thÔng tin chung vỀ sÁng kiẾnthgiaothinha.pgdgiaothuy.edu.vn/wp-content/uploads/sites/... ·...
TRANSCRIPT
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn tả cảnh cho
học sinh lớp 5.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
Giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 5.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến:
Tháng 8 năm 2014 đến tháng 4 năm 2015.
4. Tác giả:
Họ và tên: Nguyễn Thị Phượng.
Năm sinh: 1981
Nơi thường trú: xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm.
Chức vụ công tác: Giáo viên.
Nơi làm việc: Trường Tiểu học Xuân Ninh.
Địa chỉ liên hệ: xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Điện thoại: 0987142868
Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 100%
5. Đồng tác giả (nếu có)
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường Tiểu học Xuân Ninh.
Địa chỉ: Trường Tiểu học Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam
Định.
Điện thoại: 03503885019
- 1 -
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN TẢ CẢNH CHO
HỌC SINH LỚP 5.
I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN:
1. Cơ sở lí luận:
Trong chương trình Tiểu học, môn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình thành và
phát triển cho học sinh các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, kiến thức Tiếng Việt và
văn học để các em học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động lứa tuổi.
Thông qua việc dạy học Tiếng Việt, góp phần rèn luyện tư duy, cung cấp cho
học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa,
văn học của Việt Nam và nước ngoài. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình
thành con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Môn Tiếng Việt gồm nhiều phân môn khác nhau như Tập đọc, Luyện từ và
câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm văn. Việc dạy và học mỗi phân
môn có những thuận lợi và khó khăn riêng, song khó hơn cả đối với người dạy
cũng như đối với người học là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là một phân môn rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu
học, nó không chỉ giúp học sinh hình thành các kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết mà
còn rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt
còn hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện
đại và năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống
xung quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời
cũng dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản - còn gọi là đoạn
văn, bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.
Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính của
chương trình Tập làm văn lớp 5 là văn miêu tả. Tả cảnh là một kiểu bài khó vì
với học sinh lớp 5 kĩ năng quan sát, tư duy trừu tượng, vốn từ, vốn hiểu biết vẫn
còn hạn chế. Mặt khác có những cảnh học sinh chỉ có thể gặp một lần khi đi du
- 2 -
lịch hoặc chưa tận mắt được ngắm nhìn mà chỉ được chiêm ngưỡng cảnh đó qua
xem trên truyền hình. Do vậy việc cảm nhận được vẻ đẹp của cảnh hay những
thay đổi của cảnh theo thời gian là rất khó khăn, việc biểu hiện cảm xúc của học
sinh để làm cảnh đó trở nên đẹp hơn, sinh động hơn, gần gũi hơn cũng không hề
đơn giản với học sinh khi viết văn tả cảnh.
Làm thế nào để cho học sinh làm văn hay và có hiệu quả thì lại là một vấn
đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và dày công nghiên cứu của những người làm
công tác giáo dục.
2. Cơ sở thực tiễn:
Là một giáo viên đã trải qua gần mười năm giảng dạy chương trình lớp 5 tôi
nhận thấy thể loại văn tả cảnh trong phân môn Tập làm văn ở lớp 5 là thể loại
văn dùng ngôn ngữ để “vẽ” ra các sự vật, con người, con vật, cảnh vật, sự
việc… một cách sinh động, cụ thể. Một bài văn miêu tả hay không những phải
thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động về đối tượng miêu tả mà còn thể hiện được
trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết đối với đối tượng được
miêu tả. Để làm được điều đó thì học sinh phải huy động vốn kiến thức từ nhiều
mặt: như các hiểu biết về cuộc sống, tri thức về văn học, khoa học, xã hội… Học
sinh lại còn phải biết kết hợp hài hòa nhiều kĩ năng như: phân tích đề, tìm ý, lập
dàn ý, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn… Thế nhưng trong thực tế giảng dạy tôi
thấy số lượng học sinh viết được bài văn tả cảnh hay còn rất hạn chế. Đa số các
em khi làm bài văn tả cảnh còn mang tính kể lể, liệt kê các sự việc, sự vật. Kĩ
năng sư dụng từ, viết câu, liên kết các đoạn chưa tốt, các ý chưa gắn kết với
nhau, câu văn thiếu hình ảnh và thiếu cảm xúc, chưa gắn với thực tế dẫn đến
chất lượng bài văn còn thấp so với yêu cầu.
Từ những hạn chế trên tôi luôn trăn trở suy nghĩ: Làm thế nào để tiết học Tập
làm văn nhẹ nhàng mà hiệu quả? Làm thế nào để các em hoạt động tích cực, chủ
động trong giờ học Tập làm văn? Làm thế nào để các em có kĩ năng viết được
một bài văn tả cảnh hoàn chỉnh đạt được yêu cầu như mong muốn?
- 3 -
Đó cũng chính là lí do tôi đưa ra: “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn tả
cảnh cho học sinh lớp 5”.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP:
1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến
a. Thực trạng học sinh:
Qua trực tiếp giảng dạy phân môn Tập làm văn, tôi thấy khi làm văn tả cảnh
trong bài viết của các em còn có một số mặt hạn chế sau:
- Bài viết của các em còn sai lỗi chính tả.
- Bài viết chưa đúng trọng tâm của đề bài cần miêu tả.
- Khi làm văn các em còn miêu tả hời hợt, chung chung, vốn từ nghèo nàn
nên trong bài văn các em thường liệt kê các đối tượng miêu tả, diễn đạt lủng
củng, sắp xếp ý lộn xộn.
- Câu văn chưa giàu hình ảnh, các em chưa biết cách dùng các biện pháp
nghệ thuật khi miêu tả.
Thực trạng học sinh còn nhiều hạn chế như vậy đã làm cho tiết Tập làm văn
trở thành một gánh nặng, một thách thức đối với các em. Đôi khi các em ngại
viết, ngại phải làm bài văn miêu tả.
Đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng Tập làm văn của học sinh
chưa đạt yêu cầu? Qua quá trình giảng dạy lớp 5 mà cụ thể là dạy dạng bài tập
làm văn tả cảnh, tôi nhận thấy chất lượng các bài văn tả cảnh của học sinh chưa
được cao do nhiều nguyên nhân.
b. Nguyên nhân của thực trạng:
* Về phía học sinh:
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định đúng yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh chưa tập trung quan sát đối tượng miêu tả hoặc là khi quan sát thì
các em thiếu một vài yếu tố trong kĩ năng và mục đích quan sát: quan sát những
- 4 -
gì, quan sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần
miêu tả?...
- Các em chưa biết hình dung các đối tượng miêu tả thông qua hình ảnh, âm
thanh, cảm giác… về sự vật khi quan sát.
- Các em ít tìm hiểu và đọc sách, báo, tài liệu tham khảo liên quan đến môn
học để tích lũy vốn từ nên vốn từ của các em đơn điệu, nghèo nàn. Các em lại
không biết sắp xếp câu văn, ý văn như thế nào để bài viết được mạch lạc. Bên
cạnh đó việc diễn đạt một cảnh bằng vốn từ ngữ, ngôn ngữ của các em về một
sự vật, cảnh vật, về một con người cụ thể nào đó cũng gặp nhiều lúng túng.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên chưa linh hoạt, chủ động, sáng tạo khi tổ chức dạy trên lớp, hình
thức dạy học còn đơn điệu chưa gây được hứng thú cho học sinh.
- Giáo viên chưa quan tâm rèn luyện cho học sinh thói quen đọc sách, đọc
các bài văn mẫu để học tập các ý văn hay, từ ngữ đẹp, cách tả mới mẻ.
- Giáo viên thực hiện hời hợt, chiếu lệ các yêu cầu khi trả bài viết của học
sinh, chưa giúp các em nhận thấy được những lỗi sai của mình khi làm bài để có
sự chỉnh sưa rút kinh nghiệm cho bài làm sau. Đây không phải là vấn đề có thể
giải quyết được trong một tiết, một tuần… mà là cả một quá trình dạy Tập làm
văn bởi dạng văn tả cảnh là sự kết hợp của nhiều thể loại văn các em đã học và
còn cần có cách nhìn, cách nghĩ, cách sáng tạo mới.
2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến:
2.1. Những vấn đề cần giải quyết.
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải đổi
mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể loại tả
cảnh một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn.
Để đạt được mục tiêu trên theo tôi cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề
chính sau:
- 5 -
- Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và ghi chép.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh.
- Luyện kĩ năng sư dụng từ ngữ, đặt câu, sư dụng biện pháp nghệ thuật trong
văn miêu tả.
- Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh
nói riêng.
2.2. Một số biện pháp để giải quyết các vấn đề.
Từ kinh nghiệm dạy học của mình, tôi xin đưa ra một số biện pháp để giải
quyết các vấn đề được nêu ở trên giúp học sinh làm tốt bài văn tả cảnh như sau:
a. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh.
- Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên,
là con người và cuộc sống con người. Đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức
tạp và sống động diễn ra quanh ta, thay đổi từng giờ, từng ngày. Vậy không phải
tự nhiên mà học sinh hiểu và nắm được đặc điểm của từng sự vật, sự việc, từng
con người để miêu tả bản chất của nó vì vậy tôi yêu cầu học sinh phải thường
xuyên quan sát và ghi chép.
- Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả thì kĩ năng quan sát và ghi
chép những điều đã quan sát được là một trong những việc làm rất cần thiết. Vì
nếu không được quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng thì sẽ xảy ra tình trạng
bịa đặt hình ảnh trong bài, khiến cho những hình ảnh ấy thiếu tính chân thực
hoặc hết sức vô lí. Nên tôi thường xuyên tổ chức cho các em quan sát đối tượng
miêu tả qua các tiết học ngoài trời, quan sát thực tế với những bài văn tả cảnh
đẹp quê hương, trường lớp,…
- Muốn quan sát có hiệu quả thì tôi hướng dẫn các em quan sát phải có tính
mục đích, khi các em quan sát phải có cách nghĩ, cách cảm nhận của riêng mình.
Quan sát để làm văn nhằm phản ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có
tính khái quát. Qua việc quan sát chi tiết tỉ mỉ, học sinh sẽ thấy được bản chất
của sự việc. Nhưng quan sát phải có lựa chọn. Khi quan sát, tôi yêu cầu các em - 6 -
tránh những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Miêu tả một cách
chi tiết nhưng mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm riêng biệt, nổi bật, gây ấn
tượng,… Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của cảnh. Tôi cũng yêu cầu
học sinh quan sát kèm ghi chép lại những hình ảnh quan sát được một cách
đầy đủ.
- Ban đầu tôi hướng dẫn học sinh quan sát để tìm ra màu sắc, âm thanh, hình
ảnh tiêu biểu của sự vật và cảm xúc của mình đối với sự vật.
Khi quan sát, tôi khuyến khích các em cần sư dụng đồng thời nhiều giác
quan khác nhau:
+ Quan sát bằng mắt để nhìn ra hình khối sự vật.
+ Quan sát bằng tai để nhận ra âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
+ Quan sát bằng mũi nhằm nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm.
+ Quan sát bằng vị giác, xúc giác để cảm nhận.
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, nhiều hình ảnh,
đoạn văn, bài văn đa dạng phong phú.
* Ví dụ: Đề bài “Em hãy tả một cơn mưa mùa hè.”
- Tôi hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan như sau:
+ Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy hạt mưa rơi,
thấy cây cối, con người (trước, trong và sau cơn mưa)...
+ Xúc giác: Gió thổi làm xua tan cái nóng mà nhường chỗ cho luồng khí mát lạnh.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng kêu
của ếch nhái...
