên kết chúng lại với nhau. Một người đánh mất đức
tính khiêm nhượng, chỉ còn biết say mê chiếm hữu thả cửa, rốt cuộc chỉ có thể làm hại cho xã
hội và cộng đồng mà thôi. Thật khó mà phát triển được đức khiêm nhu lành mạnh và sự đạm
bạc mong muốn, khi chúng ta chỉ cậy vào sức mình, khi chúng ta loại Thiên Chúa ra và đem
cái tôi vào thế chỗ của Người, khi chúng ta tin rằng, xấu hay tốt là do chủ quan của ta quyết
định.
225. Mặt khác, chẳng ai có thể trưởng thành được trong sự đạm bạc mong muốn, nếu không
thể hài hoà với chính mình. Nếu hiểu đúng chữ linh đạo, thì trong nó cũng có nghĩa là phải
mở rộng quan niệm về hoà bình: hoà bình không chỉ có nghĩa là vắng chiến tranh. Hoà bình
nội tâm của con người có liên quan nhiều tới việc giữ gìn môi sinh và công ích, bởi vì sự đạm
bạc thật sự vốn phản ảnh qua một lối sống cân bằng, đi kèm với khả năng biết ngạc nhiên, và
ngạc nhiên lại đưa tới một lối sống sâu lắng hơn. Thiên nhiên có đầy dẫy ngôn từ tình yêu.
Nhưng làm sao ta có thể nghe được chúng giữa những ồn ào không ngơi, giữa khi ta đang mơ
màng liên lỉ trong ham hố hay khi ta đang tôn thờ những thứ bên ngoài? Nhiều người cảm
thấy mất thăng bằng quá đỗi, khiến họ phải làm mọi thứ cho thật nhanh, để có được cảm giác
mình đang bận rộn, làm với một sự vội vàng không dứt, khiến họ lại phá hỏng mọi thứ quanh
mình. Thái độ đó ảnh hưởng lên cách ta đối đãi với môi sinh. Một khoa môi sinh học toàn
diện cũng bao gồm việc biết thong thả tìm lại sự hài hoà với tạo dựng, thong thả suy nghĩ về
lối sống và các lí tưởng của ta, thong thả chiêm ngưỡng Tạo Hoá, Đấng đang sống giữa và
quanh chúng ta và sự hiện diện của Người phải được „khám phá và làm lộ diện, chứ không
phải do (ta) tạo nên“ 156
.
226. Chúng ta nói tới một thái độ tâm hồn biết thanh thản để ý đến mọi sự, biết hiểu trọn vẹn
người đối diện như họ đang là, chứ không nghĩ tới những gì sẽ xẩy ra sau đó; biết cảm nhận
mọi lúc như là thời khắc tặng phẩm của Thiên Chúa, một tặng phẩm cần phải được trải
nghiệm hết mọi khía cạnh. Đức Giê-su dạy chúng ta thái độ đó, khi Người mời chúng ta xem
hoa huệ ngoài đồng và chim trên trời, hoặc khi Người nhìn thẳng người đàn ông bất an và
thương yêu anh (xem Mc 10,21). Vâng, Người để hết tâm trí vào mỗi người và mỗi tạo vật
trước mặt mình, và như thế, Người chỉ cho ta con đường vượt thắng nỗi âu lo bệnh hoạn, để ta
không còn hời hợt, gấu ó và đam mê tiêu thụ.
227. Thái độ đó cũng được biểu hiện qua phút lắng đọng tâm tư trước và sau bữa ăn để cảm tạ
Thiên Chúa. Tôi đề nghị các tín hữu hãy tiếp tục lại cái thói quen quý hoá này và sống nhiệt
thành với thói quen đó. Giây phút chúc lành này, dù thật ngắn ngủi, nhắc ta biết, cuộc sống
chúng ta lệ thuộc vào Thiên Chúa; nó nâng đỡ cảm nhận biết ơn của ta đối với các tặng phẩm
của tạo dựng, công nhận công lao của những người làm nên sản phẩm và tăng gia sự hiệp
thông với những người thiếu thốn nhất.
