trao ĐỔi tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế xã hội...

16
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 33, Số 1 (2017) 50-65 50 TRAO ĐỔI Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế-xã hội đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc Đỗ Đức Minh * Đại hc Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cu Giấy, Hà Nội, Vit Nam Nhận ngày 05 tháng 01 năm 2017 Chnh sửa ngày 24 tháng 02 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2017 Tóm tắt: Vùng Tây Bắc có vị thế địa chính trị vô cùng quan trọng, liên quan mật thiết đến sự tồn vong và hưng thịnh của đất nước. Nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế - xã hội đến việc phát sinh và phát triển của các loại tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc góp phần nhận diện, làm rõ những đặc điểm, yêu cầu, thuận lợi và thách thức trong công tác đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung. Từ khóa: Tây Bắc, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia. 1. Một số vấn đề về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội vùng Tây Bắc 1.1. Điều kiện tự nhiên (1). Vùng Tây Bắc có kiến tạo địa chất đa dạng phức tạp và có địa hình cao nhất, bị chia cắt nhất, hiểm trở và trọng yếu nhất Việt Nam. miền đất của những núi cao và cao nguyên (đá vôi xen lẫn núi đất), nơi đây đặc trưng có nhiều dãy núi cao trải dài hình rẻ quạt hướng tây bắc-đông nam (khu vực Lào Cai, Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình) hoặc có những dãy núi cao chạy theo hình cánh cung (khu Việt Bắc). Nhiều khối liền mạch núi sông và dãy núi cao kéo dài từ Vân Nam (Trung Quốc) và thoải dần song song với thung lũng sông Hồng. Các dạng địa hình phổ biến ở đây là các dãy núi _______ ĐT.: 84-983682040 Email: [email protected] cao, thung lũng sâu hay hẻm vực làm cho địa hình chia cắt phức tạp. Từ Đông sang Tây được đánh dấu bởi dãy núi cao và đồ sộ nhất là Hoàng Liên Sơn (dài 180km, rộng 30km) với nhiều đỉnh núi cao mây mù từ 2800-3000m. Phía tây là dãy núi sông Mã dài 500 km và có những đỉnh cao trên 1800m. Giữa hai dãy núi đồ sộ này là vùng đồi núi thấp tương đối rộng lớn thuộc lưu vực sông Đà (còn gọi là địa máng sông Đà) với nhiều cao nguyên đá vôi có độ cao trung bình chạy suốt từ Phong Thổ đến Thanh Hóa và có thể chia nhỏ thành các cao nguyên như Tà Phình, Mộc Châu, Sản. Xen giữa các dãy núi Hoàng Liên và dải cao nguyên phía Tây là một số đồng bằng nhỏ và thung lũng (vùng bồn địa, lòng chảo) như Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh (thung lũng lớn nhất nhưng chiếm phần nhỏ trong toàn bộ diện tích vùng). Địa hình Tây Bắc được đặc trưng bởi tính phức tạp và chia cắt mạnh đã tạo nên những vùng cảnh quan khá đa dạng: Vùng

Upload: others

Post on 30-Aug-2019

3 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

50

TRAO ĐỔI

Tác động ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế-xã hội

đối với tình hình tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc

Đỗ Đức Minh*

Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam

Nhận ngày 05 tháng 01 năm 2017

Chỉnh sửa ngày 24 tháng 02 năm 2017; Chấp nhận đăng ngày 22 tháng 3 năm 2017

Tóm tắt: Vùng Tây Bắc có vị thế địa chính trị vô cùng quan trọng, liên quan mật thiết đến sự tồn

vong và hưng thịnh của đất nước. Nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế -

xã hội đến việc phát sinh và phát triển của các loại tội phạm xuyên quốc gia ở vùng Tây Bắc góp

phần nhận diện, làm rõ những đặc điểm, yêu cầu, thuận lợi và thách thức trong công tác đấu tranh

phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn chiến lược Tây Bắc nói riêng và cả nước nói chung.

Từ khóa: Tây Bắc, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia.

1. Một số vấn đề về điều kiện tự nhiên, kinh

tế - xã hội vùng Tây Bắc

1.1. Điều kiện tự nhiên

(1). Vùng Tây Bắc có kiến tạo địa chất đa

dạng phức tạp và có địa hình cao nhất, bị chia

cắt nhất, hiểm trở và trọng yếu nhất Việt Nam.

Là miền đất của những núi cao và cao nguyên

(đá vôi xen lẫn núi đất), nơi đây đặc trưng có

nhiều dãy núi cao trải dài hình rẻ quạt hướng

tây bắc-đông nam (khu vực Lào Cai, Lai Châu,

Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình) hoặc có những

dãy núi cao chạy theo hình cánh cung (khu Việt

Bắc). Nhiều khối liền mạch núi sông và dãy

núi cao kéo dài từ Vân Nam (Trung Quốc) và

thoải dần song song với thung lũng sông Hồng.

Các dạng địa hình phổ biến ở đây là các dãy núi

_______ ĐT.: 84-983682040

Email: [email protected]

cao, thung lũng sâu hay hẻm vực làm cho địa

hình chia cắt phức tạp. Từ Đông sang Tây được

đánh dấu bởi dãy núi cao và đồ sộ nhất là

Hoàng Liên Sơn (dài 180km, rộng 30km) với

nhiều đỉnh núi cao mây mù từ 2800-3000m.

Phía tây là dãy núi sông Mã dài 500 km và có

những đỉnh cao trên 1800m. Giữa hai dãy núi

đồ sộ này là vùng đồi núi thấp tương đối rộng

lớn thuộc lưu vực sông Đà (còn gọi là địa

máng sông Đà) với nhiều cao nguyên đá vôi có

độ cao trung bình chạy suốt từ Phong

Thổ đến Thanh Hóa và có thể chia nhỏ thành

các cao nguyên như Tà Phình, Mộc Châu, Nà

Sản. Xen giữa các dãy núi Hoàng Liên và dải

cao nguyên phía Tây là một số đồng bằng nhỏ

và thung lũng (vùng bồn địa, lòng chảo) như

Điện Biên, Nghĩa Lộ, Mường Thanh (thung

lũng lớn nhất nhưng chiếm phần nhỏ trong toàn

bộ diện tích vùng). Địa hình Tây Bắc được đặc

trưng bởi tính phức tạp và chia cắt mạnh đã tạo

nên những vùng cảnh quan khá đa dạng: Vùng

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

51

cao núi đồi cao và dốc lớn, nhiều ngọn núi cheo

leo hiểm trở xen kẽ các thung lũng sâu và hẹp

tạo thành một phức hợp của những bồn địa lớn,

nhỏ nằm xen kẹp giữa các dãy núi cao bao bọc

xung quanh; xen kẽ là các thung lũng có địa

hình tương đối bằng phẳng (Mường So, Tam

Đường, Bình Lư, Than Uyên), Pu Sam Cáp [1,

tr.76].

Tên hình:???

(2). Tây Bắc cũng là địa bàn có diện tích

rừng tự nhiên khá lớn với hệ thống các rừng

rậm, rừng nguyên sinh, rừng phòng hộ, rừng

đặc dụng phục sở hữu nguồn tài nguyên phong

phú, có giá trị đối với sự nghiệp xây dựng, phát

triển của đất nước và bảo vệ bền vững môi

trường sinh thái. Đây là một vùng sinh thái đặc

biệt, tính đa dạng sinh học cao và có tính đặc

hữu; hệ thống vật rừng điển hình và phong phú

về loài, nhiều loại cây gỗ, cây dược liệu quý

hiếm có giá trị kinh tế, giá trị khoa học cao. Tài

nguyên rừng của Tây Bắc không chỉ cung cấp

nguyên liệu giấy, chất đốt, phát triển vùng dược

liệu, phát triển công nghệ sinh học (bảo tồn

nguồn gen ) mà còn có vai trò quan trọng với

du lịch sinh thái và vùng nguyên liệu gỗ, sản

phẩm đặc sản của cả vùng Bắc Bộ; vai trò quyết

định đối với bảo vệ môi trường sinh thái đầu

nguồn và nguồn nước của đồng bằng. Tây Bắc

cũng là vùng trung chuyển của tất cả các con

sông có dòng chảy lưu lượng lớn ở phía Bắc bắt

nguồn từ các đỉnh núi cao ở khu vực Trung

Quốc chảy về Việt Nam cùng với hàng nghìn

sông, suối lớn nhỏ ghềnh thác dày đặc nên tiềm

năng điện rất lớn. Tài nguyên nước dồi dào,

không chỉ đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh tế và

dân sinh của toàn vùng mà còn chi phối sự phát

triển tự nhiên của các vùng đồng bằng Bắc Bộ

và Trung Bộ [2]. Tài nguyên đất đai, khoáng

sản giàu và phong phú: đất đai tương đối rộng,

thổ nhưỡng đa dạng, chứa đựng một số loại

khoáng sản quan trọng như sắt (apatít), bôxít,

chì, kẽm, đa kim, đất hiếm, đá quý, than

đá...với trữ lượng khá lớn1.

_______ 1 Ngoài ra, dưới lòng đất khu vực này cũng có nhiều tài

nguyên chưa được phát hiện, nhất là ở vùng sâu, vùng xa,

vùng hiểm trở đi lại khó khăn.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

52

(3). Là địa bàn vùng núi cao, địa hình chia

cắt nhiều tầng trên một nền địa chất phức tạp và

sự phân hoá khí hậu sâu sắc nên thiên nhiên

Tây Bắc khá đa dạng với nhiều tiểu vùng với

các đặc trưng về địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu,

thủy văn (Tây Bắc Bộ, Tây Thanh Hóa, Nghệ

An)... Khí hậu vùng Tây Bắc mang tính lục địa

rõ rệt và khá phức tạp, được chia làm hai mùa

theo độ ẩm là: Mùa khô hạn kéo dài cộng với

lượng gió Tây khô nóng gây khó khăn cho cây

trồng và vật nuôi. Mùa mưa thường có gió lốc,

mưa đá và lũ ống, lũ quét vào đầu mùa gây ra

sự tàn phá bất thường đối với đất đai, sản xuất

và đời sống; từ tháng 12 đến tháng 1 thường

xuyên có sương muối và băng giá. Khu vực này

cũng chịu tác động của những biến cố khí hậu ở

miền núi mang tính chất cực đoan, trong năm

xuất hiện những hiện tượng, như: lạnh có tuyết,

sương mù vào mùa Đông (Sa Pa, Mẫu Sơn) và

hiện tượng “phơn” mùa hạ làm nhiệt độ có khi

lên trên 40oC. Biên độ nhiệt độ trong ngày khá

lớn, nhiều nơi khí hậu mang nhiều sắc thái ôn

đới; bị phân hóa mạnh theo không gian dưới tác

động của các hệ thống hoàn lưu gió mùa, nhiễu

động nhiệt đới và sự tương tác của địa hình. Sự

phân hóa đó được thể hiện bởi sự khác biệt giữa

phía tây và đông dãy Hoàng Liên Sơn và

Trường Sơn Bắc. Các hiện tượng mưa lớn tập

trung khi kết hợp với một số điều kiện thì xuất

hiện lũ, lũ quét. Mùa khô thường xảy ra hạn

hoặc hạn hán kéo dài ngoài sức chịu đựng của

cây cối [3].

