tri tue vu tru & triet hoc

78
1 TRI TUE VU TRU Triết hc Phương đông coi con người là Vũ trthu nhvà, đặc bit được Đông y dùng làm cơ snghiên cu cơ chế phát sinh bnh tt, giúp phát trin y thut, trbnh cu người . Triết hc Phương tây thì khng định Thượng đế sáng to ra Vũ trvà sau đó sáng to ra con người theo đúng hình nh ca mình . Thế nhưng, ngoài thxác, con người còn có Ý thc, có Tư duy, nghĩa là có Trí tu, thì Vũ trthhin nhng cái đó chnào? Đó là mt bí n ln, to nên nhng nút tht trong nhn thc Thế gii Tâm linh, mà cho đến tn hôm nay, vn chưa có được tiếng nói chung nào .Gra nhng nút tht này, ta có cơ may nhn biết được nhiu giá trnhn thc thú v.

Upload: namthang75hn

Post on 15-Apr-2017

79 views

Category:

Science


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Tri tue vu tru & triet hoc

1

TRI TUE VU TRU

Triết học Phương đông coi con người là Vũ trụ thu nhỏ và, đặc biệt được Đông y dùng làm cơ sở nghiên cứu cơ chế phát sinh bệnh tật, giúp phát triển y thuật, trị bệnh cứu người .

Triết học Phương tây thì khẳng định Thượng đế sáng tạo ra Vũ trụ và sau đó sáng tạo ra con người theo đúng hình ảnh của mình .

Thế nhưng, ngoài thể xác, con người còn có Ý thức, có Tư duy, nghĩa là có Trí tuệ, thì Vũ trụ thể hiện những cái đó ở chỗ nào?

Đó là một bí ẩn lớn, tạo nên những nút thắt trong nhận thức Thế giới Tâm linh, mà cho đến tận hôm nay, vẫn chưa có được tiếng nói chung nào .Gỡ ra những nút thắt này, ta có cơ may nhận biết được nhiều giá trị nhận thức thú vị .

Page 2: Tri tue vu tru & triet hoc

2

1. Bí ẩn Big-bang: Tại sao Vũ trụ đã xuất hiện ? Không một định luật Vật lý nào rút ra từ sự quan sát, cho phép trả lời những câu hỏi đó . Thế nhưng, cũng những định luật ấy lại cho phép chúng ta mô tả chính xác những gì đã xảy ra từ thời điểm 10 - 43 giây sau vụ nổ lớn (Big-Bang), một khoảnh khắc nhỏ bé không tưởng tượng nổi, so với khoảnh khắc này, một lóe sáng chụp ảnh còn dài hơn 1 tỷ tỷ tỷ lần thời gian của toàn bộ lịch sử mà 10 - 43 giây chiếm trong một giây . Vậy, cái lịch sử chớp nhoáng từ 10 - 43 trở về zéro, lúc vụ nổ bùng phát, là gì ? Cho tới nay, đó là bí mật tuyệt đối, vì thời điểm 10 – 43 là biên giới của nhận thức, mà Vật lý học gọi là “Bức tường Planck” . Bên kia bức tường, các định luật Vật lý không còn hiệu lực, toán học gọi đó là điểm kỳ dị . Chỉ có thể, ở đó là “Năng lượng ban đầu : Một đai dương năng lượng vô hạn .

Sự tồn tại một giới hạn nhận thức bỡi “bức tường Planck” có một hệ quả triết học rất cơ bản, vượt ra ngoài lôgic cổ điển . Hiện nay chúng ta đang tập sự một phương thức tư duy mới: Tư duy siêu lôgic (còn gọi là tư duy phi tuyến) . Tầm quan trọng của sự chuyển dịch tư duy này là ở chỗ : trong khi tư duy lôgic

Page 3: Tri tue vu tru & triet hoc

3

(còn gọi là tư duy tuyến tính) tự giới hạn ở sự phân tích có hệ thống về những hiện tượng chưa biết, - nhưng, cuối cùng, vẫn có thể biết, thì tư duy phi tuyến đã vượt qua ranh giới cuối cùng phân chia nó với cái không thể biết : nằm ở bên kia các phạm trù của lý trí, nó tiếp cận cái bí ẩn ở đó và cố gắng mô tả chúng . Có thể lấy ví dụ như “Tính không thể quyết định được” trong Toán học (không thể chứng minh được một mệnh đề nào đó là đúng hay sai ), hay “Tính bổ sung trong Vật lý” (các hiện tượng cơ bản vừa là hạt vừa là sóng) .

Việc đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất của Tư duy phi tuyến là, chấp nhận có những giới hạn Vật lý đối với nhận thức . NhàVật lý Đức Max Planck, đã làm sáng tỏ một trường hợp đặc biệt có ý nghĩa của một “hàng rào” Vật lý như vậy . Đó là Lượng tử tác dụng (còn gọi là hằng số Planck) .

Với một giá trị nhỏ bé cùng cực : 6,626 . 10 – 34 jun mỗi giây, đó là lượng năng lượng nhỏ nhất tồn tại trong thế giới Vật lý của chúng ta.

Page 4: Tri tue vu tru & triet hoc

4

Sự tồn tại của một giới hạn dưới, trong lĩnh vực tác dụng Vật lý, tất nhiên sẽ dẫn tới những giới hạn tuyệt đối khác xung quanh Vũ trụ có thể tri giác được, bởi vì còn đụng phải một độ dài cuối cùng : Độ dài Planck, đó là khoảng cách nhỏ nhất có thể có, giữa hai đối tượng . Cũng vậy, Thời gian Planck : chỉ thời gian nhỏ nhất có thể có .

Ranh giới nhận thức từ hệ quả của bí ẩn Big-Bang, cùng với hiện thực bất định mà lý thuyết lượng tử xác lập, hầu như làm cho tất cả các nhà Vật lý đang trải qua sự thể nghiệm về một thuyết Bất khả tri theo kiểu mới .

Hệ quả tiếp theo là vấn đề, Tại sao những ranh giới ấy tồn tại ? Ai, hay cái gì, đã quyết định sự tồn tại, cùng với giá trị cực kỳ chính xác của chúng ?

Thuyết Vụ nổ lớn được khoa học công nhận, đã làm cho Nhà thờ Cơ đốc giáo hân hoan tuyên bố, Big-Bang

Page 5: Tri tue vu tru & triet hoc

5

là minh chứng sự hiện hữu của Sáng thế và, qua đó, Thượng đế thực sự tồn tại, Giáo hoàng Pie XII đã coi Big-Bang đồng nhất với fiat lux của Kinh thánh (ý nói lời phán của Chúa rằng, ”Phải có sự sáng, thì có sự sáng” ) .

Cái ẩn dấu đằng sau bức tường Planck là một dạng năng lượng đầu tiên, một sức mạnh vô hạn . Ở đó có một “Tổng thời gian (Temps Total) vô tận”ngự trị, nhưng chưa được mở ra, chưa phân chia thành quá khứ, hiện tại, tương lai và cũng chưa được phân chia theo một trật tự đối xứng, trong đó hiện tại chỉ là tấm gương hai mặt mà thời gian tuyệt đối chưa đi qua đó, nó phù hợp với thứ năng lượng ban đầu vô tận ấy .

Đại dương năng lượng vô tận, đó chính là Đấng Sáng tạo . Nếu như con người không thể đi tới hiểu được cái gì nằm đàng sau bức tường Planck, thì đó chính là vì, tất cả các định luật Vật lý không đứng vững được trước sự huyền bí tuyệt đối của Thượng đế và của Sáng tạo mà thôi .

Page 6: Tri tue vu tru & triet hoc

6

Trong khi đó, Thuyết Vũ trụ tuần hoàn của Phật giáo (Tuần hoàn nhưng không lặp đi lặp lại), coi Big-Bang chỉ là một phân đoạn trong lòng một continuum không đầu, không cuối . Nó đơn giản chỉ là sự khởi đầu một chu kỳ mới trong “chu trình sinh-diệt” vô tận của Vũ trụ . Theo quan điểm của Phật giáo, sự kết thúc của một chu kỳ, được thể hiện ra ngoài bằng một sự bùng nổ cuối cùng, sau đó là sự tiêu tan của Vũ trụ vào chân không, rồi từ chân không đó, một chu kỳ mới lại xuất hiện .

Triết học Phật giáo không thừa nhận mọi sự bắt đầu mà không cần có nguyên nhân cho sự bắt đầu đó, do đó . cũng không thừa nhận sự tồn tại của một Đấng tạo hóa là nguyên nhân của chính mình .

2 . Bí mật đề án Vũ trụ :

a ) Lược sử thời gian

Từ thời điểm 10 – 43 giây, sau Big-Bang, toàn thể Vũ trụ vật chất, với tất cả những gì nó sẽ chứa đựng sau này : Các Thiên hà, các hành tinh, Trái đất, cây cối,

Page 7: Tri tue vu tru & triet hoc

7

sinh vật, v.v.. Tất cả những thứ đó được chứa trong một kích thước vô cùng nhỏ bé : 10 – 33 cm, tức là một phần tỷ tỷ tỷ lần nhỏ hơn một hạt nhân nguyên tử ( 10 – 13 cm) . Đó chính là kích thước Vũ trụ lúc sơ khai, Mật độ và nhiệt độ của Vũ tru lúc ban đầu ấy, đạt tới những con số không thể tưởng tượng nổi : Nhiệt độ tới 10 32 độ C ! Vượt qua “bức tường nhiệt độ” này, Vật lý của chúng ta sẽ sụp đổ . “Vật chất” lúc này là một thứ “bùn hổ lốn” của các hạt cơ bản nguyên thủy : những tổ tiên xa của quark .Ở giai đoạn này 4 tương tác cơ bản ( lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân mạnh và lực hạt nhân yếu) chưa phân hóa, chúng hợp thành một Siêu lực duy nhất . Thời đó, có lẽ là thời điên cuồng nhất của toàn bộ lịch sử Vũ trụ, như các nhà vật ly đánh giá . Những sự kiện diễn ra chớp nhoáng với một nhịp độ kỳ lạ, đến mức những điều diễn ra trong phần tỷ giây ấy, lại nhiều hơn những gì diễn ra trong hàng tỷ năm sau đó .

Nếu có một thực thể có ý thức nào đó, có thể sống và chứng kiến Vũ trụ vào thời điểm ấy, thì chắc chắn họ có cảm giác thời gian chớp nhoáng ấy dài vô tận, gần như vĩnh cửu, đã trôi qua giữa các sự kiện . Chẳng

Page 8: Tri tue vu tru & triet hoc

8

hạn, sự kiện mà ngày nay chúng ta cảm nhận, ví dụ, một cái lóe sáng chụp ảnh, thì trong Vũ trụ lúc ấy, ngang với thới gian dài hàng tỷ năm . Tại sao ? bỡi vì, lúc đó mật độ cực đại của các sự kiện, đòi hỏi một sự mất cân đối về thời gian để đủ cho các sự kiện hoàn thành . Hay nói cách khác, thời gian tâm lý phải tương xứng với mật độ sự kiện . Điều này trực tiếp suy ra từ nguyên lý tương đối .

Sau Big-Bang, chỉ cần vài phần tỷ giây là đủ, để cho Vũ trụ bước vào một giai đoạn, mà các nhà vật lý gọi là “Kỷ nguyên lạm phát” . Trong giai đoạn ngắn ngủi ấy, từ 10 – 35 đến 10 – 32 giây, Vũ trụ giãn nở rất nhanh theo hệ số 10 50 . Nghĩa là, nó từ chỗ có tầm vóc một hạt nhân nguyên tử, lớn lên tới tầm vóc một quả cam có đường kính 10 cm . Nói cách khác, tốc độ giãn nở chóng mặt ấy, còn lớn hơn tốc độ giãn nở tiếp theo: từ kỷ nguyên lạm phát cho đến ngày nay .

Thứ “vật chất bát nháo” điện tử, quark, nơtrino, photon và những phản hạt của chúng, xuất hiện sau khoảnh khắc 10 – 32 giây ấy, không phải là hoàn toàn đồng

Page 9: Tri tue vu tru & triet hoc

9

nhất . Nếu có thể quan sát thời điểm ấy, người ta sẽ thấy quả cam kia mang theo những đường rạch, biểu hiện sự không đều về mật độ . Thế nhưng, sự tồn tại của chúng ta ngày nay, lại nhờ vào những sự không đều ban đầu ấy . Bởi vì những đường rạch tí xíu kia, sẽ phát triển lên, để sau này tạo ra các Thiên hà, các ngôi sao và các hành tinh. Tóm lại “ tấm thảm”Vũ trụ ban đầu sẽ đẻ ra tất cả những gì chúng ta biết hiện nay, chỉ trong vài phần tỷ giây .

Cũng vào lúc 10 – 32 giây, Lực mạnh (lực bảo đảm cố kết của hạt nhân nguyên tử) tách khỏi Lực điện yếu (do sự hợp nhất giữa lực điện từ và lực phân rã phóng xạ đẻ ra) . Vào thời đó, Vũ trụ đã lớn lên theo những tỷ lệ kỳ lạ : Bây giờ nó đã đạt được 100 mét đường kính . Bên trong nó là vương quốc của bóng tôi tuyệt đối với nhiệt độ cao không thể tưởng tượng nổi . Vào 10 - 11 giây, Lực điện yếu chia thành hai lực khác nhau : Lực điện từ và Lực yếu . Các photon không còn bị lẫn với những hạt khác, như quark, gluon và lépton nữa . Bốn lực cơ bản xuất hiên .

