tu 121-125.cdr
TRANSCRIPT
oµ Tạp chí Khoa học và Công nghệ
CHUYÊN SAN KHOA HỌC XÃ HỘI – HÀNH VI
Mục lục Trang
Nguyễn Thu Quỳnh - Về hoán dụ ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều (Nguyễn Du) 3
Nguyễn Thị Thu Hương - Một số đặc điểm nồi bật của lời văn nghệ thuật trong tiểu thuyết Vi Hồng 7
Trần Thị Ngọc Anh - Lý luận, phê bình văn học và diễn ngôn lý luận, phê bình văn học (những vấn đề khái niệm) 15
Hà Thị Thanh Hoa, Dương Thị Thuý Hương - Quản trị chuỗi cung ứng của Công ty Cổ phần Thương mại và Đầu tư Hoàng Gia 21
Đỗ Thị Thu Hằng, Trần Tuấn Anh, Hoàng Thị Thu - Kế toán mất mát, hao hụt hàng hoá: Những vấn đề đặt ra
đối với doanh nghiệp thương mại 25
Nguyễn Thị Hồng Yến, Trần Phạm Văn Cương, Nguyễn Chí Dũng - Đa dạng hóa hình thức huy động vốn và sử dụng vốn tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Hà Giang 31
Đỗ Thị Thúy Phương - Quản lý rủi ro tín dụng tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
huyện Vĩnh Tường 39
Phí Thị Hiếu - Môi trường trường học học phổ thông an toàn về tâm lý 45
Nguyễn Thị Uyên - Phân tích môi trường và định hướng chiến lược cho các doanh nghiệp bán lẻ nội địa tại
Việt Nam 49
Trần Huy Ngọc, Nguyễn Thị Ngân - Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại
học nước ta hiện nay 57
Lê Thị Quỳnh Trang, Lê Thị Thu - Những yếu tố ảnh hưởng, chi phối đến tính tích cực giảng dạy của
giảng viên 63
Nguyễn Văn Thanh, Hoàng Thị Huyền - Thực trạng hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa sinh viên trường ĐH
Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên 69
Nguyễn Thị Lan Anh - Một số vấn đề về quản lý tài chính tại Bệnh viên Đa khoa Trung ương Thái Nguyên 75
Nguyễn Việt Dũng, Mai Thanh Giang, Dương Thanh Tình - Sử dụng phương pháp chi phí sử dụng vốn xác
định cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp 81
Trần Hoàng Tinh - Thực trạng và biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn học Giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục Quốc phòng Thái Nguyên 87
Dương Đức Minh - Ứng dụng hoạt động học theo đề án vào dạy và học Tiếng Anh nhằm thúc đẩy quá trình tự
học và học tập suốt đời của sinh viên 93
Phạm Thị Mai Yến - Mô hình phát triển hệ thống phân phối mặt hàng thép xây dựng của Tổng Công ty Cổ phần Thép Việt Nam trong giai đoạn hiện nay 99
Đỗ Thị Tám, Nguyễn Ngọc Toàn, Phan Đình Binh - Thực trạng và định hướng phát triển hệ thống điểm dân cư
huyện Yên Thế - tỉnh Bắc Giang theo hướng xây dựng nông thôn mới 105
Ngô Xuân Hoàng - Giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện Phổ Yên – Thái Nguyên 113
Đỗ Lệ Hà - Định hướng quản lý, tổ chức đào tạo chương trình tiên tiến đáp ứng những yêu cầu cơ bản của kiểm
định chương trình Abet 121
Lê Đăng Lăng, Lê Tấn Bửu - Phát triển thang đo một số khái niệm tiếp thị dựa vào khách hàng 127
Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Đức Thu, La Qúi Dương - Ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội đến hành vi phàn nàn
và truyền miệng tiêu cực của khách hàng 135
Lê Ngọc Nương, Nguyễn Hải Khanh - Giải pháp marketing địa phương nhằm thu hút khách du lịch đến Sơn La 141
Nguyễn Thị Thủy, Nguyễn Nam Hà, Nguyễn Thị Hà Trang - Công tác quản lý sinh viên – nhân tố góp phần
khẳng định thương hiệu Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – Đại học Thái Nguyên 149
Nguyễn Minh Tân – Chuẩn hóa trình độ và kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin – giải pháp thiết thực nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm 155
Trần Thị Ngọc Bích – So sánh mức độ hài lòng của các tổ trưởng tổ tiếng Anh với các giáo viên Tiếng Anh mới
ra trường ở các trường phổ thông có các đặc điểm khác nhau ở Việt Nam 161
Journal of Science and Technology
125(11)
N¨m 2014
Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 3 - 6
3
VỀ HOÁN DỤ Ý NIỆM “SỢ HÃI” TRONG TRUYỆN KIỀU (NGUYỄN DU)
Nguyễn Thu Quỳnh*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Tìm hiểu các hoán dụ về ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), chúng tôi xác lập được
2 hoán dụ cơ bản: Phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi và Phản xạ sinh lí của cơ thể thay cho
sợ hãi. Mặc dù có những dấu hiệu của sự tiếp biến, giao lưu văn hóa với Trung Quốc ở kiểu tư duy
đậm chất Á Đông, nhưng sự tri nhận của Nguyễn Du về ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều vẫn
thể hiện được nét riêng, nét sáng tạo của ông trong việc vận dụng vốn ngôn ngữ của dân tộc để ý
niệm hóa những điều mang tính phổ quát và đã được nhân loại tri nhận.
Từ khóa: hoán dụ, ý niệm, sợ hãi, Truyện Kiều, Nguyễn Du
DẪN LUẬN*
Với vai trò là “cơ sở của tư duy”, là “chìa
khóa để mở ra sự hiểu biết”, hoán dụ ý niệm
(conceptual metonymy) được xem là một
trong những công cụ quan trọng để con người
khám phá chính bản thân, đặc biệt trong lĩnh
vực tình cảm - một lĩnh vực vốn được xem là
trừu tượng, khó nắm bắt, khó kiểm soát của
con người. Tìm hiểu hoán dụ ý niệm “sợ hãi”
(fear), chúng tôi mong muốn góp phần làm
sáng tỏ thêm quá trình tri nhận của con người
ở phương diện trạng thái tâm lí tình cảm, cụ
thể là trạng thái sợ hãi - một trạng thái tâm lí
tình cảm có tính tiêu cực, xuất hiện từ việc
nhận thức được về các mối đe dọa.
Truyện Kiều là quyển bách khoa của tâm
trạng. Vì vậy, Phan Ngọc đã gọi tác phẩm này
là “một cuốn tiểu thuyết tâm lí” và coi
Nguyễn Du là “tác giả của vạn tâm hồn”.
Với mong muốn thông qua ngôn ngữ Truyện
Kiều để khám phá thế giới tâm lí tình cảm của
con người nói chung và các nhân vật trong tác
phẩm này nói riêng, ở bài viết này, chúng tôi
sẽ tìm hiểu các hoán dụ về ý niệm “sợ hãi”
theo quan điểm của ngôn ngữ học tri nhận.
Chúng tôi cũng hi vọng thông qua bài viết
này để tìm hiểu những biểu tượng tinh thần
của ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều, từ đó
thấy được những phổ quát của nhân loại và
những nét đặc thù văn hóa - dân tộc của Việt
Nam ở việc ý niệm hóa trạng thái tâm lí tình
cảm “sợ hãi”.
* Tel: 0975459119, Email: [email protected]
VÀI NÉT VỀ HOÁN DỤ Ý NIỆM VÀ Ý
NIỆM “SỢ HÃI”
Hoán dụ ý niệm
Kovecses định nghĩa: “Hoán dụ là một quá
trình tri nhận trong đó một thực thể ý niệm
(phương tiện) cung cấp sự tiếp cận tinh thần
đến một thực thể ý niệm khác (đích) trong
cùng một miền hoặc cùng một mô hình tri
nhận lí tưởng” [3, tr.145]. Như vậy, so với ẩn
dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm về bản chất cũng
được coi là cái có tính ý niệm, đều liên quan
đến lược đồ ánh xạ và đều là phương tiện để
mở rộng tiềm lực của một ngôn ngữ. Điểm
khác nhau chủ yếu giữa hoán dụ ý niệm với
ẩn dụ ý niệm là: ẩn dụ chứa đựng một sự ánh
xạ qua các mô hình tri nhận khác nhau còn
hoán dụ lại ánh xạ trong cùng một mô hình.
Điều đó có nghĩa là một phạm trù trong một
mô hình được lấy làm chỗ dựa cho phạm trù
khác trong cùng một mô hình. Vì vậy, chức
năng chủ yếu của biểu thức hoán dụ ý niệm
như Nguyễn Thiện Giáp phân tích chính là:
“kích hoạt một phạm trù tri nhận bằng cách
quy chiếu vào phạm trù khác trong cùng một
mô hình và bằng cách đó, nêu bật phạm trù
thứ nhất hoặc tiểu mô hình mà nó thuộc vào”
[2, tr.249].
Ý niệm “sợ hãi”
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa:
“Sợ là ở trong trạng thái không yên lòng vì
cho rằng có cái gì đó trực tiếp gây nguy hiểm
hoặc gây hại cho mình, mà tự thấy không thể
chống lại hoặc tránh khỏi” [5, tr.870].
Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 3 - 6
4
Ch. Darwin - nhà tự nhiên học người Anh đã
miêu tả cảm xúc “sợ hãi” như sau: Người sợ
hãi giây phút đầu tiên đứng lặng như trời
trồng, nín thở hoặc quỵ xuống đất một cách
bản năng. Tim đập nhanh, máu dồn về các bộ
phận của cơ thể, da tái nhợt, mồ hôi toát ra, bề
mặt của da trở nên lạnh, lông trên mặt dựng
đứng, các cơ bắt đầu run, hơi thở dồn dập,
miệng khô, giọng khàn… (Lược dẫn theo
Trần Văn Cơ [1, tr.333 - 334].
Trên cơ sở những phản ứng của cơ thể khi sợ
hãi, Lakoff đã đề xuất kịch bản (scenarios)
cho “sợ hãi” (dẫn theo Nguyễn Thiện Giáp
[2, tr.252]) như sau:
- Nguyên nhân: Tình huống nguy hiểm, gồm
sự chết chóc, đau đớn về vật chất và tinh thần.
Bản thân nhận thấy nguy hiểm.
- Cảm xúc: Nỗi sợ tồn tại. Kinh nghiệm bản
thân về hậu quả sinh lí và hành vi
- Cố gắng kiểm soát: Bản thân cố gắng không
phô bày nỗi sợ và/ hoặc không bỏ chạy.
- Mất kiểm soát: Nỗi sợ tăng lên vượt giới hạn.
Bản thân mất đi sự kiểm soát trước nỗi sợ.
- Hành động: Bản thân bỏ chạy khỏi nỗi sợ.
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tìm hiểu về
hoán dụ ý niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều
(Nguyễn Du) (bản do Đào Duy Anh khảo
đính và chú giải, Nxb Giáo dục, H., 2009) để
thấy được cách nhìn nhận của tác giả về một
trong những phạm trù tâm lí tình cảm cơ bản
nhất của con người.
KẾT QUẢ KHẢO SÁT HOÁN DỤ Ý NIỆM
“SỢ HÃI” TRONG TRUYỆN KIỀU
Kết quả khảo sát cụ thể về các hoán dụ ý
niệm “sợ hãi” xuất hiện trong Truyện Kiều
được thể hiện trong bảng sau:
Bảng kết quả khảo sát hoán dụ ý niệm “sợ hãi”
trong Truyện Kiều
STT Hoán dụ
Lượt
xuất
hiện
Tỉ lệ
(%)
1 Phản xạ biểu lộ tình
cảm thay cho sợ hãi 8 61,5
2 Phản xạ sinh lí của cơ
thể thay cho sợ hãi 5 38,5
Nhận xét: Kết quả khảo sát cho chúng ta mô
hình hoán dụ tri nhận của Nguyễn Du về ý
niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều cũng xuất
phát từ những mô hình tri nhận chung của
nhân loại. Các ánh xạ hoán dụ về ý niệm “sợ
hãi” được tìm thấy trong Truyện Kiều có liên
quan đến các phản xạ biểu lộ tình cảm và các
phản xạ sinh lí.
Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt tìm hiểu các
hoán dụ tri nhận về ý niệm “sợ hãi” đã xuất
hiện trong Truyện Kiều.
MÔ HÌNH TRI NHẬN CỦA CÁC HOÁN DỤ
Ý NIỆM “SỢ HÃI” TRONG TRUYỆN KIỀU
Phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi
Hoán dụ phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ
hãi xuất phát từ cơ sở nghiệm thân khi sợ hãi
con người thường có những biểu hiện bộc lộ
tình cảm như mắt mở tròn xoe, mắt trợn tròn,
nhìn lấm lét, miệng há hốc, miệng im thin
thít, hết hồn hết vía, hồn bay phách lạc…
Trong Truyện Kiều, khi nói đến các phản xạ
biểu lộ tình cảm “sợ hãi”, Nguyễn Du đã
dùng các biểu đạt gắn với phần hồn và phần
phách của con người. Hoán dụ này được xuất
hiện thông qua các biểu thức ngôn từ như:
phách lạc hồn bay, phách lạc hồn xiêu, hồn
lạc phách xiêu, hồn kinh phách rời, thất
kinh, tán hoán… Cách tri nhận này mang
tính đặc trưng của dân tộc Việt tương đối sâu
sắc. Người Việt cho rằng con người có phần
hồn và phần phách. Khi thân thể đã chết,
phách vẫn còn và từ từ tan biến còn hồn vẫn
còn nguyên. Do quan niệm như vậy nên khi
gặp tình huống nguy hiểm, người Việt
thường mã hóa sự sợ hãi thông qua các ý
niệm hồn và phách. Trong Truyện Kiều,
Nguyễn Du đã thể hiện cách tri nhận này khi
nói tới nỗi sợ hãi của Kiều lúc gặp lũ ác
nhân nhà họ Hoạn đến bắt cóc nàng về Vô
Tích, nỗi sợ hãi của Thúc Ông và gia nhân
khi nghĩ rằng Kiều đã bị chôn vùi trong đống
lửa ở cửa hàng Lâm Tri… Đặc biệt, nỗi sợ
hãi của Thúc Sinh khi nhận ra Thúy Kiều
đang ở nhà Hoạn Thư trong phận tôi đòi đã
được Nguyễn Du miêu tả:
Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 3 - 6
5
1823. Sinh đà phách lạc hồn xiêu,
“Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây?”
Vốn bản chất sợ vợ nên việc nhận ra Thúy
Kiều và phải chứng kiến trận đòn ghen “ba
máu sáu cơn” của vợ mình là tiểu thư con gái
viên quan Bộ Lại đã khiến Thúc Sinh phách
lạc hồn xiêu. Nguyễn Du đã thông qua hoán dụ
phản xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi để ý
niệm hóa nỗi sợ hãi. Nỗi sợ ghê gớm này còn
được thể hiện thông qua biểu thức ngôn từ:
2363. Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
trong tình huống Hoạn Thư phải ra trước tòa
án ở Lâm Tri và phải đối mặt với phu nhân
của Đại vương họ Từ - người mà nàng đã
từng trút giận bằng một trận đòn “ngứa ghẻ
hờn ghen”.
Như vậy, trong mô hình hoán dụ ý niệm phản
xạ biểu lộ tình cảm thay cho sợ hãi, Nguyễn
Du đã sử dụng các hình ảnh “hồn” và
“phách” quen thuộc trong tư duy của người
Việt nói riêng và người phương Đông nói
chung để ý niệm hóa sự sợ hãi.
Phản xạ sinh lí của cơ thể thay cho sợ hãi
Hoán dụ phản xạ sinh lí của cơ thể thay cho
sợ hãi cũng xuất phát từ cơ sở nghiệm thân là
khi sợ hãi con người thường có những biểu
hiện sinh lí như xanh mặt, tái mặt, dựng tóc
gáy, run rẩy, rùng mình, thót tim, ù tai, sởn
gai nổi da gà, toát mồ hôi, khóc lóc, sa sẩm
mặt mày, mặt cắt không còn hột máu… Trong
Truyện Kiều, để ý niệm hóa nỗi sợ hãi,
Nguyễn Du cũng thường xuyên tri nhận theo
mô hình hoán dụ ý niệm này.
Để nói về nỗi sợ hãi của Tú Bà, Nguyễn Du
dùng phản xạ sinh lí “run rẩy” thay cho
“sợ hãi”:
989. Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
Trong trường hợp này, Tú Bà đã sợ hãi thực
sự trước việc Thúy Kiều định quyên sinh. Nỗi
sợ hãi ấy của Tú Bà là hoàn toàn có cơ sở vì
tất cả vốn liếng của mụ giờ đã nằm cả trong
tay Kiều.
Bản thân Kiều cũng được Nguyễn Du miêu tả
về nỗi sợ hãi đến mức “sởn gai” khi nàng
biết việc Hoạn Thư đã đứng hồi lâu nghe
Thúc Sinh và mình tâm sự:
2005. Ấy mới gan, ấy mới tài,
Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời.
Và đặc biệt, khi nói đến nhân vật Thúc Sinh,
để làm nổi bật tính cách sợ vợ của anh chàng
này, Nguyễn Du đã dùng phản xạ sinh lí
“cứng lưỡi” đến nỗi không nói ra lời và
“khóc lóc” để ý niệm hóa nỗi sợ hãi.
1827. Sợ quen dám hở ra lời,
Khôn ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
Có thể thấy, thông qua các phản xạ sinh lí này
của Thúc Sinh, chúng ta đủ biết quan hệ vợ
chồng của Thúc Sinh thực chất là quan hệ
đẳng cấp. Đối với Hoạn Thư, không thể có
chuyện xuất giá tòng phu và cái ngôi hàng ở
Lâm Tri cũng không chứa nổi một người như
Hoạn Thư.
Bản chất của Thúc Sinh là nhút nhát, nhu
nhược, điển hình của anh chàng sợ vợ thì
trước cảnh ba quân gươm lớn, giáo dài, “nỗi
sợ hãi” của anh chàng này mới được bộc lộ
một cách thật thảm hại.
2325. Cho gươm mời đến Thúc lang,
Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run.
Và ngoại hình thiểu não của Thúc Sinh lúc
bấy giờ cũng được Nguyễn Du khắc họa:
2337. Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.
Như vậy, khi nói đến nhân vật Thúc Sinh,
Nguyễn Du đã dùng rất nhiều các phản xạ
sinh lí của nhân vật như mặt như chàm đổ,
mình dường dẽ run, mồ hôi ướt đầm để ý
niệm hóa nỗi sợ hãi. Nhân vật Thúc Sinh
trong Truyện Kiều không chỉ sợ vợ, sợ cái uy
quyền của gia đình họ Hoạn mà còn run sợ
trước quân tướng của Từ Hải. Điều này cũng
chứng tỏ Thúc Sinh không bao giờ nghĩ Kiều
là kẻ chịu ơn mình và việc mình phải đến
phiên tòa ở Lâm Tri không phải để Thúy Kiều
tạ ơn mà để mình đền tội.
Như vậy, trong mô hình hoán dụ ý niệm phản
xạ sinh lí của cơ thể thay cho sợ hãi, Nguyễn
Du đã sử dụng rất nhiều các phản xạ sinh lí của
con người khi sợ hãi như: xanh mặt, run rẩy,
toát mồ hôi, sởn da gà để ý niệm hóa về sự sợ
hãi của các nhân vật trong tác phẩm của mình.
Nguyễn Thu Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 3 - 6
6
KẾT LUẬN
Trong Truyện Kiều, chúng tôi xác định được
hai hoán dụ về ý niệm “sợ hãi”: phản xạ biểu
lộ tình cảm thay cho sợ hãi và phản xạ sinh lí
của cơ thể thay cho sợ hãi. Các hoán dụ ý
niệm này thông qua cách tri nhận của Nguyễn
Du về cơ bản mang tính phổ quát của nhân
loại và có cơ sở nghiệm thân tương đối sâu
sắc. Tuy nhiên, trong quá trình ý niệm hóa
tình cảm “sợ hãi” này, Nguyễn Du lại đặc
biệt chú ý đến mối liên hệ với phần hồn và
phách của con người và các phản xạ sinh lí
của con người như: mặt như chàm đổ, mình
dường dẽ run, mồ hôi ướt đầm...
Thông qua hai hoán dụ ý niệm này, chúng tôi
nhận thấy sự tri nhận của Nguyễn Du về ý
niệm “sợ hãi” trong Truyện Kiều có nhiều nét
gắn với đặc trưng tư duy - văn hóa của người
Việt. Điều này chứng tỏ ở Nguyễn Du là sự
hội tụ của một minh triết phương Đông và của
trí tuệ dân gian dân tộc Việt. Đặc biệt, cách
Nguyễn Du ý niệm hóa sự sợ hãi thông qua
các phản xạ sinh lí của cơ thể có rất nhiều sự
gặp gỡ trong cách nói của người bình dân
Việt Nam qua các câu thành ngữ như: mặt
xanh nanh vàng, mặt xanh như chàm đổ, sợ
run như dẽ, run như cầy sấy, sợ toát mồ hôi,
sợ sởn gai ốc, sợ sởn da gà…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Văn Cơ (2011), Ngôn ngữ học tri nhận -
Từ điển (Tường giải & Đối chiếu), Nxb Phương
Đông, TP HCM.
2. Nguyễn Thiện Giáp (2012), Phương pháp luận
và phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb Giáo
dục, H.
3. Kovecses Z. (2002), Metaphor: A practical
introduction, Oxford University Press: USA.
4. Ly Lan, Lý Toàn Thắng (2011), “Chiếu xạ
trong các ẩn dụ ý niệm về tình cảm”, T/c Từ điển
học & Bách khoa thư, số 6 (14), tr.89 - 99.
5. Hoàng Phê (chủ biên) (2001), Từ điển tiếng
Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, H.
6. Lý Toàn Thắng (2005), Ngôn ngữ học tri nhận.
Từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt,
Nxb KHXH, H.
SUMMARY
CONCEPTUAL METONYMYS “FEAR” IN TRUYEN KIEU OF NGUYEN DU
Nguyen Thu Quynh*
College of Education –TNU
As a result of our research, there are two types of metonymys concerning fear: emotional
reflection instead of fear and physical reflection instead of fear. Though influenced by Chinese
culture, the linguistic cognition of fear in Nguyen Du’s work is unique. The author took full
advantage of the richness of Vietnamese vocabulary to conceptualize objects popularized and
cognized by others in a different way.
Key words: metonymy, conceptual, fear, Truyen Kieu, Nguyen Du
Ngày nhận bài:27/8/2014; ngày phản biện:15/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Nhung – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0975459119, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
7
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NỒI BẬT CỦA LỜI VĂN NGHỆ THUẬT
TRONG TIỂU THUYẾT VI HỒNG
Nguyễn Thị Thu Hương*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam nói
chung và các dân tộc thiểu số Việt Bắc nói riêng. Bằng việc sử dụng một số dạng lời văn tiêu biểu
trong lối viết tiểu thuyết như câu trần thuật lặp cấu trúc thành phần, câu ghép chỉ điều kiện (giả
thiết) – kết luận và câu ghép chỉ sự nhượng bộ, Vi Hồng không chỉ làm cho người đọc ấn tượng
với lối diễn đạt mềm mại, uyển chuyển, mượt mà và trong sáng mà còn làm nổi bật lên nội dung
thông điệp trong từng tiểu thuyết.
Từ khóa: Vi Hồng, văn xuôi, dân tộc thiểu số, lời văn nghệ thuật, tiểu thuyết
TÁC GIẢ VI HỒNG VÀ VẤN ĐỀ LỜI
VĂN NGHỆ THUẬT TRONG TÁC PHẨM
VĂN HỌC*
Vi Hồng là một trong những cây bút tiêu biểu
của nền văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt
Nam nói chung và các dân tộc thiểu số Việt
Bắc nói riêng. Sức sống các tác phẩm của
ông và tên tuổi của nhà văn đã được khẳng
định. Việc nghiên cứu các sáng tác của ông
những năm gần đây đã được mở rộng về
nhiều khía cạnh như: tính dân tộc, giọng
điệu, bản sắc văn hóa, cách viết, sự nghiệp
sáng tác… Trong đó, cách tổ chức lời văn
nghệ thuật của Vi Hồng cũng rất riêng và là
một đối tượng nghiên cứu đáng được quan
tâm. Theo Từ điển Thuật ngữ văn học “Lời
văn nghệ thuật là dạng phát ngôn được tổ
chức một cách nghệ thuật, là hình thức ngôn
từ nghệ thuật của tác phẩm văn học”
[7;288]. Trong bài viết này, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu lời văn nghệ thuật trong
tiểu thuyết Vi Hồng (cụ thể là một số dạng
câu điển hình mà nhà văn ưa dùng) dựa trên
lí luận về thi pháp lời văn trên các cấp độ
ngôn ngữ của GS Trần Đình Sử. Theo nhà lí
luận thì cú pháp cũng là phạm vi thể hiện thi
pháp; trong các quy tắc kết hợp của ngôn từ,
thi pháp cũng thể hiện đa dạng. Cụ thể, thơ
có các phép đảo trang, đối, lặp, tỉ, hứng, còn
cú pháp văn xuôi có những quy tắc khác
nhau tạo nên màu sắc riêng trong lối viết.
Nhà văn Lâm Tiến đã khẳng định Vi Hồng có
cách viết riêng: “vừa hiện thực, vừa lãng
* Tel: 0985610650
mạn, vừa dân gian, vừa bác học, vừa truyền
thống, vừa hiện đại” [5]. Nhưng dường như
cái lãng mạn, cái dân gian lấn lướt cái hiện
thực, cái bác học nên tác phẩm của Vi Hồng,
có thể nói, chúng được sáng tạo theo kiểu tư
duy dân gian – truyền thống. Chính cách tư
duy nghệ thuật như vậy chi phối mạnh mẽ
đến đặc điểm ngôn ngữ trong tác phẩm. Như
PosPelov từng viết: “Cái có ý nghĩa lớn nhất
là nguyên tắc phản ánh đời sống trong một
tác phẩm nào đó thuộc lối hiện thực hoặc
thuộc lối không hiện thực. Nhà văn càng xa
chủ nghĩa hiện thực thì khi đó ở các hành
động, suy nghĩ, tình cảm của nhân vật với
mức độ càng lớn, không bộc lộ cái bản chất
của tính cách mà thưởng chỉ bộc lộ tính
khuynh hướng tư tưởng cảm xúc, xu hướng
của tác phẩm khi đó các đặc điểm lời nói của
nhân vật càng gần với lời văn của tác giả”
[6;149 ]. Ở tiểu thuyết của Vi Hồng, hiện
tượng này khá nổi bật. Với quan niệm nghệ
thuật không lấy yêu cầu tái hiện hiện thực
nghiêm ngặt làm nguyên tắc sáng tác, Vi
Hồng chuộng miêu tả khả năng, dụng công
nhiều ở việc miêu tả cái có thể có (tức là khả
năng tưởng tượng, hư cấu, sáng tạo tạo nên
những hình tượng nghệ thuật thường mang
tính ước lệ, tượng trưng, lý tưởng hóa).
Khoảng cách rất gần giữa lời nói của nhân vật
và lối trần thuật của tác giả phục vụ cho đích
quan trọng nhất là bộc lộ thành công tư tưởng,
cảm xúc của tác phẩm.
Trong bài viết này, chúng tôi đi sâu phân tích
kiểu lời văn giàu tính ước lệ và tính cụ thể
hóa trong tiểu thuyết Vi Hồng dưới dạng tồn
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
8
tại trong hình thức một số cấu trúc câu. Với
lối tư duy nghệ thuật dân gian – truyền thống,
dường như những tác phẩm của Vi Hồng chỉ
mượn những chất liệu từ cuộc sống để tạo nên
tác phẩm của mình. Vì thế hình tượng trong
tác phẩm của Vi Hồng thường mang tính ước
lệ, tượng trưng, lý tưởng hóa. Chính điều này
đã quy định tính ước lệ trong ngôn ngữ và lời
văn của Vi Hồng. Nhà nghiên cứu Lâm Tiến
cũng đã chỉ ra: “Những từ như trai tơ, gái nụ,
trai nụ, gái hoa, trai thanh, gái nụ…, những
chi tiết như: quý hơn cả ông trời, sung sướng
như ông trời, to bằng ông trời, quý hơn cả
ngọc ngà…, đẹp như một nàng tiên, rực rỡ
như đóa hoa tiên, hóa thành nơi vách núi, chữ
viết như rồng bay, phượng múa, như hoa nở
trong vườn…thường có trong tác phẩm của
Vi Hồng ” [5]. Câu hỏi đặt ra là tại sao “ước
lệ” lại song hành với “cụ thể hóa”? Chính
việc lặp những cấu trúc ước lệ trong lời văn
theo lối diễn đạt trùng điệp (thậm chí tạo
thành nhịp, thành vần) đã cụ thể hóa tính chất
của đối tượng mà nhà văn đang nói đến, cụ
thể hóa tâm trạng của nhân vật, hay tâm tình
kín đáo mà nhà văn muốn giãi bày, trao gửi.
Trường hợp này ước lệ ở mặt hình thức, cụ
thế hóa trong ý nghĩa. Cũng có những cấu
trúc lặp trong câu mà bản thân nó đã mang
tính cụ thể. Nó dân dã, gần gũi, dễ hiểu như
những lời nói đời thường nhất. Ngoài ra cũng
có một số mô típ câu trong lời văn cũng tạo
nên nét đặc trưng của lời văn Vi Hồng. Người
đọc được thả mình trong thế giới liên tưởng,
tưởng tượng vô cùng phong phú nhưng đồng
thời vẫn khám phá, thấu hiểu một cách cụ thể
điều mà lời văn đề cập.
MỘT SỐ DẠNG CÂU TIÊU BIỂU TRONG
TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG
Câu trần thuật lặp cấu trúc các thành phần
Trong lời trần thuật, nhà văn miêu tả, đánh
giá tính chất của hiện tượng, vẻ đẹp của
thiên nhiên và những biểu hiện ở bên ngoài
của nhân vật. Phép lặp trong cấu trúc câu,
trong đoạn “là nguyên tắc kết hợp tạo nhịp
điệu, thống nhất và mở rộng nghĩa”. Chẳng
hạn, khi đánh giá toàn diện về gia đình Châu
Đoàn Pàng, Vi Hồng dùng hàng loạt các cụm
từ (tính từ/danh từ + “nhất”) để diễn tả:
“Châu Đoàn Pàng giàu nhất, giỏi nhất, khôn
ngoan nhất, thế lực nhất, vợ con nó cũng nhất
mọi nhẽ”. Không ai là địch thủ của hắn trong
cái bản Chín Thoong ấy – chúng ta hiểu được
điều đó một cách dễ dàng. Chính vì thế mà
Châu Đoàn Pàng tự tin vào sức mạnh, vào
khả năng xoay chuyển, tác động, chi phối mọi
thứ của mình.
Bức tranh thiên nhiên của núi rừng trong tác
phẩm cũng được đặc tả và hiện lên với nhiều
sắc thái khác nhau qua phép lặp cấu trúc lời
văn. Cái nắng trên dòng thác Chín Thoong
được tác giả miêu tả: “Nắng nằm sõng soài
trên các sườn núi quang cây. Nắng vắt vẻo
trên từng ngọn cây của mọi cánh rừng. Nắng
nằm ườn trên mắt vực Chín Thoong”. Những
câu văn miêu tả liên hoàn mang đầy hình ảnh,
đầy sự vận động của ánh nắng. Nơi nơi bản
mường Chín Thoong đã được nắng bao trùm,
tuôn chảy. Nắng có khi ru mình êm đềm, có
khi nhảy nhót, có khi lại lười biếng thật đáng
yêu. Hình ảnh “con nước” mà bố Phàn và
Hoàng đã kì công nghiên cứu để đem về cho
dân bản cũng được đặc tả đầy ấn tượng: “Đất
chảy ào ào theo con nước. Con nước đục
ngàu chảy băng băng về đồng. Con nước to
gấp mấy chục lần con nước do chiếc cọn bao
đời múc nước lên ruộng…Nước chảy cả vào
con mương nước cọn, nước tràn trề lênh
láng. Nước làm trôi cả những đàn vịt về cuối
mương”. Sức mạnh của con nước chính là
sức mạnh của sự văn minh, tiến bộ. Vi Hồng
có thói quen đặc tả khi viết về thiên nhiên.
Ông tả bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng con
mắt đầy chất thơ. Làm sao tả thật cụ thể, chi
tiết; tả làm bật lên vẻ đẹp nguyên hình,
nguyên hương, nguyên sắc của thiên nhiên
mà vẫn đi vào lòng người. Kiểu câu văn dài,
lặp nhịp, vần, hoặc lặp liên tiếp cấu trúc giữa
các câu dường như đã chắp cánh cho ngòi
bút của nhà văn.
Khi Vi Hồng nói về mảnh hồn dân tộc Tày –
là những bài lượn, khúc lượn đã bắt đầu bắt
nhịp vào tâm hồn Hoàng lúc Hoàng đến cái
tuổi của những chàng thanh niên đang độ
xuân nồng, nhà văn cũng diễn tả cái mượt mà,
bay bổng, lãng mạn, cái thăng hoa của tuổi trẻ
trong Hoàng: “…những khúc lượn gửi cho
mây, cho gió, cho mình nuôi giọng, câu đau –
đau như dứt từ da mà ra, câu buồn – buồn
như tình yêu xa tình yêu; câu mừng – mừng
như đàn chim bay qua biển lớn bỗng gặp
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
9
rừng cây”. Lượn là niềm say mê, là nơi
Hoàng trao gửi những tâm tình riêng tư của cả
cõi lòng khốn khổ đến đắng cay. Cũng miêu
tả tiếng lượn trong Mùa hoa Bjoóc loỏng, tác
giả làm nổi bật cái dặt dìu, ngất ngây của âm
thanh đối lượn giữa đất trời, giữa ngày hội
tưng bừng: “Tiếng lượn của người con trai,
con gái vang lên từ hai buồng thổ cẩm rực rỡ
làm lay động mọi lá cây ngọn cỏ, làm phập
phồng cả không gian buổi sáng xuân trong
sáng”. Đối với người dân mường Khoang
Đông, họ nói đó là “hai con rồng lượn, hai
con chim phượng hoàng gặp nhau”.
Trùng điệp về hình thức cấu trúc song lại
phong phú về hình ảnh nên cái được nói đến
“đẹp” trong ngôn từ ước lệ, cụ thể và sâu sắc
trong các tầng nghĩa. Ông Phàn (Tháng năm
biết nói) cảm ơn Châu Đoàn Pàng đã có tấm
lòng mời mình ăn bữa cơm “miếng chín,
miếng mười, miếng tái, món cạn, món
nước…”. Ngọc đau đớn vì gia đình mình đã
mang ơn Châu Đoàn Pàng lúc nghèo khổ để
giờ “nợ miệng, nợ túi tiền, nợ cả gánh cả
khênh”. Món nợ ấy ép bố mẹ Ngọc phải gả
Ngọc cho Bùng.
Kiểu lời văn mang cấu trúc lặp như trên cũng
rất phổ biến khi Vi Hồng miêu tả, khắc họa
con người từ ngoại hình đến tâm hồn. Cái
cười của người đàn bà đần độn xấu xí sinh
thằng Thìm được miêu tả: “cô ta chỉ nhếch
mép cười như trâu cười nước đái của nó.
Nghĩa là cười bằng cách nhắm tít mắt, cặp
môi vênh váo, cười im lặng, cười câm”. Nụ
cười vừa có phần ngu ngơ, lại vừa có phần ẩn
bí. Thằng Thìm sau này cũng mang cái cười
như thế của dòng máu nhà nó: “Nó cười câm,
cười trâu, cười đái suốt ngày”, “cười nhoẳn
cả mũi, cười vặn cả cặp môi”. Còn nụ cười
của bố Phàn thì chất chứa đầy tâm trạng dằn
vặt của con người mang nặng tình đời. Trước
khao khát học hành của cậu bé Hoàng dù phải
lấy vợ và trước sự hồn nhiên đến đáng thương
của tâm hồn trẻ thơ – vì Hoàng chưa hiểu vợ
là gì, “bố Phàn cười chảy cả nước mắt, cười
lớn, cười to”, để ngay lập tức ông ta im bặt và
lau nước mắt đầy chua xót. Vẫn con người ấy,
nhưng “ông lại cười méo mó,…cười như lẫn
với cay đắng tan biến vào máu thịt trên khuôn
mặt đầy phúc hậu của ông” khi ông nghe
Hoàng giải thích tại sao gọi vợ mình bằng chị
và kể tính xấu của vợ. Còn cái cười của Băng
khi Hoàng chẳng hiểu gì về chuyện chăn gối
vợ chồng được mô tả phù hợp với tính cách
vô tư của những đứa trẻ mới lớn: “Băng cười
ré lên. Cái cười rủ lá che thân, mượn ống
giấu mật”.
Không chỉ có tiếng cười mà những trạng thái
khác của con người cũng được nhà văn cụ thể
hóa bằng sự sắp xếp liên tiếp những hình ảnh
cụ thể xen ước lệ hoặc toàn ước lệ. Đặc tả nỗi
buồn của nàng Thu Lạ (Mùa hoa Bjoóc
loỏng) thì được đặc tả: “Chị buồn như lá
dong héo phơi nắng, như lá khô rơi trong
đêm sương muối”. Đặt liên tiếp cấu trúc và
hình ảnh như thế cho ta cảm thấy nỗi buồn ấy
không chỉ làm héo hắt trái tim nàng mà còn
như kim châm làm âm ỉ và buốt giá tâm hồn
nàng. Khi bị người khác sỉ nhục là đồ “ma
gà”, Thu Lạ thấy mình “như chân tay rã rời,
như mục, như ải”. Nỗi cay đắng như ăn vào
da thịt nàng, nàng khóc rung cả sàn nhà. Vi
Hồng đặc tả nỗi đau ấy qua những giọt nước
mắt của nàng: “nước mắt ướt đẫm hai má của
nàng. Nước mắt se lông mi thành những sợi
to, nhọn hoắt…”. Nàng đã khóc quá nhiều, đó
là những giọt nước mắt đau đớn cho thân
phận và căm phẫn, nguyền rủa những kẻ độc
ác đã vu vạ điều xấu xa cho nàng.