1.2. Tình hình kinh tế xã hội

(1). Về mặt hành chính, vùng Tây Bắc theo

phạm vi chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Tây Bắc gồm

vùng diện tích của 12 tỉnh miền núi và trung du

miền núi, gồm: Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái,

Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình, Cao

Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên

Quang và 22 huyện/thị phía tây của hai tỉnh

Thanh Hóa, Nghệ An2 (gồm 144 huyện/thị,

_______ 2 Các huyện phía tây Thanh Hóa là: Quan Hóa, Mường

Lát, Thường Xuân, Như Thanh, Ngọc Lặc, Cẩm Thủy,

Quan Sơn, Bá Thước, Như Xuân, Lang Chánh, Thạch

Thành. Các huyện phía Tây Nghệ An gồm: Quỳ Châu,

2564 xã/phường với tổng diện tích 107,761 km2

chiếm 32,16% diện tích phần đất liền với dân số

trên 15 triệu người chiếm 17% dân số cả nước

(trong đó chủ yếu là dân số ở nông thôn chiếm

83,7%). Đây là vùng rộng lớn, đất rộng người

thưa nhưng có vị trí địa - chính trị hết sức quan

trọng, đóng vai trò “phên dậu” đối với an ninh

quốc gia. Trong lịch sử, Tây Bắc được xem là

vùng đất có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng

“địa đầu” biên cương của Tổ quốc, che chắn

cho trấn như “giậu” như “phên” án ngữ cho

châu làm “then” làm “chốt” và nơi đây cũng

được coi là vùng đất “Tam Mãnh” qua Lào vào

Vân Nam và Hưng Hóa [4].

Hiện nay Tây Bắc có vị trí địa lý đặc biệt

quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc

phòng và trong quan hệ giao lưu quốc tế; là địa

bàn chiến lược, vùng biên cương trọng yếu của

đất nước với gần 2600 km đường biên giới

quốc gia tiếp giáp với Trung Quốc và Lào với

nhiều cửa khẩu thông thương giữa Việt Nam

với các nước trong khu vực và nhiều lối mở tiểu

ngạch buôn bán giao thương nhỏ trên tuyến

đường mòn xuyên biên giới3. Khu vực biên giới

Việt-Trung có cấu trúc địa hình tương đối phức

Nghĩa Đàn, Thị xã Thái Hòa, Tương Dương, Tân Kỳ,

Thanh Chương, Quỳ Hợp, Kỳ Sơn, Con Cuông, Anh Sơn,

Quế Phong. 3 Đường biên giới Việt-Trung dài 1375/1494km gồm 6/7

tỉnh giáp biên của Việt Nam [Hà Giang (274 km), Lai

Châu (273 km), Lào Cai (203,5 km), Điện Biên (38,5km),

Lạng Sơn (253 km), Cao Bằng (333.403 km)] với tỉnh Vân

Nam, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây của Trung

Quốc. Đường biên giới Việt-Lào dài 1221/2340km trải dài

suốt 4/10 tỉnh của Việt Nam [Điện Biên (360km), Sơn La

(250 km), Thanh Hóa (192 km), Nghệ An (419,5km), tiếp

giáp với 5 tỉnh Phông Sa Lỳ, Luông Pha Băng, Hủa Phăn,

Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay của Lào. Khu vực Tây

Bắc có nhiều cửa ngõ thông thương giữa Việt Nam với các

nước trong khu vực như: 1/ Cửa khẩu quốc tế có, Đường

bộ: Tà Lùng, Móng Cái, Hữu Nghị, Lào Cai, Thanh Thủy,

Tây Trang, Na Mèo, Nậm Cắn. Đường sắt: Đồng Đăng,

Lào Cai. 2/ Cửa khẩu quốc gia: Hoành Mô, Bình Nghi,

Chi Ma, Lý Vạn, Hạ Lang, Pò Peo, Trà Lĩnh, Sóc Giang,

Săm Pun, Phó Bảng, Xín Mần, Mường Khương, Ma Lù

Thàng, Huổi Pôc, A Pa Chải, U Ma Tu Khoàng, Chiềng

Khương- Sông Mã, Nà Cài, Lóng Sập (Pa Háng).

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

53

tạp, độ chia cắt lớn, thấp dần từ Tây sang Đông

dẫn đến hệ thống sông suối nơi đây phần lớn có

xu hướng chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam, ít

có giá trị đối với giao thông đường thủy. Tùy

theo mùa và từng đoạn, mực nước biến đổi thất

thường (có khi xuống thấp hoặc dâng cao), chảy

mạnh gây bồi lở và đổi dòng dẫn đến biến đổi

địa hình lòng sông và ảnh hưởng đến việc lưu

thông qua lại [5]. Phần lớn tuyến biên giới Việt-

Lào đều đi qua đỉnh hoặc triền núi và qua rừng

rậm nhiệt đới với độ cao trung bình hoặc cao

(nơi thấp nhất khoảng 300m, cao nhất khoảng

2700m; khu vực các cửa khẩu có độ cao trung

bình khoảng 500m, có nơi trên 1000m so với

mực nước biển). Dãy núi cao Pu Xam Sẩu từ A

Pa Chải trải dài hình thành một đường biên giới

tự nhiên giữa hai nước; một số đèo đã trở thành

các cửa khẩu nối liền hai nước, còn trên các

đoạn biên giới khác, hầu hết là núi non hiểm

trở, giao thông đi lại rất khó khăn [6].

(2). Khu vực Tây Bắc còn là nơi tập trung

đông các tộc người các dân tộc: trên địa bàn

khu vực hiện có 31 dân tộc thiểu số cư trú đan

xen với nhau và đồng bào dân tộc thiểu số chiếm

khoảng 70% số dân của cả vùng. Mật độ dân số

thấp so với cả nước: bình quân 155 người/km2

(mật độ dân số bình quân cả nước là 274

người/km2); riêng các tỉnh có chung đường biên

giới với Trung Quốc thuộc nhóm dưới 100

người/km2. Do tác động của quá trình tộc người

(di cư từ bên ngoài tới hoặc các cuộc xung đột

tộc người liên quan đến nơi cư trú) cũng như

tập quán mưu sinh của các tộc người đã hình

thành nên hiện tượng cư trú cài răng lược giữa

đồng bào các dân tộc với mức độ phân bố cư

dân không đều giữa các vùng cảnh quan, đặc

biệt ở vùng rẻo cao, rẻo giữa (phân bố dân cư

theo độ cao). Trong các dân tộc thiếu số, một số

dân tộc đã đạt đến một giai đoạn phát triển cao

(Tày, Nùng, Dao..) với sự xuất hiện các tầng

lớp xã hội khác nhau, nhiều dân tộc còn chia

thành đẳng cấp...Mặc dù cũng có điểm khác

biệt về tín ngưỡng và tôn giáo, song hầu hết các

tộc người thiểu số sống ở vùng Tây Bắc đều

theo tín ngưỡng đa thần và quan niệm về vũ trụ

xung quanh con người được tạo bởi nhiều tầng

thế giới; trong đó một bộ phận (khoảng trên

100.000 người) theo các tôn giáo [7]. Các thiết

chế xã hội truyền thống của các tộc người cư

trú rất phong phú và phụ thuộc vào hoàn cảnh

lịch sử của họ, tạo nên những nét riêng biệt của

mỗi tộc người ở đây. Quan hệ dân tộc mang

tính tộc người giữ vai trò chủ đạo, thông qua

quan hệ hôn nhân nội tộc, họ hàng thân thích,

láng giềng đồng tộc để thực hiện các nghi lễ tộc

người (ma chay, cưới xin, lễ tết). Trong đó, xu

hướng chủ đạo là sự cố kết đồng tộc, hòa hợp

dân tộc và đồng hóa tự nhiên. Quan hệ thân tộc

gồm các mối quan hệ gia đình, quan hệ họ hàng

được xem là sự khởi nguồn cho các mối quan

hệ khác trong xã hội và được người dân Tây

Bắc đặc biệt coi trọng. Mặc dù đều có đặc điểm

chung của khu vực miền núi phía Bắc nhưng do

những đặc thù về môi trường cư trú và lịch sử

tộc người nên mỗi vùng và mỗi tộc người đều

có những đặc điểm kinh tế-xã hội theo vùng

cảnh quan, hình thành nên những truyền thống

và đặc thù văn hoá của các tộc người (nhiều dân

tộc còn lưu giữ nguyên vẹn bản sắc văn hóa

truyền thống của mình). Ngoài ra, sự khác biệt

về điều kiện sinh sống, phương thức lao động

sản xuất cũng gây ra khác biệt văn hóa lớn mặc

dù văn hóa chủ thể và đặc trưng chung.