Page 10: Tri tue vu tru & triet hoc

10

Từ 10 – 11 đến 10 – 5 giây, sự phân hóa vẫn tiếp tục . Nhưng vào thời điểm ấy, một sự kiện căn bản xen vào : các quark liên kết thành proton và nơtron, và phần lớn các phản hạt biến mất để nhường chỗ cho các hạt của Vũ trụ hiện nay . Vào một phần vạn giây, các hạt cơ bản như vậy, đã được đẻ ra trong một không gian không gian mới được sắp xếp trật tự. Vũ trụ tiếp tục nở ra và lạnh đi . Khoảng 200 giây, sau khoảnh khắc ban đầu, các hạt cơ bản tụ tập lại để tạo nên các đồng vị của các hạt nhân Hydro và Heli :Thế giới, như chúng ta đang biết, dần dần hình thành.

Lịch sử mà chúng ta vừa trải qua, kéo dài khoảng ba phút . Sau đò mọi việc diễn ra chậm hơn nhiều . Trong hàng chục triệu năm, Vũ trụ được tắm trong bức xạ và plasma khí quay cuồng . Vào 100 triệu năm, những ngôi sao đầu tiên được tạo ra trong những cơn lốc bụi vô tận . Chính bên trong những cơn lốc ấy, các nguyên tử Hydro và Hêli hợp nhất lại để tạo ra những nguyên tố nặng, những nguyên tố này sẽ tìm thấy đường đi của mình trên Trái đất, rất lâu, tới hàng tỷ năm về sau này.

Page 11: Tri tue vu tru & triet hoc

11

b) Bí ẩn vĩ đại

Sự tiến hóa của Vũ trụ, cũng như của mọi hệ thống Vật lý khác, đều do, cái mà người ta gọi là, “những điều kiện ban đầu” và “các hằng số Vật lý” qui định . Vậy mà, đối với quá trình tiến hóaVũ trụ, ngoài những điều kiện ban đầu, như mật độ vật chất, Tốc độ giãn nở vật chất ứng với xung lực của Big-Bang, thì chỉ có 15 Hằng số Vật lý quyết định chiều hướng tồn tại và dẫn dắt Vũ trụ tiến hóa trong tương lai .Chẳng hạn, Hằng số hấp dẫn qui định lực hấp dẫn, Tương tự, ba con số khác qui định cường độ của các lực : hạt nhân mạnh, yếu và lực điện từ, sau đó là vận tốc ánh sáng và hằng số Planck qui định kích thước nguyên tử, tiếp theo là các số đặc trưng cho khối lượng các hạt cơ bản : khối lượng proton, électron v..v.. . Các hằng số này không thay đổi trong không gian và thời gian .

Vũ trụ dường như được điều chỉnh bỡi sự lựa chọn hết sức tỉ mỉ những con số đó, để cho phép xuất hiện một vật chất có trật tự, rồi sự sống và cuối cùng là Ý thức .

Hơn nữa, chỉ cần một trong những Hằng số phổ biến, chẳng hạn hằng số Hấp dẫn, Tốc độ ánh sáng, hay

Page 12: Tri tue vu tru & triet hoc

12

hằng só Planck, v. v.., ngay từ ban đầu, chịu một sự thay đổi hết sức nhỏ bé, thì Vũ trụ đã không có cơ may nào, để các thực thể sống và có trí tuệ ở đó cả .Hay một ví dụ khác, về điều kiện ban đầu : Nếu mật độ vật chất ban đầu, chỉ sai lệch khỏi giá trị tới hạn của nó, thì Vũ trụ đã không hình thành . Còn có thể kể ra nhiều ví dụ nữa …

Tới đây, chúng ta đụng phải một câu hỏi, mang tính Triết học nhiều hơn là Khoa học, không thể né tránh, là : Sự tiến hóa của Vũ trụ, cho đến ngày hôm nay, là kết quả chỉ của “ngẫu nhiên”, như nhà Sinh học Jacques Monod suy nghĩ, hay sự tiến hóa ấy, đã được thiết kế trước bỡi một nguồn Tư duy rộng lớn, ngự trị trong bản thân Vũ trụ, đã vạch ra bản đề án tổng thể Vũ trụ với những thiết kế đồ sộ, mà mỗi yếu tố của nó được tinh toán tỉ mỉ đến như vậy ? Câu trả lời sẽ được trình bày ở phần Hệ quả Triết học . Ở đây chúng ta đã có thể mường tượng thấy rằng : Vũ trụ thật thông minh trong lựa chọn một tập hợp số, để thiết lập một sự đồng bộ duy nhất, có được Vũ trụ như ngày nay.

Page 13: Tri tue vu tru & triet hoc

13

3. Bí ẩn bản đề án tạo ra sự sống :

Sự khác biệt duy nhất về căn bản giữa cái ỳ và cái sống là ở chỗ, cái sống phong phú về thông tin hơn cái ỳ rất nhiều, Nhưng nếu sự sống chỉ là vật chất được thông tin nhiều hơn, thì thông tin ấy từ đâu mà ra ? Cho tới hiện nay nhiều nhà Sinh học và Triết học cho rằng những sinh vật đầu tiên được đẻ ra “ngẫu nhiên” trong các làn sóng tới và các làn sóng dội lại, của đại dương nguyên thủy, cách đây 4 tỷ năm .

Đúng là những qui luật tiến hóa do Darwin nêu lên, là có thật và các qui luật đó dành cho tính bấp bênh một vị trí to lớn, nhưng ai đã quyết định các qui luật này ? Bằng “ngẫu nhiên” nào mà một số nguyên tử xích lại gần nhau để tạo thành những phân tử axit amin đầu tiên ? và bằng ngẫu nhiên nào mà những phân tử ấy tập hợp lại để đi tới tòa nhà phức tạp ghê gớm là ADN ấy ?

Nhà Sinh học Francoirs Jaccop, đã có lần đặt ra câu hỏi : Ai đã vạch ra các đề án của phân tử ADN đầu

Page 14: Tri tue vu tru & triet hoc

14

tiên, mang theo thông điệp đầu tiên, cho phép tế bào sống đầu tiên tự sinh sản ?

Những câu hỏi đó, và một loạt những câu hỏi khác, vẫn chưa có trả lời nếu chỉ bám chặt vào thuyết “ngẫu nhiên”. Đó là lý do tại sao, từ nhiều năm nay, quan điểm của nhiều nhà Sinh học đã bắt đầu thay đổi . Những nhà nghiên cứu đi trước, không còn băng lòng vơi việc đọc thuộc lòng, các qui luật của Darwin mà không suy nghĩ, Họ dựng lên một lý luận mới, thường gây ra nhiều ngạc nhiên . Đó là những giả thuyết rõ ràng, dựa vào sự can thiệp của một nguyên lý tổ chức siêu việt vào vật chất .

Theo những cách tiếp cận mới, càng ngày càng lay chuyển niềm tin giáo điều về cái gọi là “ngẫu nhiên sáng tạo “ ấy, sự sống là một thuộc tính nổi lên từ vật chất, một hiện tượng tuân theo một loại tính tất yếu nằm ngay trong cái không sống . Điều này lại càng đáng chú ý hơn ở qui mô Vũ trụ : Sự sống phải mở một con đường khó khăn, đầy rẫy những chướng ngại, để cuối cùng xuất hiện được . Chẳng hạn, không gian,

Page 15: Tri tue vu tru & triet hoc

15

nơi thì trống rỗng, lạnh đến đông cứng với nhiệt độ gần 273 độ âm, nơi thì vật chất của các ngôi sao nóng bỏng, không một sinh vật nào có thể chịu được, nơi thì các loai bức xạ thi nhau bắn phá không cho cái sống biểu hiện ra gần như khắp nơi, thế mà, bất chấp mọi điều đó, sự sống vẫn xuất hiện, ít ra là trên hành tinh của chúng ta .

Do đó, vấn đề đặt ra với các nhà Khoa học và các nhà Triết học là tìm biết xem giữa vật chất và sự sống, có một sự chuyển tiếp liên tục không . Hiện nay, Khoa học đang nghiên cứu ở chỗ nối nhau ấy của cái ỳ và cái động, nó muốn chứng minh ràng, có một vùng liên tục, nói cách khác, cái sống là kết quả của một sự thăng tiến tất yếu của vật chất . Nó có sứ mệnh không cưỡng được, là phải vượt qua một thang đi lên từ những hình thức gần gũi với vật chất nhất (như các siêu vi khuẩn), cho tới những hình thức cao nhất, có một sự đi lên trong tiến hóa : Cuộc phiêu lưu của sự sống đã được một nguyên lý tổ chức sắp xếp .

Page 16: Tri tue vu tru & triet hoc

16

Vậy phải xem, nguyên lý đó có thể nằm ở chỗ nào . Để làm việc này, chúng ta phải dựa vào những công trình của một trong những nhà Sinh hóa nổi tiếng nhất, đoạt giải nobel Hóa học: Ilya Prigogine .

Những nghiên cứu của ông, bắt nguồn từ một ý tưởng hết sức đơn giản :Hỗn loạn không phải là một trạng thái tự nhiên của vât chất, mà ngược lại, là một giai đoạn đi trước của sự xuất hiện một trật tự cao hơn . Quan niệm đó, trước hết, gây ra sự chống đối của giới Khoa học, vì nó đi ngược lại với những quan niệm đã được thừa nhận, Tuy nhiên sự chống đối ấy, chẳng làm lay chuyển niềm tin của ông : Các qui luật chưa biết, sẽ phải giải thích Vũ trụ và sự sống sinh ra từ hỗn loạn ban đầu như thế nào . Niềm tin ấy của Prigogine, không phải chỉ có tính chất lý thuyết, mà còn dựa vào kết quả của một thí nghiêm . gọi là thí nghiệm Bénard . Nó hết sức đơn giản : Lấy một dung dịch, chẳng hạn như nước, đun nóng nó lên trong một cái bình . Chúng ta thấy gì ? Thấy các phân tử của dung dịch tự tổ chức lại, tập hợp lại theo một cách trật tự để tạo thành những ô sáu góc gần giống như mặt ngoài của một tổ ong . Hiện tượng bất ngờ ấy, được biết với tên gọi

Page 17: Tri tue vu tru & triet hoc

17

“Tính không ổn định Bénard” đã làm cho Prigogine băn khoăn: Tại sao và như thế nào, những “ô” ấy đã xuất hiện trong nước ? Ai đã làm nảy sinh ra một cấu trúc có trật tự bên trong hỗn loạn?

Có một sự tương tự giữa sự hình thành những cấu trúc khoáng chất ấy và sự xuất hiện những tế bào sống đầu tiên . Đó là kết luận mà Prigogine đi tới . Cái có thể xảy ra trong động lực học của các dung dịch, cũng phải xảy ra trong Hóa học và Sinh học.

Nhưng để hiểu rõ hơn lập luận của Prigogine, cần phải dựng lại những giai đoạn chính của hiện tượng này . Trước hết, cần ghi nhận răng, sự vật xung quanh ta, có cách ứng xử như hệ thống mở, tức là chúng trao đổi thường xuyên vật chất, năng lượng và, quan trọng nhất : Thông tin, với môi trường của chúng . Nói cách khác, các hệ thống thường xuyên vận động ấy, thay đổi một cách đều đặn qua thời gian và phải được coi là Thăng giáng . Thế nhưng, những thăng giáng ấy có thể quan trọng đến mức, tổ chức mà những thăng giáng ấy đưa vào, không thể cho phép có chúng mà

Page 18: Tri tue vu tru & triet hoc

18

không tự biến đổi . Từ cái ngưỡng quyết định ấy, có hai giải pháp được Prigogine mô tả chi tiết : hoặc hệ thống bị phá vỡ bỡi tầm rộng lớn của những thăng giáng, hoặc nó đi tới một trật tự nội tại mới, có một trình độ tổ chức cao hơn . Như vậy, điểm chính trong sự phát hiện của Prigogine là : Sự sống dựa vào những cấu trúc động lực mà ông goi là “ Các cấu trúc tiêu tán “ (Structures dissipatives), với vai trò của chúng đúng là làm tiêu tán luồng năng lượng, vật chất và thông tin gây ra một thăng giáng. (Trong những năm 60 của thế kỷ trước, lần đầu tiên ở Việt nam, Giáo sư Tạ Quang Bửu cũng đã có một bài viết dài, giới thiệu nội dung và ý nghĩa “Về tính không ổn định Bernard” và “Các cấu trúc tiêu tán” này trong công trình của Prigogine, trên Tạp chí Hoạt động Khoa học kỷ thuật của UBKHKTNN . bài viết của GS . Tạ Quang Bửu đã làm nóng lên không khí học thuật của các nhà khoa học Việt nam lúc đó . Tác gỉả bài viết nhỏ này, cũng được may mắn đọc bài viết đó của GS một cách hồ hởi và suy ngẫm về ý nghĩa của nó trong nhiều năm sau) .