Khảo sát những lời thoại của nhân vật trong
tác phẩm của Vi Hồng, chúng tôi thấy kiểu
câu lặp cấu trúc thành phần được sử dụng với
ưu thế tối đa. Nhân vật có thể giãi bày lòng
mình, trao đổi tâm tình, khơi gợi kỉ niệm với
người khác hoặc những lời đối đáp giao tiếp,
hỏi thăm trong cuộc sống đời thường. Cũng
có khi những câu văn ấy là dòng chảy tâm
hồn của nhân vật.
Quan sát cách sắp xếp, tổ chức các cụm từ
trong câu văn của Vi Hồng, chúng ta thấy các
cụm từ, các câu văn trong đoạn, các câu trong
hệ thống lặp cấu trúc thường đẳng lập với nhau
về hình thức (thường là lặp cấu trúc cụm động
từ, cụm danh từ hoặc cụm tính từ) và tương
đương về ý nghĩa; hoặc cụm từ, câu đứng sau
bổ sung, làm rõ nghĩa cho cụm từ, câu trước
đó. Điều này tạo nên tính liên kết chặt chẽ
trong lời văn (cả về hình thức và ý nghĩa) và
tính tập trung trong khi diễn tả, tạo hiệu quả
nghệ thuật trong “một cách viết riêng”.
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
10
Nỗi buồn riêng trải dài trong suy nghĩ của
Hoàng cũng hiện lên qua lời văn có kết cấu
chuỗi như thế: “Hoàng thấy nỗi buồn làm
mềm lòng, mềm loãng cả dòng suy nghĩ”.
Những tháng ngày xa quê, mang nặng tình
riêng trong lặng câm mà sống, làm và học.
Những cứ nghĩ về Chín Thoong là Hoàng
“háo hức, nở hoa, nở nụ trong lòng”. Nỗi nhớ
quê đầy vơi như con sóng dâng dạt dào trong
trái tim Hoàng: “Hoàng nhớ quê với nỗi nhớ
nhức nhối. Yêu quê lắm, nhớ quê lắm…
Hoàng nhớ tất cả những nét uốn cong của
mọi dãy núi, nhớ từng bóng chim bay trên
trời quê, nhớ từng đàn cá bơi lội giữa dòng
Chín Thoong”. Nỗi nhớ của Hoàng đã ôm
trọn núi rừng, bản mường Chín Thoong, nó
bừng lên, đốt cháy lòng anh, thôi thúc bước
chân anh về, nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh
người đàn bà có hàm răng ba ba thì Hoàng lại
ngạt thở trong nhớ thương, cách trở.
Nếu Tháng năm biết nói là cuốn tự truyện
thấm thía nỗi buồn thương, cái lãng mạn
trong tâm hồn Vi Hồng như chưa tìm thấy
mảnh đất riêng của nó mà cất cánh; thì ở Mùa
hoa Bjoóc loỏng, cái bay bổng, mượt mà,
bóng bẩy trong lời văn lại vút bay. Bởi nó
được thoát ra từ những tâm hồn tuổi thơ đang
căng tràn sức xuân và tình yêu. Nhà văn cũng
đồng điệu với dòng suối ngọt ngào những tâm
tình của những trai nụ, gái hoa, trai tơ, gái
nụ… Khi Xinh Xông cứ van nỉ Mạnh Kha
cho biết chàng trai nào đối lượn cùng nàng thì
Mạnh Kha mượn lời rất khéo để tránh câu trả
lời: “Anh chỉ sợ khi mà gặp được chàng trai
mà em thường đối lượn cùng thì tiếng lượn
của em cụt mất cánh, nhạt mất màu, mất
phấn hương…”. Anh chàng Cặm Cang nói
chuyện với những nàng tiên xinh đẹp “lúc
nào cũng ngọt tiếng, ngọt lời”, tâm hồn thì
dạt dào sli lượn; nhưng mỗi lần ngước mắt
nhìn lên thấy chàng xấu quá thì Xinh Xông
đóng chặt tâm hồn mình theo bản năng
người con gái. Vi Hồng đã diễn tả điều đó
vừa rất hình ảnh, vừa bay bướm mà rất cụ
thể hóa: “…lập tức những nụ, những cánh
hoa nhạy cảm, những hương thầm, những
phấn thơm đều như khép kín lại ”. Bao nhiêu
nguồn mạch của sự tươi non mơn mởn. của
những tình tứ trong cõi lòng Xinh Xông
không còn mở lối cho Cặm Cang.
Phép lặp cấu trúc liên câu trong tiểu thuyết Vi
Hồng thường bắt gặp ở những đoạn miêu tả
nội tâm. Dòng chảy tâm trạng của nhân vật
như một bản nhạc thấm buồn qua nhịp điệu
các câu. Mi Tráng yêu Xinh Xông tha thiết
nhưng lại không dám đón nhận tình yêu của
nàng dù trong lòng chàng đang thả hồn về
những giấc mơ hạnh phúc tuyệt vời. Chàng đã
thấy rõ được sự chênh vênh của mối tình và
luôn mặc cảm về thân phận “ma gà”: “Ta như
đóa hoa đang nở căng, nhưng có thể thoắt bị
mụ phù thủy phù phép héo úa. Ta như cái quả
lê chín mọng treo rủ ở đầu cành, trước toán
bàn dân thiên hạ… nhưng con dơi hoang, dơi
mèo, dơi cú gì đó lại có thể gặm nhấm…”. Sự
mâu thuẫn, nỗi lo lắng về số phận, về tương
lai đang dằn vặt những suy nghĩ của chàng
trai. Tâm trạng ngổn ngang, đa chiều như vậy,
ta bắt gặp ở Người trong ống, khi Tú thực
hiện xong lễ “xăm ràng” với Ai Hoa, “chiến
thắng” trở về: “Hoa ngàn đang khao khát,
ong bướm vẫn dập dìu, nhưng sao anh thấy
núi rừng cô quạnh quá. Những đàn chim đẹp
vẫn giăng mắc giữa hai sườn núi, nhưng sao
chúng bay những đường rối mù vậy. Tiếng cu
gườm gáy ngon ngọt như thả từng chuỗi vàng
ngọc dài theo thung lũng, nhưng anh nghe
như tiếng khóc than ai oán…”. Đáng lẽ Tú
phải mừng khi anh đã vượt qua được một cửa
ải đầy sóng gió của đời anh để tiếp tục thực
hiện chí lớn song Tú lại mang một nỗi buồn
da diết. Tú buồn cho chính bản thân và buồn
cho cả Ai Hoa nữa. Bởi trong cuộc đời gặp
được người mình yêu và yêu mình không phải
dễ dàng gì. Tú buồn vì phải từ bỏ tình yêu
này, buồn hơn vì làm khổ một người con gái
nặng tình nặng nghĩa lại vô cùng xinh đẹp
như Ai Hoa. Vì thế lúc này đi giữa thiên
nhiên núi rừng có tươi non, tràn ngập hương
sắc và âm thanh thì đối với Tú cũng đâu có ý
nghĩa gì. Nó chỉ càng làm cho lòng anh quặn
thắt một nỗi đau, nỗi cô đơn mà thôi. Lặp cấu
trúc câu đối lập hai vế “A nhưng B” đem lại
sắc thái tâm trạng phức tạp đầy mâu thuẫn
đang diễn ra trong nội tâm nhân vật.
Đi vào những lời đối thoại, chúng ta khám
phá ra những sắc màu mới của kiểu câu lặp
cấu trúc các thành phần. Ngôn ngữ, lời văn
trở nên sống động và có sự biến hóa lạ kì khi
nó là lời nói của nhân vật, là những lời hỏi
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
11
thăm, trao gửi tâm tình… Thu Lạ mới Mạnh
Kha ở lại khi bố vắng nhà, Mạnh Kha thực
thà nói: “…em không sợ tiếng khóc, tiếng chì,
tiếng bướm, tiếng ruồi xanh hay sao”. Chim
Ca lên rừng tìm gặp Thu Lạ, nàng ngạc nhiên
phải thốt lên: “Em cảm thấy việc dữ đang đến
đầu bàn chân em. Việc xấu xa như con nước
máng sắp đổ xuống đầu em”. Bất ngờ về cuộc
viếng thăm này nên Thu Lạ vẫn nói những lời
giữ khoảng cách và đầy ý tình: “Anh đừng
khen em, đừng nói lời ngọt lại hóa chua loét,
nói lời đường mía mật ong lại hóa ra dấm”.
Chim Ca đến thăm nhà Thu Lạ sau khi nàng
bị nhục mạ, Thu Lạ cũng nói những lời mời
chào rất khách sáo xong lại rất quen thuộc với
thói quen giao tiếp của người Tày: “Không
biết nhờ cơn gió mát đưa cái quả đào tiên đến
nhà em hay lại do cơn nắng dồn, nắng khô
xua con sóc hoang vào nhà? Chỗ đứng không
yên, chỗ ngồi không ấm, mời anh ngồi tạm”.
Câu nói của Thu Lạ làm cho Chim Ca được
sống trong mảnh hồn riêng của dân tộc mình,
trong cái “lối nói theo đường hoa, đường quả,
ruỗi theo đường bướm ong bay, giữa ngan
ngát hương vị hoa quả”. Những câu nói có
vần nhịp phần lớn trong các đối thoại của
nhân vật là do Vi Hồng đã sử dụng một thể
loại văn học dân gian đặc sắc của người Tày
là “puối pác” (lời nói bằng câu có vần), “puối
rọi” (câu nói một chuỗi vần như hát). Phân
tích những dẫn chứng trên đây phần nào
chúng ta đã thấy được sự ảnh hưởng rõ nét
của “puối pác”, “puối rọi” trong lời văn của
Vi Hồng. Như lời của Chim Ca lúc hỏi Cặm
Cang có rất nhiều hình ảnh ước lệ được đặt
liên tiếp nhau, ăn vần, đối xứng nhau: “Có
việc gì to từ trên trời rơi xuống, việc gì nhọn
từ dưới đất mọc lên…”; “có việc gì to bằng
nửa ông trời, hay nặng như dãy núi đá”. Có
lẽ, khi viết về tình yêu, với những lời yêu
thương, hờn giận thì những câu nói của chàng
trai, cô gái Tày trở nên nhịp nhàng trong vần
điệu hơn hết thảy và ở đó chứa đựng nhiều
rung cảm nhất. Mi Tráng bày tỏ tình yêu với
Thu Lạ bằng những lời: “Anh yêu em như
ngọn lửa bén bãi cỏ gianh khô, như ong yêu
mật…”. Còn Chim Ca nhiệt thành, nồng hậu
trong yêu thương dành cho Thu Lạ: “Anh yêu
em, yêu thật lòng mình. Yêu hết hơi thở, yêu
trọn vẹn bằng một niềm tin, yêu suốt dọc thời
gian và không gian”. Với chàng trai xấu xí
Cặm Cang, thì cái khát khao yêu đương càng
dào dạt, càng mãnh liệt – đó là tấm lòng tha
thiết cuồng nhiệt hướng tới cái đẹp. Cặm
Cang yêu Thu Lạ với tình yêu nồng cháy như
thế: “Anh yêu em, yêu nặng như từng dãy núi
đá, yêu rộng như bầu trời trên đầu, yêu không
bao giờ dứt, không bao giờ ngừng như con
sông quê ta bốn mùa dạt dào con nước”.
Người đọc không khỏi xao xuyến khi ru mình
trong những lời tỏ tình ngọt ngào như thế. Kể
cả những lời giãi bày tình yêu của những
người con gái cũng rất mặn nồng, đắm say. Ai
Hoa yêu Tú bằng tình yêu đầu tiên và duy
nhất của cuộc đời thiếu nữ. Nàng khát khao
yêu đương và dâng hiến. Những lời nói ngọt
ngào của nàng luôn làm Tú quặn đau: “Anh là
mười hai con hồn của em, anh là hơi thở của
em, anh là tất cả cuộc đời em”. Nàng còn thề
thốt: “…em hứa em sẽ là người sẵn sàng dắt
ngựa cho anh mỗi khi anh say rượu. Em sẽ
tắm rửa cho anh mỗi khi thấy anh nhặm
người”. Ai Hoa yêu mãnh liệt bởi vì nàng
thấu hiểu được vẻ đẹp tâm hồn và trí tuệ của
Tú. Nàng muốn “trao gửi ngọn lửa trong mắt
và giọt máu trong tim” mình chỉ riêng cho Tú.
Cuối cùng, cái chết đã chứng minh tình yêu
chung thủy và sôi nổi của nàng. Sử dụng cách
nói có vần nhịp như puối pác, puối rọi trong
lời nói của các nhân vật đã giúp cho lời văn
của Vi Hồng có tiết tấu nhịp nhàng, âm điệu
hòa quyện và hiệu quả thẩm mĩ cao nên tác
phẩm của Vi Hồng có thêm nhiều lời nói hay,
đẹp từ truyền thống văn hóa dân gian – đó là
cách nói ngọt tiếng, ngọt lời đến ngọt lịm.
Số lượng câu có kiểu kết cấu lặp trong tiểu
thuyết Vi Hồng không phải là nhỏ. Trên đây,
chúng tôi chỉ xem xét những dẫn chứng tiêu
biểu. Lặp tạo nhịp điệu lời văn giống như thơ.
Viết lên những câu văn đầy chất thơ như vậy
bởi tâm hồn Vi Hồng là tâm hồn của dòng
chảy trữ tình dân gian. Mười ba, mười bốn
tuổi Vi Hồng đã làm hộ các anh, các chị
những bào phong slư (thơ tình yêu bảy chữ
của người Tày) và làm giỏi có tiếng. “Đêm
nằm, anh nghĩ ra những câu thơ hay, ý hay rồi
vùng dậy thắp đèn ghi lại”. Thêm nữa, thuở
nhỏ, Vi Hồng đã đọc và học rất nhiều dân ca,
truyện thơ Tày, Nùng… Tất cả đã trở thành
nguồn cội nuôi dưỡng không bao giờ cạn
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
12
trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Các
nhân vật của ông đều nói năng bóng bẩy, giàu
hình ảnh như lối nói dân ca. Kiểu câu đặc
trưng mà Vi Hồng viết đã tạo hiệu quả nghệ
thuật riêng trong tác phẩm.
Câu ghép điều kiện/giả thiết – kết luận và
câu ghép chỉ quan hệ nhượng bộ
Trong tiểu thuyết Vi Hồng, dạng câu ghéo chỉ
điều kiện/giả thiết – kết luận và câu ghép chỉ
quan hệ nhượng bộ là dạng câu được sử dụng
phổ biến thứ hai. Đặc biệt, chúng thường xuất
hiện trong các lời thoại của nhân vật: độc
thoại nội tâm, lời đối thoại trong tình yêu. Điều đó làm nên nét đặc sắc trong cách viết
của Vi Hồng.
Hai kiểu câu trên mang tính ước lệ về hình
thức câu (sử dụng các cặp kết từ mang tính
giả định), ước lệ trong những giả định được
đưa ra nhưng chúng lại mang tính cụ thể hóa
trong nội dung tâm tình mà nhân vật muốn
trao gửi cho đối tượng mình hướng tới.
Ở mô típ câu điều kiện/giả thiết – kết luận, tác
giả sử dụng cặp kết từ “nếu… thì…” xuất hiện
với tần số cao, mang lại sắc thái phong phú.
Trong lời nói, việc đưa ra điều kiện – giả thiết
bao giờ cũng là điều con người hướng tới mà
chưa thực hiện được hoặc đang mong muốn
làm được ở trong tương lai. Trong tiểu thuyết
Vi Hồng cũng vậy, các nhân vật cũng luôn
dùng những giả định để bày tỏ nỗi lòng, bày
tỏ mong ước của trái tim mình. Đàng đau đớn
vì bị vu tiếng “ma gà”, càng đau buồn hơn khi
sắp phải xa Hinh – người bạn “toong mản”;
nhưng nàng vẫn dũng cảm giãi bày, tỏ tâm
tình của chính mình để ướm hỏi lòng Hinh:
“Nếu không có chuyện trên trời rơi xuống,
dưới đất mọc lên… thì em xin làm người trải
chăn cho anh, căng màn cho anh, anh bằng
lòng không?”. Ước mơ ấy, hiện tại đã không
thể thực hiện được vì Đàng bắt buộc phải rời
xa quê hương mới có thể sống nổi. Dạm hỏi
lòng người tình, xem ân tình của Hinh dành
cho mình đến nhường nào, để Đàng hướng tới
một ước vọng xa xôi hơn: “Nếu anh cũng có
lòng yêu thương em như anh nói thì dù đi đến
đâu em cũng sẽ tìm cách tin tức cho anh
biết… Nếu ông trời mẹ đất còn mở mắt cho ta
nhìn, mở lòng cho ta sống thì rồi ta tìm đến
nhau”. Trải qua những sóng gió, thác ghềnh
của cuộc đời, cuối cùng số phận cũng đưa họ
trở về bên nhau. Đàng đau xót trong niềm vui
đang tràn ngập cõi lòng: “Em gặp lại anh thì
bát cơm đánh đổi bát ớt, nước chàm đã hết
rồi, nhuộm làm sao ăn được vải”. Còn Hinh
thì vẫn ôm trọn giấc mơ với người bạn gái
“toong mản” năm nao: “Nếu lòng em vẫn
thương anh thì từ nay em sẽ là người đồng
chí, người vợ của anh”. Niềm tin một hạnh
phúc đang gần kề với họ. Trong Tháng năm
biết nói, nỗi buồn của Hoàng cũng lồng vào
trong những câu nói như thế. Có khi là ước
muốn đồng cảm: “Nếu lòng mình như cái
bánh mật, như quả chuối tiêu chín cây thì
Hoàng đã bóc cho Băng xem rồi”; khi đó là
một sự tủi cực và ước muốn thay đổi: “Nếu
đời cháu phải gắn bó với người đàn bà có hai
hàm răng ba ba ấy thì chẳng khác gì đem đời
cháu buộc vào gốc cây bồ kết gai đống, buộc
cháu vào gốc cây bồ quân đầy gai chùm”.
Cặp kết từ “nếu… thì” còn tạo nên những lời
khéo léo khi Ngọc mở đầu câu chuyện với
Phàn: “Nếu chuyện em nhờ anh có làm lệch
lòng anh, có làm chua bụng người già, người
trẻ nhà anh thì xin anh tha thứ”.
Trước cuộc đời nghiệt ngã con người vẫn
đứng vững bởi tình yêu thương lẫn nhau, bởi
những khao khát, ước mơ trong tâm hồn
không bao giờ ngưng nghỉ. Nó làm cân lại
một nửa “người trong ống” vẫn còn mãi tồn
tại trong xã hội. Bố Tú đau đến thắt lại trước
sự quằn quại của mẹ Tú, ông cũng bất lực,
căm phẫn và chỉ có thể khóc. Ông thương vợ,
ước có thể mang thay cái đau đớn kia của vợ:
“nếu là cái gánh, cái khênh nặng thì tôi đã
cất lấy trên vai cho bà đi không”. Hay giữa xã
hội có vô số kẻ gian trá, xảo quyệt, lợi dụng
tình ái để thỏa mãn như Ba thì vẫn có một
tình yêu bất diệt như Ai Hoa dành cho Tú:
“Anh ơi, có tình yêu của anh thì em có tất cả,
nếu không thì em chẳng có gì cả, chẳng có gì,
cả hồn xác cũng không. Nếu anh không yêu
em thì em sẽ chết trên Ngai Vua cho ngọn gió
bốn chiều vùi dập…”. Ai Hoa chọn cái chết
để mãi mãi giữ một tình yêu duy nhất. Nàng
đem theo một nguyện ước cuối cùng trước khi
lìa cõi trần gian: “Nếu anh làm em mất đi đời
con gái thì khi em chết, em chỉ xin anh một
giọt máu chích ở đầu ngón tay thôi. Nếu anh
không làm được cái việc đó để em trở về với
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
13
mẹ Hoa mà còn trinh bạch thì em phảo xin
anh một đốt ngón tay – ngón tay đeo nhẫn
của anh ấy…”
Kết cấu câu theo cặp kết từ “nếu… thì” còn rất
nhiều trong tác phẩm. Ngoài ra còn có kết cấu
theo kiểu “nếu không… thì” mang sắc thái ý
nghĩa chỉ sự may mắn: may mắn có giả thiết
này mà kéo theo hoặc tránh được kết quả này,
đó có thể là cách cảm ơn giữa con người với
con người hoặc diễn tả sự vui sướng… Song
giá trị của sắc thái ý nghĩa này không mang lại
tính thẩm mĩ cao cho lời văn nghệ thuật.
Ở mô típ câu ghép chỉ quan hệ nhượng bộ với
các cặp kết từ đặc trưng (dù… nhưng; dù…
thì; dẫu… nhưng/ thì), khi đi vào khám phá,
chúng tôi tìm thấy nhiều điều lí thú. Tính chất
mâu thuẫn thể hiện ngay ở hình thức các kết
từ cặp đôi. Ở kiểu câu này về đầu bao giờ
cũng chỉ một sự đổi thay, một điều có thể xảy
ra, còn vế sau thường chỉ cái ổn định, như
nhất. Đi vào lời nói của nhân vật, dạng câu
này giống như lời thề nguyền hoặc một lời
nói có tính chất kiên định cao. Chính vì thế ở
đầu vế bao giờ những điều được nói ra cũng
rất to tát đi kèm với những hình ảnh mang
tính ước lệ, tượng trưng để diễn tả cho ý tình
cụ thể nằm ở vế sau. Dạng lời văn này trong
tiểu thuyết Vi Hồng chúng tôi cũng xếp vào
dạng lời văn mang tính ước lệ, cụ thể hóa.
Tác phẩm Vãi Đàng xây dựng hình ảnh một
cô gái Tày có một cuộc đời đầy bi kịch,
nhưng đó cũng là con người có tinh thần phản
kháng cao. Ngay từ ban đầu, Đàng đã kiên
quyết không đồng ý cuộc hôn nhân với Tổng
Vọi. Nàng nói: “Dù chim có bay giật lùi, lợn
mọc hai đầu, con nước mọc chân bò lên dốc,
tôi cũng không bao giờ nghĩ đến điều ấy”.
Trong mọi hoàn cảnh, Đàng luôn tỏ ra là cô
gái mạnh mẽ, là chỗ dựa vững chắc cho bố
mẹ. Khi bị vu tiếng ma gà, bố mẹ nàng định
tự tử bằng lá ngón, nàng kéo cha mẹ về nhà,
cho ăn uống rồi động viên tinh thần: “Dù bố
mẹ và con có chết đi đâu thì cũng cứ ăn bát
cháo và mặc cho gọn gàng”; “Dù trời đổ, núi
đá tan thành bụi, ta hãy bình tĩnh, có như thế
mới nhìn thấy con đường nào là con đường
sống, con đường nào là con đường chết”. Cả
lão Tổng Nhự ngay khi muốn lấy lòng Đàng
cũng nói lời thề thốt: “Dù ngay đêm nay,
Đàng có cầm đòn gánh phang tôi, tôi cũng
chỉ chạy như một đứa trẻ nhỏ”. Trong tình
yêu chân chính thì những lời thề nguyền ấy
lại trở thành một điều cần yếu, một sức mạnh
chắp cánh cho tình yêu vượt lên tất cả những
sóng gió, bão táp của cuộc đời. Băng trong
Tháng năm biết nói đã đi qua bao nhiêu thử
thách để đến với Hoàng và nàng lúc nào cũng
một lòng một dạ: “Dẫu nỗi đắng cay của đời
anh ngày càng tăng vị, dẫu chuỗi bất hạnh có
bám lấy trọn đời anh thì em vẫn là người giúp
anh làm vơi vợi mọi sự nồng nã của cuộc đời,
của một con người tài năng”. Hay Hạ Chi
trong Mùa hoa Bjoóc loỏng cũng sống chết
với tình yêu dành cho Mi Tráng: “Em chỉ yêu
mình anh. Mặc cho ông trời mang trăm dãy
núi đá xuống ngăn cách, mặc cho vị thần tối
cao Pựt Luông mang gai móng cú, gai hổ
vuốt, gai răng nanh chó sói xuống rào ở cửa
ngõ tình yêu giữa anh và em. Dù có vậy em
cũng chân trần lội qua như không có gì. Em
sẽ đến với anh bằng cả da thịt nõn nà của em,
bằng trái tim cháy bỏng của em”. Tình yêu là
sự dâng hiến chân thành, vươn cao hơn tất cả.
Mô típ “dù…thì” còn dùng để diễn tả mong
đợi của người nói với người nghe như mong
ước thuở nhỏ của Băng với Hoàng là “dù cho
thế nào…, dù cho hoa không nở, ong không
còn cánh bay thì Hoàng cũng đừng quên
mình”. Thu Lạ cũng mang tâm tư như vậy khi
chờ đợi tình yêu ở Chim Ca: “Dù chỉ là tình
yêu lời nói, dù chỉ là trong chốc lát anh ban
tuổi trẻ cho em, em vẫn hạnh phúc”.
Trong đội ngũ các nhà văn hiện đại, người
ta nhận thấy Nam Cao hay viết những câu
văn ngắn, nhịp gấp gáp; Nguyên Hồng hay
viết những câu văn dài, chồng chất điệp từ;
Thạch Lam hay viết những câu vừa phải,
âm điệu trầm buồn, man mác. Vi Hồng là
một nhà văn dân tộc thiểu số với tư chất
riêng cũng tạo được những câu văn đặc sắc
về hình thức và cách biểu đạt ý tình như
chúng ta vừa phân tích.
Nguyễn Thị Thu Hương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 7 - 14
14
Ngoài ra, lời văn của Vi Hồng còn giàu tính
biểu cảm thể hiện qua các câu văn được mở
đầu bằng thán từ “ôi, ôi thôi”. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi không
đề cập đến.
Vi Hồng đã tạo nên một cách viết riêng trong
cốt cách Tày. Đó là lối diễn đạt vừa ước lệ,
vừa cụ thể hóa, giàu nhịp điệu, cảm xúc được
thể hiện rõ nét qua các dạng câu điển hình
như câu trần thuật lặp cấu trúc thành phần,
câu ghép chỉ điều kiện/giả thiết - kết luận, và
câu ghép chỉ quan hệ nhượng bộ. Qua đó, các
nhân vật trong tác phẩm được làm nổi bật hơn
ở các lời đối thoại, độc thoại, đồng thời màu
sắc dân gian trong lời văn nghệ thuật của nhà
văn Vi Hồng cũng rất đậm nét.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vi Hồng (2007), Người trong ống, Nxb Hội
Nhà văn, H.
2. Vi Hồng (1993), Tháng năm biết nói, Nxb Văn
hóa dân tộc, H.
3. Vi Hồng (2005), Mùa hoa Bjoóc loỏng, Nxb lao
động, H.
4. Vi Hồng (2005), Tuyển tập Văn, Nxb Văn hóa
dân tộc, H.
5. Lâm Tiến (2007), Cách viết tiểu thuyết của
nhà văn Vi Hồng, Báo Văn nghệ Thái Nguyên,
số 13
6. G.N.PosPelop (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn
học, Nxb Giáo dục, H, tr.149.
7. Nhiều tác giả (2004), Từ điển thuật ngữ văn
học, Nxb Giáo dục, H.
8. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp
học hiện đại, Nxb Giaos dục, H.
SUMMARY
SOME PROMINENT FEATURES OF THE ART OF WORDING
IN VI HONG’S NOVELS
Nguyen Thi Thu Huong*
College of Sciences - TNU
Vi Hong is one of the writers of prose typical of the ethnic minorities in Vietnam in generally
and the North Vietnamese ethnic minorities in particularly. By using some typical types of
sentences in his novels such as sentences repeating structures of components, compound
sentences showing conditions and results, or compound sentences showing concession, Vi Hong
not only impressed readers with the soft, flexible, smooth and bright writing but also highlighted
his messages in each novel.
Key words: Vi Hong, prose, ethnic minorities, the art of wording, novels.
Ngày nhận bài:18/6/2014; ngày phản biện:03/7/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Đào Thủy Nguyên – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0985610650
Trần Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 15 - 19
15
LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC VÀ DIỄN NGÔN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH
VĂN HỌC (NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI NIỆM)
Trần Thị Ngọc Anh*
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Có thể nói, sự phân biệt khái niệm lý luận, phê bình văn học và diễn ngôn lý luận, phê bình văn
học có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu văn học hiện nay. Sự phân biệt này sẽ góp phần quy
định giới hạn và khả năng nghiên cứu các phương diện khác nhau văn học Việt Nam đương đại.
Trong đó, việc diễn ngôn lý luận, phê bình văn học là một hướng đi mới chứa đựng nhiều hứa hẹn
trong việc khẳng định những thành tựu, ghi dấu những khả năng và vạch rõ những thách thức của
lý luận, phê bình văn học Việt Nam trong tương lai.
Từ khóa: Lý luận văn học, phê bình văn học, lý luận, phê bình văn học, diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Về mặt lý thuyết không có khái niệm ghép “lý
luận, phê bình văn học”. Cách diễn đạt này là
xuất phát từ thực tế hoạt động nghiên cứu văn
học Việt Nam, cơ bản không có nghiên cứu
thuần túy lý thuyết. Lý luận văn học chủ yếu
ẩn danh qua hoạt động phê bình. Lý luận văn
học của ta thường dừng lại ở việc giới thiệu và
ứng dụng lý thuyết văn học nước ngoài, chứng
minh chúng thông qua sự hoạt động tích cực
của đời sống phê bình. Cụm từ “lý luận, phê
bình văn học” ở ta về thực chất vẫn được ngầm
hiểu là sự tích hợp của cả hai khái niệm lý luận
văn học và phê bình văn học. Nó cũng cho
thấy một thực tế ở ta về sự khó phân định hai
hoạt động này trong nghiên cứu văn học.
Một cụm thuật ngữ khác là “diễn ngôn lý luận,
phê bình văn học” hiện nay cũng đang “hoạt
động tích cực” trong nghiên cứu văn học ở
Việt Nam. Vậy giữa chúng có gì khác nhau?
Sự khác nhau này có tác động như thế nào đối
việc nghiên cứu văn học của chúng ta?
KHÁI NIỆM LÝ LUẬN VĂN HỌC, PHÊ
BÌNH VĂN HỌC
“Lý luận văn học” là một từ Hán Việt gốc
Nhật. Người Nhật dùng thuật ngữ này để dịch
từ “Theory” trong tiếng Anh. Trung Quốc và
Việt Nam ta đồng thuận với cách dịch trên
với ý nghĩa: “Lý luận văn học là hệ thống các
* Tel: 01663.869188
tri thức, nguyên lý về văn học được khái quát
trên cơ sở thực tế phong phú, đa dạng và biến
đổi trong lịch sử” [1].
Theo R.Wellek và A.Warren trong Lý luận
văn học (Nguyễn Mạnh Cường dịch), thì: lý
luận văn học “nghiên cứu các nguyên tắc sáng
tác văn học, các phạm trù, các tiêu chí” [6].
Theo từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá
Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi biên
soạn và Từ điển văn học (bộ mới) do Đỗ Đức
Hiểu chủ biên về cơ bản đều thống nhất cho
rằng: Lý luận văn học là: “Bộ môn nghiên
cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát.
Lý luận văn học nghiên cứu bản chất của sáng
tác văn học, chức năng xã hội – thẩm mỹ của
nó, đồng thời xác định phương pháp luận và
các phương pháp phân tích văn học” [1], [2].
Các nhà nghiên cứu đều thống nhất có thể tập
hợp các phạm trù nghiên cứu của lý luận văn
học làm ba nhóm: lý thuyết về tính đặc trưng
của văn học; lý thuyết về cấu trúc tác phẩm văn
học; lý thuyết về quá trình văn học. Về mặt này,
giữa lý luận văn học và lý thuyết văn học là có
khoảng cách. “Lý thuyết văn học là hệ thống
những quan niệm cụ thể của những tác giả hay
trường phái nhất định, chẳng hạn, lý thuyết cấu
trúc, lý thuyết xã hội học, lý thuyết phân tâm
học… chúng luôn là số nhiều. Mỗi lý thuyết
đem đến những cái mới cho lý luận, mọi lý
thuyết văn học đều là lý luận văn học. Khoa lý
luận văn học cần nói đến không chỉ một, mà là
tất cả các lý thuyết, về văn học” [5].
Trần Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 15 - 19
16
Như vậy, về cơ bản, đúng như Nyire Lajos
khẳng định “lý luận văn học là lĩnh vực bàn
đến những vấn đề trừu tượng và khái quát của
khoa học văn học… Nghiên cứu lý luận văn
học kiểm tra mối liên hệ của các thành phần
tác phẩm văn học. Những thành phần của tác
phẩm tạo nên các thứ bậc phức tạp… Lý luận
văn học một mặt đưa ra những khái niệm lý
luận của nghiên cứu kinh nghiệm vào lĩnh
vực nghiên cứu của nó, mặt khác nó mở ra
những hiện tượng văn học mà trong nghiên
cứu kinh nghiệm của khoa học văn học –
trong văn học sử, phê bình, văn bản học, hoặc
trong nghiên cứu phong cách học – không
được đưa ra kiểm tra, phân tích” [2]. Do đó,
mối quan tâm hàng đầu của lý luận văn học là
những quy luật, khuôn khổ quy định sự tạo
thành văn bản văn học như một chỉnh thể
thẩm mỹ.
Trong khi đó, phê bình văn học được quan
niệm như “việc phân tích một tác phẩm cụ
thể” [6] “có chức năng phán đoán, bình luận,
giải thích đánh giá và giải thích tác phẩm văn
học, kèm theo việc phán đoán, bình luận, giải
thích, đánh giá những hiện tượng đời sống mà
tác phẩm đề cập tới… Những phán đoán phê
bình hầu như xuất hiện đồng thời với sự xuất
hiện của văn học” [3].
Phê bình văn học có những bước phát triển
mới trong văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX
với sự đóng góp của các tác giả tiêu biểu như:
Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính Phạm
Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Hoài Thanh, Vũ
Ngọc Phan… và các tác phẩm phê bình tiêu
biểu Việt Hán văn khảo, Việt Nam phong tục
(Phan Kế Bính), Việt văn hợp tuyển giảng
nghĩa (Nguyễn Hữu Tiến), “Thi nhân Việt
Nam”(Hoài Thanh – Hoài Chân), “Nhà văn
Việt Nam hiện đại” (Vũ Ngọc Phan)… Sự
xuất hiện các tác phẩm này đã khiến cho lịch
sử phê bình văn học Việt bước sang trang
mới, thoát khỏi lối “bình văn” xưa kia. Phê
bình văn học theo đúng nghĩa thể loại chỉ ra
đời khi văn học có sự phân hóa thành các tư
tưởng và khuynh hướng nghệ thuật khác
nhau. Đây cũng chính là cơ sở để những năm
trước Cách mạng, văn học Việt Nam xảy ra
rất nhiều bút chiến nghệ thuật với những quan
điểm nhiều khi không chỉ dừng lại ở sự khác
biệt về học thuật mà còn nâng thành tầm tư
tưởng của xã hội và thời đại. Tiêu biểu là
tranh luận “nghệ thuật vị nghệ thuật” và
“nghệ thuật vị nhân sinh” giữa hai chủ soái
Hoài Thanh và Hải Triều.
Có thể nói, dù là lý luận văn học, phê bình văn
học hay lý luận, phê bình văn học thì đối tượng
hướng tới là tác phẩm văn học với bản chất,
quy luật tạo thành tác phẩm văn học. Sử dụng
tích hợp thuật ngữ “lý luận, phê bình văn học”
cũng không có nghĩa là đồng nhất các khái
niệm với nhau. Thực tế, thuật ngữ này, cơ bản
vẫn được giới nghiên cứu và bạn đọc ý thức rất
rõ là gồm hai loại hoạt động nghiên cứu văn
học khác nhau. Nhà nghiên cứu Trương Đăng
Dung trong bài viết “Vị trí chức năng của lý
luận văn học trong hệ thống khoa nghiên cứu
văn học” đã giúp người đọc phân biệt rõ hơn
những giới hạn cụ thể của lý luận văn học và
phê bình văn học: “lý luận văn học cố gắng đạt
được sự nhận biết mang tính hệ thống các hiện
tượng văn học, lý luận văn học hoạt động trên
các bình diện trừu tượng, còn phê bình văn học
luôn bám vào các tác phẩm văn chương cụ thể.
Phê bình văn học nêu lên những vấn đề của
văn học đương đại, nhưng việc nắm bắt và nêu
lên một cách khái quát những quy luật phát
triển của văn học nằm trong các hiện tượng
mới xuất hiện thì không phải là nhiệm vụ của
phê bình văn học” [3]. Chỉ có điều đối với văn
học Việt Nam, hai hoạt động nghiên cứu văn
học này gắn liền với nhau chặt chẽ tới mức
trong nhiều trường hợp khó mà phân tách
được. Hơn nữa, trong hoạt động văn học của ta
trước giờ không có việc sáng tạo lý thuyết
thuần túy. Lý luận văn học được nảy nở và
phát triển chủ yếu thông qua hoạt động phê
bình, sử dụng một lý thuyết văn học nào đó để
phê bình về văn học hoặc ngược lại. Lý luận
văn học ở ta nhờ thế cũng được dày lên thông
qua phê bình và trong phê bình. Và vì vậy, nó
cũng tạo ra một đặc trưng và truyền thống
riêng trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam.
DIỄN NGÔN LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH
VĂN HỌC
Sự xuất hiện của khái niệm “diễn ngôn” về căn
bản đã làm thay đổi quan niệm, cách tiếp cận,
Trần Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 15 - 19
17
cách nghiên cứu về ngôn ngữ và các vấn đề xã
hội trong đó có văn học nghệ thuật. Trước khi
thuật ngữ này trở nên thông dụng người ta vẫn
quan niệm “ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư
duy”. Điều này có thể hiểu ngôn ngữ là hình
thức biểu đạt của một nội dung khoa học, xã hội
nào đó. Nhưng trên thực tế, ngôn ngữ không chỉ
tồn tại như một công cụ, kí hiệu để phản ánh
một ý nghĩa nào đó mà nó còn chính là của nội
dung được biểu đạt. Vì khi một phát ngôn được
hình thành nó không chỉ phụ thuộc vào quy tắc
tạo nghĩa của ngôn ngữ mà còn phụ thuộc vào
cơ chế phát sinh một nội dung cụ thể. Cơ chế đó
là sự ràng buộc, sự quy định các phát ngôn của
cá nhân trong các điều kiện xã hội lịch sử cụ thể
được nói gì, không được nói gì và nên nói như
thế nào hay dựa vào đâu để nói. Diễn ngôn do
đó chính là hệ thống các hạn chế, các giới hạn
đối với mọi hành vi ngôn ngữ đồng thời cũng là
sự quy định về quyền được phát ngôn của con
người. Diễn ngôn lý luận, phê bình văn học theo
đó cũng chính hệ thống cơ chế biểu đạt của
ngôn ngữ văn học, chịu sự chi phối của một mô
hình tư duy, một kiểu lập luận và những quy tắc
ràng buộc của thẩm quyền xã hội cũng như
khung tri thức văn học.
