thỐng nhẤt phÁp luẬt vỀ ĐĂng kÝ bẤt ĐỘng sẢn Ở viỆt...

20
ĐẠI HC QUC GIA HÀ NI KHOA LUT TRN NGC TÚ THNG NHT PHÁP LUT VĐĂNG KÝ BT ĐỘNG SN VIT NAM Chuyên ngành : Lut kinh tế Mã s: 60 38 50 LUN VĂN THC SĨ LUT HC Người hướng dn khoa hc: TS. Nguyn Thúy Hin Hà ni - 2007

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

7 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

TRẦN NGỌC TÚ

THỐNG NHẤT PHÁP LUẬT

VỀ ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế

Mã số : 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thúy Hiền

Hà nội - 2007

MỤC LỤC

Trang

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA VIỆC THỐNG

NHẤT PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN Ở

VIỆT NAM

7

1.1. Khái quát chung pháp luật về đăng ký bất động sản 7

1.1.1. Khái niệm bất động sản 7

1.1.2. Đăng ký bất động sản 10

1.1.3. Các hệ thống đăng ký bất động sản 17

1.2. Một số quan niệm và nguyên tắc về thống nhất pháp luật 20

1.3. Tiền đề kinh tế và xã hội để thống nhất pháp luật về đăng ký

bất động sản

24

1.3.1. Tiền đề kinh tế - xã hội, yêu cầu và xu hướng phát triển của hệ

thống pháp luật về đăng ký bất động sản Việt Nam trong quá trình

hội nhập

24

1.3.2. Chính sách pháp luật - cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật

về đăng ký bất động sản

27

1.4. Pháp luật đăng ký bất động sản trong lịch sử 29

1.4.1. Pháp luật đăng ký bất động sản thời kỳ phong kiến 29

1.4.2. Pháp luật đăng ký bất động sản thời kỳ Pháp thuộc 34

1.4.3. Pháp luật đăng ký bất động sản từ năm 1945 đến trước năm 2003 37

1.5. Kinh nghiệm xây dựng pháp luật đăng ký bất động sản của

một số nước trên thế giới

45

1.5.1. Pháp luật đăng ký bất động sản của Nhật Bản 45

1.5.2. Pháp luật đăng ký bất động sản của Hàn Quốc 47

1.5.3. Pháp luật đăng ký bất động sản của Canada 50

1.5.4. Pháp luật đăng ký bất động sản của Anh 52

1.5.5. Một số nhận xét, đánh giá về pháp luật đăng ký bất động sản

các nước trên

54

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TÍNH THỐNG NHẤT CỦA PHÁP LUẬT

ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM

56

2.1. Pháp luật đăng ký bất động sản hiện hành 56

2.1.1. Pháp luật về đăng ký đất đai 56

2.1.2. Pháp luật về đăng ký quyền sở hữu nhà ở, công trình xây dựng 62

2.1.3. Pháp luật về đăng ký quyền sử dụng rừng và quyền sở hữu

rừng sản xuất là rừng trồng

69

2.2. Tính thiếu thống nhất của pháp luật về đăng ký bất động sản

Việt Nam

71

2.2.1. Sự thiếu thống nhất của các quy định hiện hành về đăng ký bất

động sản

72

2.2.2. Sự phân tán của cơ quan đăng ký bất động sản 77

2.3. Ảnh hưởng của sự phân tán pháp luật về đăng ký bất động sản

trong thực tiễn

79

2.3.1. Công tác đăng ký bất động sản 79

2.3.2. Cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản 84

2.3.3. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp về bất động sản 86

Chương 3: PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN NHẰM THỐNG NHẤT PHÁP

LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM

91

3.1. Yêu cầu lý luận và thực tiễn đối với việc thống nhất pháp

luật về đăng ký bất động sản ở Việt Nam

91

3.2. Phương hướng và giải pháp thống nhất pháp luật về đăng

ký bất động sản ở Việt Nam

93

3.2.1. Cần ban hành một đạo luật chung điều chỉnh tổng thể, đồng

bộ, thống nhất công tác đăng ký bất động sản

93

3.2.2. Thống nhất cơ quan quản lý nhà nước về đăng ký bất động

sản

95

3.2.3. Tách bạch hoạt động đăng ký bất động sản với hoạt động

quản lý về mặt hiện trạng, kỹ thuật của bất động sản, đồng

thời xây dựng cơ chế phối hợp, trao đổi thông tin giữa những

cơ quan thực hiện chức năng này

96

3.2.4. Hình thành một hệ thống hồ sơ pháp lý thống nhất và duy

nhất đối với mọi loại bất động sản và do một cơ quan quản

lý để đáp ứng yêu cầu hoạt động và phát triển của thị

trường bất động sản

97

3.2.5. Hạn chế sự can thiệp của các cơ quan hành chính vào thủ

tục xác lập quyền dân sự về bất động sản của người dân

98

3.2.6. Xác định thẩm quyền đăng ký bất động sản theo một tiêu

chí duy nhất là thẩm quyền theo địa hạt

99

KẾT LUẬN 101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 103

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc thực hiện đề tài

Tháng 7/2005, dự thảo Luật Đăng ký bất động sản được trình lên các cơ

quan chức năng và đưa ra công luận. Nội dung đổi mới chính của dự thảo này là

việc quy định gộp hai loại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (gọi là sổ đỏ) và

Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở (gọi là sổ hồng) vào làm một Giấy đăng ký

bất động sản (báo chí gọi là giấy xanh). Đồng thời, có một hệ thống cơ quan đăng

ký bất động sản tập trung, thống nhất, khắc phục những bất cập hiện tại.

Tuy nhiên, ngay sau đó dự thảo Luật đã vấp phải những ý kiến phản đối rất

quyết liệt. Như Công văn số 1119/BXD-QLN của Bộ Xây dựng do Thứ trưởng

Tống Văn Nga ký, trong đó có nêu: "Thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

và Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, cấp Giấy chứng nhận đăng ký bất động

sản... là không phù hợp với thực tế, trái với các quy định của pháp luật hiện hành

và gây ra nhiều phức tạp". Tiếp đó, qua nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ

Quốc hội, các ý kiến vẫn không đồng tình với nội dung trên của dự thảo. Nhất là

quan điểm của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội rất khác với quan điểm của Chính

phủ. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI (tháng 10/2005), Chính phủ đã đề

nghị và được Ủy ban Thường vụ Quốc hội chấp thuận rút dự thảo Luật ra khỏi

chương trình xây dựng luật để tiếp tục nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đặt ra

trong lý luận và thực tiễn.

Như vậy, việc đổi mới tổ chức và hoạt động đăng ký bất động sản tại nước

ta vẫn đang là vấn đề thời sự và bỏ ngỏ, nhiều nội dung cần làm rõ về cơ sở lý luận

và thực tiễn.

Về cơ sở thực tiễn: Việc đăng ký bất động sản có ý nghĩa quan trọng, cần

thiết nhằm đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc xác định hiện trạng và lý lịch pháp lý

của bất động sản. Thông qua công tác đăng ký, cơ quan nhà nước có thẩm quyền

xác định được hiện trạng (vị trí, kết cấu, đặc điểm), cũng như quản lý được các biến

động về mặt pháp lý của bất động sản. Đăng ký bất động sản là cơ sở pháp lý để Nhà

nước công nhận và bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản, đồng thời là

số liệu quan trọng để Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý bất động sản trên các

mặt khai thác, sử dụng bất động sản. Thông qua hệ thống đăng ký bất động sản,

các giao dịch trên thị trường bất động sản được công khai, minh bạch. Với việc

thông tin trong sổ đăng ký về bất động sản được công khai thì công chúng dễ dàng

tìm hiểu và biết đầy đủ, chính xác thông tin về bất động sản, từ đó có đầy đủ cơ sở

để xem xét, quyết định việc tham gia giao dịch dân sự, kinh tế liên quan đến bất

động sản. Thời điểm đăng ký là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên giữa các bên có

quyền trong trường hợp bất động sản là đối tượng của nhiều giao dịch trên thị

trường bất động sản.

Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đăng ký bất động sản

chưa đầy đủ, toàn diện, trong khi các quy định chưa rõ ràng, đồng bộ. Theo quy

định tại khoản 1 Điều 48 Luật Đất đai năm 2003 (có hiệu lực thi hành từ ngày

01/7/2004), chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất "phải đăng ký quyền sở hữu tài sản

theo quy định của pháp luật về đăng ký bất động sản" nhưng hiện chưa có Luật

Đăng ký bất động sản, do vậy mới chỉ có quy định về đăng ký đất đai theo Luật

Đất đai, đăng ký quyền sở hữu nhà ở theo Luật Nhà ở năm 2005, đăng ký quyền sở

hữu công trình xây dựng theo Nghị định số 95/2005/NĐ-CP ngày 15/7/2005 của

Chính phủ về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu công

trình xây dựng. Nhìn chung, các quy định về đăng ký chưa bao quát hết những vấn

đề cần thiết, chưa bảo đảm các thông tin pháp lý phục vụ cho các loại bất động sản

khi tham gia vào thị trường. Trong khi đó, các tài sản gắn liền với đất khác hiện

vẫn chưa có quy định về đăng ký.