Page 19: Tri tue vu tru & triet hoc

19

Nếu trong một hệ thống kín tuân theo Nguyên lý thứ hai của Nhiệt động học, nói rằng, theo thời gian, các hệ thống kin chuyển từ trật tự sang hỗn loạn, không thể cưỡng được, thì trong hệ thống mở, như sự sống, phải chăng đã diễn ra điều ngược lại ? Các nhà khoa học đã xem xét lịch sử các hóa thạch, nhận thấy rằng các tổ chức tế bào thường bị biến đổi, được cấu trúc thành từng bậc, ngày càng phức tạp . Nói cách khác, sự sống chỉ là lịch sử của một trật tự ngày càng cao và càng phổ quát hơn . Vì, khi Vũ trụ trở về trạng thái cân bằng, thì nó phải xoay xở, bất chấp mọi cái, để tạo ra những cấu trúc ngày càng phức tạp . Đó chính là điều Prigogine chứng minh . Dưới con mắt của ông, vật chất có xu hướng tự cấu trúc để trở thành vật chất sống . Ở mức phân tử, một sự cấu trúc như vậy diễn ra theo các qui luật hiện còn rất bí ẩn . Các nhà khoa học nhận thấy lối “Ứng xử thông minh” lạ thường của những phân tử hay những tập hợp phân tử, mà không thể nào giải thích được những hiện tương đó .

Hết sức bối rối vì sự có mặt khắp nơi của trật tự nằm bên dưới vẻ hỗn loạn bề ngoài của vật chất ấy, Prigogine đã tuyên bố : “Điều gây ngạc nhiên là, mỗi

Page 20: Tri tue vu tru & triet hoc

20

phân tử biết các phân tử khác làm gì đồng thời với nó, và với khoảng cách hết sức lớn . Những thí nghiệm của chúng tôi, cho thấy các phân tử giao tiếp với nhau như thế nào . Tất cả mọi người đều chấp nhận thuộc tính ấy trong hệ thống sống, nhưng không có trong hệ thống ỳ “ .

Như vây là có một sự kết nôi liên tục giữa vật chất gọi là “ỳ” và vật chất sống . Trong thực tế, sự sống rút những thuộc tính của nó một cách trực tiếp từ thiên hướng bí ẩn này của vật chất : Thiên hướng tự tổ chức một cách tự phát để đi tới những trạng thái ngày càng trật tự hơn và phức tạp hơn .

Một lần nữa, Vũ trụ thật là thông minh . Vũ trụ là một tư duy rộng lớn ! Tư duy ấy có ở từng hạt, từng nguyên tử, từng phân tử, tưng tế bào của vật chất, có một tinh toàn hiện ( Omnipresence) sống và hoạt động lặng lẽ, không cho ai hay biết cả .

Page 21: Tri tue vu tru & triet hoc

21

Xét về mặt Triết học, những điều vừa nêu trên, có nhiều hệ quả : Vũ trụ có một cái hướng . Cái hướng sâu xa ấy nằm bên trong nó, dưới hình thức một nguyên nhân siêu việt :

Nếu trong Vũ trụ có một sự chuyển tiếp từ cái không thuần nhất sang cái thuần nhất, nếu có một sự tiến bộ thường xuyên của vật chất sang những trạng thái có trật tự hơn, và nếu có một sự tiến hóa của các giống loài, tới một “siêu giống loài” (thậm chí có thể là loài người), thì tất cả những điều đó, buộc chúng ta phải tin rằng, ở cơ sở của chính bản thân Vũ trụ, có một nguyên nhân đưa lại sự hài hòa của các nguyên nhân : “Một Trí tuệ”. Sự hiện hữu rõ ràng của trí tuệ đó đến tận giữa lòng vật chất . Đó là cơ sở để bác bỏ quan niệm về một Vũ trụ xuất hiện “ngẫu nhiên” và tạo ra Ý thức (trí tuệ) cũng “ngẫu nhiên” . Để làm rõ hơn cơ sở này, chúng ta xét một trường hợp cụ thể : Một tế bào sống bao gồm khoảng hai chục axit amin tạo thành một chuỗi chật kín . Chức năng của các axit amin ấy, đến lượt nó, phụ thuộc vào khoảng 2000 enzym đặc thù . Theo sơ đồ ấy, các nhà sinh học đã tinh ra rằng, để 1000 enzym khác nhau, xích lại gần nhau một cách có trật tự để tạo thành một tế bầo sống, (trong một tiến

Page 22: Tri tue vu tru & triet hoc

22

trình nhiều tỷ năm), thì phải có xác suất là 10 1000 lấy một .Có thể nói cơ may ấy bằng không . Điều này đã thúc đẩy Francis Crick, giải Nobel sinh học, dựa vào phát hiện về ADN, đi tới kết luận, theo hướng đó, rằng : “Một người trung thực, được trang bị mọi tri thức hiện có, sẽ phải khẳng định rằng, nguồn gốc sự sống hiện nay, có vẻ như ở một phép màu, một khi hội đủ những điều kiện tạo ra nó “ .

Trong Hóa học có một nguyên lý, được biết dưới cái tên “ Ổn định hình thể điện tích” (Stabilisation topologique de charges), nguyên lý này đòi hỏi các phân tử, trong cấu trúc của chúng, mang những chuỗi nguyên tử thay thế nhau ( và, đặc biệt là cacbon, azot và oxy ), tạo ra các hệ thống ổn định trong khi tập hợp lại . Đó chính là những bộ phận căn bản tạo nên cơ học của cái sống : Các axit amin !

Vẫn theo nguyên lý “ái lực nguyên tử” này, các axit amin, đến lượt chúng, lại tập hợp để tạo nên những chuỗi đầu tiên của các vật liệu quí giá cho sự sống, đó là các peptit .

Page 23: Tri tue vu tru & triet hoc

23

Trong những làn sóng đen khắc nghiệt của các đại dương, vào những ngày đầu tiên Trái đất, đã bắt đầu xuất hiện những phân tử azot đầu tiên (mà người ta gọi là “purin” và “pyrimidin” ) theo cùng một quá trình ấy, từ những phân tử này, về sau, đã nảy sinh ra mã di truyền . Thế là cuộc phiêu lưu lớn bắt đầu, chậm rãi đưa vật chất lên cao hơn trong một vòng xoáy trôn ốc đi lên, không thể cưỡng lại được : Những phân tử azot đầu tiên được củng cố, kết hợp với phốt phát và đường, cho đến khi vạch ra được những nguyên mẫu của Nucleotit, những yếu tố nền tảng này, đến lượt chúng, vừa tạo ra những chuỗi vô hạn, vừa dẫn tới giai đoạn căn bản của cái sống : Sự xuất hiện Axit Ribonucleic ( ARN – nổi tiếng không kém gì ADN ).

Như vậy, trong vài trăm triệu năm gì đó, sự tiến hóa đã đẻ ra hệ thống sinh hóa, bền vững, tự chủ, được bảo vệ ở bên ngoài bằng những màn tế bào, và đã giống với một số vi khuẩn nguyên thủy .

Page 24: Tri tue vu tru & triet hoc

24

Ngoài việc cung cấp năng lượng (mà hồi đó chứa đầy trong môi trường), vấn đề thực sự, mà các tế bào cổ xưa ấy đụng phải, là vấn đề sinh sản,

Đúng vậy, làm thế nào để duy trì những tập hợp quí giá ấy, những kỳ quan nhỏ bé của Tự nhiên ấy, có thể bảo đảm tính vĩnh hằng của chúng ? Chúng ta vừa thấy rằng, các axit amin tạo ra những tập hợp này đã tuân theo một trật tự chính xác . Như vậy những tế bào đầu tiên ấy, phải học cách “sao chép” ở đâu đó sự xâu chuỗi này trong khi tạo ra những protein cơ sở của chúng, để cho chính bản thân chúng, có thể tạo ra những protein mới, hoàn toàn phù hợp với những protein trước đó .

Vấn đề là, làm thế nào, những tế bào đâu tiên đã bày đặt ra được vô số những mưu lược dẫn tới sự kỳ diệu này : Sự sinh sản !

Có một “qui luật” được khắc vào lòng vật chất, cho phép dẫn tới phép lạ : Các Axit amin có cực tính mạnh nhất ( tức là những Axit amin mang một điện tích tĩnh cao ) bị hút một cách tự phát bỡi những phân tử Azot,

Page 25: Tri tue vu tru & triet hoc

25

trong khi những axit amin ở gần hơn, lại tập hợp với những họ khác, như sytosin .

Thế là đã xuất hiện Bản phát thảo đầu tiên của Mã di truyền : Bằng cách làm cho một số nucleotit xích lại gần nhau ( mà không phải là những thứ khác ), những Axitt amin ấy đã từ từ vạch ra những sơ đồ cấu trúc riêng của chúng, bỡi những công cụ và vật liệu đã chế tạo ra chính chúng.

Rõ ràng, qua lược đồ được mô tả trên, ta thấy không có thao tác nào có thể được thực hiện một cách ngẫu nhiên cả.

Hãy lấy một trong nhiều ví dụ : Để cho việc ghép các Nucleotit một cách “ngẫu nhiên” để cho ra một phân tử ARN dùng được, thì Tự nhiên cần phải mò mẫm, thử đi thử lại nhiều lần, mất ít ra 10 15 năm, tức là gấp một trăm nghìn lần tuổi của Vũ tru chúng ta!

Nói cách khác, chỉ một lần thử ngẫu nhiên trên Trái đất cũng đủ thu hết cả Vũ trụ ! Điều đó có vẻ giống như

Page 26: Tri tue vu tru & triet hoc

26

toàn bộ sơ đồ tiến hóa đã được thiết kế trước, từ nguồn gốc .

Nếu quả sự tiến hóa của vật chất hướng tới sự sống và Ý thức, đòi hỏi một Trật tự, thì đó là trật tự nào ? Đó chỉ có thể là Trật tự của một Tư duy giàu trí tuệ . Bỡi vì, để ý rằng, Nếu Ngẫu nhiên có xu hướng phá hủy trật tự, thì ngược lại, Trí tuệ lại biểu hiện ra ở sự tổ chức mọi vật, ở sự đem lại một trật tự từ hỗn loạn . Do đó, khi quan sát tính phức tạp đáng kinh ngạc của sự sống, chúng ta không thể không kết luận rằng, bản thân Vũ trụ thật “Thông minh” : Một trí tuệ siêu việt, tồn tại trên bình diện hiện thực ( tồn tại ngay ở khoảnh khắc ban đầu khai sinh Vũ trụ ) đẫ “ra lệnh” cho vật chất đẻ ra sự sông .

4. Những hệ quả Triết học.

a) Trật tự từ hỗn loạn : chiều hướng phổ biến của vận động vật chất

Lý thuyết Lượng tử có thể mô tả rất chính xác ứng xử của một nhóm hạt, nhưng khi đụng tới một hạt riêng

Page 27: Tri tue vu tru & triet hoc

27

biệt, thì nó chỉ có thể nêu ra những xác suất . Như vậy, điều mà chúng ta thấy bấp bênh ở một mức nào đó, lại tỏ ra có trật tự ở một mức cao hơn . Điều đó chứng tỏ rằng, cái mà chúng ta gọi là “ngẫu nhiên” chỉ là sư bất lực của chúng ta trong việc hiểu một mức độ trật tự cao hơn mà thôi . Đồng tình với tư tưởng này, nhà Vật lý người Anh David Bohm, cho rằng : Những vận động của các hạt bụi trong một tia nắng, chỉ tán loạn vè bề ngoài : Dưới cái vẻ hỗn loạn của các hiện tượng, có một trật tự sâu xa ở mức độ rất cao . Điều đó cho phép giải thích, cái mà chúng ta thấy như kết quả của ngẫu nhiên.

Một minh chứng khác, hãy nhớ lại một thí nghiệm nổi tiếng trong Vật lý : Thí nghiệm hai khe . Phương tiện thí nghiệm rất đơn giản : Đặt một tấm màn có hai khe hở song song theo chiều dọc, giữa một tấm phim và một nguồn sáng, phóng các photon (các hạt ánh sáng) đi tới tấm màn . Khi phóng các hạt ánh sáng từng hạt một tới các khe, chúng ta không thể nói được hạt đó đi qua khe nào, cũng như nó sẽ tới tấm phim đúng vào điểm nào . Theo đó, vận động và quĩ đạo của hạt ánh sáng là bấp bênh và không dự đoán được.

Page 28: Tri tue vu tru & triet hoc

28

Thế nhưng, sau khoảng một nghìn lần bắn liên tiếp, các photon không để lại một vết tán loạn nào trên tấm phim cả . Toàn bộ các hạt được bắn tách rời nhau ấy, tạo thành một hình hoàn toàn có trật tự, được biết dưới cái tên : những vân giao thoa . Hình này, về đại thể, là có thể dự đoán được . Nói cách khác, tính chất “bấp bênh” về ứng xử của mỗi hạt riêng biệt, thật ra đã chứa đựng một mức độ trật tự rất cao, mà chúng ta không thể lý giải được.

Thí nghiêm này, ở tầm vi mô, cùng với những ví dụ ở tầm vĩ mô, nêu ở các phần trước, có thể khái quát một chân lý : Vũ trụ không chứa đựng ngẫu nhiên, mà là những mức độ trật tự khác nhau, còn chúng ta thì phải khám phá ra Thứ bậc của những mức độ.

Từ hệ quả đó, có thể hiểu được, tại sao khi quan sát Tự nhiên và các qui luật toát lên từ Tự nhiên, người ta cảm thấy dường như toàn thể Vũ trụ Tràn ngập Ý thức hướng tới tính phức tạp vô tận của nó, bất chấp những vẻ bề ngoài đối địch nhau để biểu hiện ra Trí tuệ . Nhận thức mới này, được Tôn giáo và Tín ngưỡng đón nhận như một nền tảng thiêng liêng trong đời sống Tâm linh của mình : Hiện thực của một Đấng Sáng thế !