Nếu như đối tượng của lý luận, phê bình văn
học nói một cách khái quát là tác phẩm văn
học cùng các phạm trù, quy luật, các vấn đề
có tính lặp lại của chúng, thì đối tượng của
diễn ngôn lý luận phê bình văn học lại chính
lý luận, phê bình văn học với những chiến
lược cụ thể trong hoạt động nghiên cứu thực
tế văn học, những bước đi, những biến
chuyển của lý luận, phê bình văn học dưới
những cơ chế chính trị xã hội nhất định và
khung tri thức mang tính lịch sử cụ thể. Phạm
vi của nó bao gồm cả những công trình lý
luận, phê bình văn học thuần túy và cả trong
thực tiễn xã hội như trong các Văn kiện, Nghị
quyết, tạp chí về kinh tế, chính trị, xã hội…
Nói cách khác nếu coi lý luận, phê bình văn
học là một hình thức diễn ngôn thì đối tượng
của lý luận, phê bình văn học là các diễn
ngôn, chứ không phải là đơn vị ngôn ngữ theo
nghĩa cấu trúc. Nó quan tâm “tới tính liên văn
bản, tới quan hệ giữa văn bản với văn bản,
chứ không quan tâm tới mối quan hệ giữa văn
bản và hiện thực được tham chiếu” [4].
Do đó, trong nghiên cứu văn học, diễn ngôn
là khái niệm chỉ chiến lược phát ngôn nghệ
thuật, thể hiện trong các nguyên tắc kết cấu,
xây dựng nhân vật. Trong đó, việc sử dụng
ngôn ngữ với mong muốn vượt khỏi giới hạn
cũ để phát ra được tiếng nói mới, thể hiện tư
tưởng mới trong chỉnh thể sáng tác đã trở
thành một trong những động lực quan trọng
cho mọi sự đổi thay trong văn học. Vận dụng
khái niệm diễn ngôn vào nghiên cứu văn học
“cho phép ta hiểu mới, hiểu lại các khái niệm
đã quen, mà chưa hiểu sâu, như khái niệm
phong cách, phong cách thời đại, phong cách
cá nhân…”[7].
Theo chúng tôi: Diễn ngôn lý luận, phê bình
văn học là khái niệm có tính lịch sử và thực
tiễn. Đó là hệ thống tri thức có thể được biểu
đạt qua từ, cụm từ, câu. Nó có tính thuật ngữ
và tạo thành một cơ chế diễn đạt về một nội
dung văn học nào đó cũng như những giới
hạn ảnh hưởng của nó tới văn học và các vấn
đề khác của văn học. Diễn ngôn lý luận, phê
bình văn học chính là cách kiến tạo các mô
hình nghiên cứu, các cách đánh giá về văn
học. Các mô hình nghiên cứu, các cách đánh
giá về văn học không chỉ tồn tồn tại trong
hoạt động lý luận, phê bình văn học thuần túy
mà nó tồn tại cả trong các lĩnh vực khác của
xã hội. Vì thế, diễn ngôn lý luận, phê bình
văn học là khái niệm có tính chất liên văn
bản, liên chủ thể.
Như vậy, diễn ngôn lý luận phê bình chính “là
cách nói, cách tự sự với những từ then chốt
(từ khoá quan trọng) làm nên quyền lực của
một thời, quy định cách tư duy và cách nói cụ
thể của cá nhân trong ngữ cảnh xã hội”[7]. Và
vì thế, “phương thức tốt nhất để xác định sự
cho phép có được diễn ngôn là ở chỗ, nghiên
cứu bộ máy thuật ngữ của nó. Bộ công cụ ngữ
nghĩa khi cần thiết phải xác định được ranh
giới giữa cái gì có thể nói được và những gì
không thể nói được” (Franhlin Ruodolf
Ankersmit).
Diễn ngôn lý luận, phê bình văn học rộng hơn
lý luận, phê bình. Ngoài nội hàm lý luận, phê
bình văn học, nó còn bao hàm sự tự đánh giá,
sự khẳng định, thậm chí có cả bài xích giữa
các truyền thống lý luận văn học. Diễn ngôn
Trần Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 15 - 19
18
lý luận, phê bình văn học bao gồm tri thức
nền tảng và vị thế quyền lực. Do vậy, khi một
lý thuyết thuần túy chưa trở thành ý thức hệ
thì cũng chưa thể có vị thế diễn ngôn.
Khái niệm diễn ngôn cũng phần nào cho thấy
lịch sử (văn học) sẽ chứng kiến, tạo điều kiện
cho sự đổi thay thậm chí mất đi một số thuật
ngữ cũ và sự sinh sôi, nảy nở của những thuật
ngữ mới về lý luận, phê bình văn học. Sự sinh
sôi, nảy nở của những hệ thuật ngữ mới trở
thành những nhân tố quan trọng xây dựng bộ
mặt mới, diện mạo mới của lý luận, phê bình
văn học. Theo đó, những gì còn trụ lại sẽ vẫn
là những nhân tố chủ lưu, quan trọng những gì
mới hình thành, qua thời gian kiểm nghiệm và
hiệu quả sử dụng sẽ xác lập vai trò của mình
đối với văn học và lý luận, phê bình văn học.
Diễn ngôn lý luận văn học Việt Nam trước
1986 có thể được gọi bằng một cái tên cụ thể
hơn là diễn ngôn lý luận phê bình văn học
Mácxit. Bởi đây là kiểu diễn ngôn được hình
thành trên cơ sở của việc tiếp thu hệ thống lý
luận khoa học của Mác - Ăng Ghen – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hệ thống thuật ngữ
chi phối là: văn nghệ - chính trị, văn nghệ -
chế độ, tính đảng, tính dân tộc, tính nhân dân,
tính đại chúng, chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ
nghĩa, phương pháp hiện thực xã hội chủ
nghĩa, nguyên lý Mác Lênin, Đường lối văn
nghệ của Đảng, nhà văn – chiến sĩ , lý luận,
phê bình văn học – mặt trận… Đặc biệt, nói
tới lý luận phê bình là nói tới việc đảm bảo
nguyên tắc “tuyên truyền, phục vụ, phục
tùng” với mệnh lệnh thức “cần, phải, là”. Hệ
thuật ngữ cơ bản trên đã chi phối địa hạt lý
luận phê bình văn học của ta trong một thời
gian dài. Trên tất cả các công trình nghiên
cứu, chuyên luận, báo chí đều coi chúng như
là những “bộ thuật ngữ công cụ” quan trọng
trong các công trình lý luận, phê bình văn học
lớn nhỏ.
Sau Đổi mới, việc cởi trói và đổi mới tư duy
của Đảng đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi
để lý luận phê bình văn học được phát triển
trên hệ hình nghiên cứu mới. Hệ thống thuật
ngữ chi phối diễn ngôn lý luận phê bình văn
học chuyển thành: văn học – mở cửa, giao
lưu, đối thoại, các trường phái văn học
phương Tây, phương Đông, các phương pháp
sáng tác mới, chủ nghĩa hiện đại (và các biến
thể), hậu hiện đại (và các biến thể), thi pháp
học, tự sự học, ký hiệu học, liên văn bản, hiện
sinh, phân tâm, cấu trúc… Quan điểm chỉ đạo
lý luận phê bình văn học là “khuyến khích,
tôn trọng”. Những yếu tố cơ bản trên đã góp
phần làm cho văn học được linh hoạt, cập
nhật hơn trong xu thế mới – xu thế hợp tác
trên toàn thế giới. Hệ thống thuật ngữ được
mở rộng theo hướng kể trên trong văn học
cũng đã chính thức ghi dấu những ảnh hưởng
khác nhau của các hệ thống lý thuyết văn học
tới hoạt động lý luận, phê bình văn học Việt
Nam hiện đại. Nó khơi mở những tiềm năng
và cũng tạo ra không ít những thách thức cho
lý luận, phê bình văn học Việt Nam trong kỉ
nguyên hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay.
KẾT LUẬN
Như vậy, nếu nhìn nhận và nghiên cứu lý
luận, phê bình văn học dưới góc độ diễn ngôn
sẽ là một sự đổi thay truyền thống nghiên
cứu, từ nghiên cứu thành tựu sang nghiên cứu
lịch sử lý luận, phê bình văn học như là lịch
sử thay thế của các khung tri thức khác nhau.
Theo chúng tôi đây là hướng nghiên cứu khả
dụng. Nó sẽ góp thêm một tiếng nói mới
trong việc khẳng định diện mạo và đóng góp
của lý luận, phê bình văn học đối với văn học
Việt Nam qua các thời kì lịch sử – những yếu
tố đã nhận được rất nhiều mối quan tâm
nghiên cứu thời gian qua.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nhiều tác giả (2009), Nghiên cứu Văn học Việt
Nam – Những khả năng và thách thức, Nxb Thế
Giới, tr 38.
2. Đỗ Đức Hiểu (2004), Từ điển văn học bộ mới,
Nxb Thế giới, tr 916
3. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác
phẩm văn học, Nxb KHXH, tr13.
4. Lã Nguyên (2013), http://languyensp.
wordpress. com.
5. Nyire Lajos (2012), Lý luận văn học như là siêu
khoa học. Trương Đăng Dung dịch, http://phebinh
vanhoc.com.vn/?p=145
6. R. Wellek và A. Warren (2009), Lý luận văn
học, Nguyễn Mạnh Cường dịch, Nxb Văn học
Hà Nội.
7. http://trandinhsu.wordpress.com
Trần Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 15 - 19
19
SUMMARY
LITERARY CRITICISM AND DISCOURSE IN LITERARY THEORY
AND CRITICISM (SOME CONCEPTUAL QUESTIONS)
Tran Thi Ngoc Anh*
College of Education – TNU
The question of how to conceptually determine literary theories and criticism and discourse in
literary criticism has been raised recently. The clearly conceptual definition helps scholars to
realize boundaries and abilities of research on contemporary Vietnamese literature. Applying the
theory of discourse in literary studies to assert achievements, abilities and find out challenges of
Vietnamese literary criticism will be a potential trend in the near future.
Key words: Literary Theories, Literary Criticism, Literary Theories and Criticism, Discourse in
Literary Criticism
Ngày nhận bài:06/5/2014; ngày phản biện:16/5/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đức Hạnh – Nhà xuất bản – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 01663.869188
Trần Thị Ngọc Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 15 - 19
20
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 21 - 24
21
QUẢN TRỊ CHUỖI CUNG ỨNG CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI
VÀ ĐẦU TƯ HOÀNG GIA
Hà Thị Thanh Hoa*, Dương Thị Thuý Hương
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Quản trị chuỗi cung ứng là một vấn đề rất quan trọng đối với bất kỳ doanh nghiệp nào, đặc biệt là
các doanh nghiệp thương mại. Hoạt động quản trị chuỗi cung ứng ở Công ty cổ phần thương mại
và đầu tư Hoàng Gia đã được quan tâm. Tuy nhiên còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết rốt ráo,
ảnh hưởng lớn đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bài báo góp một phần nhỏ đánh giá hoạt
động quản trị chuỗi cung ứng của Công ty và đề xuất một số biện pháp giúp hoạt động này trở nên
hiệu quả hơn.
Từ khóa: chuỗi cung ứng, quản trị chuỗi cung ứng, doanh nghiệp thương mại, Công ty cổ phần
thương mại và đầu tư Hoàng Gia
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Gia nhập WTO từ 7/11/2007 cho đến nay
nước ta đã tham gia ngày càng sâu rộng vào
“thế giới phẳng”. Xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập mang lại cho các doanh nghiệp Việt
Nam rất nhiều cơ hội và cũng không ít những
thách thức. Các doanh nghiệp nước ta hiện
nay không chỉ cạnh tranh với các doanh
nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với
những doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực về
tài chính và kinh nghiệm quản lý. Để chiến
thắng trong cạnh tranh doanh nghiệp phải tìm
được cách đưa sản phẩm của mình đến tay
người tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu của
họ với chi phí thấp nhất. Điều này có được nhờ
doanh nghiệp quản lý tốt dòng dịch chuyển sản
phẩm từ tay nhà cung cấp đến nhà sản xuất và
đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Tuy nhiên
các công việc này chỉ được thực hiện một cách
có hiệu quả nếu doanh nghiệp quản lý chuỗi
cung ứng của mình hiệu quả.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUỖI
CUNG ỨNG TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN
ĐẦU TƯ VÀ THƯƠNG MẠI HOÀNG GIA
Công ty Cổ phần Đầu tư và Thương mại
Hoàng Gia là một doanh nghiệp vừa với 120
lao động, tiền thân là xưởng sản xuất bánh
kẹo Kim Liên, tại Xuân Đỉnh - Từ Liêm – Hà
Nội. Năm 2000, xưởng đổi tên là Công ty
TNHH Hoàng Gia và đến năm 2008 thì đổi
* Tel: 0949330585
tên như ngày nay là Công ty Cổ phần Đầu tư
và Thương mại Hoàng Gia. HIện tại, công ty
có 2 nhà máy chuyên sản xuất nước tinh khiết
và nước trà xanh, hoa quả...
Các sản phẩm chủ yếu của Công ty
+ Nước Vjoyful đóng bình loại 19.8 lít
+ Nước Joyful đóng chai loại 500 ml và 330 ml
+ Trà xanh H/G loại 500 ml và 330 ml
Đánh giá thực trạng hoạt động chuỗi cung
ứng tại Công ty Cổ phần Đầu tư và
Thương mại Hoàng Gia
+Về hoạch định
Kế hoạch sản xuất của Công ty Cổ phần Đầu
tư và Thương mại Hoàng Gia bắt đầu từ việc
dự báo lượng sản phẩm sản xuất trong một
năm và được xây dựng cụ thể cho từng tháng,
từ số liệu dự báo này công ty tiến hành xây
dựng kế hoạch thu mua và phân phối sản
phẩm. Phương pháp dự báo hiện nay công ty
đang áp dụng là phương pháp bình quân giản
đơn dựa trên sản lượng tiêu thụ từng tháng
của hai năm trước đó.
Công tác hoạch định của công ty thiếu chính
xác, sản lượng sản xuất theo kế hoạch luôn
lớn hơn sản lượng tiêu thụ thực tế. Nguyên
nhân của sự thiếu chính xác này là do Công ty
chỉ sử dụng số liệu tiêu thụ trong hai năm để
dự báo sản lượng sản xuất tiếp theo mà không
tính đến các nhân tố khác trong quá trình sản
xuất như lượng hàng tồn kho, sự thay đổi
trong thị hiếu của người tiêu dùng... Chính sự
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 21 - 24
22
thiếu chính xác trong công tác hoạch định là nguyên nhân dẫn tới sự thiếu chính xác trong việc
xác định nhu cầu nguyên vật liệu. Với việc xây dựng kế hoạch sản xuất thiếu chính xác nguồn
vốn ứ đọng trong thành phẩm của công ty sẽ là:
Bảng 1. Giá trị thành phẩm tồn kho năm 2013 của Công ty
Đvt: 1000VNĐ
Sản phẩm Giá thành đơn vị
thực tế (1)
Lượng sản phẩm sản xuất
chưa bán được (2)
Nguồn vốn bị ứ đọng
(3)=(1)x(2)
Nước Vjoyful đóng bình
18,9 lít (bình) 6,8 38.500 261.800
Nước Joyful đóng chai
500 ml (thùng) 34,4 10.500 361.200
Trà xanh H/G
330ml(thùng) 86,3 7.000 604.100
Tổng 1.227.100
Nguồn: Phòng kế toán - cung ứng vật tư
Sơ đồ chuỗi cung ứng 3 sản phẩm chính của công ty
Như vậy với việc xây dựng kế hoạch sản xuất sai lệch so với nhu cầu thực tế nguồn vốn của công
ty bị ứ đọng trong thành phẩm là 1.227.100 (nghìn đồng). Trong giai đoạn tiếp cận nguồn vốn tín
dụng tương đối khó khăn như hiện nay nếu công ty nâng cao tính chính xác cho công tác dự báo
sẽ giảm được lượng vốn ứ đọng này để dùng vào mục đích khác. Tuy nhiên với lượng tồn kho
Người
tiêu dùng
Đại lý
bán lẻ
Công ty cổ phần
thương mại và
đầu tư Hoàng
Gia
Nhà cung cấp
đường
Nhà cung cấp bao
bì catton: Bao bì
Thành Phát, Bao bì
Thủ Đô
Nhà cung cấp dây truyền công
nghệ sản xuất trà xanh, nước
đóng bình, nước đóng chai.
Nhà cung cấp vỏ
bình công ty nhựa
Song Long, Việt
Nhật
Nhà cung cấp trà
xanh sấy khô tại
Thái Nguyên
Đại lý
bán buôn
Đại lý phân phối
của công ty
Đại lý
bán buôn
Đại lý
bán lẻ
Công ty du lịch Ánh Dương,
VietNam Open tour,công ty
DL DV Hồng Hà….
Các nhà cung cấp dịch vụ logistics:
công ty vận tải 18, ngân hàng
Vietcombank,ngân hàng Công
thương Việt Nam, Nhà cung cấp dịch
vụ marketing, CNTT…
Nông dân trồng
trà và các cơ sở
sấy trà
Các công ty
hóa chất
cung cấp
phôi nhựa
Nhà cung cấp
bột gỗ
Nông dân trồng
mía
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 21 - 24
23
tương đối lớn trong năm 2013 và những tháng đầu năm 2014, công ty sẽ có thể đáp ứng nhanh
nhất yêu cầu của khách hàng góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng.
Một nhược điểm nữa trong công tác hoạch định của công ty là chưa thấy được tầm quan
trọng của chiến lược định giá tác động đến nhu cầu như thế nào. Công ty xác định một mức lợi
nhuận trong giá quá cao, đặc biệt đối với sản phẩm nước đóng bình mức lợi nhuận trong giá
là 221%, trong khi công ty chưa định vị được sản phẩm trên thị trường. Thị trường của công
ty chỉ là những mảng thị trường nhỏ mà các công ty hàng đầu trong lĩnh vực nước giải khát
như Lavie, Cocacola... bỏ qua. Chiến lược định giá này sẽ không phù hợp với việc mở rộng
quy mô thị trường mà công ty đang theo đuổi hiện nay.
+Về hoạt động thu mua
Điểm tích cực trong công tác thu mua mà công
ty đạt được là công tác thu mua nguyên vật
liệu sản xuất cho hai nhà máy do bộ phận kế
toán và cung ứng vật tư đảm nhiệm. Sự thu
mua tập trung này sẽ giúp công ty có được lợi
thế của người mua hàng với số lượng lớn và
nhận được sự ưu đãi trong các điều kiện giao
hàng. Tuy nhiên, điểm hạn chế tại công ty cổ
phần và thương mại Hoàng Gia là công tác thu
mua mới chỉ là thu mua truyền thống. Công ty
chủ yếu dựa vào mức giá bán và các dịch vụ
kèm theo để lựa chọn nhà cung cấp mà ít quan
tâm đến sự phù hợp giữa nhà cung cấp với
hoạt động chuỗi cung ứng của công ty.
+Về hoạt động sản xuất
Một lợi thế trong hoạt động sản xuất là khu vực sản xuất của công ty khá rộng. Yêu cầu
về diện tích của một nhà máy sản xuất nước trung bình là khoảng 300-400m2, trong khi
diện tích của hai nhà máy hiện tại của công ty tổng cộng là 2,000m2. Với diện tích này, công
ty dễ dàng trong việc điều hành sản xuất và lưu kho thành phẩm.
Một thuận lợi nữa trong hoạt động sản xuất là công ty có dây chuyền sản xuất nước khoáng,
nước trà xanh và nước giải khát liên hợp. Công ty rất dễ dàng trong việc ứng phó với
những biến động của cầu. Khi thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi công ty có thể giảm
hoặc ngưng sản xuất sản phẩm này chuyển
sang sản phẩm khác mà không phải tốn thêm chi phí đầu tư. Tuy nhiên, hiện nay công ty
đang sử dụng hệ thống sản xuất đơn giản, đặc biệt trong khâu xử lý lọc dẫn đến chất lượng
thành phẩm chưa cao.
+Về hoạt động phân phối
Công ty xây dựng cả hai loại kênh phân phối là kênh phân phối trực tiếp và kênh phân phối
gián tiếp.
+ Kênh phân phối trực tiếp : Hiện nay, công
ty có 1 cửa hàng riêng tại trụ sở của công ty 305 đường Xuân Đỉnh - Từ Liêm - Hà Nội.
+ Kênh phân phối gián tiếp: Hiện nay, công ty có tổng số 10 đại lý phân phối độc quyền
nằm rải rác ở 5 huyện Mê Linh, Từ Liêm, Thường Tín, Thạch Thất, Quốc Oai. Thông
qua các hợp đồng, các đại lý phân phối trở thành đại lý chính thức của công ty, chịu sự
giám sát của công ty và đội ngũ bán hàng do công ty đào tạo và trả lương.
Công ty mới sử dụng các đại lý trung gian là các đại lý bán buôn. Tính đến nay, có 4 đại lý
mua sản phẩm của công ty về bán lại cho người tiêu dùng. Đối với các đại lý này, công
ty có thể bán sản phẩm và hết trách nhiệm về hàng hoá kể từ khi hàng hoá được giao.
Hình biểu diễn tỷ lệ doanh thu tiêu thụ sản
phẩm của các đại lý phân phối
GIẢI PHÁP
Biện pháp nâng cao hiệu quả phân phối
Cũng như tất cả các công ty khác, sản phẩm của công ty sản xuất ra là để bán, bán được sản phẩm công ty mới thu hồi được chi phí đã bỏ ra và đạt được mục tiêu lợi nhuận. Nhưng để có thể bán được sản phẩm trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì kênh phân phối phải hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, thống kê về sản lượng tiêu thụ thực tế
Hà Thị Thanh Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 21 - 24
24
của công ty trong những năm trở lại đây cho thấy sản phẩm của công ty ngày càng khó tiêu thụ. Điều này do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân hệ thống phân phối của công ty hoạt động kém hiệu quả. Để nâng cao hiệu quả hệ thống phân phối, công ty nên thực hiện các biện pháp sau:
- Đánh giá lại các đại lý phân phối: Thu thập thông tin về doanh số bán hàng trong 2 năm trở lại đây, tính toán mức chi phí mà công ty phải bỏ ra cho các đại lý trên cơ sở đó loại bớt những đại lý phân phối hoạt động không hiệu quả.
- Thành lập bộ phận marketing chuyên biệt, không sử dụng nhân viên kiêm nhiệm của phòng kinh doanh như hiện nay. Tổ chức một cuộc thăm dò khách hàng tìm hiểu nguyên nhân sản lượng tiêu thụ sụt giảm.
- Mở rộng thị trường tiêu thụ đặc biệt, chú ý đến khách hàng là sinh viên của các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đặt tại các huyện Mê Linh, Từ Liêm, Thường Tín, Thạch Thất, Quốc Oai nơi mà công ty có đại lý độc quyền.
Ngoài ra, công ty cần phải sử dụng các biện pháp khuyến khích nhân viên tìm kiếm những phương thức bán hàng mới, cử nhân viên xuống tận các khu công nghiệp để mời họ dùng thử sản phẩm và thuyết phục họ mua sản phẩm của công ty.
Sử dụng Internet phục vụ chuỗi cung ứng
Quản lý chuỗi cung ứng hiệu quả gắn chặt với việc biết khai thác và sử dụng công nghệ thông tin mà đỉnh cao là mạng internet làm
công cụ hộ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Hình thức thấp nhất và phù hợp nhất tại thời điểm này là công ty thành lập một trang web riêng và vận hành trang web một cách hiệu quả.
Trang web riêng của công ty được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 21/9/2011 tuy nhiên trang web chỉ hoạt động được hơn 2 tháng sau đó bị hỏng và cho đến nay trang web này hoạt động chưa hiệu quả. Công ty nên đầu tư nâng cấp trang web của mình bởi lợi ích mà trang web mang lại. Thông qua số lượt người ghé thăm trang web của mình, công ty có thể xác định được sự quan tâm của khách hàng đến sản phẩm của công ty. Với hàng loạt những câu hỏi mang tính điều tra thăm dò như: Bạn đánh giá thế nào về chất lượng sản phẩm của Công ty? Trong tương lai bạn mong muốn uống loại nước uống như thế nào?... Công ty sẽ có những thông tin chắc chắn hơn về nhu cầu mong muốn của khách hàng làm cơ sơ để cải tiến sản phẩm theo hướng đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu và mong muốn đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình (2010), Quản lý chuỗi cung ứng,
Nxb Thống kê. 2. Đoàn Thị Hồng Vân (2010), Quản trị chuỗi cung
ứng, Nxb Thống kê.
3. Michael Hugos, (2009), Essentials of Supply Chain
Management, JohnWiley & Sons Inc, USA. 4. Tài liệu, báo cáo doanh thu, chi phí, kết quả kinh
doanh của Công ty Cổ phần Thương mại và Đầu tư
Hoàng Gia.
SUMMARY
SUPPLY CHAIN MANAGEMENT AT HOANG GIA INVESTMENT
AND COMMERCIAL JOINT STOCK COMPANY
Ha Thi Thanh Hoa*, Duong Thi Thuy Huong
College of Economics and Business Administration - TNU
Supply chain management is an important issue for any enterprise, especially for commercial ones. Supply chain management at Hoang Gia Investment and Commercial Joint Stock Company has been
also considered. However, there are many un-thorough resolved problems that affect Hoang Gia’s
competive ability considerably. This paper contributes a small part at evaluating supply chain management at this company and proposes some solutions for making supply chain management
become more effective.
Key words: supply chain, supply chain management, commercial companies, Hoang Gia Investment and Commercial Joint Stock Company
Ngày nhận bài:12/3/2014; ngày phản biện:28/3/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Phạm Công Toàn – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0949330585
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 25 - 30
25
KẾ TOÁN MẤT MÁT, HAO HỤT HÀNG HOÁ: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI
Đỗ Thị Thu Hằng*, Trần Tuấn Anh, Hoàng Thị Thu Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong các doanh nghiệp thương mại, hàng hoá là một bộ phận tài sản quan trọng trong hoạt động
của doanh nghiệp. Nhà quản lý doanh nghiệp cần sử dụng hữu hiệu hệ thống công cụ quản lý để
nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, doanh nghiệp thương mại còn gặp
nhiều khó khăn trong việc phân biệt rõ ràng hàng hóa mất mát, hao hụt ở khâu nào và hạch toán ra
sao? Vì vậy, việc tìm đúng nguyên nhân phát sinh và hạch toán đúng các khoản hàng hóa mất mát,
hao hụt là rất cần thiết, giúp doanh nghiệp thương mại tăng cường khả năng quản lý hàng hóa và
phân định trách nhiệm quản lý hàng hóa.
Từ khóa: Kế toán mất mát - hao hụt hàng hóa, doanh nghiệp thương mại
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Hao hụt và mất mát hàng hóa là sự giảm mất
một phần về vật chất của hàng hoá phát sinh
trong quá trình bảo quản vận chuyển và lưu
thông hàng hoá. Hai vấn đề này luôn đi liền
với nhau. Tuỳ theo đặc tính lí, hoá của từng
loại hàng, hoặc do ảnh hưởng của các điều
kiện khách quan (mưa, gió, lụt, bão, nóng,
ẩm,vận chuyển, bốc dỡ…), hao hụt hàng hóa
được chia thành hao hụt định mức và hao hụt
ngoài định mức. Hao hụt định mức được
chính thức quy định cho từng loại hàng trên
cơ sở phân tích khoa học các đặc tính lí, hoá
và tác động của các yếu tố tự nhiên đến các
loại hàng đó và được hạch toán vào chi phí
lưu thông. Hao hụt ngoài định mức là hao hụt
vượt quá mức quy định cho phép, không được
hạch toán vào chi phí lưu thông. Giảm tỉ lệ
hao hụt hàng hóa là một biện pháp quan trọng
để giảm giá thành và phí lưu thông; đây là
một tiêu chí quan trọng mà người quản lí phải
phấn đấu thực hiện bằng các biện pháp cải
tiến kĩ thuật, tổ chức quản lí trong các khâu
bảo quản, vận chuyển, lưu thông. Đối với các
doanh nghiệp, việc đối mặt với hao hụt, mất
mát hàng hòa là chuyện thường gặp và đòi hỏi
phải xử lý cho đúng các quy định về kế toán.
Quá trình hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp thương mại, có thể phát sinh
hao hụt, mất mát hàng hóa ở cả khâu mua
* Email: [email protected]
hàng, khâu bán hàng và khâu bảo quản ở kho
hàng. Hàng hóa hao hụt, mất mát có thể do
nhiều nguyên nhân khác nhau, trị giá hàng
hóa hao hụt, mất mát có thể trong định mức
hoặc ngoài định mức. Kế toán khoản hao hụt,
tổn thất hàng hóa một cách hợp lý là vấn đề
rất cần thiết, đảm bảo cho việc tăng cường
quản lý hàng hóa trong các doanh nghiệp
thương mại.
QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ KẾ TOÁN HIỆN TẠI
ÁP DỤNG ĐỐI VỚI HAO HỤT VÀ MẤT
MÁT HÀNG HÓA TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP THƯƠNG MẠI
Theo hướng dẫn của chuẩn mực kế toán Việt
Nam (VAS) số 02 “Hàng tồn kho” và quy định
của Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành
theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày
20/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, mọi
trường hợp phát hiện hao hụt, mất mát hàng
hóa ở bất kỳ khâu nào trong kinh doanh, phần
thiệt hại quy được trách nhiệm, bắt tổ chức, cá
nhân chịu trách nhiệm bồi thường, kế toán
hạch toán vào TK 138 – Phải thu khác (TK
1388 – Phải thu khác). Sau khi trừ (-) phần tổ
chức, cá nhân phải bồi thường do trách nhiệm,
phần còn lại hạch toán vào giá vốn hàng bán
trong kỳ (tài khoản 632 – Giá vốn hàng bán).
Cụ thể bút toán hạch toán như sau:
Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán. Phần giá trị
hàng hóa hao hụt mất mát của hàng tồn kho
sau khi trừ số thu bồi thường theo quyết định
xử lý.
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 25 - 30
26
Nợ TK 334 – Phải trả người lao động. Nếu do
cá nhân gây ra trừ vào lương
Nợ TK 138 – Phải thu khác (TK 1388 –
Phải thu khác). Phải thu các tổ chức, cá
nhân phạm lỗi.
Nợ các TK liên quan. Theo quyết định xử lý
Có TK 138 - Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao hụt,
mất mát.
* Trường hợp phần thiệt hại quy được trách
nhiệm cho tổ chức hoặc cá nhân, Kế toán định
khoản vào tài khoản 1388 – Phải thu khác.
Theo quy định hiện hành, kết cấu tài khoản
138 – Phải thu khác được cụ thể như sau:
Bên Nợ:
- Giá trị tài sản thiếu chờ giải quyết;
- Phải thu của cá nhân, tập thể (trong và ngoài
đơn vị) đối với tài sản thiếu đã xác định rõ
nguyên nhân và có biên bản xử lý ngay;
- Số tiền phải thu về các khoản phát sinh khi
cổ phần hoá công ty nhà nước;
- Phải thu về tiền lãi, cổ tức, lợi nhuận được
chia từ các hoạt động đầu tư tài chính;
- Các khoản nợ phải thu khác.
Bên Có:
- Kết chuyển giá trị tài sản thiếu vào các tài
khoản liên quan theo quyết định ghi trong
biên bản xử lý;
- Kết chuyển các khoản phải thu về cổ phần
hoá công ty nhà nước;
- Số tiền đã thu được về các khoản nợ phải
thu khác.
Số dư bên Nợ:
Các khoản nợ phải thu khác chưa thu được.
Tài khoản này có thể có số dư bên Có. Số dư
bên Có phản ánh số đã thu nhiều hơn số phải
thu (Trường hợp cá biệt và trong chi tiết của
từng đối tượng cụ thể).
Tài khoản 138 - Phải thu khác, có 3 tài khoản
cấp 2:
- Tài khoản 1381 - Tài sản thiếu chờ xử lý:
Tài khoản phản ánh giá trị tài sản thiếu chưa
xác định rõ nguyên nhân, còn chờ quyết định
xử lý. Về nguyên tắc trong mọi trường hợp
phát hiện thiếu tài sản, phải truy tìm nguyên
nhân và người phạm lỗi để có biện pháp xử lý
cụ thể. Kế toán chỉ hạch toán vào Tài khoản
1381 trường hợp chưa xác định được nguyên
nhân về thiếu, mất mát, hỏng tài sản của
doanh nghiệp phải chờ xử lý. Trường hợp tài
sản thiếu đã xác định được nguyên nhân và đã
có biên bản xử lý ngay trong kỳ thì Kế toán
ghi vào các tài khoản liên quan, không hạch
toán qua Tài khoản 1381.
- Tài khoản 1385 - Phải thu về cổ phần hoá:
Tài khoản phản ánh số phải thu về cổ phần
hoá mà doanh nghiệp đã chi ra như: Chi phí
cổ phần hoá, trợ cấp cho lao động thôi việc,
mất việc, hỗ trợ đào tạo lại lao động trong
doanh nghiệp cổ phần hoá;
- Tài khoản 1388 - Phải thu khác:
Tài khoản phản ánh các khoản phải thu của
đơn vị ngoài phạm vi các khoản phải thu phản
ánh ở các TK131, 136 và TK 1381, 1385,
như: Phải thu các khoản cổ tức, lợi nhuận,
tiền lãi phải thu các khoản phải bồi thường do
làm mất tiền, tài sản...
Phương pháp hạch toán kế toán TK 138 được
trình bày thông qua một số nghiệp vụ mô
phỏng dưới đây:
a. Tài sản cố định hữu hình dùng cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh phát hiện thiếu,
chưa xác định rõ nguyên nhân, chờ xử lý, ghi:
Nợ TK 138 - Phải thu khác (1381) (Giá trị
còn lại của tài sản cố định (TSCĐ))
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)
Có TK 211 - Tài sản cố định hữu hình
(Nguyên giá).
Đồng thời ghi giảm TSCĐ hữu hình trên sổ
kế toán chi tiết TSCĐ.
b. TSCĐ hữu hình dùng cho hoạt động sự
nghiệp, dự án hoặc hoạt động phúc lợi phát
hiện thiếu, chưa xác định rõ nguyên nhân, chờ
xử lý, ghi giảm TSCĐ:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị hao mòn)
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 25 - 30
27
Có TK 466 - Nguồn kinh phí đã hình thành
TSCĐ (Giá trị còn lại) (TSCĐ dùng cho hoạt
động sự nghiệp, dự án)
Nợ TK 4313 - Quỹ phúc lợi đã hình thành
TSCĐ (Giá trị còn lại) (TSCĐ dùng cho hoạt
động phúc lợi)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá).
Đồng thời phản ánh phần giá trị còn lại của
tài sản thiếu chờ xử lý, ghi:
Nợ TK 138 - Phải thu khác (1381)
Có TK 431 - Quỹ khen thưởng, phúc lợi
(TSCĐ dùng cho hoạt động phúc lợi)
Có TK 338 - Phải trả, phải nộp khác (TSCĐ
dùng cho hoạt động sự nghiệp, dự án).
c. Trường hợp tiền mặt tồn quỹ, vật tư, hàng
hoá,. . . phát hiện thiếu khi kiểm kê, chưa xác
định rõ nguyên nhân, chờ xử lý, ghi:
Nợ TK 138 - Phải thu khác (1381)
Có TK 111 - Tiền mặt
Có TK 152 - Nguyên liệu, vật liệu
Có TK 153 - Công cụ, dụng cụ
Có TK 155 - Thành phẩm
Có TK 156 - Hàng hóa.
* Phần giá trị hàng hóa hao hụt, mất mát còn
lại sau khi đã bắt tổ chức, cá nhân chịu trách
nhiệm bồi thường kế toán hạch toán vào tài
khoản 632 – Giá vốn bán hàng
Đối với doanh nghiệp kế toán hàng tồn kho
theo phương pháp kê khai thường xuyên,
phần giá trị hàng hóa hao hụt, mất mát còn lại
phản ánh các khoản chi phí được hạch toán
trực tiếp vào giá vốn hàng bán:
- Trường hợp mức sản phẩm thực tế sản xuất
ra thấp hơn công suất bình thường thì kế toán
phải tính và xác định chi phí sản xuất chung
cố định phân bổ vào chi phí chế biến cho một
đơn vị sản phẩm theo mức công suất bình
thường. Khoản chi phí sản xuất chung cố định
không phân bổ (không tính vào giá thành sản
phẩm số chênh lệch giữa tổng số chi phí sản
xuất chung cố định thực tế phát sinh lớn hơn
chi phí sản xuất chung cố định tính vào giá
thành sản phẩm) được ghi nhận vào giá vốn
hàng bán trong kỳ, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có TK 154 - Chi phí SXKD dở dang; hoặc
Có TK 627 - Chi phí sản xuất chung.
- Phản ánh khoản hao hụt, mất mát của hàng
tồn kho sau khi trừ (-) phần bồi thường do
trách nhiệm cá nhân gây ra, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có các TK 152, 153, 156, 138 (1381)...
- Phản ánh chi phí tự xây dựng, tự chế
TSCĐ vượt quá mức bình thường không
được tính vào nguyên giá TSCĐ hữu hình
hoàn thành, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang (Nếu
tự xây dựng)
Có TK 154 - Chi phí SXKD dỡ dang (Nếu
tự chế).
Qua phần hạch toán trên ta thấy, phương
pháp hạch toán không có sự phân biệt hàng
hóa hao hụt, mất mát ở khâu nào, hàng hóa
có hay không có định mức hao hụt và hàng
hóa hao hụt, mất mát trong định mức hay
vượt định mức.
ĐỀ XUẤT PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN CÁC
KHOẢN HAO HỤT, MẤT MÁT HÀNG
HÓA TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI
Để khắc phục những hạn chế trên, nghiên cứu
đề xuất phương pháp kế toán các khoản hao
hụt, mất mát hàng hóa trong các doanh nghiệp
thương mại cụ thể như sau:
Đối với hàng hóa hao hụt, mất mát trong
khâu mua
- Khi mua hàng, nhập kho hàng mua, phát
sinh hao hụt, mất mát
+ Đối với hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế
GTGT, tính theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ TK 156 – Hàng hóa (TK 1561 – Giá mua
hàng hóa). Giá mua hàng hóa thực nhập chưa
có thuế GTGT.