V. Tình yêu trong lãnh vực dân sự và chính trị
228. Giữ gìn thiên nhiên là một phần của lối sống có khả năng chung sống với cộng đoàn và
hướng tới cộng đoàn. Đức Giê-su nhắc nhở ta, Thiên Chúa là người Cha chung, và vì thế
chúng ta là anh chị em với nhau trong Người. Tình huynh đệ không đòi hỏi sự đáp trả; nó
không bao giờ là giá phải trả cho những gì được hoàn thành bởi kẻ khác và cũng chẳng phải là
món hàng đặt cọc cho những gì ta hi vọng nơi họ. Vì thế ta mới có thể yêu được kẻ thù. Cũng
156
Tông Thư Evangelii gaudium (24. 11.2013), 71: AAS 105 (2013), tr. 1050
68
một thái độ bất vụ lợi này khiến ta yêu mến và chấp nhận mây, gió, mặt trời, dù chúng không
thuộc quyền điều khiển của ta. Do đó, chúng ta có thể nói tới một tình huynh đệ phổ quát.
229. Chúng ta cần nhau, chúng ta có trách nhiệm cho nhau và cho thế giới, chúng ta cần sống
tốt lành và thành thật, đó là những cảm nhận chúng ta phải tìm lại cho mình. Chúng ta đã để
mất quá nhiều thời gian trôi đi trong suy thoái đạo đức, khi chúng ta nhạo báng luân lí, sự
thiện, đức tin và sự thành thật; và giờ đây là lúc để hiểu rằng, cái hời hợt vui vẻ đó chẳng mấy
ích gì cho ta cả. Việc phá hoại nền tảng cuộc sống xã hội này rốt cuộc khiến cho mỗi người
đâm ra chống nhau vì chỉ biết bảo vệ cái lợi riêng của mình, nó dẫn tới nhiều hình thái bạo
động và man rợ mới và ngăn cản việc phát triển một nền văn hoá bảo vệ môi sinh thật sự.
230. Gương nữ thánh Tê-rê-xa Hài Đồng mời gọi chúng ta bước đi trên „con đường nhỏ“ tình
yêu, lúc nào cũng biết nói ra những lời thân ái, biết mỉm cười, biết quan tâm tới những hành
vi nhỏ nhặt, biết gieo vãi hoà bình và tình bạn. Một nền môi sinh học toàn diện cũng hình
thành từ những cử chỉ nhỏ nhặt thường ngày, những cử chỉ xuyên phá mọi luận chứng của bạo
động, lạm dụng và ích kỉ. Trong khi một thế giới tiêu thụ điên cuồng cũng đồng thời là thế
giới, trong đó cuộc sống bị đối xử tệ bạc bằng đủ mọi hình thức.
231. Tình yêu qua những cử chỉ quan tâm nhỏ nhặt đối với nhau cũng đúng cho cuộc sống
dân sự và chính trị. Nó toát lên nơi mọi cơ hội, nhằm thúc đẩy việc xây dựng một thế giới tốt
đẹp hơn. Tình yêu đối với xã hội và sự dấn thân cho công ích là một diễn tả tuyệt với về tình
yêu tha nhân vốn không chỉ là những quan hệ giữa các cá nhân mà thôi, mà còn là những
„tương giao vĩ mô – trong cuộc sống xã hội, kinh tế và chính trị“157
. Vì thế Giáo Hội đã đề
nghị lí tưởng „văn hoá tình thương“158
cho thế giới. Tình yêu trong lãnh vực xã hội là chìa
khoá cho một sự phát triển đích thực: „Để xã hội trở nên người hơn, giúp con người có phẩm
giá hơn, tình yêu trong cuộc sống xã hội – trên bình diện chính trị, kinh tế và văn hoá – phải
được đánh giá lại và phải được nâng lên thành quy tắc hành động bền bỉ và cao nhất“159
.
Trong khuôn khổ này, tình yêu trong lãnh vực xã hội thúc đẩy chúng ta, ngoài việc nhận ra
tầm quan trọng của các cử chỉ nhỏ nhặt, nghĩ tới những chiến lược lớn nhằm ngăn chặn hiệu
quả sự phá hoại môi sinh và giúp cho nền Văn hoá quan tâm toả ra được khắp toàn xã hội.
Khi một người nào đó nhận ra tiếng mời gọi của Thiên Chúa cùng bắt tay cộng tác với những
người khác tiến hành những động lực phát triển xã hội này, thì người đó nên nhớ rằng, đó là
một phần linh đạo của họ, đó là một cách thực hiện tình yêu tha nhân và đó cũng là cách để họ
trưởng thành và nên thánh.
232. Không phải tất cả mọi người đều được ơn gọi làm việc trực tiếp trong lĩnh vực chính trị.
Nhưng trong lòng xã hội đã tiềm sẵn bao nhiêu thứ tổ chức, hội đoàn dấn thân cho công ích
qua việc bảo vệ sinh môi tự nhiên và thành thị. Chẳng hạn, họ quan tâm tới một thực thể công
cộng (một công trình xây dựng, một bể phun nước, một tấm bia bỏ hoang, một cảnh quan,
một công trường) hay một cái gì đó chung, để cùng giữ gìn, bảo vệ, sửa sang, tân tạo chúng.
