tran dan _ poem

576
1

Upload: huethanh99

Post on 02-Aug-2015

101 views

Category:

Documents


4 download

TRANSCRIPT

Page 1: Tran Dan _ Poem

1

Page 2: Tran Dan _ Poem

2

Page 3: Tran Dan _ Poem

3

Trần Dần

thơ

Page 4: Tran Dan _ Poem

4

Page 5: Tran Dan _ Poem

5

ai ? ai biết những mặn chát chân mây trên bốn biển lệ rì rầm ?

Page 6: Tran Dan _ Poem

6

Page 7: Tran Dan _ Poem

7

LỜI TỰA

“Nước mắt tự bao giờ - biết cách chảy vào trong?” - Trần Dần viết như vậy trong một sổ nhật ký - phản nhật ký, như một câu giải thích giản dị cho những độc thoại - phản độc thoại của ông, cho những “không yên ổn” thường trực của ông và thơ, cho cả những thở dài “Thơ tôi có 30 năm đóng chai. Nó có thể … chờ”. Thấm thoát đã 10 năm nữa, kể từ khi ông về với “bên kia”, phần lớn di cảo thơ Trần Dần vẫn tiếp tục số phận “nằm”. Và nước mắt xưa của nhà thơ vẫn âm thầm chảy ngược vào trong. Người biên soạn cuốn sách này, với tất cả những nôn nóng của một nhân chứng tình cờ bất đắc dĩ trước một đời thơ nhiều thương khó, chỉ mong muốn và hy vọng làm sao đem tới cho người đọc dù chỉ một phần không hoàn thiện của di cảo - mà cho đến hôm nay vẫn hoàn toàn vùi sâu dưới những lớp sơn dầy cứng của thời gian, của giai thoại, và trên hết của những ngộ nhận chính trị không nhiều tế nhị không ít ồn ào.

Page 8: Tran Dan _ Poem

8

Trong khuôn khổ vài trăm trang giấy này tôi không có ý định tiến hành một cuộc “tổng tuyển tập” thơ Trần Dần, tôi cũng không thể gọi tên cuốn sách là toàn tập, là chọn lọc hoặc một cái gì đó tương tự. Phần lớn di cảo sẽ không giúp được gì cho những nhu cầu dễ hiểu, đại chúng, cho những thói quen ăn nhanh, đọc nhanh ngày càng phổ biến nơi người đọc. Cũng sẽ chẳng thể tham gia vào cuộc chạy đua không cân xứng ngày hôm nay, ở Việt Nam ta, giữa nghệ thuật và các bộ môn tuyên truyền thông tin đại chúng. Tôi chủ trương lấy lại những ví dụ nằm trong những dòng thử nghiệm 45 năm thơ của ông (tôi xin nhấn mạnh, ví dụ chứ không phải là tuyển chọn), cùng những tác phẩm gắn bó nhất với những bước ngoặt với những thăng trầm của 45 năm trong đời ông - tôi cho rằng cuộc đời Trần Dần và thơ Trần Dần cả hai đã đồng hoá nhau trong chữ “ngoại lệ”. Nếu đã chẳng xin ông hãy lịch thiệp sống như chúng ta, thì cũng đừng mất công tìm nơi ông một câu văn “chuẩn” ngữ pháp như mọi người. Nếu đã chẳng bắt ông phải tin yêu vào cuộc đời, thì cũng đừng chờ ở ông những bài thơ thơ mộng, cũng đừng yêu thơ ông như yêu một bó hoa xinh một bi kịch trữ tình. Có lẽ phải chú ý thêm rằng tất cả những tác phẩm để được tham gia vào cuốn sách này cần đáp ứng một nguyên tắc: có thể trình bày lại được bằng những cách đánh máy thông thường, trên máy chữ hoặc máy vi tính sơ đẳng và phổ thông. Chỉ một nguyên tắc đơn giản này đã loại bỏ ra ngoài phần lớn di cảo thơ Trần Dần, nhưng tôi không tìm được một cách trình bày nào khác. Khi biên soạn cuốn sách tôi cũng đặt câu hỏi: có thể xây dựng lại được không chân dung của nhà thơ bằng thơ, thông qua những đối thoại bao giờ cũng của một người? Có thể sử dụng những tác phẩm này theo một cách xắp xếp nào đấy để kể lại

Page 9: Tran Dan _ Poem

9

một cuộc đời một sự nghiệp? Có thể cung cấp được cho những người không biết chuyện một vài thông tin cần thiết và có ích cho thơ? Cuốn sách vì lý do đó được chia thành nhiều chương, vừa tuân theo trình tự thời gian (để đi theo những thăng trầm của thời cuộc đã để lại dấu ấn trong nhà thơ), vừa xáo trộn trật tự thời gian (để hệ thống lại những dòng thử nghiệm thơ và lưu ý những sự kiện mang tính then chốt trong toàn bộ tiến triển của câu chuyện)

Tôi cũng chủ trương ưu tiên khai thác một bộ phận của di cảo: thơ chứ không phải văn xuôi hoặc dịch thuật. Đâu đó trong một sổ bụi Trần Dần cũng viết như thế này: “Thơ là mạng sống, là lí lịch thật đời tôi”, những thử nghiệm triệt để và cực đoan hơn cả đều được ông thực hiện trên địa hạt của thơ. Trái ngược với những tuyển tập thường khép lại một cuộc đời văn sĩ, tôi hy vọng việc công bố một phần di cảo lần này với bạn đọc Việt Nam sẽ mở ra những cuốn sách khác, sẽ là lời gợi ý xác thực nhất về Trần Dần, và trên hết sẽ khiến độc giả phải rời bỏ nhiều thói quen đọc của mình. Hãy đọc cuốn sách này như một câu chuyện, mà mỗi một đoản thơ, một bài viết, một trang nhật ký sẽ là một mắt xích của toàn bộ dây truyền, một lời giải cho những lời giải khác. Hãy đọc lại nhiều lần, mỗi một lần đọc sẽ là một khám phá mới, về một con người một cuộc đời, về những khả năng của chữ của lời, về những quan niệm khác của thơ.

Vũ Văn Kha

Page 10: Tran Dan _ Poem

10

Page 11: Tran Dan _ Poem

11

PHẦN I

Hãy đi mãi !

Page 12: Tran Dan _ Poem

12

Tôi yêu đất mẹ đây - có cỏ hoa làm chứng Tôi yêu chủ nghĩa này

cờ đỏ cãi cho tôi

Page 13: Tran Dan _ Poem

13

I.1

1955

Page 14: Tran Dan _ Poem

14

Page 15: Tran Dan _ Poem

15

Thư Nguyễn Đình Thi gửi Trần Dần

Page 16: Tran Dan _ Poem

16

Page 17: Tran Dan _ Poem

17

Nhất định thắng

Tôi ở phố Sinh Từ Hai người

Một gian nhà chật.

Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui ?

Tổ quốc hôm nay

tuy gọi sống hòa bình

Nhưng mới chỉ là năm thứ nhất

Chúng ta còn muôn việc rối tinh...

Chúng ta

Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc

Vợ con đau thì rối ruột thuốc men

Khi mảng vui - khi chợt nhớ - chợt quên

Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt.

Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt

Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù

Chúng còn đương bày kế hại đời ta ?

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Đất hôm nay tầm tã mưa phùn

Bỗng nhói ngang lưng

máu rỏ xuống bùn

Lưng tôi có tên nào chém trộm ?

Page 18: Tran Dan _ Poem

18

A ! Cái lưỡi dao cùn !

Không đứt được - mà đau !

Chúng định chém tôi làm hai mảnh

Ôi cả nước ! Nếu mà lưng tê lạnh

Hãy nhìn xem: có phải vết dao ?

Không đứt được mà đau !

Lưng Tổ Quốc hôm nay rớm máu

Tôi đã sống rã rời cân não Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam

Những cơn mưa rơi mãi tối xầm

Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng

Tôi đã trở nên người ôm giận

Tôi đem thân làm ụ cản đường đi

- Dừng lại !

- Đi đâu ?

- Làm gì ?

Họ kêu những thiếu tiền, thiếu gạo

Thiếu cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân

Có cả anh nam chị nữ kêu buồn

- Ở đây

khát gió, thèm mây...

Ô hay !

Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ

Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi ?

Sau đám mây kia

là cả miền Nam

Sao nỡ tưởng non bồng của Mỹ !

Page 19: Tran Dan _ Poem

19

Tôi muốn khóc giữ từng em bé

- Bỏ tôi ư ? - từng vạt áo - gót chân

Tôi muốn kêu lên - những tiếng cộc cằn...

- Không ! Hãy ở lại !

Mảnh đất ta hôm nay dù tối

Cũng còn hơn

non bồng Mỹ

triệu lần...

Mảnh đất dễ mà quên ?

Hỡi bạn đi Nam

Thiếu gì ư?

Sao chẳng nói thực thà ?

Chỉ là:

- thiếu quả tim, bộ óc !

Những lời nói sắp thành nói cục

Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi

Tôi nức nở giữa trời mưa bão.

Họ vẫn ra đi.

- Nhưng sao bước rã rời ?

Sao họ khóc ?

Họ có gì thất vọng ?

Đất níu chân đi,

gió cản áo quay về.

Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống.

Tưởng như đây là phút cuối cùng

Trăng trối lại : - Mỗi lùm cây - hốc đá

- Mỗi căn vườn - gốc vả - cây sung

Không nói được, chỉ còn nức nở

Trắng con ngươi nhìn lại đất trời

Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa

Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ

Page 20: Tran Dan _ Poem

20

Ôi đất ấy - quên làm sao được ?

Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi

Hôm nay đây mưa gió dập vùi

- Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...

Ai dẫn họ đi ?

Ai ?

Dẫn đi đâu ? - mà họ khóc mãi thôi

Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió

Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi

Tôi cúi xuống - quỳ xin mưa bão

Chớ đổ thêm lên đầu họ

- Khổ nhiều rồi !

Họ xấu số - Chớ hành thêm họ nữa

Vườn ruộng hoang sơ - Cửa nhà vắng chủ

Miền Nam muôn dặm,

non nước buồn thương

Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn

Ơi đất Bắc ! Hãy giữ gìn cho họ.

Tôi ở phố Sinh Từ Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ.

Gặp em trong mưa

Em đi tìm việc

Mỗi ngày đi lại cúi đầu về

- Anh ạ,

họ vẫn bảo chờ...

Page 21: Tran Dan _ Poem

21

Tôi không gặng hỏi, nói gì ư ?

Trời mưa, trời mưa

Ba tháng rồi

Em đợi

Sống bằng tương lai

Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi

Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã…

Em đi

trong mưa

cúi đầu

nghiêng vai

Người con gái mới mười chín tuổi

Em ơi.

Em có biết đâu

Ta khổ thế này

vì sao ?

Em biết đâu

Mỹ miếc, Ngô nghê gì ?

Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi

Bóng chúng

đè lên

số phận

từng người

Em cúi đầu đi, mưa rơi

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ.

Page 22: Tran Dan _ Poem

22

Đất nước khó khăn này

sao không thấm được vào Thơ ?

Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi

Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua

Nhưng mà sách - hình như khá chạy

À quyển kia của bạn này - bạn ấy

Quyển của tôi tư lự nét đăm đăm

Nó đang mơ : - Nếu thêm cả miền Nam

Số độc giả sẽ tăng dăm bẩy triệu

Tôi đã biến thành người định kiến

Tôi ước ao tất cả mọi người ta

Đòi thống nhất phải đòi từ việc nhỏ

- Từ cái ăn

cái ngủ

chuyện riêng tư

- Từ suy nghĩ

nựng con

và tán vợ.

Trời mưa mãi lây rây đường phố

Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào

Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió

Nhưng hôm nay

tôi bỗng cúi đầu

Thơ nó đi đâu ?

Sao những vần thơ

Chúng không chuyển, không xoay trời đất ?

Sao chúng không chắp được cõi bờ ?

Non nước sụt sùi mưa

Tôi muốn bỏ thơ

làm việc khác

Page 23: Tran Dan _ Poem

23

Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa

Chút tài mọn

tôi làm thơ chính trị.

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ.

Em ơi ! - ta ở phố Sinh Từ

Em đương có chuyện gì vui hử

À cái tin trên báo - Ừ em ạ

Hôm nay bọn Mỹ miếc, lũ Ngô nghê

Chúng đang phải dậm chân đấm ngực !

Vượt qua đầu chúng nó,

mọi thứ hàng

Những tấn gạo vẫn vượt đi

Những tấn thư, tài liệu

Vẫn xéo qua đầu chúng, giới danh gì ?

Ý muốn dân ta

là lực sĩ khổng lồ

Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến

Dân ta muốn trời kia cũng chuyển

Nhưng

Trời mưa to lụt cả gian nhà

Em tất tả che mưa cản gió

Con chó mực nghe mưa là rú

Tiếng nó lâu nay như khản em à

Thương nó nhỉ - nó gầy - lông xấu quá

Nó thiếu ăn - Hay là giết đi ư ?

Page 24: Tran Dan _ Poem

24

Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ.

Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó

Nhưng hôm nay em mới nghĩ ra

Anh đã biến thành người định kiến

Mực ơi!

đừng oán chủ, Mực à!…

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi

không thấy phố

không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa

trên màu cờ đỏ.

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Tai bỗng nghe những tiếng thì thầm

Tiếng người nói xen tiếng đời ầm ã.

- Chúng phá hiệp thương

- Liệu có hiệp thương

- Liệu có tuyển cử

- Liệu tổng hay chẳng tổng ?

- Liệu đúng kì hay chậm vài năm ?

Những câu hỏi đi giữa đời lỏng chỏng.

Ôi xưa nay Người vẫn thiếu tin Người

Người vẫn thường kinh hoảng trước tương lai

Người quên mất Mỹ là sư tử giấy

Người vẫn vội - Người chưa kiên nhẫn mấy

Gan người ta chưa phải đúng công nông

Người chửa có dạ lim trí sắt

Người mở to đôi mắt mà trông !

A tiếng kèn vang

quân đội anh hùng

Page 25: Tran Dan _ Poem

25

Biển súng

rừng lê

bạt ngàn con mắt

Quân ta đi tập trận về qua

Bóng cờ bay đỏ phố đỏ nhà...

Lá cờ ấy là cờ bách thắng

Đoàn quân kia muôn trận chẳng sờn gan

Bao tháng năm đói rét nhọc nhằn

Từ đất dấy lên

là quân vô sản

Mỗi bước đi lại một bước trưởng thành

Thắng được chiến tranh

giữ được hòa bình

Giặc cũ chết - lại lo giặc mới

Đoàn quân ấy - kẻ thù sợ hãi

Chưa bao giờ làm mất bụng dân yêu

Dân ta ơi ! chiêm nghiệm đã nhiều

Ai có LÝ ? Và ai có LỰC ?

Tôi biết rõ đoàn quân sung sức ấy

Biết nhân dân

Biết Tổ Quốc Việt Nam này

Những con người từ ức triệu năm nay

Không biết nhục

Không biết thua

Không biết sợ !

Hôm nay

Cả nước chỉ có một lời hô:

THỐNG NHẤT

Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi

- Giả miền Nam !

Tôi ngửa mặt lên trời

Page 26: Tran Dan _ Poem

26

Kêu một tiếng - bỗng máu trời rơi xuống

Vài ba tia máu đỏ rớt vào tôi

Dân ta ơi !

Những tiếng ta hô

Có sức đâm trời chẩy máu.

Không địch nào cưỡng nổi ý ta

Chúng ta đi - như quả đất khổng lồ

Hiền hậu lắm - nhưng mà đi quả quyết...

Hôm nay

Những vần thơ tôi viết

Đã giống lưỡi lê : đâm

Giống viên đạn : xé

Giống bão mưa : gào

Giống tình yêu : thắm

Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây

Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu

Tôi là người vô địch của lòng tin.

Sao bỗng đêm nay,

tôi cúi mặt trước đèn ?

Gian nhà vắng chuột đêm nó rúc.

Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra.

Hừ ! Chúng đã biến thành tảng đá

chặn đường ta !

Em ơi thế ra

Người tin tưởng nhất như anh

vẫn có những phút giây ngờ vực

Ai có lý ? Và ai có lực ?

Ai người tin ? Ai kẻ ngã lòng tin ?

Em ơi

Cuộc đấu tranh đây

cả nước

cả hoàn cầu

Page 27: Tran Dan _ Poem

27

Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu

Có lẫn máu, có xót thương, lao lực.

Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực

Bỗng mắt anh nhìn thấy ! lạ lùng thay !

Tảng đá chặn đường này !

Muôn triệu con người

muôn triệu bàn tay

Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực !

Anh đã nghĩ : không có đường nào khác

Đem ngã lòng ra

mà thống nhất Bắc Nam ư ?

Không không !

Đem sức gân ra !

Em ơi em !

Cái này đỏ lắm, gọi là TIM

Anh cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT.

Hôm nay

Trời đã thôi mưa

thôi gió

Nắng lên

đỏ phố

đỏ nhà

Đỏ mọi buồng tim lá phổi

Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa !

Bây giờ

Em khuân đồ đạc ra phơi

Em nhé đừng quên

Em khuân tất cả tim gan chúng mình

phơi nắng hết.

Page 28: Tran Dan _ Poem

28

Em nhìn

cao tít

trời xanh

Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ !

Hôm nay em đã có việc làm

Lương ít - sống còn khó khăn !

Cũng là may…

Chính phủ muôn lo nghìn lắng

Thực có tài đuổi bão xua mưa

không thì còn khổ !

Em treo cờ đỏ đầu nhà

Lá cờ trừ ma

Xua được bóng đen chúng nó…

Đúng rồi ! Đó là công sức của dân ta

lùa mây đuổi gió

Những vết thương kháng chiến đỏ lòm

Đã mím miệng, lên da lên thịt.

Tôi bỗng nhói ở nơi lồng ngực

Em ơi

Chúng đốt phố Ga-li-ê-ni

và nhiều phố khác.

Anh đã sống ở Sài-Gòn thuở trước

Cảnh miền Nam thành một góc tim anh

Chúng đốt tận đâu

mà lửa xém tim mình

Tim nó bị thui đen một nửa

Từ dạo ấy

mà em chẳng rõ.

- Em hãy đỡ cho anh khỏi ngã

Đứng đây

Một lúc!

Page 29: Tran Dan _ Poem

29

Cờ bay

đỏ phố

đỏ nhà

Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.

Em có thấy bay trên trời xanh

Hàng triệu tâm hồn?

Em ơi

Hôm nay

trời xanh

xanh đục

Nắng lên

đỏ phố

đỏ cờ…

Ta ở phố Sinh Từ Em này

Hôm nay

đóng cửa

Cả nhà ra phố

mít tinh

Chúng ta đi

nổi bão

biểu tình

Vung cờ đỏ

hát hò

vỡ phổi.

Hỡi những người

thành phố,

thôn quê

Đói no lành rách

Người đang vui

Người sống đang buồn

Page 30: Tran Dan _ Poem

30

Tất cả!

Ra đường!

Đi!

hàng đoàn

hàng đoàn

Đòi lấy tương lai:

HOÀ BÌNH

THỐNG NHẤT

ĐỘC LẬP

DÂN CHỦ

Đó là tim

là máu đời mình

Là cơm áo! Là ái tình

Nhất định thắng!

1955

Page 31: Tran Dan _ Poem

31

Tình Yêu Gửi em K*, những ngày phải xa nhau – anh bị giữ lại để « giáo dục » về nhiều chuyện và cả chuyện yêu K nữa.

Em ơi anh không ngủ được bốn đêm rồi! Nhớ em đường phố Sinh Từ đen cả mũi mùi than mùi bụi. Nhớ gian nhà bây giờ lùi lũi một mình em Em ạ, Tình yêu không phẳng lặng bao giờ Nó đè sóng, đè mưa, nổi bão... Tình yêu không phải chuyện đưa cho nhau ngày một bó hoa

* K: tên viết tắt của bà Bùi Thị Ngọc Khuê, sau này là vợ của nhà thơ.

Page 32: Tran Dan _ Poem

32

Nó là chuyện những đêm giòng không ngủ tóc tai bù như những rặng cây to nó vật vã những đêm trời động gió. Tình yêu không phải là kề vai mơ sầu mộng dưới trăng mòn mà phải sống phải cởi trần mưa nắng phải mồ hôi chảy đẫm tận buồng gan. Tình yêu không phải chuyện ngàn năm kề sát má mà bỗng dưng - một quả tim chung phải bổ nó làm đôi người một nửa người ôm một nửa... Tình yêu không phải là những chiếc toa đen con tàu cuộc sống

Page 33: Tran Dan _ Poem

33

tùy chuyến đi mà cắt bỏ hoặc nối thêm

Mà tự nó là một ĐẦU TÀU HỎA có nghìn toa buổi - sáng buổi – không đèn Triệu mã lực con tàu điên tàu dại nó đâm bừa gãy cẳng ngày đêm nó hú chết thời gian khoảng cách nó rú lên trên trái đất chưa người chưa xã hội chưa luân thường ước lệ...

Tình yêu không phải chuyện bạ sao yêu cũng được nó lạ lùng như giữa một trời sao triệu triệu ánh Chỉ có anh đã khản tiếng kêu gào

Page 34: Tran Dan _ Poem

34

mới gọi được vì – sao – em hay khóc Và có em đi mãi đến mê người mới dừng lại ôm mình anh buồn tủi vì – sao – anh rốc lửa xém bên trời... Tình yêu không phải có hoặc không cũng được ! mà nó như là những vần thơ những bắp thịt những đường gân tổ quốc Em ơi em lại khóc em à? Gian nhà vắng con chó nằm nó rú... Anh mới đấm lên trời dăm quả đấm bây giờ anh ngồi chết một gian buồng

Page 35: Tran Dan _ Poem

35

bốn bức tường nó giữ chịt người anh để giáo dục anh về nhiều chuyện và chuyện yêu - là câu chuyện chúng mình... Em đọc kỹ trang thơ này nhé Em đếm xem bao chữ bao vần cũng tựa bao đêm em ngắm trời sao em đã thấy một vì sao ngất ngưởng

vì – sao – anh nó chuyển bốn bên trời đuôi nó cháy - đúng là vì sao dữ Anh cho phép em khóc nhiều khóc nữa Em ơi tình yêu em không có tuổi bao giờ mươi thế kỷ vì sao anh vẫn cháy...

Page 36: Tran Dan _ Poem

36

Bốn mặt tường (ou le novateur chatié) gửi Lê Đạt

Tạm xa nhau chưa biết tới bao lâu Bây giờ bạn đi phố một mình hít hết bụi mà ra thơ ra thẩn Những con đường tôi với bạn đi chúng có nghĩ điều gì không nhỉ? Ừ! làm sao còn có một mình bạn? Tôi ở đây cũng chỉ có một mình. Một căn buồng.

Page 37: Tran Dan _ Poem

37

Mặt bốn bức tường trơ trẽn mặt tôi. Năm cái mặt nhòm nhau khó chịu! Trời ơi! Cuộc đời tôi tôi đã tội tình gì? Sao lại bị cuộc đời giam hãm hử? Tính hai đứa bạn lôi thôi hơn chứ? Nhưng hôm nay bạn vẫn được ở ngoài Trời nó nắng? Trời nó mưa? Hay gió? Tôi thèm quá những rặng cây bù tóc những mây ùn mưa đổ lối mình đi những câu chuyện tùn tùn tả tả... Tôi nằm chết trong buồng giam lớn Không có cùm chỉ có thời gian

Page 38: Tran Dan _ Poem

38

Mỗi một phút như từng tảng đá nó rơi hình rơi hịch buồng tim Bạn nói sai chưa ? Chế độ mới không bỏ tù tư tưởng... Tôi đối mặt mặt bức tường nó bảo : « Gớm mặt anh trông mới sợ làm sao ? gân gổ quá mà âu sầu cũng quá ! Hối đi thôi nào cố học theo tôi: mặt lạnh như tiền tốt hơn hết ở đời phải thế » Tôi phát bẳn nhảy lên mặt nó chửi liền: « Tao với mày hai mặt khác nhau

Page 39: Tran Dan _ Poem

39

Mặt mày lạnh vì mày không có mắt... » Buồn đổ xuống đầu tôi từng mảng Đầu nó đau mưng mủ đục mủ lờ Tôi với tường cãi vã vài câu Buốt óc Ôm đầu Không khóc được càng đau Tôi vật xuống ngủ như con bão ngủ... Đây đoạn một chuyện này chưa kết luận.

Page 40: Tran Dan _ Poem

40

Hát sao Cùng một ý, dịch ra hai thể thơ khác nhau, nó trở thành hai màu sắc khác nhau. Tuy vậy không khác hẳn. Kết luận: một người đẹp có thể mặc nhiều kiểu áo, nhiều màu. Xong vẫn có một màu, một kiểu áo tôn người nhất.

I.

Ai phân công tác trên trời

Để cho sao thắp mệt nhoài từng đêm ?

Đêm nay là mấy triệu đêm

Vẫn sao bắc đẩu rọi đèn khổ sai

Vẫn buồn chênh chếch sao Mai

Sớm khuya thân phận góc trời mồ côi

Hãy ca! Hãy hát! Sao ơi!

Đừng than thở nữa! Đừng rơi vãi hoài!

Ai phân công tác trên trời

Để cho sao thắp mệt nhoài từng đêm ?

II.

Ai phân công tác trên trời nhỉ

Để các vì sao thức mệt nhoài ?

Hàng muôn thế kỷ rồi sao Đẩu

Vẫn đứng soi đèn kiếp khổ sai!

Vẫn còn đó: sao Mai chênh chếch

Một bên trời, thân phận mồ côi.

Hãy ca hát! Sao ơi! Đừng khóc!

Đừng liều thân rơi vãi phí hoài!

Ai phân công tác trên trời nhỉ

Để các vì sao thức mệt nhoài ?

Page 41: Tran Dan _ Poem

41

Một tia hy vọng để tặng người tuyệt vọng

Những đêm không trăng sao

Những ngày không nói nắng

Những người đang khó khăn

Những kỳ mưa bão lâu

Những quầng con mắt sâu

Những bàn tay với lên

Những thời gian tối đen

Những đời không ánh đèn.

Em ơi em

Những khúc sống đang dầm mưa dãi gió

Khi người ta chỉ còn chết mà thôi

Ta hãy giữ chỉ một tia hy vọng

Một tia thôi

để mà thắng và yêu.

Page 42: Tran Dan _ Poem

42

Xin nghỉ phép ou le novateur incompris

Tôi xin nghỉ ba tháng Cho óc nó yên Nó giải quyết vài vấn đề của nó Hôm nay tôi bước chân đi khỏi cục tuyên truyền Sung sướng gì đâu ? Nhưng buộc lòng thôi! Cực chẳng đã mà tôi phải nghỉ Đất nước hôm nay đang có những chuyện gì? Thật trái ngược, Tôi có nghỉ mới hiểu sâu việc nước Thương hại lắm Tôi buồn rũ xuống cúi đầu Tôi đi như một gã mất đầu lâu Chết một đêm nay còn chết những đêm sau

Page 43: Tran Dan _ Poem

43

Có ai đổi tâm hồn không hử? Biến tôi thành một gã biết sụt sùi. Để tôi khóc cho nhẹ lòng mi mắt... Lại bọn ấy nó la: « Con người mới không buồn » Nếu quả vậy thôi ! không làm người mới Tôi sống đêm nay sống thức tủi hờn Những xác chết còn sống hơn tôi sống Ba tháng nữa ! sẽ ra sao? Liệu có dẹp yên trận bão trong người ? Em ơi! Khó lắm! Tôi sẽ đi trong các phố kinh thành Các ngõ xóm một làng nào đó... Không phải bước run run như anh ốm dở

Page 44: Tran Dan _ Poem

44

Mà đi như một trận cuồng phong Như những lớp người lên trên mặt trận! Em ơi! Khó lắm! Hôm nay anh nát tâm gan dăm bảy vấn đề Ba tháng giải quyết xong Lại nát bét triệu vấn đề mới nữa... Vì anh đã biết nghe mạch đất Nghe sương dầm bão táp trên đời người Nên khối óc không bao giờ lặng bão... Chương trình nghỉ: đọc sách làm thơ suy nghĩ gần em sống thêm ít thôn quê, thành thị.

Page 45: Tran Dan _ Poem

45

Em ơi! như thế có phải nghỉ không em? Sao anh phải dày công xin nghỉ? Anh nắm tóc cuộc đời chất vấn: Đến bao giờ? Đến kiếp nào? Người ta mới biết nuôi thi sĩ? Chế độ nào dám bỏ hẳn một năm Cho anh làm một bài thơ? Ồ ba tháng có gì quá đáng? Anh sẽ cháy hơn muôn đám cháy Nghỉ làm sao? Sao lại nghỉ? Bệnh gì? Tôi bị bệnh? Xã hội này bị bệnh?

Page 46: Tran Dan _ Poem

46

thư không gửi ngày 22 tháng 9 năm 1955

K. em,

Bỏ lỗi cho anh. Em khổ cũng nhiều rồi. Người ta có thể

quen với mọi thứ, cả sự khổ não – nhưng anh sẽ cố làm

cho em đỡ khổ, người ta không nên quen với khổ đau.

Phải có một cái không thay đổi mới có thể làm cái trục

thay đổi mọi cái khác. Tình yêu chúng ta càng vững, xung

quanh chúng ta sẽ biến đổi hết.

Khi người ta khổ mọi vẻ, phải có một cái gì sung sướng,

dù là hy vọng, mới sống được. Đêm bão biển ít nhất phải

còn một vì sao trên trời, hay trong lòng thuỷ thủ. Bây giờ

anh khổ lắm, anh phải có em giữa biển khổ, anh phải có

một vì sao trong tâm hồn. Em cũng mất nhiều lắm, mất

cả tiếng cười, cuộc sống hồn nhiên. Anh cố lắm … Nhưng

em có thể thấy ở anh như một tia nắng giữa trời mây đen

không? Nếu mà có thể, anh muốn khổ thay em tất cả.

Cho em sung sướng phần nào.

Page 47: Tran Dan _ Poem

47

Hỡi những người phụ trách cuộc sống ở Việt Nam, các người có đồng ý vậy không?

Page 48: Tran Dan _ Poem

48

Con người Trần Dần (trích hồi ký) Hoàng Cầm

... Thêm vào đó, câu chuyện tình chưa được công nhận. Bóng người con gái hiền lành, hay khóc, người yêu của Trần Dần bỗng thành một thứ gì ám ảnh: Một bóng ma đáng sợ. Người nào muốn tỏ ra « lập trường vững chắc » không bị « tư sản tấn công » đều phải ghét người con gái ấy đi. Tình cảm day dứt đến cực độ, như một cành cây non bị quật lên quật xuống trong trận bão khổng lồ, Trần Dần không còn biết bộc bạch cùng ai. Nói gì bây giờ cũng khó lọt tai những người « vững lập trường» lòng lim dạ sắt. Trần Dần gần như phát điên. Hết đứng lại ngồi, lại chạy ra phố, lại về đơn vị, ở đâu anh cũng thấy những dây trói vô hình mỗi ngày một thít chặt vào trái tim anh. Cùng một thời gian ấy, những sự kiện lớn trong phong trào Văn nghệ rồn rập tới: Phê bình tập thơ « Việt Bắc», Trần Dần nhận định thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc

Page 49: Tran Dan _ Poem

49

một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ. ... Tấm thảm kịch đã đi đến một chỗ thắt nút quằn quại. Người yêu

của anh bắt đầu có mang. Và đột nhiên anh bị giữ ở đơn vị để kiểm thảo cùng với Tử Phác, quanh quẩn trong một gian phòng. Một tháng, rồi hai tháng, ba tháng. Những ngày đầu tiên, như cơn sốt rét đột ngột đến, anh kêu rên: - Tôi có tội gì? Tôi có tội gì mà giữ tôi lại? Người yêu anh bỗng thấy anh không về nữa. Những trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em, không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán thuốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi: - Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh? Tôi giải thích: - Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị. Chị oà lên khóc: - Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không? Tôi lại khuyên nhủ: - Có chứ! Ai cấm đâu! Chị bỗng khóc to hơn: - Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi rồi!

Page 50: Tran Dan _ Poem

50

Rồi chị gào lên: - Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo cho tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ. Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi: - Anh ấy bận công tác thật đấy mà! Chị vẫn một mực: - Anh ấy nói dối! Cả anh nữa anh cũng nói dối! Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh... Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt canh nhau đến ở đấy, giải thích, an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan.

***

Trong những ngày u uất đó, anh không được biết tin người yêu, ngồi vò võ trong phòng kiểm thảo. Qua lúc đầu tiên đột ngột, tâm trí anh dần dần bình tĩnh lại. Ba tháng hết nằm lại ngồi, anh đã trải qua một đoạn đời đau khổ. Nhưng ở Trần Dần luôn có tình yêu sự sống rất mãnh liệt nó đã ngăn anh không đến chỗ huỷ hoại cuộc đời còn rất trẻ của mình. Anh viết bài thơ « Nhất định thắng » (vào khoảng tháng tư năm 1955). Một lần tôi vào thăm anh, với một món quà nhỏ: một túm nhãn tôi mua ngoài phố. Anh vồ lấy ăn ngấu nghiến rồi cười oang oang: « Thi đua với các cậu làm thơ nhé! » Thấy tôi rơm rớm nước mắt, anh bỗng hạ thấp giọng:

Page 51: Tran Dan _ Poem

51

- Đừng buồn cho mình. Mình cũng nhiều khuyết điểm lắm: có tư kiêu, có nóng nảy, có tự do vô kỷ luật thật.

Nhưng không bao giờ không trung thành với Đảng, dù bị mắc tiếng oan dù bị kỷ luật. và mình tin những cái độc đoán của một vài cá nhân rồi đây sẽ không còn nữa. Đảng là một khối sáng suốt. tương lai chúng mình, Đảng sẽ đảm bảo, dù bây giờ Đảng có thể là chưa hiểu mình. Anh lại đọc thơ Mai-a, đọc truyện Sê-cốp, Goóc-ki. Anh lại nằm nghiền ngẫm tập truyện « Đất vỡ hoang » và « Trên sông Đông êm đềm » của Sô-lô-cốp. Cánh cửa có chắn song sắt khép lại, tôi lùi ra và cảm thấy gian phòng kia không còn chật hẹp, tù hãm nữa đối với một con người đầy lòng tin như Trần Dần.

*** Hết 3 tháng kiểm thảo, anh lại được về với người yêu. Chị ấy lúc đầu còn giận dỗi: - Thôi anh đi đâu thì đi, mặc xác tôi. Nhưng chẳng bao lâu, mắt lại sáng, má lại tròn, tiếng cười trở lại về trong gian nhà bề bộn những bàn ghế quần áo và ống chỉ, dao kéo. Chị đã bắt đầu may sẵn áo cho đứa con đang cựa trong bụng. Chị đã xin được việc làm:

Trời đã thôi mưa ... thôi gió Đã thấy nắng lên trên màu cờ đỏ

Rồi Trần Dần đi tham quan Cải cách Ruộng đất. Bài thơ « Nhất định thắng » gửi Lê Đạt giữ từ lâu, anh cũng gần như quên đi, óc

Page 52: Tran Dan _ Poem

52

còn mải nghĩ về những mặt khác của cuộc sống để chuẩn bị cho những bài thơ khác sẽ ra đời. Đã gần đến Tết ta. Một số anh em đã thấy say sưa sáng tác. Tôi chạy đi chạy lại gom góp sáng tác của dăm ba người bạn và nghĩ rằng phải xuất bản một tập văn thơ « mùa Xuân » để đóng góp với mùa xuân mới của văn nghệ đang sắp nở. Và nhận thấy cái kỷ luật « cấm sáng tác » do 1 vài người công bố đối với Trần Dần là một điều vô lý, sai chính sách của Đảng, và đang lúc Trần Dần đi công tác xa tôi không biết anh có sáng tác gì mới không, tôi bèn tìm lại bài thơ « Nhất định thắng » và cho đăng vào cái « Giai phẩm mùa xuân » mà tôi là người soạn bài. Cứ để bông hoa đó nở thì nào đã hại gì ai mà có thể có lợi. Nhưng hoa chưa kịp nở, thì đã bị rập vùi. « Giai phẩm mùa xuân » bị kết tội, bài thơ « Nhất định thắng » bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích bắt đầu từ cuộc phê bình thơ «Việt Bắc » đã tìm cách giả thù: Trần Dần – Tử Phác đều bị tống giam. Cái nút thứ hai khốc liệt hơn, của tấm thảm kịch Trần Dần. Những ngày mùa xuân 1956, tôi đau đớn như có búa nện vào óc, có đinh đóng vào tim, và có giấy trói chặt chân tay. Mùng hai Tết, tôi ăn bữa cơm cuối cùng với Trần Dần. Giữa hai tợp rượu, đã thấy những con bão đe doạ, mà lần này chắc ghê gớm hơn lần trước. Chị K... không hiểu biết gì vẫn vui vẻ ngồi bóc bánh, rồi xếp dọn ba lô cho chồng để anh ăn xong thì lại đi công tác. Không khí giới văn nghệ như sắp sửa có trận bão. Không biết từ đâu cái tin « Trần Dần phản động », « trong Giai phẩm có mấy tên phản động » bỗng truyền ra rất nhanh. Những tin không hay

Page 53: Tran Dan _ Poem

53

rồn đến, bổ vây tôi và anh Trần Dần còn đang ăn dở miếng bánh trưng Tết – chị K... tái mặt, để rơi đôi đũa, nước mắt đã vòng quanh: - Thế nào thế các anh? Phen này lại bị bắt nữa thì tôi sống thế nào được? Các anh rủ nhau làm những chuyện gì mà khổ sở thế không biết! Trần Dần cũng tái mặt, anh cắn chặt môi, sốc ba lô lên vai, an ủi vợ: - Em đừng lo. Tin đồn bậy bạ đấy thôi. – Anh đi công tác đây. – Gần đến tháng đẻ, em đừng lo nghĩ gì cả. Nhưng chị K... không thể bình tĩnh được. Chị tiễn chồng ra cửa, khóc oà lên: - Anh đi... anh có về nữa không, anh ơi! Cổ tôi bỗng nghẹn nước mắt. Tôi cố cười: - Ồ cái chị này lẩn thẩn. Thôi để anh ấy đi nào... Trần Dần ngửng mặt bước đi. Nhìn anh đi rồi, ruột tôi bỗng thắt lại: - Chuyến này mà nó có làm sao thì chỉ tại mình. Đang tự dưng bày ra cái giai phẩm. Nhưng bên cạnh cái lo sợ đó, riêng tôi vẫn thấy tự hào về « Giai phẩm ». Tuy chưa phải là những sáng tác xuất sắc, nhưng ít ra nó cũng nêu được một vấn đề gì – Có vấn đề xã hội trong thơ Văn Cao, có vấn đề chống công thức trong thơ Lê Đạt. Và tuy tôi không hoàn toàn thích bài thơ « Nhất định thắng » của Trần Dần, tôi cũng đưa in, vì tôi thấy ít ra nó cũng khác với lối làm thơ một chiều. Dù sao thì ít ra cũng có vài ba con cá quẫy mạnh trên mặt ao tù bấy lâu phẳng lặng ...

Nhân văn, ngày 20 tháng 9 năm 1956

Page 54: Tran Dan _ Poem

54

Page 55: Tran Dan _ Poem

55

I.2

chín năm trước...

Page 56: Tran Dan _ Poem

56

Mười chín tuổi, Trần Dần lập nhóm thi sĩ Tượng Trưng cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương. Tạp chí Dạ Đài ra số 1 ngày 16-11-1946, đăng bản tuyên ngôn của nhóm. Số 2 chưa kịp ra mắt thì kháng chiến bùng nổ.

Page 57: Tran Dan _ Poem

57

Dạ Ðài Bản tuyên ngôn tượng trưng Chúng tôi – một đoàn thất thổ – đã đầu thai nhằm lúc sao

mờ.

Cho nên buổi chúng tôi xuất hiện, chúng tôi để cho tàn suy

giấc mơ của những người thuở trước.

Sụp đổ: lâu đài phong nguyệt, và mai một: ý tứ những thi

nhân mò ánh trăng mà thác. Chúng tôi không còn khóc,

không còn muốn khóc – vì người ta đã khóc mãi ái tình, công

danh và thế sự.

Chúng tôi không còn nhìn mây, không còn muốn nhìn mây –

vì người ta đã nhìn mãi mây chiều cùng nắng sớm.

Chúng tôi đã gào thét những đêm thâu, đã rên la những ngày

dài dằng dặc. Chúng tôi đã nhìn lên Tinh Đẩu và đã nhìn

xuống Thế Nhân. Chúng tôi đã về giữa non sâu để trở lại

những bình nguyên hoang lạnh. Chúng tôi đã sống, sống hết

cả những hình thức dương trần, đã đau khổ hết cả những mối

sầu vui nhân loại.

Cho nên lúc chúng tôi nhìn lại tâm tư lại là lúc chúng tôi nhìn

về muôn trùng biển lạ. Từng thớ tim đã kết hình thạch nhũ và

toàn thân đã biến đổi chất mầu.

Đã lâu chúng tôi không còn rung động với trần tâm, đã lâu

chúng tôi chẳng còn biết thương yêu mừng giận.

Vả lại, làm sao người ta cứ lặn lội mãi trong mối thất tình eo

hẹp? Làm sao người ta cứ khóc mãi, than mãi, rung động mãi

theo những con đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ

nhìn mãi vũ trụ ở ba chiều, và thu hẹp tâm tư ở bẩy dây tình

cảm! Chúng ta còn có nghèo nàn thế nữa đâu? Chúng ta đã

mang nặng: những thế hệ tàn vong Ờ những triều đình đổ nát

Page 58: Tran Dan _ Poem

58

-trăm nghìn lớp phế hưng. Chúng ta đã thâm cảm: những trời

sao vằng vặc – những sự vật điêu tàn – sự mòn mỏi của ngày

đêm liên tục. Biết bao chuyện tang điền đã xáo động tấm

hình hài nhân thế! Biết bao nhiêu thế kỷ đã trầm tư! Biết bao

nhiêu núi lở non tàn đã bắt buộc chúng ta phải sầu thương,

chúng ta đã phải trở lại chúng ta mà tư tưởng! Chúng ta suy

nghĩ nhiều rồi, chúng ta đã suy nghĩ quá nhiều rồi ở một Con-

đường-tuyệt-vọng.

Bởi vậy chúng ta chẳng còn là cái chúng ta quá vãng đơn sơ

thuần phác nữa: chúng ta đã góp gom hình ảnh tinh cầu và

lòng chúng ta đã đầy lên châu ngọc.

Thế cho nên chúng tôi -thi sĩ tượng trưng- chúng tôi có nói

cũng chỉ là nói cái tâm trạng của thời nhân, của những thời

nhân đã có ngày cô độc.

Chúng tôi sẽ nối lại: nghiệp dĩ của một Baudelaire – tâm sự

của một Nguyễn Du – sự nổi loạn và ra đi của một Rimbaud –

nỗi cô đơn của những nhà thơ lãng mạn.

Chúng tôi sẽ vén cao bức màn nhân ảnh, viết lên: quỹ đạo

của trăng sao – đường về trên cõi chết. Chúng tôi đã sống,

lấn cả sang bờ bến u huyền, cho nên buổi chúng tôi quay về

thế tục, chúng tôi nhìn hoa lá với những cặp mắt mờ hoen.

Nhỡn tiền bỗng thấy đổi thay tất cả những hình sông vóc núi.

Chúng tôi lạ: lạ từng đám mây bay, từng bóng người qua lại.

Chúng tôi lạ từ sắc nắng bình minh đến mầu chiều vàng vọt.

Chúng tôi lạ, lạ tất cả. Và chúng tôi đã thấy những cái người

ta chẳng thấy. Chúng tôi đã thấy muôn nghìn thực tại ẩn sau

cái thực tại cảm thâu bằng những năng khiếu nông gần.

Chúng tôi đã thấy: thế giới bên kia, những thế giới bên kia lẩn

ngay trong đám bụi dương trần một giây phút có thể bừng lên

như Thực Cảnh.

Vả cái sức rung động của một bài thơ chỉ có thể vào sâu và

lan rộng nếu đã thâu góp được cái sức rung động của vô biên,

nghĩa là của muôn nghìn cõi đất. Chúng ta đã chán ngắt cái

Page 59: Tran Dan _ Poem

59

thi ca nông hẹp, nhai đi nhắc lại những phong cảnh trần gian,

những tâm tình thế tục. Chúng ta đã tự nhiên trở nên khó

tính: chúng ta muốn vào sâu ngoại vật, nội tâm và muốn đi

xa thiên đường, địa ngục. Hãy để cho tiền nhân những cảm

giác đơn nghèo. Để cho bọn đề nho cái công việc ẩn giấu nỗi

lòng nhạt nhẽo của họ trong nỗi lòng chung thiên hạ hay

trong gió nước, cỏ cây. Để cho bọn đàn bà con trẻ cái công

việc than khóc thảm thương trên một kỳ hoa tạ, trên một giấc

mộng dở dang. Để cho những thế hệ đã nằm yên cái tôi nông

cạn ấy.

Chúng ta muốn những cảm giác thâm u mà chúng ta mới chỉ

có những thi sĩ của lòng. Đã đến lúc chúng ta đợi những thi sĩ

của linh hồn, những thi sĩ của cái tôi thầm kín.

Thế cho nên, chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi cố

đánh thức cái thế giới im lìm đương nằm ngủ ở trong lòng

nhân loại. Chúng tôi cố thực hiện một cuộc trở về, chúng tôi

cố trở lại cái chúng tôi với tấm lòng khi đất trời khai lập.

Người ta đã tìm mãi Đạo Lý ở đường lên: ghìm giữ bản năng

kham khổ Ờ nhục hình. Chúng ta sẽ tìm Đạo Lý ở con đường

xuống: thả lỏng thiên năng đam mê và khoái lạc. Những triết

nhân đã chẳng kêu gọi sự quay lại đó ư? Và những phong trào

xã hội? Chúng ta chẳng nhận thấy rằng người ta đương gắng

sức trả lại con người cái trinh bạch đầu tiên, trả lại con người

cỏ cây huyền mặc, sông núi hoang sơ? Chúng ta hãy trở về

cái bản năng mà thế tình che đậy. Hãy mơ những giấc mơ

cầm thú. Hãy gợi lên những cõi sống âm thầm. Hãy đánh thức

hư không, nghĩa là cả tấm lòng xưa man rợ.

Vì thế, thơ cũng phải âm u như cảnh giới của cái tôi thầm

lặng. Không thể rung cảm chúng ta nữa cái văn chương cổ

tích chỉ có một chiều, chỉ nhắc gợi một cõi đất, một tâm tình.

Thơ phải cấu tạo bằng tinh chất của vô biên. Sau cái thế giới

hiện trên hàng chữ, phải ẩn giấu muôn nghìn thế giới, cả thế

giới đương thành và đương hủy.

Page 60: Tran Dan _ Poem

60

Nhưng thi cảm phải gây trong thực tại. Những câu chuyện

hoang đường, hãy dành lại cho những đàn em bé nhỏ. Bọn

lãng mạn, sau khi chùi xong nước mắt lại lảm nhảm nói đến

chuyện những nàng tiên. Chúng ta hãy cứ mặc họ khóc than

trên tính tình của họ.

Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đương kể những câu chuyện

cổ tích cho những người đứng tuổi nghe. Phải gây nên cả hai

không khí hoang đường và hiện thực. Một bài thơ phải chứa

đựng những cái gì đã có, nhưng phải mang ở trạng thái tiềm

tàng những cái gì có thể có và cả những cái gì không có nữa.

Một ánh sao băng: nhưng đấy là muôn nghìn sự vật lìa tan ở

những khu trời xa lạ.

Phải xáo trộn cả thực hư. Đã có: Vạn Lý Trường Thành, A

Phòng Cung, Kim Tự Tháp. Có thể và không có: thuyền bến

Thanh Tuyền, đèn nơi Thiên Cảnh. Hãy nằm dưới một trời sao

mà trông về thế tục. Hãy ca lên trong kẽ núi và hát giữa bình

sa.

Chúng ta cũng không thể tách lập được hẳn thực hư, và chia

đôi địa trấn bằng một bờ sao rõ rệt. Cõi mộng và cõi đời đã

thâm nhập vào nhiều nơi, và ở nhiều nơi đã thấm trộn cùng

nhau trong một cuộc giao hoà bí mật. Có ở cõi đất chúng ta

không: những đường lối cố đô, những vì sao huyền ảo! Nhiệm

vụ thi ca là phải khai thông con đường giao cảm ấy. Một đầu

phố cô đơn, một con đường thăm thẳm: tất cả những phong

cảnh trần gian sẽ phải hư lên vì sự thực.

Làm sao mà giải quyết được sự mâu thuẫn phi thường đó?

Chúng ta chỉ có một con đường đi để thoát khỏi mê đồ. Chúng

ta chỉ có thể dung hợp được thực và hư bằng hình tượng. Phải

lập lại ngôn ngữ trần gian, phải gột bỏ cho mỗi chữ cái tâm

tình dung tục cũ. Một câu thơ sẽ có một ý nghĩa – cái ý nghĩa

rất thường – nhưng sẽ mang nặng biết bao nhiêu ý nghĩa âm

u và khác lạ. Mỗi một thế giới sẽ nằm trong một tầng lớp của

tượng hình: tất cả trần gian sẽ đổi thay trên bề mặt, những

Page 61: Tran Dan _ Poem

61

cảnh giới hoang vu sẽ nằm giấu bên trong. Thực tại và u

huyền đã gặp nhau và chỉ gặp nhau ở thể hình duy nhất đó.

Chúng ta đã cứu vãn được: cõi đất chúng ta, cứu vãn được:

những cõi đất ngoài kia, và cứu vãn được bằng sức gợi cảm

âm thầm hình tượng.

Và những hình tượng còn tạo tác được những âm thanh huyền

diệu nữa. Âm nhạc trong thơ không phải chỉ kết hợp hoàn

toàn bởi những cú điệu số học, những luật lệ trắc bằng. Biết

bao nhiêu câu thơ niêm luật rất chỉnh tề mà vẫn tắt ngấm ở

mang tai sau khi chữ cuối cùng vừa đọc hết. Chỉ một sự nhận

thức đó cũng đủ tỏ chứng rằng âm nhạc của một bài thơ phần

lớn là do ở sức rung động Tâm Lý của bài thơ ấy. Nói đến âm

nhạc trong thơ là phải nói đến sức gợi khêu của chữ. Vì những

hình tượng mang nặng những ý tình nên âm nhạc gây nên

cũng mang đầy âm sắc. Câu thơ đọc xong sẽ còn đi mãi trong

từng ngõ vắng linh hồn và sẽ tắt nghỉ ở tận đáy sâu Tiềm

Thức.

Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ nói

lên và chỉ nói lên bằng hình tượng, thứ ngôn ngữ tân kỳ, ngôn

ngữ của những thế giới yêu ma, của những thế giới thần nhân

mà cũng là của cái thế giới âu sầu đây nữa.

Bằng hình tượng, chúng tôi sẽ kể lại những câu chuyện xưa

người ta kể cho chúng tôi nghe dưới ngọn đèn. Chúng tôi sẽ

tìm hiểu linh hồn của những ca dao, tục ngữ. Chúng tôi sẽ

tượng trưng hoá cái sức rung động của trẻ em trước một

chuyện cổ tích hoang đường và cái sức rung động của gã

nông phu trước những bản đồng dao thuần phác.

Cảm thâu những bài thơ siêu thực, chúng ta không được dùng

lý trí, không được dùng cảm tình, nghĩa là không được chỉ

dùng có một quan năng tách bạch của chúng ta – dù là quan

năng nào đi nữa. Hãy đem tất cả linh hồn, hãy mở tất cả cửa

ngách của tâm tư mà lý hội. Trận gió sẽ lên: tức khắc và đột

nhiên, vì thơ đã không cần lý luận.

Page 62: Tran Dan _ Poem

62

Thói xấu của phần đông những người đọc thơ là tìm nghĩa

trước khi tìm cảm giác. Họ đã tự tay đóng cửa lâu đài; đêm có

xuống họ lại chạnh than và kêu gọi.

Đến cái hình thức cao nhất, thơ không còn lý luận, và cũng

không còn phải tự dinh dưỡng bằng những thi đề rõ rệt. Chỉ

cần có những phút mà Im Lặng rung lên. Vì trong im lặng có

tất cả: những thành quách đang xây, những tinh cầu đang đổ

vỡ. Thơ chỉ cần bắt được cái âm điệu khởi hành của một bài

ca nào huyền mặc. Rồi cứ theo những định luật dan díu dị kỳ,

những hình ảnh sẽ đua nhau đẩy xô trong một bản khiêu vũ

mơ hồ cho hết lúc sẽ cùng nhau tắt thở. Và kẻ tiếp nhận thơ

sực tỉnh, có nhớ lại cũng chỉ còn nhớ là mình đã tỉnh một cơn

mê. Vì hai bến bờ im lặng đã giao nhau và quãng thời gian

xao động không còn di rớt lại một khe hở tâm tư, những giây

phút đã vỡ ra không còn một minh xác.

Chúng tôi đã không cần tới thi đề, vì thi đề của chúng tôi là

tất cả một vũ trụ muôn chiều, và thi liệu của chúng tôi là tất

cả mớ ngôn từ rộng rãi.

Đi giữa bờ bến U Huyền và Hiện Thực, chúng tôi sẽ nói thay

cho tiếng nói những loài ma. Chúng tôi sẽ khóc lên cho những

nỗi oán hờn chưa giải. Chúng tôi sẽ bắt hiện lên những đường

lối u minh. Chúng tôi sẽ kể lại những cuộc viễn du trong

những thế giới âm thầm sự vật.

Có thể đem lại cho chúng ta một chút niềm quên? Vì chúng ta

muốn quên và cần quên để sống. Thi ca thuở trước, thứ thi ca

dựng xây trong cái quan niệm tính cổ truyền đã mất hẳn cái

thế lực đó rồi. Chúng ta chỉ còn thấy nghèo nàn, vụn vặt, đắp

lên trên cái trật tự đơn thuần, cái lý trí. Biết bao nhiêu thế kỷ

người ta đã bắt thi nhân cùng sự vật phải đứng yên ở một

điểm không gian bằng phẳng và trong một giây phút đọng

ngưng. Người ta đã chẳng biết rằng một hình ảnh tĩnh chỉ làm

cho chúng ta nhớ thương và hối tiếc. Một chiếc ảnh của người

con gái khi xưa gợi lại một quãng đời hấp hối. Một người sẽ

Page 63: Tran Dan _ Poem

63

khóc mãi đợi người đi, khóc mãi cái sự chẳng đổi thay của góc

vườn ụ đất. Và ở hình thức cao đẹp nhất của nó, một hình ảnh

im lìm chỉ làm cho chúng ta run sợ và run sợ với một cảm

giác nông nghèo. Chúng ta hoảng hốt giữa non sâu, những

luồng rung động đã hun hút đi qua như đi qua một khe cửa

hổng. Trạng thái còn đây chỉ là một trạng thái phẳng bằng,

một trạng thái vô cùng đơn sơ và nhạt nhẽo.

Vì thế, cái thi ca cổ rích, cái thi ca tĩnh của tiền nhân ngâm

vịnh, của bọn lãng mạn khóc bạn chẳng làm chúng ta quên, vì

chẳng có thể đẩy đưa chúng ta theo những nhịp điệu bồng

bênh của bản thanh âm hoàn vũ.

Thế cho nên chúng tôi – thi sĩ tượng trưng – chúng tôi sẽ đón

về đây tất cả những thế giới quay cuồng, chúng tôi sẽ bắt

một vầng trăng phải lặn, một ánh sao phải mờ đi, một chế độ

phải tàn vong và một bài thơ phải vô cùng linh động.

Chúng ta có thể quên được chăng: cái xã hội âu sầu với một

mớ dây ràng buộc? Chúng ta có thể quên được chăng trong

cái sự nối tiếp u huyền của những thanh âm, mầu sắc?

Hãy đưa chúng ta đi. Đưa chúng ta ngược về dĩ vãng, qua bờ

tương lai, đưa chúng ta đi cho hết cõi dương trần, đi cho hết

những trời xa đất lạ. Để chúng ta sống muôn ngàn cõi sống.

Để chúng ta có hàng triệu năm già và vô vàn ký ức: ký ức của

những dân tộc đã tàn vong, ký ức của những cõi đời xa thẳm,

ký ức của những thế kỷ đã lùi xa. Để cho muôn ngàn ký ức

chất chồng lên ký ức chúng ta, cái ký ức bi thương, cái ký ức

đơn nghèo đã lượm thâu bằng những giác quan trần tục.

1946

Trần Dần Trần Mai Châu Vũ Hoàng Địch

Page 64: Tran Dan _ Poem

64

Page 65: Tran Dan _ Poem

65

I.3

Đây Việt Bắc

1957

Page 66: Tran Dan _ Poem

66

trích

I

Đây ! Việt Bắc ! Sông Lô nước xanh tròng trành mảnh nguyệt ! Bình ca sương xuống lạc con đò ! Đáy dạ thời gian còn đọng những tên Như Nà Phạc Phủ Thông Đèo thùng Khau vác Tôi nhớ đồn Róm khi xưa nơi ta ngă xuống Trời sao ấp ủ ! …

Page 67: Tran Dan _ Poem

67

Đây khe suối cạn nơi bạn ta nằm. Chắc hẳn khu A.T.K beo gầm cỏ rậm Bản xưa chim chóc phục hồi chưa ? Người khách đến ! Thuyền lên bến lạ. Mải vui sương núi trăng ghềnh Tìm đâu dấu vết ngày xưa ? Đâu bom đạn tội tình thuở ấy ?

Rừng chẳng nói lá rơi vàng võ ! Thác bạc phơ đầu mài gọt đá xanh ! Nhưng hãy tin nhiều đêm bên bếp lửa,

Page 68: Tran Dan _ Poem

68

lũ trẻ đầu xanh nghe chuyện người xưa, cũng mê mải như ta nghe cổ tích ! … Ở đây ta đã long đong chín mùa xuân xạm lửa, đạn như ruồi bâu kín gót chân đi ! Ở đây lên Bắc lại về Đông vò võ chân trời khẩu súng. Mỗi đêm từ biệt một quê hương ! Ở đây ta dấy nghiệp nhọc nhằn Hai tay trắng mưu cơ tần tảo mới làm nên đất nước bây giờ. Chính chiếc nôi Việt Bắc bế bồng ta

Page 69: Tran Dan _ Poem

69

qua tất cả tháng năm đầy lửa, nuôi ta nuôi cách mạng lớn khôn. Ta bầu bạn củ khoai môn nương sắn Bạn con chim mất ngủ rừng già. Bạn sông Đà sông Mã chở đầy sao

Bạn hang núi lá vàng rơi khắc khoải. Ở đây muối mặn ta kiêng thương xót đời con khát nước Tương lai ta thắt bụng vì mày ! Ta đã nhịn như người lính nhịn. Nhịn mùa xuân lại đến nhịn mùa đông Nhịn điếu thuốc nhịn từng vuông vải

Page 70: Tran Dan _ Poem

70

Nhịn no nhịn ấm nhịn tình yêu ! Ở đây mây sớm quẩn sương chiều. Đầu bản hùm kêu khản giọng Đạn bom chầu chực bốn bên nhà. Ta sống giữa bản hùng ca nguy hiểm. Ở đây manh áo vải chung nhau. Giấc ngủ cùng chung chiếu đất Hành quân chung khói bụi đường trường Con muỗi độc chung nhau cơn sốt. Chiến trường chung dầu dãi đạn bom. Tới khi ngã lại chung nhau đất mẹ.

Page 71: Tran Dan _ Poem

71

Hãy chia xẻ cho nhau gió bấc ! Chia mưa phùn nước lũ cơm thiu. Để đến lúc mắc trùng vây địch, lại chia nhau những thỏi đạn cuối cùng.

Ở đây ta mắc nợ núi rừng, một món nợ khó bề trang trải. Việt Bắc cho ta vay địa thế ! Vay từ bó củi nắm tên. Vay từ những hang sâu núi hiểm. Cả trám bùi măng đắng đã nuôi ta. Ta mắc nợ những rừng xim bát ngát. Nợ bản mường heo hút chiều sương.

Page 72: Tran Dan _ Poem

72

Nợ củ khoai môn nợ chim muông nương rẫy. Nợ tre vầu bưng bít rừng sâu. Nợ con suối dù trong dù đục, Nợ những người đã ngã không tên ! Ôi thế kỷ muôn quên ngàn nhớ ! Nợ này đâu dễ trả mà quên ! Đi ! Tất cả ! Dù quen tay vỗ nợ cũng chớ bao giờ vỗ nợ nhân dân !

Page 73: Tran Dan _ Poem

73

IV

Tôi mất quê hương từ khi mới đẻ. Mất nước đỏ phù sa sông Hồng Mất vịnh Hạ Long Mất Huế con sông Hương tình tự Mất cửa biển Hải phòng Mất mũi Cà Mau ! Tôi mất những mùa thu không én liệng. Mất mùa xuân nhạt nhẽo cành đào. Ngày đã mất những mặt trời không ấm nữa. Đêm lại còn mất nốt chiêm bao. Tôi đói tự do như những bến tàu,

Page 74: Tran Dan _ Poem

74

đói hàng hoá đói thuyền khơi đói biển. Có đến vạn ngày dạ dày khổng lồ tôi chưa được bữa nào no ! Tôi đã đói những chân trời nắng sưởi. Đói những mái nhà có đôi chút tình thương. Đói những hòn đảo lắm nàng tiên nằm trong hoa dại. Đói những chuyến tàu đi thám hiểm trời xa. Tôi đói – mọi cái gì tôi chửa biết, mọi khát khao hy vọng loài người Có thể lắm ! Tôi xếp hàng bên cạnh, những ai khốn khổ nhất địa cầu ta

Page 75: Tran Dan _ Poem

75

Cũng không sao ! Tôi đã dự trữ tình yêu như con lạc đà dự trữ nước, bò qua sa mạc tháng ngày, đi tìm những quê hương nhiều bóng mát.

Chính Việt bắc là nơi hò hẹn, những người đói khát - như tôi ! Đi ! Đi ! Dù sức lực kiệt mòn Tay hấp hối vẫn giơ về phía trước ! Đi ! như đạn như tên như đi vì hạnh phúc Đi ! như đi tìm vợ tìm chồng ! Ta đã uống no nê nước nghìn con suối bạc !

Page 76: Tran Dan _ Poem

76

Chém ngã vạn tre vầu ! ăn vãn vạn rừng măng ! Ôi ! những ngày trước mặt bom rình sau lưng đạn núp.

Chân ta bước chen nhau vào lửa, đòi mọi cái gì thiếu thốn nhất đời ta, như cơm áo với tình thương như quê hương và bè bạn. . . . .

Page 77: Tran Dan _ Poem

77

X

Tết ! - Ồ thế, thêm một tết ! Tôi quẳng nó vu vơ vào một xó lòng, nơi đó là kho đồng nát một đống Tết xa nhà đã rỉ han lên... Chao ôi ! chuỗi ngày đêm thắt nút tất niên, đau như một nút thừng thắt cổ ! Vì đâu ? Con tàu cuộc sống bỏ neo lên bến nghỉ hàng năm ? Có lẽ cuộc đời thấm mỏi !

Page 78: Tran Dan _ Poem

78

Phải sửa sang cái vỏ con tàu, đây đó ít nhiều hoen rỉ ? Đêm nay - cái tối tối ba mươi Các vì sao đi họp cuối năm để phố rỗng trên trời tắt điện. Bên bếp lửa rét rình cơ hội, lẻn vào trong ăn trộm hơi người. Chúng tôi ngồi Đống lửa ngồi bên. Vò rượu mẻ rót tràn sang bát vại Mâm cỗ linh đình. Chỉ thiếu ít khói nhang ? Lại quên khấn người xưa cùng bác mẹ ? ...

Page 79: Tran Dan _ Poem

79

Người ta đốt tràng pháo cười vô tận. Nhưng rồi tiếng cười gục xuống quanh mâm. Rồi kỉ-niệm-mưa-dầm lên tiếng gọi. Rượu đã đau môi ! Men vào đắng phổi ! Tiệc tàn xuân vẫn chửa sang cho ... Ngoài kia - năm cũ sắp đi tung cái lạnh phá rừng phá bản. Tưởng như quá khứ hết nhiệm kỳ còn phá tán trước giờ suy sụp hẳn. Tôi chạy trốn cảnh tan hoang bàn tiệc. Ngồi uống trà khan bên cửa sổ mở toang.

Page 80: Tran Dan _ Poem

80

Lá rơi như tiếng nấc thời gian, nấc ở biên - thùy - năm - cũ. Cái rét làm đông miếng tiết bầu trời ! Còn tội gì đau hơn là tội nhớ thương ?

Hay là ngủ như người lính trận, quật ngã tình riêng như quật ngã kẻ thù ? Nhưng chính đôi-môi những-viên-đạn-dạn-dày đêm trừ tịch càng kêu càng đắng ! Hay là khóc như người con gái hãy còn khóc được mỗi khi đau ?

Page 81: Tran Dan _ Poem

81

Nhưng ta không quen châm chích nhọt tim buồn cho nó chảy muôn dòng lệ đỏ ! Nước mắt có bao giờ khuây khỏa được người ta ? ... Hay là rên rỉ giống heo may ?

Nhưng gió ấy đã đôi phen nức nở làm đau thêm trái đất khổ đau này ! Hay là giang tay bóp cổ mọi lời than như một kẻ sát-nhân-tình-cảm ? Nhưng bàn tay không chịu rắn đanh !

Page 82: Tran Dan _ Poem

82

Quả đấm chối từ không đấm ngực ! Người ta chẳng thể lấy kìm kìm kẹp nát buồn thương ... Hay là đi giải trí ? Đánh lừa tim vài điệu múa dăm bản đàn nhộn nhịp ? Nhưng chính ta là người đi giải trí người ta. Cây đàn đó thường khi thôi thúc nhạc, bỗng dưng nay treo cổ cuối gian nhà ! Tôi vốn chuyên nghề cung cấp mọi niềm vui

Page 83: Tran Dan _ Poem

83

Mà chẳng thể ba lơn cùng kỉ niệm ... Tôi ngồi hóa đá giữa giao thừa

một pho tượng đục bằng đau khổ Không ! Hãy đi đi ! Dù đi buồn đứt ruột Con tim dù hoen ố nhớ thương ! Đi ! Dù biết khổ đau còn là luật của trái đất này khi nó chuyển mình đi ! Hãy thù ghét mọi ao tù nơi thân ta rữa mục, mọi thói quen nếp nghĩ - mù lòa ! Hãy sống như những con tàu phải lòng muôn hải lý, mỗi ngày bỏ sau lưng nghìn hải - cảng - mưa - buồn !

Page 84: Tran Dan _ Poem

84

Một chút về Trần Dần Trích hồi kí biên tập Vân Long Đầu giai đoạn đổi mới văn học, tôi chuyển từ báo Độc Lập sang làm biên tập thơ cho nhà xuất bản Hội Nhà văn. Công việc mới buộc tôi phải đối mặt với những việc công luận đang chú ý đến. Thí dụ : xuất bản những ấn phẩm của những tác giả lâu nay bị « treo bút ». Ngoài việc chính ở Nhà xuất bản, tôi còn làm cộng tác viên biên tập cho tạp chí Tác phẩm mới. Việc đầu tiên đánh dấu sự trả lại quyền công bố tác phẩm cho các tác giả Nhân văn-Giai phẩm là hãy in vài bài thơ trên tờ tạp chí của Hội Nhà văn. Tôi được cử đến lấy bài của các nhà thơ Trần Dần, Hoàng Cầm về in. Tôi đến nhà ông Trần Dần ở ngay cái phố nhỏ gần nhà xuất bản. Ông ngồi trong một góc nhà thiếu ánh sáng. Ấn tượng của tối hôm ấy là có cái gì khá đồng dạng, hài hòa giữa tâm trạng, tính khí ông và thơ ông với góc nhà này . Gương mặt râu ria, không cởi mở… Trước khi đưa thơ cho tôi đọc bằng mắt, ông có đọc vài câu thơ xen trong câu chuyện, có hai câu làm tôi giật mình : Có những chân trời không có người bay Lại có những người bay không có chân trời.

Page 85: Tran Dan _ Poem

85

Trời ơi ! Mấy chục năm nằm trong bóng tối mà ông viết toàn những câu như vậy thì « ghê gớm » thực ! Nhưng khi đọc bằng mắt cả loạt bài thì không như vậy. Nhiều bài diễn đạt hơi rối, khúc mắc. Cuối cùng bài đưa in dễ nhất lại là một chương trích trong trường ca Việt Bắc viết năm 1957. Hồi này giọng thơ của ông rất sảng khoái, sung sức, có những liên tưởng, so sánh thật mới mẻ :

Một đống Tết xa nhà đã rỉ han lên

… Hãy sống như những con tầu phải lòng muôn hải lý Mỗi ngày bỏ sau lưng nghìn hải-cảng-mưa-buồn

Cùng với Cổng tỉnh (thơ-tiểu thuyết) in sau đó, cũng viết năm 1959 (được tặng thưởng Hội nhà văn 1995), tôi cảm thấy ông và nhà thơ Hữu Loan giống nhau ở chỗ : giai đoạn sáng tạo sung sức nhất của hai ông là giai đoạn 15 năm sau cách mạng Tháng Tám. Có phải sự thiếu giao lưu bình thường sau nàyđã làm rối mạch tư duy sáng tạo của hai ông. Vào cuối năm 1989, bước vào giai đoạn tác giả có thể bỏ tiền tư in với sự đồng ý cấp giấy phép của Nhà xuất bản, thì gia đình nhà thơ Trần Dần mang tập trường ca Bài ca Việt Bắc tới nhà xuất bản Hội Nhà văn. Là người biên tập thơ, tôi phải đọc lần đầu để có ý kiến với tác giả và tổng biên tập. Bài ca Việt Bắc lúc đó gồm 13 chương. Tôi đọc kỹ : hơi thơ và các câu thơ đều nhất khí một mạch viết khỏe khoắn, mới mẻ. Về hình thức leo thang, người ta có thể liên hệ đến thơ Maiakovxki, nhưng

Page 86: Tran Dan _ Poem

86

về ý tưởng sáng tạo trong câu chữ thì chỉ Trần Dần mới viết được như vậy. Nhà thơ mở đầu chương I với những câu trữ tình, gợi kỉ niệm về mảnh đất lịch sử :

Đây Việt Bắc Sông Lô nước xanh tròng trành mảnh nguyệt

và người lính coi khinh cái chết :

Ở đây Ta đã long đong Chín mùa xuân xạm lửa đạn như ruồi bâu kín gót chân đi

Ông có những cách nói rất mới :

Việt Bắc cho ta vay địa thế Vay từ bó củi nắm tên

Để dẫn đến : có vay thì có trả :

Dù quen tay vỗ nợ Cũng chớ bao giờ vỗ nợ nhân dân !

Những hình tượng cụ thể giàu phát hiện :

Page 87: Tran Dan _ Poem

87

Quả đất lớn

mà tâm địa nhỏ Nó chi li từng hạnh phúc đơn sơ

Những ý tưởng mãnh liệt khái quát được nhiều hoàn cảnh :

Những ngày chân trời thấp làm cánh chim hèn hạ

Đọc thơ Trần Dần, thấy được sự ngang tàng trong suy nghĩ của ông :

Chẳng cách nào dạy ông trời cao tít mù kia sự lao động đắng cay trên mặt đất

Con người ngang tàng ấy trước thiếu thốn vài trung đoàn, vài tháng không cơm ở Việt Bắc, đã trở thành :

Tôi đã biến thành cái que gầy khẳng giữa bao nhiêu que củi bạn bè tôi

Ông đã trải qua nhiều nỗi đau nhưng là người có xu hướng cấp tiến, ông có nỗi đau còn lớn hơn là thấy những sức ì, gây cản trở :

Chẳng có gì đau hơn là cái sự ì !

Page 88: Tran Dan _ Poem

88

Tâm đắc với những câu thơ như thế, tôi nóng muốn tạo điều kiện cho ra mắt bạn đọc được sớm (mà sớm gì nữa sau hơn ba thập kỉ nằm trong bóng tối). Nhưng đọc đến chương 12, tôi bỗng giật mình : Đó là toàn bộ bài thơ Nhất định thắng*… Trong xu thế đổi mới, thời hạn « treo bút » với một số tác giả đã được chấm dứt, nhưng đã co văn bản nào đánh giá sự đúng, sai thời gian ấy ! Tác phẩm của anh đầu tiên được in ra, lại công bố đúng tác phẩm đã bị phê phán kịch liệt một thời, ai dám duyệt ! Sau thời gian bị ghét bỏ, cô con dâu hôm đầu tiên trở lại nhà chồng, đã thay cho tiếng chào bằng câu « Mẹ mắng con là mẹ sai ! » : chương Nhất định thắng in xen vào trường ca sẽ có cái gì tương tự như vậy. Nếu tôi cứ tắc trách đưa duyệt, tập trường ca này không ra mắt được thì chỉ thiệt thòi cho tác giả và cho độc giả, cho nền văn học kháng chiến. Tiếc một cây, có thể bỏ phí một cánh rừng ! Anh Trần Dần vốn là một người ít giao tiếp, không cần hiểu cặn kẽ những sắc thái tinh tế về những việc đã qua, mình phải để anh thấy rõ… Nghĩ vậy tôi bèn gặp nhà thơ Trần Dần, phân tích rõ, và nói thêm : « Nếu anh không đồng ý, ngày mai tôi cứ đưa duyệt nguyên vẹn, chờ ý kiến tổng biên tập ! ». Sắc mặt Trần Dần tối lại, ông hẹn ngày mai trả lời. Hôm sau, chống ba toong lên gác Nhà xuất bản, ông nói với tôi : « Thôi được ! Anh sát tình hình hơn tôi, anh cứ bỏ chương đó ra ! ». Tôi biết ông không vui, nhưng không biết ông có hiểu sự chân thành của tôi, chỉ vì sự ra đời thuận lợi của tác phẩm, sự « tái xuất giang hồ » của ông với bạn đọc. Việc này tôi cũng trình bày với tổng biên tập lúc đó là anh Vũ Tú Nam. Anh cho cách xử lý của tôi là thỏa đáng.