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 25 - 30
28
Nợ TK 138 – Phải thu khác (1381 - Tài sản
thiếu chờ xử lý). Giá mua hàng hóa hao hụt,
mất mát.
Nợ TK 133 – Thuế GTGT được khấu trừ
(TK 1331 – Thuế GTGT của hàng hóa dịch
vụ). Thuế GTGT đầu vào theo hóa đơn.
Có TK 331 – Phải trả cho người bán. Số tiền
theo giá thanh toán.
+ Đối với hàng hóa không thuộc đối tượng chịu
thuế GTGT hoặc thuộc đối tượng chịu thuế
GTGT tính theo phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 156 – Hàng hóa (TK 1561 – Giá mua
hàng hóa). Giá mua hàng hóa thực nhập
Nợ TK 138 – Phải thu khác (1381 - Tài sản
thiếu chờ xử lý). Giá mua hàng hóa hao hụt,
mất mát
Có TK 331 – Phải trả cho người bán. Số tiền
theo giá thanh toán
- Khi xác định được nguyên nhân, nghiên cứu
đề xuất:
+ Phần thiệt hại do hàng hóa hao hụt, mất mát
nếu quy được trách nhiệm, bắt tổ chức, cá
nhân phạm lỗi phải bồi thường, giá bồi
thường có thể bằng hoặc cao hơn giá thanh
toán với người bán. Trường hợp giá bồi
thường cao hơn giá thanh toán với người bán,
khoản chênh lệch đưa vào thu nhập khác của
doanh nghiệp, kế toán ghi:
Nợ TK 334 – Phải trả người lao động. Nếu do
cá nhân gây ra trừ vào lương
Nợ TK 138 – Phải thu khác (TK 1388 –
phải thu khác). Phải thu các tổ chức, cá
nhân phạm lỗi
Có TK 138 – Phải thu khác (1381 – Tài sản
thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao hụt,
mất mát bắt bồi thường
Có TK 711 – Thu nhập khác. Khoản chênh
lệch giá bồi thường lớn hơn giá thanh toán
với người bán hàng hóa
+ Đối với phần thiệt hại còn lại, sau khi trừ (-)
phần tổ chức, cá nhân bồi thường, ghi vào giá
vốn hàng bán, kế toán ghi:
Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán. Phần giá trị
hàng hóa hao hụt, mất mát còn lại
Có TK 138 - Phải thu khác (1381 – Tài sản
thiếu chờ xử lý). Phần trị giá hàng hoá hao
hụt, mất mát còn lại.
Đối với hàng hóa hao hụt, mất mát trong
khâu bán
- Khi phát sinh hao hụt, mất mát hàng hóa đang
trong quá trình chuyển đến cho bên mua, hàng
hóa chưa được xác định là tiêu thụ, chưa đủ
điều kiện ghi nhận doanh thu, kế toán ghi:
Nợ TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao
hụt, mất mát
Có Tk 157 – Hàng gửi đi bán. Trị giá hàng
hóa hao hụt, mất mát
- Trường hợp sau khi đã được xác định tiêu
thụ, bên mua thông báo có phát sinh hao hụt,
mất mát theo hợp đồng bên bán phải chịu, kế
toán ghi:
Nợ TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao
hụt, mất mát
Có TK 632 – Giá vốn hàng bán. Trị giá hàng
hóa hao hụt, mất mát
- Khi xác định được nguyên nhân, nghiên cứu
đề xuất:
+ Đối với hàng hóa có định mức hao hụt và
hàng hóa hao hụt nằm trong định mức, khoản
thiệt hại này đưa vào chi phí bán hàng, kế
toán ghi:
Nợ TK 641 – Chi phí bán hàng. Trị giá hàng
hóa hao hụt, mất mát trong định mức
Có TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao
hụt, mất mát trong định mức
+ Đối với hàng hóa hao hụt, mất mát vượt
định mức hoặc hàng hóa không có định mức
hao hụt, căn cứ biên bản xử lý thiệt hại, kế
toán ghi:
Nợ TK 334 – Phải trả người lao động. Nếu do
cá nhân gây ra trừ vào lương
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 25 - 30
29
Nợ TK 138 – Phải thu khác (TK 1388 -
phải thu khác). Phải thu các tổ chức, cá
nhân phạm lỗi
Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán. Phần giá trị
hàng hóa hao hụt, mất mát còn lại
Có TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao hụt,
mất mát trong định mức
- Đối với trường hợp hàng hóa hao hụt, mất
mát sau khi đã ghi nhận doanh thu, kế toán
điều chỉnh giảm doanh thu bán hàng trên
TK 511 – Doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ, bằng phương pháp ghi âm theo
định khoản:
Nợ TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ (Doanh thu).
Có TK 511 - Doanh thu bán hàng và cung cấp
dịch vụ (Doanh thu).
Đối với hàng hóa hao hụt, mất mát ở khâu
bảo quản
- Khi phát sinh hao hụt, mất mát hàng hóa ở
khâu bảo quản, chưa xác định được nguyên
nhân, chờ xử lý, kế toán ghi:
Nợ TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao
hụt, mất mát
Có TK 156 – Hàng hóa. Trị giá hàng hóa hao
hụt, mất mát
- Khi xác định được nguyên nhân, nếu quy
định được trách nhiệm cho các tổ chức, cá
nhân phải bồi thường, ghi:
Nợ TK 111, 112, 334, 138 (1388) : Số tiền
theo giá bồi thường
Có TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao hụt,
mất mát
Có TK 711 – Thu nhập khác. Khoản chênh
lệch giá bồi thường lớn hơn trị giá hàng hóa
hao hụt, mất mát
- Đối với khoản thiệt hại, sau khi trừ phần tổ
chức, cá nhân phải bồi thường, còn lại đưa
vào giá vốn hàng bán, kế toán ghi:
Nợ TK 632 – Giá vốn hàng bán. Phần giá trị
hàng hóa hao hụt, mất mát sau khi trừ phần
bồi thường
Có TK 138 – Phải thu khác (TK 1381 – Tài
sản thiếu chờ xử lý). Trị giá hàng hóa hao hụt,
mất mát.
KẾT LUẬN
Đối với các doanh nghiệp, việc đối mặt với
hao hụt, mất mát hàng hóa là chuyện thường
gặp và đòi hỏi phải xử lý cho đúng các quy
định về kế toán. Hàng hóa hao hụt, mất mát
có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau, trị
giá hàng hóa hao hụt, mất mát có thể trong
định mức hoặc ngoài định mức. Việc hạch
toán các khoản hao hụt, tổn thất hàng hóa
theo đúng nguyên nhân phát sinh sẽ giúp
doanh nghiệp quản lý hàng hóa và phân định
trách nhiệm quản lý hàng hóa của doanh
nghiệp thương mại, từ đó có biện pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ tài chính, (2006), “Chế độ kế toán doanh
nghiệp”, Nxb Tài chính.
2. Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS2.
3. Chuẩn mực kế toán Việt nam số 04 “Hàng tồn
kho” được ban hành theo Quyết định số
149/2001/QĐ-BTC ngày 31.12.2001 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính.
4. Hướng dẫn của chuẩn mực kế toán Việt Nam
(VAS) số 02 “Hàng tồn kho” và quy định của Chế
độ kế toán doanh nghiệp ban hành theo Quyết
định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20/3/2006.
5. Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện 4 chuẩn
mực kế toán (đợt 1) ban hành theo Quyết định
149/2001/QĐ-BTC
6. Thông tư 161/2007/QĐ-BTC ngày 31/12/2007
của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện 16 chuẩn
mực kế toán ban hành theo Quyết định
149/2001/QĐ-BTC (đợt 1), Quyết định
165/2002/QĐ-BTC (đợt 2), Quyết định
234/2003/QĐ-BTC (đợt 3).
Đỗ Thị Thu Hằng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 25 - 30
30
SUMMARY
ACCOUNTING THE LOSS OF GOODS:
PROBLEM OF COMMERCIAL ENTERPRISES
Do Thi Thu Hang*, Tran Tuan Anh, Hoang Thi Thu
College of Economics and Business Administration - TNU
Goods are a crucial part of business assets in commercial enterprises. Managers need to effectively
use the system of management tools to improve the business performance of the enterprises.
Currently, commercial enterprises face many difficulties in specifying in which phase of
production line the good shrinkage occurs and how to record it. Therefore, accounting for goods
shrinkage according to the causes will help the commercial enterprises enhance the good
management and delimit the responsibilities in goods management.
Key words: Accounting for goods shrinkage, commercial enterprises
Ngày nhận bài:12/12/2013; ngày phản biện:26/12/2013; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Bùi Thị Minh Hằng – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Email: [email protected]
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
31
ĐA DẠNG HÓA HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
- CHI NHÁNH HÀ GIANG
Nguyễn Thị Hồng Yến1*, Trần Phạm Văn Cương1, Nguyễn Chí Dũng2
1Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên 2Ngân hàng TMCP Công thương Hà Giang
TÓM TẮT Hội nhập kinh tế quốc tế trong ngành ngân hàng hiện nay đang đặt ra những cơ hội và thách thức
to lớn đối với các Ngân hàng Thương mại (NHTM) Việt Nam. Đòi hỏi của xu thế hội nhập và toàn
cầu hoá buộc Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (và các NHTM) phải cơ cấu lại cho phù
hợp. Chính vì vậy, nhu cầu đổi mới hoạt động kinh doanh (trong đó có cải cách các phương thức
huy động và sử dụng vốn), nâng cao năng lực cạnh tranh của NH TMCP Công thương Việt Nam
nói riêng và các NHTM nói chung là tất yếu. Để có thể tồn tại và nâng cao được vị thế của mình
trên địa bàn đòi hỏi NHCT Hà Giang phải nỗ lực đa dạng hóa hình thức huy động và sử dụng vốn.
Từ khoá: ngân hàng thương mại,huy động vốn, sử dụng vốn, đa dạng hóa hình thức huy động vốn
và sử dụng vốn ,Viettinbank Hà Giang.
KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG TMCP
CÔNG THƯƠNG HÀ GIANG*
Ngân hàng TMCP Công thương Hà Giang
(VietinBank Hà Giang) (NHCT Hà Giang)
được thành lập vào tháng 09/2009 và chính
thức đi vào hoạt động ngày 24/11/2009. Sau
gần 04 năm hình thành và phát triển, NHCT
Hà Giang đã và đang dần khẳng định được
vị thế năng lực của mình trên địa bàn tỉnh
Hà Giang.
Các hoạt động chính của Chi nhánh: Huy
động vốn, Cấp tín dụng bằng VNĐ và ngoại
tệ cho các tổ chức, cá nhân, Thanh toán và
Tài trợ thương mại, Ngân quỹ, Dịch vụ Thẻ
và ngân hàng điện tử, Hoạt động khác: Khai
thác bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, tư vấn
đầu tư và tài chính, cho thuê tài chính, môi
giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lý
danh mục đầu tư, tư vấn, lưu ký chứng khoán,
THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG
HÀ GIANG
Quy mô vốn chủ sở hữu của ngân hàng
TMCP Công thương Hà Giang với
NHTM khác
Hiện nay, NHCT Việt Nam là một trong
những NHTM có vốn chủ sở hữu lớn thuộc
tốp đầu trong hệ thống NHTM Việt Nam.
*
Cùng với sự gia tăng của vốn chủ sở hữu, tỷ
lệ an toàn vốn cũng có sự cải thiện đáng kể.
Năm 2013, tỷ lệ an toàn vốn đạt 10,57%
vượt qua tỷ lệ vốn tối thiểu là 8% mà NHNN
quy định.
Sơ đồ 1. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng TMCP
Công thương Hà Giang
(Nguồn: Phòng Tổ chức hành chính Chi nhánh
Giám đốc
Phòng Khách
hàng
doanh
nghiệp
Phòng Khách
hàng
cá
nhân
Phòng
kế
toán
Phòng
Giao
dịch
Phòng Tổ
chức
hành
chính
Tổ
tiền
tệ
kho
quỹ
Phòng
Quản
lý rủi
ro
Tổ
tổng
hợp
Tổ kế
toán
giao
dịch
Tổ
điện
toán
PGD
Nguyễn
Trãi
PGD
Vị
Xuyên
PGD
Bắc
Quang
Tổ
hành
chính
Tổ
bảo
vệ
Tổ
lái
xe
Các Phó giám đốc
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
32
Bảng 1. Quy mô vốn chủ sở hữu của NHTMCP CT Việt Nam với NHTM khác
TT Tên ngân hàng Năm
2011
Năm 2012 Năm 2013
Số dư
(Tỷ đồng)
Tốc độ
tăng trưởng (%)
Số dư
(Tỷ đồng)
Tốc độ
tăng trưởng (%)
1 NHCT Việt Nam 18.201 28.491 56,54 33.625 18,02
2 NH TMCP Ngoại
thương Việt Nam 20.737 28.639 38,11 41.553 45,09
3 NH NN và PTNT
Việt Nam 20.810 29.154 40,10 36.879 26,50
4 NH TMCP ĐT và
PT VN 24.220 24.390 0,70 26.494 8,63
(Nguồn: Báo cáo thường niên các NHTM năm 2011, 2012, 2013)
Nguồn vốn huy động ngân hàng TMCP Công thương Hà Giang
Tính đến hết ngày 31/12/2013, vốn huy động của NHCT Hà Giang đạt 962 tỷ đồng (chiếm 22,6%
thị phần huy động vốn trong toàn tỉnh). Trong số 03 NHTM hoạt động trên địa bàn, NHCT Hà
Giang đứng ở vị trí thứ 03, sau ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Giang.
Mặc dù vốn huy động của NHCT Hà Giang đứng trong tốp cuối các NHTM trên địa bàn tỉnh, thị
phần huy động cũng thấp nhất song mức tăng trưởng của vốn huy động tăng khá nhanh so với
cùng kỳ năm trước.
Bảng 2. Thị phần huy động vốn của các ngân hàng và tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn tỉnh Hà Giang
(Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động ngành ngân hàng của NHNN Hà Giang năm 2013)
NHCT Hà Giang luôn xác định tầm quan trọng của hoạt động huy động vốn đối với việc mở rộng phát triển hoạt động kinh doanh và đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng và nền kinh tế nói chung. Kể từ khi thành lập, Chi nhánh đã rất chú trọng đến công tác huy động vốn. Vì vậy, tổng nguồn vốn huy động tăng trưởng khá tốt, nguồn vốn có xu hướng ngày càng tăng qua các năm. Số liệu huy động vốn qua 04 năm của Chi nhánh được thể hiện trên bảng 3.
Về cơ cấu tiền gửi:
Xét cơ cấu nguồn vốn theo thành phần kinh tế: Nguồn vốn chủ yếu của NHCT Hà Giang là tiền gửi
của các tổ chức kinh tế. Năm 2011, tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 269,5 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
63,1% tổng nguồn huy động. Năm 2012, tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 340,3 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
53,3% tổng nguồn huy động. Năm 2013, tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 572,8 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ
59,5% tổng nguồn huy động.
STT TCTD
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Số dư
(Tỷđ)
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
(Tỷđ)
Tỷ
trọng
(%)
Tốc độ
tăng
trưởng
(%)
Số dư
(Tỷđ)
Tỷ
trọng
(%)
Tốc độ
tăng
trưởng
(%)
1 NHNN và
PTNT 1.245 49,56 1.346 46,19 8,11 1.891 44,60 40,49
2 NH TMCP
ĐT và PT 750 29,86 825 28,31 10,0 1.218 28,73 47,64
3 NH Công
thương 427 17,00 638 21,89 49,41 962 22,69 50,78
4 NH CSXH 21 0,84 26 0,89 23,81 30 0,71 15,38
5 NH Phát triển 4 0,16 8 0,27 100 1 0,02 -87,50
6 Các quỹ
TDND cơ sở 65 2,58 71 2,45 9,23 138 3,25 94,37
Tổng cộng 2.512 2.914 16,00 4.240 45.50
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
33
Bảng 3. Tình hình huy động vốn của NHTMCPCT Hà Giang giai đoạn 2011 - 2013
Chỉ tiêu
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Tổng nguồn vốn
huy động 427 500 85,4% 638 700 91,1% 962 950 101,3%
(Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Hà Giang, năm 2013)
Bảng 4. Hệ thống mạng lưới, điểm giao dịch của các NHTM trên địa bàn tỉnh Hà Giang
STT Tên Ngân hàng Tổng số điểm
giao dịch
Trong đó
CN cấp
1
CN cấp
2 PGD
Quỹ tiết
kiệm
1 NH NN và PTNT Hà Giang 24 1 10 8 5
2 NH TMCP Đầu tư và PT Hà
Giang 4 1 3
3 NH TMCP CT Hà Giang 4 1 3
4 Quỹ tín dụng nhân dân 8 8
(Nguồn: Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước tỉnh Hà Giang, năm 2013)
Xét cơ cấu nguồn vốn theo loại tiền: Nguồn
vốn của Chi nhánh chủ yếu là huy động bằng
đồng nội tệ (chiếm khoảng 97% tổng nguồn
huy động). Số tiền huy động bằng nguồn
ngoại tệ chiếm tỷ trọng rất nhỏ, chỉ khoảng
3% trong tổng nguồn vốn huy động. Để đáp
ứng nhu cầu cho vay ngoại tệ trong thời gian
tới, chi nhánh cần áp dụng nhiều biện pháp để
tăng tỷ trọng huy động của đồng ngoại tệ.
Sự tăng trưởng của nguồn vốn huy động phù
hợp với sự biến động của tổng nguồn vốn,
cũng như xu hướng phát triển chung của nền
kinh tế và định hướng chung của toàn hệ
thống NHCT VN.
Có được kết quả nêu trên, NHCT Hà Giang
đã và đang áp dụng nhiều biện pháp như:
- Đổi mới toàn diện hoạt động của mình, tích
cực tìm kiếm và khai khác các nguồn vốn
nhàn rỗi đặc biệt là nguồn vốn dân cư để đưa
ra những chính sách khách hàng phù hợp
nhằm duy trì nền khách hàng hiện có và thu
hút thêm nhiều khách hàng mới. Các giải
pháp cụ thể đã được triển khai ở Chi nhánh
trong thời gian qua như sau:
- Nâng cấp các điểm giao dịch, không ngừng
đổi mới trang thiết bị hiện đại; đào tạo và đào
tạo lại đội ngũ nhân viên giao dịch đáp ứng
yêu cầu công nghệ mới
- Luôn nêu cao tinh thần thái độ phục vụ
tốt, tuyên truyền quảng bá hấp dẫn để khách
hàng biết đến hình ảnh một NHCT đa năng
và tiện ích.
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN
HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG HÀ GIANG
Trên địa bàn tỉnh, ngoài NHNN, ngân hàng
Phát triển Việt Nam và ngân hàng Chính
sách xã hội là loại hình ngân hàng có thị
trường hoạt động riêng trên những lĩnh vực
có tính chất xã hội, thì có 03 ngân hàng
thương mại và 08 quỹ tín dụng nhân dân.
Tính đến hết ngày 31/12/2013, số dư nợ của
NHCT Hà Giang đạt 601,4 tỷ đồng (chiếm
15,46% thị phần cho vay của các NHTM
trong toàn tỉnh). Trong số 03 NHTM hoạt
động trên địa bàn, NHCT Hà Giang đứng ở vị
trí thứ 03, sau ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn Hà Giang (chiếm
49,61% thị phần) và ngân hàng TMCP Đầu tư
và phát triển tỉnh Hà Giang (chiếm 29,43%
thị phần). Thị phần cho vay của NHCT Hà
Giang trên địa bàn tỉnh Hà Giang được thể
hiện qua bảng sau:
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
32
Bảng 5. Thị phần tín dụng của các NHTM trên địa bàn tỉnh Hà Giang
(Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động ngành ngân hàng của NHNN Hà Giang năm 2013).
Bảng 6. Tình hình sử dụng vốn của NHCT Hà Giang giai đoạn 2011 - 2013
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ
tiêu
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Thực
hiện
Kế
hoạch
TSC
giao
Tỷ lệ
hoàn
thành
(%)
Tổng
dư nợ 23,6 30 78,7% 226,5 280 80,9% 411,5 500 82,3% 601,4 700 85,9%
(Nguồn: Báo cáo của NHCT Hà Giang từ năm 2010 - 2013).
Tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh trong 04 năm có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh.
Về cơ cấu dư nợ:
Bảng 7. Cơ cấu dư nợ của NHCT Hà Giang giai đoạn 2010 - 2013
Đơn vị tính: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Số tiền Tỷ trọng
(%) Số tiền
Tỷ trọng
(%) Số tiền
Tỷ trọng
(%) Số tiền
Tỷ trọng
(%)
Tổng dư nợ 23,6 226,5 411,5 601,4
Trong đó:
Phân theo thời gian
1. Cho vay ngắn hạn 6,7 28,3 67,3 29,9% 144,8 35,2% 220,8 36,7%
2. Cho vay trung dài
hạn 16,9 71,7% 158,7 70,1% 266,7 71,8% 380,6 63,3%
Phân theo TPKT
1. Cho vay cá nhân,
HGD 9,4 39,8% 37,5 16,5% 65,2 15,8% 108,6 18,1%
2. Cho vay doanh
nghiệp 14,2 60,2% 188,3 83,1% 345 83,8% 490 81,5%
3. Cho vay Thẻ TDQT 0 0,7 0,4% 1,3 0.4% 2,8 0,4%
(Nguồn: Báo cáo của NHCT Hà Giang từ năm 2010 - 2013).
STT TCTD
Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013
Số dư
(Tỷđ)
Tỷ
trọng
(%)
Số dư
(Tỷđ)
Tỷ
trọng
(%)
Tốc độ
tăng
trưởng
(%)
Số dư
(Tỷđ)
Tỷ
trọng
(%)
Tốc độ
tăng
trưởng
(%)
1 NHNN và
PTNT 1.547 55,98 1.780 53,32 15,06 1.930 49,61 8,43
2 NH TMCP
ĐT và PT 863 31,23 987 29,56 14,37 1145 29,43 16,01
3 NH Công
thương 226.5 8,20 411.5 12,33 81,68 601.4 15,46 46,15
4
Các quỹ
TDND cơ
sở
127 4,60 160 4,79 25,98 214 5,50 33,75
Tổng cộng 2.764 3.338,5 20,81 3890,4 16,53
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
33
Trong năm 2013, bộ phận quan hệ khách hàng doanh nghiệp của chi nhánh đã cố gắng rất nhiều để tìm kiếm khách hàng mới, dư nợ đạt mức tăng trưởng khá, tuy nhiên xét trên góc độ phát triển khách hàng thực tế năm 2013 tại chi nhánh cũng còn nhiều hạn chế. Số lượng khách hàng quan hệ tín dụng tại chi nhánh trong năm 2013 tuy có tăng so với năm 2012 nhưng mức tăng trưởng thấp (07 khách hàng) trong đó có 02 khách hàng cho vay liên chi nhánh.
Đi đôi với việc tăng trưởng tín dụng thì chất lượng tín dụng được NHCT Hà Giang đặc biệt quan tâm.
Một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng quan hệ tín dụng đó là tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ, nợ nhóm 02 tiềm ẩn tương lai gần của rủi ro. Ngay từ khi mới đi vào hoạt động, Chi nhánh đã rất chú trọng và quản lý khá tốt vấn đề nợ nhóm 02 và nợ xấu. Tính đến thời điểm hết ngày 31/12/2013, NHCT Hà Giang không phát sinh nợ nhóm 02 và nợ xấu.
Với thực trạng dư nợ cho vay như đã phân
tích ở trên có thể đánh giá chất lượng tín dụng
của NHCT Hà Giang đến hết ngày
31/12/2013 là tốt bởi không phát sinh nợ xấu.
Song không được chủ quan do bất thường của
nền kinh tế chịu tác động của hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới ảnh hưởng tới hoạt động
sản xuất kinh doanh của khách hàng kéo theo
tiềm ẩn rủi ro không nhỏ cho đồng vốn ngân
hàng. Do vậy, chi nhánh phải luôn coi trọng
đến chất lượng tín dụng và phấn đấu bền bỉ vì
chất lượng tín dụng để an toàn trong hoạt
động kinh doanh.
MỐI QUAN HỆ GIỮA QUẢN LÝ VỐN
HUY ĐỘNG VỚI SỬ DỤNG VỐN
427
638
962
226.5411.5
601.4
0
200
400
600
800
1000
1200
2011 2012 2013
Tổng huy động
vốn
Tổng dư nợ của
khách hàng trước
dự phòng rủi ro
Hình 2. Mối qua hệ giữa quản lý huy động vốn và
sử dụng vốn
(Nguồn: Báo cáo của NHCT Hà Giang
từ năm 2011 - 2013)
Sự tăng trưởng về quy mô, cơ cấu vốn huy động
là nền tảng quan trọng cho mọi hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng TMCP Công thương -
Chi nhánh Hà Giang. Tổng mức sử dụng vốn
sinh lời chiếm tới 94,4% tổng nguồn vốn huy
động, trong đó tín dụng chiếm 63% tổng nguồn
vốn huy động còn lại thực hiện điều chuyển nội
bộ, tăng năng lực vốn cho hệ thống, tài sản có
khác chiếm khoảng 10%. Tăng trưởng tín dụng
từ năm 2011 trở lại đây luôn đạt mức bình quân
khoảng trên 50%. Năm 2011 là 89%, năm 2012
là 82%, năm 2013 là 46%.
Bảng 8. Tăng trưởng tín dụng của NHCT Hà Giang
ĐVT:Tỷ đồng, lần
Chỉ tiêu Năm
2010 Năm 2011
Năm
2012
Năm
2013
Tổng nguồn vốn huy động 46 427 638 962
Ngắn hạn 39,1 384,3 587 894,6
Trung, dài hạn 6,9 42,7 51 67,4
Tổng dư nợ tín dụng 23,6 226,5 411,5 601,4
Ngắn hạn 6,7 67,3 144,8 220,8
Trung, dài hạn 16,9 158,7 266,7 380,6
Nguồn vốn NH/Dư nợ NH 5,83 5,71 4,05 4,05
Nguồn vốn trung, DH/Dư nợ Trung, dài hạn 0,41 0,27 0,19 0,18
Nguồn vốn ngắn hạn sử dụng cho vay trung DH 32,4 317 442,2 673,8
(Nguồn: Báo cáo của NHCT Hà Giang từ năm 2010- 2013 và kết quả tính toán của tác giả)
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
36
Chỉ tiêu Tổng huy động vốn/tổng dư nợ được xác định là một trong những thước đo quan trọng nhất xác định tỷ lệ cân đối nguồn và sử dụng nguồn. Tỷ lệ này cho biết có bao nhiêu phần trăm vốn huy động tài trợ cho dư nợ của ngân hàng và 1% tăng thêm của tín dụng, đầu tư thì nguồn vốn huy động thương ứng bao nhiêu %. Hiệu quả đầu tư, cho vay của nguồn vốn huy động khá cao và thường xuyên: năm 2010 là 1,9 lần, năm 2011 là 1,8 lần, năm 2012 là 1,5 lần và năm 2013 là 1,6 lần, nghĩa là tín dụng tăng thêm 1 đồng thì huy động vốn tăng thêm hơn 1 đồng. Tỷ lệ này được duy trì tương đối cao chứng tỏ Chi nhánh luôn đáp ứng nhu cầu cho vay, vừa đảm bảo khả năng chi trả. Hệ số an toàn vốn đạt 10,57% vượt qua mức tối thiểu là 9% do NHNN quy định.
Về cơ cấu tín dụng còn chưa thực sự hợp lý, dư nợ ngắn hạn chiếm trung bình khoảng 30%, phần dư nợ chủ yếu là trung và dài hạn (chiếm khoảng 70%). Nếu đánh giá riêng ở cấp chi nhánh thì cơ cấu nợ như vậy là chưa đảm bảo, tuy nhiên hiện nay Ngân hàng Công thương Việt Nam đang áp dụng cơ chế quản lý vốn tập trung đồng thời quy mô hoạt động của chi nhánh rất nhỏ so với toàn hệ thống nên vấn đề này trong ngắn hạn là không đáng lo ngại.
Huy động vốn và tín dụng tại Ngân hàng CT Hà Giang đều có sự tăng trưởng qua các năm hoạt động. Bên cạnh tăng trưởng tín dụng bền vững, chất lượng tín dụng ngày càng được nâng lên, tăng cường công tác xử lý nợ xấu, nợ tồn đọng, nâng cao chất lượng tài sản có, trích lập DPRR theo đúng quy định của NHNN, đến cuối năm 2013 chi nhánh không có nợ nhóm 2, nợ xấu. Chi nhánh luôn đảm bảo mức chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay hợp lý với mức chênh lệch từ 2% - 3%, nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch lợi nhuận.
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC VÀ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG HÀ GIANG
Những kết quả đạt được
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn ở mức cao (Bq = 50%)
Dư nợ cho vay nền kinh tế không ngừng tăng lên cả về số lượng và chất lượng (Bq > 60%)
Cơ cấu sử dụng vốn có sự chuyển dịch theo hướng tích cực.
Những hạn chế
Những hạn chế
Hình thức huy động vốn còn đơn điệu
Hình thức sử dụng vốn còn nghèo nàn
Cơ cấu vốn huy động còn chưa hợp lý, cấu trúc nguồn vốn chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn.
Nguyên nhân của những hạn chế
Do ảnh hưởng chung của nền kinh tế thế giới và trong nước.
Hoạt động thanh toán qua Chi nhánh còn chưa thực sự mạnh, thủ tục và thời gian thực hiện còn nhiều vấn đề trăn trở.
Chất lượng, số lượng nguồn nhân lực của Chi nhánh chưa đáp ứng được yêu cầu.
Quy định, quy trình còn chưa phù hợp với địa bàn chi nhánh.
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG CỦA NH TMCP CÔNG THƯƠNG HÀ GIANG
Trên cơ sở định hướng và mục tiêu kinh doanh của NHCT Việt Nam đến năm 2015 đã được đề ra, NHCT Hà Giang đã đề ra mục tiêu, định hướng phát triển để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình, đó là:
- Mở rộng quy mô và năng lực hoạt động: Dự kiến tăng trưởng nguồn vốn hàng năm từ 50 - 60%/năm.
- Mở rộng thị trường, tăng thị phần: Phấn đấu đến năm 2015 đưa tổng thị phần của NHCT Hà Giang trên địa bàn tỉnh Hà Giang đạt 40% thị phần.
- Đảm bảo lợi nhuận: Lợi nhuận thu từ dịch vụ chiếm 20-30%, hạn chế triệt để nợ nhóm 2 và nợ xấu phát sinh.
Định hướng huy động và sử dụng vốn
Định hướng huy động vốn
Mục tiêu của Chi nhánh cho kế hoạch tăng trưởng nguồn vốn của mình đến năm 2015 là mức tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 50%, trong đó nguồn vốn dài hạn chiếm 60%.
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
37
Định hướng sử dụng vốn
Mục tiêu của Chi nhánh là mức tăng trưởng
dư nợ bình quân 40%/năm; cơ cấu lại tỉ lệ dư nợ trung dài hạn/ngắn hạn là 60/40.
GIẢI PHÁP ĐA DẠNG HOÁ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG
VỐN TẠI NGÂN HÀNG TMCP CÔNG THƯƠNG HÀ GIANG
Thực hiện được mục tiêu phấn đấu đến năm 2015 đưa NHCT Hà Giang chiếm 40% thị
phần của tỉnh Hà Giang, NHCT Hà Giang cần xây các giải pháp cụ thể như sau:
Những giải pháp tổng thể
* Tiếp tục hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng
và cơ sở vật chất
* Đẩy mạnh ứng dụng Marketing ngân hàng
* Nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự
*Nâng cao hiệu quả điều hành vốn
Giải pháp cụ thể
- Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn
Đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện giao dịch thuận tiện và các biện pháp bảo đảm hợp lý
giá trị tiền gửi của khách hàng (nhận gửi tiền tại nhà,…).
Quảng bá các sản phẩm gắn với công nghệ hiện đại (Tiết kiệm online, tiết kiệm tại ATM).
Phát triển các dịch vụ tín dụng, đầu tư, thanh toán không dùng tiền mặt, dịch vụ tài khoản
và quản lý tài sản.
Xây dựng một hệ thống thanh toán điện tử
rộng khắp.
Đầu tư đổi mới và hiện đại hoá công nghệ
Ngân hàng.
Cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động, nâng
cao chất lượng công tác thanh toán, tăng
cường công tác tiếp thị và mở rộng loại hình
dịch vụ Ngân hàng khác.
Trong thời gian tới Chi nhánh nên thành lập
thêm phòng VIP, tổ tiếp thị nghiên cứu thị
trường và phát triển sản phẩm mới.
Cần tích cực hơn nữa trong việc quảng bá
hình ảnh và thương hiệu của VietinBank.
Mở rộng mạng lưới phòng giao dịch, quỹ
tiết kiệm.
Xây dựng chính sách khách hàng cũng như chính sách lãi suất thích hợp, điều chỉnh phù
hợp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh doanh nhằm khuyến khích người
gửi tiền.
Nâng cao trình độ, thái độ, tác phong giao dịch
của đội ngũ nhân viên tại các quầy giao dịch.
- Đa dạng hoá các hình thức sử dung vốn
Nâng cao chất lượng các hình thức sử dụng vốn hiện có.
Tăng trưởng tín dụng gắn với chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro tác nghiệp.
Công tác nghiên cứu thị trường, quảng bá sản phẩm.
Áp dụng một số hình thức sử dụng vốn mới.
Việc hoàn thiện mở rộng và nâng cao chất
lượng các hình thức sử dụng vốn cũ và đang
áp dụng là cần thiết. Tuy nhiên, việc mở rộng
các hình thức sử dụng sẽ đáp ứng tốt hơn cho
khách hàng khi vay vốn, đồng thời, cũng sẽ
giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng đầu
tư (Cho vay thấu chi; cho vay tiêu dùng mua
sắm, xây dựng, sửa chữa nhà, phương tiện đi
lại; cho vay ứng trước tiền bán chứng
khoán...).
KIẾN NGHỊ
Kiến nghị với nhà nước
Cải thiện môi trường kinh tế, môi trường
pháp lý thông thoáng, phù hợp với thông lệ quốc tế.
Xây dựng hệ thông kiểm toán vững mạnh.
Cải cách doanh nghiệp nhà nước.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
Một là, cải thiện khuôn khổ quản lý, giám sát,
pháp lý tạo sân chơi bình đẳng.
Hai là, thực hiện tự do tài chính, nâng cao
tính chủ động kinh doanh của NHTM.
Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương
Việt Nam
Triển khai có kết quả chương trình hiện đại
hóa ngân hàng, ứng dụng chương trình giao
dịch INCAS giai đoạn 2 đến 100% các chi
nhánh trên toàn quốc.
Nguyễn Thị Hồng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 31 - 38
38
Triển khai và hoàn thiện các dịch vụ sản
phẩm trọn gói.
Thường xuyên nghiên cứu, sửa đổi các sản
phẩm dịch vụ, quy trình phù hợp với từng
vùng miền.
Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại
cán bộ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam - Chi
nhánh Hà Giang, Báo cáo tổng kết các năm, 2010
- 2013.
2. Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam - Chi
nhánh Hà Giang (2012), Chiến lược phát triển
Ngân hàng TMCP công thương Việt Nam - Chi
nhánh Hà Giang năm 2011 và định hướng phát
triển đến năm 2015, Hà Giang.
3. NHNN Việt Nam - Chi nhánh Hà giang các báo
cáo định hướng hoạt động ngân hàng các năm tới
2010 - 2032
4. Vụ chiến lược phát triển Ngân hàng - Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Chiến lược phát
triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2010 và tầm
nhìn 2020, Nhà xuất bản Phương Đông, Hà Nội.
SUMMARY
DIVERSIFICATION AND FORMS OF CAPITAL MOBILIZATION AND
USE AT VIETNAM JOINT STOCK COMMERCIAL BANK FOR INDUSTRY
AND TRADE – HA GIANG BRANCH
Nguyen Thi Hong Yen1*, Tran Pham Van Cuong1, Nguyen Chi Dung2
1College of Economics & Business Administration - TNU 2VietinBank – Ha Giang Branch
Currently, the international economic integration in banking sector poses opportunities andt
remendous challenges for Vietnam commercial banks. The integration trend and globalization
requires and forces Vietnam Joint Stock Commercial Bank for Industry and Trade (and
commercial banks) to restructure accordingly. Therefore, the demand for innovation in business
activities (including the reform the modes of capital mobilization and use) and enhancement of
competitive capacity of Vietnam Commercial Joint Stock Bank for Industry and Trade in
particular and the commercial banks in general is inevitable. In order for survival and
improvement of its position in the province, VietinBank – Ha Giang Branch requires efforts to
diversify forms of capital mobilization and use.
Key words: Commercial banks, capital mobilization, capitaluse, diversification offorms ofcapital
mobilization and use, Viettinbank – Ha Giang Branch
Ngày nhận bài:10/6/2014; ngày phản biện:25/6/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
*
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 39 - 44
39
QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP
VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN VĨNH TƯỜNG
Đỗ Thị Thúy Phương*
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Rủi ro tín dụng có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của Ngân hàng và nền kinh tế. Do đó, rủi ro
tín dụng là một vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu, đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp.
Chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Tường, cần xây dựng rõ chính sách hoạt động tín dụng cụ thể từng
thời kỳ và có định hướng theo xu hướng phát triển kinh tế xã hội. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện mô
hình và quy trình quản lý rủi ro tín dụng (RRTD), đảm bảo cấp tín dụng chặt chẽ, khách quan,
khoa học. Ngoài ra, cần hoàn thiện các yếu tố như đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển
công nghệ, xây dựng hệ thống thu thập, phân tích thông tin… Từng bước hoàn thiện hệ thống quản
lý RRTD, để nâng cao chuẩn an toàn cho chính ngân hàng, đảm bảo lợi nhuận, nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng.
Từ khóa: Ngân hàng thương mại, tín dụng, quản lý rủi ro, rủi ro tín dụng, nợ xấu.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp cung cấp một danh mục các dịch vụ đặc biệt liên quan đến tiền tệ như: tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ thanh toán và thể hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế [1]. Ngân hàng thương mại (NHTM) cũng như các trung gian tài chính khác đóng vai trò là kênh dẫn vốn cho nền kinh tế. NHTM có hai hoạt động cơ bản là huy động vốn và sử dụng vốn. Rủi ro trong hoạt động của NHTM có thể hiểu đơn giản là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng dẫn đến giảm sút thu nhập [5].
