triẾt hỌc mÁc-lÊnin -...

108
1 TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUKHOA MÁC-LÊNIN BỘ MÔN TRIẾT HỌC HƯỚNG DẪN ÔN TẬP TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN (TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ) HUẾ, 1998

Upload: others

Post on 02-Sep-2019

5 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ

KHOA MÁC-LÊNIN

BỘ MÔN TRIẾT HỌC

HƯỚNG DẪN ÔN TẬP

TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN

(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)

HUẾ, 1998

2

Lời nói đầu

- Căn cứ vào thông báo số 7785/CTCT ngày 12.9.1998 của Bộ giáo dục và

Đào tạo về việc dạy và học các môn khoa học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

năm học 1998-1999.

- Căn cứ vào nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên và học viên Cao học,

nghiên cứu sinh không chuyên ngành Mác-Lênin, Bộ môn Triết học Trường Đại

học Khoa học Huế biên soạn cuốn: “Hướng dẫn ôn tập Triết học Mác – Lênin”.

Đây là tài liệu giúp cho người học nắm được một cách có hệ thống những

nguyên lý cơ bản của Triết học Mác-Lênin và những quan điểm của Đảng ta vận

dụng vào cách mạng Việt Nam.

Tập thể tác giả xin được đón nhận sự hợp tác và những ý kiến trao đổi, xây

dựng của bạn sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh và đồng nghiệp.

Bộ môn Triết học

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ

3

Phần A

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ THẾ GIỚI

Câu 1: Triết học là gì? Phân tích vấn đề cơ bản của triết học?

1. Khái niệm triết học:

“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng

về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm

“triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm:

yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ

thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và

hành động).

Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội;

là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của

thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của

tự nhiên, xã hội và tư duy.

Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên

cứu thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri

thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên

nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường,

những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.

Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện: Về mặt nhận thức, triết học xuất

hiện khi năng lực tư duy trừu tượng của con người đạt đến trình độ nhất định, cho

phép họ tổng kết và khái quát những tri thức riêng lẻ thành hệ thống quan niệm,

quan điểm chung. Về mặt xã hội, triết học xuất hiện khi sản xuất vật chất của loài

người phát triển đến trình độ làm nảy sinh quá trình phân công lao động trí óc và

lao động chân tay; nhưng quá trình phân công lao động này trong thực tế chỉ diễn

ra khi lịch sử nhân loại bước vào giai đoạn có phân chia giai cấp.

4

2. Vấn đề cơ bản của triết học

Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa

tồn tại và tư duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này

có hai mặt:

- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái

nào quyết định cái nào? Tùy theo cách giải quyết vấn đề này mà triết học chia

thành hai trào lưu chính: chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có

trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là

sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm

hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại (mộc mạc, chất phác), duy vật tầm thường

thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII, duy vật siêu hình thế

kỷ XIX và duy vật mác-xít (biện chứng).

Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý

thức là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu

hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan

(coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong

con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng

đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).

Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học;

là lợi ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách

mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là

sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến

tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi

ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.

- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.

Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều

thừa nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng,

5

nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn

các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.

Trả lời vấn đề này còn có những nhà triết học theo nguyên tắc bất khả tri

(không thể biết). Những người này xuất phát từ việc tuyệt đối hóa tính tương đối

của tri thức dẫn đến phủ nhận khả năng nhận thức của con người.

- Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích

thế giới từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết

học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản

nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản

nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập

trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch

sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy

tâm.

Câu 2: Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện

chứng

- Phương pháp triết học là phương pháp nhận thức thế giới nói chung, là hệ

thống những nguyên tắc dùng để nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể. Trong

lịch sử triết học có hai phương pháp cơ bản đối lập nhau: phương pháp siêu hình và

phương pháp biện chứng.

Thuật ngữ “siêu hình” (metaphysics), đầu tiên được Aristote dùng để chỉ bộ

phận quan trọng nhất trong hệ thống triết học của mình. Theo đó, nó được hiểu là

học thuyết về những gì vượt ra ngoài giới hạn của “kinh nghiệm”, về những đối

tượng đằng sau các sự vật hữu hình. Vì vậy, cho đến thời Phục hưng người ta vẫn

coi siêu hình học đồng nghĩa với triết học. Đến thế kỷ XVII-XVIII, sự phát triển

của khoa học tự nhiên đòi hỏi phải phân chia giới tự nhiên thành những lĩnh vực

riêng biệt để nghiên cứu. Chính cách nghiên cứu ấy đã đem lại cho các nhà khoa

học một thói quen, xét sự vật và quá trình trong trạng thái cô lập ở ngoài mối liên

hệ, vận động và phát triển của chúng. Khi cách xem xét này được các nhà duy vật

đưa vào triết học thì nó đã tạo ra phương pháp siêu hình. Như vậy, thuật ngữ

6

“phương pháp siêu hình” được dùng để chỉ phương pháp triết học đặc trưng cho

chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII-XVIII. Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế

giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển,

hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.

Thuật ngữ “biện chứng” (dialectics), đầu tiên được Platon dùng để chỉ một

nghệ thuật trong tranh luận, theo đó nó được hiểu là những thủ đoạn biện bác chủ

quan. Tuy vậy ở thời cổ đại đã có những tư tưởng biện chứng khách quan (triết học

Hêraclít), nhưng vẫn còn mang tính tự phát và chưa trở thành hệ thống. Đến thế kỷ

XVIII, những tư tưởng biện chứng được phục hồi và được xây dựng thành hệ

thống, đặc biệt là ở trong các học thuyết của những nhà triết học duy tâm cổ điển

Đức. Từ lúc này những tư tưởng biện chứng mới hợp thành một phương pháp triết

học đối lập với phương pháp siêu hình. Đến giữa thế kỷ XIX, khái quát hiện thực

xã hội, tổng kết những thành quả lý luận và khoa học, Mác và Ăngghen xây dựng

lại phương pháp biện chứng trên lập trường duy vật đã sáng tạo ra phương pháp

biện chứng mácxít. Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối

liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.

- Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra

trong cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung

chính sau đây:

Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của

các sự vật hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng

giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy

tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm

được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất,

cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại,

phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các

yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật

toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện

7

tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái

riêng và cái chung.

Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật

hiện tượng chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển

của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình nắm được tính xác

định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai

lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới;

là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại, mà không có

sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu.

Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự

vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng

vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới

trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng

được xét như một quá trình, trong sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận

sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng: không chỉ có sự tăng giảm về

lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định

cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt

đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng,

vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được nguồn gốc

và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển.

Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là

sâu sắc, sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự

phát triển.

Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò

của phép siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những

lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.

Câu 3: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học Mác-Lênin

* Tiền đề kinh tế-xã hội

8

Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, thời kỳ mà chủ

nghĩa tư bản đã trở thành hệ thống kinh tế thống trị ở các nước Tây Âu và giai cấp

vô sản đã bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị độc lập.

Mác nhận xét rằng, đến thế kỷ XIX chủ nghĩa tư bản đã trở thành một cơ thể

hoàn chỉnh, làm bộc lộ đầy đủ các mâu thuẫn trong bản chất của nó. Trước hết là

mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất có tính chất xã hội với quan hệ sản xuất

có tính chất tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn này biểu hiện về mặt xã

hội là mâu thuẫn xung đột giữa lao động với tư bản, giữa giai cấp vô sản với giai

cấp tư sản. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó, đã

tạo ra một cơ sở hiện thực cho những phân tích và khái quát lý luận trong học

thuyết của Mác và Ăngghen.

Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản cùng với các mâu thuẫn của nó kéo theo

sự phát triển của phong trào công nhân. Đến cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ

XIX, phong trào công nhân ở các nước Tây Âu đã có bước phát triển mới về số

lượng và chất lượng. Sự tập trung tư bản cùng với sự hình thành những trung tâm

công nghiệp lớn thu hút công nhân thành lực lượng đông đảo, mâu thuẫn giữa lao

động và tư bản trở nên gay gắt làm xuất hiện những cuộc đấu tranh chính trị ngày

càng có tổ chức và tự giác. Các cuộc khởi nghĩa của công nhân ở Xilêdi (Đức), ở

Liông và Pari (Pháp), phong trào Hiến chương (Anh) vào những năm 30-40 chứng

minh rằng: giai cấp công nhân trở thành lực lượng quyết định các quá trình kinh tế-

xã hội-chính trị của thời đại và bước lên vũ đài lịch sử như một lực lượng chính trị

độc lập. Phong trào công nhân thời kỳ này làm bộc lộ sai lầm của quan niệm tư sản

về sự hân hoan chung giữa lao động và tư sản, tạo nên những thay đổi căn bản

trong quan niệm về lịch sử của Mác và Ăngghen; mặt khác, nó đề ra nhu cầu giải

thích về những thực tế của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản về sứ mệnh lịch sử

của giai cấp vô sản về tổ chức, con đường và phương tiện cách mạng của giai cấp

vô sản. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng những đòi hỏi này.

Những phân tích và khái quát lý luận về sự phát triển của chủ nghĩa tư bản

và phong trào công nhân vào nửa đầu thế kỷ XIX là một bộ phận quan trọng trong

9

học thuyết của Mác và Ăngghen. Vì vậy, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và

phong trào công nhân thời kỳ đó là những điều kiện kinh tế-xã hội cho sự ra đời

của triết học.

* Tiền đề lý luận

- Sự ra đời của triết học Mác trước hết có kế thừa những thành quả của triết

học cổ điển Đức. Mác và Ăngghen luôn thừa nhận rằng trong sự phát triển trí tuệ

của mình, hai ông đã chịu ơn nhiều nhà triết học Đức, trong đó nổi bật là Hêghen

và Phoiơbắc.

Công lao to lớn của Hêghen là ở chỗ: Ông đã phê phán những hạn chế cơ

bản của phương pháp siêu hình, đã xây dựng phép biện chứng thành hệ thống và

xem nó là phương pháp luận đúng đắn của mọi nhận thức khoa học. Nhưng Mác và

Ăngghen cũng chỉ ra rằng, triết học Hêghen có những hạn chế lớn, đó là sự giải

thích duy tâm về hiện thực; là sự biện hộ cho những thực tế lịch sử lỗi thời, cho tôn

giáo; là triết học tự biện, trừu tượng, xa rời hiện thực và thực tiễn. Cho nên khi

sáng lập triết học của mình Mác và Ăngghen đã không kế thừa toàn bộ triết học

Hê-ghen mà chỉ kế thừa hạt nhân hợp lý, đó là phép biện chứng, đồng thời cải tạo

và xây dựng lại phép biện chứng trên lập trường duy vật.

Đánh giá về Phoiơbắc, Mác và Ăngghen cho rằng chính nhờ đọc được các

tác phẩm của ông mà họ đã cương quyết đoạn tuyệt với triết học Hêghen. Công lao

của Phoiơbắc là ở sự phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm-tôn giáo (nhất là phê

phán Hê-ghen), là sự khẳng định cương quyết tính đúng đắn của các nguyên lý duy

vật, là việc giải thích trên lập trường duy vật bản chất con người, bản chất tôn giáo

và đề cao chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng Phoiơbắc cũng có những hạn chế lớn, đó là

phương pháp tư duy siêu hình, (khi phê phán Hêghen, ông đã không thấy được

phép biện chứng là hạt nhân hợp lý nên đã bác bỏ và chuyển sang quan điểm siêu

hình); quan điểm trực quan, trừu tượng, phi lịch sử về bản chất con người, duy tâm

trong lĩnh vực xã hội. Vì vậy khi sáng lập ra triết học của mình, Mác và Ăngghen

cũng không kế thừa toàn bộ triết học Phoiơbắc mà chỉ kế thừa hạt nhân cơ bản

10

đúng đắn đó là nguyên lý duy vật, đồng thời cải tạo và xây dựng lại chủ nghĩa duy

vật dựa trên quan điểm biện chứng.

- Sự ra đời triết học Mác không chỉ do ảnh hưởng của triết học Hêghen và

triết học Phoiơbắc. Mác và Ăngghen khi tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của

giai cấp vô sản đã rút ra những tài liệu thực tiễn phong phú cho những kết luận duy

vật-biện chứng của mình. Ngoài ra, việc hai ông đi sâu nghiên cứu kinh tế-chính trị

học cổ điển và chủ nghĩa xã hội không tưởng phê phán, đã góp phần không nhỏ

cho sự hình thành và hoàn thiện thế giới quan triết học của mình.

* Tiền đề khoa học tự nhiên

Sự ra đời triết học Mác còn được chuẩn bị bởi những thành quả của khoa

học tự nhiên. Những thành quả của khoa học tự nhiên từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu

thế kỷ XIX làm bộc lộ những hạn chế của phương pháp tư duy siêu hình, ngày

càng chứng minh tính đúng đắn của các nguyên lý duy vật và biện chứng.

Phát hiện bằng thực nghiệm của Maye (được Lômônôxốp công bố) về sự

bảo toàn vật chất và vận động, lý luận của Cantơ về sự hình thành thái dương hệ đã

góp phần khẳng định quan điểm biện chứng về lịch sử vũ trụ và giới tự nhiên: mặt

khác đả phá quan niệm duy tâm, tôn giáo siêu hình về thế giới.

Từ những năm 30 đến 50 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã có những

thành tựu to lớn. Thời kỳ này có ba phát minh vĩ đại đóng vai trò quan trọng trong

cuộc đấu tranh chống quan điểm siêu hình và chuẩn bị cho sự ra đời của chủ nghĩa

duy vật biện chứng.

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX phát minh ra quy luật bảo toàn và

chuyển hóa năng lượng. Quy luật này chứng minh rằng: lực cơ học, nhiệt, ánh

sáng, điện, từ các quá trình hóa học, nghĩa là các hình thức khác nhau của vận động

vật chất không tách rời nhau, mà liên hệ và chuyển hóa lẫn nhau nên không hề mất

đi. Nó chứng minh rằng không có sự sinh ra và mất đi của năng lượng, mà chỉ có

sự chuyển hóa năng lượng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy quy luật này là cơ

sở khoa học tự nhiên cho quan điểm biện chứng về thế giới.

11

Vào những năm 30 của thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên đã phát minh ra học

thuyết cấu tạo tế bào của cơ thể sống. Học thuyết này bác bỏ quan niệm siêu hình

về sự khác biệt tuyệt đối giữa thực vật và động vật. Ngược lại, nó khẳng định sự

thống nhất về nguồn gốc và hình thái giữa thực vật và động vật, giải thích quá trình

phát triển của chúng, đặt cơ sở cho quan điểm duy vật biện chứng về sự phát triển

của toàn hệ sinh học.

Phát minh lớn thứ ba là học thuyết tiến hóa của sinh giới ra đời vào những

năm 50 của thế kỷ XIX. Học thuyết tiến hóa chứng minh rằng sinh giới không phải

là bất biến mà thường xuyên biến đổi, nằm trong quá trình tiến hóa không ngừng

của giới tự nhiên. Nó khẳng định sự tiến hóa của sinh giới diễn ra theo con đường

chọn lọc tự nhiên và chọn lọc nhân tạo. Lênin đánh giá rằng thuyết tiến hóa đánh

dấu sự cáo chung của quan niệm siêu hình về tính bất biến của các loài và quan

niệm về nguồn gốc thần thánh của sinh giới đem lại cơ sở thật sự khoa học cho

sinh học. Mác và Ăngghen xác nhận rằng thuyết tiến hóa đem lại cái cơ sở lịch sử

tự nhiên cho học thuyết của hai ông, đã đập tan thần học trong học thuyết về sự

phát triển của thực vật và động vật; rằng trước đó chưa hề có một sự chứng minh

nào thành công to lớn như thế về sự phát triển lịch sử trong giới tự nhiên.

Như vậy, những thành tựu của khoa học tự nhiên nửa đầu thế kỷ XIX cũng

là tiền đề cho các quan điểm duy vật và biện chứng về thế giới của Mác và

Ăngghen.

Câu 4: Vì sao nói sự ra đời của triết học Mác là bước ngoặt cách mạng trong

lịch sử triết học?

Khái quát hiện thực xã hội, kinh nghiệm của phong trào công nhân và những

thành tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư tưởng triết học

trước đó, Mác và Ăngghen đã sáng tạo ra triết học của mình, thực hiện một bước

ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học. Điều đó thể hiện ở những nội dung sau

đây:

- Triết học Mác ra đời lần đầu tiên đem lại cho giai cấp vô sản một hệ tư

tưởng; một lý luận dẫn đường thực hiện bước giải phóng giai cấp vô sản về mặt

12

tinh thần. Mác cho rằng, nếu trái tim của sự giải phóng nhân loại là giai cấp vô sản,

thì khối óc sự giải phóng đó là triết học của giai cấp vô sản, là thế giới quan của

nó. Triết học Mác là vũ khí lý luận chung cấp cho giai cấp vô sản những công cụ

nhận thức và cải tạo thế giới, cho nên Mác viết: “giống như triết học tìm thấy ở

giai cấp vô sản là một vũ khí vật chất, giai cấp vô sản tìm thấy ở triết học là một vũ

khí tinh thần”. Như vậy, với sự ra đời ở triết học Mác, phong trào vô sản đã có một

bước ngoặt, từ chỗ là một phong trào tự phát, chưa có lý luận, bị lệ thuộc vào tư

tưởng, nó trở thành một phong trào tự giác, có lý luận và độc lập về tư tưởng.

- Với sự ra đời của triết học Mác, lần đầu tiên thực tiễn trở thành phạm trù

trung tâm của triết học. Điều đó làm biến đổi tận gốc vai trò xã hội của triết học và

khắc phục được những thiếu sót căn bản của triết học trước kia. Trung tâm chú ý

của triết học Mác không chỉ là giải thích, mà còn và chủ yếu là vạch ra con đường,

những phương tiện cải tạo thế giới bằng thực tiễn cách mạng. Đối với triết học

Mác thì thực tiễn có vai trò quyết định mọi sự phát triển xã hội, khoa học và cả

triết học. Không một nhà triết học nào trước Mác hiểu được vai trò quyết định của

thực tiễn đối với lý luận và đối với toàn bộ lịch sử nhân loại. Vì hạn chế đó, các

nhà duy vật trước Mác đã rơi vào quan điểm duy tâm siêu hình khi đề cập đến

những vấn đề xã hội. Chủ nghĩa duy tâm phản ánh lợi ích của giai cấp thống trị bảo

thủ, cho nên nó xa rời thực tiễn, tách khỏi hiện thực, làm cho quần chúng không

thấy được những cơ sở vật chất của các quan hệ bóc lột.

Chỉ ra vai trò quyết định của thực tiễn, Mác và Ăngghen cũng luôn nhấn

mạng vai trò to lớn của hoạt động tinh thần, của lý luận. Vì vậy hai ông đã phát

triển học thuyết cân đối về mối liên hệ giữa lý luận cách mạng và thực tiễn cách

mạng. Lý luận cách mạng có vai trò chỉ đạo thực tiễn, làm cho thực tiễn từ tự phát

thành thực tiễn cách mạng, tự giác. Khi lý luận cách mạng thâm nhập vào quần

chúng sẽ đem lại cho họ những hiểu biết quy luật của đời sống xã hội, hướng dẫn

họ thực hiện một cách tự giác những nhiệm vụ của cuộc đấu tranh thực tiễn, lúc đó

trở thành sức mạnh vật chất.

13

Là thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp vô sản, triết học Mác có

sự thống nhất sâu sắc giữa tính Đảng, tính cách mạng và tính khoa học. Triết học

Mác là sự phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản và nhân dân lao động; đồng thời nó

là lý luận cho cuộc đấu tranh của họ nhằm xóa bỏ mọi chế độ người bóc lột người,

đưa nhân loại lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là tính Đảng, tính cách mạng của triết

học Mác không đối lập với tính khoa học của nó. Khi phản ánh lợi ích của giai cấp

vô sản và phục vụ cho cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa cộng sản, triết học Mác phản

ánh đúng yêu cầu và những quy luật khách quan của lịch sử.

Sự ra đời của triết học Mác cũng là sự sáng lập chủ nghĩa duy vật biện

chứng và phép biện chứng duy vật. Đây là những hình thức cao của chủ nghĩa duy

vật và phép biện chứng, khắc phục những thiếu sót căn bản của triết học trước kia.

Trước Mác chủ nghĩa duy vật thì siêu hình, còn phép biện chứng thì lại gắn với lập

trường duy tâm, như vậy chúng tách rời, thậm chí đối lập nhau, chỉ khi triết học

Mác ra đời mới có sự thống nhất giữa chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng, tạo ra

một triết học phát triển cao hơn về chất so với trước đó.

- Sự ra đời triết học Mác cũng là sự sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Đây là biểu hiện rõ rệt nhất của cuộc cách mạng triết học do Mác và Ăngghen thực

hiện. Chỉ khi chủ nghĩa duy vật lịch sử xuất hiện thì chủ nghĩa duy vật nói chung

mới trở thành triệt để. Nó không chỉ khắc phục lập trường duy tâm về xã hội trong

triết học trước đó, mà còn là cơ sở lý luận về phương pháp luận khoa học cho toàn

bộ xã hội học, cho hoạt động thực tiễn cách mạng của giai cấp công nhân và đảng

của nó.

- Sự ra đời triết học Mác làm thay đổi căn bản tính chất của triết học, đối

tượng và mối quan hệ của nó với các khoa học khác. Truyền thống trước đó, triết

học được coi là khoa học của mọi khoa học, hòa lẫn hoặc tách rời với các khoa học

cụ thể khác. Triết học Mác không hòa lẫn vào các khoa học cụ thể mà cũng không

tách rời chúng. Trong sự hình thành và phát triển của mình, triết học Mác không

chỉ dựa trên sự khái quát thực tiễn xã hội, mà còn dựa trên sự khái quát của những

thành tựu khoa học cụ thể (cả tự nhiên và xã hội). Khoa học cụ thể cung cấp những

14

tài liệu hết sức phong phú cho triết học Mác nghiên cứu các quy luật chung nhất

của hiện thực khách quan. Đồng thời triết học Mác cung cấp những hiểu biết về

các quy luật chung nhất của hiện thực khách quan sẽ giúp cho các khoa học cụ thể

nghiên cứu có hiệu quả các quy luật đặc thù.

Câu5: Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin và ý nghĩa khoa học của

định nghĩa này.

Tiếp thu tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, trên cơ sở khái quát những

thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, về

mặt triết học trên cơ sở phê phán những quan điểm duy tâm và siêu hình về vật

chất, Lênin đã đưa ra định nghĩa về vật chất như sau:

* Nội dung định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:

“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được

đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp

lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” (V.I.Lênin toàn tập, T.18,

NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1980, tr.151).

* Phân tích định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:

Trong định nghĩa trên, chúng ta cần phân tích những nội dung chủ yếu sau

đây:

a. “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan…”

- “Vật chất” là một phạm trù khái quát nhất, rộng nhất của lý luận nhận thức.

+ Phạm trù vật chất phải được xem xét dưới góc độ của triết học, chứ không

phải dưới góc độ của các khoa học cụ thể. Điều này sẽ giúp chúng ta tránh được sai

lầm khi đồng nhất phạm trù vật chất trong triết học với các khái niệm vật chất

thường dùng trong các khoa học cụ thể hoặc đời sống hằng ngày.

+ Không thể định nghĩa phạm trù vật chất theo phương pháp thông thường.

Về mặt nhận thức luận, Lênin chỉ có thể định nghĩa phạm trù vật chất trong quan

hệ với phạm trù đối lập của nó, đó là phạm trù ý thức (phương pháp định nghĩa

15

thông qua cái đối lập với nó). (Xem thêm chương khái niệm ở giáo trình Lôgic hình

thức)

Khi định nghĩa vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách

quan, Lênin đã bỏ qua những thuộc tính riêng lẻ, cụ thể, nhiều màu, nhiều vẻ của

các sự vật, hiện tượng, mà nêu bật đặc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất có ở tất cả

các sự vật, hiện tượng trong thế giới hiện thực khách quan. Đó là đặc tính “tồn tại

với tư cách là thực tại khách quan”, tồn tại ở ngoài ý thức con người và độc lập với

ý thức. Đặc tính này là dấu hiệu cơ bản để phân biệt vật chất với cái không phải là

vật chất.

- Tính trừu tượng của phạm trù vật chất: Phạm trù vật chất khái quát đặc tính

chung nhất của mọi khách thể vật chất xét trong quan hệ với ý thức nên về hình

thức nó là cái trừu tượng. Vì thế, không được đồng nhất vật chất với các dạng cụ

thể của nó giống như quan niệm của các nhà duy vật trước Mác.

b. Thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác.

Trong phần này, Lênin đã giải quyết được những điều sau đây:

- Thứ nhất, Lênin đã giải quyết được mối quan hệ giữa tính trừu tượng và

tính hiện thực cụ thể cảm tính của phạm trù vật chất. Vật chất không phải tồn tại vô

hình, thần bí mà tồn tại một cách hiện thực, được biểu hiện cụ thể dưới dạng các sự

vật, hiện tượng cụ thể mà các giác quan của chúng ta có thể nhận biết một cách

trực tiếp hay gián tiếp.

- Thứ hai, Lênin đã giải quyết được mặt thứ nhất của vấn đề cơ bản triết học

trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực tại khách quan đưa lại cảm

giác cho con người, chứ không phải cảm giác (ý thức) sinh ra thực tại khách quan.

Điều đó có nghĩa là, vật chất là cái có trước và đóng vai trò quyết định, nội dung

khách quan của ý thức.

c. Thực tại khách quan được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản

ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.

16

Đến đây, Lênin đã khẳng định rằng con người có khả năng nhận thức được

thế giới hiện thực khách quan. Tức là Lênin đã giải quyết được mặt thứ hai của vấn

đề cơ bản triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

* Ý nghĩa của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin:

- Giải quyết một cách đúng đắn vấn đề cơ bản của triết học trên lập trường

chủ nghĩa duy vật và biện chứng.

- Khắc phục được những quan niệm trực quan, siêu hình, máy móc về vật

chất của chủ nghĩa duy vật trước Mác và những biến tướng của nó trong trào lưu

triết học tư sản hiện đại.