* chương bị cắt bỏ là chương 13. Kết thúc Bài thơ Việt Bắc không phải là Nhất định thắng, mà là Hãy đi mãi.

Page 89: Tran Dan _ Poem

89

Trường ca Bài ca Việt Bắc được in ra ( nghe nói anh Dương Tường bỏ tiền ra in) với số chương được đánh số thứ tự lại, còn 12 chương. Cuốn thơ tác giả đem tặng tôi có những dòng thế này :

« Gửi Vân Long người biên tập lại « Đi ! Đây Việt Bắc ! thông minh và công phu ! song tôi vẫn phản

đối mọi kiểm duyệt ? Tôi đòi sự công bằng trong sang của texte intégral. Trần Dần ».

(texte intégral : nguyên bản toàn vẹn. Ở đây tác giả vẫn gọi trường ca theo tên cũ Đi! Đây Việt Bắc). Đọc những dòng đó tôi đâm ra suy nghĩ : vậy là cụ vẫn còn hận mình ? Mình là quân tốt đen xưa nay, vô hình chung bị mang tiếng là người kiểm duyệt ? Dù được khen là người biên tập thông minh công phu, nhưng sao dấu chấm than lại đậm như dấu hỏi bị chữa lại ? Cụ khen mỉa chăng ? Tôi liền chạy sang nhà tác giả hỏi lại ông. Nhà thơ chậm rãi : « Lúc đầu, tôi có bực mình thật. Nhưng sau thì thấy anh đúng, chân tình với tôi ! Mấy câu ấy là tôi khen thật ! Còn người viết bao giờ chẳng muốn texte intégral ! » Nghe câu nói đó, tôi mới thực yên lòng ! Về phía ông, sau khi Cổng tỉnh được tặng thưởng, hẳn đã thấy thêm về sự công bằng đang được lập lại.

Trích Văn Nghệ ngày 25.1.1997, Hà Nội.

Page 90: Tran Dan _ Poem

90

Đừng để chân trời gọi mãi ! Đừng để khói sương mời mọc đến hai lần ! 1957

Page 91: Tran Dan _ Poem

91

I.4

Cổng tỉnh

1960

Page 92: Tran Dan _ Poem

92

thơ - tiểu thuyết dạ khúc trường thiên (trích)

KHAI TÙ !

Kỷ niệm! Đưa tôi về chốn cũ!

Đừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!

Đừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương!

Tôi đã sống đã lỡ lầm chẳng nhỏ

Trong đời tôi đã có thơ ngây

Tôi đã có đôi ngày nhỏ dại

Hãy châm man mác các dặng đèn từ kí ức vùi sâu!

Đây có phải bụi Cửa Trường?

Một cuống nhau chôn trạnh lòng phố mẹ! ...

Đây có phải đường Hàng Song xanh lấm tấm sao chiều?

Một chút sương lên ... lên vừa đủ lạnh

Thôi thế là đành: tôi chẳng có ai yêu!

16 tuổi !!!

Đây là đêm

Ngoài cổng đề lao tim ... sao mọc hững hờ ...

Đây là ngày

Thời gian lặp đi lặp lại những chiều vàng vọt như nhau

Page 93: Tran Dan _ Poem

93

17 !

Tôi nổi máu điên

Tôi chồm về ngã Bẩy

Tôi đứng lầm lầm như một cái chòi đêm

18 !

Tôi cắn chết nhiều ngày mưa

Tôi đứng xù xụ bến tàu bùn

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ

Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè.

19 !

Khổ to rồi! Không có công ăn việc làm trên trái đất

Tôi nhảy chồm mỗi lúc gió lên

Mau mau! Lấy tình yêu xích tên rồ kia lại!

Kẻo nó nhẩy từ gác mười tầng

Vồ một phố đèn lên

Dĩ vãng! Ối ôi! Sống!

Cái nghề này ai ai cũng thạo

Chỉ mỗi mình tôi không thạo mà thôi!

Tôi đã bơ vơ

Bơ vơ phải đâu là tội nhỏ

Ai?

Ai kẻ vá may khi đứt chỉ đường tà?

Những ngày trở trời - ai cháo lão cho tôi?

Thế là xách va li tim đi thui thủi địa cầu

Các bạn ạ!

Tôi đã không thể thoát bơ vơ nếu không nhờ các bạn ...

Nếu không Thi-mệnh bọc đùm ...

Ôi! phố mẹ! Để tôi về phố mẹ

Tôi về tảo mộ xó quê tôi ...

Tôi tảo mộ từ một dứt ruột đã qua

Page 94: Tran Dan _ Poem

94

Từ một dại khờ chưa hết dại ...

Phải!

Tôi kiểm thảo bản thân cùng một thời đại buồn rầu

Đêm xuống ướt mui rồi

Sông khuya tì tũm vỗ

Đi thôi! kỷ niệm!

Có lẽ xa kia là phố tôi sinh

Có sương sớm đọng trên đèn muộn

Tù và thơ ơi!

Dạ khúc khởi đầu.

BẠN CŨ

Tôi biết ra nước đã mất rồi

Tôi thì ở đầu ô bằng thẳng

Tuổi thơ ấu đã qua như một người không để giấy lại.

Bạn cũ? … Một mùa lá vàng theo gió tung hê! …

Thế giới xám bổ dụng thanh niên:

không đầu đường cũng xó chợ

Đêm xuống hãy mủi lòng cứu tế họ ít vì sao

Một bạn đi ra … từ dạ lữ viện quán chợ

Một bạn đi vào cổng gỗ mộ phu xa

Ai nữa? Lê đi ngửa lòng tay vòm trời xanh đậm!

Hay tìm một phố hẻm

Leo ngang cột đèn đánh đu ngõ tới khi …

Đâm bổ xuống đề lao đêm đá lạnh!

Thương ơi! Trong trắng thuở ngày xưa

Page 95: Tran Dan _ Poem

95

Thả chiếc thuyền con theo dòng cống chảy

Tôi còn một mình kháng cự với mông mênh

Tôi đứng thẳng trụ người đêm ngã bẩy

Lại về buồng gục đầu thương lượng với cô đơn!

Tôi còn trẻ! Cho tôi một ngõ gió

Cho tôi ngõ hoa thiêm thiếp đèn chiều

Hay bất cứ ngõ nào làm đôi lứa cho tim

cứ lấy! Muốn lấy gì ở tôi tha hồ cho lấy hết

Tôi chỉ cần một chút tình thương

một chút mà thôi

Hay na ná chút tình thương cũng được.

GÁI TRAI THÀNH QUÁCH BÀN CỜ (tiếp)

Phố nịt vú - phố rơi voan

Phố nào thơm dạ hợp

Phố nào nưn nứt nụ dò lan?

Phố ngách xiên vào phố đông

Chơm chớp đèn mi lam … tơ bòng mớ phố.

Biết đâu phố nào đục

Thành quách bàn cờ đâu biết phố nào trong?

VĂN SĨ HOÀI (kịch 3 màn) Màn 1

Đâu thuốc trường sinh hỡi khoa học già lão?

Thôi để ta tìm bất tử ở văn chương

Page 96: Tran Dan _ Poem

96

Đánh vợ … bán đoạn 5 sào ruộng tổ

Hoài đi.

Màn 2

Tu viện lầu xanh tròng trành lá đổ

Thánh đường tiệm hút xạc xào sương

Tết tết tết ư ? Sao lại tết ?

Một kinh thành xác pháo đỏ

Một tấm thân đau – gió thổi ngõ Bò

Màn 3

Đêm cuối năm nhà xác

Người bác sĩ già cúi mổ một thây ma

Đừng mổ! Hoài công!

Đâu phải vi trùng giang mai đục sọ?

Tốt nhất hãy ra an ủi

Khăn nhiễu tím - cổng nhà thương

Người thiếu phụ, vợ Hoài.

BƠ VƠ

Phố cụt đâm vào phố cụt

Tôi đâm ngang phố Hàng Đồng đâm bổ xuống Bờ sông

Ở đâu? Ở đâu có ngụm đèn xanh

Rèm che nhoè cửa sổ?

Ở đâu còn một phố thề son sót lá đưa thư?

Gió may ơi đừng nổi lạnh!

Để tôi phải chạy phố đèn vàng

Page 97: Tran Dan _ Poem

97

Chạy dọc phố đèn nâu

Mưa bụi! Đừng rơi!

Tôi thò cổ ngã tư khuya

Hàng đèn cà thâm thâm quầng phố vắng

Bế mạc chợ phiên rồi - cổng gỗ khoá từ lâu

Thì đi thôi! Có phố nào xanh

Hoa lay hàng dậu tím?

Có phố nào chờ tha thiết nữa tự ngày xưa?

Để tôi khỏi phải bơ vơ

Bơ vơ?

Tôi?

Một người có triệu người thân dọc quanh nghìn bờ biển

Tôi có họ hàng nghìn bộ lạc châu Phi

Tôi có đủ tình yêu

Nghìn lẻ một đêm yêu chưa thoả sức

Tôi có thừa đắng cay

Nào đã kịp đắng cay đâu?

Sao đã cho tôi những phố xào xạc?

Sao đã ghi tôi vào mép sổ buồn rầu?

Tôi biết gọi về đâu?

Ai?

Ai có đôi lời an ủi ?

Ai kẻ vỗ về trái đất bồ côi ?

Để tôi đó ? –Tôi cô đơn

Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tía

Cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô

Cô đơn lang thang trong các đám đông

Trên quảng trường nham nhở gió

Cô đơn lòng ngõ ngõ rỗng trăng chênh

Cô đơn sân ga tàu chạy tốc hành

Không đỗ lại các cuộc đời xé lẻ

Cô đơn trống đổ trường chiều

Ùa ra khỏi xà lim lớp học

Page 98: Tran Dan _ Poem

98

Cô đơn pháo đánh tróng lấp. Để mùa xuân

Đổi tích hát ê a đào kép cũ.

Cô đơn đoàn thợ mỏi còi tầm

Lê guốc gỗ cống xăng – tan nhà máy

Cô đơn khi bị xúc phạm

Người đổ xiêu một cuộc động đất tâm hồn …

Cô đơn những cơn mơ ước chết non

Nằm hiu hắt bụng quan tài sọ …

Cô đơn sực nghe canh ba tuyết đổ phũ phàng

Dù chỉ một mái nhà không củi lửa

Dù chỉ một ngã ba đen chết cóng hàng đèn

Cô đơn lá thư xanh xao

Chữ yêu đầu … tím run run mực đọng

Cô đơn phố bão tốc đầu bù

Ta cúi xuống đôi môi toác nẻ

Hôn mút lưỡi một hộp đêm nheo nhớt trần truồng

Ôi cô đơn! Ôi cô đơn! Hãy lấy đêm nay làm tận thế!

Hãy quàn xác lá khô lòng thẳm quan tài!

Gió lốc! đừng lên vỉa hè đêm

Nhà nhà then lim khoá xích

Chao ôi tôi! Một kẻ vóc sắt mình đồng

Tôi chẳng có ai yêu!

Để tôi cứ phải ném đá hộc thia lia sông

Tôi phải một mình ghé vai kênh chân thành đổ

Thôi thôi! Không cuộc tôm-bô-la vui nào mở đúng tên tôi

Đi đi thôi ! Hãy đến bến tàu đen

Dìm đầu lui cơn trán sốt

Tôi ơi! Tôi ơi!

Rồi hãy đứng phỗng ngã tư buồn

Man mát ruột đớp đèn sương ...

Page 99: Tran Dan _ Poem

99

CỔNG TỈNH

Cổng tỉnh người đi

Đường sành tong tong cống chảy

Mưa thu mái phố đổ chàm

Gió thổi hu hu quảng trường nheo nhóc lá

Để quanh quất ngõ ốm nằm rên

Bên vô tự ngõ già

CỔNG TỈNH (tiếp)

Cổng tỉnh! Người đi nhoà Cổng tỉnh!

Lá rắc vàng hồ

Phố héo người đi

Là mùa đi!

Người đi manh chiếu rách

Người đi tay áo quệt đôi mày

Năm tàn rồi … Ai?

Ai bắt người đi nhoà Cổng tỉnh

Ai?

Ai treo cổ rặng đèn trên dãy phố bồ côi?

Page 100: Tran Dan _ Poem

100

CẦU NGUYỆN

Ai lên cổng đồn?

Hãy nhắn cơn giông đừng chớp giật !

Ai về xuôi dãy nhà quan?

Hãy bảo chòi canh đừng gióng trống

Ai qua cổng chợ?

Hãy nhủ heo may về

Đừng quét phố để đau cây!

NAM ĐỊNH 5

Vũ trụ! Một người khiêng chẳng nổi!

Gối đơn lệ chảy ai chùi?

Ngõ lá tơ bòng ai gỡ mối cho ra?

Vũ trụ! Một người khiêng chẳng nổi

Ai bải chân chèo bắt xuể dòng sông?

Kẻ mắt trợn chân mây

Ai người vuốt mí

Ruột xổ năm tàn ai nhể hộ nỗi đau xưa?

Page 101: Tran Dan _ Poem

101

MƯỜI BẢY TUỔI

Tôi càng lớn càng sài đẹn

Đầu ô càng tía ánh đèn khuya

Tôi càng đứng bơ vơ đầu Cổng tỉnh

Tôi lang thang trong các tối xô bồ

Lồng lộn dưới vòm sao nhớn nhác

Đêm … tôi bò về từ vực thẳm đường ga

Tôi đóng cọc trên hè ngã Bảy

Bóng đổ … một cái đầu to lăn lóc quảng trường.

Xù xụ giữa mênh mông nhiều gió thổi

Bóng hỡi! Đầu ơi!

Tôi một tên nô lệ vàng

Tôi lớn ở một đầu ô tím …

Tôi vẫn rong chơi bên mấy cột đèn mù

Vỡ! Vỡ châu Á! Vỡ châu Âu!

Vỡ tuổi ấu thơ ! Vỡ tất cả !

Tôi biết hợp về đâu ? Tan tác hết !

Để bây giờ tôi phải kháng cự với mông mênh.

Tôi phải đứng lù lì ba ngả gió

Đêm … hai tay màu xám đỡ không thung

10 giờ! 11! Đêm sập xuống

Đêm nay cũng bốn tấn giống đêm qua

Giống đêm trước! Chỉ chênh nhau vài lạng …

Sập! Sập! Tôi cuộn thừng từ cổ tới hai tay

Hất mạnh! Đêm rơi sầm phố lạnh

Tôi bò về qua bốn phố tha ma

Nhà ba cổng tôi lắc chuông vào cổng nhỏ

Ngõ cháy cầu chì

Hành lang tai nạn điện

Tôi loạng choạng về buồng qua một cái sân thơm

Page 102: Tran Dan _ Poem

102

Một tảng đá tôi ngồi

Bốn mặt tường vàng - bốn mặt

Đồng hồ 12 giờ sắp rưỡi

Làm gì? Thình lình mở tập Bôđơle

Chữ nhảy như trong nhà điên - vứt sách!

Mọi thượng đế thơ đều vô vị lúc này.

Cái sọ còn chứa gì? Sọ gỗ mà thôi!

Nguệch một nét chì công – tô đen sa mạc tờ giấy

Bỗng hiện trong tôi một tốp lữ hành

Tôi vẽ một cái gì như ốc đảo về đêm

Một nét đậm: một người Ả Rập?

Có lẽ tôi chăng?

Vục đầu xuống vục đầu trên bãi cát bỏng

Tôi bú vì sao run đầm nước bồng bềnh

Bú mãi tới khi đầm nước cạn

Nhưng có gì giải khát nổi tôi không?

Vứt bút! Sầm sầm đứng dậy

Tôi lại rơi trên ghế ngoẹo đầu …

Tích tắc … Đồng hồ đấm tôi những tích tắc đấm lòi tim.

Tôi vòng lên lộn xuống trong buồng

Có chuyện gì đã xảy ra đây?

17 tuổi!

Đèn điện giữa nhà mưa tuyết trắng

Tôi một mình trên một cõi toàn băng

1 giờ … từ xa tiếng thét một đoàn tàu

Thét như bị mênh mông chọc tiết.

Tôi chồm lên trong ngục thất căn buồng

Một cái đầu trên tường … tôi vội quay đi

Lộn lại vẫn cái đầu kinh khủng

Một cái bồ có tai

Lúc nãy mày rơi không ai nhặt quảng trường.

Bây giờ muốn gì tôi? Đầu hỡi?

Page 103: Tran Dan _ Poem

103

Đầu ơi! Có gì an ủi được hơn thơ?

Có mộng tưởng? Cho tôi một ngụm?

“Thôi anh ốm rồi! Ốm thật! Ốm to!”

“Đêm nào cũng lên cơn rồ dại!”

Bóng ơi! Tôi rồ dại thực ư?

Tôi mà ốm? Không, mạch đều như ngựa chạy.

Tôi cũng chẳng rồ hơn mọi nhà thông thái thời nay!

Với sức tôi … tôi có thể sống gấp mười người

Tôi có thể … nhưng thôi! Cần kíp nhất!

Hãy chỉ cho tôi chỗ nào

Tôi đỏ bớt được tôi đi.

Hai tiếng boong boong đồng hồ sốt ruột

Nện hai vồ đúng chỏm đầu tôi

Tôi gục giữa đêm đen gà chửa gáy …

BÓNG (tiếp)

Nếu quả thực anh không lường đảo

Hãy trữ đủ đau thương

Cho mãn hạn làm người!

Tôi trả giá rượu bồ đào

Người ta đưa thuốc độc

Tôi đã uống từng chum từng ché từng vò

Những man rợ … tà dâm … thù hằn … lăm le … đồi truỵ …

Châu Á hỡi! Tôi đi đây!

Tôi không cắn ai cả!

Tôi sẽ trở về cũng hồn hậu giống khi đi

Page 104: Tran Dan _ Poem

104

Dù con mắt trắng dã

Dì da thịt đồng hun

Dù sấm sét đen thui cồng kềnh túi lụa

Hung dữ! Tôi vẫn không cắn ai cả

Ối thôi! Tôi chỉ phá cũi địa cầu

Vĩnh biệt tất cả - Tôi đi

VẮNG

Phố nhà mồ thông sang phố nhà mồ

Ai lên phố Hàng Kênh?

Đừng bước trông trênh đôi hè phố đóng

Ai về ngõ chỉ?

Đừng uổng công tìm ngõ cũ cổng cài thêm

Ai đứng bến đò Quan hò đò trưa bến vắng?

- Đừng hò! Đừng hò!

Không biết lệnh cấm đò?

Còn rát cổ gọi sang sông?

TRƯỜNG CON GÁI

Khách qua đường đừng nhìn giậu tím!

Ngực búp, đùi tơ lưng mía đường chèo

Gió thơm đưa tà lụa

Đâu? Đâu? Vẫn đó hàng bàng tán lá xanh quả đỏ …

Một lũ quỉ vàng hái quả leo cây.

Page 105: Tran Dan _ Poem

105

ĐÂU SAO TRẮNG QUÊ XƯA?

Đã rách yếm rồi làng Bạch

Thắt lưng mỡ gà xé áo đùm con

Bộ áo khi đi không còn mảnh vụn

Đâu? Sao trắng quê xưa?

Đâu? Đêm hội chèo mắt nam chìm mắt nữ ...

Đâu? Đom đóm đêm hè nhu nhú ngực đầm sen

Đâu, đâu? Sao đã oái oăm cho tôi đôi ngày thơ ấu ấy?

Sao đã cho tôi trong trắng làm gì?

Để trong trắng lại qua đi?

ĐƯỜNG CÙNG

Tôi vẫn thế! Vết nhăn bổ dọc trán

Chìm một đêm đâm ướt mượt môi đèn

Khô nỏ một chiều cong lá đỏ con tim

Tôi lên cơn! Mây bỏ phố Hàng Song

Nơi đây tôi để một vết chân buồn chưa đóng vẩy

Tôi chạy thẳng tới bến tàu

Đôi mắt cộc vào đêm

Tôi có gì đau?

Đau có vì gì?

Ai bảo tôi cách nào tôi thoát khỏi chấn song tôi?

Tôi bị tiếng cơ – leng – keng phố sớm

Tiếng cơ – lao – xao xào xạc đường chiều

Tôi bị tim đánh như chuông nhà thờ

Page 106: Tran Dan _ Poem

106

Độ hồn đàn sếu di cư

Ngang trời kêu đổ xuống

Tôi bị giọt mưa đêm lách chách thềm tim

Đồng hồ cổ kề cà cưa tích tắc

Gió thổi tù và ruột phố tàn thu …

Tôi bị đạn thủng đùi tượng Ba lê

Đoàn nhạc sĩ già đêm chiến tranh

Phùm phum tiệm đãng – xinh kinh thành đá cổ.

Một sư đoàn nhe răng cắn một viện bảo tàng.

Máu chảy hoạ Răm-brăng

Tôi bị điếu thuốc cháy xèo môi

Huyệt đêm chôn một người … hở con mắt

Một ngọn đèn mồ chảy mủ phố về khuya

Tôi bị đám nữ tù áo xanh

Trưa hè vườn hoa vạch quần bắt rận

Đèn tắt … một nhà tu kín trong đêm

Bỗng tần mẩn tần mần

Bỏ dở trang kinh ngồi cạy vảy

Một nỗi buồn xưa chưa kín miệng bên lòng

Tôi bị đi biếm

Thuyền đậu Giang châu nghe nghé mặt chàm

Sông khuya chuông chùa xổ ruột

Đông rồi! Tư mã áo tím! Khóc đi thôi!

Tôi bị đêm nâu Ai Cập

Vú thơm Hêrôđiát trần truồng

Sữa trắng ban mai con nhái đầu xanh tháp chòi trung cổ

Hải cảng Bom-bay tơ lụa phố đùi dài

Page 107: Tran Dan _ Poem

107

Tôi bị ai xui em đẹp?

Để phố chiều dìu dặt đèn xanh

Để xào xạc đám đông

Để đá nhà tù đùn mủ mộng

Tôi bị - tôi không cắt nghĩa nổi

Chưa yêu tôi đã thất vọng

Tôi ra bến tầu tôi quấy quả dòng sông

Ai? Ai có thể thu xếp cho tôi

Một thế giới hoà thuận ?

Ai có thể bắc cầu đò vào cõi sao bay?

Hãy cho tôi một ngày - một ngày thơ ấu hẳn!

Hãy cho tôi một góc phố nào sương xuống thật thơ ngây …

Tôi không thể … không thể nữa!

Đừng bắt tôi ăn ở với châu Âu

Toàn những thành phố ồn ào

Tôi phải Bôhêm đêm Abxanhtơ

Tôi phải nhảy truồng đàn vũ nữ

Đừng bắt tôi ăn ở với châu Á

Bụi cổ thành tôi cưỡi lừa đi các phố trầm tư

Đừng bắt tôi gục đầu đêm xa mạc lạc đà

Có phải châu Phi không nhỉ?

Thôi thôi! Tôi đã rối trí

Chia gì be bét những năm châu?

Tôi không đếm xuể

Tôi thì tôi là một thứ mọi lồ ngồ

Tôi chỉ đếm mọi cái gì không quá một.

Tôi chỉ … thôi thôi! Tôi không chơi với các anh nữa.

Tôi đi đây! Vĩnh biệt tất cả!

Tôi sẽ đi về một bờ biển nào xa

Page 108: Tran Dan _ Poem

108

Tôi sẽ đốt xém tôi như con bò thui mặt trời xích đạo.

Tôi - một kẻ chung thân ngồi thế kỷ 20

Để tôi yên! Để tôi yên!

Tôi không có đủ đau thương cho mãn hạn sống.

Tôi không có đủ tình yêu

Yêu trái đất lục đục thế này

Lạy tất cả! Tha cho tôi

Cả những lỗi tôi làm

Cả những lỗi người khác phạm

Tha cho tôi. Tôi chưa đánh vỡ gì cả

Tôi chỉ đánh vỡ của mọi người một mảnh sống: đời tôi.

Vĩnh biệt! Vĩnh biệt!

Tôi không công nợ gì hết

Nhỡ thử tôi quên tôi có nợ ai gì

Cho tôi khất! Để lần sau.

Nếu lần sau còn có nữa!

Mẹ ôi ! Thôi ! mẹ ở ! Con đi …

NGƯỜI VẬT NHAU VỚI THẾ GIỚI TÀN BẠO

Vầng trán hai nếp nhăn rưỡi

Đồng tử đen hàm xanh

Tôi vác cái đầu tôi chạy

Một cái đầu khi ngủ Sáu kho

Khi ngắc ngoải thế giới xám

Cái đầu này đích thực của tôi

Người ta cứ lăm le rình đẵn trộm

Chòi gác tím Sâm ơi! Kỷ niệm man mác phố đâu em?

Em đã gói cho anh một nửa

Anh dắt theo dọc đường phòng nhỡ những khi mưa

Page 109: Tran Dan _ Poem

109

Có lẽ thu rồi em nhỉ

Em chớ khóc nhiều vàng ố ngã tư xưa

Để anh đi,

Ong óng đèn nâu đêm Hải phòng

Nắng bủng trưa hè chợ nghệ

Làng Bùng mật thám ráp

Sông Hương đèn chiều sương Huế tím bâng quơ

Quê hương đó tôi đi trốn

Chính phủ Flăngxa đi tìm

Eo ôi tôi khiếp các ông lắm

Các ông có nhiều kinh nghiệm bẹcgiê

Để tôi núp đêm nhà săm. Thì đây

Thống chế Pêtanh đeo kiếm gãy - ảnh đầu giường

Bên múi bẹn tồng hông đùi gái Mỹ.

Tôi đành ra vỉa hè một góc kín vườn hoa

Thì lại gặp Păcca chầu hẫu đọi

Đợi khéo muỗi cắn! Hú tim!

Tôi rẽ vào nhà thờ

Ngủ đậu Chúa Jêxu

. . . .

NHỚ

Chòi gác tím, Sâm ơi!

Em chớ khóc về đêm

Em hãy hôn con nhiều hơn thường lệ

Em có thể nhờ cậy hàng Bàng mưa lá đỏ cho em

Em hỡi đã đành đau!

Phải đâu đau là điều cầm chẳng nổi?

Em nhé! Đừng vàng!

Đèn hạt lệ đừng khêu!

Page 110: Tran Dan _ Poem

110

NGƯỜI PHÁ TÙ

. . . .

Đồng chí ngã. Trên bia đồng chí

Nuối thương hãy khắc một dòng

Cho trọn vẹn xót xa, cho băn khoăn đầy đủ.

“Nơi đây … yên nghỉ … một người.”

Đồng chí ngã. Hãy yên tâm!

Dù yên tâm là điều chẳng thể

Dù con thơ còn bé dại.

Dù sương mù rơm rớm ngã tư xưa.

Dù người thiếu phụ áo đen đã đành không gì an ủi nổi

Dù trên mồ không khói thắp không bia.

Người áo tím chồm lên cướp thành

Mễ! Táu! Me! Ngăm! Di! Cầu! Chợ Đại! Chân bùn

sấm bục đồng chiêm.

Cao Bắc Lạng! Hà Nội! Huế! Cà Mau! Sài Gòn! Mỹ Tho!

Đêm xuống dù cuối cùng, đêm xuống vẫn từng nong.

Người nô lệ khổ đạp thành già.

Tay lấm đám đông gày bẻ tan phố xích …

Sầm ! Đêm đổ nặng nề

Cùng nghìn nỗi khổ nghìn cân.

Ngày lên …

Và tôi đi …

Từ đó tôi đi

Tôi đi giữa đêm tan ngày mọc

Xa xa là non sông dày dạy rạng đông

Tiếng chim chiêm chiếp sáng.

Tôi đi …

Page 111: Tran Dan _ Poem

111

Những ngày viết Cổng tỉnh (Trích nhật ký Trần Dần 1960)

18-3 Đi Thái Nguyên. Sớm mai đi! 19-3 Xe Thái phải ghi tên, gọi tên, xếp hàng mua vé … Gọi qua tên là nhỡ xe. Quả có nhỡ một chuyến. Sớm thứ bảy mưa phùn ... Con Kha thằng Còm không biết biệt ly. May cho các con! Muôn năm tuổi thơ ngây! … Xe lắc. Đường xấu. Mưa lép nhép … Đây mới là vùng đất đỏ. Một cái cổng chào to, lấp ló vài cô thiếu nữ gang thép. Lưu xá rồi! 22-3 Đến đội lao động 1. Chị Lê Minh giới thiệu cặn kẽ: kỷ luật lao động ngày 8 tiếng, chia đôi ra 4 tiếng lao động chân tay, còn thì công tác gì đó do CHÚNG TA giao cho ANH ẤY, đảm bảo ngày 8 tiếng … Giao thừa đi ở … Đến … Tìm hiểu … Bỡ ngỡ là một cảm giác ta nên thu nó lại. Tôi thèm: thân mật, đầm ấm … chưa có. Ôi cô đơn thay một người bị kỷ luật! Thời đại vệ tinh rồi: tôi đã có khả năng lớn hơn cô đơn, chiến thắng cô đơn.

Page 112: Tran Dan _ Poem

112

26-3 Thứ bẩy lao động thông tầm. Tôi làm kíp sáng. Tinh mơ đã dậy: 4 giờ! Xuống bếp làm tí cơm. Rồi ra hiện trường … Đài phát thanh lên, tôi làm đến 10 giờ. Hôm nay khoái trá … Đồng chí Tễ (tiền tiến) giúp tôi làm một cái bàn. Đồng chí Nhiên già giúp tôi chuyển giường … Thế là tươm : có một chỗ làm việc và ăn nằm dễ chịu … Xã hội ơi! Người là bạn của người khoan khoái thật! Lao động chân tay của người khác đem lại cho tôi hạnh phúc hôm nay. Tôi ơi! Mày chờ gì? Bài “

� � � � � � �” còn trên 10 chương nữa.

20-7 Thời gian trôi nhanh: đã hơn 1 tháng. Tôi sáng sáng đi làm: 5 tiếng. Buối chiều ngồi chữa thơ. “

� � �� � � �” đã thành: “� � � � ”. Bản thảo lần 2, đứng sừng sững,

cao hơn bản thảo1, được vài mét. Tôi nhớ nhà nhiều. Nói kiểu Trung Quốc, tôi đang gặp kỳ “tứ khổ”: 1- khổ lao động nặng. 2- khổ đối xử. 3- khổ nhớ. 4- khổ nắng mưa bất nhất, đùng đến đùng đi. “Tứ khổ” có thể thành “tứ khoái’ không? Tôi vẫn có: 1- khoái làm thơ. 2- khoái thu tài liệu. 3- khoái dự định viết. 4- khoái nhìn, nghe, ngẫm ngợi và hy vọng. 7-8 Khí hậu khu Gang Thép cũng như muốn luyện người cho thành thép. Đùng nắng đùng mưa. Tối bức như lò hun, để 3 giờ sáng, rét về đột ngột, ướp lạnh những anh ngủ quên không chăn. Công việc dạo này nặng khủng khiếp. Có thể nói, đây là một quãng ngày 2, 3 tấn trở lên. Ví dụ gánh, 1 giờ 12 gánh x 30 cân, vị chi 3 tạ 6 / giờ. Một buổi sáng 5 giờ: 18 tạ … Quần chúng,

Page 113: Tran Dan _ Poem

113

Phù đổng chưa? Tôi mệt. Lưng, hen, buốt óc. Các thứ bệnh nhè vào cái lúc mệt. 3 giờ đêm rét, ngồi ôm ngực thở suyễn. Tổ này tổ khác ốm la liệt. Giá tôi nghỉ thì cũng phải. Không hiểu làm sao, không muốn nghỉ. Chả lẽ, đã 5 tiếng, còn nghỉ! Vả lại, sớm dậy không lê được, định nghỉ, thấy tổ nghỉ đã nhiều, 3, 4 người có lần, thế là tôi lại đi, đương đầu với một ngày mới, không biết là 6 hay 2 tấn 4? Cứ tự thử xem, sức chịu đựng của cái dây thép này, lúc nào thì đứt … sựt? 17 – 8 Thế là ốm. Sút lưng : coup de reins , hay đau thận ? Có lẽ cả hai. Một tuần chưa ngớt. Buốt óc. Bệnh cũ lộn lại, thăm hỏi nhau. 49 : một cơn ! 55 : một cơn ! Bây giờ 60 : lại một cơn ! Liệu mày to hay bé? Chóng hay lâu? … Mấy năm nay nó phục kích trong sọ, thi thoảng ló ra một vài giờ, một vài ngày … Bây giờ nó tấn công đây, quân ra xem chừng kịch liệt … Ôm đầu … ú ớ đêm … xe húc chạy trong sọ!… Có phải vì cái “� � � � � , một sự mệt óc kéo dài ngót một năm nay không? Một cái đơn về Hội. Một cái đơn lên công trường. Cho điều trị ở Gia sàng hay Kép le, hay về Hội? Tuỳ! Đằng nào cũng được. Khổ cái bệnh tôi tái phát sau cái bệnh “nhược” của Lê Đạt!… Lãnh đạo liệu nhìn nhận vấn đề ra sao? Ôi lãnh đạo! Rất dễ nhìn đây là: quy luật tư tưởng! Khó lòng nhìn khách quan hơn: quy luật thể lực! Hãy để tôi hoàn thành “ � � � � ”! Óc nhé, chịu khó chịu đựng, gắng gỏi lên, một ít ngày giờ! Sau đó, dây thép thần kinh có đứt, thì cứ đứt, tha hồ!

Page 114: Tran Dan _ Poem

114

18-8 Xin nghỉ. Khó như … xin nghỉ. … Dù sao, đau quá, tôi cứ xin đội cho điều trị. Một tuần qua! Đội trả lời : Làm đơn! Rồi đồng chí Đội bảo : « Anh phải xin chuyên môn giấy chứng nhận! » Tôi gặp ông Sáu : - Ở Gia Sàng, Kíp le không điều trị! Giọng ông như ông tướng ngoài mặt trận. - Vậy cho tôi về Hà Nội điều trị. Anh có thể cho tôi giấy chứng nhận? - Được, được. Mai anh lên lấy! ... Tự dưng ông Sáu lại mềm dẻo, vội vã. « Mai » tôi lên. - Không! Ông Sáu lại nói như ông tướng: Không! Để tôi phải hỏi liên chi đã! Úi chao! Liên chi bảo tôi hỏi ý chuyên môn! Chuyên môn bảo hỏi ý liên chi … Tinh thần ấy cũng dễ hiểu thôi: mó vào tôi anh nào cũng ghê ghê. Tôi ơi! Hãy vái tứ phương! Vì mày là một con … bệnh! Hãy van đất, hãy lạy trời! Hãy đổ đau thương ra độ vài chậu! Hay có lẽ ra quỳ ở các ngă tư! Vì tội mày to lắm: Mày là một con bệnh!

Page 115: Tran Dan _ Poem

115

Vương Trí Nhàn

� � � � � � � � � � � � a � � � o � � � � a � � � � � � � � � � � � � ư � � � � � � � � � o � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � o � � a � � � a � � � a � � � � � � � � ! � � � a � � � �� ! � a o � " o o � � � # $ � � � % a � & ' ( � a ) * " ư � + * " � � � � , ' � " a o � � � � � � � � � � )

Đón nhận Cách mạng tháng Tám ở tuổi 19, Trần Dần cũng như một số cây bút cùng lứa sớm nhận ra rằng mình sẽ lớn lên cùng những biến đổi của đất nước sau mùa thu ấy. Cách mạng – như cách nói của Maiakovsky – là của họ. Họ muốn làm tất cả cho cuộc cách mạng ấy, theo đúng cung cách của cuộc cách mạng ấy. Bởi đó là điều từ lâu họ đã mong đợi. Thế nhưng, làm gì bây giờ? Thoạt đầu cách hiểu của những người thanh niên này còn có phần lý thuyết thuần tuý. Chẳng hạn, có thể dự đoán trong những năm 45-50, ý nghĩ chi phối Trần Dần và bạn bè qui gọn lại một điểm: Tương ứng với cuộc cách mạng trong xã hội phải có một cuộc cách mạng trong văn chương. Cách mạng chẳng nhẽ lại cho phép người ta viết như cũ? Từ cách bố trí một dòng thơ trở đi, cũng phải thay đổi. Thứ văn chương vuốt ve mơn trớn, thứ văn chương của những chàng nàng lại càng phải thay đổi. Nghệ thuật phải được làm lại! Điều đáng nói ở đây là không chỉ thời gian 45-46 – cái năm đầu tiên hồ hởi – mà mấy năm sau, khi kháng chiến đã bước sang

Page 116: Tran Dan _ Poem

116

những ngày gian lao nhất, giữa núi rừng Việt Bắc, những thể nghiệm nghệ thuật vẫn là cái đích lớn để Trần Dần theo đuổi . Ở tờ báo của trung đoàn Sơn La nơi ông công tác, nhà thơ khi ấy còn trẻ đã cho in những bài thơ như khẩu hiệu, và thơ được trình bày theo lối hình vẽ – một tìm tòi có lẽ được gợi ý từ các trường phái hình thức chủ nghĩa bên Pháp.

Châu Mường La đốt đuốc

TRONG bao nhiêu hồi trống Đêm

muôn tiếng hô đó là đêm

MƯỜNG LA KHỞI NGHĨA Không có đêm nào như đêm nay

12 GIỜ Chúng ta

đánh Mường La.

Điều thú vị là tất cả những thể nghiệm này “trình làng” ngay trên những tờ báo in bằng thứ giấy thủ công thô nhám và giở mạnh tay là rách! Có sao đâu? Cách mạng cơ mà! Tinh thần Cách mạng - đây là cách mạng trong nghệ thuật - đâu có chờ đợi những dịp thuận lợi mới bộc lộ? Nhưng cuộc cách mạng xã hội đang diễn ra trên đất nước – cuộc cách mạng mà mỗi lần nói tới, Trần Dần như còn run rẩy – cuộc cách mạng ấy chưa cần tới những thể nghiệm Trần Dần đang tìm. Những việc đáng được coi là cấp bách nhất lúc này, giản dị hơn nhiều: động viên quần chúng tham gia kháng chiến. Người ta không rõ những biến chuyển nào đã đến trong óc một nghệ sĩ đồng thời là một cán bộ chính trị như Trần Dần vào những năm

Page 117: Tran Dan _ Poem

117

ấy. Chỉ biết là những yêu cầu này được ông sớm chấp nhận, và ở đây nữa, ông lại vừa lo phục vụ cách mạng một cách tận tuỵ, vừa loay hoay tìm ra ngôn ngữ nghệ thuật của riêng mình. Hãy nhớ lại các tác phẩm được viết ra khi ông chưa đầy ba mươi tuổi và mỗi khi nói lại, Trần Dần vẫn thấy tự hào, là Người người lớp lớp. Thiên tiểu thuyết được “hoài thai” trên đường hành quân tới Điện Biên Phủ ấy, khác với nhiều tiểu thuyết khác, ngay ở cái điểm xuất phát; nhân vật của tác phẩm phần lớn là những con người thuộc từng lớp dưới đáy trong xã hội cũ , những người mà người ta phải lập tức nghĩ tới, mỗi khi nói đến cách mạng. Chỉ lạ một điều là theo lời Trần Dần kể (bài in trong cuốn Cách mạng, kháng chiến và đời sống văn học 1945-1954, H, 1995) dù đó là Tô Vĩnh Diện, là anh Lục, anh Sâm … thì họ đều là “các nhân vật vô hình”, “hiện thân của một tình cảm vô thức”, có nhân vật mượn tên người nọ người kia ngoài đời mà thực ra lại hoàn toàn “do trí tưởng tượng” của tác giả sáng tạo. Hoá ra trước sau Trần Dần vẫn là mình. Ông không thể đi theo những đường mòn. Ông sẵn sàng làm cái việc mà đứng ngoài nhìn, người ta có thể bảo là điều hoà những cái tưởng không thể điều hoà nổi – miễn việc này theo ông là có ý nghĩa cách mạng thực sự. Dù biết rằng Trần Dần đã rất tha thiết với những tìm tòi nói trên trong Người người lớp lớp, người ta cũng phải dè dặt khi đánh giá tác động của nó tới đời sống nghệ thuật đương thời. Nhiều tín hiệu tác giả phát ra, chưa có ai đón nhận. Suy rộng ra, còn có thể bảo, giữa nhận thức của một con người mà cách mạng là một nhu cầu nội tại – người cách mạng gốc, như bên Thiên chúa giáo, người ta bảo những người đạo gốc – với thực tế cách mạng hình như còn có sự so le?! Nhưng đó là lối xem xét của một người ngoài cuộc. Với Trần Dần, không có chuyện vừa đi vừa tính toán xem mình có thuận mắt chung quanh hay không, được hoan nghênh hay bị chê bai. Thậm chí, ông còn không buồn điều chỉnh bản thân ngay cả trong những hoàn cảnh gay cấn hơn nhiều. Để

Page 118: Tran Dan _ Poem

118

sang một bên câu chuyện của nhóm Nhân Văn, chỉ biết rằng, từ 1957 trở đi, dường như ông bị gạt ra khỏi sinh hoạt bình thường của văn học cách mạng. Mặc! trong hoàn cảnh đó, ông vẫn trung thành với chính mình, nhất là không xa rời cái ý tưởng mà mình theo đuổi từ khi còn trẻ. Nói cách khác, cách mạng vẫn là tâm thế chính của con người khí phách ấy. Và ông vẫn viết, viết như “đổ bớt” được chính mình đi cho đỡ nặng. Viết như đền ơn trả nghĩa những người đã giải phóng cho tuổi trẻ của mình. Viết như rung lại hồi chuông cách mạng thi ca đã khởi sự từ thuở còn tuổi mười chín đôi mươi. Tập thơ Cổng tỉnh (1994) thật đã đúng là một hiện tượng đá đẻ, “Đục như đi thuyền – luồng luồng sóng thạch”. Nói về cái đau đớn của con người biết suy nghĩ trong đêm trường mất nước nhiều câu thơ đúc lại trong một nỗi xót xa máu ứa.

Tôi cô đơn trời xanh cô đơn trời tím Cô đơn nắng đào cô đơn mưa tái nhợt đầu ô.

... Vỡ tuổi ấu thơ! vỡ tất cả

Tôi biết hợp về đâu? Tan tác hết, Để bây giờ tôi phải kháng cự với mông mênh

Tôi phải đứng lù lì ba ngả gió

Bằng tất cả những phương tiện ngôn ngữ sẵn có, tác giả ném ra tới tấp hàng loạt hình ảnh, cốt để nói cho hết, nói bằng được cái bi đát, cái vô vọng của con người muốn được thay đổi

Khúc phố đổ đè ngang khúc phố quê

Phố hoắc phố hơ thành trì ọp ẹp Thều thào trống mọt buông canh Im lặng. Im lặng bóp cổ hàng đèn treo

Xa xa một chiếc lá kêu. Kêu vàng đại lộ …

Lá đỏ cháy ròng ròng qua các phố lụi hoàng hôn.

Page 119: Tran Dan _ Poem

119

Cách mạng bùng lên là để hoá giải bao nhiêu vô lý nó làm sứt mẻ què quặt những hồn người, những phố xá, cách mạng tới là để chấm dứt cái mênh mông của đêm tối hoang dã như thế, hỏi làm sao một thi sĩ như Trần Dần thờ ơ cho được? Nói bao nhiêu, với ông , cũng là chưa thoả. Trong khi sử dụng những vật liệu có vẻ không thi vị chút nào, thực tế là ông lại biết mang lại một chất thơ riêng cho công cuộc cách mạng mà ông dành hết tâm huyết để ca ngợi. Trước mắt người đọc thấy hiện lên rõ nét một nhà thơ sứ đồ, mà cũng là một nhà cách mạng bẩm sinh, con người của dằn vặt trăn trở, con người quyết liệt, đi gần tới thô tục, cục cằn, con người căm thù xã hội cũ và tất cả những gì trì trệ, mòn mỏi, đến mức sẵn sàng chửi thề, đập phá, song lại cũng là con người có trái tim run rẩy, cặp mắt rưng rưng trước cái mới đang sinh thành. Đặt bên cạnh những kẻ ăn theo, những giọng vào hùa, những nhà thơ công chức, Trần Dần là một thế giới hoàn toàn ngược lại. Miễn là cái tư tưởng mà ông theo đuổi được nói ra, và ông được bộc lộ mọi si mê, mọi đắm đuối vì nó, thế là được rồi, còn có hề gì là những đau khổ riêng ông phải chịu! Người ta chỉ cắt nghĩa được sự xuất hiện của nhiều dòng thơ trĩu nặng tâm tình trong Cổng tỉnh khi biết rằng nó được viết ra một tâm thế như vậy. Chân vục trong bùn, song người thi sĩ này mắt vẫn hướng về ánh sáng và giữa nhiều hình ảnh của con người cách mạng trong thế kỷ XX , cuối cùng ông vẫn là một trong những hình ảnh gợi ra sự cảm phục cùng những ấn tượng thắm thiết. Lần đầu in trong tuyển tập bài báo mang tên Cánh bướm và đóa hướng dương (1999 )

Page 120: Tran Dan _ Poem

120

Ai mửa sao đêm đầy các ngõ để hầm hập bồ hôi cơn sốt phố về đêm? 1959

Page 121: Tran Dan _ Poem

121

I.5

Chiều vô lễ 1960 -1964

Page 122: Tran Dan _ Poem

122

Cột đèn câm

Vào đời

tất cả

chỉ có vé: đồng hạng

mọi thứ đặc quyền đều

sặc sụa bất công.

Tôi có vệ tinh

rồi có nhà ga xanh

nhà ga tím

trong một vũ trụ

chẳng hiền lành.

Cái lồng chim quá chật

tôi bay đâu

cũng đụng đầu.

Tôi có khả năng im lặng

như một cột đèn câm

đầu phố thơ ngây.

Bước chân tím Phố cũ có người thi sĩ tím

có bức tường xám

ngọn đèn bỏ quên

bước chân đôi tình nhân gặp lại.

Page 123: Tran Dan _ Poem

123

Yêu Em đã quên ư?

lòng ngã tư mưa lằng nhằng cột điện.

Tình yêu của anh như câu cổ tích

kể trong một tối mưa dầm.

Tình yêu xám Tôi sẽ chôn sâu những kỷ niệm xám

linh cữu một mình tôi vác đêm mưa.

Tôi sẽ chôn cất tình yêu này

như chôn cỗ quan tài kẽm

một mình mưa hì hụi tha ma.

Đừng yêu Gạch ngói ruổi rong

những mơ mộng nhớ thương.

Các vì sao, ai bắt vít trên trời?

những đinh vít long lanh bằng bạc.

Em nhé! đừng yêu!

đừng yêu những đại lộ gió!

Phố này. Hàng cây này. Cột điện.

Căn nhà thi sĩ đổ. Mùa mưa.

Page 124: Tran Dan _ Poem

124

Chờ Khóc như giếng - đau vía em - lời đồn rách lá rụng hoa.

Cơn mưa rậm rì trộn vả - cơn mưa ngoa trộn sung.

Đây! tôi trả cho anh

những tổn phí đợi chờ.

Page 125: Tran Dan _ Poem

125

Ngã tư xưa

Anh muốn rao lên cho làng nước biết

hôm nay em bạc đãi một người.

Nhưng em ơi! anh chỉ đến ngã tư xưa

anh đứng dưới một ngôi đèn bỏ.

Page 126: Tran Dan _ Poem

126

Khách bộ hành Phố mới - nước sơn tươi

Người đi dùng dằng cửa sổ

Vài ánh dậy non

Run lẩy bẩy - đèn đường …

Khách bộ hành ! Đừng nhìn giậu hở !

Thu rồi …

Sương xuống ngậm công viên …

Nô-en Phin cà phê đêm

Giọt rơi thăm thẳm

Những vết Nô-en

Lẩm cẩm đời nhau

Ơi em ! ... Nô-en ! ...

Nô-en ! ...

Đáng lý đừng Nô-en thì phải !

Chuông khánh thẫn thờ

Lủng củng ngã tư xưa ...

Page 127: Tran Dan _ Poem

127

Đại lộ khói Tôi biết nhược điểm của đêm đông

Nó dài vơ dài vẩn ...

Gió thổi tợ thằng rồ

Vặt trụi hàng cây ...

Lá ngã - giệ đường đôi

Sương bay lèm nhèm đại lộ

Ngang phố - tôi châm điếu thuốc

cuối cùng

Ngực thở khói diêm sinh.

Phố vô lý

Hai chân chọ chẹ

Vườn hoa vô lý

Cặp đùi vô ý

Ngôi sao vô vị

Phố dài vô lễ

Chiều xanh vô nghĩa ...

Ôi chao ! Thu rồi ! ... Bất tử

Đại-lộ-thi-sĩ

Sương sa lia lịa

Hành trình ...

Page 128: Tran Dan _ Poem

128

Chiều vô nghĩa

Gió thổi quá tay

Lạnh cây Bàng bé ...

Chiều thu cổ lỗ sĩ

Công viên đông chí

Sương sa cà khịa

Cho tôi một ngày chức năng vô lý!

Để tôi ngồi vô nghĩa nhất

Vô tri ...

Page 129: Tran Dan _ Poem

129

Page 130: Tran Dan _ Poem

130

Bài hát người lớn

Đi chởi ! Đi chơi !

Đầu trọc bình vôi

Hai tay hai hòn sỏi

Đi chơi ! Đi chởi !

Hai tay hai hòn sỏi

Đầu trọc bình vôi ...

Đi chởi ! Đi chơi !

Page 131: Tran Dan _ Poem

131

Page 132: Tran Dan _ Poem

132

Mưa kỷ hà

Mưa rơi đỗ xanh

Lanh tanh đường nhựa ...

Pha lơ mành mành cửa lụa

Cho tôi ngồi chơi

ghế bành mua thuở nọ! ...

Kỷ hà lưng lá lúa ...

Trường sinh.

Ngã tư

Hãy nghe im lặng thở !

Gió ngã tư to

Hai cột đèn gù

Mẹ hĩm ! Bố cu ! Kìa nhìn đại lộ

Điện khạc ò ò …

Cà cộ đèn thu !

Page 133: Tran Dan _ Poem

133

Chín bức mưa thư

Em ơi !

Ai xui nhà ươm chín mái ?

Tơ ngâm chín vại

Dâu xanh chín bãi

Tằm ngã - chín nong

Ai xui cửa chín chấn song

Đường về phố em đèn lên chín ngả

Thư đi ngỡ ngàng chín ngõ...

Vườn hoa chín cửa

Đợi chờ - chín đêm

Ai xui hồ chín lá sen ? Thuyền bơi chín sải

Ca đêm chín người chạy

Còi tầm chín ngả gọi

Hẹn nhau chín tối

Xưởng xa chín ống khói

Chín người - tìm thư

Ai xui chắn chín ngã tư ? Chậm giờ chín phút

Ai xui chín ô kính ướt

Ngoài trời lá bứt

Chín cản gió lốc

Chín dây đàn - đứt

Chín bông cúc - ngứt

Chín tờ giấy - vứt

Page 134: Tran Dan _ Poem

134

Chín nông nỗi - nhức

Chín khúc - lay lứt

Chín mảnh chai - sứt

Chín ngọn đèn - thức

Chín giọt mưa - nấc

Chín khuy áo - tức

Chín bình hoa - nứt

Chín bức thư - lạc

Chín trang - mực nhòe

Ai xui chín ngả mưa khuya ?

Xưởng làm chín kíp

Cầu lim chín nhịp

Đò lên không kịp

Chín cửa sông khép

Nhầm chín bưu thiếp

Nhà nguội chín bếp

Buồng xưa - mưa nín

Dương cầm chín phím

Hẹn đi chín hẹn

Chín lần lạc thư

Ai xui ? Ai xui chín phố quanh co ?

Chắn tàu chín đoạn

Anh đi chín sớm

Mưa to chín quận

Đèn muộn chín ngọn

Anh tìm chín xưởng

Chín thư không người nhận

Anh về chín ngõ lấm

Chín làn khói cuộn

Nhà trọ chín phản

Page 135: Tran Dan _ Poem

135

Chín góc công viên sương ngậm

Anh về chín khách sạn

Chín con đường xám

Chín ngã tư vắng

Qua nhà chín bận

Anh về hối hận

Anh về nín lặng

Mưa dầm - chín đêm...

Ôi em !

Ai xui ? Ai xui khách sạn chín tầng ?

Thềm lên chín bậc

Nhà cao chín nóc

Cửa quay chín góc

Anh trèo chín gác

Hành lang chín cột

Chín ngọn đèn bật

Chín buồng vào lạc

Bình phong chín bức

Thuốc ngủ chín cốc

Tải đi chín xác

Chín xe cứu thương rúc

Anh về cuối gác Lầm chín chỗ quặt

Cửa đóng chín chốt

Chín cô hầu buồng thức

Chín thang máy tắc

Anh về lặng ngắt

Mưa gõ chín nóc

Chín cầu chì đứt

Chín cỗ xúc xắc mất

Page 136: Tran Dan _ Poem

136

Anh ngồi không vặn nhạc Xương sống chín đốt

Đàn câm chín nốt

Chín mũi tiêm ngất

Chín điếu thuốc đốt

Chín quyển sách không đọc

Chín bức thư lạc

Chín sổ địa chỉ nát

Chín dây điện thoại cắt

Chín tầng khách sạn

Mưa gõ chín đoạn

Anh ngồi nín lặng

Anh ngồi hối hận

Mưa dầm - lạc thư

Em ơi !

Em ơi !

Thư ! ... Thư ! ... Thư !... Thư ! ...

Địa chỉ đề - mưa ướt

Chín lần - thư mưa ...

Page 137: Tran Dan _ Poem

137

Đường vô tận

Núm cột lộ thiên

Nửa trên bằng thẳng …

Thiết kế đường lên vô tận

Hãy cho anh ta đôi mông

mười ba độ ẩm!

Mưa phùn lẩm bẩm

Xót xa chùm đèn hoa muống

Cầu thang trôn ốc vặn

Tương tư

Page 138: Tran Dan _ Poem

138

Chiều lam

Sương xuống tự năm giờ chiều

Nhà ai bật điện sớm ?

Hiu hắt đèn đường lầm gọi là sao

Điện bật hơi lam xạc xào đại lộ

Lá rỉ bay vèo – thao tác của thu sang! …

Bài thơ phố

Hạnh phúc không tìm

Lau sạch mặt bàn lim

Bút ướt bôi nhoè trang thơ tầu bạch

Ngoài đường - Phố thở vỉa hè to

Vòm lá pha chim

Xoè cành chi chít hót Không đề số 1

Em đẹp như em vừa mới nở …

Rét đài nưn nứt lụa

Đùi hoa cau ướt sữa.

Ô hay ! Tay non che bẹ nhỏ

Không lẽ sương tươi vừa nhu nhú nụ

Tụ ra em …

Page 139: Tran Dan _ Poem

139

Không đề số 2

Đáng lý em không nên đẹp !

Đùi len mã vĩ

Triển lãm vườn hoa loã thể

Anatomie lá hẹ

Ôi chao! Ngón chân thường lệ! …

Mông non phi lý

Em mang chức năng bé tí …

Tôi đứng thẫn thờ

Đại lộ ngu si.

Không đề số 3

Em hãy cho anh đau đớn với

Ôi em! Tiện nghi tê dại đường cong

Tâm điểm ly tâm ngần ngại

Phát minh sinh lý học cầu vồng.

Ôi em! Lý do buổi chiều vòi vọi

Đường siêu âm thoai thoải

Ngây ngất kỳ công sinh vật não nùng …

Page 140: Tran Dan _ Poem

140

Không đề số 4

Mưa rơi phay phay

Ngã tư năm ngoái

Biết tôi khờ dại

Em đi không sao chống cự nổi

Đại lộ tai hại

Em dài man dại

Em dài quên che đậy

Em dài tê tái

Em dài quên cân đối

Em dài bối rối

Em dài vô tội

Em dài - khổ tâm ...

Page 141: Tran Dan _ Poem

141

Đoạn kết

Cấp cứu! Cấp cứu!

Ô tô chẹt lá chết …

Một cặp đi ngang đường bẹt

Hãy để tôi đi tìm tia trăng vườn quít!

Điện thoại kêu thét

Con cốc đi xa

Chương ba tiểu thuyết

Hành trình! … Hành trình! …

Không thấy sương bay thành vệt …

Page 142: Tran Dan _ Poem

142

Page 143: Tran Dan _ Poem

143

PHẦN II

ngoại luật

Page 144: Tran Dan _ Poem

144

Thủ lĩnh trong bóng tối

Phạm Thị Hoài

Ðúng mười năm trước tôi được đưa đến ra mắt Trần Dần, sau khi ông đọc bản thảo một số truyện ngắn đầu tay chưa công bố của tôi. Làng văn Hà Nội khi ấy, trong đêm trước của cuộc cởi trói ngắn ngủi, có một không khí nhộn nhịp nhất định. Dân văn chạy ngược xuôi trong văn, không tất tả việc khác như bây giờ. Cả người viết lẫn người đọc đều chờ một cái gì không rõ, nhưng sẽ đến, và có lẽ vì thế mà háo hức, không lãnh-đạm-biết-rồi như hiện tại. Khi đó chưa nhà nào có điện thoại riêng, muốn trò chuyện phải tìm nhau tận mặt, rượu tây chưa phổ biến, thức nhắm còn nghèo nàn, thuốc lá Liên Xô Ấn Ðộ đã là sang, đi xe máy là ngoại hạng, và mọi người đều viết tay trên giấy xấu ... Cảnh hàn vi đó nuôi lớn một thứ chủ nghĩa lãng mạn giản dị, đầy tính lý tưởng và cũng đầy ảo tưởng mà giờ đây đã biến mất. Hà Nội, khi Trần Dần qua đời, khác xa mười năm trước, khi tôi hồi hộp đến gặp ông như gặp một thủ lĩnh văn chương trong bóng tối.

Không người viết nào muốn thuộc về phía tối của đời sống văn học, song khi phía được chiếu sáng quá tầm thường thì được khuất mặt có thể là một hãnh diện chính đáng. Trước khi ông tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp đại náo làng văn thì Nhân Văn Giai Phẩm với mọi huyền thoại của mình đã luôn là một trongnhững cái chợ đuổi có sức mê hoặc lớn hơn cửa hàng văn học mậu dịch nhiều. Văn học của NVGP tập trung ở những tác giả và tác phẩm cụ thể của nhóm ấy thời ấy, nhưng tôi quan niệm tinh thần NVGP rộng hơn, bao trùm một số quan niệm, phong cách, nguyên tắc,

Page 145: Tran Dan _ Poem

145

thái độ ứng xử, đề tài ... nhất định, có thể tìm thấy ở những chỗ khác thời khác, ở độc giả, ở các nhà phê bình, thậm chí ở những người từng quyết liệt chống NVGP hoặc rất sợ dính vào đó. Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn luôn ký tên hàng đầu trong các bản án chống NVGP, song chính cái tinh thần NVGP trong ông được kết hợp ở thế chân kiềng với tài năng và lòng biết sợ đã tạo cho ông một đặc cách trong văn học chính thống. Ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa trước đây cũng tương tự như vậy. Song sau nhiều chục năm, số tác phẩm ra đời trong những hoàn cảnh như thế không còn đọng lại bao nhiêu. Như thể không ai chết được nhiều lần, mà trong tinh thần NVGP ấy, các chiến sĩ ưu tú nhất đã ngã xuống cho những lý tưởng khác trước khi kịp hi sinh cho nghệ thuật. Khi tiếp xúc với thế giới của họ, tôi đã hy vọng là sẽ trèo qua nhanh cái nấc thang thứ nhất đương nhiên là rất quan trọng, vì nếu không thì chẳng vào với nhau được: đó là bi kịch mà ai cũng biết ít nhiều về NVGP. Trèo qua nhanh, vì đã bận tâm vào đó thì không thể chỉ rỏ nước mắt vào rửa những vết thương bên ngoài. Tôi hình dung rằng những vị tử vì đạo rất ghét kẻ nào chạy lăng xăng quanh nỗi đau của họ, ăn theo những thăng trầm của họ. Mà tôi lại chú tâm vào những bi kịch văn học hơn, cho nên nấc thang sau và sau nữa là cái đích của tôi.

Văn học không chỉ sinh ra từ cuộc đời bên ngoài, mà còn sinh ra từ chính văn học. Khi bước vào nghề văn, tôi muốn biết cái nồi văn mà tôi đang nấu, hoặc định nấu, được kê bằng cái gì, được đun bằng cái gì. Trừ ngoại lệ lớn nhất và bền bỉ nhất là Trần Dần cùng một vài người chịu ảnh hưởng trực tiếp của ông, tôi luôn có cảm giác rằng giữa những người theo tinh thần NVGP và tôi có trò chuyện, nhưng hầu như không có một đối thoại thật sự, và những cuộc trò chuyện giữa đôi bên bao giờ cũng chỉ dừng ở một chiều sâu lịch sự, dễ chịu, không thể đi quá một chút nào, và luôn luôn quanh quẩn ở cái nấc thang thứ nhất kia. Dường như thời gian ở chỗ họ từ lâu lắm rồi đã không nhích thêm gang tấc nào, tôi thì đầy

Page 146: Tran Dan _ Poem

146

sự nôn nóng của tuổi trẻ, mà lại phải rất cẩn thận để không làm tổn thương ai. Luật của chúng ta dường như là vậy. Ðày đọa, thanh trừng, xoá sổ kẻ khác thì được, nhưng làm mất lòng thì không. Tôi không thể nói thẳng với họ, rằng tôi không nhất thiết phải đọc họ chỉ để biết rằng, nhà văn cần yêu ai cứ nói là yêu, ghét ai cứ nói là ghét, điều đó tôi được học ở nhiều chỗ khác rồi, mà không phải là học qua văn chương. Nói như thế là bạc, là phản bội, là rũ trắng mọi khổ đau đen ngòm của người khác. Nhưng có lẽ tôi đã kỳ vọng ở họ nhiều quá. Khi tuổi trẻ bị bịt đường lên phía trước thì nó ngoảnh lại phía sau mãi như vậy và thành những ông cụ bà cụ non. Tôi đã tìm một lối để thoát khỏi văn học Việt Nam đương đại. Cái văn học đó buồn tẻ, nhưng cuối cùng thì lối thoát của nó không phải là giật lùi về đỉnh cao của những năm 50. Cũng như vậy, văn học đổi mới hiện tại chẳng còn gì đáng nói nhiều nữa, song nó không nên ngoảnh lại tiếc nuối cao trào 1988-1989.

Trong những điểm cốt yếu, văn học của nhóm NVGP cùng một bản chất với văn học chính thống sau này. Có thể coi đó là sơ kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Còn phần lớn các tác phẩm cuối những năm 80 mà trong nước tuy gọi đùa, nhưng có lý của nó, là Nhân Văn 2, ngoài nước gọi là văn học phản kháng, là mạt kỳ của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. Thực ra những người làm nhiệm vụ duy trì và bảo vệ văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể yên tâm lâu dài: một mạt kỳ có thể kéo thêm cả thế kỷ, mà theo tôi thì văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa hoặc một cái gì na ná như vậy còn có tương lai vô tận ở Việt Nam. 500 hội viên này của Hội nhà văn Việt Nam có thể được thay bằng 500 hội viên khác, song 50 triệu người đọc thì không bãi đi để bầu mới nhanh như vậy được. Nền văn học này cũng đẻ ra một số tài năng và những tác phẩm có thể xúc động lòng người. Nhưng các tác giả và tác phẩm của nó giống nhau, hoàn toàn không có cá tính, đúng như Trần Dần đã nhận xét, năm 1955, về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu, rằng thậm chí những câu hay của Tố Hữu cũng không có chữ ký

Page 147: Tran Dan _ Poem

147

riêng, có thể ký ở dưới là Nguyễn Du, Tản Ðà, hay Ca Dao đều được. Những người có tên tuổi ở thời NVGP cũng không tránh được điều đó. Một số bài thơ của Lê Ðạt và Phùng Quán thuở ấy có thể ký lộn cho nhau, sau này thì Lê Ðạt tách hẳn ra để có một chữ ký độc đáo cho riêng mình, và lịch sử quả thật thích đùa khi ông bị Trần Mạnh Hảo, một nhà thơ hiện thực xã hội chủ nghĩa mạt kỳ phủ đầu, chính vì đoạn sau này. Bên Kia Sông Ðuống của Hoàng Cầm, hay Màu Tím Hoa Sim của Hữu Loan đi vào lòng người vì những lý do khác, chứ không phải vì đạt tới cái mà Trần Dần đòi hỏi, ngay từ thuở ấy, rằng nhà thơ trước hết phải có được cái chữ ký riêng của mình. Ông cũng chua ngay rằng đương nhiên còn phải xem kỹ cái chữ ký ấy nó như thế nào, nhưng mức tối thiểu là phải đạt được như vậy. Lịch sử văn học Việt Nam nửa thế kỷ qua cho thấy, cái tối thiểu mà Trần Dần yêu cầu ấy đã hầu như không đạt được. Cho nên phần lớn tác phẩm của ông, mỗi dòng là mỗi riêng một cõi, càng lúc càng riêng, riêng tới mức cực đoan, riêng tới mức bí hiểm phải giải mã, phải cần đến một từ điển Trần Dần, không có cách nào khác là làm phận bản-thảo-nằm. Ở ông là một bi kịch văn học lớn mà cái bi kịch chính trị của NVGP chỉ là một trong những bè đệm, còn ở một số người khác thì NVGP là sân khấu, thậm chí có sự trình diễn của các vai nạn nhân, văn chương chỉ đóng một vai rất phụ. Cho nên, nói về ông bây giờ mà không qua cái nấc thang thứ nhất kia cùng là tí ti minh oan, tí ti phục hồi, tí ti thương cảm, thì khác nào nhổ sơ sơ vài ngọn cỏ cho sạch vài phân vách đá, nhưng đằng sau đó là Ăng-co, để dùng lại một biểu tượng mà ông ưa dùng. Bất hạnh lớn của Trần Dần là NVGP, nhưng bất hạnh còn lớn hơn của ông là ông đã quẳng gánh NVGP từ lâu lại sau lưng, còn người đời thì vẫn è lưng ra gánh mãi. Sự nghiệp của ông không chấm dứt với năm 1958, mà mở đầu từ đó, và đạt tới cao trào trong khoảng 15 năm, từ giữa những năm 70, nghĩa là liên quan không nhỏ tới việc Sài Gòn thất thủ, đến cuối những năm 80, khi ông ngã bệnh.

Page 148: Tran Dan _ Poem

148

Bi kịch của Trần Dần là bi kịch của một nhà cách tân, có lẽ là nhà cách tân lớn nhất và sâu sắc nhất trong văn học miền Bắc Việt Nam nửa thế kỷ qua. Việc ông đi theo cuộc cách mạng của Ðảng cộng sản cho đến NVGP là việc dễ hiểu, bởi đôi bên khi ấy cùng chung nhau một chữ cách: cách mạng, cách tân, cùng chung nhau một ý tưởng đổi mới. Việc diễn ra sau đó đối với ông, theo tôi, cũng là một tất yếu. Tôi không cho rằng ông bị hiểu nhầm, mà ông bị không hiểu. Không hiểu chứ không phải hiểu nhầm. Hiểu nhầm còn chữa lại được, không hiểu thì khó thay đổi hơn nhiều. Một người như thế sống ở bất kỳ đâu cũng khó. Còn ở một nơi mà tính đại chúng là tiêu chuẩn tối thượng của văn chương nghệ thuật, một nơi mà sự phục tùng tổ chức, quyền uy, thế lực là kim chỉ nam cho mọi hành vi văn chương thì một người như thế phải bị đày đọa, bị tảy chay, hoặc nhẹ nhất là bị bỏ qua. Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Ông có 4 kiểu chữ hoàn toàn khác cách nhau: cho giai đoạn đến NVGP những năm 50 là một, giai đoạn ngắn sau đó, đầu những năm 60 là hai, giai đoạn đến đầu những năm 80 là ba, từ đó đến nay tuy chung một kiểu chữ là bốn, nhưng ngay trong một kiểu này cũng có nhiều phát triển khác nhau, kèm theo một khoa chính tả khác thường và một thư pháp, hay thư họa rất đặc trưng Trần Dần. Chỉ riêng điều có thể coi là nhỏ nhặt trong cái khối khổng lồ là ông- để dùng lại chữ của Dương Tường- đã làm việc đọc ông rất phức tạp, mà lại càng không thể công bố nhiều tác phẩm của ông ở dạng in ấn bằng những con chữ thông thường.

Trần Dần đương nhiên là khó hiểu. Nhưng ông nói về sự khó hiểu một cách hết sức giản dị: “Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu.” Khi ông tuyên bố: “Cái đèm đẹp giết chết cái đẹp”, thì

Page 149: Tran Dan _ Poem

149

một câu sáng rõ như vậy quả là tối tăm mù mờ với những ai chưa bao giờ nghĩ ngợi về cái “đèm đẹp”. Cái xinh xinh không thể đẹp, ý này có thể của ai khác, có thể từ tư duy trong tiếng nuớc ngoài, song vào tay Trần Dần thì thành cách nói đặc biệt Trần Dần, nhanh, mạnh, lột trần, độc đáo, không lặp lại ai và không tự lặp, rất Việt và rất hiện đại. Ðồng nghiệp của ông yêu cách nói này thì ít, mà sợ thì nhiều. Nguyễn Khải đã tả về hai con mắt “hiếp đáp thiên hạ” của Trần Dần. Không ít người suốt đời hậm hực về một lời phê thường cộc lốc nghiệt ngã của ông. Song một nhận định phát ra từ bóng tối và cõi im lặng của Trần Dần có cái uy dũng mà người ta tuy hãi nhưng thèm. Ai chịu trận được thì mang ơn ông mãi. Tôi được ông ưu ái khi vừa mon men vào nghề, phấn khởi lắm, nhưng những lời đe của ông sau này mới thực cho tôi những bài học càng lâu càng ngấm.

Người ta coi Trần Dần là lập dị. Nhưng trong một môi trường mà chỉ riêng chiếc ba toong của cụ Nguyễn chống trên vỉa hè Hà Nội đã được coi là biểu tượng của khác thường, thì sự lập dị của Trần Dần là vượt ra mọi cách. Chúng ta có thể tôn sùng kẻ đứng đầu một cách, nhưng kẻ vượt ra mọi cách thì không có chỗ đứng. Cho nên Trần Dần nằm. Thơ ông là thơ nằm. Mọi bản thảo của ông là bản thảo nằm. Hàng chục sổ thơ của ông là sổ nằm, ông đặt tên là sổ bụi, và khi hết sổ phải dùng đến vở tự khâu, thì đấy là vở bụi. Vả lại, khí chất của Trần Dần là cái khí chất không thuận với mọi cách, may ra ông gần hơn cả, gần chứ không thuận, với cách thi trung hữu qủy, và tự gọi mình là một thi tặc. Tôi chưa thấy ai trong lịch sử thi ca Việt Nam dám như vậy, đường hoàng như vậy: Thi tặc! Thơ ca của chúng ta có hay thì cốt hay-mãi-ngàn-năm theo hướng thánh thi, tiên thi, đạo thi, có đẹp thì đẹp theo cách tròn đầy nhã nhặn mà Trần Dần tuy ghi nhận nhưng không rung động. Nếu ai hoảng sợ trước cái khái niệm thi tặc ấy thì tốt nhất đừng đọc Trần Dần. Còn đã quyết định đến với ông thì xin đừng coi trọng quá những hành trang tinh thần mà mình đương nhiên khuân theo,

Page 150: Tran Dan _ Poem

150

vì Trần Dần thật lắm bất ngờ. Và nhất là, ông sẽ giới thiệu một thứ ngôn ngữ khác, một thứ tiếng Việt không chỉ cho lỗ tai mà còn cho con mắt, không trói nghĩa vào chữ, không bôi chữ vào chỗ trống của vô nghĩa. Từ 1958 đến nay Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại ồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới. Những người xung quanh ông, người nào cũng xin được, có khi trộm được, ít nhất là một vài con chữ từ cái lò luyện chữ của Trần Dần như vậy. Những chữ rất hiện đại và đầy truyền thống. Cách ông đối xử với ca dao chẳng hạn là cách của một người biết yêu sao cho cả phía được yêu lẫn phía mình đều lớn bổng lên, không phải cách “yêu ai thì người đó nhỏ lại” như ông đã từng phê rất đích đáng một nhà thơ nổi tiếng. Là những chữ rất hàn lâm uyên bác mà cực nôm. Cái sướng nôm của ông, nôm hiện đại của “1 bát sẹo 1 lẹo vú 1 bú đít 1 lít nách”, lây mạnh sang những người xung quanh, thành những ca vô cùng đặc sắc, thành một thứ tiếng Việt hiện đại và đầy phiêu lưu kỳ thú. Ông thậm duy mỹ mà sâu xa và có một giác quan không thể đánh lừa cho mọi giá trị thực. Ðiều đó kéo theo sự trân trọng và ngưỡng mộ, rất bất chấp, rất hồn nhiên của ông trước những tài năng và nhân cách thật. Ông đã nâng niu thơ Ðặng Ðình Hưng như thơ ruột, dù quan hệ đôi bên không phải lúc nào cũng êm. Ðồng thời, sự thẳng thắn đến phũ phàng của ông trước những thứ của rởm cũng không chừa bạn bè thân thích. Trước những con chữ, lòng ông khăng khăng trong sạch. Chỉ có điều, tất cả những thứ ấy đóng kín trước một số đông, một số rất đông, không phải của riêng thời NVGP, mà cả bây giờ và sẽ rất lâu sau này vẫn thế. Bây giờ, nếu một phần di cảo của ông có được đưa ra nghiên cứu và sử dụng, cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay số người có thể đọc xuyên qua được những trang bản thảo ấy. Sau ba mươi lăm năm, một trong hơn ba chục tác phẩm của Trần Dần mới ra mắt người đọc, tập thơ-tiểu thuyết Cổng Tỉnh, và

Page 151: Tran Dan _ Poem

151

được nhận giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam. Sự công nhận muộn mằn này dừng lại ở mức một cử chỉ thiện chí, với một quá khứ oan khiên, với một nhà thơ lớn khi ấy đã gần đất xa trời. Song nó không mang lại cho Trần Dần nhiều người đọc hơn. Khi cái lưỡi của đám đông đã hoàn toàn thoái hoá thì cao lương mỹ vị bày ra cho ai? Một phần ba thế kỷ văn vần quốc doanh, văn xuôi mậu dịch trên môi và trong lòng người đọc Việt Nam đã khiến ít ai vượt qua chỉ cái tựa đề Cổng Tỉnh. Tôi mở trang đầu, đọc những dòng đầu mạnh mẽ mộc mạc:

Kỷ niệm! Ðưa tôi về chốn cũ!