- Bên cạnh đó, các em học sinh được tôi lưu ý: khi quan sát cần quan sát tỉ
mỉ. Muốn tìm ra ý hay cho đoạn văn, bài văn cần viết học sinh phải quan sát kĩ,
quan sát nhiều lần cảnh đó. Tránh quan sát qua loa sẽ không tìm ra ý hay cho bài
văn. Tôi nhấn mạnh cho các em các nội dung:
+ Cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.- 7 -
+ Có thể quan sát từ cụ thể đến bao quát hoặc ngược lại.
+ Quan sát từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới…
+ Quan sát theo trình tự không gian (từ xa đến gần hay từ gần đến xa).
+ Quan sát theo trình tự thời gian (theo các thời điểm trong ngày, theo mùa
trong năm…).
Tôi minh họa cho học sinh các cách quan sát đó qua các bài tập đọc để các
em hiểu hơn và có thể vận dụng các cách quan sát đó khi viết văn:
* Ví dụ 1: Quan sát từ ngoài vào trong để miêu tả cảnh Đền Hùng.
“Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những
khóm hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập
dờn như đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà
uy nghiêm đề ở bức hoành phi treo chính giữa.”
* Ví dụ 2: Quan sát từ dưới lên trên để miêu tả cây hồi.
“Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành khế. Quả hồi
phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
* Ví dụ 3: Quan sát theo trình tự thời gian để miêu tả cây thảo quả.
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm
lại ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo
trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ một
thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sôi sao mà mạnh mẽ vậy.”
b. Làm giàu vốn từ cho học sinh:
Khi trực tiếp giảng dạy các tiết Tập làm văn tôi thấy các em học sinh ít tham
gia phát biểu. Lí do là các em không biết thể hiện ý của mình bằng câu văn nào,
hoặc khi viết câu văn còn diễn đạt lủng củng, chưa rõ nghĩa … bởi lẽ vốn từ của
các em còn quá ít. Chính vì thế tôi dùng biện pháp làm giàu vốn từ cho các em
trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ và qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và
câu và từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,….
- 8 -
- Làm giàu vốn từ qua phân môn Tập đọc: Số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài
thơ, bài văn rất phong phú đồng thời cách sư dụng chúng rất sáng tạo nên khi
dạy Tập đọc tôi đã chỉ ra các từ ngữ miêu tả, cách sư dụng biện pháp tu từ, cách
đặt câu trong một vài trường hợp đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của
nhà văn khi dùng chúng. Việc phân tích này giúp các em tiếp cận đựơc với các
văn bản nghệ thuật, tiếp cận với kĩ năng viết văn một cách thường xuyên và có
chất lượng mà lại nhẹ nhàng không áp đặt.
- Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ qua phân môn Luyện từ và câu: Ở lớp
5 phân môn Luyện từ và câu là phân môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ
nhiều nhất. Đặc biệt là các tiết: Mở rộng vốn từ; Từ đồng âm; Từ nhiều nghĩa;
Từ trái nghĩa. Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết
thực như tìm từ, ghép từ, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả
(nhóm miêu tả đặc điểm của cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động)... Tôi khuyến
khích các em tìm được càng nhiều từ theo yêu cầu càng tốt.
* Ví dụ 1: Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các
từ ngữ vừa tìm được
a. Tả sóng nước. M: ì ầm
b. Tả làn sóng nhẹ. M: lăn tăn
c. Tả đợt sóng mạnh. M: cuồn cuộn
( Bài tập 4 - SGK Tiếng Việt 5 - trang 78).
Để giúp các em làm giàu vốn từ của mình qua bài tập trên, tôi hướng dẫn các em
thực hiện như sau:
+ Cho học sinh đọc yêu cầu của bài.
+ Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm để tìm từ, đặt câu ra phiếu học tập.
+ Gọi đại diện các nhóm báo cáo. Yêu cầu nhóm khác nhận xét theo các tiêu
chí sau: Những từ ngữ tìm được đã phù hợp với yêu cầu của từng nhóm từ chưa.
Câu văn đặt đã đúng chưa.
- 9 -
+ Giáo viên nhận xét, tuyên dương những nhóm tìm được nhiều từ để động
viên, khích lệ các em. Còn nhóm nào tìm từ chưa phù hợp, đặt câu chưa đúng thì
giáo viên giải thích cho các em hiểu để các em sưa lại.
Riêng với phần đặt câu tôi khuyến khích các em đặt câu thêm với các từ
khác. Việc làm này sẽ giúp các em biết sư dụng vốn từ để đặt câu.
- Làm giàu vốn từ từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện,…Tôi khuyến khích
các em xuống thư viện đọc sách, báo, truyện,... .để tích lũy thêm vốn từ.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh trong các giờ sinh hoạt câu lạc bộ “ Yêu thơ
văn em tập viết”, “ Viết văn hay chống nói ngọng”, “ Em tập làm MC”, ...
Để tích lũy vốn từ tôi khích lệ học sinh tham gia các hoạt động:
Học sinh hoạt động nhóm
- 10 -
Học sinh đọc sách, báo, truyện trong thư viện
Qua các cách trên học sinh nhận thấy tác dụng của việc sư dụng các từ ngữ gợi
tả, gợi cảm. Biết cách chọn từ và sư dụng các từ ngữ gợi tả, gợi cảm, những biện
pháp nghệ thuật sao cho phù hợp với văn cảnh. Giúp các em mạnh dạn và tự tin
hơn trong giao tiếp.
c. Luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ
thuật trong văn miêu tả.
* Về cách dùng từ:
Sau khi học sinh đã có vốn từ nhất định, tôi giúp học sinh các cách sư dụng
vốn từ trong miêu tả.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng,
tình cảm một cách rõ ràng.
- Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả.
- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ,
tính từ…
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là các từ láy, từ tượng hình, từ
tượng thanh...
- 11 -
- Sư dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ.
