tới Đời cậu chết kết tớ vào, hai câu s m trích trong kim c ... · nên một nên...

5
Tới Đời Cu chết kết tvào, Hai chhn hào vào ra l! Hai Câu sm trích trong Kim CKQuan, quyn Cáo Thtrang 87/94 Cáo Thị là quyển thứ 3 trong bộ kinh sấm Kim Cổ Kỳ Quan gồm 9 quyển.

Upload: dinhquynh

Post on 29-Aug-2019

220 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Tới Đời Cậu chết kết tớ vào,

Hai chỗ hỗn hào vào ra lạ!

Hai Câu sấm trích trong Kim Cổ Kỳ Quan,

quyển Cáo Thị trang 87/94

Cáo Thị là quyển

thứ 3 trong bộ

kinh sấm

Kim Cổ Kỳ Quan

gồm 9 quyển.

Trong cảnh Hạ Nguơn dầu sổi lửa bỏng, giặc giã khói lửa mịt mù, Bồ Tát giáng trần

không có thì giờ nhàn rỗi ngồi uống trà run đùi ngâm thơ vịnh nguyệt. Mỗi hành động,

mỗi lời nói của Đức Thầy Huỳnh Giáo Chủ đều khế hợp với thiên cơ đạo lý. Ngày 14-6-

Canh Thìn (1940) tại làng Nhơn Nghĩa, Đức Thầy có làm thơ vịnh Hằng Nga dụng ý gởi

một thông điệp quan trọng cho đệ tử hậu lai biết rằng Thầy sẽ mượn xác tái sanh thời

cuối Hạ Nguơn như sau:

Thơ xướng.

Khen ai cắc cớ bấm trời tây, Từ cõi Niết Bàn Phật

Tỉnh giấc HẰNG NGA khéo vẽ mày Hằng Nga là mặt Trăng = Xác Nữ = xác cô

Một phiến linh đinh trôi mặt biển, Tại sao Cô mà lại xưng Cậu?

Nửa vừng lửng đửng dán trên mây. và tại sao xưng Cậu mà lại là Cô?

Cá ngờ câu thả tơi bời lội, Người đạo thấy xác Nữ sợ đạo tà,

Chim tưởng cung trương sập sận bay; vội vã bỏ Thầy

Nên một nên hai còn bé tuổi,

Mười lăm mười bảy bốn phương hay.

Thơ họa.

Mây hồng năm sắc ở phương Tây, Từ cõi Niết Bàn Phật

Sáng suốt Ô KIM bởi vẹn mày; Ô Kim nói lái là Kim Ô là mặt Trời = Hồn Nam = Đức Cậu

Miệng nhỏ tiếng to vang bốn biển, Trổi giọng đờn kêu ngâm nga ca kệ

Lưỡi mềm lời lớn dậy rồng mây. truyền rao trầm bổng giọng Lôtô

Lòng trong Thánh Kệ tình bơi lội, Trò đừng sợ, chính Thầy trở về ứng khẩu thuyết

Dạ sạch Phật Kinh ý luyện bay; chánh pháp Kinh Phật

Dầu cho thân Mỗ thanh xuân tuổi,

Thức giấc đời mê phải được hay.

Vì hoàn cảnh Hạ nguơn mạt pháp tà ma lộng hành, tùy cơ ứng biến Thầy về mượn

xác Nữ {Cô} mà phải xưng là Cậu (Đức Cậu) để nhắc cho đệ tử nhớ rằng Thầy trở về,

nói lái Cô Cậu, Cậu Cô; Ô Kim, Kim Ô. Phải chăng đây là trường hợp dị sự như Ông Ba

Nguyễn văn Thới tiên tri:

Ai biết nước xuôi nuôi nước ngược,

Bịnh căn vô dược được thọ trường.

Dị thế dị thường tường dị lộ,

Phật Trời cứu độ ngộ Phật Trời.

Dị cư dị thời lời dị thuyết,

Dị đoan dị tiếc kiết dị minh.

Dị sự dị ninh linh dị pháp,

Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.

Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu,

Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

Phép phép linh linh ninh quốc sự,

Nhơn dân vô lự tự an khương.

An quốc an Vương khương thới nhạc,

Di Đà Di Lạc đạt Vi Vô.

(Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 83: 85, Ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

Ông Ba Thới tiên tri gần ngày Tận Thế và Hội Long Hoa, sẽ có một đấng Bồ Tát

xưng ĐỨC CẬU giáng trần với hành trạng nhiều đặc điểm: dị thế, dị thường, dị lộ, dị

thuyết, dị pháp, dị cư, dị thời, dị sự, và hành đạo tưởng như dị đoan tà giáo, nhưng mà

có phép mầu dị linh khiến người dân được an khương thời Di Lạc Phật Vương sắp tới.

Thánh địa Di Lạc ở miền Nam VN.

Dị thế là Bồ Tát ra đời thuyết pháp nhằm thời ma chướng hoành hành; Dị thường là

Bồ Tát có hành trạng kỳ lạ, ví như mượn xác Nữ mà xưng là Đức Cậu; Dị thuyết là

thuyết pháp khác thường, khi ngâm nga ca hát, khi rao đờn, khi rao giọng lôtô; Dị pháp

là pháp khác thường, kỳ lạ tưởng chừng như dị đoan nhưng có phép linh nhiệm mầu khó

nghĩ bàn; Dị cư là Bồ Tát thuyết pháp mà mang hành trạng Cư Sĩ tại gia xưng khùng

điên, không xuất gia ở chùa; Dị sự là Bồ Tát làm những chuyện kỳ cục khó hiểu, hư hư

thực thực… Tất cả những điều dị kỳ đó của Đức Cậu kết hợp thành pháp linh rất mầu

nhiệm.

Dị sự dị ninh linh dị pháp,

Vô nhơn đối đáp pháp thinh không.

Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu, *

Hội Đồng cơ hậu đậu trào Minh.

Sứ mạng của Đức Cậu ra đời lần này là

lộ thiên cơ và giảng giải Phật pháp để gấp rút

tuyển chọn hiền nhân đưa về Thượng Nguơn

Thánh Đức, tuyển hiền nhân bằng những bài

sấm thi phá chấp tướng chấp danh; những ai

tu hành mà còn mê man chờ chờ đợi đợi chấp

danh chấp tướng sẽ rớt trong kỳ thi này.

Sau khi ra đề thi tuyển hiền nhân bằng

những bài thuyết pháp ứng khẩu với nhiều

dạng thi phú, mãi cho đến khi nào tới đời, Đức

Cậu sẽ bỏ xác trần ra đi mượn một thân xác

khác như ông Ba Nguyễn văn Thới đã cho biết

trong sấm giảng Kim Cổ Kỳ Quan:

Ngồi buồn thậm trách cách lòng ngay,

Chim đậu trên cây bay ai cản.

Rừng già lỉnh lảng vãn thú ngao,

Cá cạn trong ao sao nhảy đặng.

Nước bùn lội lặn đặng nhờ mưa,

Hai chỗ như nhau đâu khéo kết.

Tới đời Cậu chết kết Tớ vào, * Cậu ám chỉ Đức Cậu {Đức Thầy Đức Ông công Đức Cậu}

Hai chỗ hỗn hào vào ra lạ.* hỗn hào là hồn lìa khỏi xác Nữ qua mượn xác Nam liền tức khắc

(Kim Cổ Kỳ Quan, Cáo Thị 87: 94, ông Ba Nguyễn văn Thới viết năm 1915)

Tới đời hồn linh Đức Cậu lìa khỏi xác Nữ liền qua xác Nam trước mắt mọi người,

đây là dịp hi hữu cho đệ tử chứng kiến hiện tượng mượn xác thật kỳ lạ mà trước giờ chưa

từng có. Xác Nam được Phật Thầy mượn trong ngày mở Hội Long Hoa như thế nào?

Bần thuyết người về dự Long Hoa,

Sĩ hiền dốt chữ xuống Ta Bà.

Vô biên nói sấm đời nguơn hạ,

Danh truyền pháp Phật cứu bá gia. {KV}

Điên mãi điên hoài chẳng hết điên,

Điên chẳng hơn thua chức ảo huyền.

Điên muốn chúng sanh về cõi Phật,

Đặng mà diệt bỏ cảnh oan khiên.

Điên mãi là TA chớ ai điên,

Thiết tha tha thiết kiếm mối giềng.

Điên trong chơn lý cơ bí pháp,

Điên nghèo điên ngủ chốn mái hiên. (Cứu Nguy Tận Thế tr. 128, Đức cậu Bần Sĩ Vô Danh ứng khẩu thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống 1996)

Mượn xác giả ngụy trang cứu đạo,

Mượn Nữ Nhân được dạo Ta bà.