Trên vùng Tây Bắc, đồng bào các dân tộc

anh em cùng sinh sống gắn bó lâu đời, có

truyền thống yêu nước, đoàn kết, kiên cường

chống ngoại xâm; có ý thức trong lao động, sản

xuất, vươn lên thoát khỏi đói nghèo và quyết

tâm xây dựng, bảo vệ Tổ quốc; sáng tạo và lưu

giữ nhiều giá trị văn hóa. Văn hóa các tộc người

vùng Tây Bắc khá phong phú, đa dạng và giàu

bản sắc, gắn liền với quá trình tụ cư lâu đời của

cư dân từ nhiều nguồn và thời điểm khác nhau,

được thể hiện trên các khía cạnh về nhà cửa,

trang phục, ẩm thực, quan hệ gia đình và cộng

đồng, các hình thức tổ chức xã hội, phong tục

tập quán, lễ hội, trang phục, nhạc cụ, các điệu

dân ca, dân vũ...Mỗi nhóm dân tộc đều có nền

văn hoá riêng biệt, giàu có và độc đáo và hợp

thành một không gian văn hóa rộng lớn với

nguồn tài nguyên văn hóa nhân văn to lớn và

phong phú, đặc biệt là kho tàng tri thức bản địa

và tiềm năng văn hóa phi vật thể đặc sắc của

đồng bào các dân tộc.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

54

Sản xuất nông nghiệp mang tính tự cung tự

cấp và tương đối khép kín là hoạt động kinh tế

chủ yếu của hầu hết đồng bào các dân tộc thiểu

số ở Tây Bắc với nghề trồng lúa nương (刀 耕

火 种đao canh hỏa chủng) và ruộng nước (刀

耕 水 耨 đao canh thủy nậu), ngoài ra họ còn

trồng rau màu hoặc săn bắn, đánh cá, hái lượm

và sống bán du mục, thực hiện nhiều hình thức

chiếm đoạt các nguồn lợi tự nhiên sẵn có trong

rừng quanh khu vực cư trú. Mặc dù nông cụ sản

xuất thô sơ nhưng họ đã sớm canh tác lúa trên

ruộng ngập nước và tiến hành tưới tiêu, một số

dân tộc biết các kỹ thuật canh tác tiến bộ và khá

thành thục (Mường, Thái, Dao..). Ngoài ra, họ

còn chăn nuôi gia súc, gia cầm hoặc thủy sản

theo hộ gia đình, làm một số nghề thủ công gia

đình (như dệt vải, đan lát, làm mộc, làm rèn,

chế tác kim loại làm trang sức, làm giấy dó, ép

dầu); một bộ phận đồng bào cư trú suốt dọc

tuyến biên giới buôn bán tiểu ngạch. Tập quán

trồng trọt ở mỗi tộc người tại các vùng thung

lũng, vùng rẻo giữa và vùng cao vẫn có những

nét riêng biệt bởi những cách làm ăn này đã tồn

tại qua hàng nghìn năm canh tác của họ. Trao

đổi hàng hoá là nhu cầu thiết yếu đã có từ lâu

đời của các dân tộc thiểu số: họ thường cùng

nhau họp chợ tại trung tâm xã, huyện hoặc ngay

ven đường cái. Do các tộc người đều cư trú ở

vùng sâu vùng xa nên họ chỉ họp chợ 5 ngày

(hoặc 1 tuần)/1 lần (chợ phiên), là một nét đặc

trưng văn hóa vùng cao[3].

Ngoài ra, Tây Bắc còn được đặc trưng bởi

một địa bàn dân cư và khu vực hành chính đặc

biệt của vùng biên giới Việt-Trung và Việt-Lào.

Đây cũng là địa bàn cư trú chủ yếu của người

dân tộc thiểu số thuộc các nhóm ngôn ngữ Tày-

Thái, Tạng-Miến, H’Mông-Dao và Hán. Một

trong những đặc điểm nổi bật của dân cư vùng

biên giới4 là sự cư trú xen kẽ cài răng lược của

_______ 4 Theo Quy chế quản lý biên giới Việt Nam-Trung Quốc,

Việt Nam-Lào thì: Vùng biên giới là chỉ khu vực hành

chính cấp huyện của hai Bên (Việt Nam và Trung Quốc)

tiếp giáp đường biên giới. Khu vực biên giới là khu vực

bao gồm các xã hoặc đơn vị hành chính tương đương của

Việt Nam và các bản hoặc đơn vị hành chính tương đương

nhiều tộc người cùng cộng cư trong quá trình

lịch sử lâu dài; có mối quan hệ gần gũi về thân

tộc, kinh tế, văn hóa, ngôn ngữ, phong tục tập

quán lâu đời. Các làng bản cư trú sát biên giới

và tạo thành các quần thể dân cư đông đúc (nhất

là dọc các triền núi hoặc các con sông lớn) có

chung nguồn gốc, tương đồng về ngôn ngữ,

phong tục tập quán và đặc biệt là cư trú trong

một khu vực địa lý cận kề, người dân sống thưa

thớt tại các làng bản rất xa nhau ở khu vực biên

giới, đời sống vật chất và tinh thần còn nhiều

thiếu thốn và lạc hậu. Đặc biệt, nhiều dân tộc

sinh sống trên đất nước ta có nguồn gốc từ

Trung Quốc tới cư trú ở Việt Nam vào những

thời kỳ lịch sử khác nhau nên phần lớn các dân

tộc thiểu số của cả hai nước đều có những mối

quan hệ khá sâu sắc về lịch sử, văn hóa (kể cả

nguồn gốc tộc người)5. Với nhiều tộc người,

quan hệ tộc người xuyên biên giới đã trở nên

một hiện tượng dân tộc học lịch sử rõ rệt và có

sức sống lâu bền cho đến hôm nay.

Do đặc điểm văn hóa, điều kiện lịch sử,

phần lớn các tộc người cư trú xen kẽ dọc các

tuyến biên giới Việt-Trung đều có mối quan hệ

thân tộc khá mật thiết, gần gũi và gắn bó với

đồng tộc của họ ở bên kia biên giới6. Do

khoảng cách địa lý tại khu vực biên giới chỉ

cách nhau một cây cầu, một con suối hay lối

mòn nên họ dễ dàng qua lại thăm thân, cùng

tham dự các nghi lễ tộc người hoặc mua bán,

trao đổi hàng hóa với nhau từ đó mạng lưới xã

của Lào tiếp giáp với đường biên giới quốc gia giữa hai

nước. Cư dân biên giới là chỉ dân cư thường trú của mỗi

nước thuộc xã (trấn) tiếp giáp đường biên giới. 5 Có khoảng trên 20 dân tộc thuộc các nhóm ngôn ngữ

Tày-Thái, H’Mông-Dao, Tạng-Miến sinh sống tại các tỉnh

biên giới phía Bắc có quan hệ lịch sử với đồng tộc ở bên

kia đường biên. Người H’Mông là một nhóm dân tộc có

địa bàn cư trú truyền thống là Trung Quốc và các nước lân

cận thuộc tiểu vùng Đông Nam Á là Lào, Việt Nam, Thái

Lan và Myanmar[7]. 6 Các quan hệ thân tộc ở đây chủ yếu là quan hệ gia đình,

dòng họ theo quan hệ phụ hệ tính theo dòng cha ở nhiều

dân tộc thiểu số thuộc các nhóm ngôn ngữ Tày-Thái,

H’Mông-Dao và Tạng Miến. Ở các tộc người này, các mối

quan hệ trong quan hệ gia đình, dòng họ còn khá chặt chẽ.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

55

hội luôn được mở rộng [8, 98-99]. Trong đó,

những hoạt động thăm thân diễn ra thường

xuyên và là tập quán quen thuộc của đồng bào

các dân tộc vùng biên (phổ biến nhất là đi dự

các đám cưới, đám tang, các nghi lễ cúng của

gia đình và dòng họ). Văn hóa vùng biên gần

như đã vượt qua giới hạn của nhà nước, của

biên giới về lãnh thổ, địa lý, không chỉ kết nối

con người và các thiết chế trong nội bộ một đất

nước mà còn gắn kết với những đất nước khác.

Vì vậy, hiện tượng hôn nhân xuyên biên giới

(HNXBG) xảy ra khá phổ biến ở khu vực biên

giới Tây Bắc, nhất là ở các vùng biên giới có

dân số đông, cư trú liền sát với đường biên giới

[9, tr.49].

(3) Tóm lại: Tây Băc nổi tiếng với đặc

trưng về địa hình, khí hậu, địa chất, hệ sinh thái,

tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú;

tiềm năng đất đai, rừng, nguồn nước, hệ sinh

thái của Tây Bắc được xếp vào tốp đứng đầu

trong 8 vùng kinh tế của cả nước). Đây là vùng

có đặc trưng sắc thái văn hóa của các tộc người

riêng biệt và đặc hữu, sở hữu nguồn tài nguyên

văn hóa to lớn, quý báu và kinh tế xã hội rất đặc

thù đồng thời là vùng đất lịch sử thiêng liêng,

giàu truyền thống yêu nước và giá trị văn hóa -

lịch sử. Không chỉ là nơi có tiềm năng lớn phát

triển ngành công nghiệp khai thác và chế biến

khoáng sản, kinh tế nông - lâm - ngư, dịch vụ -

thương mại và kinh tế; Tây Bắc còn được thiên

nhiên ban tặng một vùng cảnh quan kỳ vĩ, hiểm

trở với nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng và

điểm nhấn du lịch lý tưởng đối với du khách. Vị

trí biên cương với nhiều của ngõ giao lưu quốc

tế là điều kiện và cơ hội lớn để Tây Bắc đẩy

mạnh thương mại quốc tế, tiến tới xây dựng khu

vực này thành địa bàn trung chuyển chính trên

tuyến đường xuyên Á phía Bắc, nối liền vùng

Tây Bắc Việt Nam với khu vực Bắc Lào-Tây

Nam Trung Quốc, Đông Bắc Myanma và trực tiếp giao lưu với các lục địa rộng lớn phía

tây nam Trung Quốc. Là vùng đất địa đầu có vị

trí chiến lược về quốc phòng, an ninh chính trị

và trật tự, tôn giáo tín ngưỡng và bảo vệ chủ

quyền biên giới quốc gia với tiềm năng, ưu thế

to lớn để phát triên triển kinh tế - xã hội cũng

như phát triển mọi ngành nghê, lĩnh vưc7

và sở

hữu nguồn tiềm năng có sức hấp dẫn, thu hút

rất lớn đối với du lịch, Tây Bắc đang là điểm

đến làm ăn của nhiều nhà đầu tư trong và ngoài

nước.

Bên cạnh những thuận lợi như trên, điều

kiện tự nhiên của Tây Bắc cũng có nhiều khó

khăn, cản trở và tác động bất lợi đến đời sống

kinh tế - xã hội của người dân. Do địa hình

phức tạp, bị chia cắt sâu và mạnh nên hình

thành nhiều tiểu vùng khí hậu - sinh thái đặc

thù thích hợp với nhiều loại cây trồng và cho

phép phát triển một nền sản xuất nông-lâm

nghiệp phong phú, phù hợp với cây trồng và vật

nuôi vùng nhiệt đới và ôn đới, các loại rau, củ,

quả vùng cao. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của

điều kiện địa lý tự nhiên (địa hình sự đa dạng,

đất đai chủ yếu là đồi núi cao dốc, diện tích

canh tác nhỏ hẹp và chiếm tỷ lệ rất thấp, khí

hậu vùng núi cao thay đổi thường xuyên và chịu

tác động trực tiếp của gió mùa, bão, lũ...) nên

sản xuất khu vực này kém phát triển, ảnh hưởng

không nhỏ đến sinh kế của người dân và phát

triển kinh tế của vùng...Đặc điểm địa hình nơi

đây cũng tạo ra sự manh mún đất trong sản xuất

nông nghiệp và nảy sinh một số hiện tượng tai

biến như: động đất, nứt đất, rửa trôi, xói mòn

sạt lở đất và lũ quét trong mùa mưa, có ảnh

hưởng lớn đến việc giao lưu phát triển kinh tế -

xã hội và đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng

giao thông. Với điều kiện khí hậu cộng với điều

kiện địa hình như trên, Tây Bắc được xem là

vùng có điều kiện cực khó khăn về giao thông,

canh tác nông nghiệp (chăn nuôi và trồng trọt

một số loại cây lương thực quan trọng), lâm

nghiệm vào loại nhất cả nước (an ninh lương

thực luôn trong tình trạng báo động). Sự phân

bố dân cư thưa cũng làm cho hiệu quả các chính

sách xóa đói giảm nghèo, chương trình 30a và

_______ 7 Tiềm năng, lợi thế của Tây Bắc gồm các thế mạnh trong

sản xuất nông, lâm nghiệp; định hướng phát triển các loại

hình dịch vụ, đầu tư chiều sâu để khai thác và chế biến

khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, phát triển thủy lợi

vừa và nhỏ gắn với thủy điện theo quy hoạch, các ngành

công nghiệp chế biến và bảo quản nông lâm sản, kinh tế

cửa khẩu.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

56

các chương trình mục tiêu quốc gia nói chung.