Ðừng ngại mây che từng cây số buồn rầu!

Ðừng ngại mở trong lòng vài khung cửa nhớ thương...

qua những dòng bồng bột lạ lẫm:

Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ

Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè...

những dòng ngọt lịm:

Có lẽ xa kia là phố tôi sinh

Có sương sớm đọng trên đèn muộn...

những dòng Trần Dần huyền thoại:

Gió thổi kèn ma mưa thui lòng ngõ hẹp

ò..ò đêm đi như một cỗ quan tài...

những dòng tha thiết:

Ở đâu? ở đâu có ngụm đèn xanh

Page 152: Tran Dan _ Poem

152

Rèm che nhoè cửa sổ?...

Nín đi thôi. Nín đi thôi các đại lộ nhiều cây

Ðừng sa sút lá

Ðể ta còn khuyên gió...gió đừng rung cây...

những dòng khinh bạc quay quắt:

Tôi ơi! Tôi ơi!...

Tôi vẫn rong chơi bên mấy cột đèn mù...

Tôi càng đứng bơ vơ đầu cổng tỉnh..

Tôi không có đủ đau thương cho mãn hạn sống

Tôi không có đủ tình yêu

Yêu trái đất lục đục thế này...

rồi lại ngọt đắng:

Gió ơi đừng vội tủi

Khuya rồi! Hãy tới khóc ở hom sông...

Có lẽ thu rồi em nhỉ

Em chớ khóc nhiều vàng ố ngã tư xưa...

Chỗ nào ông cũng thổi một sự sống khác thường vào những con chữ, chỗ nào cũng dành cho ta một bất ngờ. Biết bao giờ số đông người đọc Việt Nam mới dọn lòng, dành cho tài năng ghồ ghề jờ joạcx này một chỗ?

Số phận của Trần Dần là số phận hoàn toàn cô đơn và trong bóng tối theo mọi nghĩa của một người dốc hết mình vào thửa ruộng thử

Page 153: Tran Dan _ Poem

153

nghiệm của văn học, đặc biệt là của thi ca, một người, để dùng lại chữ của NVGP mà chắc sau này ông cho là mauvais gout lắm, moi tim moi óc làm thơ, một Tư Mã-như tên ông đặt cho mình và bạn bè- suốt nửa thế kỷ không chịu lùi một ly chữ, để làm cái việc mà ông gọi là thồ thơ tự xứ này lên. Một người đi suốt ván chiêm bao của những cái bị nợ và tự nợ, đánh suốt một ván đời với cái biết và cái chưa biết. Ông nói rằng, cái biết là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử là chưa phải thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ vì khó mà nhảy qua bóng mình.Tôi không dám nói ông đã thành công trong bao nhiêu mùa thử nghiệm của mình. Chỉ biết rằng, những ai may mắn đến lấy một hạt giống ở ông, rồi đem về đất của chính mình, đổ sức của chính mình vào đó thì ắt là thành công, trong những trường hợp hiếm hoi như Ðặng Ðình Hưng thì là một thành công lớn. Còn nếu không cũng được một mùa, theo chữ của ông, là mùa sạch.

Trần Dần từng nói, “tôi sốt ruột đợi lớp trẻ lớn lên để chôn chúng tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.” Nhưng trong một sổ bụi ông lại tự hỏi: lớp trẻ liệu có còn được một cơ hội mấy chục năm quốc nạn như mình không để làm cái việc ấy? Ông đã ngã bệnh nhiều năm trước khi qua đời, có lẽ cũng linh cảm nhưng không còn đủ thời gian để nhìn thấy những hình dạng mới của quốc nạn. Văn chương bây giờ có vẻ như chưa cần đày đọa đã ngắc ngoải tự hủy, chưa sinh ra đã kề huyệt. Thì chôn ai?

Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta.Tối thiểu tôi phải có được một văn cách.

(Đăng lần đầu trên tạp chí Văn Học, California, 1997)

Page 154: Tran Dan _ Poem

154

Tôi lúc nhúc cả ngày tứ phía câu-đố-bé-tí ẩn số. Những cốc tách song song xe cộ người giờ.

1963

Page 155: Tran Dan _ Poem

155

II.1

biến tấu chữ biến tấu âm

Page 156: Tran Dan _ Poem

156

Ba bài tập 1963 Quả đất Tôi nhất thích công tác

Xột quả đất …

Khi thạt người lạt xà lạt xạt

Khi xột ngày xần xật

Thoang đùi chưa bẹn lột

Thường chiều mắt sạt

Tôi nhìn xồn xột …

Đường thạc

Thấn chân hoàn hoạt bộ hành

Quả đát Tôi nhứt thích

công tác xựt quả đất …

Quả đát

Quả đoác

Lạt mùa trên quả đoạc

Page 157: Tran Dan _ Poem

157

Đột người lựt xựt

Thào thạc nhật

Mặt trời lột

Tôi đi phèn quả đật

Tôi thít quả đát …

quả đoát quả đoạc

… quả đạc

Tôi thít côm tát nịt chít

khít mít nuỵt chuỵt

huỵt … ở quả đoạt

Quả đạt Ở quả thoạt

tôi hát - tôi mát - tôi xạt

tôi ngạt - tôi thạt - tôi đạt

tôi phạt - tôi lạc tạc

tôi tác vác - tôi xốc lốc

tôi thúc - tôi múc - tôi xúc

tôi đúc - tôi khục - tôi pục

tôi đục - tôi đoác

tôi tát - tôi tạt - tôi vạc

tôi đạc … tôi nhìn gừm gựt …

tôi ghì xồn xột …

ở quả đạt

Page 158: Tran Dan _ Poem

158

Trên quả đất mùa I

Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

Miền miền sầm uất thị thành mùa

Bộ hành như giáo mác tủa mùa

Tàu mùa tấp nập còi mùa

Trong mát mặt trời mùa

Ngực mùa len lụa phố mùi mùa

Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

Khi nốt chân mùa dày dạy gió mùa

Giọt điện mùa lẩy bẩy đèn mùa

Đồng hồ mùa trôi chảy tuổi mùa

Gặp gỡ mùa rong ruổi ngã ba mùa

Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

Khi nụ cười mùa mát rượi phố mùa

Ngày nghỉ mùa chi chít gái trai mùa

Hoa viên mùa ve vảy đùi mùa

Tăcxi mùa ngoe ngoảy chiều mùa

Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

Khi búa mùa chi chát xưởng mùa

Liềm mùa dột doạt gặt mùa

Page 159: Tran Dan _ Poem

159

Bút mùa xột xoạt tình mùa

Khói mùa trong lửa bếp mùa

Đạn mùa chăm chỉ luỹ mùa

Cơm trắng nuột bàn mùa

Biển mùa ngồn ngộn cá mùa

Bến mùa tua tủa thuyền mùa

Đi lại mùa loạt xoạt đường mùa

Khi điếu thuốc mùa châm cửa sổ mùa

Que diêm mùa xoè ngọn lửa mùa

Xoong chảo nồi niêu mùa lịch kịch buồng mùa

Cửa ngõ mùa rục rịch sao mùa

Nhân dân mùa rộn rịch miền mùa

Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

II

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Bò mùa lúc nhúc nông trường mùa

Ga mùa lục xục tàu mùa

Chiều mùa lục bục sấm mùa

Tỉnh mùa lục tục gặt mùa

Mạ mùa gieo mùa

Sao mùa vằng vặc ngoại thành mùa

Xóm mùa lạc xạc cày mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Page 160: Tran Dan _ Poem

160

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Nơi bắc càu mùa

Nơi ngâm hạt mùa

Nơi chăm tằm mùa

Nơi bửa núi mùa

Nơi vượt biển mùa

Xào xạc gió mùa

Mùa Việt nam trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Mùa cau ỏn ẻn trầu mùa

Mùa duyên hò hẹn trăng mùa

Mùa na dụn dịn vườn mùa

Mùa sen trong vắt đầm mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt nam mùa

Mùa sao xủi bọt chiều mùa

Mùa tem nà nuột thư mùa

Mùa giao thông xoàn xoạt tàu mùa

Mùa len loạt xoạt nội thành mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Mùa chim chim chíp tổ mùa

Mùa cưới xin bắc nhịp cầu mùa

Mùa dé xoan nhộn nhịp thuyền mùa

Mùa hội cấy thi chiêm chiếp mạ mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam

Mùa phùn xột xệt công trường mùa

Mùa cưa sèn sẹt lâm trường mùa

Page 161: Tran Dan _ Poem

161

Mùa luyện quân khin khít đạn mùa

Mùa quanh năm lẫm liệt gái trai mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Mùa xây tới tấp gạch mùa

Mùa than tấp nập mỏ mùa

Mùa dân quân rồn rập bãi mùa

Mùa xuất binh sầm sập sấm mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Tôi công tác trong vắt kể cả những ngày thâm đông

dựng may lạo xạo nội thành mùa

Tôi nhìn trong vắt ở cả những phía thất bát mùa

Những phía xục bùn mùa…

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Chúng tôi gieo hạt màu mùa

Chúng tôi bắt sâu mùa trùng mùa

Đuổi chim xít mùa

Mọi kẻ phá mùa

Chúng tôi cho chúng chiếc quan tài mùa!

Ấm lạnh cùng nhân dân năm lục địa mùa

Chúng tôi hồn hậu ngâm gieo cấy hái trên quả đất mùa

Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

(lấy từ Mùa Sạch, 1964)

Page 162: Tran Dan _ Poem

162

Thích toàn mùa

Tôi thích mùa sen gồm cả sen mùa

Gồm cả cánh tem mùa

Gồm cả lạt nem mùa

Gồm cả cốc kem mùa

Gồm cả cột đèn mùa

Tôi thích mùa mây gồm cả mây mùa

Gồm cả cây mùa

Gồm cả nốt giầy mùa

Gồm cả cầy mùa

Gồm cả gậy đầy mùa

Gồm cả cói đay mùa

Gồm cả cối chày mùa

Gồm cả bánh giầy mùa

Page 163: Tran Dan _ Poem

163

Tôi thích mùa lũ gồm cả lũ mùa

Gồm cả vũ mùa

Gồm cả giặt giũ mùa

Gồm cả nụ mùa

Gồm cả gụ mùa

Tôi thích mùa mun gồm cả mun mùa

Gồm cả phun mùa

Gồm cả ếch lươn mùa

Gồm cả phùn mùa

Gồm cả bùn mùa

Tôi thích mùa nấm gồm cả nấm mùa

Gồm cả sấm mùa

Gồm cả thụ phấn mùa

Gồm cả lấm mùa

Gồm cả thị trấn mùa

Gồm cả chuyển vận mùa

Gồm cả nhận mùa

Gồm cả sen mận mùa

Gồm cả bổn phận mùa

Page 164: Tran Dan _ Poem

164

Tôi thích mùa ngâu gồm cả ngâu mùa

Gồm cả trầu mùa

Gồm cả nhịp cầu mùa

Gồm cả nước mầu mùa

Gồm cả chũm cau mùa

Gồm cả phau phau mùa

Gồm cả rể dâu mùa

Gồm cả cô dâu mùa

Gồm cả phù dâu mùa

Gồm cả phù rể mùa

Gồm cả hai họ mùa

Gồm cả xóm mùa

Gồm cả ru ri cô dì mùa

Gồm cả lạc xạc chú bác mùa

Gồm cả cưới xin linh đình mùa

Tôi thích cả trong họ ngoài làng mùa

Cả trong họ ngoài làng mùa tôi thích

(lấy từ Mùa Sạch, 1964)

Page 165: Tran Dan _ Poem

165

Lời bạt Mùa sạch

Dương Tường

Trong di cảo của Trần Dần được sơ bộ soạn thành 186 hồ sơ xếp trong 24 cặp lớn, Mùa Sạch được đánh số 21.

Di cảo này ở vào chặng nào trong hành trình văn học đầy biến thiên của Trần Dần? Nó có vai trò như thế nào trong triển diễn của nhân cách văn học Trần Dần? Nhiều chục năm gần gũi Trần Dần cho phép tôi dễ dàng định vị Mùa Sạch vào giai đoạn anh dứt khoát rũ bỏ ảnh hưởng của thơ bậc thang và khẩu khí Maiakovski mà ngay cả trong Bài thơ Việt Bắc và phần nào trong Cổng Tỉnh, ta vẫn còn gặp ở nhiều chỗ. Có thể nói đây là một bước ngoặt đánh dấu một độ chín mới trong phong cách đa bội Trần Dần. Động thái thơ này có gì tương đồng và tương ứng với tìm tòi của Nguyễn Tư Nghiêm trong mỹ thuật, cũng vào thời kì ấy: trong khi Nghiêm quay về vục cảm xúc từ điêu khắc và kiến trúc đình chùa để đi đến một ngôn ngữ tạo hình hiện đại thì Trần Dần trầm mình vào suối nguồn ca dao - đồng dao để tạo nên một hôn phối kỳ thú giữa truyền thống và hiện đại. Trường ca Mùa Sạch là kết quả của những cố gắng cách tân đó. Với tinh chất ca dao - đồng dao như là vật liệu, tác phẩm được tạo dựng theo cấu trúc của nhạc giao hưởng. Một tổ khúc giao hưởng lấy bốn từ trong - sạch - sáng - mùa làm chủ đề chính (leitmotiv) được phát triển thành nhiều biến tấu, tạo một nền âm - chữ siêu ngữ nghĩa, thường trực và da diết hay, để dùng một

Page 166: Tran Dan _ Poem

166

thuật ngữ âm nhạc, một basso ostinato (bè trầm trì tục). Phải, hồi đó tôi thường hay bàn với Dần về basso ostinato. “Ừ, tao sẽ cho chạy một basso ostinato suốt tập thơ mới”, anh ngỏ với tôi. Trần Dần là người đã đi là đi tới cùng. Anh thậm ghét những “demi-mesures” - anh quen dùng từ Pháp này để chỉ thói nửa vời. Anh yêu thích cách điệp từ điệp âm trong ca dao tục ngữ Việt Nam và khai thác vận dụng triệt để thủ pháp đó trong Mùa Sạch. Cách nào đó, basso ostinato là một ngón điệp từ đẩy lên cực độ, lên lũy thừa n, anh định nghĩa. Riêng tôi chưa thấy trong thơ Việt Nam cũng như thơ thế giới trường hợp nào một độc vận duy nhất chạy suốt hàng chục trang thơ như trong các chương đoạn Mùa Sạch. Cách nào đó, có thể nói, Mùa Sạch là một trường ca bốn từ như Boléro của M. Ravel là một kiệt tác một câu vậy. Cái bè trầm trì tục ấy khơi dậy biết bao nỗi niềm, biết bao xao xuyến, biết bao khao khát.

... Tôi nhất thích công tác ở quả đất mùa

Khi nốt chân mùa dày dạy gió mùa Giọt điện mùa lảy bảy đèn mùa

... Khi nụ cười mùa mát rượi phố mùa Ngày nghỉ mùa chi chít gái trai mùa

Hoa viên mùa ve vẩy đùi mùa Tắcxi mùa ngoe nguẩy chiều mùa

... Khi điếu thuốc mùa châm cửa sổ mùa Que diêm mùa xòe ngọn lửa mùa

... Tôi nhất thích công tác ở Việt Nam mùa

Mùa cau ỏn ẻn trầu mùa Mùa duyên hò hẹn trăng mùa

Mùa na rụn rịn vườn mùa

Mùa Việt Nam trên quả đất mùa

Page 167: Tran Dan _ Poem

167

Danh từ mùa ở đây lúc giữ nguyên từ loại, lúc biến hóa thành từ định tính cho mọi khái niệm, cho vạn vật!

Trần Dần khát khao sạch, khát khao trong ở cả cấp vi mô lẫn vĩ mô, ở cả cái cụ thể lẫn cái trừu tượng: quê sạch, diệc mạ sạch, cây tre sạch, duyên sạch, tư duy sạch, bút sạch, đàn sạch, ... phố trong, giờ trong, hành tinh trong, sao trong, địa cầu trong, (cả) tối (cũng) trong, (cả) bùn (cũng) trong...

Tôn vinh đất mẹ Việt Nam, Trần Dần lên lịch cho mọi phạm trù: lịch xuân, lịch hè, lịch thu, lịch đông, lịch họ hàng, lịch con cái, lịch tươi, lịch sáng, lịch sao, lịch đất, lịch lúa, lịch hạt... Những trang lịch lúp búp của phồn thực chữ sinh sôi - phôi chữ, hạt chữ, mầm chữ nở lúa túa trong dạt dào hơi thở của ca dao - đồng dao. Với lương tâm một người làm vườn quốc ngữ, Trần Dần tận tụy ươm chữ cho một mùa chữ Việt sáng - sạch - trong.

Dòng cuối bản thảo Mùa Sạch ghi niên đại sáng tác là năm 1964-1965. Nhưng thực ra, anh đã hoài thai nó từ mùa thu Quý Mão, nghĩa là gần như cùng thời kì chị Khuê có mang đứa bé mà nay là họa sĩ Trần Trọng Vũ tài danh. Tôi nhớ hồi giáp Tết năm ấy, khi chị Khuê trở dạ, vét cả nhà còn chưa đầy chục bạc, bạn bè góp lại được 30 đồng đưa chị vào nhà hộ sinh. Trong những điều kiện như vậy - nhà cửa vợ con nheo nhếch, sự nghiệp dang dở, hàng chồng bản thảo vẫn “nằm” không biết bao giờ mới được ra đời - Trần Dần vẫn:

... nhìn trong vắt ở cả những phía thất bát mùa

Người viết lời bạt này muốn mượn ý của P.Valéry về S. Mallarmé mà rằng: Cái nhìn trong vắt ấy của Trần Dần đã “nâng trang thơ lên bậc lũy thừa của một trời sao”.

Hà Nội 1998

Page 168: Tran Dan _ Poem

168

Sạch

(một bài tập)

Công viên chiều sạch

thạch ngày …

thơm giầy

mây mài – lai bùn – chun quần - thăn mần – gương

trần – mâm đùi – mưa chùi – mui nhài – co cài –

xoong nồi – vai mùi – dui kèo – kheo đồng hồ - thơ

cờ - lơ rèm – tim phèn

bùn sen … men đèn

Công viên chiều sạch

thạch ngày … sao mát

ngọt nhoát - soạt nách - hạch thoát - ngoạt xếch -

lệch vát – hát – ngát – cát – thát vát - vạt thía – mía

– khía – tía – lía phía – tôi ngiá - quạt thoạt - loạt hạt

–lath nhạt - lạc loác - ngoạc lác – làn nhàn – sao -

sột soạt … thạch ngày

Công viên chiều sạch …

Page 169: Tran Dan _ Poem

169

Sau mưa

Đại lộ sau mưa thuỷ mạc

Hoa viên lòng lọc bộ hành

Xòng xọc tàu lên sạch một mạch

Cột đèn mưa sạch

Con chim sẻ sạch

Tôi đi sành sạch

. . . . . . Bốn bề

Tia mắt sạch nhìn nhau

(lấy từ Mùa Sạch,1964)

Tìm em

I

Anh vẫn tìm em qua thành phố sạch

Qua tinh mơ xe cộ sạch

Qua chiều sương tỏa lạnh sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua khu nhà nữ sạch

Qua ty văn hóa sạch

Page 170: Tran Dan _ Poem

170

Qua trường học sạch

Qua nhà thủy tạ sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua cửa hàng mậu dịch sạch

Qua công ty du lịch sạch

Qua tầm tan trường kịch sạch

Qua đoàn phiên dịch sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua phòng triển lãm sạch

Qua khu sứ quán sạch

Qua sớm mai trường Đảng sạch

Qua Bộ Công nghiệp nặng sạch

Qua nha khí tượng sạch

Qua ca ba phân xưởng sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua thư viện sạch

Qua bưu điện sạch

Qua ngược xuôi dòng tàu điện sạch

Qua đêm trình diễn sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua nhà in sạch

Qua khu Kim Liên sạch

Qua đường Thanh Niên sạch

Qua sân truyền sạch

Qua hồ sen sạch

Qua nhà thuyền sạch

Qua nhà đèn sạch

Qua nhà kèn sạch

Qua nhà diêm sạch

Page 171: Tran Dan _ Poem

171

Qua nhà thông tin sạch

Qua xưởng phim sạch

Qua xưởng dệt kim sạch

Qua đường nhà Tiền sạch

Qua trường nữ diễn viên sạch

Qua đầu giêng năm sạch

Tìm em

II

Anh vẫn tìm em qua chiều chủ nhật sạch

Qua công viên trong vắt sạch

Qua đèn hàn hạt sạch

Qua lưng vai thăn thắt sạch

Qua ngày ngăn ngắt sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua chiều thứ hai sạch

Qua đôi môi mời sạch

Qua Hồ Tây mây sạch

Qua nhà đôi ngồi sạch

Qua thơi thới ngày sạch

Qua đôi giầy sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua chiều thứ ba sạch

Qua đại học bách khoa sạch

Qua nhà ga sạch

Qua mùng 8 tháng 3 sạch

Qua tia mắt ngân nga

Page 172: Tran Dan _ Poem

172

đường Bà Triệu sạch

Qua vòng Bờ Hồ sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua chiều thứ tư sạch

Qua Cổ Ngư sạch

Qua vườn su su sạch

Qua bludờ sạch

Qua bệnh viện Việt Xô sạch

Qua dòng thư sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua chiều thứ năm sạch

Qua rạp Công Nhân sạch

Qua vườn ươm sạch

Qua gót chân tân chiều sạch

Qua đền Ngọc Sơn sạch

Qua Gia Lâm sạch

Qua mùa dơn dờn sạch

Qua Đồng Xuân sạch

Tìm em

Anh vẫn tìm em qua chiều thứ sáu sạch

Qua tòa báo sạch

Qua dòng xe pháo sạch

Qua hồ Bảy Mẫu sạch

Qua hoa viên tà áo sạch

Qua nhà mẫu giáo sạch

Qua khu gạo sạch

Qua đường long não sạch

Qua vườn bách thảo sạch

Tìm em

Page 173: Tran Dan _ Poem

173

Anh vẫn tìm em qua chiều thứ bảy sạch

Qua dặng đèn đường mày mày sạch

Qua tắcxi hày hạy sạch

Qua khu Tám Mái sạch

Qua bộ hành qua lại sạch

Qua bàn pinhpông nhà máy sạch

Qua dòng người vồi vội sạch

Qua đường thành thoai thoải sạch

Qua nhà cây cậy sạch

Tìm em

Ơi em !

Anh sẽ có em kề năm tháng sạch

Có em kề khuya sáng sạch

Kề môi ngực sạch

Kề thao tác sạch

Kề đôi sức sạch

Kề trăm tuổi sạch

Kề đời

Anh sẽ có em kề tâm lực sạch

Kề gần xa lâu lý sạch

Kề anh em bác mẹ sạch

Kề liền hoa liền đế sạch

Kề khi sương sa tuần lễ sạch

Kề nhau

Anh sẽ có em kề đôi tay sạch

Kề đôi mày sạch

Kề đôi đời sạch

Kề đôi bổn phẩn sạch

Kề đôi người sạch

Kề vai

Page 174: Tran Dan _ Poem

174

Anh sẽ có em kề thân tơ sạch

Kề guồng se sạch

Kề tay ngà sạch

Kề khi tua rua ngùa ngùa cửa sổ sạch

Kề khi chân đi tua tủa sạch

Kề anh

Anh sẽ có em kề se chỉ sạch

Kề bông nhụy sạch

Kề khi lỉnh kỉnh nồi niêu xoong chảo sạch

Kề khi hành trình quả đất sạch

Kề khi da mồi tóc bạc sạch

Kề em

Ơi em !

Kề thuyền sạch

Kề đèn sạch

Kề sen sạch

Kề phím sạch

Anh đã tìm em qua mưa tuần lễ sạch

Tìm em qua ban mai thành thị sạch

Tìm em qua chiều tà tỉnh lỵ sạch

Em nhỉ kề đôi năm thì sạch tháng thì giêng

(lấy từ Mùa Sạch,1964)

Page 175: Tran Dan _ Poem

175

Tác phẩm MÙA SẠCH của Trần Dần qua góc nhìn của nghệ thuật khái niệm

Nguyễn Như Huy

Có thể nói tác phẩm MÙA SẠCH của Trần Dần chính là một tác phẩm trọn vẹn nhất của Nghệ Thuật Khái Niệm (conceptual art). Trần Dần chính là nhà Khái Niệm (conceptualist) đầu tiên của văn nghệ Việt Nam.

Trong bài viết “Sentences on conceptual art” của Sol Lewitt, bài viết từng được nhà phê bình Peter Shjeldahl đánh giá là “…một trong những bài viết âm vang và phi thường nhất về triết lý mỹ

Page 176: Tran Dan _ Poem

176

học từ thời Aristot…” (Nicole Baume, The music of forgetting). Sol Lewitt đã viết:

“Chẳng có một hình thức nghệ thuật nào, về bản chất là cao hơn hình thức nghệ thuật nào cả và người nghệ sỹ có thể sử dụng bất cứ hình thức nào, từ thể hiện bằng ngôn từ cho tới vật chất hóa tác phẩm, tất cả đều ngang nhau” (Sol Lewitt, "Sentences on conceptual art", Critical Texts).

Thông qua phát biểu đó, Sol Lewitt – một trong những nhà nghệ sỹ quan trọng bậc nhất của nghệ thuật khái niệm quả thực đã coi tư duy của nghệ sỹ trước khi bắt đầu tiến hành tác phẩm quan trọng hơn tác phẩm sau cùng. Tư duy ấy chính là cái ý tưởng động mà nghệ sỹ, từ đó, sử dụng để tạo nên tác phẩm. Nói cách khác, đó là cái lõi của tác phẩm.

Tất cả mọi tác phẩm của � � * � � � � � � � � � �đều được xây

dựng trên một cấu trúc như vậy, từ một ý tưởng đầu tiên, được triển khai và nâng cấp thông qua những � � & � � , thậm chí vô vàn biến thể dưới sự kiểm soát của nghệ sỹ trong vài hình thái gốc và thông qua đó, đặt ra quy tắc để kiểm soát tổng thể.

Trong phương pháp để tạo nên một tác phẩm nghệ thuật Khái Niệm, ngoài điều vô cùng quan trọng là cái lõi gốc đầu tiên của tác phẩm, thì sự � " � � � , ' � � � và không thỏa hiệp của nghệ sỹ trong tiến trình tạo nên tác phẩm của mình cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng. Cũng trong bài viết “Sentenses on conceptual art” của mình, Sol Lewitt đã nói: “… Nếu trong lúc thực hiện tác phẩm, người nghệ sỹ thay đổi ý kiến, đó chính là lúc anh ta đã thỏa hiệp với kết quả và quay trở lại với những hiệu ứng xưa cũ.” Có thể nói việc không thay đổi và thỏa hiệp trong tiến trình tạo nên tác phẩm chính là một trong những tiền đề của Nghệ Thuật Khái Niệm.

Page 177: Tran Dan _ Poem

177

Từ trào lưu nghệ thuật hiện đại khởi nguồn từ Cezanne của thế kỷ 19 cho tới những nhà trừu tượng biểu hiện Mỹ thế kỷ 20 - trước khi Nghệ Thuật Khái Niệm ra đời – dù hình thức tạo nên tác phẩm có khác nhau đến mấy đi nữa, nhưng những thành tố chính để tạo nên nghệ thuật của họ vẫn không nằm ngoài mấy điều sau:

1 - Tính ngẫu nhiên hoặc sự tình cờ (trong lúc tạo nên tác phẩm).

2 - Sự đồng bóng của chính nghệ sỹ khi liên tiếp thay đổi kế họach trong việc tạo nên tác phẩm.

3 - Tất cả mọi mục đích của tác phẩm nhằm vào cú sốc thị giác đầu tiên của người xem khi chạm vào tác phẩm.

4 - Khiếu thẩm mỹ của nghệ sỹ.

Do 4 thành tố chính trên đây, dù với bất cứ mục đích gì, điều quan tâm chung của các nghệ sỹ - bắt đầu từ Cezanne, cha đẻ của chủ nghĩa hiện đại cho tới các nhà trừu tượng Mỹ - luôn là tác phẩm. Rốt cục, tác phẩm sẽ trông ra sao? Ðẹp hay xấu, mạnh hay nhẹ, gây ấn tượng hay không? v.v… và v.v...

Với các nghệ sỹ Khái Niệm thì hoàn toàn trái lại. Trong một bài viết khác “Paragraphs on conceptual art” (Theories and documents of contemporary art – University of California Press, 1996 ) Sol Lewitt từng viết:

"…Rốt cục, tác phẩm cuối cùng trông ra sao không phải là điều đáng quan tâm, dù sao đi nữa, khi tác phẩm được vật chất hoá, nó sẽ phải mang một hình dáng nào đó, tuy nhiên, vấn đề không phải là cuối cùng dáng vẻ của tác phẩm sẽ trông ra sao, mà vấn đề ở chỗ, tác phẩm phải được bắt đầu bằng ý tưởng. Tác phẩm

Page 178: Tran Dan _ Poem

178

phải là một hành trình của khái niệm và nhận thức, đó chính là những gì mà người nghệ sỹ nên quan tâm…"

Với các nghệ sỹ kể từ chủ nghĩa hiện đại cho tới trừu tượng biểu hiện nói trên, một kế hoạch chu đáo được chuẩn bị và thực hiện không thay đổi cho tới lúc hoàn tất tác phẩm là một điều gì đó không tưởng bởi về bản chất, nghệ thuật của họ xây dựng trên những quyết định nẩy sinh thông qua tình cờ và ngẫu nhiên – họ tin vào cách giải quyết khi gặp bất ngờ của họ, họ chờ đợi sự bất ngờ. Họ gieo “nhân” một cách ngẫu nhiên và bằng cách giải quyết khi gặp vấn đề (những vần đề do chính họ tạo ra một cách ngẫu nhiên và đôi khi không tự biết) họ gặt lại “quả”. Có thể nói, tác phẩm của họ là một liên tiếp của những thay đổi kế hoạch – nói theo ngôn ngữ nhà Phật, tác phẩm của họ được tạo ra trong nghiệp và là những tác phẩm tạo nghiệp.

Với những nhà nghệ thuật Khái Niệm, việc lập kế hoạch kỹ lưỡng cho tác phẩm từ ban đầu và thực hiện nó một cách không thay đổi cho tới khi kết thúc là một trong những khía cạnh quan trọng nhất. Tác phẩm của họ hoàn toàn không hề dựa vào tính vô thường và ngẫu nhiên, khiếu thẩm mỹ hay những quyết định thỏa hiệp - những cái là nền móng tạo nên toàn bộ hành trình mỹ thuật trước họ. Có thể nói, bằng cách nhẫn nại thực hiện kế hoạch của mình từ ban đầu, tác phẩm của những nghệ sỹ của nghệ thuật khái niệm đã loại bỏ toàn bộ những yều tố chi phối những trào lưu nghệ thuật trước họ như: cảm xúc của nghệ sỹ, sự tình cờ ngẫu nhiên trong quá trình làm việc, tính nhân quả của hành động, và tính vô thường mờ mịt của quyết định. Với sự từ khước những yếu tố nói trên, nghệ thuật khái niệm đã trở nên không đơn thuần chỉ còn là một trào lưu nghệ thuật tiền phong mà quả thực nó đã chính là một cấp độ được nâng cao của nhận thức con người về chân lý thông qua việc loại bỏ những ảo giác của chính họ (những ảo giác nẩy sinh từ sự va chạm của lục căn với đời

Page 179: Tran Dan _ Poem

179

sống) khi đối diện với thế giới bên ngoài cũng như đối diện với nghệ thuật. Các tác phẩm của Nghệ Thuật Khái Niệm thật sự đã dứt khỏi nghiệp để tạo nên sự giác ngộ sau cùng cho người xem.

Trở lại với nhà thơ Trần Dần, có thể thấy tập thơ MÙA SẠCH của ông đã là một bước đi kỳ lạ nếu so sánh với tất cả các tập thơ của các nhà thơ khác cùng thời (trước thời, thậm chí sau thời) và cả những bài thơ lẻ, tập thơ khác của ông.

Với một lõi xuyên suốt trong các bài thơ của mình (cái mà ông gọi là hạt nhân-thơ hạt nhân), Trần Dần đã tạo nên � � � � � & � � để sử dụng cái lõi ấy như một cái máy sản xuất nghệ thuật – "a machine that makes art" (chữ của Sol Lewitt, "Paragraphs on conceptual art").

Từ một hạt nhân – cả tập thơ của ông đã phát triển thành một � , �� � a � � & của vô số biến thể. Có thể nói rằng, với tác phẩm

MÙA SẠCH Trần Dần đã sử dụng hệ thống module bội số – "multiple modular method" (chữ dùng của Sol Lewitt, "Paragraphs on conceptual art") cho nghệ thuật của mình.

Đặc điểm của hệ thống module bội số này là vô số các biến thể luôn được bắt đầu từ một đơn vị gốc, chính từ những đơn vị gốc đầu tiên ấy mà các biến thể được hình thành, bằng cách lũy thừa tiến những đơn vị gốc cùng với những phương án thay đổi xuyên suốt của chính đơn vị gốc ấy.

Tuy nhiên, để thỏa mãn việc những biến thể phải có một vẻ trôi chẩy và toàn bộ tác phẩm phải được cấu trúc cùng một ngữ pháp trong sáng (cái mà Sol Lewitt coi trọng và rất nhiều lần lưu ý trong các bài viết của mình), những đơn vị gốc được lựa chọn để lũy thừa phải là những đơn vị có tính đơn giản, dễ đọc về mặt thị giác (với Trần Dần là đơn giản và dễ hiểu về mặt nghĩa tự vị của

Page 180: Tran Dan _ Poem

180

từ hạt nhân mà ông chọn), nghệ sỹ phải tránh (dù là vô tình hay chủ ý) tạo nên sự hấp dẫn thị giác - của đơn vị gốc (với Trần Dần là việc tránh những chữ, câu hạt nhân đa nghĩa, đa thanh rắc rối) - cái sẽ làm người xem lạc khỏi mục đích chính của tác phẩm là: sự biến thể - chứ không phải là cái biến thể, là hành trình chứ không phải vẻ xa hoa của những trạm dừng.

Những hạt nhân trong những bài thơ của Trần Dần ở tập MÙA SẠCH hoàn toàn thỏa mãn một cách cao nhất những yêu cầu về đơn vị gốc đó.

Có thể có một so sánh rất thú vị tác phẩm MÙA SẠCH của Trần Dần với tác phẩm "Những hình lập phương mở không hoàn tất” ("Incomplete open cubes") của Sol Lewitt. Cả hai tác phẩm đều được bắt đầu từ một đơn vị rời (lõi, hạt nhân) và trọn vẹn của cả hai tác phẩm đều là một bội số của những biến thể từ đơn vị ấy. Ở Trần Dần, lõi tác phẩm là những chữ hạt nhân cùng với các phương án lắp ghép danh từ, còn với Lewitt, là một hình lập phương mở đang trong hành trình tự hoàn tất.

Cả hai tác phẩm đều thể hiện một sự nhấn chìm toàn bộ mọi ảo giác về cái gọi là cảm xúc của người xem (bao gồm chính nghệ sỹ) trong một tiến trình nhẫn nại của hành động để nhằm đạt tới những thỏa mãn về trí tuệ, vượt thoát khỏi lục căn để nhận chân sự thật. Cả hai tác phẩm đều tỏ ra một sự lãnh đạm có chủ ý với thế giới bên ngoài (với Trần Dần là một sự lãnh đạm chủ ý khi đề cập tới thế giới bên ngoài) để quay ngược vào bên trong, đóng lục căn lại để tìm tới sự tĩnh lặng tuyệt đối của giác ngộ. Tính tự trị của cả hai tác phẩm được đảm bảo trọn vẹn thông qua việc hoàn toàn không có sự can thiệp của nghệ sỹ vào trong quá trình tạo nên tác phẩm. Với cả hai tác phẩm MÙA SẠCH của Trần Dần và “những hình lập phương mở không hoàn tất” của Sol

Page 181: Tran Dan _ Poem

181

Lewitt, cả hai nghệ sỹ đã chỉ giữ vai trò người cung cấp ý tưởng – còn bản thân hai tác phẩm đều tự tạo nên mình.

Đơn vị gốc của tác phẩm “những hình lập phương mở không hoàn tất” của Sol Lewitt là một hình vuông mở (thiếu cạnh) trong hành trình lưỡng lự tự tìm cách định vị một góc mở cuối cùng. Đơn vị gốc của tác phẩm MÙA SẠCH của Trần Dần là một từ và những biến thể của đơn vị gốc ấy là hành trình khăng khăng của chính từ đó trong mối tương quan với vô số từ khác để tạo ra vô số của những phương án ngữ nghĩa kỳ lạ.

Theo thiển ý của người viết bài này - tập thơ MÙA SẠCH của Trần Dần đã làm một cuộc vượt vũ môn ngoạn mục thoát khỏi chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa hiện đại và cả những cách tân lặt vặt của nghệ thuật Việt Nam để trở nên một trong rất hiếm tác phẩm nghệ thuật tiên phong nhất, hoàn hảo nhất và trí tuệ bậc nhất của nghệ thuật Việt Nam, thậm chí, tính cả tới thời điểm của những năm tháng này – những năm tháng bắt đầu của thế kỷ 21.

(Xin lưu ý thêm một sự thật là - cả 2 bài viết quan trọng về conceptual art cũng như tác phẩm incomplet open cubes của Sol Lewitt được tôi dẫn chứng trong bài viết này đều được sáng tác vào đầu thập kỷ 70 – trong khi tập thơ Mùa Sạch của Trần Dần làm vào năm 64)

Page 182: Tran Dan _ Poem

182

con OEE 1967 16 / 100 thơ bốn câu Rôck - biến tấu Âm

1 Oe nhau từ và thè

Vì hòe nhe gạo nụ

Mai gai vừa ọ chớp

Lá choe choe

2 Yêu em chiều lành nghề

Tuy xa mành mành thề

Lá lưng gừng cắn the

Ngói chim ghìm mạy thóc

Page 183: Tran Dan _ Poem

183

3 Cho to bàn hạt mít

Gái đôi ngồi mình ngày

Múi chanh lành ghế ngọt

Me chân lùa tím mát

4 Tuổi đuổi chuỗi mắt nhặt

Tôi không đông dòe vè

Từ thè nghe tối nách

Mưa tách hột kính hạt

5 Chua me đè nhẹ sẽ

Mày đẻ ghẹ treo lèo

Thèo nhà cu cốc leo

Ngực ngày chay nở ghế

6 Ưa mưa tia nhia nhia

Lột buồng cụng cựa

Hè sàn loe chân lia

Thênh em bềnh cửa ngửa

Page 184: Tran Dan _ Poem

184

7 Tua gai ngài xé dé

Bè hẹ nẻ che vè

Ngòi nhìn kin kín mí

Chớp mầy nhe

8 Nét sớm dé dâu tươi

Rúc da xày lộng vạch

Chụm chùm me uốp nách

Lá líu búc kê chim

9 Thêm tôi ngồi má sựa

Giữa thừa ưa thúa lúa

Rộ gà te buổi nữa

Rộ gà te

Page 185: Tran Dan _ Poem

185

10 Long thong lòng thòng đòng

Em ra tay ngòng ngòng

Song song tròng mắt trong

Vòng nhì hi hí lé

11 Kín kén thang em từ bén bẹn

Nguồng luồng tem tuổi phía

Toang phen ph’ùng én thẹn

Tổng kiền kiền

12 Phố líu nh’’íu lìu nh’’ìu người

Vivu đi ngò ngò thòi

Ngoáng chim loi ch’’oi lòi ch’’òi

Thi thoi tôi ngày vọt v’’òi

Page 186: Tran Dan _ Poem

186

13 Bộ hành toanh lọt đọt

Lịu lìu niên thót vót

Ghem tem em vìvàvì v’’ọt

Ọt òi chim

14 Đ’én ngoét

X oẹt xooèè em

Em v’oét

Th’oẹt th’oè em

15 Noẻ xoè xoè

Thil thil thín lá

Nghịt ngìn nghit ngạ

Thoẹ thoè croè

16 Em toếf

Loềnk lềnk loẹl noẹf

Toềnk tềnk ngoẹl doẹf

Oẹf oẹf

Page 187: Tran Dan _ Poem

187

Hậu con OEE

1988

1 Ba que nhau từ hè

thằng què qoe qoẽ quẻ

ông trăng giằng cắn chỉ.

Ôm

mồm mè.

2 Âm ti khi toè hè

lâm li bì cắn chỉ

mưa đôi ngồi mí mé.

Xẻ

xè xe.

3 Xu xê xề trễ bóng?

tỏng tòng tong sóng ngóng

thõng thòng thong mộng mỏng.

Ngỏng

ngòng ngong.

Page 188: Tran Dan _ Poem

188

4 Đi nuit lòng ngã – sáu

mồm ngồm chinh phục máu

tây đêm mềm điện quyến.

Nuỷ

nuỳ

- nuit.

5 Chôm chôm em từ hè

quẻ què đe khẹ khẽ

ngã ba chẽ -

ngã ba khe.

6 Nhung nhăng nhau từ đè hè

từ phè?

toè?

từ tè?

7 Khuy

mi khuya

uya uya nhau mùng í?

tỉ tì ti.

nhỉ?

nhỉ nhì nhi.

Page 189: Tran Dan _ Poem

189

Con I 1975 thơ – bè

i i i ici – Terr i i Companhi i i i Companhii Terr i i Valizekhii i i i

i i i . QẢ ĐẤT KHÓC NHƯ Ri i i icii Terr Cômbanhi – Terr – Valize khi i i i i Ci-Têvisign’frijiirde

KHÓC NHƯ Ri i i NGÀY Đi .. i i .. Calker – Terr i e – Valize lămlabàque – khi i i i niên hiệu yếu ii

FỐ. FƯỜNG ... THẾ JAN Đi .. i i .. i i mi mini liti Valizekhe khi utimini pi ici pis pipi ici Terr hệ i i i

NHƯ Ri ... THi SĨ Đi .. KHÓI Đi .. pitiii cratie Técnô burô - đềmô mùliinô pluma i – patie! i i anti

i i ... CHỢ ... FƯỜNG .. THẾ JỚI i i i i i paradiz khi Valize khe Frijide loe plumi Têvi Companhi i

KHÓC NHƯ Ri .. KHi .. i i .. i i ... cấp số - fương trình - luỹ thừa – Cratie – khi i i ici Terr

THẾ JỚI HÔM QA Đi người ta muốn lái Hônđa oa oa khi – Juliet Graisse Gressoysse

Page 190: Tran Dan _ Poem

190

i i .. CHÂU FI. THẾ JỚI HÔM Đi ..

pan pan văng vào ào ào Paradizz Pizizicatô Pipicratie khi i i i i

BÓNG .. ẢNH .. KHÓI .. i i .. vẫn Terr Cie i i i i i vẫn fương trình Cratie nhất khi i i i i i

QẢ ĐẤT KHÓC-K NHƯ Ri . i i i Terr Cie i i i i i i i i i i i i Cie ici i i i i i i

THẾ JAN Đi i i .. QẢ ĐẤT NHƯ LÀ i như ri ici i i i i i i i i i Terr i i i ici bas i i

ĐỂ THẾ JAN Đi i i .. i i i i i i i i i i i i i i i

DƯƠNG JAN QUÀN . CHỢ BÓNG .. Terr i i i ici i i i Cie

LỆ KÌA ! VẪN THẾ ZÂN Đi . như ri ii ii ici ii ii bas

ĐỒNG HỒ NHƯ Ri i i i ii iii i i i iiii i i i i iiiii i i

TICTĂC NHƯ Ri i i ... Terr Cie i i i i i i ici

i i i .. i i .. JULIET HÔM QA Đi i i i ici i i Cie i

THI SĨ ĐÂU ĐỂ THIC NGi

Page 191: Tran Dan _ Poem

191

như ri i i Cie i Terr i

KHẨN CẤP KHÓC NHƯ Ri i i .. i i chính nơi Hămlêt chết ai héo sớm của tôi bao nàng Juliet úa ?

i i ÔI MÙA ! ÔI LẦU ! ĐỒNG HỒ THẾ JỚI bao jờ hămlêt mới lên ngôi? i i i i

NHÂN THẾ CHẠY VÒNG QUANH ii ii ii bao jờ ? ii ii ii

NGƯỜI Đi . NGÀY Đi . LỆ KÌA ici Cie i i i i i mọi đồng hồ vẫn khóc như ri

ĐỒNG HỒ QUẢ ĐẤT mọi đồng hồ thế jới (nếu đồng hồ) đều tham ja mưa rả ríc .. i

CHẠY NHƯ Ri i i ici Cie i tictăc như ri i đồng hồ Á Âu đều vẫn

CHỢ .. FƯỜNG .. Li Ti ici terr à terr i i i i i i i i i i i i

THẾ JỚI VẪN KHÓC NHƯ Ri ici i i i i i i i i i i ici

KHÔNG i KHÔNG THÍC NGi . những kẻ chạy kinh dinh quả đất đang lăm le chạy vốn vơ vét hạng bét của mình vào nhân danh vũ trụ những ư kia?

Page 192: Tran Dan _ Poem

192

Page 193: Tran Dan _ Poem

193

II.2

các cấu trúc

Page 194: Tran Dan _ Poem

194

Page 195: Tran Dan _ Poem

195

Thằng thịt 1962

Như đã nói,

tôi là một cột thịt lực đực.

Tư duy nhất ở phía

đít.

Nói cách khác tôi bị

cổ họng ảnh hưỏng tưởng cuộc sống.

Tôi đâm to tướng đứng được thẳng đựng sướng, có cái

nứng bánh nướng, nứng hợp xướng, biết lạnh, nóng, cóng,

nặng,

lắm lúc

lại còn đi được nữa.

Chết thật, tôi biết đi … Đi thì cyníc quá.

Tôi thần thận trọng kaki, dồi thịt, áo, túi, tảng chạng vạng

trong vắt. Chỉ để tí thịt thừa mở, mắt mũi, hở lặt vặt.

Tôi vội.

Page 196: Tran Dan _ Poem

196

Vũm vĩm toàn bộ phố, đưa đảy đùi chẳng hạn, vì cùng đi

nhầy đường, thằng thịt. Con thịt. Trông thông thống, đứa

nào vẫn tinh khiết, ăngiêlíc …

Tôi thú thật, thấm thía nhìn ít, mí hở nhít, bao gồm ưỡn lân

cận tưởng tượng sượng.

Chúa quá … Chúa ghê hơn, hây hây nghĩ ra nó, nặn nó,

Evờ cả ngày mó vào đấy.

Kinh hơn: không cho nó xilíp.

Vậy thì thịt.

Mát suốt lượt mùa hè chè hoa arôdoa đèn thịt. Vòi hoa sen

thịt - lụa – hít - nín thít nịt – nún – nít - bồn tắm thịt. Con

cua thịt bò sàn, miên man càng thịt. Một cột thịt vọt đứng

ngấn trứng - thồn thỗn ao thịt.

Đồng hồ điểm giờ thịt

Một cặp thịt vất thịt đivăng căng cào tát toạc nịnh thịt. Mưa

xé thịt sồn sột cắn nắn bắn sóng ngắn.

Dương cầm mím phím - hú rú bú ném cát mát. Hát - thịt

ngất ướt mướt lột - hết - hợp - xướng - vướng

lộn

ngược

thịt.

Page 197: Tran Dan _ Poem

197

Táp đờ nuy ôm, buồng thịt mịn mở cửa sổ sao thịt. Con thịt

dứt nịt tự ám ảnh thịt nháy xé đánh xước nước mở tuốt.

Tháng xuân pha mưa phùn, phun phun thịt mùn.

Những trạm nghỉ thịt, nun nút, uống bia, tia, trên thịt một

đời. Một jót thịt ngất ướt nước mặt đất. Cao vót vũng dính

bết hết một lượt thịt. Tôi viết, vứt, nhê nhết, bút mút, nún

xút. Thút vút vót mực - thịt - đực.

Con bóng rổ thịt nịt chạy ong cong mưa vòng quần cằm lẹm.

Thằng jônglơ thịt nún bén bẹn gót mót. Glốb thịt - con thịt xoạc toác

tuốt xác hạt bột lọc bóc thóc.

Tôi luôn luôn hay hay nhìn thịt. Chẳng hạn rạng háng sáng

nứt đòng ngâm son mặt trời liềm mở nở.

Thướt mướt con môđen thịt cởi giá vẽ cọ mó võng đánh

chịn thịt lác đác ướt được sướng nước hoạ sĩ thịt.

Tôi xuống ao thịt, giặt mặt thịt từ sáng đến tối, òng õng

rạng đông không khí thịt lỏng.

Thèm thẽm một con thịt

đổi kíp

cởi xìlíp

thèn

thẹn

quỹ đạo hở.

Page 198: Tran Dan _ Poem

198

Nhoe nhoét. Toè toẹt thi sĩ thịt chộn thịt nhào quết quệt

bùn thịt lòng lọc bóc trong muốt suốt. Một màng thịt căng

da nhìn qua quần lót thịt.

Thôi chết … Luna Park!

Thằng thịt lông lá tẽ mím một vệt thịt, nờ nở spútníc lổn

nhổn hạt sao thở.

Tôi nặng. Vằng vẳng nặng. Nặng từ lai láng mặt thịt tứ chi

thịt. Đôi giầy thịt khệ nệ thịt cả mùa.

Tôi dính nhem nhép mọi chỗ, vác hai chân thịt, quền quệt

vệt phố, be bét kilômét. Nhoè nhoẹt hết.

Ôi im … đầu cuối phố,

hở mưa thưa, thịt đèn phùn,

phùn

phùn

tia sáng thịt.

Tôi đặc

ằng ặc đặc

ặc.

Tôi đi thìn thịt … Kilơmưa … tôi đi …

Đôi mắt thịt tù mù …

Page 199: Tran Dan _ Poem

199

Con trắng thơ hồi ký có bè đệm

1967 Kỷ niệm I Tôi qua phố đen trắng giờ trắng. TÔI Ở TRẮNG KHU TRẮNG.

Tôi đến, nó thằng Tờ hai dãy dài lẻ chẵn, đen trắng. NHỮNG

KILÔMƠR THằNG ĐẠT, hồ lục, lam những liễu sữa, MẶT

TRẮNG THI HÀO, phượng me đen trắng. GIÓ TRắNG rẽ, LạI

KÌA THẾ GIỚI TRẮNG. Bến tầu biếc, lam lam người lam lam

chiều. Nhẹ xe sao nhẹ he he... bợt thự hồng đen, rẽ... TÔI

THÈM EM Ở TRẮNG. Những bợt thự nhẹ, hạnh me xe đen

trắng. EM EM ! EM... rẽ trái. Những tia Luna Nga, lam lam

Page 200: Tran Dan _ Poem

200

đông công viên nhẹ. Rẽ rẽ, MỖI LẦN TÔI RẼ TRẮNG. Rẽ đông

nhẹ đông đen trắng. Nhà. Chiều, thằng Tờ? Không? Đầu

đông... buồng NGUYỄN DU NGẮT LẶNG TỜ. Nó? TÔI BIẾT CẢ

TRUỒNG EM CON TRẮNG. Đồng hồ trắng, buồng... chính là

nó!

Sáng, thằng Tờ, TRẮNG SÁNG phố đen trắng. Tờ, một mình

nhà ĐÔNG TRẮNG. Buồng bàn, có sàn trắng sàn. Giữa nhà,

bàn. Trên nhà, bàn. Trên bàn, màu. Những màu. Quanh màu,

nhà. Quanh nhà, màu. Trắng đen. TÔI CHỈ VẼ TRẮNG. Ình ình

căm nhông ngày những ngày SƠ TÁN TRẮNG. Báo động trắng

những phố trắng. TÔI SỐNG TRẮNG đầu đông. Trắng tháng,

thằng Tờ. SÁNG TRẮNG KHU TRẮNG. Đêm, ngày trắng, trưa,

CHIỀU TRẮNG EM VỀ. Buồng một mình, Tờ.

Truồng. CÓ LẼ PHEN NÀY TÔI HÁT TRẮNG? Nhà. Truồng sàn.

Bàn. Tôi ở trắng tranh truồng. Trên sàn, bàn truồng. Trên

bàn, mầu truồng. EM, CON THÚ TRẮNG sáng truồng quanh

truồng nhà truồng truồng mầu tranh truồng. Ngoài nhà, bàng

truồng trắng đen. Hầm truồng. Tờ ngồi bàn. MẶT TRUỒNG

THI HÀO TRUỒNG. Sớm trắng sáng ĐÔNG TRUỒNG. Khói xảy

gì? Sớm của sáng sáng đầu đông. Lạ KÌA THẾ GIỚI TRẮNG

TRUỒNG!

Kỷ niệm II “A n-h !” vợ thằng Tờ hơi thở. CHÂN TRỜI THỊT. Vợ tối trắng.

Trắng của tối. Vú tối. Lưỡi. Dưới của vú. Tối ở lưỡi. NHỮNG

DÂN SỐ TRẮNG PHAU BỜ BIỂN TRẮNG. Tiếng trắng sóng tối.

Tờ lưỡi GIỜ TRẮNG. Lưỡi của lưỡi. Trắng truồng đông. Vợ im.

Lưỡi của mông. TRẮNG ĐẦU ĐÔNG. Mông im. Lưỡi thở thở

Page 201: Tran Dan _ Poem

201

của mông. Thịt của lưỡi. Lưỡi im. Mông thở. THịT CỦA GIỜ.

Trắng vợ. Thịt im.

Tíc tắc trắng CON TRUỒNG ĐÔNG. Truồng lông. Tíc tắc đông.

Truồng im.

Tháng này tiêu to. ĐỒNG HỒ TRẮNG ĐEN. Tựu trường, hầm,

sách, pênixilin, đái mủ KINH TUYẾN TRẮNG. Nửa thương tiêm

đau, trại bán nón. TUẦN LỄ THIẾU, sợ công đoàn nhiều thứ,

trại trừ hết lương. ĐịA ĐầU MƯA NGÂU 4 cân nếp, cứ mua.

Thịt, cồn, NHỮNG CỘT SỐ TRẮNG, dầu, xà phòng, số 69 cá

lòng lợn, cứ mua. CỘT SỐ NHỚ... cam ê hề trên trời dưới

cam, những sọt xe cam. Mưa ... mua. NỘI THÀNH ca. TRẮNG

ĐEN cứ thịt bìa phụ, kim chỉ quí tư, tiền nhà. Ông nợ nhiều

thế này? TRUỒNG LÔNG. Lại trứng mặn, củi kinh khủng củi. À

dấm trắng, thịt số 3 anh mua mỡ, thì thào bác Nghĩa. Mùi xoa

ông mua làm gì, kẹo THÁNG 10 ông bỏ, số 71, 72 ông mua

tai voi. À đường cả quý. Rét rồi ĐÔNG TRẮNG. Áo bông tôi có

chưa ? Để NHỮNG KILOMÉT RÉT chủ nhật. Tôi trắng quanh

năm chủ nhật. Những con đường thăm con trước trời mọc chủ

nhật. Kilô mét trắng THUỞ ẤY TRẮNG KILOMƠR nhớ trắng.

Chủ nhật trắng. ÔI THẾ KỶ THÁN TỪ, 19 những con đường

của, trên, thế giới trắng. Đôi ba khi, mưa trắng. Con bé, học

về khóc. Mắt húp. Thầy đuổi. A MỘT ĐỊA ĐẦU LẠNH... Nó báo

cáo, hôm ấy, cả lớp trố mắt. Lớp trắng trắng đen sơ tán

trắng. CÓ LẼ PHEN NÀY TÔI Ở TRẮNG. Lại bát, guốc, khu phố,

cá khô, lạc anh Đức, nước mắm đồng mốt. Điện... KINH

TUYẾN TRẮNG TƠ MƠ, nước, quai dép, lương khô công lệnh.

Cáu. Bận sau cáu đừng vào ! Đổi mì sợi. Áo nhuộm. Sơ mi lộn

cổ. THƠ TRẮNG. Mắm tôm anh Đức, cá thu, anh Đức hẹn cá

thu. Bàn chải, mẹ con mình phèo. Đậu số 6 em ngại, mỗi lần

về tốn. Thuốc đánh răng, pin, ĐỊA ĐẦU GIÓ... lại kẹo bánh,

bê đui. GIÓ. Anh Kính, sữa, kẹo, bicquy anh Kính, trà, rượu

Page 202: Tran Dan _ Poem

202

tem, mũ rơm. GIÓ. Vợ về! LẠI KÌA THẾ GIỚI TRẮNG TƠ MƠ.

Thức ăn chín. Bia. Khách. Buồng xưa mưa trắng. Chuối mậu

dịch xanh. Chuối chín. Ông chú. Khách. Đậu thịt. Búckê bê

bết trắng. Lại thăm con, tiễn giếng khu phố. Bia bọt quà nhà

chủ. Chữ đại đóa, truồng buồng, tiểu đóa. Lốp, chiếu, săm

anh Kính, mì chính, tết, củi. Trắng đen. Xơ gan ông Đắc chết.

Đám ma CHIỀU ĐẦY SAO BỌT. Bia rượu bìa tháng 11 Kim

Cúc. Vay ai những tem tem, bìa phụ? TRẮNG TUẦN LỄ TRẮNG

bảy ngày KHÔNG MƯA...

THƠ:

TÔI ở TRắNG KHU TRắNG

NHữNG KILÔMƠR THằNG ĐạT

MặT TRắNG THI HÀO

GIÓ TRắNG

LạI KÌA THế GIớI TRắNG

TÔI THÈM EM ở TRắNG

EM EM ! EM

MỗI LầN TÔI Rẽ TRắNG

BUồNG NGUYễN DU NGắT LặNG Tờ

TÔI BIếT Cả TRUồNG EM CON TRắNG

TRắNG SÁNG

ĐÔNG TRắNG

TÔI CHỉ Vẽ TRắNG

SƠ TÁN TRắNG

SốNG TRắNG

SÁNG TRắNG KHU TRắNG

Page 203: Tran Dan _ Poem

203

CHIềU TRắNG EM Về

CÓ Lẽ PHEN NÀY TÔI HÁT TRắNG?

TÔI ở TRắNG

EM, CON THÚ TRắNG

MặT TRUồNG THI HÀO TRUồNG

ĐÔNG TRUồNG

Lạ KÌA THế GIớI TRắNG TRUồNG !

CHÂN TRờI THịT

NHữNG DÂN Số TRắNG PHAU Bờ BIểN TRắNG

GIờ TRắNG

TRắNG ĐầU ĐÔNG

THịT CủA GIờ

CON TRUồNG ĐÔNG

ĐồNG Hồ TRắNG ĐEN

KINH TUYếN TRắNG

TUầN Lễ THIếU

ĐịA ĐầU MƯA NGÂU

NHữNG CộT Số TRắNG

CộT Số NHớ

NộI THÀNH

TRắNG ĐEN

TRUồNG LÔNG

THÁNG 10

ĐÔNG TRắNG

NHữNG KILÔMÉT RÉT

THUở ấY

Page 204: Tran Dan _ Poem

204

TRắNG KILÔMƠR

ÔI THế Kỷ THÁN Từ

MộT ĐịA ĐầU LạNH

CÓ Lẽ PHEN NÀY TÔI ở TRắNG

KINH TUYếN TRắNG TƠ MƠ

THƠ TRắNG

ĐịA ĐầU GIÓ

GIÓ

GIÓ

LạI KÌA THế GIớI TRắNG TƠ MƠ

CHIềU ĐầY SAO BọT

TRắNG TUầN Lễ TRắNG

KHÔNG MƯA…

Kỷ niệm III Thằng Tờ, MỘT ĐỜI, cùng một tác giả:

Chiều mưa trước cửa. Dạ đài: tuyên ngôn, vẽ, trăng về thanh

tuyền. đã in. Hồn xanh dị kỳ. đã in. Những bài báo. đã in.

Sông Đà. Giải phóng Tây Bắc. Giải phóng biên giới. Quân đội

nhân dân... đã in. Vẽ báo. đã vẽ. Người người lớp lớp. đã in.

Tiếng trống tương lai. trích in. Maia dịch. đã in. Một lô thơ:

Tìm em. Chuyện một thi sĩ ngồi cả đêm bên nước hồ Gươm.

Suýt in. Hai người du kích viết theo nhau, v.v. Nhất định

thắng. đã in. Cách mạng tháng 8. đã in. Đây Việt Bắc. trích

in. Cò lấm. Lão Rồng. Đã in. Một lô truyện. Chú bé làm văn.

suýt in. Bài báo lẻ. Tiếu lâm. đã in. Những người chân đất.

dịch, đã in. Tội ác và trừng phạt. của Đốt, dịch, đã đốt. Cổng

tỉnh. đã gửi. Sứa. tiểu thuyết. Căn cứ nguyên tử, của Laxmex,

Page 205: Tran Dan _ Poem

205

dịch, đã in. Truyện ngắn Pháp. dịch, sắp in. Thơ tình: Thu bất

trị. Bao giờ em đi lấy chồng. Nhà ươm 9 mái. Cò gù. Em dài.

Nô en. Em hãy cho anh đau đớn với. v.v. Con malem tươi. đã

đốt. Thằng thịt. bỏ. Jờ Joạcx. thơ tiểu thuyết, có bè đệm. Bài

tập I, II...IV. dở. Bé Jắck. thiếu nhi. Mùa sạch. đã gửi. Chòe.

tiểu thuyết. Thơ ba chữ: Mưa lịa khịa. Vú lĩa chĩa, v.v. dở.

Biên sự: Tôi bàn. Vấn 1,2,3... Sáng đại trà. Khu trắng, v.v.

dở. Diêu lốp. thiếu nhi. Những ngã tư và những cột đèn. tiểu

thuyết, đã gửi. Chữ. thơ tiểu luận. Oee. 100 bài tứ tuyệt. Vẽ.

trắng đen, dở. Vẽ. bột mầu, dở. Vẽ. trắng đen, dở. Con trắng.

thơ hồi ký, có bè đệm, dở. Kinh. dự định. Tiểu thuyết trinh

thám. thích.

.....

Thằng Tờ, LẠI KÌA THẾ GIỚI DỞ. Đồng hồ trắng mua vui,

Nguyễn Du cũng trống canh, chính nó TRỐNG CANH.

Kỷ niệm IV THƠ: MộT ĐờI

đã in - đã in - đã in - đã in

đã vẽ

đã in - trích in - đã in - suýt in

đã in - đã in - trích in - suýt in

đã in

của Đốt, dịch, đã đốt - đã gửi

tiểu thuyết - dịch, đã in - dịch, sắp in

đã đốt

bỏ - thơ tiểu thuyết, có bè đệm

Page 206: Tran Dan _ Poem

206

dở

thiếu nhi - đã gửi

tiểu thuyết - dở - dở

thiếu nhi

tiểu thuyết, đã gửi - thơ tiểu luận

100 bài tứ tuyệt

trắng đen, dở - bột mầu, dở

trắng đen, dở - thơ hồi ký, có bè đệm, dở

dự định

thích

LạI KÌA THế GIớI Dở

TRốNG CANH.

Kỷ niệm V Gió. Gió ... Gió ... ĐỊA ĐẦU TRẮNG ... gió.

Tặng thằng Hờ, giản dị quê ra. Gió đông trong. Tong, BỘ

HÀNH GIÓ ... Hờ, hờờờ ... Hờ ... gió ĐEN - TRắNG. Hờờ.

THƠ: ĐịA ĐầU TRắNG

Bộ HÀNH GIÓ

ĐEN - TRắNG

TERMINUS

ĐịA ĐầU RÉT

Bộ HÀNH BụI

ĐồNG Hồ GIÓ

Page 207: Tran Dan _ Poem

207

Bộ HÀNH RÉT

ĐịA ĐầU BụI

ĐÔNG ĐịA ĐầU

ĐÔNG Bộ HÀNH

T-Ơ-M-Ơ-Đ-ị-A-Đ-ầ-U

T-Ơ-M-Ơ-B-ộ-H-À-N-H

VĨ TUYếN NGANG

KINH TUYếN NGANG

Bộ HÀNH CHÉO.

Cờ đi làm. TERMINUS C lại dạ dày đòi ĐỊA ĐầU RÉT. Ga gió

đêm ga, Cờ thích bia Tờ cũng bia. Gió ga đêm Bộ HÀNH BỤI.

Gió. Tờ đi uống bia đêm, ngoài ga gặp Cờ bia. ĐỒNG HỒ GIÓ

trắng ... Cờ đi tìm bia đêm, ngoài ga gặp Tờ bia. Gió BỘ

HÀNH RÉT. Cờ Tờ, ĐỊA ĐẦU BỤI.

Gió. Gió.

Gió. Terminus ... gió.

Terminus 4. Gió những kilôsố trắng. Gió ĐÔNG ĐỊA ĐẦU. Hờ

Đờ Cờ Tờ bộ hành trắng. Gió trắng căm nhông, ĐÔNG BỘ

HÀNH. Ao lao nhao sao. Mưa...r r ga cột đèn một chân, T-Ơ-

M-Ơ-Đ-Ị-A-Đ-Ầ-U. Tối đông trong T-Ơ-M-Ơ-B-ộ-H-À-N-H. Gió.

Phà. Cầu. Terminus 4 gió ga, phà, cầu năm ngoái.

Tôi vẽ ngôi sao bọt ... à ... hà ... VĨ TUYẾN NGANG vẫn thế.

Gió vẫn thế sao giản dị KINH TUYẾN NGANG. Gió lại trắng.

Gió kinh vĩ I, J, K BỘ HÀNH CHÉO.

Gió gió ga. Terminus 59. Cao bồi già LŨNG CÚ, một đời

XIMACAI, một đời gió, BỘ HÀNH NGẬM - TẨU, trắng KINH

TUYẾN THU, VĨ TUYẾN THU, trắng BỘ HÀNH - THU.

Page 208: Tran Dan _ Poem

208

THƠ : LŨNG CÚ

XIMACAI

Bộ HÀNH NGậM - TẩU

KINH TUYếN THU

VĨ TUYếN THU

Bộ HÀNH - THU

CÓ NGƯờI TRắNG

VẫN THế

Bộ HÀNH

ở QUÁN BọT.

À ... Terminus Cửa biển. Lèo tèo gió trắng. Có xanh tre, CÓ

NGƯỜI TRẮNG có bộ hành trắng. Terminus Z xùi xùi sao bọt,

VẪN THẾ gió trắng Hờ Đờ Cờ Tờ trắng BỘ HÀNH.

Tôi vẽ Hờờ Đờờ Cờờ Tờờ bộ hành ào ào mắt trắng ở Terminus

trắng, bia bọt ở QUÁN BỌT ở vĩ tuyến bọt. BỘ HÀNH BỌT ở

kinh tuyến bọt ... vẫn bọt.

THƠ :

Bộ HÀNH BọT

CộT Số CHÓT

NGÔI SAO BọT

TERMINUS NGọT

SộT SOạT

SAO BọT.

Page 209: Tran Dan _ Poem

209

Terminus tơ mơ. CỘT SỐ CHÓT. NGÔI SAO BỌT người lạt

thạt. TERMINUS NGỌT. Côxmôx mát. Bộ hành SỘT SOẠT. Tin

cuối cùng: gió xa SAO BỌT trắng.

Kỷ niệm VI

Tôi vẽ tin cuối cùng ngôi sao bọt.

Kỷ niệm VII

Chớp lòe con trắng truồng. BẰNG THỊT chớp mắt đớp em

bằng thịt thít thót đen trắng. Anh thích nhất gì thuở quả đất ?

A-n-h ! ... con trắng hơi thở. Em mắt. Lưỡi. Dưới của lưỡi.

Thở. Thịt lưỡi EM TÔNG HÔNG TÔI BẰNG MẮT. Lưỡi của thịt

SỪN SỰT thở trắng.

Hồi trẻ quả đất trắng. Xa năm ấy sông Hương. Xa. Bằng ngực.

Thuyền đèn xanh xa, xa thuyền đèn đỏ, đêm EM TEM TÔI

BẰNG NGỰC, CẢ MÙA NỰC HỰC sao thuyền. Xa con trắng thở,

xa hè trắng ...

Anh thích nhì gì thuở quả đất? Tôi sinh, mưa ... tháng 7,

rằm... PHẬP PHỒNG TRĂNG TA. 3 giờ đêm ... xá tội vong

nhân. Tôi lên vong nhân địa ngục trắng. Rằm qua 16. Có?

Không? Mưa dầm.

Nai. Em thích. Bằng vai. Thích. Anh. Trên cơ: EM CHOAI TÔI

BẰNG VAI. Chống tay. Lâu cơ. Bằng nai. Chống tay cơ. Xíít.

Page 210: Tran Dan _ Poem

210

Mầy tay. Em. Mông. Lông. EM NHOAI TÔI BẰNG NHAY. Lâu

cơ. Bằng tay. Đầu đông.

Anh thích ba gì thuở quả đất? Ở Vinh phở lươn BẰNG NGỰC.

Hôtel Vinh sàn nhà EM NGỰC. Trưa hè NỨT. Cuối nực vú lức.

Ga Vinh mầy ngực ngức. Hôtel Vinh.

Hờờ ... con trắng thở. Lưỡi ú. Dưới lưỡi BẰNG VÚ: EM NEM

TÔI BẰNG THỊT NÚ. Con hồn thịt từ vú. Trắng ngú TỐI Ú.

Ga không nhớ ga. TRUỒNG LẸM dưới trên của ga. Toa trên

toa EM GHEM TÔI BẰNG GHẸM. Toa bèn bẹn. Lưỡi dưới ghẹm.

Dưới của toa. Ga BẰNG THẸM.

Anh thích nhất gì của nhất thuở quả đất? Mưa tôi đợi xa BẰNG

CỬA NGỬA. Mưa dưới cửa EM THEM TÔI BẰNG CỬA NGỬA. Xa

nhà em, cửa chiều mù. Tôi dưới cửa, mưa bằng BUỒNG CỬA

NGỬA. Mưa trước cửa, chiều HÔM MƯA TRẮNG CỬA. Mưa EM

GHEM TÔI BẰNG TRẮNG NGỬA. Ngày xa tôi đỗ tú tài bằng

ngửa. Câu thơ đầu ...

Vẽ mưa trước cửa mưa dưới cửa. Chớp mắt BẰNG LÔNG. Gáy

mắt chớp EM HÔNG TÔI BẰNG MÔNG. Anh thích nhì gì của nhì

thuở quả đất? Chữ, BẰNG ÂM CỤ NỤ. Tôi ăn nem cát tần, lứt

giò gà tần. BẰNG NỤ. Tôi ăn bò thủ EM U U TÔI BẰNG NỤ. Tôi

ăn cuốn nú cua bể ngú. Tôi ăn VÚ LỨT, chó hàng Lược tôi ăn

TỨT. Chả cá Lã vọng tôi ăn BẰNG SỰT. Tiết canh ba ba TÔI

ĂN ÂM CỤ SỰT. Chân giò bằng âm cụ sựt tôi ăn.

THƠ: BằNG THịT

EM TÔNG HÔNG TÔI BằNG MắT

SừN SựT

Page 211: Tran Dan _ Poem

211

EM TEM TÔI BằNG NGựC

Cả MÙA NựC HựC

PHậP PHồNG TRĂNG TA

3 GIờ

ĐịA NGụC

EM CHOAI TÔI BằNG VAI

EM NHOAI TÔI BằNG NHAY

BằNG NGựC

EM NGựC

NứT

BằNG VÚ

EM NEM TÔI BằNG THịT NÚ

TốI Ú

TRUồNG LẹM

EM GHEM TÔI BằNG GHẹM

BằNG THẹM

BằNG CửA NGửA

EM THEM TÔI BằNG CửA NGửA

BUồNG CửA NGửA

HÔM MƯA TRắNG CửA

EM GHEM TÔI BằNG TRắNG NGửA

BằNG LÔNG

EM HÔNG TÔI BằNG MÔNG

BằNG ÂM Cụ Nụ

BằNG Nụ

EM U U TÔI BằNG Nụ

VÚ LứT

TứT

BằNG SựT

TÔI ĂN ÂM Cụ SựT.