Page 29: Tri tue vu tru & triet hoc

29

Một Trường phái tư tưởng Triết học khác, cũng từ hệ quả trên, cho rằng : “ Vật chất không có Ý thức chỉ là sự sụp đổ của Vũ trụ “ . Không có chúng ta, không có một Ý thức để chứng nhận chính bản thân nó, Vũ trụ sẽ không thể tồn tại : Chúng ta là bản thân Vũ trụ, Là Sự sống, Ý thức, Trí tuệ của nó .

b . Thượng đế có tồn tại ?

Sự chứng tỏ Vũ trụ ứng xử thông minh như một Tư duy rộng lớn, một Trí tuệ siêu việt, đã làm ý niệm về một Thượng đế toàn năng, hiện hữu hơn bao giờ hết trong quan niệm của Tôn giáo .

Trong khi đó, Triết học Phật giáo nói rằng, Vũ trụ không có “bắt đầu” và không có “kết thúc”, do đó không có khái niệm “Sáng thế”, vì vậy, Thượng đế không có lý do tồn tại . Sự xuất hiện của các hiện tượng đều thông qua nguyên lý về Sự phụ thuộc lẫn nhau . Tức là, mỗi sự kiện hay mỗi hiện tượng đều phải có một nguyên nhân . Mối quan hệ Nhân – quả, nối tiếp vô cùng này, chắc chắn sẽ đi ngược lại niềm tin siêu hình của phương Tây, của Tôn giáo, cũng như của các nhà

Page 30: Tri tue vu tru & triet hoc

30

Khoa học, những người muốn, bằng mọi giá, phải gán một sự “Bắt đầu”, một “Nguyên nhân đầu tiên “ cho vạn vật . Mong muốn tìm ra một điểm bắt đầu với niềm tin rằng, vạn vật tồn tại thực và bền vững, như trí óc bình thường của chúng ta cảm nhận.

Chứng minh sự tồn tại một điểm “bắt đầu, tức là chứng minh tính hiện thực của “Sáng thế”, đồng nghĩa với sự hiện hữu của Thượng đế . Do đó không dễ gì lay chuyên niềm tin ấy, đã ngự trị lâu đời trong hệ tư tưởng Tôn giáo, cho dù về mặt Khoa học, Cơ học lượng tử cho phép tránh được quan niệm về nguyên nhân đầu tiên của Vũ trụ . Sự “bắt đầu” của vạn vật không còn cần thiết nữa .

Tuy nhiên, nếu khẳng định một niềm tin “sáng thế”, thì nguyên lý sáng thế ấy phải mang trong lòng nó những nguyên nhân và kết quả, của Vũ trụ . Vậy thì nó phải không ngừng tạo ra Vũ trụ . Về một phương diện nào đó, tựa như một Big-Bang vĩnh cửu : nghĩa là liên tục nổ ra Big-Bang ! Đó là điều phi lý .

Page 31: Tri tue vu tru & triet hoc

31

Mặc khác, nói “Thượng đế tạo ra Vũ trụ” sẽ vô nghĩa nếu Thời gian không tồn tại . Hành động sáng tạo ra Vũ trụ chỉ có thể tiến hành trong Thời gian . Vậy Thượng đế nằm trong hay ngoài Thời gian ? . Mà như Einstein khẳng định, thời gian không phải là tuyệt đối . Thời gian có thể co giãn, vậy một Thượng đế ở trong thời gian, thậm chí là chính thời gian, sẽ không còn là đấng toàn năng nữa vì phải tuân theo những biến thiên của thời gian do các chuyển động có gia tốc, hay do các trường hấp dẫn mạnh (xung quanh lỗ đen) gây ra . Nếu một Thượng đế ở ngoài thời gian, sẽ có sức mạnh vạn năng, thì lại không thẻ cứu rỗi chúng ta được, vì những hành động của chúng ta đều nằm trong thời gian . Còn, nếu Thượng đế vượt lên trên cả thời gian, thì Ngài hẳn đã biết trước tương lai, vậy thì tại sao Thương đế lại phải bận tâm đến sự tiến bộ trong cuộc đấu tranh của con người chống cái ác ? Vì Ngài chẳng đã biết tất cả tứ trước rồi hay sao . Hoặc, nếu Thượng đế là bất biến, thì như vậy Ngài không thể sáng tạo được, hoặc là, Thượng đế nằm trong thời gian thì Ngài không bất biến . Đây chính là một trong những mâu thuẫn mà khái niệm “Nguyên nhân đầu tiên” dẫn đến .

Page 32: Tri tue vu tru & triet hoc

32

Tuy nhiên, ở đây chỉ bác bỏ một Thượng đế được “nhân hóa” như một thực thể hiện hữu . Còn trên phương diện thực hành Tâm linh, thì niềm tin vào Thượng đế, đối với một số người, có thể tạo ra một số tình cảm thân thiện với người sáng tạo ra chúng ta và kích thích chúng ta nuôi dưỡng tình yêu và lòng vị tha, để thể hiện lòng biết ơn của mình và để tham gia vào tình yêu của Thượng đế đối với mọi chúng sinh,

Tóm lại, khi người ta dấn thân vào một con đường Tâm linh nào đó, điều quan trọng là việc hành đạo phải phù hợp cao nhất với sự phát triển trí óc của mình, và với những thiên chất và khuynh hướng Tâm linh của mình .

c . Phải chăng hiện tượng Ý thức tồn tại trong lòng Vũ trụ ?

Ý thức là nền tảng của Tư duy . Tư duy là hành vi của Ý thức . Trí tuệ là thước đo năng lực Tư duy . Tư duy phát huy nên Trí tuệ . Chúng là nguyên nhân và kết quả của nhau : “Có cái này, mới có cái kia “ .

Page 33: Tri tue vu tru & triet hoc

33

* Chân lý hiện lên từ những vương vấn hoài nghi?

Sau khi loại bỏ khả năng hiện thực của một “Đấng Sáng tạo”, thì tiến hóa của Vũ trụ, dường như, được dẫn dắt bỡi một Tư duy rộng lớn, với tầm Trí tuệ siêu việt, hiển hiện trong từng chi tiết, từ Thế giới vi mô : Các hạt cơ bản, các nguyên tử, các phân tử, cho đến Thế giới vĩ mô : Các hành tinh, các ngôi sao, các Thiên hà …

Những biểu hiện chính xác, đầy tính lôgic ấy, ngoài sự sáng suốt của Ý thức, không thể là cái gì khác : Chắc chắn tồn tại một Trường mang thông tin chức năng Ý thức, vận động vĩnh hằng trong thời gian và rộng lớn trong không gian là một thực tại của Vũ trụ .

Đặc trưng cơ bản của Trường là dao động, cho nên Trường cũng có nghĩa là Sóng, dù không phải là sóng Vật lý, thì Sóng luôn gắn với chuyển động . Vì là phi vật thể, nên Trường sóng mang thông tin “chức năng Ý thức” này, tồn tại trong Thế giới siêu hình của Vũ trụ .

Page 34: Tri tue vu tru & triet hoc

34

Ý thức, theo Triết Phật, là một chức năng hữu hiệu, không có hiện thực nội tại và cũng không có điểm “bắt đầu”. Ý thức bao hàm một lượng lớn quan hệ, mà ta có thể xem như chúng sinh ra một Trường, cũng có nghĩa là một Sóng, ngay cả khi nó không phải là một sóng Vật lý . Người ta có thể mô tả Ý thức như một dòng chảy, một chức năng duy trì vĩnh viễn, nhưng không nhất thiết phải mang theo một thực thể tách biệt nào, nghĩa là, có một sự lan truyền một chức năng và các thông tin, chứ không có sự chuyển dịch vật chất, hay các thực thể cụ thể nào . Ý thức và thân xác không có ranh giới Chủ thể - Khách thể . Chúng bổ sung cho nhau và Phụ thuộc lẫn nhau, thống nhất trong một Tổng thể con người và Thế giới . Phật giáo cho rằng, Ý thức có nhiều cấp độ : Cấp độ Thô, cấp độ Tinh và cấp độ cực kỳ tinh .

Cấp độ Thô gắn liền với não bộ, và chỉ được thể hiện khi còn thân xác . Điều đó có nghĩa là, cấp độ Thô lấy thân xác làm giá đỡ : gọi là giá đỡ vật chất, hay giá đỡ vật lý, Ý thức cấp độ Tinh và Cực kỳ tinh, không nhất thiết cần đến giá đỡ vật lý . Nghĩa là, dù cái chết làm cho thân xác tiêu tan, nhưng Ý thức ở cấp độ cao ấy

Page 35: Tri tue vu tru & triet hoc

35

vẫn duy trì vĩnh viễn, mang theo Thông tin ký ức, và tiếp tục tồn tại trong Tổng thể Vũ trụ .

Đến đây, chúng ta thấy gì ? Chúng ta thấy, bằng chiêm nghiệm với công cụ Tư duy sắc bén, Triết học Phật giáo đã đoán nhận “Bản chất của Ý thức”, trùng hợp với hiện tượng “trí tuệ”, phát lộ ngay trong lòng Vũ trụ, đang vận động như một dòng chảy vĩnh hằng, được biết như một Trường Thông tin mang chức năng Ý thức, tràn đầy Vũ trụ.

Ý thức, Tư duy, là khái niệm thuộcThế giới siêu hình học . Thiên văn học hiện đại nói cho chúng ta biết, trong Vũ trụ, thế giới vật chất chỉ chiếm một phần ít ỏi, khoảng xấp xỉ 5%, Còn lại, choáng gần hết Vũ trụ là Thế giới siêu hình, mà các nhà Khoa học gọi Thế giới ấy là “Vật chất tối” (cũng có lúc gọi là “Năng lượng tối” ) . Không có bất kỳ bức xạ nào phát ra từ nó, Nó vô hinh, nhưng rõ ràng nó tồn tại, thông qua tương tác của mình, nó gắn kết với phần Vật chất còn lại của Vũ trụ, như một tổng thể thống nhất, làm cho Vũ trụ vận hành . Đó là bí ẩn lớn đôi với Khoa học . Còn đối với

Page 36: Tri tue vu tru & triet hoc

36

Triết học Nhân sinh Phương đông, thì đó không hề là bí ẩn khi tìm cách trả lời câu hỏi sau đây :

Nếu năng lượng tối, phần siêu hình học ấy, quyết định sự vận hành, thậm chí là số phận của Vũ trụ, thì một động vật cao cấp, có Ý thức, có Tư duy, như con người chúng ta, thì số phận được quyết định bởi cái gì ?

Ai cũng hiểu rằng, Thế giới Tư duy ở con người có tầm rộng lớn, gần như vô hạn, còn “Thế giới “ thân xác thì hạn hẹp : Nó nhỏ bé trong không gian và ngắn ngủi trong thời gian . Nghĩa là, có sự tương đồng với Vũ trụ, ở con người Thế giới siêu hình cũng vẫn là bất tận, Cho nên, cái phần siêu hình học mà đời sống Tinh thần, đời sống Tâm linh ngự trị, mới thật sự là quyết định giá trị và phẩm chất đời người . Đó là chân lý mà Khoa học về tiến hóa của Vũ trụ cung cấp bằng chứng cho chúng ta : Rằng, chúng ta là hình ảnh phóng chiếu của Vũ trụ .

* Và chân lý có thể đã được chứng minh?

Vào những thập kỷ cuối thế kỷ XX, một quan điểm Triết học, đã được Khoa học Chứng minh và, nhanh chóng, chuyển thành Khoa học công nghệ . Những

Page 37: Tri tue vu tru & triet hoc

37

ứng dụng sau đó, đã gây nên một cuộc cách mạng Khoa học, có sức chấn động không nhỏ, Quan điểm ấy nói rằng : “ Cái bộ phận được chứa trong Toàn thể và cái Toàn thể được phản ảnh trong Bộ phận.” Hoặc có thể phát biểu theo Lý thuyết Thông tin “Thông tin của Bộ phận có trong Toàn thể và thông tin của Toàn thể chứa trong Bộ phận”.

Có thể dẫn ra khá nhiều ví dụ về ứng dụng nguyên lý này trong thực tiễn:

1) Trong Thế giới động vật : Chỉ cần một tế bào phôi, bằng một qui trình nuôi cấy chặt chẽ, đánh thức thông tin Toàn bộ con vật, được lưu giữ trong đó, ngườ ta có thể cho ra đời hoàn chỉnh một con vật cùng giống loài . Đó là kỹ thuật nhân bản vô tính.

2) Trong thế giới thực vật còn đơn giản hơn: Chỉ cần một tế bào lá, có thể nhân bản thành cây . Đó là kỷ thuật ươm cây giống để trồng hàng triệu hecta rừng .

3) Trong Thế giới vô sinh: Người ta đã chế tạo được một loại hợp kim có trí nhớ, lưu giữ thông tin toàn bộ

Page 38: Tri tue vu tru & triet hoc

38

về sản phẩm làm từ hợp kim này . Nếu đem sản phẩm ấy hủy hoại bằng cách đập bẹp, cán dẹt chỉ còn là dạng phế liệu, nhưng khi đem mẫu phế liệu ấy gia nhiệt, thì lập tức, nó bung ra và lấy lại chính xác hình dáng sản phầm ban đầu . Tức là, sản phẩm đã lưu giữ toàn bộ thông tin ký ức vè sự toàn vẹn của chính nó .