Với cơ cấu thu nhập chiếm 95% trong tổng thu nhập của Chi nhánh NHNo&PTNT huyện Vĩnh Tường, hoạt động tín dụng có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược kinh doanh, đồng thời cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất của Chi nhánh. Công tác quản lý rủi ro tín dụng đã nhận được sự quan tâm của Ban Giám đốc, đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng tại chi nhánh, nhưng trên thực tế công tác này vẫn còn nhiều thiếu sót, yếu kém, đặt ra yêu cầu: nếu không nghiên cứu, tìm cách khắc phục thì sẽ có ảnh hưởng xấu đến hoạt động và kết quả kinh doanh của Chi nhánh. Vì vậy việc
* Tel: 0912 551 551; Email: [email protected]
Quản lý rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Vĩnh Tường là rất cần thiết.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT HUYỆN VĨNH TƯỜNG
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Vĩnh Tường (NHNo&PTNT Vĩnh Tường) được thành lập theo quyết định 498 của tổng giám đốc NHNo Việt Nam, là chi nhánh trực thuộc đơn vị thành viên (NHNo&PTNT tỉnh Vĩnh Phúc), đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1996 với biên chế có 55 CBNV, nguồn vốn 45 tỷ đồng, dư nợ cho vay nền kinh tế 240 tỷ đồng [4]. Tới năm 2012 Chi nhánh biên chế với 48 cán bộ công nhân viên. Tổng nguồn vốn huy động đạt 381,3 tỷ đồng, Tổng dư nợ cho vay là 546,2 tỷ đồng.
Đến nay chi nhánh NHNo&PTNT Vĩnh
Tường có 48 CBNV (trong đó 54% có trình
độ đại học), bộ máy tổ chức gồm: Ban giám
đốc; Phòng kế toán và ngân quỹ ; Phòng kinh
doanh; Phòng hành chính; Bộ phận khác và
có 2 phòng giao dịch trực thuộc:
Chi nhánh NHNo&PTNT có chức năng, nhiệm
vụ: Huy động vốn nội, ngoại tệ; Sử dụng vốn
để cấp tín dụng cho nền kinh tế và thực hiện
nghiệp vụ ngân quỹ, dịch vụ ngân hàng.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 39 - 44
40
Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh
Hoạt động huy động vốn
Năm 2010 tổng nguồn vốn tại chi nhánh có số
dư 270 tỷ đồng, năm 2011 tăng không đáng
kể, ở mức 273 tỷ đồng, kết thúc năm 2012, có
số dư đạt 381,3 tỷ đồng, tăng trên 1,4 lần,
hoàn thành vượt mức chỉ tiêu đề ra cho năm
2012 (350 tỷ đồng); Nguồn vốn tăng trưởng
tập trung vào nguồn vốn nội tệ có kỳ hạn từ
dân cư.
Hoạt động tín dụng
Tốc độ tăng trưởng tín dụng trong thời gian
qua của Chi nhánh khá ổn định. Dư nợ cho
vay năm 2011 tăng so với 2010: 56.381 triệu
đồng, tương ứng với tỷ lệ tăng gần 14 % và
năm 2012 tăng 81.600 triệu đồng, tỷ lệ tăng
xấp xỉ 18% so năm 2011.
Xét về cơ cấu tín dụng, một số đặc điểm chính:
- Chi nhánh chủ yếu tập trung cho vay ngắn
hạn và đồng đều qua các năm, dư nợ cho vay
tập chung ở nhóm khách hàng là hộ gia đình
và cá thể, điển hình tính đến năm 2012 dư nợ
ở nhóm khách hàng này chiếm trên 80% tổng
dư nợ cho vay.
- Đối với dư nợ phân theo ngành kinh tế: từ
năm 2010 đến 2012, ở ngành Thương mại -
dịch vụ và Nông nghiệp luôn chiếm tỷ trọng
cao nhất. Năm 2012 ngành Thương mại -
Dịch vụ chiếm 55%/tổng dư nợ, tiếp đó là
ngành nông nghiệp chiếm 19,6%; Ngành
Công nghiệp và xây dựng có tỷ trọng dư nợ
tương đương nhau (chiếm khoảng trên 10%/
tổng dư nợ, dư nợ cho vay tiêu dùng là ở mức
thấp nhất, chiếm khoảng trên 4%/ tổng dư nợ.
Doanh số cho vay năm 2011 giảm, sang năm
2012 chi nhánh đã tập trung tìm kiếm thị
trường, đẩy mạnh đầu tư tín dụng nên tăng
trưởng khá mạnh, doanh số cho vay đạt 967
tỷ đồng, tăng 323 tỷ đồng, tương đương 50%
so năm 2011.
- Công tác quản lý, thu hồi nợ đến hạn, nợ
quá hạn cũng được quan tâm đảm bảo khả
năng quay vòng vốn đúng kế hoạch, quản lý
được vốn và hoạt động đầu tư của khách hàng
để tránh được rủi ro tín dụng mắc phải.
Dư nợ bình quân đạt được năm 2011 là 437 tỷ
đồng, đến năm 2012 đạt 506 tỷ đồng, tăng 69
tỷ đồng (16%) so năm 2011.
Vòng quay vốn tín dụng đạt được hệ số tương
đối cao. Năm 2011 đạt 1,34 vòng và năm
2012 đạt 1,75vòng.
Hoạt động khác: Agribank Vĩnh Tường đã có
nhiều cố gắng thực hiện tốt các sản phẩm dịch
vụ ngân hàng đã có.
Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng của chi
nhánh
- Thực trạng rủi ro tín dụng
Phân loại nợ
Bảng 1: Phân loại nợ theo nhóm
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm 2010
Tỷ trọng/
Tổng dư nợ
(%)
Năm 2011
Tỷ trọng/
Tổng dư
nợ (%)
Năm 2012
Tỷ trọng/
Tổng dư
nợ (%)
Tổng dư nợ
cho vay 408.196 100 465.000 100 546.200 100
Nhóm 1 397.696 97,43 455.650 97,99 476.200 87,20
Nhóm 2 3.619 0,89 6.500 1,40 67.500 12,36
Nhóm 3 181 0,04 1.200 0,26 953 0,17
Nhóm 4 1.800 0,44 50 0,01 47 0,01
Nhóm 5 4.851 1,20 1.578 0,34 1.500 0,27
Tổng nợ xấu 6.832 1,69% 2.828 0,61% 2.500 0,45%
Tỷ lệ nợ xấu 1,69% 0,61% 0,45%
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng - NHNo&PTNT Vĩnh Tường)
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 39 - 44
41
Theo quy định của NHNN, các khoản vay được phân nhóm nợ thích hợp nhằm phản ánh tính
chất, mức độ xảy ra của khoản vay đó, từ đó NH có thể trích lập dự phòng hay xử lý rủi ro để
giảm thiểu hậu quả đối với hoạt động kinh doanh.
Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho biết chất lượng hoạt động tín dụng của tổ chức tín dụng.
Phân loại nợ xấu theo kỳ hạn
Việc phân loại nợ xấu cụ thể hơn nhằm xác định định hướng bước đi của Chi nhánh trong thời
gian tới.
Bảng 2. Phân loại nợ xấu theo kỳ hạn vay
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu Năm
2010
Tỷ
trọng
(%)
Năm
2011
Tỷ
trọng
(%)
Năm 2012 Tỷ
trọng (%)
Tổng dư nợ cho vay 408.196 465.000 546.200
Tổng nợ xấu 6.832 100 2.850 100 2.500 100
Trong đó:
- Ngắn hạn 2.598 38 357 13 415 17
- Trung và dài hạn 4.234 62 2.493 87 2.085 83
(Nguồn: Báo cáo hoạt động tín dụng - NHNo&PTNT Vĩnh Tường)
Phân loại nợ xấu theo thành phần kinh tế
Năm 2010 nợ xấu tập trung hầu hết ở nhóm
khách hàng là doanh nghiệp (chiếm tỷ trọng
73%/ tổng nợ xấu), sang đến năm 2011 và
2012 nợ xấu ở nhóm này đã không còn mà lại
chuyển sang nhóm khách hàng hộ, cá thể.
Trong năm 2012, nợ xấu ở nhóm khách hàng
hộ, cá thể (chiếm 100%/ tổng nợ xấu).
Một số nguyên nhân của những rủi ro tín dụng
- Do khách hàng sử dụng vốn sai mục đích
- KH có hệ số nợ rất cao, dẫn đến mất khả
năng thanh toán.
- Ngân hàng không đánh giá đúng thực trạng
khách hàng...
Thực trạng công tác quản lý rủi ro tín dụng
Về bộ máy tổ chức quản lý rủi ro tín dụng tại
ngân hàng: Tại chi nhánh NHNo&PTNT
Vĩnh Tường chưa có phòng quản lý RRTD
độc lập. Trong phòng tín dụng cũng không có
bộ phận chuyên về quản lý RRTD.
Về chính sách và qui trình tín dụng của
ngân hàng:
- Đơn vị chưa có chính sách tín dụng riêng,
linh hoạt.
- Quy trình tín dụng được thực hiện theo
hướng dẫn của NHNo&PTNT Việt Nam.
Về công tác phân loại khách hàng, nhận diện rủi ro tín dụng: Định kỳ, hàng quý Agribank Vĩnh Tường thực hiện phân loại khách hàng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Về công tác phân tích, đánh giá phát hiện nợ xấu: Phân tích, đánh giá tín dụng nhằm phát hiện sớm nợ xấu nợ có vấn đề là công việc được chi nhánh thực hiện thường xuyên.
Về công tác xử lý nợ xấu, nợ có vấn đề: Hàng quý, chi nhánh thực hiện việc phân loại nợ và trích lập dự phòng theo quy định của Thống đốc NHNN Việt Nam.
Kết quả tài chính tại chi nhánh NHNo & PTNT huyện Vĩnh Tường
Năm 2012 đơn vị đã thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu về tài chính cấp trên giao và mục tiêu đã đề ra. Kết quả: quỹ thu nhập đạt xấp xỉ 28 tỷ đồng, quỹ tiền lương trên 11 tỷ đồng.
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN VĨNH TƯỜNG
Các giải pháp về xây dựng định hướng,
chính sách tín dụng
- Về chính sách lãi suất: NHNo&PTNT Vĩnh Tường cần xây dựng chính sách lãi suất theo hướng linh hoạt.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 39 - 44
42
- Về chính sách khách hàng: việc xây dựng
một chính sách khách hàng là điều cần thiết
nhằm thu hút khách hàng.
- Đa dạng sản phẩm tín dụng góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động nói chung của ngân
hàng thương mại.
- Chính sách đối với tài sản làm đảm bảo
tiền vay.
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ quản lý
rủi ro tín dụng
Tiến hành cải tổ cơ cấu tổ chức và quyền hạn
của cán bộ các phòng ban
- Cơ cấu tổ chức phải phân chia rõ ràng giữa
các bộ phận.
- Phân công, giao việc phù hợp với năng lực
từng nhân viên tác nghiệp.
- Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn.
- Xây dựng cơ chế đánh giá, khen thưởng và
kỷ luật
- Thực hiện việc luân chuyển cán bộ tín dụng.
Chú trọng công tác tuyển dụng và đào tạo
cán bộ tín dụng (CBTD), đặc biệt là đội ngũ
chuyên trách về quản lý rủi ro tín dụng
- Với đội ngũ lãnh đạo: Ban lãnh đạo phải
thường xuyên được tham gia các đợt tập huấn
về quản lý, quản lý RRTD. Cần bố trí đủ và
phân công công việc hợp lý cho cán bộ, tránh
tình trạng quá tải cho cán bộ để đảm bảo chất
lượng công việc, giúp cho cán bộ có đủ thời
gian nghiên cứu, thẩm định và kiểm tra giám
sát các khoản vay một cách có hiệu quả.
- Với CBTD: Cần phải thường xuyên có kế
hoạch bồi dưỡng, bổ sung những kiến thức
cần thiết cho CBTD, nếu có chuyên môn và
kinh nghiệm tốt khả năng dự đoán, đưa ra
quyết định chính xác hơn, phán đoán được
những rủi ro có thể diễn ra. Ngoài những biện
pháp đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao
nghiệp vụ, khả năng giao tiếp ứng xử và
thương lượng với khách hàng, Ngân hàng cần
phải tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc họp để
thảo luận, trao đổi kinh nghiệm giữa đội ngũ
CBTD của Ngân hàng cũng như các Ngân
hàng khác để đóng góp ý kiến, bổ sung thêm
kiến thức cần thiết, đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng hoạt động.
Xây dựng mô hình quản lý rủi ro hoàn thiện
Ngân hàng cần tiến hành nghiên cứu và áp
dụng các phương pháp mới, tách biệt các bộ
phận quan hệ khách hàng, bộ phận thẩm định,
bộ phận quản lý tín dụng, tạo sự khách quan
trong công việc.
Nâng cao chất lượng thẩm định và đo lường
rủi ro
- Thực hiện phân tích và thẩm định chính xác
rủi ro tổng thể của khách hàng.
- Trường hợp cần thiết có thể thuê một tổ
chức định giá hoặc kiểm toán độc lập trong
việc định giá tài sản của khách hàng.
- Phối kết hợp chặt chẽ các điều kiện tín dụng
Xây dựng hệ thống thông tin hoàn thiện về
khách hàng
Dựa trên cơ sở hợp tác, NHNN thực hiện kết
nối kho thông tin dữ liệu giữa các NH để bổ
sung, tăng tính đầy đủ và sự chính xác của
kho dữ liệu.
Tăng cường công tác giám sát khoản vay
- Thực hiện giải ngân theo đúng các quyết
định cấp tín dụng của cấp phê duyệt, đối
chiếu giữa mục đích vay, yêu cầu giải ngân và
cơ cấu các chi phí trong nhu cầu vốn của
khách hàng, đảm bảo việc sử dụng vốn vay có
đầy đủ chứng từ chứng minh và hợp lệ.
- Thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay tất cả
các khoản cấp tín dụng phù hợp với đặc thù
của các khoản vay, chất lượng khách hàng.
- Trong kiểm tra sử dụng vốn, cần nghiêm túc
thực hiện kiểm tra trên thực tế, có đánh giá về
việc sử dụng vốn, về tài sản bảo đảm của
khách hàng, kịp thời phát hiện những rủi ro
và có biện pháp xử lý, tránh tình trạng thực
hiện kiểm tra mang tính đối phó, thực hiện
trên giấy tờ.
- Cần có sự phân tích và đánh giá kịp thời
những dấu hiệu của rủi ro như khách hàng có
khó khăn trong việc trả nợ, sự thay đổi của
môi trường kinh doanh, tình hình thị trường
ảnh hưởng xấu đến phương án kinh doanh, có
dấu hiệu vi phạm pháp luật…
- Theo dõi chặt chẽ các nguồn tiền của khách
hàng trên cơ sở xây dựng cơ chế tra soát đối
với từng loại vay.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 39 - 44
43
Đánh giá mức độ rủi ro của từng sản phẩm
cho vay và biện pháp quản lý phù hợp với
từng sản phẩm
Đối với sản phẩm cho vay các hộ không có tài
sản bảo đảm: NH cần xem xét cụ thể mục
đích sử dụng vốn vay của khách hàng, có thể
đó là vốn vay khẩn cấp để “đứng dậy” sau rủi
ro tuy nhiên việc sử dụng sai mục đích sẽ dẫn
đến hậu quả nợ gánh nợ và xảy ra tình trạng
không có khả năng trả nợ.
Đa dạng hóa phương thức cho vay san sẻ
rủi ro
Mở rộng các phương thức cho vay tín dụng
cần đi đôi với công tác cải tiến các thủ tục,
dịch vụ của Ngân hàng, xây dựng chiến lược
về khách hàng phù hợp với từng giai đoạn,
Ngân hàng cần chủ động phát hiện những dự
án đầu tư có hiệu quả. Đối với những dự án
quan trọng, Ngân hàng có thể tham gia ngay
từ ban đầu, nếu dự án cần khối lượng vốn lớn
vượt ra ngoài khả năng của Ngân hàng thì
cùng với các ngân hàng khác tham gia đầu tư
theo phương thức đồng tài trợ để dự án có đủ
vốn tiến hành, áp dụng chủ trương mở rộng
vốn tín dụng trung và dài hạn trong thời gian
tới. Qua đó phân tán rủi ro trong hoạt động tín
dụng của Ngân hàng.
Thực hiện các biện pháp phân tán rủi ro
- Triển khai tới những khách hàng vay
không có tài sản đảm bảo phải thực hiện
mua bảo hiểm.
- Hạn chế cho vay không có tài sản đảm bảo;
- Nhận tài sản bảo đảm có tính lỏng cao.
- Đa dạng các hình thức cho vay, đối tượng
cho vay.
KẾT LUẬN
Rủi ro tín dụng xảy ra khi người vay không
hoàn trả đầy đủ cả gốc lẫn lãi cho Ngân hàng
như đã ký kết trong hợp đồng tín dụng. Dù do
bất kỳ nguyên nhân nào thì nó đều có ảnh
hưởng tiêu cực đến hoạt động của Ngân hàng
và nền kinh tế. Do đó, rủi ro tín dụng là một
vấn đề cần phải được quan tâm nghiên cứu,
đưa ra những biện pháp xử lý phù hợp. Chi
nhánh NHNo&PTNT Vĩnh Tường, cần xây
dựng rõ chính sách hoạt động tín dụng cụ thể
từng thời kỳ và có định hướng theo xu hướng
phát triển kinh tế xã hội, đồng thời phổ biến
đến từng CBTD để từ đó có định hướng cho
vay hợp lý. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện mô
hình và quy trình quản lý RRTD, đảm bảo cấp
tín dụng chặt chẽ, khách quan, khoa học.
Ngoài ra, cần hoàn thiện các yếu tố như đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực, phát triển công
nghệ, xây dựng hệ thống thu thập, phân tích
thông tin… Từng bước hoàn thiện hệ thống
quản lý RRTD, để nâng cao chuẩn an toàn
cho chính ngân hàng, đảm bảo lợi nhuận,
nâng cao năng lực cạnh tranh. Đây chính là
yêu cầu sống còn của NHNo&PTNT nói
riêng và hệ thống NHTM Việt Nam nói chung
trong thời kỳ hội nhập.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Lê Thị Mận và Ths. Hồng Thị Lan
Phương, “Rủi ro tín dụng và quản lý rủi ro tín
dụng của các ngân hàng thương mại tại TP.HCM”,
Tạp chí phát triển kinh tế, Số 187 tháng 05-2006.
2. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam (2007), Quyết định số: 636/QĐ-
HĐQT-XLRR, ngày 22/06/2007, về việc ban hành
quy định phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý
rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam.
3. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Việt Nam (2010), Quyết định số: 666/QĐ-
HĐQT-TDHo ngày 15/06/2010, về việc ban hành
quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ
thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn Việt Nam.
4. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Chi nhánh Vĩnh Tường (2011), Đề án Phát
triển kinh doanh năm 2012.
5. Nguyễn Văn Tiến, Quản trị rủi ro trong Ngân
hàng thương mại, Nxb Thống kê, 2009.
Đỗ Thị Thúy Phương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 39 - 44
44
SUMMARY
CREDIT RISK MANAGEMENT IN VINH THUONG BRANCHES OF
AGRICULTURE AND RURAL DEVELOPMENT
Do Thi Thuy Phuong*
College of Economics and Business Administration - TNU
Credit risk may have negative effect on a bank's operations and the economy. Therefore, the credit
risk management is an issue that needs to be researched and given the appropriate solutions.
Agribank Vinh Tuong should develop clear policies on credit operations for specific periods under
the social and economic development trend. Besides, the credit risk management process should be
improved, to ensure tight, objective and scientific credit. In addition, such factors as education,
human resource, technology, system of collecting and analyzing information... should be improved
to complete the credit risk management system to increase the safety standard of banks, ensure
profitability, enhance the competitiveness of banks.
Key words: commercial banks, credit risk management, credit risk, bad debt.
Ngày nhận bài:12/02/2014; ngày phản biện:25/02/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Đình Tuấn – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0912 551 551; Email: [email protected]
Phí Thị Hiếu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 45 - 48
45
MÔI TRƯỜNG TRƯỜNG HỌC HỌC PHỔ THÔNG AN TOÀN VỀ TÂM LÝ
Phí Thị Hiếu*
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Bài báo đã đề cập tới các khái niệm và những vấn đề cơ bản như: môi trường giáo dục, an toàn tâm
lý, những đặc điểm của môi trường trường học an toàn về tâm lý, bạo lực học đường và hậu quả
của nó, tình trạng bạo lực học đường trong nhà trường Việt Nam hiện nay. Từ đó, tác giả đề xuất
các biện pháp và chỉ rõ vai trò của từng chủ thể trong việc xây dựng môi trường trường học an
toàn về tâm lý.
Từ khoá: môi trường giáo dục, an toàn về tâm lý, bạo lực học đường, trường học, phát triển
MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN*
Sự phát triển của xã hội hiện đại làm tăng lên những yêu cầu đối với cá nhân và sự tinh thông nghề nghiệp của họ. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục ngày càng trở nên bức thiết. Việc giải quyết vấn đề này liên quan tới hàng loạt khía cạnh: với việc mô hình hoá nội dung giáo dục, tối ưu hoá các cách thức, kỹ thuật tổ chức quá trình giáo dục, với việc tư duy lại mục đích và kết quả của giáo dục. Tất cả những điều đó, một mặt dẫn tới sự thay đổi môi trường giáo dục, mặt khác, làm tăng thêm yêu cầu đối với những người tham gia vào quá trình giáo dục và với đặc thù của mối quan hệ tác động liên nhân cách của họ.
Môi trường giáo dục là toàn bộ cơ sở vật chất, tinh thần mà trong đó con người được giáo dục đang sống, lao động và học tập được sử dụng nhằm tác động đến sự hình thành nhân cách của họ phù hợp với mục đích giáo dục đã định. Môi trường giáo dục rất đa dạng, có thể phân chia một cách tương đối thành môi trường xã hội (môi trường gia đình, môi trường nhà trường…) và môi trường tự nhiên. Đối với lứa tuổi nhỏ, môi trường gia đình và môi trường nhà trường có tác động trực tiếp trong quá trình hình thành nhân cách. Các môi trường này tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với nhau, do đó cần được tổ chức theo một cơ chế hợp lý nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp tác động đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ [1].
* Tel: 01656634388; Email: [email protected]
Các công trình nghiên cứu của hàng loạt tác giả (Grachev G.V., 1998; Kabachenko T.X., 2000; Baeva I.A., 2002) chỉ ra rằng hiệu quả của quá trình giáo dục sẽ phụ thuộc vào tiêu chí an toàn tâm lý của môi trường giáo dục. Số liệu các công trình nghiên cứu của Lebedeva O.E. và Xưmaniuk E.E. cho thấy, theo ý kiến của học sinh, một trường phổ thông tốt phải có tiêu chí an toàn (trường phổ thông không có đe doạ của bạo lực, sự thiếu tôn trọng, sự lăng nhục…). Đối với phụ huynh học sinh “trường phổ thông tốt” phải đảm bảo sự an toàn cho đứa trẻ, sự quan tâm tới sức khoẻ của chúng [2,5,6].
Sự an toàn – đó là yếu tố đảm bảo sự phát triển bình thường của nhân cách. Nhu cầu an toàn là cơ sở trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của con người (A.Maxlow) mà thiếu đi sự thoả mãn một phần của nó không thể có sự phát triển hài hoà của nhân cách, sự thành công của việc tự hiện thực hoá những tiềm năng của con người [7].
Khái niệm an toàn tâm lý rất đa nghĩa. T.X. Kabachenko xem sự an toàn tâm lý “Như sự đo lường độc lập trong hệ thống chung của sự an toàn, là trạng thái của môi trường thông tin và những điều kiện hoạt động sống của xã hội không thúc đẩy sự phá huỷ những tiền đề của sự phát triển toàn vẹn về tâm lý, tính thích ứng hoạt động và sự phát triển của các chủ thể xã hội” [6]. I.A. Baeva hiểu “Sự an toàn tâm lý như là trạng thái của môi trường giáo dục, thoát ly khỏi những sự thể hiện của bạo lực tinh thần trong sự tác động qua lại, thúc đẩy sự thoả mãn các nhu cầu giao tiếp cá nhân-tin cậy, tạo ra giá trị riêng của môi trường và đảm bảo cho sức khoẻ tinh thần
Phí Thị Hiếu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 45 - 48
46
của những người tham gia vào nó” [3]. G.V. Grachev hiểu an toàn tâm lý như là “trạng thái bảo vệ tâm lý khỏi ảnh hưởng của những nhân tố thông tin đa dạng, cản trở hoặc gây khó khăn cho sự hình thành và hoạt động của cơ sở định hướng - thông tin phù hợp của hành vi xã hội ở con người và nhìn chung là của hoạt động sống trong xã hội hiện đại, hệ thống phù hợp các mối quan hệ của anh ta với môi trường xung quanh và với chính mình” [5, c.33].
Mặc dù được định nghĩa khác nhau nhưng
các tác giả trên đều đề cập tới những tiêu chí sau của sự an toàn tâm lý: là trạng thái của
môi trường không có bạo lực tâm lý, đảm bảo cho sức khoẻ tinh thần, sự phát triển
toàn vẹn về tâm lý, thoả mãn nhu cầu giao tiếp của cá nhân.
Theo số liệu của nhiều tác giả nước ngoài (I.A.Baeva, G.V. Grachev, E.Erikson,
R.Jonson, M.Lipsey, H.M Walker, B.J. Wise) sự bảo vệ tâm lý của trẻ em là điều kiện đảm
bảo cho sự thích ứng, sự phát triển các kỹ năng xã hội và sự hình thành ở đứa trẻ
khuynh hướng với những quan hệ tích cực trong xã hội, sự mong đợi được xã hội chấp
nhận, giúp đỡ, sự phát triển tình cảm cá nhân và mối quan hệ với chính mình [4].
Môi trường trường học an toàn về tâm lý có những đặc điểm sau: Không có biểu hiện của
bạo lực tâm lý trong sự tác động qua lại giữa những người tham gia vào quá trình giáo dục;
sự thoả mãn những nhu cầu cơ bản trong giao tiếp cá nhân của các chủ thể; việc rèn luyện
sức khoẻ tâm lý; sự ngăn ngừa những đe doạ đối với sự phát triển nhân cách bền vững hiệu
quả. Trong bài báo này, chúng tôi đề cập đến sự an toàn tâm lý ở môi trường trường học
bậc Trung học cơ sở (THCS) và Trung học phổ thông (THPT).
Học sinh THCS, THPT nằm trong độ tuổi mà
sự phát triển về mọi mặt đang diễn ra mạnh
mẽ. Ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
của học sinh có nhiều yếu tố, trong đó môi
trường là điều kiện quan trọng cho sự phát
triển. Do đó, xây dựng môi trường trường học
an toàn về tâm lý là tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của trẻ.
Môi trường giáo dục an toàn về tâm lý mang lại cho đứa trẻ những khả năng phong phú để
hình thành và phát triển nhân cách. Đó là những khả năng: tự quyết định gia nhập vào
môi trường giáo dục; tự lựa chọn hoạt động (nội dung và hình thức của nó) và đặc biệt
quan trọng là hoạt động tạo điều kiện cho trẻ đạt được thành công lớn nhất, sự tự thể hiện
cao nhất; việc xây dựng các mối quan hệ đối thoại với người khác thuộc các lứa tuổi và
nhóm xã hội khác nhau; phát huy mạnh mẽ hơn những vai trò xã hội khác nhau; sự lựa
chọn những tập thể khác nhau, sự thống nhất và thay đổi mạnh mẽ của chúng; khai thác và
nắm vững các môi trường khác nhau: văn hoá, thiên nhiên, thông tin v.v.
Như vậy, sự an toàn tâm lý của môi trường giáo dục phổ thông đó là thành tố có cấu trúc phức tạp mà thành phần tạo nên nó có những đặc điểm riêng trong sự phụ thuộc vào chủ thể của quá trình giáo dục-dạy học. Việc xây dựng môi trường giáo dục an toàn về tâm lý cần được dựa trên những kỹ thuật định hướng nhân văn và những hình thức của sự phát triển nhân cách. Một trong những cơ sở của các kỹ thuật này là chất lượng của quá trình tương tác giữa nhà giáo dục và người học, trong đó nhân cách, tình cảm, sự tinh thông nghề nghiệp và sự hài lòng về lao động của chính nhà giáo dục thúc đẩy sự hình thành nhân cách khoẻ mạnh, năng động sáng tạo và thích ứng xã hội tốt của người học, làm giảm những áp lực thần kinh-tâm lý, nâng cao năng lực tự điều chỉnh, có nghĩa là thúc đẩy việc nâng cao sức khoẻ tâm lý của những người tham gia vào quá trình giáo dục.
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN SỰ AN TOÀN TÂM LÝ TRONG TRƯỜNG HỌC
Sau gia đình, trường học có ý nghĩa thứ hai từ những hệ thống xã hội hoá nhân cách đại diện
rộng rãi trong xã hội. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, trên khắp thế giới, ở tất cả
những cấp học, lớp học khác nhau, đặc biệt là ở bậc THCS và THPT, sự an toàn tâm lý
trong trường học đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi nhiều yếu tố mà trước hết phải kể đến là
bạo lực học đường. Bạo lực học đường là hệ thống xâu chuỗi lời nói, hành vi mang tính
miệt thị, đe dọa, khủng bố người khác, để lại
Phí Thị Hiếu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 45 - 48
47
thương tích trên cơ thể, thậm chí dẫn đến tử vong, đặc biệt là gây tổn thương đến tư tưởng,
tình cảm, tạo cú sốc tinh thần cho những đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình giáo
dục trong nhà trường. Bạo lực học đường không chỉ xảy ra giữa học sinh với học sinh
mà còn xảy ra giữa học sinh với giáo viên hoặc cán bộ công nhân viên trong nhà trường,
thậm chí là giữa cán bộ, giáo viên trong nhà trường với nhau.
Bạo lực học đường đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều gia đình, các nhà trường và là
nỗi trăn trở của toàn xã hội bởi hậu quả nghiêm trọng mà nó gây ra: ảnh hưởng tới
bản thân học sinh, tới nhà trường, gia đình và xã hội. Đối với học sinh, bạo lực học đường
gây hậu quả nghiêm trọng về cả mặt thể xác (gây tổn thương cho cơ thể, thậm chí có thể
cướp đi sinh mạng của học sinh) lẫn tinh thần (gây cảm giác lo âu, sợ hãi, chán nản, suy
sụp, ám ảnh, stress, ngại giao tiếp, trầm cảm và các loại rối nhiễu tâm lý khác) thậm chí
chúng có thể để lại dấu ấn trong suốt cuộc đời đứa trẻ. Theo một số nghiên cứu ở Mỹ, những
em bị bắt nạt thường bị cô lập nên không muốn ra ngoài chơi, không muốn đến trường
vì sợ bị trêu chọc, đánh đập, sợ bạn bè khác sẽ xa lánh do không muốn “cùng nhóm với kẻ
đáng ghét” hoặc “cùng nhóm với kẻ yếu thế” để bản thân cũng có thể trở thành nạn nhân bị
bắt nạt. Tình trạng bị bắt nạt kéo dài, ảnh hưởng xấu đến cả việc học tập, và sự phát
triển của các em cả về mặt xã hội lẫn cảm xúc [8]. Các em rất dễ bị trầm cảm và luôn có cảm
giác thấp kém, những điều này sẽ gây khó khăn cho cuộc sống của các em ngay cả lúc
đã trưởng thành. Hành vi bạo lực không chỉ tác động xấu đến nạn nhân mà còn khiến
không khí trường học trở nên nặng nề, căng thẳng với nỗi sợ hãi, bất an luôn bao trùm.
Điều đó cho thấy môi trường ở nhiều nhà trường không còn tính lành mạnh, sự hấp dẫn
và là nỗi sợ hãi đối với nhiều học sinh. Ngoài ra, những hành vi bạo lực học đường của học
sinh sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích thi đua của lớp, của trường và ảnh hưởng đến danh
tiếng của nhà trường cũng như các thầy cô. Hơn nữa, những hành vi bạo lực của giáo viên
làm cho môi trường giáo dục ở nhà trường
mất đi tính mô phạm, uy tín, danh dự người giáo viên bị hạ thấp, học sinh có cảm giác lo
lắng, sợ hãi khi đến tiết học của họ và tất nhiên hiệu quả dạy học sẽ không thể đạt được
như mong đợi.
Ở Việt Nam, theo số liệu thống kê từ đường
dây nóng của Cục Bảo vệ Chăm sóc Trẻ em trong những ngày cuối năm 2012, bạo hành
tại trường học tăng 13 lần so với 10 năm trở về trước. Bên cạnh đó, một cuộc khảo sát do
khoa Xã hội học, Trường ĐH KH XHNV - ĐH Quốc gia Hà Nội thực hiện mấy năm
trước tại 2 trường THPT tại quận Đống Đa (Hà Nội) về tình trạng bạo lực nữ sinh đã cho
thấy nhiều kết quả đáng lo ngại. Cụ thể, có đến 96,7% số học sinh (HS) trong mẫu được
hỏi cho rằng ở trường các em có xảy ra hiện tượng nữ sinh đánh nhau. Mức độ bạo lực
trong nữ sinh là 44,7% rất thường xuyên; 38% thường xuyên và 17,3% không thường
xuyên [9]. Kết quả nghiên cứu của các chuyên gia giáo dục khác cho thấy, bạo lực
học đường ở bậc THCS xảy ra khá thường xuyên với những hành vi bạo lực tương đối đa
dạng [10].
Ngoài ra, sự mất cân đối trong phát triển tâm
sinh lý lứa tuổi học sinh, quan hệ thiếu thân thiện giữa những người tham gia vào môi
trường giáo dục, stress trong các loại hình hoạt động, bầu không khí tâm lý căng thẳng
trong tập thể cũng là những yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến sự an toàn tâm lý cá nhân [3]. Vì
vậy, có thể nói rằng, hiện nay nhu cầu an toàn trở thành bức thiết đối với các cá nhân trong
xã hội nói chung, các cá nhân tham gia vào môi trường giáo dục nói riêng và đòi hỏi phải
xây dựng môi trường trường học an toàn về tâm lý.
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
Để xây dựng môi trường trường học an toàn
về tâm lý cần sự phối hợp hành động của các chủ thể sau:
- Về phía nhà trường:
+ Xây dựng kỷ luật trường học nghiêm khắc,
tăng cường công tác quản lý an toàn trường học
+ Phối hợp với cha mẹ học sinh và các tổ
chức đoàn thể liên quan xoá bỏ tình trạng bạo lực học đường trong trường học.
Phí Thị Hiếu Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 45 - 48
48
+ Xây dựng bầu không khí tâm lý thân thiện trong tập thể cán bộ giáo viên và học sinh.
+ Hướng dẫn học sinh cách rèn luyện sức khoẻ tâm lý thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống, đặc biệt là kỹ năng quản lý cảm xúc và giải quyết mâu thuẫn, xung đột; bằng những hoạt động thể dục thể thao lành mạnh và những suy nghĩ tích cực, tinh thần lạc quan về thế giới…
+ Xây dựng phòng tham vấn tâm lý học đường nhằm phát hiện và giải quyết kịp thời những vướng mắc tâm lý ở học sinh.
- Về phía phụ huynh học sinh:
+ Tránh sử dụng bạo lực trong việc giáo dục con cái vì điều đó làm ảnh hưởng tới hành vi của đứa trẻ khi giải quyết mâu thuẫn với người khác.
+ Xây dựng không khí gia đình hạnh phúc, tạo cho trẻ cảm giác an toàn về tâm lý.
+ Mẫu mực trong hành vi và lối sống, là tấm gương đạo đức để con cái noi theo.
+ Phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc giáo dục con em.
- Các ban ngành, chức năng cần: Cải tạo môi trường xã hội để hạn chế tối đa việc giải quyết mâu thuẫn giữa các cá nhân bằng bạo lực thể chất, tinh thần; có biện pháp cụ thể, kiên quyết để ngăn chặn những ảnh hưởng xấu của phim ảnh, sách báo, trò chơi có nội dung bạo lực, đồi truỵ… tới hành vi của trẻ.
- Bản thân học sinh cần: Có ý thức trong việc tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe thể
chất, tinh thần, nâng cao nhận thức cho bản thân về hậu quả của hành vi bạo lực học
đường; tích cực, tự giác trong việc xây dựng bầu không khí tâm lý đầm ấm trong tập thể,
tự rèn luyện các kỹ năng sống để có đời sống tinh thần thoải mái và xây dựng mối quan hệ
tốt đẹp với người khác…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Hồng Quang (2006), Môi trường giáo
dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Баева И.А (2002), Психологическая
безопасность в образовании. СПб.
3. Баева И.А., Волкова И.А., Лактионова Е.Б
(2009). Психологическая безопасность
образовательной среды: Учеб. пособие / Под
ред. И.А. Баевой. М.
4. Баева И.А. и др (2007), Психология
безопасности как теоретическая основа
гуманитарных технологий в социальном
взаимодействии / Под ред. И.А.Баевой. СПб.
5. Грачев Г.В. Информационно-
психологическая безопасность личности:
состояние и возможности психологической
защиты. М.: Изд-во РАГС, 1998 - 125 с.
6. Кабаченко Т. С. Психология управления: Уч.
пос. М.: 2000
7. Маслоу А. Мотивация и личность. Санкт-
Петербург, 2001. – 478 с.
8. http://htu.edu.vn/bo-mon-tam-ly-giao-duc/486-
bạo-lực-học-đường-và-những-hậu-quả
9. http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/bao-
luc-hoc-duong-do-cha-me-it-quan-tam-toi-con-
748163.htm
10.http://www.thanhnien.com.vn/pages/20130430/
bao-luc-hoc-duong-thuong-xay-ra-o-bac-thcs.aspx
SUMMARY
THE CONSTRUCTION OF THE PSYCHOLOGICAL SAFETY SCHOOL
ENVIRONMENT Phi Thi Hieu *
College of Education - TNU
The author considers the conceptions and the problems: Education environmental, psychological
safety, the characteristics of the psychological safety school environment, school violence and its
aftermath, the state of school violence in Vietnam today. Since then, the author proposes measures
and specifies the role of each subject in the construction of the psychological safety school
environment.