Page 212: Tran Dan _ Poem

212

Kỷ niệm VIII: Con Trắng.

THƠ: LạI

LOạT SOạT

TRắNG TƠ MƠ

TUYếN RÉT

CộT Số NHớ

LạI KÌA THế GIớI Dở

Bộ HÀNH BÙN

ĐÔNG CHÍ

HÀN ĐớI LOảNG

ÔN ĐớI KHÓI

XÍCH ĐạO Nỏ

ĐOAN NGọ

NGƯờI LOI SOI

NHữNG-THế GIớI MỏNG-TANG

NOEN HÀN ĐớI

LOạT SOạT

TIN CUốI.

Page 213: Tran Dan _ Poem

213

Kỷ niệm IX: LẠI đông LOẠT SOẠT mầu bắc cực, TRẮNG TƠ MƠ Nôen ...

những nhớ những không nhớ kỷ niệm-của-kỷ niệm, TUYẾN

RÉT bộ hành lạo xạo giờ dẹt thế giới ở giờ dẹt. CỘT SỐ NHỚ

loạt ... soạt ... LẠI KÌA THẾ GIỚI DỞ.

Soạt soạt thiên tuyến gió. BỘ HÀNH BÙN địa tuyến gió. Nhiệt

đới ĐÔNG CHÍ 36 chí tuyến, bộ hành loạt soạt. HÀN ĐỚI

LOẢNG.

Vợ về. Tôi ăn bún chả ÔN ĐỚI KHÓI. Tôi ăn tết huyết sò XÍCH

ĐẠO NỎ. Tôi ăn mặt trời ngửa, đùi-quần-nhồi-thịt, tinh tú tóc.

Tôi ăn hạt gạo, sinh nhật, lá răm năm. ĐOAN NGỌ, NGƯỜI

LOI SOI. Gatô kem, NHỮNG-THẾ GIỚI MỎNG-TANG. Càfê, địa

vực lức, ngực sừng. Tôi ăn thiên tuyến ngóc tôi ăn bộ hành

vọc. Công viên bày nộm hoa tôi ăn NOEN HÀN ĐỚI.

Lữ hành trắng. Sao sao sao đầy đủ kinh vĩ gió. Tôi bộ hành

LOẠT SOẠT sao. Là TIN CUỐI.

Page 214: Tran Dan _ Poem

214

Cấu trúc của Con Trắng

Vũ Văn Kha

Có thể nói Con Trắng là một trong những tác phẩm văn học bộc lộ thẳng thắn và công khai nhất quan niệm của Trần Dần về THƠ và LÀM THƠ. Trong phạm vi bài viết nhỏ này tôi đề nghị khảo sát một số chuyển động tiêu biểu và thú vị diễn ra trong tác phẩm: đó là những chuyển động của CHỮ xuyên qua văn xuôi và thơ (nếu có thể chia được như vậy) - cùng những chuyển động của các chương mục. CHUYỂN ĐỘNG CỦA CHỮ � ) � � ' � � � � � � o � � Con Trắng được viết bằng hai kiểu chữ: một giành cho những phần tĩnh, một cho những chữ xê dịch được, một để ghi Hồi Ký,

Page 215: Tran Dan _ Poem

215

một để làm Bè Đệm. Những chữ di động này nằm lẫn lộn đó đây trong mảng « hồi ký » dưới hình thức văn xuôi, đến khi đứng độc lập chúng trở thành THƠ. Ví dụ : Văn xuôi : Tôi qua phố đen trắng giờ trắng. TÔI Ở TRẮNG KHU TRẮNG.

Tôi đến, nó thằng Tờ hai dãy dài lẻ chẵn, đen trắng. NHỮNG

KILÔMƠR THẰNG ĐẠT, hồ lục, lam những liễu sữa, MẶT

TRẮNG THI HÀO, phượng me đen trắng.

Các chữ được xê dịch trở thành :

Thơ :

TÔI ở TRắNG KHU TRắNG

NHữNG KILÔMƠR THằNG ĐạT

MặT TRắNG THI HÀO

Nhiều chữ di chuyển trong suốt tác phẩm, rất giống với phương thức cắt-dán-copy trong thực hành vi tính, rất giống động tác nhấp con chuột để tuyển chọn các câu chữ, để đem chúng về một vị trí khác. Thực hành này hoàn toàn xa lạ và viễn tưởng năm 1967 khi Trần Dần viết Con Trắng. Chắc chắn phương thức làm thơ bằng copy theo kiểu công nghiệp như vậy dễ bị xem là phản sáng tạo. THƠ của Con Trắng, kết quả của kỹ thuật sao-chép-cắt-dán, đã là một thách thức với quan niệm của đại đa số vẫn máy móc coi Thơ như sản phẩm độc quyền của « tâm hồn ». Những chuyển động chữ bằng copy này được thực hiện trong hai hành trình ngược chiều nhau: hoặc chúng được tuyển chọn và copy từ văn xuôi hoặc từ một bản thống kê tác phẩm rất tầm

Page 216: Tran Dan _ Poem

216

thường để sản xuất thơ, hoặc chúng lại được lấy ra từ thơ để dán vào văn xuôi. Nhưng tập hợp của hai hành trình ngược nhau này lại giúp cho tác phẩm tiếp tục phát triển, giống như các kết luận biện chứng quen thuộc: mọi tiến bộ đều phải được làm từ các mâu thuẫn nội bộ. Có thể xem những chữ di động này như những phân tử sống, chúng có mặt ở mọi nơi và tham gia vào mọi cấu trúc văn học (thơ, văn...) hoặc không văn học (báo cáo lý lịch...). Đặc tính đầu tiên và tiêu biểu nhất của các phân tử là CHUYỂN ĐỘNG, nếu không chúng chỉ là những phân tử chết. Cũng có thể nói theo cách khác: thơ phải được lấy từ mọi nơi, từ cuộc sống, từ ký ức, kỷ niệm, tình yêu, tình dục, mầu sắc, từ những bản báo cáo khô khan, từ những chuyện dấm dớ chẳng ra chuyện. � ) � � � � � � � � � � � Có nhiều chuyển động khác ở lộ trình khác: tiêu biểu nhất là chuyển động của chữ Trắng . Nếu như kỹ thuật cắt-dán-copy đem lại những bản sao bất biến thì cách lặp lại của chữ Trắng lại cho phép rất nhiều những biến đổi ngầm. Hình thức lặp lại này dễ nhìn thấy ngay nhưng những biến đổi của chữ thì lại kín đáo hơn nhiều. Ai cũng biết chữ Trắng có mặt trong tất cả các chương mục, tham gia cả vào văn xuôi lẫn thơ, viết bằng cả hai kiểu chữ. Nhưng không phải ai cũng nhận thấy ngay rằng chữ Trắng khi là danh từ, khi là tên riêng, lúc lại biến đổi thành tính từ, hoặc trạng từ, khi mang nghĩa lúc không có nghĩa, lúc thì vô lý... đến mức không thể hiểu đâu mới là bản gốc, không thể biết có một hay nhiều bản gốc, hoặc không hề có bản gốc. Lặp lại mà không lặp lại là như vậy. Lặp lại đồng nghĩa sáng tạo là như vậy.

Page 217: Tran Dan _ Poem

217

Nhiều câu chữ khác cũng thực hiện những chuyển động tương tự, trong lòng những hồi ký và thơ, bên trong những chương đoạn không xê dịch được, cả trong những sản phẩm đã xong của kỹ nghệ cắt-dán. Mọi hình thức chuyển động của chữ trong tác phẩm không tiến hành riêng lẻ, mà thường xuyên chạm vào nhau, hoặc chung nhau một vài đoạn đường ngắn một vài khoảnh khắc ngắn. Toàn bộ tác phẩm do vậy, ở bất cứ chương đoạn nào, cũng chứa trong nó những chuyển động nội tại thường trực như vậy. CHUYỂN ĐỘNG CỦA CHƯƠNG Những đề mục lớn đều mang tên Kỷ Niệm, lặp lại nhau nhưng được đánh số theo thứ tự tăng tiến từ 1 đến 9. Những con số này xác định diễn biến của Con Trắng: các kỷ niệm cứ lớn dần hoặc bởi trọng lượng, hoặc bởi vận tốc, hoặc bởi thời gian. Những trường đoạn nhỏ dưới hai hình thức: văn xuôi và thơ thực hiện một chuyển động khác. Chuyển động này không theo một đường thẳng như các con số, mà xoay chiều rất nhịp nhàng nhờ vào công nghệ copy của chữ. Nếu tuân thủ theo đúng trật tự của công nghệ này: đâu là vị trí ban đầu của chữ, đâu là vị trí của copy, ta sẽ có sơ đồ của tập hợp những mũi tên. Khi các chữ được copy từ phần văn xuôi để dán vào phần thơ, mũi tên sẽ xuất phát từ « văn xuôi » và kết thúc ở « thơ ». Chiều của mũi tên này có nghĩa: VĂN XUÔI đã cho ra đời THƠ. Và ngược lại, khi các chữ được copy từ thơ để dán vào văn xuôi, mũi tên sẽ chạy theo chiều ngược lại và mang ý nghĩa: THƠ đã cho ra đời VĂN XUÔI.

Page 218: Tran Dan _ Poem

218

Sau đây là sơ đồ của những chuyển động và cũng là cấu trúc đặc biệt của Con Trắng : � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � : Kỷ niệm 1 & 2 Văn xuôi & Văn xuôi

Thơ. Kỷ niệm 3 Bản khai lý lịch nhà văn Kỷ niệm 4 Thơ. Kỷ niệm 5 Văn xuôi

Thơ Văn xuôi

Thơ Văn xuôi

Thơ Văn xuôi Kỷ niệm 6 Văn xuôi hay Thơ đều được Kỷ niệm 7 Văn xuôi

Thơ.

Kỷ niệm 8 Văn xuôi Thơ

Kỷ niệm 9 Văn xuôi

Nhìn vào sơ đồ trên ta thấy: - Thơ có trong văn xuôi, văn xuôi cũng có trong thơ, cả hai đều vay mượn CHỮ lẫn nhau. - Thơ có thể lấy được nhiều phân tử từ một bản khai lý lịch, nhưng một bản thống kê chẳng thể lấy được gì từ thơ. Đây cũng là cái danh giới của Văn học và Không văn học. Cũng là lời nhắn nhủ của Trần Dần : THƠ có thể sử dụng bất cứ nguyên liệu nào, áp dụng bất cứ phương pháp nào, nhưng điều đó không có nghĩa cái gì cũng trở thành thơ. Hà Nội 2006

Page 219: Tran Dan _ Poem

219

Kể Kệ 1976 � � : - Nói có đầu đuôi cho người khác biết.

- Nói ra lần lượt từng điều để cho người khác biết rõ. - Đọc văn vần thuộc lòng bằng giọng ngâm nga cho mọi người nghe. � �

: - Bài văn vần giảng một đoạn kinh Phật. - Bài văn do một vị sư đã chết để lại. (theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học 2003) Cách đánh số cũng đến từ các bài kinh kệ.

1. Thế giới thứ ba. Mây trắng qua.

2. Mây trắng qua. Ngẩng đầu già.

3. Bề lạnh đầu già. Đốm mưa hoa.

Page 220: Tran Dan _ Poem

220

4. Tha thứ phía lục địa vàng. Nghề bàng hoàng.

5. Thế giới thứ ba. Xông pha.

6. Oa Oa. Hà rồng già.

7. Người khát hát … bụi cát.

8. Tuổi thứ ba tắc phía đầu hoa.

9. Mưa vuông. Chuông. Người đầy đường.

10. Móm tim laghim. Người tím hoa sim.

11. Tôi nghe kể kệ một mình. Từ quần trình.

12. Bọt ngày? Ai thách kệ? Nhân sinh?

13. Sớm khuya bùi bụi kệ. Đòng đòng.

14. Lủng liểng ít mặt trời bỏ túi.

15. Mây bay lúi húi phía. Bọt ngày…

16. Đồng hồ không chỉ số.

17. Trăng sáng. Phương án cả đời một ván.

Lí Bạch.

Người cúi đầu tử cố hương.

18. Dung tha cao áp phía. Đầu già hôn quả địa.

Từ vàng qua lục, tía. Chớp canh ba.

19. Cho đủ tờ mây mà viết kệ!

20. Bỏ neo sông eo eo. Thế giới đợi tuổi vắng.

21. Dù như lôgic chim chích. Niên lịch mịch.

22. Lặng yếu thắng. Người mắng mạnh. Mây qua.

23. Thả đỉa ba ba. Thế giới hôm qua.

24. Thế giới thứ ba?

Chớ bắt đàn bà, dặn rồi đấy? Nhé?

25. Thế giới tôi ở. Phố lộ thiên. Người lộ thiên.

Đường. Nhà. Bộ hành lộ thiên. Mây trắng bẩy

nghìn miền.

Page 221: Tran Dan _ Poem

221

Ước: Hãy đưa cái lộ thiên vào sử dụng!

Phạm vi hữu hiệu: tất địa hạt, hoa, huệ, hoa lá,

hạt, nhạc hội truồng…

26. Thẩm mĩ chính ra truồng, mà văn hóa ngu

người hay mị quần áo.

Nài: thiết tha thiên địa mới, truồng dân

Chứng: mà wood tood i? Không nhớ, đâu hai vạn

truồng thơ ngây một bờ hoan hội nhạc.

27. Bẩy sáu phố. Bẩy sáu bộ hành. Quành.

28. Hạnh phúc tự tìm. Chân lí ở am tâm.

Lệnh: thôi đi những hạnh phúc-quần đùi may sẵn!

giầy dép-đóng sẵn! số? cỡ? Hạnh phúc chẳng mua

ở công ti-may mặc-sẵn? Những silip sách chẳng

vừa ... Coóc sê giáo khoa ca mà thịt hở ...

29. Chỉ tâm im, mà bể lặng, bão ngàn.

30. Tí mật hoen dầu lưỡi kiếm?

Biết: Không liếm thú vui, không phải sợ đứt lưỡi.

Chỉ vì không thú thú vui người.

31. Thế giới thứ ba. Ông sao ta!

Ừ. Hôm qua hooaaa.

32. Rao vặt: Cần nhiều dân kẻ thắp. Địa điểm:

tuổi trắng. Đỏ. Rừng đen. Cao nguyên vàng.

Lương bổng : Không công.

Ghi chú : Người kẻ thắp tự túc hai bữa, một đời.

33. Mưa dong. Thì để nó mưa dong.

34. Ba bộ. Bát tam bộ. Cho những sinh linh sinh nở

Page 222: Tran Dan _ Poem

222

ngoài kế hoạch, vô thừa nhận. Những linh hồn

vương vất, ngoại khổ, mọi sổ bạ người.

35. Tuổi thứ ba. Văn minh ngoài da. Sao Ba.

36. Xá tội vong nhân. Giải văn minh.

37. Án mạng muỗi. Đầy. Cửa sinh rình cửa tử.

38. Thiết kế một nhân sinh.

39. Nhật nguyệt minh. Tôi đi. Vừa đi vừa pipi kỉ nguyên.

Vì rồng tiên, từ thự sử, lời nguyền.

Tuyên thệ bóng xế. Qua thành tỏa hệ. Lễ.

40. Trăng không mầu. Kị sĩ cụt đầu. Vạn cổ sầu.

Vó câu mau. 76 niềm đau thuộc làu. Cao lâu.

Đâu đau?

41. Trước sau như nhau. Đắt rẻ bằng nhau. Cao thấp

ngang nhau. Vào mùa Tam Bảo Vú. Vụ chữ.

42. Lữ du thu hãm địa trời vàng.

Hệ quả: trời vàng rơi lá sót.

Hỏi: Sao lá chết chẳng cần tang lễ?

Gửi: Có lẽ chức năng thu là hóa kiếp lá?

Cảnh: Gái thu. Phố. Mây thu.

43. Mộng du ngày. Bọt mây. Người hai thập niên ngồi.

44. Bụi đời. Mây. Nụ cười ruồi ngày.

45. Nhìn ở chỗ nào dùm dụm góc.

46. Không gian đầy những sẹo heo may.

47. Nhân phận thế giới thứ ba. Lối nào ra?

48. Rao: Cần một lão niên thạo nghề đèn đêm.

49. Thông báo: Tuyển nghề bàng hoàng.

Page 223: Tran Dan _ Poem

223

Điều kiện: vô tích sự hạng poa lua.

50. Hoa rẻ vô cùng. Dự báo thời tiết: biết.

51. Gợi í. Đưa cái thiền ta vào tiêu thụ hàng ngày.

52. Mộng du ngày. Mắt trắng như mây.

53. Đọc sách không nhiều chẳng ít. Thu về mỗi chữ chỉ

là như. Như Lai như đến như đi. Như có. Không như.

54. Thế giới đóng khung đen. Mây trắng miền miền.

55. Năng lượng khóc. Lệ dọc. Hệ mốc. Lốc.

56. Tôi nguôi người lệ dọc.

57. Ngã ba trời. Ván rẽ.

58. U hoài đường dài.

59. Mỗi lá rơi lưu niệm sẹo Tuệ cầu? Ảnh. Hình. Tiếng

kêu. Niệm thầm. Kí ức vũ trụ có còn lưu bản sẹo?

60. Hồ sơ vũ trụ trắng.

61. Tôi đề bạt cả nhân sinh lên bục chúng sinh.

Mơ sảng tuệ cầu.

62. Vai xám. Đầu già. Mưa trước cửa.

63. Ai bắt tội các vì sao á-y n-á-y?

64. Hành tinh nào cháy. Canh ba?

65. Anh đau ở chỗ nào? Chỗ nào?

66. Đã là sao, là á-y n-á-y thâu đêm. Để lúc ngày

lên, nhòa tự xóa.

67. Anh đau ở chỗ nào ? Chỗ nào ? Ai biết chỗ nào đau ?

68. Những thành phố trắng phau, tênh hênh đêm nghìn

bờ biển lạ …

Page 224: Tran Dan _ Poem

224

69. Gió tha người, ở các ngã ba.

70. Thu phong vàng trận. Lá bay hàng xóm lá bay sang.

71. Anh đau ở chỗ nào? Nào?

72. Thế nào là đau ? Đau đâu, đưa ta chữa. Người khỏi

ngay. Người chưa khỏi tức chưa muốn khỏi.

Cố nhiên. Vì mày chưa muốn khỏi.

73. An táng lá.

74. Bòng bong vàng. Dạ tràng.

75. Lâm sàng chữ. Ung thư thu. Lá ngủ.

76. Cầu: Mỗi ngã ba nào đều có bóng Dương Chu.

77. Chân trời ... phơi ... đồng hồ.

78. Bệnh sống vẫn tự chữa về đêm.

79. Em hãy đi về cảng cổ. Mộ vàng.

80. Thế giới rù. Mặt trời mù. Quả địa bì phu?

Người mộng du. Đôi mắt. Sáng tù mù.

81. Bụi - đời. Ai? Sáng thế từ này, vĩnh nó, tuệ huân

chương?

82. Người. Kẻ mộng du ngày. Tôi vẫn bắt tay thế giới

tối xa côi. Hôm nay vơi thế giới ?

83. Mọi xác suất đều có quyền không đến.

84. Lữ du ở bề nào. Thâm sơn cùng cốc chữ. Dân kẻ lự.

Kứ ch-ữ. Dù gặp không thích không. Lời và không lời

không độ viết.

85. Nên bi giờ tôi kứ kệ.

86. Ngã ba … mây qua.

87. Ngồi buồn đốt một đống rơm.

Page 225: Tran Dan _ Poem

225

88. Nụ cười rêu ngủ. Đá.

89. Rao: Cần một nữ, quần loe, đi phá bão, trận N,

ở kinh vĩ độ đóng khố sao Hỏa.

90. Sàng xê bề hê phía thế giới. 91. Đổi đời. Trăng nụ ngủ.

92. Sóng tiền đường. Mây giăng.

93. Khán đài vai. Cẩn thận ! Có ba tia mắt đậu.

Gấu. Váy Xuân Hương.

94. Tuyển: Công tác bề hê xa. Nữ.

Nhiệm vụ: chiêu đãi 36 nộm, nem. Nhạc hội sao kim.

Điều kiện: ngực không lời, môi không nhời.

Thù lao: phong bao thì thào.

95. Nhắn. Via Ngân Hà, mua hộ ít. Tờ mây.

96. Xúi quẩy. Em vừa vén nhạc hội, bỗng thấy văn nghệ

sĩ.

- Thấy à? - Ừ, lắm văn nghệ sĩ. Mấy hôm ngỡ đã

sạch nhà nước, vừa ra quảng trường, thì lại dong

kĩ học …

Xúi quẩy. Trị cho 36 mốd trị.

97. Anh có thể không? Tôi chẳng thể thích nghi mọi trị.

Tự trị nghiêm hơn mọi trị. Bí xlíp. Ca kíp chủ nô thay

ca chễm chệ thế giới. Tối.

98. Mỗi nhà một đầm ấm. Mỗi hài nhi một bầu sữa. Mỗi

mẹ một thì giờ ti con. Mỗi nhân một nghĩa. Mỗi đẻ

một điều kiện nuôi. Mỗi người một may mắn. Mỗi

tròn trặn một tương lai. Mỗi ngày mỗi thay đổi. Mỗi

trỗi dậy một người nâng. Mỗi bất bằng một can

Page 226: Tran Dan _ Poem

226

thiệp. Mỗi ăn hiếp một sửa sang. Mỗi làng một

minh chúa. Mỗi múa một diễn đài. Mỗi vai một

gánh vác. Mỗi xác một người chôn. Mỗi linh hồn

một nơi sở trú. Mỗi phố cũ có bảng đề. Mỗi mê một

tỉnh. Mỗi lừa phỉnh một lời phê. Mỗi nghề mỗi lộc.

Mỗi thâm sơn cùng cốc mỗi thăm dò. Mỗi đàn cò

mỗi chỗ đậu. Mỗi sân khấu một vai trò. Mỗi bà cô

một nén hương. Mỗi trường một thực lực. Mỗi ngực

một tim. Mỗi tim một cổ võ. Mỗi gió một năng. Mỗi

thằng một chức. Mỗi buồn bực một giải khuây. Mỗi

cây một chín quả. Mỗi ngã một nâng. Mỗi tầng cao

một leo. Mỗi keo một bãi vật. Mỗi chất một tin

dùng. Mỗi vùng một dụng. Mỗi vô dụng một gia

công. Mỗi sông một thuyền. Mỗi quyền một củ

soát. Mỗi hát một tâm tình. Mỗi đạo trình không

đậm xỉa. Mỗi vỉa một minơ. Mỗi thơ mỗi luồng. Mỗi

đường một người đường trường. Mỗi phương một

khai phương. Mỗi đêm trường một đốm sáng. Mỗi

họp đảng một không phải sực phàn. Quốc sách sửa

sang. Đèn tàn.

99. Thế giới thứ ba Mây trắng qua.

Ngẩng hạc đầu già.

- Thay bấc. Bến tắc thông dòng. Ngưỡng mong tỏ

xét. Người chết sống lại. Người dại lại khôn. Sông

lặng bão ngàn. Đàn treo lại gẩy. Vai gẫy lại lành.

Sạch. Thanh. Trăng tròn vành. Đêm rằm. Xanh.

Sao long-lanh.

- Đảng không lo cơm, lo chức, ban mũ cao áo dài

cho ai, riêng ai. Cơm lo ngàn nhà.

Page 227: Tran Dan _ Poem

227

100. Kĩ học gặp miền thiền.

101. Kỉ nguyên điên. Ngày da đen. Mặt trời hèn.

Không thích rước đèn-đen.

102. Vấp thì ngã. Hồ thả cá. Mặt trời lạ. Dạ đèn hoa.

103. Mưa lập phương. Người đường trường. Mưa ngoọng

ngường.

104. Cánh bồng xanh.

105. Đêm đi. Ngày đến. Bến. Kì cùnggg.

106. Ma đêm. Và người ngày. Chu vi mây.

107. Phố. Bộ hành trong.

108. Nhòe hết bản đồ kí ức.

109. Một bàn tay. Vẫy. Ngã ba mây.

110. Ván lực mới. Kĩ học nhập. Chủ nghĩa Mac đã trải

nghiệm. Bản địa nông dân.

111. Thông tin vĩ mô, xạ nổ.

112. Biện chứng bè ba. Dàn nhạo thoát xác.

Côxmôx ngày bọt.

113. Viết một roman-cancer. Bất thành nhân mềm.

Mặt tâu vàng. Liên quan mưa rào. Dạ tràng vàng.

Hạt cát lấp đại dương. Mặt trời tháng mười.

Con đom đóm lễ phép. Bề bẹt. Góc Nhạt.

114. Xé tự vị. Sáng tháng mười.

115. Ai bảo em che tự vị thế? E bị còn khoa học hở áo bí?

116. Phố sủi tăm mưa. 76 écta xưa.

117. Kèn hen. Mô đen bèn bẹn. Bím.

118. Tịch kí trí khôn. Dứt thánh. Hạnh bỏ trí.

119. Quyết định làm thằng vô dụng nhất.

Page 228: Tran Dan _ Poem

228

120. Nghĩa nổ như trong nhà điên! Đến phiên mày.

Thường trực đực.

121. Líu lường ngôn ngữ. Nữ. Bẹn bề đêm kiểm nghiệm.

Liếm. Đại hội kiểm liếm đại thành công.

122. Dạ quang mưa. Mắt nguyên sơ. Rỗng lặng tờ.

Hò. Biển lú. Mặt trời khụ. Xụ.

Thường trú nụ sấm sông Cấm mà lạ quang vĩ độ.

123. Đỉnh. Đỉnh. Đỉnh. Bịnh của núi.

124. Im lặng róc rách. Mưa ngoài vẳng tối.

125. Sau mây. Đen. Trắng lặng. Hoành rồng.

126. Qoằn qoại núi. Nhạc nói.

Mưa tối. Tầu cập khói.

Bụi-cầu mỏi.

Hãy về quê - chẳng - tới.

127. Qua thăm người nghén núi.

Bẹn lối … đói

Mưa nghìn dậm lội.

128. Quê đau. Hàn sĩ nghĩ.

129. Kinh nghiệm chúng mình quan trọng đấy.

130. Rách đã đành tôi. Đừng thêm rách lê dân.

131. Ti tỉ chúng sinh. Tôi bình thông đáy với muỗi. Rĩn.

Con đỏ, với ngôi sáng sao, lọ mực mẻ, tỉ tỉ, tất.

Với sợi cỏ vô tình chân dẫm úa.

132. Chú í một tị! Án mạng muỗi. Sợi cỏ!

133. Tiền đề: Con cá câm lòng biển mỗi quẫy đều động

đại dương.

Page 229: Tran Dan _ Poem

229

134. Tiền đề: Tuệ cầu làm việc ngày 26 tiếng. Nó ghi, lọc,

tập trung, phân tích, sơ tổng 76 nghìn tầng thông

tin. Những thông tin cỏ. Bóng. Khói. Đá. Mèo.

Trâu. Dê. Hoa. Hạt. Sóng. Hạt quang tử cũng có

chỗ kêu của mình. Gà chuột sư tử đang kiện loài

người án tòa gần xa kia và vô hình. Ngay trong vô

thức tử vi từng người đấy. Cẩn thận.

135. 76 nghìn đời rồi. Con kiến vẫn theo kiện trời đất …

và tòa áo đỏ.

136. Mặt trời câm. Trầm tích biển.

137. Hãm địa vàng thế giới thứ ba càng.

138. Kẻ ác trả về ác địa?

139. Đa diện giác 76 cửa sinh. Hồn muỗi lại đi đường

nghiệp muỗi.

140. Vết thương nhiều.

141. Vẫn ngày cao áp - lặng.

142. Mưa tối chùm ba chùm chín chín.

143. Người tự khỏi …

144. Thân phận quả đất, còn thế giới thứ ba. Còn vàng.

Còn á nhiệt đới. Còn 76. Còn chuyên chế proletkul.

Còn thơ. Còn hậu chiến.

145. Tôi thắng xe tôi vào kệ chữ.

146. Hàng bề hê ố địa. Nghĩa sằng - sằng.

147. Mắt có tai. Lo lẵng nghĩa.

148. Cao áp đề xi bel nhân gian ngữ hèn.

149. Nghĩa qoèn. Chữ hèn. Rao: đánh phèn !

Page 230: Tran Dan _ Poem

230

150. Cả không gian một vết cắn bội số mà nhân sinh sẹo

trắng đỏ đen vàng. Tôi. Mày. Nó. Khi cái nghiệp

chung cùng vô số sẹo trong ngoài. Lại còn quốc tế

sẹo thâm xì. Mà sẹo sông. Núi sẹo. Cỏ cây. Gian

nhà điểm tô sẹo buckê hoa. Vết thương bội số.

Anh đau ở chỗ nào? Ám ảnh:

151. Bàn tiệc sẹo.

152. Lầm nếu viết là phô sẹo. An ủi cũng không phải

băng bó nổi chăng nội ngoại. Không gian thương tích

chịt chằng.

153. Về suối giải tâm băng bó vết thương ngàn hải lí sẹo.

154. Dị nhân biển Nam.

155. Anh chớ buông sẹo đục lờ cảng sẹo.

156. Vê vê hạt cát dạ tràng. Sóng tợp hồn ma bóng quỷ.

157. Hiện hữu hoáng ư? Đồng hồ không tic tăc hiện hữu

thắp gì sâu? Sao thắp tối? Có bộ hành thiên lí sẹo

nào đâu? Chỉ có mây ngàn dậm trắng … nhân sinh

eo óc bến phù đầu.

158. Cường khẩu. Cường khẩu. Tôi bị cướp trắng địa đường.

Những phố thắp đèn chùm ba đèn chùm bẩy sáu.

Những cảng vụng tầu thắp í ới tầu khơi. Những nữ

khỏa thân tay chiêu đãi nách. Sách. Ảnh. Những

âm ti yach thủy tiên nằm.

159. Chữ, công cụ của con dục, ở văn thi sĩ, thứ văn thi sĩ

nào đó, để ở thứ văn thi sĩ khác, không rơi xuống

hàng văn nghệ sĩ, chữ thành công cụ tâm linh, đời

sống hồn linh, đường thăng thiên.

Page 231: Tran Dan _ Poem

231

160. Chữ đi ở, tôi mọi, nhiều trình, thấp con dục, những

thú vui, các hệ tự động - hạ đẳng, bản năng, nhu

cầu, ngược lại, bê bết, bắc thang lên hỏi ông trời …

nụ cười huyền mặc giữa nhân sinh.

(Ta cười xuống kẻ tình nhân tục phố)

161. Chữ không trực tham dự đổi thay … không 2 tay

8 gươm vàng! Chữ tác ở bề xa, vô thức vũ trụ, vô

thức xã hội. Chữ thủy ba ngầm. Xoáy dưới mười

nghìn tầng hải lí.

162. Hãy rũ cái mầu trắng.

163. Bắt đầu tưởng thường. Thương tích heo may. 7. 8.

9. Tháng chín mới rõ. Tác phẩm đó, của mùa thu.

Xanh hóa vàng. Cái xanh hôm nọ. Sự xanh ấy bây

giờ chằng chịt những thương tích heo may tục gọi

lá vàng, chiến công của thu. Khô cây vàng lá.

Thành già chi chít sẹo heo may.

164. Cho nên vết thương bội số.

Page 232: Tran Dan _ Poem

232

Mơ tưởng một cái mới toàn diện, thoả mãn một triệu thứ tư tưởng, một triệu vấn đề nghệ thuật là một điều vô lý, như cời mặt trăng. (1958)

Page 233: Tran Dan _ Poem

233

II.3

JỜ JOẠCX

1963

Page 234: Tran Dan _ Poem

234

Poème – Roman à Accompagnement

Thơ - Tiểu thuyết Một bè đệm

iếu mục:

. đề từ sẹo đặng đình Hưng

. tựa jờ joạcx

. 17 thiên jờ joạcx

Page 235: Tran Dan _ Poem

235

đề từ - sẹo đặng đình Hưng

thường những viên đạn xuyên qua ngực luôn

của không khí sờ mà xem không khí không

có sẹo

họa chăng đầu vú là những cái sẹo của tình

mẫu tử, và mặt người (toàn bộ cái mặt) là

sẹo ngoài của những cái sẹo cụ thể bên

trong.

cứ lật thử ra mà xem.

Thơ Đặng Đình Hưng

Page 236: Tran Dan _ Poem

236

Tựa Jờ Joạcx

Joạc jờ jêrô ... vòng tròn

thằng TRUỒNG bị vây trong vòng tròn

tôi không hiểu tôi bò hai chân trên sẹo joạc jờ nào ? sao cứ

thun thút những sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa ?

chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss ? mà tôi vẫn bị ngửa thì jờ

ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc vườn jạch ngực joạt đùi jầm

mùi jũi lòng. tôi biết jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc người

đi.

hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày tôi đi song

song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông

tôi gặp

một con nữ vận động viên

ướt

jượt

toàn thân

chạy joạch vòng mưa

jòng jòng

1 - 9 - 6 - 3 min mét nữ

jờ jạchx nở jòn jọt.x

Page 237: Tran Dan _ Poem

237

chính ja tôi thíc cái yếm nín cái nịt thịt của các kilômét đùi

joạcx. Tôi gương trong jập mùng đùi sẹo nữ. tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các sẹo bàn ghế tủ

nam nữ đồ đạcx.

tôi lúc nhúc cả ngày tứ phía câu-đố-bé-tí, ẩn số hở số

những hạt cốc tách song song xe cộ-người-giờ.

tôi tòi.

tôi cốc jâu tươi ướp đường chai bia xuôi vai sẹo mát hạt

mùa nực. tôi chiếc ôtô mui sinh vật - 4 - chân bon trong jàn jạt sẹo -

2 - chân nam nữ joạc bộ hành. tôi quần không slip nữ sẹo jọc vườn hoa kể cả chiếc nữ

đồng hồ đeo tay là hạt sẹo joạc jờ

nhưng làm jì có thì jờ chỉ có ngày đêm là sẹo nghỉ ngoài jờ.

tôi từ chức tiến sĩ. phó tiến sĩ. sử kí. chân lí. thẩm mĩ. thi sĩ.

jạch khi truồng mưa lèo lẹo bầu phùn. tôi không thi hơi

nữa với thằng TÌM. vạ jì cởi trần đăm đắp cộm người 1-9-

6-3 nốt sẹo-mùn-mưa ?

tôi cụt jủn là thằng TÒI.

tôi tòi ja từ cái cống hở vũ trụ nở sẹo khóc ja ja nhà sẹo hộ

sinh

Page 238: Tran Dan _ Poem

238

tôi iêu những chiếc nữ mayô jính ngấn. Capốt nữ. Jụng cụ

nữ buồng jờ.

toàn thân tôi là một chiếc sinh thực khí jứt thánh bỏ trí của

tất cả nam nữ.

tôi thường trực jục cưới jao cấu phố. buồng. đường. người.

ngày. mùa.

tôi thíc những cái tòi-

tòi tí quần lót thịt nịt ngủ tí sẹo đèn hàn hạt

tí câu-đố-bé-tí chẳng hạn ji jíc phố sẹo mưa mùn

phùn tí nữ bộ hành joạc đùi ươn ướt tí...

tí tắc xi tòi sẹo cửa kính jạch

tí nữ điện thoại jọc vành tai tí mắt Mông cổ lai sẹo

xếchx của nhìn.

tí bồn tắm nữ tòi ja ngoài vòng tròn jờ.

chứ Rimbô voyou.u.u - voy ăng jì ?

cứ jì hẹn joạc jờ khi không cần tôi càng mò luôn vào buồng

con A mưa đang tụt quần.

vâng. Tôi phôi sinh vật hạng bét joe joét bò gù 1-9-6-3

chân sát đất !

tôi chỉ thông minh bằng con bọ ngựa. tôi thi chân lí với cái

jĩm im.

thì tôi thíc sống

không sống 1 tí - 6 - 3 tí còn nữa nhiều tí

tôi thoải mái cái cống chảy òng ọc nước sướng.

Page 239: Tran Dan _ Poem

239

tôi bình đẳng con nữ tôtô jớt jãi jóe joét sẹo chửa

đẻ

tôi chơi thân với cái bàn chải cái bô sinh vật kĩ nghệ và tự

nhận kém kỉ niệm và kĩ thuật cái jường jụn jịn sẹo lò xo.

tôi thíc sướng

tôi cái sẹo jữa vết xước nước ẩm mét jạch lược bí

tôi cái thân chai vuông vai ngồi nhai joài joài mâm mầm vịt

lộn

tôi 1 lực ngực 1 chực joác 1 toạc jách 1 lạch juýp 1 jịp vú 1

nụ nóc 1 jạc sử kí

tôi thíc thịt

jây nịt thít mít một jờ mật thạch thật nún nút mút Jísss

đèn đồng hồ mờ

tôi thíc thỏa

1 ngọa cắn 1 nắn mím 1 thím nách 1 jạch phím 1 jịm núm

1 jụm sách 1 lạch joác 1 xoạc bóc

tôi thán phục cái miếng hết vắt ve lăn thăn jờ thủy tạ

tôi xin cư trú thơ ca jọc lọc thì jờ truồng-vệ-xinh-công-

cộng-nữ

ôi bọt đặc hài nhi bàn ghế tủ!

ôi jờ joạcx sạchxxx!

tôi về nằm truồng

tôi tung joe joe confetti - vào - cơn - mưa - chu vi.

Page 240: Tran Dan _ Poem

240

17 thiên

Jờ Joạcx

Thơ - Tiểu thuyết Một bè đệm

Nhân vật chính vừa bất chính J - jọc jạch. joạc - Sẹo - Mưa - 1963 - Vạn lịc - Phùn - Jao cấu đồ đạcx - 17 - Nữ - Ngửa sử kí - Thịt -

Tiểu thuyết xảy ja trong một đêm 1963 năm jạng đông trên những địa điểm: . Buồng thằng TRUỒNG (thiên X – I – II – IV - V - VI - VII - VIII - IX - XVI) . Phố (X - XV) . Sân thế vận (III - XVII) . Biệt thự nữ kĩ sư (XI -XII -XIII - XIV) tóm lại vẫn trong buồng thằng TRUỒNG theo đúng luật con số vàng “TAM DUY NHẤT”

Page 241: Tran Dan _ Poem

241

Thiên I.

Mưa quanh… quanh… …phun…vùng…phùn……

Thằng TRUỒNG đi đi trong

buồng truồng

Quanh chu vi là toàn tường truồng chỉ tự trang trí

bằng thịt của kí ức ngực mùa nực. Tôi iêu những

chiếc quần lót nữ vương trên sàn buồng bình thường.

Tôi không hiểu tôi đang bò 2 chân trên jờ joạcx quần

nào

tôi liền tra cứu hộ thằng TRUỒNG … một chiếc nữ ôtô

đậu jài đời đợi nữ ngã tư … tức là khi cầm nhầm của

ngửa lọc thiên nhiên một người ĐÀN BÀ ví jụ 17 tuổi

người ta thường lập tức xoa xoa 2 tay vào hà

hơi thành một luồng sẹo bề jài … hình như chỗ này sử

kí ngửa mùa đông?

Page 242: Tran Dan _ Poem

242

vả lại tôi đang bận hiệu đính quyển Lịc-jịc-đồ đạcx

gồm 6-3 thiên 17 tuổi … mưa jơi tia hoa chu vi đêm.

17 thiên bình minh. 17 thiên mưa muộn. 17 thiên xe

cộ jờ tầu chạy. 17 thiên gái mùa hạ và hài nhi. 17

thiên thì tiết sương muối và sẹo nữ. chiếc ôtô nữ đã

chui mui vào cả nữ ga ra jờ … Tóm tắt thuần là sẹo cổ

la hi mà tôi cả ngày mân mân cũng chỉ trên sẹo chữ

nói hèm hẹp hơn trên sinh lý thịt mọi người ...

tội của trăng tuần là júp sáng sẹo công viên. Thành

thử trên tường khi treo đuôi xuôi Picasso ấy là sẹo -

hội họa - bây jờ mà khi treo ngược các chiến sĩ đồ đá

thì chỉ có sẹo thừng im lặng cổ còn những thương

binh của ĐÊM thì lại đóng vảy trên đường thành sẹo

của đôi chân … mưa… phun… phun… vùng… phùn…

nên tôi gãy là phải … trăng thia tia…gầm jường…

còn jì mà hiệu đính nữa. Cuối cùng tôi ngồi uống

nhau với li jượu nữ jài jài … tôi biết một nữ kĩ sư

nue...

II.

… mưa hoa … tôi iêu những chiếc đồng hồ nữ …

blốc nốt nữ …

ca pốt nữ …

bustờ tường truồng trần … trông quyển lịc jịc đồ đạcx

mà ngại tổng cộng buồng tòi lòi 3 tủ đứng chữ mà

mưa thì mùn còn tôi jỏi ja toàn thân cũng chỉ là một

Page 243: Tran Dan _ Poem

243

tủ sẹo là cùng … jờn jợn nữ tiếng chân truồng trong

jờ hẹn nữ hành lang.

trở về li jượu nữ … một hạt mưa nữ … trú mưa … hăn

hắt cửa … ngoài phùn … tôi cầm li jượu nữ ở lạch

cẳng jọc jài và uống nó joe joe vành thủy tinh xinh …

… mưa jâu tươi jơi ngoài khách sạn … phải kể một cái

chai vuông vai ngồi oai oai đầy sẹo jượu mùi … váy

nữ … và hôm nọ cái chai lít 9 jờ jót say xong bị cả

nhà khinh đã tự tử tiền jưỡi jọc gầm ghế … cửa sổ

muộn … toàn người truồng chai joài joài sẹo bạch

đinh … (CHÍNH JA NÓ LÀ CÁI SẹO ĐÃ JÙNG JồI…)

phùn … phun … phun … vùng … phùn …

quyển lịc jịc đồ đạcx thì điềm tĩnh tòi lòi nhiều hột hạt

bàn ghế tủ đầu đậu vào tôi thoả thích nhìn sờ … cửa

quay ươn ướt jọc đường đùi …

ja juss joa’’css

... mòng mọc một nữ bộ hành trong bóc lọc

phùn mưa ...

tổng cộng 1-9-6-3 từng lẻ và từng cụm sẹo

phập phồng jờ joạcx ngực ... tôi nhớ cái nịt

thịt jười jượi ...

CHÙM 1 (sẹo)

thuốc lá thịt sẹo môi jao cấu hút jừn jựtx

Page 244: Tran Dan _ Poem

244

CHÙM 2

jao cấu théinnipipédé jọc lọc chè fíc ấm -

sẹo chén hạt mít. buồng xưa mưa nín ...

CHÙM 3

jao cấu jứt jít sẹo thuốc jụn nõ điếu ...

... thầm mùi mỡ kĩ sư môi ...

Lẻ SẹO 4

nghĩa địa jụi tro ngẩng khói gạt tàn ...

... tia mưa 9 jờ tối ...

CHÙM SẹO 5

chiếc săng đan sèo sẹo của đứa trẻ mà mẹ

nạo thai ngày Pâques ... cây nữ thập ác lằn

lằn thăn ngực nữ ...

CHÙM 6

lèo lẹo núm chanh đĩa sẹo mùa hè

... vũ trụ kê nhiều đồ đạcx sạch

CHÙM SẹO 7

jao cấu trắng bạch định jổ bát. Mưa ...

mun ... phun ... mùn … phùn ...

CHÙM 8

sẹo laiơn nò nở hở bình jài

Lẻ 9

thằng TRUỒNG ngừi ngửi nách áo nữ gạo jự

Page 245: Tran Dan _ Poem

245

Lẻ sẹo - mười ?

không ...

... một nữ kĩ sư là kể cả bẹn 10 jờ.

không có lẻ jì hết kể cả tôi cái tủ sẹo kê lèo lẹo jữa

jao cấu jào jạt đồ đạcx hạt bàn ghế jừn jựtx sàn gác

joọcx ... sương xuống hai mùa xoa xóa sẹo đường đôi

... thì tôi vẫn uống nhau cùng li jượu nữ nhưng còn

thân hoa tuy líp* nở vườn phùn thì liệu hạt lệ thằng jồ

jăng jắc sẹo mấy vùng mưa?

... ôi cái yếm nín của hẹn jờ chẳng đến ...

tôi ngồi lênh láng tủ jữa nhà đêm.

III.

… nữ ngực

nữ địa chỉ …

Kỉ niệm bao jờ cũng đồ đạcx …

là một sẹo jâu tươi …

. . . . . . . . . .

. . . . . . . . . .

Khách sạn phùn … phun … jọc nóc … jòng

jòng …

* hoa Tulipe Aragon

Page 246: Tran Dan _ Poem

246

IV.

… tôi jứt đứt chiếc nữ may ô ján trịt thịt nịt …

lại mãi mãi cụm sẹo

… buồng

phùn …

CHÙM âm 13

con nữ tô tô jao cấu jăng nhọn chiếc ca pốt cao

su jính thịt lăn thăn vứt jẹo jọc ngày …

glôb

hột

lựu …

CHÙM âm 14

joe joét quả joi quả mận ngủ nịt jờ trên jus ngực

jòng jòng …

… mùa hạ nữ

CHÙM âm 15

một miếng mặt bổ jọc môi che sần sần chạy jựa…

… vườn sao juliét thắp

CHÙM âm 16

đường stád tinh sương jơm jớm sẹo công viên …

… hờ hở nở ………. bustơ mưa ……… mòng mọc ….…..

lọc……… jòng ……… lòng

Page 247: Tran Dan _ Poem

247

CHÙM âm 17

vỡ tủ lịc jịc chữ nữ nhảy đồ đạcx joẹt jòe joe khách

sạn sẹo vùng phùn …

đèn hạt tủ

CụM SẹO dương 18

thằng TRUỒNG ôm ôm chu vi tường truồng

- - - - - - - - - -

- - - - - - - - - -

ngoài phùn … mưa ướt nữ … jơi tia ….

CHÙM âm 19

tôi jính trịt thịt môi li jượu nữ tròn vành ...

V.

một hở sú chiêng non lùa lụa sẹo đầu giêng ...

vả chăng gót nữ joai joai sân thể vận mùa lọc thì phố

cổ đã luồng tầu hon hỏn sẹo ja đi ...

... mưa

mùa ướt nước jượt toàn thân...

CHÙM âm 20

đềfilê nữ mưa mỏng mày áo môđ hột điền kinh nhảy

joạcx ... đường hoa tuy líp nở... nhưng tôi đã kịp jịc

jì đâu ? ... hai mắt Mông Cổ lai quay lại joạc nhìn.

bỗng

Page 248: Tran Dan _ Poem

248

cả tè he đè tôi joạc hở hành lang con nữ kĩ sư hẹn

bẹn 10 jờ jành jạchx cửa joác mắt xếch-xxx

- J U J U Ý P X ?

... thì đâu địa chỉ của jờ mưa ?

thằng TRUỒNG đứng jậy song song cãi lại

- THÔI MờI CÁI Nị HÃY NGồI CHƠI …

. . . . . . . . . . . . . . . .

bỗng ở sau lưng có tiếng đồng hồ.

VI.

tí mắt MÔNG CỔ lai trong vắt xếchx jạch nhìn ... jờ

nữ mùa xa gạo jự đòng đòng ... một cuộc đạpx tung

chăn jường đồ đạcx tôi vứt một lúc 1-9-6-3- sẹo khen

chê trong lịc jịc joạcx jờ

- JA JĂCC’ SSS ?

ai ján sẹo tem thư nhờ nhạt ngực phong bì?

HAY CHƯA CON Nữ KĨ SƯ TRUồNG JụC CƯớI !!!

bởi vì để lâu jờ tầu chạy và luồng xe cộ jục jịch chợ

và hài nhi mùa đông. và bàn ghế tủ và lò sưởi và địa

chỉ đồ đạcx và jèm cửa. drap và bít tấtx ... một nữ

găng tay đầu đậu sẹo nữ ôtô ...

Page 249: Tran Dan _ Poem

249

- JU JÍCSSS ?

và củi đóm khăn mặt và gạo và xoong nồi mua jồi và

tã lót tiết đông chí và jây cót và trẻ mỏ hàng xóm và

cầu thang

- JU JÚSSS JA ?

và jầy jép len chưa đan và quà cáp họ mạcx và tàu

điện và vườn trẻ buổi sớm và bánh trái đồ nilông đồ

đồng và đồ nhựa đồ hộp và thời đại đồ đạcx

và thuốc lá và chlôrôcid và con cái jếch jácx và tiền

nhà măng miến tết và về làng họ hàng vấn đề nhi

đồng và chia lương ja và chậu tắm cho con mùa nực

và kế hoạch trên mọi sự và hiếu hỉ và tiền vệ sinh và

nửa tá mùi xoa bà chị ... vú vú vú ... jù bọc lụa 2 lần

vú vẫn trần truồng ...

TÔI NÍN SSS SSS SSS.

... chết ở sân ga

là tứ phía sẹo tầu mưa ...

- JA JốC XXX!

TÔI Sờ LÊN MÁ.

vẫn còn thở hơi một cái tát trái nói đúng hơn một jao

cấu jòe joẹt bằng cái sẹo tay nue

Page 250: Tran Dan _ Poem

250

VII.

Cái tát ... Hạnh phúc thuần làm bằng đồ đạcx kể cả

vĩnh viễn nâu nâu của một sẹo thở jài ... chiếc nữ lập

lắc jứt đứt jơi trên sàn truồng ...

thiên thu đùi lọc ôi tôi mắc sử kí với nữ kĩ sư truồng

... lưng bổ jọc jèm gương.

tức như tôi nợ sẹo nữ hợp đồng luồng tầu quyển lịc jịc

thuần hạnh phúc xanh chảo và kì cọ jường tủ cổ sơ

và tội lỗi đồ nhựax kế hoạch hột hạt và hài nhi sinh

nở ngoài ca pốt.

.

jập mùng jường ... tổng cộng vạn vật jao cấu đồ

đạcx và trừng phạtx lục địa vừa jưới một tinh mơ mili

- pút - nữ sẹo nằm - vùng phùn... phun... phun...

đèn... phùn... mà tôi hon hỏn một tủ gụ sẹo nhật

jụng thường thương cằn nhằnxx bổnx phậnxx.

THÌ XÉ Sử KÍ Nữ KĨ SƯ TRUồNG ĐÂU THể NổI ?

THÌ MảNH SÀNH ?

THÌ LụA ĐIềU ?

TạI SAO NằM TÀI KHOảN SẹO ?

TạI SAO Cổ HọNG Hở

tại sao luồng tầu điện và thì jờ xe cộ và bóng mực 1 -

9 - 6 - 3 món nợ sẹo và cổ hũ ấm phích jạp hát và nịt

thịt ? ... xe nữ cứu hỏa tưới phẩm đỏ ... mà không

bàn ghế tủ đồ đạcx liệu cả cái vũ trụ nở này còn ja

cái đồng sèng Vạn lịc jì ?

Page 251: Tran Dan _ Poem

251

một hài nhi sao đang tập lẫy jọc mùa ngâu ...

Tôi ja cái lẹm cằm jì ?

sẹo jì ?

đồ đạc jì ?

A

- LÔ ! . . . . . . . MƯA !

tôi jứt jây nói

Alô ! cho tôi nữ kĩ sư truồng

( bis – bis) A lô !

sẹo jỉ đôi môi xanh mầu Vạn lịc

VIII.

nếu đi theo một đường jây mưa

sao cũng gặp một nữ điện thoại đã nói mưa biết đâu

hạt nào xe cộ phố ?

hạt nào tầu điện ?

hạt nào ô kính jạch vườn hoa ?

tôi tù mù 2 mắt MÔNG CỔ lai jọc nhìn 1 9 6 3 mét

vuông sẹo nước bầu phùn

Page 252: Tran Dan _ Poem

252

... biệt thự nữ xa xa kín ba cổng nữ ...

tôi đi sau jèm phùn những tả cảnh tầu lên và chen

chúc em bé jét mướt và cửa kính luồng người chạy và

vạt nước bóng loáng ánh điện loảng và đường nhựax

Ừ JOÈN JÌNH MƯA NHÀ VÀ NGƯờI Jờ...

Ừ JÒNG JÀNH ĐƯờNG ĐếN NHÀ EM

... 17 phố tòi 13 cột điện hở...

Ừ ... tòi ... liệu có nữ kĩ sư truồng gặp jượt bầu đêm?

TÒI 1

đan lát phố dọc chi chít sẹo nhà cổ một tầng và chín

chịn jài tầng...

TÒI 2

vài sẹo bộ hành thưa gần xa và joen joét sẹo tắc xi

jườn jượt nước

đại lộ mở TÒI 3

ướt thượt jữa ngã tư một người vành tai dính trên dây

điện sẹo – A lô! Cho tôi thằng TRUỒNG ! (bis) thằng

TÒI ! Jắc sss. nữ kĩ sư truồng gọi ngửa sử kí

. . . . . . . . . . .

A lô ! ôi tiếng vang im sẹo nằm trong tíc tắc ...

nhưng ví 63 - 63 là sẹo số Vạn lịc thì thường trực

Guypêou nữ điện thoại - mímx jì trong khi sử kí cột

Page 253: Tran Dan _ Poem

253

điện jọc đường phùn bao nhiêu Vạn lịc gục vùng

mưa?

tôi vứt joạch ống nghe ngồi lỗ nhĩ 1 jờ khuya ...

IX.

mưa truồng

jải jích jus jâu ... thì kệ cái tát 1 bát sẹo 1 lẹo vú 1 bú

đít 1 lít nách 1 jạch tóc 1 móc họng 1 nọng thở 1 hở

jốn 1 nọm nín 1 mím ngực 1 chực cắn 1 nắn thẹn 1

đẹn kén 1 nén xác

1 es píc 1 híc bẹn 1 lẹm nguýt

1 quít háng 1 jạng sáng 1 tháng hóc

1 jọc đùi 1 mùi môi

1 chồi vai 1 nhài nịt 1 thít mông 1 lồng mầm 1 thâm

hột tất cả 1 - 9 - 6 - 3 hạt hài nhi xin đi và u ti

ngoài tử cung ni lông hồng Vạn lịc.

kệ CÁI TÁT . . . jây nữ điện thoại joai joai lò sưởi

nguội

M ư a . . . m ư a . . . mưa

m ư a

tôi đi thìn thịtx

phố mưa đôi mắt thịtx

tù mù

Page 254: Tran Dan _ Poem

254

X.

lắc jắc hàn hạt jus . . . tôi tòi ja jữa chúm chím

mím mưa mùn phùn đường mẹ trẻ bế jọc lòng một bé

trẻ mưa xinh … một lùm tiền trinh.

TÒI 4

sẹo héo che ô của một cụ tuổi jà tòi 5.6.7.8.9.

từng cặp lõng bõng lẹo mưa jầm jề mần mận sẹo

vườn hoa ...

mưa truồng

hồn hột ...

thường trực nhà hộ sinh nhà sẹo khóc ja ja miệng sẹo

hài nhi ... nhưng bản án truồng liệu có để buồng

mưa?

TÒI 11

lằng lặng jặng mưa im treo nước sẹo đèn

phùn.

lại

một SẹO ĐÈN (2.)

một vệt chìm jài sẹo thịt luồng mưa.

Mùi soufre ...

Page 255: Tran Dan _ Poem

255

ĐÈN 2 écjacô

nữ xe đạp vành mưa sẹo tròn joen joét bánh

SẹO ĐÈN 3

balcông sẹo lồi

SẹO ĐÈN 4

tí cột đồng hồ công tác sẹo chỉ jờ …

tôi sẽ jứt khoát các tíc tắc

SẹO ĐÈN 5-6

jậu sắt

sẹo jài jách lá mượt jòng jừa

tuần lễ lấm

SẹO ĐÈN 7

nữ áo đi mưa đường đùi joèn joẹt nước.

đĩa ngửa xu xê nằm sẹo nở ...

SẹO ĐÈN 8

tứ phía chân xanh Vạn lịc tôi jẽ nhảy

sang một vỉa hè phùn

ngã tư năm ngoái.

SẹO ĐÈN 9

TÔI TÒI

toàn bộ một thằng TRUỒNG

ôm sẹo trước nhà em

. . . . . . .

jus jâu mưa tia hoa

Page 256: Tran Dan _ Poem

256

XI.

thế là tình sử ... 17 lối vườn 17 sẹo trăng non bởi vì hồ nước mắt lộ thiên là thằng TRUỒNG nợ sẹo

của người trước mà phẩm lọc sử kí thì đa tình jao cấu

khoản lại người sau . . . . . . . . . .

mưa jọc hở nhà em lằn lằn sẹo nước .

tôi đi qua cồng cổng sẹo vào nhà

BUồNG JOạC 5 ... cửa sổ jèm hở

bồn tắm nằm mịn

nữ

đăng ten đèn chùm nem

BUồNG JOạC 6

mảng tường mụn đinh không bằng đồng tiền chinh

không khí có mùi người thở

BUồNG JOạC 7

tủ gụ

parallélipipède sẹo chịu đựng

táp đờ nuit

nue suốt ngày đêm . .

BUồNG JOạC 8

Page 257: Tran Dan _ Poem

257

ba chén hạt mít nằm hàn hạt chứa jửa jữa tách sạch

một mạch

BUồNG JOạC 9

tã lót đỏ hỏn

của hài nhi bàn ghế tủ ... ngòi đùi

tôi ngồi nghỉ thở nửa điếu thuốc ngủ thả nghiêng sẹo khói. Ừ tôi nghĩ vạ jì quy tất cả cho sẹo bởi vì người ta thường jùng 1 - 9 - 6 - 3 rúp – floris -

phật lăng sẹo nữ để kim chỉ và may mặc đồ đạcx ...

khuy yếm nữ ... mà ai chủ yếu chi tiết chẳng là đồ

đạcx ? thì jù chăn chiếu nồi niêu băng qua 1 - 9 - 6 - 3 luồng

XII.

nhà không . Không cả nữ chủ nhà

jờ jọc

tôi tòi jữa tã lót đồ đạcx jệch jẹo tôi bước joàng

joạng một luồng sẹo Vạn lịc jạch thẳng lằng lặng nhà.

jòn jọt tiếng chân mưa

Page 258: Tran Dan _ Poem

258

tòi

BUồNG JOạC 1

sẹo ghế nữ

nữ sàn buồng

BUồNG JOạC 2

phô tơi jơi loe loe

bành sẹo

BUồNG JOạC 3

màn mùng . chăn nữ lược nữ không jính ba sợi tóc

mọc jọc nìn nịt nữ .

BUồNG JOạC 4

ngăn kéo

lòi tem thư sèo sẹo ngực phong bì. đạn jữ một cựu chiến binh đồ hộpx cũng không lách

mình vừa một lỗ sẹo nhỏ khải hoàn môn

jăng jắc hạt

h o a m ư a . .

thì đâu nữ kĩ sư truồng ?

Page 259: Tran Dan _ Poem

259

XIII.

BUồNG JOạC 1’

bầu phùn tia nước hạt

bustơ đùi

sẹo ngồi . . .

BUồNG JOạC 2’

bustơ ngực

piscine tinh sương … BUồNG JOạC 3’ bustơ bẹn . sẹo ngửa BUồNG JOạC 4’

bu stơ vú

nữ jiễn viên nue BUồNG JOạC 5’ bustơ môi. BUồNG JOạC 6’

bustơ sẹo

lò sưởi hở hơ đùi sẹo củi

BUồNG JOạC 7’ nữ chủ nhà đi vắng

để lại trong gương một jọc sẹo lưng trần.

Page 260: Tran Dan _ Poem

260

truồng A mưa cởi áo

mãi không thay

truồng B chỉ mặc không quần nằm xem sách sẹo.

nách nữ

truồng C đi đi lại lại trong màng lưới sắt của một con

báo đốm 16 tuổi jưỡi

tôi iêu những jờ lừng lực nữ...

truồng D vừa đắp mỏng chăn lắp thử ngón tay ca pốt

hẹp ban ngày

thịt của mưa xuân đào nụ nịt jườm cành...

truồng E kẻ lông mày cho mặt nách háng và đồ đạcx

sử kí

truồng F tắm ướt hạt đồng hồ đeo tay G ? H ? thế jới bên kia nằm hở số sẹo

ngay đây . . .

truồng J đít cong môi blông pha cà phê nue …

jương cầm mím phím số 9

thằng truồng bôi albom thịt vào mắt MÔNG CỔ lai chó lài jồi tòi sang buồng đồ đạcx khác.

mưa thia tia hoa lia

Page 261: Tran Dan _ Poem

261

BUồNG JOạC 8’ bustơ tủ hoa poa lua

mọc lực đực ngồng nhà

bỗng nở hành lang

một jọt lọc đồng hồ

BUồNG JOạC 9’ jường jọc jềnh jềnh ôm

Kỉ NIệM SẹO LÒ SO

xa xa - sấm động vẫn vùng phùn

thằng TRUỒNG với tôi ngồi nghỉ hơi mân mắt jíc jắc

vào góc lúc jịp đồ đạcx . . nước jóe jền jền loang

loáng chớp . . ( )

tôi lưu í sử kí thằng TRUỒNG

nữ biệt thự jísss cổng

tại sao phô tơi ngồi Vạn lịc ?

tại sao jưn jứsss thịt ? cho nếu sớm mai ngày là Phật đản của hài nhi và -

Pâques

THÌ

liệu mắm muối tinh mơ-x đâu để đồ đạcx ?

mà ai che chẻ kịp lạtx điều cho đủ sẹo jỗ người xưa ?

hồng hồng janh thiếp nữ hở niêm phong

Page 262: Tran Dan _ Poem

262

thằng TRUỒNG bước tới

trà mi một khuy hoa bình bàn.

bỗng cả bustơ nhà je jé thét

gót jài mưa sẹo

Mễ Tây Cơ ... - kẻ cắp ss ! kẻ

cắp ss !

XIV.

Tượng nữ ...

KHÔNG TÔI KHÔNG CắN AI Cả*

jiễu truồng sân thể vận đầu jiêng chứ nhẽ kể về sẹo Á Âu Phi tôi cũng khả jì sung túc đóng vảy 17 lục địa đực và đồ đạcx Vạn lịc nở

truồng A tòi ja qua gương lưng

- ja jả jữa jờ sẹo của một nữ - vắng - nhà jèm phùn

* Cổng tỉnh

Page 263: Tran Dan _ Poem

263

truồng B ngồi đùi non trên một bẹn hồ sơ - cả một xi

líp sách** jọc nịt thịt

mưa vi ni lông múa nữ lọc vòng lòng

truồng D

- Em mới 17 tuổi lò sưởi jưỡi .

truồng C

- ờ phải jập mùng

jường ... một jọc

nữ xinh thăn đùi thủy tạ.

truồng E lùa lụa juýp hàn the

- Em chưa ja lông

... bể tắm nữ ...

truồng F

- Em là tuổi bustơ của quần lót truồng J đít cong nhét cả cà phê bơ puđơ vào mồm nằm

jòng nữ vận động vừa

đi vừa jắc hạt gạo tám ướt

thằng TRUỒNG cười jísss hai tay chân lẫn bàn ghế tủ

thật đặc và jao cấu kỉ niệm với một lúcx chínxx con

truồng . tia chớp jừn jựt của cầu vồng mùa ...

** xilíp: một đơn vị đo lường ăn vào khoảng 63 thư viện

Page 264: Tran Dan _ Poem

264

tôi quay người theo đường cômpa 1 – 9 – 6 – 3 écta

tiếng chân mưa - cầu – thang – ngón chân nữ ...

bỗng hở jao thừa bustơ lèo lẹo !

- sẹo đứng . .

lằn lằn sẹo ong trong tượng lạch nữ kĩ sư thăn the jờ

mờ joạcx - jạchx

- Ju juýpsss ? he hé sẹo hoa non Vạn lịc ngậm đồng tiền ... thằng TRUỒNG vồ lấy tiếng bú jun jússs của đôi môi

vừa ướt ở ngoài phùn.

sử kí đầu giêng mưa lá trúc jạch lan đao ... thế là báo

thù jao cấu - jọc - 6 - 3 - bên.

XV.

thấp thoáng sẹo

nằm trong kí ức ...

tôi vừa đi vừa jũ sẹo đại lộ sạch .

từng lẻ lẻ chùm sẹo jơi juồn juột . đóng vảy sẹo bong

bóng . jóp jép đường nhựa loảng .

mưa jơi jùn jụt CHÙM 20 thì phải ?

sẹo hở công viên hoa muống chụm chùm đèn.

Page 265: Tran Dan _ Poem

265

CHÙM 21

mắt thịt MÔNG CỔ lai mun mút mắt

một chòm sao

sẹo của sân ga là khách muộn tầu.

CHÙM 22

bustơ cây

nhu nhú lá .

mùi thịt buổi sớm

CHÙM 23

guốc - - gót - - ướt

nếu có sẹo ngã tư mưa

nên có sẹo người chờ ...

CHÙM Lẻ 24

một cô bé lẻ mưa

ju - hành – vũ - trụ jọc phố . . . . . sẹo jài.

CHÙM 25

ghế đá nhợt nhạt

nữ tiếng khóc.

CHÙM 26

đèn chột độc long

truồng vệ sinh công cộng. nữ.

CHÙM 27

cột đèn một chân

cômic phố lò cò CHÙM 28’

con sư tử đực hôm nọ ngáp bách thú nhìn

hạnh phúc ja đình chủ nhật nhìn mình?

Page 266: Tran Dan _ Poem

266

tác jụng một cặp đùi kilômét jọc lằn mưa.

CHÙM 29

mưa ôm hình nhà . người . cột đèn lằn lằn luồng nước thược jược

tôi đi âm ti tânxx lâm li tận cùng mưa 1 lần jọc 2 lần Lọc

3 lần Bọc

4 lần Loạc

5 LầN NGOạC . ngoạch

6 lần Thạchx

7 lần Sạchx

8 lần Jạchx

9 lần Joạcx

... một mím ôtô truồng chạy jọc jờ mưa …

ngày nhuận

của mùa nhuần - - năm - - sử kí .

TÔI Về SUNG SƯớNG SẹO - TOÀN THÂN.

XVI.

. hãy đánh nữ ôtô vào thẳng nữ gara jờ.

. . . . . . . . . . . . . . . . Nói 36 cách khác

Page 267: Tran Dan _ Poem

267

tôi vẫn ngồi buồng chu vi mưa uống nhau cùng li

jượu nữ.

vũ trụ cần thêm đồ đạcx mọc.

tức là con nữ kĩ sư truồng nằm jữa xé sử kí jao cấu

trên tôi và thằng TRUỒNG - - ở các mông đít - ism lỗ

ngực jây . truyền nách mặt lẹm cổ họng .

tầu điện lên bên trên . tan sương . . .

GÀ GÁY

Vạn lịch trong 36 môd bình minh của quyển lịc jịc -

đồ đạcx xong (hẳn) đóng lại làm 1 – 9 – 6 – 3 năm

mở của những thiên quả đất muộn jờ tầu chạy và

thiên hài nhi vườn trẻ mùa đông .

xe cộ

lơ thơ - jờ. mà chu vi tường truồng lằn lặn jạng sáng làm bàn

ghế tủ pha đặc cả tôi vào không còn vết sẹo nào jớm

tí máu sớm ngoài chiếc đĩa sẹo mặt trời lèo lẹo ngậm

bầu phùn.

gà gáy lần 3.

sẹo nằm .

hôm ấy là ngày hết của lương thực tháng cuối.

tội lỗi của bình minh

tứ phía sẹo - người đi ...

Page 268: Tran Dan _ Poem

268

thiên XVII.

. mưa jơi chiêm chiếp . . .

con nữ vận động viên xuống sân buổi sớm cởi quần

lót mọc lọc mặt trời lên tới gót .

xe cộ tinh sương . .

báo chí mớm sớm

đồng thời đưa tin

jưới các mục nhật kí bút kí hoạ sĩ thẩm

mĩ jao vặt nhật lệnh và lác đác sênh tiền ngửa sử

kí muộn

. mặt trời leo leo ngang tầm bẹn jọc.

TIN SẸO (toàn văn) - - - - - - - - - -

< Đôctơ TÒI bác sĩ đồ đạcx 23 jờ đêm. To mưa mầm

hột vừa jồi đang hiệu đính lịc jịc - thì jối jít nữ kĩ sư

truồng tới jục cưới tát trái.

.mặt trời lọc mọc vẫn ngang leo.

Page 269: Tran Dan _ Poem

269

< một vĩnh viễn sau ngấm xỉ nhục 15 phút sẹo ngồi.

Dr. TÒI tức thằng TRUỒNG liền mang cả 1 – 9 – 6 – 3

kỉ niệm bàn ghể tủ tới nữ biệt thự.

báo thù nữ kĩ sư – jao-cấu–cơn–mưa–to–tại – chỗ.

.mặt trời ngang leo tới jưới mông của một nữ bộ hành. < nữ kĩ sư truồng thoả mãn ở sử kí sau đó bảo Dr.

TÒI bắt cóc cả bẹn mình ngửa tình sử đem về nhà jao

cấu đón sáng.

.mặt trời leo tới ngực gạo jự con nữ bộ hành mưa . . .

< jo đó

gà gáy jịp 3 hai đứa tha thứ xong quyển lịc jịc đóng

hòm tải sấp xe cộ vừa kịp 36 - lác đác - écta - sênh

tiền - ngực - nữ

- - - - - - - - - - - - - - - - - - Mặt trời vừa mọc jọc tới ngang mông con nữ vận

động tụtx quần xilíp lọcx.

sân ga tầu sớm mọi người . cười hồn hột đồ đạcx chẳng chú í lịc jịc

cơn mưa to bình minh tiền trinh

Page 270: Tran Dan _ Poem

270

juy có vài người không thông minh đã để í nhiều tới í

ngiã x triết lí thẩm mĩ địa lí sử kí sinh lí tay–chân

lí của cái tát hữu íx bé tíx .

sẹo nước vùng phùn phun jờ tầu chạy

luồng luồng

Jốt cuộc jễ hiểu mọi người đều đồng í

đêm qua

jao . cấu - tứ - phía - thật .

- - - - - - - mặt trời mọc lọc jừa h o a mưa . . .

Ja J ư - ớ - c . xxxxxxxxxxxxxxxx

tôi sướng hết đời không hết sướng

- - - - - - - - - - - - con nữ vận động viên tiền trinh lại đã lằn mình ươn

ướt jượt vùng mưa.

hình nữ phóng lao lằn lằn pistơ cỏ - - - - - - - - - - - -

màn jèm

HếTX

Page 271: Tran Dan _ Poem

271

Để đến với JỜ JOẠCX

Đặng Đình Ân Khi Trần Dần gọi Jờ Joạcx là � � � � � � � � � � � � � � � � � � , ông đã cho chúng ta chiếc chìa khoá để đến với thế giới văn học của ông. Có thể đọc Jờ Joạcx như một tác phẩm THƠ. Cũng có thể đọc nó như một TIỂU THUYẾT. Và nhất là đừng quên MỘT BÈ ĐỆM. Nhưng Jờ Joạcx chỉ được cảm thụ một cách trọn vẹn khi nó được đọc bằng cả ba giọng song song với nhau. Thực ra Jờ Joạcx đã được viết, được kể từ rất nhiều nguồn khác nhau: nhân vật xưng tôi, thằng Truồng, Đốc tơ Tòi, người viết bè đệm, tin đăng tải trên báo mà tác giả gọi là tin sẹo. Jờ Joạcx cũng được chia xẻ giữa hồi ức, độc thoại, kể chuyện, tả cảnh, diễn biến tâm lý, trong một cấu trúc phức tạp, đến mức người đọc bắt buộc phải được trang bị trước một cách đọc không chỉ cho ba giọng, mà cho nhiều cuộc tiếp cận văn học sẽ diễn ra đồng thời .

Page 272: Tran Dan _ Poem

272

Bằng cách nhân vật tôi từ chức tiến sĩ. phó bác sĩ. sử kí. Chân lí. thẩm mĩ. / thi sĩ mà thi chân lí với cái jĩm im…, bằng cách chú thích không thương tiếc: xilip : một đơn vị đo lường ăn vào khoảng 63 thư viện, Jờ Joạcx là lời nhạo báng thẳng thừng tất cả cái được gọi là trí thức, chân lý đương thời. Có thể tìm thấy lý do được nêu trong trang cuối tiểu thuyết:

mọi người. cười hồn hột đồ đạcx chẳng chú í lịc jịc cơn mưa to bình minh tiền trinh.

juy có vài người không thông minh để í nhiều tới í ngĩax triết lí thẩm mĩ địa lí sử kí sinh lí tay-chân lí của cái tát hữu íx bé tíx.

Lý thuyết rởm, bằng cấp, chức vụ, chân lí có giúp đỡ cho việc cảm thụ nghệ thuật hay không và như thế nào ? Jờ Joạcx cảnh cáo. Bốn mươi năm qua, lời cảnh cáo này vẫn còn ý nghĩa và cần thiết cho những cuộc tiếp xúc giữa tác phẩm và độc giả.

� ) � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � � Khái niệm « � � � � � » phải được đề cập đến trước tiên khi đọc Jờ Joạcx. Nhiều chữ của Jờ Joạcx được biến hình xung quanh chữ J, từ chỗ có thể nhận được « nguyên bản » của chúng (ví dụ : Jờ, Jòng Jã, Jút Ja, chiều Jọc), đến lúc không còn tìm được chữ gốc nữa (ví dụ : Joạc, Jọc Jạch, Ja Jắcc sss, Ju Jíc sss, Ju Jússs). Các câu cũng thay đổi cấu trúc ngữ pháp, từ chỗ hoàn toàn được viết theo trật tự phổ thông (ví dụ : thằng Truồng bị vây trong vòng tròn), từ chỗ có thể hiểu được (ví dụ : hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịch mịch ngày tôi đi), đến mức không còn xác định nổi đâu là các nguyên tắc ngữ pháp (ví dụ : tôi 1 lực ngực 1 chực joác 1 toạc jách 1 lạch juýp 1 jịp vú 1 nụ nóc 1 jọc sử kí).

Page 273: Tran Dan _ Poem

273

Các nhân vật cũng vậy. Nhân vật tôi lúc tách ra xa thằng Truồng, lúc đi vào trong thằng Truồng, lúc lại đến ngồi cạnh hắn, để uống cùng nhau. Nhân vật tôi khi nói hộ thằng Truồng, khi kể chuyện thằng Truồng, khi trở thành chính thằng Truồng, rồi thằng Truồng lại biến thành Đốc tơ Tòi. Không thể xác định nổi đâu là bản căn cước của nhân vật này. Nhân vật nữ kĩ sư chỉ tồn tại trong lời kể và bản tin sẹo, không bao giờ chính thức bước vào tiểu thuyết, cũng biến hoá từ con nữ kĩ sư truồng đến một phụ nữ được gọi là em rất âu yếm, rồi lại trở lại con nữ kĩ sư nue. Cái tên Tòi cũng đi từ thằng Tòi đến Đốc tơ Tòi. Ngay cả hai mắt Mông cổ lai cũng có thể hiểu là của nhân vật tôi, của thằng Truồng hay của cô nữ kĩ sư. Thế rồi, toàn bộ câu chuyện cũng không có « nguyên bản ». Chuyện được kể lại qua những lời kép của nhiều nhân vật trên thực tế cũng lại chỉ là một nhân vật: Theo lời nhân vật tôi, thằng Truồng đã ngồi chờ cô kĩ sư từ 9 giờ tối, đã gọi điện thoại mà không được, đã đi tìm cô ở biệt thự nữ kĩ sư mà không gặp, đã quay trở lại nhà, đã lại ngồi chờ đến lúc gà gáy lần 3. Nhưng theo bản tin sẹo, nhiều tình tiết đã thay đổi : Cô kĩ sư đã tới nhà thằng Truồng lúc 23 giờ đêm, đã giục cưới, đã tát vào mặt hắn, 15 phút sau thằng Truồng đến tìm cô ở biệt thự, cả hai đã quay lại nhà thằng Truồng và ngồi bên nhau tới gà gáy jịp 3. Phương pháp « ' � � � � � � » này như vậy hoàn toàn được thống nhất trong suốt tác phẩm, từ cấu trúc đến bút pháp, từ cái được kể đến cái cách kể lại. « Nguyên bản » và « không nguyên bản » không phải là điểm đến điểm đi của Jờ Joạcx. Nhưng chúng mở ra những cuộc phiêu lưu vô tận của chữ, của nghĩa. Chỉ khi thoát được những thói quen đi tìm « nguyên bản », « ảnh hưởng », « quy luật », « nguyên tắc » trong văn học, người đọc mới có thể tham dự vào những cuộc phiêu lưu ấy của Jờ Joạcx. Cần phải hiểu rằng những chữ SẸO, NỮ, THỊT, ĐỒ

Page 274: Tran Dan _ Poem

274

ĐẠCX… nằm khắp nơi trong tác phẩm chính là những điểm mốc khác nhau trong cuộc hành trình văn học giữa « nguyên bản » và « không nguyên bản ». Chúng vừa mang ý nghĩa cố hữu của chúng, vừa từ chối « nguyên bản », vừa từ chối « không nguyên bản ». Nếu khảo sát kỹ, chúng bắt đầu từ vị trí gần « nguyên bản », rồi cứ đi xa dần, trở thành những ảm ảnh thường trực. Chữ NỮ đầu tiên trong Jờ Joạcx : con nữ vận động viên, không có gì phải thắc mắc. Chữ NỮ thứ hai : chạy joạch vòng mưa / jòng jòng / 1-9-6-3 min mét nữ, khiến độc giả phải suy nghĩ tìm cách lý giải qua những thuật ngữ trong thể thao : chạy 100 mét nữ, chạy 1963 nghìn mét nữ… Nhưng đến chữ NỮ thứ ba : jập mùng đùi sẹo nữ, không ai còn tìm được bản gốc để giải thích nữa. Có thể thấy sự phát triển của chữ THỊT cũng trong những thứ tự xuất hiện của nó : từ cái cụ thể (cái nịt thịt, hay quần lót thịt tí nịt) đến ý niệm (thịt của kí ức ngực mùa nực hay sinh lí thịt mọi người), để cuối cùng trở thành những day dứt thịt : thịt của mùa xuân đào nụ nịt jườm cành, xilip sách jọc nịt thịt, albom thịt… Tương tự, hãy khảo sát cuộc phiêu lưu của chữ SẸO. Trong phần Đề từ - sẹo đặng đình Hưng, chữ SẸO thứ nhất hoàn toàn mang ý nghĩ thông thường : sờ mà xem không khí không có sẹo. Chữ SẸO này có thể được coi là gần nghĩa với « nguyên bản » : sẹo là kết quả của một vết thương. Chữ SẸO thứ hai : đầu vú là những cái sẹo của tình mẫu tử, bắt đầu đi ra ngoài « nguyên bản » và là một cách ẩn dụ. Chữ SẸO sau đó : mặt người (toàn bộ cái mặt) là sẹo ngoài của những cái sẹo cụ thể bên trong, đã mang ý nghĩa tượng trưng và lùi ra xa hơn « nguyên bản » ban đầu. Trong phần Tựa jờ joạcx, chữ SẸO trở nên trừu tượng hơn: tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹo joạc jờ nào ? sao cứ thun thút những sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa ? Đến 17 thiên jờ joạcx, chữ SẸO đã thành một thói quen hết sức tự nhiên : tất cả những gì thằng Truồng có thể sờ mó được, nhìn thấy được, gọi tên ra

Page 275: Tran Dan _ Poem

275

được, đều trở thành SẸO. Dường như toàn bộ thế giới của Jờ Joạcx đều « mang sẹo », và việc « mang sẹo » này quá phổ biến nên SẸO đã mất hết tính chất bi kịch ban đầu của nó, không còn là kết quả của tai nạn, bạo lực, vết thương hay quá khứ. SẸO cũng không còn được đánh giá là mất thẩm mỹ hay có thẩm mỹ. SẸO trở nên một lẽ đương nhiên khi người ta phải chứng kiến chúng hằng ngày, phải chấp nhận chung sống với chúng.

� ) � � � � � � � � � ư + � � � � Jờ Joạcx gồm ba phần : Đề từ - sẹo, Tựa jờ joạcx, và 17 thiên jờ joạcx. MỘT BÈ ĐỆM không được chỉ rõ, không được đứng riêng thành một chương. Chỉ khi tác phẩm được đọc xong, người đọc mới tự hỏi đâu đã là bè đệm ? Nhưng cũng chính Thiên WVII cuối của Jờ Joạcx lại là một gợi ý rõ nhất cho cái bè đệm ấy. Bản tin sẹo trên báo kể lại câu chuyện đêm trước, để lộ ra những đoạn in nghiêng tả mặt trời mọc và cảnh sinh hoạt buổi sáng, song song với hành động đọc báo. Tách riêng những đoạn in nghiêng và in thẳng, ta sẽ có hai bài văn độc lập nhau. Tương tự, đọc lại 17 thiên jờ joạcx, ta cũng sẽ thấy lại những câu văn nhỏ được in nghiêng nằm xen kẽ rải rác khắp nơi, đi theo suốt chiều dài của tiểu thuyết. Những câu văn nhỏ này có thể được lấy ra, xếp vào nhau theo đúng trình tự trước sau, sẽ tập hợp lại thành một bài thơ dài khác, chủ yếu kể về cơn mưa dai dẳng, rồi về một nhân vật tôi, về một cảnh trí, một địa điểm, về sân ga, những ngã tư, sân vận động… Có thể làm vài thí dụ. Theo cách xếp gần lại những câu in nghiêng nằm ở những vị trí rất xa nhau ta sẽ có :

Page 276: Tran Dan _ Poem

276

Thiên I

Mưa. quanh… quanh…

…phun… vùng… phùn…

Tôi iêu những chiếc quần lót nữ vương trên sàn buồng

bình thường.

một chiếc nữ ôtô đậu jài đời đợi nữ ngã tư…

hình như chỗ này là sử kí ngửa mùa đông ?

…mưa jơi tia hoa chu vi đêm

chiếc ôtô nữ đã chui mui vào cả nữ gara jờ…

tội của trăng tuần là júp sáng sẹo công viên.

mưa… phun… phun… vùng… phùn…

trăng thia lia… gầm jường…

Tôi biết một nữ kĩ sư nue…

VIII

…nếu đi theo

một đường jây mưa

biệt thự nữ xa xa kín ba cổng nữ…

17 phố tòi 13 cột điện hở…

liệu có nữ kĩ sư truồng gặp jượt bầu đêm?

đại lộ mở

ôi tiếng vang im sẹo nằm trong tic tăc.

XI

17 lối vườn. 17 sẹo trăng non.

mưa jọc hở nhà em lằn lằn sẹo nước.

Page 277: Tran Dan _ Poem

277

cửa sổ jèm hở

đăng ten đèn chùm nem…

không khí có mùi người thở

táp đờ nuit

nue suốt ngày đêm…

ngòi đùi

khuy yếm nữ…

Không thể tưởng tượng rằng những bài thơ này là kết quả lắp ghép của một người đọc. Cũng chính nhờ vào những đoạn văn in nghiêng này độc giả mới hiểu rằng tiểu thuyết được diễn ra trong khi bên ngoài trời mưa và cơn mưa phùn này không bao giờ chấm dứt. MỘT BÈ ĐỆM do vậy có thể vừa là “mưa”, vừa là “thơ”, vừa nằm trong tiểu thuyết, vừa nằm ngoài tiểu thuyết. MỘT BÈ ĐỆM trước hết làm giàu thêm cho diễn biến của tiểu thuyết, làm tăng hoặc giảm nhịp điệu của câu chuyện. MỘT BÈ ĐỆM cũng có thể trở thành trò chơi tâm lý :

thằng TRUỒNG bước tới

trà mi một bình hoa bàn.

bỗng cả bustơ nhà je jé thét

gót jài mưa sẹo

Mễ

Tây

Cơ…

- kẻ cắp ss ! kẻ

cắp ss !

Nếu bỏ đi bè đệm, đoạn thơ sẽ mất tác dụng tâm lý. Độc giả không còn phải nóng lòng chờ đợi cái gì sẽ xảy đến:

Page 278: Tran Dan _ Poem

278

thằng TRUỒNG bước tới

trà mi một bình hoa bàn.

bỗng cả bustơ nhà je jé thét

- kẻ cắp ss ! kẻ

cắp ss !

Rõ ràng, đối với đoạn trích thứ hai, việc đọc trở nên lười biếng hơn. Không còn trò chơi tâm lý nữa, và độc giả cũng không cần phải tự hỏi đâu mới là tiếng thét thực sự je jé. MỘT BÈ ĐỆM ở đây chính là thủ pháp nghệ thuật thú vị của Jờ Joạcx. Nhưng biết đâu MỘT BÈ ĐỆM, đến lượt mình, lại được đệm bằng chính tiểu thuyết ? MỘT BÈ ĐỆM được Jờ Joạcx xé nhỏ thành những câu thơ mini và tính phức tạp và độ dài của cuốn thơ-tiểu thuyết sẽ làm nổi bật sự giản dị, cô đọng của những câu thơ đệm ấy. Đọc Jờ Joạcx không thể không giữ lại một vài câu thơ mini như thế này nằm lẫn trong tiểu thuyết : thì đâu địa chỉ của jờ mưa ? / ai ján sẹo tem thư nhờ nhạt ngực phong bì ? / bỗng ở sau lưng có tiếng đồng hồ / sẹo của sân ga là khách muộn tàu / nếu có sẹo ngã tư mưa nên có sẹo người chờ / mưa vi ni lông múa nữ lọc vòng lòng / he hé sẹo hoa non Vạn Lịc ngậm đồng tiền / xe nữ cứu hoả tưới phẩm đỏ / tội lỗi của bình minh là tứ phía sẹo người đi… Đọc Jờ Joạcx không thể không giữ lại cơn mưa phùn dai dẳng của MỘT BÈ ĐỆM. Đọc Jờ Joạcx không thể không thấy tình cảm của người viết dành cho MỘT BÈ ĐỆM: khi nhân vật tôi đi ra phố gặp mưa, tiểu thuyết cũng đến với bè đệm, là những chương đoạn êm đềm nhất của Jờ Joạcx. Chính ở cuộc gặp gỡ này, nhân vật tôi đã hoá thân thành thằng Truồng và cô nữ kĩ sư nue được hắn gọi bằng em. MỘT BÈ ĐỆM đã được tiểu thuyết ĐỆM lại một cách kín đáo và dịu dàng như thế. Ba phần Đề từ-sẹo, Tựa jờ joạcx và 17 thiên jờ joạcx được xếp theo trình tự tăng

Page 279: Tran Dan _ Poem

279

dần về nhịp điệu và cường độ. Từ không nhân vật đến có nhân vật. Từ không có chuyện đến có cốt chuyện. Từ một lời kể đến nhiều lời kể. Từ thơ và tiểu thuyết đến có thêm MỘT BÈ ĐỆM. � ) � � � � � � * � � � � � � � a � � * � � � � � Lời kể đầu tiên của nhân vật tôi trong Tựa jờ joạc là một câu hỏi : tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹo joạc jờ nào ? Lời kể đầu tiên của nhân vật tôi trong 17 thiên jờ joạcx (đến sau lời nhân vật tôi của MỘT BÈ ĐỆM) là một câu khẳng định : tôi không hiểu tôi đang bò 2 chân trên jờ joạc quần nào. Nhân vật tôi của Tựa jờ joạcx thổ lộ : tôi lúc nhúc cả ngày tứ phía câu - đố bé - tí. ẩn số hở số những hạt cốc tách song song xe cộ. người. jờ. Nhân vật tôi của 17 thiên jờ joạcx thực sự bận rộn và không tự hỏi, hoặc bị hỏi như thế : vả lại tôi đang bận hiệu đính quyển Lịc-jic-đồ đạcx gồm 6-3 thiên 17 tuổi… 17 thiên bình minh. 17 thiên mưa muộn. 17 thiên xe cộ jờ tàu chạy. 17 thiên gái mùa hạ và hài nhi. 17 thiên thì tiết sương muối và sẹo nữ. Nhân vật tôi của Tựa jờ joạcx không quan tâm lắm đến thằng Truồng. Nhân vật tôi của 17 thiên jờ joạcx lại chơi thân với thằng Truồng, tra cứu hộ thằng Truồng, ngồi nghỉ cùng hắn, lưu í sử kí cho hắn, và nhất là có một lúc hiếm hoi : tôi tòi/ toàn bộ một thằng Truồng/ ôm sẹo trước nhà em. Tôi của Tựa jờ joạcx thì thường trực jục cưới, còn tôi của 17 thiên jờ joạcx lại bị con nữ kĩ sư truồng jục cưới, đến nỗi ngay lập tức phải hóa thân thành một người đàn ông sợ có gia đình với những lo lắng thường ngày: … bàn ghế tủ và lò sưởi và địa chỉ

Page 280: Tran Dan _ Poem

280

đồ đạcx và jèm cửa. drap và bít tấtx… và củi đóm khăn mặt và gạo và xoong nồi mua jồi và tã lót tiết đông chí và jây cót và trẻ mỏ hàng xóm và cầu thang và jầy jép len chưa đan và quà cáp họ mạcx và tàu điện và vườn trẻ buổi sớm và bánh trái đồ nilông đồ đồng và đồ nhựa đồ hộp và thời đại đồ đạcx và thuốc lá và chlorocid và con cái jếch jácx và tiền nhà măng miến tết và về làng họ hàng vấn đề nhi đồng và chia lương ja và chậu tắm cho con mùa nực và kế hoạch trên mọi sự và hiếu hỉ và tiền vệ sinh và nửa tá mùi xoa bà chị…, để cuối cùng nhận một cái tát trái mặt. Hai nhân vật tôi trái ngược này có thể là một ? Khó có thể nói chính xác toàn bộ Jờ Joạcx được kể bởi bao nhiêu nhân vật tôi, ngay cả trong MỘT BÈ ĐỆM cũng có một người xưng tôi cất tiếng xen kẽ với lời kể của nhân vật tôi trong tiểu thuyết. Tất cả bọn họ đều cùng chung sở thích phụ nữ, từ vựng, ngữ pháp, cùng một cách phát âm, cùng không có tên, cùng vô nghề nghiệp hoặc đã bỏ nghề, cùng có cặp mắt Mông Cổ lai, cùng đã gặp một con nữ vận động viên, cùng thích thịt, cùng thích uống, cùng thích cởi truồng, cùng được hóa thân thành một nhân vật khác. Tôi của 17 thiên jờ Joạcx là thằng Truồng nhưng thằng Truồng chính là Đốc tơ Tòi, rồi cuối cùng là thằng Tòi khi hắn từ chức cấp vị tiến sĩ. Trong khí đó, nhân vật tôi của Tựa jờ joạcx cũng tự thú nhận là thằng Tòi. Khi nhân vật của Jờ Joạcx được Trần Dần gọi là nhân vật chính vừa bất chính, có thể hiểu theo nhiều cách : nhân vật vừa chính vừa phụ, hoặc, nhân vật chính là kẻ bất chính, hoặc nữa, nhân vật vừa chính trực vừa bất chính… Dù cách nào đi nữa, nhân vật của Jờ Joạcx cũng là một trường hợp đặc biệt và nên được hiểu cùng một lúc trong nhiều cách. Nhân vật tôi có mặt thường trực trong

Page 281: Tran Dan _ Poem

281

tác phẩm như một nhân vật chính, thằng Truồng và thằng Tòi chỉ xuất hiện ở những thời điểm nhất định, như những nhân vật phụ. Hai hành động từ chức tiến sĩ. phó bác sĩ. sử kí. chân lí. thẩm mĩ. / thi sĩ…và vứt 1-9-6-3-sẹo khen chê trong ịic jịc joạcx jờ của nhân vật tôi bộc lộ một bản tính chính trực. Nhưng một kẻ vừa không căn cước vừa nhiều căn cước, một kẻ jứt thánh bỏ trí, chỉ thông minh bằng con bọ ngựa, chơi thân với cái bàn chải cái bô sinh vật kĩ nghệ, mặc quần không xilip, thích khiêu dâm và nhìn trộm, không thể không bị coi là « bất chính ». Nhân vật của Jờ Joạcx do vậy vừa chính vừa bất chính, trong mọi cách diễn giải.

� ) � � � � � O � � � JỜ và JOẠCX đến từ một chữ kép không mang một ý nghĩa chính xác nào : JỜ JOẠCX hoặc JOẠC JỜ, ở trang đầu của tác phẩm, sau đó nhiều lần chúng tách ra, trong hai cuộc phiêu lưu khác nhau, ở hai lộ trình khác nhau. JỜ có thể gợi lại « giờ », có thể mang nghĩa của « giờ », và nghĩa này không thay đổi trong suốt tác phẩm, trong các hợp từ giản dị không có JOẠCX : thì jờ, nghỉ ngoài jờ, vòng tròn jờ, 9 jờ tối, jờ mưa, 11 jờ khuya, jờ jọc, 23 jờ đêm. Nếu như JỜ được sử dụng để chỉ thời gian - thì JOẠCX vốn không có « nguyên bản » và cũng như rất nhiều con chữ khác của Jờ Joạcx, nó không thể tìm được bóng dáng của mình trong các từ điển tiếng Việt. JOẠCX được dùng lần đầu trong hợp từ các kilomét đùi joạcx, đùi ở đây là của nhân vật nữ có tên là con nữ vận động viên. Sau đó JOẠCX trở thành JOẠC trong cụm từ buồng joạc được lặp đi lặp lại rất nhiều lần ở những thiên tả phòng riêng của con nữ kĩ sư truồng, một nhân vật nữ khác của

Page 282: Tran Dan _ Poem

282

tiểu thuyết. Như thế JOẠCX hay JOẠC có vẻ được sử dụng như một một tính từ giành cho phái nữ. Nhưng khó có thể xác định được ý nghĩa chính thức của JOẠC trong mười tám lần xuất hiện, mỗi lần để báo trước một hay vài chi tiết khác nhau mà nhân vật tôi lần lượt khám phá trong phòng riêng của nữ kĩ sư. Vậy, có thể nói, nếu JỜ đi từ vô nghĩa trong cụm từ jờ joạcx đến có nghĩa trong các hợp từ khác - thì JOẠCX và JOẠC đi từ vô nghĩa đến đa nghĩa, và chính vì đa nghĩa mà chúng vẫn không có căn cước, vẫn tiếp tục là những con chữ tự do. Cái hay của JOẠCX và JOẠC là chúng kích thích trí tưởng tượng của độc giả, để họ tự lần tìm ý nghĩa của chúng, và bằng cách ấy, đã tham gia vào việc sáng tạo của tác giả. Jờ joạcx, do vậy, không giới hạn trong một văn bản, nó sẽ là kết quả của vô số bản “dịch” và có thể rất nhiều trong số đó nằm ngoài dự định của bản thân Trần Dần. Trần Dần đã không đặt tên tiểu thuyết là « Chuyện tình thằng Truồng và cô kỹ sư » hay « Chuyện tình một đêm », hoặc một cái gì tương tự. Ông đã chọn Jờ Joạcx như để tập hợp lại các cuộc hành trình nhiều chiều trong tác phẩm, như một lời gợi ý rằng việc đọc nó trước nhất phải thông qua những cuộc du lịch của các con chữ. Ngoài SẸO, NỮ, THỊT, ĐỒ ĐẠCX, JỜ và JOẠCX, những chuyển động không báo trước của các con số, các lũy thừa…cũng là những ví dụ lý thú có thể tìm thấy trong tác phẩm lạ này.

� � � �

Page 283: Tran Dan _ Poem

283

II.4

Page 284: Tran Dan _ Poem

284

Page 285: Tran Dan _ Poem

285

36 thở zài 1980

Page 286: Tran Dan _ Poem

286

THƠ 1 CÂU

36 thở zài tại chỗ:

Page 287: Tran Dan _ Poem

287

1.

HÔM NAY

TÔI VẪN CRUCIfIX MỎM AH

TÔI SỘT SOẠT sóng ngắn

JỮA ZỘT ZOẠT mộng vắn

mộng zài

TAM THIêN THế JỚI.

Page 288: Tran Dan _ Poem

288

2.

TÔI KHÔNG CHọN

KHÔNG XUNG FONG BỤI HỒNG

TÔI ĐẦU THAI LẦM BROUILL’ÂGE ĐANG

CROẠZẠD POÈT incass’ HAY THI THỨC TỐI TĂM KHÔN LẼ CHỈ VÌ TÔI ĐÃ NGE RAO ?

EM-BAAR’QU–EZ–Z ? TÔI - ngay lập tức

J’ - JE SUIS EM-BAR-QU- ÉS ? é - ée - ées - ez – és

Page 289: Tran Dan _ Poem

289

3. ngàyZ

TÔI LĂN TRÔI TRONG SÁU NẻO - NGƯờI - TRờI - ATULA - SÚC SINH - NGÃ QUỉ - ĐịA NGụC. via bụi thủy tinh thái bạch zạ kim tinh trong 1 univers

không vô mà nôvô hữu linh bùi bụi mộng tinh vân vần vụ,

via sộT soạT hằng hà thiên hà zộT zoạT hằng hà nhật nguyệt, via

ĐếN ĐÂU - TÔI CŨNG THở ZÀI. 3. lèo -BAAR–QUEZ–ÉS ZỘT ZOẠT TỜ RAO xào xạc mộng

khắp TAM THIÊN MỘ TÙ ĐỒ TỘI ĐÀY BỌN SÁU NẺO nge

NGƯỜI TRỜI ATULA SÚC SINH NGÃ QUỈ tôi nge ĐỊA NGỤC XUNG FONG BụI HồNG - Ngay lập tức

chứk: Tư Mã sột soạt quả đất. Điều kiện: inôx CRUCIFIX

INCASS’ NGOÀI ĐồNG Hồ VÔ TÍC SỰ HOÀN

TOÀN CHỢ THẾ. Lương: KHÔNG CÔNG - thiên trù

hãn hữu. Hứa: VỀ - trọn ngày công về. TÂY THI CÁI CHẾT

BARCAROLL’’ VỀ. EMBAR-QUE’Z. NGAY LẬP TỨC TẦN

NGẮN SÓNG TÔI ĐI - mà cô lái khúc barcaroll’ thuyền

đưa - LẠI CHÍNH ĐÍCH

TÂY THI CÁI CHếTZ.

Page 290: Tran Dan _ Poem

290

4.

ZỘT ZOẠT NGÀYZ NGÀYH

ngào ngạt KHẮP TAM THIÊN TẦN CÁI KIẾN QUẢ NÚI HẠT CỎ MAY ĐỀU uniprix CÔNG

ZÂN VŨ TRỤ - VẪN JAO TẦN MỘNG - MÂY MƯA NHAU S’EK-

STASE CẢ XÁC CẢ HỒN tuệ CỰC LẠC cả - TAM THIÊN

HOÁT NHIÊN đôi ba khi alert’ vapơr’s

1 MÙI HÔIH hôi cày cáo? chó hôi zê ? khônz

1 MÙI ? 1 MÙI HÔIH multi, mains sales

ALERT’’ MÙI NGƯỜI MÙI VAPƠR TRẦN HẠ ALARM’ ALARM’

1 SỘT SOẠT mùi trần

ÔÔ.Ô NHIỄU

Tần HẠ TAM THIÊN

ẤY

SộTH SOạTH ĐịA ZƯ NGƯƠƠƠờI.

Page 291: Tran Dan _ Poem

291

5. ngàyH

ÔIH MÙA - NGƯỜI

FAUX jả NHẤT CON NÀY - người CHÍNH TRỊ NHẤT TRONG MƯỜI LOÀI lăn trôi - LỤC NẺO: NGƯỜI - TRỜI - ATULA - SÚC SINH - NGÃ QUỈ - ĐịA NGỤC

ĐÂU Hễ CÓ - NGƯỜI i NHƯ

ĐẤY HỆ - CÓ 2 FE.

Page 292: Tran Dan _ Poem

292

6. rền

ÔIH MÙI NGƯờI ÔIH MÙA NGƯờI 2 fe-R 2 calv’e-R 3 enfe-R

TÔI CRUCIFIX MỏM ENFER.

Page 293: Tran Dan _ Poem

293

7. từ hạt nguyên tử TỚI người

(MỆNH ĐỀ JỐI LỪA - tôi ngửi mùi bày thông thái terriens) CHÍNH SÁCH MŨI: BAO KIẾP TÔI LĂN TRÔI LỤC NẺO TÔI VẪN NGỬI MÙI 1 ACCORD - 1 NGƯỜI BẠN - 1

CÂU THƠ - MÙI 1 CÔNG THỨC. BẤT KÌ NHÃN KITÔ FẬT

LẶC - K.MÁC – MỌI NHÀ THỜ.

SAO LẠI ĐÁNH LỪA TÔI từ đến tới? TRONG 9 TỪNG TRỜI 10 TẦNG ĐẤT 8 TỪNG cù đinh đời, NGƯỜI Ở ĐÂU?

BAO JỜ XUẤT HIỆN NGƯỜI? Tôi ngửi 1 THÍ NGIỆM HỎNG TRONG LABORATOIR chimèr THIÊN ĐịA,

HOẶC LÀ 1 TAI QUÁI HASARD ? – KHÔNZ KHÔNZ.

TAM THIÊN khônz nhất thiết FảI SINH NGƯờIH.

Page 294: Tran Dan _ Poem

294

8.

(từ hạt nguyên tử via người)

TÔI ĐÃ LĂN TRÔI tần lốc nổi chìm

SÁU NẺO: NGƯỜI - TRỜI – ATULA -

SÚC SINH - NGÃ QUỈ - ĐỊA NGỤC

trước khi

S Ộ T S O Ạ T via M Ỏ M I FA H

TớI ĐÂY TÔI MớI THở ZÀI *... *Tôi cố tình phạm lỗi lôgic này: ở chương 3 tôi cũng đã thở dài (Trần Dần)

Page 295: Tran Dan _ Poem

295

9. (via hạt nguyên tử via người)

TÔI lộn vòng LĂN TRÔI lộn vòng TAM ĐỒ con NHÂN con

FI NHÂN con THIÊN. TÔI MANG 1 THI THứC thổn thức SÁU NẺO. TỨK 1 ZẠT THỨC ÂM TI -

1 KHÓ TÍNH lục chiếng TỨK 1 KÍ ỨC TAM THIÊN. ngày ngày bruir bruir qòel trong thẳm thức tần tôi 1 ZộT ZOạT TẦN QÒEL – KÒEL – KÒEL 1 ZộT ZOạT VẪN ZUNG THA MỌI BRUIT’ÂGE

1 ZộT ZOạT ĐẤT LÀ LÀ MULTI TẦN NHƠớƠ VặặT.

Page 296: Tran Dan _ Poem

296

10. TÔI CRUCIFIX via ENFER.

2 fe - khônz phải bổn phận tôi để nói Đế-XÃ - CON TOÁN NAN I SÁU CHÂU SONG VẪN TOÁN BỀ NGOÀI đang

jải. CHƯA UNG THƯ RUỘT BỐN BỂ LỆ ĐỜI ĐỜI.

2 fe - tôi nói CON TOÁN CANCER CỔ LAI XIÊN QUA via CẢ ĐẾ-XÃ HIỆN JỜ, CÀNG CANCER TỪNG ĐẤT TRỜI,

CON TOÁN (vẫn đợi 1 văn minh inter hành tinh nào jải)

2 fe - CHỦ / NÔô.Ô (zù zưới 36 lá nho-che, 36 cách’’ sexe)

ấy dích VAPƠR TRẦN HẠ? ấy đích MÙI - NGƯỜI?

Page 297: Tran Dan _ Poem

297

11. TÔI HÔM NAY CRUCIFIX ENFER IFAH chết kẹt

TÔI CHẲNG BẨM đủ HAI Đ để LÀM CHỦ, CÀNG KHÔNG

BẨM QUÌ BÒ để HOAN HỈ LÀM NÔ.

(chưa ai biết tôi là ai đâu) TÔI LÀ JÌ - THẾ JỚI LÀ AI ngay tôi cũng chẳng biết.

TÔI CHỈ SINH RA để CHẾT KẸT TÔI CHỈ LÀM RA để

CRUCIFIX chếT kẹT JỮA MÙA NGƯỜI.

11. lèo

ÔIH MÙA NGƯỜI ! GRIBOUILL’ÂGE NGƯỜI. CHUÔNG KÊUH. NGƯỜI KÊUH. CHUÔNG - KỨU TÔI. KứUH? NGƯỜI KÊUH CHUÔNG ? nhưng THẾ JớI KHÔNG LÀM để AI KứU AI CẢ !

Page 298: Tran Dan _ Poem

298

11. lèo đôi

ENFER TRÁNH SAO CHẲNG CÓ CHỦ ? CON

MONSTRE FROID NHÀ NƯỚC – C.PEO. ANH CULI

XÁM ZƯỚI GRIfff CỦA NÓ. TAM THẾ JỚI BÂY JỜ ĐÃ BIẾT HẮN ?

Ô. 1ooo–ooo ooo ooo–ooo ooo ooo–ooo ooo ooo-ooo 1ooo ooo–ooo ooo ooo–ooo ooo ooo–ooo ooo ooo 1ooo ooo ooo–ooo ooo ooo–ooo ooo ooo-ooo ooo 1ooo MAINS SALES – TENTACULES sang sue SALES

Ô. NẰM zư tam thập fì – fòr – fìr – fèr – fìr – fìr chuyên chính ăn ngủ đụ ỉa TÀN BẢN ĐỒ IFAH - VỪA THÒ TUỘC TẬN TỪNG NHÀ BUỒNG ăn -

tắm buồng ỉa - TỪNG BÀN ĂN - JƯỜNG TỪNG

NGƯỜI - BẤT CHẤP (la dictature du prolétariat

est déjà trop dépassée) ĐÃ TƯ MÃ SỘT SOẠT

QUẢ ĐẤT.

AI CHẳNG CÓ NHÀ NƯớC CủA MÌNH Để KHố-L Đố-L VớI NÓ.

TƯ MÃ ĐI ĐÂU THOÁT ĐƯỢC MÙA NGƯỜI ?

Page 299: Tran Dan _ Poem

299

12.

TÔI KHÔNZ ĐI ĐÂU – ĐÂU CŨNZ BỤI NGƯỜI !

BỤI HồNG - thờiH

- NGƯờI HỒNG ?

BỤIH - ngườiH

– ĐÃ QUA ĐÂY.

VấT CẢ CHỉ CÒN

Đ ổ.ổ n Á T.

Page 300: Tran Dan _ Poem

300

13. AI XUI TƯ MÃ CRUCIFIX MỏM IFAH ? ĐÃ QUẢ ĐẤT TÔI KHÔNG NẰN NÌZ PARIS – FLORIDA ? TÔI

KHÔNG TỊ BÌZ TÔKIÔ – THÀ SÀIGÒN - TỘI JÌ HÀNỘI ?

NGHIỆP TƯ MÃ CÒN AI XUI SỘT SOẠT ? ÊTABLI NÀO VỪA

MŨI THẰNG THƠ ?

ĐÃ QUẢ ĐẤT TÔI KHÔNG FÂN ZA MÀU - MỌI TRẮNG ĐỎ

ĐEL LAI MỌI VÀNG. MỌI ĐẤT ĐỀU CHẢY MÁU THƠ. 36 NHÀ

NƯỚC JIẾT TIÊN TRI. Họ KHÔNG CHÀO ĐÓN THI SĨ. NHỠ

VÌ BẤT ĐỒ JÌ HỌ ĐẾ-L THÌ LẠI ĐẦY FÉP TÍNH HAI CHỮ Đ

TRÊN TAY 1 ÁNH ZAO CÀI SAU LƯNG - CÀNG LÍ ZO THÊM

TÔI Đ-ẾL TÔI Đ-ẾL VỚI MỌI VÀNG.

(tôi lầmx ? bao jờ tôi cũnz lầmxx)

incise 13. câu xen

TÔI CÓ LÒNG NÀO - QUẢ ĐẤT ? (con cò đau đớl bạch ở

cazao). TÔI CÓ LÒNG NÀO - CÁC NGƯỜI. THẬT RA TÔI

SUR TOUTE LA LIGNE KHÁC HỌ THẬT ĐẤY khác trên mọi

gr’amer (NHÌN NGE NẾM NGỬI HỒN).

HÈN NÀO HỌ CHẳNG KHử TÔI ĐI

Page 301: Tran Dan _ Poem

301

14. ZUN ZỦI CHỦ - NÔ tạm ĐỒNG HÀNH 1 ZẶM BỤI HỒNG. TỚI CỘT bụi hồng – ÔNG CHỦ VÀO VồOÔ TÔI. (cày cáo tu chưa đủ văn hóa lậu lên làm NGƯỜI - thừa

cơ tót lên làm CHỦ, họ chưa cắt cuống nhau với nẻo THÚ,

vồ xé fanh thây uống máu)

TÔI ĐÂU Zễ CắN TRộM THế NHể ?

14. lèo

NGAY KHI BấT CẩN TÔI VẫN CÓ đau thương ĐA Số IM LặNG. TÔI CÓ bão ngủ TRONZ MÌNH - SứC INCASS’ VIệT ĐIệN

U LINH (KHIếN TÔI HAY CHƠI THUA ? CÓ PHảI TÔI

THÍCH CHƠI THUA ?)

CHUYệN ấY XảY ở CộT bụi hồng: ÔNG CHỦ Mẻ ÍT RĂNG

CửA GÃY ốI GRIFFF (KHÔNG CƠ BảN)

Từ ấY Họ ĐI VÀO THảM ÁN.

Page 302: Tran Dan _ Poem

302

15.

ÔIH THẢM ÁN khi lá nho che KHI KHÔNG

CẢ 1 PHẦN 3 MÙI XOA CÁCH SEX !

BAO THảM ÁN 1 MÙA NGƯỜI?

massacre I/56 – 36 Tư Mã ngã. massacre II/66 – ngã bội mười

360 Tư Mã lã chã ngã.

(Cả LƯớC AI MÀ CHẳNG ZÁM HO)

(thuần những Tư Mã Để sột soạt quả đất)

HAI THảM ÁN HAI VÀNG MắT THậP.

CÒN MộT ÁN THƠ NÀO CHÍN SUốI HƠN KHÔNG ?

Page 303: Tran Dan _ Poem

303

16. ngàyH

ÔIH MÙA NGƯờIH TÔI THở ZÀI THờIH. ZIệT CHỦNG

fảI ĐÂU CHỉ ĐộC QUYềN PÔPÔT 75 – BAO ZIệT CHủNG THƠ CủA BAO NHÀ NƯớC KHÁC

– HIT 40 – XIT 30 – MAO 60 – CPEO 56-66 –

Cả PARIS avantgard’ đầu kỉ XX.

NHƯNG CHỉ ở ĐÂY

chỉ ở suối vàng

- THƠ

KHÔNG 1 TIếNG

KÊU

KHÔNG MộT TIếNG

BÚT NÔ KÊU.

Page 304: Tran Dan _ Poem

304

17.

MỘT trẻ TƯ MÃ NGẸN NGÀO (MÙA NÀY TÔI CHỬA KHÓC ... MÙA HAI TÔI MớI KHÓC) MÙA zư BA RồI TƯ MÃ TRằN TRọC ĐịA ZƯ NAO ? JÁ BIểU JÁ MAIA VẫN KHÓC TƯợNG LIÊN XÔ – JÁ THÀNH 1 CÂU THƠ.

(từ hạt nguyên tử via người)

Page 305: Tran Dan _ Poem

305

18.

MấTTT N-H-I-ề-U

XƯA NAY VẫN TÔI KHÓC HÁ VÌ JÌ

HÀ HUốNG CHỉ VÌ TÔI?

MISANTHROP – RÉCIPRÔQ

TÔI THAO LÁO 2 MắT CANH SÁU zư niên ba thập NHÌN thờiH

MấTTT - NHIềU.

Page 306: Tran Dan _ Poem

306

19.

( Jó ó ó ồ ồ Mồ ồ - Im ) Khi im ấy vẫn nói cùng vạn cổ. 20 NĂM SAU TƯ MÃ KÁT ÔHÔ mônômô-thơ TRONG

THANH VắNG VIệT-ĐIệN-U-LINH (NGủ 1 NGÌN NĂM SốNG LạI CHỉ 1 JÂY TRONG BÓNG NƯớC - 1 TIA NHÌN)

Dans l’eau d’un regard (ấY THậT CAY ĐắNG VINH QUANG CủA THằNG POÈT)

(jó

Mồ - IM

- IM)

KHI IM ẤY NÓI CÙNG CANH SÁU CÙNG TRĂNG SAO LỊCH

SỬ con NGƯỜI ?

Page 307: Tran Dan _ Poem

307

20.

MấT T T-NHIềU ?

MấT T TƯ MÃ QUÁN-FÙNG chém ngang lưng tuổi trẻ

đôi đời jữa trận. MấT T TƯ MÃ QUANG-ZŨNG

đầu văng hậu trận - vẫn cái trọc đầu không mọc tóc Tây

Tiến. MấT T TƯ MÃ HữU-LOAN

người jữa lửa bom kứu 1 màu tím hoa sim nay vợ bíu con

zìu thồ xe biệt tăm chân núi than Hoa xó biển Nga Sơn

nào? Tôi hỏi Tần vu vơ nếu quả anh chưa được chết Tư

Mã bây jờ đau đớn ra sao? CHếT T Lỡ TƯ MÃ MAI-HANH

lỡ mộng zọc xuống trần lỡ luôn mộng xuôi hoành sơn viện

sử? CHếT T BAO TƯ MÃ KHÁC HọC-SĨ NGHệ-SĨ VÀ Lỡ BAO Kẻ-SĨ NạN-SĨ?

CHếT T T-NHIềU. 20. thoán BỤIH NGƯỜIH ĐÃ QUA ĐÂY

thiếu HỌA NHẠC THƠ HỌC

thiếu VĂN HÓA

VấT Cả CHỉ CÒN THƯƠNG KHÓ THÔI.

Page 308: Tran Dan _ Poem

308

21.

AI CHẲNG CÓ MỘT ĐỜI ĐỂ THƯƠNG KHÓ nó? Thương Kitô nàng Kiều thương khó Quan Âm thương khó

anh A chị H - THƯƠNG KHÓ BỐN BIỂN LỆ.

(VÔ FÚC NHỡ AI NGỡ ở ĐÂY CÓ THể SUNG SƯớNG

SốNG HOặC MƯU TOAN SUNG SƯớNG SốNG)

TRƯNG CẦU NỘI THẨM MÀ XEM ! CHỈ ĐẦY THƯƠNG KHÓ. ĐờI ở ENFER TÔI SộT SOạT THở ZÀI.

Page 309: Tran Dan _ Poem

309

22.

HỌ CŨNG ƯU ĐÃI TÔI NHIỀU ĐẤY CHỨ ?

ZƯ 25 NĂM ấY Họ SỘT SOẠT multi-mains-sales NGÀY / VẠN JÂY ƯU ĐÃI 1:

TÔI CÓ VẠN JÂY / NGÀY miễn KHÔNG SỘT SOẠT

multi-mains-sales TÀN SÔNG CÙNG HỌ.

Page 310: Tran Dan _ Poem

310

23.

Họ TÙNG BILI NGƯờI TA NGÀY/VạN JÂY thế là CÔNG

THứC ZIÊN AN (CHIếM LĨNH TRậN ĐịA TƯ TƯởNG KHÔNG

NGƠI TừNG JÂY TừNG FÚT) Ưu đãi 2: ZƯ 26 NĂM ấY TÔI HƯởNG TÙNG BILI Cả VạN JÂY/NGÀY. NGÀY BÙ NGÀY KHÔNG SÓT MộT

NGÀY súng không kêu.

Page 311: Tran Dan _ Poem

311

24.

VẠN NGÀY ZƯ VẠN NGÀY (một ngày của người ta to của lắm chứ) CPEO LẠI LẮM TORV’ TORTUR’

Ưu đãi 3: ZƯ 26 NĂM ẤY KHÔNG MỘT TORV’ TORTUR’

NÀO TÔI CHẲNG NẾM. TÔI ĐÃ XA XỈ BAO KIẾP TRONZ LĂN TRÔI SÁU NẺO (NGƯờI-TRờI-ATULA

SÚC SINH-NGÃ QUỉ-ĐịA NGụC)

CHƯA BAO Jờ TÔI CHếTT Bỏ THế NÀY.

24. thòng

tríc 1 MƠNUY TORV’’ TORTUR CPEO: mise en torv’tortur–torv’clôtu–torv’torv’ censure–torv’ brûlur–torv’ cuir–cuir mise en non susûre–non–murmûr non bruir–bruir–jamais plus luir’–jamais plus soupir mise en clos–en sans maillot–en système clos–mise en huis clos mise en pièce–en diète–en piètr’ disette–en piètr’ baïonnette en miètte mise en plan–auban–en branl’ granl’’–en souffrance–en pante lancé mise en entonnoir–en purgatoir–en déboir en broir broir du noir–en désespoir–mise en étouffoir

Page 312: Tran Dan _ Poem

312

25.

HÔM NAY MƠ NUY ĐặC BIệT VừA CHạY BÈ TRÌ PLAT ÔXTINATÔ MộT MÓN GRATIS BắT BUộC TấT Cả

(1 MISE – EN – PEAU – DE – CHAGRIN)

CẢ NƯỚC đặt TRÊN 1 MIẾNG ZA-LỪA MỖI NGƯỜI TRÊN 1 MIẾNG ZA-LỪA

NGÀY nướng NGÀY NGÀY

bùng NGÀY đói lửa to đói lửa nhỏ

MIếNG ZA LừA TEO MÃI KHÔNG THÔI. (bạn đừng đến thăm quê tôi chuyên chính đã thành hiến pháp)

Page 313: Tran Dan _ Poem

313

26.

TÔI 30 năm ĂN CUNG CấP TạI JA MUỗI TRONG NHÀ VốC NửA VốC LIVRAISON A DOMICILE MOUSTIQUES DOMESTIQUES (DEMI-STOCK) Không kể nhiều ân lộc khác : flics domestiques

(automatique) mass média (obligatoir) hàng tạ trên đầu

người mỗi ngày. Sách báo khiêu không fải zâm mà

khiêu nô. Đĩa đài tivi điện ảnh lần này khiêu ngu mụ lú –

bao nhiêu triệu nô ngẩn ngơ triệu đặt vòng. ZƯ 30 NĂM TÔI VẫN THở ZÀI.

Page 314: Tran Dan _ Poem

314

27.

MISE EN ARRACH’’ (ngày như kìm nhổ răng mỗi ngày nhổ tim tôi vài bận)

ARRACH’’ TÓC – MÓM - NGỌNG

ARRACH’’ QUÈ – XƠ GAN – GÃY

ARRACH’’ U FổI ỔI - KÁT SANS BILE

ARRACH’’ FACE MI FACE CÔBALT CHÀM CHếT NửA MặT TỬ FÁC MộT

OLIVIER Từ ĐầU MộT THằNG FIER CHÍ CUốI MớI LÀ THậT ULTIME LUMIER MộNG TỏA LạI Từ ĐầU

ARRACH’’ VIE Lạ KÌ MấY TƯ MÃ KHÔNG CHếT TÔI CŨNG VậY

CHÚNG TÔI MANG ÁN FảI SốNG FảI THƯƠNG KHÓ SốNG

ÔI CÓ NGHIệP CRUCIFIX THở ZÀI

TRONG THƯƠNG KHÓ Cả - XUNG QUANH.

Page 315: Tran Dan _ Poem

315

28.

TÔI SộT SOạT CHữ VắN

CHữ ZÀI ZƯ 30 NĂM ấY MÀ NGÀY Đế-L VớI

TÔI KHÔNG BÓ HOA TRÊN TAY LờI HứA TRÊN TAY TIệC

TÙNG TRÊN TAY MÀ CHỉ VếT THƯƠNG RấT NHIềU ( Anh ĐAU ở chỗ nào? ĐAU ở khắp – xung quanh ) TÔI VẫN ZộT ZOạT NGÀY NGÀY THƯƠNG KHÓ Cả CHU VI.

Page 316: Tran Dan _ Poem

316

29.

(ơ Tư Mã chưa chết) Họ ĐÔI KHI NổI LƯƠNG TÂM TÒ

MÒR ÔNG CHủ NGÉ MắT ZÒM KHE TÒ VÒR CĂN PHÒNG

NGộT NGạT tị thìn mùi: « NÓ KHÔNG BIếT CHếT.

GÃY RồI VẫN INCASS’. RẦU JÃI TÙNG BILI VẫN INOX. TRONG ETOUFFOIR VẫN DE CHOCK? CÀNG LÍ ZO THÊM

TĂNG TORV’TORV’’ NINH NHừ »

(ZỘT ZOẠT vắn zài TRONG MUÔN TẦNG XÀO XẠC ĐIỆN U LINH)

Page 317: Tran Dan _ Poem

317

30.

30 NĂM ZƯ (từ thắp ZẠ ĐÀI tới đèn chong Sổ BỤI)

TÔI CHỈ THở ZÀI TÔI THở ZÀI MọI NGƯờI Tợ NHƯ THở ZÀI LÀ 1 HOạT ĐộNG XÃ HộI Tợ NHƯ THở ZÀI LÀ 1 TUệ ĐIệP CủA TAM THIÊN ?

30 NĂM ZƯ TÔI VẫN THở ZÀI một mình khi TRIÔLÊT CHÙM BA HOặC CHÙM TƯ CHÙM NĂM ÍT KHI

SÁU, DIXTÔLÊT DODECA TOLET CHÙM MƯờI BA RấT

HIếM KHI BA MƯƠI UNISONIQ

VÀ LUÔN LUÔN DUOLET (THƯƠNG KHÓ CHÙM HAI) ỔI –

BÀNG - ỔI – BÀNG – ÒB.

Page 318: Tran Dan _ Poem

318

31.

ÒB (từ CỬA SỔ tới Tờ BỤI) INCASS DE CHOCK INÔX

(bao jờ vẫn 1 thằng ĐIÊN hyper không thường xuyên

bên 1 thằng ĐIÊN hyper thường xuyên) KHÔNG CÔNG

2 MắT THƯƠNG KHÓ Jữ QUYếT KÌ CÙNG VIệT ĐIệN U

LINH

KÒB 1 THậP THƯƠNG KHÓ TRIOLET Tụ TINH

CHÙM BA Bờ SÔNG - KÁT ỔI BÀNG - TƯ MÃ KÁT

THƯƠNG KHÓ mônômôthơ TRONG VIệT ĐIệN U LINH

RÊU FONG KHÓI LạNH

ÒB VẫN ÒB THAO LÁO 2 MắT

CANH SÁU Zạ TRƯờNG VIệT ĐIệN U LINH (THIÊN ĐịA

HÁ BƠ VƠR TÔI ? THIÊNG VIệN CHO TÔI NHữNG TƯ MÃ

inôx THế)

Page 319: Tran Dan _ Poem

319

32. ôn cố

ÒB + C TƯ MÃ HOÀNG CầM (từ KINH BắC tới UJÌ) MộT

LÒNG ở fÍA CƠN MƯAR LÁC ĐÁC CÁCH NHậT SốT CÁCH TAM BÁCH NHậT

QUARTOLET (Đ + ÒBC) THƯƠNG KHÓ THắP CHÙM TƯ,

TƯ MÃ ĐẠT HAY Tự HỏI HÔM NAY Đổ THÙNG VUA

QUAN ZÂN NÀO, VÀ HứA NHữNG KILÔMƠR CÓ TậT HAY

RƠI RƠI TONNER’ BAQUER LIRIC NửA ĐƯờNG.

Zột zoạt TÔI NGE từ mặt biển thò lên những cánh tay tám hướng

TÔI LẠI THỞ ZÀI.

Page 320: Tran Dan _ Poem

320

33.

(đồng thời)

Từ ĐA Số IM LặNG THÒ RA NHữNG CÁNH TAY NGHÌN TầM.

Vẫn ÒB hai mắt canh sáu zư 33 năm ấy đèn

chong vừa chạy bè trì có trong mọi ồn ào nhưng có như

một

nốt

đơn buông – TƯ MÃ

ZƯƠNG TƯỜNG - từ quán cà fê

mưa tới TRANG TRANG - RÉT VỀ cũng nòi inôx đấy.

TRờI ĐấT HÁ BƠ VƠ TÔI ĐA Số IM LặNG TÔI CÓ Cả VĨNH HằNG TRƯớC MặT. HÔM NAY TÔI Kứ THở ZÀI: N G Ư ờ Ơ Ơ Ơ I.

Page 321: Tran Dan _ Poem

321

34.

ĐAU ĐớN BAO NHIÊU: SốNG ?

THƯƠNG KHÓ ấy: SốNG ? TÔI THở ZÀI CÁC ÔNG ? THế JớI EO ÔI CÁC ÔNG ? CÁC ÔNG SốNG CHảY MÁU THI SĨ THế ? TRờI CAO ĐấT ZÀY LắM CHứ ?

SốNG ? NGUY HIểM CHếT NGƯờI:SốNG ?

Page 322: Tran Dan _ Poem

322

35.

(NGÀY SỘT SOẠT VẠN JÂY/NGÀY - ĐỜI SỘT SOẠT 3 TRIỆU 6 JÂY/ĐỜI thuần những jây tục fàm

MẮC

KẸT CHẾT KẸT trong SỘT SOẠT - CHỢ THẾ) Cổ KIM

Từ SốNG MấY AI Về? (anh có 1 jây thiêng nào không trong cả 3 triệu 6 jây fàm toi công fản já trị ấy)

JÂY THIÊNG - LÚC NGƯờI TA ICAR’ RụNG BÙNG CÁNH

SÁP LÚC BRUNÔ LÊN ZÀN HỏA ÉROSTRAT ĐốT ĐềN LÚC

NGƯờI TA ZẫM LÊN CHÍNH VAI MÌNH ĐI FÁ

NGụC BASTILL’

JÂY THIÊNG?

ANH CÓ LấY 1 JÂY THIÊNG KHÔNG? (ái ngại các anh quá)

Cổ KIM Từ SốNG MấY AI Về ?

Page 323: Tran Dan _ Poem

323

36. (Tư Mã sột soạt quả đất)

TÔI TRọN

NGÀY CÔNG CHƯA? KHÔNG FảI VIệC THIÊN TÀO TÔI Để KếT TOÁN Sổ JÂY THIÊNG TÔI CHỉ

MANG THI THứC CANH SÁU TớI ĐÂU TÔI CŨNG THở ZÀI

(via chín suối via SộT SOạT hằng hà thiên hà ZộT

ZOạT hằng hà nhật nguyệt via)

CHƯA ĐI TÔI ĐÃ CHÁ-L Đế-L Đế-L CHƯA ấM CHIÊM BAO TÔI ĐÃ MÒ MẫM TÌM VỀ

(via hạt nguyên tử via người zạt ifah từ thắp Zạ ĐÀI via jờ đèn chong Sổ BụI) TÔI CHỉ THở ZÀI MọI NGƯờI TÔI THở ZÀI CHợ THế (loanh qianh KUờ KOạNG tìm về - đâu chắc về bên

kia tôi đã hết THở zài) BÊN KIA KHÔNG CON Số KHÔNG ĐồNG Hồ

BÊN KIA TấT Cả UNIPRIX CÁI KIếN QUả NÚI CON SÂU ĐềU CÔNG ZÂN VŨ TRụ ĐềU TRANG Bị ĐÀI, ĂNG TEN MộT MÃ TầN RIÊNG

BÊN KIA MỗI HIệN HữU ĐềU TOÀN HồN TOÀN XÁC TOÀN

POTLATCH’ TRÊN TAY, TOÀN RÊV’’ TRÊN TAY Đế-L VớI

HIệN HữU KHÁC – TRONG MộT TOÀN THIÊNG TOÀN

TUệ TOÀN S’EK-STASE TOÀN XÁC TOÀN HồN.

Page 324: Tran Dan _ Poem

324

36. thòng đuôi chùm ba

triolêta Postlud’’ I.tạ tần Thư bay (sột soạt hằng hà thiên hà ZỘT ZOẠT hằng hà

nhật nguyệt) fố fố lâu đài bay đĩa bay (hằng hà thành fố

đang bay) những CROAZAD văn minh đô thị ngoại hành

tinh đang tìm bến đậu - KHẮP TAM THIÊN?

II. regrettô Mặt trời rù mà (zăm ba BUJI cũng tự gọi mặt trời - đèn

pin những MẶT TRỜI BỎ TÚI ấy) zưới kia vua quan zân

vẫn quẩn triển thần fù.

III. dacapô Tin cuối cùng: hôm nay tôi vẫn CRUCIFIX mỏm AH tôi

sột soạt sóng ngắn jữa zột zoạt VẮN ZÀI Tam Thiên Thế

Jới.

Page 325: Tran Dan _ Poem

325

Giả thiết cho 36 thở zài Vũ Văn Kha Hãy bắt đầu bằng chú thích của tác giả: “thơ 1 câu 36 thở zài”

như một gợi ý. Để rồi chính lời gợi ý khó khăn này trong cuộc

tiếp cận tác phẩm sẽ làm bạn băn khoăn không biết đâu mới là

thơ 1 câu, đâu mới là 1 câu thơ, đâu là những thở dài? Bạn sẽ chỉ

tìm thấy nhan đề 36 thở zài - câu thơ duy nhất đứng độc lập – là

có đủ điều kiện để được gọi là “thơ 1 câu”. Bạn cũng sẽ nhanh

nhảu khẳng định 36 chương nối theo nhau như 36 khúc biến tấu

ấy đã hoá thân vào 36 thở dài.

Đến đây, tôi đề nghị bạn hãy thử khảo sát lại con số 36:

Page 326: Tran Dan _ Poem

326

Không phải ngẫu nhiên mà Hà Nội ngày xưa có 36 phố phường,

đàn Tam Thập Lục có 36 dây, trên rừng quan họ có 36 thứ chim,

ca dao có 36 cái nõn nường, Chư Bát Giới học được 36 phép biến

hoá, quảng trường Vosges ở Paris được vây quanh bởi 36 toà nhà

giống nhau. Không phải ngẫu nhiên mà đàn dương cầm có 36

phím đen. Không phải ngẫu nhiên mà người Pháp thích phàn nàn

không có 36 giải pháp. Cũng không phải ngẫu nhiên mà Trần

Dần chỉ lấy lại vẻn vẹn 36 thở dài trong muôn vàn thở dài khác.

Bạn dễ dàng NHÌN THẤY rằng con số 36 được Trần Dần ưu ái

nhắc lại nhiều lần: 36 thở zài, 36 lá nho che, 36 cách sex, 36 nhà

nước giết tiên tri, 36 Tư Mã ngã. Con số 36 này sau đó được cấp

số nhân lên thành: 360 Tư Mã ngã, rồi: 3 triệu sáu jây/đời, 3 triệu

sáu jây fàm toi công fản já trị.

Nhưng con số 36 KHÔNG NHÌN THẤY mới tham gia vào cấu

trúc của tác phẩm. Có một trùng lập lớn: quãng thời gian kể từ

những bài thơ đầu tay (1944) đến khi viết 36 thở zài (1980) là 36

năm. Con số 36 như vậy có thể là con số của 36 năm. Cũng có

thể thơ và thở dài đã khởi đầu cùng nhau, như những bạn đồng

hành tất yếu.

Nếu tính mỗi chương là một năm (giữa 1945 và 1980) sẽ có rất

nhiều trùng hợp giữa số chương của tác phẩm với những mốc

thời gian của 36 năm ấy: khi Trần Dần lên tầu (như cách gọi của

ông: “embarqué”) theo Cách Mạng ở chương 2, khi ông gặp hoạn

nạn ở chương 11 (1955), khi ông có những bạn thơ cùng chí

hướng, khi cả nước sống thời bao cấp, khi ông thương xót cảnh

từ mặt biển thò lên những cánh tay tám hướng ở chương 32 (sự

Page 327: Tran Dan _ Poem

327

kiện những người vượt biên 1976) v.v. 36 thở dài vì vậy chính là

hồi ký, tự sự, bản kiểm điểm 36 năm của nhà thơ.

Còn có một hành trình thú vị hơn nữa của con số 36 ẢO này. Ở

chương 3 có chữ thở zài đầu tiên, nhưng đến chương 8 Trần Dần

viết: “tới đây tôi mới thở zài” (kèm theo chú thích của chính tác

giả lưu ý sự vô lý này). Dường như có hai thở dài cố tình khác

nhau: một thở dài cố hữu của nhà thơ, sau đó bị thay thế bằng

một thở dài khác đến từ nhân thế.

Nếu xem xét kỹ các chương tiếp theo, ta có nhiều chương được

cộng thêm những chương bổ sung: chương 11 có thêm 2 chương

nữa, chương 13 có thêm 1, chương 14 được cộng thêm 1, chương

20 thêm 1, chương 24 cũng thêm 1, và chương 36 được kéo thêm

1 phần vĩ thanh. Nếu cộng cả các chương chính và bổ sung, kể từ

chương 8 “tôi mới thở zài” này đến hết, ta sẽ lại được số 36.

Thở dài thứ hai đầy trần thế này mới là cái thở dài CHỦ ĐỀ

CHÍNH của tác phẩm. Bị giấu kín bởi con số 36, bởi 36 niên đại.

Được nhắc lại đủ 36 lần, từ chương 8 đến chương 36. Là cấu trúc

ẩn quan trọng nhất của tác phẩm mà người đọc đã có thể bỏ qua.

Vâng, đâu phải cứ đơn giản mỗi năm nhà thơ lại phải làm một

thở dài. Và đâu phải bất cứ thở dài nào cũng phải được tặng cho

mọi uẩn khúc của thơ.

Hà Nội tháng 4-2006.

Page 328: Tran Dan _ Poem

328

Page 329: Tran Dan _ Poem

329

II.5

LỜI & KHÔNG LỜI

Page 330: Tran Dan _ Poem

330

Con I

3 tấu VĨ VI EXTRAVI

(1982)

BIếN 1

VI MÔ i

Page 331: Tran Dan _ Poem

331

Page 332: Tran Dan _ Poem

332

Page 333: Tran Dan _ Poem

333

Page 334: Tran Dan _ Poem

334

Page 335: Tran Dan _ Poem

335

Page 336: Tran Dan _ Poem

336

đi nữa 70 ngìn kinh độ

Page 337: Tran Dan _ Poem

337

Page 338: Tran Dan _ Poem

338

Page 339: Tran Dan _ Poem

339

Page 340: Tran Dan _ Poem

340

Page 341: Tran Dan _ Poem

341

ở BÊN NÀY song mỗi con i – tài khoản thật vẫn BÊN KIA – xa khôn tới - thành Blời.

Page 342: Tran Dan _ Poem

342

chong đêm/Điềm mở trời

gÀ - gÁy - bA – cAnh

Page 343: Tran Dan _ Poem

343

Page 344: Tran Dan _ Poem

344

Page 345: Tran Dan _ Poem

345

Page 346: Tran Dan _ Poem

346

Page 347: Tran Dan _ Poem

347

Légende: Con i vứt lả tả cờ đen dự fóng rung động ba động trời fường sắp nhẩy qua bóng rợp của mình.

Con i khôn lẽ ngục tù cùng tất larves trăng sAo của nó rụng ii i

Tôi không phẢi thổ zÂn quẢ đẤt

Page 348: Tran Dan _ Poem

348

Vì sao thơ có hoạ? Nguyễn Liên

Không đề, mầu nước trên giấy những năm 60, 11cm x20cm

Page 349: Tran Dan _ Poem

349

Tháng giêng năm 1997, những ngăn kéo bí mật trong căn nhà số 7 phố Vũ Lợi lần đầu tiên được mở ra bởi những bàn tay khác không phải Trần Dần. Cùng với Jờ Joạcx, Mùa sạch, Thơ 63-64, Những ngã tư - Những cột đèn, Con Trắng, 177 hùng ca, Thơ không lời - Mây không lời, Thiên thanh - 77 - Ngày ngày, những người thân của Trần Dần còn tìm thấy rất nhiều tranh vẽ và kí họa nằm rải rác giữa thơ mini và các ghi chép dưới dạng nhật kí thơ. Chúng hầu như đều được thực hiện bằng những chất liệu đơn sơ: giấy của sổ tay vẫn bán giá rẻ thời đó và màu thừa từ công việc tô ảnh màu mà Trần Dần thường làm những năm 60, 70 để kiếm sống. Tranh vẽ giai đoạn những năm 60 của Trần Dần là những tranh hữu hình. Nhưng không chép lại cái mà ông nhìn thấy, theo lối tả thực, mà trình bầy lại cách nhìn thế giới của ông. Cách nhìn này tập hợp những cặp quan hệ đối lập thuần tuý thi giác, giữa tác phẩm và thực tế, giữa nhiều yếu tố cơ bản trong một tác phẩm hội hoạ. Hãy xem các tranh vẽ của Trần Dần, chúng đều hết sức giản dị, bảng pha mầu của ông không có liên hệ nào với những mầu sắc chói chang rực rỡ của xứ nhiệt đới. Ông đã đề nghị một gam mầu trầm lạnh, đôi khi đơn sắc, đôi khi biến đổi kín đáo xung quanh nhiều mầu xám rất khác nhau. Thế nhưng bảng mầu khiêm tốn dịu dàng của ông lại đối ngược với những đường nét rất cách điệu, mạnh mẽ và khẳng định, với nhiều đường cong lớn cho những bố cục đơn giản, và với nhiều đường thẳng đều đặn lấp đầy mặt tranh cho những bố cục phức tạp. Những chi tiết làm nên sự phức tạp này không bao giờ là những đồ vật được vẽ lại từ bên ngoài như lọ hoa, bình trà, con mèo, hoặc bàn hoặc ghế như ở nhiều hoạ sĩ khác, mà chính là sự biến hoá của đường nét thuần túy. Những cặp mâu thuẫn này đã làm người xem ngạc nhiên không ít trước tranh vẽ của Trần Dần, vì không biết định

Page 350: Tran Dan _ Poem

350

tính chúng như thế nào: vui hay buồn, yêu hay ghét, thông minh hay ngây thơ, hữu tình hay vô ý, khéo léo hay vụng về? Khó có thể tin rằng chúng không phải là tranh vẽ của một hoạ sĩ chuyên nghiệp. Vì sự thành thục trong nét bút, trong cách tô mầu làm sao để lợi dụng được chất liệu giấy xốp, trong cách sử dụng những khoảng trống, trong cách đặt cạnh nhau và cùng nhau những mảng mầu xa nhau về chất: mịn hoặc thô, nhẵn hoặc xốp … Tranh của ông quay lưng lại với mỹ thuật Việt Nam chính thống, và đúng hơn nó tiếp nối vào « école de Paris » của những thập niên đầu thế kỷ 20. Cuộc hành trình riêng lẻ và bí mật của ông trong hội hoạ cũng có thể chia xẻ những quan điểm tạo hình của Nghiêm, Liên, Phái, Sáng, những cái tên ít ỏi đứng ngoài nền

hội họạ xã hội chủ nghĩa Việt Nam thời ấy.

Khó có thể hình dung nổi một nhà thơ đã vẽ những tranh này, vì thực ra trường phái hội hoạ của Paris kể trên loại bỏ các tính chất khác như văn học, tôn giáo để � � � � � � � � " � � � � � � � � a �� � � � � � � � �

. Trần Dần đã loại trừ thơ khỏi tranh vẽ của ông là vì như vậy. Nhưng ngược lại, khi đến với thơ, ông đã để lộ ra người họạ sĩ trong thơ. Từ cách đưa những khoảng trắng vào Nhất định thắng, Bài thơ Việt Bắc, ông đã có không ít trùng lặp với con đường của Maïakovski: nhà thơ Nga đã từng đến với hội họạ trước khi đến với thơ, và chính người hoạ sĩ trong Maïakovski đã đề nghị hình thức thơ bậc thang cho thơ. Từ cách đưa mầu sắc vào Cổng tỉnh: Tôi một tên nô lệ � � � � / Tôi lớn ở một đầu ô � � …Thời gian lặp đi lặp lại những chiều � � � � � � � như nhau…Nhưng đêm quảng trường sương � � � xuống từ lâu…Tôi đến bì bõm e � rãnh cống/ Tôi vày mảnh trời � a � � trong vũng nước đục ngầu… Đường hàng Song � a � � lấm tấm sao chiều… đến chỗ người hoạ sĩ lấn át cả nhà thơ trong những bức chân dung phụ nữ, với

Page 351: Tran Dan _ Poem

351

những đường nét đầy ngẫu hứng, tự do và phóng túng. Người hoạ sĩ ấy đã làm khổ tâm ngay cả nhà thơ, vì bức hình hoạ thiếu cân đối:

Em dài man dại Em dài quên che đậy Em dài tê tái

Em dài quên cân đối Em dài bối rối

Em dài vô tội Em dài - khổ tâm ...

Đoạn thơ trên được trích từ � � � � � � � � � � � gồm những tìm kiếm về vẻ đẹp cơ thể nhiều hơn là vẻ đẹp đức tính hay nội tâm. Người phụ nữ của giai đoạn này từ chối sự cân đối, một tiêu chuẩn của thẩm mỹ cổ điển. Tính từ dài được nhắc bảy lần liên tiếp một mặt để công khai nhấn mạnh tính không hài hòa của cơ thể nhân vật nữ nhưng mặt khác, lại tạo nên vẻ quyến rũ rất gợi cảm, rất hiện đại mà Trần Dần không ngần ngại gọi tên là cái đẹp:

Đáng lý em không nên đẹp ! Đùi len mã vĩ

Triển lãm vườn hoa lõa thể Anatomie lá hẹ

Ôi chao ! Ngón chân thường lệ ! ... Mông non phi lý

Em mang chức năng bé tí ...

Không có dấu vết của các cô gái bên hoa huệ tao nhã sang trọng mà các bậc thầy mỹ thuật Đông Dương để lại. Không có dấu vết của các nữ công nhân, o du kích, thành quả của hiện thực Xã hội chủ nghĩa. Cũng không còn dấu vết của hội họa Lập thể đã khiến Trần Dần phải thuyên chuyển công tác, năm 1950, khỏi nhóm Sông Đà. Phụ nữ trong tranh Trần Dần bộc lộ rất nhiều những

Page 352: Tran Dan _ Poem

352

đặc điểm dễ nhận thấy: kiểu tóc, cách ngồi, nét mặt vô cảm... Dường như ông luôn tìm cách phá cái trữ tình, lả lướt trong hội họa và thơ: những sợi tóc cứng, lông mày to, cặp môi rộng, cái mũi lệch, khuôn mặt méo mó, cái cổ to bè, đôi đùi quá khổ, đôi vai to rộng như vai đàn ông… Xem tranh ông, đọc thơ ông những năm 60, người ta bỏ qua những băn khoăn thông thường: đây là ai, có quan hệ như thế nào với tác giả, biểu tượng cho cái gì, để tiến đến những suy nghĩ mang tính nghệ thuật thuần khiết : ông đã � �

lại con người và thế giới như thế nào?

* Có thể nói, ở Trần Dần, thơ và họa thường có mối quan hệ khá tương đồng. Nếu những năm 70, 80 Trần Dần bỏ lại sau lưng Tập thơ 63-64, Mùa sạch, Jờ Joạcx để đến với Thơ không lời- Mây không lời, thơ cơ bản, 36 thở dài, Tư Mã dâng sao… thì ông cũng bắt đầu một giai đoạn mới trong hội họa: tranh có hình nhường chỗ cho tranh không hình.

� � � � ! � � � � � � � � � � " � �� � & � � a * � � � � � �. Có thể gọi những trang hoạ này là trang

thơ cũng được. Có thể đếm được cả trăm trang họa như vậy. Có những quyển sổ từ đầu đến cuối bao gồm những con chữ được vẽ, được trở thành ký hiệu, những ký hiệu trở thành chữ, những câu thơ được vẽ trong nhiều trật tự mới với sự tham gia của các đường cong, đường thẳng, các dấu phẩy, dấu chấm phóng đại như những con sinh linh nhỏ bé, để làm thành những bài thơ, hoặc những bức tranh không thể xác định được thể loại. Khi Trần Dần gọi chữ là con chữ, chắc chắn phải có sự chia sẻ ý kiến giữa nhà thơ và hội hoạ. Con chữ chính là những cơ thể sống, hoàn toàn có thể nhìn thấy được, để người hoạ sĩ lấy làm đối tượng sáng tác cho mình. « Ecole de Paris » là đại diện mỹ thuật phương Tây cuối cùng đã đến được Việt Nam trước cách mạng. Sau đó trong nhiều chục năm dài không thể tìm được

Page 353: Tran Dan _ Poem

353

những thông tin về nghệ thuật thế giới nữa. Không ai ở miền bắc Việt Nam hiểu rằng hội hoạ thế giới sau Paris không còn đơn thuần là một lĩnh vực thị giác, hội hoạ đã đi ra khỏi phạm vi của hình và mầu, để mở rộng cửa tiếp đón các thể loại nghệ thuật khác, các tính chất khác từ nhiều bộ môn như kỹ thuật, chính trị, khoa học, xã hội… Cuộc hành trình chung của thơ và họạ đến từ bản thân một mình Trần Dần vô tình đã mang giá trị đương đại. Dường như ông cũng cảm thấy đã đến lúc phải từ giã « école de Paris ». Dường như việc trao cho hội hoạ những tính chất mới phải là một tất yếu của lịch sử mỹ thuật, không chỉ được phát hiện ra ở những trung tâm nghệ thuật thế giới, mà cả ở những cá nhân có óc sang trang sống trong những vùng nghèo đói, cấm vận và cô lập. Nhưng ở Trần Dần, không chỉ hội hoạ mà thơ cũng đã được ông mở rộng cửa đón những tính chất thị giác của nghệ thuật tạo hình. Nói cách khác, cả Thơ cả Họạ cùng được ông xoá đi cái biên giới trường tồn và khó khăn, để cùng gia nhập một cái tên chung, cũng khó khăn, cũng nguy hiểm cho người sáng tạo, lẫn người thưởng thức. Cái tên ấy là Nghệ Thuật.

2003

Page 354: Tran Dan _ Poem

354

Page 355: Tran Dan _ Poem

355

PHẦN III

Ván thu không

Page 356: Tran Dan _ Poem

356

Thương ôi ! Trong trắng thuở ngây thơ !

Thả chiếc thuyền con – theo dòng cống chảy !