Nếu không, bị đắm hải hà,

Làm sao tồn tại dựng nhà Phật Vương. (Quay Về Nguồn Cội tr. 250, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh thuyết,

Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

BỬU ngọc Nam bang pháp Phật Thầy,

SƠN hà xã tắc hội Rồng Mây.

KỲ Quan Kim Cổ lời Thầy thuyết,

HƯƠNG trầm bay tỏa khắp đông tây.{KV}

Trong cuốn Chapters Of Life, ấn bản cách nay hơn nửa thế

kỉ của vị Lạt Ma Tây Tạng T. Lobsang Rampa, có lời tiên tri rằng

Đấng Cứu Thế hay Đấng Lãnh Đạo Thế Gian, ai muốn gọi Ngài

với danh vị gì tùy sở nguyện (The Saviour or World Leader,

wichever you prefer). Ngài sanh vào đầu năm 1985 và được sự

giáo huấn rèn luyện thật đặc biệt. Ngài gốc người châu Á.

Tất nhiên Đấng Cứu Thế cũng phải có những môn đồ thân cận hay những người

phụ tá, hay những vị bộ trưởng, tùy sở nguyện ai muốn gọi họ với danh vị gì cũng được

{call them what you like}. Họ là những người đặc biệt sinh ra đời để phụng sự thế gian.

Người đồ đệ đầu tiên của Ngài sanh năm 1941, và những người đồ đệ kế tiếp sanh

muộn hơn. (In 1941, the first of the disciples was born, and others have been born since

{Chapters Of Life p. 23}).

Lời bình: Đấng Cứu Thế sinh ra đầu năm 1985 (The actual Saviour will be born

early in 1985, and in the interim the disciples will be preparing the Way). Đầu năm 1985,

tức tháng 1 dl, nhằm vào tháng chạp hay tháng 12 âl. năm Giáp Tí ứng với câu Sấm

Trạng Trình: Năm Giáp Tí vẻ Khuê đã rạng. Cụm từ vẻ Khuê là vì sao Khuê báo điềm

linh ứng Đấng Cứu Thế giáng trần.

Sau đây là phần trích những dòng thơ minh họa Đấng Cứu Thế ra đời sau năm 2000:

… Đoán cơ Cậu thấy quá gần,

Lưới Trời đã bủa vậy trần thấy chưa?

Người giờ đông quá sau thưa,* Chết 7 còn 3

Phật Trời lựa chọn muối dưa có phần.

Tiên tri lời Cậu ứng dần,

Mỗi lần Cậu giảng Thánh Thần chép ghi.

Xong thời pháp Chư Vị phi,

Thiên Đình khải tấu việc chi Cậu trình.

Cứu dân do sắc Thiên Đình,

Mấy người ở thế sự tình ai hay?

Mỗi lần Cậu thuyết tâm khai,

Long Đình Cậu dạy Phật sai ai tường?

Biết thì mau lánh phố phường,

Lâm sơn sàn dã chọn đường Phật đi.

Nẻo này hữu gẫm đắc suy,

Hữu duyên mới gặp, khinh khi khó gần.

Đường này chắc có Thánh Thần,

Mỗi lần gặp nạn liền lần ra tay.

Vì trần Cậu chẳng nói sai,

Thương trần Cậu mới bày khai tỏ tường.

Hiện thân Cậu dắt dẫn đường,

Ai đi theo Cậu chay trường gốc xưa.

Bản Tin Đấng Cứu Thế

Đêm ngày cầu nguyện nắng mưa,

Cứu dân độ thế Người Xưa đáo trần. * Chúa

Hữu duyên Thầy Tổ được gần,

Để cùng một nẻo chọn lần về ngôi.

Thầy lo tớ lập xong rồi,

An nhàn tự tại mới rồi kỳ công.

Trước là đưa khách sang sông,

Đến bờ giác ngạn mới mong trọn kỳ.

Thuyết phần Cậu, trẻ định tri,

Thấu lời hiểu lý Phật ghi sổ vàng.

Sổ quý ấy hiện Tây phang,

Lập công bồi đức dây oan dứt liền.

Cuộc đời đến lúc chinh nghiêng,

Cậu khuyên Đạo Diệu ẩn yên tu hành.

Tâm khởi phát niệm chúng sanh,

Dùng gươm trí huệ diệt nhanh mới là.

Nếu được vậy nghiệp lực qua,

Bằng mà không được phàm ta hóa phàm.