Tổ chức và hoạt động đăng ký bất động sản còn nhiều vướng mắc, cụ

thể như: các cơ quan đăng ký bất động sản tổ chức phân tán, thẩm quyền bị chia

cắt theo địa giới hành chính, hoạt động đăng ký bất động sản triển khai chậm

(ví dụ: cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy chứng nhận quyền sở hữu

nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại đô thị theo Nghị định số 60/NĐ-CP mới đạt

khoảng 25%); nhiều loại bất động sản chưa được tổ chức đăng ký trên thực tế

(công trình xây dựng…).

Về mặt lý luận: Bổ sung và làm rõ những vấn đề lý luận liên quan đến

việc thống nhất pháp luật về đăng ký bất động sản. Hiện nay, trong nền khoa

học pháp lý của chúng ta còn tồn tại không ít khoảng trống, cũng như những

vấn đề chưa rõ ràng về đăng ký và giao dịch liên quan đến bất động sản trong

điều kiện nền kinh tế thị trường. Liên quan đến việc thống nhất pháp luật đăng

ký bất động sản, còn tồn tại một số vấn đề cần được làm rõ như: Các nguyên tắc

về đăng ký bất động sản; khái niệm đăng ký bất động sản; các tiền đề kinh tế xã

hội để thống nhất pháp luật về đăng ký bất động sản... Bên cạnh đó, trong điều

kiện chúng ta thừa nhận chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai, cần phân tích so

sánh giữa chế độ đăng ký bất động sản Việt Nam với các quốc gia công nhận

quyền sở hữu tư nhân đối với đất đai.

Từ cơ sở trên, tác giả luận văn đã chọn đề tài "Thống nhất pháp luật về

đăng ký bất động sản ở Việt Nam" nhằm hướng tới giải quyết về mặt lý luận

các mâu thuẫn và bất cập trong pháp luật về đăng ký bất động sản hiện hành,

đồng thời từ yêu cầu của thực tiễn cố gắng làm rõ được sự cần thiết và tính tất

yếu của việc thống nhất pháp luật về đăng ký bất động sản ở Việt Nam, góp

phần tạo ra khung pháp luật chặt chẽ, ổn định và khoa học để điều chỉnh một

cách hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch về bất động sản trong xã

hội.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Pháp luật về đăng k‎ý bất động sản là vấn đề đã và đang được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm ở những giác độ khác nhau. Một số công trình nghiên cứu về

lý luận và thực tiễn xung quanh pháp luật về đăng ký bất động sản của Việt Nam

có thể kể đến như sau: "Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế độ đăng ký bất động sản

tại Việt Nam", đề tài khoa học của Bộ Tư pháp năm 2005 nhằm xây dựng Dự thảo

Luật Đăng ký bất động sản; "Đăng ký bất động sản, thực tiễn và phương hướng

hoàn thiện", Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Kim Hiền, năm 2001...

Ngoài ra, có một số công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến phần

nào lĩnh vực đăng ký bất động sản như: "Quản lý nhà nước về đất đai và thực

trạng giải pháp", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Dung, năm 1998; "Một

số vấn đề về chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo qui định của pháp luật Việt

Nam", Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thu Thủy, năm 2004; "Các vấn

đề pháp lý về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất", Luận văn thạc sĩ luật học

của Nguyễn Quang Học, năm 2004.

Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên đến nay đã có nhiều vấn đề chưa

cập nhật với thực tiễn xây dựng và thực thi pháp luật trong thời gian qua, đồng thời

chưa có đề tài mang tính trực tiếp và chuyên sâu nhằm đưa ra cơ sở lý luận cũng

như thực tiễn để tìm kiếm giải pháp thống nhất toàn bộ pháp luật về đăng ký bất

động sản của Việt Nam trong một chỉnh thể.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích:

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ cơ sở khoa học, l‎ý luận và

thực tiễn của việc thống nhất pháp luật hiện hành về đăng ký bất động sản của Việt

Nam trên quan điểm hài hòa các điều kiện về kinh tế - xã hội và xu hướng hội

nhập.