* Ví dụ:
+ Dùng từ chính xác: Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dùng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn như vành nón lá toả ánh sáng vằng
vặc xuống vạn vật.
+ Dùng từ trái nghĩa: Vào mùa nước lũ, dòng sông trở nên dữ dằn không
hiền hoà chút nào.
+ Dùng cụm từ so sánh, nhân hóa: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn
con đom đóm đang lập loè sáng.
+ Dùng âm thanh: Mưa rơi tí tách trên mái hiên, rơi lộp độp trên tàu lá
chuối….
* Về cách đặt câu:
- Trong khi làm văn, tôi nhắc nhở học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp
nghĩa là khi viết câu phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là
các vế trong câu ghép, các thành phần khác của câu.
- Tôi dạy các em phải biết sư dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép
thế, phép nối, phép liên tưởng... biết sư dụng các biện pháp tu từ về câu (câu hỏi
tu từ, đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá...).
* Ví dụ:
+ Phép liên kết câu:
Mưa xuân lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón
những hạt mưa xuân. Với chúng, mưa xuân chính là liều thuốc tiên để sinh tồn
và phát triển.
+ Phép lặp:
Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang
phù sa màu mỡ cho đất đai.
- 12 -
+ Biện pháp tu từ (thường dùng):
. Câu hỏi tu từ: Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào
là cảnh gì không? Đó chính là dòng sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
. So sánh: Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lưng trên bầu trời.
. Nhân hoá: Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác lên
cỏ cây, hoa lá.
- Tôi giúp các em phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sư
dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như
người viết đang kể lể dài dòng về cảnh. Tôi luôn nhấn mạnh với học sinh:
+ Câu văn kể: dùng để thông báo cho người đọc, người nghe biết về sự việc,
sự vật.
+ Câu văn tả: là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu,
các biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có
thể cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
* Ví dụ:Câu văn kể Câu văn tả
- Mặt trời chiếu ánh nắng xuống mặt
đất.
- Ông mặt trời vén màn mây trắng,
toả những tia nắng vàng óng như tơ
xuống mặt đất.
- Lúc nào sông cũng chảy để mang
phù sa cho đất.
- Hết năm này đến năm khác, sông cứ
cần mẫn chảy mang phù sa bồi đắp
cho đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt.
- 13 -
2.3. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và
tả cảnh nói riêng.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh nói riêng giúp học sinh có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không bị
sai lệch về cả nội dung và hình thức.
a. Hướng dẫn học sinh nắm được 4 yêu cầu khi làm văn miêu tả:
- Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?)
Ví dụ: Tả cánh đồng thì tập trung tả cánh đồng, không miên man tả sâu cảnh
xóm làng nằm bên cạnh cánh đồng, hay cảnh trời mây vào thời điểm đó cho dù
các sự vật đó cũng có liên quan.
- Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?): Tả cảnh nào thì người đọc hình dung
cảnh đó chứ không bị lẫn lộn với cảnh khác.
Ví dụ: Tả cảnh cánh đồng thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không
thể tách rời như: Lúa, ngô, rau màu, thưa ruộng, bờ mương, đàn trâu, con người
lao động...
- Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
Ví dụ: Tả cánh đồng với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào
của người dân quê hương, ích lợi mà cánh đồng mang lại….
- Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ: Tả cánh đồng với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp
nên thơ...
b. Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả:
- Bước 1: Tìm hiểu đề.
- Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý.
- Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh.
- Bước 4: Kiểm tra lại bài.
- 14 -
Để rèn cho học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn
thì mỗi bước làm tôi cũng hướng dẫn các em một cách tỉ mỉ về phương pháp
cũng như cách suy nghĩ, cách thực hiện từng bước.
Cụ thể:
* Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Tác dụng: Giúp học sinh xác định được đúng trọng tâm yêu cầu đề bài,
tránh làm lạc đề. Nói cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được
mình đang làm bài văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu
cầu, giới hạn đến đâu...
- Cách thực hiện: Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề.
Phân tích đề bằng cách:
Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Gạch 3 gạch dưới từ xác định thời gian miêu tả. (việc làm này tùy thuộc vào
yêu cầu của đề bài vì có đề bài cho thời gian miêu tả nhưng cũng có đề không
cho thời gian miêu tả.)
* Ví dụ: Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu
mùa hạ.
Với đề bài trên tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc
trả lời các câu hỏi:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào? (Thể loại văn miêu tả).
- Đối tượng miêu tả là gì ? (cánh đồng lúa quê em).
- Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào? (sau trận mưa rào đầu mùa hạ).
- 15 -
Sau khi đọc đề bài và đã trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành
gạch chân trực tiếp trên đề bài.
Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ
* Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý:
- Sau khi tìm hiểu đề các em đã xác định chính xác đối tượng miêu tả
nhưng chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp các
em định hình được bài viết văn tả cảnh, trước tiên tôi hướng dẫn cho học sinh
tìm ý cho bài văn tả cảnh. Việc tìm ý cho bài văn phải được tiến hành song song
với việc quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Để làm được việc trên với mỗi một
đề bài tôi hướng cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng bằng một số câu hỏi
gợi ý để học sinh quan sát và ghi lại tỉ mỉ những nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh
để làm tư liệu cho việc lập dàn ý.
* Ví dụ: Để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em
trong giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
- Khung cảnh và không khí của sân trường trước giờ ra chơi như thế nào?
- Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó?
+ Học sinh từ các lớp ra sân như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? Tiếng nói?
các nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường?)
+ Nhóm hoạt động sôi nổi nhất là nhóm nào? Họ chơi những trò chơi gì?
Các bạn trong nhóm hoạt động thế nào?...
+ Tiếng hò reo, cổ vũ của các cổ động viên lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết thúc?
- Lúc có tiếng trống báo hoạt động giữa giờ:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
- Sau khi hoạt động giữa giờ xong:
- 16 -
+ Trên khuôn mặt một số bạn có biểu hiện gì?
+ Không khí trên sân trường lúc này ra sao?
- Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi?
+ Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học trò?
- Sau khi tìm ý, trước khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác định trình tự
miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả cảnh có
thể là trình tự không gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để lựa
chọn cho phù hợp.
* Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự không gian.
+ Trước cưa vườn:… Giữa vườn:… Góc vườn bên trái:…. Góc
vườn bên phải:… Cuối vườn:...
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:
+ Khoảng trời phía đông ưng hồng, khu vườn trông…. Mặt trời bắt đầu
nhô lên sau rặng tre là lúc vẻ đẹp của cây, hoa trong vườn…. Khi ánh nắng
ban mai bắt đầu toả xuống, khu vườn... Mặt trời lên cao…
* Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là thời gian.
+ Buổi sáng, ông mặt trời từ từ nhô lên tỏa những tia sáng rực rỡ xuống mặt
sông làm mặt sông như khoác trên mình chiếc áo lụa đào thướt tha… Trưa về,
sông thay chiếc áo xanh lộng lẫy trông thật duyên dáng…. Chiều đến, là lúc
sông mặc áo ráng vàng quyến rũ… Khi mặt trăng đã lên cao. Trên bầu trời xuất
hiện những vì sao thì sông nhanh chóng thay chiếc áo hoa lấp lánh ánh sao….
Ta cũng có thể chọn trình tự không gian như:
+ Nhìn từ xa dòng sông như dải lụa mềm mại uốn lượn quanh thôn xóm…..
Nước sông trong veo in rõ từng mảng mây trời. Trên mặt sông một vài đám
bèo lục bình đang lững lờ trôi…. Bờ bên trái là hàng phi lao xanh mướt đang
in bóng xuống mặt sông như những nàng thiếu nữ yểu điệu soi gương chải
- 17 -
tóc…. Bên phải là con đường nhựa nhẵn bóng như đang sánh duyên cùng con
dòng sông… ……
- Khi đã xác định được trình tự miêu tả thì học sinh tiến hành lập dàn ý theo
khung dàn ý chung như sau:
+ Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả.
+ Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian.
+ Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết.
Dưới đây là ví dụ dàn ý của một số bài văn tả cảnh mà học sinh đã làm:
Ví dụ 1: Dàn ý bài văn tả dòng sông quê em (Bài tập 2/ tiết Luyện tập tả cảnh –
Tuần 6 – SGKTV 5 tập 1) em Đỗ Thị Thu Thủy lớp 5B đã làm như sau
- 18 -
- 19 -
Dàn ý bài văn tả cảnh nhộn nhịp của sân trường vào giờ ra chơi (em Ngô
Thanh Trúc lớp 5B đã làm)
- 20 -
- 21 -
* Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh:
Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất. Trên cơ sở dàn bài
vừa lập, các em viết thành bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (mở bài, thân bài, kết
bài). Để viết được bài văn sinh động, giàu hình ảnh cuốn hút người đọc tôi đã
định hướng cho học sinh làm tốt cả ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).
- Mở bài: Là phần đầu tiên là phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người
đọc cảm giác ấn tượng về bài viết. Phần này có vai trò và tầm quan trọng khá đặc
biệt vì vậy một mở bài ngắn gọn, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và
báo hiệu một bài văn hay. Để học sinh làm tốt phần mở bài các em cần hiểu được
thế nào là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại.
+ Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ miêu tả.
Ưu điểm: Cách trình bày nhanh gọn, tự nhiên, giản dị, dễ tiếp nhận và thích
hợp với bài viết ngắn.
Nhược điểm: Nếu mở bài không khéo sẽ gây cảm giác khô khan, ít hấp dẫn.
Với kiểu mở bài này tôi đã hướng dẫn học sinh một số cách vào bài trực tiếp
như sau:
. Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh.
Ví dụ: Ôi, dòng sông quê em mới đẹp làm sao !
. Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí hoặc thời gian quan sát cảnh.
Ví dụ: Trước trường em, có dòng sông hiền hòa thơ mộng.
+ Mở bài gián tiếp: Là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu
đối tượng mình định tả. Khi dạy kiểu mở bài này tôi hướng dẫn các em một số
cách mở bài gián tiếp như:
. Mở bài bằng một cách so sánh.
Ví dụ: Tuổi thơ ấu của tôi gắn liền với nhiều kỉ niệm. Con đường thơ mộng
ngày hai buổi đưa đôi chân nhún nhảy của tôi đến trường. Triền đê - nơi tôi và
- 22 -
các bạn thi nhau thả diều vào mỗi buổi chiều hè. Nhưng thân thiết với tôi nhất
vẫn là cảnh nhộn nhịp của sân trường vào giờ ra chơi.
. Mở bài bằng một câu nói.
Ví dụ: “Ôi! Sao tự nhiên trời tối thế nhỉ?” Ngước mắt nhìn lên trời, em thấy
mây đen ùn ùn kéo đến. Gió thổi mạnh làm lá cây trong vườn bay lả tả. Chắc
trời sắp mưa rồi đây.
. Mở bài bằng cách trích dẫn câu văn, câu thơ, câu đố, câu hát… về đối tượng.
Ví dụ: Anh ở biên cương nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt.
Ở nơi anh mùa này con nước lắng phù sa in bóng đôi bờ.
Mỗi khi nghe bố hát là em lại nhớ tới con sông Hồng đã có nhiều kỉ niệm
gắn bó với em. Đó là con sông mà thiên nhiên ban tặng cho quê em.
Với mỗi bài văn tôi luôn khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp.
Vì mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn gây
hứng thú cho người đọc.
- Thân bài: Để giúp các em làm tốt phần thân bài, tôi hướng dẫn học sinh:
+ Bám sát dàn bài chi tiết.
+ Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ về câu như so sánh, nhân hóa.
+ Trình bày đoạn văn đúng cách có liên kết đoạn: Với bài văn tả cảnh tôi
thường hướng cho các em hình dung mỗi cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn
trọn vẹn, trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể. Sau đó dùng từ ngữ,
dùng câu liên kết các đoạn văn lại với nhau.