Từ đó, một màng lưới xã hội mới được hình thành hay được tái lập trong vùng chung quanh
công trình đó. Đó là cách một cộng đồng tự giải thoát mình khỏi sự vô cảm của thế giới tiêu
thụ. Một căn cước chung hình thành, từ đó một lịch sử ra đời và nó được trao đi tiếp. Bằng
cách này, thế giới và phẩm chất cuộc sống của những người nghèo nhất được chăm sóc, với
một cảm giác liên đới - cảm giác này đồng thời là ý thức rằng mình cùng sống chung trong
157
Biển-đức XVI., TT Caritas in veritate (29.06.2009), 2: AAS 101 (2009), tr. 642. 158
Phao-lô VI., Sứ điệp ngày hoà bình thề giới 1977: L’Osservatore Romano (dt.) Nt. 6, Số 52/53, tr. 4; AAS 68
(1976) tr. 709 159
HĐGT Công Lí và Hoà Bình, Kompendium der Soziallehre der Kirche, Freiburg 2006, 582
69
một ngôi nhà do Thiên Chúa trao phó cho mình. Các chương trình cộng đồng này sẽ trở thành
những kinh nghiệm linh đạo mãnh liệt, nếu như chúng là biểu hiện của một tình yêu hi sinh.
VI. Các dấu chỉ bí tích và việc nghỉ lễ
233. Vũ trụ triển nở ra trong Thiên Chúa là Đấng đong đầy nó. Vì vậy, nơi một cánh hoa, trên
một đoạn đường, trong sương mai buổi sớm, trên khuôn mặt người nghèo 160
đâu đâu cũng có
mặt sự bí ẩn thiêng liêng. Lí tưởng không phải là chỉ biết nhìn thấu được nội tâm của ngoại
cảnh, để từ đó khám phá ra hành động của Thiên Chúa, nhưng còn biết gặp gỡ Người trong
mọi sự, như thánh Bô-na-ven-tu-ra dạy: „Việc chiêm ngắm càng toàn hảo, khi con người càng
nhận ra được tác động của hồng ân thiên chúa nơi mình, hay cũng như khi họ càng biết gặp
Người trong các tạo vật bên ngoài“161
.
234. Thánh Gio-an Thánh Giá dạy, tất cả mọi điều tốt lành hiện diện trong các sự vật và trong
các kinh nghiệm thế giới đều „gặp được cách tuyệt vời và vô tận nơi Thiên Chúa, hay nói
đúng hơn, mỗi sự vật tuyệt vời đó chính là Thiên Chúa“162
. Chẳng phải vì những sự vật hữu
hạn kia đều thực sự mang thiên tính trong mình, song là vì kẻ chiêm nghiệm cảm được mối
liên kết nội tâm giữa Thiên Chúa và mọi thực thể, nên họ nghiệm ra được: Mọi sự - là Thiên
Chúa 163
. Khi họ ngỡ ngàng trước cảnh bao la của ngọn núi, họ không thể tách mình khỏi
Thiên Chúa và liền nhận ra rằng, cái ngỡ ngàng tâm hồn của mình này buộc tôi phải hướng về
Thiên Chúa. „Rặng núi với những ngọn cao, phong nhiêu, xa thẳm, đẹp quyến rũ, đầy hoa
thơm. Rặng núi – chính là người tình của tôi cho tôi. Những thung lũng bình yên, rười rượi
bóng mát, đầy nước ngọt thân yêu đàng xa với bao nhiêu cây cối và tiếng chim ca tạo cho thế
giới cảm giác của tôi sự thoải mái và no đầy cũng như cảnh cô đơn tĩnh lặng của nó giúp tôi
có được nghỉ ngơi sảng khoái. Các thung lũng đó – chính là người tình của tôi cho tôi“164
.