Sự chia cắt của địa hình không chỉ làm cho khu

vực này thiếu đất và không gian để canh tác mà

còn biến nơi đây thành các tiểu vùng tương đối

độc lập nhau, do đó giao lưu kinh tế, văn hóa

liên tiểu vùng và xuyên vùng không phát triển

dẫn đến hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội của

toàn vùng được xếp vào loại thấp nhất cả nước.

Đồng thời, những khó khăn về phong tục, cách

thức làm ăn truyền thống, ngôn ngữ, tập quán

văn hoá đa dạng...cũng là rào cản không nhỏ

với sự phát triển của Tây Bắc. Là khu vực miền

núi có những đặc trưng riêng không thấy ở nơi

nào khác trên đất nước nhưng Tây Bắc cũng là

địa bàn nghèo, xa xôi, địa hình hiểm trở, nhiều

điểm đến khó tiếp cận, một số địa phương còn

gặp rất nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế-

xã hội [2].

1.3. Tây Bắc trong tiến trình đổi mới đất nước

(1). Những thành tựu chủ yếu

Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất

nước, trong những năm qua, các tỉnh vùng Tây

Bắc đã có bước chuyển biến về mọi mặt. Kinh

tế nông - lâm và thủy sản phát triển ổn định, trở

thành điểm nhấn trong bức tranh kinh tế của

Tây Bắc. Nhờ đó, đã ổn định đời sống, an ninh

trật tự của vùng với 83% cư dân nông thôn, hơn

80% lao động trong lĩnh vực nông - lâm - ngư

nghiệp. Cùng với việc khai thác tối đa tiềm

năng đất trồng cây lương thực kết hợp với việc

sử dụng giống mới, đẩy mạnh thâm canh, tăng

năng suất, nên an ninh lương thực trong toàn

vùng cơ bản đã được đảm bảo. Các vùng

chuyên canh tập trung gắn với chế biến và tiêu

thụ sản phẩm tiếp tục phát triển và mang lại

hiệu quả khá cao. Nông - lâm - ngư nghiệp của

vùng đã bắt đầu phát triển theo hướng sản xuất

hàng hoá. Mặc dù thu hút đầu tư nước ngoài

còn khiêm tốn, nhưng đã từng bước hình thành

nên các khu công nghiệp ở các địa phương

trong vùng, sản xuất công nghiệp từ các địa

phương đang có lợi thế và đi vào chính quy tập

trung. Công nghiệp khai khoáng và chế biến

cũng phát triển khá mạnh; công nghiệp chế biến

nông, lâm, thủy sản gắn với phát triển vùng

nguyên liệu phát triển nhanh, đang tạo vị thế

mới cho đầu tư, kinh doanh nông, lâm nghiệp.

Lĩnh vực thương mại, dịch vụ của khu vực Tây

Bắc đã có những nét chấm phá, những khởi sắc

gắn với kinh tế biên mậu, kinh tế cửa khẩu phát

triển rất nhanh (nhất là các cửa khẩu của Lạng

Sơn, Lào Cai); du lịch đã có những bước đột

phá. Tăng trưởng kinh tế hàng năm toàn vùng

luôn ở mức 10% trở lên.

Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội của vùng

được đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng, trong

đó tập trung cao cho các dự án giao thông, thủy

lợi, thủy điện trọng điểm. Nhiều tuyến đường

huyết mạch và nhiều công trình trọng điểm và

đang đầu tư hoàn thiện. Hạ tầng nông thôn đã

có bước phát triển, nhất là về giao thông, điện,

nước sạch, xóa nhà tạm...Phong trào kiên cố

hoá đường liên xã, liên thôn, đã làm cho mạng

lưới giao thông được cải thiện rõ rệt (gần

3.700km quốc lộ, đường liên huyện, đường đến

trung tâm xã được mở rộng, nâng cấp). Nhiều

công trình kết cấu hạ tầng và phúc lợi công

cộng, giúp hộ nông dân tiếp cận với các dịch vụ

xã hội cần thiết nhất là các vùng nghèo, vùng

sâu, vùng biên giới được xây dựng hoàn thiện.

Phong trào xây dựng nông thôn mới được đẩy

mạnh và rộng khắp trong nhân dân, kể cả đồng

bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa. Các chương

trình xóa đói, giảm nghèo, phát triển nông thôn

khác cũng được triển khai mạnh mẽ; diện mạo

đô thị, nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc.

Công tác chăm sóc sức khỏe đối với các dân tộc

ít người ở Tây Bắc đã có nhiều bước tiến đáng

kể về mạng lưới y tế, sức khoẻ sinh sản

cho phụ nữ, chăm sóc sức khoẻ trẻ

em... Việc phát triển giáo dục cho vùng đồng

bào dân tộc ít người đã đạt được nhiều thành

tựu về quy mô, mạng lưới trường học đã phủ

kín đến thôn bản. Chất lượng giáo dục có nhiều

chuyền biến tích cực, góp phần cải thiện đáng

kể trong việc nâng cao dân trí cho đồng bào các

dân tộc thiểu số. Quy mô nhân lực của vùng có

xu hướng gia tăng cả về số lượng và tỷ trọng

trong cơ cấu lực lượng lao động cả nước, nguồn

nhân lực đã qua đào tạo cũng tăng dần. Bình

quân trong khu vực Tây Bắc các xã đã đạt 7,5%

tiêu chí nông thôn mới, tăng 3,8 tiêu chí so với

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

57

năm 2010. Số xã đạt 19 tiêu chí là 27 xã, chiếm

1,2% tổng số xã trong vùng, trong đó có 13 xã

được công nhận. Trong số các tỉnh vùng Tây

Bắc, Phú Thọ và Hòa Bình là hai tỉnh có mức

đạt tiêu chí bình quân cao nhất, lần lượt đạt

9,72 và 9,38 tiêu chí. Về lĩnh vực xã hội, xóa

đói giảm nghèo các tỉnh vùng Tây Bắc đã đạt

được tốc độ giảm nghèo tương đối cao. Đời

sống vật chất, tinh thần của người dân trong

vùng Tây Bắc đã được cải thiện hơn: thu nhập

bình quân đầu người của cả vùng đã tăng 35%,

tỷ lệ hộ nghèo giảm 8% so với trước[2]. Thực

hiện chủ trương phát triển mọi mặt đời sống

người dân, xây dựng nếp sống văn hóa mới, với

sự vào cuộc của các cấp/ngành, nhiều hủ tục lạc

hậu đã từng bước bị đẩy lùi ra khỏi đời sống

của đồng bào các dân tộc trên địa bàn miền núi;

nhiêu nét đep văn hóa mang bản săc của vùng

núi Tây Băc vân đươc tiêp nôi và phát huy. Mặc

dù có xuất phát điểm thấp, khó khăn hơn nhiều

vùng trong cả nước nhưng vùng Tây Bắc đã có

những chuyển biến quan trọng, bức tranh kinh

tế - xã hội của các tỉnh trong vùng đã có những

khởi sắc và thành tựu tích cực và sinh động.

Một cuộc sống mới, tiến bộ, phát triển đang dần

hiện hữu ở từng bản làng vùng cao nơi đây.

(2). Những tồn tại, hạn chế

Sau 30 năm đổi mới, mặc dù đã có những

bước tiến đáng kể về kinh tế-xã hội nhưng các

tỉnh vùng Tây Bắc vẫn còn nhiều khó khăn, yếu

kém, đang đối diện với nhiều thách thức trong

thực tiễn phát triển bền vững, như: kinh tế phát

triển chậm, hiệu quả kinh tế còn thấp và thiếu

ổn định; cơ cấu kinh tế chưa có bước chuyển

dịch mang tính đột phá quan trọng cho sự phát

triển nhanh và bền vững của toàn vùng. Kinh tế

khu vực phát triển chưa tương xứng với tiềm

năng và thế mạnh hiện có, tăng trưởng kinh tế

chưa bền vững, tính liên kết (trong và ngoài

vùng) còn yếu, hiệu quả chưa cao, các tiềm

năng và lợi thế lớn chậm được khai thác[10].

Nhìn chung, trình độ phát triển kinh tế Tây Bắc

chưa cao, giao thông khó khăn, hạ tầng còn

nhiều hạn chế, đời sống nhân dân còn khó khăn,

mức sống của người dân vẫn còn khoảng cách

lớn với mức trung bình cả nước (bằng ½ thu

nhập trung bình của người dân cả nước), tỷ lệ

hộ nghèo còn cao (29,5%, cao gấp 2 lần bình

quân cả nước theo tiêu chí mới). Vùng Tây Bắc

đến nay vẫn chưa có khả năng tự cân đối ngân

sách, là vùng nghèo nhất và trình độ phát triển

kém nhất cả nước (vùng Tây Bắc đang thuộc lõi

nghèo của cả nước). Kinh tế ở miền núi, các

dân tộc thiểu số còn chậm phát triển, tình trạng

du canh, du cư, di dân tự do vẫn còn diễn biến

phức tạp. Các chương trình, dự án giảm nghèo

triển khai thực hiện chưa đồng bộ, thiếu vốn

đầu tư, chính sách còn chồng chéo, bất cập,

người nghèo còn tập trung chủ yếu tại địa bàn

vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Kết

cấu hạ tầng ở vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ

cách mạng vẫn còn khó khăn, nhiều nơi môi

trường sinh thái tiếp tục bị suy thoái. Vùng đồng

bào dân tộc miền núi, biên giới có địa hình rừng

núi hiểm trở, kinh tế chậm phát triển, khoảng

cách chênh lệch về mức sống, về trình độ phát

triển kinh tế - xã hội giữa các dân tộc và các

vùng ngày càng gia tăng. Chất lượng, hiệu quả

giáo dục đào tạo còn thấp, tình hình y tế, chăm

sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số vẫn

còn nhiều khó khăn, thiếu thốn (tập trung vào

một số lĩnh vực, như: cơ sở hạ tầng còn yếu,

nguồn nhân lực y bác sĩ còn thiếu). “Ở bậc học

phổ thông, số lượng học sinh theo học của vùng

Tây Bắc có gia tăng qua các năm, song hầu hết

tập trung tại bậc tiểu học, số học sinh theo học

trung học cơ sở và trung học phổ thông ít. Học

sinh tiểu học chiếm hơn 50% trong số lượng

học sinh của vùng. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học

phổ thông của các tỉnh Tây Bắc thuộc nhóm

thấp nhất trong cả nước và có xu hướng giảm.