Nhiệm vụ:

Với mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định là:

Thứ nhất, làm rõ cơ sở khoa học lý luận, các tiền đề kinh tế - xã hội cho

việc thống nhất pháp luật về đăng ký bất động sản của Việt Nam trong điều kiện

duy trì chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.

Thứ hai, phân tích, đánh giá pháp luật đăng ký bất động sản tại Việt Nam

qua các thời kỳ, cũng như thực trạng về tính thống nhất của pháp luật về đăng ký

bất động sản hiện hành.

Thứ ba, so sánh pháp luật và thực trạng hoạt động đăng ký bất động sản của

một số quốc gia có điều kiện kinh tế - xã hội gần gũi với Việt Nam, qua đó đúc rút

những kinh nghiệm bổ ích làm cơ sở để đưa ra các giải pháp thống nhất pháp luật về

đăng ký bất động sản nước ta, bảo đảm tính hội nhập quốc tế.

Thứ tư, kiến nghị phương hướng cơ bản nhằm thống nhất pháp luật về đăng

ký bất động sản của Việt Nam.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Với mục đích và nội dung nghiên cứu khá rộng, tổng quát của đề tài, trong

giới hạn về quy mô và thời gian cho phép của một luận văn thạc sĩ luật học, người

nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật về tổ chức và hoạt

động đăng ký bất động sản ở Việt Nam.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của

chủ nghĩa Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu sau đây:

- Phương pháp duy vật lịch sử: Tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá trình

hình thành, phát triển của pháp luật đăng ký bất động sản Việt Nam.

- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: Đây là các phương pháp quan

trọng và được sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện luận văn.

- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sưu tầm và phân tích các vụ việc thực

tiễn có liên quan để làm rõ thực trạng về tính thống nhất của pháp luật đăng ký bất

động sản.

6. Những đóng góp về mặt lý luận và thực tiễn của luận văn

Đây là luận văn thạc sĩ đầu tiên tiếp cận vấn đề đăng k‎ý bất động sản trên

một bình diện rộng và tổng thể nhằm thống nhất pháp luật về đăng k‎ý bất động sản

trong một mô hình pháp lý mới. Những đóng góp khoa học của luận văn được thể

hiện ở những nội dung sau:

Phân tích và làm rõ được sự cần thiết thống nhất pháp luật về đăng ký‎ bất

động sản.

Phân tích được thực trạng hiện nay về tính thống nhất của pháp luật về

đăng ký bất động sản.

Phân tích được cơ sở lý luận cũng như tiền đề kinh tế - xã hội của việc

thống nhất pháp luật về đăng k‎ý bất động sản Việt Nam.

Phân tích mô hình và kinh nghiệm xây dựng pháp luật đăng ký bất động

sản của một số nước trên thế giới.

Kiến nghị phương hướng và giải pháp cụ thể cho việc thống nhất pháp luật

đăng ký bất động sản trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam

và xu hướng phát triển chung của pháp luật quốc tế.

Nội dung và kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là tài liệu tham khảo

hữu ích cho việc nghiên cứu lý luận, học tập và giảng dạy khoa học pháp lý về

đăng ký bất động sản. Ngoài ra, những quan điểm và kiến nghị của luận văn còn có

ý nghĩa thiết thực trong quá trình hoàn thiện pháp luật về đăng ký bất động sản, cụ

thể là việc xây dựng Luật Đăng ký bất động sản.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của

luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của việc thống nhất pháp luật về

đăng ký bất động sản Việt Nam.

Chương 2: Thực trạng về tính thống nhất của pháp luật đăng ký bất động

sản Việt Nam.

Chương 3: Phương hướng cơ bản nhằm thống nhất pháp luật về đăng

ký bất động sản Việt Nam.

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA VIỆC THỐNG NHẤT PHÁP

LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM

1.1. KHÁI QUÁT CHUNG PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ BẤT ĐỘNG SẢN

1.1.1. Khái niệm bất động sản

Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định: "Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ

trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản." Trong đó, "vật" được coi là tài sản

phải thỏa mãn ba điều kiện: là một bộ phận của thế giới vật chất, có lợi ích cho con

người và là vật con người có thể kiểm soát được. Tiền là một loại hàng hóa đặc

biệt, có chức năng dùng để trao đổi, đại diện cho giá trị thực của hàng hóa, do đó

cũng coi là tài sản. Các quyền tài sản cũng được coi là tài sản, vì đáp ứng được yêu

cầu trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự.