- Chống lại tất cả các quan điểm duy tâm và tạo ra căn cứ vững chắc để

nghiên cứu xã hội.

- Khẳng định thế giới vật chất là khách quan và vô cùng, vô tận, luôn luôn

vận động và phát triển không ngừng nên nó đã có tác dụng định hướng, cổ vũ các

nhà khoa học khi sâu vào nghiên cứu thế giới vật chất, để ngày càng làm phong

phú thêm kho tàng tri thức của nhân loại.

Câu 6: Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?

Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức của con người là sản phẩm của

quá trình phát triển tự nhiên và lịch sử-xã hội. Do đó, muốn hiểu được nguồn gốc

và bản chất của ý thức, cần phải xem xét trên cả mặt tự nhiên và xã hội.

I. Nguồn gốc ý thức:

1. Nguồn gốc tự nhiên:

a. Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ

não người.

- Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại,

tái hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác

17

và ngược lại. Nó được thực hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật

chất.

- Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ

đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.

+ Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có

chọn lọc.

+ Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh

mới cao hơn về chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này

gắn liền với quá trình chuyển hóa từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Hình thức này

có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao: kích thích, cảm ứng, tâm lý sơ cấp

của động vật và cùng với quá trình vượn biến thành người, phản ánh của động vật

cấp cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người.

Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự

phản ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ

chức cao là bộ não của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức

chỉ là thuộc tính phản ánh của vật chất, do đó, không được đồng nhất vật chất với ý

thức và cũng không được tách ý thức ra khỏi vật chất.

b. Khách thể vật chất bên ngoài

Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức

thì phải có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.

Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên

ngoài lên bộ não của nó mà lại không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm

lý động vật, ý thức con người ngoài nguồn gốc tự nhiên còn có nguồn gốc xã hội.

2. Nguồn gốc xã hội.

Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ

não con người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.

a. Lao động:

18

- Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt

động đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.

+ Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử

dụng các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.

+ Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan

nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một

cách tích cực, chủ động và sáng tạo.

- Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn

thiện, làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát

triển.

- Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau,

làm nảy sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát

triển cùng với lao động.

b. Ngôn ngữ:

- Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là

phương tiện, là công cụ để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự

vật, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.

- Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức

không thể hình thành và phát triển được.

- Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời

với lao động là ngôn ngữ,.. đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ

não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức”

(Ph.Ăngghen: Biện chứng của tự nhiên, NXB Sự thật, Hà Nội,1974, tr. 257)

II. Bản chất của ý thức:

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế

giới khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của

ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích

19

cực và chủ động về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của ý

thức con người so với tâm lý động vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.

Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy

định. Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ

và theo tính chất của quy luật phản ánh.

Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích,

có định hướng, tác động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc

lộ đặc tính, kết cấu, quy luật lao động để phản ánh và nhận thức. Khi con người

nhận thức được quy luật, thì con người vận dụng tri thức đó vào việc cải biến thế

giới khách quan nhằm phục vụ cho cuộc sống của mình.

Câu 7: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về vận động của

vật chất.

a. Vận động là gì?

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động là mọi sự biến

đổi nói chung.

b. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.

Vật chất chỉ có thể tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động mà nó

biểu hiện sự tồn tại của mình. Nói cách khác, không thể có vật chất mà không có

vận động.

Vận động của vật chất là tự thân vận động. Vật chất không do ai sáng tạo ra

và nó không thể bị tiêu diệt, mà vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, nên

vận động cũng không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Nếu một hình thức

vận động nào đó của một sự vật nhất định mất đi thì tất yếu sẽ nảy sinh một hình

thức vận động khác thay thế, nghĩa là các hình thức vận động của vật chất chỉ

chuyển hóa lẫn nhau mà thôi, chứ vận động của vật chất thì vĩnh viễn tồn tại cùng

với sự tồn tại vĩnh viễn của vật chất.

c. Các hình thức vận động cơ bản của vật chất:

20

Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph.Ăngghen đã phân

chia vận động thành năm hình thức cơ bản: vận động cơ học, vận động lý học, vận

động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Vận động xã hội là hình thức

có trình độ cao nhất.

Mỗi hình thức vận động nói trên, có trình độ cao thấp khác nhau. Do đó,

chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu quy hình thức vận động cao vào hình thức vận động

thấp và ngược lại.

Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động có sự liên

hệ, tác động chuyển hóa qua lại. Thông qua sự liên hệ, chuyển hóa phổ biến của

mọi hình thức vận động trong vũ trụ mà vận động vật chất được bảo toàn.

Những dạng vật chất phức tạp như cơ thể sống, xã hội loài người bao hàm

nhiều hình thức vận động trong sự liên hệ tác động qua lại, nhưng bao giờ cũng

được đặc trưng bởi một hình thức vận động cơ bản xác định. Ví dụ, trong cơ thể

sống bao gồm các hình thức vận động cơ học, lý học, hóa học, sinh học, song hình

thức vận động sinh học là hình thức đặc trưng cơ bản quy định sự khác nhau giữa

cơ thể sống với những dạng vật chất khác.

d. Vận động và đứng im.

Trong khi coi vận động là thuộc tính bên trong vốn có của vật chất, chủ

nghĩa duy vật không phủ nhận sự đứng im, mà coi đứng im như một trường hợp

riêng của vận động. Không có đứng im tương đối thì không thể hình thành các sự

vật, hiện tượng riêng lẻ, cụ thể.

Vận động là tuyệt đối, đứng im là tương đối. Đứng im là tương đối bởi vì:

- Hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một quan hệ nhất định chứ không

phải trong mọi quan hệ cùng một lúc.

- Đứng im chỉ xảy ra đối với một hình thức vận động trong một lúc nào đó,

chứ không phải đối với tất cả mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.

21

- Đứng im chỉ là biểu hiện của một trạng thái vận động: vận động trong

thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, khi nó còn là nó mà chưa chuyển thành cái

khác.

- Vận động tuyệt đối. Do đó, nó làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng

biến đổi, làm cho sự đứng im tương đối luôn luôn bị phá vỡ. Đứng im chỉ là tạm

thời vì: vận động cá biệt có xu hướng trở thành cân bằng, vận động toàn bộ lại có

xu hướng phá vỡ sự cân bằng riêng biệt đó.

Tóm lại, vận động là tuyệt đối, vĩnh viễn, đứng im là tương đối, tạm thời, vật

chất không thể nào tồn tại như thế nào khác ngoài cách vận động và vật chất đang

vận động đó không thể vận động như thế nào khác ngoài vận động trong không

gian và thời gian, vật chất vận động là vô tận nên không gian và thời gian vật chất

cũng vô tận.

Câu 8: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin mối quan hệ giữa

vật chất và ý thức, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

Khi bàn đến vấn đề này, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định:

1. Vật chất có trước ý thức, sinh ra ý thức và quyết định ý thức:

- Vật chất tồn tại khách quan và không phụ thuộc vào ý thức, còn ý thức là

thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao (bộ óc người).

- Vật chất là nguồn gốc, động lực và mục đích của ý thức.

- Trong đời sống xã hội thì tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Khi khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, chủ nghĩa duy

vật biện chứng đồng thời cũng vạch rõ sự tác động trở lại của ý thức đối với vật

chất.

2. Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất.

- Sự phản ánh của ý thức là sự phản ánh tích cực, chủ động và sáng tạo.

- Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn.

22

- Sự tác động của ý thức đối với vật chất diễn ra theo hai khuynh hướng:

+ Khi ý thức phản ánh đúng quy luật khách quan thì nó đóng vai trò thúc

đẩy sự vận động và phát triển của thế giới hiện thực khách quan. Trong trường hợp

này ý thức giúp cho con người xác định đúng đắn mục tiêu, phương hướng, biện

pháp tổ chức hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả.

+ Khi ý thức phản ánh không đúng quy luật khách quan thì lúc này nó sẽ

làm kìm hãm sự vận động và phát triển của những điều kiện vật chất nhất định.

Hiệu quả của sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất thuộc vào các

điều kiện sau:

+ Những điều kiện vật chất cần thiết cho ý thức đó thực hiện.

+ Trình độ phản ánh của ý thức đó đối với vật chất, nếu ý thức phản ánh

càng đầy đủ, càng chính xác bao nhiêu thì hiệu quả tác động của nó càng cao bấy

nhiêu.

+ Mức độ xâm nhập của ý thức đó vào trong quần chúng nhân dân, mức độ

xâm nhập của ý thức càng lớn thì hiệu quả tác động của nó càng cao.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Nếu vật chất là nguồn gốc khách quan, là cơ sở sản sinh ra ý thức; còn ý

thức là sản phẩm, là sự phản ánh thế giới khách quan thì trong nhận thức và hành

động, con người phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và hành động

theo quy luật khách quan, chống lại chủ nghĩa chủ quan duy ý chí.

- Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt

động thực tiễn. Do đó, cần phải phát huy tính tích cực của ý thức đối với vật chất

bằng cách nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận động

chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Sức mạnh ý thức của con

người không phải ở chỗ tách rời điều kiện vật chất mà là biết dựa vào đó, phản ánh

đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan.

- Chúng ta phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ tiêu

cực, thụ động.

23

Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta đã chỉ rõ một trong những điều kiện cơ bản

để đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của mình là phải “luôn luôn xuất phát từ thực tế,

tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan”, (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1986, tr.30)

Câu 9: Phân tích nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và rút

ra ý nghĩa phương pháp luận

- Phép siêu hình không thừa nhận mối liên hệ phổ biến của thế giới. Theo

quan điểm này, sự vật hiện tượng trong thế giới về cơ bản không có sự liên hệ,

ràng buộc, quy định lẫn nhau. Cho nên đối với phép siêu hình, thế giới chỉ là một

tập hợp rời rạc các sự vật cô lập nhau. Cách nhìn ấy không cho phép chúng ta vạch

ra cái chung, cái bản chất và quy luật của các sự vật hiện tượng.

- Trái với quan điểm siêu hình, phép biện chứng duy vật thừa nhận mối liên

hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế giới và coi đó là nguyên lý cơ bản

của nó. Khái niệm liên hệ nói lên sự quy định, ảnh hưởng, ràng buộc, tác động và

chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng và quá trình. Phép biện chứng duy

vật phát biểu rằng: mọi sự vật, hiện tượng quá trình muôn vẻ trong thế giới đều tồn

tại trong mối liên hệ phổ biến với nhau, không có cái gì tồn tại biệt lập với cái

khác. Điều đó là dễ hiểu, vì vật chất tồn tại thông qua vận động, mà vận động cũng

là liên hệ. Ăngghen viết: “tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên cứu được, là

một hệ thống, một tập hợp các vật thể khăng khít với nhau… Việc các vật thể có

liên hệ qua lại với nhau đã có ý nghĩa là các vật thể này tác động lẫn nhau và sự tác

động qua lại ấy chính là sự vận động”.

Như vậy phép biện chứng duy vật thừa nhận liên hệ diễn ra trong mọi lĩnh

vực, mọi sự vật và quá trình của hiện thực, nó có tính khách quan, xuất phát từ tính

thống nhất vật chất của thế giới. Phép biện chứng duy vật cũng chỉ ra rằng, liên hệ

của thế giới rất đa dạng, bởi thế giới bao gồm vô số sự vật hiện tượng muôn vẻ

khác nhau. Tùy theo tính chất, vai trò, phạm vi của liên hệ mà người ta phân thành

nhiều loại: liên hệ bên trong và liên hệ bên ngoài, liên hệ cơ bản và không cơ bản,

24

liên hệ không gian và thời gian, liên hệ trực tiếp và gián tiếp… Sự phân loại các

liên hệ này chỉ có ý nghĩa tương đối, bởi vì mỗi loại liên hệ chỉ là một hình thức,

một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến của thế giới xét như một

chỉnh thể. Tuy nhiên, sự phân loại các liên hệ là cần thiết, vì rằng vị trí của từng

mối liên hệ trong việc quy định sự vận động, phát triển của sự vật và hiện tượng

không như nhau.

Sự phân loại các liên hệ còn là cơ sở để xác định phạm vi nghiên cứu của

phép biện chứng duy vật và của các ngành khoa học cụ thể. Những hình thức riêng

biệt, cụ thể của từng mối liên hệ thuộc phạm vi nghiên cứu của từng ngành khoa

học cụ thể, còn phép biện chứng duy vật nghiên cứu những mối liên hệ chung nhất,

phổ biến nhất của thế giới. Vì thế, Ăngghen viết: “phép biện chứng là khoa học về

mối liên hệ phổ biến”.

- Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa phương pháp

luận to lớn đối với hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Nếu các sự vật, hiện tượng trong thế giới đều tồn tại trong mối liên hệ phổ

biến và nhiều vẻ, thì muốn nhận thức và tác động vào chúng, phải có quan điểm

toàn diện, khắc phục quan điểm phiến diện, một chiều. Quan điểm toàn diện đòi

hỏi chúng ta khi phân tích sự vật phải đặt nó trong mối liên hệ với sự vật hiện

tượng khác; phải xem xét tất cả các mặt, các yếu tố, kể cả khâu trung gian, gián

tiếp của chúng. Chỉ có như vậy, chúng ta mới nắm bắt được một cách đầy đủ bản

chất của sự vật, tránh được những kết luận phiến diện chủ quan, vội vàng.

Tuy nhiên quan điểm toàn diện không có nghĩa là cách xem xét cào bằng,

tràn lan mà phải thấy được tính chất, vị trí của từng mối liên hệ, từng mặt, từng yếu

tố trong tổng thể của chúng. Như vậy, quan điểm toàn diện bao hàm quan điểm

lịch sử cụ thể. Quan điểm này đòi hỏi, phải xét sự vật trong từng liên hệ cụ thể của

nó, gắn với những tính chất, vị trí cụ thể của mối liên hệ cụ thể đó; phải biết phân

loại các liên hệ của sự vật để nắm lấy cái cơ bản, cái có tính quy luật của nó; đồng

thời phải xét cả những điều kiện cụ thể của sự vật trong đó xuất hiện từng liên hệ

25

quy định từng tính chất và xu hướng cụ thể của nó. Từ đó mà tìm ra những phương

thức cụ thể để tác động đến sự vật.

Câu 10: Phân tích nội dung của nguyên lý về sự phát triển và rút ra ý

nghĩa phương pháp luận

- Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thống

nhất hữu cơ với nguyên lý về sự phát triển, bởi vì liên hệ tức là vận động, mà

không có vận động thì không có sự phát triển. Nhưng “vận động” và “phát triển” là

hai khái niệm khác nhau. Khái niệm “vận động” khái quát mọi sự biến đổi nói

chung, không tính đến xu hướng và kết quả của những biến đổi ấy như thế nào. Sự

vận động diễn ra không ngừng trong thế giới và có nhiều xu hướng.

Khái niệm “phát triển” không khái quát mọi sự biến đổi nói chung; nó chỉ là

khái quát những vận động đi lên, cái mới ra đời thay thế cho cái cũ. Tiêu chuẩn để

xác định sự phát triển là có xuất hiện “cái mới” trong những biến đổi của sự vật

hiện tượng. Sự phát triển trong thế giới theo các chiều hướng cơ bản sau: phát triển

về trình độ (từ thấp đến cao), phát triển về cấu trúc (từ đơn giản đến phức tạp),

phát triển về bản chất (từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn). Sự phân biệt đó về

các chiều hướng chỉ là tương đối, một sự phát triển thường bao hàm cả các chiều

hướng này.

- Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng sự phát triển, đổi mới là hiện

tượng diễn ra không ngừng trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy, mà nguồn

gốc của nó là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật và hiện

tượng. Nhưng không nên hiểu sự phát triển bao giờ cũng diễn ra một cách đơn

giản, theo đường thẳng. Xét từng trường hợp cá biệt, thì có những vận động đi lên,

tuần hoàn, thậm chí đi xuống, nhưng xét cả quá trình, trong phạm vi rộng lớn thì

vận động đi lên là khuynh hướng thống trị. Khái quát tình hình trên đây, phép biện

chứng duy vật khẳng định rằng, phát triển là khuynh hướng chung của sự vận động

của sự vật và hiện tượng.

26

- Quan điểm biện chứng xác định nguồn gốc bên trong của mọi sự phát triển.

Cho nên thế giới phát triển là tự thân phát triển, là quá trình bao hàm mâu thuẫn và

thường xuyên giải quyết mâu thuẫn, vừa liên tục vừa có gián đoạn; là quá trình bao

hàm sự phủ định cái cũ và ra đời cái mới. Sự phát triển như là vận động đi lên ra

đời cái mới, nhưng cái mới không đoạn tuyệt với cái cũ mà kế thừa tất cả những gì

tích cực của cái cũ. Tất cả những điều đó nói lên tính chất phức tạp của sự phát

triển, nhưng bao giờ cũng theo khuynh hướng đi lên.

- Đối lập với quan điểm trên đây của phép biện chứng; phép siêu hình nói

chung phủ nhận sự phát triển, tuyệt đối hóa tính ổn định của các sự vật hiện tượng.

Nếu có thừa nhận sự phát triển, thì phép siêu hình cho rằng đó chỉ là sự tăng giảm

về lượng, sự lặp lại mà không có chuyển hóa về chất, không có sự ra đời cái mới

thay thế cho cái cũ. Lênin nhận xét rằng, quan niệm siêu hình là cứng nhắc, nghèo

nàn, khô khan, chỉ có quan niệm biện chứng là sinh động, mới cho ta chìa khóa của

“sự tự vận động” của tất thảy mọi cái đang tồn tại, của những “bước nhảy vọt” và

“sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của sự “chuyển hóa thành mặt đối lập”, của “sự

tiêu diệt cái cũ và sự nảy sinh ra cái mới”. Cũng vì vậy mà ông nhấn mạnh rằng,

phép biện chứng là học thuyết “hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện về

sự phát triển”.

- Nghiên cứu nguyên lý về sự phát triển, giúp cho chúng ta nhận thức rằng,

muốn thực sự nắm được bản chất của sự vật hiện tượng, nắm được quy luật và xu

hướng của chúng phải có quan điểm phát triển, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ.

Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật phải xét nó như một quá trình;

đặt nó trong sự vận động, sự phát triển mới nắm được quy luật và những xu hướng

của nó. Quan điểm phát triển còn bao hàm yêu cầu xét sự vật trong từng giai đoạn

cụ thể của nó nhưng không được tách rời với các giai đoạn khác mà phải liên hệ

chúng với nhau mới có thể nắm được logic của toàn bộ tiến trình vận động sự vật.

Quan điểm phát triển cũng đòi hỏi tinh thần lạc quan tích cực trong thực tiễn, khắc

phục mọi sụ trì trệ bảo thủ.

27

Câu 11: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các

mặt đối lập - ý nghĩa phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này

trong hoạt động thực tiễn.

I. Nội dung quy luật:

- Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (còn gọi là quy luật

mâu thuẫn) là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, là “hạt nhân

của phép biện chứng”. Bởi vì nó vạch ra nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận

động và phát triển.

- Khái quát nội dung quy luật:

Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong. Mỗi sự vật, hiện

tượng đều là thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập

nhau. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập đó làm cho sự vật, hiện tượng vận

động, phát triển.

- Phân tích nội dung quy luật:

1. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến.

- “Mặt đối lập”?

Mặt đối lập là những mặt có khuynh hướng thay đổi, phát triển chống đối

nhau, trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.

Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có nhiều yếu tố, nhiều mặt,.. cấu thành, nhưng

có hai mặt đối lập cơ bản thống nhất với nhau quyết định kết cấu tạo thành sự vật,

hiện tượng.

-“Mâu thuẫn”?

“Mâu thuẫn” là khái niệm để chỉ sự liện hệ và tác động lẫn nhau của các mặt

đối lập trong một sự vật, hiện tượng nhất định.

Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, vì mâu thuẫn tồn tại trong bản thân sự

vật, hiện tượng.

28

Mâu thuẫn tồn tại phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy (mâu thuẫn trong

tư duy là sự phản ánh mâu thuẫn của hiện thực khách quan).

2. Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất

vừa đấu tranh với nhau.

- Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập vừa có quan hệ thống nhất với nhau,

vừa đấu tranh lẫn nhau.

- Khái niệm “thống nhất” trong quy luật biểu hiện: Các mặt đối lập liên hệ

ràng buộc với nhau, quy định lẫn nhau và làm tiền đề tồn tại của nhau.

Khái niệm “thống nhất” trong quy luật này còn được hiểu là sự “đồng nhất”,

nghĩa là cũng thừa nhận trạng thái ổn định của mối liên hệ của các mặt đối lập.

Đồng thời cũng thừa nhận sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.

- Khái niệm “đấu tranh” của các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài

trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình

phức tạp. Quá trình đó có thể chia ra nhiều giai đoạn. Mỗi giai đoạn lại có những

đặc điểm riêng của nó. (Xem S.1)

Đối lập

Sự khác nhau căn bản

Sự khác nhau

Chuyến hóa

Các giai đoạn phát triển

Khuynh hướng phát triển

Hệ thống sự vật, hiện tượng mới

Sự vật, hiện tượng (hệ thống cũ)

29

- Về mối quan hệ giữa thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin

viết: “Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối

lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối

lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển sự vận động là tuyệt đối”

(V.I.Lênin toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.379 - 380). Sự thống

nhất của các mặt đối lập có tính chất tạm thời, thoáng qua, tương đối, cũng như

trạng thái đứng im của sự vật, bởi vì mọi sự vật, hiện tượng cụ thể đều có quá trình

phát sinh, phát triển và tiêu vong để nhường chỗ cho các sự vật, hiện tượng khác

cao hơn, hoàn thiện hơn, mới hơn về chất ra đời.

Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối vì: trong mọi sự vật hiện tượng

đều có mâu thuẫn và mâu thuẫn quán xuyến từ đầu đến cuối quá trình phát triển

của sự vật. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên sự vận động,

sự biến đổi liên tục của sự vật, hiện tượng. Đấu tranh của các mặt đối lập là điều

kiện quan trọng nhất, có tính quyết định đối với sự chuyển hóa của các mặt đối lập.

- Đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận

động và phát triển của sự vật, hiện tượng.

3. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.

- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập là kết quả của quá trình đấu tranh của

các mặt đối lập.

- Sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện ở giai đoạn chín muồi

của mâu thuẫn. Sự chuyển hóa diễn ra dưới nhiều hình thức và tùy thuộc vào

những điều kiện cụ thể.

Hai hình thức khái quát nhất của sự chuyển hóa là:

+ Các mặt đối lập chuyển sang mặt đối lập của chính mình.

+ Các mặt đối lập cũ bị xóa bỏ và hình thành các mặt đối lập mới trong sự

vật mới.

S.1 Quá trình phát triển của một mâu thuẫn.

30

4. Phân loại mâu thuẫn

Thế giới phong phú, đa dạng và phức tạp, nhưng nhìn chung có 4 loại mâu

thuẫn cơ bản:

Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu

thuẫn giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình cấu thành nên sự vật,

hiện tượng. Mâu thuẫn này giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự

vật hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng, hoặc

giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính, các quá trình giữa sự vật, hiện tượng với

nhau. Mâu thuẫn này không giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự

vật, hiện tượng. Nó chỉ có tác dụng ảnh hưởng khi liên hệ được với mâu thuẫn bên

trong.

Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản là mâu

thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát sinh, hình thành, tồn tại của vật,

hiện tượng và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.

Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn phát sinh, hình thành, tồn tại cùng sự phát

sinh, hình thành, tồn tại của vật, hiện tượng và không giữ vai trò quyết định mà chỉ

ảnh hưởng nhất định đến sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng.

Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu

thuẫn nổi lên hàng đầu và giữ vai trò quyết định sự vận động, phát triển của sự vật

hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển. Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn phát

sinh và không giữ vai trò quyết định nhưng gây ảnh hưởng nhất định đến sự vận

động, phát triển của sự vật hiện tượng ở mỗi giai đoạn phát triển.

Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng (loại mâu thuẫn này chỉ

có trong lĩnh vực đời sống xã hội): Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai

cấp có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua

cách mạng xã hội. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai tầng có

lợi ích cơ bản không đối lập nhau. Mâu thuẫn này được giải quyết bằng phương

pháp hòa bình thông qua giáo dục và đổi mới xã hội.

II. Ý nghĩa phương pháp luận:

31

- Quy luật mâu thuẫn đem lại phương pháp khoa học cho việc xem xét và

giải quyết các vấn đề: phương pháp phân tích và giải quyết mâu thuẫn.

- Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn. Yêu cầu này đòi hỏi chúng

ta, muốn nắm được bản chất của sự vật, hiện tượng cần phải biết phân tích các mặt

đối lập của mâu thuẫn.

- Phải biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và phải có biện pháp cụ thể

để giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn.

- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn: Bất kỳ mâu thuẫn nào,

bất kỳ giai đoạn nào của mâu thuẫn, cũng chỉ được giải quyết bằng con đường đấu

tranh giữa các mặt đối lập, chứ không phải bằng con đường điều hòa giữa chúng.

Câu 12: Phân tích nội dung quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến

những thay đổi về chất và ngược lại. Ý nghĩa phương pháp luận của việc

nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực tiễn.

I. Nội dung quy luật:

Mỗi sự vật, hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt: chất lượng (chất) và số

lượng (lượng). Từ những thay đổi dần dần về lượng dẫn sẽ đến những thay đổi về

chất và ngược lại; là cách thức của sự vận động và phát triển.

1. Khái niệm chất và lượng

a. Khái niệm chất:

- Chất là tính quy định vốn có của các sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất

hữu cơ của những thuộc tính, những yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì,

phân biệt nó với các sự vật và hiện tượng khác.

- Phân biệt chất với tính cách là phạm trù triết học với chất hiểu theo khái

niệm thường dùng hàng ngày hoặc với khái niệm chất liệu.

- Phân biệt chất với thuộc tính. Mỗi chất gồm nhiều thuộc tính.

- Mỗi sự vật, hiện tượng có thể có một hoặc nhiều chất tuy theo những mối

quan hệ xác định

32

- Chất tồn tại khách quan.

- Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.