4) Cũng trong Thế giới vô sinh: Giả sử, ta có một tấm phim “toàn ảnh”chụp cột cờ Hà nội bằng kỷ thuật hologramme – Đây là kỷ thuật chụp, mà ảnh thu được bằng phương pháp, trong đó, toàn bộ thông tin về vật, đều được ghi lại từ cả cường độ lẫn pha của sóng ánh sáng . Nhờ đó, ảnh thể hiện được cả ba chiều trong không gian . Bây giờ, nếu ta xé vụn tấm phim ra hàng chục, hàng trăm mảnh . Nhưng khi đem một mẩu vụn vừa xé ấy, đặt vào một máy chiếu Laser, Ta sẽ thấy hiện lên nguyên vẹn hình ảnh Cột cờ Hà nôi . Điều đó cho thấy, thông tin về toàn bộ hình ảnh (Cột cờ), đã được ghi ở khắp nơi trên tấm phim toàn ảnh, khiến cho mỗi Bộ phận của tấm phim phản ảnh cái Toàn bộ.

Ngày nay, những ví dụ như vậy rất nhiều, trở thành phổ biến trong đời sống xã hội.

Page 39: Tri tue vu tru & triet hoc

39

Tóm lại, con người là một bộ phận của Vũ trụ . Vì vậy, Ý thức, Tư duy, Trí tuệ, nghĩa là những gì thuộc Thế giới siêu hình, mà con người sở hữu, chỉ là phản ảnh đầy đủ từ cái Toàn bộ, mà thực tại Vũ trụ đang hiện hữu mà thôi . Nói cách khác, Ý thức, Tư duy, Trí tuệ, hiện hữu nơi con người, vốn cũng hiên hữu và lan tràn trong Vũ trụ .

d . Đầu mối và những nút thắt :

Từ những luận cứ đã dẫn trên đây, có cơ sở để xác nhận học thuyết Phật giáo cho rằng : Ý thức không đột sinh ( emergence ) từ vật chất . Bỡi vì, phải có sự cộng thông bản chất giữa kết quả và nguyên nhân, thì sự “nảy sinh” mới thực hiện được . Nếu không, thì “bất cứ cài gì cũng có thể nảy sinh từ bất cứ cái gi” là điều phi lý . Do đó, vật chất và Ý thức không cùng bản chất, thì không thể nảy sinh từ nhau . Ý thức, như đã chứng tỏ, chỉ là một trường sóng phi vật lý, vận động như một dòng chảy liên tục, không có bắt đầu và không có kết thúc . Giờ đây, chúng ta biết thêm được rằng, trường sóng ấy hiện diện khắp nơi trong Vũ trụ, tràn ngập Thế giới xung quanh như một Trường thông tin . Bằng

Page 40: Tri tue vu tru & triet hoc

40

thông điệp của mình, nó dấn dắt Vạn vật xây dựng Trật tự từ Hỗn loạn mà tiến hóa lên . Não bộ không sinh ra Ý thức mà được trang bị Ý thức, tiếp nhận từ Vũ trụ . Cũng tựa như cây cối tạo nên màu xanh rực rỡ, là do tiếp nhận ánh sáng, mà Vũ trụ ban cho, để diệp của lá rực lên màu lục vậy . Hoặc : máy phát sinh ra điện là do tiếp nhận năng lượng từ dòng nước sông đang vô tư lưu chảy ngày đêm kia vậy . Đó chính là Đầu mối của mọi huyền bí Tâm linh, giờ đây đã dần hé lộ, được nhận diện từ trong chồng chất của muôn vàn sắc thái, trong Thế giới các hiện tượng quanh ta .

Từ đó nảy ra vấn đề : Thế thì, vai trò của Não bộ chỉ thụ động của “một chiếc máy thu” Thế giới siêu hình ?

Rõ ràng là phải như vậy, nhưng đó là “Máy thu Đổi tần” chứ không phải là “Máy thu trực tiếp”, bởi vì, Ý thức, và hoạt động chức năng của Ý thức-là sản phẩm phi vật thể của Thế giới siêu hình, chúng không có sự cộng thông bản chất với vật chất của não, nên não bộ không thể tiếp nhận trực tiếp một trường sóng siêu hình mà không bị “nhiễu” làm rối loạn,

Page 41: Tri tue vu tru & triet hoc

41

Nguyên lý thu đổi tần trong kỷ thuật thu thanh hiện đại, là máy thu tự tạo ra một trường sóng nội tại, (thuật ngữ chuyên môn gọi là Dao động nội ), trường sóng này giao thoa với trường sóng phát, mà máy thu cảm nhận, hình thành một sóng trung gian phù hợp với các thông số phẩm chất của máy, tạo sự ổn định bền vững cho hoạt động của máy thu.

Đối với não bộ, Ý thức Thô sắm vai của bộ Dao động nội . Nó tạo ra một trường phi vật thể để giao thoa với Trường ngoài, có cùng bản chất.

Xét thuần túy về mặt hoạt động vật chất, não là trung tâm chỉ huy của một hệ thống “Điều khiển học sinh học” tự thích nghi, định hướng hành vi bản năng của động vật. Con người, ngoài bản năng, với tư cách là một đông vật cao cấp, não bộ có cấu trúc rất phức tạp, cũng chi là kiến tạo “một hạ tầng cơ sở”, để tiếp nhận một cách hiệu quả Y thức, với các cấp độ khác nhau mà thôi .

Page 42: Tri tue vu tru & triet hoc

42

Với cấu trúc và tổ chức vật chất của não bộ ở mức độ đó, đã có thể đưa nó bước vào cữa ngõ của Thế giới siêu hình, cùng với Ý thức về Cái Tôi ở cấp độ Thô đã được hình thành trước đó.

Nói một cách có hình ảnh, với cấp độ này, não bộ thiết lập một cái “Vịnh” nối thông với đại dương, mà Trường Thông tin mang chức năng Ý thức, tràn ngập trong đại dương đó .. Vịnh vừa là bộ phận, thuộc hình thế địa lý của địa phương, thống nhất “máu thịt” trong tổng thể địa lý của địa phương, vừa là bộ phận của biển cả . chịu sự điều khiển của biển cả, nghĩa là được nuôi dưỡng bằng nguồn thông tin của biển cả .Tình hình cũng tương tự : Chuỗi ký ức hằn sâu trong não bộ, vừa là một bộ phận thống nhất trong tổng hòa đời sống con người, vừa là bộ phận của dòng Ý thức mang thông tin, truyền lan trong Vũ trụ .và được nuôi dưỡng bằng chính trường thông tin đó.

Lượng thông tin biển cả, mà vịnh phản ảnh được, có thể khác nhau, phụ thuộc vào hình thế và khẩu độ của cữa Vịnh, nối thông với đại dương . Điều này tương

Page 43: Tri tue vu tru & triet hoc

43

đương với chất lượng Thông tin mà não bộ thu nhận được, cũng sẽ phụ thuộc vào cấu hình tổ chức và tốc độ kết nối mạng nơ-ron thần kinh, cũng như các trung khu của não bộ . Điều này dẫn đến sự khác nhau về phẩm chất Ý thức, thể hiện trên từng cá thể .

Một trận động đất hủy hoại hình thế của Vịnh, có thể làm thay đổi sinh thái và hình thái của Vịnh : Khi đó Vịnh, hoặc là, chỉ còn là một cái đầm phăng lặng, sinh thái nghèo nàn, hoặc là Vịnh trở nên rộng mở với biển cả hơn, làm cho sinh thái trở nên phong phú, mang tính bùng nổ, mà trước cơn đia chấn không hề có .

Hiện tượng ấy, cũng giống như một tai biến sức khỏe, dẫn đến làm biến dạng cấu hình tổ chức của não bộ, làm cho tốc độ và năng lực kết nối trong mạng nơ-ron thần kinh, bị biến dịch sang một cấu hình mới, khác thường, gây đột biến khả năng tiếp nhậnThông tin, làm xuất hiện những năng lực mới, dị thường .

Page 44: Tri tue vu tru & triet hoc

44

Khoa học Giải phẫu thần kinh và Não học, trong nhiều nghiên cứu cho thấy, bộ ócThiên tài không có sự liên quan rõ rệt với số lượng nơ-ron trong từng Trung khu của não bộ . Thậm chí là không khác với não bộ của người bình thường . Đặc biệt, có trường hợp, một người sống, làm việc và Tư duy bình thường, trí tuệ minh mẫn, nhưng trong hộp sọ của anh ta, gần như trống rỗng, nói chính xác chỉ tìm thấy “Vết” não ! Đó là trường hợp rất điển hinh, xảy ra vào năm 1935, Trong quá trình điều trị cho một sinh viên Khoa toán, Trường Đại học Sheffield, hay bị ốm vặt, Giáo sư Lorber phát hiện thấy, cậu ta hoàn toàn không có não khi chụp CAT – scan . Lẽ ra, hai bán cầu não phải lấp đầy hộp sọ với độ sâu 4,5 cm, nhưng sinh viên này chỉ có chưa đầy 1 mm mô não phủ trên đỉnh cột sống . Không hiểu, bằng cách nào mà cậu vẫn sống bình thường . Chỉ số IQ của cậu ta rất cao :126 ! Học lực còn rất xuất sắc, từng đạt học vị danh dự ngành Toán học . Năm 1970, người thanh niên này chết ở tuổi 35 . Khi mổ tử thi, một lần nữa, các bác sĩ đã chứng thực việc cậu không hề có não .

Page 45: Tri tue vu tru & triet hoc

45

Còn có thể kể nhiều ví dụ khác . Y học đã có thể thống kê hàng trăm trường hợp như thế cho đến những năm gần đây .

Điều đó dẫn đến một nhận định mới : Não tiếp nhận và xử lý Thông tin bằng kết nối và tốc độ kết nối . Phương thức này, cho phép không phụ thuộc vào số lượng nơ-ron . Mười người hớn hở gặp nhau, không phài diễn ra bằng mười cái bắt tay, mà bằng 45 cái ! Đây là một Ma trận, mà khả năng kết nối rất lớn . Một mạng chứa hàng trăm tỷ phần tử lôgic, như mạng nơ-ron, thì Ma trận kết nối được, lên đến con số khổng lồ . Đủ để xử lý chọn lời giải tối ưu, tương thích với khối lượng dữ liệu mà trường thông tin ngoại biên dồn dập gửi đến . Vấn đề chỉ còn là tốc độ kết nôi . Và đây chính là thước đo năng lực Tư duy : Nhận thức cùng một vấn đề, nhưng nhanh chậm khác nhau ở từng cá thể .

Tóm lại, “Tiên đề” về Ý thức con người được “trang bị” từ nguồn Vũ trụ, như đã chứng tỏ, cung cấp cho hiểu biết của chúng ta một cơ hội, có thể tiếp cận đúng hướng vào Thế giới Tâm linh bí ẩn . Dựa trên 3 cơ sở có tính nguyên lý, là :

Page 46: Tri tue vu tru & triet hoc

46

1) Tồn tại một Trường phi vật chất, mang thông tin Chức năng Ý thức, chiếm đầy không gian và vận động vĩnh viễn trong thời gian .

2) Thông tin Bộ phận chứa trong Toàn thể . Thông tin Toàn thể phản ảnh trong Bộ phận

3) Vật chất và Ý thức ( hay Vật lý - siêu hình ) tồn tại trong một Thế giới thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau và bổ sung nhau .

Nguyên lý thứ 2 và thứ 3, Khoa học, cũng như Triết học đã chứng minh giá trị chân lý đúng đắn, Nguyên lý thứ nhất, tuy đã chứng minh nhưng cần kiểm tra thêm bằng thực nghiêm, vi vai trò Đầu mối của nó là rất quan trọng : Một đột phá khẩu !

Các dạng Tâm linh huyền bí, gọi theo ngôn ngữ dân gian truyền thống, như : Tái sinh luân hồi, Thần đồng, giao diện linh hồn v..v.. đều dựa trên cơ chế khai mở Tiềm thức, giải phóng ký ức cá nhân chứa trong “ cái toàn thể “,vẫn còn tiếp tục vận động trong không gian, sau khi thể xác không còn .

Page 47: Tri tue vu tru & triet hoc

47

Cho đến hiện tượng Tâm thể, phát công năng dị thường, như : Viễn di, Thấu thị, Vận công trị thương v..v.. không thuộc Thế giơi Tâm linh, mà thuộc nguyên nhân giải phóng năng lượng tiềm ẩn của Tâm thể, nguyên nhân đó, là do tạo được cộng hưởng năng lượng Vũ trụ ( cũng chiếm đầy không gian ) thông qua một Môtip kết nôi đặc biệt của mạng nơ-ron, làm kích thích mãnh liệt hoạt động Ý thức Thô, phá vỡ cân bằng, đạt trạng thái cộng hưởng với Trường năng lương bên ngoài . làm tăng hiệu quả tương tác, dưới một số dạng thức, giữa cơ thể với môi trường .

Thay lời kết : Trong những năm 60 của thế kỷ trước, để huấn luyện các phi công du hành dài ngày trong Vũ trụ, các nhà Khoa học Liên xô đã chế tạo thành công một buồng cách ly thông tin, Được gọi là buồng “Không gian im lặng tuyệt đối” để nghiên cứu năng lực làm chủ bản thân của người được thử nghiêm .

Bằng thiết bị thu hình hết sức tinh vi và bí mật, truyền ra ngoài, cho thấy, người được thử, xuất hiện trạng thái hỏang loạn sau chưa đầy 20 phút .