Sự phân loại tài sản trong khoa học pháp lý rất đa dạng. Tài sản được phân

loại dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Tuy nhiên, trong khoa học pháp lý hiện đại,

tài sản nói chung bao giờ cũng chỉ tồn tại dưới hai hình thức cơ bản: tài sản hữu

hình và tài sản vô hình.

Căn cứ vào tính chất không di dời được của tài sản, pháp luật có sự phân

chia tài sản thành động sản và bất động sản. Pháp luật của hầu hết các nước đều coi

đây là sự phân loại phổ biến và cơ bản nhất. Cơ sở cho sự phân loại này còn dựa

vào một số tiêu chí như mục đích, phương cách sử dụng và giá trị của tài sản.

Việc phân loại tài sản thành động sản và bất động sản ở Việt Nam dựa trên

tính chất, tính năng sử dụng của tài sản và các quy định của pháp luật. Để phân

loại, pháp luật Việt Nam đã sử dụng phương pháp loại trừ: quy định những tài sản

là bất động sản và sau đó, khẳng định "động sản là những tài sản không phải là bất

động sản". Điều 174 Bộ luật Dân sự 2005 quy định:

1. Bất động sản là các tài sản bao gồm:

a) Đất đai;

b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài

sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó.

c) Các tài sản khác gắn liền với đất đai;

d) Các tài sản khác do pháp luật quy định

2. Động sản là những tài sản không phải là bất động sản [19].

Như vậy, đặc trưng để nhận biết được về bất động sản là "gắn liền với đất

đai". Đây là đặc điểm đầu tiên và cơ bản nhất để phân biệt bất động sản với động

sản. Bên cạnh việc quy định bất động sản căn cứ vào thuộc tính "gắn liền với đất

đai", pháp luật còn định ra những tài sản khác được coi là bất động sản. Tuy nhiên,

hiện nay, đất đai, nhà ở và các công trình xây dựng gắn liền với đất đai là những

bất động sản chủ yếu và phổ biến trong giao lưu dân sự.

Pháp luật Việt Nam không có sự phân biệt quyền tài sản thành các quyền

đối vật và quyền đối nhân như một số nước trên thế giới. Song, nếu hiểu quyền đối

vật như trong khoa học pháp lý nói chung thì Việt Nam có một số quyền đối vật

đối với bất động sản như sau: quyền sở hữu, quyền sử dụng đất, quyền sử dụng hạn

chế bất động sản liền kề, quyền cầm cố, quyền thế chấp và một số quyền khác.

Trong đó, quyền sở hữu bất động sản được quy định có một số điểm khác biệt với

các nước trên thế giới.

Xuất phát từ đặc trưng riêng của mình mà pháp luật có các quy định khá

chặt chẽ về chế độ sở hữu đối với bất động sản. Điều này như một tất yếu để quản

lý và bảo vệ sự ổn định trong giao lưu dân sự. Hiến pháp Việt Nam quy định chế

độ sở hữu toàn dân về đất đai. Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định các hình thức

sở hữu, trong đó có sở hữu nhà nước. Điều này dẫn đến việc quy định chế độ pháp

lý về quyền đối với đất đai có những đặc thù. Luật Đất đai năm 2003 quy định cho

cá nhân có nhiều quyền, trong đó có quyền định đoạt về quyền sử dụng đất. Bên

cạnh đó, Nhà nước cũng trao cho cá nhân, tập thể những quyền khác để phù hợp

với thực tế hơn. Ngoài ra, nhà ở, các công trình xây dựng cũng là tài sản chịu sự

quản lý chặt chẽ của pháp luật. Các chủ thể nếu muốn xác lập quyền sở hữu đối với

nhà ở phải tuân theo yêu cầu về đăng ký và các thủ tục khác để đảm bảo sự quản lý

của Nhà nước.

Theo pháp luật Việt Nam chủ sở hữu tài sản có ba quyền năng chiếm hữu,

sử dụng, định đoạt. Một người không phải là chủ sở hữu cũng có những quyền

năng trên song không mang tính độc lập mà phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu.

Thực tế, trong giao lưu dân sự, việc một người không phải là chủ sở hữu có quyền

chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt tài sản của người khác là điều phổ biến. Điều

này cho thấy việc pháp luật bảo vệ một cách thích đáng quyền lợi của những người

được chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng hay định đoạt tài sản là hết

sức quan trọng. Điển hình là quyền sử dụng đất. Chính chế độ sở hữu toàn dân đối

với đất đai đã khiến cho việc quy định về quyền sử dụng đất có những đặc trưng

riêng so với các quyền sử dụng khác.