- Trong những trường hợp đặc biệt, chất là cái trừu tượng và dường như nằm

ngoài sự vật, hiện tượng.

b. Khái niệm lượng

- Lượng là tính quy định của sự vật, hiện tượng về mặt qui mô, trình độ, tốc

độ phát triển của nó, biểu thị bằng các con số, các thuộc tính, các yếu tố,.. cấu

thành nó.

- Lượng không chỉ biểu hiện bằng các con số, các đại lượng xác định cụ thể,

mà lượng còn được nhận thức bằng khả năng trừu tượng hóa.

- Lượng là nhân tố quy định bên trong, nhưng đồng thời cũng có những

lượng chỉ nói lên nhân tố dường như bên ngoài sự vật.

- Lượng tồn tại khách quan.

- So với chất, lượng là cái thường xuyên biến đổi.

* Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối.

2. Tính thống nhất và mối quan hệ phổ biến của lượng và chất.

a. Khái niệm “Độ”

Mỗi sự vật là một thể thống nhất của hai mặt chất và lượng. Hai mặt đó

không tách rời nhau, mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng.

- “Độ” là khái niệm nói lên mối quan hệ quy định lẫn nhau của chất và

lượng. Nó là giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó mà chưa biến

thành cái khác. Trong giới hạn “độ” lượng biến đổi nhưng chưa dẫn đến chuyển

hóa về chất.

- Độ cũng biến đổi khi những điều kiện tồn tại của sự vật, hiện tượng biến

đổi.

b. Những hình thức biến đổi từ lượng dẫn đến sự biến đổi về chất.

33

Ranh giới của lượng do chất quy định, nhưng sự chuyển hóa thì bao giờ

cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Các hình thức cơ bản của sự chuyển hóa:

+ Tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng

+ Sự dung hợp của nhiều lực lượng thành một hợp lực về căn bản khác với

tổng số những lực lượng cá biệt.

+ Thay đổi về kết cấu, tổ chức, qui mô của sự vật, hiện tượng.

- Khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn của độ thì dẫn đến thay đổi về chất.

Sự thay đổi về chất được gọi là bước nhảy (có 4 loại bước nhảy cơ bản: bước nhảy

toàn phần, bước nhảy cục bộ, bước nhảy dần dần, bước nhảy đột biến), đó là bước

ngoặt căn bản trong sự biến đổi dần dần về lượng.

- Giới hạn mà ở đó xảy ra bước nhảy được gọi là điểm nút.

- Sự chuyển hóa đòi hỏi phải có điều kiện.

c. Ảnh hưởng của chất mới đối với sự biến đổi của lượng

Khi chất mới ra đời nó tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có một sự

thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự quy định này được biểu hiện ở qui mô và

nhịp điệu phát triển mới của lượng.

Tóm lại, quy luật lượng-chất chỉ ra cách thức biến đổi sự vật, hiện tượng. Đó

là quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt: chất và lượng. Lượng biến đổi mâu

thuẫn với chất cũ, chất mới ra đời với lượng mới. Lượng mới lại tiếp tục biến đổi

đến giới hạn nào đó lại phá vỡ chất đang kìm hãm nó, tạo nên chất mới với lượng

mới. Như vậy phát triển là quá trình vô hạn, vừa mang tính liên tục (biểu hiện ở sự

biến đổi của lượng) vừa có tính gián đoạn (biểu hiện ở sự thay đổi về chất).

II. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Sự vận động và phát triển là kết quả của quá trình tích lũy về lượng. Trong

hoạt động thực tiễn cần chống lại hai khuynh hướng:

34

+ Tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nôn nóng, chưa có sự tích lũy đầy đủ về

lượng đã muốn thực hiện bước nhảy về chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến bước nhảy,

xem nhẹ tích lũy về lượng, dẫn đến các hành động phiêu lưu mạo hiểm.

+ Tư tưởng bảo thủ, trì trệ, ngại khó không dám thực hiện bước nhảy về

chất. Hoặc chỉ nhấn mạnh đến sự biến đổi dần dần về lượng, từ đó rơi vào chủ

nghĩa cải lương và tiến hóa luận.

- Cần có thái độ khách quan, khoa học và có quyết tâm thực hiện bước nhảy

khi điều kiện thực hiện bước nhảy đã chín muồi.

+ Cần phân biệt các bước nhảy trong tự nhiên và trong xã hội.

+ Phải nhận thức đúng đắn các bước nhảy khác nhau về qui mô, nhịp độ.

+ Chống chủ nghĩa giáo điều

Câu 13: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định. Ý nghĩa

phương pháp luận của việc nghiên cứu quy luật này trong hoạt động thực

tiễn.

Quy luật phủ định của phủ định vạch rõ xu hướng đi lên của sự vật, hiện

tượng trong quá trình vận động, phát triển.

1. Phủ định biện chứng:

- “Phủ định”: là khái niệm nói lên quá trình vận động của sự vật, hiện tượng.

Trong đó sự vật, hiện tượng này thay thế cho sự vật, hiện tượng khác.

- “Phủ định biện chứng”: là phủ định mà trong đó cái mới ra đời thay thế

cho cái cũ. Cái mới làm tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển của sự vật, hiện

tượng. Phép biện chứng duy vật cho rằng: sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của

cái mới, sự thoái hóa và sự phát triển có liên hệ nội tại với nhau. Không có mặt này

cũng không có mặt kia.

“Phủ định trong phép biện chứng không chỉ có ý nghĩa đơn giản là nói

không hoặc giả là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá hủy sự vật ấy

35

theo một cách nào đó… Cho nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào

cho sự phủ định lần thứ hai vẫn có khả năng thực hiện được hay trở thành có khả

năng thực hiện được” (Ăngghen “Chống Đuy-rinh”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, tr.

230-321).

- Đặc trưng của phủ định biện chứng:

Thứ nhất: Tính khách quan

Thứ hai: Tính kế thừa

Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân phát triển trên cơ sở những

mâu thuẫn vốn có của sự vật và hiện tượng nên nó không thể là một sự phủ định

tuyệt đối, một sự phủ định sạch trơn.

Phép biện chứng duy vật coi sự kế thừa là nội dung cơ bản của phủ định

biện chứng.

2. Nội dung quy luật:

Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều luôn luôn vận động, phát triển, quá trình

đó cũng là quá trình phủ định lẫn nhau của các mặt đối lập. Khuynh hướng tất yếu

của sự vận động là: cái mới thay thế cho cái cũ, cái mới làm tiền đề tạo điều kiện

cho sự phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhưng sự phát triển có tính chu kỳ.

a. Tính chu kỳ của sự phát triển:

Từ một điểm xuất phát (A) qua một số lần phủ định biện chứng (B(n)) sự vật

dường như lặp lại điểm xuất phát (A’) nhưng trên cơ sở cao hơn.

┤A → B(n) →A’├ →

- Sự phủ định biện chứng lần thứ nhất (B) là bước trung gian trong sự phát

triển. Trình độ mới của (A) phải qua (B) mà được thực hiện chứ không phải (B) là

giai đoạn cao hơn (A).

- Sự phủ định biện chứng lần thứ hai (A’) là phủ định của phủ định.

36

- (A’) là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm

xuất phát của một chu kỳ phát triển mới.

- Để hoàn thành một chu kỳ phát triển, sự vật hiện tượng phải trải qua ít nhất

hai lần phủ định biện chứng.

b. Hình thức và khuynh hướng của sự phát triển:

Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu tiến lên của sự vận

động của sự vật và hiện tượng. Sự phát triển đi lên đó không diễn ra theo con

đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”.

Lênin viết: “Một sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua

nhưng dưới một hình thức khác ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định),

một sự phát triển có thể nói là theo đường xoáy ốc chứ không theo đường thẳng

(Lênin toàn tập, T.26, Nxb Tiến bộ, Maatsxcơva, 1981, tr.65).

- “Đường xoáy ốc” biểu hiện các mặt của quá trình phát triển biện chứng:

tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên của sự vận động.

- “Đường xoáy ốc” thể hiện tính phức tạp trong quá trình biến đổi, phủ định

của sự vật. Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện tính vô tận của sự phát triển

từ thấp đến cao.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Quy luật phủ định của phủ định giúp ta hiểu rằng quá trình phát triển

không diễn ra theo đường thẳng mà rất quanh co, phức tạp, phải trải qua nhiều lần

phủ định biện chứng, nhiều khâu trung gian.

- Là cơ sở lý luận để hiểu về sự ra đời của cái mới: trong thực tiễn xã hội,

các quá trình diễn ra phức tạp, nhưng cái cũ nhất định sẽ mất đi, cái mới nhất định

sẽ xuất hiện. Cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ.

Phải biết phát hiện cái mới, duy trì và phát triển cái mới.

- Phải có cách nhìn biện chứng khi phê phán cái cũ, kế thừa những yếu tố

hợp lý của cái cũ. Tránh nhìn đơn giản trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng,

37

đặc biệt là các hiện tượng xã hội. Cần chống lại hai khuynh hướng: kế thừa không

chọn lọc hoặc phủ định sạch trơn.

Câu 14: Phân tích nội dung cặp phạm trù cái chung và cái riêng, từ đó

rút ra ý nghĩa phương pháp luận

1. Khái niệm cái chung, cái riêng, cái đơn nhất.

Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính,

những mối liên hệ giống nhau ở nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ.

Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một

quá trình riêng lẻ nhất định.

Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính

chỉ có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà không lặp lại ở kết cấu khác.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng:

Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cả cái riêng và cái chung đều tồn tại

khách quan và quan hệ biện chứng với nhau.

- Cái chung thì tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Điều đó có nghĩa

là cái chung thực sự tồn tại, nhưng chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng.

Không có cái chung thuần túy, trừu tượng tồn tại bên ngoài cái riêng.

- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung, bao hàm cái

chung. Điều đó cho thấy là cái riêng tồn tại độc lập nhưng sự tồn tại độc lập đó

không có nghĩa là cái riêng hoàn toàn cô lập với cái khác mà bất cứ cái riêng nào

cũng nằm trong mối liên hệ đưa tới cái chung. Cái riêng không những chỉ tồn tại

trong mối liên hệ dẫn tới cái chung mà thông qua hàng nghìn sự chuyển hóa, nó

còn liên hệ với cái riêng loại khác.

- Cái chung là bộ phận của cái riêng, còn cái riêng không gia nhập hết vào

cái chung vì vậy cái riêng phong phú hơn cái chung. Bởi ngoài những đặc điểm gia

nhập vào cái chung, cái riêng còn giữ lại những đặc điểm riêng biệt mà chỉ nó mới

có. Trong khi đó, cái chung phải là cái sâu sắc hơn vì nó phản ánh những mối liên

38

hệ ở bên trong, phổ biến tồn tại trong cái riêng cùng loại, nó gắn liến với các cái

riêng, quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật.

- Trong quá trình phát triển khách quan của sự vật, trong những điều kiện

nhất định cái đơn nhất có thể biến thành cái chung và ngược lại cái chung có thể

biến thành cái đơn nhất. Sỡ dĩ có tình trạng này là do trong hiện thực cái mới

không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay trong một lúc mà lúc đầu xuất hiện dưới dạng

đơn nhất cá biệt. Nhưng theo quy luật, cái mới nhất định sẽ phát triển mạnh lên,

ngày càng trở nên hoàn thiện tiến tới trở thành cái chung. Ngược lại, cái cũ ngày

càng mất dần đi từ chỗ là cái chung biến dần thành cái đơn nhất.

- Trong phạm vi khái quát của con người, cái được xem là cái chung trong

quan hệ này lại có thể được xem là cái riêng, cái đơn nhất trong quan hệ khác.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Không được tuyệt đối hóa cái chung hay cái riêng mà phải thấy được mối

quan hệ biện chứng giữa chúng. Nếu tuyệt đối hóa cái chung thì sẽ dẫn đến giáo

điều chủ nghĩa, rập khuôn một cách máy móc. Ngược lại nếu tuyệt đối hóa cái

riêng thì sẽ dẫn đến chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể

phường hội, địa phương chủ nghĩa và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

- Trong nhận thức và thực tiễn để phát hiện cái chung cần phải xuất phát từ

những cái riêng, từ những sự vật, hiện tượng quá trình riêng lẻ cụ thể chứ không

được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể, và để giải quyết những vấn đề

riêng một cách có hiệu quả thì không lảng tránh việc giải quyết những vấn đề

chung, để tránh tình trạng sa vào mò mẫm tùy tiện.

- Trong hoạt động thực tiễn cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cái đơn nhất

chuyển hóa thành cái chung nếu cái đơn nhất đó có lợi, và cũng phải tạo điều kiện

để cái chung chuyển hóa thành cái đơn nhất nếu cái chung đó là lạc hậu.

Câu 15: phân tích nội dung cặp phạm trù nguyên nhân và kết quả, từ

đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

39

1. Khái niệm nguyên nhân và kết quả:

- Nguyên nhân là phạm trù triết học chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt

trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự biến đổi nhất định.

- Kết quả là phạm trù triết học chỉ là những biến đổi xuất hiện do sự tác

động lẫn nhau trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau.

- Phân biệt nguyên nhân và nguyên cớ, nguyên nhân và điều kiện:

+ Nguyên cớ là một sự kiện nào đó trực tiếp xảy ra trước kết quả, có liên hệ

với kết quả nhưng chỉ là liên hệ bên ngoài không bản chất.

+ Điều kiện: Đó là tổng hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên

nhân nhưng lại có tác dụng biến khả năng chứa đựng trong nguyên nhân thành kết

quả, thành hiện thực. Vì vậy, điều kiện là cái không thể thiếu được cho sự xuất

hiện kết quả.

2. Tính khách quan và phổ biến của mối quan hệ nhân quả:

- Tính khách quan:

Thế giới thống nhất ở tính vật chất. Điều đó cho thấy vật chất đang vận động

quy đến cùng là nguyên nhân duy nhất, là nguồn gốc của mọi sự vật, hiện tượng,

quá trình. Và mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có căn cứ của nó trong những

sự vật, hiện tượng, quá trình khác. Cho nên không có sự vật hiện tượng nào không

có nguyên nhân mà chỉ có chúng ta chưa tìm ra nguyên nhân của hiện tượng đó, và

cũng không có một hiện tượng nào không sinh ra kết quả mà chỉ có chúng ta chưa

tìm ra được kết quả của nó.

- Tính phổ biến:

Tính phổ biến của quan hệ nhân quả thể hiện ở chỗ mọi sự vật và hiện tượng

đều nảy sinh từ những sự vật hiện tượng khác. Trong đó cái sản sinh ra cái khác

được gọi là nguyên nhân và cái được sinh ra gọi là kết quả.

3. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả

40

- Nguyên nhân sinh ra kết quả vì vậy nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết

quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau nguyên nhân, khi nguyên nhân đã xuất

hiện, đã bắt đầu tác động.

Tuy nhiên không phải mọi sự nối tiếp nhau về mặt thời gian của các sự vật

hiện tượng cũng là biểu hiện của mối liên hệ nhân quả. Cái để phân biệt quan hệ

nhân quả với quan hệ nối tiếp nhau về mặt thời gian là ở chỗ quan hệ nhân quả bao

giờ cũng là quan hệ sản sinh, trong đó nguyên nhân phải sản sinh ra kết quả.

- Trong hiện thực, mối quan hệ nhân quả biểu hiện hết sức phức tạp. Một kết

quả thường không phải do một nguyên nhân mà do nhiều nguyên nhân gây ra;

đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Vì sự phối hợp

tác động của nhiều nguyên nhân đòi hỏi phải phân tích tính chất, vai trò của mỗi

loại nguyên nhân đối với kết quả cũng như sự liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau giữa các

nguyên nhân và phân loại các nguyên nhân.

+ Nếu các nguyên nhân tác động cùng chiều thì có xu hướng dẫn đến kết

quả nhanh hơn. Nếu các nguyên nhân tác động ngược chiều thì làm cho tiến trình

hình thành kết quả chậm lại. Thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau.

+ Phân loại nguyên nhân:

* Nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân thứ yếu:

Nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân mà không có nó thì kết quả không thể

xuất hiện. Nó quyết định những đặc trưng tất yếu của sự vật, hiện tượng. Nguyên

nhân thứ yếu là nguyên nhân chỉ quyết định những mặt, những đặc điểm nhất thời,

tác động có giới hạn và có mức độ vào việc sản sinh ra kết quả.

* Nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài: Nguyên nhân bên

trong là nguyên nhân tác dụng ngay bên trong sự vật, được chuẩn bị và xuất hiện

trong tiến trình phát triển của sự vật, phù hợp với đặc điểm về chất của nó. Nguyên

nhân bên ngoài là sự tác động giữa các sự vật khác nhau đem lại sự biến đổi nhất

định giữa các sự vật đó.

41

- Tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân và sự chuyển hóa của

nguyên nhân-kết quả:

Mối liên hệ nhân quả có tính chất tác động qua lại lẫn nhau trong đó không

những nguyên nhân sinh ra kết quả mà kết quả còn tác động trở lại đối với nguyên

nhân đã sinh ra nó, làm cho những nguyên nhân cũng biến đổi bởi vì nguyên nhân

sinh ra kết quả bao giờ cũng là một quá trình. Sự tác động trở lại của kết quả đối

với nguyên nhân chính là sự ảnh hưởng thường xuyên lẫn nhau giữa nguyên nhân

và kết quả, gây nên sự biến đổi giữa chúng. Nguyên nhân và kết quả thường xuyên

chuyển hóa lẫn nhau, nên “cái bây giờ ở đây là kết quả thì ở chỗ khác, lúc khác lại

trở thành nguyên nhân và ngược lại”.

Trong thế giới vô tận, nguyên nhân sinh ra kết quả, đến lượt nó kết quả

chuyển hóa thành nguyên nhân mới sinh ra kết quả mới,.. là vô tận. Chính vì thế,

trong thế giới ta không thể chỉ ra được đâu là nguyên nhân đầu tiên và đâu là kết

quả cuối cùng.

4. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Mối quan hệ nhân quả đã vạch rõ nguồn gốc của các hiện tượng cụ thể,

riêng biệt vì vậy là cơ sở để đánh giá kết quả của sự nhận thức thế giới, hiểu rõ con

đường phát triển của khoa học, khắc phục tính hạn chế của các lý luận hiện có và

là công cụ lý luận cho hoạt động thực tiễn để cải tạo tự nhiên và xã hội.

- Hiện tượng nào cũng có nguyên nhân, nên muốn hiểu đúng một hiện tượng

thì phải tìm hiểu nguyên nhân xuất hiện của nó hoặc muốn xóa bỏ một hiện tượng

thì phải xóa bỏ nguyên nhân sản sinh ra nó.

- Nếu nguyên nhân chỉ sinh ra kết quả trong những điều kiện nhất định thì

phải nghiên cứu điều kiện để thúc đẩy hay kìm hãm sự ra đời của kết quả. Phải có

quan điểm toàn diện và cụ thể khi nghiên cứu hiện tượng chứ không được vội vàng

kết luận về nguyên nhân của hiện tượng đó.

42

Câu 16: Phân tích nội dung cặp phạm trù tất nhiên và ngẫu nhiên, từ đó

rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

1. Khái niệm tất nhiên và ngẫu nhiên:

- Tất nhiên (tất yếu) là cái do bản chất, do những nguyên nhân bên trong của

sự vật, hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định, nó phải xảy ra

như thế, chứ không thể khác.

- Ngẫu nhiên là cái không do mối liên hệ bản chất, bên trong quyết định mà

nó là ngẫu hợp của hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do đó, nó có thể xuất hiện

hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện như thế này hoặc như thế khác.

2. Điểm giống nhau và khác nhau giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.

a. Khác nhau:

Tất nhiên là cái do chính bản chất của quá trình quyết định. Ngẫu nhiên là

cái không do bản chất của quá trình quy định một cách trực tiếp, không bắt buộc

phải có với quá trình đó.

b. Giống nhau:

Tất nhiên và ngẫu nhiên đều phản ánh những mối liên hệ đặc biệt về chất

của thế giới khách quan mà những mối liên hệ này không nằm trong phạm trù

khác. Tất nhiên và ngẫu nhiên đều do những nguyên nhân xác định quy định.

3. Phê phán quan điểm sai lầm về tất nhiên và ngẫu nhiên:

- Tuyệt đối hóa tất nhiên, phủ định ngẫu nhiên: Đây là quan điểm sai lầm vì

rơi vào “thuyết định mệnh”, xem con người chỉ là trò chơi của số phận và đã hạ

thấp trình độ của tất nhiên xuống trình độ của ngẫu nhiên.

- Tuyệt đối hóa ngẫu nhiên, phủ nhận tất nhiên: Quan điểm này đã xuyên tạc

nhiệm vụ của khoa học, hướng khoa học đi vào con đường thần bí, khoa học chỉ là

kết quả của ngẫu nhiên, phục tùng ngẫu nhiên, là chỗ dựa cho tôn giáo. Đây cũng

là điểm tựa của chủ nghĩa bi quan bất lực trước cuộc sống, xa lánh việc làm cách

mạng cải tạo tự nhiên và xã hội.

43

4. Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận tất nhiên và ngẫu nhiên đều tồn tại

bên ngoài, độc lập với ý thức của loài người và có quan hệ biện chứng với nhau.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên là biểu hiện sự thống nhất của hai mặt đối lập.

- Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải tồn tại cô lập mà tồn tại trong sự thống

nhất hữu cơ với nhau. Không có ngẫu nhiên thuần túy, hay tất nhiên thuần túy. Bất

cứ hiện tượng quá trình nào cũng đều là sự thống nhất giữa tất nhiên và ngẫu

nhiên. Tất nhiên bao giờ cũng vạch đường cho mình đi xuyên qua vô số ngẫu

nhiên, còn ngẫu nhiên bao giờ cũng là hình thức biểu hiện nội dung của cái tất

nhiên, làm cho cái tất nhiên đa dạng nhiều vẻ hơn.

- Sự phân biệt giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ là tương đối. Trong những

điều kiện cụ thể, tất nhiên có thể trở thành ngẫu nhiên và ngược lại.

5. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Nếu tất nhiên là cái nhất định phải xuất hiện theo quy luật nội tại của nó,

còn ngẫu nhiên có thể xuất hiện hay không xuất hiện thì trong hoạt động thực tiễn

phải dựa trên cơ sở những mối liên hệ tất nhiên, phải căn cứ vào tất nhiên để đề ra

phương hướng hoạt động chứ không phải dựa vào ngẫu nhiên và dừng lại ở ngẫu

nhiên.

- Con người có thể tạo ra những điều kiện để biến ngẫu nhiên thành tất nhiên

cần thiết cho hoạt động thực tiễn. Và trong hoạt động thực tiễn phải xem xét sự

chuyển hóa giữa tất nhiên và ngẫu nhiên để không rơi vào tình trạng chủ quan

nóng vội, duy ý chí.

- Nhiệm vụ của khoa học là phải vạch ra cái tất nhiên ẩn dấu đằng sau cái

ngẫu nhiên, đồng thời giúp con người ngăn ngừa sự tác động của ngẫu nhiên không

có lợi và sử dụng ngẫu nhiên có lợi.

Câu 17: Phân tích nội dung cặp phạm trù nội dung và hình thức, từ đó

rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

44

1. Khái niệm nội dung và hình thức.

- Nội dung là phạm trù triết học chỉ toàn bộ những yếu tố, những mặt, những

mối liên hệ và những quá trình tạo nên sự vật.

- Hình thức là phạm trù triết học chỉ phương thức tồn tại và phát triển của sự

vật, phản ánh về kết cấu, trình độ, tốc độ của nội dung và là hệ thống các mối liên

hệ tương đối ổn định giữa các yếu tố của nó.

Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bên ngoài, hình thức được nói đến trong

cặp phạm trù này là hình thức bên trong của sự vật, tức là cơ cấu bên trong của nội

dung. Nội dung cũng không phải là bản thân sự vật, đó là trạng thái nội tại của sự

vật, giữa các yếu tố, các quá trình ở bên trong sự vật có sự tác động lẫn nhau để tạo

thành sự vật. Bởi vậy, nội dung của sự vật là một quá trình chứ không phải là một

cái gì bất biến.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.

- Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất. Nội dung và

hình thức gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau. Không có một

hình thức nào lại không phản ánh nội dung, cũng như không có nội dung nào lại

không biểu hiện qua hình thức. Sở dĩ có tình trạng này là do nội dung bao gồm

những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật mà hình thức lại chính là

hệ thống các yếu tố vừa góp phần tạo nên nội dung, vừa tham gia vào các mối liên

hệ tạo nên hình thức. Vì lẽ đó nội dung và hình thức không thể tách rời nhau.

- So với hình thức thì nội dung là cái quyết định. Thực chất ở đây là nói đến

mối quan hệ giữa cái có tính ổn định và cái thường xuyên biến đổi.

Sự biến đổi và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi từ nội

dung. Khi nội dung đã biến đổi thì hình thức cũng phải biến đổi theo, vì nội dung

là cái cơ sở của sự vật. Nhưng hình thức không phải chỉ có vai trò thụ động đi theo

nội dung mà còn có tác động tích cực đến nội dung, ảnh hưởng của nó thường diễn

ra theo hai hướng. Khi hình thức phù hợp với nội dung thì hình thức trở thành động

45

lực tích cực thúc đẩy nội dung phát triển, ngược lại nếu nó không phù hợp thì nó sẽ

cản trở sự phát triển đó.

- Tính độc lập tương đối của hình thức:

Mặc dù nội dung quy định sự biến đổi của hình thức nhưng trong tính bị quy

định đó hình thức cũng có tính độc lập tương đối của nó. Trong quá trình phát

triển, hình thức có thể lạc hậu so với nội dung vì không phải bất kỳ sự biến đổi nào

của nội dung cũng ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của hình thức. Hình thức chỉ

có thể bị phá vỡ căn bản khi nội dung biến đổi tới giới hạn nhất định dẫn tới xung

đột gay gắt với hình thức hiện có. Cùng một nội dung có thể được phản ánh qua

một số kiểu hình thức khác nhau, hoặc cùng một hình thức có thể là sự biểu hiện

một số nội dung khác nhau.