235. Các bí tích là một cách thế ưu đãi, qua đó thiên nhiên được Thiên Chúa chấp nhận và nó
trở thành kẻ môi giới cho sự sống siêu nhiên. Qua phụng vụ, chúng ta được mời gọi ôm trọn
thế giới vào mình trên một bình diện khác. Nước, dầu, lửa và các màu sắc được thu nạp với
toàn bộ sức mạnh biểu tượng của chúng và được liên kết vào trong lời ngợi ca. Cánh tay chúc
lành là một dụng cụ tình yêu thiên chúa; nó nói lên sự gần gũi của Chúa Giê-su Ki-tô, đấng đã
đến để đồng hành với chúng ta trên đoạn đường đời. Nước rửa tội dội trên mình đứa trẻ là dấu
chỉ của một sự sống mới. Chúng ta không trốn chạy thế giới, cũng không chối bỏ thiên nhiên,
nếu chúng ta muốn gặp Thiên Chúa. Điều này ta có thể nhận ra cách đặc biệt trong phụng vụ
phục sinh ở đông phương: „Đẹp là một trong những cách biểu tả được đông phương ưa
chuộng nhất để diễn tả sự hài hoà thiên linh và là tấm gương cho loài người cao quý; nó thể
hiện khắp nơi: qua cách trang hoàng nhà thờ, qua các âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hương
thơm“165
. Ki-tô Giáo kinh nghiệm rằng, nhờ Ngôi Lời đã làm người mà mọi tạo vật của vũ trụ
vật chất có được ý nghĩa đích thực của chúng, bởi vì Con Thiên Chúa đã nhận vào trong thân
160
Một bậc thầy linh đạo, Ali Al-Khawwas, qua kinh nghiệm bản thân, cũng nhấn mạnh là đừng nên quá tách rời
các tạo vật thế giới ra khỏi kinh nghiệm nội tâm về Thiên Chúa. Ông nói: „Không nên phê phán ngay những
người đi tìm khoái cảm trong âm nhạc hay trong thơ. Trong mỗi cử động và trong mỗi âm thanh của thế giới này
đều chứa một bí ẩn tinh tế. Những người có khả năng có thể nhận ra được ngọn gió thổi, hàng cây cúi rạp mình,
dòng nước cuồn cuộn, những chú ruồi vo ve, cánh cửa đập mạnh, tiếng chim hót, âm thanh đàn sáo, tiếng thở dài
của người bệnh, tiếng rên la của những người đau khổ […] muốn nói lên điều gì“ (Eva de Vitray-Meyerovitch
[Hrsg.], Anthologie du soufisme, Paris 1978, 200). 161
Trong: II Sent., 23, 2, 3. 162
Cántico espiritual B XIV-XV, 5 163
Xem. Như trên (Nt) 164
Nt., XIV, 6-7. 165
Gio-an Phao-lô II., TT Orientale lumen (02.05.1995), 11: AAS 87 (1995), tr. 757.
70
xác mình một phần vũ trụ vật chất và Người đã cấy vào đó hạt mầm biến hoá chung cuộc:
„Ki-tô Giáo không bác bỏ vật chất và xác thịt, trái lại qua phụng vụ họ chấp nhận toàn bộ giá
trị cao cả của vật chất, bằng cách chỉ ra cho thấy bản chất sâu xa của thân xác con người,
khi coi thân xác này là đền thờ của Thánh Linh, và như vậy nó kết hợp với Chúa Giê-su, đấng
cũng đã nhập thể để cứu thế giới“166
.
236. Tạo dựng đạt tới đỉnh điểm cao trọng của nó trong bí tích Thánh Thể. Việc Thiên Chúa
nhập thể chấp nhận để mình làm của ăn cho tạo vật là một biểu hiện đặc biệt của hồng ân có
khuynh hướng tỏ lộ ra cách rõ ràng. Nơi đỉnh điểm của mầu nhiệm nhập thể, Thiên Chúa
muốn đi vào trong thẳm sâu con người bằng một mảnh nhỏ vật chất. Không phải từ trên bước
xuống, mà là từ trong ra, để chúng ta có thể gặp Người trong thế giới này của chúng ta. Trong
Thánh Thể chúng ta đã có được sự trọn đầy, và đó là tâm điểm sự sống của vũ trụ, là khởi
nguồn tình yêu tràn đầy và bước đầu của sự sống bất tận. Cùng với Người Con nhập thể hiện
diện trong Thánh Thể, toàn thể vũ trụ cảm tạ Thiên Chúa. Quả thật, Thánh Thể tự nó là một
hành vi tình yêu vũ trụ: „Đúng là vũ trụ! Là vì cho dù khi ta cử hành bí tích Thánh Thể nơi
một bàn thờ nhỏ trong một nhà nguyện miền quê, thì trong một ý nghĩa nào đó ta vẫn luôn
luôn cử hành nó nơi một bàn thờ thế giới“167
. Thánh Thể nối liền trời với đất, ôm lấy tạo
dựng và thấm nhập toàn thân nó. Thế giới, vốn hình thành từ bàn tay thiên chúa, lại trở về với
Người trong sự thờ phượng trọn đầy và hạnh phúc: Trong bánh Thánh Thể „chính tạo dựng
được linh thánh hoá, được đưa về tiệc cưới thánh, về việc kết hợp với Tạo Hoá“ 168
. Vì thế,
Thánh Thể cũng là một nguồn sáng và động lực cho những quan tâm của chúng ta về môi
sinh, nó hướng chúng ta trở thành những kẻ bảo vệ toàn thể tạo dựng.