Key words: Education environmental, psychological safety, school violence, school, develop
Ngày nhận bài:17/02/2014; ngày phản biện:24/02/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Phùng Thị Hằng – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 01656634388; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
49
ENVIRONMENT ANALYSIS AND STRATEGY ORIENTATION
FOR LOCAL RETAILERS IN VIETNAM
Nguyen Thi Uyen*
Vietnam University of Commerce
SUMMARY After January 11, 2015, Vietnam will fully open retail market to foreign companies what create
significant pressure on local retailers. In-depth study about strategic situation and strategy
orientation of Vietnamese supermarkets should be useful not only for the local supermarkets but
also for Vietnamese government to protect local firm from competition of foreign retailers. Based
on the data that is collected from investigation from consumers, experts’ opinion and other sources
from secondary data as well as the previous study of the author, this study has examined strategic
situation of the local supermarkets in Vietnam and generated TOWS analysis to formulate solid
strategies for local supermarkets in order to leverage their competitive advantages in Vietnam.
Key words: Vietnam Local supermarket, competitive advantage, business environment, TOWS
analysis, strategy formulation.
INTRODUCTION TO THE STUDY*
Vietnam became the WTO’s 150th member on 12 January 2007 that brings to local supermarkets with both opportunities and challenges due to this internationalization. With high potential retail market, Vietnam has been attracting many foreign retailers and this generates many threats on local supermarkets. Especially under WTO commitments, from January 11, 2010 to January 11, 2015, Vietnam has given the right to set up joint venture to provide services related to production, in which foreign investors can own up to 50 percent of the charter capital of the joint venture. Having to fairly competed with foreign firms even in their home market remains a big challenge for domestic retailers.
In the changeable environment with tough competition, the enterprises cannot do well without environment scanning; identifying strategic factors to formulate strategy solidly. The strategy formulation is the development of long-range plans for the effective management of environment opportunities and threats, taking into consideration corporate strength and weaknesses. The formulation of strategy forces organizations to examine the prospect of change in the future and to prepare for change rather than to
* Tel: 0979118679; Email: [email protected]
wait passively until market forces compel it. Therefore, a deep study on accessing current strategic situation of local supermarket environment, and formulate solid strategies for the local retailers is indeed necessary for local supermarkets in Vietnam. It does not only make sound with Vietnamese retailers but also create the significance to Vietnamese Government who wants to protect local retailers from competition and expansion of global retailers in Vietnam.
RESEARCH FRAMEWORK AND
METHODOLOGY
Chandler (1962) defined strategy as "The
determination of the basic long term goals and
objectives of an enterprise and the adoption of
the courses of action and the allocation of
resources necessary for carrying out these
goals". The strategies exist at several levels in
any organization - ranging from the overall
business (or group of businesses) through to
individuals working in it.
Strategy formulation begins with a scanning of the external as well as internal environment. To formulate effective strategies, managers in an organization need to be aware of realities in the business environment. Analysis of external environment helps to identify the possible threats and opportunities while analysis of internal environment helps to identify
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
50
strengths, weaknesses and the key people within the organization.
The ten schools of strategy formation proposed by Mintzberg et al. (1998) gives an overview of the development in the field of strategy process and demonstrate the nature of its complexity. Of which, design School - It sees strategy formation as achieving the essential fit between internal strengths and weaknesses and external threats and opportunities. The formation of SWOT matrix results in four sets of possible strategic alternatives after matching the company’s internal strengths and weaknesses with the external opportunities and threats.
Based on the related theory and the results of previous study of the author about the “key determinant of retail performance in Vietnam”, the author has created the research model for this study as shown in figure 1.
Of which, Macro environment includes the political and legal, economic, social and cultural, technological factors. The industry environment includes factors of competitors, suppliers, buyers, substitutes and new
entrants. The internal environment includes the firm-specific characteristics such as: firm size, economy of scale (Douglas & Donald, 1969; Reid, 1984), retail market strategy (Michael and Barton, 2004); influence of technology (Melvin and Harriet, 1992); marketing, experience, location (Roger, Daekwan, Jeffrey, 2006); Experiences (Douglas & Donald, 1969); human resource (Melvin and Harriet, 1992); Location and property (Clifford Guy, 1994; Stepenson,8th edition); merchandise, product lines, square feet of store space (Robbins, 2004; Angie and Sarah, 2004 ).
The strategic situation of the local
supermarkets will be explored based on the
data that is collected from investigation from
consumers, experts’ opinion and other sources
from secondary data as well as the previous
study of the author. Three groups of
environment factors (macro environment,
industry environment, internal environment).
By using SWOT matrix, this study generates
alternative strategies and recommendations
for local supermarkets.
Figure 1. Research Model of Environment Analysis and Strategy Orientation
(Adapted from the Strategic Decision-Making Process, Wheelen and Hunger 2001)
Data analysis of Strategic Situation of Local supermarket
External environment
As one of the countries having the fastest economic growth in the region and several forces,
many of which are interconnected: for example, increasing incomes, urbanization, more female
participation in the labor force and openness to foreign investment, opening in lifestyle of young
people, Vietnam is a potential and attractive market to foreign retailers worldwide. In the period
of 2009 - 2011, although the world’s economy in general and Vietnam’s in particular were
Macro environment
scanning
Industry
Environment
Analysis
Strategic Alternatives
Strategic Factors
Best strategies
Internal
Environment
analysis
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
51
severally affected by the economic downturn,
the retail industry in Vietnam still saw
impressive growth. In 2011, total retail sales
and consumer service revenue reached VND
2,004 billion, up 24.2 percent compared to the
previous year. In 2012, that number reached
VND 2,320 billion, up 16 percent compared
to 2011. Although it has dropped out of the
top 30 attractive retail markets in the world in
2013, according to economic experts, the
Vietnam market still attracts great interest
from large retail corporations in the world.
The report “Vietnam Retail Market Forecast to 2014” says the modern retail channels will
play a crucial role in the future growth, improving their position in the market.
Increasing purchasing power, changing lifestyle, and influence of western culture are
some of the key growth drivers in the country's modern retail market, it says, adding
that, during the next few years, a short wave of consolidation will emerge as foreign
retailers are trying to consolidate their position and deepen their market penetration.
Furthermore, Vietnam has a very receptive attitude towards welcoming FDI and
developing Trade relations. The government is committed to improve the country's
business and investment climate. So the retail market industry in Vietnam is attracting many
international retail groups all over the world. So Vietnamese retail businesses are meeting
with difficulties to compete with foreign rivals and are struggling to survive (Dinh
Thanh, 2011).
However, Vietnam’s application of Economic
Needs Test (ENT) requirement before allowing foreign retailers to open the second
retail outlets is a favorable factor for local retailers. The Departments of Industry and
Trade will use many criteria to decide whether to grant licenses to the opening of
supermarkets or not.
In term of Technological environment, an
estimated 2.0% of Vietnamese households have a broadband-enabled computer,
representing a significant increase from the 0.1% of households in 2005. The rapid uptake
is partly as consequence of the ease and low price of connection. According to the
Ministry of Information and Communication, Vietnam’s internet penetration is at 35.6
percent of the total population. For number of internet users, Vietnam has been ranked
seventh highest among the countries with high internet use in Asia, by Internet World
Stats, that creates potential opportunity for promoting well online marketing as well as
online retail to support offline retail in this market. However, it also results in the strong
substitute from online retail.
In term of industry environment, according to
the statistics from the Association of Vietnam
Retailers, modern retail channel accounts for
only 20 percent, so the market to exploit
remains big and plan, by 2020, Vietnam will
have raised this rate to 45 percent. The
country currently has about 130 commercial
centers, 700 supermarkets, over 1,000 modern
retail outlets, concentrating mostly in Hanoi
and Ho Chi Minh City.
To meet the increasing living standard, the
traditional trade will be instead by modern
trade day by day. The consumption from
traditional market with unstable and smaller
size could not compete with modern retailers
in gaining power of bargaining with
suppliers. The modern retailers with bigger
size than traditional retailers have more
advantages in negotiating with suppliers.
However, the cooperation among local
supermarkets and suppliers are still very
weak. So in expert’ opinion, the suppliers
actually do not have strong bargaining power
with modern retail chains and they still have
many difficulties with this cooperation (Ms
Dinh Thi My Loan, General Secretary of the
Association of Vietnam).
In term of threat of new entrants, current
competitors, all of experts said that the
current and potential foreign competitors are
very strong competency especially after
being a member of WTO. Under WTO
commitments, from January 11, 2010 to
January 11, 2015, Vietnam has given the right
to set up joint venture to provide services
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
52
related to production, in which foreign
investors can own up to 50 percent of the
charter capital of the joint venture. After
January 11, 2015, Vietnam will allow the set
up of enterprises with 100 percent foreign
capital. It means that Vietnam's retail market
will be fully open to foreign companies,
which will create significant pressure on local
businesses (Investment and Trade Promotion
Centre, 2006).
According to Investment and Trade
Promotion Centre of HochiMinh City,
recently, Vietnam's retail market has also
welcomed the participation of many big
names in the world such as Auchan, one of
the largest retail groups in France, which
announced plans to invest US$500 million in
Vietnam retail market, NUTC Fair Price.
However, most of current participants are
supermarkets and hypermarkets, so the
segment of convenient store is still available.
The threats of new entrants and the degree
of rivalry are strong negative forces. The
bargaining power of consumers also
increases along with the greater number of
strong competitors and new comers. The
customers with higher living of standard
bring opportunities for modern retail
expansion but also threats of higher
requirement from customer.
The substitutes from traditional retailing,
online retailing should be taken into account
by the modern retailers. The active and young
population is enjoyable with online shopping
while the older generations prefer to keep the
habit of shopping at traditional market. The
fact indicated that the consumers with
traditional shopping habits prefer buying from
traditional market than going to modern
supermarket. Hang Da Market after upgrading
is an example proving for this reality. A lot of
Vietnamese people prefer the convenience of
the traditional market where they don’t have
to go to car park and just take a few minutes
to finish daily shopping on the way they go
back home from work. Especially, the fresh
food in traditional market is currently a
significant strength of traditional market.
Internal environment
By using the questionnaires with 5 point
rating scale to measure respondents’
evaluation by asking them the degree of
variable that ranked from (1) to (5) toward
positive extension, the statistics results from
185 respondents who are quite familiar with
shopping at supermarket indicates as follows:
Table 1. Mean statistics of respondents for characteristics of local supermarkets in Vietnam
Statistics Location Space Layout Brand Sales
Force
Promo-
tion
Product
Diversifi-
cation
Product
Quality
Competitive
Price
Added
Value
Service
After sales
service
N Valid 185 185 185 185 185 185 185 185 185 185 185
Missing 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Mean 3,0919 2,2108 2,6000 2,8000 2,6108 1,9081 2,0108 4,1027 2,0054 1,9946 2,7027
Std. Deviation ,83222 ,74738 ,49123 ,40109 ,65929 ,53891 ,63408 ,70344 ,63842 ,62985 ,45831
The statistics indicated that local supermarket evaluated at quite high level of location
convenience and product quality. It means that the customers find the convenience from the local
supermarket locations and these supermarkets are good at product quality. However, the
competency in brand, layout, sales force and after sales service still moderate, especially they are
quite weak at space, promotion, value added services, product diversification and price.
It is also transparent that the local retailers will understand customer needs more deeply than the
foreigners do. Being Vietnamese firms, local retailers are also familiar to business manner of
Vietnam. This will help them to easier in penetrating the local market. Saigon Coop Mart has
taken good advantages of this strength; it localized products such as increasing fresh food at
supermarket to meet the customer requirement.
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
53
However, except Saigon Coop mart, most of
local small-size supermarkets are small and
slightly poor at competitive price. They do
not have the deep cooperation with suppliers
so the price is not competitiveness.
Comparing to grant foreign retailers, the
local supermarkets are les competitive in
price (Viet Trung, 2011).
The fact also indicates that marketing
program plays important role in retailing
performance. Advertisement, promotional
program, supported services for
entertainments at shopping places are
employed well at foreign supermarkets while
still poor at the local firms. Attractive
promotional programs at foreign
supermarkets such as Big C always attach
crowded customers.
Discussions and Recommendations
There is no doubt about the positive effect
from modern retail that AT. Kearney, in its
15 years analysis, indicated, “modern retail
drives the economy through increased
productivity, investments in capital stock,
new job creation and lower prices”. Vietnam
has potential market for retail industry and
need to stimulate the retail industry as a key
driver of the economy.
However, experience from Thailand shows
that the monopolistic power and over-
expansion of foreign modern retailers can
disrupt the local economy and culture. The
global retailers has put local traditional
retailers and suppliers at a competitive
disadvantage and ultimately put those that are
unable to adapt out of business. Thus, finding
strategic solution to enhance local retailers is
necessary to create a sustainable development
for retail industry.
To formulate solid strategies for local
supermarkets based on careful environment
scanning, the SWOT matrix is quite match in
this situation and it can illustrate as follows:
Table 2. SWOT Matrix for Local Supermarkets in Vietnam
Strengths:
Young and dynamics
Understand well local customer
needs
Familiar to business manner of
Vietnam
Reliable quality
Weakness:
Weak financial resource
Small size, poor space
Poor product line.
Slightly poor competitive
price
Moderate in sales and
Management Skills
Poor after-sales service
Poor relationship with
suppliers
Poor marketing and R&D
competency
Opportunities
fair and healthy
market
Growing market
High demand for a
new and modern retailing
Favorable Culture and
social trend
Regulation to
constraint expansion of
foreign retailers
SO strategies
- Market Penetration strategy: focus
on R& D and Marketing to strengthen
image and services
- Niche marketing: setting up local
convenient store or small size of
supermarket which match to local
customer needs
- Being First mover to take
advantages of government policy in
constraining expansion of foreign
retailers.
WO strategies
- Diversification strategy:
diversify product lines
- Merge and alliance strategy:
small local firm should
integrated to enhance capacity
- Strong Integrated with
suppliers
- Focus on Marketing and R&D..
Combine online marketing with
traditional marketing
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
54
Niche markets of
convenient retail still
available for modern
retailers
Threats
Direct competition
from giant international
retailers
Higher requirement
from customers.
Modern Retail
expansion generate
higher bargaining power
for customers
Competition in
setting up the sustainable
relationship with
suppliers
ST strategies:
- Niche market focus: setting up local
convenient store or small size to
avoid direct competition of foreign
supermarket.
- Apply e-commerce software such as
CRM, CPM, EPR... to strengthen
competency and avoid threats
- Take advantage of online marketing
to stimulate firm attractiveness
WT strategies
- Strong Integrated with
suppliers
- Merge and alliance strategy:
small local firm should
integrated to enhance capacity
- Focus on Marketing and
R&D
- Growth strategy with higher
investment
- Apply e-commerce software
such as CRM, CPM, EPR... to
reduce operating cost and
strengthen relationship with
partner
The TOWS matrix plays an important role in suggesting the strategic alternatives so the theories
of strategy formulation should consider the TOWS matrix as an important part in the process of
generating the solid strategies.
REFERENCE
1. Cox Roger and Brittain Paul (2004) Retailing: an introduction, Prentice Hall.
2. Guy Clifford (1990). The retail development process: location, property and planning: London and
Newyork.
3. Stephen (2005). Organizational Behavior: Prentice-Hall.
4. J. Calantone Roger, Kim Daekwan, B.Schmidt Jeffrey, Cavusgil S. Tamer, (2006). The influence of
internal and external firm factors on international products adaptation strategy and export performance: A
three-country comparison, Journal of Business Research,59, pp. 176-185.
5. Miller, A . and Dess, G. G . (1993), Assessing Porter's (1980) Model in Terms of Its General isability,
Accuracy and Simplicity, Journal of Management Studies, 30(4).
6. Miller, D., & Friesen, P. H . (1983). Strategy making and environment: The third link, Strategic
Management Journal, 4, pp. 221-235.
7. Nguyen Thi Uyen, The Key determinants of retail performance in Vietnam, MBA thesis of
University of the Thai Chamber of Commerce.
8. Porter, M. E. (1985). Competitive advantage: Creating and sustaining superior performance.
9. Tanabe Mario, Claudio De Angelo Flisoni and Alexander Nicholas (2004) The effectiveness of
Strategic planning competitiveness in the Brazilian supermarket sector, Jounal of Retailing and
consumer services,11(1), pp.51-59.
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
55
TÓM TẮT
PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
CHO CÁC DOANH NGHIỆP BÁN LẺ NỘI ĐỊA TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Thị Uyên*
Đại học Thương mại
Việc mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ cho các công ty nước ngoài vào ngày 11 tháng 1 năm
2015 của Việt nam sẽ tạo ra những sức ép lớn cho các nhà bán lẻ trong nước. Chính vì vậy, việc
nghiên cứu sâu về tình thế môi trường để định hướng chiến lược cho các các siêu thị trong nước
hiện nay đang là vấn đề cấp thiết đối với các siêu thị nội địa cũng như chính phủ trong việc bảo vệ
các siêu thị này trước sự cạnh tranh khốc liệt từ các siêu thị nước ngoài. Trên cơ sở nguồn dữ liệu
thu thập từ điều tra khách hàng, ý kiến chuyên gia và các nguồn thứ cấp cũng như từ chính nghiên
cứu trước đây của tác giả, bài viết này chỉ rõ tình thế chiến lược của các siêu thị trong nước và vận
dụng mô thức TOWS để định hướng chiến lược cho các doanh nghiệp này nhằm tạo ra lợi thế cạnh
tranh trên thị trường bán lẻ Việt nam.
Từ khóa: Siêu thị nội địa của Việt nam, lợi thế cạnh tranh, môi trường kinh doanh, phân tích
TOWS, hoạch định chiến lược.
Ngày nhận bài:09/4/2014; ngày phản biện:25/4/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nhâm Phong Tuân – Đại học Quốc gia Hà Nội
* Tel: 0979118679; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Uyên Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 49 - 55
56
Trần Huy Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 57 - 62
57
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC NƯỚC TA HIỆN NAY
Trần Huy Ngọc*, Nguyễn Thị Ngân
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Giáo dục lý luận chính trị là nội dung quan trọng của giáo dục đại học ở nước ta hiện nay. Thực trạng
giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay còn chưa đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Do đó, cần tiếp tục đổi mới nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả
công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường đại học ở nước ta hiện nay.
Từ khóa: Giáo dục, lý luận, giáo dục lý luận chính trị, nâng cao chất lượng giáo dục, sinh viên
các trường đại học.
1. Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên
Việt Nam hiện nay là hoạt động truyền bá,
nhận thức và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước cùng những tinh hoa tư tưởng chính trị
của dân tộc và nhân loại nhằm hình thành thế
giới quan khoa học, nhân sinh quan cách
mạng, phương pháp tư duy biện chứng và
phương pháp hành động khoa học, góp phần
phát huy tính tích cực của sinh viên trong việc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.*
Giáo dục lý luận chính trị là một bộ phận
quan trọng của giáo dục đào tạo ở bậc đại
học, là yêu cầu khách quan nhằm hình thành
và phát triển nhân cách cho sinh viên. Giáo
dục lý luận chính trị tác động trực tiếp đến tư
tưởng, tình cảm, đạo đức và khả năng thực
hành công việc của mỗi sinh viên trong thực
tiễn cuộc sống. Trong bối cảnh, tình hình
chính trị khu vực và thế giới đang diễn biến
phức tạp, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận,
tư tưởng diễn ra ngày càng gay gắt, các thế
lực thù địch ra sức thực hiện âm mưu diễn
biến hòa bình... do đó, việc giáo dục lý luận
chính trị cho sinh viên được xem là yêu cầu
cấp bách hiện nay.
Về thực chất, giáo dục lý luận cho sinh viên
trong các trường đại học là cung cấp những tri
* Tel: 0949128678, Email: [email protected]
thức khoa học trong lĩnh vực chính trị để góp
phần chủ yếu vào việc hình thành thế giới
quan và phương pháp luận khoa học cho sinh
viên. Nó cùng với các khoa học khác và các
hoạt động chính trị - xã hội bồi dưỡng nhân
sinh quan cộng sản, lý tưởng cách mạng và
niềm tin vào các giá trị của CNXH để sinh
viên có những hành động chính trị - xã hội
tích cực mang tính chất nhân văn và tiến bộ.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi
trọng giáo dục lý luận chính trị. Bởi, theo
Người, nếu chỉ học văn hoá, kỹ thuật, chuyên
môn mà không có lý luận thì như “người
nhắm mắt mà đi”, giáo dục lý luận là nền
tảng, trên cơ sở đó nâng cao trình độ văn hoá
và chuyên môn. Học tập lý luận không phải là
để thuộc làu sách Mác - Lênin, không phải
học một cách giáo điều mà là học cái tinh
thần xử trí đối với mọi việc, đối với mọi
người và đối với bản thân mình. Lý luận
chính trị là bộ phận quan trọng của lý luận,
phản ánh những tính quy luật chính trị, các
quan hệ chính trị - xã hội, đời sống kinh tế -
chính trị - xã hội. Nếu chính trị là lĩnh vực
quan hệ giữa các giai cấp, đảng phái, dân tộc,
quốc gia về mặt nhà nước thì lý luận chính trị
là công cụ đắc lực cho việc cầm quyền của
một giai cấp, nó thể hiện lợi ích và thái độ của
giai cấp đối với quyền lực của nhà nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến giáo
dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta, coi đây là yếu tố tiên quyết cho
sự thành công của cách mạng.
Trần Huy Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 57 - 62
58
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cũng luôn
nhấn mạnh đến vị trí, vai trò của công tác
giáo dục lý luận chính trị. Từ thực tiễn công
tác giáo dục lý luận chính trị, Đảng ta đã đưa
ra nhiều chỉ thị, nghị quyết nhằm đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo
dục lý luận chính trị như: Văn kiện đại hội X
của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác giảng dạy và học
tập lý luận”1. Văn kiện đại hội XI tiếp tục xác
định: “Tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng,
tuyên truyền học tập chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước… Đổi mới, nâng cao chất lượng công
tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục công
dân trong hệ thống các trường chính trị, các
trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải học tập, nâng cao
trình độ lý luận chính trị”2. Như vậy, đổi
mới, nâng cao chất lượng giáo dục lý luận
chính trị được Đảng ta đặc biệt quan tâm,
nhất là giáo dục lý luận chính trị cho đối
tượng là thanh niên, sinh viên. Văn kiện đại
hội IX chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho sinh viên.
Cải tiến việc giảng dạy và học tập các bộ môn
khoa học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh ở các trường đại học, cao đẳng, trung
cấp chuyên nghiệp và dạy nghề”3.
2. Sau hơn 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt
được những thành tựu to lớn trên tất cả các
mặt của đời sống xã hội. Song mặt trái của
kinh tế thị trường, toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế đã tác động tiêu cực đến đời sống xã
hội, làm băng hoại nhiều nét đẹp văn hóa
truyền thống, chà đạp lên những giá trị đạo
đức đích thực, làm thay đổi quan niệm, lối
sống, phai nhạt lý tưởng, niềm tin… của một
1 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb CTQG, HN, 2006, tr.285. 2 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.256-267. 3 ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Sự thật, HN, 2001, tr.110-111.
bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân ta
nói chung và thanh niên, sinh viên nói riêng.
Sinh viên - những người được coi là rường
cột, là chủ nhân tương lai của đất nước đang
có một số biểu hiện tiêu cực như: một bộ
phận sinh viên có tình trạng suy thoái đạo
đức, mờ nhạt về lý tưởng, sống thiếu hoài bão
lập thân lập nghiệp, thiếu bản lĩnh chính trị,
thờ ơ chính trị, mơ hồ về chính trị, có lối sống
vô cảm…
Giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới có nhiều thuận lợi
song cũng đứng trước không ít khó khăn, thách
thức: Cơ chế thị trường tạo điều kiện cho sinh
viên phát huy được sự năng động, sáng tạo của
mình, nhưng tính chất cạnh tranh khốc liệt của
nó lại sinh ra tâm lý sùng bái đồng tiền, bất
chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn;
Mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế đón được
gió lành nhưng cũng không tránh khỏi gió
độc, nhất là sự lợi dụng của kẻ địch để thực
hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” mà đối
tượng chính là thế hệ trẻ trong đó có sinh
viên. Dưới tác động tiêu cực của cơ chế thị
trường, của hội nhập với thế giới, một số sinh
viên đã xa rời lý tưởng cách mạng, giảm sút
tình cảm, đạo đức cách mạng; Cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đã dẫn đến sự
“bùng nổ thông tin”: kiến thức khoa học của
nhân loại vô cùng phong phú, phương tiện kỹ
thuật ngày càng hiện đại, được sử dụng rộng rãi,
tốc độ truyền bá thông tin nhanh chưa từng
thấy, nhất là thông tin trên mạng internet rất đa
dạng, phong phú. Song hạn chế của vấn đề này
là sự thiếu kiểm soát của thông tin, sự lợi dụng
công nghệ thông tin để truyền bá tư tưởng phản
động, văn hóa không lành mạnh, công nghệ
thông tin tạo điều kiện cho con người xích lại
gần nhau hơn nhưng cũng dường lại như đẩy
con người xa nhau hơn… Trong điều kiện như
vậy, giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên
không chỉ có vai trò quan trọng trong cung cấp
thông tin mà quan trọng hơn là việc định hướng,
xử lý thông tin.
Công tác giáo dục lý luận chính trị cho sinh
viên các trường đại học nước ta trong thời
gian qua vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, Hội
Trần Huy Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 57 - 62
59
nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X đã chỉ rõ: “Chương trình, nội
dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị
trong nhà trường chậm đổi mới, chưa theo
kịp với trình độ phát triển và yêu cầu của xã
hội”4. Đó là một trong những nguyên nhân
dẫn đến hiện tượng một bộ phận sinh viên
không học hoặc không có hứng thú học tập,
nghiên cứu các môn lý luận chính trị, kết quả
sau khi học các môn lý luận chính trị thường
không cao, hoặc không có chuyển biến trong
nhận thức và hành động của sinh viên. Thực
tế này, đang đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho
công tác tư tưởng hiện nay là: Cần phải tiếp
tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục lý luận chính trị trong các trường đại
học ở nước ta hiện nay.
3. Để nâng cao chất lượng giáo dục lý luận
chính trị trong các trường đại học hiện nay,
thiết nghĩ cần chú trọng một số giải pháp sau:
- Đảng ủy, Ban Giám hiệu các trường đại học
có vai trò rất quan trọng trong việc đổi mới,
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo
dục lý luận chính trị cho sinh viên các trường
đại học. Do đó, từ phía các nhà quản lý giáo
dục trong các trường đại học cần:
+ Đổi mới tư duy, quan niệm về dạy và học
các môn lý luận chính trị, nhất là ở các trường
không chuyên ngành Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Cần nhận thức rõ vị trí, vai trò
của các môn lý luận chính trị đối với việc bồi
đắp tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho sinh
viên hướng tới việc hình thành thế giới quan
khoa học, nhân sinh quan cộng sản, phương
pháp tư duy và phương pháp làm việc biện
chứng cho sinh viên. Không thể coi đây là
môn phụ, không quan trọng...
+ Tiếp tục chăm lo, bồi dưỡng, phát triển đội
ngũ giảng viên lý luận chính trị cả về số
lượng và chất lượng. Trong thời gian tới cần
chú ý một số vấn đề sau:
Cần có một chiến lược xây dựng đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị của các trường
4 ĐCSVN, Văn kiện Hội nghị Trung ương năm, Khóa
X, Nxb CTQG, HN, 2007, tr.37.
trong khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm. Từ
đó, xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, sử dụng tối
ưu, cũng như có chế độ, chính sách hợp lý
nhằm làm cho đội ngũ này yên tâm, gắn bó
với nghề nghiệp của mình và nỗ lực phấn đấu
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Cần xây dựng quy trình tuyển dụng giảng
viên lý luận chính trị một cách cụ thể hơn.
Tránh tình trạng nhận tràn lan, không phù hợp
chuyên môn, kém hiệu quả, đào tạo lại…
Giảng viên lý luận chính trị cần được tạo điều
kiện và có quy chế cụ thể định kỳ đi nghiên
cứu thực tiễn ở trong nước (có thể ở nước
ngoài) với mục đích, yêu cầu và kế hoạch cụ
thể, tránh tình trạng hình thức, kém hiệu quả.
Ngoài tập huấn chuyên môn, các trường cần
chú ý tập huấn kỹ năng giảng dạy, ứng dụng
công nghệ thông tin, công nghệ cao trong
giảng dạy.
+ Nâng cao chất lượng, hiệu quả các buổi
sinh hoạt chính trị, giảng dạy nghị quyết, các
hoạt động chính trị - xã hội ngoại khóa... cho
sinh viên.
- Khoa (Bộ môn) chuyên môn là thành trì về
chuyên môn, bộ phận quản lý trực tiếp nhất
đội ngũ giảng viên, hiểu rõ năng lực chuyên
môn của từng cán bộ giảng viên, do đó để
nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị
mà trước tiên là nâng cao chất lượng đội ngũ
giảng viên lý luận chính trị trong các trường
đại học hiện nay, Khoa (bộ môn) chuyên môn
có vai trò đặc biệt quan trọng. Một số giải
pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên
đối với cấp Khoa (bộ môn) chuyên môn:
Khuyến khích giảng viên học tập, nghiên
cứu nâng cao trình độ chuyên môn, tin học,
ngoại ngữ.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các buổi sinh
hoạt chuyên môn định kỳ như: tổ chức thảo
luận chuyên đề, tổ chức các buổi tọa đàm về
nội dung chuyên môn và phương pháp giảng
dạy, tổ chức hội thảo về các môn lý luận
chính trị…
Tổ chức thường xuyên, nghiêm túc công tác
dự giờ, kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng
dạy của các giảng viên, qua đó góp ý và rút
Trần Huy Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 57 - 62
60
kinh nghiệm về nội dung và phương pháp
giảng dạy.
Đối với các giảng viên trẻ, cần có kế hoạch
bồi dưỡng chu đáo về chuyên môn và phương
pháp giảng dạy. Đồng thời có kế hoạch phân
công cán bộ bồi dưỡng, giúp đỡ các giảng
viên trẻ nâng cao trình độ và phương pháp
giảng dạy.
- Giảng viên lý luận chính trị là những chủ thể
trực tiếp truyền giảng lý luận chính trị cần: Ý
thức được vị trí, vai trò, trách nhiệm của mình
với môn học; không ngừng học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tìm tòi, học
hỏi, vận dụng các phương pháp mới, phù hợp
vào giảng dạy lý luận chính trị; áp dụng các
phương tiện kỹ thuật hiện đại trong giảng
dạy... Trong đó vấn đề quan trọng nhất, đó
chính là không ngừng học tập, trau dồi kiến
thức lý luận và thực tiễn nhằm không ngừng
nâng cao trí tuệ và bản lĩnh chính trị, năng lực
chuyên môn và đạo đức cách mạng. Xứng
đáng là những người tiên phong trong công
tác giáo dục lý luận chính trị trong các trường
đại học, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà
Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
- Đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình,
phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục
lý luận chính trị.
Mục tiêu giáo dục lý luận chính trị phải phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và đối tượng giáo
dục trong mỗi giai đoạn cách mạng nhất định.
Trong giai đoạn hiện nay, mục tiêu của công
tác giáo dục lý luận chính trị trong các trường
đại học là làm cho mỗi sinh viên hiểu rõ và
nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và
Nhà nước. Đó phải là sự lĩnh hội những chân
lý khoa học và cách mạng, giúp cho sinh viên
củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào mục tiêu cách mạng, vào sự nghiệp đổi
mới đất nước theo con đường độc lập dân tộc
gắn liền với CNXH, đồng thời phải trang bị
cho sinh viên những kiến thức mới về lý luận
chính trị, về khoa học xã hội và nhân văn, bồi
dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan và
phương pháp luận khoa học cho họ. Đó là cơ
sở để củng cố lập trường giai cấp, bản lĩnh
chính trị vững vàng cho sinh viên, kiên quyết
đấu tranh chống lại mọi biểu hiện thù địch, sai
trái, kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
quan điểm của Đảng. Từng bước nâng cao
trình độ lý luận chính trị, năng lực vận dụng
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, chủ trương, đường lối, chính sách,
pháp luật của Đảng và Nhà nước cho sinh
viên trong quá trình hoạt động thực tiễn chính
trị - xã hội của mình.
Công tác lý luận cần tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Nội dung, chương trình
giáo dục lý luận chính trị cho sinh viên các
trường đại học cần tiếp tục được đổi mới, bổ
sung, phát triển đồng thời cần cân đối lại nội
dung kiến thức trong từng môn học sao cho
logic, khoa học, nhất là trong điều kiện học
theo học chế tín chỉ hiện nay. Ngoài ra, tùy
theo từng đối tượng, hình thức, thời gian đào
tạo các chủ thể giáo dục có thể trang bị cho
sinh viên những hiểu biết về các vấn đề chính
trị - xã hội, các trào lưu tư tưởng mới nảy
sinh, các thể chế chính trị trên thế giới…
nhằm mở rộng tầm hiểu biết và có cơ sở đấu
tranh với những quan điểm thù địch, sai trái.
Phương pháp giữ vai trò rất quan trọng trong
giáo dục lý luận chính trị. Phương hướng cơ
bản của việc đổi mới phương pháp là: quán
triệt hơn nữa phương châm lý luận gắn liền
với thực tiễn; bảo đảm tính cách mạng, khoa
học trong giảng dạy; phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của người học. Để quán
triệt và thực hiện phương hướng cơ bản này,
cần có sự linh hoạt, sáng tạo trong việc sử
dụng các phương pháp giảng dạy. Hình thức,
phương pháp giảng dạy phải phù hợp với mục
tiêu, đối tượng, cũng như phù hợp với những
yêu cầu mới của tình hình kinh tế - xã hội,
những quy luật của nhận thức, tâm lý đối
Trần Huy Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 57 - 62
61
tượng và đảm bảo truyền tải nội dung giáo
dục lý luận chính trị một cách tối ưu. Trong
điều kiện hiện nay, cần nhanh chóng tiếp cận
những thành tựu tiên tiến của khoa học công
nghệ trong giáo dục, từng bước hiện đại hóa
phương pháp, phương tiện dạy và học, thực
sự coi sinh viên là trung tâm của giáo dục
hiện đại để từ đó đưa ra các phương pháp giáo
dục tích cực, phù hợp.
- Ngoài ra, để nâng cao chất lượng, hiệu quả
giáo dục lý luận chính trị hiện nay thì vai trò
của người học (sinh viên) là rất quan trọng.
Bởi, có đổi mới như thế nào từ phía chủ thể
giáo dục lý luận chính trị, nội dung, chương
trình, phương pháp, phương tiện giáo dục lý
luận chính trị mà từ phía đối tượng không
chịu đổi mới thì không thể nào nâng cao
được chất lượng giáo dục lý luận chính trị. Do
đó, sinh viên các trường đại học cũng cần:
Đổi mới quan niệm về các môn lý luận chính
trị. Phải nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của
các môn lý luận chính trị, không thể coi đây
là các môn phụ, môn không quan trọng. Từ
đó, có ý thức, thái độ học tập, nghiên cứu một
cách nghiêm túc, đúng đắn.
Đổi mới cách học tập các môn lý luận chính
trị. Không thể học một cách chống đối, học
thuộc lòng, thi cho qua… do đó, khi học xong
sinh viên không nắm được bản chất của vấn
đề, không thể vận dụng những kiến thức đã
học vào thực tiễn để giải quyết được các vấn
đề chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội đặt ra. Vì,
xét cho cùng giáo dục lý luận chính trị ở các
trường đại học không chỉ là trang bị tri thức lý
luận chính trị cho sinh viên mà còn phải giúp
hình thành ở họ niềm tin chính trị và hành
động chính trị - xã hội tích cực, đúng đắn.
Nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu.
Hiện nay, trong học chế tín chỉ, với mục tiêu
là biến quá trình giáo dục trở thành quá trình
tự giáo dục, nên thời gian tự học, tự nghiên
cứu có thời lượng lớn hơn gấp nhiều lần thời
gian học trên lớp. Do đó, nếu sinh viên không
chủ động chuẩn bị kỹ bài ở nhà, không tự
nghiên cứu theo định hướng của giảng viên
thì thời gian học trên lớp của sinh viên sẽ
không có hiệu quả. Nhất là các môn lý luận
chính trị, với đặc thù là các môn khoa học có
tính khái quát hóa, trừu tượng hóa cao thì lại
càng cần phải nâng cao tinh thần, ý thức tự
giác học, tự nghiên cứu.
Giáo dục và đào tạo luôn được coi là quốc
sách hàng đầu. Trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, giáo dục và đào
tạo ngày càng thể hiện vị trí, vai trò quan
trọng của mình trong việc xây dựng và phát
triển đất nước. Giáo dục đạo đức, tư tưởng,
tinh thần, tình cảm, văn hóa chính trị… cho
sinh viên là một trong những nhiệm vụ hết
sức quan trọng trong giáo dục đại học ở nước
ta hiện nay, do đó, đòi hỏi cần tiếp tục đổi
mới, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục lý
luận chính trị cho sinh viên các trường đại
học. Thực hiện thắng lợi, nghị quyết Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị
trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế với mục tiêu: Giáo dục con
người Việt Nam phát triển toàn diện và phát
huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng tạo của
mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu
đồng bào; sống tốt và làm việc hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Ngọc Am (2009), Một số vấn đề về phương
pháp giảng dạy lý luận chính trị, Nxb Thông tấn,
Hà Nội.
2.Vũ Ngọc Am (2011), “Hiệu quả và tiêu chí đánh
giá hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị”,
Tạp chí Tuyên giáo, (11), Hà Nội.
3. Hoàng Anh (2006), Giáo dục lý luận Mác –
Lênin với việc hình thành và phát triển nhân cách
của sinh viên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học
viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Lương Gia Ban (2002), Góp phần nâng cao
chất lượng giảng dạy và đổi mới nội dung, chương
trình các môn khoa học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Phạm Huy Kỳ (2010), Lý luận và phương pháp
nghiên cứu, giáo dục lý luận chính trị, Nxb Chính
trị - Hành chính, Hà Nội.
Trần Huy Ngọc và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 57 - 62
62
SUMMARY
IMPROVING THE QUALITY OF EDUCATION ON POLITICAL THEORY FOR
UNIVERSITY STUDENTS IN VIETNAM NOWADAYS
Tran Huy Ngoc*, Nguyen Thi Ngan
College of Economics and Business Administration - TNU
Education on political theory is an important part of education and training at tertiary level in
Vietnam. As it can be seen, the reality of political theory education for university students in our
country has not met the requirements of practice. Therefore, there is a necessary need to continue
to innovate in order to further improve the quality and effectiveness of education on political
theory for university students in our country nowadays.