- Sự chuyến hóa giữa nội dung và hình thức:

Hình thức và nội dung là hai mặt đối lập cũng giống như bất kỳ hai mặt đối

lập nào, nội dung và hình thức có sự thống nhất với nhau và chuyển hóa cho nhau.

Cái là nội dung trong quan hệ này có thể trở thành hình thức trong quan hệ khác.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

- Trong hoạt động thực tiễn cần chống khuynh hướng tách rời nội dung và

hình thức. Nội dung quyết định hính thức cho nên khi xem xét sự vật phải căn cứ

vào nội dung, đồng thời phải thấy sự tác động của hình thức đối với nội dung.

- Cùng một nội dung trong quá trình phát triển khác nhau có thể có nhiều

hình thức và ngược lại cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác

nhau, cho nên phải linh hoạt trong việc sử dụng mọi hình thức có thể có tùy theo

yêu cầu của hoạt động thực tiễn. Cần chống lại hai thái cực sai lầm là cố bám giữ

vào hình thức cũ hoặc hoàn toàn phủ nhận vai trò của nó trong hoàn cảnh mới mà

chủ quan nóng vội thay đổi một cách tùy tiện.

Câu 18: Phân tích nội dung cặp phạm trù bản chất và hiện tượng, từ đó

rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

46

1. Khái niệm bản chất và hiện tượng:

- Bản chất là phạm trù triết học chỉ sự tổng hợp tất cả những mặt, những mối

liên hệ tất nhiên tạo thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong, quy định sự vận

động và phát triển của sự vật.

- Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự biểu hiện ra bên ngoài

những mặt, những mối liên hệ đó.

- So sánh bản chất với cái chung và quy luật:

+ Bản chất là cái chung tất yếu quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật

chứ không phải bất kỳ là cái chung nào.

+ Bản chất và quy luật là những phạm trù cùng loại, cùng trình độ. Tuy vậy

bản chất và quy luật không bao giờ đồng nhất với nhau. Bản chất rộng hơn quy

luật, bản chất bao gồm nhiều quy luật, là tổng hợp của nhiều quy luật. Bản chất là

cái toàn bộ, quy luật là cái bộ phận. Một quy luật không nói hết được bản chất của

sự vật mà chỉ phản ánh một mặt nào đó của bản chất.

2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:

- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng.

+ Bản chất bao giờ cũng bộc lộ thông qua hiện tượng, còn hiện tượng bao

giờ cũng là sự biểu hiện của bản chất. “Bản chất hiện ra, hiện tượng có tính bản

chất”. Điều này cho thấy không có bản chất thuần túy nằm ở bên ngoài sự vật,

hoặc là bản chất không phải là cái gì thần bí nằm ở bên trong sự vật mà bản chất

nhất thiết phải bộc lộ ra thông qua hiện tượng và bất cứ hiện tượng nào cũng là

biểu hiện của bản chất, biểu hiện một mức độ, một mặt nào đó, một vòng khâu nào

đó của bản chất. Hiện tượng không tồn tại nếu không có bản chất.

+ Bản chất như thế nào thì hiện tượng tương ứng như thế ấy. Bản chất bị tiêu

diệt thì hiện tượng do nó sinh ra sớm muộn cũng bị mất theo và nếu một bản chất

mới xuất hiện thì sẽ xuất hiện những hiện tượng mới.

- Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:

47

+ Sự đối lập giữa cái bên trong và bên ngoài:

Bản chất là cái bên trong được biểu hiện thông qua các hiện tượng, hiện

tượng là cái thể hiện ra bên ngoài. Tất cả các hiện tượng đều biểu hiện bản chất

nhưng biểu hiện một cách khác nhau, có hiện tượng biểu hiện bản chất một cách

trực tiếp đúng đắn, thậm chí có hiện tượng biểu hiện sai lệch bản chất.

Vì vậy muốn nhận thức đúng đắn, khoa học về sự vật thì không thể dừng lại

ở một vài hiện tượng riêng lẻ mà cần phải phân tích tổng hợp các hiện tượng, đi

sâu để tìm ra bản chất thực sự của nó.

+ Sự đối lập giữa cái tương đối ổn định và cái thường xuyên biến đổi:

Bản chất là cái bên trong, cái tương đối ổn định. Hiện tượng là cái thể hiện

ra bên ngoài, cái thường xuyên biến đổi.

+ Sự đối lập giữa cái sâu sắc hơn và cái phong phú hơn:

Bản chất sâu sắc hơn hiện tượng vì bản chất là những mối liên hệ tất nhiên

bên trong, ổn định, là cái quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, được lập đi

lập lại trong nhiều hiện tượng khác. Nó biểu hiện quy luật phát triển chung của các

hiện tượng đó.

Hiện tượng phong phú hơn bản chất vì ngoài bản chất chung mà các hiện

tượng đều có nó còn chứa đựng các nhân tố cá biệt mà chỉ riêng nó có.

4. Ý nghĩa phương pháp luận:

Nếu bản chất biểu hiện thông qua hiện tượng và hiện tượng biểu hiện bản

chất dưới hình thức cải biến, có khi dưới dạng xuyên tạc thì nhận thức không được

dừng lại ở hiện tượng của sự vật, mà phải xem xét những mối liên hệ bên trong của

sự vật để làm sáng tỏ bản chất ẩn dấu đằng sau hiện tượng. Trong hoạt động thực

tiễn không dựa vào biểu hiện bên ngoài mà phải dựa vào sự hiểu biết những quy

luật của sự vật, bản chất của sự vật. Vì lẽ đó cần phải hết sức thận trọng khi kết

luận về bản chất của sự vật.

48

Câu 19: Phân tích nội dung cặp phạm trù khả năng và hiện thực, từ đó

rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

1. Khái niệm khả năng và hiện thực.

- Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa có, chưa tới,

nhưng sẽ tới, sẽ xuất hiện khi có điều kiện thích hợp.

- Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện có, hiện đang tồn tại

thật sự.

Như vậy khả năng là cái “chưa có” nhưng không phải bất kỳ cái chưa có nào

mà phải hiểu là cái chưa có ở thời điểm đang xét, là cái sẽ có trong tương lai, khi

có điều kiện thích hợp. Theo nghĩa đó, khả năng là tiền đề của cái mới.

Tuy khả năng là cái chưa có nhưng điều đó không có nghĩa là nó không tồn

tại. Các sự vật mà khả năng đó biểu hiện chưa tồn tại như một hiện thực nhưng bản

thân khả năng thì tồn tại. Vì vậy, khả năng cũng là một trạng thái đặc biệt của hiện

thực, trạng thái mà hiện thực mới tồn tại trước khi trở thành chính bản thân mình.

- Phân loại khả năng:

Mọi khả năng đều là khả năng thực tế (đều tồn tại thực sự, do hiện thực sinh

ra). Có những khả năng được hình thành một cách tất nhiên do quy luật vận động

nội tại của sự vật (khả năng tất nhiên), có những khả năng được hình thành một

cách ngẫu nhiên (khả năng ngẫu nhiên). Khả năng tất nhiên bao gồm khả năng gần

(đã có đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực), khả năng

xa (còn phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ mới đủ điều kiện biến thành

hiện thực)…

2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.

- Khả năng và hiện thực ở trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không thể

tách rời nhau, luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau, vì hiện thực được chuẩn bị bởi khả

năng, còn khả năng sẽ biến thành hiện thực. Đó là một quá trình vô tận. Do đó, sẽ

mắc sai lầm nếu tách cái nọ khỏi cái kia. Kết quả là trong hoạt động thực tiễn sẽ

không nhìn thấy khả năng tiềm tàng trong sự vật, do đó không xác định được

49

tương lai phát triển của nó, hoặc không tạo ra những điều kiện cần thiết để thúc

đẩy sự chuyển biến tích cực và không ngăn chặn kịp thời những biến chuyển tiêu

cực.

- Cũng trong những điều kiện nhất định ở cùng một sự vật có thể tồn tại một

số khả năng vốn đã có ở sự vật, trong những điều kiện nhất định, khi có thêm điều

kiện mới bổ sung thì ở sự vật sẽ xuất hiện thêm những khả năng mới. Ngay trong

bản thân mỗi khả năng cũng không phải là không thay đổi, nó có thể tăng lên giảm

đi là tùy thuộc vào sự biến đổi của sự vật trong những điều kiện cụ thể.

- Quá trình khả năng biến thành hiện thực diễn ra trong tự nhiên không

giống như trong xã hội. Ở trong tự nhiên là một quá trình khách quan, diễn ra tự

phát. Trong xã hội, sự chuyển hóa đó phải thông qua hoạt động có ý thức của con

người.

- Trong những điều kiện nhất định, có khả năng tất yếu trở thành hiện thực,

nhưng cũng có khả năng có thể không trở thành hiện thực.

3. Ý nghĩa phương pháp luận:

Phải thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.

- Nếu chỉ thấy hiện thực mà không thấy khả năng thì sẽ không dự đoán được

tương lai. Nếu thấy khả năng mà không thấy hiện thực sẽ dẫn đến bi quan. Nếu

đồng nhất khả năng với hiện thực thì sẽ ảo tưởng.

- Trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào hiện thực để đánh giá tình hình

và phải phán đoán đúng tính chất và xu hướng của khả năng để phát huy tối đa tính

năng động chủ quan, ứng xử kịp thời tránh tư tưởng chờ đợi thụ động.

Câu 20: Nhận thức là gì? Thực tiễn là gì? Vai trò của thực tiễn đối với

nhận thức lý luận.

- Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào trong bộ não người. Đó

là sự phản ánh năng động, sáng tạo dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong

quan hệ với khách thể.

50

+ Chủ thể nhận thức: theo nghĩa rộng là xã hội loài người nói chung. Hiểu

một cách cụ thể, chủ thể là nhóm người như giai cấp, dân tộc, tập thể, cá nhân…

Tuy nhiên không phải bất kỳ con người nào cũng trở thành chủ thể nhận thức, con

người chỉ trở thành chủ thể khi nó tham gia vào hoạt động xã hội nhằm nhận thức

và biến đổi khách thể.

+ Khách thể nhận thức: không phải toàn bộ hiện thực khách quan, mà chỉ là

bộ phận, là lĩnh vực nào đó của nó ở trong miền hoạt động thực tiễn và hoạt động

nhận thức của chủ thể.

- Thực tiễn là một phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ hoạt động vật chất

có tính chất lịch sử-xã hội của con người nhằm làm biến đổi tự nhiên và xã hội.

+ Bản chất của hoạt động thực tiễn là sự tác động qua lại giữa chủ thể và

khách thể, trong đó chủ thể với tính năng động của mình tác động làm biến đổi

khách thể.

+ Hoạt động thực tiễn đa dạng, song chúng ta có thể chia làm ba hình thức

cơ bản:

* Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực

tiễn có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.

* Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội (đấu tranh giai cấp, đấu tranh

giải phóng dân tộc, đấu tranh vì hòa bình…), đây là hình thức cao nhất của hoạt

động thực tiễn.

* Thực nghiệm khoa học: đây là hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn,

được tiến hành trong những điều kiện nhân tạo để tạo ra cơ sở nhận thức, làm biến

đổi tự nhiên và xã hội.

- Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

+ Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức.

Nhận thức bắt nguồn từ thực tiễn. Chính là từ trong hoạt động thực tiễn làm

xuất hiện những nhu cầu buộc con người phải nhận thức thế giới. Vì vậy mà con

người nhận thức thế giới thông qua thực tiễn.

51

Thông qua hoạt động thực tiễn, con người làm cho sự vật, hiện tượng bộc lộ

những thuộc tính, những liên hệ, trên cơ sở đó con người nhận thức chúng. Như

vậy, thực tiễn đã đem lại những tài liệu cho quá trình nhận thức, giúp cho nhận

thức nắm được bản chất, các quy luật của thế giới.

Thực tiễn còn làm hoàn thiện giác quan của con người, tạo ra những

phương tiện làm tăng khả năng nhận biết của các giác quan nhờ đó nó thúc đẩy

nhận thức phát triển.

+ Thực tiễn là mục đích của nhận thức.

Tri thức do nhận thức đem lại chỉ trở thành sức mạnh vật chất khi áp dụng

có hiệu quả trong hoạt động thực tiễn. Như vậy, nhận thức không phải là để nhận

thức mà có mục đích cuối cùng, đó là giúp cho con người trong hoạt động biến đổi

thế giới.

+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của nhận thức.

Nhận thức phải thông qua thực tiễn mới kiểm tra được tính chân lý của nó.

Chỉ trong thực tiễn, con người mới xác định được cái đúng đắn, cái sai lầm và giới

hạn của tính đúng đắn của mọi tri thức do nhận thức đem lại.

Câu 21: Phân tích con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý.

Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng thế giới hiện thực khách quan

vào trong bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.

Quá trình đó được Lênin khái quát như sau: “Từ trực quan sinh động đến tư

duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng

của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức hiện thực khách quan” (V.I.Lênin Toàn

tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.179)

- Trực quan sinh động (nhận thức cảm tính) là giai đoạn đầu của quá trình

nhận thức, gắn liền với thực tiễn thông qua các giác quan diễn ra với các hình thức

cơ bản sau:

52

+ Cảm giác là hình thức đầu tiên của sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự

vật hiện tượng tác động vào các giác quan, gây nên sự kích thích của các tế bào

thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng

lẻ của sự vật, hiện tượng như màu sắc, mùi vị,..

- Tri giác là hình thức kế tiếp sau cảm giác. Tri giác là sự phản ánh nhiều

thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác

được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Tri giác cũng là sự phản ánh trực

tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.

+ Biểu tượng là hình thức cao nhất của trực quan sinh động. Biểu tượng xuất

hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình

ảnh được lưu giữ trong chủ thể, khi không còn sự vật hiện tượng hiện diện trực tiếp

trước chủ thể. Ở đây biểu tượng đã ít nhiều mang tính gián tiếp cho nên nó là khâu

trung gian giữa trực quan sinh động và tư duy trừu tượng.

- Tư duy trừu tượng (nhận thức lý tính) là giai đoạn cao của quá trình nhận

thức, bao gồm các hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý.

+ Khái niệm là hình thức cơ bản nhất của tư duy trừu tượng. Nó phản ánh,

khái quát những đặc tính cơ bản và phổ biến của một lớp sự vật, hiện tượng nhất

định.

+ Phán đoán là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một qui tắc xác định mà

chúng ta có thể xác định được trị số logic của nó.

+ Suy lý là một thao tác logic tư duy để đi đến những tri thức mới từ những

tri thức đã có.

- Sự thống nhất giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính:

+ Nhận thức cảm tính khác nhận thức lý tính ở chỗ: nhận thức cảm tính là

giai đoạn thấp, phản ánh khách thể một cách trực tiếp, đem lại những tri thức cảm

tính. Ngược lại nhận thức lý tính là giai đoạn cao, phản ánh khách thể một cách

gián tiếp, khái quát đem lại những tri thức về bản chất và quy luật của khách thể.

53

+ Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là các giai đoạn của một quá trình

nhận thức dựa trên cơ sở thực tiễn. Giữa chúng có sự tác động qua lại: nhận thức

cảm tính cung cấp tài liệu cho nhận thức lý tính, nhận thức lý tính tác động trở lại

nhận thức cảm tính làm cho nó chính xác hơn, nhạy bén hơn.

+ Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về sự thống nhất giữa nhận

thức cảm tính và nhận thức lý tính hoàn toàn đối lập với chủ nghĩa duy cảm (đề

cao vai trò của nhận thức cảm tính) và chủ nghĩa duy lý (đề cao vai trò nhận thức

lý tính).

- Thực tiễn trong quá trình nhận thức:

+ Nhận thức phải trở về thực tiễn để kiểm tra, khẳng định chân lý hay sai

lầm. Ngoài ra, mục đích của nhận thức là để định hướng cho hoạt động thực tiễn

cải tạo thế giới.

+ Quay trở về thực tiễn nhận thức mới hoàn thành được chu trình biện chứng

của nó. Trên cơ sở hoạt động thực tiễn, nhận thức tiếp theo lại được bắt đầu bằng

chu trình khác cao hơn.

Câu 22: Trình bày quan điểm của triết học Mác-Lênin về vấn đề chân

lý.

1. Khái niệm chân lý:

- Chân lý là những tri thức về thế giới khách quan được phản ánh vào bộ óc

người, có nội dung phù hợp với hiện thực do nó phản ánh và đã được thực tiễn

kiểm nghiệm.

- Chân lý bao giờ cũng là chân lý khách quan. Chân lý khách quan là những

tri thức mà nội dung của nó không phụ thuộc vào ý thức của con người.

- Chân lý là một quá trình, vì tiêu chuẩn của chân lý là thực tiễn và còn vì

nhận thức của con người là một quá trình.

2. Chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối.

54

- Chân lý tuyệt đối là những tri thức có nội dung đúng và phù hợp hoàn toàn

với hiện thực mà nó phản ánh. Có chân lý tuyệt đối vì con người hoàn toàn có khả

năng nhận thức đúng đắn về thế giới khi có đầy đủ các điều kiện.

- Chân lý tương đối là tri thức đúng nhưng chưa phù hợp hoàn toàn với hiện

thực khách quan do nó phản ánh. Sự phù hợp giữa nội dung của nó đối với khách

thể được phản ánh là sự phù hợp bộ phận, ở một số mặt nhất định.

+ Tính tương đối của chân lý biểu hiện ở chỗ nó phản ánh sự vật tồn tại

trong một phạm vi có giới hạn, trong những điều kiện xác định về không gian và

thời gian, vì con người hoàn toàn có khả năng nhận thức được thế giới nhưng

không phải nhận thức diễn ra một lần là xong mà là quá trình đi từ chưa biết đầy

đủ đến biết đầy đủ hơn về sự vật và hiện tượng.

3. Quan hệ biện chứng giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.

- Chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối đều là chân lý khách quan.

- Chân lý tuyệt đối là tổng vô hạn các chân lý tương đối.

- Trong mỗi chân lý tương đối mặc dù là tương đối nhưng bao giờ cũng có

những yếu tố của chân lý tuyệt đối.

- Sự khác biệt giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối không thuộc về

bản chất mà ở mức độ phù hợp giữa chúng với khách thể. Sự khác biệt đó về mức

độ phù hợp giữa chúng với khách thể bao giờ cũng tồn tại, nhưng thường xuyên

được xóa bỏ trong quá trình tiến lên vô hạn của nhận thức.

- Khi thừa nhận sự thống nhất giữa chân lý tuyệt đối và chân lý tương đối,

điều đó cũng có nghĩa là sự thừa nhận tính cụ thể của chân lý.

4. Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:

- Thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất của chân lý. Nhờ thực tiễn, chúng ta phân

biệt được chân lý và sai lầm.

55

- Thực tiễn có vai trò như vậy, vì nó có ưu điểm của “tính phổ biến” và là

“hiện thực trực tiếp”, nhờ đó mà thực tiễn có thể “vật chất hóa’ được tri thức, biến

các tri thức thành các khách thể vật chất có tính xác thực cảm tính.

- Tiêu chuẩn thực tiễn vừa mang tính tuyệt đối vừa mang tính tương đối.

Tuyệt đối vì nó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất; tương đối vì bản thân thực tiễn

luôn luôn biến đổi, phát triển. Sự biến đổi này dẫn đến chỗ tiếp tục bổ sung, phát

triển những tri thức đã có trước đó.

Phần B

CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ XÃ HỘI

Câu 23: Khái niệm quy luật xã hội? Phân tích mối quan hệ giữa quy

luật xã hội và hoạt động có ý thức của con người.

- Khái niệm quy luật xã hội:

Quy luật phát triển của xã hội là những mối liên hệ khách quan, bản chất và

tất yếu, lặp đi lặp lại giữa các hiện tượng của đời sống xã hội.

Con người tự làm ra lịch sử của mình, nói cách khác lịch sử loài người là

những hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của bản thân mình.

Trong xã hội, con người (dân tộc, giai cấp, đảng phái,..) hành động một cách

có ý thức, theo đuổi những mục đích nhất định, do những tư tưởng dẫn dắt. Nhưng

bản thân các hệ tư tưởng đều phản ánh những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã

hội.

Trong xã hội, con người phải quan hệ với nhau và trong vô vàn các mối

quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên, thì quan hệ sản

xuất là quan hệ cơ bản, nền tảng, mà các quan hệ sản xuất lại thuộc về lĩnh vực đời

sống vật chất của xã hội, nghĩa là nó tồn tại một cách khách quan tất yếu, độc lập

với ý chí của cá nhân, tập đoàn, giai cấp trong xã hội.

56

Các hiện tượng đa dạng của xã hội dù có vẻ ngẫu nhiên đến đâu, rốt cuộc

cũng tuân theo một khuynh hướng chung nhất định, tức là vẫn thể hiện tính quy

luật.

- Đặc điểm của quy luật xã hội:

+ Quy luật tự nhiên diễn ra một cách tự động không có sự tác động của con

người. Quy luật xã hội diễn ra thông qua hoạt động của con người có ý thức,

nhưng không phụ thuộc vào ý thức con người.

+ Quy luật xã hội không biểu hiện ra trực tiếp ở từng hiện tượng đơn lẻ, từng

con người mà thường biểu hiện ra như một xu hướng. Do đó, nếu không gian càng

rộng, thời gian càng dài thì quy luật biểu hiện càng rõ.

+ Sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở của các

quy luật xã hội.

+ Quy luật xã hội phát huy tác dụng trong những điều kiện cụ thể, những

điều kiện đó không ngừng thay đổi, từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái

kinh tế-xã hội khác. Trong một hình thái kinh tế-xã hội thì các điều kiện ở mỗi

nước cũng khác nhau, do đó quy luật phát huy tác dụng khác nhau.

- Mối quan hệ giữa quy luật xã hội và hoạt động của con người có ý thức:

Khẳng định sự tồn tại và tác động của các quy luật xã hội trong quá trình

lịch sử thì điều đó không có nghĩa là phủ nhận vai trò của những hoạt động có ý

thức của con người. Trái lại, sự phát triển của lịch sử đã xác nhận vai trò ngày càng

tăng lên của nhân tố chủ quan, những hoạt động có ý thức của con người.

Quy luật xã hội hình thành và chi phối một cách tất yếu các hoạt động của

con người, nói cách khác, tất cả mọi hoạt động của con người đều phải đối mặt với

tính tất yếu, quy luật. Do đó, con người muốn đạt đến tự do trong hoạt động của

mình, con người phải xử lý đúng mối quan hệ giữa tự do và tất yếu.

“Hoạt động tự do, có ý thức là đặc tính của con người” (C.Mác, Ăngghen

tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.118). Nhưng tự do không phải là độc

57

lập với quy luật, bất chấp quy luật mà là nhận thức đúng quy luật và vận dụng các

quy luật để cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội để thỏa mãn nhu cầu của mình.

Ăngghen viết: “Tự do không phải là ở sự độc lập tưởng tượng đối với các

quy luật của tự nhiên, mà là ở sự nhận thức được những quy luật đó và ở cái khả

năng - có được nhờ sự nhận thức này - buộc những quy luật đó tác động một cách

có kế hoạch nhằm những mục đích nhất định. Điều đó là đúng với những quy luật

của tự nhiên bên ngoài, cũng như đối với những quy luật chi phối tồn tại vật chất

và tinh thần của bản thân con người, hai loại quy luật mà chúng ta nhiều lắm cũng

chỉ có thể tách cái nọ ra khỏi cái kia trong quan niệm chứ không thể tách ra trong

thực tế được. Như vậy tự do của ý chí chẳng qua chỉ là cái năng lực quyết định một

cách hiểu biết” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1984, T.5,

tr.163).

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tự do là một sản phẩm của lịch sử. Ở

buổi đầu của lịch sử do chưa có hiểu biết, con người là “nô lệ” của giới tự nhiên,

nhưng càng ngày con người càng có nhận thức sâu sắc về các quy luật của tự

nhiên, quy luật của xã hội, vận dụng các quy luật để cải tạo tự nhiên và cải tạo xã

hội theo đúng tính tất yếu của nó. Và do đó, hoạt động của con người càng tự do

hơn. Tự do là cái tất yếu được nhận thức.Tức tự do là nắm vững và hành động phù

hợp với tất yếu.

Câu 24: Khái niệm phương thức sản xuất? Tại sao nói phương thức sản

xuất là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội?

Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất

trong một giai đoạn lịch sử nhất định, theo cách đó con người có những quan hệ

nhất định với tự nhiên và với nhau trong sản xuất.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng, lịch sử xã hội loài người trước

hết là lịch sử phát triển của sản xuất, lịch sử vận động của các phương thức sản

xuất lần lượt thay thế nhau, là lịch sử của quần chúng nhân dân lao động trực tiếp

sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Do đó, muốn hiểu lịch sử phát triển của xã

58

hội loài người, trước hết phải hiểu lịch sử phát triển của sản xuất, hiểu quá trình

sản xuất của con người qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.

Xã hội là một bộ phận đặc thù của giới tự nhiên, vận động và phát triển theo

quy luật đặc thù của nó. Tuy nhiên, giữa xã hội và tự nhiên thường xuyên diễn ra

sự trao đổi vật chất. Sự trao đổi đó được thực hiện trong quá trình lao động sản

xuất của con người. Như vậy, nếu tách lịch sử xã hội loài người với lịch sử phát

triển của sản xuất vật chất thì sẽ không thể nào hiểu được loài người phải trải qua

những hình thái kinh tế-xã hội từ thấp lên cao.

Sản xuất vật chất là lực lượng chủ yếu và là động lực cơ bản thúc đẩy lịch sử

phát triển, xã hội tiến lên. Đó là điều kiện quyết định của đời sống con người, là

yêu cầu tất yếu khách quan đối với sự sinh tồn của xã hội. Xã hội không thể thỏa

mãn nhu cầu của mình bằng cái đã có sẵn trong giới tự nhiên, để duy trì đời sống

của mình, con người phải tiến hành sản xuất của cải vật chất. Vì thế, sản xuất của

cải vật chất là một điều kiện cơ bản của mọi xã hội, là một hành động lịch sử mà

loài người phải duy trì từ xưa đến nay.