Vì sao ? Theo lời kể của những người được thử nghiệm, trong cảm giác cô đơn rơi vào bóng tối dày

Page 48: Tri tue vu tru & triet hoc

48

đặc, cùng với sự thinh lặng ghê rợn, một thế giới âm thanh ma quái phát ra từ cơ thể của chính mình : Nhịp tim hoảng hốt như muốn thoát ra khỏi lồng ngực, tiếng đập thùng thình như rung rinh mặt đất dưới chân . Tiếng rào rào máu chảy như chen nhau trong huyết quản . Tiếng thở dồn, mà nghe ầm ào như sóng biển nối nhau dội vào bờ …

Họ kể rằng, hình như họ chỉ kịp hét lên một cách hốt hoảng với bên ngoài : Cái gì thế ? Rồi vội vàng chống trả và bỏ chạy, nhưng thế giới ma quái ấy túm chặt lấy họ.

Các chuyên gia y tế Vũ trụ cho biết, họ đã mất hết Ý thức, chỉ còn một thứ bản năng vô thức .

Điều đó cho thấy Trường thông tin mang chức năng Ý thức mà não tiếp nhận không thể gián đoạn . Một hành trình liên tục như máu lưu thông trong huyết quản suốt đời người vậy . Và cũng chứng minh rằng : Não không sản sinh ra Ý thức ! Não mất nguồn Ý thức khi cách ly với Trường ngoài . bị mất định hướnh, não rơi vào tình thế hoảng loạn .

Page 49: Tri tue vu tru & triet hoc

49

Đó là thực nghiệm vô cùng qui báu, khẳng định nguyên lý thứ nhất đã nói trên đây .

Có điều là về sau, người ta không sử dụng bài tập kiểm tra này nữa, vì ký ức mà não ghi lại tình huống ấy, hằn rất sâu . Phải mất thời gian dài mới hồi phục .

Kết quả cho thấy, chưa có người nào đủ “bản lĩnh thép” giữ vững Ý thức, làm chủ hành vi của mình, trong “không gian im lặng tuyệt đôi “ đó, trong thời gian 60 phút .

Tôi không thấy có khoảng cách nào giữa vũ trụ và bản thân”

Page 50: Tri tue vu tru & triet hoc

50

GS Trịnh Xuân Thuận nói chuyện với sinh viên

Nhân dịp về nước ra mắt bản dịch tiếng Việt cuốn Từ điển yêu thích bầu trời và các vì sao của mình, và nói chuyện với sinh viên một số trường đại học từ bắc vào nam về vật lý thiên văn, GS Trịnh Xuân Thuận đã trả lời phỏng vấn củaTia Sáng chung quanh những vấn đề gần gũi với ông.

- Trong các bài viết của Giáo sư, có thể thấy nổi bật hai vấn đề. Một, những gì nền khoa học của chúng ta có thể thực nghiệm và kiểm chứng chỉ là một phần rất nhỏ trong những bí ẩn mênh mông của vũ trụ. Như vậy, cá nhân ông có tin chắc vào những thành quả được công nhận trong thời điểm hiện tại của các nhà khoa học hay không?

- Tôi tin chắc chắn vào những thành tựu của các nhà khoa hiện nay. Vì đó không chỉ là kết quả nghiên cứu của một vài người, mà đã được kiểm chứng bằng nhiều phương tiện khoa học hiện đại, do nhiều người

Page 51: Tri tue vu tru & triet hoc

51

trên thế giới cùng thực hiện. Các vấn đề khoa học liên tục nảy sinh, và chúng ta phải tìm lời giải đáp, mà lời giải đáp sau sẽ bổ sung và chỉnh lý cho kết quả có trước. Khi Einstein phát minh ra thuyết tương đối, thì lý thuyết về trọng lực của Newton vẫn đúng, và Einstein vẫn công nhận công thức tính vận tốc ánh sáng, từ những nghiên cứu của Newton. Tuy nhiên một số định luật của Newton trở nên không còn đúng nữa. Theo tôi, chỉ có một cách ứng xử trước thế giới tự nhiên rộng lớn, vốn vượt quá tầm hiểu biết của chúng ta, đó là làm sao để mọi người cùng cảm nhận được vẻ đẹp hài hòa, tuyệt diệu của tự nhiên, nơi mọi con người, bụi hoa hồng hay giọt nước đều có mối ràng buộc với nhau, và cùng nhau bảo vệ trái đất, chỗ trú ẩn duy nhất của chúng ta trong vũ trụ mênh mông. Chúng ta hãy tôn trọng tự nhiên bằng cách không ngừng làm đầy thêm hiểu biết của mình, bởi vì vũ trụ tồn tại trước hết là để cho một loài có khả năng nhận biết và thưởng thức nó, con người, hoặc không chỉ duy nhất con người, có khả năng đó.

- Đối thoại với thiền sư Matthieu Ricard, (sách Lượng tử và Hoa sen) ông thừa nhận sự khác biệt giữa quan

Page 52: Tri tue vu tru & triet hoc

52

niệm Phật giáo với vật lý thiên văn và lượng tử đương đại. Đó là Phật giáo nhìn sự tồn tại của vũ trụ trong dòng vận động vô thủy vô chung, còn khoa học coi vũ trụ có sự khởi thủy, có hiện tại và có một tương lai sẽ đến. Ông cũng thừa nhận sự hài hòa chặt chẽ và tinh tế vô cùng của vũ trụ theo những quy luật khoa học đã khám phá, không phải ngẫu nhiên, mà có quy luật tổ chức. Vậy đằng sau quy luật tổ chức này, liệu có một cơ cấu vận hành nào đó còn siêu việt hơn không?

- Tôi không thừa nhận có một cơ cấu vận hành siêu việt nào đó đằng sau quy luật tổ chức, kiểu như Chúa Trời hay Đấng tối cao. Quan niệm của tôi, quy luật tổ chức đó tồn tại là điều vốn dĩ, là bản tính diệu kỳ của sẵn có của tự nhiên.

- Albert Einstein cũng thừa nhận ý nghĩa khoa học của thế giới quan Phật giáo và cho rằng nó là triết học cổ đại duy nhất có khả năng đương đầu một cách chắc chắn với các vấn đề khoa học. Liệu có phải các nhà khoa học muốn tìm kiếm thêm một điểm tựa cho sự vững vàng trong những phát minh về vũ trụ, thông qua triết học cổ đại?

Page 53: Tri tue vu tru & triet hoc

53

- Hoàn toàn không có việc khoa học muốn tìm thêm sự hỗ trợ bằng triết học cổ đại. Những điểm tương đồng giữa vật lý thiên văn, lượng tử với Phật giáo, chỉ là so sánh và liên hệ của một số nhà khoa học, với tư cách cá nhân. Ngay cả tôi cũng vậy. Còn sự dung hòa giữa quan niệm triết học cổ với khoa học, trong những ý tưởng đã từng đối kháng, tôi nghĩ hoàn toàn có thể. Sau khi thuyết Big Bang ra đời, các nhà khoa học tiếp tục đặt ra vấn đề có nhiều Big Bang đã xảy ra, nối tiếp nhau. Như vậy, rất gần gũi với quan niệm thế giới tồn tại không có khởi đầu và cũng không kết thúc của Phật giáo. Vấn đề là phải tìm cách chứng minh được nó.

- Theo quan niệm phương Đông, mỗi con người là một tiểu vũ trụ, tức là bao hàm những tính chất và trạng thái phổ rộng, cũng như tinh tế của vũ trụ “lớn”. Là nhà khoa học nghiên cứu vũ trụ, ông có phải tự mình “trở thành vũ trụ” với những vấn đề hiện tại của nó hay không?

- Tôi là con đẻ của các vì sao, và tất cả chúng ta đều như vậy. Tất cả những gì trong vũ trụ này (kể cả

Page 54: Tri tue vu tru & triet hoc

54

những đoá hồng, con người, cây cối, núi non, v.v…) đều được xác định bởi một loạt khoảng 15 hằng số vật lý (ví dụ như vận tốc ánh sáng, hằng số hấp dẫn, hằng số Planck, khối lượng của electron, điện tích của electron, v.v…) và những điều kiện sơ khởi (cụ thể như độ giãn nở ban đầu, tỷ trọng sơ khởi của vật chất, năng lượng, v.v…)

Các hằng số của tự nhiên đã điều khiển cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng xác định kích thước và khối lượng của vật thể, chúng làm cho thế giới như nó đang tồn tại. Điều tưởng như là hiển nhiên này lại phản ánh khả năng lựa chọn vô hạn đối với kích thước và khối lượng mà tự nhiên có trong tay để dựng nên mọi vật trong vũ trụ. Cho tới ngày nay, người ta biết đến 15 hằng số trong vũ trụ, 15 hằng số đó quyết đinh đến tất cả các thứ bậc trong vũ trụ, từ nguyên tử bé nhỏ cho đến cá thiên hà, cũng chính những hằng số này qui định chiều cao của con người, chiều cao của các ngọn núi, sự di chuyển của trái đất tạo ra ngày và đêm.

Page 55: Tri tue vu tru & triet hoc

55

Những nhà vật lý đã xây dựng những vũ trụ ảo bằng cách thay đổi những hằng số vật lý và điều kiện sơ khởi này. Họ đã đi đến một kết luận khá sửng sốt: chỉ cần một thay đổi cực nhỏ trong những hằng số vật lý hay điều kiện sơ khởi, những tinh tú đã không thể hình thành, những nguyên tố nặng đã không được sản sinh và đời sống cũng như tri giác sẽ không bao giờ xuất hiện. Đại bộ phận của cái vũ trụ bao la này sẽ cằn cỗi vô sinh không có cả một con người nhìn ngắm nó. Sự hoà điệu này được biết là cực kỳ chuẩn xác. Tôi không thấy có khoảng cách nào giữa vũ trụ và bản thân.

Công việc của ông là vẽ dần lên từng chi tiết trong một bức tranh vũ trụ tổng thể. Ông có thể mô tả qua về bức tranh đó ngày nay như thế nào được không?

Lý thuyết thịnh hành nhất của vũ trụ ngày nay là thuyết Vụ nổ lớn Big Bang. Các nhà vật lý thiên văn nghĩ rằng, vũ trụ của chúng ta được bắt đầu khoảng 14 tỷ năm về trước từ một trạng thái vô cùng nóng, đặc, nhỏ trong một Vụ nổ và đẩy các hợp phần của vũ trụ ra khỏi nhau. Vũ trụ giãn nở theo một hàm số mũ (gọi là

Page 56: Tri tue vu tru & triet hoc

56

sự lạm phát). Ở đó là cội nguồn của không gian và là bắt đầu của thời gian. Pha lạm phát kết thúc ở thời điểm 10-32 giây sau Vụ nổ. Sau đó, vũ trụ giãn nở chậm dần và ngày nay chúng ta vẫn có thể quan sát được sự giãn nở đó. Câu chuyện về vũ trụ cũng là câu chuyện về sự tiến hoá và tổ chức của vật chất. Từ một chân không choáng đầy bởi năng lượng, xuất hiện một thứ xúp nguyên thuỷ của vật chất tạo bởi các hạt quark, electron, photon, notrino và tất cả các phản hạt của chúng. Bởi vì có sự ưu tiên tinh tế cho vật chất hơn là phản vật chất, khoảng một phần tỷ, nên chúng ta sống trong một vũ trụ được cấu thành bởi vật chất với một tỷ lệ khoảng tỷ photon cho mỗi hạt vật chất. Sau đó, cứ 3 hạt quark kết hợp với nhau để tạo nên proton và neutron. Proton và neutron được xem là những viên gạch tạo nên những ngưyên tố nguyên thuỷ, chủ yếu là hydrogen và helium, cộng thêm một chút ít deuterium và lithium. Sau vài phút đầu tiên, khoảng 3/4 khối lượng của vũ trụ là hydrogen và còn lại 1/4 là helium. Những chất liệu cấu tạo nên các ngôi sao và thiên hà mà ngày nay chúng ta quan sát thấy. Vũ trụ vẫn còn mờ đục cho đến 380.000 năm sau Vụ nổ. Về sau khi vũ trụ đã đủ lạnh (khoảng 10.000 K) để

Page 57: Tri tue vu tru & triet hoc

57

cho phép tạo thành các nguyên tử, và từ đây nó bắt đầu trở nên trong suốt. Đó cũng là thời điểm bức xạ nền được sinh ra và ngập tràn toàn bộ vũ trụ mà ngày nay chúng ta quan sát được dưới dạng sóng ngắn. Bắt giữ trong những giếng thế sâu của vật chất tối, các đám mây hydrogen và helium co lại dưới sức hấp dẫn của riêng nó để hình thành nên những ngôi sao và thiên hà sau này. Ngày nay, sau một quá trình tiến hoá 14 tỷ năm, vũ trụ quan sát được chứa hàng trăm tỷ thiên hà, mỗi thiên hà lại cấu thành bởi hàng trăm tỷ ngôi sao như Mặt Trời. Tất cả đã dệt nên bức thảm vũ trụ tuyệt mỹ. Trong bức tranh vũ trụ đó, có một thiên hà gọi là Dải Ngân Hà, ở vùng ngoại ô của nó có một ngôi sao đặt tên là Mặt Trời và một hành tinh mang tên Trái Đất. Rồi trên hành tinh nhỏ nhoi đó đã xuất hiện loài người có khả năng đặt những câu hỏi về vũ trụ, gán cho nó một nguồn gốc và có thể đánh giá vẻ đẹp và sự hài hoà của nó. Những nghiên cứu của riêng tôi tập trung vào sự hình thành và tiên hoá của các thiên hà: con đường mà từ một vũ trụ đồng đều gần như hoàn hảo (đã được đo bởi sự thăng giáng nhiệt độ trong phông bức xạ nền với giá trị 10-5), sau đó, nó đã tự tổ chức và dệt nên một tấm thảm phì nhiêu với những

Page 58: Tri tue vu tru & triet hoc

58

bức tường thiên hà trải dài hàng trăm triệu năm ánh sáng bao quanh những khoảng trống khổng lồ.