237. Việc tham dự thánh lễ chủ nhật có một ý nghĩa đặc biệt. Cũng giống như ngày sa-bát của
Do-thái, đây là ngày chữa lành các quan hệ giữa con người với Thiên Chúa, chữa lành các
tương quan đối với chính mình, với tha nhân và với thế giới. Chủ nhật là ngày của Phục Sinh,
là ngày „thứ nhất“ của tạo dựng mới với hoa trái đầu mùa của nó là sự phục sinh xác phàm
của Chúa Ki-tô, vốn là một bảo chứng cho sự vinh quang chung cuộc của toàn bộ thực tại tạo
vật. Ngoài ra, ngày đó báo hiệu „sự an nghỉ đời đời của con người trong Thiên Chúa“169
. Linh
đạo ki-tô giáo hiểu giá trị của sự nhàn rỗi và việc mừng lễ hội theo ý nghĩa này. Con người có
khuynh hướng đưa việc nghỉ ngơi chiêm niệm xuống lãnh vực vô bổ và không cần thiết, và
như vậy họ quên mất cái quan trọng nhất: ý nghĩa của việc làm. Chúa mời gọi chúng ta hãy
đưa chiều kích lãnh nhận và miễn phí vào trong việc nghỉ ngơi và lễ hội, hãy xem hai việc đó
không thuần tuý chỉ là tình trạng nhàn rỗi chẳng làm gì cả. Đây là một thứ hành động làm nên
một phần căn cước của chúng ta. Có như thế, hành động con người không những tránh được
sự vọng động, mà còn tránh được sự ham hố vô độ và thái độ co cụm chỉ biết nghĩ tới cái lợi
của mình mà thôi. Luật nghỉ ngơi hàng tuần ấn định, mọi sinh hoạt phải gác lại trong ngày thứ
bảy, „để cho bò và lừa của ngươi nghỉ ngơi và con trai của nô tì ngươi và khách lạ lấy lại
sức“ (Xh 23,12. Nghỉ ngơi là một thứ mở rộng tầm nhìn, nó cho phép ta tái nhận ra quyền của
những người khác. Có như thế, ngày nghỉ - mà tâm điểm của nó là Thánh Thể - sẽ toả ánh
sáng của nó trên cả tuần lễ và nó khuyến khích ta biết lo lắng cho thiên nhiên và người nghèo.
VII. Thiên Chúa ba ngôi và quan hệ giữa các tạo vật
166
Nt. 167
Nt., TT Ecclesia de Eucharistia (17.04.2003), 8: AAS 95 (2003), tr. 438 168
Biển-đức XVI., Homilie in der Eucharistiefeier am Hochfest des Leibes und Blutes Christi (15.06.2006):
L’Osservatore Romano (Đức) Năm thứ 36, Nr. 25 (23.06.2006), tr. 7; AAS 98 (2006), tr. 513. 169
Katechismus der Katholischen Kirche, 2175.
71
238. Thiên Chúa Cha là cội nguồn cuối cùng, là nguyên cớ yêu thương và nối kết của tất cả
những gì hiện hữu. Thiên Chúa Con, vốn phản ảnh đức Chúa Cha là đấng tạo dựng mọi loài,
đã nối kết với trái đất này qua việc Người đầu thai dưới dạng phàm nhân trong lòng mẹ Ma-ri-
a. Thánh Thần là mối dây tình yêu vô biên, Người đã đi vào tận cùng tâm hồn của vũ trụ, qua
việc Người thúc đẩy và tạo nên những con đường đi mới. Thế giới được tạo dựng bởi ba Ngôi
cùng một nguồn gốc thiên tính này, nhưng mỗi Ngôi hoàn thành công trình chung tuỳ theo
đặc tính riêng của mình. „Như vậy, khi ngỡ ngàng thán phục trước vẻ đẹp và sự lớn lao của
vũ trụ, chúng ta phải ngợi khen cả Ba Ngôi thiên chúa“170
.