Key words: Education, reasoning, education on political theory, improve the quality of education,
university students.
Ngày nhận bài:07/5/2014; ngày phản biện:28/5/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Ngô Thị Tân Hương – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0949128678, Email: [email protected]
Lê Thị Quỳnh Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 63 - 68
63
NHỮNG YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG, CHI PHỐI ĐẾN
TÍNH TÍCH CỰC GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN
Lê Thị Quỳnh Trang1*, Lê Thị Thu2
1Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐH Thái Nguyên 2Trường Cao đẳng Công nghệ và Kinh tế Hà Nội
TÓM TẮT Tích cực giảng dạy là ý thức tự giác của giảng viên về mục đích của hoạt động giảng dạy, thể hiện
lòng say mê đối với hoạt động giảng dạy; sự chủ động, sáng tạo và nỗ lực vượt mọi khó khăn, nhằm
tổ chức và thực hiện tốt hoạt động giảng dạy. Tính tích cực giảng dạy có vai trò quan trọng đối với
hoạt động giảng dạy của giảng viên, nó vừa là mục đích, vừa là phương tiện vừa là điều kiện của hoạt
động giảng dạy. Trong quá trình dạy học, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng, chi phối đến tính tích cực
giảng dạy của giảng viên. Bài viết dưới đây sẽ trao đổi với người đọc về vấn đề này.
Từ khoá: tính tích cực, tính tích cực giảng dạy, vai trò của tính tích cực, vai trò của tính tích cực
giảng dạy, hoạt động giảng dạy.
MỘT SỐ KHÁI NIỆM*
Tính tích cực
Tính tích cực là thái độ cải tạo của chủ thể đối
với thế giới khách quan thông qua việc huy
động ở mức độ cao các chức năng tâm lý nhằm
giải quyết các nhiệm vụ nảy sinh trong hoạt
động. Nó là một phẩm chất của tư duy; là điều
kiện quyết định hoạt động tưởng tượng sáng
tạo. Tính tích cực còn là thuộc tính ý chí của
nhân cách thể hiện trong hành động ý chí, kỹ
năng, hành động tự động hóa kỹ xảo, hành
động ý chí đơn giản và phức tạp – bản chất
tâm lý của tính tích cực thuộc về ý chí.
Tính tích cực của cá nhân gắn liền với trạng
thái hoạt động của chủ thể. Tính tích cực bao
hàm tính chủ động, sáng tạo, tính có ý thức
của chủ thể trong hoạt động, tính quy định
của mục đích hành động trong hiện tại tính
siêu hoàn cảnh và tính bền vững tương đối
của hành động trong sự tương quan với mục
đích đã thông qua. Tính tích cực thể hiện sự
nỗ lực cố gắng của bản thân, ở sự chủ động,
tự giác hoạt động và cuối cùng là kết quả cao
của sự hoạt động có mục đích của chủ thể.
Tính tích cực được nảy sinh, hình thành, phát
triển trong hoạt động.
Như vậy, tính tích cực là ý thức tự giác của
con người về mục đích của hoạt động, thể
* Tel: 0982 31 03 79; Email: [email protected]
hiện ở lòng say mê đối với hoạt động; sự chủ
động và sáng tạo vượt qua mọi khó khăn
trong hoạt động, nhằm tổ chức và thực hiện
hoạt động có hiệu quả. Tính tích cực được
nảy sinh, hình thành, phát triển và biểu hiện
trong hoạt động.
Tính tích cực giảng dạy của giảng viên
Tích cực giảng dạy là ý thức tự giác của
giảng viên về mục đích của hoạt động giảng
dạy, thể hiện lòng say mê đối với hoạt động
giảng dạy; sự chủ động, sáng tạo và nỗ lực
vượt mọi khó khăn, nhằm tổ chức và thực hiện
tốt hoạt động giảng dạy.
Ý thức tự giác của giảng viên thể hiện sự nhận
thức đầy đủ và sâu sắc về mục đích của hoạt
động giảng dạy. Mục đích của hoạt động giảng
dạy là giúp sinh viên tái tạo (lĩnh hội) nền văn
hóa xã hội, hình thành và phát triển nhân cách.
Để thực hiện được mục đích đó, thì yếu tố cốt
lõi trong hoạt động giảng dạy của giảng viên là
tạo ra được tính tích cực trong hoạt động học
của sinh viên, làm cho các em vừa ý thức được
đối tượng cần chiếm lĩnh, và biết cách chiếm
lĩnh đối tượng đó. Tính tích cực của sinh viên
trong hoạt động học quyết định chất lượng học
tập [1]. Do đó, chất lượng học tập phụ thuộc
vào trình độ tổ chức, lãnh đạo, điều khiển và
điều chỉnh của người giảng viên. Bởi vậy, nếu
người giảng viên nhận thức càng đầy đủ và sâu
sắc về mục đích đó bao nhiêu, thì sức mạnh vật
Lê Thị Quỳnh Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 63 - 68
64
chất và tinh thần của giảng viên càng được huy
động bấy nhiêu. Đây là cơ sở của tính tích cực
giảng dạy.
Cùng với việc nhận thức đầy đủ và sâu sắc về
hoạt động giảng dạy, giảng viên còn tỏ thái độ
của mình với nó nữa. Thực tiễn cho thấy, bên
cạnh việc giảng viên nhận thức sâu sắc và đầy
đủ về hoạt động giảng dạy và những yêu cầu
sư phạm của nghề tạo nên “lòng yêu nghề”,
thì việc giảng viên nhận thức đầy đủ và sâu
sắc về đặc điểm tâm sinh lý của sinh viên,
hiểu sinh viên sẽ tạo nên “lòng yêu người”.
“Càng yêu người bao nhiêu, càng yêu nghề
bấy nhiêu” – đó là sự hòa quyện giữa tình
cảm và lý trí, tạo khả năng thúc đẩy mạnh mẽ
hoạt động của giảng viên, làm cho giảng viên
chủ động, độc lập và sáng tạo, nỗ lực vượt
qua mọi khó khăn trở ngại để tổ chức và thực
hiện hoạt động giảng dạy hiệu quả.
Chủ động, độc lập trong hoạt động giảng dạy
là một biểu hiện quan trọng của tính tích cực
giảng dạy. Trong hoạt động giảng dạy, người
giảng viên chủ động trong giảng dạy sẽ tích
cực, độc lập trong việc lập kế hoạch giảng
dạy, lựa chọn nội dung phương pháp, phương
tiện dạy học… và tích cực thực hiện các hành
động giảng dạy đạt hiệu quả cao.
Hơn nữa, “Dạy học là nghề sáng tạo nhất trong
các nghề sáng tạo”. Do đó, sáng tạo trong hoạt
động giảng dạy cũng là một đặc trưng cơ bản
của tính tích cực giảng dạy. Bởi sáng tạo, với
tư cách là hoạt động tạo lập và phát hiện những
cái mới, nó đòi hỏi giảng viên phải phát huy
năng lực, phải có động cơ tri thức, kỹ năng
mới có thể tạo nên sảm phẩm mới, độc đáo và
sâu sắc trong dạy học. Mặt khác, với tư cách là
một quá trình, sáng tạo đòi hỏi giảng viên phải
có sự bền bỉ, cần cù, tận tâm, tận lực đối với
hoạt động giảng dạy, không ngừng đổi mới
hoạt động giảng dạy.
Thực tiễn cho thấy, dạy học là một nghệ
thuật, trong đó người thầy vừa đóng vai là
một nhà soạn kịch vừa đóng vai là một diễn
viên, do đó đòi hỏi người giảng viên muốn
thành công thì phải rất khổ luyện. Sau mỗi
giờ giảng người giảng viên cần phải đánh giá
được bài dạy hôm nay đã thành công ở đâu
còn sai sót ở chỗ nào để rút kinh nghiệm cho
lần dạy sau. Trong quá trình đó, giảng viên
gặp không ít những khó khăn, trở ngại. Sự nỗ
lực khắc phục mọi khó khăn trong quá trình
giảng dạy để đạt hiệu quả cao là một nét đặc
trưng của tính tích cực giảng dạy ở giảng
viên. Do đó, tính tích cực giảng dạy được nảy
sinh, hình thành, phát triển và biểu hiện trong
hoạt động giảng dạy.
Vai trò của tính tích cực giảng dạy
Đối với người thầy
Tính tích cực nói chung và tính tích cực giảng
dạy của giảng viên nói riêng là một trong
những phẩm chất cơ bản của nhân cách người
giảng viên. Tính tích cực giảng dạy là động
lực cơ bản tạo nên giá trị nhân cách người
thầy giáo, tốc độ phát triển của các phẩm chất
và năng lực giảng dạy của người giảng viên
phụ thuộc vào sự gia tăng tính tích cực trong
chính hoạt động sư phạm của người giảng
viên. Vì vậy tính tích cực giảng dạy của giảng
viên có vai trò:
- Là một yếu tố quan trọng để tạo nên nhân
cách người thầy giáo;
- Tạo nên tinh thần, thái độ là việc hăng say
của người thầy;
- Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức kỷ
luật của người thầy;
- Làm cho bài giảng của giảng viên có chất
lượng, hiệu quả cao hơn và hấp dẫn hơn;
- Tạo nên uy tín của người thầy đối với sinh
viên và đồng nghiệp.
Đối với sinh viên và tập thể giáo viên
Với mỗi bài giảng được phát ra không phải từ
cổ họng, mà là từ sự say mê, nhiệt tình, từ
tâm của giảng viên, sẽ:
- Kích thích được tinh thần say mê học tập
của người học;
- Kích thích sự tìm tòi, sáng tạo của sinh viên;
- Làm cho sinh viên lĩnh hội bài học tốt hơn;
- Lôi cuốn được đồng nghiệp hăng hái làm việc.
- Tạo ra một bầu không khí tâm lý tích cực
trong tập thể giảng viên.
Lê Thị Quỳnh Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 63 - 68
65
PHÂN TÍCH NHỮNG YẾU TỐ ẢNH
HƯỞNG, CHI PHỐI ĐẾN TÍNH TÍCH CỰC
GIẢNG DẠY CỦA GIẢNG VIÊN
Phân tích nhóm yếu tố tâm lý cá nhân
+ Tình yêu và sự say mê hứng thú đối với
nghề nghiệp
Tính tích cực trong hoạt động giảng dạy của
giảng viên phụ thuộc rất lớn vào hệ thống thái
độ của người giảng viên đối với hoạt động
giảng dạy. Nếu giảng viên có sự say mê nghề
nghiệp; tình yêu đối với nghề nghiệp; hứng
thú đối với công việc; tinh thần kỷ luật; cởi
mở; chân thành; đoàn kết; tương trợ nhân ái;
công bằng cần cù; sáng tạo; khiêm tốn; yêu
thương con người… thì sẽ tạo nên những nét
tính cách tích cực ở người giảng viên. Điều
đó cho phép giảng viên hoạt động lao động tự
giác, có sức mạnh to lớn để vượt qua được
những khó khăn trở ngại đạt tới mục tiêu. Mặt
khác nó còn có khả năng lôi cuốn, tập hợp
được nhiều người khác theo mình [2].
+ Tinh thần trách nhiệm của giảng viên
trong hoạt động giảng dạy
Đây là yếu tố ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ
tới tính tích cực giảng dạy của giảng viên vì
nó thể hiện bản lĩnh và ý thức trách nhiệm của
người giảng viên trước công việc nói chung
và hoạt động giảng dạy nói riêng. Người
giảng viên có tinh thần trách nhiệm cao đối
với công việc thì họ thường hết lòng vì công
việc; say mê, nhiệt tình, tận tuỵ với nghề;
luôn thực hiện tốt các yêu cầu, nội quy, quy
chế về giảng dạy, chuyên môn và nghiệp vụ;
hoàn thành tốt các nhiệm vụ giảng dạy được
giao… và ngược lại.
+ Ý thức về nghĩa vụ cá nhân
Ý thức cá nhân là mức độ phát triển cao của ý
thức, là khả năng tự nhận thức về bản thân; có
thái độ rõ ràng đối với bản thân; tự điều
khiển, điều chỉnh hành vi theo mục đích tự
giác; từ đó tự giáo dục và tự hoàn thiện.
Ý thức về nghĩa vụ cá nhân phản ánh trình độ
nhận thức về nghĩa vụ và trách nhiệm của cá
nhân đối với xã hội với tư cách là những công
dân chân chính của xã hội và cộng đồng. Đối
với người giảng viên, bên cạnh những quyền
lợi của giảng viên, với tư cách là những người
giảng viên chân chính, người giảng viên cần
nhận thức đúng đắn về về nghĩa vụ và trách
nhiệm của mình đối với xã hội đó là giảng
dạy, giáo dục sinh viên; nghiên cứu khoa học
và tự bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất
lượng đào tạo. Ngoài ra giảng viên còn phải
có nghĩa vụ tuân theo các quy định của pháp
luật… Từ đó, có thái độ rõ ràng đối với bản
thân; tự điều khiển, điều chỉnh hành vi hoạt
động nghề nghiệp của mình theo mục đích tự
giác; trên cơ sở đó tự giáo dục và hoàn thiện
bản thân mình.
+ Lương tâm đạo đức nghề nghiệp
Lương tâm đạo đức là gốc của nhân cách nói
chung và nhân cách người giảng viên nói
riêng. Bất cứ một cá nhân nào khi tham gia
vào hoạt động nghề nghiệp, để mang lại chất
lượng và hiệu quả bền vững, bên cạnh năng
lực chuyên môn (trình độ tay nghề), cần phải
có đạo đức nghề nghiệp. Còn đối với dạy học
là nghề đào tạo con người, nghề lao động
nghiêm túc, không được phép tạo ra thứ phẩm
chứ đừng nói tới phế phẩm như một số nghề
khác, nghề mà công cụ chủ yếu được sử dụng
để thực hiện quá trình đào tạo là nhân cách
của chính mình, là phẩm chất đạo đức, chính
trị; là sự giác ngộ về lý tưởng đào tạo thế hệ
trẻ; là lòng yêu nghề, mến trẻ; là trình độ học
vấn; là lối sống, cách xử sự… của người thầy
giáo. Vì vậy, lương tâm đạo đức nghề dạy học
là thước đo chuẩn mực của người thầy giáo,
là nhân tố quyết định chất lượng đào tạo.
K.D.Usinxki đã khẳng định “Dùng nhân cách
để tác thành nhân cách” [1]. Một người giảng
viên có lương tâm đạo đức nghề nghiệp sẽ
sống và hành động theo lẽ phải, có phẩm chất
đạo đức nghề nghiệp tốt đẹp, có tình yêu đối
với nghề và với con người. Đúng như
L.N.Tônxtôi – trong “Tác phẩm sư phạm” đã
nói: “Để đạt được thành tích trong công tác,
người thầy giáo phải có một phẩm chất – đó
là tình yêu. Người thầy giáo có tình yêu trong
công việc là đủ cho họ trở thành người giáo
viên tốt” [1].
Lê Thị Quỳnh Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 63 - 68
66
Phân tích nhóm yếu tố tâm lý xã hội
+ Không khí tâm lý, truyền thống làm việc
của khoa và trường
Bầu không khí tâm lý là hệ thống các trạng
thái tâm lý tương đối ổn định đặc trưng cho
một tập thể nào đó [3]. Bầu không khí tâm lý
sư phạm là hệ thống các trạng thái tâm lý
tương đối ổn định đặc trưng cho một tập thể sư
phạm và có ý nghĩa đối với các thành viên của
tập thể sư phạm đó. Bầu không khí tâm lý có
ảnh hưởng một cách gián tiếp tới hoạt động
giảng dạy của giảng viên. Nó được xem là
“chất xúc tác” cho quá trình hoạt động sư
phạm, trước hết là bổ sung cho các điều kiện
kích thích khác. Một tổ chức khoa và trường
có bầu không khí tốt như các thành viên đoàn
kết, đồng cảm và giúp đỡ lẫn nhau trong các
hoàn cảnh khó khăn, dân chủ, kỷ cương, tích
cực tham gia thực hiện nhiệm vụ chung của
khoa, trường, sự tín nhiệm và tính đòi hỏi cao
của các thành viên trong khoa, trường, phê
bình có thiện chí và thiết thực, tự do phát biểu
ý kiến về những vấn đề liên quan đến tập thể,
không có áp lực của người lãnh đạo… sẽ là
chất xúc tác tích cực làm tăng hiệu quả giảng
dạy của giảng viên và ngược lại.
Cùng với bầu không khí tâm lý, thì yếu tố
truyền thống của khoa, trường và tập thể
giảng viên cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới
tính tích cực giảng dạy của giảng viên.
Truyền thống là những di sản tinh thần luôn
luôn liên tục và luôn luôn được kế tục. Đó là
những đức tính, tập quán, tư tưởng và lối
sống được hình thành trong đời sống và được
xã hội thừa nhận, được truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác và có tác dụng to lớn đối với
mỗi cá nhân và toàn thể xã hội, là tài sản, tinh
hoa văn hoá tinh thần của thế hệ trước chuyển
giao cho thế hệ sau [4]. Truyền thống là một
thứ “keo kết dính” các thành viên của khoa và
trường trở thành chỉnh thể hoàn chỉnh thống
nhất và đoàn kết. Do tính quần chúng, tính
vững chắc, tính kế thừa và tính sáng tạo, tính
tiến bộ và dễ gây cảm xúc của truyền thống là
cho nó có sức mạnh to lớn đối với cuộc sống
của mỗi cá nhân và tập thể. Trong thực tế, căn
cứ vào ý nghĩa tích cực của truyền thống tốt
đẹp, tiến bộ đồng thời cũng có tổ chức có
truyền thống xấu, lạc hậu. Các khoa, trường
có truyền thống tốt đẹp, tiến bộ như truyền
thống dạy tốt học tốt; lá lành đùm lá rách; tôn
sư trọng đạo; đổi mới nội dung, phương pháp
dạy học; dạy và học tích cực… sẽ điều chỉnh
các giảng viên hoạt động tích cực để giữ vững
truyền thống.
+ Ảnh hưởng của đồng nghiệp
Để tồn tại và phát triển con người phải hợp
tác với người khác. Sự hợp tác là cơ chế tham
gia của cá nhân vào các mối quan hệ xã hội
nhằm thiết lập, gia nhập, duy trì và phát triển
hệ thống các mối quan hệ đó. Sự tham gia của
con người vào các mối quan hệ đó chính là sự
tìm kiếm mối liên hệ qua lại với người khác
để cùng hành động chung và thực hiện mục
đích. Trong quá trình hoạt động cùng nhau
diễn ra sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa người và
người. Trong hoạt động sư phạm cũng vậy,
các giảng viên có sự phản ánh trực tiếp hoàn
cảnh sinh hoạt, tri giác lẫn nhau, rung cảm lẫn
nhau, học hỏi lẫn nhau, có thái độ đánh giá
lẫn nhau, thậm chí bắt chước nhau… Mức độ
ảnh hưởng lẫn nhau giữa các giảng viên trong
hoạt động sư phạm, tuỳ thuộc vào rất nhiều
nhân tố, đặc biệt vào mức độ thống nhất giữa
họ với nhau trong sự nghiệp chung, vào uy tín
của giảng viên đối với những người khác
hoặc uy tín của tập sư phạm dưới con mắt của
giảng viên… Vì vậy, đồng nghiệp có thể ảnh
hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến tính tích cực
giảng dạy của giảng viên.
+ Sự khuyến khích, đánh giá của lãnh đạo
khoa, trường
Lãnh đạo là sự ảnh hưởng xã hội, là hoạt
động có mục đích trong một tổ chức, là sự tác
động hợp pháp đến những người khác nhằm
thực hiện những mục đích đã định và khi nói
tới khái niệm “Người lãnh đạo” chúng ta
không chỉ đề cập đến khía cạnh quyền lực của
người đó được trao mà còn đề cập đến nghệ
thuật kích thích, lôi cuốn và thúc đẩy những
người bị lãnh đạo thực hiện hoạt động chung
nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra. Theo đó,
người lãnh đạo khoa, trường là người đại diện
cho giảng viên trong quan hệ chính thức với
các tổ chức khác để giải quyết những vấn đề
Lê Thị Quỳnh Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 63 - 68
67
liên quan đến tập thể sư phạm. Người lãnh
đạo khoa, trường muốn thành công phải khơi
dậy được sự hợp tác của những người dưới
quyền (giảng viên); phải tìm hiểu đặc điểm
người giảng viên, biết rõ nguyên nhân các
hành vi của họ; tìm hiểu những đặc điểm tốt
của giảng viên để khích lệ họ; quan tâm, chú
ý và đề cao vai trò cá nhân của giảng viên;
công bằng trong đánh giá; coi trọng hiệu quả
công việc của giảng viên… Vì vậy, sự khuyến
khích và đánh giá công bằng, khách quan của
lãnh đạo khoa, trường cũng là yếu tố quan
trọng ảnh hưởng tới tính tích cực giảng dạy
của giảng viên.
+ Sự đảm bảo về mặt lợi ích cho giảng viên
(lương, thưởng, thu nhập thêm…)
Ông cha ta xưa có câu: “Có thực mới vực
được đạo”, ngày nay điều đó vẫn có ý nghĩa
quan trọng đối với mọi hoạt động của con
người nói chung và đối với giảng viên nói
riêng. Mọi hoạt động suy cho đến cùng là
nhằm thoả mãn nhu cầu nào đó. Nếu xét theo
thang thứ bậc nhu cầu của Maslow, nhu cầu
vật chất là loại nhu cầu thấp nhất cần được
thoả mãn để từ đó nảy sinh những nhu cầu
cao hơn [5]. Trong thực tế cũng vậy, con
người, ai cũng cần có việc làm để sống. Đời
sống vật chất cần phải đủ đảm bảo cho cá
nhân và gia đình họ. Mọi hoạt động nói chung
trước tiên đều đi đến giải quyết và đáp ứng
nhu cầu và lợi ích của người lao động. Bất cứ
người lao động nào cũng mong muốn kiếm
được việc làm vừa sức mình mà lại có đồng
lương cao. Vì vậy, việc đảm bảo lợi ích
(lương, thưởng, thu nhập thêm…) cho giảng
viên là một trong những biện pháp kích thích
tính tích cực giảng dạy của giảng viên mang
lại hiệu quả cao.
+ Tính tích cực học tập của sinh viên
Dạy học là sự phối hợp thống nhất biện chứng
giữa hoạt động dạy của thầy và hoạt động học
của trò, trong đó sự nỗ lực của giảng viên và
sinh viên trùng với nhau tạo nên sự cộng
hưởng của chính quá trình dạy học đó. Mặt
khác, khi xem xét mối quan hệ giữa dạy và
học; giảng viên và sinh viên cho thấy: giảng
viên là người lãnh đạo, tổ chức, điều khiển,
còn sinh viên tự giác, tích cực, chủ động tự tổ
chức, điều khiển hoạt động nhận thức - học
tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ
dạy học. Điều đó chứng tỏ tính tích cực học
tập của sinh viên là nhân tố quyết định trực
tiếp đến chất lượng và hiệu quả đào tạo. Do
đó, tính tích cực học tập của sinh viên là yếu
tố ảnh hưởng trực tiếp tới tính tích cực giảng
dạy của giảng viên.
Ngoài các yếu tố trên, thâm niên nghề nghiệp;
tuổi tác; giới tính; sức khoẻ… của giảng viên
cũng có ảnh hưởng ít nhiều đến tính tích cực
giảng dạy của giảng viên.
Một số biện pháp phát huy tính tích cực
giảng dạy của giảng viên
Để phát huy được tính tích cực giảng dạy của
giảng viên, trước hết cần làm cho họ nhận
thức đầy đủ và đúng đắn về hoạt động giảng
dạy, về giá trị của nghề, đặc điểm và những
yêu cầu cũng như sự cần thiết phải có tính
tích cực giảng dạy. Vì vậy, cần có biện pháp
tổ chức bồi dưỡng thường xuyên cho giảng
viên, cụ thể:
- Đề ra những quy định mang tính bắt buộc,
giảng viên cần thực hiện việc bồi dưỡng và tự
bồi dưỡng thường xuyên đặc biệt là bồi
dưỡng đổi mới nội dung, phương pháp,
phương tiện dạy học;
- Có kế hoạch kiểm tra đánh giá thường
xuyên và định kỳ chuyên môn, nghiệp vụ
nhằm thúc đẩy giảng viên tự học tự bồi dưỡng
để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Quá trình kiểm tra, đánh giá cần:
+ Có quy trình, tiêu chí rõ ràng, công khai hóa;
+ Phương pháp đánh giá và công cụ đánh giá
phải đa dạng, đáng tin cậy;
+ Đánh giá qua nhiều nguồn khác nhau: giảng
viên tự đánh giá; sinh viên đánh giá giảng
viên; đồng nghiệp đánh giá và cán bộ quản lý
đánh giá.
Bên cạnh đó, cần phải kích thích tinh thần,
tâm lý của giảng viên, bằng cách:
- Xây dựng tập thể sư phạm lành mạnh với
những truyền thống tốt đẹp;
Lê Thị Quỳnh Trang và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 63 - 68
68
- Căn cứ vào đặc điểm tâm lý của mỗi giảng
viên để động viên kịp thời những đóng góp
của họ; đánh giá đúng những đóng góp của
họ, thừa nhận những khả năng của họ;
- Quan tâm đến đời sống của giảng viên và
mối quan hệ giữa các giảng viên để tạo ra môi
trường tâm lý tích cực cho các giảng viên
trong quá trình giảng dạy;
- Khéo léo ứng xử với giảng viên, thuyết phục
họ sẵn sàng tham gia hợp tác;
- Có chế độ khen thưởng và kỷ luật hợp lý,
kịp thời.
KẾT LUẬN
Tính tích cực luôn là vấn đề hấp dẫn và thu
hút sự tập trung nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng tới
tính tích cực của giảng viên. Mỗi yếu tố có
mức độ ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả các yếu tố
đó đều có vai trò quan trọng đối với mức độ
biểu hiện tính tích cực giảng dạy của giảng
viên và việc nâng cao tính tích cực đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn
Thàng (2008), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học
sư phạm, Nxb Thế giới.
2. Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Hải Khoát, Phạm
Tất Dong (1995), Tâm lý học đại cương - Tập 1,
Bộ Giáo dục và Đào tạo - Viện Đại học Mở.
3. Carl Roger (2001), Phương pháp dạy và học
hiệu quả, Nxb Trẻ.
4. Vũ Dũng (2006), Tâm lý học quản lý, Nxb Đại
học Sư phạm.
5. Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương
pháp dạy học trong nhà trường, Nxb Đại học Sư
phạm.
6. Lê Hương (2003), Tính tích cực nghề nghiệp
của công chức - Một số nhân tố ảnh hưởng, Nxb
Khoa học xã hội.
SUMMARY
ELEMENTS INFLUECING ON TEACHING POSITIVES OF LECTURERS
Le Thi Quynh Trang1*, Le Thi Thu2
1College of Technology - TNU 2Ha Noi College of Technology and Economics
Teaching positive is self-consciousness of teachers about the purpose of teaching activities;
demonstrates passion for teaching; initiative, creativity and effort to overcome all difficulties in
order to organize and implement effectively teaching activities. Teaching positive has an important
role to the teaching activities of lecturers; it's a goal, a means, and a condition of teaching
activities. In the teaching process. In teaching process, there are many elements that influence,
affect to the teaching positive of lecturers. The following article will be discussed with the readers
about this problem.
Keywords: positive, teaching positive, the role of positive, positive’s role of teaching, teaching
activities.
Ngày nhận bài:17/02/2014; ngày phản biện:14/03/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đỗ Thị Tám – Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0982 31 03 79; Email: [email protected]
Nguyễn Văn Thanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 69 - 74
69
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO NGOẠI KHOA SINH
VIÊN TRƯỜNG ĐH KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH THÁI NGUYÊN
Nguyễn Văn Thanh1*, Hoàng Thị Huyền2
1Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên,
2Khoa Ngoại Ngữ - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Thông qua quan sát, phỏng vấn chuyên gia, tổng hợp tài liệu và phân tích thực tế để tiến hành đánh
giá thực trang hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa của sinh viên Trường Đại học Kinh tế &
Quản trị Kinh doanh - ĐH Thái Nguyên.
Từ khóa: Thực trạng, Hoạt động thể dục thể thao, Ngoại khóa, Giờ chính khóa, Giờ ngoại khóa,
Giáo dục thể chất.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Hoạt động thể dục thể thao (TDTT) ngoại khóa là một yêu cầu tự nguyện tự giác phù hợp với sở thích, giới tính, lứa tuổi và sức khỏe.
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên được thành lập từ năm 2004 với bề dày truyền thống gần 10 năm, thầy và trò của nhà trường luôn phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy và học tập. Quy mô đào tạo hiện nay của trường là trên 5000 sinh viên chính quy. Với số lượng sinh viên như vậy, song thực tế cho đến nay, với thời lượng các tiết học thể dục là không đủ cho mục tiêu nâng cao thể chất cho sinh viên, việc tổ chức hoạt động ngoại khoá cho sinh viên còn kém hiệu quả. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu thực trạng các hoạt động ngoại khóa TDTT cho sinh viên hàng năm cũng chưa được tiến hành do vậy không có cơ sở để điều chỉnh nội dung, hình thức tổ chức cho phù hợp và có hiệu quả tốt
Chính vì vậy, việc đánh giá thực trạng các hoạt động TDTT ngoại khóa cho sinh viên Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên, làm cơ sở cho việc đề ra những giải pháp nâng cao chất lượng các hoạt động TDTT ngoại khóa cho sinh viên của trường là vấn đề mang tính cấp thiết. Xuất phát từ những nguyên nhân trên với mong muốn đóng góp cho sự phát triển phong trào TDTT ngoại khóa của Trường chúng tôi tiến hành đánh giá "Thực trạng hoạt động TDTT ngoại khóa cho sinh viên trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên".
* Tel: 0986882134 – Email: [email protected]
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu. Phương pháp phỏng vấn toạ đàm. Phương pháp toán học thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng chương trình, giáo án giảng dạy môn thể dục của Trường Đại học Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
Từ kết quả thu được ở bảng 1 cho thấy:
Nội dung chương trình thể dục ở trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên phân bố chưa hợp lý và nội dung còn nghèo nàn, đơn điệu, không đáp ứng được nhu cầu, sở thích của sinh viên. Đây là một trong những điểm hạn chế trong công tác dạy học thể dục, không chỉ ở trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên mà ở hầu hết các trường ĐH trên cả nước.
Phương pháp tổ chức giảng dạy thể dục của trường
Môn thể dục được các giáo viên trong trường
tiến hành giảng dạy cho sinh viên theo hai
hình thức chính khóa và ngoại khóa.
Giờ học chính khóa: Được thực hiện theo
thời khóa biểu của nhà trường, lên lớp theo
khối lượng thời gian và chương trình, cách
kiểm tra đánh giá cho điểm theo quy định.
Giờ ngoại khoá: Thời gian hoạt động ngoại khóa dành cho các em nhìn chung còn trong phạm vi nhỏ, số lượng các em tham gia đội tuyển chưa nhiều. Nhà trường cũng chưa có hình thức hướng dẫn các em sinh viên tự tập luyện hoàn thiện các nội dung chính khóa. Chưa phát động được phong trào tự rèn luyện
Nguyễn Văn Thanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 69 - 74
70
tập luyện của sinh viên theo các nội dung, tiêu chuẩn rèn luyện thân thể. Đôi khi, các giờ học
ngoại khóa chưa được coi trọng nên việc duy trì chưa thường xuyên chất lượng, chỉ khi chuẩn bị
tổ chức giải mới gấp rút tập luyện.
Bảng 1. Bảng phân phối chương trình giảng dạy môn thể dục
của trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
TT
Học phần I, II, III
Nội dung giảng
dạy Số giờ
Tỷ lệ
% Nội dung giảng dạy
Số
giờ
Tỷ lệ
%
Nội dung giảng
dạy Số giờ
Tỷ lệ
%
Học phần I (GDTCI) Học phần II (GDTCII) Học phần III (GDTCIII)
1 Lý thuyết 3 10 Lý thuyết: 3 10 Lý thuyết: 3 10
2 Thực hành: 27 90 Thực hành: 27 90 Thực hành: 27 90
1. Phương pháp
tập luyện và
một số tư thế
chính
3 10
1. Tư thế chuẩn bị và
các hình thức di
chuyển
3 10 1. Các kỹ thuật
dẫn bóng 3 10
2. Một số bài
tập trong thể
dục cơ bản
3 10
2. Kỹ thuật chuyền
bóng cao tay và kỹ
thuật chuyền bóng
thấp tay (Đệm bóng)
9 30 2. Các kỹ thuật
giữ bóng 9 30
3. Bài thể dục
tay không 60
động tác
9 30 3. Kỹ thuật phát bóng 9 30 3. Các kỹ thuật
đá bóng 9 30
4. Bài thể dục
65 động tác với
gậy
9 30
4. Luật bóng chuyền
và phương pháp thi
đấu
3 10
4. Luật bóng đá
11 người và
phương pháp thi
đấu
3 10
5. Kiểm tra 3 10 5. Kiểm tra 3 10 5. Kiểm tra 3 10
Tổng số giờ
học phần I: 30 100
Tổng số giờ học
phần II: 30 100
Tổng số giờ học
phần III: 30 100
Khảo sát thực trạng về công tác giáo dục thể chất (GDTC) cho sinh viên trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
Qua bảng 2 cho thấy chất lượng công tác GDTC chưa đáp ứng được nhiệm vụ, nhu cầu đào tạo cũng như nguyện vọng của sinh viên.
Thực trạng về cơ sở vật chất
Cơ sở vật chất, kinh phí, sân bãi, dụng cụ của nhà trường phục vụ cho công tác giảng dạy học tập nội khoá còn thiếu về số lượng và kém về chất lượng, chưa đáp ứng được cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy học tập và tập luyện ngoại khóa của sinh viên, cũng như diện tích đất, công trình thể thao phục vụ cho nhu cầu tự tập luyện thể thao, rèn luyện thân thể của sinh viên trang thiết bị còn thiếu thốn.
Thực trạng thể lực và hoạt động TDTT ngoại khóa của trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên (bảng 3)
Những yếu tố được đánh giá là ảnh hưởng đến tập luyện ngoại khoá, rèn luyện thân thể (RLTT) của sinh viên là không có tổ chức, giáo viên hướng dẫn, không có điều kiện sân bãi dụng cụ và cũng một phần do chương trình học tập nặng nề nên thiếu thời gian.
Nguyễn Văn Thanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 69 - 74
71
Bảng 2. Kết quả khảo sát thực trạng về công tác GDTC
trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên (n = 36).
TT Nội dung phỏng vấn
Kết quả phỏng
vấn
n %
1.
Đánh giá công tác GDTC: - -
- Đáp ứng yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của nhà trường. 12 33.33
- Đáp ứng từng phần yêu cầu. 0 0
- Chưa đáp ứng. 24 66.67
2.
Những vấn đề mà công tác GDTC cần tập trung: - -
- Đảng uỷ Ban giám hiệu cần quan tâm luôn. 32 88.89
- Cần đẩy mạnh hoạt động TDTT ngoại khóa. 29 80.56
- Cần nâng cao chất lượng giáo viên TDTT. 36 100.00
- Phải cải tiến phương pháp giảng dạy TDTT phù hợp điều kiện nhà trường. 30 83.33
- Cần phải tăng cường cơ sở vật chất sân bãi. 28 77.77
- Tăng kinh phí dành cho hoạt động thể thao. 30 83.33
- Cần tổ chức các hoạt động thể thao. 31 86.11
- Cần tổ chức các giải thể thao, CLB, đội tuyển. 32 88.89
3.
Công tác tổ chức bộ môn: - -
- Cần thiết phát triển bộ môn thể dục. 10 27.78
- Công tác kế hoạch bộ môn: -
+ Đã làm thường xuyên. 26 72.22
+ Chưa thường xuyên. 10 27.78
- Xây dựng lại chương trình, nội dung giảng dạy. 9 25.00
- Nên đưa nội dung kiểm tra tiêu chuẩn RLTT vào đánh giá điểm học tập
của sinh viên? 31 86.11
4.
Công tác kế hoạch tổ chức (n = 10): - -
- Công tác chỉ đạo, kiểm tra chuyên môn với giáo viên. - -
+ Thường xuyên. 4 40.00
+ Chưa thường xuyên. 6 60.00
- Công tác hướng dẫn sinh viên tập luyện ngoại khoá của giáo viên. - -
+ Thường xuyên. 0 0.00
+ Thỉnh thoảng. 2 20.00
+ Chưa có. 8 80.00
Bảng 3. Kết quả điều tra thực trạng nhu cầu tập luyện ngoại khoá của sinh viên
trường ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh Thái Nguyên
TT Nội dung phỏng vấn
Năm thứ
nhất
(n = 72)
Năm thứ hai
(n = 68)
Năm thứ ba
(n = 60)
Tổng cộng
(n = 200)
n % n % n % n %
1.
Động cơ tập luyện TDTT:
- Ham thích. 25 34.72 17 25 20 33.33 62 31
- Nhận thấy tác dụng của
RLTT. 20 27.77 15 22.05 12 20 47 23.5
- Bắt buộc. 15 20.83 25 36.76 15 25 45 22.5
- Không có điều kiện. 12 16.66 11 16.17 13 21.66 36 18
Nguyễn Văn Thanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 69 - 74
72
TT Nội dung phỏng vấn
Năm thứ
nhất
(n = 72)
Năm thứ hai
(n = 68)
Năm thứ ba
(n = 60)
Tổng cộng
(n = 200)
n % n % n % n %
2.
Đánh giá giờ học nội khoá:
- Cung cấp kiến thức về TDTT. 2 2.77 4 5.88 2 3.33 8 4
- Trang bị kỹ thuật môn thể thao. 3 4.16 1 1.47 3 5 7 3.5
- Nâng cao được sức khoẻ. 5 6.94 5 7.35 7 11.66 17 8.5
- Giờ học sôi động. 2 2.77 3 4.41 5 8.33 10 5
- Giờ học khô khan. 10 13.88 12 17.64 13 21.66 25 12.5
- Không đủ sân bãi dụng cụ. 50 69.44 45 66.17 30 50 125 62.5
3.