7- Chứng minh chiều không gian thứ tư bằng thực nghiệm?

6/11/2002

Một ý tưởng nghệ thuật về chiều không gian thứ tư.

Các lý thuyết vật lý hiện đại, như thuyết String, cho rằng vũ trụ có nhiều hơn 3 chiều không gian. Để chứng minh điều này, các nhà khoa học Mỹ sẽ chế tạo một máy đo siêu nhỏ (nano machine), nhằm chỉ ra các hiệu ứng khác lạ, dẫn tới kết luận về sự hiện hữu của các chiều không gian khác.

Nhóm nghiên cứu của Ephraim Fischbach và Dennis Krause, Đại học Purdue (Mỹ), giới thiệu nguyên lý của thí nghiệm này như sau: Theo thuyết String, ở các khoảng không gian cực hẹp (cấp độ nanomét), không gian sẽ bị "cuộn" lại trong các chiều khác (có thể là chiều thứ 4, thứ 5 hoặc nhiều hơn). Điều này sẽ làm

Page 59: Tri tue vu tru & triet hoc

59

thay đổi lực hấp dẫn giữa các vật thể trong không gian đó.

Vì thế, nếu người ta xây dựng được một thí nghiệm để chỉ ra sự thay đổi này của lực hấp dẫn, thì người ta có thể kết luận rằng, có chiều không gian thứ 4.

Các nhà khoa học dự định sẽ đo lực hấp dẫn giữa hai lá thép siêu mỏng, đặt cách nhau một khoảng cỡ nanomét (1 nanomét = 1 phần triệu milimét). Để đo được chính xác lực hấp dẫn này, người ta cần loại trừ một đại lượng gọi là hiệu ứng Casimir.

Theo cơ học lượng tử, hiệu ứng này được sinh ra bởi các photon ảo, thường bất ngờ xuất hiện trong chân không rồi lại tự động biến mất. Bình thường, trong không gian xuất hiện các photon với những bước sóng rất đa dạng. Tuy nhiên, ở giữa hai tấm kim loại hẹp thì điều đó không thể. Ở đây, chỉ có các photon với bước sóng nhất định. Hệ quả là, giữa hai tấm này sẽ có ít photon hơn bên ngoài. Sự chênh lệch về các photon trong và ngoài hai lá kim loại sẽ tạo ra một lực nhỏ, ép chúng lại với nhau. Lực đó gọi là hiệu ứng Casimir.

Page 60: Tri tue vu tru & triet hoc

60

Để loại trừ hiệu ứng trên, các nhà khoa học sẽ phải làm thí nghiệm với các lá thép giống hệt nhau, nhưng có đồng vị khác nhau. Ở giữa chúng, hiệu ứng Casimir sẽ giống nhau, nhưng lực hấp dẫn lại khác nhau (lá thép có đồng vị lớn hơn sẽ nặng hơn, và tạo ra lực hấp dẫn mạnh hơn). Bằng cách so sánh hai lực hấp dẫn này, người ta có thể loại bỏ hiệu ứng Casimir ra khỏi phép đo.

Các nhà khoa học hy vọng sẽ thực hiện được thí nghiệm này trong thời gian tới. Nếu thí nghiệm thành công, thì đây sẽ là một sự kiện chấn động, vì nó sẽ khẳng định sự tồn tại của chiều không gian thứ 4, điều mà theo Stephen Hawking là không thể tưởng tượng được với não bộ của con người bình thường.

Minh Hy (theo SPIEGEL)

8- Liệu có lỗ đen dạng chuỗi?

27/5/2002

Page 61: Tri tue vu tru & triet hoc

61

Hố đen tạo ra xung quanh nó một không gian cong cực lớn, hút sạch mọi tín hiệu (Hình mô phỏng)

Trong vũ trụ bao la có thể còn tồn tại một thể kỳ dị nữa, tương tự như lỗ đen, nhưng không phải dạng cầu, mà là dạng chuỗi(Black String). Phỏng đoán này là hệ quả của một mô hình toán học về lỗ đen trong không gian nhiều hơn 3 chiều.

Tiến sĩ Gary Horowitz và TS Kengo Maeda, Đại học California ở Santa Barbara (Mỹ), đã nghiên cứu các dạng kỳ dị của vũ trụ dựa trên thuyết string. Theo đó, chuỗi đen là vật thể một chiều, được bao bọc bởi một chân trời sự cố (event horizon - hay còn gọi là chân trời vũ trụ - tức là ranh giới mà các tín hiệu điện từ không thể quay lại được nữa). Nó cũng giống như một lỗ đen, nhưng lại bị kéo dài ra thành một ống. Các “ống” này có thể cuộn thành vòng hoặc giãn dài ra đến vô cùng.

Đến nay các nhà vật lý cho rằng, mỗi một biến động nhỏ đều khiến Black String thay đổi hình dạng, vì thế nó rất không bền vững, và có thể nhanh chóng chuyển

Page 62: Tri tue vu tru & triet hoc

62

thành các lỗ đen dạng cầu quen thuộc. Tuy nhiên, nếu thế thì chân trời sự cố của chuỗi đen phải tập trung vào trung tâm, và bẻ cong toàn bộ chuỗi đen.

Nay, ở mô hình toán học xây dựng trên không gian nhiều hơn 3 chiều, Gary Horowitz và Kengo Maeda đã chỉ ra rằng, xác suất để một chuỗi đen dạng ống chuyển thành lỗ đen là bằng 0, vì sự giãn nở của chân trời sự cố diễn ra tuyệt đối đều đặn trên suốt chiều dài của chuỗi đen.

Điều gì sẽ xảy ra nếu một nhà du hành chạm vào chuỗi đen? "Cũng tương tự như khi chạm vào lỗ đen, anh ta sẽ không hề nhận ra sự tồn tại của nó" - nhà vật lý Luis Lehener giải thích - "Anh ta chỉ cảm nhận thấy một gia tốc khủng khiếp, trước khi bị biến mất hoàn toàn vào phía sau của chân trời sự cố".

Page 63: Tri tue vu tru & triet hoc

63

KHOA HOC VU TRU

9- Big Bang không phải là khởi thủy của vũ trụ

Mô hình này này được các nhà vật lý xây dựng trên nền tảng của thuyết string. Theo đó, Big Bang không phải là khởi điểm của không-thời gian, mà chỉ là một cảnh chuyển tiếp trong màn kịch luân hồi vô tận của vũ trụ.

Page 64: Tri tue vu tru & triet hoc

64

Ý tưởng này có nhiều điểm giống như trong thuyết luân hồi của Ấn Độ giáo và Phật giáo, cũng như thuyết về "sự lặp lại vĩnh viễn của các hiện tượng" của Nietzsche.

Tuy nhiên, Giáo sư Paul Steinhardt, tác giả của lý thuyết mới nói rằng, ông không hề quan tâm đến tôn giáo hoặc Nietzsche. "Tôi là một người thực dụng với trái tim lạnh giá. Tôi chỉ quan tâm tới khía cạnh triết lý trên nền tảng của các kết quả thí nghiệm".

Giáo sư Steinhardt cùng cộng sự là Neil Turok (cựu đồng nghiệp của Stephen Hawking ở ĐH Cambridge) đã xây dựng mô hình vũ trụ luân hồi trên thuyết string (cho rằng vũ trụ được cấu thành từ các chuỗi - string, và có vô số chiều). Theo đó, bên cạnh vũ trụ của chúng ta còn tồn tại một vũ trụ khác, như hai bàn tay khép lại với nhau. Chúng được ngăn cách bởi một chiều không gian thứ 5 (trong vũ trụ của chúng ta, không - thời gian làm thành một hệ tọa độ 4 chiều). Giữa ai vũ trụ tồn tại một trường lực, khiến chúng hút và đẩy nhau theo chu kỳ, như sự vỗ tay đềuh đặn của

Page 65: Tri tue vu tru & triet hoc

65

hai bàn tay. Cứ mỗi lần hai bàn tay chạm vào nhau là chiều không gian thứ 5 biến mất, và một lần nữa lại xuất hiện Big Bang. Và thế giới lại hình thành từ đầu. Cứ như vậy, không có điểm bắt đầu và kết thúc.

Gabriele Veneziano, một trong những người tiên phong xây dựng thuyết string, thuộc Trung tâm nghiên cứu hạt nhân CERN, rất tâm đắc với học thuyết mới. Ông nói: "Đây có lẽ là thời điểm mà chúng ta nên chấp nhận Big Bang có thể là kết quả của một cái gì đó, chứ không chỉ là nguyên nhân của tất cả".

10- Vũ trụ sinh - diệt theo chu kỳ vài nghìn tỷ năm

Các vụ nổ siêu tân tinh ngày các ít đi, vũ trụ ngày càng rộng ra và lạnh hơn

Các nhà khoa học Mỹ vừa đưa ra một lý thuyết mới về chu kỳ sinh - diệt của vũ trụ. Theo đó, cứ vài nghìn tỷ năm, vũ trụ của chúng ta lại va chạm với một vũ trụ

Page 66: Tri tue vu tru & triet hoc

66

khác. Vụ nổ này khiến nó bị hủy diệt hoàn toàn và tái sinh lại từ đầu.

Đây là hệ quả mới nhất của thuyết Brane - một thuyết về nguồn gốc vũ trụ, được xây dựng từ nền tảng của thuyết String. Vì những vấn đề toán học, thuyết String không thể áp dụng cho hệ tọa độ 3 chiều, mà chỉ đúng với hệ tọa độ ít nhất là 10 chiều, hoặc 11 chiều như ý kiến mới đây của nhà vật lý người Anh Stephen Hawking.

Năm 1995, lần đầu tiên nhà vật lý Mỹ Ed Witten đưa ra một lý thuyết cho rằng vũ trụ của chúng nằm trong một mặt (Brane) của hai mặt cong úp vào nhau như hai bàn tay. Hai mặt này lại nằm trong một hệ tọa độ 11 chiều (1 thời gian + 10 không gian như 10 ngón tay). Tại Brane chứa vũ trụ của chúng ta, ngự trị các quy luật vật lý quen thuộc. Tuy nhiên, ở Brane kia, 6 trong số 10 chiều không gian bị quấn cong trong một bán kính nhỏ, mà với điều kiện kỹ thuật hiện nay, chúng ta chưa có khả năng khám phá.

Page 67: Tri tue vu tru & triet hoc

67

Cách đây vài năm, hai nhà vật lý người Anh Paul Steinhardt và Neil Turok đã giải thích vụ nổ nguyên sơ theo thuyết Brane. Theo đó, vũ trụ của chúng ta trước vụ nổ nguyên sơ vốn lạnh giá, trống rỗng, và chỉ nhờ vào năng lượng va đập với Brane kia, nó mới được hâm nóng.

Từ vài năm nay, người ta biết rằng vũ trụ đang giãn nở với tốc độ ngày càng lớn hơn. Do đó, các thiên hà ngày càng xa rời nhau. Theo thời gian, tất cả các ngôi sao đều sẽ nguội lạnh, và vũ trụ có thể sẽ trở về trạng thái như trước vụ nổ nguyên sơ theo thuyết của Steinhardt và Turok. Vấn đề là bao giờ xảy ra hiện tượng này?

Steinhardt và Turok đã phát triển tiếp thuyết Brane với sự bổ sung của một thành tố mới: "năng lượng tối" - nguyên nhân quan trọng gây giãn nở vũ trụ. Lực của năng lượng tối (chống lại lực hấp dẫn) trong hệ tọa độ 11 chiều có thể được hình dung như một lò xo nằm giữa hai Brane. Khi va đập, lò xo đẩy hai Brane ra khỏi nhau, nhưng khi chúng đã bị kéo ra quá xa, lực lò xo

Page 68: Tri tue vu tru & triet hoc

68

lại co chúng lại. Chu kỳ này ước tính kéo dài khoảng vài nghìn tỷ năm.

11- Năng lượng tối và số phận bất định của vũ trụ

Năng lượng tối tác động ngược lại lực hấp dẫn, gây ra sự giãn nở vũ trụ (hình mô phỏng).

Ý tưởng cho rằng vũ trụ sinh ra từ vụ nổ Big Bang và sẽ chết đi vì một cú sụp lớn (Big Crunch) ít ra cũng làm người ta yên tâm về cái gì đó hữu hạn, như số phận con người. Nhưng gần đây, các nhà thiên văn lại có bằng chứng cho thấy, vũ trụ sẽ không sụp đổ, mà cứ lan rộng ra mãi. Thủ phạm chính của hiện tượng này là năng lượng tối.

Theo các nhà thiên văn, vũ trụ chỉ có 5% vật chất thường, tức là có thể quan sát và đo đạc được. 95% còn lại thuộc loại vật chất "tối". Trong số vật chất tối có 33% tồn tại dưới dạng không nhìn thấy được (như các lỗ đen), và 67% còn lại xuất hiện dưới dạng "năng lượng tối" (theo thuyết tương đối, vật chất và năng lượng có thể hoán chuyển cho nhau). Nguồn năng

Page 69: Tri tue vu tru & triet hoc

69

lượng tối này trải đều trong vũ trụ, tác động ngược lại lực hấp dẫn, và đẩy các thiên hà xa rời nhau, khiến vũ trụ ngày càng giãn nở.