Việc Phật sự nhẫn hành kham,

Thương người mến vật Nữ Nam nhớ gìn.

Cơ thiên dĩ định dân mình,

Ngày sau Phật giáng Long Đình lộ cơ.

Kêu về nẻo Phật làm lơ,

Cậu khuyên bá tánh ngẩn ngơ bất ngờ.

Thiên cơ chuyển chỉ một giờ,

Ai người giữ đạo ráng thờ Ơn Trên.

Tưởng Trời tưởng Phật thì nên,

Ăn hiền bố thí có tên bảng vàng.

Rồi đây thế giới kinh hoàng,

Khắp nơi nổi dậy muôn ngàn khổ dân.

Do đâu? tại bởi hận sân,

Thế nên quên hết nghĩa nhân không gìn.

Bởi mang hai chữ chống kình,

Hại người nên trước lụy mình phải cam.

Khổ vì nhơn loại quá tham,

Bắt người đến nỗi chùa am không từ.

Hai ngàn năm lẻ có dư, * 20??

Nay giờ thế tục có Như Lai phàm…*

(Trích phần đầu bài pháp Tuyên Phong Chức Sắc trong quyển Bạch Tự Tâm Kinh tr. 17-20, do Ông Cậu Thiện Đạo Nhân

thuyết ngày 9-8-1972, Tam Bảo Tự Suối Lồ Ồ ấn tống)

* Ám chỉ Đức Di Lạc Phật Vương hay Đấng Cứu Thế {Chúa} ra đời sau năm 2000, câu

sấm « Hai Ngàn năm lẻ có dư » nghĩa là 20??. Cụm từ Như Lai phàm ám chỉ Di Lạc

Phật Vương {Chúa} hiện trần ở miền Nam Việt Nam.

Sydney, 30-9-2018, Kỳ Vân Cư Sĩ biên khảo (facebook Mõ Tre) * https://kinhsamthatson.wordpress.com/

Người Xưa trở lại đặng gào,

Triết minh từng đoạn lập màu nhiều nơi.

Người Xưa đâu được thảnh thơi,

Cậy bút cơ trời giáo đạo Nam phương.

Người Xưa nhắc nhở tận tường,

Từ kim chí cổ dọn đường lợi quanh.

Người Xưa đâu có giựt giành,

Không chen không lấn mối manh hồng trần.

Người Xưa ráng tịnh hồn thần,

Đặng tu đắc đạo về lần báu châu. (Quay Về Nguồn Cội tr. 118, Đức Cậu Bần Sĩ Vô Danh

thuyết, Thiền Tịnh Bửu Sơn Sydney ấn tống năm 1997)

Hiếu trung hãy liệu cho xong, Đến chừng gặp Chúa mới mong trở về.* Người Xưa

Bây giờ kẻ Sở người Tề, Hiền lương đến Hội cùng kề với nhau! (Sấm Giảng quyển 3, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1939)

Lóng tai nghe rõ tiếng đờn, Không dây không phím oán hờn cũng không. Đờn Tây rồi lại đờn Đông,* Chúa giáng phương Tây trước

Trách trong bá tánh gặp sông quên nguồn ! (Khuyến Thiện, Đức Huỳnh Giáo Chủ viết năm 1941)

******

Trời nhờ không tạo ra tất cả,

Đất nhờ không biến hóa vô biên.

Người nhờ không thành bậc siêu nhiên,

Không mới đắc Phật Tiên Thần Thánh.

Tạo vũ khí chấp rằng giàu mạnh,

Hạng Võ thua kế mánh Lưu Bang.

Lũ yêu tinh mình sắt đồng vàng,

Gươm Lục Yểm chém tan hồn xác.

Cuộc tẩy trần quét đi bợn rác,

Cho cây đời bát ngát tươi xinh.

Cây gậy thần đầu tử đầu sinh,

Cường quốc muốn hòa bình, hủy diệt?

Chịu đóng đinh, Chúa thành Thánh triết,

Phật vô ngôn bất diệt tôn thờ.

Trận Thứ Ba hóa giải thế cờ,

Ngày phán xét đúng giờ thưởng phạt!

Ngày 12-9-2001, Vũ Thái Cát Tường

Trên đường

tới pháp

trường chịu

đóng đinh

trên Thập

Tự giá, Chúa

bị đánh đập

tơi tả máu

thịt rơi trông

thật hãi hùng