Xã hội là một hệ thống và trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, tính chất

và kết cấu xã hội không phải do nguyện vọng và ý chí của cá nhân, tập đoàn, cũng

không do hình thức nhà nước pháp quyền quy định mà do phương thức sản xuất

quyết định. Phương thức sản xuất thống trị trong mỗi xã hội quyết định tính chất

của chế độ xã hội; các giai cấp, kết cấu giai cấp và tính chất của các mối quan hệ

giữa các giai cấp, cũng như các quan điểm về chính trị pháp quyền, đạo đức, triết

học…

Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có phương thức sản xuất đặc thù của nó. Và sự

thay thế của các phương thức sản xuất khác nhau chính là cơ sở của sự thay thế của

các hình thái kinh tế-xã hội nối tiếp nhau. Điều này chứng tỏ, phương thức sản

xuất giữ vai trò quyết định trong sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai

đoạn lịch sử khác nhau. Mỗi khi phương thức sản xuất mới ra đời, giai cấp mới lên

cầm quyền, kết cấu kinh tế xã hội thay đổi thì những quan hệ xã hội về mặt chính

trị, pháp quyền, tư tưởng, đạo đức,.. cũng biến đổi theo.

59

Với ý nghĩa nói trên mà C.Mác đã nhấn mạnh: “Do có được những lực

lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình, và do thay

đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả

những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh

chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”

(C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.380).

Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của sản xuất, lịch sử của các

phương thức sản xuất vận động phát triển và thay thế nhau từ thấp lên cao.

Câu 25: Phân tích nội dung quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản

xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Từ đó rút ra ý nghĩa của

việc vận dụng quy luật này trong thực tiễn ở nước ta hiện nay.

Bất cứ phương thức sản xuất ở một giai đoạn phát triển lịch sử nào cũng đều

bao gồm hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất - là

biểu hiện mối quan hệ giữa người và tự nhiên trong quá trình sản xuất; quan hệ sản

xuất - là biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.

C.Mác đã chỉ rõ: “Trong sản xuất, con người không chỉ có quan hệ với tự nhiên mà

còn phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau, và chỉ trong phạm vi

những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có tác động vào tự nhiên, vào sản

xuất được”.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản

xuất, chúng phản ánh hai mối quan hệ khác nhau, đặc trưng phát triển không giống

nhau, nhưng chúng có mối liên hệ hữu cơ không thể tách rời và tác động biện

chứng lẫn nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người:

Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực

lượng sản xuất. Quy luật này vạch rõ sự quy định, phụ thuộc lẫn nhau giữa lực

lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất giữ vai trò quyết

định.

- Kết cấu của lực lượng sản xuất:

60

Lực lượng sản xuất bao gồm ba yếu tố cấu thành: Người lao động (lứa tuổi,

sức khỏe, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, năng lực), tư liệu sản xuất và

khoa học kỹ thuật công nghệ. Trong đó người lao động là nhân tố quyết định của

lực lượng sản xuất.

- Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất:

Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và của lao

động, là kết tinh sức lao động xã hội trong từng đơn vị sản phẩm do quá trình sản

xuất tạo ra. Nếu công cụ thủ công thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân, nếu

công cụ là máy móc thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa.

Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển của công cụ lao động,

của kỹ thuật, trình độ kinh nghiệm, kỹ năng lao động của người lao động, qui mô

sản xuất, trình độ phân công lao động xã hội…

- Quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển dưới ảnh hưởng

quyết định của lực lượng sản xuất.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định rằng sự thay đổi và phát triển của bất

cứ một phát triển sản xuất nào bao giờ cũng bắt đầu bằng sự thay đổi và phát triển

của các lực lượng sản xuất.

Trong quá trình sản xuất để đạt được năng suất lao động cao hơn, con người

luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động

mới tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động, kinh

nghiệm sản xuất, kỹ năng lao động, kiến thức khoa học,.. của người lao động cũng

không ngừng tăng lên.

Mặt khác, trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là

nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó, trong mối quan hệ đó nội

dung là quyết định. Nội dung biến đổi kéo theo sự biến đổi của hình thức.

Do đó lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, không ổn định nhất, yếu tố

cách mạng nhất của quá trình sản xuất vật chất. Sự biến đổi của lực lượng sản xuất,

trước hết là sự biến đổi của công cụ sản xuất đã dẫn đến sự biến đổi trong các quan

61

hệ sản xuất giữa người và người. Điều đó cho thấy công cụ sản xuất không những

là thước đo trình độ phát triển của các lực lượng sản xuất, mà còn là dấu hiệu báo

trước quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế giữa người với người cũng biến đổi theo.

C.Mác viết: “Phương thức sản xuất, những quan hệ trong đó các lực lượng sản xuất

phát triển, đều không phải là những quy luật vĩnh viễn, mà chúng thích ứng với sự

phát triển nhất định của con người và của những lực lượng sản xuất của con người,

và một sự thay đổi trong lực lượng sản xuất của con người tất phải dẫn đến một sự

thay đổi trong những quan hệ sản xuất của con người” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập,

Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, T.1, tr.396).

Điều đó chứng tỏ sự phát triển của lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất

cũng phát triển theo cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Sự phù hợp đó là động lực nội tại thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.

Tuy nhiên, lực lượng sản xuất có xu hướng phát triển nhanh hơn, còn quan hệ sản

xuất lại tương đối ổn định. Khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới,

quan hệ sản xuất không còn phù hợp với nó nữa, trở thành chướng ngại đối với sự

phát triển của lực lượng sản xuất, làm nảy sinh mâu thuẫn gay gắt giữa hai mặt của

phương thức sản xuất. Một cách tất yếu là quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ

sản xuất mới hình thành phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất

đã phát triển, mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.

Quan hệ sản xuất cũ bị xóa bỏ, quan hệ sản xuất mới hình thành, cũng đồng

thời sự diệt vong của phương thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của phương thức

sản xuất mới. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản

xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời là cơ sở khách quan của cuộc đấu tranh giai

cấp, đồng thời là tiền đề của các cuộc cách mạng xã hội.

Sự tác động của quy luật nói trên trong lịch sử đã làm cho xã hội chuyển từ

hình thái kinh tế-xã hội thấp lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn một cách biện

chứng.

- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:

62

Trong cấu trúc của phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức xã

hội mà lực lượng sản xuất luôn luôn phải dựa vào để phát triển. Tất nhiên quan hệ

sản xuất thường xuyên tác động trở lại với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc

kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Theo tính tất yếu khách quan, quan

hệ sản xuất lỗi thời sẽ bị thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính

chất và trình độ của lực lượng sản xuất.

Quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, bởi vì

quan hệ sản xuất quy định tính mục đích của quá trình sản xuất vật chất, quy định

hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân

phối của cải mà người lao động trực tiếp được hưởng. Tất cả những yếu tố nói trên

lại ảnh hưởng và quy định thái độ của quần chúng lao động - lực lượng sản xuất

chủ yếu của xã hội.

Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất theo chiều hướng tích

cực, khi quan hệ sản xuất là một hệ thống hoàn chỉnh gồm cả ba mối quan hệ: sở

hữu tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất, phân phối sản phẩm, đều phù hợp

với tính chất (trình độ) của lực lượng sản xuất.

Sự tác động của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ

của lực lượng sản xuất vào lịch sử đã đưa xã hội loài người phát triển qua các

phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản

chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.

Lịch sử xã hội loài người nói chung phát triển tuần tự từ thấp lên cao, nhưng

thực tiễn lịch sử đã chứng minh rằng nhiều nước đã bỏ qua một số phương thức

sản xuất để tiến lên phương thức sản xuất cao hơn.

Ở Việt Nam, để xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta

chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần với cơ chế thị trường

có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Như vậy việc bỏ

qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa về thực chất là bỏ qua chế độ chính trị tư

bản, chúng ta lại kế thừa những giá trị của chủ nghĩa tư bản với tư cách là lực

lượng sản xuất, để hướng nền sản xuất đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

63

Câu 26: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến

trúc thượng tầng của xã hội. Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng

tầng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

- Khái niệm cơ sở hạ tầng:

Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế

của một hình thái kinh tế-xã hội nhất định.

- Khái niệm kiến trúc thượng tầng:

Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm, tư tưởng xã hội, những

thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại giữa chúng hình thành trên một cơ sở

hạ tầng nhất định.

- Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng:

+ Mỗi hình thái kinh tế-xã hội có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của

nó. Do đó, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng mang tính lịch sử cụ thể, giữa

chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó cơ sở hạ tầng giữ vai trò

quyết định.

+ Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng thể

hiện:

Cơ sở hạ tầng nào sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy. Giai cấp nào chiếm địa

vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần.

Quan hệ sản xuất nào thống trị thì tạo ra kiến trúc thượng tầng chính trị tương ứng.

Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế quyết định tính chất mâu thuẫn trong lĩnh vực tư

tưởng.

Do đặc điểm nói trên, bất kỳ hiện tượng nào thuộc kiến trúc thượng tầng:

nhà nước, pháp luật, đảng phái chính trị, triết học, đạo đức,.. đều không thể giải

thích từ chính nó, bởi vì, chúng đều trực tiếp hoặc gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ

tầng và do cơ sở hạ tầng quyết định.

64

Những biến đổi căn bản trong cơ sở hạ tầng sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự

biến đổi căn bản trong kiến trúc thượng tầng. Sự biến đổi đó diễn ra trong từng

hình thái kinh tế-xã hội và rõ rệt hơn khi chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này

sang hình thái kinh tế-xã hội khác.

Khi cơ sở hạ tầng cũ mất đi thì kiến trúc thượng tầng do nó sinh ra cũng mất

theo, khi cơ sở hạ tầng mới ra đời thì một kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với

nó cũng xuất hiện. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự biến đổi đó diễn ra thông

qua cuộc đấu tranh giai cấp gay go phức tạp. Khi cuộc cách mạng xã hội xóa bỏ cơ

sở hạ tầng cũ thay thế bằng cơ sở hạ tầng mới, sự thống trị về chính trị của giai cấp

cách mạng được thiếp lập, bộ máy nhà nước mới hình thành, sự thống trị về tư

tưởng của giai cấp cách mạng cầm quyền được xác lập.

Sự biến mất của một kiến trúc thượng tầng không diễn ra một cách nhanh

chóng, có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ còn tồn tại dai dẳng sau khi

cơ sở kinh tế của nó đã bị tiêu diệt. Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng cũ

được giai cấp cầm quyền mới sử dụng để xây dựng kiến trúc thượng tầng mới.

Do đó, tính quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng diễn

ra rất phức tạp trong quá trình chuyển từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái

kinh tế-xã hội khác.

+ Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng:

Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng được thể

hiện ở chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và

phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, đấu tranh xóa bỏ cơ sở hạ tầng và kiến trúc

thượng tầng cũ.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, kiến trúc thượng tầng bảo đảm sự thống

trị chính trị và tư tưởng của giai cấp giữ địa vị thống trị trong kinh tế.

Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng, nhà nước giữ vai trò đặc biệt

quan trọng, có tác dụng to lớn đối với cơ sở hạ tầng. Nhà nước không chỉ dựa vào

hệ tư tưởng mà còn dựa vào chức năng kiểm soát xã hội để tăng cường sức mạnh

65

kinh tế của giai cấp thống trị. Ăngghen viết: “bạo lực (nghĩa là quyền lực nhà

nước) cũng là một lực lượng kinh tế” (C.Mác, Ăngghen tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà

Nội, 1971, T.II, tr.604).

Các bộ phận khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo,

nghệ thuật cũng tác động đến cơ sở hạ tầng, nhưng thường thường phải thông qua

nhà nước, pháp luật.

Kiến trúc thượng tầng là một hệ thống, nó có quá trình biến đổi phát triển do

sự tác động của các yếu tố nội tại, do đó nó có tính độc lập tương đối. Quá trình đó

phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sở hạ tầng

càng có hiệu quả.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, chỉ có kiến trúc thượng tầng tiến bộ

nảy sinh trong quá trình của cơ sở kinh tế mới - mới phản ánh nhu cầu của sự phát

triển kinh tế, mới có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu kiến trúc thượng

tầng là sản phẩm của cơ sở kinh tế đã lỗi thời thì gây tác dụng kìm hãm sự phát

triển kinh tế-xã hội. Tất nhiên sự kìm hãm chỉ là tạm thời, sớm muộn nó sẽ bị cách

mạng khắc phục.

+ Đặc điểm của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng trong thời kỳ quá độ

lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta:

Cơ sở hạ tầng trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần kinh

tế, các kiểu tổ chức kinh tế, các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với các hình thức sở

hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau, cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc

dân thống nhất.

Tương ứng với sự đồng nhất về bản chất kinh tế là sự tác động của nhiều hệ

thống quy luật kinh tế. Hệ thống quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa; hệ thống quy

luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa nhỏ và hệ thống quy luật kinh tế tư bản chủ

nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần

là Nhà nước xã hội chủ nghĩa tạo ra một hành lang pháp lý, tạo điều kiện cho sự

phát triển của các thành phần kinh tế, đồng thời Nhà nước sử dụng tổng thể các

biện pháp - trong đó biện pháp kinh tế là quan trọng nhất - nhằm từng bước xã hội

66

hóa nền sản xuất. Kinh tế Nhà nước không ngừng được củng cố và phát triển cả về

chất và về lượng ở những vị trí nòng cốt của nền kinh tế.

- Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa ở nước ta:

Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ

sở nền tảng của tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng.

Xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa mang bản chất giai cấp công

nhân, do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện

nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền lực thuộc về nhân dân.

Các tổ chức, thiết chế, các lực lượng xã hội tham gia vào hệ thống chính trị

xã hội chủ nghĩa là vì một mục tiêu chung, lợi ích chung, hướng tới mục tiêu xã

hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý kinh tế-xã hội

và mọi lĩnh vực hoạt động khác.

Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị-xã hội không tồn tại như

một mục đích tự thân mà vì phục vụ con người, vì lợi ích và quyền lực của nhân

dân lao động.

Câu 27: Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội? Vì sao nói sự phát triển của

các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.

- Khái niệm hình thái kinh tế-xã hội:

Hình thái kinh tế-xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng

để chỉ xã hội ở từng giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, với những quan hệ sản

xuất của nó (cơ sở hạ tầng) thích ứng với lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất

định và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất

đó.

Hình thái kinh tế-xã hội là một hệ thống, một chỉnh thể toàn vẹn có cơ cấu

phức tạp, trong đó có những mặt cơ bản nhất là lực lượng sản xuất, quan hệ sản

xuất và kiến trúc thượng tầng.

67

Lực lượng sản xuất – là quan hệ giữa người với tự nhiên trong quá trình sản

xuất - là nền tảng vật chất-kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế-xã hội. Xét đến cùng,

lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi hình thái kinh tế-

xã hội. Bản thân các lực lượng sản xuất không phải là sản phẩm riêng của một thời

đại nào mà là sản phẩm của cả một quá trình phát triển liên tục từ thấp lên cao qua

các thời đại, là sự tiếp biến không ngừng của lịch sử.

Quan hệ sản xuất - quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất - là

những quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác, không

có những mối quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội.

Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt xã hội cụ thể này với xã

hội cụ thể khác.

Những quan hệ sản xuất là bộ xương của cơ thể xã hội hợp thành cơ sở hạ

tầng và trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng tương ứng mà chức năng xã hội

của nó là bảo vệ, duy trì và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.

Ngoài các quan hệ cơ bản: lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc

thượng tầng, trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội còn có những quan hệ dân tộc, gia

đình,..

- Sự phát triển của các hình thái kinh tế–xã hội là một quá trình lịch sử tự

nhiên.

C.Mác viết: “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế-xã hội là một

quá trình lịch sử tự nhiên” (C.Mác, Tư bản, quyển 1, T.1, Nxb Sự thật, Hà Nội,

1973, tr.20).

Hình thái kinh tế-xã hội được xem như là một cơ thể, một hệ thống hoàn

chỉnh luôn luôn vận động và phát triển. Đó là hệ thống các quan hệ xã hội, bao

gồm những quan hệ vật chất và quan hệ tư tưởng. Quan hệ tư tưởng được xây dựng

trên những quan hệ vật chất-quan hệ hình thành ngoài ý chí và ý thức của con

người, như một kết quả của sự hoạt động của con người để đảm bảo sự sinh tồn

của mình.

68

Học thuyết hình thái kinh tế–xã hội cho phép đi sâu vào bản chất của quá

trình lịch sử, hiểu được logic khách quan của quá trình đó, nhìn thấy sự phát triển

của xã hội loài người như là một quá trình lịch sử tự nhiên, một quá trình diễn ra

nhiều mặt và chứa đầy mâu thuẫn, quá trình vận động hợp với quy luật khách

quan. Đó là những quy luật nội tại, tự thân trong cấu trúc của hình thái kinh tế-xã

hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực

lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng.

Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã và đang trải qua năm hình thái

kinh tế-xã hội khác nhau: cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư

bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Chủ nghĩa duy vật lịch sử cho rằng, mỗi hình

thái kinh tế-xã hội đều có những quy luật riêng của nó khi nó phát sinh, phát triển

và chuyển sang một hính thái khác cao hơn. Đồng thời cũng khẳng định đến sự tồn

tại của những quy luật phản ánh những đặc điểm chung của mọi hình thái kinh tế-

xã hội, những quy luật phổ biến phát huy tác dụng trong tất cả các giai đoạn phát

triển của lịch sử, trong tất cả các hình thái kinh tế-xã hội.

Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động phát triển của các hình

thái kinh tế-xã hội, quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và

trình độ của lực lượng sản xuất có vai trò quyết định nhất. Con người làm ra lực

lượng sản xuất bằng năng lực thực tiễn của mình. Tuy nhiên, năng lực thực tiễn lại

bị quy định bởi nhiều điều kiện khách quan. Mỗi thế hệ làm ra lực lượng sản xuất

của mình phải dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được của thế hệ trước ở

hình thái kinh tế-xã hội trước đó. Vì vậy, bản thân các lực lượng sản xuất không

phải là sản phẩm riêng của thời đại nào, mà là sản phẩm của cả một quá trình phát

triển liên tục từ thấp lên cao qua các hình thái kinh tế-xã hội. Nhưng, chính tính

chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan tính chất

và trình độ của quan hệ sản xuất, do đó, xét đến cùng lực lượng sản xuất quyết

định quá trình vận động phát triển của hình thái kinh tế-xã hội như một quá trình

lịch sử tự nhiên.

69

Sự vận động phát triển thay thế nhau của các hình thái kinh tế-xã hội từ thấp

lên cao trước hết được giải thích bằng sự tác động của quy luật về sự phù hợp của

quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản

xuất, một mặt của phương thức sản xuất, là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự

phát triển tiến lên của lịch sử. Quan hệ sản xuất là mặt thứ hai của phương thức sản

xuất biểu hiện tính gián đoạn trong sự phát triển của lịch sử.

Lịch sử loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các hình thái

kinh tế-xã hội, nhưng lịch sử cụ thể vô cùng phong phú, không thể xem quá trình

lịch sử là một công thức hoặc như một đường thẳng. Thực tế lịch sử diễn ra những

hình thức quá độ khác nhau của các dân tộc, một số dân tộc phải trải qua tuần tự

các hình thái kinh tế-xã hội, một số dân tộc lại bỏ qua một số hình thái để đạt được

những bước phát triển nhanh hơn.

Nhân loại hiện nay đang và sẽ trải qua hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ

nghĩa. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa có ba giai đoạn phát triển: Thời

kỳ quá độ từ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa xã hội; Chủ nghĩa

cộng sản.

Câu 28: Phân tích định nghĩa về giai cấp của Lênin và rút ra ý nghĩa

của định nghĩa đối với việc xem xét vấn đề giai cấp ở nước ta hiện nay.

1. Những quan điểm về giai cấp trong lịch sử:

Quan điểm về giai cấp được hình thành khá sớm trong lịch sử. Ở Trung

Quốc, từ thế kỷ IV, III tcn người ta đã thừa nhận rằng xã hội phân chia thành giai

cấp là một thực tế. Nhưng do nguyên nhân gì mà xã hội phân chia thành giai cấp

thì có nhiều quan niệm khác nhau.

Nhiều nhà triết học, xã hội học của giai cấp bóc lột đã cắt nghĩa sự phân chia

xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân chủ quan, do những yếu tố tinh thần. Do

chỗ họ không đưa ra được những tiêu chuẩn khoa học để phân định sự khác nhau

về giai cấp nên đã cho rằng: Sự khác nhau về giai cấp là do khác nhau về chủng

tộc, về màu da, về tâm lý, về tài năng cá nhân, về địa vị và uy tín xã hội. Từ đó các

70

nhà tư tưởng của các giai cấp bóc lột kêu gọi đi tìm những giá trị xã hội, đạo đức,..

để hòa hợp giai cấp. Đó là quan điểm duy tâm về vấn đề giai cấp.

Bên cạnh những quan điểm duy tâm nói trên, cũng có những quan điểm có

căn cứ thuyết phục hơn. Chẳng hạn ở Hy Lạp, Platon cho rằng: Sự độc quyền quá

lớn về của cải trong tay giai cấp quý tộc là nguy hiểm về mặt chính trị, vì nó đẻ ra

những mâu thuẫn hết sức sâu sắc.

Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản với giai

cấp địa chủ, quý tộc xuất hiện, quan niệm về giai cấp cũng như đấu tranh giai cấp

trở nên rõ ràng hơn. Tômátmorơ (ở Anh), Tômađô Campanela (ở Italia) và Rútxô

(ở Pháp) cũng đã nhìn thấy quyền tư hữu là gốc rễ của nhiều tai họa. Xanhximông

(ở Pháp) còn đi xa hơn, ông cho rằng xác lập quyền sở hữu là cơ sở của kiến trúc

xã hội, rằng lịch sử xã hội loài người là sự thay đổi những tiêu chuẩn của xã hội

khác nhau dựa trên chế độ sở hữu.

Tuy nhiên, công lao phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp được

gắn liền với tên tuổi các nhà sử học Pháp như Phờrăngxoa Ghidô, Ôguýtxtanh,

Chieri và Phờrăngxoa Milê, mặc dầu họ chưa lý giải được một cách khoa học về

vấn đề giai cấp cũng như đấu tranh giai cấp. Theo quan điểm của các nhà sử học

Pháp thì sự thay đổi về quan hệ tài sản, chủ yếu là quan hệ về ruộng đất đã đưa tới

mối quan hệ giai cấp mới và sự thay đổi về quan hệ chính trị. Những tư tưởng của

các nhà sử học Pháp tiến bộ đã được Mác, Ăngghen đánh giá cao. Mác nói rằng,

bản thân ông không có công trong việc phát hiện vấn đề giai cấp. Lênin cũng đã

nhấn mạnh: “Thuyết đấu tranh giai cấp không phải là do Mác mà do giai cấp tư

bản trước Mác sáng tạo ra”. Cống hiến to lớn của Mác, Ăngghen về vấn đề giai cấp

là ở chỗ: Mác đã đưa lại một quan niệm khoa học về giai cấp; xem xét vấn đề giai

cấp trên cơ sở quan điểm duy vật về lịch sử.

Trong tác phẩm của mình, Mác và Ăngghen đã chỉ rõ: Giai cấp chỉ xuất hiện

trên cơ sở sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định. Sự phân

chia xã hội thành giai cấp là do nguyên nhân kinh tế mà trực tiếp là sự chiếm hữu

tư nhân về tư liệu sản xuất. Chủ nghĩa Mác không chỉ nhìn thấy nguồn gốc của sự

71

phân hóa giai cấp là do nguyên nhân kinh tế mà còn nhìn thấy đặc trưng cơ bản của

các giai cấp cũng là đặc trưng kinh tế.

Kế thừa tư tưởng của nhân loại, đặc biệt là tư tưởng duy vật lịch sử của Mác

và Ăngghen, Lênin đã đưa ra một định nghĩa về giai cấp.

2. Định nghĩa của Lênin về giai cấp:

Trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” Lênin đã định nghĩa về giai cấp như sau:

“Người ta gọi là giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác

nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử;

khác nhau về quan hệ của họ (thường thường những quan hệ này được pháp luật

quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất; về vai trò của họ trong tổ

chức lao động xã hội và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần

của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.

Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này thì có thể chiếm đoạt lao

động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế

độ kinh tế, xã hội nhất định”.

Từ định nghĩa của Lênin, chúng ta có thể rút ra những đặc trưng cơ bản về

giai cấp sau đây:

a. Giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị khác nhau trong một hệ

thống sản xuất xã hội nhất định.

Điều này có nghĩa là sự phân chia giai cấp gắn liền với hệ thống sản xuất xã

hội nhất định. Trong xã hội, có những hệ thống sản xuất chứa đựng trong lòng nó

những yếu tố làm nảy sinh giai cấp như hệ thống sản xuất xã hội nô lệ, hệ thống

sản xuất xã hội phong kiến, hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ngược lại, có

những hệ thống sản xuất xã hội không chứa đựng trong lòng nó những yếu tố phân

chia giai cấp như hệ thống sản xuất xã hội cộng sản nguyên thủy, hệ thống sản xuất

của xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu gọi là chủ nghĩa xã hội.

Hệ thống sản xuất xã hội quy định địa vị của các giai cấp, có giai cấp giữ địa

vị thống trị, có giai cấp giữ địa vị bị thống trị. Trong các xã hội như nô lệ, phong

72

kiến, tư bản chủ nghĩa thì có giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị. Ngược lại,

trong các hệ thống sản xuất xã hội như cộng sản nguyên thủy, cộng sản chủ nghĩa

thì mọi người bình đẳng, không có giai cấp nên không có cái gọi là giai cấp thống

trị và giai cấp bị thống trị. Những giai cấp có địa vị thống trị hay không có địa vị

thống trị nền sản xuất xã hội là do các giai cấp chiếm đoạt được, hay không chiếm

đoạt được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nghĩa là chế độ sỡ hữu về tư

liệu sản xuất quy định địa vị của các giai cấp trong nền sản xuất xã hội.

b. Các giai cấp có quan hệ khác nhau về quyền sỡ hữu đối với tư liệu sản

xuất.