1960

Page 357: Tran Dan _ Poem

357

III.1

sổ bụi

1973 - 1989

Page 358: Tran Dan _ Poem

358

Đau lòng sổ bụi ... những bức thư không gửi

(Trần Dần, 1987)

Trần Trọng Vũ

Năm 1993 tôi được đọc lần đầu Paul Auster qua bản dịch tiếng Pháp « L’invention de la solitude ». Cuốn tiểu thuyết mang nhiều tự sự, nhật ký và hồi ký. Sau khi cha ông mất, nhà văn trở lại căn hộ nơi gia đình ông đã sống nhiều năm trước, để ngồi lại trong phòng riêng của cha, để nhận ra rằng ông đã không biết gì nhiều về cha ông, để lục tìm những đồ vật cũ, gạn hỏi quá khứ, để hiểu

Page 359: Tran Dan _ Poem

359

hơn về con người này. Thời ấy, họ sống ngay cạnh nhau, trong cùng một căn hộ, nhưng mỗi người trong phòng của mình, nhưng không có những chia sẻ thân thiết. Vì nỗi cô đơn của mỗi người quá lớn. Cuộc tìm kiếm quá khứ của nhà văn lại kéo dài khoảng cách của họ. Những sự kiện đến từ quá khứ mỗi lúc một thêm cụ thể thì hình ảnh cha ông ngày càng mờ nhạt, đến lúc dường như cha ông chưa bao giờ tồn tại trong cuộc đời của ông. Năm 1997, bố tôi, nhà thơ Trần Dần mất tại Hà Nội. Phải đợi nhiều thời gian sau tôi mới cảm thấy sẵn sàng mở lại di cảo của ông. Nhưng không phải với hy vọng được xích lại gần với ông hơn, không phải để hiểu ông hơn. Cũng không phải vì sợ mất ông. Tôi đã không thể sử sự được như trong văn học. Quan hệ chật hẹp của chúng tôi chưa bao giờ sóng gió đã cho phép tôi lựa chọn phần riêng tư nhất trong hàng trăm bản thảo và tình phụ tử nhiều ích kỉ dĩ nhiên đã khiến tôi, một cách tầm thường nhất, chỉ giữ lại những gì liên quan đến con người Trần Dần, và nhà thơ Trần Dần. Tất cả những sổ nhật ký của ông đều còn nguyên vẹn, nối liền những năm những tháng, ròng rã từ năm 1954 tới 1989. Nếu như những sổ tay đầu mang đề tựa Ghi vặt, có thể giúp tôi đọc lại được nhật ký của một người bố, một người chồng, một người yêu, thông qua những sự kiện thường nhật thì từ năm 1973 những sổ nhật ký đã trở thành những sổ thơ và từ năm 1979 là những sổ bụi hoặc vở bụi. Không còn những chuyện đời thường, để có thể đem kể lại cho một ai đó để cung cấp bí mật về các nhân vật có thật hoặc để làm tổn thương danh dự của một vài người. Không còn cách nào khác là phải đọc cuộc đời của ông bằng văn học.

Page 360: Tran Dan _ Poem

360

Nhưng một lần nữa tính ích kỉ của lòng hiếu lại cho phép tôi được xếp trả vào di cảo một phần rất lớn của những sổ thơ và sổ bụi này. Đó là khi nhà thơ viết lại những suy nghĩ chồng chéo của ông về một cuốn sách, một đoạn trích, một tác giả, một buổi nói chuyện văn học, một ý kiến triết học hoặc Phật học, hoặc Kinh dịch, trong những phép chính tả của riêng ông, đôi khi trong những ký hiệu thị giác chưa ai có thể giải mã được. Tôi chỉ có thể lấy ra những câu thơ hoặc bài thơ nằm rải rác khắp nơi trong ba mươi tư sổ tay-nhật ký văn học của ông, như những hạt bụi trong muôn vàn cơn mưa bụi.

TÔI và CHO TÔI

Nếu như các nhân vật xưng TÔI của Nhất định thắng, Cổng tỉnh, Bài thơ Việt Bắc , Jờ joạcx, Mùa sạch…có thể gợi ý người đọc liên tưởng tới Trần Dần thì chữ TÔI của các sổ bụi được khẳng định là tác giả khi ông gọi chúng là journal sauvage, là nhật ký anti-tự sự. Phản tự sự không có nghĩa không có tự sự, mà trái lại tự sự là một trong những vị trí trung tâm của nhật ký. Không có tự sự thì làm sao phản được tự sự ? Nhưng nhật ký theo kiểu Trần Dần lại vượt khỏi mọi giới hạn của tự sự, để trở thành VĂN HỌC. Tự sự bị phản bội bởi chính nhà thơ vì văn học không bao giờ thuộc sở hữu của một người. Chữ TÔI của ông, từ sổ thơ đến sổ bụi, không dùng để làm đối thoại. Những hội thoại văn học được bình lại trong nhật ký thường không có chữ TÔI. Rất khó tìm thấy ở đây những đại từ nhân xưng mà người Việt ưa dùng để định vị trí, đẳng cấp của nhau, và để tỏ thái độ với nhau. Khi thuật lại một cuộc nói

Page 361: Tran Dan _ Poem

361

chuyện ba người dài suốt cả một cuốn sổ thơ (1976) ông bắt đầu thế này:

Một hôm, vô hại, vô thưởng vô phạt, như mọi

hôm vô vị vô mùi: BÀNG : Có khi cần một travail symbolique ? ỔI : Không, không, mọi thiết định ! Không ?

CÁT : Làm quái gì, travail théorique ? BÀNG : Ừ, làm quái gì ? …

(Bàng = Trần Dần. Ổi = Đặng Đình Hưng. Cát = Đoàn Chúc : chú thích của ttv). Không thấy ai xưng danh cả. Và những trang thoại dài như thế đòi được giải mã, chỉ ngay từ những cái tên người. Nhưng tôi không nghĩ tất cả những độc thoại này đều chỉ đơn thuần là những ghi chép? Mà là một hình thức của văn luận? Nếu có chữ TÔI trong những tranh luận này thì đó là những câu trích thơ của ông, lấy lại từ chính những trang khác của nhật ký. TÔI của sổ thơ của sổ bụi là chữ dành riêng cho tự sự, và cho thơ. TÔI không thể đứng chung với một người nào khác. TÔI để báo trước một cá thể cô độc. Có thể dựng lại chân dung và cuộc đời của người xưng TÔI, một cách hoàn chỉnh, từ lúc sinh tới khi chết, thông qua rất nhiều chữ TÔI như thế này:

Tôi chôn rau ở tận trời sao. (Sổ thơ 1973)

Tôi chẳng phải tù binh quả đất. (Sổ bụi 1979)

Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển. (Sổ bụi 1979)

Tôi không bao giờ hú với chó sói Chỉ một tội này họ chẳng thể tha tôi.

(Sổ bụi 1982)

Chết đi, tôi vẫn mất ngủ. (Sổ bụi 1988)

Page 362: Tran Dan _ Poem

362

TÔI bao giờ cũng ngạo ngễ, đầy khí phách, nhưng cũng không ít mâu thuẫn, không ít dằn vặt, không kém phức tạp. Những cuộc gặp gỡ trong văn chương Việt Nam thường xuyên chỉ cho tôi làm quen với những cái tôi đạo đức như ngọn cỏ, hoặc dễ chịu như một vị anh hùng không có thật. Ít thấy ở đâu có ai dám đặt mình bên cạnh quả đất, vũ trụ, nhân loại, chân trời, cõi chết, vì sao bay, hoặc tồi nhất thì cũng dám đứng gần chó sói, sâu bọ, nhà tù… TÔI của sổ bụi không bao giờ còn đi cùng một cái tên cụ thể, dù chỉ là một địa chỉ như Tôi ở phố Sinh Từ của năm 1955. Cùng với thời gian phố Sinh Từ đã bước ra khỏi cuộc đời nhà thơ, ra khỏi bản đồ hành chính thành phố Hà Nội, để ba mươi hai năm sau ông viết : Tôi sống ở hai chân trời… một trời hoành đạt, một trời sao bay ? Chữ TÔI của sổ bụi thường xuyên được đặt cùng với những yếu tố tích cực, luôn thay đổi, luôn chuyển động, không kích thước: chân trời, chân mây, gió, mưa, các vì sao. Ông đã đến rất nhiều chân trời để biết rằng mỗi thay đổi chân trời/ một thay đổi nhân sinh, để báo trước « đám ma tôi » : hôm ấy- lã chã sáu chân trời, lã chã sáu chân mây . Và cũng để thú nhận rằng ông mỗi ngày thay áo mấy chân mây. Và các chân trời cũng đối ngược nhau làm sao. Nếu có một lúc nào đó ông nói: ở một chân trời tôi mở những chân mây, nếu có một lúc nào đó ông phàn nàn: những giờ phút vắng chân mây ? bao nhiêu lấp hổng không vừa, thì cũng nhiều khi chân trời lại làm ông thất vọng: bốn cẳng chạy tới chân trời ? không bõ ? không bõ ? vớt về một canh cánh chiêm bao. Chữ TÔI có vẻ bất biến, nhưng ở phía sau lúc nào cũng hiện rõ một con người, cũng đau, cũng ốm, cũng buồn, cũng nợ, cũng hy vọng, cũng nổi loạn. Và cái đau ấy, con bệnh ấy không còn nằm

Page 363: Tran Dan _ Poem

363

trong khuôn khổ những tự sự của người ghi nhật ký, không còn là cái đau vật chất đời thường:

Tôi ốm ở toàn – tôi fố cây đường đèn lúc mưa lá lẩm

hoa trời sao và tín hiệu lạ. (Sổ thơ 1973)

Nhưng đau đau. Tôi lại đau rồi. Zương thế biết không ? Nhưng nói để làm gì ? tôi chỉ biết đau thôi ?

(Sổ bụi 1982)

Tôi đau ở… mỗi người là một vụ án ? mỗi người

chôn sống - một chân mây ?

(Sổ bụi 1988)

Tôi đau ở…

tôi thồ thơ văn tự xứ này lên. (Sổ bụi 1988)

Rồi có một lần, ông nói về hạnh phúc, nhưng không có chữ TÔI, và bản thân hạnh phúc cũng khó khăn thế nào : Thôi đi những hạnh phúc - quần đùi may sẵn! giầy dép - đóng sẵn! Số ? Cỡ ? Hạnh phúc chẳng mua ở công ti-may mặc-sẵn ? những si lip sách chẳng vừa…cóoc sê jáo khoa ca mà thịt hở… (Sổ thơ kể kệ 1976) Hoặc những phút hiếm hoi như thế này cũng được kể lại theo cách viết rất riêng của ông :

« Tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng.

Mây phơi dằng dặc khắp chân trời. Hương hỏa của

tôi, kho nào chứa xuể ? Ê hề vũ trụ sao bay. Tôi di

lại cho ai giờ ? Tầng tầng mây, lục địa lục địa của

cải » (Sổ bụi 1979)

Page 364: Tran Dan _ Poem

364

Nhưng có khi TÔI trở thành CHO TÔI. Cặp quan hệ « tôi cho ai » và « ai cho tôi » có mặt trong thơ ông từ thời Cổng tỉnh, chẳng bao giờ được trả lời. CHO TÔI thực ra là cái vô lý mà trong đó TÔI không thể hiểu được, là cái không thể mà TÔI khao khát, là những tình thế mà TÔI không thấy lối ra. Nếu như TÔI có mặt thường trực suốt cuộc đời thơ của ông, thì CHO TÔI lại chỉ tập trung ở những thời gian nhất định, có vắng bóng, có hội ngộ:

sao lại cho tôi quê cháo lú. quên cha quên mẹ. quên

ngày hội. quên chạm ngõ. cưới xin. chôn cất. tang

chồng không để. để tang xô...

cho tôi về dưới Tía. cả ngày chong bóng xế. cho tôi

về quá Mễ. tào lao giấc trắng phèo phèo...

sao lại cho tôi nhiều xương sống thế ? trước quyền

không biết lom khom ?

(Sổ bụi 1979)

Ai xuất tiền mặt cho tôi ? (Sổ bụi 1982)

cho tôi ngồi fố khói ? ga khói của lòng? bướm khói liệng sân ga ?

(Sổ bụi 1989)

Chữ TÔI kiểm điểm bản thân cùng một thời đại buồn rầu của Cổng tỉnh năm 1960 đến những sổ bụi không còn xếp cùng với thời đại của ông nữa. TÔI những năm tám mươi từ chối bên ngoài :

Nhân loại- tôi không chơi với các anh nữa

Ván nào anh cũng ăn jan…

(Sổ bụi 1982)

Page 365: Tran Dan _ Poem

365

Biết bao nhóm chữ TÔI KHÔNG này được sử dụng để TÔI được quay về với TÔI. Nếu quan hệ TÔI và TÔI còn nhiều hoài nghi trong Cổng tỉnh khi ông viết tôi có tôi làm gì, thì tới những sổ bụi cuối quan hệ này lại có vẻ êm đềm hơn :

Tôi rủ tôi đi vào cửa khó

dễ ăn, dễ ngủ

siêu lạm phát

động vật dễ dàng… (Sổ bụi 1987)

Tôi bước lặng bên tôi

không một hai- mà vẫn bước đều

cho đến lúc- say nâu

Tôi rẽ vào fố lặng.

(Sổ bụi 1988)

Người đọc cũng có thể hiểu được rằng con đường từ TÔI đến TÔI đâu phải chỉ khép lại trong cô đơn, mà là kết quả của rất nhiều năm lao động: Từ tôi tới mình? vạn lí trường chinh..? mấy ai đi hết lữ trình? nửa đường rơi rụng sinh linh? (Sổ bụi 1987). Người đọc cũng có thể được lý giải vì sao chữ TÔI của thơ mini 1988 vừa khoẻ mạnh, vừa đau đớn, lại vừa kiêu hãnh, đến ấm lòng:

Tôi khóc những chân trời không có người bay

Lại khóc những người bay không có chân trời

Có thể đây là một trong những lý do vì sao những bài thơ ngắn và cực ngắn , bắt đầu từ các sổ thơ 1973 đôi khi chỉ được đánh số thứ tự, phần nhiều chỉ được gọi là những bài « thơ lẻ », phải đợi đến năm 1988 những bài thơ ngắn mới được gọi là « thơ mini ».

Page 366: Tran Dan _ Poem

366

THƠ và KHÁCH THƠ

Khi đọc bố tôi viết tác phẩm là bản gốc, đời là bản sao (Sổ bụi 1988) tôi đã cho rằng hai mươi ba năm sống cạnh ông tôi mới chỉ học thuộc bản sao của ông. Bản sao này cũng không trọn vẹn. Tôi không được ở cùng bố tôi tám năm cuối của ông. Sau khi ông mất, bản sao này dần dần được thay thế bằng một cái gì khác, một cái gì mà cho đến tận bây giờ tôi vẫn không dám khẳng định có phải là THƠ của ông, là di cảo của ông. Tôi vẫn muốn làm sao giữ lại được bản sao ấy, dù chỉ là bản sao, dù nó không hoàn thiện.

Nhưng nếu cuộc đời ông đã được ông đem tặng cho THƠ? Nhưng nếu cuộc đời ông chính là một tác phẩm không được viết?

Tuy nhiên tôi không muốn băn khoăn tìm hiểu vì lý do gì cuộc sống gia đình và những thăng trầm của xã hội không được tham gia trực tiếp vào nhật ký của ông từ 1973. Ông còn có một mối nợ khác vô cùng riêng tư, mối nợ vẫn đi theo ông từ Bài thơ Việt Bắc, từ Nhất định thắng, từ Cổng tỉnh:

Tôi như có lời hứa chưa xong. Có lời nguyền chưa

trọn. Có câu thề còn trăn trở nơi tim- thơ là trò rồ

của những kẻ như tôi.

(Sổ thơ 1976)

Thơ là thuốc chữa cho ta, bệnh sống.

Chẳng bệnh gì đâu, chỉ mỗi bệnh sống. Không thơ,

lấy jì chữa chạy júp dùm ta ?

(Sổ thơ 1975)

Page 367: Tran Dan _ Poem

367

Thơ với tôi như tôn giáo không nhà thờ -không giáo

chủ. Chẳng tăng sư ? tôi vẫn chốt ở đền Bay-on

chữ. Thơ là mạng sống, là lý lịch thật đời tôi.

(Sổ bụi 1988)

Mối nợ của ông là THƠ. Mặc dù TÔI của sổ thơ sổ bụi đã được ông đem tặng hết cho THƠ vẫn có những lúc ngắn ngủi THƠ tách ra khỏi TÔI cũng giống như tạm xếp lại những tình bạn tuy thắm thiết nhưng lại ít dễ chịu của họ,. Những lúc ấy ông hiểu rằng: Thơ vì thơ, tuyệt đối. Hễ vì bất cứ gì khác, dù cao quý mấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ. Vì vậy, thơ khôn thể vì chim gái chẳng hạn. Những thơ tình, thơ chính trị, bất kì tính từ nào, đều vô nghĩa, với tôi. (Sổ bụi 1988). Và THƠ không có TÔI lập tức vứt bỏ mọi ràng buộc và giới hạn, của ngôn từ và kích cỡ, được nhà thơ chiêm ngưỡng từ xa, vô cùng say sưa :

Thơ là cái thăm thẳm.

(Sổ bụi 1988)

Có một vùng thơ tên gọi không lời.

(Sổ bụi 1988)

Vùng mù … vùng tổ của vùng thơ.

(Sổ bụi 1984)

Tuy nhiên, việc phi thường chờ người phi thường, có nhà thơ mới có thơ (Sổ bụi 1984), nhà thơ được ông gọi là người thơ, thi sĩ… và khách thơ. KHÁCH THƠ mang nhiều trùng lập với con người Trần Dần, cả hai cùng bị lạc tới quả đất, và ông quan sát KHÁCH THƠ với nhiều thương xót. Bản thân ông là người chôn rau ở tận trời sao, bản thân ông còn xa lạ quá quả đất, để có thể cảm thông với vị khách lạc, để nói nhưng không rõ với ai:

Page 368: Tran Dan _ Poem

368

Khách thơ chẳng thích gì quả đất. Anh lạc hành tinh

rồi ! Tội nghiệp !

(Sổ thơ 1975)

Trong cùng một sổ thơ, ông gặp những con đường cũng biết ước mơ, gặp một sân ga im lặng trắng, gặp những vì sao biết là áy náy hộ vì ai, gặp khách thơ nhưng không bao giờ, và bao giờ, khách thơ có chỗ, ở trong huyên náo địa dư-người. Ông trách : Trăng Á mặt trời Âu đều chẳng chiếu. Vào chỗ nào là chỗ khách thơ đau. Trong những sổ thơ và sổ bụi sau này không thấy KHÁCH THƠ quay trở lại quả đất nữa. KHÁCH THƠ giống như một cuộc viếng thăm không lời, đến từ một vùng thơ không lời, và vội vàng khép lại.

Chỉ có Trần Dần, và nhà thơ, và người thơ… vẫn còn đấy. Hình ảnh KHÁCH THƠ tội nghiệp được thay thế bằng những nhà thơ ở lại trần thế, mạnh mẽ hơn, những nhà thơ bao giờ cũng mơ trên sức người, ngoài khả năng người, vượt điều kiện người (Sổ bụi 1984). Bốn năm sau khi gặp KHÁCH THƠ ông viết :

Thi sĩ là gì ? người chết hai buông tay vẫn ằm ặp đầy sao.

Và một năm sau nữa :

Tắt thở… tay ăm ắp đầy sao ? người ấy không chết.

Đến thời gian làm thơ mini 1988 nhà thơ của ông có lúc không còn mang bóng dáng của người khách thơ im lặng và thi sĩ đầy khát vọng, mà gai góc khó chịu: Mỗi nhà thơ mang một địa ngục. không ai người chung sống nổi với nhà thơ . Nhưng nhiều khi nhà thơ ấy lại đời thường biết bao, và ngay cái đời thường lại nghịch lý đến tầm thường. Tôi không thể mỉm cười được trước

Page 369: Tran Dan _ Poem

369

những bông hoa không được rắc nước hoa, bởi bài thơ chính là quan niệm của ông về THƠ và NHÀ THƠ:

người thơ

không rắc nước hoa

lên những bông hoa mình trồng.

Còn con người Trần Dần, nhân vật TÔI, có thể thu xếp cho ông một cuộc sống hoà thuận với nhà thơ ở trong ông ? Cả hai thực ra cùng chia sẻ một số phận, cùng sống ngoài rìa xã hội, cùng không chấp nhận và không được chấp nhận, bởi cả bản thân và xã hội. Cả hai cùng chung một sứ mệnh THƠ, làm sao để xây một tập thơ là phá một nhà tù (Sổ thơ 1974). Và phải chăng tất cả họ, nhà thơ, người thơ, thi sĩ, khách thơ, và nhân vật tôi đều mang một cái tên Trần Dần ? Đều là Trần Dần ở những giây phút khác nhau, hy vọng hoặc thất vọng, yếu đuối hay lạc quan, dù chỉ là lạc quan đen ? Bi kịch lớn bắt đầu khi con người TÔI của ông một lúc nào đó cũng đã hoá thân thành nhà thơ ?

CHỮ và NGHĨA. BÊN NÀY và BÊN KIA

Không phải ngẫu nhiên mà thói quen người đời trong khẩu ngữ đặt CHỮ lên trước NGHĨA, BÊN NÀY rồi mới đến BÊN KIA. Khái niệm về khoảng cách địa lý không gây nhiều tranh cãi, vì sự hợp lý ở đây hoàn toàn có thể cụ thể hoá được. Lẽ đương nhiên là gần rồi mới đến xa. Thứ tự này là bất biến, không thể phủ nhận. Nhưng khi bước vào lĩnh vực nghệ thuật thói quen định vị của CHỮ và NGHĨA lại thường xuyên bị nhầm lẫn, thứ tự của chúng luôn bị xáo trộn, ở mọi thời, mọi nền văn hoá. Công chúng khi đứng trước một tác phẩm hội hoạ thường đòi hiểu ngay lập tức cái này muốn nói gì, khi nghe một bài hát thường phàn nàn không nghe được hết lời, khi đọc văn học thường chỉ

Page 370: Tran Dan _ Poem

370

đọc NGHĨA mà quên CHỮ, hoặc khá hơn một chút thì đặt NGHĨA lên trước CHỮ.

Ngay trong hàng ngũ những người làm nghệ thuật và phê bình nghệ thuật quan hệ CHỮ và NGHĨA này cũng quay tròn như chong chóng gặp gió, gió chiều nào quay chiều ấy. Chưa kể đến những thoả hiệp giữa họ và công chúng. Thử mở những bài giới thiệu bình luận tác phẩm, NGHĨA bao giờ cũng được phóng to nhiều lần, dễ giải thích hơn, và cũng dễ hiểu hơn.

Thói xấu này trở nên quá phổ biến, đến mức đối với phần đông đọc NGHĨA không có CHỮ là một tập quán, tệ hơn nữa là một nguyên tắc bất di bất dịch. Đến mức chỉ cần đề nghị thiết lập lại vị trí của CHỮ và NGHĨA theo đúng như trong thói quen nói, không hề là một phát hiện thông minh nào, đã sánh ngang được một cuộc cách tân lớn.

Khi Trần Dần viết : « Đố ai chọc mắt các vì sao» (Sổ thơ 1976), một người khác cũng có thể viết : « Tôi đố anh nào có đủ dũng cảm có đủ khả năng đủ tài năng đủ phương tiện để trèo lên được tận các vì sao để tắt chúng đi đấy ! ». Câu thứ hai đủ ý đủ nghĩa, rõ ràng mạch lạc, nhưng lại đóng cửa mọi tưởng tượng, và mất hết mọi sức mạnh. Khi ông viết : « Họ cứ vu oan mặt trời ngủ » (Sổ thơ 1976), tôi không thể hình dung được ai đấy có thể viết nổi câu văn thứ hai có thể mang cùng một nghĩa. Câu thơ quá đơn sơ, CHỮ nào cũng dễ hiểu, mà toàn bộ câu thơ lại mở ra rất nhiều NGHĨA, rất nhiều liên tưởng, hình ảnh, âm thanh. Câu thơ có vẻ dễ làm, nhưng không thể thêm hoặc bớt CHỮ của nó, không thể thay đổi chỗ của chúng. Và trên hết, câu thơ là một kinh ngạc. Một kinh ngạc lại chứa nhiều kinh ngạc khác. Từ họ đến mặt trời, từ mặt trời đến mặt trời ngủ, từ vu oan mặt trời đến vu oan mặt trời ngủ…và

Page 371: Tran Dan _ Poem

371

mặt trời ngủ rõ ràng là một hình ảnh thị giác. Tôi cứ hình dung thấy một mặt trời vàng vô cùng oai vệ nằm ngủ như một con người, thế thôi, chẳng mộng mị, chẳng lo lắng. Nhưng tôi đã bị lừa, hình ảnh của tôi chỉ là ảo ảnh, vì biết đâu mặt trời lại không ngủ, ông bị vu oan. Người nhiều tưởng tượng hơn có thể đi từ câu thơ đến những thân phận người, những số phận oan nghiệt. Người nhiều khả năng tổng hợp hơn có thể nghĩ đến những đám đông lười suy nghĩ, vẫn lười suy nghĩ. Nhưng họ không biết rằng chính những con CHỮ này đã cho họ ham muốn được tiếp tục giải nghĩa những gì còn giấu đằng sau câu thơ. « Biển giấu sâu. Trời giấu rộng. Chữ giấu nghĩa » (Sổ thơ 1976) là như vậy. Nhưng tôi không có ý định giữ CHỮ của sổ bụi ở lại BÊN NÀY, để NGHĨA của thơ được gửi sang BÊN KIA mặc dù có lúc ông viết : đừng viết cái gì không rơm rớm bên kia , mặc dù bên kia ? ai rồi cũng đến - bên này ? ai rồi cũng qua (Sổ bụi 1983). Tôi không đề nghị độc giả đi tìm biên giới của CHỮ và NGHĨA như có thể lấy phấn trắng mà phân chia địa phận của BÊN NÀY với BÊN KIA. Thực ra BÊN NÀY và BÊN KIA của những sổ nhật ký không được Trần Dần sử dụng cho không gian hoặc địa lý. Nhưng tôi xin được đặt chúng song song với cõi sống và cõi chết. Khi viết về sự sống và sự chết ông đặt chúng vào một quan hệ, như gửi với về, như dụng và thể, như tử số và mẫu số. BÊN NÀY và BÊN KIA được nhà thơ thường xuyên đến thăm. Nhưng với hai thái độ :

Đối với BÊN NÀY :

Page 372: Tran Dan _ Poem

372

Sống ? Eo ôi sống ?

Xưa nay. Từ sống mấy ai về?

(Sổ bụi 1988)

Còn với BÊN KIA:

Càng chết tôi càng - bất tử Eo ôi

Chết vẫn không yên. (Sổ bụi 1988)

Cả hai bài thơ mini đều dùng chữ Eo ôi, nhưng nếu Eo ôi đầu, mắc kẹt giữa hai chữ sống, có vẻ đi nhanh hơn thì Eo ôi sau, rơi vào trong khoảng trống, lại kéo dài hơn. Chữ thứ nhất vừa đi kèm chữ sống, vừa từ chối chữ sống. Chữ thứ hai không dành cho chết, mà cho chữ bất tử. Cả hai bài đều được viết để từ xoá từ, câu bác câu, lưỡng nghĩa đè lưỡng nghĩa. “Sống mấy ai về” là cả một vô lý và ngược đời. Người ta hay nói: Từ chết mấy ai về, cũng hay an ủi: Chết là yên thân. Người đời cũng mấy ai không thích bất tử? Còn nhà thơ, ông kinh tởm sự sống lẫn sự bất tử, chứ không hề sợ cái chết. Hai bài thơ quá ngắn nhưng chứa rất nhiều suy nghĩ và ôm trọn cả cuộc đời của ông, và nhà thơ ở trong ông. Những con CHỮ của Trần Dần như vậy phải là những từ

� � � � đến tối đa, nhưng đồng thời phải đem về cái � � � � , cái � � � �, cái � � , phủ nhận ngay cả những gì

ông vừa mới viết, chứ không thể là những � � � � . CHỮ nào vào

tay ông đều trở thành THƠ. Ông chủ trương con CHỮ tự nó làm NGHĨA. Nhiều người, kể cả bạn bè ông, sau này luôn nói về CON CHỮ, nhưng phần đông lại đưa ra những so sánh lạc đề, đại loại như: những con chữ lấp lánh trong tay ông, những con chữ giống như đàn gà con chiêm chiếp gọi mẹ, theo tôi là xuyên tạc Trần Dần.

Page 373: Tran Dan _ Poem

373

Lại vẫn để nói về BÊN NÀY và BÊN KIA, nhưng bắt đầu từ chữ bằng lòng. Đây là bài thơ ngắn được lấp đầy bởi năm lần bằng lòng:

bằng lòng sống - bằng lòng quả đất? bằng lòng làm

chiếc lá - heo may.

bằng lòng chết? không bằng lòng hết. Ôi chiếc lá

vàng trong bát ngát càn khôn.

(Sổ bụi 1987)

Năm lần không lần nào giống lần nào, nhờ vào năm vị trí khác nhau. Sự sống được giải nghĩa là quả đất, quả đất trở về chiếc lá trong gió đông. Chữ bằng lòng do vậy cứ nhỏ dần lại, nhưng thêm cụ thể hơn. Giống như ba chiếc hộp lồng nhau nhưng chữ bằng lòng thứ ba lại tiêu diệt những hoài bão lớn ban đầu. Sự sống nhỏ lại thành chiếc lá heo may. Chữ bằng lòng thứ tư là một nghi vấn. Chữ thứ năm bị phủ nhận. Rồi quá bất ngờ, ngay sau chữ hết, không gian được mở rộng đến nao lòng. Chiếc lá mùa đông được mang mầu vàng, được đặt trong cõi vô cùng, được nhà thơ chiêm ngưỡng đến độ phải bật thốt lên thán phục. Chiếc lá của BÊN NÀY và BÊN KIA mới khác nhau làm sao! Và cõi bát ngát càn khôn có lẽ chính là vùng thơ thăm thẳm ngày nào? Cho nên BÊN NÀY và BÊN KIA không chỉ đơn thuần như tôi muốn giải nghĩa là hai thế giới sống và chết, mà chính là hai vùng thơ, một vùng đầy nguy hiểm, một vùng làm ông thương nhớ khôn nguôi. Tôi chỉ mong sao có được tấm hộ chiếu đưa tôi vào vùng thơ của nhà thơ. Để không còn bỡ ngỡ day dứt khi đọc trong sổ bụi của ông: Sống tới hôm nay, bỗng nhớ quê. Sực nhớ. Day dứt nhớ bên kia. Nơi chẳng đồng hồ không số lượng. Để

Page 374: Tran Dan _ Poem

374

không còn băn khoăn với câu hỏi của ông: Bất tử làm gì? nếu phải mãi mãi sống đìu hiu. Để có thể yên tâm được như ông: Hãy đắm đuối đi vào bóng tối.

Sổ bụi CUỐI

Tôi đã không tự hỏi, khi lục tìm di cảo, đâu là những dòng viết cuối của bố tôi? Tôi đã bắt đầu bằng những tác phẩm nằm, là những trường ca, những tập thơ đã hoàn chỉnh, những tiểu thuyết, tranh vẽ và thơ vẽ không có lời mà ông gọi là Thơ cơ bản, rồi những tập thơ có lời mà ông lại gọi là Thơ không lời. Bốn năm sau khi ông mất, tôi mới đọc những sổ thơ và sổ bụi. Tôi nghĩ đã thu xếp cho mình đủ bình tĩnh để đọc nhật ký của người khác. Tôi đã đọc ba mươi tư sổ tay, không theo trình tự, không hiểu hết, không nhớ hết, và không biết tôi đã đọc những dòng viết cuối của ông từ lúc nào.

Tôi đã không thể tưởng tượng được nhật ký của đời ông chấm hết vào đúng quãng thời gian tôi rời xa Hà Nội, cuối năm 1989. Tôi không muốn nghĩ rằng cuộc ra đi khốn đốn và nhục nhã của tôi đã làm kiệt sức toàn bộ căn nhà năm người của chúng tôi, đã khiến bố tôi phải tự xếp cánh lại, không muốn bay nữa. Tôi không có đủ thiên hướng văn học để có thể gạn hỏi quá khứ, hoặc không đủ cô đơn để lùi ra xa khỏi cuộc đời bố tôi như Paul Auster đã bỏ trốn vào “L’invention de la solitude”.

Tôi đã không tìm được những trang viết sau 1989.

Năm 1987, cùng với thời đổi mới phát động bởi tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, với những hứa hẹn của hội nhà văn, với sự phục hồi hội tịch cho những nhà văn bị bỏ ra khỏi làng văn chính thống ba mươi năm trước, ông vào Huế và Sài Gòn. Những sổ

Page 375: Tran Dan _ Poem

375

bụi 1987, 1988 này tràn đầy thơ mini và chỉ dẫn thơ, với muôn vàn chân trời, chân mây. Nhưng rất nhanh, ông đã hiểu không có đổi mới nào cả. Và Sài Gòn mà ông đã xa cách từ năm mươi năm, giờ mới gặp lại, không đủ cho ông. Sau tất cả những sự kiện này ông trở về Hà Nội. Đây là quãng thời gian ông viết: bốn cẳng chạy tới chân trời? không bõ? không bõ? vớt về một canh cánh chiêm bao.

Năm 1989 bắt đầu, và thật kỳ lạ, đây là trang sổ bụi duy nhất có ghi ngày tháng, nằm lẫn vào trong những trang cuối của sổ bụi 1988:

Ngày 23 tháng 1 năm 89, tức ngày mùng 10 Chạp

Thìn.

Dương đã 89. Âm vẫn chửa sang trang Kỷ Tị. thời

gian châu Á vẫn tiêu sâm… tôi chẳng muốn mang

sang gì cả. Nỗi buồn ga cuối còn nguyên.

Sổ 1988 hết trang, ông sang sổ mới. Đây mới là cuốn nhật ký cuối cùng của ông, sổ bụi 1989. Ông bắt đầu như thế này:

Canh bạc giao thừa – thua cũng được?

đời đau – thi

cách rõ ràng…

Rồi có những bài thơ mini:

tia mắt chiêm bao ngạt ngào quanh thế. Người về

bang cũ có buồn không? cố nhân bang mới buồn như

khói. Tấm lòng ga cuối lặng như đêm?

ngã ba đen? ngã ba đen? sự vật không đèn? ai khóc?

ngã ba tim?

Page 376: Tran Dan _ Poem

376

Và rất nhiều chữ CUỐI, chưa bao giờ cùng tụ tập lại như thế này:

hoa soi? hoa sói. hoa sòi. hoa khói ? ga cuối của lòng.

tim cuối? hai bàn chân cuối? “Đây rồi phố cuối – khóc

đi thôi”

tuổi cuối? hai bàn chân cuối vẫn ra đi.

xá gì khi khói - cuối đã bay đi? mây cuối của lòng?

con mắt cuối vẫn chong chong?

tuổi cuối? ga cuối của lòng. Nghe hát thương hoa…

Ở một trang khác, là chính ông đứng chống gậy ngoài phố. Ngoài ngã ba phố hay ngã ba tim? Đây chính là hình ảnh ông mà ai đã biết ông đều nhận ra. Đây cũng chính là một ông già tập tễnh trong mắt người đời, trong con mắt trẻ con, bị trẻ con trêu. Không thể đọc một cách bình thản được:

ngã ba tim - từ ngã ba tuổi - từ đèn ngã ba? – ông

già hoè? ông koè? tôi iêu ông già hoè? không iêu ông

già koè? – tôi iêu ông jà koè! tôi iêu ông jà hoè!

Nhưng rồi những day dứt của ông lại nhanh chóng nhường chỗ cho một mùa thu rất xanh và một cơn mưa mà ông đã gặp từ hồi Nhất định thắng, từ hồi Cổng tỉnh:

cho tôi ngồi fố khói? ga khói của lòng? bướm khói

liệng sân ga? tầu khói. chung nhau màu tuổi khói?

đâu dè mắt khói chiêm bao. mây bay? chung đôi ngồi

kể khói? mưa rất xưa mà thu rất xanh. mắt khói thế

này. mắt khói để cho ai?

Page 377: Tran Dan _ Poem

377

Tôi không cho rằng một mùa thu rất xanh có thể đóng lại toàn bộ những sáng tác của ông. Tôi vẫn biết không bao giờ ông bằng lòng với những gì ông đã làm. Không hiếm khi ông đã tự trách mình: tuổi 60 rồi? không viết nổi một câu thơ? Anh 60 rồi chẳng có quê? Cho dù đối với ông ghi trở nên một hình phạt (1958) ông vẫn tiếp tục viết những bức thư không gửi cho những sổ tay, những đau lòng sổ bụi. Phải lâu lắm tôi mới tìm lại được trong sổ bụi 1988, khi ông nói về thơ mini, những dòng chữ sau: tôi thích viết cái chưa biết, mặc các ông viết cái đã biết. 90 có hoàn thành không? có thành công không để mà đốt đi? Tôi đã đốt tôi đi không phải chỉ đôi lần… cái chưa biết – cái khó - thậm chí cái bất khả thu hút và đắm đuối tôi. Dấu vết nhỏ bé này đã cho phép tôi đặt câu hỏi có phải ông đã tự chuẩn bị cho mình ngày đóng cửa bốn mươi sáu năm ghi nhật ký từ một năm trước? Có phải những năm sau 89, ông đã không còn muốn nhẩy qua bóng của mình? Có phải ông đã có linh cảm không lành về cái mới, về bệnh tật sẽ cướp đi trí nhớ và sự minh mẫn của ông năm năm cuối đời ? Có phải ông đã huỷ toàn bộ phần sau của sổ bụi để tay không mà đi sang BÊN KIA. Như ông vẫn nói: Tôi chẳng muốn mang sang gì cả. Nỗi buồn ga cuối còn nguyên.

Paris tháng 4 năm 2003

Page 378: Tran Dan _ Poem

378

Page 379: Tran Dan _ Poem

379

1973 1974 Sổ thơ

xây một tập thơ là phá một nhà tù

Page 380: Tran Dan _ Poem

380

Ốm

Tôi ốm ở toàn - tôi phố cây

đường đèn lúc mưa lá lẩm hoa

trời sao và tín hiệu lạ.

1

Tôi chôn rau là ở tận

bầu trời sao

xa thẳm ấy

nơi không phố phường

không chợ búa

chẳng đường ngang

ngõ dọc

tàu bè xe pháo

cũng không.

2

Tôi - một người chuyên thích

những gió lên

những cánh buồm bát ngát

bây giờ tôi nằm liệt nửa người

bất động như đã kề miệng hố

trước cửa nhà tôi

gió thổi dặt dìu.

Page 381: Tran Dan _ Poem

381

3

Ôi những điểm tinh anh

gọi là nhật nguyệt

trên cao

là đồng loại nhân gian

ở dưới

là muôn vẻ sinh linh

luân lạc - một càn khôn.

4

Tất cả trăng sao bên kia đều

công dụng hàng ngày đời mặt đất.

Thêm một ánh đèn

cho các ngõ xóm đìu hiu

Thêm bát canh ngon

cho mâm cơm nghèo của người tuổi tác

Thôi đi những mới

hão

mới huyền

những ao ước

chưa ước xong

đã lụi tắt

Trước cửa nhà tôi

gió thổi.

Page 382: Tran Dan _ Poem

382

Năm mới

Năm mới ơi

mày sẽ mới như thế nào ?

mày đừng mới đãi bôi trên diễn từ và chúc tụng

đừng mới điêu toa bôi bác

lấy dăm ngày

xong lại cũ -

cũ nhăn nheo -

như cái cũ.

Cũ hơn cái đồ bỏ

mèo tha lại

chó tha đi.

Hỡi năm mới !

hãy mới được ra sao thì mới thành thật.

Quả đất mưa

Nếu như quả đất xám

càng cần anh tiếp xúc trong veo

dù cơn mưa eo

khúc ước vẹo khèo

yoặt yèo

đường khoèo.

Page 383: Tran Dan _ Poem

383

Đừng ốm

Đừng một thở dài ô nhiễm hành tinh

đừng một lo buồn tích bão.

Đừng nuôi hối hận ở trong người

nuối tiếc cũng không nguôi.

Đừng nuôi ai oán ở trong người

thèm muốn cũng không nguôi.

Buồn nhiệt đới

Buồn như chiếc nhẫn kim cương

trên ngón tay xác chết

Mây mà lệ nhẹ

nặng trời sao nhiệt đới

Thôi em ơi

đừng mất công đi vớt ánh chiều tà.

Page 384: Tran Dan _ Poem

384

Mưa

Trú mưa mãi

dưới

mái hiên mệt mỏi

thành fố héo hon Như mưa lông mi

bôi nhoè thị ảnh chủ nhật

phố dài một nét khoát đạt

những chùm arpeze mưa

bài nhạc hàn hạt

caxtanhet hạt xạt lạt xạt

những hạt mưa

đuổi nhau

như những nốt nhạc tẩu khúc

đối thoại của mưa lẩm bẩm cuối tuần

Tiếng phố xá rì rầm

như một cầu nguyện lớn

tà dương.

Page 385: Tran Dan _ Poem

385

1975 Sổ thơ

Heo may. Chia tay. Em về không độ phố - heo may …

Page 386: Tran Dan _ Poem

386

Sao lại cho tôi quả địa tối chỉ ? bao jờ tôi gỡ cho

xong ? Sao lại cho tôi một tan nát nhân lý ! tôi hàn

tôi gắn đến bao xong ? Sao lại cho tôi đêm chín

fía ? cô hồn bấc lụi hạt đèn chong ?

Page 387: Tran Dan _ Poem

387

Thuở trần gian

Đêm chín phía. Ngày chín nghĩa. Vô vị địa - gió lĩa

xĩa - chiều lịa xịa. Lá lĩa tĩa - chữ lữ. Trăng Á mặt

trời Âu đều chẳng chiếu, vào chỗ nào là chỗ khách

thơ đau.

Đừng ngoảnh lại đàng sau. Con đường in vết sẹo

đôi chân.

Gặp một sân ga im lặng trắng - không bao giờ ! và

không bao giờ ? khách thơ có chỗ, ở trong huyên

náo địa dư-người?

KHÁCH THƠ CHẲNG THÍCH GÌ QUẢ ĐẤT.

ANH LẠC HÀNH TINH RỒI ! TỘI NGHIỆP !

Hồi quả đất

Trên kia nến thắp các vì sao. Ắt sao ấy phải cho ai

cần thiết đấy! Mật mã trời sao chỉ là Á-Y N-Á-Y Á-Y

N-Á-Y- biết là áy náy hộ vì ai?

Page 388: Tran Dan _ Poem

388

Lại đằm thắm trăng sao. Lại nồng nàn sớm tối. Lại

những người bất hợp tác quả đất ... ai biết nguồn

cơn của họ.

Ai đưa tôi đến chỗ này? Bên kia trời Á bên này trời

Âu. Trời nào cũng một màu sàu. Chỗ nào cũng một

nghẹn ngào khôn nguôi.

Ai cũng có hành tinh vũ trụ - mà địa cầu một

chặng chẳng bằng gang ... phong cảnh loài người

đâu buồn bã quá. Để không người khởi nổi lời ca.

Ai bắt định mệnh hoàng hôn cứ phi buồn rầu? Anh

đã hoạ mi quả đất? Ai bắt anh sơn ca sử biến?

Thật có gì là sử hay không?

Tôi vẫn sống chẳng khẩu phần yêu, không khẩu

phần mộng. Ai chia phần thuần vét đĩa, cho ta.

Anh cứ sống, bậc hai của sống. Sống bằng yêu,

bằng mộng, bằng thơ. Rồi lúc gặp nhau, địa đầu

vũ trụ. Kinh vĩ tuyến côxmic. Ta cùng ôn lại thuở

trần gian ... hồi quả đất, bọn mình eo óc thế ...

mưa bồng sông gió mông quạnh lạnh ...

Cả những con đường cũng biết ước mơ. Thế kỷ còn

một thẹo. Sao còn khua khoắng lắm chiêm bao?

Mất cắp - thiên đường, loài người đòi lại. Công

cuộc này.

ĐÃ CHÁN CÁI NGHỀ GÂY SỰ CHỮ. CÒN MỐI

QUAN TÂM: KHÔNG HỢP TÁC ĐịA CẦU.

Page 389: Tran Dan _ Poem

389

Thảo và luận

1. Lầm ! Nếu ngỡ anh có thể làm gì, hay có bổn

phận gì, ở nơi KHÔNG-XỨ mệnh danh quả đất.

2. Lầm. Nếu ngỡ trên quả đất hạt bụi, lại có thể

xảy ra một cái gì, hơn là hạt bụi.

3. Người ta thấy tôi đã phải làm việc với những ai.

Những cãi vã, và không-cãi vã, trần gian. Biết ai

cãi vã với ai? Ai đặt vấn đề? Ai cãi? Cãi gì? Đi đến

đâu? Qui chiếu vào đâu, mà cãi?

4. Văn minh hiện giờ đang sang trang, như Xêza

kéo binh vượt sông Rubicông, thốt thở dài: mệnh

đã định rồi !

5. Hãy trả hết khóc cười cho các vầng trăng cũ ...

6. Mỗi người mang trong mình 1 vũ trụ tâm thần,

độc nhất. Độc nhất vô song ... chỉ vì thoả hiệp, mà

mất dần, thậm chí tan vũ trụ ấy. Vô thức, cái tôi

thật này, không biết thoả hiệp, nhân nhượng, hay

giao kèo. Nó không lùi 1 milimet, 1 micrôn. Khái

niệm thoả hiệp nằm ở tất cả mọi điều khốn quẫn

của con người, mà mũi tên chỉ lại theo hướng càng

khốn quẫn thêm, khốn quẫn hơn, khốn quẫn

không có đường ra. Con đường tử đạo: thoả hiệp,

nơi chết bao tài năng, thiên tài, địa tài, nghệ sĩ, và

nhà triết, nhà trị, mọi nhà...

Thôi cũng đừng thảo luận nữa, với trăng sao.

Page 390: Tran Dan _ Poem

390

Năm luỹ thừa

Jó đường lên. Fía tìm quen. Mắt bề trên. Đối thoại

đèn đen. Bóng tài ghen. Héo chùm len. Cánh tem.

Bút len. Đầm sen. Mi đen. Môi ưu tiên. Jó mồ im.

Nến đen. Tìm im. Fía tìm im. Héo tài ghen. Mặt trời

đen. Ngôi Blời. Jấc trời im. Câu rút bút jó mồ im.

Đánh tài ghen. Sẹo đường đen. Vết chân quen.

Mưa hoàng liên. Bóng lầu in. Mi xanh đen. Môi ưu

tiên. Bọt bèo i. Tóc liền.

Chân trời Blời. Đồng hồ phơi. Thằng cời trời. Mắt

rơi. Thuyền bơi. Kiến trúc phân đôi. Bọt sao côi.

Nơrôn phôi. Đo đời. Mưa không lời. Vấn đề buông

lơi. Luỹ thừa bậc ngôi. Tinh khôi mây. Lá lá bay. Jó

ngiã trong thôi. Lá đôi. Bôi môi. Phường vôi.

Mưa phi. Paradiz khi. Trăng đi. Lịch kì. Mưa ri ri.

Sao vu quy. Thành uy nghi. Lấm lịch kì. Cie khi.

Psycanaliz con i. Chớp thì. Bóng thuỳ. Mưa chu vi.

Chủ nhật chu kì. Phía gác. Độ lâm li. Pianô Phi. Mi

tia. Sưng thia. Thành khuya. Bờ dia. Lệ kì. Úa kìa.

Lá lá si. 1 con si. Đồ si. Bên kia tư duy. Ga ghi. Tà

huy tư duy. Nụ quì. Nạ lì. Fường ì. Trời chì. Fường

ghì. Tắt cầu chì. Hộp đen tư duy. Une nuit. Ái phi.

Bên kia chia. Khẩu phần chầu rìa. Đen bia. Pha tia.

Hoa lia. Vỉa hè khe. Bụi chè. Bóng đè. Kĩ thuật kè.

Lao cầu qua bên kia. Cống nước cầu kè. Khói lia

thia. Mưa thia tia hoa lia. Con tâm si. Nuni ghì.

Bến chu vi. Sương mi. Usi uini. Tư duy têvi. Năm

châu chi li. Mơ mini. Tận năng xuất nhiệm kì. Kê.

Chiêm bao hoa lê. Con li nuy. Vào thành nuit.

Fường nue. Pizzicati con pluie mưa nue mini pluie.

Page 391: Tran Dan _ Poem

391

Cầu đến chiêm bao? Sao lao xao. Ngao ngao. Sông

thao thao. Môi cao. Dao sâu. Mâu thâu. Mưa lao

đao. Quen phao. Nhào tay. Vay sao. đao đào. Hào

chiều. Siêu yêu. Mi niêu. Liêu điêu. Nhiều nga. Tha

ma. Hôm qua ga gaz. Laxaca. Klaoxao.

Vô đồng hồ. Rồ tuần. Ngần chờ. Mờ tần. Thần. Lần

thần. Vần vò người. Cười ngờ. Thờ mồ. Trăng mồ

liềm. Xiêm y phi. Nghi. Ngờ đồng hồ rồ. Ngờ tuần

rồ vồ đồng hồ. Thôg jờ. Khờ ngày. Bày đồng hồ

khô. Bán cầu mờ. Quá bán cầu rồ. Toàn cầu chờ.

Địa cầu mồ. Ồ ! đồng hồ.

Page 392: Tran Dan _ Poem

392

1976 Sổ thơ

Page 393: Tran Dan _ Poem

393

Đừng để bóng hắt lại trong sử xanh. Lệ long lanh.

Vệt sử xanh. Thuyền chành. Lệ sử xanh. An Dương

Vương ơi RÊU thành bụi cổ.

Rơi rơi lá một. Lá một. Lá hai rơi. Một. Lá một. Mai

mốt đường sương. Vương lá một. MỘT. CỘT ĐÈN

CHỘT. Hốt nhiên - hoa hôm qua. Ngã ba ga - mù

loà. Đồng hồ tồ.

Lộ thiên mưa. Cổ thụ mùa. Fía lưa thưa. ván ban

trưa. Kẻ ám sát mảnh trăng thưa. Canh cửi trời

chua.

Lo cơm ngàn ngàn nhà cảnh người mây trắng qua.

Tàn sao côi. Ngã ba trời ấm địa dư người. Thằng

ngồi.

Gió mưa bệnh trời. Sống - bệnh người. Nước mây

trôi - chỉ là bệnh sống đấy mà thôi. Bóng sao côi

người đường dài. Chuông chiều lơi. Mây du hời

ngôi mưa ngồi. Địa lí khóc cười. Nín trời.

Bệnh ơi bệnh hỡi hời. Ân oán 3 năm rồi. Lưu luyến

lúc chia fôi. Bệnh chớ hành ai khác. Chia tay với

địa dư người. Nhớ nhau vài câu này.

Bao lâu sao vẫn tuổi bàng hoàng. Nghề mơ sảng ai

hành ? Chiêm bao sức sáng mắt. Không phải chỉ

dưới mồ con người mới làm mồi cho sâu bọ đục

khoét. Mây trắng đuổi nhau.

Page 394: Tran Dan _ Poem

394

Tôi đã thấy chân trời ê hề - của cải. Đồng thời

nguy cơ văn hoá mass mêdia - những kiến thức

têvi kịch phê bình. Tôi đã thấy đổi thay đang sửa

soạn lên đường. Lỉnh kỉnh hành lí, vé, giấy tờ,

balô. Và cả một tâm tình jó lộng.

Tôi đã thấy một chân trời ê hề của cải. Ngực len.

Không khí mật ngọt lừ. Những Juliet và Citroën

bóng lộn. Những lâu đài bóng loáng giả hoa. Cả

những phương trình mơ mộng.

Tôi có lời hứa chưa xong. Có lời nguyền chưa trọn.

Có câu thề còn trăn trở nơi tim. Thơ là trò rồ của

những kẻ như tôi.

Thế jới khó ở. Chiêm bao là bóng bất hủ của

người. Đã đến lúc thắp những MIỀN XA trong mỗi

con người. Thắp những kinh vĩ nơi người khắc

khoải. Nơi câu thơ trăn trở bóng đèn khuya.

Anh hãy thất vọng hẳn quả đất. Không còn gì thu

hút yến tiệc, dục tình, của cải. Qua rồi mùa xuân

với tất cả mọi loài hoa. Sao anh lắm chiêm bao ?

thừa hy vọng thế ? Không có làm sao bé tí ấy lấy

ai chong thấu sáng ngã ba - người ?

Ai kiến trúc trời sao đấy nhỉ ? như là một xứ mắt

long lanh. Muôn thuở khôn dò xong mã - mắt ấy.

Đời đời bất động một phương trình.

Page 395: Tran Dan _ Poem

395

Đố ai đọc mã sao trời. áy náy dậm dài - trên địa

dư người - áy náy xa vời - dạ khúc Blời - ra khơi -

hành tinh bơi - tinh tú lẫy của xa vời - đường trôi -

chong đôi - thơi - rong chơi quỹ đạo ảo não - lửng-

độc tấu lạo xạo - thẩm thấu bên kia vào huyên náo

bên người.

Bảo rằng sao đậu bến thiên hà - những con tàu

Cốx Mốx mộng du xa. Nhưng vũ trụ chỗ nào là bến

đậu. 76 ngả vẫn không bờ - mà tinh tú lẩy giữa hư

vô - từng số mệnh từng sinh linh cũng vậy. Không

bờ không chỗ đến chẳng nơi đi. Những tác nghĩa li

ti - gọi là núi, là người, là quả đất - Nam tào Bắc

đẩu, Marx, Jupiter.

Zọc mái đầu thương. Đèn dạ trường đâu ấm nỗi

miền sương. Dương thế lạnh địa đồ fường. Tầng

tầng sương. Luồng luồng sương - đằng đẵng hải

đăng.

Giấc đông mỉm cười với kịch bản mơ màng. Chiều

đông - mộng thu không. Mưa quanh dàn dạt hạt -

phố. Mây trắng số nhà đen. Hạt đèn thuở nọ.

Đời tôi – ghép từ vô nghĩa thế ? Tay chân ngều

ngào, vỡ mất một số nguyên tắc nào đó. Bị trời

mưa – vô vị phía. Bị xã hội bắt đền.

Page 396: Tran Dan _ Poem

396

Bò qua sa mạc tháng ngày ... Có chắt vài trăm sa

mạc. Cũng thu về lưng gáo nước mà thôi. Nhưng

cứ đi đi chớ quay nhìn vệt máu sau chân.

Gửi khát khao về địa chỉ xa xăm. Tôi công tác chữ

- lặng nhân sinh. Mấy lít lo lắng ? Sao không nổ

súng lủng củng ? Lao động hạ já người nhân

phẩm: hoa đắt ghê. Cho nên: lá vắng. Nồng độ

tích bão – hoà thanh nam nữ phố. Em về ngang

hướng jó – ngã tư mù.

Thu 1976

Cuối thu ơi. Vàng lụi phố. Cao áp tình huống - đứt

sựt đàng xa. Lữ lự trình - đốt tranh. Mưa mảnh

sành. Kĩ thuật dạ hàng. Mệnh mới.

Cuộc chữ chưa bày đã xoá. Như kẻ lữ hành sa mạc

lửa - đảo dừa ảo hoá đàng xa. Đầu lâu bêu mãi

giữa làng. Mà đôi mắt vẫn nhìn làng xót thương.

CÓ BÓNG NGƯỜI NÀO ĐANG NÚP DƯỚI CHÂN

MÂY. CÓ NGƯỜI NÚP DƯỚI CHÂN MÂY.

Tích bão fía. Ngủ 100 ngày bên kia chân mây - phi

đồng hồ gầy. Lá bay. Không jan heo may - địa trấn

tù đầy. Thằng cời trời.

Page 397: Tran Dan _ Poem

397

Heo may gày gày loi thoi ngày ngày. Bão rây. Chín

tầng mây - lữ hành gày.

Am tâm thầm thầm. Sao lên tầng tầng. Am tâm an

thân. Sao lên diềm diềm. Khúc dạ thuyền. Hạt liền

liền. Luồng huyền. Trăng da đen. Sao quen. Ngõ

thanh tuyền. Chín suối huyền. địa lí đen tuyền. Am

tim. đồng hồ dạ kim. Hạ bạn da chiêm. Sao lên

điềm điềm.

14 bài thơ rất ngắn

Vĩ tuyến úa nhìn về kinh tuyến héo Mắt vòng tròng

Quẩn mắt

Sao anh lặt vặt mắt ?

Quả đất Á Âu đều đất

Anh đau ở chỗ nào ?

Vết thương ngàn dậm lạnh.

Thế jới tợ cái chăn kéo đuôi hở đầu ...

chỉ kín một phần ba.

Page 398: Tran Dan _ Poem

398

Lạ kìa đang sống đã là ma

đêm nào cũng xa xỉ sao sa

gió tha người, ở các ngã ba …

Mày biết không ?

tội nghiệp Harlem vàng.

Anh thắp chòm tinh nào ?

đen. vàng. trắng. đỏ.

Tôi biết vết thương ngìn địa lí. Hãy kinh fí hết thế jới này đi

Chu vi li.

Ai sử án trời sao lạ thế ? sao nào cũng a-ý n-áy

chung thân.

Ai giữ sổ trời tai ác thế ? để địa dư vàng eo óc

gió mưa.

Page 399: Tran Dan _ Poem

399

ĐỐ AI CHỌC MẮT CÁC VÌ SAO ?

Biển giấu sâu - trời giấu rộng chữ giấu nghĩa. Không thích

những thằng sống dễ.

Bệnh sống vẫn tự chữa về đêm:

CHIÊM BAO.

Phố khoả thân mưa

In hình võng mạc nước

Lập lờ khe lá dọc

Toẻ cành xanh nét móc

Thẹm nhà đôi ngõ xoạc

Khoả thân mưa ...

Địa lý trắng … vàng … đen …

nơi nào keo bửn nhất ?

để anh về xa xỉ ước mơ …

Page 400: Tran Dan _ Poem

400

HỌ CỨ VU OAN MẶT TRỜI NGỦ

Page 401: Tran Dan _ Poem

401

1977 1978

Sổ thơ

Page 402: Tran Dan _ Poem

402

Ôi kẻ thác sinh lầm nhiệt đới - đã qua bao chí

xuyến buồn. Ám ảnh không mây - bày thủy quỉ -

tiếng gì buồn hơn tiếng RA ĐI ?

Tôi vốn KHÁC QUÊ. KHÁC XỨ. Tôi ở chỗ khác …

tam bách dư niên … tôi ở xứ Không mây. Mộ ngày.

Bóng heo may. Tôi đi trong mộ ngày. Bên kia nguyên lí thú vui … tôi chẳng thể thú vui gì

nữa. Hay thú vui đi không để địa chỉ lại ?

Đóng cầu dao trời rồi ... mây âm sầm thất tổng.

Cổng gió. Trong thơ bỏ ngỏ. Người kẻ khó. Tha thứ

nắng lửa cho hè. Rét cho đông. Húc cho tê jác. Tha

cho thú tính nhân tình. SAO CỨ CHO TÔI CHÉN

ĐẮNG MÃI. BIẾT ĐÂU CON SỐ NGỌT ?

Ai bắt tội các vì sao đấy nhỉ ?

đêm nào

sao cũng

thắp. Thâu canh

tôi vẫn tự đời ngàn …

cao bóng nhân gian.

Mạt thế vẫn không mạt pháp

- tôi vẫn bằng vai.

Tha thứ địa đầu thương.

Bóng mùa ôi bóng

lầu

ôi dung tha

địa đầu.

Page 403: Tran Dan _ Poem

403

Bóng mùa. Ôi bóng lầu

tôi bóng lữ địa đầu.

Ngay. Đây. Vạn. Lí. Không.

M.â.y.

Dài. Vạn. Không. Mây. Dài. Kilô.

Vô. Độ. Số. Không. Mây.

Ngày. Ngày..

Dài kilô vô độ cột địa số. Không

m.â.â.â.y.y.y.

Lữ. Địa. Đầu.

Ôi. Mùa. Ôi. Lầu.

Không làm người

những hẹn hò

dưới gốc cây du.

Ai đi. Về lặng trắng

ngơ ngơ địa cầu

ngơ ngơ từ đâu ?

Ngày nhợt xuôi theo ngày nhạt

như những ngôi sao cho không

ngơ ngơ quả bụi hồng:

bạn đã đi về kẻ sở

Vở ngày thay vở ...

Page 404: Tran Dan _ Poem

404

1979

Sổ bụi

Page 405: Tran Dan _ Poem

405

TÔI CHẲNG PHẢI TÙ BINH QUẢ ĐẤT ? tôi có nghèo đâu, trăng sao lủng liểng. mây phơi

dằng dặc khắp chân trời. Hương hỏa của tôi, kho

nào chứa xuể ? ê hề vũ trụ sao bay. tôi di lại cho

ai giờ? tầng tầng mây, lục địa lục địa của cải

tôi đã chót tìm con số của mưa. tôi không chọn

con số của thành công - của tính toán

đã rụng bao vầng trăng cũ ? đã cầu nguyện bao kì

nhật thực ? Ôi những trang nghiêm nguyệt thực -

những chòm sao áy náy. AI LAU MUÔN MẮT LỆ

TOÀN CẦU ?

ngủ bù một kiếp có là bao ? Sao nào mọc - sao

nào tàn ? vì ai ? Vì gì sao tàn sao mọc?

thời gian đầy túi, con mắt tò mò. Gặp một ngôi sao

tư lự, một ngôi sao khác trầm ngâm. Ngôi sao thứ

ba ảo não.

ừz quả đấtz đắt. Địa cầu lặt vặt. những chí tuyến

lắt nhắt. niềm vui và lạc thú ngặt. ngôi sao sót.

Cột đèn cao gót. ngày ngót. tiếng nói bọt…

SAO CÒN BÀY BIỆN MÃI TRỜI LAM ?

người mộng du dạ khúc buổi chiều. Mỗi thức dậy

buổi sáng, lại bỏ neo ta, ở một bến tầu tờ lịch

khác. thứ năm. chủ nhật. Này, nọ…

Page 406: Tran Dan _ Poem

406

từ một thu không lặng gió. tôi tái sinh trong nước

một tia nhìn. Sống tới hôm nay, bỗng nhớ quê. sực

nhớ. day dứt nhớ bên kia. Nơi chẳng đồng hồ

không số lượng.

Hãy ôm thế giới này, tha thứ cho nó. Hãy thắp

sáng mọi chòm sao cũ ! Cả những vì sao đã tắt lụi

từ lâu.

THUA, SỢ, VẬT NHAU VỚI CON ZÊRÔ ? Đường phố ố mưa, những dấu chân úa. héo hết

tháng tuần. Và lấm kiếp. với riêng tôi, tôi không

chờ gì hết. tôi tội ở ngoài thời mình. Tội tôi.

Chúa thương Ađam cô đơn, liền cho một Eva, để

cô đơn thêm cho đủ liều lượng. Cho nên khóc!

khóc bao nhiêu Juliét, ở bao ban công nước Ý ?

cả một bức tường gió trái. Thằng LEO TRÈO - trèo

qua vai bản thân? vượt qua bóng mình - leo lên

chính đầu mày mà xem sự vật ? khỏi bị chính mình

che khuất mình nhìn.

AI BUỒN. LIỀN BUỒN NGƯỜI KHÁC ? Tết đã đi. Không để địa chỉ lại … nhợt nhạt mùi xoa

… Còn rất ít hoa, rất ít chim ca. tuy vậy nhiều

chiều.

ĐÓNG CỬA GIỮA CHỪNG MỘT CÂU

Page 407: Tran Dan _ Poem

407

từ buổi sa cơ quả đất - dạ tràng mộ dạ đèn chong.

Thi sĩ là gì ? người chết hai tay buông vẫn ằm ặp

đầy sao - người mắt - gió thổi - không tắt - cái

CHẾT một THI NHÂN.

THẾ GIỚI HÔM NAY THỊT RẤT BUỒN tôi kiếp trước tội gì thế nhỉ ? Sao có quê hương thịt

rất buồn … sao có quê hương chán thi sĩ ? Sao có

quê hương bệnh nhất cuồng.

Sao lại cho tôi nhiều Pôpốt thế ? từ Âu Đông qua Á

viễn. Sao lại cho tôi nhiều Pôpốt thế ?

Sao lại cho tôi buồn chí tuyến ? tôi có tội gì kiếp

trước. Sao lại cho tôi buồn Á viễn ?

Sao lại cho tôi quê cháo lú - quên cha quên mẹ -

quên ngày hội - quên chạm ngõ - cưới xin - chôn

cất - tang chồng không để - để tang xô.

VẪN MỘT CÁI GÌ TIÊNG TIẾC KHI RỜI QUẢ ĐẤT Ư ANH ? nhất quê tôi - buồn - nhất hoàn cầu. đất hôm nay

sao buồn bã thế ? Đã quá nửa đêm trong thế kỉ -

mà gà chưa gáy - sang canh. Trằn trọc quê anh

sao vẫn sáng - cái đầu anh vẫn trong veo.

có cái đầu trong veo giữa sử cảnh đục ngàu (nhân

cảnh)

Page 408: Tran Dan _ Poem

408

tôi mười bận chu du vòng quanh thế giới. chẳng

đâu buồn bằng quê tôi. Buồn Sahara còn có ốc

đảo. Buồn Ba Lan có nhạc Vác-sô-va. Buồn Bá-linh

có phố Bá-linh. Buồn Hô-li-út là buồn xi nê. Buồn

Pa-ris buồn sóng mới. Buồn Bắc Kinh bọn Đặng Tử

Bình. Buồn đâu cũng có nguồn buồn. có duyên do

căn cữ. Thế giới buồn. đã nửa đêm rồi trong thế kỉ.

đó đây gà gáy điểm sang canh. Buồn ở quê tôi gà

chẳng gáy. canh hồ vĩnh viễn chẳng sang canh ...

Buồn chẳng buồn năm buồn tháng. Buồn luôn cả

nước một buồn đời.

ai đã phát động buồn này không buồn cơn buồn

cữ. Buồn đời ông qua đời cháu buồn dài.

Chán không đến từ ông A bà Z - từ tất tất chẳng

trừ ai - không tha dù bông hoa. Sợi cỏ.

ngồi buồn phóng bút thơ chơi. Tôi đã đi quanh thế

giới. Buồn ơi nhân cảnh thế gian này.

Buồn gạo. Buồn không hào / nhiều hào - buồn hết

mơ. Buồn NêPi. Buồn tháng 5. Buồn năm qua

Marin Bad. Buồn quần đảo Goulag. Buồn - chào

buồn ! Buồn không tưởng vì nhất định thắng. Buồn

bọt ngày. Buồn vuông đen. Buồn cửa sổ cổng kính

- Hồng Sạch lịch. Buồn giá cả - vọt- mũi tên - ra

chợ - ngẩn ngơ. 10đ - 20đ - như người mất cắp.

Buồn bobo - mì ba que - mì sắn - cả tháng này -

mới được đong một cân gạo đầu người. buồn phiếu

thịt - đường - tiêu chuẩn - mì chính - xà phòng à

quí hộ năm người / một bánh.

Page 409: Tran Dan _ Poem

409

đừng kể ba sáu môd buồn. Buồn tóc dài. Buồn loe.

Buồn loét. Buồn rách. cả nhà lộn - ngược - Bikini.

Cái sống cầm hơn chứ không buồn đến. người đi

kẻ ở khôn xong. mắc kẹt khắp phía: ở / đi. chết /

sống. Làm / không làm. Nhận / từ chối. Chịu / bất

phục. Nói / im. thuần những lưỡng nan khôn giải.

đói - trị chưa từng. một cái buồn (ngàn năm có

một)

Ối trại tập trung thế giới. Nhà. Phố. Trường.

Xưởng. Cơ quan. Dây thép gai khắp. Trại khắp. Cả

vườn hoa. Rạp. Quán trà. Hiệu ăn. Ngày hội. Trại

và liên-trại. Lúc nhúc. tôi khó ở thế jới. Mìn đâu.

Đám cháy. Cháy. ai cho mồi lửa trại này. Ai dập

tắt cho ta đám cháy thế giới. văn minh cháy. Tình.

Bạn. Người yêu. Người thân. Cháy tuốt. Hằng hà

cứu hỏa khôn xong. nhu cầu trẻ già. choai lồng lộn

xã hội. Cho nên chi. BỤI NHÀ.

con BỤI NHÀ. Thằng. Ông. Thậm ông già bụi nhà.

Không ai còn có chez soi. Thế nào. Thế nào. không

ai còn ở nhà. ai cũng lang thang. con bò hem. Cho

nên chi BỤI NHÀ.

thế giới vắng tanh. Ai hữu trách trại thế này. hoãn

càn dây thép gai. Những nhà nước cai ngục. quan

chức ngục tối - ông quản trại ơi. ta thương ông

lắm. Ông còn khổ quá tù nhân.

AI XUẤT BẢN NHIỀU ĐÊM THẾ NHỈ ?

Page 410: Tran Dan _ Poem

410

Mi mắt lam lơ

tôi mượn. tôi vay đôi môi tươi. đôi tay ngà. vai hở.

Tất của em phải vào cả thơ tôi. kỉ niệm không

cùng.

Đừng khóc em ơi lệ cay đắng lắm. Tôi muốn bể bơi

cung nữ tắm truồng ngày. Ôi những trẻ năm ngày

trẻ tháng.

BAO TIẾNG SỚM ĐÃ NGHE

la courbettérature-littérature à courbette. văn

chương lom khom. bao niên dạ lữ địa zư người.

mắt kuồi kuồi. chữ ruồi. Bộ hành canh cửi phía.

cho tôi về dưới TÍA. cả ngày trong bóng xế. Cho tôi

về quá Mễ. tào lao giấc TRẮNG phèo phèo.

những phân tử chỉ sống một phần giây - ấy - vĩnh

cửu.

không vĩnh cửu mọi phù du sử ắt thành không-

nghĩa-non sens.

tôi sử hiện làm gì. để thương khó cho ai. Sao lại

cho tôi nhiều xương sống thế ? trước QUYỀN không

biết lom khom ?

tôi mở một con đường-không-dẫn-đến-đâu-hết. tôi

đạt tới một lục địa không người. một tinh cầu tắt.

một thế giới chết. một nghĩa trang tầm cỡ thiên

hà. một hành tinh vắng. tôi đậu tàu ở ông sao

chổi. ở tua rua em xõa tóc cây du. tôi đạt tới một

tuyền đài đã đổi địa chỉ. một chân trời đã hóa bình

sa. Một căn gác hạt đèn chong đã lụi.

Page 411: Tran Dan _ Poem

411

LỜI LÀ KHÔNG-LỜI. THƠ-KHÔNG-LỜI

RẤT CÓ LỜI. ĐÔI KHI NHIỀU …

vào một miền mưa mãi mãi. Mưa xóa địa zư ngày.

Mây ám địa zư trời. Mắt trắng địa zư đời. địa đồ

trôi. Trôi-trôi.

Anh biết tại sao chưa ? mãi mãi địa zư mưa. Tuần

tua rua lấm địa zư mùa. Tiếng trắng khua khua.

màn tuyn mưa tối thứ bảy. địa zư cháy. mi lơ chờ

phố tối. Kỉ hà quen.

LẠI MỘT MÙA THU TIẾNG TRẮNG

tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển. trang bùi bụi bao

trang … trang từ hậu động đất tâm thần. Trang

giấy trắng quá. TRẮNG quá. Đến nước chỉ có SỮA

mới ĐEN hơn.

Cây bàng thổ huyết một chậu đỏ lá … Phố bàng ho

xù xụ heo may. Không gió. không mưa. không bụi.

Trời tôi lam. LAM đến lạ lùng ĐEN.

con Trắng. TRẮNG đến nỗi chỉ máu mới ĐỎ hơn. Jó

vẫn chưa về hở chị ?

Con trắng bước đi trắng. TRẮNG đến nỗi chỉ bóng

nó mới TÍM hơn. Thời điểm nỏ hanh khô - đốt cả

một chân trời chỉ với một que diêm.

VIẾT. MỘT CÁCH CHẾT TẬN HƯỞNG

Page 412: Tran Dan _ Poem

412

Ông mơ thao láo mắt trời thao láo sao. Thành fố

thao láo đèn. Cột đèn mù. hiệu thuốc. ngã tư.

Nghìn niên trước tôi qua đây. nghìn sau dầu qua

nữa. Vẫn ngã tư. hiệu thuốc. cột đèn mù.

không gió. không-đổi-thay. Địa lý bầy nhầy.

AI ĐI. VỀ LẶNG TRẮNG ?

54 kilômét hoa niên. 54 kilômét jó … tôi jó đàng xa

quá mọi tuổi già. vượt mọi tù giam tất khoảng

cách. jó chuyên vượt ngục. Mọi biên thùy.

trời Bình Định lam màu Bình Định. Để gió về hôm

sớm tím lam hơn. Nhớ nhà. nhớ quê. Còn nhớ nhất

bên-kia.

tôi đứng tuổi mà không đứng jó. vô phúc tâm hồn

nào đứng jó. Mô mi ướp xác còn gì.

JÓ BAO GIỜ CŨNG NHỚ ĐẰNG-XA đàng xa của đàng xa. ai biết lược thao của gió.

Bao giờ cũng tới được đàng xa.

Sao tôi nặng nợ nhỉ ? đôi mắt gió-thổi-không-tắt.

Sao lắm mắt-gió-thổi-không-tắt.