Ở các cấp học cao hơn như đại học, cao đẳng,

trung cấp và dạy nghề, số lượng sinh viên theo

học tại vùng Tây Bắc là rất ít và hầu hết theo

học tại các trường công lập. Đây là thực trạng

chung của các vùng khó khăn và có sự cách trở

về địa lý như Tây Bắc. Nguồn nhân lực mỏng

và ít được đào tạo, còn những khoảng cách lớn

so với các vùng khác trong cả nước (nhiều tỉnh

Tây Bắc xếp vị trí cuối cùng trong chỉ tiêu về

chất lượng lao động so với các tỉnh khác trong

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

58

cả nước)[11]8. Đây là một thách thức lớn đối

với các tỉnh vùng Tây Bắc trong vấn đề đào tạo

nghề và nâng cao chất lượng lao động trong

tương lai”. Hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng

bào dân tộc thiểu số và miền núi còn yếu, trình độ

và năng lực của một bộ phận cán bộ cơ sở còn

hạn chế, yếu kém. Hoạt động của cấp ủy, chính

quyền, mặt trận và đoàn thể ở nhiều nơi chưa sát

dân, chưa tập hợp được đồng bào. Tình hình kinh

tế - xã hội, an ninh trật tự của khu vực Tây Bắc

cũng có những yếu tố phức tạp mới nảy sinh.

Một số bản sắc tốt đẹp trong văn hóa của các

dân tộc thiểu số đang bị mai một, một số tập

quán lạc hậu, mê tín dị đoan có xu hướng phát

triển và cuộc đấu tranh xóa bỏ tập quán lạc hậu,

xây dựng văn hóa mới vẫn đang tiếp tục. Vấn

đề quản lý các mối quan hệ dân tộc xuyên biên

giới Việt-Trung, trong đó có mối quan hệ thân

tộc cũng đang đặt ra nhiều vấn đề nóng, liên

quan chặt chẽ đến sự ổn định phát triển xã hội

và an ninh biên giới; nhất là việc giải quyết vấn

đề người di cư tự do và kết hôn không giá thú

trong vùng. Do ảnh hưởng của tập quán nên

tình hình di cư tự do của người H’Mông vẫn

còn dai dẳng, việc di dân theo mùa vụ sang

Quảng Tây để tìm kiếm việc làm và thu nhập

của người Tày, Nùng; quan hệ của người Hà

nhì ở Bát Xát (Lào Cai) với đồng tộc bên kia

biên giới...nên số lượt người qua lại đường biên

giới với tần suất ngày càng gia tăng. Bên cạnh

những yếu tố tích cực như tương trợ giúp nhau

tìm việc làm, thắt chặt mối quan hệ gia đình, họ

hàng thì các mối quan hệ thân tộc cũng tạo ra

một mạng lưới ngầm của các tội phạm phi

truyền thống vùng biên giới (như mua bán, bắt

cóc phụ nữ, trẻ em, lao động vượt biên trái

phép, buôn bán hàng cấm…). Nhiều vấn đề xã

hội cũng đang nảy sinh bởi các cuộc kết hôn

xuyên biên giới như việc quản lý hôn nhân, vấn

đề hỗ trợ pháp lý; vấn đề tội phạm cưỡng ép,

lừa bán người có mục đích hôn nhân xuyên biên

_______ 8 Sơ bộ đến năm 2014, toàn vùng có 9.894.900 người

trong độ tuổi lao động từ 15 tuổi trở lên, trong số đó có

2.374,550 người đã qua đào tạo, chiếm 24% tổng số lao

động, như vậy còn 76% lực lượng lao động chưa qua đào

tạo [13, tr.23].

giới. Hiện tượng phụ nữ Việt Nam kết hôn với

đàn ông Trung Quốc hay các trường hợp kết

hôn qua lại ở các vùng biên giới Việt- Trung,

Việt-Lào khá phổ biến. Tuy nhiên, hầu hết các

cuộc hôn nhân “xuyên biên giới” không đăng

ký với chính quyền địa phương, nhất là ở vùng

biên giới đã dẫn đến những khó khăn, khó kiểm

soát về quản lý xã hội và tạo ra những bất ổn

định về an ninh trật tự và phát triển xã hội vùng

biên giới[9, tr.55-56]. Ngoài ra, tình trạng vượt

biên trái phép tìm việc làm, đi lại thăm thân

không thực hiện các quy định an ninh biên giới,

buôn bán, bắt cóc phụ nữ trẻ em, buôn bán ma

túy, buôn hàng trốn thuế dựa vào các mối quan

hệ đồng tộc, thân tộc, gia đình có người thân

kết hôn ở bên kia biên giới đang là những vấn

đề nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến an ninh

vùng biên giới, đặc biệt là vùng biên giới Việt-

Trung.

Đặc biệt, một trong những tệ nạn xã hội

điển hình của Tây Bắc là vấn đề trồng cây thuốc

phiện, vấn đề nghiện hút của đồng bào thiểu số

và buôn bán ma tuý đang tồn tại và có chiều

hướng gia tăng, là vấn đề nhức nhối của khu

vực9. Các tỉnh có trồng cây thuốc phiện có vị trí

quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội và an

ninh quốc phòng nhưng sản xuất và đời sống,

cơ sở hạ tầng còn rất thấp kém và lạc hậu; ở địa

bàn đặc biệt khó khăn giao thông vận tải rất khó

khăn, sản xuất nông nghiệp mang nặng tính

chất tự cấp, tự túc10

. Vì vậy, việc xóa bỏ cây

_______ 9 Người dân ở đây có tập quán trồng cây thuốc phiện và

hút thuốc phiện từ lâu đời nên đối tượng nghiện truyền

thống nhiều. Hiện nay các tỉnh Tây Bắc có 29.000 người

nghiện có hồ sơ quản lý, ở mức cao so với cả nước (chiếm

14,3% , cũng là nguyên nhân làm tăng lượng cầu về ma

túy, gây mất ổn định về trật tự xã hội; có tỷ lệ người nghiện

trên 100.000 dân cao gấp 10 lần bình quân chung của cả nước.

Theo số liệu gần đây, trong 10 tỉnh có tỷ lệ người nhiễm HIV

cao nhất nước, thì có tới 5 tỉnh thuộc địa bàn vùng dân tộc và

miền núi [12]. 10 Như: Sơn La, Hà Giang, Lai Châu, Hòa Bình, Cao

Bằng, Yên Bái (Mù Cang Chải, Trạm Tấu), Điện Biên

(Mường Ảng), Nghệ An (Tương Dương), Thanh Hóa

(Mường Lát), Lai Châu (Mường Lay, Phong Thổ, Mường

Tè), Hà Giang (Hoàng Su Phì, Sín Mần), Lào Cai (Bát

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

59

thuốc phiện, thay thế bằng các giống cây trồng,

vật nuôi khác được xem là một trong những

biện pháp kiểm soát hiệu quả nguồn cung,

chống thất thoát tiền chất để sản xuất ma túy

tổng hợp; góp phần phòng chống ma túy và

ngăn chặn nguồn cung ma túy trong nước...Tuy

nhiên, với đặc thù địa bàn cùng với những

phong tục tập quán lạc hậu chưa được xóa bỏ

triệt để nên mặc dù biết được hành vi trồng cây

thuốc phiện là vi phạm pháp luật nhưng một

một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số

(H’Mông, Dao, Hà nhì...) ở vùng cao hoặc các

bản sát biên giới vẫn lén lút tái trồng và ngày

càng mở rộng diện tích cây thuốc phiện ở các

đám nương, rẫy. Chính quyền các tỉnh miền

núi, các xã biên giới đã tăng cường vận động,

đã bỏ không ít công sức và tiền của cho các đợt

ra quân tuyên truyền bà con các dân tộc không

trồng cây anh túc (thuốc phiện), cương quyết

phá, nhổ những nương rẫy có trồng loài hoa độc

này, song tình hình vẫn tiếp tục diễn biến phức

tạp: diện tích phát hiện, phá nhổ hàng năm tuy

có giảm nhưng vẫn còn nhiều, diện tích tái trồng

cây thuốc phiện năm sau vẫn cao hơn năm

trước, “cuộc chiến” phá, nhổ cây thuốc phiện

vẫn gian nan.

2. Tình hình tội phạm xuyên quốc gia và

những tác động, ảnh hưởng của yếu tố kinh tế-

xã hội ở Tây Bắc

Thời gian qua, tình hình tội phạm xuyên

quốc gia (TPXQG) tại Tây Bắc diễn biến rất

phức tạp và thậm chí nóng bỏng, tiêu biểu là

những loại tội phạm như sau:

(1). Tội phạm ma túy

Nguồn ma túy (gồm heroin, thuốc phiện và

ma túy tổng hợp) chủ yếu từ nước ngoài nhất là

từ khu vực “Tam giác vàng” vào Việt Nam

bằng nhiều con đường khác nhau và khu vực

Tây Bắc được xem là “chảo lửa”, luôn là điểm

nóng về hoạt động buôn bán trái phép chất ma

túy. Đặc biệt, tuyến đường biên giới Việt-Lào

nổi lên là một trong những địa bàn nóng bỏng,

Xát, Than Uyên, Văn Bàn), Sơn La (Bắc Yên, Mường La,

Thuận Châu, Sông Mã..)... .

phức tạp nhất về hoạt động tội phạm ma túy.