Dù pháp luật mỗi nước có chế độ sở hữu khác nhau đối với đất đai, nhưng

một điều không thể phủ nhận là: tất cả các nước đều coi đất đai là bất động sản có

vị trí quan trọng nhất. Việc sử dụng đất đai phụ thuộc rất nhiều vào chế độ sở hữu

đất. Việt Nam và một số nước xã hội chủ nghĩa khác (như Cu Ba, Trung Quốc)

thừa nhận chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai. Ngoài hình thức sở hữu nhà nước

thì không có bất cứ hình thức sở hữu nào khác đối với đất đai, do đó, Nhà nước là

chủ thể duy nhất có quyền định đoạt đối với đất đai. Trong đa số các trường hợp

Nhà nước không thể tự mình trực tiếp thực hiện quyền sử dụng đối với đất đai mà

trao quyền đó cho các chủ thể khác trong xã hội. Chính hiện tượng này đã dẫn đến

những quy định về quyền sử dụng đất có điểm đặc biệt so với quyền sử dụng trong

khái niệm quyền sở hữu tài sản thông thường. Nhà nước, thông qua các quy định

pháp luật, cho phép các chủ thể có quyền sử dụng đất được chuyển đổi, chuyển

nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thế

chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất (Điều 106 Luật Đất đai). Riêng với bảo lãnh quyền sử dụng đất,

đến Thông tư liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6/2006 của Bộ Tư

pháp và Bộ Tài nguyên Môi trường đã quy định: "Thế chấp quyền sử dụng đất của

người thứ ba mà trong Luật Đất đai gọi là bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất được gọi

chung là thế chấp quyền sử dụng đất".

Như vậy, mặc dù không phải là chủ sở hữu nhưng thực ra, quyền sử dụng

đất của các chủ thể được mở rộng một cách tối đa.

1.1.2. Đăng ký bất động sản

Trước kia, khi thực hiện các giao dịch như chuyển nhượng đất, các bên gặp

nhau trên đất cùng với người làm chứng và thực hiện một vài cử chỉ mang tính

biểu tượng (như trao một nắm đất…). Tuy nhiên, biện pháp này tỏ ra không an

toàn. Người làm chứng có thể chết đi, trí nhớ không thể tồn tại mãi theo thời gian.

Từ đó, một loại Sổ sách công ra đời, do một thẩm phán hay một quan chức địa

phương bảo quản. Loại sổ này trở thành Sổ ghi chứng thư - quyền sở hữu của cả

cộng đồng, khi mà các giao dịch chưa trở nên phức tạp. Cho đến nay, người ta còn

lưu giữ được các Sổ sách như vậy. Ở cơ quan đăng ký đất của Vienna, còn có số

seri Sổ đăng ký từ năm 1368; ở Praha: từ năm 1377, ở Munich: từ năm

1440…[33].

Tiếp sau đó là giai đoạn phát triển thứ hai của lĩnh vực đăng ký đất đai, gọi là

đăng ký chứng thư. Người có quyền đối với bất động sản xuất trình các chứng thư

xác lập quyền của mình tại cơ quan đăng ký bất động sản. Sau khi kiểm tra, cơ quan

đăng ký sẽ chứng nhận tính hợp pháp của việc xác lập quyền đó vào chứng thư, trả lại

cho người có quyền như là bằng chứng của việc đã thực hiện đăng ký, đồng thời lưu

giữ một bản sao của chứng thư đó tại cơ quan đăng ký. Đăng ký chứng thư phát

triển mạnh ở Pháp, Bỉ, Thụy Sĩ, Italia, Tây Ban Nha, Ấn Độ và hầu hết các thuộc địa

của Anh (trừ Australia và Canada), hầu hết các bang của Mỹ, các nước Nam Mỹ,

Scotland và Irland, các quận của Anh quốc. Nhưng hệ thống đăng ký chứng thư

cũng đã thể hiện các điểm hạn chế của nó. Đó là sự chậm trễ, mất thời gian thẩm

tra, tìm hiểu tính xác thực của các chứng thư (từ cả phía cơ quan đăng ký lẫn người

tìm hiểu thông tin về tình trạng pháp lý của bất động sản), đặc biệt là trong các

trường hợp người lập chứng thư có sai sót hoặc cố ý gian lận. Điều này dẫn đến rủi

ro cao cho những người mua hoặc tham gia giao dịch khác về bất động sản. Để

khắc phục những nhược điểm này, đã dẫn đến việc hình thành hệ thống đăng ký

các quyền, bao gồm cả các giao dịch liên quan đến một bất động sản. Hệ thống này

phát triển mạnh ở Đức, Áo, Hungary, các thuộc địa của Áo, phần lớn lãnh thổ

Canada, một số bang của Hoa kỳ, ở Irland, Anh và xứ Wales.