Con số nào lạnh ? buốt tuyết fàm trần ? Con số

nào im hơn thóc ? im hơn im lặng ? - Cho tôi ?

tôi muốn thắp 1 vùng sao vô ích. Vô công. Vô

dụng. Vô cầu. tôi thắp một vùng sao vô số. Vô

Page 413: Tran Dan _ Poem

413

tâm. vô vị. Vô sinh. tôi thắp một vùng sao vô tội.

Vô đầu. Vô cuối. Vô danh. tôi thắp một trời sao vô

độ. Vô tư. Vô tử. Vô từ. tôi thắp một trời sao vô

sự. Vô sư. Vô sách. Vô bờ. tôi thắp một trời sao vô

bổ. Vô màu vô tính vô mùi. Vô xứ. Vô quê. Vô sở

cứ. tôi thắp một trời sao không ích. Không năm

không tháng. Không ngày. tôi thắp một trời sao

không sáng . không xanh. Không long lanh. tôi

thắp một tròi sao không kí ức, không quê không

nhớ. Chợt không lời. Ai thắp trời sao vô dụng ấy.

Không câu. cú. Chẳng từ hoa. tôi thắp dòng sao

không tận. Không đầu không cuối. Chỉ là sao.

Không công. Công khống. Ai thắp trời sao nhao

nhác ấy. Không ca không nhạc. tôi thắp dòng sao

không xôn xao. Không Lào Việt. Không thấp cao.

Chỉ

là sao. Ai thắp trời sao vô lối. Vô hàng vô trật tự.

Vô phương. tôi thắp dòng sao không cú pháp.

không can không phảy. chỉ là sao. Ai thắp trời sao

ngôi thứ Khổng. Vô ngiã. Vô minh. Vô já. tôi thắp

ngôi sao áy-náy. không tên. không muốn. Không

thèm. Ai thắp trời sao ngôn ngữ nhà nước. 1 chiều.

1 ngiã. 1 ngu si. Tôi thắp ông sao loe 79 fía. 79

bề. 79 ngiã.

Bụi nổi. Mây qua. Nơi nào bao jờ cũng là bây jờ.

Anh nặng tình mây nước thế ?

NỤ CƯỜI VÔ ÍCH. NỤ CƯỜI MÙ

THỞ FÀO SÔNG NÚI ĐI ANH !

Page 414: Tran Dan _ Poem

414

1980 1981

Sổ bụi

Page 415: Tran Dan _ Poem

415

TÔI MẤT ĐịA CHỈ TÔI. THƯ ĐI CHẲNG TỚI sinh tôi làm gì / tôi không hợp grammaire nào cả /

sinh tôi đã có grammaire cho tất cả / ắt là không

zuýt cho tôi / tôi không thích mọi grammaire quần

đùi may sẵn / ví dụ một ngày tôi lại đọc là /

KHÔNG / ai cũng có ngày / ngày của mình / tôi

không có ngày nào hết ? / bất công này. Tôi kiện

ai đây / không ai sử kiện cho ai / tất cả đều muốn

đi kiện mà / không quan tòa. không luật. Cũng

không pháp đình.

tôi sống ? hay tôi trôi ? không ai trả lời tôi cả. Mọi

người đều bận ngiệp lăn trôi.

tôi không hợp mọi cái gì đã. Mà sinh tôi đã quả cầu

rồi.

tôi hết chịu nổi những con động vật kinh tế. chính

trị-kinh tế. động vật người mới người hùng - người

côsmic. Làm người - lại không muốn làm người.

Cho nên tôi chọn Tư Mã.

TÔI TRÔI VÀO VỰK NGỰK tôi đã chọn 1 số mệnh không thường. Thế đấy

những việc trần tôi làm. thế đấy. Bây jờ xét xử tôi

đi.

trời đất đã chia cho tôi 1 ngiệt mệnh không

thường. Tôi đã chọn tự zo thế đấy hồi ở quả đất.

Bây jờ ngiêm xử tôi đi. tôi đã xong việc ở quả đất

thế đấy. Thế đấy. Bây jờ fán xử tôi đi. tôi xong fận

Page 416: Tran Dan _ Poem

416

sự ở quả đất ... thế đấy. Thế. bây jờ án xử. Quyết

án tôi đi.

TÔI KHÔNG IÊN ỔN VỚI TÔI. MAY MẮN QUÁ

họ hôm nay chơi tôi 1 lít đắng. 7 kilô cay. 10 mặt

trời rù. 100 hành tinh chết. tôi không trả thù lại họ

1 câu thơ ? Tôi không đăm chiêu hạnh fúc.

Hạnh fúc cần chi nhiều thứk ? 1 tí rêu. 1 hạt cát sa

mạc. Không gì vẫn bát ngát khát khao - vẫn xạc

xào thơ - vẫn kì cạch chữ.

tôi ngồi đâu, đấy canh sáu. Chạy dài một vệt

désert.

hãy chi viện cho tôi thương xót đủ. Đủ bi tâm đi

nốt nẻo ngày tà. khi khắp thế sống nhai nhau.

Thằng thơ nhai nhá chữ.

có những bình minh mọc ở tà huân. Một bình minh

buồn dậy giữa chiều hôm. Một nỗi buồn ngàn năm

có một. Hôm nay chuyển tù tôi qua ngày nào.

tuần. Niên hiệu ?

TRỜI CUỐI THU RỒI RÉT Ở ĐÂU ? anh cứ mó thử một dấu phảy văn phạm xã hội.

Vuốt râu hùm xám còn đỡ nguy hơn.

Thơ là ngày TẾT-CỦA LÒNG. Vận động hằng

Page 417: Tran Dan _ Poem

417

xuyên, người ta nói. chấn động hằng xuyên tôi nói.

cách nói khô cây vàng lá. Đổ thành. nát núi sông.

tôi đã nói úa địa lí ấy. Bây jờ sám hối sao đây.

TÔI VẪN VIẾT CÁI GÌ TÔI CHẲNG-BIẾT để để- để. Để làm gì ôi vần zương cômic nhặng xị

múa lửa. 3 bụi 5 bụi jữa sáng láng hắng hà thiên

hà lai láng hằng hà nhật nguyệt?

để làm jì bản mật mã trời sao tự vô thuỷ á-y-n-á-y

zạ khúc via đời đời tới vô chung vẫn á-y-n-á-y ?

Để.

để làm jì mày vàn cẩu gà bới bếp tro trời xám xì

xám xỉn ? để làm jì jó trằn trọc lá hàng cây bù xù tóc bóng

tối ? Để làm jì chấm nhạn zặn zô màu quan san

nơi đầu xứ Lạng ?

để làm jì thế ? Sống ? chết ? 3 xa xỉ ăn - làm tình -

xa xỉ chết ? để làm jì khi tất cả 1/3 ?

để làm jì. Hãy thôi đi những để ? Thế nào ? những

nguyên lí dầu tiền. Nhất tiên. trước tiên đầu tiên -

zự tiên - zẫn tiên - thanh tiên xuôi nhĩ mọi nhà.

Để làm jì nhi nha nhi nhúc bạc tỉ tiền vụn những

để để

để lặt vặt khi cái ĐỂ lớn lại khoá miệng bịt mồm.

Súng không kêu xịt. Xoá.

Page 418: Tran Dan _ Poem

418

AI CŨNG CÓ NHỮNG GÌ AI AI ĐỀU CÓ

ai cũng có lúc ngọt lúc bùi / riêng tôi không có.

Cả ngày cả chén đắng mà thôi.

Ở đây miếng za lừa ngày ngày teo nhỏ mãi.

Mọi người cũng teo theo. nhỏ bé lại. Teo theo.

TÔI Ở ĐÂY… TÔI ĐANG Ở CẢ ĐẰNG KIA. TRÊN

KIA. DƯỚI NỌ … TÔI Ở MỌI CHỖ NÀO CÓ

MỘT ẢI ĐẦU THƠ.

HAI MẮT ĐEN NGÀN LỆ NHÉ … TÔI VẪN

THÕNG TAY TRONG CHỢ BỤI ĐÔNG NGƯỜI …

Page 419: Tran Dan _ Poem

419

12 THÁNG NĂM THứ TƯ, 19 THÁNG TƯ NHÂM

TUẤT. 6 giờ tối Tử Fác đi ... đời lìa, con biệt, ô hô.

Ổi khóc.

và LÊNH ĐÊNH vẫn nhớ QUAY TƠ. Bọn bạn khóc.

(Trần dần. Lê đạt . Hoàng cầm. Trúc lâm. Đoàn

trúc zù vắng, từ viện E khóc ra. Zương tường. Vv)

13 nhập quan 8 jờ sáng 14 Văn điển.

Thôi thế, hãy ngủ yên. Tư Mã ... hẹn hò ... một fố

bên kir ...

Cỗ xe tang ... chấn thương hữu và vô hình.

Thương tích hình chìm một cỗ xe tang. Xe tang.

Thương tích. Hình chìm.

Sống nghẹn tiếng. En sourdine hơn năm ... bật oà.

đi ... toàn tấu. Tutti-tutô

BAO JỜ TẤT CẢ QUÊN ANH ?

Page 420: Tran Dan _ Poem

420

Page 421: Tran Dan _ Poem

421

1982 Sổ bụi

Page 422: Tran Dan _ Poem

422

TÔI KHÔNG BAO GIỜ HÚ VỚI CHÓ SÓI … CHỈ

MỘT TỘI NÀY HỌ CHẲNG THỂ THA TÔI.

tôi ghê sợ những anh ăn no ngủ kĩ quả đất. tôi còn

trẻ. tôi còn thao láo. Hão quá canh sáu … des

chimères au delà de la 6e veille. Cứ chia cho tôi

những con Hão nào đau đáu nhất cả / 5 canh -

match Hão cuối kỉ.

tôi còn trẻ tôi còn đi với ma quỉ. Cứ chia cho tôi

những ma quỉ nào hung dữ nhất năm canh.

tôi thích những đàn ông vẫn cả đôi vai, cả đời

mình, gánh vác một ý kiến, một giấc mơ.

tôi muốn những gì tôi chẳng muốn … chỉ / là thay

đổi / khói - ch-iêm b-a-o …

tôi thở dài 7000 năm - thoắt đã sắp 2000 / không

lý vĩnh viễn cứ người mãi?

TÔI ĐÃ NHƯ THẾ NHIỆM KÌ QUẢ ĐẤT.

TẤT CẢ BÂY GIỜ XÉT XỬ TÔI ĐI…

ai giữ thìa khóa bên kia ? ngân hàng tôi ai quản

lý ? tôi kí séc thế nào ? ai xuất tiền mặt cho tôi ?

tắt đi thôi những vì sao không đủ tuệ năng thức

thấu sáng. Những vì sao 5 buji 2-3 buji … những vì

sao bất xứng. Đừng cứ long lanh mà đã tưởng là

sao ?

Page 423: Tran Dan _ Poem

423

đừng tha thứ cho tôi nếu một chiều nào yếu đuối.

Tôi tắt tôi đi trong dàn nhạc áy n-áy các vì sao.

đừng ái mộ tôi vội vàng khi chưa thấu sáng.

KHÔNG AI ĐƯA ĐÁM

VÌ SAO TẮT ? anh có dám cả đôi vai, cả cuộc đời, gánh vác một

ý kiến, một câu thơ ? một đề xuất chân mây ?

mỗi khi trở án Phù đồ - người ta lại nhắc tới người

chơi thua … Phù đề tám vạn trò chơi - người ta vẫn

nhắc tới người-chơi-thua …

ngồi buồn kể mọi trò chơi - kể ngang kể dọc kể

người chơi thua …

chấp bảy cái thời. Ván cờ thua vẫn được hoài năm

canh ? được ván cờ thua … thu hoạch bụi hồng ?

một giấc chiêm bao … một giấc / đời … đốt cả một

đống mặt trời - không đủ sưởi một chiều lạnh chăn

trâu bờ Ngân hà … chẳng bằng một đống lá, vẫn.

Ư nụ cười rêu ngủ đá ngõ bàn chân úa năm xưa

Page 424: Tran Dan _ Poem

424

đầu ngõ

một vì sao lạ

Sao ấy ra đi

trước khi gà gáy sáng

Có người lẳng lặng

ai biết trên kia trong khuya

sửa soạn va li ?

Nhân Loại - tôi không chơi với các anh nữa … VÁN

NÀO ANH CŨNG ĂN GIAN … ? các người và

người …

LO QUÁ … PHẢI LÊN THIÊN ĐƯỜNG …

MỘT MÌNH … / HẾT SỨC MỘT MÌNH.

tôi đau. Tôi lại đau rồi - anh biết không ? tôi há

phải Prométhéo để mãi mãi các anh nhai gan mình

thánh ? tôi có một cái đầu - không phải để đeo gai

- một cơ thể không thắt lưng buộc bụng - một đời

đâu chịu - chỉ hi sanh ? / tôi không hi sanh cho

mầy.

nhưng đau - đau - tôi lại đau rồi. Zương thế biết

không ? nhưng nói để làm gì ? tôi chỉ biết đau

thôi ?

NGƯỜI TA JEO MÌNH VÀO HƯ VÔ … anh tìm một nghĩa Quyên Sinh. Một nghĩa cho anh.

âm/zương … tùi … có đều nghĩa ấy TỰ anh. ZO.

khớp hợp ngôi anh ?

Page 425: Tran Dan _ Poem

425

Camus nói để bàn … bao trong đó-lo lắng-trì hoãn

-bất quyết … để một hôm Camus lái ô tô đi …

không về …

phân vân hậu duệ … biết đâu Camus như con

Stoique - không thích một Quyên Sinh quảng cáo -

tai tiếng … bằng một Quyên Sinh thầm lặng-kín

đáo-túc dĩ tận vi độ hơn.

hai mươi năm sau Camus trở về … đọc vài giọt

nước mắt Tư Mã khóc mình. Nghĩ gì. Nếu không

phải dứt khoát Quyên Sinh lần nữa. lần này dứt

khoát hẳn. chót lọt. không về hẳn. Không bao giờ

về.

CHỖ NÀO TƯ MÃ CŨNG BƠ VƠ… RỒI MỘT HÔM - LỖ CHỖ GIÓ -

BUỔI CHIỀU NHƯ MỘT

CHƯƠNG TRÌNH - ĐỤC LỖ …

/NHÀ MỒ TƯ MÃ CƯ TANG

người sau ĐAU ngoái về muôn trước …

khó coi vẫn một trò người ... tôi vắng tôi hầu cả

ngày. Đôi lát jây ni tờ bụi mình - gặp - mình không

muốn nói năng chi.

tôi tới một chiều nhiều. Đã cuối kỉ hoang liêu. Đã

văn minh lộn lèo. tôi khóc cơn mưa nhiều. Khóc cả

kỉ hoang l-iêu.

Page 426: Tran Dan _ Poem

426

TÔI CHƯA MUỐN KHƯỚC TỪ JẤC TRẺ tôi không động vật zễ zàng quị luỵ xin tí tuổi thọ.

Tí bằng an. Tí thú vui trần tục fố. tôi không ăn ghẹ

thế jới. tôi chỉ biết trò áy náy 5 canh. Nụ cười

nham nhở nhà nước.

tôi sống zẫu bên kia 2000 ... / vẫn kì cạch tác ngiã

... thở dài động vật tượng trưng thôi.

NGU SI MI NGỠ TÔI CHẲNG LÀ TA ?

NGU MÊ MI NGỠ TA LÀ TÔI ?

NGU SI MI NGỠ TA LÀ TÔI...?

NGU ÔI MI NGỠ TÔI CHẲNG LÀ TA...?

vùng mù gảy khúc zạ mù ... tì bà mù ... những

tiến đờn rrù ...

những đoàn thám cực muốn jì ? đã có 1 người qua

đây ... không rõ quê hương. Tuổi. Kuốc tịch ...

ngay dấu chân in tuyết chẳng còn. Lán lều ... củi

sưởi trong hang ... hòn đá đầu rau ... khuy đồng

áo nỉ ...

“Đã có một người qua đây”... tự 300 kỉ cũ ... cần jì

người ấy fải là - anh?

Sao không CẦN người ấy fải là tôi ? tôi có mặc cảm dạ tràng- huyền ức Icar ... kí ức

bắn mặt trời từ muội thuỷ ... bến cũng có canh gà.

Hộp đêm ... đèn đỏ đèn xanh đêm nào cũng dạ hội

... tiệc nhỏ ngày ngày. Tiệc vừa 3. tiệc lớn 5 ...

ngày ... tôi không thiết yến hội tù ... hoa đăng nô

sĩ ...

Page 427: Tran Dan _ Poem

427

ĐÊM ĐẾN NHƯ TỪ TẬN THẾ ngọc nữ nô tù - ngọc nữ làm chi ? tởm những nhân

loại cờ - hoa - đèn - biển

tôi yêu

nhân loại đèn mồ.

tôi sâu xấu hổ tự ngìn tiềm thức ...

đen

tim.

ĐÊM XUỐNG QUÁ DƯỚI RỐN.

CHIẾC YẾM SLIP ẤY. tất cả hãy như là tất cả ? đào thêm cái ngiã làm jì?

MỌI JÁ TRỊ ĐỀU SẶC MÙI QUẢ ĐẤT.

VIẾT

VIẾT NHƯ XÓA NGAY CÁI MÌNH VỪA ĐƯA RA. Viết thế nào mà từ xóa từ. mệnh đề xóa nhau. câu

bác câu. nghĩa phân văn … lưỡng nghĩa đè lưỡng

nghĩa … ám nghi nghĩa. Tối nghĩa. « phạm không

nghĩa ».

Ở anh, 1 một bỏ hết dấu diễn từ đi đôi một nhân

thêm dấu? Vô cảm cũng là một cảm ... mĩ cảm

người ta lầm. Rơi vào nghĩa đen của nó, và thấp?

Mĩ cảm díc nó. Cứu cánh và bản thể ... chỉ gỏn gọn

Trạng Thái Thứ 3.

Page 428: Tran Dan _ Poem

428

HIỆN THỰC vốn 3 tầng. Thực + Tưởng tượng +

Tượng trưng. Để tẽn tò bọn ngây ngô zuy thực tội

nghiệp đẻ từ 1 ngiã duy vật ngây thơ.

tôi hiện thực ở tầng 3 vừa ở cả 3 tầng. Không loại

trừ những tầng khác. khôn kiểm soát. bao jờ cũng

có. Zù ở chính xác toán ...

thi pháp BÀI THƠ. Tôi muốn đoạn tuyệt. Ngiêng về

thi pháp CÂU THƠ - cửa sổ hé vào vĩnh viễn: nồi

kê ban ngày.

VỊNH CAM RANH EM ĐÂY NÀY. CHO MÀ THÈM.

Page 429: Tran Dan _ Poem

429

1983 1984

Vở bụi

Page 430: Tran Dan _ Poem

430

LỜI LANG THANG

NGHĨA TRANG - TRANG

việc phi thường chờ người phi thường ? có NHÀ

THƠ mới có THƠ ?

AI ĐÁNH CẮP TỰ DO ANH ? - người khác ! ANH CÓ ĐÁNH CẮP TỰ DO NGƯỜI KHÁC

KHÔNG ? anh mơ cái gì anh làm được ? anh là NON-POET.

Poète bao giờ cũng MƠ trên sức người - ngoài khả

năng người - vượt điều kiện người ?

lơ mơ - LẤY CHẾT - làm - thày

kể từ anh MẤT thơ ngây …

HIỆN THỰC là một HƯ CẤU từ đầu chí cuối - từ dưới lên đầu ?

viết theo « quan niệm », tâm niệm, hay « hiện

thực » cực tốt. Vì hiện thực giờ ta biết - chính là

một quan niệm - tâm niệm địa đồ ta ? ngược lại

không đúng hẳn quan niệm chắc lẽ là hiện thực

của một bộ lạc ? (con bướu đà kia không có ? hiện

thực đói rách kia thất thiệt ?)

VÙNG MÙ … VÙNG TỔ CỦA VÙNG THƠ tóm lấy tu từ vặn ngoéo cổ ? viết như khạc nhổ

mọi tu từ … mọi iếu tố cổ lai tự thị cấu thành thơ …

Page 431: Tran Dan _ Poem

431

đò đời đầy những khó khăn tim ... không sống nổi

nữa ư thơ ? Không nhiệt độ khù khờ ?

trần trừ. Ừ ? Thế giới thu không ... Ôi những ngày

zài hơn 7 độ ... hờ ngủ. Nụ cười rêu.

mặt ? Buổi chiều ...

ngủ

nụ cười rêu ?

AI ĐEM GIẤU VÀNG TRONG GIÓ THU ? xé. xổ. gai. xô. Tôi thắp mộ đèn mồ. để làm chi ?

cho đi quả tim - nhiều này ? E không chó nào

muốn nhá ?

VẪN CÒN ƯỚT LẮM ANH ƠI

những tội tình người ta gieo vô ý ? ai rắc nhiều sao

thế nhỉ ? hằng hà chấm mã li ti chong vạn thế làm

gì ? ai rắc nhiều sao vô ích thế ? đêm không sao

im ỉm - im ỉm - BÊN KIA tắt hết đèn đi ngủ ? chẳng

để sao nào chong thế gian ?

trời chiều ai thắp chân mây … những con lầm thầm

vở bụi ? bao giờ âm tuệ lên ngôi ?

Thời ? không phải cái gì lỗi thời đều để vứt tuốt ?

chân lí là một lỗi thời không buông tha nhân thế ?

lấy gì nuôi. Rau cháo … chiêm bao ?

Hiểu - còn sống tôi chẳng hiểu. Mù gì hết ? cho

đến khi bừng hiểu tất … trong mồ ?

Page 432: Tran Dan _ Poem

432

NGÁN CHO NHỮNG VÁN ĐÀN ÔNG . KHÔNG

HƠN NHỮNG KIẾP ANH HÙNG - LOM KHOM ?

ĐỪNG HÁT ? NGÀY MAI ÔI - ĐỪNG HÁT

Page 433: Tran Dan _ Poem

433

1985

Sổ bụi Vở bụi

Page 434: Tran Dan _ Poem

434

BÊN KIA ? AI RỒI CŨNG ĐẾN ?

BÊN NÀY ? AI RỒI CŨNG QUA ? có một Bên Kia ? không mấy khách trần lui tới.

Viết như một tương tư tầm cao. tương tư Bên Kia ?

vừa thải bã tất cả mọi nghĩa lí bã thải trần hạ bên

này.

Kẻ viết ? đạp đổ chân trời ? xổng xích các chân mây ?

Kẻ viết cầm chắc âm dương trong tay ? không vui

không buồn ? ngoài mọi nghĩa ? bên kia bảy tục

cảm ? Mĩ ? Nộ ? Ai ? Lạc ? Ái ? Ố ? Dục ?

Kẻ viết rung ở một địa đồ ma xó ? Tuệ cảm ? Tuệ tâm ? Tuệ ác ?

Kẻ viết cốt ở tào lao man rợ ? không cốt tùy thời cúi ngửa ?

Kẻ viết bất biết thị phi chê-khen ? thị phi hiểu ?

mọi thị phi công ty không nhìn nghe … ?

ĐỪNG VIẾT CÁI GÌ KHÔNG RƠM RỚM BÊN

KIA ? KHÔNG NGẠC NHIÊN CHÍNH MÌNH ?

Page 435: Tran Dan _ Poem

435

ANH CÓ LẼ SINH LẦM ĐỊA CHỈ ? MẶT TRỜI

HẤP HÁY MẮT CHÂN MÂY NHƯ THẰNG ĂN CẮP.

MUỐN KHUA MỘT MẺ TRƯỚC KHI CHUỒN ?

Ôi những những mặt trời Nam Á ấy ? nơi đầy lường

đảo chỗ gian manh. Ôi những nhân gian đã xế

chiều ? làm gì trong chạng vạng Á Nam đây ?

sinh ra tôi … chuyên đề thất vọng mọi người ? gọi

là mặt trời ? những đèn pin bỏ túi. Những lập lòe

đom đóm ma chơi ?

rồi ra tôi sẽ buồn như Núi ? lặng lẽ như Ngày … đau đáu như Mây ?

tôi không thích mọi nghèo hèn an phận … hãy biết

xã. xử. Nhà nước thường cướp không của mọi

người cả đến trăng thanh gió mát.

tôi lại ngủ như ngày mới đẻ? khi còn đỏ hỏn chân

mây? tôi lại ngủ như ngày mới đẻ?

GI Gỉ GÌ GÌ ĐỀU LÁ NHO CHE

Page 436: Tran Dan _ Poem

436

Thế giới ? nơi con Chữ lẩm bẩm - buổi chiều lẩm

bẩm ? nơi Tư Mã lẩm cẩm ?

tôi chẳng thích những bàn tay nóng ruột. Nếu anh

phải hạch toán với thiên địa mọi khoản điện nước ?

ánh nhật nguyệt … sáng sao giữa vàn ơn ích

khác ? anh vỡ nợ ngay từ khi mới nghĩ đến ? sổ

sách nhà trời không hạch toán ? tỉ năm ròng …

thiên địa vẫn cho không ? kinh tế vũ trụ như

Potlach … há chẳng là một mô hình người khôn noi

theo ? tính toán người muốn công bình ? tính toán

trời muốn cho không ? đến độ mua không cả

những thiên đường vô ích ?

trời đang đau bão nghìn tia chớp ? xanh chẳng

buồn xanh.

thắm chẳng hồng ?

chỉ nhá nhem màu bủng chủng ?

màu vàng lụi chủng ? CỘT ĐÈN CHÂN NẪU

KHÔNG ĐI ? sáng tác tập thể đều để vứt đi ? dù

bàn tròn ? dù ngẫu nhiên hay cố í ? dù cỡ ? dù

chơi ? không đủ cả chuẩn tào lao ?

ĐỂ TƯ MÃ KHÔNG BAO GIỜ

TRẦN HẠ THẾ NữA ?

ĐỪNG TỚI KHE XIM TÌM LÁ TÍM ? ĐÃ LÂU

KHÔNG CÓ VÀNH TRĂNG MÍM ? KHÔNG CÒN

HOA TÍM Ở THUNG XIM …

kể từ Tư Mã tìm chim … thung xim mím lá đòi phen

đi về ?

Page 437: Tran Dan _ Poem

437

ngoài kia - hai tiếng ngoài kia ? … nghe như một

adieu tập thể ? ngoài kia phong nguyệt mà không

thiết ? cô đơn một ngọn đèn mồ ? đâu phải một

thằng khổ hạnh ? chỉ là không hợp cảnh thôi

chăng ? tôi tới bên bờ nhi nhĩ thuận ? bên bờ tận

thế rồi ư ? - ngoài kia cho dù tận thế thật ? - vẫn

còn hoàng hôn chênh chếch ánh tà ? - tôi chẳng có

tai nghe Bô-đơ-le. Chạy ! chạy ! tối rồi ? chạy

nhanh ? ít nhất vớt một ánh tà huân ? tôi không có

đến cả í ấy ? sao lại vớt ? với ít nhất một tà huân

… muộn rồi ? tối rồi ? chạy tới chân mây ? ba chân

bốn cẳng chạy ? để vớt ít cũng là một ánh tà

huân ?

tắt thở … tay ăm ắp đầy sao ? người ấy không

chết ?

… xác quàn ở tha ma Ngân Hà ? con mắt vẫn

chong mạt kỉ … anh chẳng tưởng tượng được gì

đau đớn hơn ư ?

tôi nếu chết đã chết từ ấy ? bây giờ chỉ sống quàn

thôi ? mắt dài như phố cổ Hoè Nhai ?

MẮT DÀI NHƯ PHỐ VẮNG ?

thà thắp một tia đom đóm ? còn hơn ngồi thở dài -

khan.

KIẾP NÀY QUA KẼ TAY ? … NGÀY NGÀY QUA KẼ

TAY ?

SAO ANH KHÔNG THỞ DÀI ? KIẾP NÀY QUA KẼ

TAY ?

Page 438: Tran Dan _ Poem

438

thức khuya mới biết đêm ngắn ? kẻ ngỡ đêm dài là

chửa thức khuya ? tuổi 60 rồi ? không viết nổi một

câu thơ ?

không lẽ anh cô quả thế ? - Chỉ là cô quả của thơ

ca ? đi … ở … ? nhẹ nhàng không ? không gì thân

thiết nữa ?

muộn quá rồi ư ? dù muộn quá ? dù muốn thua

thêm ván cuối ? dù chẳng còn ván cuối để mà

thua ?

bại ? bại ? đại bại ? anh sáu mươi rồi chẳng có

quê ? càng là lí do anh đốt quê ác liệt hơn ?

không chơi với BỌN KHÔNG QUÊ - vẫn

ăn - ngủ … tam đa ?

người ? CON KHOANH TAY ? con tất tả -

dạ tràng ? thà là con phó thác ?

chúng sinh mù ? dưới mồ ? ... mới thao

láo mắt nhìn ra ?

không thấy chân trời chỉ thấy chân chim. Đâu phải

chim nhiều che khuất cả chân mây ?

chưa đến buổi chiều khẩn cấp gió ?

- GIÓ CẢ TUẦN CHAY? … HỌ NÓI « LẦN NÀY …

CHÚNG TÔI KHÁ »

vẫn những chiều tàn khao khát gió ?

- NGƯỜI THẾ, LÀM SAO CHẾT NỔI ? TIM

CHIỀU KHAO KHÁT CHÂN MÂY.

Page 439: Tran Dan _ Poem

439

sao Chổi đêm qua qua đầu phố lạnh. Đã xa cách

600 năm ? … giờ lại một lần xa cách nữa 600

năm ? …

lòng sầu THĂM THẲM ? mộng như chim ? không biết xanh trời Mộng vẫn xanh. Xanh như từ

Khác … thẳm xành xanh ? phải chưng tôi phải

hành tinh Lữ … không biết da trời … Lệ vẫn xanh …

VINH DỰ LỘN NGƯỢC ĐƯỢC ĐÁM ĐÔNG XƯNG TỤNG

Thu í toàn thu rụng ? trả sao cho hết vừng

trăng cũ ? thở dài cho hết tuần thu - muộn.

THU … TIẾNG ẤY THỞ DÀI NHƯ TIẾNG MỌI RA ĐI ?

Page 440: Tran Dan _ Poem

440

1986

Sổ bụi

nói tao biết mày VIẾT thế nào - tao sẽ nói mày SỐNG - CHẾT ra sao.

Page 441: Tran Dan _ Poem

441

TỪ BUỔI TIM ĐAU VÔ KỂ SỐ … chỉ một ngày - chỉ một ngày thôi. Cho tôi được

nghỉ một ngày thế gian.

muộn quá rồi chăng ? bất kì gì cũng muộn. Anh đã

lỡ đời ? không chỉ một đời anh ?

đi kiệt cùng trời mới thấy chân mây ? đi hết đường

mới có đường ? - chưa cạn lí thì chưa có lí - Đi đến

cứu cánh cuối cùng mới có KHÁC ? - khác ở bên

kia mọi lí ? bên kia mọi trời ? - ÔI NHỮNG CÁNH

CHIM SẺ MÀ ĐÒI CHÂN MÂY. Những bay bay

nghĩ nghĩ nhảy nhót nhót của bày chim sẻ ? -

những giá trị chim sẻ cuối kỉ.

một xe thồ những lo lắng trắng ? tất cả đi vào

Tuần Mộng. KHÔNG CÓ GÌ CHỜ Ở MỘT SÂN GA.

qua cát cát bụi đời hiếm lắm. Khó lắm. những ai để

lại một dấu chân - một cung cách ? một dáng

hình ? huống kẻ sĩ ? một cột mốc giữa bình sa ?

một bia kí dù xóa mờ nhiều bão cát ? dù vùi chôn

nhiều bão cát ?

MĨ HỌC ĐÒI HỎI CÁC DẤU DIẾM VÀ THƯỞNG

LỆ NÓ.

ĐẠO LÍ ĐÒI HỎI BIỂU LỘ VÀ TRỪNG PHẠT

DẤU DIẾM.

Page 442: Tran Dan _ Poem

442

1987

Sổ bụi Vở bụi

Page 443: Tran Dan _ Poem

443

TỰ DO LÀ VI PHẠM CHỨ KHÔNG TUÂN THEO TẤT YẾU . chín nẻo đất chật chội trong sáu phương mây.

Chưa vươn vai tôi đã chật chội trần ai ? tôi cộc -

đầu trần trời - ngay khi chưa đứng thẳng.

địa đồ này chẳng phải để cho tôi ? … NHỮNG GÌ TA MẤT ĐI … ĐỀU LÀ ĐÁNG ĐỂ

MẤT - CHÚNG TA MẤT CẢ MỘT THỜI. HÀNG

TRIỆU BÓNG CHIM ĐEN ?

tôi sống ở hai chân trời … một trời hoành đoạt, một

trời sao bay ? không. Hai trời yếm thế - hai trời lạo

thiên ?

tôi rủ tôi đi vào cửa khó

dễ ăn dễ ngủ

siêu lạm phát

động vật dễ dàng …

tôi không lấy hết may mắn của ai cả ? dù là kẻ thù

đắc chí số một của mình ? quân tử ấy - dù thành

thật - có đáng một xu không ?

ở một chân trời thổ tả ? tôi làm nhiệm vụ.

Chiếc lá rụng ? chỉ là theo táp lốc heo may ?

Page 444: Tran Dan _ Poem

444

BẰNG LÒNG SỐNG - BẰNG LÒNG QUẢ ĐẤT?

BẰNG LÒNG LÀM CHIẾC LÁ - HEO MAY.

BẰNG LÒNG CHẾT? KHÔNG BẰNG LÒNG HẾT?

ÔI CHIẾC LÁ VÀNG TRONG BÁT NGÁT CÀN

KHÔN.

lời lang thang - phố? … phố? … tôi đi? … hai mắt -

tù mù.

sậm sột đầu jà ? nge táo rụng ... hai bàn chân úa

mưa sa. Đi đâu? đi đâu ra khỏi TRẦN GIAN – BA

CHIỀU ? một khao khát chiều thứ tư - bát ngát ?

chiều thứ tư khao khát ? điên rồ. Mọi người yên

tâm trong hữu hạn ? mình lại điên rồ thèm khát vô

biên.

một ánh sáng chẳng sáng cũng là đủ cho những tài

năng thật. Từ tôi tới mình ? vạn lí trường chinh ?

mấy ai đi hết lữ trình ? nửa đường rơi rụng sinh

linh? MẶC CẢM TRUNG BÌNH CŨNG GIẾT NGƯỜI

KHÔNG KHÁC NHữNG MẶC CẢM KHÁC ? Hãy có

cái ĐẦU đi ngược BÃO ? một cái tên mãi mãi không

mòn ? quan niệm ngọt ngào Andersen (nâng trứng

hứng hoa tài năng) ngày càng tỏ ra không hiện

thực mặt đất ?

ở đâu nhỉ những người không 37° ? vẫn có người

không 37°… chỉ cần mở mắt mà coi ? - hãy lật lá

nho che … kìa những. Địa đồ không 37°.

Page 445: Tran Dan _ Poem

445

anh hãy cho tôi chỉ những Kỉ Lục … khổ luyện lần

đầu là khổ vặt của riêng anh. Để phản đối những

« phổ cập nâng cao » những « lấy ngắn nuôi dài »

mọi quan điểm « tiện chủ nghĩa » « từ từ chủ

nghĩa ».

ÔI. NHỮNG ỒN ÀO ĐÒI VÀ TRẢ NỢ

NHỮNG ỒN ÀO NGUY HẠI CHO THƠ

ÔI NHỮNG HÀN LÂM DƠ DÁY

CỦA MỘT THỜI DƠ DƠ DÁY DÁY

chán vạn chán chường trên mỗi bước nhân sinh.

Khi mọi con đường đều ô nhiễm nhân gian. Fát

biểu cảm tưởng hồi tuần du quả đất: tôi chẳng fải

thổ dân trần giới.

sống đối với chết như GỬI với VỀ ? như dụng với

thể ? như trị với trì ? như tử số với mẫu số ? như

từng khúc với dòng sông kì cùng ? như những biến

của một bất biến ? như biến tấu và chủ đề ?

mỗi một nấm mồ đánh dấu một ra đi … không một

ra đi nào không trả giá. Chẳng đắt chẳng rẻ. Mỗi

ra đi khều tới một chân trời … khều tới một đau

thương.

AI AI ĐỀU THÍCH BẤT TỬ ? MỖI MÌNH TÔI

KHÔNG THÍCH MÀ THÔI.

Page 446: Tran Dan _ Poem

446

Chân trời & Chân mây (biến tấu)

ĐỐ AI LẤP HỔNG CHÂN MÂY ?

KHÔNG AI CHO ĐƯỢC CHO AI CHÂN TRờI ?

TRẢ ?

trả hết cho các vầng trăng cũ

trả cho thời

trả cho mọi chân mây.

tôi vỡ nợ địa cầu. Vỡ nợ trăng sao ? vỡ nợ chán

vạn chiêm bao. Ngút mắt cò bay xào xạc - những

xớn xác đêm hè. Những ngao ngán xôn xao …

RỤNG

rụng nốt những lá sót ?

không bo bo để đất thêm màu

chỉ để

ngơ ngác sáu - phương – mây.

những giờ phút VẮNG chân mây ? bao nhiêu lấp

hổng không vừa

NHỮNG GIỜ PHÚT… HỔNG CHÂN MÂY.

nhưng tôi há phải hòn đá ? tôi cũng không bằng

lòng dù cả đã vạn zậm trần mây. TỰ DO LÀ VI

PHẠM MỌI CHÂN TRỜI. tôi tội phạm cả trần mây

Á. Cả chân trời Âu ? mọi chân mây Tân Cựu Lục

Địa ?

Page 447: Tran Dan _ Poem

447

Ai bà sản chân trời ấy nhỉ - một chân trời chan

chứa những chân mây.

một cuộc miền du … chẳng đắm thuyền ? vì vậy vô

duyên? … tất cả duyên may ngủ tại miền ? một

nghìn lẻ một phía vô duyên ? - ai người tảo mộ

một chân mây ?

chân mây như chân thân ? - bi minh trâu dẫm nát

bò đi ? ôi eo ôi ? tảo mộ một người ? tảo mộ một

chân mây ? thịt nát xương tan - bò dẫm trâu đi ?

nước chảy chân cầu đâu phải nước hôm xưa ?

Trăm năm bòn bọt sao chiều … SAO CHIỀU NAY sao thắp ngẩn ngơ hơn thường lệ ? ĐÂU LẼ CHỈ VÌ ? mình anh thắp một miền sao. thắp ông sao sớm

đau lòng sao khuya. Sao đã thắp … quên à sao lu ?

- sao lu quên thắp ? sao mờ quên khêu ?

thắp lại một chân trời rành rạch sao sa … tạ lòng

người thắp sao sa. Ôi mưa máu như chưa bao giờ

mưa thế cả ? tạ lòng đôi tiếng khóc tri âm ? tri âm

đôi tiếng … tạ lòng ? ai xui người thắp trời sao ?

đừng cứ long lanh đã vội gọi là sao ? còn phải long

lanh cho không cuối trời ? … còn phải ai áy náy sáu

canh thâu ?

Page 448: Tran Dan _ Poem

448

tảo mộ một nhân thân đâu phải chuyện dễ ?

huống hồ tảo mộ những chân mây ?

hết một chân trời rợp rạp chân mây - lại đến một

chân mây rợp raạp chân trời ?

ở một chân trời tôi mở những chân mây ? ở một

chân mây ? tôi mở những chân trời.

tôi thác thân vào một chân trời am-ám ảnh những

chân mây ? kí thác ? - sột soạt ?

ở một chân trời-chan-chứa-những chân mây? con

sông địa chỉ … Kì Cùng ? … ở một chân trời ngung

ngúc những chân mây? – un horizon des horizons?

Un horizon clign’inquiétude des horizons - một

chân trời ay-áy n’áy những chân mây ?

MỘT CHÚT NGHỀ MƯA … GỬI NGƯỜI CHƯA

GẶP ? MỖI NGÀY - THU DỌN MỘT CHÂN MÂY.

hôm ấy - lã chã sáu chân trời ? lã chã sáu chân

mây ? (đám ma tôi ?)

đau lòng sổ bụi ? những bức thư không gửi ? lại

đau nữa những bài thơ tình sử nghẹn không làm …

mỗi người bóp chết bộn chân mây ? Bóp chết

nhiều kilômét chân mây.

TÔI THÚ THẬT TẤT CẢ CHÚNG MÌNH LÀ NHỮNG TỒI NĂNG.

Page 449: Tran Dan _ Poem

449

Giấc Sài đô

NGÀY NGÀY MỘT HẸN THIÊN THU … GIẤY

TRẮNG Ơ HỜ. Những mơ ước tràn bờ - những lênh láng ngẹn

ngào - không nên lấy đi của lứa trẻ mọi hão huyền

mọi lo lắng bơ vơ.

Lịch tờ tờ

lá rụng địa đồ

hờ hở những thiên cơ ?

phong cảnh phố Sài đô ? tưởng bở.

Mỗi ngày mỗi ngày ... rơi một mong chờ.

Không có việc gì dễ

fòng tranh sáu thằng

xích thằng lằng nhằng ...

vằng vẳng vắng. Thiên cơ ...

Bao vô lí 30 năm í ?

30 năm ấy bây giờ thu không.

Những canh khuya thanh vắng của lòng ?

chạy nhăng ? băng xăng vò đầu bạc ? ăn vạ bình

sinh ? chẳng bằng kì cạch chữ . U sơn cùng cốc

đèn mồ.

Sao lại mất tuổi thứ ba cho sậm sà sậm sột ? trồi ?

không vò đầu bạc ? đừng ăn vạ bình sinh ? lữ trình

… không mệnh lặng ?

Page 450: Tran Dan _ Poem

450

người sau không biết đau người trước ? cứ đến

mưa sa … thuyết lạnh lòng ?

quan hệ các thế hệ ? rót lòng đau ấy vào đau lòng

này ?

người ta chẳng thể duy thịt ? - chương trình tối

nay ? cay đắng tay đôi - tụ điểm bình phương - có

một chương trình chia xẻ đau thương ? chương

trình « EM HÃY CHO ANH ĐAU ĐỚN VỚI » ?

Em không mê những di chúc ? những từ biệt

những vĩnh biệt … những lời cuối cùng ? mọi thất

bại í ? thà rằng ta cứ NHO sống nhơn nhơn ? CÓ

BAO GIỜ CHÂN TRỜI DI CHÚC NHỮNG CHÂN

MÂY ? trăm năm xác xạc bên này … như một hàng

cây di chúc lá làm chi ? tôi chẳng muốn như cây …

sụt sùi di chúc lá.

Giã từ Về ? những chuẩn bị GIỀ ? đi về đều khó như

nhau. Vọng tuyến thân thương ?

phố mòn son triệu nốt chân rêu ? cả mình lẫn

những bạn mọn ? phố mòn bạn mọn nốt chân

rêu…

Tôi ngại làm sao những thăm hỏi dã từ. Bong bóng

giấc Sài đô ? không nhạt không đậm, vừa mắm

muối ? giã từ tháng - giấc Sài đô ? đừng làm bilan.

Nhạt miệng ? đâm nhu nhú người-vú ? hay một bà

nourisse nào cho những THƠ NẰM ?

Page 451: Tran Dan _ Poem

451

1988

Sổ bụi

Page 452: Tran Dan _ Poem

452

TÔI KINH TỞM LŨ KHUYỂN ƯNG. KHÔNG VÌ

THẾ, BÃI KHƯỚC VỊ TRÍ MẶT TRỜI CỦA

CHÚNG. FẢI CÓ CẢ KỨT MỚI LÀM NÊN THẾ

JỚI. FẢI CÓ CẢ FÂN BẮC FÂN TRÂU BÒ ... MỚI

LÀM NÊN MỘT CHUỒNG CHỒ THỜI ĐẠI.

Page 453: Tran Dan _ Poem

453

nhân sinh những Khói và Chờ (nhân loại còn có khói để mà tin)

Thu không

bước lặng

tôi về CÕI lặng.

Giật mình.

tôi có cái đầu vương cách

làm bằng – 88 quỉ cách.

Thơm mùi HÔI NÁCH nhân sinh.

tôi có cái đầu cải táng

đi tới HÁNG. Những bà cô xả láng.

tôi trốn HÈ trong khói HÈ ...

Page 454: Tran Dan _ Poem

454

Hè và khói Huế MƯA KHOÁ TRÁI HAI ĐỨA

TRONG SA MẠC TÀ NGÀY

Đông Ba có gái fòng sương

tập thương tím huế

Tập buồn tím lam

tập vấn vương tím buồn

tập buồn tím xim.

tím Huế

Sao mi nguy hiểm thế ?

tím Huế ? Mày tím làm gì ?

để tím chết ai đây ?

VÀ mặt trời

là GIỌT MÁU CHƯA KHÔ.

Page 455: Tran Dan _ Poem

455

Tình sử xin một giọt mưa thu trời cuối thu rồi em ở đâu? Tôi đứng trời trồng trước cổng nhà em

như thế gọi là tình sử.

Em biết thế nào là núi lửa ngủ ?

Thế nào là lạc thiên đen ?

Vui trời - vui đất mây đen. Đáng lí em không nên đẹp thế

đẹp quá bên kia - tận thế.

Để Tư Mã về gạt lệ

VÀO TRONG.

Đưa nhau VỀ zưới trăng

ông giăng huyền thự

em VỀ cháy khói

jấc kê đen.

Cuộc chia nước mắt đầy tay

như thế gọi là tình sử.

(Im lặng hôm nay là tự sát

tôi chẳng bao giờ mang

tội ác quyên sinh)

Bước chân số mệnh ngùi ngùi

CÔ ĐƠN TAY ĐÔI

Còn cách nào hơn VỀ với loài người.

Page 456: Tran Dan _ Poem

456

Thế Thế như thế. Ác thế

ác thế tới ngày tận thế.

Khi cuộc Thế đi về phản Thế.

Buồn bã từ sáng thế ?

tôi vẫn đi trong mọi biểu tình

đòi sáng thế nhân sinh.

Buốn bã nhân tình ?

tôi vẫn đi trong mọi biểu tình

mọi buồn bã nhân sinh.

Buồn bã quốc ngữ ?

TÔI VẪN KÌ CẠCH CHỮ.

Nỗi buồn quốc nạn còn nguyên.

Chuyên chế ? ác chế ? mọi cưỡng chế ?

tôi vẫn vo viên mọi bạo chế.

Nhét vào chỗ nhét. Thế.

tôi không có - cái đầu cứu thế ?

thế như thế ?

vẫn thế tới ngày tận thế.

Nỗi buồn nhân thế còn nguyên.

Thịt và hồn ?

thịt bằng hồn ? hồn bằng thịt ?

chúng ta đi về Tuệ. Đừng lau mắt lệ.

Nỗi buồn nguyên kiếp còn nguyên.

Page 457: Tran Dan _ Poem

457

Viết ?

một độc ác cần thiết. Một tai ngiệt nhu cầu. Một ảo

lâu sa mạc.

sự vật vốn phức và trừu . Có những người dễ tính

cứ đòi dễ, dễ hiểu. Họ không hiểu mỗi sự vật từng

sự việc đều khó, vốn phức và trừu … ? một biện

chứng dễ dàng thường không dẫn bất cứ ai … đi

xa.

ÔI NÓI CHUYỆN VĂN VỚI BỌN ĐỌC CHƯA

THÔNG VIẾT CHƯA THẠO. ĐỐI THOẠI ĐẦU

GỐI CÒN Í NGIÃ HƠN.

sao để tâm bận những cái chẳng đáng bận tâm ?

địa ngục tha thứ ? tôi mua từ xứ zữ. Ở lá đa nào.

Tôi cũng tha thứ tới ứ hự địa đồ đen.

Hồi chuông Thiên Mụ ? tôi nge từ bú vú. Ở canh ba

nào. tôi cũng chuông tới rú. Thịt đồng đen.

địa ngục ? tôi đến đâu cũng ĐỊA NGỤC mọi người.

Địa ngục khóc cười ? nhưng tôi đã bế kinh khóc -

bế kinh cười từ lâu.

lục xục đi cả đêm ? địa ngục ? lục súc thanh

không. Tôi múc. Một lúc nhúc. Bổ đỏ phè. Hang tứ

túc. Bà He.

Page 458: Tran Dan _ Poem

458

địa ngục ? thơ tôi chỉ còn mỗi cách nằm. Làm mồi

cho fê bình của mối mọt và vàng ố thời gian. Người

Thơ và Thời. Bạo quyền và Thơ. vẫn cứ khuấy

trong tôi - NHỮNG HẢI DƯƠNG CON TOÁN

THẢM SẦU. tôi luôn đi trước tôi. Bút không đi

trước, tôi ắt không viết. Mộng-mệnh-mình. Chết đi

tôi vẫn mất ngủ. Bên kia tôi vẫn mộng du ngày.

Nước mắt bốn bể lệ. Máu mắt bốn bể lệ. NƯỚC

MẮT TỰ BAO GIỜ - BIẾT CÁCH CHẢY VÀO

TRONG ? ngưòi có thể giải thoát trước sử không ?

tự do ngoài tất yếu. Tự do không tới chống tới bất

chấp tất yếu. Ngần bao hóc toán - ngần nở vùng

sầu - ngần bao ra rả máu mắt. Thảo nào tôi vẫn

lạc quan đen.

THƠ TÔI CÓ 30 NĂM ĐÓNG CHAI. NÓ CÓ THỂ ... CHỜ.

HÃY ĐẮM ĐUỐI ĐI VÀO BÓNG TỐI mỗi nhà thơ mang một địa ngục ? không ai người

chung sống nổi với nhà thơ ? KHÔNG KHÓC

KHÔNG CƯỜI TÔI VẪN CHỈ LẠC QUAN ĐEN:

khi cây khóc hết lá

trời chẳng lên đèn.

Thành phố trổ sao đen

thế là tôi vẫn lạc quan đen

đâu phải tôi bôi đêm đen.

Vào ánh sáng mọi điện đèn … ?

Page 459: Tran Dan _ Poem

459

Viết ? giết một cái gì ? đầu tiên là quan niệm viết ?

rồi luôn đó, một vài cái khác - trong ngoài mình ?

nếu không viết làm gì ? Sáng tạo là một hành vi

tổng lực và bất ngờ. Cả cái jái cũng tham gia sáng

tạo: lời Trần Dần hồi Nhất Định Thắng !

MỌI GIÁ TRị ĐỀU MUA BẰNG NHỮNG MẤT NGỦ

CHÂN MÂY. CHẾT ĐI - TÔI VẪN MẤT NGỦ ?

tôi vác CÁI ĐẦU MA XÓ

qua những ngã tư … mộng du mưa

hai mắt tù mù

làm một

ngôi người đến

chết ? VIẾT - KHÔN – NGUÔI.

BẤT TỬ LÀM GÌ ? NẾU PHẢI MÃI MÃI SỐNG ĐÌU HIU.

ồ - CON ĐƯỜNG LỚN ? cấu trúc sự vật ? người ta

có thể lớn mà đi đường nhỏ. Nhỏ mà đi đường lớn

thì không bao giờ …

Page 460: Tran Dan _ Poem

460

NGƯỜI ? - CON CÃI TRỜI. những cái đầu chặt đầu xong vẫn chưa mở mắt ?

lại những cái đầu do mở mắt phải chặt đầu lâu.

Không phá Bastille - không đề bạt làm người. Sao

gọi là người - kẻ chẳng mở chân mây ?

tôi yêu những người khước từ ngay cả những đặc

quyền đặc lợi chính đáng của mình. tôi vẫn đứng ở

chân trời câu rút ? Tôi than khóc những ngu dân

còn u mê bái tượng ? gục quì trước những tượng

ma lem - tượng quỉ - tượng ác ma

tôi vẫn chốt ở chân trời Bayon chữ ? tôi chỉ thờ con

Chữ. Thơ với tôi như tôn giáo không nhà thờ -

không giáo chủ. Chẳng tăng sư.

tôi vẫn chốt ở đầu Bayon chữ. Thơ là mạng sống,

là lí lịch thật đời tôi ? Tư Mã nói tàm thay tôi kết

luận.

tôi không phải một du khách hành giả - chỗ nào tôi

cũng tự nhủ « thế thôi mà ? có thế thôi mà ? »

tôi hỏi cả ngày. Những câu hỏi chân mây. Không

biết sáng sao làm bằng những sao nào ?

ngắc ngứ chiêm bao

li tán cả vùng sao

trăng mới tự bên Lào.

Ai thắp xứ chiêm bao ?

Page 461: Tran Dan _ Poem

461

thơ là cái thăm thẳm. Lời nói bao giờ cũng là một

hối hận ? thơ ngoài - ngôn ngữ ? … có những thơ

ngoài ngôn ngữ. Không ai lường được với thi nhân.

song Orphée đi đến đâu - mó vào cái gì, cái ấy, nơi

ấy, bèn hóa thành – THƠ.

CÓ MỘT VÙNG THƠ TÊN GỌI KHÔNG LỜI.

bốn cẳng chạy tới tận chân trời ? không bõ ?

không bõ ? vớt về một canh cánh chiêm bao.

mỗi jấc ngủ - một mộng zu ? Thao láo mắt - tù

mù. Không lời - những đám mây trôi. Bộ hành cà

nhắc ? buổi chiều im phăng phắc.

ngày nhạt kéo về sâm sẩm nhạt. Để về tối nhạt -

thông vào đêm nhạt. Nhạt thông thênh.

NGƯỜI THƠ

KHÔNG RẮC NƯỚC HOA

LÊN NHỮNG BÔNG HOA MÌNH TRỒNG.

tôi khóc trên độc áck - nhân tình. Trên áck độck

nhân sinh.

tôi có cái đầu địa ngục ? hạ huyền trăng nhoá lá cờ

đen. Như thế gọi là tình sử. tôi có cái đầu mọi đỏ ?

mọi tới khói. Không cần bôi phẩm đỏ.

Page 462: Tran Dan _ Poem

462

tôi có cái đầu mọi vàng. Vừa đi vừa hát - tôi nhát.

tôi bát ngát nhát. Cả làng tôi cùng hát.

tôi có cái đầu mọi mù. Vừa đi vừa lù lù mù. Như

thế gọi là lịc sử. tôi có cái đầu mọi chơi ? vừa chơi

vừa bời. Trò chơi không đặt cược. Như thế là mọi

mới.

tôi không sắm cái đầu mọi-tự zo. Vừa tự zo vừa lo.

TÔI THÍCH VIẾT CÁI CHƯA BIẾT

MẶC CÁC ÔNG VIẾT CÁI ĐÃ BIẾT

90 có hoàn thành không ? có thành công không ?

hay thất bại để mà đốt đi ? tôi đã đốt tôi không

phải chỉ đôi lần … cái chưa biết - cái khó - thậm chí

cái bất khả - thu hút và đắm đuối tôi.

Được ván cờ thua … giữa sẩm chiều

bước lặng

tôi đi sẩm tối

vẫn là người được ván cờ thua ?

bước lặng

tôi về cõi lặng ?

một trời -

tôi vẫn lạc quan đen ?

tôi bước lặng bên tôi

không mốt hai - mà vẫn bước đều

cho đến lúc - say nâu

tôi rẽ vào fố lặng.

Page 463: Tran Dan _ Poem

463

uẩn khúc ga cuối

GA CUỐI CỦA LÒNG

CHẲNG NÓI - SỢ RẰNG NHƯ KHÓI - NÓI BAY ĐI …

SỢ RẰNG NHƯ NÓI - KHÓI BAY ĐI...

GA CUỐI CỦA LÒNG …

ngày 23 tháng 1 năm 89. tức 10 chạp thìn.

dương đã 89 - âm vẫn chửa sang trang kỉ tị. Thời

gian châu Á vẫn tiêu sâm ... TÔI CHẲNG MUỐN

MANG SANG GÌ CẢ. NỖI BUỒN GA CUỐI CÒN

NGUYÊN.

Page 464: Tran Dan _ Poem

464

Sổ bụi cuối

1989

Page 465: Tran Dan _ Poem

465

CANH BẠC GIAO THỪA - THUA CŨNG ĐƯỢC ? ĐỜI

ĐAU - THI CÁCH RÕ RÀNG …

Koán thế - con mắt chiêm bao ? tia mắt chiêm bao

ngạt ngào quanh thế. Người về bang cũ có buồn

không ? cố nhân bang mới buồn như khói. Tấm

lòng GA CUỐI lặng như đêm ?

Ba bang chẳng có người chờ ? không ai chung đắp

mùng mưa chín vùng ? não nùng GA CUỐI thu

không. Tàu đi ?

Chưa bừng con mắt chiêm bao. Mưa còn lã chã nỗi

đau thế trần ?

ÔI CÁI MÙI NGƯỜI. MÙI HỐI HẢ NHÂN SINH. cô fó tiến sĩ - Ông thạc sĩ - anh bạn - cô Tư. ai điếu

nổ chậm - điếu văn muộn - người CUỐI kỉ - mặn

mà miếng mặn. miếng chay ? - chay chay. măn

mặn - mặn mà sau mưa ?

thác lệ. Thung rêu. zều zọt. Gác thác. da hun.

Thiên đàng kềnh càng. Biển CUỐI liếm chân trời

CUỐI. Buổi CUỐI. Muối. Nỗi lòng người ở thung

rêu. Tại sao mưa đếm các giọt lệ của mùa ?

da thịt vàng hun. Lừ - lữ trình tuổi CUỐI? túc tắc

chân rêu. Ngúc ngắc - lề mề bến Lú sông Mê ? lê

thê quê LéThé. Tuổi CUỐI lề mề. Xề.

Page 466: Tran Dan _ Poem

466

3/4 có trôi về biển ? 3 fần 99 có trôi về biển động.

Fần mộng còn lại cháy khô vùng cát cháy. cá cháy.

tôi đi mùa cá cháy. Lại tìm một fép cửu chương -

mưa ?

BUỔI CHIỀU NGUY HIỂM

VỚI NHỮNG KHÓI CHIỀU CỦA NÓ.

ngã ba đen ? ngã ba đen ? sự vật không đèn ? ai

khóc ? ngã ba tim. Tìm mình như thể tìm chim.

bóng chim - bóng khói. Bóng mình - ngã ba ?

bài tập zã man ? từ lữ trình ? từ lỡ - trình ? lỡ lỡ

trình rồi. Tư Mã Gãy ? khóc đi thôi. Ai lỡ ? ai

không? khóc ai ? jì ? tôi khóc tuổi - anh ơi ? đừng

khóc tuổi.

Tôi khóc thu không - nhưng thu không không

khóc? Cũng không cười ? Không kèn ? Không

trống? Chỉ là lẳng lặng thu không.

Tôi khóc những chân trời đã héo hết mọi jây

thiêng. Lại khóc những jây thiêng đã héo hết mọi

người thờ.

Anh khóc những chân trời phai nhạt chân mây. Lại

khóc những chân mây nhờ nhạt chân trời. Chúng ta ở một địa đồ vá lại? địa đồ vá đi vá lại

vẫn ở được. 88 chân trời vá lại ? 99 chân mây -

tân trang màng trinh. Trời đất đã màng trinh tân

trang tới 1989 lần ... bởi vì thất trinh rồi - trời đầu

tiên - đất đầu tiên ? mỗi năm nhiều lần. Cứ tết mới

tân trang.

Page 467: Tran Dan _ Poem

467

CÓ THỂ XẾ CHIỀU THĂM THẲM THẮM - KHÓI

KHÔNG EM?

Hãy có can đảm chỉ là con bướm phấn. một cánh

fù du hay một xác vờ. Đừng là một anh kép-jà.

Hãy chôn sống tôi ? chôn sống tôi. Ngay - đêm

nay? tôi nằm thênh – thang. Dưới sao thắp - bạt

ngàn. Tôi sẽ về chiêm bao trong vĩnh cửu đất

DƯỚI MỘT TRỜI AY ÁY NÁY SAO BAY?

Page 468: Tran Dan _ Poem

468

hoa soi ? hoa sói. hoa sòi. hoa khói ? ga CUỐI của

lòng. Tim CUỐI ? hai bàn chân CUỐI ? <Đây rồi

phố CUỐI - khóc đi thôi>

tuổi CUỐI ? hai bàn chân CUỐI vẫn ra đi ? tuổi

CUỐI đi về xứ CUỐI. Có còn tia CUỐI nào không ?

tim CUỐI lê về phố CUỐI. Hay là tia khói CUỐI đã

tan đi ? nghĩ gì. Xá gì khi khói - CUỐI đã bay đi ?

mây CUỐI của lòng. Con mắt CUỐI vẫn chong

chong.

đắm đuối CUỐI - CUỐI chân mây ? khói CUỐI cay

xè đôi mắt CUỐI ? tuổi CUỐI ? GA CUỐI của lòng.

Nghe hát thương hoa …

bóng CUỐI ? CUỐI ? CUỐI ? nhảy qua bóng CUỐI của mình.

mùa quả CUỐI - cho nhau ngày hạ CUỐI ? - chân

trời bóng CUỐI chung đôi ? - ngã ba tim …

người tuổi CUỐI nô cô cô người CUỐI tuổi ? là tô lồ

tồ ngày - năm tháng hạc hà bay ? - mêli mêlô gì

khúc CUỐI thương hoa - vết máu ngã ba tim ?

ngã ba tim - từ ngã ba tuổi - từ đèn ngã ba ? - ông

già hòe ? ông già kòe ? tôi iêu ông già hòe ? không

iêu ông già kòe ? - tôi êu ông già kòe ? tôi iêu ông

già hòe ?

Page 469: Tran Dan _ Poem

469

tìm gì ? ráng lạc ngã ba tim ? tìm gì ? tìm ? cô lộ

ngã ba tim ? tìm gì ? Tư Mã ngã ba tim ? tìm gì ?

nam nữ - ngã ba tim ?

mùng khói ? ba sinh - mùng khói ? ngỡ rằng bén

khói để bay đi ? ngỡ rằng khói bén để bay đi ? ngỡ

rằng él-khói để bay đi ?

ba sinh mùng khói ? đâu dè él-khói chẳng bay đi ?

đâu dè bén khói chẳng bay đi ?

cho tôi ngồi phố khói ? ga khói của lòng ? bướm

khói liệng sân ga ? tàu khói - chung nhau màu tuổi

khói ? đâu dè mắt khói chói chiêm bao. Mây bay ?

chung đôi ngồi kể khói ? mưa rất xưa mà thu rất

xanh - mắt khói thế này - mắt khói để cho ai ?

1989

Page 470: Tran Dan _ Poem

470

Page 471: Tran Dan _ Poem

471

tôi biết những cái sẹo còn rỉ máu đến đời con

III.2

Thơ mini 1988 - 1989

Page 472: Tran Dan _ Poem

472

CHỈ DẪN MẺ ĐẦU THƠ MI NI

- thuốc mất ngủ thượng căn trị xơ tim-óc quốc ngữ ? xơ

hồn ?

- thành phần 100% paranoïa critique + sinh thực khí

zứt thánh bỏ trí của tất cả nam nữ.

- hình thức - viên đơn lòng son ? viên năng lượng du

hành vũ trụ quốc âm.

.CÁCH DÙNG: không cần đơn bác sĩ trí lí ? trực

dùng - nhất những sử điềm cảm thấy mình quá ăn no

ngủ kĩ - hạ căn ba miền ? liều lượng tùy căn nghiệp.

Ngậm ngùi ngùi ?

.GIỮ: ở nơi cao ráo – thoáng. Tránh mọi tiếp xúc ẩm

thấp hạ căn.

.FẢN CHỈ ĐỊNH: động vật bề bệt lí trí - nông

choèn – tính toán toàn ngoại tệ - nhất là những động

vật công danh. Nhất là những động vật dễ dàng.

BẠN ĐỌC? nếu mày không trực hiểu ? mày hãy chửi và mày không

đọc nữa. Mất quyền công dân đọc của mày.

CÁC NGÀI CRITICACOUAILLE? nếu không là người thật ? chí ít hãy là động vật thật

thà.

Page 473: Tran Dan _ Poem

473

59 m i n i

tất cả diễn ra trong khói một tia nhìn ...

Page 474: Tran Dan _ Poem

474

tác phẩm là bản gốc ? đời là bản sao ?

Ối Ôi. luôn luôn tam sao thất bản

Page 475: Tran Dan _ Poem

475

tất cả - từ một sợi cỏ. Đều có vị trí mặt trời.

Ai về chỗ nấy ? thu không

Page 476: Tran Dan _ Poem

476

Tôi khóc những chân trời không có người bay

Lại khóc những người bay không có chân trời

Page 477: Tran Dan _ Poem

477

tôi đã hát những ngày mai - không hát

bây giờ ? tôi hát - lạc quan đen

Page 478: Tran Dan _ Poem

478

tôi tắt nốt những mặt trời rù

Trên rù rù những đám đông đen

Page 479: Tran Dan _ Poem

479

tôi đến từ tự zo - đầy xuống tất yếu

Lao tù này tôi fá ngục khôn nguôi

Page 480: Tran Dan _ Poem

480

tôi không thắp được mặt trời – rù

Tôi đi – hai mắt tù mù

Page 481: Tran Dan _ Poem

481

la cà sáu khói nhân sinh

Khói nào không mất mình ?

Page 482: Tran Dan _ Poem

482

tôi khóc những chân trời - bụi đỏ

Ở đó: vắng người

không có người biết khóc – các chân mây

Page 483: Tran Dan _ Poem

483

tất cả những gì tôi có

đều zo tôi tự sắm lấy

bằng-nhiều-mất-ngủ-chân-mây

Page 484: Tran Dan _ Poem

484

Ấy XIN các người

để cho tôi im lặng

Page 485: Tran Dan _ Poem

485

THÔI - về nhà

kẻo vợ

chờ cơm !

Page 486: Tran Dan _ Poem

486

vô tư như thuở ngày xưa

Nhìn một vì sao

buồn bên ngưỡng cửa

Page 487: Tran Dan _ Poem

487

Anh vỗ cánh như thế

mà bay xa được

mấy tấc đường trường ?

Page 488: Tran Dan _ Poem

488

chưa hưởng mùa xuân đã phải CHỊU mùa hè

Page 489: Tran Dan _ Poem

489

Tôi đã bị chủ nghĩa cá nhân hành tội

tôi bênh vực buồn rầu bênh vực cô đơn.

Bênh vực những ngọn đèn sương fủ

những ngôi sao lủi thủi góc trời.

Page 490: Tran Dan _ Poem

490

tôi chót dại đỗ lầm hải cảng

để con tầu thiếu máu xanh xao

Page 491: Tran Dan _ Poem

491

trong chúng ta còn những thằng ăn cắp

ta vẫn cần khoá trái cửa từng đêm

Page 492: Tran Dan _ Poem

492

VÉN MÂY MÙ MỚI THẤY TRỜI XANH

Page 493: Tran Dan _ Poem

493

FẢI CHỊU ĐAU RỒI MỚI HẾT ĐAU

Page 494: Tran Dan _ Poem

494

TÔI VẪN ĐI TRONG BUỔI CHIỀU – RĂNG ĐEN.

Page 495: Tran Dan _ Poem

495

KHÔNG MUA NHỮNG KHIÊM TỐN – TRÊN RỐN.

Page 496: Tran Dan _ Poem

496

mỗi người một vụ án?

mỗi người chôn sống một chân mây.

Page 497: Tran Dan _ Poem

497

MƯA RƠI KHÔNG CẦN PHIÊN DỊCH

Page 498: Tran Dan _ Poem

498

đi đi - người đi

Các ông nói gì ?

trên khói lặng người đi.

người đi - người đi

Tôi không nói gì

trên bóng lặng người đi

bóng sóng - người đi

Đa số im lặng nói gì ?

trên bóng – sóng - người đi

đi ? đi ? NỐT LẶNG

Tôi không nói gì BƯỚC LẶNG

trên nốt bước lặng NGƯỜI ĐI

Page 499: Tran Dan _ Poem

499

vẫn có những mũ chùm đen đưa đám đám tang đen ?

Page 500: Tran Dan _ Poem

500

Tôi truy tố những mặt trời mù

trên các đám đông đen.

Page 501: Tran Dan _ Poem

501

Càng chết tôi càng - bất tử

EO ÔI ?

chết vẫn không yên.

Page 502: Tran Dan _ Poem

502

chúng mình cùng một chiêm bao

Hơi ấm một thầm thào - sợ có mùi?

Page 503: Tran Dan _ Poem

503

cô gì đêm ấy … bỏ chồng chưa ?

Page 504: Tran Dan _ Poem

504

Anh đau ở chỗ nào ?

tôi đau ở xã xử những LOM ZOM

mặt trời – ba bốn buzi.

Page 505: Tran Dan _ Poem

505

anh ĐAU ở chỗ nào ?

tôi đau ở « tôi thồ VĂN

tự xứ này lên »

Page 506: Tran Dan _ Poem

506

Tất cả đến với tôi - phải đến tự đàng trước.

Đàng sau có gì ? toàn LÁ - CHếT những ngày qua

Page 507: Tran Dan _ Poem

507

Xuân qua đông tới vào trong

LỆ có còn đâu mà vãi ngoại ?

Bao nhiêu nước mắt-CHẢY-vào trong

Page 508: Tran Dan _ Poem

508

không ai ? văn minh lo lắng – fân fối lặng

những lo lắng trắng hàng đèn.

Trong những lặng vắng ngã tư đen

Page 509: Tran Dan _ Poem

509

Em hãy giữ gìn đôi mắt lệ.

Đừng lau mắt lệ hạ huyền.

Nỗi buồn sáng thế còn nguyên.

Page 510: Tran Dan _ Poem

510

Mất ngủ hàng đèn

Trong một thủ đô đen?

Page 511: Tran Dan _ Poem

511

Ôi những phố cố tình vắng vẻ ...

để khói hè.

Page 512: Tran Dan _ Poem

512

KHÔNG THÍC NHỮNG NHÀ THƠ – NHANH – TRÍ - KHÔN. NHANH TRÍ KHÔN.

Page 513: Tran Dan _ Poem

513

Đừng phun thuốc muỗi. Chết thuyền quyên.

Dân chủ khú mất rồi. Hỏng cả vại dưa ngon.

Page 514: Tran Dan _ Poem

514

Tôi có cái đầu thặng cách

thặng tới thách

không cần nhổ lông nách.

Page 515: Tran Dan _ Poem

515

yêu bông cúc chứ không hiểu bông cúc.

Tôi thích lá trúc. cả cành trúc. bụi trúc.

bông cúc.

Cõi lúc nhúc.

Page 516: Tran Dan _ Poem

516

Tôi như kẻ đi đầy trên xa mạc tờ giấy

Page 517: Tran Dan _ Poem

517

Tôi không thừa nhận một thứ thơ nào nhân tạo

mà không có khổ đau - và nổi loạn.

Page 518: Tran Dan _ Poem

518

một cái chợ

Rất nhiều ruồi

Page 519: Tran Dan _ Poem

519

không gian trắng phau

Cả một dân chúng bồn chồn

Page 520: Tran Dan _ Poem

520

THẾ LÀ

thế kỷ mất mặt anh !

Page 521: Tran Dan _ Poem

521

AI PHÂN PHỐI ? khói bạch hàng đèn

trong khói NGÃ TƯ ĐÊM.

Page 522: Tran Dan _ Poem

522

VIẾT TỪ TRUNG TÂM ĐAU KHỔ VIẾT RA

Page 523: Tran Dan _ Poem

523

người ta thường nói THI SĨ ĐẦU BÙ

Nhưng nếu anh cạo trọc đầu

người ta lại nói: NHÀ THƠ ĐẦU TRỌC

Page 524: Tran Dan _ Poem

524

Ai ? Ai khuấy động những hải dương buồn ?

những chân trời biển đắng ?

Ai khuấy những chiêm bao hoàng tuyền

những giấc kê đen ?

Ai ?

Ai sửa sang cầu Tràng Tiền - quốc ngữ ?

Đò phà - cách dách - mọi sang sông.

Ai ?

Ai nấu điện cho - những đô thành thoi thóp điện ?

Cho thế giới buồn phiền … ai nấu giấc kê đen ?

Page 525: Tran Dan _ Poem

525

Nguy hiểm chết người : sống Xưa nay từ sống mấy ai về ?

Page 526: Tran Dan _ Poem

526

Khi cây khóc hết lá

ngày khóc hết khói

Tôi về.

Page 527: Tran Dan _ Poem

527

Tôi còn qua mấy ga nữa ?

đến tuyến chuyển tầu

Ga cuối gọi – Bên Kia.

Page 528: Tran Dan _ Poem

528

Cái đầu dạ khúc Thơ giao thừa. Một dãy mini. chủ đề và thu không - tại chỗ

Không phải chối – kó

TUỔI SẨM ?

tôi kó

một cái đầu dạ khúc.

Sâm sẩm sấm …

cái đầu

DẠ KHÚC – THU KHÔNG

Tôi đã hát những

ngày mai - không hát

Tám nẻo ngoẹo đòng đòng

Tôi hát - ngoạt – thu không.

Page 529: Tran Dan _ Poem

529

con chữ có thể đổi đời không ?

- Sao không ? KỂ SẨM.

MỘT

MÌNH tôi đứng với sao không.

THÔI:

đừng song sóc công danh đen

song sóc chạy đàn – hèn

NGE ?

Hè ? tuổi sẩm THU KHÔNG ?

/mùng về ...

VỀ ?

KÓ về KÓ ? ZÊRÔ về ZÊRÔ.

Không được hỗn. Một sợi cỏ

cũng có vị trí mặt trời. Không

được hỗn ... Tin Hữu Loan:

chẳng nên buồn đời - xã sử

vẫn bấy lâu nay cay đắng

dành cho anh một vị trí mặt

trời. Ngay từ nay ai về chỗ

nấy. KHÔNG ĐƯỢC HỖN.