Tại khu vực này, luôn tồn tại các đường dây lớn

buôn bán ma túy xuyên quốc qua từ Lào vào

Việt Nam và tiếp tục vận chuyển sang các nước

thứ ba qua các tuyến biên giới đường bộ, hàng

không hoặc đường biển [12]11

. Các đối tượng

phạm tội thường cấu kết thành những đường

dây mua bán, vận chuyển ma tuý lớn tổ chức

khép kín do các thành viên trong cùng một gia

đình hoặc dòng tộc (bố mẹ, vợ chồng, con, anh

em thân tộc...) ở hai bên biên giới thực hiện;

những đối tượng khác khi tham gia vào đường

dây đều được thử thách, kiểm tra rất kỹ. Hầu

hết các đường dây ma túy đều có sự móc nối,

câu kết chặt chẽ giữa các đối tượng người nước

ngoài (quốc tịch Lào, Thái, Mỹ, Trung Quốc...),

người dân tộc thiểu số ở khu vực giáp biên giới

và các đối tượng ở các tỉnh dưới xuôi; có sự

phân công, phân cấp rõ ràng, tạo thành đường

dây khép kín mua bán heroin từ các tỉnh biên

giới Việt-Lào vào các tỉnh nội địa. Các băng

nhóm tội phạm ma túy thường chọn địa điểm ở

_______ 11 Một số địa danh nổi tiếng là điểm nóng trên "bản đồ ma

túy" ở phía Bắc thuộc các tỉnh Sơn La, Điện Biên…Địa

bàn trọng điểm phức tạp, điểm nóng nhất về tệ nạn và tội

phạm ma túy trên tuyến, tập trung ở các khu vực, như:

Sông Mã, Mộc Châu, Vân Hồ (các xã Chiềng Xuân,

Loóng Luông), cửa khẩu Loóng Sập, Chiềng Khương

(Sơn La); Tây Trang (Na Ư), Thanh Luông (huyện Điện

Biên Đông, Điện Biên); Mai Châu (các xã Hang Kia, Pà

Cò) Hòa Bình; Na Mèo, Mường Lát (Thanh Hóa); cửa

khẩu Thanh Thủy (Thanh Chương), Nậm Cắn (Kỳ Sơn),

Tương Dương, Quế Phong (Nghệ An)…là nơi trung

chuyển ma túy từ Lào sang Việt Nam, nhưng địa danh này

từng được gọi là “thánh địa” “thủ phủ”, “vùng trắng”, “rốn

ma túy”, “thung lũng tử thần” của ma túy, thuốc phiện; tồn

tại nhiều đường dây ma túy lớn móc nối với người Lào

vận chuyển ma túy từ Lào vào Việt Nam tiêu thụ. Các chất

ma túy (chủ yếu là heroin và ma túy tổng hợp) được mua

bán, vận chuyển và tập kết tại các khu vực sát biên giới

thuộc các huyện biên giới các tỉnh Phông Xa Lỳ, Luông

Pha Băng, Hủa Phăn, Xiêng Khoảng, Bô Ly Khăm Xay

giáp với các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Thanh Hóa, Nghệ

An; đặc biệt trong đó có 5 huyện của 2 tỉnh Hủa Phăn,

Luông Pha Băng giáp với tỉnh Sơn La là: Pắc Xèng, Viêng

Thoong, Xiềng Khọ, Mường Ét, Sốp Bâu về tình hình mua

bán, vận chuyển ma túy qua biên giới rất phức tạp nóng

bỏng, khó lường.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

60

gần biên giới hoặc thường xuyên qua lại khu

vực để hoạt động hoặc chọn rừng sâu hiểm trở

nơi biên giới làm sào huyệt. Các đối tượng ở

bên kia biên giới lợi dụng các mối quan hệ dân

tộc, thân tộc, dòng họ... tìm cách móc nối với

các đối tượng ở nội biên để vận chuyển ma túy

vào Việt Nam tiêu thụ. Trong số các đối tượng

phạm tội ma túy tại khu vực giáp biên giới

Việt-Lào, một số đông người dân tộc thiểu số

(người H’Mông, Tày, Dao...) đóng vai trò là

người môi giới, cảnh giới, vận chuyển, đầu mối

tập kết ma túy tại khu vực biên giới; đưa đường

dẫn lối cho các đối tượng người Lào xâm nhập

qua biên giới hoặc đứng ra làm làm đại lý nhằm

cung cấp ma túy cho người nghiện tại địa bàn.

Các đối tượng Lào móc nối với người Việt

Nam, tổ chức thành các nhóm, tốp có trang bị

vũ khí nóng, vận chuyển ma túy từ Lào và tập

kết ở các khu vực biên giới Việt Nam.

Thủ đoạn mua bán, vận chuyển ma tuý của

các đối tượng rất tinh vi, lọc lõi, xảo quyệt và

cực kỳ manh động. Chúng triệt để khai thác sự

thông thương tại các cửa khẩu cũng như việc

qua lại thuận tiện giữa hai nước qua các đường

mòn tiểu ngạch để vận chuyển ma túy từ Lào

vào Việt Nam. Nhiều trường hợp, các đối tượng

phạm tội không đi qua cửa khẩu chính mà lợi

dụng địa hình đồi núi hiểm trở, đặc biệt là các

đường mòn tiểu ngạch tuyến biên giới đường

bộ để mua bán, vận chuyển và tập kết ma túy tại

các khu vực sát biên giới, móc nối với các đối

tượng ở nội địa để tuồn hàng vào nội địa Việt

Nam tiêu thụ với số lượng lớn hay vận chuyển

“hàng” đến các vùng phụ cận để cất giấu, bán

lẻ. Các đối tượng phạm tội cũng tìm mọi cách

để vô hiệu hóa vai trò của lực lượng chức năng

ở cơ sở, hoặc lôi kéo cán bộ cơ sở (xã, bản)

tham gia mua bán, vận chuyển ma túy. Ma túy

là thứ hàng "siêu lợi nhuận" nên các đối tượng

cực kỳ liều lĩnh khi bị tấn công, sẵn sàng chống

trả lực lượng chức năng khi bị phát hiện, bắt

giữ, giải cứu đồng bọn hoặc tự sát để bịt đầu

mối.

(2). Tội buôn người

Những năm qua, tình hình mua bán người

qua biên giới diễn ra rất phức tạp, xảy ra ở vùng

Tây Bắc và hầu hết trên các địa phương trong

cả nước12

. Ở vùng biên giới Việt -Trung, bọn

tội phạm đã tổ chức nhiều đường dây mua bán

người, đưa phụ nữ, trẻ em từ các tỉnh phía Bắc

lừa bán sang Trung Quốc. Ở nhiều địa phương

(Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Lai

Châu, Sơn La, Nghệ An...) đã hình thành các

đường dây chiếm đoạt, bắt cóc lừa bán phụ nữ,

trẻ em, mua bán trẻ sơ sinh, trẻ trong bào thai,

mua bán đàn ông... để đưa người sang Trung

Quốc để bán nội tạng, đẻ thuê hoặc cưỡng bức

lao động. Do nắm bắt được nhu cầu của một bộ

phận nam giới ở nước ngoài có nhu cầu kết hôn,

một số đối tượng tội phạm (người Việt Nam,

Trung Quốc) lợi dụng các cuộc hôn nhân xuyên

biên giới để buôn bán phụ nữ và trẻ em gái (có

hoàn cảnh kinh tế, gia đình khó khăn), thực

hiện các hành vi cưỡng ép, lừa bán các cô gái

bán dâm hoặc làm vợ bất hợp pháp[8, 99]. Một

số người do khó khăn về kinh tế đã móc nối với

bên kia để đưa con, cháu, thậm chí cả vợ sang

Trung Quốc. Vì lợi nhuận bất chính nên nhiều

người sau khi sang lấy chồng ở Trung Quốc đã

trở về địa phương dụ dỗ, lợi dụng những người

quen biết, người thân trong gia đình, dòng tộc

để vận chuyển, phụ nữ và trẻ em gái qua đường

biên giới để bán cho các gia đình Trung Quốc

lấy làm vợ. Nguy hiểm hơn, ở một số nơi miền

núi, giáp biên giới, dân cư thưa thớt, đối tượng

còn đột nhập vào nhà dân chiếm đoạt, bắt cóc

trẻ em, phụ nữ đưa sang Trung Quốc bán[14].

(3). Tội phạm lừa đảo, chiếm đoạt tài sản

Thời gian qua, một số đối tượng người nước

ngoài (người Trung Quốc) thực hiện hành vi lừa

đảo với hàng loạt chiêu thức, thủ đoạn (như: gọi

điện thoại giả danh, kết bạn qua mạng xã hội rồi

lừa đảo, giả chương trình khuyến mãi nạp

thẻ,…) để chiếm đoạt tài sản (tiền) của bị hại là

người Việt Nam. Để có tài khoản ép buộc nạn

nhân chuyển tiền vào, các đối tượng chủ mưu

thường thuê những người lao động (“cửu vạn”)

_______ 12 Theo thống kê, tình hình tội phạm mua bán người ở

Việt Nam chủ yếu để đưa ra nước ngoài bán chiếm 85%,

trong đó sang Trung Quốc chiếm phần lớn (70%), còn lại

là sang các nước Lào, Campuchia, Malaysia, Thái Lan.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

61

ở khu vực biên giới về các vùng quê (nơi người

dân ít giao dịch với ngân hàng) để mua thông

tin thẻ tín dụng bằng cách hướng dẫn họ tới

ngân hàng mở tài khoản thẻ tín dụng, sau đó

bàn giao thẻ và toàn bộ thông tin tài khoản cho

các đối tượng (mỗi thẻ tín dụng được bán với

giá từ 1-2 triệu đồng/thẻ). Khi có nạn nhân

chuyển tiền, các đối tượng sử dụng thẻ tín dụng

mua được trực tiếp đi rút tiền. Gần đây, các đối

tượng tội phạm đã thay đổi thủ đoạn lừa đảo

bằng cách thuê một số người Việt (chủ yếu là

người dân tộc thiểu số sống ở khu vực biên

giới) mở tài khoản cá nhân để các bị hại chuyển

tiền vào rồi chiếm đoạt. Mỗi khi có nạn nhân

chuyển tiền vào tài khoản, các đối tượng chủ

mưu thuê người Trung Quốc sang Việt Nam

qua đường tiểu ngạch, “ốp” chủ tài khoản người

Việt Nam ra ngân hàng làm thủ tục rút tiền rồi

nhanh chóng mang về nước hoặc thuê người

Việt Nam làm ăn, buôn bán tại khu vực biên

giới đi nhận tiền rồi mang sang Trung Quốc cho

chúng hoặc hẹn chủ tài khoản mang tiền đến

các khu vực giáp ranh biên giới 2 nước để giao

nhận (tiền công mà các chủ tài khoản nhận

được khoảng 1% trên tổng số tiền của các nạn

nhân chuyển vào). Ngoài ra, bọn tội phạm còn

sử dụng những thủ đoạn khác như: giả danh các

cơ quan pháp luật gọi điện thoại đe dọa, lừa đảo

người dân chuyển tiền vào tài khoản để lừa đảo,

chiếm đoạt tiền của người bị hại; hoặc

tung thông tin giả nhằm lừa gạt một số

người nhẹ dạ để chiếm đoạt tiền…

(4). Tội sản xuất, buôn bán tiền giả; buôn

lậu, gian lận thương mại, sản xuất và vận

chuyển hàng giả

- Tội sản xuất, buôn bán tiền giả, hàng giả:

gồm các hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,

lưu hành các loại tiền Việt Nam giả, ngoại tệ

giả, thẻ tín dụng giả, ngân phiếu giả, công trái

giả, séc giả và các giấy tờ có giá giả khác diễn

biến rất phức tạp và có chiều hướng gia tăng.