Nội dung đăng ký theo hệ thống này bao gồm ba thành phần như sau: (1)

Mô tả tài sản là đất, kèm theo bản đồ thửa đất; (2) Quyền sở hữu, gồm có tên, địa

chỉ của người có các quyền đối với đất như quyền bán hay định đoạt đất; (3)

Những ràng buộc đối với đất, thứ tự ưu tiên, các biến động như bán đất, thế chấp,

giải chấp…

Hệ thống đăng ký quyền về bất động sản được hình thành trên cơ sở hệ

thống đăng ký Torrens. Nguyên tắc cơ bản của hệ thống đăng ký Torrens có thể

tóm tắt là: hệ thống đăng ký mang tính xác lập; có xác minh, kiểm tra (bao gồm cả

kiểm tra trên thực địa trong trường hợp cần thiết), có cấp giấy chứng nhận về các

quyền đối với bất động sản.

Đối với bất động sản, việc đăng ký trước tiên nhằm mục đích đáp ứng yêu cầu

quản lý nhà nước đối với những tài sản này, là một trong bốn trụ cột của quản lý

hành chính đất đai gồm: Khảo sát và lập bản đồ địa chính; Lập hồ sơ địa chính và

cập nhật hồ sơ địa chính; đăng ký bất động sản; lưu trữ dữ liệu [34]. Đất đai và

các tài sản gắn liền với đất đai luôn là nguồn lực quan trọng của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, đất đai còn thuộc phạm trù chủ DANH MỤC TÀI LIỆU

THAM KHẢO

CÁC VĂN BẢN NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG

1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT CỦA NHÀ NƢỚC

3. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2004), Thông tư số 29/2004/TT-BTNMT ngày

1/11 hướng dẫn lập, chỉnh lý, quản lý hồ sơ địa chính, Hà Nội.

4. Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nội vụ (2004), Thông tư liên tịch số

38/2004/TTLT-BTNMT-BNV ngày 31/12 hướng dẫn về chức năng, nhiệm

vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, Hà

Nội.

5. Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Thông tư liên tịch số

03/2003/TTLT/BTP-BTNMT ngày 04/07 hướng dẫn về trình tự, thủ tục

đăng ký và cung cấp thông tin về thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng

đất, tài sản gắn liền với đất, Hà Nội.

6. Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Thông tư liên tịch số

03/2006/TTLT/BTP-BTNMT ngày 13/6 sửa đổi, bổ sung một số quy định

của Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT/BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 của

Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường về hướng dẫn việc đăng ký

thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, Hà

Nội.

7. Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2005), Thông tư liên tịch số

05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6 về hướng dẫn việc đăng ký thế

chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất, Hà Nội.

8. Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi trường (2006), Thông tư liên tịch số

04/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13/6 hướng dẫn việc công chứng, chứng thực

hợp đồng, văn bản thực hiện quyền của người sử dụng đất, Hà Nội.

9. Bộ Tư pháp, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Nhà

nước (2007), Thông tư liên tịch số 05/2007/TTLT-BTP-BXD-BTNMT-

NHNN ngày 21/5 hướng dẫn một số nội dung về đăng ký thế chấp nhà ở,

Hà Nội.

10. Bộ Xây dựng (2006), Thông tư số 05/2006/TT-BXD ngày 6/9 hướng dẫn thực

hiện Nghị định 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của Chính phủ quy định

chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, Hà Nội.

11. Chính phủ (2004), Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10 hướng dẫn thi hành

Luật Đất đai, Hà Nội.

12. Chính phủ (2005), Nghị định số 95/2005/NĐ-CP ngày 15/7 về việc cấp giấy

chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, quyền sở hữu công trình xây dựng, Hà

Nội.

13. Chính phủ (2006), Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3 về thi hành Luật

Bảo vệ và phát triển rừng, Hà Nội.