+ Sư dụng đúng các dấu câu: Sư dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ cũng là một
yếu tố quan trọng giúp bài văn trở nên rõ ràng, rành mạch.
Để các ý trong bài được sắp xếp hợp lí, lôgic, chặt chẽ tôi thường nhắc nhở
các em viết theo một trình tự nhất định đã được chọn khi lập dàn ý.
Sau đây là một số đoạn văn trong phần thân bài học sinh đã miêu tả:
- 23 -
Ví dụ 1: Đề bài “Hãy tả cảnh dòng sông quê em”.
- 24 -
Ví dụ 2: Hãy tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong giờ ra chơi.
- 25 -
- Kết bài: Nếu như mở bài như một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với
khách tới thăm thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép lại
trước mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em
đã miêu tả, nó kết lại những ý lớn ở phần thân bài. Vì thế khi viết phần kết bài,
tôi cũng đã hướng dẫn các em viết làm sao cho thật cô đọng, ngắn gọn.
Để làm được điều đó các em cần hiểu được thế nào là kết bài mở rộng và
không mở rộng đồng thời cũng biết được với mỗi cách kết bài đều có những
cách diễn đạt khác nhau.
+ Kết bài không mở rộng: Thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý:
. Nhận xét, đánh giá về cảnh.
. Hoặc tình cảm đối với cảnh.
. Hoặc hành động : Chăm sóc, bảo vệ,...
Các ý trên có thể được sắp xếp ở các vị trí khác nhau để tạo ra các kết bài
khác nhau.
* Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh nêu được các ý:
Nhận xét, đánh giá: Khu vườn thật đẹp!
Tình cảm : Yêu quý và luôn cảm thấy thích thú khi ngắm khu vườn.
Hành động : Chăm sóc, bảo vệ cây cối.
Với 3 ý trên học sinh có thể viết được các kiểu kết bài chung đảo trật tự như sau:
+ Khu vườn thật đẹp. Được ngắm nhìn nó em thấy rất thích thú và thoải mái.
Em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc: Được ngắm nhìn khu vườn em rất thích thú trước vẻ đẹp của nó. Em sẽ
chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt.
Hoặc:
+ Chăm sóc và bảo vệ cây cối ở đây để khu vườn ngày thêm đẹp là niềm vui
của em.
- 26 -
+ Kiểu kết bài mở rộng: Khi viết kết bài mở rộng học sinh vẫn đưa 3 ý suy
nghĩ, tình cảm, hành động như kết bài không mở rộng nhưng diễn đạt mở rộng
bằng cách:
. Nêu ra câu hỏi.
. Nêu một ý mới lạ.
. Đưa ra một lời bình.
Từ việc phân tích một số mẫu kết bài trên học sinh sẽ luyện tập viết kết bài
theo một trong các cách kể trên.
* Ví dụ: Đề bài: Tả khu vườn vào buổi sáng.
Học sinh có thể viết kết bài mở rộng như sau:
Nêu một câu hỏi
Bạn thấy khu vườn nhà mình thế nào? Rất tuyệt vời phải
không? Sáng nào cũng vậy, cứ ra ngắm khu vườn mình lại
tìm thấy một cảm giác thật dễ chịu, sảng khoái. Mình sẽ
chăm sóc cho khu vườn ngày thêm đẹp, cho cây cối quanh
năm tươi tốt, tràn trề sức sống.
Nêu một ý tưởng
Bản hoà tấu có tiếng chim ca hát, có tiếng lá xào xạc, tiếng
cựa mình của cây cùng với cảnh vui chơi nhảy nhót của
nắng, của gió, của ong bướm đã làm khu vườn thật đẹp,
thật lộng lẫy, không gian thật khoáng đạt, trong lành. Yêu
biết mấy khu vườn nhà em.
Đưa ra một lời bình
Khu vườn không rộng, không lộng lẫy những sắc màu của
các loài hoa nhưng khi đứng ngắm nhìn nó, em luôn có một
cảm giác thật dễ chịu và thoải mái. Ngày qua ngày, nó cứ
bình yên hiền lành sống vui bên nắng, bên gió, bên tiếng
chim ca hát. Yêu biết mấy khu vườn nhà em.
- 27 -
* Bước 4: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn:
Đây là bước rất cần thiết, nó giúp các em sưa chữa những lỗi sai khi viết văn
như: lỗi chính tả, cách dùng từ, đặt câu, tạo đoạn, dấu câu, cách trình bày và đặc
biệt là nhận biết được mình đã làm đúng yêu cầu đề bài chưa và bổ sung nội
dung còn thiếu.
Như vậy từ thực tế quan sát và nắm vững các bước làm bài văn tả cảnh, tôi
thấy hầu hết các em học sinh đều lập được dàn ý và từ đó hoàn chỉnh bài văn
theo đúng yêu cầu của đề bài. Dưới đây là một minh chứng cụ thể cho đề bài
“Tả con đường từ nhà em đến trường vào một buổi sáng đẹp trời”
Với việc quan sát trực tiếp con đường vào buổi sáng mỗi ngày đến trường
cùng một số câu hỏi gợi ý mà thầy cô đưa ra như:
+ Em hãy giới thiệu về con đường từ nhà đến trường. Cho biết thời gian
định tả về con đường đó?
+ Con đường từ nhà em đến trường dài bao nhiêu cây số?
+ Vào mỗi buổi sáng trông con đường như thế nào?
+ Lòng đường rộng, hẹp ra sao?
+ Em thấy mặt đường có đặc điểm gì?
+ Hai bên đường cây cối, thảm cỏ … có gì đẹp?
+ Miêu tả lại một số hoạt động nổi bật trên con đường lúc đó.
+ Những âm thanh nào để lại ấn tượng nhất trong em?
+ Em có tình cảm thế nào với con đường?...