239. Niềm tin vào một Thiên Chúa hiệp thông trong ba ngôi dẫn Ki-tô hữu tới ý nghĩ: Thiên
Chúa ba ngôi đã ấn dấu trên nội tâm của toàn thể thực tại. Thánh Bô-na-ven-tu-ra đã dám xác
định: con người trước khi phạm tội đã có thể khám phá ra cách thức „làm chứng cho Thiên
Chúa ba ngôi“ nơi mỗi tạo vật. Người ta đã có thể nhận ra hào quang của Ba Ngôi qua thiên
nhiên, „khi cuốn sách (thiên nhiên) này xuất hiện rõ ràng trước con người và khi mắt họ
không bị vẫn đục“171
. Thánh Phan-sinh dạy, mỗi tạo vật đều mang trong mình một cấu trúc ba
ngôi tiêu biểu, cấu trúc này hiện thực đến nỗi có thể nhìn thấy được một cách tự nhiên, nếu
như cái nhìn của con người đủ mạnh, không bị hạn chế và che mờ. Như vậy, thánh nhân nhắc
nhở ta hãy luôn nỗ lực dùng chìa khoá Ba Ngôi để đọc thực tại.
240. Các Ngôi thiên chúa là những quan hệ sống còn, và thế giới - vốn được tạo dựng theo
hình ảnh thiên chúa - là một màng lưới tương quan. Các tạo vật muốn vươn tới Thiên Chúa,
và mỗi sinh vật đều mang trong mình đặc tính muốn hướng tới một cái gì khác, thành ra
chúng ta có thể thấy trong vũ trụ đầy những mối tương quan liên tục, đan vào trong nhau cách
huyền diệu 172
. Điều này không những mời gọi ta biết chiêm ngưỡng những nối kết muôn mặt
giữa các tạo vật, mà còn giúp ta khám phá ra chìa khoá cho sự thành toàn cá nhân. Là vì con
người từ từ lớn lên, trưởng thành và tự thánh hoá bằng cách đi vào tương quan, khi họ bước ra
khỏi chính mình, để sống cộng đoàn với Thiên Chúa, với tha nhân và với mọi thụ tạo. Như
vậy, họ nhận lấy cho sự sống riêng của mình cái động năng ba ngôi mà Thiên Chúa đã ấn dấu
nơi họ ngay từ khi được tạo thành. Tất cả đều nối kết với nhau, và điều này mời gọi ta hãy để
cho tâm tình đoàn kết địa cầu lớn lên trong mình, một tâm tình bắt nguồn từ mầu nhiệm Ba
Ngôi thiên chúa.
VIII. Nữ Vương hết mọi tạo vật
241. Mẹ Ma-ri-a đã lo lắng cho đức Giê-su. Giờ đây, trong yêu thương và đau khổ, Mẹ lo lắng
cho địa cầu bị chấn thương này. Mẹ đã khóc trước xác con với trái tim nát tan như thế nào, thì
giờ đây Mẹ cũng xót thương cho người nghèo đang bị đóng đinh và xót thương cho các tạo
vật đang bị tiêu vong bởi quyền lực của con người. Mẹ đã sống với đức Giê-su trong ngất
ngây hạnh phúc và mọi tạo vật ca ngợi vẻ đẹp của Mẹ. Mẹ là người đàn bà „mặc áo mặt trời;
chân đạp mặt trăng […] và đầu đội triều thiên mười hai sao“ (Kh 12,1). Từ trời cao, Mẹ là
Mẹ và là Nữ Vương của toàn thể tạo dựng. Trong thân xác hiển linh của Mẹ, kết hợp với
Chúa Ki-tô phục sinh, một phần tạo dựng có được nét đẹp vẹn toàn của chúng. Mẹ nhìn thấy
trong trái tim mình không những toàn bộ cuộc sống Con Mẹ và cẩn trọng giữ lại trong đó
(xem Lc 2,19.51), mà giờ đây còn hiểu ra ý nghĩa của tất cả mọi sự việc. Vì thế, chúng ta có
thể xin Mẹ giúp biết nhìn thế giới này với đôi mắt khôn ngoan hơn.
170
Gio-an Phao-lô II., Generalaudienz (02. 06.2000), 4: L’Osservatore Romano (dt.) Nt. 30, Số 32/33 (11.
08.2000), tr. 2; Insegnamenti 23/2 (2000), tr. 112. 171
Bonaventura, Quaest. disp. de Myst. Trinitatis, 1, 2, concl. 172
Xem Tô-ma ở Aquino, Summa Theologiae I, q. 11, art. 3; q. 21, art. 1, ad 3; q. 47, art. 3.