14. Chính phủ (2006), Nghị định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9 quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở, Hà Nội.

15. Chính phủ (2007), Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5 quy định bổ sung về

việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử

dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu

hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai, Hà Nội.

16. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.

17. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.

18. Quốc hội (2004), Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Hà Nội.

19. Quốc hội (2005), Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

20. Quốc hội (2005), Luật Nhà ở, Hà Nội.

21. Quốc hội (2006), Luật Kinh doanh bất động sản, Hà Nội.

CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC

22. Ban soạn thảo dự án Luật đăng ký bất động sản (2007), Kỷ yếu hội thảo pháp

luật về đăng ký bất động sản, Hà Nội.

23. Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự Nhật Bản (1995), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

24. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Báo cáo số 712/BTNMT-ĐĐ tổng kết 10

năm thi hành Luật Đất đai (1993-2003), Hà Nội.

25. Nguyễn Ngọc Điện (2007), "Đăng ký bất động sản và vấn đề xác lập, công

nhận các quyền liên quan đến bất động sản", Kỷ yếu Hội thảo: Pháp luật

về đăng ký bất động sản, ngày 10/1, Hà Nội.

26. Phạm Thị Kim Hiền (2001), Đăng ký bất động sản - thực tiễn và phương

hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà

Nội, Hà Nội.

27. Ngọc Huân (2007), "Người dân khổ với giấy hồng, giấy đỏ", Báo Lao Động, ngày

14/6/2007.

28. Ngô Trọng Khang (2007), "Tình hình đăng ký quyền sử dụng đất và quyền sở

hữu nhà tại Hà Nội", Kỷ yếu Hội thảo: Pháp luật về đăng ký bất động sản,

ngày 10/1, Hà Nội.

29. Hoàng Xuân Liêm (1998), "Luật so sánh và vấn đề nhất thể hóa pháp luật",

Nhà nước và pháp luật, (7).

30. Nguyễn Văn Luyện (1999), "Luận cứ khoa học của việc xây dựng pháp luật

kinh tế ở Việt Nam", Nhà nước và pháp luật, (10).

31. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

32. Đinh Thị Mai Phương (2005), Thống nhất luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

33. Đặng Trường Sơn (2007), "Pháp luật về đăng ký bất động sản trong điều kiện

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa", Kỷ yếu Hội thảo:

Pháp luật về đăng ký bất động sản, ngày 10/1, Hà Nội.

34. Nguyễn Đăng Sơn (2007), "Đăng ký bất động sản", Kỷ yếu Hội thảo: Pháp luật

về đăng ký bất động sản, ngày 10/1, Hà Nội.

35. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2005), Thuật ngữ pháp luật dân sự, số chuyên đề

về Bộ luật Dân sự, Hà Nội.

36. Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2006), Số chuyên đề về bất động sản, Hà Nội.

37. Nguyễn Khánh Thắng (2006), "Một số bất cập và kiến nghị liên quan đến việc

đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với

đất", Ngân hàng, (5).

38. Thông tin Khoa học pháp lý (2006), Chuyên đề đăng ký quyền sử dụng đất ở

Việt Nam và hệ thống đăng ký bất động sản của một số nước trên thế giới,

(3+4).

39. Trường Đại học Luật Hà Nội (2001), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

40. Trần Đông Tùng (2006), "Mô hình cơ quan đăng ký bất động sản- kinh nghiệm

quốc tế và vấn đề của Việt Nam", Tham luận tại Hội thảo: Pháp luật đăng

ký bất động sản, do Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tổ chức năm 2006,

Quảng Ninh.

41. Đào Trí Úc (2001), "Những nội dung cơ bản của khái niệm hệ thống pháp luật

nước ta và các nguyên tắc lập pháp", Nghiên cứu lập pháp, (10).

42. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng và Trung tâm từ

điển học, Đà Nẵng.

43. Võ Khánh Vinh (2001), "Một số vấn đề chung về kỹ thuật lập pháp", Nhà nước

và pháp luật, (8).

44. Đặng Hùng Võ (2007), "Minh bạch hóa thị trường bất động sản nước ta", Kỷ

yếu Hội thảo: Pháp luật về đăng ký bất động sản, ngày 10/1, Hà Nội.

TRANG WEB

45. Quý Tâm (2007), Công bố chỉ số minh bạch thị trường bất động sản: Việt Nam

đứng cuối bảng, http://tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?

ArticleID=153021&ChanelID=204.