Nguồn tiền Việt Nam giả chủ yếu được đưa vào

trong nước từ các đường dây tiêu thụ tiền giả có

nguồn gốc từ Trung Quốc, Đài Loan và Lào,

xâm nhập vào Việt Nam qua các cửa khẩu biên

giới (chủ yếu là Lạng Sơn). Tội phạm là người

trong nước thường mua tiền giả ở khu vực biên

giới, sau đó đưa vào nội địa tiêu thụ; nguồn

ngoại tệ giả chủ yếu do các đối tượng người

nước ngoài mang vào Việt Nam tiêu thụ (ngoài

ra, một số đối tượng người nước ngoài còn sử

dụng séc, thẻ tín dụng giả vào Việt Nam để rút

tiền)13

. Các đối tượng người Trung Quốc

thường móc nối với đối tượng người Việt Nam

ở khu vực biên giới để tạo đường dây vận

chuyển, lưu hành tiền giả, sử dụng tiền giả đi

mua bán hàng hóa hoặc đánh bạc để đổi lấy tiền

thật. Các đối tượng mua bán, vận chuyển tiền

giả cũng mua tiền giả của nhiều đối tượng

người Trung Quốc khác nhau, là người không

quen biết, không biết tên và địa chỉ, giao dịch

và nhận “hàng” qua các đối tượng khác nhau14

.

Lợi dụng các đường mòn, lối tắt trên biên giới,

bọn tội phạm thường xuyên vận chuyển, mua

bán tiền Việt Nam giả từ Trung Quốc rồi vận

_______ 13 Hầu hết tiền giả được các đối tượng tiêu thụ ở vùng sâu,

vùng xa bằng hình thức mua bán nông sản. Nạn nhân chủ

yếu là đồng bào các dân tộc thiểu số cư trú dọc biên giới,

thiếu sự hiểu biết để phân biệt giữa tiền giả và tiền thật.

Tại đây, người dân do ít giao dịch và thiếu công cụ nhận

biết nên rất dễ bị lừa. Họ chỉ biết là tiền giả sau khi đi mua

hàng hóa ở khu vực trung tâm hoặc gửi tiền ở ngân hàng.

Một thủ đoạn hoạt động khá phổ biến mà các đối tượng

thường áp dụng là lợi dụng trời tối, nơi thiếu ánh sáng, chỗ

vắng người ở nông thôn, thông qua trao đổi, mua bán hàng

hóa để lừa gạt tiêu thụ tiền giả; dùng tiền giả mệnh giá cao

mua hàng có giá trị thấp để được trả lại bằng tiền thật hoăc

kẹp lẫn tiền giả vào tiền thật (một số đối tượng ở các tỉnh

nội địa lên làm ăn buôn bán ở khu vực biên giới mua hàng

hóa của đồng bào khi thanh toán đan xen giữa tiền thật và

tiền giả để che mắt bà con). 14 Để tránh sự phát hiện của các cơ quan chức năng, các

đối tượng làm tiền giả có nhiều thủ đoạn đối phó rất tinh

vi và thường không trực tiếp thực hiện tội phạm. Chúng

mua bán, giao nhận tiền giả theo phương thức một người

với một người, chủ yếu sử dụng điện thoại di động để liên

lạc, hạn chế gặp mặt nên không biết nhau. Những đặc

điểm này càng gây khó khăn cho công tác truy bắt đối

tượng làm tiền giả, nhất là khi chúng ở ngoài lãnh thổ Việt

Nam. Được xem là "hàng hóa" siêu lợi nhuận, giá mua

tiền giả tại khu vực giáp biên giới Trung Quốc (Lũng Vài,

Lũng Nghịu) khoảng từ 15 - 30% giá trị tiền thật, mua ở

phía sâu trong nội địa Trung Quốc từ 10-15%.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

62

chuyển về Việt Nam (thậm chí chúng chuyển

thẳng qua biên giới Việt-Lào để về Nghệ An)

tiêu thụ với rất nhiều thủ đoạn tinh vi nhằm che

giấu hành vi vi phạm pháp luật. Do nhận thức

được hành vi phạm tội và sợ bị phát hiện, bắt

giữ nên các đối tượng thường lôi kéo người

thân vào đường dây tàng trữ, vận chuyển, lưu

hành tiền giả. Đặc biệt, vào những thời điểm

cuối năm và Tết Nguyên đán, hoạt động của các

đối tượng sản xuất, vận chuyển, tiêu thụ các

loại tiền giả (tiền Việt Nam, ngoại tệ giả) ở khu

vực Tây Bắc càng phức tạp hơn và có chiều

hướng gia tăng. Tại đây, chúng bán lại cho một

số đối tượng để “xé nhỏ”, tiêu thụ ở vùng nông

thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi dân tộc (nơi

có trình độ dân trí thấp).

- Tội buôn lậu, gian lận thương mại: Với

lợi thế địa lý có chung đường biên giới trên bộ

dài đến hàng ngàn km, hệ thống giao thông

đường sắt, đường bộ, đường thủy tương đối

thuận tiện cho vận chuyển hàng hóa, hạ giá

thành sản phẩm, hoạt động buôn bán qua biên

giới giữa hai nước Việt - Trung ngày càng phát

triển và gắn bó khăng khít. Hình thức tiểu

ngạch lại phát huy ưu điểm khi vận chuyển

những mặt hàng nhỏ, số lượng ít và bằng đường

bộ15

. Trên tuyến đường bộ, đã nổi lên tình

trạng buôn lậu hàng Trung Quốc nhập lậu, vận

chuyển pháo lậu qua các đường mòn, lối mở ở

các tỉnh biên giới (Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng

Ninh) vận chuyển về tập kết tại các chợ lớn ở

Hà Nội để đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh phía Bắc

và cả nước. Các đối tượng buôn lậu, gian lận

thương mại chủ yếu vận chuyển hàng hóa (chủ

yếu là hàng tiêu dùng của các nước) vào Việt

Nam tiêu thụ và vận chuyển xăng dầu, lâm thổ

sản quý hiếm từ Việt Nam ra nước ngoài. Hàng

năm, càng gần Tết Nguyên đán, tình hình buôn

lậu, gian lận thương mại trên tuyến biên giới

các tỉnh khu vực Tây Bắc càng gia tăng số vụ

_______ 15 Các đối tượng buôn lậu, gian lận thương mại chủ yếu

vận chuyển hàng hóa, nhất là hàng tiêu dùng của các nước

vào Việt Nam tiêu thụ và vận chuyển xăng dầu, lâm thổ

sản quý, hiếm từ Việt Nam ra nước ngoài; lợi dụng những

"kẽ hở" của pháp luật, những hạn chế trong công tác quản

lý, kiểm soát để trốn thuế.

và số lượng hàng. Các đối tượng buôn lậu

thường dùng mọi thủ đoạn xé lẻ hàng hóa, vận

chuyển qua đường mòn, lối tắt đưa hàng vào

nội địa, rồi làm giả giấy tờ, con dấu, nhãn mác,

mua hóa đơn nhằm hợp pháp hóa hàng lậu, đưa

ra thị trường tiêu thụ…Hoạt động của tội phạm

buôn lậu ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt

là trên các các tuyến, địa bàn trọng điểm, nhất

là tuyến biên giới, tuyến đường bộ và trong lĩnh

vực xuất nhập khẩu, kho ngoại quan, tạm nhập-

tái xuất...16

. Trên tuyến đường bộ, đã nổi lên

tình trạng buôn lậu hàng Trung Quốc nhập lậu,

vận chuyển pháo lậu qua các đường mòn, lối

mở ở các tỉnh biên giới (Lạng Sơn, Cao Bằng,

Quảng Ninh) vận chuyển về tập kết tại các chợ

lớn ở Hà Nội để đưa đi tiêu thụ tại các tỉnh phía

Bắc và các tỉnh phía Nam (bằng đường bộ,

đường sắt, đường hàng không).

(5). Tội phạm do người Việt Nam ở nước

ngoài gây ra rồi trốn về Việt Nam hoặc tội

phạm do người Việt Nam gây ra ở trong nước

rồi trốn ra nước ngoài

- Tội phạm do người Việt Nam ở nước

ngoài gây ra rồi trốn về Việt Nam hoặc do

người Việt Nam gây ra ở trong nước rồi trốn ra

nước ngoài: Trong những năm qua, xuất hiện

nhiều băng nhóm tội phạm người Việt Nam ở

nước ngoài (Trung Quốc, Lào) tổ chức các hoạt

động buôn lậu (ma túy, vũ khí...), lừa đảo, bắt

cóc tống tiền, giết người cướp tài sản, rửa tiền,

buôn bán phụ nữ, trẻ em...Nhiều đối tượng tội

phạm người Việt nước ngoài câu kết với bọn tội

phạm trong nước tiến hành các hoạt động buôn

lậu, chuyển tiền bất hợp pháp, bắt cóc, đòi nợ

thuê, hình thành các đường dây buôn lậu, buôn

người...Hầu hết các băng nhóm tội phạm người

Việt ở nước ngoài đều câu kết với các băng

nhóm tội phạm ở Việt Nam và các nước khác

để tiến hành các hoạt động phạm tội xuyên

_______ 16

Do nhiều quy định của pháp luật còn bất cập, dẫn đến

việc phát hiện, điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ về hành

vi buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới

gặp nhiều khó khăn, nhất là chứng minh yếu tố qua biên

giới của tội buôn lậu và tội vận chuyển trái phép hàng hóa

qua biên giới.

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

63

quốc gia. Đồng thời, một số đối tượng tội phạm

trong nước cũng tìm cách trốn ra nước ngoài để

trốn tránh pháp luật: một số đối tượng phạm tội

buôn bán phụ nữ, trẻ em, đánh bạc...thường lẩn

trốn tại các khu vực giáp biên giới hoặc trốn

sang Trung Quốc; một số đối tượng phạm tội

ma túy (nhất là các đối tượng chủ mưu) thường

bỏ trốn sang Lào để tiếp tục chỉ đạo hoạt động

buôn lậu ma túy ở trong nước17

.

Tóm lại: Do tác động ảnh hưởng của tình

hình TPXQG trên thế giới, khu Đông Nam Á và

tình hình kinh tế-xã hội trên địa bàn, tình hình

TPXQG tại khu vực Tây Bắc trong thời gian

qua diễn biến hết sức phức tạp và có chiều

hướng gia tăng về số vụ việc, đối tượng lẫn tính

chất, thủ đoạn, phạm vi và địa bàn hoạt động.

Do đặc thù về địa lý, các tỉnh Tây Bắc chịu tác

động trực tiếp của tình hình tệ nạn ma tuý, buôn

người của các nước trong khu vực và đang có

chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp18

.

Đặc biệt, tình hình tội phạm ma túy (nhất là tội

phạm ma túy có tổ chức, sử dụng vũ khí

“nóng”) trên tuyến Tây Bắc được đánh giá là

phức tạp nhất cả nước cả về quy mô lẫn tính

chất nguy hiểm và xu hướng phức tạp gia tăng.