Page 530: Tran Dan _ Poem

530

Mùng về

LÃ CHÃ LÁ – Á

- về không.

BUỒN BÃ ? THƠ ? MỘT CÁI TÔI

– KHÔNG - BIẾT – CÁI – GÌ ?

UN JE – NE – SAIS - QUOI. TÔI

VẪN VÔ TÍC SỰ CẢ MỘT VÁN

ĐỜI - GIỮ QUYẾT – CON CHỮ ?

VẪN CẬM … KÌ … CẬM … CẠCH

… CÁI … GÌ … KHẢ … CHÂN …

LÀ … THƠ ? UNE POESIE

PROBABLE ?

- Nhỡ sao ? Thơ cũng chỉ là một

ván chiêm bao ?

- Tôi sẽ thui thủi một mình – thui

thủi chiêm bao - tới ngày tận thế.

Page 531: Tran Dan _ Poem

531

LỜI LANG THANG VÁN CHIÊM BAO. VÁN CHIÊM BAO KỨ THẾ TỚI NGÀY TẬN THẾ. MỖI NGƯỜI THĂM THẲM … MỘT CHIÊM BAO.

Page 532: Tran Dan _ Poem

532

Về thơ mini Cái gì người ta biết: đấy là cái chớp mắt. Cái gì người ta

không biết: đấy là THIÊN THU. Thơ mini còn đang tự

định nghĩa, đang tự hình thành - đang tự khắng định.

Nó không muốn giống thơ Hai ku, hay mọi cái gì khác,

văn Lão Tử … vv

Thơ mini như nổ hạnh nhân và năng lượng lớn từ những

hạt CHỮ cực thiểu.

Tại sao thơ mini ? Tự nó, chỉ hàm 1 triết vắng, 1 triết

lặng. Tôi nói đáng lí tôi nên im. Nhưng đã sống, tức

chôn sống như tôi. Có khi im là một tội ác. Fân biệt im-

triết. Im hướng nội. Im lắng nge siêu thức bên trong với

im-hèn nhát. im đồng loã ác vừa gây tội ác. Không phải

im nào cũng là vàng.

Một VIẾT dãi ràu sinh ra một ĐỌC dãi ràu. Thơ cổ lai đặt

ở tứ lạ - lời hay - hình ảnh đẹp - âm điệu ru hồn. Tôi

giản dị đồng nhất THƠ vào CHỮ. ĐỌC cũng số nhiều như

VIẾT số nhiều.

Tôi ưu tiên tác nghĩa ? con CHỮ được ưu tiên … bọn con

NGHĨA phải sáu phía ruồi bu, à à vo ve quanh con CHỮ.

CHỮ như ám sát sự vật, từ đó đẻ ra NGHĨA mới. Chỉ một

chữ ốc vít chưa khớp là toàn bộ công trình chưa thể đi

vào sử dụng.

Page 533: Tran Dan _ Poem

533

Tôi viết - tức là tôi để con CHỮ tự mình làm NGHĨA.

Thơ mini phải thách thức, thành thật: tôi như thàn thàn

- con bàng gãy cánh. Vẫn còn thàn thàn - khinh mạn

bão mưa. Phải hơi ngịc lí: từ chết - không ai về, đã

đành. Nhưng đây ngịc lí lại: cổ lai - từ sống - mấy ai về?

Thơ vì thơ tuyệt đối. Hễ vì bất cứ gì khác, dù cao quí

mấy, thơ sẽ chẳng còn là thơ. Không đùa được với thơ.

Vì vậy, thơ không thể vì chim gái chẳng hạn. Những thơ

tình, thơ chính trị, bất kì tính từ nào, đều vô nghĩa, với

tôi.

Trần Dần (sổ bụi 1988)

Page 534: Tran Dan _ Poem

534

Ở TRONG TÔI CÒN MỘT TIA HI VỌNG MỒ CÔI

Page 535: Tran Dan _ Poem

535

Gặp gỡ Trần Dần: đối thoại mất ngủ Hoàng Phủ Ngọc Tường

Tháng năm, anh Trần Dần vô chơi Huế, cùng đi với Phùng Quán. Trần Dần đã đến Huế lần đầu tiên vào năm 1946, lúc bấy giờ anh mới 21 tuổi : đây là chuyến giang hồ dành riêng cho tình yêu, với một người đẹp nay đã biệt tích trong đời.

Vừa đến Huế, trong một tuần lễ Trần Dần đã tiếp xúc với công chúng hai lần, ở Hội Văn Học Nghệ Thuật Bình Trị Thiên và ở nhà văn hóa Thanh niên Thành đoàn Huế. «Ở cả hai nơi đó», Trần Dần thú nhận, «lúc đầu tôi cảm thấy rét vì phải đối diện với đám đông, sau đó lại quá xúc động vì tính chất thẳng thắn của những câu hỏi đặt ra cho tôi. Cả hai cuộc đối thoại sau đó đều làm tôi mất ngủ». Tôi để ý thấy trong lúc nói chuyện Trần Dần thường dừng lại đột ngột và gõ «cộp…cộp» vào micrô, dù nó vẫn hoạt động tốt: hóa ra là từ ba chục năm nay anh không hề biết tới cái micrô, và bây giờ thỉnh thoảng anh chợt thấy im bặt, không nghe được tiếng nói của mình.

Lần thứ ba trong tuần, chúng tôi gặp lại Trần Dần trong một cuộc rượu bảy tám anh em văn chương ở nhà Ngô Minh nơi dốc Bến Ngự, gần khu vườn cũ của Phan Bội Châu. Chúng tôi quyết định tiếp tục cuộc đối thoại với thi sĩ, trên những vấn đề gợi mở từ hai cuộc gặp gỡ trước. Sau đây là câu hỏi của từng người và ý kiến riêng của Trần Dần, dưới ánh đèn dầu tù mù (vì cúp điện) tôi ghi lại. � o � � � � � � * ư � (mở đầu): Thưa anh, con người sống ai cũng cần có nhân cách, nhà văn lại càng phải có nhân cách. Theo anh nhân cách nhà văn quan trọng nhất là ở chỗ nào?

Page 536: Tran Dan _ Poem

536

* " � � � : Nhân cách nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tôi không thấy mô-đen nào cho văn cách cả. Văn cách không chung cho ai. Văn là mình, không thằng nào giống thằng nào. Nó phải tự khẳng định cái tôi của nó, không lùi một ly. Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát là chính mình, không lùi một ly. � � � � � � a � � : Xin hỏi thật anh: qua thời Nhân Văn, anh tự thấy anh được cái gì nhiều nhất? * " � � � : Được cái hoạn nạn. (Thi sĩ chợt im lặng, và tất cả chúng tôi cùng im lặng trong nỗi xúc động. Rồi anh tiếp:) Do được cái hoạn nạn nên được không dưới ba chục tác phẩm trong ba mươi năm. [Tôi xin ghi lại ở đây một số tác phẩm của Trần Dần trong yếu mục sáng tác của tác giả: Chiều mưa trước cửa (1943), Hồn xanh dị kỳ (1944), Dạ Đài (1946), vẽ và viết báo Sông Đà, Giải Phóng Tây Bắc, Giải Phóng Biên Giới vv...(1946-1949), Tiếng trống tương lai (1954), Người người lớp lớp (1954), Nhất định thắng, Cách mạng tháng Tám (1955), Bài thơ Việt Bắc (1957), 17 tình ca (1957-1958, nằm), Cổng tỉnh (1960, thi tập, nằm), Đêm núm sen (1961, tiểu thuyết, nằm), Những ngã tư và những cột đèn (1965, tiểu thuyết, nằm), Mùa sạch (1964-1965, thi tập nằm), Một ngày Cẩm Phả (1965, tiểu thuyết, nằm), Con trắng (1967, thơ hồi kí, nằm), 177 cảnh (1968, hùng ca lụa, nằm), Động đất tâm thần (1974), Thơ không lời-Mây không lời (1978), Thiên thanh-77-Ngày ngày (bộ tam, 1979), 36-Thở dài-Tư mã dâng sao (bộ tam, 1980), Thơ mini (1987)...] � � � � � � a � � (tiếp): Có dư luận cho rằng các anh làm dự báo tốt. Nhưng văn cách thì các anh chưa thành công, theo tôi. Vì bạn đọc chưa hâm mộ như trường hợp Bác sĩ Jivagô. * " � � � (một chân bị liệt cơ lại phải ngồi trên đòn, đứng dậy vịn ghế cho đỡ mỏi): Ngay độc giả của mình cũng chưa biết mình muốn cái gì. Họ nói thế nhưng họ xác định bằng cái gì? Tiền chiến chỉ quan trọng khi họ chưa biết chúng tôi là ai. Tôi chưa có độc giả. Tác phẩm của tôi sẽ đảm bảo công chúng của tôi.

Page 537: Tran Dan _ Poem

537

� � � � � � : Nhật Bản có thơ haiku, anh có thơ mini ngắn hơn. Có người nói thơ haiku ngắn nhưng dễ hiểu. Vậy thơ mini định bắt người đọc tới đâu?

(Đêm trước ở hội Văn Nghệ, Phùng Quán đã có dịp giới thiệu thơ mini của Trần Dần, bài chỉ có một, hai câu. Thí dụ như thế này: Mưa rơi không cần phiên dịch, hoặc Mỗi người một vụ án / Mỗi người chôn sống một chân mây, vân vân.) * " � � � (ừ ừ…ngẫm nghĩ): Thơ haiku mọi người biết rồi. Thơ mini nay ai cũng chưa biết. Chính tôi cũng chưa biết nó là gì. Nên không thể so sánh. (Một lát, tiếp). Chống công thức là đi tìm cái chưa biết. Cái mới là cái chưa biết. Tôi đi tìm cái mới nên tôi cũng chưa biết thơ mini là gì. � � � � : Một điều anh em rất trăn trở, nhân thơ mini của anh Trần Dần. Mình muốn chữ cho đắt cho hay thì thơ lại mất đi cái lửa. Chữ trong thơ yêu cầu rất cô. Nếu không có lửa thì thơ không xúc động, nếu viết theo tình thì chữ lại dàn trải quá. � � � � � � a � � (bổ sung): Nếu chỉ có chữ hay thì chỉ là một bức tranh đẹp anh trình bày bằng chữ. Có lẽ đúng như thế. * " � � � : Nó mâu thuẫn nhau rất dữ, cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Cái chưa biết là cái thăm thẳm. Anh làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử chưa phải là thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải là thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ, vì khó mà nhảy qua bóng của mình. � o � � � � � � * ư � : Lão Tử nói: «Vô danh thiên địa chi thủy - Hữu danh vạn vật chi mẫu » (Vô danh là khởi đầu của trời đất - Hữu danh là mẹ của vạn vật). Như thế có gì khác với thơ mini không ? * " � � � : Đó là triết học. Triết học cũng thăm thẳm.

Page 538: Tran Dan _ Poem

538

� � � � � � a � � : Lúc nãy anh Dần nói sở dĩ vậy là vì anh chưa có độc giả. Nhưng thời đó các anh có độc giả, ai cũng từng biết Người người lớp lớp và Vượt Côn Đảo, vv…Tôi xin hỏi: nhiều người nói, nếu in lại những tác phẩm đó thì độc giả ít dần đi. Vậy là văn cách chưa đủ sống với thời gian. Anh Dần nghĩ sao ? * " � � � : Thời đó là độc giả tiền chiến. Chúng tôi cướp độc giả tiền chiến và sau đó họ cấm chúng tôi, nên chúng tôi chưa kịp có độc giả. Bây giờ chúng tôi sẽ phải chiếm lại độc giả. Chúng tôi đã ba mươi năm khuất bóng. � � � � : Ba mươi năm trước các anh có độc giả. Rồi im bặt. Ba mươi năm sau anh lại ra, liệu có độc giả hay không? * " � � � : Chúng tôi sốt ruột in, tôi mong in để xem. Tốc độ bây giờ nhanh lắm, ba mươi năm ba thế hệ, chúng tôi chỉ là một nhịp cầu để tới thế hệ mới. Đó là một thách thức. Aragông đi mãi với thế hệ trẻ. Chúng tôi cũng hy vọng như vậy. � � � � : Đọc Vượt Côn đảo của Phùng Quán, thấy lý tưởng cao lớn, nhưng văn cách thì thế hệ trẻ bây giờ lớn hơn nhiều. Văn cách Vượt Côn đảo rất vỡ lòng, dù tôi rất kính trọng về lý tưởng. Nguyễn Quang Lập chẳng hạn, bây giờ, văn cách lớn hơn nhiều... � � � � � : Nếu Lập nó chỉ viết bằng tôi thì tôi phải đập cho nó vỡ mật... � o � � � � � � * ư � : Giá như Truyện Kiều vừa mới được viết xong bây giờ, do một tác giả trẻ nào đó ở trường Nguyễn Du của Hội Nhà Văn đem nộp bản thảo cho nhà Tác Phẩm Mới. Liệu người ta có thèm in hay không? � � � � � : Đúng quá. Bây giờ phải viết hay hơn Nguyễn Du chứ!

Page 539: Tran Dan _ Poem

539

� o � � � � � � * ư � : Không thể viết hay hơn Nguyễn Du nổi. Vấn đề là phải viết khác Nguyễn Du. * " � � � : Thế giới bây giờ mong nếu anh có được một độc giả là sướng rồi, được hai ba độc là may quá. � � � � � � a � � : «Tôi chỉ viết cho những người bằng vai», anh Trần Dần đã có lần nói như thế. Vậy có phải anh chủ trương nghệ thuật phi giao tiếp, hoặc nghệ thuật dành cho những người đặc tuyển hay không? * " � � � : Không. Nhưng quần chúng văn học của anh như thế nào thì là do anh tạo ra. Do đó, tôi cho rằng, tôi viết cho những người bằng vai. � � � � � � a � � : Krapchenkô có nói rằng không nên đánh đồng tính dễ hiểu với sự tầm thường; nhưng tính dễ hiểu cũng là một đặc trưng của văn học. Anh nghĩ thế nào về điều đó? * " � � � : Tôi không coi Krapchenkô là cái gì cả. Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu, trượt băng nghệ thuật cũng khó hiểu. � � � � : Độc giả ở Hội hỏi anh: Thế giới anh thích ai nhất? Tiền chiến ai nhất? Thời anh, anh nể ai nhất? Sau anh, anh đọc ai? * " � � � : Thế giới nhiều lắm nhưng tôi nói về văn học Pháp. Xuất phát tôi yêu Mallarmé, Baudelaire rồi nhất là Rimbaud. Tôi tiếp tục đọc, nhưng cái gốc là ở phía trước. Dòng Rabelais tiếp tục cho đến bây giờ là Céline, hồ sơ đen số một của Liên Xô thời Stalin. Céline là tác giả của tiểu thuyết Đi đến tận cùng đêm. Tiền chiến Việt Nam tôi thích Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Vũ Trọng Phụng, vớt vát thêm thì còn Thạch Lam. Thời bọn tôi, ngoài bọn Nhân Văn thì tôi chẳng còn thích ai. Hoàng Cầm là tân lãng mạn. Xuân Diệu vốn là lãng mạn tiền chiến.

Page 540: Tran Dan _ Poem

540

Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến. � o � � � � � � * ư � : Cho phép tôi quay lại trước một chút. Tôi e rằng anh đánh giá Đinh Hùng hơi quá, ngoại trừ việc thích hoặc không thích. Tôi có dịp đọc Đinh Hùng khá nhiều, xin lỗi anh, tôi thấy văn chương ông ta lòe loẹt, có cái gì ghê ghê, như là son phấn. Nếu tôi nhớ không nhầm thì ngay trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh cũng chỉ xếp Đinh Hùng ngồi ở «Chiếu ba» trong làng văn lúc đó… * " � � � : Đinh Hùng thời đó là không có chiếu gì. Nhưng Ngõ Bò (gần Bạch Mai, thời đó là nhà ông Đinh Hùng và Vũ Hoàng Chương) là trung tâm thu hút. Ai cũng thấy Đinh Hùng là thi sĩ tượng trưng đầu tiên của Việt Nam trong Mê hồn ca, Lạc hồn ca, vv… Thơ Đinh Hùng như thế này: Nửa mặt phù sinh nép hậu trường. Tôi thích là vậy. � o � � � � � � * ư � : Tôi rất thú vị về cái quyết tâm «chôn tiền chiến» của thế hệ các anh. Đọc lại văn của các anh thời đó, đã in hoặc trên bản thảo, tôi lạ lùng thấy các anh đã làm nổi cái việc khủng khiếp ấy, là vừa đánh Điện Bên Phủ, vừa «chôn tiền chiến». Tôi biết, cho đến bây giờ nhiều người trong công chúng văn học vẫn chưa hết bị ám ảnh về cái lộng ngữ «vĩ đại như tiền chiến». Dù rằng, ai cũng biết tiền chiến đã tạo ra được những thành tựu lớn lao cho đời sông văn học, so với thời trước của nó. Tôi cũng sốt ruột mong cho sách của các anh viết thời đó, hoặc viết thầm lặng trong ba mươi năm qua, sẽ nhanh chóng được tái bản hoặc công bố, để có thể nhìn lại sự Đổi Mới đích thực của văn học «sau tiền chiến». Tôi cho rằng lúc đó câu chuyện văn chương «minh họa» hay «không minh họa» chắc lại còn nhiều điều hạ hồi phân giải. � � � � � � : Thưa anh ca dao như thế nào ? Tôi nhớ thơ anh nói: Sấm con gái – Lúa con gái. Thế cũng như Lúa non ngấp nghé đầu bờ, hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên… Vậy chính Trần Dần cũng là ca dao.

Page 541: Tran Dan _ Poem

541

* " � � � : Đó là di sản dân tộc, một ông thầy phải đặt ngang như Nguyễn Du, Cao Bá Quát. Phải học để mà chôn đi. � � � � � : Các anh tiếp xúc với Trần Dần vài buổi đã thấy bằng vai, thì ngay anh em mình trước cũng không hiểu Trần Dần. Nay hiểu, vật lộn để hiểu nhau chính là vấn đề «bằng vai».

(Nghe Phùng Quán dùng chữ «vật lộn», tôi nhìn lại: Tất cả từ bao giờ đều đã đánh trần, trừ ông Trần Dần vẫn mặc áo, tay nào tay ấy mồ hôi ròng rã. Đêm nóng, điện cúp, nói nhỏ kẻo phiền hàng xóm, nhưng mọi cặp mắt đều có vẻ gì quyết liệt) � � � � � � a � � (đứng dậy, chống hai tay vào hông cho đỡ nóng): Tôi muốn hỏi lại, các anh đã bị đưa ra khỏi Hội Nhà Văn ba năm, sau đó thành ba mươi năm. Tại sao khi người ta yêu cầu các anh viết đơn để được vào lại, thì các anh lại viết ? * " � � � : Lúc ấy tôi thật khó xử. Nếu theo mạch của tôi, thì tôi ghi vào phản-nhật-ký, là đốt hết và chết luôn, như nhà sư tự thiêu. Nhưng nghĩ lại, mình tuổi già đã hết cái máu ấy rồi. Sáu mươi ba tuổi, nếu được hoạt động hai năm nữa cũng quí rồi, cố mà ra khỏi đó. Nhưng tôi biết, phục hồi thì cũng vô thưởng vô phạt, chỉ là hình thức thôi. Sau đó nhiều người chất vấn tôi mà tôi không trả lời được. Như thế quả là hèn thực. Đáng lẽ là một Silence de la mort. Đó là cách trả lời mini nhất.

(Tan cuộc, nhìn lại đã gần mười hai giờ khuya.) * " � � � (chống gậy khập khiễng ra cổng, lầu bầu): Lại mất ngủ !

(Bến Ngự, đêm 14-5-1988. Tạp chí Sông Hương số 31 - tháng 5 và 6 năm 1988)

Page 542: Tran Dan _ Poem

542

Page 543: Tran Dan _ Poem

543

Phụ lục

Page 544: Tran Dan _ Poem

544

hai bài thơ đầu tay

Hồn xanh dị kì Ta từ biển vắng về đây mộng Gặp lúc Thăng Long lụi ánh đèn Những ngọn đèn mờ trên phố lạnh ! Đời đương yên giấc - biết ai tìm ? Ôi kẻ xa chơi lẻ trúc đình Quê nhà ai khóc ? Lệ ai xanh ? Hồn em mây chở về đâu nhỉ ? Có gặp Buồn trong cuộc lữ trình Kìa núi Cô Sơn hờn tuế nguyệt ! Kìa vầng trăng héo nẻo ra đi ! Nửa đêm trở giấc trong phòng lạnh ... Chợt thấy hồn xanh đến dị kì !

1944

Page 545: Tran Dan _ Poem

545

Chiều mưa - trước cửa

I. Anh đã đợi những chiều mưa - trước cửa Nắng - lỡ thì vàng vọt tựa tình yêu ... Ngày gặp mơ trong đôi mắt lệ kiều Anh khóc trước ... thương lòng anh dại. Chiều hạnh ngộ ... anh là chàng Do Thái Vẫn lang thang trong những phố không đèn Anh đi theo hồn vị sao hiền ! Để cầu nguyện cho bài ca - đầy đủ. Nhưng em ạ tình đến ngày lỡ dở Từ hôm nay trong cặp mắt em xanh Từ hôm nay trong cặp mắt xuân tình Chàng Do Thái hết bâng quơ tìm mộng ... II. Gã thường sống trong hồn ngôi nhà cổ Thường thả ngày theo triền nước về xuôi Xóm quê nhà ngây dại mặc đời trôi ! Hồn du mục lang thang chiều tái tạo. Gã thường sống trong hồn ngôi nhà cổ Phòng gã lạnh – ai đốt dùm ngọn lửa ?

... Thôi em ạ ! Thôi em ạ ! Phòng gã lạnh - ai đốt dùm ngọn lửa ? Thôi em ạ ! ... Anh đã đợi những chiều mưa - trước cửa. 1944

Page 546: Tran Dan _ Poem

546

Niên ký

1926 Trần Dần sinh ngày 23-8 (tức 16-7 năm Bính Dần) trong một gia đình khá giả tại phố Năng Tĩnh, thành phố Nam Định.

Học tiểu học, cao đẳng tiểu học và đậu bằng Thành Chung tại Nam Định

Học trung học tại Hà Nội, đậu Tú Tài Pháp. Bắt đầu làm thơ. Yêu thích thơ Baudelaire, Verlaine và phái Tượng Trưng.

1939 Lưu Trọng Lư xuất bản “Tiếng Thu”; Bích Khê: “Tinh huyết”; Tản Đà qua đời.

1940 Vũ Hoàng Chương xuất bản “Thơ say”; Huy Cận: “Lửa thiêng”; Thâm Tâm: “Tống biệt hành”; Hàn Mặc Tử qua đời.

1941 Hoài Thanh và Hoài Chân xuất bản “Thi nhân Việt Nam 1932-1941”.

Arthur Koestler xuất bản “Nhật thực”.

1942 Mao Trạch Đông nói chuyện tại hội nghị Diên An với các nhà văn Trung Quốc về đường lối văn nghệ phục vụ chính trị. Đinh Linh bị kiểm điểm vì bài viết nhân Ngày Phụ Nữ 8-3-1942.

1943 Trần Dần bắt đầu quan hệ với nhóm văn nghệ cánh tả xung quanh nhà xuất bản Hàn Thuyên: Trương Tửu (tức Nguyễn Bách Khoa), Lương Đức Thiệp...

Page 547: Tran Dan _ Poem

547

Trường Chinh công bố bản “Đề cương văn hoá Việt Nam”.

1944 Tháng 9, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc (Quảng Tây), trở về Việt Nam (Cao Bằng).

Tô Hoài, Nam Cao vv... gia nhập Hội Văn Hoá Cứu Quốc do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo.

Trần Dần Viết Chiều mưa - trước cửa (thơ) Hồn xanh dị kỳ (thơ).

1945 Ngày 19-8, khởi nghĩa giành chính quyền tại Hà Nội.

Ngày 2-9, Cách Mạng Tháng Tám thành công, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà.

Chiến tranh thế giới II kết thúc.

1946 Ngày 18-4, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), bộ trưởng bộ ngoại giao Chính Phủ Liên Hiệp dẫn đầu phái đoàn Việt Nam đến Hội Nghị Đà Lạt. Cùng tham dự có Huy Cận với tư cách “chuyên viên canh nông”.

Tháng 8, BCHTƯĐCS Liên Xô ra nghị quyết phê phán Zoshtshenko, Achmatova, Eisenstein, Pudovkin, Shostakovitsh, Prokofiev ...

G. Orwell xuất bản “Trại thú”.

Nguyễn Tuân xuất bản “Chùa Đàn”.

Trần Dần lập nhóm thi sĩ tượng trưng cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương... Viết Về nẻo thanh tuyền (thơ, in lại trong tập Thơ Mới 1932-1945, NXB Hội Nhà Văn, 1999).

Tạp chí Dạ Đài ra số 1 ngày 16-11-1946, đăng bản tuyên ngôn của phái Tượng Trưng do Trần Dần chấp bút. Số 2 chưa kịp ra mắt thì kháng chiến bùng nổ.

Ngày 19-12, Hà Nội mở đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Page 548: Tran Dan _ Poem

548

Ngày 20-12, Hồ chủ tịch đọc “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”.

1947 Xuân Diệu, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Nguyễn Công Hoan vv... gia nhập Đảng CSĐD.

Khái Hưng mất tích tại Hà Nội. Nguyễn Tường Tam sang Hồng Kông.

Trần Dần về Nam Định tham gia kháng chiến, đảm nhận công tác tuyên truyền.

John Steinbeck sang thăm Liên Xô.

1948 Trần Dần gia nhập Vệ Quốc Đoàn, lúc đầu tham gia chiến đấu ở Thượng Lào và biên giới Tây Bắc, sau làm công tác tuyên truyền, địch vận cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch.

Trường Chinh đọc bản báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam” ở Hội Nghị Văn Hoá toàn quốc lần thứ 2 tại Việt Bắc.

Đại Hội Văn Nghệ lần thứ nhất tại Việt Bắc.

Tito ly khai với Stalin.

J.P. Sartre xuất bản “Những bàn tay bẩn thỉu”.

Đại Hội văn hóa vô sản thế giới tại Breslau với sự tham dự của A. Nexö, I. Ehrenburg, M. Frisch, F. Léger, P. Picasso..., tổng thư ký hội nhà văn Liên Xô A. Fadejev công kích trí thức phương Tây.

1949 Trần Dần được phân công phụ trách văn công ở trung đoàn Sơn La và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương (Ngày 3-3-1951 đổi thành Đảng Lao động Việt Nam).

Vẽ và viết cho các báo Sông Đà, Giải Phóng...

Tháng 9, Tố Hữu đọc tham luận “Xây dựng nền văn nghệ nhân dân”, Nguyễn Đình Thi đọc tham luận về

Page 549: Tran Dan _ Poem

549

chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa tại hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc.

Ngày 1-10, nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa ra đời.

Trong bức thư nổi tiếng gửi Fadejev, nhà văn Mỹ U. Sinclair viết: “Ở Liên Xô, ai dám phê phán những khuyết điểm của chế độ hiện hành, giống như tôi đã công kích những mặt bất cập tại chính đất nước tôi, là lập tức bị xử bắn như hàng ngàn người khác.”

G. Orwell xuất bản “1984”.

1950 Trần Dần tham gia sáng lập nhóm Văn Nghệ Quân Đội đầu tiên: nhóm Sông Đà, với Trần Thư, Hoài Niệm... Tranh vẽ bộ đội theo lối lập thể và thơ bậc thang của Trần Dần bị chê là khó hiểu. Do bất đồng ngày càng rõ ràng với các cán bộ chính trị ở trung đoàn, ông xin chuyển công tác về Phòng Văn Nghệ Quân Đội thuộc Tổng Cục Chính Trị.

Thành lập chính phủ Bảo Đại.

Trung Quốc thôn tính Tây Tạng, tiến hành chỉnh phong và cải cách ruộng đất.

1951-1953 Trần Dần tham dự các khoá tuyên huấn toàn quân và chỉnh huấn chính trị. Về nhận công tác mới tại cục Quân Huấn và Ủy Ban Trung Ương Hội Văn Nghệ Quân Đội, phụ trách các lớp đào tạo và tập huấn chính trị cho văn công trong quân đội.

1951 Nam Cao chết trên đường công tác.

1952 Đinh Linh đoạt giải thưởng Stalin loại nhì với tác phẩm “Mặt trời chiếu trên sông Tang Càn”.

Stalin ra lệnh xử bắn 26 văn nghệ sĩ Do Thái.

1953 Luật cải cách ruộng đất được ban hành.

Page 550: Tran Dan _ Poem

550

Stalin qua đời.

Ngày 17-6, nổi dậy tại CHDC Đức, B. Brecht và J.R. Becher phê phán chính sách văn nghệ chuyên chính của Đảng và nhà nước.

Trần Dần bị phê bình là giảng sai chính sách văn nghệ của Đảng trong các khoá đào tạo cán bộ văn công do ông phụ trách.

1954 Ngày 13-3, chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu.

Trần Dần tình nguyện tham gia chiến dịch cùng với nhạc sĩ Đỗ Nhuận và hoạ sĩ Tô Ngọc Vân, thủ trưởng đơn vị là tướng Trần Độ.

Cái chết của Tô Ngọc Vân trong chiến dịch tác động mạnh mẽ đến Trần Dần. Trên đường hành quân ông viết một hơi tiểu thuyết Người người lớp lớp, cuốn tiểu thuyết duy nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đó về Điện Biên Phủ (xuất bản cùng năm, NXB Quân Đội Nhân Dân).

Ngày 7-5, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng.

Cải cách ruộng đất đợt I.

Ngày 20-7, Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam được ký kết tại hội nghị Genève.

Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tại Sài Gòn.

Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bàng Bá Lân, Đông Hồ, Nguyễn Hiến Lê,... di cư vào miền Nam. Trong 700 000 người miền Bắc di cư có các nhà văn miền Nam sau này: Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Duyên Anh, Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, ...

Tháng 7, Hồ Phong công bố bức thư ngỏ gửi BCHTƯĐCS Trung Quốc phê phán « năm lưỡi dao » đâm vào óc các nhà văn cách mạng.

Page 551: Tran Dan _ Poem

551

J.P. Sartre và S. de Beauvoir sang thăm Liên Xô.

Ngày 10-10, chính phủ kháng chiến tiếp quản Hà Nội.

Trần Dần được cử sang Trung Quốc viết truyện phim Điện Biên Phủ, cùng đi có Đỗ Nhuận. Ngày 10-10 khởi hành. Ngày 14-10 đến Nam Ninh. Sau đó đi Bắc Kinh.

Viết Anh đã thấy (thơ), Tiếng trống tương lai (thơ, đã trích đăng trong Văn Nghệ Quân Đội số... 1954).

Ngày 12-12, Trần Dần trở về Hà Nội.

1955 Tháng 1, Hồ Phong công khai tự phê bình. Tháng 5-1955, Hồ Phong bị bắt và bị kết án lao cải.

Sartre và Beauvoir sang thăm Trung Quốc.

63 nhà văn Hung-ga-ri lên tiếng phản đối chế độ độc quyền.

Tháng 3, Trần Dần tham gia phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tháng 4, Trần Dần cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội. Trần Dần viết đơn giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, đồng thời quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo.

Từ 13-6 đến 14-9, Trần Dần bị giam theo quân kỷ để kiểm thảo. Viết Cách mạng tháng Tám (thơ), Nhất định thắng (thơ). Từ 2-11 đến giữa tháng 2-1956, đi tham quan cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh.

Page 552: Tran Dan _ Poem

552

1956 Cuối tháng 1, trong lúc Trần Dần ở Bắc Ninh, Hoàng Cầm cho đăng bài thơ Nhất định thắng trong Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu.

Giữa tháng 2, Trần Dần trở về Hà Nội. Hội Văn Nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ Nhất định thắng với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Trần Dần bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp, đi ngược lại đường lối của Đảng và bị giam 3 tháng.

Ngày 24-2, Đại Hội 20 ĐCS Liên Xô chống Stalin. Fadejev tự tử. Phục hồi danh dự cho các văn nghệ sĩ bị giết và kết án dưới thời Stalin.

Ngày 7-3, báo Văn Nghệ số 110 đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ « Nhất định thắng » của Trần Dần của Hoài Thanh.

Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ định tự tử trong tù.

Trần Thị Băng Kha, con gái đầu lòng của Trần Dần ra đời.

Tháng 4, dư luận Hà Nội bất bình về việc trao giải thưởng văn nghệ 1954-1955. Ngày 26-5, Mao Trạch Đông phát động chiến dịch « Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng ».

Ngày 28-6, nổi dậy tại Poznan (Ba Lan).

Tháng 7, hoàn thành cải cách ruộng đất ở miền Bắc.

Tháng 8, lớp học 18 ngày của Hội Văn Nghệ Việt Nam về đường lối cải cách chống tệ sùng bái cá nhân Stalin tại Liên Xô.

Ngày 29-8, Giai Phẩm Mùa Thu tập I xuất bản, có đăng bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ của Phan Khôi.

Tháng 9, hội nghị lần thứ 10 BCHTƯĐ về sửa chữa sai lầm trong CCRĐ.

Page 553: Tran Dan _ Poem

553

Ngày 15-9, báo Nhân Văn ra số 1, do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký toà soạn, Minh Đức xuất bản, ban biên tập gồm Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm, có đăng bài Con người Trần Dần - Tiến đến việc xét lại một vụ án văn học: Trần Dần của Hoàng Cầm.

Ngày 30-9, báo Nhân Văn ra số 2.

Ngày 2-10, ban thường vụ Hội Văn Nghệ Việt Nam ra thông cáo thừa nhận sai lầm trong việc phê bình bài thơ Nhất định thắng.

Ngày 8-10, tái bản Giai Phẩm Mùa Xuân với bài thơ Nhất định thắng. Ngày 15-10, báo Nhân Văn ra số 3.

Giai Phẩm Mùa Thu tập II xuất bản.

Đất Mới số 1 (số duy nhất) xuất bản.

Tướng Nguyễn Sơn (ông tướng văn nghệ Khu IV) qua đời.

Tháng 10, 11, nổi dậy tại Hung-ga-ri, chính phủ dân chủ Nagy tuyên bố Hung-ga-ri trung lập. Liên Xô can thiệp vũ trang vào Hung-ga-ri. Laxness, Sartre, Beauvoir, Vercors... phản đối.

Tháng 10, nhóm văn học « Sáng Tạo » ra đời tại Sài Gòn với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Doãn Quốc Sỹ...

Ngày 5-11, báo Nhân Văn số 4 xuất bản.

Ngày 20-11, báo Nhân Văn số 5 xuất bản.

Tháng 12, Giai Phẩm Mùa Đông xuất bản

Ngày 9-12, Hồ chủ tịch ký Sắc lệnh về chế độ báo chí.

Ngày 15-12, ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 (số cuối cùng) của Nhân Văn không được in.

Boris Pasternak hoàn thành “Bác sĩ Zivago”.

Page 554: Tran Dan _ Poem

554

1957 Ngày 20-28/2, Đại Hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Trường Chinh nói chuyện, kêu gọi đấu tranh đập nát luận điệu phản động Nhân Văn-Giai Phẩm. Thành lập Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam.

Ngày 1-5/4: Hội nghị thành lập Hội Nhà Văn Việt Nam, Tô Hoài làm tổng thư ký, cơ quan ngôn luận là báo Văn, do Nguyễn Công Hoan làm chủ bút, Nguyễn Tuân phó chủ bút, Nguyên Hồng tổng thư ký toà soạn.

Ngày 10-5, báo Văn ra số 1.

Tháng 7/8, Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài tranh luận nhân việc báo Học Tập (cơ quan lý luận của BCHTƯĐCSVN) phê phán báo Văn.

Ngày 27-9, báo Văn số 21 đăng bài thơ Lời mẹ dặn của Phùng Quán.

Ngày 15-11, báo Văn số 28 đăng bài thơ Hãy đi mãi của Trần Dần.

Trần Dần viết Đi! Việt Bắc (trường ca, xuất bản năm 1991)

Đinh Linh bị khai trừ khỏi ĐCS Trung Quốc sau 25 năm là đảng viên. (Bà còn được phép làm lao công một thời gian trong trụ sở Hội Nhà Văn Trung Quốc, trước khi bị đày đi lao cải và ngồi tù cho đến năm 1975.)

Chỉnh huấn văn nghệ tại Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức.

Nhóm “Bách Khoa” ra đời tại Sài Gòn.

1958 Ngày 6-1, Bộ Chính Trị BCHTƯĐLĐVN ra nghị quyết số 30 NQ/TU về việc chấn chỉnh công tác văn nghệ.

Ngày 10-1, báo Văn số 36 (số cuối cùng) đăng truyện ngắn Ông Năm Chuột của Phan Khôi.

Page 555: Tran Dan _ Poem

555

Tháng 2, lớp học “đấu tranh tư tưởng” với 272 văn nghệ sĩ đảng viên tham dự.

Từ 3-3 đến 14-4, Trần Dần tham dự lớp học “đấu tranh tư tưởng” tại Thái Hà với 304 cán bộ văn hoá văn nghệ tham dự.

Ngày 4-6, hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp VHNTVN họp tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm.

Ngày 5-6, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm.

Trần Trọng Văn, con trai Trần Dần ra đời.

Ngày 2-7, bầu ban chấp hành mới của Hội Nhà Văn, tổng thư ký là Nguyễn Đình Thi.

Ngày 7-7, thông báo kỷ luật các văn nghệ sĩ đã tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm. Trần Dần bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn và đình chỉ xuất bản trong thời hạn 3 năm.

Từ 22-8 đến 2-1959, Trần Dần đi lao động cải tạo tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác.

Nhất Linh thành lập nhóm “Văn Hoá Ngày Nay” tại Sài Gòn.

Mao Trạch Đông phát động chiến dịch “Đại nhảy vọt”.

Pasternak, nhà văn xô viết đầu tiên được trao giải Nobel, song không được sang Thụy Điển nhận giải thưởng.

1959 Trần Dần viết Sắc lệnh 59 (thơ), Con tầu xã hội (thơ), 17 tình ca (thơ).

Bắt đầu viết Cổng tỉnh (thơ-tiểu thuyết).

Page 556: Tran Dan _ Poem

556

Tháng 11, Trần Dần được phân công dịch tại ga-ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực.

Ngày 10-12, khai mạc phiên toà xử Thụy An và Nguyễn hữu Đang (cả hai bị kết án 15 năm tù).

Phan Khôi qua đời.

Cách mạng Cu Ba với Fidel Castro và Ché Guevara thắng lợi. Hemingway, G.G. Marquez chào mừng cách mạng Cu Ba.

1960 Từ 19-3 đến 11-5, Trần Dần đi lao động cải tạo tại khu gang thép Thái Nguyên cùng với Lê Đạt. Sau đó về Hà Nội nghỉ phép.

Từ 13-6 đến 18-8, Trần Dần lại đi lao động cải tạo tại Thái Nguyên. Sau đó ốm nặng.

Hoàn thành Cổng tỉnh (xuất bản năm 1994).

Từ đó sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.

Miền Bắc hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế văn hoá (1958-1960).

Xung đột Trung-Xô bắt đầu.

1961 Miền Bắc bắt đầu kế hoạch xây dựng XHCN 5 năm lần thứ nhất (1961-1965).

Ngày 13-8, CHDC Đức xây bức tường Berlin.

Trần Dần viết Đêm núm sen (tiểu thuyết).

1962 A. Solshenizyn xuất bản « Một ngày trong đời Ivan Denissovitch ».

1963 Đảo chính tại Sài Gòn. Ngô đình Diệm và Ngô đình Nhu bị giết.

Ngày 7-7, Nhất Linh tự tử tại Sài Gòn.

Trần Dần viết Jờ Joạcx (thơ).

Page 557: Tran Dan _ Poem

557

1964 Mỹ chính thức tiến hành chiến tranh quân sự tại Việt Nam.

Mỹ ném bom miền Bắc lần thứ nhất.

Nhà thơ Josip Brodski bị kết án về tội ăn bám, tức hoạt động văn học ngoài phạm vi của Hội Nhà Văn Liên Xô.

Trần Trọng Vũ, con trai út của Trần Dần ra đời.

Trần Dần viết Mùa Sạch (thơ, xuất bản năm 1998), Những ngã tư và những cột đèn (tiểu thuyết).

1965 Sholokhov được trao giải Nobel.

Trần Dần viết Một ngày Cẩm Phả (tiểu thuyết).

1966 Mao Trạch Đông phát động cuộc Đại Cách Mạng Văn Hoá.

Ché Guevara ly khai với F. Castro.

1967 Đại Hội các nhà văn Tiệp Khắc công bố thư ngỏ của Solshenizyn gửi Đại Hội các nhà văn xô viết.

B. Russel, J. P. Sartre, Peter Weiss tham dự Diễn Đàn Việt Nam tại Stockholm.

Trần Dần viết Con trắng (thơ hồi ký).

1968 Mùa xuân Praha. Ngày 21-8, Liên Xô can thiệp quân sự vào Tiệp Khắc. Hàng loạt văn nghệ sĩ Tiệp Khắc rời khỏi đất nước, phần lớn giới trí thức bị treo nghề.

Milan Kundera sang tị nạn tại Paris.

Phong trào sinh viên và trí thức cánh tả phương Tây phản đối Mỹ và ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam.

A. Sacharov xuất bản cuốn hồi ký „Về tiến bộ, chung sống hoà bình và tự do tư tưởng.“

Tổng tiến công quân sự Tết Mậu Thân tại các thành phố lớn miền Nam.

Trần Dần viết 177 cảnh (hùng ca lụa).

Page 558: Tran Dan _ Poem

558

1970 A. Solshenizyn được trao giải Nobel.

1973 Hiệp định Paris về việc chấm dứt can thiệp quân sự của Mỹ tại Việt Nam.

Trần Dần bị xuất huyết não lần thứ nhất, nửa trái cơ thể mang dị tật cho đến cuối đời.

1974 A. Solshenizyn bị bắt và trục xuất khỏi Liên Xô.

Trần Dần viết Động đất tâm thần (nhật ký-thơ).

1975 A. Sacharov được trao giải Nobel.

Ngày 30-4, chính phủ Dương văn Minh đầu hàng. Hàng loạt văn nghệ sĩ miền Nam di tản.

1976 Mao Trạch Đông qua đời.

Ngày 2-7, nước Việt Nam thống nhất, đổi tên thành Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Trần Dần và Dương Tường thử nghiệm “Thơ thị giác”. Dương Tường viết “Đàn”, Trần Dần khởi thảo “Thơ không lời”.

1977 Đặng Tiểu Bình được phục hồi, phát động chiến dịch “Bốn hiện đại hoá” tại Trung Quốc.

Chiến dịch bài trừ người Hoa tại Việt Nam.

1978 Trần Dần viết Thơ không lời - Mây không lời (thơ-hoạ).

1979 Trần Dần viết bộ tam Thiên Thanh - 77 - Ngày ngày.

Chiến tranh biên giới Việt-Trung.

1980 Nhà văn Tiệp lưu vong C. Milosz được trao giải Nobel.

Trần Dần viết bộ tam 36 thở dài - Tư Mã dâng sao.

1985 Gorbachev được bầu làm tổng bí thư ĐCS Liên Xô.

1986 Tháng 12, Đại Hội VI ĐCSVN ra nghị quyết về chính sách “Đổi Mới”.

Page 559: Tran Dan _ Poem

559

Dương Thu Hương viết “Những thiên đường mù”.

1987 Ngày 6-7/12, tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn văn Linh họp với gần 200 các nhà hoạt động văn hoá Việt Nam tại Hà Nội.

Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh tử nạn.

Nguyễn Tuân qua đời.

Nguyễn Huy Thiệp viết « Tướng về hưu ».

Trần Dần vào Nam cùng với Phùng Quán.

Trần Dần viết Thơ mini.

1988 Hồ Phong được phục hồi danh dự.

Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm,... được mời tham gia sinh hoạt văn học trở lại. Tháng 5, Trần Dần vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc.

Phạm Thị Hoài hoàn thành tiểu thuyết « Thiên sứ ».

1989 Tháng 6, thảm sát tại quảng trường Thiên An Môn, phong trào dân chủ tại Trung Quốc bị đàn áp đẫm máu.

Bức tường Berlin sụp đổ.

Lê Đạt & Dương Tường ra tập « 36 bài tình».

1990 Dương Thu Hương bị bắt giam 6 tháng.

Bảo Ninh viết «Nỗi buồn chiến tranh».

1991 Trường ca Bài thơ Việt Bắc được xuất bản tại Hà Nội, NXB Tác Phẩm Mới.

Bùi Ngọc Tấn hoàn thành tiểu thuyết « Mộng du» sau đổi tên thành «Chuyện kể năm 2000».

1992 Trần Dần vào Nam thăm bạn bè văn nghệ sĩ cùng Dương Tường.

1994 Tiểu thuyết-thơ Cổng tỉnh (1960) được xuất bản tại Hà Nội, NXB Hội Nhà Văn.

Lê Đạt xuất bản «Bóng chữ».

Page 560: Tran Dan _ Poem

560

1995 Cổng tỉnh được trao giải thưởng của Hội Nhà Văn Việt Nam.

1997 Trần Dần từ trần hồi 10 giờ 30 sáng ngày 17 tháng 1 tại Hà Nội.

1998 Tập thơ Mùa sạch được xuất bản tại Hà Nội, NXB Văn Học.

2001 Trần Dần – Ghi (1954-1960) do Phạm Thị Hoài biên tập và hiệu đính, xuất bản bởi TD mémoire và NXB Văn Nghệ, California, USA.

2004 Tiểu thuyết Người người lớp lớp được tái bản tại Hà Nội, NXB Hội Nhà Văn.

Page 561: Tran Dan _ Poem

561

Dư luận về Trần Dần

Trích THÔNG CÁO CỦA BAN THƯỜNG VỤ HỘI VĂN NGHỆ VIỆT NAM NGÀY 2-10-1956: Trong bài thơ Nhất định thắng đăng trong tập Giai Phẩm Mùa Xuân đầu năm 1956, ban thường vụ nhận thấy có những khuynh hướng tư tưởng sai lầm nghiêm trọng cần phải phê bình. Tháng 2-1956, ban thường vụ tổ chức phê bình bài thơ đó. Vào lúc ấy, anh Trần Dần đang có một số vấn đề trong quân đội chưa được rõ ràng... TỐ HỮU: ... bọn Trần Dần, Tử Phác - những đứa con hư hỏng của Hà Nội cũ – nay lại trở về với những "cảnh cũ người xưa" bỗng cảm thấy đời sống trong quân đội "nghẹt thở", chỉ vì thiếu cái tự do trở lại đời sống truỵ lạc cũ. Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "Tiếng trống tương lai", chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người dòi", "người ụ". Cùng Tử Phác khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ. Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thành lập trong quân đội một Chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị" ... (Trích: Báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại Nhân Văn – Giai Phẩm trong hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp VHNTVN họp lần thứ III ngày 4-6-1958 tại Hà Nội) HUY VÂN: ... Trần Dần cũng đi vào kháng chiến, nhưng vẫn không chịu từ bỏ những quan điểm nghệ thuật sa đoạ của hắn. Trong "nhóm văn nghệ Sơn La", hắn đã vẽ toàn lối tối tăm khó hiểu, biến hình ảnh anh dũng và đẹp đẽ của bộ đội ta thành

Page 562: Tran Dan _ Poem

562

những hình thù rất quái gở, làm thơ cũng vậy. Ở Sơn La, cái lối sống và quan niệm sáng tác đã đưa Trần Dần đến nhiều sai lầm, bị thi hành kỷ luật. (Trích bài: "Một tâm hồn đồi truỵ : Trần Dần", Nhân Dân ngày 25-4-1958) HỒNG CHƯƠNG: ... Cũng như Trần Dần ngày nay đấm ngực gào thét "phải sáng tạo", "hãy đi mãi!". Nhưng thử hỏi đi tìm cái mới nhưng là cái mới nào? Hãy sáng tạo nhưng sáng tạo để làm gì? Hãy đi mãi nhưng đi đến đâu? Nếu chỉ mới để mà mới, sáng tạo để mà sáng tạo, đi để mà đi, thì chính là đang đi vào con đường cũ, rất cũ, con đường "nghệ thuật vì nghệ thuật" đã có hàng trăm năm nay, không có một chút gì là sáng tạo cả. Đó là thứ nghệ thuật cũ rích và đồi truỵ. (Trích, Văn Nghệ, số 10, tháng 3-1958)

NGUYỄN LY: ... Về những văn bản của Trần Dần mà chúng ta đang có, tôi thiết nghĩ không cần trở lại với những Nhất định thắng, Người người lớp lớp,… vì giá trị nghệ thuật ít ỏi của những tác phẩm này là điều khỏi cần chứng minh. Tuy nhiên, nhà phê bình nào chỉ ra được điều ngược lại, hẳn là nhiều người đọc cũng như tôi, sẽ rất sung sướng lĩnh hội. Còn lại là Cổng tỉnh, Mùa sạch, Sổ bụi, Jờ joạcx… những tác phẩm của Trần Dần mới được ra mắt mấy năm gần đây (tôi chỉ kể những tác phẩm chủ yếu).

Theo phương pháp loại suy, tôi bắt đầu từ Cổng tỉnh. Đây là một tác phẩm không có gì phức tạp, có thể xếp vào dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa, và ngay trong dòng hiện thực này, nó cũng không phải là một tác phẩm xuất sắc. Không có một cách tân nào trong tác phẩm này. Chúng ta còn điều gì để bàn thêm về Cổng tỉnh nữa không? ... (Trích mục "Thảo Luận" trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003)

Page 563: Tran Dan _ Poem

563

THANH NAM : ... Tôi cũng không dám chắc bản thân Nguyễn Ly đã đọc Cổng tỉnh của Trần Dần .... Không bình luận một từ nào của Cổng tỉnh, Nguyễn Ly gán ngay cho nó cái nhãn hiệu tác phẩm "không xuất sắc" của "dòng hiện thực xã hội chủ nghĩa" mà người đọc nào cũng chán ngấy đến mức chỉ mới nghe thoáng từ xa đã vội vàng bỏ chạy. Chớp nhoáng, Nguyễn Ly giành cho Cổng tỉnh ba dòng kết tội: "Đây là một tác phẩm không có gì phức tạp…Chúng ta còn điều gì để bàn thêm về Cổng Tỉnh nữa không? "

Vâng, "khỏi cần chứng minh", "chúng ta còn điều gì để bàn thêm…nữa không?" chính là phương pháp đánh trống lảng của Nguyễn Ly: đừng nói nữa, để cho người ta quên đi Trần Dần, bởi vì "nếu chẳng ai biết đến nó thì nó chẳng có chức năng nào hết"! (Trích mục "Thảo Luận" trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003)

LÊ DĂ THẢO : ... Thứ hai là "nữ". Trong Jờ Joạcx, bất cứ cái gì, bất cứ ai cũng là nữ, cũng thành nữ. Cả một tiến trình nữ hoá! Ở đây, không phải chỉ là ám ảnh tình dục mà chính là mặc cảm bị thiến hoạn.

Vì sao có mặc cảm này? Một nghệ sĩ có khả năng sáng tạo, đang trong độ tuổi sáng tạo mà bị "treo bút" thì có khác nào một người đang trong độ tuổi sinh đẻ và có khả năng sinh đẻ mà bị thiến hoạn? Ở đây chúng tôi không bàn tới quan niệm của Trần Dần về quá trình sáng tạo, về quan hệ giữa tác giả, tác phẩm và công chúng mà chỉ đề cập tới ám ảnh của ông khi công việc sáng tác đang thời kỳ sung mãn bị ngưng trệ đột ngột. Nỗi đau khổ ấy có khác nào Tư Mã Thiên ngồi viết Sử ký sau khi bị cung hình? Cái khác là ở sự hồi đáp của ngòi bút sau biến cố. Tư Mã Thiên bị cung hình thật còn Trần Dần chỉ bị cung hình "ảo"! Có lẽ vì thế mà Jờ Joạcx mang mặc cảm thiến hoạn chăng? Độc giả có nhận thấy mặc cảm đó trong Sử ký không?... (Trích mục "Thảo Luận" trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003)

Page 564: Tran Dan _ Poem

564

ĐẶNG ĐÌNH ÂN : ... Tôi thấy cần thiết phải góp ý với Lê Dã Thảo (LDT) về thái độ tranh luận không đàng hoàng và thiếu văn hóa của LDT.

Vì lý do nào mà LDT phải gán cho Trần Dần "mặc cảm bị thiến hoạn"? Theo tôi, đó là một câu văng tục không nên có trong tranh luận văn học... (Trích mục "Thảo Luận" trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003)

ĐỖ MINH TUẤN : ... Trong thái độ thi ca của Trần Dần có dáng dấp lam lũ tội nghiệp của bà mẹ nông dân Việt Nam nghèo, đang lau sạch từng đồ vật, kiểm kê tính đếm từng đồ vật, cả những cái chổi cùn rế rách cũng vô cùng gắn bó và quý giá, không thể bỏ đi, không cái gì thừa. Ðó là cái văn minh bảo tàng của những người nghèo nặng tình nặng nghĩa. Nó đối lập với kiểu văn minh của nhà giàu kỹ thuật cao, sẵn khăn giấy, bút bi và những thứ đồ hộp lạnh lùng dùng xong vứt bỏ không lưu luyến, không kỷ niệm, cũng khác hẳn với văn minh máy giặt cho tất cả vào làm sạch đồng loạt bằng một cú bấm nút nhẹ nhàng, đơn giản, dửng dưng. Cái kể lể tham tham của Trần Dần là phát lộ cái tâm lý trân trọng cái cụ thể của người Việt, cái gắn bó ân tình của người nông dân với những đồ vật nghèo cũ rách đã theo mình đằng đẵng bao năm. Không thể lấy vật này thay vật kia, lấy người này thay người kia, vì mỗi vật, mỗi người là một vương quốc riêng một kỷ niệm riêng đầy giá trị và máu thịt. Nếu có một Mùa sạch trời cho, thì cái sạch đó phải đến với từng người từng vật ... (Trích mục "Thảo Luận" trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003) ĐOÀN CẦM THI : Có lẽ chính vì quá lo âu về "nghĩa" mà văn học đã phát triển chậm hơn các hình thức nghệ thuật khác? Trước một bức tranh trừu tượng, ít người đặt câu hỏi về "nội dung",

Page 565: Tran Dan _ Poem

565

"tình cảm", "tư tưởng", đơn giản vì hội hoạ hiện đại đã vượt ra khỏi những vấn đề này, lên đường tìm kiếm những cuộc phiêu lưu mới. Tính trừu tượng đó, Trần Dần muốn đem lại cho thơ. Ông đảo ngược hoàn toàn khái niệm về thơ, về chữ. Mùa sạch không có các yếu tố cảm xúc, tâm lý. Mùa sạch không "kể chuyện", không có "nội dung", không mang "ý nghĩa chủ đạo", không hàm chứa "tính tư tưởng". Bằng chứng là nó không thể diễn nôm được và khó học thuộc lòng. Các chi tiết của nó không liên quan đến nhau, không giải thích cho nhau một cách logique, hợp lý. Nhà thơ từ chối làm "văn vần". Vì vậy, mọi phân tích tâm lý và cú pháp nhằm "hiểu", "giải nghĩa", "giải mã" thơ Trần Dần, sẽ dẫn đến thất bại. ... Mùa sạch của Trần Dần gần gũi với những tìm kiếm của nhiều nghệ sĩ cùng thời với ông. Cách ông lặp đi lặp lại một từ (mùa, sạch, trong, thu...) hay một cụm từ ("Tôi nhất thích công tác ở Việt nam mùa", v.v) làm người ta nghĩ đến tác phẩm mang tên Marylin Moroe (1962) trong đó chân dung cô diễn viên Mỹ được A. Warhol vẽ theo lối chụp ảnh với nét bút và màu mực thô, rồi nhân lên hàng trăm lần... (Trích Thu Trần Dần, đăng trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003) NGUYỄN HỮU HỒNG MINH : ... Trần Dần là một trong số ít các nhà thơ còn nhiều bí ẩn ở Việt Nam. Những tác phẩm thơ của ông như Cổng Tỉnh, Mùa Sạch…rất lạc loài nhưng tự nó có một đời sống riêng trong dòng chảy văn nghệ. Nó cũng chẳng cần gì cái dòng chảy phong trào nổi nênh, phù du ấy. Tôi nghi ngờ tất cả các bài viết về thơ Trần Dần. Những bài viết mà nhà phê bình tự cho rằng y ta đã hiểu hết văn cách và nhân cách của Trần Dần. Y đã "vớt" Trần Dần như một con cá giãy đành đạch trên cái lưới. Trần Dần vượt qua khỏi những cách phê bình thô cộc và áp đặt bởi đơn giản là tác phẩm ông đã rời bỏ thời đại mà

Page 566: Tran Dan _ Poem

566

chúng ta đang mòn mỏi và hy vọng nhỏ giọt "cân đong đo đếm" từ lâu. (Trích Với một nhà thơ, đăng trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003)

NGÔ MINH : ... Và khi tiếp xúc nhiều lần với ông, nghe ông kể chuyện và đọc thơ văn ông, tôi nhận ra một điều lý thú: Ngôn ngữ của ông cũng long lanh ánh sáng rất ấn tượng như mắt ông! (Trích Ba buổi sáng với Trần Dần, Huế tháng 2-1997)

PHONG LÊ: ... chỉ nêu cái hiện tượng Trần Dần với bài thơ Nhất định thắng khá ồn ào và ấn tượng mà chúng tôi được trực tiếp nghe - hiểu, đọc - hiểu, để thành sau đó thành một sự im lặng của Trần Dần, kéo dài trên ba mươi năm, từ 1956 đến cuối những năm 80.

Trong im lặng là những bản dịch không đề tên, sau này tôi mới biết là của Trần Dần. Chẳng hạn bản dịch một tiểu thuyết hiện đại Ru-ma-ni Những người chân đất của Xtăng-cu dầy như nửa cái gối mà không đề tên người dịch. (Trích Trần Dần : - "cái nòi bao giờ và ở đâu cũng hiếm" , tạp chí Sông Hương số 112, tháng 6-1998)

NAM DAO: ... Lê Đạt nhắc kỷ niệm xưa, giọng tiếc nuối: "Dần nó có tư cách “chưởng môn”! Còn mình thì không, cứ bông lơn ba lăng nhăng"... Tôi lại hình dung ra con cọp ngày, mắt rừng rực, quyết liệt tuyên ngôn, rằng cái kho chữ là tài sản quí nhất của một dân tộc. Anh nhếch mép, râu rung rinh đùa hỏi tôi, cái môn kinh tế học của cậu nó có dạy thế không? Không hả, anh

Page 567: Tran Dan _ Poem

567

cười, thế thì "hỏng". Những giờ phút ấy thật hiếm. Đùa xong, anh lại trầm ngâm. (Trích từ tập Những con người, những bóng ma, nhà xuất bản Văn Mới , 2005) THUẬN: ... Nỗi niềm Phố của Trần Dần chỉ có thể ví được với sự tận tâm mà Bùi Xuân Phái trong công cuộc tìm kiếm hội họa đã dành cho Phố. Nếu Phố Trần Dần là những câu thơ xù xì góc cạnh khó được coi là thơ ca thì Phố Phái với những nét vẽ to đen nghuệch ngoạc cũng khác thường so với nền mỹ thuật đương thời vẫn mê mải nghệ thuật trang trí tả thực và hiền lành. Sự gần gũi này giải thích lý do hai người lúc sinh thời tuy không phải là bạn chí cốt nhưng luôn trọng nhau, giải thích cái danh hiệu "người Quốc họa" mà Trần Dần đặt cho Bùi Xuân Phái. ... Thơ đã tách Trần Dần ra khỏi những bi kịch cuộc đời để đưa ông vào một bi kịch khác, bi kịch của nhà thơ. Càng về sau, sáng tác của ông càng trở nên khó đọc. Ngày nay những ai hiếm hoi có dịp được tiếp xúc với chúng vẫn không làm sao quen được phong cách không ngừng mới và đầy bất ngờ của ông. Trong khi độc giả Việt Nam còn nhớ mãi những câu thơ về Phố Sinh Từ, về "mưa sa trên màu cờ đỏ", về cô gái Hà Nội, thì Nhất định thắng đã bị từ chối lâu lắm rồi bởi chính tác giả của nó. (Trích Tôi ở phố Sinh Từ, đăng trong chuyên đề Trần Dần, báo mạng Tiền Vệ, 2003) HOÀNG CẦM: ... Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai Phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ « Nhất định thắng» bị đem ra luận tội...

Page 568: Tran Dan _ Poem

568

Kẻ nào hô ra hai tiếng « phản động » đầu tiên để gọi cả làng ra đánh chết Trần Dần? Tôi có suy nghĩ mãi, lòng như dao chém – Thôi thế là đêm luận tội này đã đóng cái án tử hình xuống một bài thơ, xuống một con người, đồng thời là một sự đe doạ nặng nề chung cho anh em văn nghệ sĩ đang muốn tìm những lối sáng tác khác với cái bè phái kia. Sau cuộc lên án đó, tôi không được biết tin gì về anh. Tôi đoán biết lần này thì anh sẽ thực sự ngồi tù. Vợ anh gần đến tháng ở cữ, vật vã khóc ngày khóc đêm vì quả nhiên, sau cái ngày mùng 2 Tết ấy, anh đi không về nữa. Tôi cũng ân hận hết ngày ấy qua ngày khác, luôn luôn thấy mình là thằng làm hại bạn: - Dần ơi, bây giờ mày nằm trong nhà tù nào, mày có trách tao không? Lúc này tôi lo sợ hơn lần trước anh bị giam lỏng hơn ba tháng. Lần này cái bè phái độc quyền văn nghệ kia nó quyết liệt hơn trước, trong không khí văn nghệ đã nghe thấy máu, lửa. Tôi lo ngày lo đêm đến con người anh. Lần trước, anh còn chịu được và còn có thể bình tĩnh. Đến lần này, liệu anh có đủ can đảm chịu đựng hay không? Tôi đã nghĩ đến cái phút đau đớn cực độ, anh không thiết sống nữa thì một lưỡi dao, một cái đập đầu vào tường... tôi sẽ mất một người bạn, và chúng ta mất tác giả « Người người lớp lớp », tương lai mất một nhà thơ. Khi chị K... ốm nghén, bơ vơ trong một căn nhà, chống gậy sang nhà hàng xóm xin từng ngụm nước, là lúc người yêu của chị đi 3 tháng không về. Khi chị K... đau quằn quại, cho ra đời đứa con gái đầu tiên của một mối tình cay đắng, là lúc người yêu của chị lại đi... không biết bao giờ về.

Page 569: Tran Dan _ Poem

569

Đứa bé ra đời, còm rom như một con mèo ốm. Nó quặt quẹo, sài đẹn mấy lần tưởng chết. Chị K... nuôi con bằng nước mắt nhiều hơn bằng sữa. Tin anh vẫn mịt mù. Lần này chị không còn hiểu lầm anh là « phụ bạc » nữa, chị đã biết sự thực. Chị không oán thán nữa, chị ôm con mà khóc. Có lần tôi đến thăm, chị kể lể: - Giá đừng biết nhau, đừng yêu nhau thì anh ấy đỡ khổ, tôi cũng đỡ khổ và không đến nỗi phải cho ra đời một đứa bé khổ sở thế này. – Liệu nó có mất bố không hở anh? – Liệu tôi có goá chồng sớm không hở anh? Tôi như bị kim chích vào tim. Bé đứa bé thấy nhẹ bỗng, mặt mũi nó nhăn nhúm, méo mó, tôi đã khóc và suy nghĩ rất lâu về giá trị con người. Đặt tên cháu bé là gì để kỷ niệm những ngày bố cháu và cả nhân phẩm văn nghệ sĩ bị trà đạp xuống bùn đen?

Hôm nay Trời đã thôi mưa thôi gió Nắng lên đỏ phố đỏ nhà Đỏ mọi buồng tim lá phổi Em ơi! Đếm thử bao nhiêu ngày mưa ...

Sau khi học tập nghị quyết của Đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, cái tin vui từ lòng tôi tự dưng to ra: - Trần Dần chắc sẽ được về! Quả nhiên, một buổi chiều sang hè anh đã về. Tin đó đến với tôi không đột ngột lắm, vì tôi tin chắc ở ánh sáng Đảng Cộng sản Liên Xô, tin ở chân lý mà Đảng ta nắm rất vững.

Anh đã về. Gặp anh, tôi không nói gì được. Vẻ mặt anh vẫn vui, nhưng có hằn thêm những nét khắc khổ. Da mặt xanh, người gầy rộc. Nói chưa được một câu, anh đã cười, vẫn giọng cười hồn nhiên, khoe với tôi 4 bài thơ anh đã làm trong lúc bị giam, và

Page 570: Tran Dan _ Poem

570

khoe rằng sở dĩ anh được về là nhờ có sự sáng suốt của Trung ương Đảng. Tôi đọc kỹ bốn bài thơ đó, và nhìn anh kinh ngạc. Tôi không thể nghĩ được rằng trong cảnh bị giam đau đớn thế, anh lại có đủ bình tĩnh làm những bài thơ sáng sủa chan chứa lòng yêu đời, yêu Đảng như thế này. Tôi thấy quí và kính phục người bạn mà tôi cho là rất anh dũng. Tôi khoan khoái đọc to mấy đoạn thơ của anh, anh ngửa mặt lên, tôi chợt nhìn thấy ở cổ anh một vết sẹo dài nằm ngang cuống họng, thịt mới liền, còn đỏ tươi. Tôi hiểu cả, không hỏi thêm anh điều gì... Trước mắt tôi, là một người có sức mạnh chống chọi với tủi nhục, với thành kiến, cả đến những lời vu cáo đanh thép nhất cũng đã rụng dưới chân anh như cỏ héo. Trước mắt tôi là một người chí tình, tha thiết, đã có những phút yếu đuối, tiêu cực, đã có những phút bốc lên quá nóng nẩy cục cằn, đã tự do bừa bãi nhưng không lúc nào ngừng hoạt động vì tiền đồ rực rỡ của Văn nghệ. Trước mắt tôi là một người con dũng cảm của Đảng, có thuỷ có chung, biết tin yêu Đảng vô bờ bến, biết căm ghét những cái thối nát đang làm hại đến uy tín của Đảng, của Quân đội. Trước mắt tôi là Trần Dần. Trước mắt tôi lúc viết bài này là một chuyện kéo bè để vu cáo trắng trợn, một vụ án văn chương vô cùng oan ức, một tài năng và một tâm hồn trong sạch bị dầy xéo. Trước mắt tôi là lòng tin vào ánh sáng của Đảng. ánh sáng đó sẽ soi rọi vào bất cứ chỗ nào đang cần bảo vệ giá trị con người. (Trích Con người Trần Dần, Nhân văn, ngày 20 tháng 9 năm 1956)

Page 571: Tran Dan _ Poem

571

Mục lục

Lời tựa .......................................................... Trang 7

PHẦN I. HÃY ĐI MÃI ! ...................................... . 11 I.1. 1955 ............................................................... .13 - Thư Nguyễn Đình Thi gửi Trần Dần ............... 15 - Nhất định thắng ............................................... .17 - Tình yêu ........................................................... 31 - Bốn mặt tường ................................................. .36 - Hát sao.............................................................. 40 - Một tia hy vọng ............................................... .41 - Xin nghỉ phép.................................................... 42 - Thư không gửi ................................................. .46 - Con người Trần Dần ......................................... 48 I.2. CHÍN NĂM TRƯỚC........................................ 55 - Dạ đài bản tuyên ngôn tượng trưng ................ .57 I.3: ĐÂY VIỆT BẮC ........................................ ... ..65 - I......................................................................... 66 - IV ..................................................................... 73

Page 572: Tran Dan _ Poem

572

- X ......................................................................77 - Một chút về Trần Dần...................................... 84 I.4. CỔNG TỈNH ................................................... 91 - Khai tù ............................................................ 92 - Bạn cũ ............................................................. 94 - Gái trai thành quách bàn cờ ............................ 95 Văn sĩ Hoài - Bơ vơ .............................................................. 96 - Cổng tỉnh ........................................................ 99 Cổng tỉnh (tiếp) - Cầu nguyện. ...................................................100 Nam Định - Mười bảy tuổi ................................................ 101 - Bóng .............................................................. 103 - Vắng. ..............................................................104 Trường con gái - Đâu sao tráng quê xưa? .............................. .. 105 Đường cùng - Người vật nhau với thế giới tàn bạo .............. 108 - Nhớ ................................................................ 109 - Người phá tù .......................................... ....... 110 - Những ngày viết Cổng Tỉnh .................. ..... ..111 - Khi cách mạng là nhu cầu nội tại của một thi sĩ ............................................... .115 I.5. CHIỀU VÔ LỄ .................................................121 - Cột đèn câm ...................................................122 Bước chân tím - Yêu ............................................................... 123 Tình yêu xám Đừng yêu - Chờ ................................................................124 - Ngã tư xưa .....................................................125 - Khách bộ hành ...............................................126 Noen

Page 573: Tran Dan _ Poem

573

- Đại lộ khói ........................................ ............127 Phố vô lý - Chiều vô nghĩa ...............................................128 - Bài hát người lớn............................... ...........130 - Mưa kỷ hà. ....................................................132 Ngã tư - Chín bức mưa thư .........................................133 - Đường vô tận.................................................137 - Chiều lam. ....................................... ..............138 Bài thơ phố Không đề số 1 - Không đề số 2................................................139 Không đề số 3 - Không đề số 4 ...............................................140 - Đoạn kết ........................................................141 PHẦN II. NGOẠI LUẬT ....................................143 Thủ lĩnh trong bóng tối .................................144 II.1. BIẾN TẤU CHỮ. BIẾN TẤU ÂM ...............155

- Ba bài tập.......................................................156 - Trên quả đất mùa.............................. .............158 - Thích toàn mùa ............................................. 162 - Lời bạt Mùa Sạch ............................ .............165 - Sạch ...............................................................168 - Sau mưa .................................................. ......169 Tìm em - Tác phẩm Mùa Sạch của Trần Dần qua góc nhìn của nghệ thuật khái niệm .........175 - Con OEE ......................................................182 - Hậu con OEE .................................................187 - Con I ..............................................................189

Page 574: Tran Dan _ Poem

574

II.2. CÁC CẤU TRÚC ..........................................193 - Thằng thịt ........................................... ..........195 - Con trắng ......................................................199 - Cấu trúc của Con Trắng ................................214 - Kể kệ .............................................................219 II.3. Jờ Joạcx ............................................. .............233 - Tưạ Jờ Joạcx .................................... .............236 - 17 thiên Jờ Joạcx ............................. ............240 - Để đến với Jờ Joạcx .......................... . ..........271 II.4............................................ .............. . ..............283 - 36 thở zài ....................................... .. ....... ....285 - Giả thiết cho 36 thở zài ............ ....... . ......... .325 II.5. LỜI & KHÔNG LỜI .................... ...............329 - Con I. 3 tấu VĨ VI EXTRAVI .......................330 - Vì sao thơ có hoạ ? ........................................348 PHẦN III. VÁN THU KHÔNG ...........................355

III.1. SỔ BỤI...........................................................357 - Đau lòng Sổ Bụi ... những bức thư không gửi ...............................358 - Sổ thơ 1973 - 1974 ........................... .. ..........379 - Sổ thơ 1975 ..................................... .. ...........385 - Sổ thơ 1976. ..................................... .... ........392 - Sổ thơ 1977 – 1978 ........................... ..........401 - Sổ bụi 1979 ........................................ ...........404 - Sổ bụi 1980 – 1981 ........................................414

Page 575: Tran Dan _ Poem

575

- Sổ bụi 1982 ....................................................421 - Vở bụi 1983 – 1984 .......................................429 - Sổ bụi. Vở bụi – 1985 .................... ...............433 - Sổ bụi 1986 .......................................... .........440 - Sổ bụi. Vở bụi. 1987......................... ... .........442 - Sổ bụi 1988 ............................................. ......451 - Sổ bụi cuối 1989 ......................... ...... ............464 III.2. THƠ MINI ....................................................471 - Chỉ dẫn mẻ đầu thơ mini ................................472 - 59 mini ...........................................................473 - Cái đầu dạ khúc .............................................528 - Về thơ mini ....................................................533 - Gặp gỡ Trần Dần đối thoại mất ngủ ....... ......535 PHỤ LỤC ............................................................543 - Hai bài thơ đầu tay ........................................544 - Niên ký ..........................................................546 - Dư luận về Trần Dần .....................................561 - Mục lục .........................................................571 Tất cả những bản vẽ, hình minh hoạ cho bìa sách và cho toàn bộ cuốn THƠ đều được lấy trực tiếp từ DI CẢO Trần Dần.

Page 576: Tran Dan _ Poem

576

Gia đình Trần Dần và những người xuất bản cuốn sách này xin đặc biệt cảm ơn nhà thơ Dương Tường và nhà văn Phạm Thị Hoài trong việc bảo tồn và phổ biến di cảo Trần Dần, cùng toàn bộ những bạn bè thân hữu đã giúp đỡ chúng tôi thu thập tài liệu xung quanh cuộc đời và tác phẩm của nhà thơ.

Biên soạn: Vũ Văn Kha Hà Nội 2006.