Đặc trưng này nói lên rằng trong xã hội, nếu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã

hội chỉ thuộc quyền sở hữu của một giai cấp nào đó, còn các giai cấp khác không

có quyền sở hữu đó thì quan hệ giữa các giai cấp là hoàn toàn bất bình đẳng. Nghĩa

là giai cấp nào chiếm đoạt được những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai

cấp ấy sẽ giữ quyền thống trị nền sản xuất xã hội, giữ quyền tổ chức quản lý sản

xuất và cùng giữ quyền phân phối sản phẩm do xã hội tạo ra. Đây chính là vấn đề

đã được nêu ra là: giai cấp xuất hiện do nguyên nhân kinh tế mà trực tiếp là do chế

độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất quy định. Đây là đặc trưng không chỉ vạch ra

nguồn gốc ra đời của giai cấp mà còn là đặc trưng chi phối các đặc trưng khác.

c. Các giai cấp có vai trò khác nhau trong việc tổ chức lao động xã hội.

Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ hai nói trên quy định. Nghĩa là trong xã

hội, giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp

ấy sẽ giữ lấy quyền tổ chức, quản lý nền sản xuất xã hội, còn những giai cấp không

có tư liệu sản xuất thì chỉ là những giai cấp làm thuê bán sức lao động mà thôi.

d. Các giai cấp có những phương thức và qui mô thực tiễn nhập khác nhau

về của cải của xã hội.

Đặc trưng này cũng do đặc trưng thứ hai quy định. Nghĩa là trong xã hội,

giai cấp nào chiếm đoạt những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì giai cấp ấy

không những giữ địa vị thống trị hệ thống sản xuất xã hội, giữ lấy quyền tổ chức,

quản lý sản xuất, mà còn giữ quyền phân phối sản phẩm.

73

Bốn đặc trưng cơ bản nêu trên có quan hệ biện chứng với nhau, trong đó đặc

trưng thứ hai là cơ bản nhất. Thiếu một trong bốn đặc trưng, nhất là đặc trưng hai

thì không thể giải thích đúng về giai cấp.

3. Ý nghĩa của định nghĩa đối với việc xem xét vấn đề giai cấp ở nước ta

hiện nay.

Ở nước ta hiện nay đang thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua

chế độ tư bản chủ nghĩa. Quá trình đó nhất thiết phải phát triển nền kinh tế hàng

hóa nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất khác nhau.

Song cần thấy rằng sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể vẫn là sở hữu cơ bản chiếm

ưu thế so với hình thức sở hữu khác. Tất cả các thành phần kinh tế quốc doanh,

kinh tế hợp tác, cá thể và tư bản tư nhân,.. đều tồn tại bình đẳng và hoạt động trong

khuôn khổ chính sách, pháp luật của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ta phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, trong đó có thành phần

kinh tế tư bản tư nhân mà theo cách nói của Lênin là sử dụng chủ nghĩa tư bản Nhà

nước làm khâu trung gian để đưa nền sản xuất nhỏ đi lên xã hội chủ nghĩa. Điều

này dĩ nhiên nảy sinh mâu thuẫn khách quan giữa hai khuynh hướng phát triển

kinh tế: một là sự phát triển được thực hiện tự giác (chủ động, có sự điều khiển, có

mục đích) theo định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là khuynh hướng tự phát phát

triển tư bản chủ nghĩa. Do vậy cuộc đấu tranh cho mục tiêu xã hội chủ nghĩa của

chúng ta hiện nay là đấu tranh chống khuynh hướng tự phát của tư bản chủ nghĩa.

Từ đó giúp ta nhận thức rằng, sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng xã hội ta hiện nay

không còn sự khác biệt giai cấp, không còn mâu thuẫn giai cấp. Thực tế hiện nay,

Việt Nam đang tồn tại sự khác biệt giữa các giai cấp công nhân, nông dân, tư sản

và các tầng lớp khác. Nhưng cũng sẽ là hết sức sai lầm phân chia giai cấp thành hai

lực lượng xã hội đối lập. Đương nhiên khi còn thành phần kinh tế tư bản tư nhân

thì vẫn còn mâu thuẫn giữa lao động và tư bản. Song tính chất của mâu thuẫn này

đã khác trước do hoàn cảnh xã hội ta đã có những thay đổi căn bản. Ở đây, sự phát

triển của giai cấp tư sản từ “tự nó” đến “vì nó” không còn là cái tất yếu khách quan

trong xã hội ta. Còn giai cấp công nhân dù lao động ở thành phần kinh tế nào cũng

74

có quyền làm chủ đất nước. Mâu thuẫn giữa tư bản và công nhân được giải quyết

từng bước bằng sự quản lý của Nhà nước. Sự khác biệt giai cấp ở Việt Nam hiện

nay là chưa có sự bình đẳng tuyệt đối về lợi ích kinh tế giữa các giai cấp, nhưng lại

có sự thống nhất về lợi ích cơ bản (quyền lực chính trị) giữa công nhân, nông dân

và các tầng lớp khác.

Tóm lại: cần vận dụng quan điểm mác-xít về giai cấp một cách sáng tạo vào

hoàn cảnh nước ta, có vậy mới tránh được những khuynh hướng cực đoan sai lầm

như quan điểm hữu khuynh mơ hồ, cũng như quan điểm tả khuynh giáo điều về

giai cấp.

Câu 29: Đấu tranh giai cấp là gì? Phân tích vai trò của đấu tranh giai

cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.

1. Đấu tranh giai cấp là gì?

Học thuyết Mác đã chỉ rõ: “ Đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa những tập

đoàn mà lợi ích căn bản đối lập nhau và kết cục của cuộc đấu tranh giai cấp là đi

đến một cuộc cách mạng xã hội để thay thế chế độ xã hội này bằng một chế độ xã

hội khác tiến bộ hơn”.

Hiểu vắn tắt: đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích

căn bản đối lập nhau (lợi ích căn bản nói ở đây là lợi ích kinh tế, lợi ích cơ bản là

quyền lực chính trị).

Như vậy, nguyên nhân của cuộc đấu tranh giai cấp là do sự đối lập nhau về

địa vị kinh tế và mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa các giai cấp mà sinh ra.

Đấu tranh giai cấp không phải là do “sự hiểu lẩm”, “sự không hiểu biết lẫn

nhau giữa các giai cấp”; “do chính sách không khôn khéo của nhà cầm quyền trong

xã hội”, hoặc do “sự xúi dục của những phần tử ác ý”,.. như quan niệm của các nhà

tư tưởng của các giai cấp bóc lột thường nêu ra để che đậy nguyên nhân của đấu

tranh giai cấp.

Cũng cần thấy thêm rằng: trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh của

cá nhân trong giai cấp này chống cá nhân trong giai cấp khác mới chỉ là mầm

75

mống của đấu tranh giai cấp chứ chưa quan niệm đó là đấu tranh giai cấp. Chỉ thực

sự là đấu tranh giai cấp khi những cá nhân đó nhận thức một cách tự giác, thông

qua những hoạt động có ý thức, có tổ chức của mình nhằm góp phần lật đổ giai cấp

thống trị bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Chẳng hạn, trong xã hội tư bản chủ

nghĩa, đấu tranh của một người công nhân chỉ trở thành đấu tranh giai cấp khi nó

nằm trong cuộc đấu tranh chung của toàn bộ giai cấp công nhân, chống lại toàn bộ

giai cấp tư sản, nhằm lật đổ nền thống trị của giai cấp tư sản.

2. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có giai

cấp đối kháng.

Trong các xã hội có giai cấp đối kháng (chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư

bản chủ nghĩa) thì đấu tranh giai cấp là một trong những động lực thúc đẩy sự phát

triển của xã hội. Vai trò là động lực thể hiện ở những điểm sau đây:

- Thông qua cuộc đấu tranh giai cấp thì mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất

mới với quan hệ sản xuất lỗi thời sẽ được giải quyết, từ đó thực hiện bước quá độ

từ một chế độ xã hội lỗi thời sang một chế độ xã hội mới tiến bộ hơn.

Như đã biết: sự phát triển của xã hội xét đến cùng là do sự phát triển của lực

lượng sản xuất quyết định. Nhưng sự phát triển của lực lượng sản xuất lại phụ

thuộc vào việc lực lượng sản xuất mới có gạt bỏ được những quan hệ lỗi thời đang

kìm hãm nó hay không. Nếu như không gạt bỏ được quan hệ sản xuất lỗi thời thì

chứa đựng mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi

thời đang kìm hãm nó. Mà mâu thuẫn giữa các lực lượng sản xuất mới và quan hệ

sản xuất lỗi thời, biểu hiện về mặt xã hội chính là mâu thuẫn giữa giai cấp đại diện

cho lực lượng sản xuất mới và giai cấp đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời. Mâu

thuẫn đó chỉ có thể được giải quyết bằng một cuộc đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao

là một cuộc cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, xác lập quan

hệ sản xuất mới tiến bộ, từ đó làm cho xã hội phát triển đi lên. Do vậy mà nói, đấu

tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng.

- Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội có giai cấp đối kháng

không chỉ thể hiện trong thời kỳ cách mạng xã hội mà còn thể hiện trong cả thời kỳ

76

hòa bình. Trong thời kỳ hòa bình, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng thúc đẩy

sự phát triển của lực lượng sản xuất. Chẳng hạn đấu tranh của giai cấp công nhân

chống giai cấp tư sản tăng lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động đã buộc các

chủ tư sản phải chú ý sử dụng kỹ thuật hoàn thiện hơn để nâng cao năng suất lao

động, qua đó để rút ngắn thời gian lao động cần thiết cho công nhân, khi phong

trào đấu tranh của công nhân đang đòi hỏi phải giảm bớt thời gian lao động. Các

Mác có nhận xét rằng: ở nước Anh kể từ năm 1825 sự phát sinh và sử dụng máy

móc chỉ là kết quả của cuộc đấu tranh giữa công nhân và chủ các xí nghiệp. Hoặc

những cải cách tiến bộ ở một số nước nào đó cũng là kết quả của cuộc đấu tranh

giai cấp ở trong nước và áp lực của đấu tranh giai cấp ở các nước khác trên thế giới

tạo ra. Như thế chứng tỏ trong thời kỳ hòa bình, đấu tranh giai cấp vẫn có tác dụng

thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà sự phát triển của lực lượng sản

xuất lại là nguyên nhân sâu xa của sự phát triển xã hội.

- Đấu tranh giai cấp không chỉ có tác dụng cải tạo xã hội, xóa bỏ các lực

lượng xã hội phản động mà còn có tác dụng cải tạo cả bản thân các giai cấp cách

mạng. Vì qua đấu tranh giai cấp, các giai cấp cách mạng được tôi luyện và trưởng

thành lên về nhiều mặt như tư tưởng, lý luận, tổ chức,.. để đương đầu và chiến

thắng giai cấp đối kháng.

Tóm lại: Đấu tranh giai cấp là một trong những động lực phát triển của xã

hội có giai cấp đối kháng. Đấu tranh giai cấp là quy luật chung, phổ biến của mọi

xã hội có phân chia giai cấp. Song quy luật này lại có những biểu hiện đặc thù

trong từng xã hội cụ thể do kết cấu giai cấp trong xã hội, do địa vị lịch sử của giai

cấp cách mạng trong từng phương thức sản xuất, do tương quan lực lượng giai cấp

trong từng giai đoạn và trên từng địa bàn quyết định. Do vậy, muốn hiểu đúng quy

luật đấu tranh giai cấp còn phải phân tích cụ thể những điều kiện lịch sử cụ thể.

Câu 30: Phân tích quan điểm của triết học Mác-Lênin về nguồn gốc và

bản chất của Nhà nước.

Nhà nước là gì?

77

Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế lập ra nhằm

bảo vệ chế độ kinh tế hiện có và đàn áp các giai cấp khác.

Nhà nước là cơ quan quyền lực chính trị của giai cấp thống trị, là một tổ

chức quan trọng nhất trong các tổ chức chính trị của giai cấp cầm quyền dùng để

thống trị xã hội.

Nhà nước là một phạm trù lịch sử, không đồng nghĩa với xã hội.

1. Nguồn gốc ra đời của Nhà nước.

Theo quan điểm của triết học Mác-Lênin thì nhà nước là một phạm trù lịch

sử, nghĩa là nhà nước chỉ ra đời và tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự

phát triển của lịch sử. Nhà nước sẽ mất đi khi những điều kiện tồn tại của nó không

còn nữa. Trong lịch sử đã có một thời kỳ rất dài chưa có nhà nước và sau này nhà

nước cũng sẽ mất đi khi điều kiện tồn tại của nó không còn.

Lịch sử phát triển của xã hội cho thấy rằng xã hội nguyên thủy, dựa trên chế

độ công hữu về tư liệu sản xuất, mọi người sống bình đẳng, chưa có giai cấp nên

chưa có nhà nước. Đến xã hội chiếm hữu nô lệ, với sự ra đời của chế độ tư hữu về

tư liệu sản xuất và xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng - chủ nô và nô lệ - thì

mâu thuẫn giữa giai cấp chủ nô thống trị bóc lột và giai cấp nô lệ bị thống trị, bị

bóc lột ngày càng sâu sắc. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp nô lệ chống lại giai

cấp chủ nô do vậy đã diễn ra ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Để bảo

vệ lợi ích của giai cấp mình, đàn áp sự phản kháng của giai cấp nô lệ và buộc họ

phải tuân theo trật tự do giai cấp mình đặt ra, giai cấp chủ nô đã lập ra một bộ máy

bạo lực, trấn áp, bộ máy đó là nhà nước.

Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Đó là nhà

nước xuất hiện trong cuộc đấu tranh không thể điều hòa được giữa giai cấp chủ nô

và giai cấp nô lệ.

Tiếp đó là nhà nước phong kiến và nhà nước tư bản chủ nghĩa mà sự xuất

hiện của nó cũng dựa trên mâu thuẫn đối kháng nói trên.

78

Như thế là bất kỳ ở đâu và lúc nào khi mà mâu thuẫn giai cấp không thể điều

hòa được thì ở đó nhà nước sẽ xuất hiện. Cũng như thế, nơi nào có nhà nước xuất

hiện và tồn tại thì chừng đó ở đó có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được.

Đó là nguồn gốc ra đời của Nhà nước.

Như Lênin đã viết: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu

thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà

về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được thì nhà

nước sẽ xuất hiện và ngược lại, sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu

thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”.

Như vậy sự ra đời của nhà nước là một tất yếu khách quan của xã hội có giai

cấp đối kháng. Sau này, khi xã hội không còn phân chia giai cấp, không còn mâu

thuẫn giai cấp đối kháng thì nhà nước cũng sẽ tự tiêu vong.

Hiện tại, nhà nước của giai cấp công nhân, gọi là nhà nước chuyên chính vô

sản là một hình thức nhà nước quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa của nó,

là nhà nước “nửa nhà nước” để tiến tới xã hội không còn phân chia giai cấp, không

còn nhà nước. Nhưng sự tồn tại của nhà nước chuyên chính vô sản trong thời kỳ

quá độ lại là một tất yếu vì nó là công cụ sắc bén trong tay giai cấp công nhân dùng

để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới.

2. Bản chất của nhà nước.

Nhà nước không phải là hiện tượng bẩm sinh, có sẵn, cũng không phải là

được sinh ra từ bên ngoài xã hội rồi áp đặt vào xã hội; cũng không phải là cái do ý

muốn chủ quan của một cá nhân hay một giai cấp nào đó quyết định, mà sự ra đời

và tồn tại của nhà nước là một tất yếu khách quan do nhu cầu phải kiềm chế sự đối

lập giữa các giai cấp, làm cho cuộc đấu tranh giữa các giai cấp có lợi ích kinh tế

đối kháng nhau không đi đến chỗ tiêu diệt nhau và giữ cho sự xung đột giai cấp

nằm trong vòng trật tự của nó, đó là trật tự duy trì chế độ kinh tế mà trong đó giai

cấp thống trị vẫn tiếp tục thống trị và bóc lột giai cấp bị thống trị.

Như vậy, bản chất của nhà nước là nền chuyên chính của một giai cấp này

đối với một giai cấp khác và đối với toàn xã hội. Đương nhiên giai cấp lập ra và sử

79

dụng bộ máy nhà nước thường là giai cấp có thế lực nhất, đó là giai cấp nắm trong

tay sức mạnh kinh tế và làm chủ tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nhờ có bộ

máy nhà nước mà giai cấp thống trị mặc dù là số ít trong dân cư nhưng lại duy trì

được sự thống trị áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị thống trị, dù chiếm

số đông trong xã hội.

Như Ăngghen đã nêu rõ: “Bản chất của nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ

máy trấn áp của một giai cấp này đối với một giai cấp khác, điều đó trong chế độ

cộng hòa dân chủ cũng hoàn toàn giống như trong chế độ quân chủ vậy”.

Với tư cách là bộ máy trấn áp của giai cấp này đối với giai cấp khác, nhà

nước của các giai cấp bóc lột không thể “là một tổ chức công bằng”, “một trọng tài

công minh” để bảo vệ lợi ích chung cho mọi giai cấp, cho giai cấp bóc lột và cả

giai cấp bị bóc lột. Mà nhà nước của các giai cấp bóc lột là bộ máy được lập ra

nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của giai cấp đó đối với giai cấp bị trị và

đối với quần chúng nhân dân lao động. Đó chính là bản chất của nhà nước của các

giai cấp bóc lột, nhà nước theo đúng nghĩa của nó. Với bản chất đó, nhà nước là

một bộ phận quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp.

Tất cả mọi hoạt động chính trị, văn hóa, xã hội do nhà nước tiến hành xét đến cùng

đều xuất phát từ lợi ích và nhằm để phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị.

Câu 31: Các kiểu và các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử. Đặc

điểm của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

1. Các kiểu và các hình thức nhà nước đã có trong lịch sử.

Nhà nước là một bộ phận quan trọng của kiến trúc thượng tầng. Nhà nước

bao giờ cũng được xây dựng trên một cơ sở kinh tế nhất định. Tùy thuộc vào nhà

nước đó là bộ máy thống trị của giai cấp nào, phục vụ cho cơ sở kinh tế nào và

tương ứng với hình thái kinh tế-xã hội nào mà có thể phân biệt các kiểu nhà nước

khác nhau. Trong lịch sử đã tồn tại ba kiểu nhà nước của ba giai cấp thống trị, bóc

lột khác nhau, đó là Nhà nước chiếm hữu nô lệ, Nhà nước phong kiến và Nhà nước

tư bản chủ nghĩa.

80

Mỗi kiểu nhà nước nói trên lại được thể hiện bằng những hình thức khác

nhau tùy theo bản chất của chế độ kinh tế, chính trị và tùy theo tương quan lực

lượng giữa các giai cấp trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, mà giai cấp thống trị

tổ chức nhà nước của mình theo những hình thức nhất định. Cụ thể:

a. Về kiểu nhà nước chiếm hữu nô lệ:

Đây là nhà nước tồn tại trong thời kỳ cổ đại và thực chất là nhà nước của

giai cấp chủ nô.

Ở nhà nước này có hai hình thức phổ biến là:

- Chính thể quân chủ (quân chủ chủ nô).

- Chính thể cộng hòa (dân chủ chủ nô).

(Chính thể quân chủ là chính quyền của một số rất ít người đứng đầu. Chính

thể cộng hòa là chính quyền do bầu cử mà có).

b. Về kiểu nhà nước phong kiến:

Đây là nhà nước ra đời vào thời trung cổ, được xây dựng trên cơ sở chiếm

hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và mọi quyền hành thuộc về lãnh chúa

phong kiến, nên đây là nhà nước của giai cấp phong kiến địa chủ.

Hình thức tổ chức của nhà nước phong kiến gồm có:

- Nhà nước phong kiến phân quyền.

- Nhà nước phong kiến tập quyền.

(Với nhà nước phong kiến phân quyền thì quyền lực được phân chia thành

những quyền lực độc lập, theo từng địa phương, phân tán. Với nhà nước phong

kiến tập quyền thì quyền lực tập trung vào tay một ông vua, vua có quyền lực tối

đa, là người có uy quyền tuyệt đối, ý chí nhà vua là pháp luật).

c. Về kiểu nhà nước tư sản:

Đây là chính quyền của giai cấp tư sản nhằm để bảo vệ sự bóc lột của giai

cấp tư sản đối với giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động.

81

Hình thức tổ chức phổ biến của kiểu nhà nước này là chế độ cộng hòa. Tuy

nhiên ở nhiều nước lại được tổ chức dưới hình thức quân chủ lập hiến.

Nhà nước cộng hòa tư sản lại được tổ chức bằng nhiều hình thức cụ thể khác

như:

- Chế độ cộng hòa

- Chế độ tổng thống

- Chế độ cộng hòa đại nghị

(Trong nhà nước quân chủ lập hiến thì vua là người đứng đầu quốc gia,

nhưng chỉ đứng đầu trên danh nghĩa, không có thực quyền; nghị viện là cơ quan

lập pháp; nội các là cơ quan nắm mọi quyền hành).

2. Đặc điểm của Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam:

Ngoài ba kiểu nhà nước nêu trên, trong thời đại ngày nay còn có sự xuất

hiện của một kiểu nhà nước mới, đó là Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa có bản chất giai cấp công nhân, đại diện cho lợi

ích của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể, tầng lớp trí thức xã hội chủ

nghĩa và toàn thể nhân dân lao động. Nhà nước xã hội chủ nghĩa do vậy khác với

các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nó là nhà nước quá độ, nhà nước “nửa nhà

nước”, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà nước và kiểu nhà nước này sẽ “tự

tiêu vong” khi đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó. Nhưng trong thời kỳ quá độ,

sự tồn tại của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là một tất yếu vì nó là công cụ có

hiệu lực trong tay giai cấp công nhân dùng để cải tạo triệt để xã hội cũ và xây dựng

thành công xã hội mới, một xã hội không phân chia giai cấp, không còn nhà nước.

Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có những đặc điểm nổi bật

sau đây:

- Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do

dân, vì dân là tổ chức để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động dưới sự

lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (đây là đặc điểm chủ yếu).

82

- Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam vừa là một bộ máy chính

trị, hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế, văn

hóa, xã hội của nhân dân lao động. Đặc điểm này thể hiện sự kết hợp hai chức

năng là trấn áp và tổ chức xây dựng, trong đó chức năng tổ chức xây dựng là chủ

yếu.

- Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có sự thống nhất giữa bản

chất giai cấp công nhân và tính dân tộc, tính nhân dân.

Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là một tổ chức mà thông

qua đó Đảng của giai cấp công nhân thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với

tiến trình phát triển của xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là để giữ

vững bản chất giai cấp công nhân của bộ máy nhà nước, là điều kiện quyết định để

bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động, bảo đảm cho Nhà nước

thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Đặc điểm này vừa thể hiện bản chất vừa thể hiện mục đích của Nhà nước

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Câu 32: Cách mạng xã hội là gì? Phân tích vai trò của cách mạng xã hội

trong sự phát triển của xã hội.

1. Cách mạng xã hội là gì?

Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt căn bản về chất

trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là bước nhảy vọt trong sự phát triển của xã

hội mà kết quả là sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái

kinh tế-xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn.

Đặc trưng chủ yếu của cách mạng xã hội:

- Là sự thay đổi chính quyền nhà nước từ giai cấp thống trị lỗi thời sang tay

giai cấp cách mạng.

- Thay đổi phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ

hơn; xóa bỏ địa vị thống trị về kinh tế của giai cấp thống trị lỗi thời, xác lập địa vị

83

thống trị kinh tế của giai cấp cách mạng và từ đó thay đổi tất cả các mặt của kiến

trúc thượng tầng của xã hội.

Như vậy, cách mạng xã hội không phải là một sự phát triển bình thường,

tuần tự, mà là một bước nhảy vọt căn bản về chất trên toàn bộ các mặt của đời sống

xã hội.

Những điểm cần phân biệt là:

- Cách mạng xã hội khác với đảo chính.

Đảo chính là sự chuyển chính quyền từ tay giai cấp thống trị này qua tay

nhóm người khác lên thống trị mà không cần thay đổi bộ máy nhà nước, không hề

thay đổi bản chất của chế độ xã hội.

- Cách mạng xã hội cũng khác với cải lương:

Cải lương chỉ là thay đổi xã hội bằng một số cải cách nhỏ nhặt, trên một số

mặt nào đó của xã hội mà không hề thay đổi bản chất của chế độ xã hội. Chủ nghĩa

cải lương đối lập với cách mạng xã hội vì nó gây ảo tưởng thay đổi chế độ xã hội

mà không cần phải thực hiện một cuộc cách mạng xã hội.

- Cách mạng xã hội cũng khác với đổi mới xã hội (cải tạo hay cải cách xã

hội):

Đổi mới xã hội chỉ là những thay đổi căn bản về chất trên từng mặt của đời

sống xã hội, diễn ra trong phạm vi của một hình thái kinh tế-xã hội mà không dẫn

đến sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh tế-xã hội

khác cao hơn, tiến bộ hơn.

2. Vai trò của cách mạng xã hội trong sự phát triển của xã hội:

Cách mạng xã hội chính là phương thức để thay thế các hình thái kinh tế-xã

hội:

Cách mạng xã hội do nhiều nguyên nhân như chính trị, kinh tế, xã hội, tư

tưởng,.. trong đó nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân chủ yếu.

84

Nguyên nhân kinh tế là nguyên nhân chứa đựng trong bản thân phương thức

sản xuất của xã hội. Đó chính là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới với quan

hệ sản xuất lỗi thời.

Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa các lực lượng sản

xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời được biểu hiện thành mâu thuẫn giữa các giai

cấp đối kháng, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng đại biểu cho lực lượng sản

xuất mới và giai cấp thống trị đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời đang cản trở

sự phát triển của lực lượng sản xuất. Mâu thuẫn ấy chỉ có thể được giải quyết

thông qua đấu tranh giai cấp và đấu tranh giai cấp khi đã phát triển đến mức gay

gắt thì sẽ trở thành một cuộc cách mạng xã hội.