Để đạt được lợi nhuận bất hợp pháp, các đối

tượng tội phạm trong, ngoài biên giới đã móc

_______ 17 Cũng có một số đối tượng bị khởi tố hoặc truy nã về

hành vi phạm tội hình sự đã qua các cửa khẩu đường bộ

hoặc các đường tiểu ngạch lẩn trốn ở khu vực giáp biên

Trung Quốc hoặc Lào, sau đó làm giấy tờ giả để trốn sang

nước khác hoặc móc nối hình thành các đường dây đưa ma

túy về Việt Nam tiêu thụ hoặc tiếp tục vận chuyển đi nước

thứ ba. 18 Do đặc thù về địa lý, các tỉnh Tây Bắc chịu tác động

trực tiếp của tình hình tệ nạn ma tuý các nước trong khu

vực, hoạt động của tội phạm ma túy diễn ra phức tạp theo

cả hai chiều: 1/ Phần lớn thuốc tân dược gây nghiện, ma

túy tổng hợp (dạng viên, dạng “đá”, ketamin) được mua

bán, vận chuyển chủ yếu từ Trung Quốc, khu vực “Tam

giác vàng” (qua Lào, Campuchia) và các nước Tây Phi

vào Việt Nam qua các tuyến biên giới đường bộ, nhiều

nhất là qua các cửa khẩu, đường tiểu ngạch thuộc các tỉnh

Lạng Sơn, Quảng Ninh, Lào Cai, Sơn La, Nghệ An, Thanh

Hóa,..2/ Hêrôin, thuốc phiện được vận chuyển từ khu vực

biên giới Việt-Lào qua các tỉnh vùng Tây Bắc và các tỉnh

nội địa đưa lên biên giới để sang Trung Quốc.

nối, câu kết giữa người nước ngoài với các đối

tượng người dân tộc thiểu số ở khu vực giáp

biên giới và đối tượng ở các tỉnh ở miền xuôi

thiết lập các đường dây TPXQG với thủ đoạn

tinh vi, liều lĩnh. TPXQG đã lợi dụng triệt để

điều kiện địa hình khu vực Tây Bắc cực kỳ

phức tạp, hiểm trở, rừng sâu, bị chia cắt bởi núi

cao, sông suối, hang động, vùng sâu, vùng xa

dân cư sống thưa thớt và hẻo lánh, giao thông

hạn chế, xa trung tâm đô thị, khí hậu khắc

nghiệt của các địa phương biên giới giữa Việt

Nam với Trung Quốc, Lào. Địa bàn Tây Bắc

với đường biên giới dài và các cửa khẩu thông

thương quốc tế, hệ thống lối mòn tiểu ngạch

biên giới và địa bàn cư trú phức tạp, giao thông

khó khăn là điều kiện thuận lợi trong phát triển

kinh tế và giao lưu văn hóa, khó khăn trong

việc tuần tra, kiểm soát điều tra truy bắt tội

phạm của các lực lượng chức năng trên tuyến

biên giới nhưng cũng là cơ hội thuận lợi, “đất

vàng” cho tội phạm hoạt động. Các thế lực tội

phạm thường lợi dụng sự quen biết hoặc thiếu

hiểu biết pháp luật, hoàn cảnh khóa khăn, sự

nhẹ dạ và lòng tham của một bộ phận đồng bào

dân tộc thiểu số sống cạnh biên giới cùng với

những "kẽ hở" của pháp luật, những hạn chế

trong công tác quản lý, kiểm soát của cơ quan

chức năng; triệt để khai thác sự thông thương

tại các cửa khẩu, việc qua lại thuận tiện giữa hai

nước thông qua các đường mòn, đường tiểu

ngạch để móc nối qua lại, vận chuyển ma túy,

đưa người hàng và tiền tệ (là những đối tượng

và tang vật phạm tội) qua biên giới. Do đặc

điểm cư trú ở hai vùng biên giới là có khá nhiều

đồng tộc của các dân tộc cư trú sát vùng biên,

bọn tội phạm đã lợi dụng những phong tục tập

quán, văn hóa tộc người và các mối quan hệ

thân tộc để tổ chức mạng lưới vận chuyển, buôn

bán ma túy, hàng hóa, đưa người ra nước ngoài

với mục đích thu lợi nhuận bất hợp pháp. Các

mắt xích của đường dây đều là những người

trong dòng tộc nên mức gắn kết rất chặt chẽ,

khó phát hiện. “Thuộc tính lịch sử” của các

“dân tộc vùng biên cương” với tập quán sinh

hoạt văn hóa lạc hậu, quan hệ đồng tộc, dòng

họ mối quan hệ xuyên biên giới, trình độ dân

trí thấp, cuộc sống khó khăn và lạc hậu của một

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

64

bộ phận đồng bào dân tộc vùng miền núi, vùng

sâu, vùng xa biên giới; chính sách mở hội nhập

quốc tế và tình hình giao lưu phát triển kinh tế

của khu vực biên giới cửa khẩu cũng được tội

phạm khai thác để thực hiện các hành vi phạm

tội. Tội phạm xuyên quốc gia ở Tây Bắc thể

hiện đầy đủ và đậm nét đặc điểm “biên giới”

với các hành vi liên quan đến chất ma túy;

buôn bán người; lừa đảo, chiếm đoạt tài sản;

sản xuất, buôn bán tiền giả, buôn lậu, gian lận

thương mại, trốn thuế xuất nhập khẩu, sản xuất

và vận chuyển hàng giả....Địa bàn biên giới trở

thành những điểm “tập kết”, “giao hàng” của

những mạng lưới buôn bán ma túy, buôn người,

buôn lậu hàng hóa với nhiều thủ đoạn với ngày

càng tinh vi, lọc lõi và khó kiểm soát để thực

hiện hành vi phạm tội hoặc che giấu, trốn tránh

pháp luật, gây khó khăn công tác truy bắt đối

tượng. Sự phát sinh, phát triển của các loại

TPXQG nói chung, tội phạm ma tuý nói riêng ở

khu vực Tây Bắc đã gây tác hại đặc biệt nghiêm

trọng tới mọi mặt của đời sống, thực sự một

hiểm họa đối với sự phát triển của vùng và đất

nước; gây rối loạn thị trường, làm thiệt hại lớn

về kinh tế - xã hội và ảnh hưởng xấu đến sự ổn

định an ninh, trật tự trên địa bàn; trực tiếp xâm

hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân

phẩm của con người mà đối tượng tác động chủ

yếu là một bộ phận nhân dân ở khu vực miền

núi, vùng biên cương đời sống còn khó khăn và

lạc hậu, phụ nữ và trẻ em. Vì vậy, nghiên cứu

những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố kinh

tế - xã hội đến việc phát sinh và phát triển của

TPXQG vùng Tây Bắc góp phần nhận diện đầy

đủ thực trạng, đặc điểm, yêu cầu, khó khăn và

thách thức trong công tác đấu tranh phòng

chống loại tội phạm nguy hiểm này trên địa bàn

chiến lược Tây Bắc nói riêng và cả nước nói

chung.

Tài liệu tham khảo

[1] Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, Nxb Giáo

dục, 2009.

[2] Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội 14 tỉnh vùng

Tây Bắc (Báo cáo trích xuất từ Báo cáo Tổng hợp

đề tài “Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ

liệu liên ngành phục vụ phát triển bền vững vùng

Tây Bắc, mã số KHCN-TB.01C/13-18 thuộc

Chương trình Tây Bắc).

[3] Nguyễn Thị Thanh Nga, Một số vấn đề cơ bản của

các dân tộc vùng Tây Bắc,

http://bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-

doi/thong-tin-tu-lieu/1460-ddd.html

[4] Vấn đề biên giới tiếp giáp giữa Tây Bắc Việt Nam

và Trung Quốc

http://bienphongvietnam.vn/nghien-cuu-trao-

doi/tu-lieu/1549-ddd.html

[5] Tổng quan về biên giới trên đất liền Việt Nam -

Trung Quốc

http://bienphongvietnam.vn/cong-tac-bien-

phong/duong-bien-moc-gioi/234-dbmg14.html

[6] Tổng quan chung về đường biên giới Việt Nam -

Lào

[7] Đỗ Quang Hưng, Tôn giáo, tín ngưỡng trong các

dân tộc thiểu số dọc biên giới Việt Nam - Trung

Quốc

http://bienphongvietnam.vn/lich-su-van-hoa/tin-

nguong-ton-giao/1286-dd.html

[8] Đặng Thị Hoa, Đậu Tuấn Nam, Quan hệ thân tộc

vùng biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Tạp chí

Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(105)/2016.

[9] Đặng Thị Hoa, Nguyễn Hà Đông, Hôn nhân

xuyên biên giới ở các tỉnh miền núi Việt Nam

hiện nay, Tạp chí Khoa học Xã gội Việt Nam, số

8(93)/2015].

[10] Ban Chỉ đạo Tây Bắc sơ kết công tác 6 tháng đầu

năm,

http://baosonla.org.vn/vi/bai-viet/ban-chi-dao-tay-

bac-so-ket-cong-tac-6-thang-dau-nam-3730

[11] Thực trạng nguồn nhân lực Tây Bắc và những vấn

đề đặt ra cho sự phát triển bền vững, Tạp chí Lý

luận chính trị số 5-2015.

[12] Tây Bắc: Địa bàn nóng về tội phạm ma túy

http://tiengchuong.vn/Ho-so-tu-lieu/Tay-Bac-Dia-

ban-nong-ve-toi-pham-ma-tuy/20314.vgp

[13] Thực trạng phát triển kinh tế-xã hội 14 tỉnh Vùng

Tây Bắc (Báo cáo trích xuất từ Báo cáo Tổng hợp

đề tài “Nghiên cứu, xây dựng hệ thống cơ sở dữ

liệu liên ngành phục vụ phát triển bền vững vùng

Tây Bắc,

mã số KHCN-TB.01C/13-18 thuộc Chương trình

Tây Bắc).

[14] Tội phạm mua bán người vẫn gia tăng

http://cstc.cand.com.vn/Ho-so-interpol-cstc/Toi-

pham-mua-ban-nguoi-van-gia-tang-380919/

Đ.Đ. Minh / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tâp 33, Sô 1 (2017) 50-65

65

The Influences of Social-economic Factors to the Occurance

and Development of Transnational Crimes in the Northwest

Do Duc Minh

VNU Inspection and Legislation Department, Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam

Abstract: Northwest has the geopolitical position is extremely important, closely related to the

existence and prosperity of the country. Research the impacts, the effect of economic factors - social to

the incurring and development of transnational type of crime in the Northwest region contributed

identify, clarify the characteristics, requirements, advantages and challenges in the fight against them

on strategic areas in particular Northwest and the country generally.

Keywords: Northwest, Drugs, Transnational Crime.