72
242. Cùng với Mẹ xuất hiện trong gia đình thánh ở Na-da-rét là khuôn mặt thánh Giu-se. Ngài
chăm sóc và bảo vệ mẹ con đức Giê-su bằng lao động và bằng sự hiện diện đại độ của mình
và giải thoát mẹ con khỏi bạo lực bất công, khi đưa cả hai đi trốn sang Ai-cập. Trong Tin
Mừng, ngài xuất hiện như một người công chính, siêng năng và dũng lực. Nhưng ngài cũng là
người rất dịu dàng, đấy không phải là đức tính của người yếu, nhưng đúng là của kẻ mạnh,
vốn để ý tới thực tế, để yêu mến và phục vụ trong khiêm tốn. Vì thế ngài được tuyên xưng là
quan thầy của toàn Giáo Hội. Cả ngài cũng có thể dạy chúng ta biết chăm sóc, có thể khuyến
khích chúng ta làm việc cách bao dung và nhẹ nhàng, để bảo vệ thế giới mà Thiên Chúa đã uý
thác cho chúng ta này.
IX. Bên kia mặt trời
243. Rốt cuộc chúng ta sẽ đối diện với vẻ đẹp vô song của Thiên Chúa (xem 1 Cr 13,12) và
có thể hiểu ra trong hạnh phúc ngất ngây sự bí ẩn của vũ trụ, cái vũ trụ sẽ cùng chúng ta
chung phần vào sự thành toàn bất tận. Vâng, chúng ta đang trên đường tiến tới ngày sa-bát
miên viễn, tiến về Giê-ru-sa-lem mới, về mái nhà chung thiên quốc. Đức Giê-su nói với chúng
ta: „Thầy sẽ làm mới mọi sự“ (xem 1 Cr 13,12). Cuộc sống đời đời sẽ là một kinh nghiệm
ngạc nhiên chung, trong đó mỗi tạo vật, sau khi đã trở nên sáng láng, sẽ có chỗ cuả mình và sẽ
có được một cái gì đó, để mang đến cho những người nghèo mãi mãi từ đây hết bị kìm kẹp.
244. Giờ đây, chúng ta hãy kết hợp với nhau, để nhận lấy ngôi nhà đã được giao phó cho
chúng ta, bởi chúng ta biết rằng, mọi sự tốt đẹp trong ngôi nhà này rồi đây sẽ được thu nhận
vào bàn tiệc thiên cung. Cùng với mọi tạo vật, chúng ta hãy đi con đường của chúng ta trong
thế giới này – con đường kiếm tìm Thiên Chúa, bởi vì, „nếu thế giới có một khởi đầu và đã
được tạo thành, thì hãy tìm xem ai đã tạo nên nó, tìm xem ai đã cho nó một khởi đầu, tìm xem
ai là vị tạo dựng của nó!“173
. Chúng ta hãy bước đi trong ca hát! Ước gì những cuộc chiến
đấu và những nỗi lo âu của chúng ta cho hành tinh này không xoá mất niềm vui và hi vọng
của chúng ta.
245. Thiên Chúa, Đấng mời gọi chúng ta bao dung và quyết liệt hi sinh, sẽ ban tặng cho ta sức
mạnh
và ánh sáng cần thiết, để chúng ta đi tới. Thiên Chúa của sự sống, Người vốn rất đỗi yêu
thương ta, sẽ luôn hiện diện trong trái tim thế giới này. Người không bỏ chúng ta, không để
chúng ta cô đơn, bởi vì Người mãi mãi gắn kết với trái đất chúng ta, và tình yêu của Người
luôn dẫn ta tìm ra những lối đi mới. Chúng con ngợi khen Người.
246. Sau những suy tư dài, lạc quan lẫn bi quan, tôi đề nghị hai lời nguyện. Bài thứ nhất
chúng ta có thể chia sẻ với tất cả những ai cùng tin vào một Thiên Chúa là đấng tạo dựng toàn
năng; bài thứ hai để các Ki-tô hữu chúng ta có thể nhận lấy những trách nhiệm đối với tạo
dựng, như nó được trình bày trong Tin Mừng của đức Giê-su.
Lời nguyện cho địa cầu chúng ta
Lạy Thiên Chúa toàn năng,
173
Basilius der Grosse, Hom. in Hexaemeron, 1, 2, 6: PG 29, Cột 8.
73
Chúa hiện diện trong bao la của vũ trụ
và trong những thụ tạo bé nhỏ nhất của Ngài,
Chúa nâng niu trong lòng
tất cả những gì hiện hữu.