Kết hợp với việc quan sát hình ảnh minh họa:
- 28 -
- 29 -
- 30 -
Từ đó các em đã lập được dàn ý bài văn và viết thành bài văn hoàn chỉnh:
- 31 -
- 32 -
2.4. Giáo viên chấm bài và trả bài viết:
a. Chấm bài:
Đối với giáo viên việc chấm bài cho học sinh rất cần thiết bởi kết quả bài
viết của các em sẽ cho giáo viên biết được ưu điểm, hạn chế trong cách dạy để
điều chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp.
Với mỗi bài tôi thường đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về
diễn đạt của học sinh, xem học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng
tâm bài viết chưa. Sau đó, tôi đọc kĩ từng phần trong bài viết của các em để phát
hiện và ghi lại câu văn hay, ý hay, đoạn văn giàu hình ảnh, dùng từ khéo léo…,
đồng thời cũng ghi lại những lỗi sai mà học sinh mắc phải (lỗi chính tả, lỗi dùng
từ, đặt câu...) vào sổ theo dõi chấm bài để làm dữ liệu cho tiết trả bài. Trong quá
- 33 -
trình chấm bài mà phát hiện ra lỗi các em mắc phải tôi thường dùng bút đỏ gạch
chân. Sau khi xem xét toàn bài tôi ghi những lời nhận xét cụ thể về những ưu
điểm cần phát huy, những nhược điểm cần khắc phục của bài viết.
Khi chấm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và
rút ra những tiến bộ cần phát huy, những thiếu sót cần sưa chữa, bổ sung để
chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới….
b. Trả bài viết:
Như chúng ta đã biết tiết trả bài viết là tiết sau cùng của một đề văn, nhưng
lại là tiết thiết thực nhất, cụ thể nhất để các em thấy được ưu, nhược điểm trong
bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau. Tìm cách và biết cách
sưa lỗi. Vì vậy theo tôi giáo viên cần nắm rõ nội dung, phương pháp lên lớp một
tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, có ba hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút
kinh nghiệm.
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, tôi đã lấy thông tin từ bài viết của học sinh
(đã chấm và ghi ở sổ theo dõi chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một
cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
* Hoạt động 1: Nhận xét chung về bài làm của lớp:
- Trước khi nhận xét bài viết của học sinh tôi thường ghi lại đề bài lên bảng.
Sau đó cho các em xác định lại yêu cầu của đề bài. Việc làm này giúp các em có
thể so sánh và hình dung ra bài viết của mình đúng như thế nào? Mình thiếu
những gì? Để từ đó các em dễ dàng nắm được ưu và nhược điểm trong bài viết
của mình.
- Khi nhận xét chung về bài viết của học sinh tôi thường nêu rõ những ưu
điểm cũng như một số hạn chế trong bài viết.
- 34 -
+ Ưu điểm:
. Học sinh đã hiểu đề và xác định đúng yêu cầu của đề.
. Bố cục đầy đủ, sắp xếp các ý hợp lí, lôgic.
. Câu văn diễn đạt rõ ý, giàu hình ảnh.
. Bài viết có sự sáng tạo khi miêu tả.
. Viết đúng chính tả, bài viết trình bày sạch đẹp….
Với những bài viết có một số những ưu điểm trên hoặc những bài viết có sự
tiến bộ tôi thường tuyên dương các em trước lớp để khích lệ các em, tạo động
lực cho các em làm bài tốt hơn trong các bài tiếp theo.
+ Hạn chế:
Bài viết còn sai lỗi chính tả, dùng từ chưa chính xác, lặp từ, câu văn diễn
đạt chưa rõ ý, trình bày bài chưa sạch đẹp,…
Để giúp các em khắc phục những hạn chế trên tôi thường sư dụng bảng phụ
ghi lại những lỗi phổ biến mà các em mắc phải. Yêu cầu học sinh thảo luận với
bạn phát hiện lỗi sai và tìm cách sưa lại.
* Hoạt động 2: Chữa bài
- Trả bài viết cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài làm
của mình, lời nhận xét chung và những chỗ lưu ý cụ thể của cô giáo trong bài
viết (nếu có).
- Sau khi đọc bài và đã phát hiện ra lỗi sai thì tôi yêu cầu các em tự chữa
bài của mình rồi đổi bài cho bạn để kiểm tra, giúp nhau về việc chữa lỗi.
* Hoạt động 3: Cho học sinh đọc lại câu văn hay, ý hay, một số đoạn, hoặc
vài bài văn hay của mình cho cả lớp nghe.
Sau khi nghe bạn đọc tôi gợi ý cho các em nhận xét, nêu những ưu điểm
trong bài văn của bạn (về bố cục, sắp xếp ý, diễn đạt, dùng từ đặt câu, sư dụng
biện pháp nghệ thuật…) để học tập.
- 35 -
III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI:
Trong bối cảnh hiện nay, giáo viên không chỉ dạy kiến thức cho học sinh mà
còn phải có phương pháp làm cho các em đam mê học tập, có kĩ năng giao tiếp,
quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt còn hình thành cho học sinh những
phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và năng động. Vì thế khi áp dụng
sáng kiến “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn tả cảnh cho HS lớp 5” trong
giảng dạy môn Tiếng Việt cho học sinh, tôi nhận thấy việc thực hiện thông tư 30
của BGD về đánh giá học sinh Tiểu học vào đánh giá quá trình học môn Tiếng
Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có những ưu điểm sau:
- Giáo viên điều chỉnh đổi mới phương pháp, hình thức dạy học theo chuẩn
kiến thức kĩ năng môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói
riêng. Từ đó đánh giá được kết quả học tập của học sinh ngay trong từng hoạt
động học tập.