Trong các xã hội có giai cấp đối kháng, sự tồn tại của quan hệ sản xuất lỗi

thời là cơ sở kinh tế để duy trì địa vị và quyền lực cơ bản của giai cấp thống trị. Ở

đó giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là sử dụng bộ máy nhà nước để

bảo vệ và duy trì quan hệ sản xuất lỗi thời ấy. Ngược lại, giai cấp cách mạng và

quần chúng nhân dân lao động cũng sử dụng mọi biện pháp đấu tranh, nhất là đấu

tranh chính trị để nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, thiết lập quan hệ sản xuất

mới tiến bộ, thoát khỏi áp bức bóc lột, giành lấy lợi ích căn bản cho giai cấp mình.

Cuộc đấu tranh giai cấp này phát triển thành đấu tranh chính trị và khi đạt

đến đỉnh cao thì chính là cuộc cách mạng xã hội. Qua cách mạng xã hội thì hình

thái kinh tế-xã hội cũ bị xóa bỏ, hình thái kinh tế-xã hội mới ra đời, chế độ xã hội

cũ bị xóa bỏ, chế độ xã hội mới ra đời thay thế nó. Đó là bước chuyển biến vĩ đại

trong đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa-xã hội, là bước nhảy vọt tất yếu

của xã hội có giai cấp đối kháng.

Nếu sau cuộc cách mạng đó, hình thái kinh tế-xã hội mới ra đời vẫn còn tình

trạng bị áp bức bóc lột, vẫn còn tình trạng đối kháng giai cấp thì sự phát triển

những mâu thuẫn nói trên sớm hoặc muộn lại dẫn đến một cuộc cách mạng xã hội

mới để chuyển lên một hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn nữa.

85

Vì những lý do trên mà chúng ta nói rằng: cách mạng xã hội là phương thức

thay thế hình thái kinh tế-xã hội này bằng hình thái kinh tế-xã hội khác cao hơn,

tiến bộ hơn.

Thực tế lịch sử cho thấy rằng:

- Cuộc chuyển biến cách mạng trong lịch sử đã thực hiện bước chuyển từ cơ

sở hạ tầng công xã nguyên thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ. Đó là sự thay thế hình

thái kinh tế-xã hội nguyên thủy bằng hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ. Sự

biến chuyển này không phải thông qua cách mạng xã hội, mà là phát triển tất yếu

của sản xuất vật chất xã hội dẫn đến sự phân công lao động xã hội quyết định.

- Cuộc cách mạng xã hội thứ nhất trong lịch sử đã thực hiện bước chuyển từ

hình thái kinh tế-xã hội chiếm hữu nô lệ sang hình thái kinh tế-xã hội phong kiến.

- Cuộc cách mạng xã hội thứ hai trong lịch sử là cuộc cách mạng tư sản

nhằm lật đổ chế độ phong kiến và xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa. Đó là sự thay

thế hình thái kinh tế-xã hội phong kiến bằng hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ

nghĩa.

- Cuộc cách mạng xã hội thứ ba trong lịch sử là cuộc cách mạng vô sản đã

và đang thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đây là

cuộc cách mạng xã hội mới về chất, là cuộc cách mạng sâu sắc nhất, triệt để nhất

trong lịch sử. Đó là sự thay thế hình thái kinh tế-xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình

thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Cũng cần thấy rằng, đứng về mặt tiến bộ lịch sử mà xét thì sự chuyển biến từ

chế độ cộng sản nguyên thủy lên chế độ chiếm hữu nô lệ là tiến bộ xã hội. Chuyển

biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ lên chế độ phong kiến mang tính chất cách mạng và

có ý nghĩa cách mạng, song nó không phải là cuộc cách mạng xã hội điển hình.

Lịch sử có hai kiểu cách mạng xã hội điển hình mang đầy đủ những đặc

trưng tiêu biểu của cách mạng xã hội. Đó là cuộc cách mạng tư sản lật đổ chế độ

phong kiến xác lập chế độ tư bản chủ nghĩa và cuộc cách mạng vô sản xóa bỏ chế

độ tư bản xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

86

Câu 33: Phân tích nguyên nhân, những điều kiện khách quan và chủ

quan của cách mạng xã hội.

1. Khái niệm cách mạng xã hội:

- Cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất

trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là bước nhảy vọt trong sự phát triển xã hội

mà kết quả là sự thay thế một hình thái kinh tế-xã hội này bằng một hình thái kinh

tế-xã hội mới cao hơn.

- Đặc trưng của cách mạng xã hội là sự thay đổi chính quyền nhà nước từ tay

giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng.

- Cách mạng xã hội đem lại sự thay đổi căn bản về chất trên mọi lĩnh vực

của đời sống xã hội, vì vậy, nó khác với cải cách xã hội hoặc đảo chính.

2. Nguyên nhân của cách mạng xã hội

- Cách mạng xã hội có nhiều nguyên nhân về các mặt chính trị, kinh tế, xã

hội, tư tưởng, nhưng nguyên nhân chủ yếu là nguyên nhân kinh tế.

- Nguyên nhân kinh tế được biểu hiện là những mâu thuẫn giữa lực lượng

sản xuất mới với quan hệ sản xuất đã lỗi thời.

- Trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn đó được biểu hiện thành

mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng: giai cấp cách mạng đại biểu cho lực lượng

sản xuất mới và giai cấp thống trị đại biểu cho quan hệ sản xuất lỗi thời. Cuộc đấu

tranh giai cấp gay gắt sẽ chuyển thành cách mạng xã hội.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, sự tồn tại của quan hệ sản xuất lỗi thời là

cơ sở kinh tế để duy trì địa vị và quyền lợi cơ bản của giai cấp thống trị, đối lập với

lợi ích của quần chúng lao động. Giai cấp thống trị dùng mọi thủ đoạn, đặc biệt là

bộ máy nhà nước, để bảo vệ quan hệ sản xuất lỗi thời. Ngược lại, quần chúng cách

mạng phải tiến hành cuộc đấu tranh nhằm xóa bỏ quan hệ sản xuất đó. Cuộc đấu

tranh đó phát triển thành đấu tranh chính trị và dẫn tới đỉnh cao là cách mạng xã

hội.

87

- Nói một cách khái quát, nếu trong một hình thái kinh tế-xã hội vẫn có đối

kháng giai cấp, thì sự phát triển của các mâu thuẫn trên, sớm hay muộn, sẽ dẫn tới

cách mạng xã hội, để chuyển lên hình thái kinh tế-xã hội mới cao hơn, tiến bộ hơn.

3. Những điều kiện khách quan và chủ quan của cách mạng xã hội:

Muốn cho cách mạng xã hội nổ ra và thắng lợi, cần phải có sự kết hợp đầy

đủ của các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.

a. Điều kiện khách quan:

Nguồn gốc sâu xa của cách mạng xã hội là nguyên nhân kinh tế. Song, ngoài

nguyên nhân đó, cần có những điều kiện chính trị-xã hội, tức là những điều kiện

mà trong đó mâu thuẫn giai cấp đã trở nên gay gắt, tạo nên một cuộc khủng hoảng

chính trị trong toàn quốc, nghĩa là tạo nên tình thế cách mạng.

Lênin đã nêu ra ba đặc trưng của tình thế cách mạng xã hội:

- Giai cấp thống trị không thể duy trì được nền thống trị dưới hình thức bất

di bất dịch. Sự khủng hoảng của giai cấp thống trị là sự mở đường cho sự phẫn nộ

của giai cấp bị bóc lột. Bộ máy thống trị đã bị suy yếu nghiêm trọng.

- Nỗi cùng khổ, quẫn bách của giai cấp bị áp bức trở nên nặng nề hơn mức

bình thường.

- Tính tích cực của quần chúng nhân dân được nâng lên rất nhiều, và họ sẵn

sàng hành động vì cuộc đổi thay lịch sử.

Trong điều kiện phát triển hiện nay của chủ nghĩa tư bản hiện đại, một số

vấn đề như chiến tranh và hòa bình, vấn đề sinh thái và những vấn đề toàn cầu

khác cũng là những điều kiện khách quan đòi hỏi sự nhận thức đúng đắn về mục

tiêu phương hướng phát triển của cách mạng xã hội trong điều kiện mới mà các

Đảng cách mạng cần phải nhận thức đầy đủ hơn.

b. Nhân tố chủ quan:

Nhân tố chủ quan gắn liền với mỗi kiểu cách mạng xã hội và mức độ phát

triển cũng khác nhau. Điều đó được biểu hiện:

88

- Năng lực lãnh đạo của giai cấp cách mạng mà đại biểu là chính đảng của

nó, đặc biệt là năng lực nhận thức quy luật về cách mạng xã hội.

- Có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn.

- Có năng lực tổ chức, tập hợp lực lượng quần chúng.

- Nắm vững tình thế và thời cơ cách mạng, và khi điều kiện cho phép, đảng

cách mạng còn phải biết thúc đẩy cho tình thế cách mạng phát triển nhanh chóng.

Tóm lại, trong bất cứ hình thái kinh tế-xã hội nào, muốn cách mạng nổ ra và

thắng lợi, phải là sự kết hợp giữa các điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan,

kết hợp giữa tình thế, thời cơ cách mạng và khả năng lãnh đạo của các chính đảng

cách mạng.

Câu 34: Tiến bộ xã hội là gì? Trình bày tiêu chuẩn và động lực của tiến

bộ xã hội, từ đó vận dụng vào việc xem xét quá trình đổi mới ở nước ta.

1. Khái niệm tiến bộ xã hội:

Tiến bộ xã hội là quá trình phát triển phức tạp, đầy mâu thuẫn của xã hội,

được xem như một hệ thống toàn vẹn, hoàn chỉnh từ hình thái kinh tế-xã hội thấp

lên hình thái kinh tế-xã hội cao hơn, do các quy luật khách quan của xã hội chi

phối và được thực hiện thông qua sự hoạt động có ý thức của con người.

2. Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội:

- Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội có ý nghĩa hạt nhân là tính chất tiên tiến của

phương thức sản xuất, biểu hiện ở trình độ tiên tiến của lực lượng sản xuất, ở sự

phù hợp của quan hệ sản xuất để mở ra khả năng cho sự phát triển của lực lượng

sản xuất, hoàn thiện và phát huy năng lực của con người.

- Tiêu chuẩn của tiến bộ xã hội còn được thể hiện ở các thành tựu khoa học,

các nguyên tắc quản lý, trạng thái chính trị, trình độ học vấn, bảo vệ sức khỏe, lối

sống, ý thức lao động, thế giới quan, kỷ luật lao động, văn hóa lao động,.. ảnh

hưởng đến hiệu quả sản xuất xã hội.

89

- Khi xem xét một hiện tượng lịch sử nào đó, cần phải có quan điểm khách

quan cụ thể.

3. Động lực của tiến bộ xã hội:

- Nhân dân lao động là động lực chính của sự tiến bộ xã hội vì:

+ Sản xuất vật chất là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội.

+ Động lực chủ yếu của sự tiến bộ xã hội là lực lượng sản xuất. Trong lực

lượng sản xuất, thì người lao động là yếu tố quyết định, là lực lượng trực tiếp sáng

tạo xã hội.

- Khoa học tác động đến sự phát triển xã hội một cách mạnh mẽ, nhưng phải

thông qua hoạt động thực tiễn của con người.

- Lợi ích, trước hết là lợi ích kinh tế, là một trong những động lực quan

trọng của sự tiến bộ xã hội.

- Động lực tiến bộ chung của lịch sử nhân loại là sản xuất vật chất.

- Trong xã hội có giai cấp, cuộc đấu tranh giai cấp cũng là động lực mạnh

mẽ thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

4. Vận dụng vào quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay:

- Trong sự phát triển của xã hội ta hiện nay, trên nhiều mặt xã hội đang

không ngừng phát triển, ngày càng đổi mới. Tuy nhiên, về lý luận, cần phải nhận

thức được rằng, tăng trưởng và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất. Có thể

có tăng trưởng nhưng không hẳn là đã phát triển. Một số yếu tố trong nền kinh tế

thị trường đã là sự chứng minh cho tính không đồng nhất trong quá trình phát triển.

- Mặt khác, cần phải phát huy một cách mạnh mẽ sự phát triển lực lượng sản

xuất, đổi mới công nghệ, cải tiến kỹ thuật, tiếp thu nền khoa học tiên tiến của thế

giới để thực hiện sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

- Thực hiện chiến lược con người không ngừng nâng cao trình độ sức khỏe,

văn hóa, kỹ thuật, kỹ năng và thói quen lao động của con người, để con người thực

sự là nguồn lực quyết định trong sự phát triển xã hội.

90

- Kết hợp dân tộc với thời đại để vừa phát huy nền văn hóa tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại trong quá trình đổi mới.

- Phát triển toàn diện xã hội - về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,.. - trong

sự hội nhập với quốc tế, bảo đảm sự phát triển lâu dài, bền vững, vì hòa bình, hữu

nghị, hợp tác và sự phát triển.

Câu 35: Phân tích quan điểm triết học Mác-Lênin về bản chất con

người.

Thực chất của việc nghiên cứu bản chất con người là quá trình con người tự

lấy mình làm đối tượng nghiên cứu và trả lời câu hỏi con người là gì, vai trò con

người trong thế giới như thế nào?

1. Quan niệm chung về con người trong triết học trước Mác.

Có nhiều khoa học nghiên cứu về con người, và tiếp cận theo cách riêng của

mình. Tuy nhiên, nếu có khoa học chuyên ngành nhận thức con người bằng cách

chia hệ thống yếu tố thì ngược lại, triết học nghiên cứu con người bằng cách tổng

hợp các yếu tố thành hệ thống.

Trong sự phát triển của triết học, có nhiều quan niệm khác nhau về bản chất

con người. Các nhà triết học thời cổ đại xem con người là vũ trụ thu nhỏ. Triết học

tôn giáo xem con người là một thực thể nhị nguyên, là sự kết hợp giữa tinh thần và

thể xác. Các học thuyết triết học duy tâm tuyệt đối hóa hoạt động của đời sống tinh

thần, điển hình là hệ thống triết học duy tâm của Hêghen. Ông cho rằng con người

là hiện thân của ý niệm tuyệt đối, là bước cuối cùng của cuộc diễn hành của ý niệm

tuyệt đối trên trái đất. Phoiơbắc, một nhà triết học duy vật siêu hình, đã tuyệt đối

hóa mặt sinh học của con người, chia cắt con người khỏi đời sống xã hội. Vì vậy,

ông cũng không giải thích được bản chất thực sự của con người.

Như vậy, triết học trước Mác về căn bản đã giải thích bản chất con người

trên lập trường duy tâm, do đó, không giải thích được nguồn gốc, bản chất thật sự

91

của tồn tại người. Mặc dù vậy, nó vẫn đóng góp được những thành tựu làm tiền đề

cho khoa học nghiên cứu con người.

2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người.

- Trên cơ sở tiếp thu có phê phán tư tưởng về con người của các nhà triết học

trước đó trong lịch sử, C.Mác đã khẳng định rằng: “Trong tính hiện thực của nó,

bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội” (Luận cương về Phoiơbắc).

- Dựa vào những thành tựu của khoa học hiện đại, triết học Mác-Lênin xem

sự tồn tại của con người và xã hội loài người bị quy định bởi:

+ Thứ nhất: các quy luật sinh vật học tạo thành phương diện sinh học của

con người, như quy luật về sự phù hợp giữa cơ thể với môi trường, về quá trình

trao đổi chất, về biến dị, di truyền và sự tiến hóa…

+ Thứ hai: các quy luật tâm lý-ý thức hình thành và hoạt động trên nền tảng

sinh học của con người, như quy luật hình thành tư tưởng, tình cảm, khát vọng,

mục tiêu, lý tưởng, niềm tin, ý chí…

+ Thứ ba: các quy luật xã hội đang quy định mối quan hệ giữa con người với

con người, như quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình

độ của lực lượng sản xuất, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,

các quy luật về giai cấp và đấu tranh giai cấp…

Trong đời sống con người, ba hệ thống quy luật trên không tách biệt nhau,

mà chúng hòa vào nhau, tác động lẫn nhau, tạo nên bản chất con người trong sự

thống nhất của con người tự nhiên (cái sinh học) và con người xã hội (cái xã hội)

trong một con người hiện thực.

- Bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra bên ngoài là các nhu

cầu tất yếu khách quan:

+ Nhu cầu ăn, mặc, ở, sinh hoạt văn hóa tinh thần.

+ Nhu cầu tái sản xuất xã hội.

+ Nhu cầu tình cảm, nhu cầu hiểu biết.

92

- Bản chất xã hội của con người được hình thành trong quan hệ con người

với con người và con người với tự nhiên. Để duy trì sự tồn tại của mình, con người

phải lao động. Vì vậy, lao động là yếu tố quyết định sự hình thành bản chất xã hội

của con người. Bởi vì:

+ Thứ nhất: Lao động là nguồn gốc của nền văn minh vật chất và tinh thần.

+ Thứ hai: Lao động là nguồn gốc trực tiếp của sự hình thành ý thức.

+ Thứ ba: Trong lao động, con người quan hệ với nhau trong lĩnh vực sản

xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng, để từ đó, hình thành các quan hệ xã hội khác

trong đời sống tinh thần.

- Cần phải thấy rằng, không thể tách rời bản chất tự nhiên và bản chất xã

hội, mà chúng là một thực thể thống nhất, trong đó, xã hội là phương thức cho con

người thỏa mãn nhu cầu sinh học và nhu cầu sinh học càng thỏa mãn, con người

càng trở nên là con người văn hóa, văn minh, ngày càng “người” hơn.

- Nhu cầu tự nhiên là mục đích của sự phát sinh những nhu cầu xã hội. Điều

đó, có nghĩa rằng sản xuất ra đời sống vật chất là cơ sở quyết định sự tồn tại và

phát triển của xã hội loài người và con người.

3. Một số kết luận:

- Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các quan hệ xã

hội. Điều đó có nghĩa phải thừa nhận tính thống nhất không thể tách rời giữa con

người sinh học và con người xã hội. Bản chất con người không là cái bẩm sinh mà

luôn xuất hiện, tồn tại và phát triển dựa trên nền tảng tự nhiên của con người.

- Nhu cầu tự nhiên và nhu cầu xã hội ngày càng phát triển. Vì vậy, bản chất

con người không phải sinh ra một lần là xong, mà nó gắn liền với quá trình phát

triển của lịch sử-xã hội, gắn với quá trình con người không ngừng tự hoàn thiện

mình.

- Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, vừa là chủ thể sáng tạo ra lịch

sử. Tạo ra những điều kiện lịch sử, những tiền đề kinh tế-xã hội cho sự phát triển

toàn diện của con người là mục đích vươn tới của chính bản thân con người.

93

Câu 36: Phân tích mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã

hội, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta hiện nay.

1. Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể.

- Khái niệm cá nhân là gì? Là cá thể người với tư cách là sản phẩm của sự

phát triển xã hội, là chủ thể lao động của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức. Cá

nhân là một con người hoàn chỉnh trong sự thống nhất giữa những khả năng riêng

có của người đó với chức năng xã hội do người đó thực hiện.

- Trong quan hệ xã hội, cá nhân biểu hiện ở các tư cách sau đây:

+ Là phương thức tồn tại của giống loài “người”

+ Là cá thể riêng lẻ, phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội

+ Là chỉnh thể toàn vẹn có nhân cách.

+ Là cá thể được hình thành và phát triển trong mối quan hệ xã hội.

- Khái niệm tập thể? Tập thể là hình thức liên hệ cá nhân thành từng nhóm

có tính chất xã hội, xuất phát từ lợi ích nhu cầu về kinh tế, chính trị, đạo đức, thẩm

mỹ, quan điểm khoa học, tư tưởng, nghề nghiệp,.. Suy cho cùng, tập thể là sự liên

kết về lợi ích giữa các cá nhân. Trong xã hội, có nhiều tập thể. Trong một tập thể vì

thế đã bao gồm các tập thể con.

- Mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là mối quan hệ biện chứng trong đó

cá nhân như là một bộ phận của cái toàn thể. Cá nhân thể hiện bản sắc riêng biệt

của mình thông qua tập thể nhưng không hòa tan vào tập thể.

Bản chất của mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể là quan hệ lợi ích. Đó là

yếu tố móc nối, liên kết hoặc ngược lại là chia rẽ các thành viên trong tập thể. Tập

thể có bao nhiêu thành viên thì có bấy nhiêu lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân và tập

thể được biểu hiện ra ở nhu cầu: nhu cầu vật chất và nhu cầu văn hóa tinh thần.

94

Trong sự tác động biện chứng mỗi cá nhân không tồn tại độc lập, cô lập

hoàn toàn với những cá nhân khác và với tập thể. Đó cũng chính là cơ sở để hình

thành tính tập thể, tính cộng đồng, tính nhân loại của nhân cách.

Xây dựng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể cần chống lại hai khuynh

hướng: tuyệt đối hóa tập thể, bắt cá nhân phải hy sinh một chiều; tuyệt đối hóa lợi

ích cá nhân một cách cực đoan theo chủ nghĩa cá nhân. Xây dựng mối quan hệ

giữa cá nhân và tập thể là xây dựng và bảo đảm tính hài hòa giữa lợi ích cá nhân và

lợi ích tập thể.

2. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.

- Xã hội là một sản phẩm của mối quan hệ giữa người và người. Khái niệm

xã hội được xác định trên các bình diện khác nhau. Nghĩa rộng là toàn thể loài

người, còn nghĩa hẹp là từng quốc gia, dân tộc, chủng tộc, giai cấp,..

- Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội là mối quan hệ biện chứng mà nền

tảng là quan hệ lợi ích. Xã hội là điều kiện, là môi trường và phương thức để mỗi

cá nhân thực hiện lợi ích của mình. Xã hội càng phát triển thì mỗi cá nhân càng

thỏa mãn lợi ích vật chất và tinh thần. Thỏa mãn nhu cầu chính đáng của mỗi cá

nhân là động lực và mục đích liên kết mọi thành viên trong xã hội. Đồng thời, mỗi

cá nhân càng phát triển về thể lực và tài năng, trí tuệ thì càng có điều kiện để đóng

góp phần mình vào sự thúc đẩy xã hội phát triển. Sự tác động của cá nhân tới xã

hội tùy thuộc vào trình độ phát triển của nhân cách cá nhân.

- Xây dựng mối quan hệ cá nhân-xã hội là xây dựng và bảo đảm quan hệ hài

hòa giữa nghĩa vụ-quyền lợi, giữa trách nhiệm-lợi ích của con người cá nhân trong

các quan hệ xã hội.

3. Ý nghĩa của vấn đề này ở nước ta hiện nay.

Khi nghiên cứu mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, cá nhân và xã hội,

chúng ta thấy có mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là trình độ phát

triển của nền sản xuất xã hội, nhằm đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của mọi thành

95

viên trong xã hội. Mặt chủ quan được biểu hiện ở sự nhận thức và vận dụng quy

luật về sự kết hợp lợi ích cá nhân-xã hội.

Vì vậy, cần đảm bảo sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công

dân, chống đặc quyền, đặc lợi. Tăng cường phát huy vai trò nhân tố con người

trong quan trọng phát triển kinh tế-xã hội. Đồng thời, lấy việc phục vụ lợi ích con

người làm mục đích cao nhất của toàn bộ mọi hoạt động, từ lợi ích kinh tế đến lợi

ích chính trị, từ lợi ích vật chất đến lợi ích văn hóa tinh thần. Tất cả vì con người

và cho con người. Giải quyết hài hòa mối quan hệ cá nhân-tập thể-xã hội là yêu

cầu rất cơ bản để phát triển con người trong điều kiện xã hội ta hiện nay.

Câu 37: Phân tích mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ

trong sự phát triển lịch sử, từ đó rút ra ý nghĩa của vấn đề này trong việc

quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.

1. Các khái niệm:

- Khái niệm quần chúng nhân dân.

Là bộ phận dân cư có cùng chung lợi ích căn bản liên kết lại thành tập thể

dưới sự lãnh đạo của một thủ lĩnh, tổ chức hay đảng phái nhằm giải quyết những

vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội của thời đại họ.

Khái niệm quần chúng nhân dân luôn được xác định bởi:

+ Những người lao động sản xuất ra của cải vật chất - hạt nhân cơ bản của

quần chúng nhân dân.

+ Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị, áp bức bóc lột đối

kháng với nhân dân.

+ Những giai cấp, những tầng lớp thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.

- Khái niệm vĩ nhân-lãnh tụ:

Vĩ nhân-lãnh tụ là những cá nhân kiệt xuất, vĩ nhân, những người nắm bắt

được vấn đề căn bản nhất trong một lĩnh vực nhất định của hoạt động lý luận, khoa

96

học và thực tiễn, có thể là những anh hùng, nhà khoa học hay nhà hoạt động chính

trị lỗi lạc, nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích của quần chúng nhân dân.

Có thể khái quát vĩ nhân-lãnh tụ là những người có phẩm chất cơ bản sau

đây:

+ Có tri thức khoa học uyên bác, nắm được xu thế vận động của dân tộc,

quốc tế và thời đại.

+ Có khả năng tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động

của họ hướng vào một nhiệm vụ cụ thể của dân tộc, quốc tế hay thời đại.

+ Nguyện hy sinh quên mình cho lợi ích dân tộc, quốc tế và thời đại.

2. Mối quan hệ giữa quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ trong sự

phát triển của lịch sử.

Trước những bước ngoặt của dân tộc, quốc tế và thời đại, sự xuất hiện quần

chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ là tất yếu khách quan. Không có quần chúng

nhân dân, không có vĩ nhân-lãnh tụ thì không có phong trào cách mạng. Song, vai

trò của quần chúng nhân dân và vĩ nhân-lãnh tụ khác nhau:

- Quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của lịch sử,

bởi vì:

+ Quần chúng nhân dân là người trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và của

cải tinh thần.

+ Là chủ thể của hoạt động cải tạo các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.

+ Lợi ích của quần chúng nhân dân vừa là điểm khởi đầu, vừa là mục đích

cuối cùng của các hành động cách mạng.

- Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, vĩ nhân-lãnh tụ có chức năng

chủ yếu là:

+ Nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết những

quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội.

+ Định hướng chiến lược, hoạch định chương trình hành động cách mạng.

97

+ Tổ chức lực lượng, giáo dục thuyết phục quần chúng thống nhất hành

động để hướng vào giải quyết những vấn đề then chốt nhất.

- Từ chức năng trên, quy định vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ là:

+ Vĩ nhân-lãnh tụ là người có thể thúc đẩy nhanh tiến trình cách mạng, đem

lại hiệu quả cao nhất cho hoạt động của quần chúng nhân dân, nếu vĩ nhân-lãnh tụ

hiểu và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan. Song, vĩ nhân-lãnh tụ cũng là

người có thể làm suy giảm hiệu quả của hành động cách mạng của quần chúng

nhân dân nếu vĩ nhân-lãnh tụ thiếu tài, kém đức, và do đó lịch sử có thể phải trải

qua những bước quanh co.

+ Không có vĩ nhân-lãnh tụ cho mọi thời đại. Mỗi vĩ nhân-lãnh tụ chỉ có thể

là vĩ nhân-lãnh tụ của thời đại mình. Sau khi hoàn thành chức năng lãnh đạo quần

chúng nhân dân, vĩ nhân-lãnh tụ đi vào lịch sử như những vĩ nhân, sống trong tâm

tưởng, trong giá trị tinh thần của các thời đại sau.

+ Vĩ nhân-lãnh tụ thường là người sáng lập ra các tổ chức chính trị-xã hội, là

linh hồn của tổ chức đó.

3. Ý nghĩa của vấn đề này trong việc quán triệt bài học “lấy dân làm gốc”.

- Vấn đề trên đặt cơ sở khoa học cho ta hiểu đầy đủ vai trò, sức mạnh của

quần chúng nhân dân, cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân. “Dễ trăm

lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Liên hệ mật thiết với

quần chúng nhân dân, Đảng ta lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này

đến thắng lợi khác.

- Nó là cơ sở lý luận khoa học giúp chúng ta tránh hai khuynh hướng sai

lầm: không thấy vai trò của quần chúng nhân dân, coi thường quần chúng nhân dân

hoặc đề cao quá mức dẫn đến sùng bái vai trò của vĩ nhân-lãnh tụ.

- Vì vậy, cần phải thấy mối quan hệ biện chứng của vai trò đó là quần chúng

nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử, vĩ nhân-lãnh tụ là người định hướng và thúc

đẩy sự phát triển của lịch sử. Điều đó, càng trở nên có ý nghĩa trong sự nghiệp đổi

98

mới xây dựng đất nước, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện

nay.

Câu 38: Tồn tại xã hội là gì? Phân tích vai trò của các yếu tố cấu thành

tồn tại xã hội?

- Tồn tại xã hội là khái niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội,

dùng để chỉ toàn bộ đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt vật

chất của xã hội.

- Tồn tại xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là: hoàn cảnh địa lý, điều kiện

dân số và phương thức sản xuất, trong đó, phương thức sản xuất là yếu tố giữ vai

trò quyết định tính chất, kết cấu của xã hội, quyết định sự vận động và phát triển

của xã hội.

+ Hoàn cảnh địa lý bao gồm các yếu tố như tài nguyên, khoáng sản, khí hậu,

đất đai,.. là những yếu tố ảnh hưởng thường xuyên, tất yếu tới sự tồn tại và phát

triển của xã hội, nhưng không giữ vai trò quyết định phát triển của xã hội. Ở những

trình độ khác nhau của xã hội, mức độ ảnh hưởng của tự nhiên đối với xã hội có

khác nhau.

Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến việc tổ chức phân công lao động và bố trí

lực lượng sản xuất. Sự phong phú đa dạng của tự nhiên là cơ sở tự nhiên của việc

phân công lao động trong xã hội. Tự nhiên có thể tạo điều kiện thuận lợi và cũng

có thể gây khó khăn cho sản xuất.

Sự tác động của con người đến tự nhiên sẽ làm cho tự nhiên biến đổi theo

hai hướng: làm cho tự nhiên phong phú thêm, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất

và đời sống con người; hoặc làm cho tự nhiên nghèo nàn đi, nó sẽ gây trở ngại trở

lại đối với con người. C.Mác đã chỉ ra “nếu văn minh được phát triển một cách tự

phát không có hướng dẫn một cách khoa học thì để lại sau đó một bãi hoang mạc”.

99

+ Điều kiện dân số bao gồm các yếu tố số dân, mật độ dân số, phân bố dân

cư, tỉ lệ tăng dân số, là điều kiện thường xuyên tất yếu của sự phát triển xã hội,

nhưng không giữ vai trò quyết định sự phát triển xã hội.

Điều kiện dân số ảnh hưởng đến nguồn lao động, tổ chức phân công lao

động xã hội cũng như các chính sách phát triển văn hóa tinh thần khác. Việc phân

bố dân cư không thể theo ý muốn chủ quan mà phải phụ thuộc trình độ phát triển

của sản xuất và chế độ xã hội.

Vai trò của dân số ngày nay là vấn đề bùng nổ dân số. Nếu sản xuất có kế

hoạch nhưng tăng trưởng dân số không có kế hoạch tự nó sẽ phá vỡ kế hoạch sản

xuất. Nước ta hiện nay dân số tăng quá nhanh, muốn có cuộc sống văn minh, hạnh

phúc thì nhiệm vụ kế hoạch hóa dân số và giải quyết việc làm cho người lao động

phải là nhiệm vụ hàng đầu của chính sách xã hội.

+ Phương thức sản xuất là cách thức mà con người làm ra của cải vật chất.

Đó là mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Nó là

nhân tố quyết định tính chất, kết cấu của xã hội và quyết định sự vận động, phát

triển của xã hội qua các giai đoạn lịch sử. Khi phương thức sản xuất mới ra đời

thay thế phương thức sản xuất cũ lỗi thời, thì mọi mặt của đời sống xã hội cũng có

sự thay đổi căn bản theo. Lịch sử xã hội loài người trước hết là lịch sử của các

phương thức sản xuất kế tiếp nhau trong quá trình phát triển. Nghiên cứu những

quy luật của lịch sử xã hội là nghiên cứu trong phương thức sản xuất do xã hội

thực hiện trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, trong chế độ kinh tế-xã hội, chứ

không phải tìm trong óc người, trong tư tưởng.

Câu 39: Trình bày khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội?

- Ý thức xã hội là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ đời sống tinh thần của xã

hội. Nó bao gồm tình cảm, tập quán, truyền thống, quan điểm, tư tưởng, lý luận,..

là sự phản ánh của tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau.

100

- Ý thức xã hội gồm nhiều cấp độ khác nhau: Ý thức sinh hoạt đời thường và

ý thức lý luận, tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

+ Ý thức sinh hoạt đời thường và ý thức lý luận: sự phân chia này dựa vào

sự khác nhau giữa nhân sinh quan trong thực tiễn cuộc sống chưa được hệ thống

hóa với tập hợp những tư tưởng đã nghiên cứu một cách sáng tạo được hệ thống

hóa thành lý luận thành học thuyết.

Ý thức sinh hoạt đời thường không có nghĩa là tầm thường tự phát, hoang dã

hay ít có giá trị, mà nó lại bao hàm nội dung rộng lớn của cuộc sống. Tuy nó chưa

có tính hệ thống, tính hợp lý và tính khoa học nhưng nó lại mang tính đầy đủ toàn

vẹn của cảm giác sống, nó gắn với hiện thực trực tiếp của đời sống, phản ánh được

những chi tiết gần gũi của đời sống. Chính kinh nghiệm của ý thức đời thường là

cái kho để các khoa học tìm kiếm nội dung của mình.

Ý thức lý luận là toàn bộ tư tưởng, quan điểm của xã hội được hệ thống hóa

thành hệ thống một cách hợp lý, thành chỉnh thể trong những khoa học cụ thể,

nghệ thuật, triết học… Đặc điểm của ý thức lý luận là tính hệ thống, tính hợp lý,

tính có hiểu biết về những mối liên hệ bản chất tất yếu của các hiện tượng xã hội,

tính phản ánh trừu tượng khái quát bằng các phạm trù khái niệm.

- Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng.

+ Tâm lý xã hội là một bộ phận ở cấp độ ý thức sinh hoạt đời thường, trong

đó xuất hiện những quan niệm và sự đánh giá đa dạng các hiện tượng xã hội,

những lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, những phong tục truyền thống, những thiên

hướng và những hứng thú, hình ảnh, ước mơ…

Đặc điểm của tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp điều kiện sống hàng ngày,

phản ánh bề mặt của tồn tại xã hội, không có khả năng vạch ra bản chất và những

nguyên nhân sâu xa các mối quan hệ vật chất xã hội. Nó mang tính chất kinh

nghiệm chưa được thể hiện về mặt lý luận, những yếu tố trí tuệ thường trộn lẫn với

những yếu tố tình cảm.

101

+ Hệ tư tưởng là bộ phận ở cấp độ ý thức lý luận, trong đó bao gồm sự đánh

giá một cách có hệ thống về hiện thực xã hội, trên lập trường, quan điểm của một

giai cấp, một Đảng nhất định, nêu ra nhiệm vụ và mục đích chính trị-xã hội: xây

dựng hệ thống những quan điểm về quyền lực của giai cấp, của đảng phái đó.

Hệ tư tưởng phản ánh một cách sâu sắc về những điều kiện sinh hoạt vật

chất của xã hội, nó là sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội dựa trên cơ sở khái

quát những kinh nghiệm xã hội đã được tích lũy của những giai cấp, tập đoàn xã

hội nhất định.

Hệ tư tưởng có thể là tư tưởng khoa học, cũng có thể phản khoa học tùy vào

việc nó có phản ánh đúng đắn các mối quan hệ vật chất của xã hội hay không.

+ Giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội có mối quan hệ tác động lẫn

nhau, do có chung một nguồn gốc là tồn tại xã hội và cùng phản ánh tồn tại xã hội.

Tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu hệ tư tưởng xã hội. Ngược

lại, hệ tư tưởng xã hội lại củng cố và phát triển tâm lý xã hội. Nhưng hệ tư tưởng

không nảy sinh trực tiếp từ tâm lý xã hội và cũng không là sự “cô đặc” của tâm lý

xã hội.

- Ý thức xã hội là sự phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, vì thế,

trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có

giai cấp đối kháng, tư tưởng thống trị của một thời đại bao giờ cũng là tư tưởng

của giai cấp thống trị về kinh tế và chính trị của thời đại đó, các giai cấp khác

thường chịu ảnh hưởng tư tưởng của giai cấp thống trị. Ý thức xã hội, ý thức giai

cấp, ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng là những khái niệm đồng nhất.

Câu 40: Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức

xã hội, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận.

Tồn tại xã hội là toàn bộ đời sống vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật

chất của xã hội. Kết cấu của tồn tại xã hội gồm ba yếu tố: Điều kiện tự nhiên, điều

kiện dân số và phương thức sản xuất do phương thức sản xuất quyết định.

102

Ý thức xã hội là toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội, là sự phản ánh tồn tại

xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của lịch sử.

Giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội có mối quan hệ biện chứng trong đó tồn

tại xã hội giữ vai trò quyết định và ý thức xã hội tác động trở lại đối với tồn tại xã

hội.

Tính quyết định của tồn tại xã hội thể hiện ở: Tồn tại xã hội có trước, ý thức

xã hội có sau; tồn tại xã hội thế nào thì ý thức xã hội thế đó; tồn tại xã hội biến đổi,

đặc biệt là sự biến đổi của phương thức sản xuất dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã

hội. Vì vậy, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng lý luận trong óc người mà phải

tìm nó trong hiện thực vật chất. Không thể giải thích một cách đầy đủ sự biến đổi

của một thời đại nào nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó. Tuy vậy, không

phải bất cứ ý thức xã hội nào cũng trực tiếp phản ánh những quan hệ kinh tế của

thời đại nó, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh

bằng cách này hay cách khác trong những tư tưởng đó.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện những mặt sau:

- Ý thức xã hội thường có tính lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. Thông

thường đó là thói quen, tập quán, truyền thống, niềm tin tôn giáo,.. Tính lạc hậu

của ý thức xã hội bao giờ cũng cản trở đối sự phát triển của tồn tại xã hội.

- Những tư tưởng tiến bộ, khoa học thường vượt trước tồn tại xã hội, nó có

vai trò định hướng, hướng dẫn cho hoạt động thực tiễn.

- Sự phát triển của ý thức xã hội luôn có tính kế thừa. Vì thế không thể chỉ

dựa vào tồn tại xã hội, vào quan hệ kinh tế của một thời đại để giải thích nội dung

ý thức của thời đại đó mà còn phải dựa vào quan hệ kế thừa của ý thức xã hội nữa.

- Trong sự phát triển, các hình thái ý thức xã hội luôn có sự tác động qua lại

lẫn nhau. Chính vậy, có những tính chất, những mặt của ý thức xã hội hoặc của

mỗi hình thái ý thức xã hội không thể giải thích được một cách trực tiếp bằng tồn

tại xã hội hoặc bằng các quan hệ vật chất.

103

- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai

hướng tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào ý thức xã hội là tiến bộ, khoa học hay

lạc hậu, phản tiến bộ, phản khoa học.

Tuy vậy, vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại luôn phụ thuộc vào tính

chất của các quan hệ kinh tế mà trên đó nảy sinh những tồn tại nhất định, và vai trò

lịch sử của giai cấp giương cao ngọn cờ tư tưởng đó, phụ thuộc vào mức độ phản

ánh đúng đắn của tư tưởng đối với nhu cầu phát triển xã hội, phụ thuộc vào mức độ

thấm nhuần, mở rộng tư tưởng trong quần chúng nhân dân.

Ý nghĩa phương pháp luận của vấn đề này:

Nếu chỉ thấy tính quyết định của tồn tại xã hội một cách may móc sẽ rơi vào

duy vật tầm thường. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội sẽ rơi

vào chủ nghĩa duy tâm. Trong hoạt động thực tiễn và nhận thức phải luôn đấu tranh

khắc phục cả hai khuynh hướng đó. Trong cải tạo xã hội cũ, xã hội xã hội mới phải

tiến hành cả trên hai lĩnh vực tồn tại xã hội và ý thức xã hội.

Câu 41: Khoa học là gì? Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã

hội?

Khoa học là một hình thái ý thức xã hội, là hệ thống tri thức chân thực về thế

giới được kiểm nghiệm qua thực tiễn.

- Đối tượng nhận thức của khoa học bao quát mọi lĩnh vực của tự nhiên, xã

hội và tư duy. Hình thức biểu hiện của khoa học là phạm trù, định luật quy luật.

Xét về đối tượng nghiên cứu thì tri thức khoa học được chia thành khoa học

tự nhiên-kỹ thuật (nghiên cứu các quy luật của tự nhiên và những phương thức

chinh phục, cải tạo tự nhiên), khoa học xã hội (nghiên cứu các hiện tượng xã hội,

các quy luật vận động và phát triển của xã hội). Các khoa học cụ thể nghiên cứu

từng lĩnh vực, từng quy luật của thế giới. Triết học là khoa học nghiên cứu những

vận động chung nhất, những quy luật chung nhất của thế giới (dĩ nhiên, mãi đến

khi triết học Mác-Lênin ra đời thì triết học mới thực sự là một khoa học). Trong

104

mỗi khoa học lại có cấp độ kinh nghiệm (sự tổng kết các quan sát và thử nghiệm),

cấp độ lý luận (khái quát kinh nghiệm thành học thuyết, quy luật, nguyên lý…)

Xét về vai trò, tác dụng thì tri thức khoa học được chia thành khoa học cơ

bản và khoa học ứng dụng. Khoa học cơ bản vạch ra những quy luật, phương

hướng, phương pháp chung cho các khoa học ứng dụng. Khoa học ứng dụng vạch

ra những nguyên tắc, quy tắc, phương pháp cụ thể để ứng dụng trực tiếp vào hoạt

động cải biến tự nhiên và xã hội. Sự phân chia này chỉ là tương đối.

Trong sự phát triển hiện nay của nhận thức khoa học, có những bộ môn khoa

học có sự tương đồng lẫn nhau về đối tượng nghiên cứu (ví dụ: lý - sinh, sinh –

hóa,..), vì thế các khoa học cũng làm phong phú lẫn nhau và xuất hiện các khoa

học liên ngành.

- Vai trò của khoa học đối với sự phát triển xã hội có thể chia thành ba giai

đoạn:

+ Giai đoạn từ thời cổ đại đến thế kỷ XV, khoa học còn rất sơ khai, bó hẹp

trong một số lĩnh vực nhất định như thiên văn, toán học, cơ học… Nhằm đáp ứng

các nhu cầu về tưới nước, hàng hải, xây dựng lâu đài, lăng tẩm. Tri thức khoa học

ảnh hưởng đến sản xuất rất ít, thậm chí ở phương Tây thời Trung cổ, khoa học lệ

thuộc vào thần học.

+ Giai đoạn thứ hai thừ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, khoa học trở thành một

tiền đề của công nghiệp hóa, là nội dung tinh thần của lực lượng sản xuất, mà trước

hết là tạo ra cơ sở lý luận để chế tạo những công cụ máy móc ngày càng hoàn thiện

cho phép tiêu hao lao động sống ít mà đạt kết quả to lớn trong sản xuất vật chất.

Khoa học xã hội đã đề cao chủ nghĩa nhân văn với tinh thần dân chủ sâu sắc, dần

dần thoát khỏi các thuyết thần học.

+ Giai đoạn thứ ba trong thế kỷ XX: khoa học và kỹ thuật có sự kết hợp

nhau thành một thể thống nhất. Khoa học đã phát hiện ra những đặc tính mới, quy

luật mới của tự nhiên và sự sống, tạo ra và sử dụng những nguyên liệu mới có tác

dụng nhiều mặt, tạo ra những dạng năng lượng mới cực mạnh, mở ra nhiều triển

vọng to lớn để hiểu biết và phát hiện những tài nguyên mới trong vũ trụ và quả đất,

105

tạo ra và ứng dụng kỹ thuật mới trong điều trị bệnh, lai tạo giống loài, điều chỉnh

quá trình sống của động vật…

Khoa học đã và đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp làm cho

cuộc sống và lao động của con người trở nên đỡ vất vả, tăng thêm quyền lực, trí

tuệ của con người đối với tự nhiên, góp phần hoàn thiện các quan hệ xã hội, hoàn

thiện nhân cách của con người, giúp con người phát triển hài hòa tự do, hạnh phúc.

Khoa học đã mở rộng chân trời cho sự sống, sự sáng tạo những của cải vật chất và

tinh thần dồi dào. Song dù sao thì khoa học cũng chỉ là phương tiện chứ không là

mục đích, nó không là giá trị cao nhất của văn minh loài người.

Câu 42: Văn hóa là gì? Phân tích bản chất, chức năng và đặc điểm của

sự phát triển văn hóa.

1. Văn hóa là gì?

- Văn hóa theo nghĩa rộng là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh thần

cũng như các phương thức tạo ra chúng, kỹ năng sử dụng các giá trị đó vì sự tiến

bộ của loài người và sự truyền thụ giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.

- Xét trên quan điểm giá trị: văn hóa là trình độ phát triển của các quan hệ

nhân tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định và

giữ gìn như những hệ giá trị đặc trưng cho bản sắc của dân tộc, quốc gia trong hệ

chuẩn cơ bản: là CHÂN - THIỆN - MỸ.

- Phân biệt khái niệm văn hóa và văn minh

Văn hóa hiểu một cách tổng quát là tổng hòa những giá trị vật chất và tinh

thần của loài người, nhưng trong các thời kỳ phát triển khác nhau của văn hóa thì

sự sáng tạo của họ cũng có sự khác nhau. Trong các thời kỳ đó đều có những đặc

trưng riêng và để chỉ từng thời kỳ đặc trưng văn hóa đó người ta dùng khái niệm

văn minh. Ví dụ như: văn minh đồ đá, văn minh đồ đồng, văn minh đồ sắt, văn

minh phương Đông, văn minh phương Tây… Vậy văn minh là một khái niệm dùng

để chỉ một thời kỳ đặc trưng hay một vùng đặc trưng để so sánh với các thời kỳ

106

khác nhau, các vùng khác nhau trong sự phát triển xã hội. Nó chính là thước đo

trình độ phát triển của văn hóa trong mỗi vùng hay mỗi thời kỳ nhất định.

2. Bản chất và chức năng của văn hóa:

Với khái niệm trên văn hóa được chia thành văn hóa vật chất và văn hóa tinh

thần.

- Văn hóa vật chất: là toàn bộ những giá trị sáng tạo của con người được thể

hiện trong các của cải vật chất do xã hội tạo ra, kể từ các tư liệu sản xuất cho đến

các tư liệu tiêu dùng của xã hội.

Trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự phát triển xã hội thì sản

phẩm do xã hội tạo ra cũng khác nhau, đó chính là sự phản ánh các giai đoạn phát

triển khác nhau của văn hóa.

- Văn hóa tinh thần: là toàn bộ những giá trị của đời sống tinh thần bao gồm

khoa học và mức độ áp dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất và sinh hoạt,

trình độ học vấn, tình trạng giáo dục, y tế, nghệ thuật, chuẩn mực đạo đức trong

hành vi của các thành viên xã hội, trình độ phát triển nhu cầu của con người. Văn

hóa tinh thần còn bao gồm cả những phong tục, tập quán, những phương thức giao

tiếp và ngôn ngữ.

- Ranh giới giữa văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần chỉ có tính tương đối.

- Văn hóa có tính khách quan. Tuy xuất hiện với tính cách là sản phẩm của

con người nhưng theo dòng lịch sử, những thành tựu ấy tựa hồ như siêu thời gian

tạo ra truyền thống và không phụ thuộc vào cá nhân riêng lẻ mà với tư cách là một

thực thể được phát triển về mặt xã hội.

- Văn hóa là một biểu hiện xã hội không chỉ bao quát quá khứ, hiện tại mà

còn trải qua trong tương lai. Văn hóa quá khứ trong những tấm gương tốt đẹp cùng

tham dự và sống lại với hiện tại và con người sống và sáng tạo hôm nay lại truyền

thụ tư tưởng của mình, kết quả lao động của mình cho những thế hệ thay thế mình

theo dòng lịch sử.

107

- Văn hóa là thuộc tính bản chất, tộc loại của con người với các chức năng,

giáo dục, nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định, chuẩn mực của hành vi, điều

chỉnh các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song cốt lõi trong các chức năng của các giá

trị văn hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì

tất cả các giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Ngày

nay nền văn hóa nhân loại với tất cả tầm vóc của nó gợi cho con người điều tự hào

cao cả và tinh thần trách nhiệm, bên cạnh đó con người không thể không lo lắng và

thậm chí cả sợ hãi trước vô số những vấn đề của thế giới hiện đại.

3. Đặc điểm của sự phát triển văn hóa.

- Lịch sử phát triển của các yếu tố văn hóa không đồng đều. Trong cùng một

giai đoạn có thể mặt này phát triển mặt kia lạc hậu. Có mặt phát triển nhanh hơn

hay chậm hơn so với kinh tế. Song xét trong toàn bộ quá trình lịch sử thì văn hóa

ngày càng phát triển và sự phát triển của văn hóa là do kinh tế, do phương thức sản

xuất quy định.

- Văn hóa tinh thần của một hình thái kinh tế-xã hội xuất hiện và phát triển

trên cơ sở vật chất cụ thể và phản ánh trình độ phát triển nhất định của tồn tại vật

chất. Song do các yếu tố khác nhau của văn hóa tinh thần gắn liền với cơ sở vật

chất cũng không giống nhau. Một số gắn trực tiếp với cơ sở vật chất như là khoa

học tự nhiên, kỹ thuật… Có một số lại gắn một cách gián tiếp như triết học, nghệ

thuật, đạo đức, thẫm mỹ…

- Sự phát triển của văn hóa mang tính kế thừa.

Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của văn hóa cũng đều có sự kế thừa

văn hóa xã hội đã đạt được trong các giai đoạn trước. Các giai cấp tiên tiến bao giờ

cũng biết nắm lấy những thành tựu văn hóa đã đạt được của quá khứ, trên cơ sở đó

tiếp thu chọn lọc cải tạo một cách có phê phán bổ sung làm cho nó ngày càng phát

triển. Tính liên tục trong quá trình phát triển của văn hóa là một đặc điểm quan

trọng mà ngay cả lúc chuyển biến cách mạng từ xã hội này sang xã hội khác cũng

không thể bị phá vỡ.

108

- Sự phát triển của văn hóa còn có đặc điểm là giữa các yếu tố cấu thành của

văn hóa có mối quan hệ tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Sự liên

hệ tác động qua lại lẫn nhau đó có thể trực tiếp hoặc gián tiếp, có thể diễn ra trong

một thời gian tương đối ngắn cũng có thể diễn ra trong một thời gian tương đối dài.

Sự kế thừa và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố cấu thành của văn hóa diễn ra

trong quá trình phát triển của nó so với chế độ kinh tế, phương thức sản xuất.

- Hiện nay Đảng và nhân dân ta đang xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm

đà bản sắc dân tộc. Bản sắc đó được thể hiện trong hệ giá trị tình thần của cộng

đồng dân tộc Việt Nam. “Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc,

tinh thần đoàn kết, ý chí cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ chức;

lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong

lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong đời sống…” (Văn kiện Hội

nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương khóa VIII). Đó là nền tảng tinh thần to

lớn để nhân dân ta xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ, công bằng và nhân ái.

Tuy nhiên ở nước ta hiện nay, nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa mới được

hình thành, chưa có sự phát triển đầy đủ, chưa có một thế phòng ngự vững chắc để

chống lại các văn hóa độc hại và đồi trụy. Trước tình hình đó: “Việc tạo ra môi

trường văn hóa của chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa giá trị

truyền thống và giá trị hiện đại thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn là trách

nhiệm to lớn của toàn Đảng và của toàn dân ta”…