Xin tưới sức mạnh tình yêu của Ngài trên chúng con
để chúng con bảo quản sự sống và cái đẹp.
Xin đổ đầy hoà bình trên chúng con
để chúng con sống với nhau như anh chị em
và chẳng làm hại nhau.
Lạy Thiên Chúa của những người nghèo khổ,
xin giúp chúng con,
để chúng con cứu giúp
những kẻ bị bỏ rơi và bị quên lãng trên trái đất này,
họ vốn là những thành phần quý hoá vô song trong con mắt của Chúa.
Xin chữa lành cuộc sống chúng con,
để chúng con trở nên kẻ bảo vệ thế giới
chứ không phải là những kẻ phá hoại,
để chúng con gieo vãi cái đẹp
chứ không gieo rắc nọc độc và đổ vỡ.
Xin lay động tâm can những ai
chỉ biết đi tìm lợi lộc
bằng bóc lột trái đất và những người nghèo.
Xin dạy cho chúng con,
biết khám phá ra giá trị của tất cả mọi thứ
và biết nhìn chúng với lòng đầy ngưỡng mộ;
biết nhận ra rằng,
số phận chúng con gắn liền với mọi loài thụ tạo
trên con đường tiến về nguồn sáng vô biên của Chúa.
Cám ơn Chúa hằng ở bên chúng con mọi ngày.
Hãy giúp chúng con can đảm trong cuộc chiến
giành lại công lí, tình yêu và hoà bình.
Ki-tô hữu cầu nguyện cùng với tạo dựng
Chúng con cùng với mọi tạo vật
ngợi khen Cha,
những tạo vật được bàn tay uy quyền của Cha hình thành.
Tất cả mọi thứ đều là của Cha
tất cả được tràn đày sự hiện diện và thương mến của Cha.
Chúng con chúc tụng Cha.
Lạy đức Giê-su, con Thiên Chúa,
qua Ngài mọi sự được tạo thành.
Ngài đã nhận lấy xác phàm
trong lòng mẹ Ma-ri-a;
Ngài đã trở thành một phần của trái đất này
và nhìn thế giới này bằng con mắt phàm nhân.
Giờ đây Ngài hiện diện trong mọi thụ tạo
với vinh quang của Đấng Phục Sinh.
Chúng con chúc tụng Chúa.
74
Lạy Chúa Thánh Thần, với ánh sáng mình,
Ngài đưa thế giới này quay về tình yêu của Cha
và luôn đồng hành với mọi than khóc của tạo dựng;
Ngài cũng hiện diện trong trái tim chúng con,
để thúc đẩy chúng con tiến về đàng lành.
Chúng con chúc tụng Chúa.
Lạy một Thiên Chúa ba ngôi,
là cộng đoàn quý báu của tình yêu vô biên,
xin dạy chúng con biết chiêm ngưỡng Chúa
trong nét đẹp của vũ trụ,
là nơi mọi sự mọi loài đều nói cho chúng con hay về Chúa.
Xin đánh thức lời ca khen và tiếng cám ơn của chúng con
trước mọi loài được Chúa tạo dựng.
Xin ban cho chúng con hồng ân, để cảm được sự gắn bó sâu xa
với tất cả những gì hiện hữu.
Lạy Thiên Chúa tình yêu,
xin chỉ cho chúng con biết chỗ đứng của mình trong thế giới này
như là những dụng cụ của tình yêu Chúa
đối với mọi loài của trái đấ này,
bởi vì không loài nào bị Chúa bỏ quên cả.
Xin soi sáng cho những kẻ quyền thế và giàu sang,
để họ không thu mình vào vô cảm tội lỗi
để họ biết yêu công ích, biết nâng đỡ những người yếu kém
và biết âu lo cho thế giới chúng con đang sống.
Trái đất và những người nghèo van xin Chúa
hãy nắm lấy chúng con bằng sức mạnh của Ngài
và bằng ánh sáng của Ngài,
để bảo vệ mọi sự sống,
để sửa soạn cho một tương lai tươi đẹp hơn,
hầu nước Cha trị đến,
nước của công lí, của hoà bình,
của tình yêu và của cái đẹp.
Chúng con chúc tụng Chúa.
Amen.
Trao tại Roma, nhà thờ thánh Phê-rô, ngày 24. Tháng 5, Đại Lễ Hiện Xuống năm 2015, năm
thứ ba nhiệm kì giáo tông của tôi.
Phan-sinh
Bản dịch của Phong Trào Giáo Dân Việt Nam Hải Ngoại
Ngày 03.09.2015