- Thành tích học tập của các em học sinh có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết
văn các em đã hứng thú làm văn biết thực hiện làm một bài văn tả cảnh theo
trình tự các bước một cách độc lập và thành thói quen tốt. Nhiều bài văn có chất
lượng cao. Tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi về chính tả, lỗi dùng từ đặt
câu...đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sư dụng những biện pháp tu từ so
sánh, nhân hóa vào bài của mình làm cho bài văn trở nên sinh động và giàu hình
ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết làm văn có cảm xúc hơn, câu văn chau chuốt
hơn, mở bài, kết bài khá ấn tượng mới mẻ... Ngoài ra học sinh còn thể hiện được
cái tôi của mình một cách rõ ràng, bộc bạch được cái tôi của mình một cách trọn
vẹn, linh hoạt hơn trong giao tiếp. Học sinh biết tự đánh giá mình, đánh giá bạn,
biết học tập những ưu điểm của bạn và sưa chữa những hạn chế của mình hoặc
của bạn giúp các em chủ động, tự tin hơn và mạnh dạn hơn trong giao tiếp.
Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn đã nâng lên rõ rệt. Xin trích
dẫn vài số liệu thống kê kết quả khảo sát khả năng làm văn tả cảnh của 32 học
sinh ở lớp tôi chủ nhiệm như sau:
- 36 -
Thời gian
khảo sát
Tổng
số
HS
Mức độ đánh giá
Bài viết hay,
lời văn sinh
động giàu hình
ảnh, cảm xúc.
Bài viết hay,
lời văn sinh
động giàu hình
ảnh, đôi chỗ
diễn đạt còn
lủng củng
Bài viết đã
đúng yêu cầu
của đề, nhưng
miêu tả còn
hời hợt, sơ
sài.
Bài viết
chưa đúng
yêu cầu của
đề, sắp xếp ý
lộn xộn
SL % SL % SL % SL %
Tháng 9 32 4 12,5 8 25 15 46,9 5 15,6
Tháng 11 32 8 25 13 40,6 8 25 3 9,4
Tháng 2 32 15 46,9 11 34,4 5 15,6 1 3,1
Tháng 4 32 20 62,5 10 31,25 2 6,25 0 0
* Bài học kinh nghiệm:
Qua quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy để dạy tốt
thể loại văn tả cảnh thì trước tiên giáo viên phải lưu ý một số vấn đề sau:
- Hiểu rõ miêu tả là gì? Đặc biệt để tả cảnh cần quan sát kĩ, dùng các giác
quan quan sát và nhận xét cẩn thận, bằng trí óc tìm các chi tiết đặc biệt để làm
nổi bật đề bài.
- Khảo sát chất lượng học sinh làm văn một số dạng bài trước đó để nắm tình
hình học làm văn của các em.
- Lựa chọn phương pháp, hình thức phù hợp với lớp và phù hợp tới từng
nhóm đối tượng học sinh.
- Nghiên cứu bài thật kỹ trước khi lên lớp. Đối với mỗi thể loại văn miêu
tả nói chung, tả cảnh nói riêng và mỗi bài văn giáo viên cần đặc biệt lưu ý các
- 37 -
điểm sau:
+ Giúp học sinh nắm chắc phương pháp cơ bản nhất của văn miêu tả và văn
tả cảnh.
+ Rèn cho học sinh một số kĩ năng: Kĩ năng quan sát, kĩ năng sư dụng từ
ngữ và các biện pháp nghệ thuật tu từ, kĩ năng đặt câu …
+ Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học các phân môn
khác của môn Tiếng Việt.
+ Tạo thói quen chăm chú nghe giảng, nắm vững kiểu bài, có kĩ năng quan
sát, tìm ý, tìm từ ngữ phù hợp, có bố cục rõ ràng,…
+ Nhận xét, đánh giá kịp thời thường xuyên, chuyển kết quả đánh giá của
giáo viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh.
+ Tạo không khí sôi nổi, tôn trọng học sinh, khích lệ động viên khi các em có
sự cố gắng dù là đôi chút…
+ Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để cung cấp cho học
sinh những hình ảnh sinh động về cảnh vật và đặc biệt là những cảnh đẹp của
đất nước mà các em ít có điều kiện biết đến.
+ Thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học đặc biệt là giáo dục môi trường.
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn tả cảnh sinh
động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức
nghiên cứu soạn giảng, có lòng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề
nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tụy thì việc mong muốn có nhiều học sinh
giỏi văn sẽ không còn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những
biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tôi đã có chuyển biến đi lên về chất
lượng phân môn Tập làm văn nói riêng và môn Tiếng Việt nói chung.
Tập làm văn đúng là phân môn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho
nên mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng
- 38 -
ta phải tôn trọng nó, giúp đỡ để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn. Biết
đâu sau này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ...
Có thể nói, bước đầu thành công trong việc dạy Tập làm văn tả cảnh cho học
sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục
áp dụng để giảng dạy trong năm học này và các năm sau, với mong muốn lớn
nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh
cũng cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng
nội dung đề tài này không có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của
giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt
thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tụy với học sinh, soạn giảng nghiêm túc
thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành công.
IV. Cam kết không sao chép và vi phạm bản quyền
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến do tôi suy nghĩ, tìm tòi và thực hiện.
Trên đây là một số biện pháp mà bản thân tôi đã nghiên cứu và áp dụng vào
quá trình dạy Tập làm văn tả cảnh ở lớp 5. Tuy một số biện pháp này bước đầu
đã mang lại hiệu quả thiết thực song trong quá trình nghiên cứu và thực hiện sẽ
không tránh khỏi những mặt còn hạn chế. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự góp
ý chân thành của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để sáng kiến hoàn
thiện hơn, có hiệu quả hơn trong những năm học tiếp theo.
Xin chân thành cảm ơn!
- 39 -
CƠ QUAN ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
( xác nhận )
………………………………………………….
………………………………………………….
…………………………………………………. Nguyễn Thị Phượng
………………………………………………….
………………………………………………….
………………………………………………….
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO XUÂN TRƯỜNG
( xác nhận, đánh giá, xếp loại)
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
- 40 -