Các nhà nghiên cứu ở Đại học Washington (Mỹ) đưa ra giả định cho rằng, cách đây khoảng 5 tỷ năm - tức là 9 tỷ năm sau Big Bang - vũ trụ đã đạt đến độ lớn mà lực của năng lượng tối vượt lên lực hấp dẫn, khiến vũ trụ chỉ có thể giãn nở ra thêm chứ không co lại được nữa. Như vậy, một sự sụp đổ theo kiểu "Big Crunch" là điều không thể xảy ra.

Vậy thì vũ trụ sẽ giãn nở đến đâu? Câu trả lời là, nó sẽ giãn nở mãi mãi, vì chưa hề có bằng chứng nào cho thấy là quá trình đó sẽ dừng lại. Sẽ không có một ngày tận thế nào hết. Đành rằng đã có một sự mở đầu là Big Bang, nhưng mãi mãi sẽ không có sự kết thúc! Số phận của vũ trụ là như vậy, cứ loang rộng ra, cứ trải năng lượng ra... nhưng không hề có mục đích gì, và cũng chẳng bao giờ dừng lại.

Đó có phải là bí mật tận cùng của vũ trụ? Chưa ai trả lời được câu hỏi này, cũng như chưa ai hiểu gì về bản chất của "năng lượng tối" và "vật chất tối". Các nhà vật lý ở Washington đang cố gắng đặt những nền tảng đầu

Page 70: Tri tue vu tru & triet hoc

70

tiên cho việc nghiên cứu loại vật chất và năng lượng này.

Năm 1998, lần đầu tiên các nhà vật lý thiên văn ngồi lại với nhau để đàm luận về năng lượng tối khi phát hiện ra một siêu tân tinh lạ. Ánh sáng của siêu tân tinh này yếu hơn nhiều so với những tính toán dựa trên mô hình vũ trụ chuẩn (trong đó, những yếu tố quan trọng là các lực vũ trụ, trọng lượng và tuổi đời của ngôi sao). Vị trí lạ lùng này của ngôi sao bắt buộc người ta bổ sung thêm một yếu tố mới vào mô hình vũ trụ - yếu tố đã đẩy ngôi sao ra xa hơn bình thường. Đó chính là năng lượng tối.

12- Thống nhất lý thuyết về vật chất tối

Mô hình vũ trụ bùng nổ và giãn nở từ một điểm Big Bang (màu vàng nhạt).

Vũ trụ chỉ có 5% vật chất thường, tức là có thể quan sát và đo đạc được. 95% kia thuộc loại "bất bình thường", hay còn gọi là vật chất "tối". Hiện có tới 40 lý thuyết nói về loại vật chất này, nhưng mâu thuẫn nhau ở nhiều điểm, gây trở ngại cho việc nghiên cứu. Khắc phục điều đó, các nhà khoa học Mỹ mới đưa ra một giải pháp thống nhất.

Page 71: Tri tue vu tru & triet hoc

71

Theo tính toán, trong số vật chất tối, có 33% tồn tại dưới dạng vật chất không nhìn thấy được (như các lỗ đen), và 67% còn lại xuất hiện dưới dạng "năng lượng tối" (theo thuyết tương đối, vật chất và năng lượng có thể hoán chuyển cho nhau).

Nguồn năng lượng tối này trải đều trong vũ trụ, tác động ngược lại lực hấp dẫn, đẩy các thiên hà xa rời nhau, khiến vũ trụ ngày càng giãn nở. Vì vậy, việc nghiên cứu năng lượng tối là phần quan trọng nhất trong việc nghiên cứu vật chất tối nói chung.

Theo đề nghị của nhà vật lý nổi tiếng Neal Dalal, Đại học California ở San Diego (Mỹ), người ta sẽ thống nhất tất cả 40 lý thuyết về năng lượng tối thành một lý thuyết duy nhất. Để làm được điều đó, Dalal đưa ra ba thông số:

•Thông số thứ nhất cho biết trọng lượng trung bình của năng lượng tối.

•Thông số thứ hai miêu tả lực tương tác giữa năng lượng tối với lực hấp dẫn.

•Thông số thứ ba biểu đạt lực hút giữa năng lượng tối và vật chất bình thường.

Page 72: Tri tue vu tru & triet hoc

72

Những thí nghiệm tương lai về trạng thái của năng lượng tối sẽ cho phép các nhà khoa học xác định được giá trị của các thông số nêu trên. Tiếp theo, họ sẽ so sánh những con số này với các lý thuyết hiện nay để loại bỏ các luận điểm bất hợp lý. Cuối cùng, họ sẽ kết hợp các thông số để tổng hợp thành những công thức biểu đạt trạng thái lý thuyết của vật chất tối.

Minh Hy (theo dpa)

13- Vũ trụ đang mở rộng

Siêu lân tinh cực xa được tìm thấy trong hệ ngân hà này

Luồng sáng chói mắt bùng lên từ một siêu lân tinh cực xa. Xuyên qua thứ ánh sáng rực rỡ đó, kính thiên văn Hubble đã “nhìn” ra một lực huyền bí nào đó đang tác dụng ngược lại với lực hấp dẫn và đẩy các hệ ngân hà ra xa nhau. Phát hiện này đánh dấu một trong những

Page 73: Tri tue vu tru & triet hoc

73

khám phá có ý nghĩa nhất trong lịch sử về trạng thái tự nhiên của vũ trụ: Nó đang nở rộng.

Siêu lân tinh, một ngôi sao đang bùng nổ, nằm cách cách trái đất khoảng 10 tỷ năm ánh sáng, vật thể xa nhất mà con người từng phát hiện được. Nó phát quang dường như mạnh hơn nhiều so với bình thường và lý giải duy nhất cho hiện tượng này là sự tồn tại của một dạng “năng lượng tối” bí hiểm lan toả trong vũ trụ.

Khái niệm “năng lượng tối”, lực đẩy đã mang các hệ thiên hà ra xa nhau với tốc độ tăng lên không ngừng, lần đầu tiên được Albert Einstein đưa ra và thảo luận vào thế kỷ trước.

Cách đây 3 năm, khi nghiên cứu thứ ánh sáng mờ nhạt không bình thường của một số siêu lân tinh ở xa, các nhà thiên văn đã nhận thấy vũ trụ đang mở rộng với tốc độ nhanh hơn trong quá khứ và họ cho rằng sự nở ra đó chỉ bắt đầu gần đây. Người ta đã cố gắng giải thích hiệu ứng tăng tốc này bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cả ý tưởng “năng lượng tối”.

Nay, những quan sát mới nhất do Hubble chụp được đã củng cố thêm ý tưởng này. Các nhà khoa học đã có

Page 74: Tri tue vu tru & triet hoc

74

những bằng chứng đầu tiên cho thấy, sau vụ nổ Big Bang, lực hấp dẫn (trọng lực) đã làm chậm lại tốc độ mở rộng của vũ trụ. Và chỉ đến gần đây, năng lượng tối mới chiến thắng sức hút của trọng lực và bắt đầu đẩy các hệ thiên hà ra xa nhau.

“Dường như vũ trụ thể hiện thái độ của một người lái xe vậy. Anh ta giảm tốc độ trước đèn đỏ và sau đó tăng vọt ga khi đèn xanh bật lên”, Adam Riess, Viện Khoa học Thiên văn Không gian Mỹ ví von.

15- Bản đồ lớn nhất về vũ trụ xác nhận năng lượng tối

Các thiên hà được xác định trong không gian hai chiều (phải) sau đó được đo khoảng cách và đặt vào bản đồ ba chiều (trái).

Các nhà thiên văn vừa biên soạn xong một bản đồ lớn và chi tiết nhất về vũ trụ từ trước đến nay. Họ tin rằng bản đồ này cũng loại bỏ những nghi ngờ cuối cùng về sự tồn tại của một loại “năng lượng tối” lan tỏa khắp các thiên hà.

Page 75: Tri tue vu tru & triet hoc

75

Bản đồ 3 chiều chứa 20.000 thiên hà và bao phủ khoảng 6% không gian vũ trụ. Những thiên hà xa nhất mà nó ghi nhận nằm cách chúng ta 2 tỷ năm ánh sáng.

Bản đồ được xây dựng từ Hệ thống Khảo sát Bầu trời Số Sloan - một chương trình quốc tế với sự tham gia của hơn 200 nhà thiên văn từ 13 viện nghiên cứu trên khắp thế giới.

Để xây dựng công trình này, các nhà thiên văn trước tiên xác định những thiên hà đơn lẻ trên những bức ảnh chụp ở góc độ lớn, được thu thập bởi kính thiên văn đặt tại đài quan sát Apache Point, New Mexico. Tiếp đó, họ sử dụng hệ thống sợi quang đặc biệt của kính thiên văn để ghi lại quang phổ của 608 thiên hà cùng lúc, cho phép tính toán khoảng cách mỗi thiên hà và đặt nó vào vị trí chính xác trong bản đồ 3 chiều.

Cho đến giữa thập kỷ 1990, hầu hết các nhà vũ trụ học tin rằng lực hấp dẫn được tạo bởi vật chất thông thường và những vật chất tối không nhìn thấy. Tuy nhiên, các vụ nổ sao trong những khoảng không gian xa xôi được phát hiện sau đó đã gợi ý rằng, một lực vũ trụ nào đó đang đẩy vũ trụ giãn ra. Các nhà thiên văn gọi lực này là năng lượng tối.

Page 76: Tri tue vu tru & triet hoc

76

Tháng 2/2003, các nhà nghiên cứu đã hợp nhất số liệu từ một bản đồ thiên hà quy mô lớn (cuộc khảo sát 2dF của Anh- Ausatralia về dịch chuyển đỏ của thiên hà) với dữ liệu hồi cứ về vụ nổ Big Bang (do tàu thăm dò WMAP của NASA thực hiện). Kết quả tổng hợp đã cung cấp những bằng chứng mạnh mẽ về năng lượng tối.

Công trình mới này cung cấp kết quả tương tự nhưng có độ chính xác cao hơn, và đẩy lùi những nghi ngờ về sự tồn tại của loại năng lượng này. Nó cũng xác nhận rằng 70% của vũ trụ là năng lượng tối, 25% là vật chất tối và chỉ có 5% là vật chất thông thường - những thứ tạo nên trái đất và các ngôi sao. Với việc năng lượng tối được xác nhận về mặt quan sát, các nhà lý thuyết nay sẽ phải đưa ra lời giải thích chính xác về thành phần, cấu tạo của nó.

16- Năng lượng tối cũng ảnh hưởng tới sự sống

Năng lượng tối làm vũ trụ giãn nở ngày càng nhanh.

Các nhà vật lý thiên văn Mỹ mới đưa ra lý thuyết cho rằng, sự sống chỉ có thể xuất hiện ở những hệ mặt trời

Page 77: Tri tue vu tru & triet hoc

77

cùng độ tuổi với thái dương hệ của chúng ta. Lý do là sự gia tăng của năng lượng tối làm các hệ sao xuất hiện sau này ngày càng có kích cỡ nhỏ hơn, nên không đủ khả năng tạo ra những hành tinh như trái đất.

Nhóm nghiên cứu của Jaume Garriga, Đại học Barcelona (Tây Ban Nha), và Alexander Vilenkin, Đại học Tufts ở Medford, bang Massachusetts (Mỹ), cho rằng, các hệ sao mới quá nhỏ bé để có thể tạo ra các hành tinh chứa silic và sắt - hai nguyên tố quan trọng của sự sống.

Lý do là trong một hệ mặt trời nhỏ, nếu một hành tinh xuất hiện và chứa các nguyên tố như sắt và silic, thì nó sẽ quá nặng, và sẽ bị hút ngay vào sao mẹ (nói chung, xác suất để một hành tinh bị hút vào sao mẹ ở hệ mặt trời bé thường lớn gấp nhiều lần ở hệ mặt trời lớn).

Vì sao các hệ mặt trời sinh ra sau này (sau hệ mặt trời của chúng ta) ngày càng nhỏ đi? Câu trả lời nằm ở hoạt động của năng lượng tối. Theo các nhà vật lý, lần đầu tiên khái niệm năng lượng tối được đưa ra là ở phương trình vũ trụ của Einstein. Năng lượng tối tạo ra một phản lực, hướng ngược lại lực hấp dẫn, khiến vũ

Page 78: Tri tue vu tru & triet hoc

78

trụ ngày càng giãn nở. Tuy nhiên, đến nay người ta vẫn chưa hề biết gì về nó.

Những quan sát gần đây cho thấy, vũ trụ của chúng ta ngày càng giãn nở, chứng tỏ năng lượng tối đã vượt lên lực hấp dẫn. Nhiều nhà khoa học cho rằng vũ trụ không thể co lại được nữa. Số phận của nó là bất định và buồn thảm. Nó sẽ giãn nở ra mãi mãi, cho đến lúc các vì sao tách ra xa hẳn nhau và tàn lụi. Vũ trụ khi đó sẽ rất rộng, loãng, lạnh và tối, nhưng không thể co lại để tái sinh.

Hệ mặt trời được sinh ra vào một thời điểm may mắn hiếm thấy (cách đây 4,5 tỷ năm), khi mà vũ trụ còn đủ đậm đặc để cho ra đời và nuôi dưỡng một hệ thống các hành tinh như chúng ta thấy ngày nay. Theo các nhà khoa học, các hệ sao được tạo ra sau thời gian đó sẽ không thể hội tụ đủ điều kiện để nuôi dưỡng một hành tinh như trái đất nữa. Nói cách khác, không thể có sự sống ở các hệ sao sau đó.