Số sinh viên tập luyện ngoại
khoá:
- Thường xuyên. 21 29.16 8 11.76 10 16.66 39 19.5
- Thỉnh thoảng. 25 34.72 27 39.7 23 38.33 75 37.5
- Không tập. 26 36.11 33 48.52 27 45 86 43
4.
Yếu tố ảnh hưởng đến giờ
học GDTC chính khoá:
- Do điều kiện sân bãi. 27 37.5 25 36.76 23 38.33 75 37.5
- Do trình độ giáo viên. 10 13.88 3 4.41 2 3.33 15 7.5
- Thiếu dụng cụ tập luyện. 30 41.66 29 42.64 27 45 86 43
- Không có đủ trang bị giầy,
quần áo. 5 6.94 5 7.35 8 13.33 18 9
5.
Yếu tố ảnh hưởng đến việc
tập luyện ngoại khoá:
- Không có giáo viên hướng dẫn. 31 43.05 27 39.7 21 35 79 39.5
- Không có thời gian. 1 1.38 5 7.35 3 5 9 4.5
- Không có đủ điều kiện sân bãi
dụng cụ tập luyện. 30 41.66 21 30.88 23 38.33 74 37
- Không được sự ủng hộ bạn bè. 4 5.55 6 8.82 3 5 13 6.5
- Không ham thích môn thể
thao nào. 6 8.33 7 10.29 10 16.66 23 11.5
6.
Sự ham thích tập luyện các
môn thể thao:
- Thích. 37 51.38 38 55.88 32 53.33 107 53.5
- Không thích. 35 48.61 30 44.11 28 46.66 93 46.5
7.
Nhu cầu tham gia tập luyện
tại các CLB văn hoá.
- Rất muốn. 27 37.5 34 50 32 53.33 93 46.5
- Bình thường. 20 27.77 30 44.11 20 33.33 70 35
- Không cần thiết. 25 34.72 4 5.88 8 13.33 37 18.5
Nguyễn Văn Thanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 69 - 74
73
TT Nội dung phỏng vấn
Năm thứ
nhất
(n = 72)
Năm thứ hai
(n = 68)
Năm thứ ba
(n = 60)
Tổng cộng
(n = 200)
n % n % n % n %
8.
Nhu cầu tham gia tập luyện
tại CLB thể thao ngoại khóa.
- Rất muốn. 29 40.27 32 47.05 30 50 91 45.5
- Bình thường. 25 34.72 28 41.17 26 43.33 79 39.5
- Không cần thiết. 18 25 6 8.82 4 6.66 28 14
Thực trạng thể lực của sinh viên trường
ĐH Kinh tế & Quản trị Kinh doanh
Thái Nguyên
Qua nghiên cứu thực trạng học tập cho thấy
kết quả học tập thể dục của sinh viên chưa
khả quan, vấn đề cần phải được quan tâm, xây
dựng những biện pháp đồng bộ để nâng cao
thể lực thể chất cho sinh viên trong trường
thông qua hình thức tập luyện TDTT ngoại
khoá, từ đó nâng cao thể lực cho sinh viên tốt
hơn nữa.
KẾT LUẬN
- Trường ĐH Kinh tế & Quản trị kinh doanh
– Đại học Thái Nguyên chưa coi trọng công
tác ngoại khoá của sinh viên, thiếu sự tổ chức
hướng dẫn sinh viên tự tập luyện và rèn luyện
thân thể và các hoạt động tập luyện ngoại
khoá TDTT. Tổ chức thi đấu còn rất ít chưa
thực sự sôi động.
- Các điều kiện cơ sở vật chất, các điều kiện
đảm bảo về cán bộ và kinh phí cho công tác
giáo dục thể chất còn nhiều khó khăn, chưa
đảm bảo về chất lượng, thiếu về số lượng.
Chưa có chính sách đãi ngộ thích hợp động
viên cán bộ giáo viên và vận động viên tham
gia hoạt động phong trào thể dục thể thao
cũng như phong trào tập luyện ngoại khoá và
thi đấu các môn thể thao.
- Về cơ sở vật chất thiếu thốn ảnh hưởng
đến việc luyện tập TDTT ngoại khóa của
sinh viên.
- Thể lực của sinh viên còn yếu chưa đáp ứng
được nhu cầu về rèn luyện thân thể do nhà
trường đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bóng chuyền (Dùng cho sinh viên TDTT), Nxb
TDTT 2008
2. Bóng chuyền bãi biển và mi ni, Nxb TDTT
1993.
3. Điền kinh và thể dục - Nxb GD 2008.
4. Giáo trình bóng chuyền, Nxb Thể dục thể thao
Hà Nội - năm 2006
5. Giáo trình thể dục - Nxb TDTT 2011
6. Giáo trình trọng tài bóng đá, Nxb TDTT 2001
7. Luật bóng đá - Nxb TDTT Hà Nội 2011
8. Lý luận và phương pháp giáo dục thể chất nhà
trường, Nxb Thể dục thể thao, năm 1997.
9. Lý luận và phương pháp thể dục thể thao - Nxb
TDTT 2006.
10. Vệ sinh và Y học TDTT- Nxb GD 2006
Nguyễn Văn Thanh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 69 - 74
74
SUMMARY
PHYSICAL ACTIVITY PATTERNS EXTRA – CURRICULAR SPORT
STUDENTS COLLEGE OF ECONOMICS AND BUSINESS ADMINISTRATION
- THAI NGUYEN UNIVERSITY
Nguyen Van Thanh1*, Hoang Thi Huyen2
1College of Economics and Business Administration - TNU 2Foreign Language Department – TNU
By observing, interviewing experts collecting information and analyzing current problems to
evaluate extracurricular physical exercise among students at College of Economics and Business
Administration - Thai Nguyen University.
Key words: Reality, sports activity, foreign key, primary key time, time extracurricular physical
education.
Ngày nhận bài:17/4/2014; ngày phản biện:14/5/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Nguyễn Thành Trung – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0986882134 – Email: [email protected]
Nguyễn Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 75 - 79
75
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH
TẠI BỆNH VIÊN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Nguyễn Thị Lan Anh*
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Nhà nước giao quyền tự chủ tài chính cho các Bệnh viện công lập theo NĐ 10/2002/NĐ-CP. Năm
2006, cơ chế tự chủ được mở rộng và được thực hiện trên cơ sở các quy định của Nhà nước theo
NĐ 43/2006/NĐ-CP. Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên là đơn vị sự nghiệp có thu
công lập thực hiện quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ, theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, Thông tư
71//2006/TT-BTC, Thông tư 113/2007/TT-BTC. Bệnh viện xây dựng phương án tự chủ trình Bộ
Y tế phê duyệt, Bộ Y tế ra quyết định phê duyệt phương án và phân loại bệnh viện theo mức độ tự
đảm bảo về kinh phí hoạt động. Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết, tác giả đề cập đến thực
trạng quy trình quản lý tài chính tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên, từ đó đưa ra
một số yêu cầu cần thiết giúp cho quy trình quản lý tài chính tại Bệnh viện được đầy đủ, minh
bạch và đúng phát luật.
Từ khóa: Quản lý tài chính, Cơ chế tự chủ tài chính, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
TỰ CHỦ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN*
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên là đơn vị sự nghiệp có thu công lập. Bệnh viện thuộc tuyến trung ương khu vực hạng I trực thuộc Bộ Y tế đặt tại tỉnh Thái Nguyên. Bệnh viện được thành lập từ tháng 7/1951 tại Minh Lý, Minh Lập - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, với tên gọi: Bệnh viện Liên khu Việt Bắc, trực thuộc khu Y tế Liên khu Việt Bắc. Ngày 01/7/1956, Bệnh viện được đổi tên thành: Bệnh viện Khu tự trị Việt Bắc, trực thuộc Ủy ban hành chính khu tự trị Việt Bắc. Cuối năm 1956 sáp nhập Bệnh viện Thái Nguyên vào Bệnh viện Khu tự trị Việt Bắc. Ngày 26/3/1976 Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định số 275/BYT-QĐ “Tiếp nhận Bệnh viện Đa khoa Khu tự trị Việt Bắc thuộc Ủy ban hành chính khu tự trị Việt Bắc về Bộ Y tế trực tiếp quản lý kể từ ngày 01/4/1976 và đổi tên thành Bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên”. Ngày 29/4/1997, Bộ Y tế có Quyết định số 744/QĐ-BYT đổi tên Bệnh viện Đa khoa Thái Nguyên thành Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên trực thuộc Bộ Y tế. Ngày 11/5/2007, Bộ Y tế có Quyết định số 1689/QĐ-BYT “xếp hạng I đối với Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên”.
* Tel: 0974 198 666, Email: [email protected]
Bệnh viện đóng trên địa bàn trung tâm tỉnh
Thái Nguyên với đội ngũ y bác sĩ giàu kinh
nghiệm, được đào tạo đúng chuyên môn
nhằm phục vụ trực tiếp cho người dân của
tỉnh Thái Nguyên và các tỉnh lân cận. Bệnh
viện có trách nhiệm hỗ trợ chuyên môn,
nghiệp vụ cho hơn 30 các bệnh viện tỉnh,
huyện, thị, ngành, y tế cơ quan, công lâm
trường, xí nghiệp, đơn vị quân đội. Bệnh viện
có vị trí chiến lược quan trọng trong khu vực
về các mặt chính trị, kinh tế, an ninh quốc
phòng….
Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
thực hiện quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ
theo Nghị định 43/2006/NĐ-CP, Thông tư
71//2006/TT-BTC, Thông tư 113/2007/TT-
BTC. Cơ chế quản lý tài chính là hệ thống các
nguyên tắc, luật định, chính sách, chế độ về
quản lý tài chính và mối quan hệ tài chính
giữa các đơn vị dự toán các cấp với cơ quan
chủ quản và cơ quan quản lý nhà nước. Đối
với các đơn vị sự nghiệp có thu thực hiện
quản lý tài chính theo cơ chế tự chủ tài chính.
Đó là cơ chế nhằm tăng cường quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm cho các đơn vị sự nghiệp
có thu về các mặt hoạt động tài chính, tổ chức
bộ máy và sắp xếp hoạt động, qua đó làm tăng
chất lượng cung cấp dịch vụ công của đơn vị.
Mục đích của bài viết giới thiệu với người đọc
Nguyễn Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 75 - 79
76
thực trạng quy trình quản lý tài chính tại Bệnh
viện đa khoa trung ương Thái Nguyên từ đó
đưa ra một số yêu cầu cần thiết giúp cho quy
trình quản lý tài chính tại Bệnh viện được đầy
đủ, minh bạch và đúng pháp luật.
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI CHÍNH TẠI
BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG
THÁI NGUYÊN
Bệnh viện Đa khoa trung ương Thái Nguyên
xây dựng phương án tự chủ trình Bộ y tế phê
duyệt, Bộ Y tế ra quyết định phê duyệt
phương án và phân loại bệnh viện theo mức
độ tự đảm bảo về kinh phí hoạt động. Nguồn
kinh phí để Bệnh viện đa khoa trung ương
Thái Nguyên đảm bảo duy trì và phát triển
các hoạt động của Bệnh viện bao gồm: Nguồn
kinh phí thực hiện hoạt động sự nghiệp và
Nguồn kinh phí thực hiện hoạt động sản xuất
kinh doanh, cụ thể:
- Nguồn kinh phí thực hiện hoạt động sự
nghiệp được hình thành từ kinh phí NSNN
cấp và kinh phí từ thu viện phí, BHXH thanh
toán viện phí. Kinh phí NSNN cấp được
KBNN cấp phát theo mục lục NSNN nhằm
đảm bảo hoạt động thường xuyên, thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của bệnh viện, các
nhiệm vụ khoa học công nghệ, chương trình
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, viên chức…
- Nguồn kinh phí thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh được hình thành từ hoạt động
thu khám chữa bệnh theo yêu cầu gồm các
khoản thu khám bệnh, các dịch vụ kĩ thuật,
điều trị theo yêu cầu; các khoản thu khác theo
quy định hiện hành như thu vận chuyển cấp
cứu, thu hợp đồng nhà thuốc, nhà xe, nhà ăn,
dịch vụ tạp hóa, thu điện nước phục vụ người
bệnh, thu đào tạo chuyên khoa…
Căn cứ vào nguồn kinh phí có được, Bệnh
viện tiến hành chi các khoản chi theo quy
định như sau:
- Chi cho hoạt động sự nghiệp bao gồm:
+ Chi lương, thưởng và các khoản phụ cấp;
+ Chi các dịch vụ hành chính: Chi hoạt động
chuyên môn như thuốc, hóa chất, dịch vụ y tế;
các loại phí xử lý chất thải, phí điện thoại, văn
phòng phẩm…;
+ Chi mua sắm, sửa chữa nhỏ thường xuyên;
+ Chi khác: Chi tiếp khách, từ thiện, đối
ngoại, an ninh trật tự…
Có thể tóm tắt thực trạng quy trình quản lý tài
chính tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Thái
Nguyên qua các bước như sau:
Quy trình quản lý tài chính của Bệnh viện
Đa khoa Trung ương Thái Nguyên
Đơn vị
Các bước
BV Đa
khoa TW
Thái
Nguyên
Bộ
Y tế
Kho
bạc
Nhà
nước
(1) Lập dự toán (1)
(2) Xét duyệt và
giao dự toán
(2)
(3.1) Sử dụng dự
toán
(3.1)
(3.2) Kiểm soát
việc thực hiện dự
toán
(3.2)
(4) Lập quyết toán (4)
(5) Duyệt quyết
toán
(5)
Bước 1:Lập dự toán
Dự toán NSNN là khoản dự trù về thu chi tài
chính trong một thời gian nhất định (thường
là 1 năm) của các cơ quan Nhà nước để đạt
được mục tiêu và là dự kiến các công việc,
nguồn lực cần thiết để thực hiện được các
mục tiêu trong một đơn vị.
Vào khoảng cuối tháng 8 hàng năm, căn cứ
vào hướng dẫn lập dự toán của Bộ Y tế, các
nghiệp vụ chuyên môn cần thực hiện năm tới,
định mức chi, các nhiệm vụ đột xuất do Chính
phủ và Bộ Y tế phê duyệt, cơ chế, chính sách
Nhà nước ban hành có tác động ảnh hưởng
đến dự toán chi của năm tới, quyết toán của
năm trước, dự toán đã được duyệt của năm
hiện tại, khả năng thu sự nghiệp… Bệnh viện
lập dự toán gửi về Bộ Y tế.
- Đối với dự toán thu: Chi tiết theo từng nội
dung thu (Thu phí, lệ phí, thu BHXH, thu
khám chữa bệnh theo yêu cầu…)
- Đối với các khoản chi: Chi tiết theo từng
nhiệm vụ chi, chi tiết theo mục lục NSNN và
lập theo mẫu quy định (Phụ lục 01).
Nguyễn Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 75 - 79
77
Bước 2: Xét duyệt và giao dự toán
Trên cơ sở dự toán đã lập của Bệnh viện, Bộ
Y tế xem xét, điều chỉnh dự toán và lập
phương án phân bổ thu chi ngân sách. Giữa
tháng 1 năm sau, Bộ Y tế phân bổ chi tiết
kinh phí ngân sách cho các Bệnh viện thuộc
sự quản lý của Bộ theo từng khoản chi tiết để
đảm bảo việc kiểm soát chi qua KBNN (Mẫu
phụ lục 02).
Bước 3: Sử dụng dự toán
Trên cơ sở kinh phí được giao, Bệnh viện
chấp hành dự toán thu chi ngân sách. Việc sử
dụng dự toán căn cứ vào nội dung dự toán đã
được duyệt và mức dự toán được giao. Theo
đó, dự toán được sử dụng cho các hoạt động
chi thường xuyên và chi không thường xuyên.
- Đối với dự toán chi cho hoạt động thường
xuyên, Bệnh viện tự điều chỉnh các khoản chi
sao cho hợp lý với tình hình hình thực tế tại
Bệnh viện và gửi cơ quan cấp trên, kho bạc
Nhà nước để theo dõi, quản lý và thanh toán.
Các khoản dự toán chi hoạt động thường
xuyên và các khoản thu sự nghiệp không sử
dụng hết được chuyển sang năm sau tiếp tục
sử dụng.
- Đối với các khoản chi không thường xuyên
nếu kinh phí cuối năm không sử dụng hết
hoặc không sử dụng đến được chuyển sang
năm sau sử dụng hoặc hủy bỏ dự toán theo
quy định.
Bước 4: Quyết toán kinh phí và duyệt
quyết toán
Sau khi lập và thực hiện dự toán, cuối năm
các Bệnh viện thực hiện quyết toán ngân sách
Nhà nước, quyết toán theo các mục chi của
Mục lục NSNN tương ứng với từng nội dung
chi theo mẫu Bảng tổng hợp tình hình kinh
phí và quyết toán kinh phí (Phụ lục 03).
Bộ Y tế, Kho bạc Nhà nước và các cơ quan
Nhà nước có liên quan thực hiện kiểm tra,
thanh tra, kiểm soát hoạt động thu, chi của
Bệnh viện theo đúng quy định về chế độ tài
chính áp dụng đối với Bệnh viện và thực hiện
duyệt quyết toán.
MỘT SỐ YÊU CẦU TRONG QUẢN LÝ
TÀI CHÍNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TRUNG ƯƠNG THÁI NGUYÊN
Về phía Bệnh viện Đa khoa Trung ương
Thái Nguyên
Thứ nhất: Yêu cầu từ bước lập dự toán:
- Dự toán phải được Bệnh viện lập theo tất cả
các nội dung có liên quan đến nhiệm vụ của
đơn vị trong năm dự toán bao gồm:
+ Các hoạt động thường xuyên theo chức
năng, nhiệm vụ được giao;
+ Các hoạt động không thường xuyên dự kiến
sẽ phát sinh trong năm dự toán.
- Dự toán được lập dựa trên các căn cứ cụ thể:
+ Căn cứ vào nhiệm vụ được giao, mục tiêu
và tình hình thực hiện kế hoạch của năm sử
dụng dự toán;
+ Tình hình thực hiện dự toán của một số
năm trước;
+ Chính sách pháp luật về quản lý kinh tế, tài
chính hiện hành;
+ Sự thay đổi định mức hoặc thay đổi về chế
độ chi tiêu của cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành.
Yêu cầu khi lập dự toán:
- Đảm bảo nội dung, biểu mẫu và thời hạn của
việc thực hiện dự toán;
- Nhiệm vụ và mục tiêu phải phù hợp với
chính sách, chế độ, tiêu chuẩn định mức do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành;
- Đảm bảo tính hợp lý, cân đối thu chi của kỳ
này so với kỳ trước và kỳ tiếp theo;
- Dự toán phải phù hợp, dự toán quá cao sẽ
gây lãng phí, quá thấp sẽ ảnh hưởng đến các
hoạt động của đơn vị.
Thứ hai, khi sử dụng dự toán: Bệnh viện phải
chấp hành đúng định mức chế độ chi tiêu hiện
hành theo quyết định số 140-HĐBT ngày 15-
9-1987 của Hội đồng Bộ trưởng, cụ thể:
- Không được lấy kinh phí sự nghiệp được
cấp để xây dựng nhà khách, trụ sở làm việc và
nhà ở. Việc chống xuống cấp các công trình
thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp phải
có dự toán được duyệt;
Nguyễn Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 75 - 79
78
- Không được dùng công quỹ để mua sắm những trang thiết bị nhập ngoại đắt tiền, nhất
là những thứ trong nước đã sản xuất được;
- Tăng cường quản lý và triệt để tiết kiệm tiêu
dùng xăng dầu nhằm giảm định mức tiêu hao xăng dầu trên đầu xe, chấp hành nghiêm
chỉnh chế độ sử dụng xe ô tô con;
- Triệt để tiết kiệm điện trong tiêu dùng,
nghiêm cấm dùng quỹ của Nhà nước, của Bệnh viện để thanh toán tiền điện thay cho
cán bộ, viên chức Nhà nước, không phân biệt cấp bậc;
- Tiết kiệm chi tiêu về hội nghị, tiếp khách.
Chỉ trong trường hợp thật cần thiết các ngành
mới được tổ chức hội nghị toàn ngành, tối đa
một năm một lần, chi tiêu theo chế độ do Bộ
Tài chính quy định và không được yêu cầu
ngân sách các địa phương và cơ sở cấp thêm.
Thứ ba, Khi quyết toán kinh phí:
- Bệnh viện thực hiện chi và quyết toán theo
các mục chi của mục lục NSNN tương ứng
với từng nội dung chi;
- Báo cáo quyết toán năm khi gửi Bộ Y tế
thẩm định, phê duyệt phải có xác nhận của
Kho bạc Nhà nước cùng cấp về tổng số và
chi tiết;
- Báo cáo quyết toán ngân sách không được
quyết toán chi lớn hơn thu. Bệnh viện không
quyết toán các khoản kinh phí uỷ quyền của
ngân sách Bộ Y tế vào báo cáo quyết toán
ngân sách của mình.
Về phía Bộ Y tế và các cơ quan Nhà nước
Căn cứ vào dự toán ngân sách được cấp có
thẩm quyền giao. Bộ Y tế, đơn vị có trách
nhiệm phân bổ và giao dự toán kinh phí cho
các đơn vị trực thuộc sau khi có ý kiến thẩm
tra của cơ quan tài chính cùng cấp:
- Bộ Y tế chỉ được cấp phát nguồn kinh phí
theo đúng dự toán được duyệt của cấp có
thẩm quyền;
- Nghiêm cấm các cơ quan quản lý Nhà nước
đòi hỏi Bệnh viện đóng góp để chi tiêu ngoài
định mức, ngoài kế hoạch, trái với chế độ của
Nhà nước, xâm phạm quyền tự chủ tài chính.
Bộ Tài chính cùng các ngành có liên quan
nghiên cứu ban hành hoặc trình các cơ quan
có thẩm quyền ban hành các văn bản sửa đổi,
bổ sung hoặc quy định mới các chính sách,
chế độ, tiêu chuẩn có liên quan đến thu - chi
ngân sách trong các Bệnh viện. Trên cơ sở đó
Bộ Tài chính xây dựng ngay các định mức tài
chính thích hợp đối với từng loại hoạt động,
từng thời gian nhất định để làm cơ sở cho
việc khoán thu, khoán chi.
KẾT LUẬN
Trong điều kiện hiện nay, việc huy động
nguồn lực tài chính cho phát triển y tế, chăm
sóc sức khỏe người bệnh là hết sức cần thiết.
NSNN còn hạn chế, trong khi nhu cầu phát
triển của ngành y tế lại cần nguồn lực tài
chính khá lớn. Để huy động được nguồn lực
tài chính cho ngành y tế cần có cơ chế, chính
sách quản lý tài chính thông thoáng, phù hợp
với yêu cầu thực tiễn của ngành. Cơ chế quản
lý tài chính đối với Bệnh viện Đa khoa Trung
ương Thái Nguyên chịu sự chi phối bởi nhiều
nhân tố. Bởi vậy, việc quản lý tốt nguồn tài
chính của Bệnh viện là việc làm cần thiết giúp
cho quy trình quản lý tài chính được chặt chẽ
từ khâu lập dự toán, sử dụng dự toán đúng
mục đích, có như vậy nguồn kinh phí NSNN
cấp cho hoạt động y tế của Bệnh viện Đa
khoa Trung ương nói riêng và toàn ngành y tế
nói chung mới thiết thực và có hiệu quả.
Ghi chú: Một số từ viết tắt trong bài báo
BHXH: Bảo hiểm xã hội, BTC: Bộ Tài chính,
BYT: Bộ Y tế, BV: Bệnh viện, KBNN: Kho bạc
Nhà nước, NSNN: Ngân sách Nhà nước,TW:
Trung ương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2006), Quyết định 19/2006/QĐ-
BTC ngày 30/3/2006 về chế độ kế toán đơn vị
HCSN, Hà Nội.
2. Bộ Tài chính (2006), Nghị định 43/2006/NĐ-
CP ngày 25/4 2006, Thông tư 71/2006/TT-BTC
ngày 9/8/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ
máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập, Hà Nội.
3. Bộ tài chính (2003), Luật kế toán và các văn
bản hướng dẫn, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (2007), Thông tư 15/2007/TT-BYT,
ngày 12/12/2007 hướng dẫn thực hiện quyền tự
chủ, tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng tài sản để
liên doanh, liên kết hoặc góp vốn liên doanh để
Nguyễn Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 75 - 79
79
mua sắm trang thiết bị phục vụ hoạt động dịch vụ
của các cơ sở y tế công lập, Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Đông (2005), Giáo trình kế toán
công trong đơn vị hành chính sự nghiệp, Nhà xuất
bản Tài chính, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Minh Thọ, Đặng Thị Dịu (2010),
Giáo trình kế toán hành chính sự nghiệp, Nhà xuất
bản Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội.
7. Lê Thị Thanh Hương (2012), Luận án tiến sĩ,
Hoàn thiện tổ chức công tác kế toán trong các
bệnh viện trực thuộc Bộ Y tế ở Việt Nam, Đại học
thương mại, Hà Nội.
8. Trang Web: www.bvdktuthainguyen.gov.vn và
số liệu thu thập tại phòng kế toán-tài vụ Bệnh viện
Đa khoa Trung ương Thái Nguyên.
SUMMARY
SOME ISSUES IN THAI NGUYEN NATIONAL GENERAL HOSPITAL’S
FINAMCIAL MANAGEMENT
Nguyen Thi Lan Anh*
College of Economics and Business Administration – TNU
Under Decree No.10/2002/ND-CP, the State assigns financial autonomy to Public Hospitals. In
2006, autonomy mechanism was implemented on the basis of the State’s regulations under
provisions of Decree No. 43/2005/ND-CP. Under Decree No.43/2006/ND-CP, Circular
No.71/2006/TT-BTC, Circular No.113/2007/TT-BTC, Thai Nguyen National General Hospital is a
Governmental business agency which manages finance under autonomy mechanism. The hospital
submitted the autonomy project to The Ministry of Public Health, and then the Ministry of Public
Health gave the decision to approve the project and clarify hospitals according to different levels
of operating fund self-assurance. Within the scope of research, the author refers the financial
management situations in Thai Nguyen National General Hospital in order to offer a number of
necessary requirements for fully and legally financial management in the Hospital.
Key words: Financial management, Financial autonomy mechanism, Thai Nguyen National
General Hospital
Ngày nhận bài:17/4/2014; ngày phản biện:05/6/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đoàn Quang Thiệu – Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0974 198 666, Email: [email protected]
Nguyễn Thị Lan Anh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 75 - 79
80
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 81 - 86
81
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ SỬ DỤNG VỐN
XÁC ĐỊNH CƠ CẤU VỐN TỐI ƯU CỦA DOANH NGHIỆP
Nguyễn Việt Dũng*, Mai Thanh Giang, Dương Thanh Tình
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Lý thuyết về cơ cấu vốn hiện đại cho rằng có tồn tại một cơ cấu vốn tối ưu mà ở đó nhà quản trị
doanh nghiệp có thể tối thiểu hóa chi phí sử dụng vốn hoặc gia tăng giá trị doanh nghiệp. Hiện nay
có nhiều phương pháp để xác định cơ cấu vốn tối ưu, tuy nhiên việc lượng hóa còn gặp nhiều khó
khăn. Bài báo này sử dụng phương pháp chi phí sử dụng vốn để xác định cấu trúc vốn tối ưu với
trường hợp của Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn.
Từ khóa: Cơ cấu vốn tối ưu, nguồn vốn, doanh nghiệp
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp có
thể sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau để
đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên, điều quan trọng là doanh
nghiệp cần phối hợp sử dụng các nguồn vốn
để tạo ra một cơ cấu nguồn vốn hợp lý đem
lại chi phí sử dụng vốn thấp nhất hoặc tối đa
hóa giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, để xác
định cụ thể cơ cấu vốn tối ưu trong thực tiễn
hoạt động của doanh nghiệp là vấn đề khó
khăn. Hiện nay có nhiều phương pháp để xác
định cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp như
phương pháp chi phí sử dụng vốn, phương
pháp giá trị hiện tại được điều chỉnh, phương
pháp so sánh và phương pháp phân tích hồi
quy. Mỗi phương pháp có ưu điểm và nhược
điểm khác nhau, trong bài viết này tác giả
giới thiệu phương pháp chi phí sử dụng vốn
áp dụng với trường hợp của công ty cổ phần
xi măng Bỉm Sơn niêm yết tại Sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội.
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ SỬ
DỤNG VỐN XÁC ĐỊNH CƠ CẤU VỐN
TỐI ƯU
Phương pháp chi phí sử dụng vốn tiếp cận
theo quan điểm cơ cấu vốn tối ưu là cơ cấu
vốn mà tại đó tối thiểu hóa chi phí sử dụng
vốn và tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp.
Nội dung của phương pháp này trải qua các
bước cơ bản sau:
* Tel: 0915.644.857
Bước 1: Xác định chi phí sử dụng vốn vay tại mỗi hệ số nợ.
Chi phí sử dụng nợ vay là tỷ lệ sinh lời cần thiết phải đạt được từ việc sử dụng nợ vay để giữ cho thu nhập của các chủ sở hữu hiện tại không bị sụt giảm. Để xác định cơ cấu vốn tối ưu, việc ước lượng chi phí sử dụng nợ vay không chỉ dừng lại việc ước lượng chi phí sử dụng nợ vay hiện tại mà còn chi phí sử dụng nợ vay tương ứng với các hệ số nợ khác nhau. Muốn xác định được điều này, phương pháp phổ biến là dựa vào một hệ thống xếp hạng tín nhiệm. Tại mỗi mức tín nhiệm, ta có thể xác định mức bù rủi ro tương ứng, qua đó làm cơ sở xác định chi phí sử dụng vốn vay tại mỗi mức hệ số nợ.
Bước 2: Xác định chi phí sử dụng vốn cổ phần tại mỗi hệ số nợ.
Vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp gồm có ba bộ phận chính, đó là: cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường và lợi nhuận giữ lại. Chi phí riêng lẻ của từng nguồn vốn trên sẽ tác động đến chi phí vốn chủ sở hữu, từ đó, tác động đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Việc tính toán chi phí sử dụng vốn cổ phần tại mỗi hệ số nợ sẽ bắt đầu bằng việc ước lượng hệ số beta khi tài trợ hoàn toàn bằng vốn cổ phần (βU). Beta không có đòn bẩy (βU) được xác định theo công thức sau:
E
D*t)(11
ββ L
U
Trong đó: D : Số tiền vay nợ ; E: Vốn chủ sở
hữu ; t : Thuế suất thuế TNDN
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 81 - 86
82
Sau đó, ước lượng hệ số beta khi công ty sử
dụng nợ vay (βL) tại mỗi mức hệ số nợ theo
công thức sau:
E
D*t11*ββ UL
Áp dụng mô hình định giá tài sản vốn
(CAPM) để tính chi phí sử dụng vốn cổ phần
tại mỗi hệ số nợ:
rfrmirfe RR*βRr
Trong đó:
+ re là tỷ lệ lợi tức yêu cầu của nhà đầu tư đối
với cổ phiếu i
+ βi là hệ số phản ánh mức độ rủi ro của cổ
phiếu i.
+ Rrf là tỷ lệ lợi tức phi rủi ro
+ Rrm là tỷ lệ lợi tức của danh mục thị trường
Bước 3: Xác định chi phí sử dụng vốn bình
quân (WACC) tại mỗi hệ số nợ và xác định hệ
số nợ tối ưu.
Chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC)
được xác định theo phương pháp bình quân
gia quyền và có thể được xác định theo công
thức sau:
de rT
Dr
T
E WACC
Hệ số nợ tối ưu là điểm có chi phí sử dụng
vốn bình quân là nhỏ nhất.
ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP CHI PHÍ SỬ
DỤNG VỐN XÁC ĐỊNH VƠ CẤU VỐN
TỐI ƯU CHO CÔNG TY CỐ PHẦN XI
MĂNG BỈM SƠN
Xác định các biến số cho việc ước lượng
Xác định lãi suất phi rủi ro
Lãi suất phi rủi ro được xác định bằng lãi suất
đáo hạn của trái phiếu chính phủ dài hạn tại một
thời điểm nhất định. Để xác định lãi suất phi rủi
ro, tác giả tính toán và sử dụng lãi suất bình
quân của trái phiếu chính phủ kỳ hạn 10 năm
niêm yết tại Sở Giao dịch chứng khoán Hồ Chí
Minh là 8,87% làm lãi suất phi rủi ro
Xác định phần bù rủi ro
Phần bù rủi ro vốn cổ phần là phần chênh lệch
giữa tỷ suất lợi nhuận của danh mục thị trường
với lãi suất phi rủi ro. Tỷ suất lợi nhuận của
danh mục thị trường là mức tỷ suất lợi nhuận
đòi hỏi bình quân của chủ sở hữu đối với đồng
vốn đầu tư bỏ ra, hay nói cách khác đây chính là
mức chi phí sử dụng vốn trên thị trường.
Theo tính toán, tỷ suất lợi nhuận đòi hỏi tại
Việt Nam năm 2012 là 15%. Do đó, phần bù
rủi ro vốn cổ phần của doanh nghiệp Việt
Nam là 15% - 8,87% = 6,07%.
Xác định hệ số beta của Công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn
Hệ số beta của công ty sẽ được xác định theo
phương pháp truyền thống bằng cách hồi quy
dữ liệu giá cổ phiếu lịch sử của công ty với
chỉ số HNX – Index từ thời điểm công ty bắt
đầu niêm yết từ ngày 24/11/2006 đến ngày
31/12/2012. Như vậy, đường đặc thù chứng
khoán của BCC có dạng y = 0,943x + 0,000,
do đó hệ số beta của công ty là 0,943. Hệ số
này sẽ được sử dụng trong tất cả các ước
lượng về cơ cấu vốn tối ưu cho công ty.
Xác định cơ cấu vốn theo giá trị thị trường
tại ngày 31/12/2012
Cơ cấu vốn theo giá trị thị trường phản ánh tỷ
trọng các nguồn tài trợ theo giá trị thị trường.
Đối với các nguồn vốn vay, tác giả giả định
giá trị thị trường của nợ vay bằng với giá trị
sổ sách của công ty tại ngày 28/12/2012.
Xác định thuế suất thuế thu nhập doanh
nghiệp
Mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp áp dụng
tại Việt Nam hiện nay là 25%. Do đó, mức
thuế suất này được tác giả sử dụng trong các
ước lượng cơ cấu vốn tối ưu.
Bảng 1. ROE của doanh nghiệp Việt Nam
Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 2011 2012
ROE của DN trên SGDCKHCM 20,8% 17,4% 23,0% 21,5% 17,2% 18,9%
ROE của DN trên SGDCKHN 20,7% 12,4% 14,4% 13,0% 10,0% 10,9%
ROE binh quân 21% 15% 19% 17% 14% 15%
Nguồn: http://stox.vn và tính toán của tác giả
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 81 - 86
83
Bảng 2. Cơ cấu vốn của BCC theo giá trị thị trường
Chỉ tiêu Số lượng cổ
phần
Giá đóng cửa
(đồng/CP)
Giá trị thị
trường (Trđ) Tỷ trọng
Vay và nợ ngắn hạn
1.250.155 28,73%
Vay và nợ dài hạn
2.699.838 62,04%
Tổng nợ vay
3.949.993 90,77%
Giá trị vốn cổ phần 95.661.397 4.200 401.778 9,23%
Tổng nguồn vốn
4.351.771
Tỷ lệ D/E
9,83
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên Bảng CĐKT và dữ liệu giá cổ phiếu
Xác định hệ số beta không có đòn bẩy
Beta không có đòn bẩy (βU) được xác định theo công thức sau:
260,119,83*50,71
0,943
E
D*t)(11
ββ L
U
Xác định chi phí sử dụng vốn cổ phần với các hệ số nợ
Sử dụng công thức tính hệ số beta có đòn bẩy của công ty tại mỗi hệ số nợ theo công thức sau:
E
D*t11*ββ UL
Sử dụng βL vừa tính được, áp dụng vào công thức của mô hình định giá tài sản vốn CAPM để xác
định chi phí sử dụng vốn cổ phần tại mỗi hệ số nợ khác nhau, chi tiết thể hiện trong bảng 3.
rfrmirfe RRRr *
Bảng 3. Chi phí sử dụng vốn cổ phần tại các mức hệ số nợ
Hệ số nợ Tổng NV Nợ vay Vốn cổ phần Hệ số D/E Beta có đòn bẩy CPSDVCP
0% 4.351.771 0 4.351.771 0,00% 0,1126 9,55%
10% 4.351.771 435177,1 3.916.594 11,11% 0,1220 9,61%
20% 4.351.771 870354,2 3.481.417 25,00% 0,1337 9,68%
30% 4.351.771 1305531,3 3.046.240 42,86% 0,1488 9,77%
40% 4.351.771 1740708,4 2.611.063 66,67% 0,1689 9,90%
50% 4.351.771 2175885,5 2.175.886 100,00% 0,1971 10,07%
60% 4.351.771 2611062,6 1.740.708 150,00% 0,2393 10,32%
70% 4.351.771 3046239,7 1.305.531 233,33% 0,3097 10,75%
80% 4.351.771 3481416,8 870.354 400,00% 0,4504 11,60%
90% 4.351.771 3916593,9 435.177 900,00% 0,8727 14,17%
Nguồn: Tính toán của tác giả
Tại mức hệ số nợ bằng 0%, công ty không sử dụng nợ vay, nguồn tài trợ cho công ty hoàn toàn từ vốn cổ phần. Do đó, công ty không có rủi ro tài chính mà chỉ còn rủi ro kinh doanh. Chi phí sử dụng vốn cổ phần (CPSDVCP) tại hệ số nợ 0% là 9,55%. Như vậy, phần bù rủi ro vốn cổ phần là 9,55% - 8,87% = 0,68%, cũng thể hiện phần bủ rủi ro kinh doanh trong chi phí sử dụng vốn cổ phần.
Tại mức hệ số nợ khác 0%, ví dụ tại mức hệ số nợ là 80%, chi phí sử dụng vốn cổ phần là 11,60%. Tại mức hệ số nợ này, công ty gánh chịu cả rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính. Như vậy, phần bù rủi ro tài chính trong chi phí sử dụng vốn cổ phần sẽ được xác định bằng cách lấy chi phí sử dụng vốn cổ phần tại mức hệ số nợ 80% trừ đi lãi suất phi rủi ro và phần bù rủi ro kinh doanh, cụ thể 11,60% - 8,87% - 0,68% = 2,05%.
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 81 - 86
84
Xác định chi phí sử dụng nợ vay tại các mức hệ số nợ
Hiện nay, chưa có một tổ chức xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp đưa ra một thang xếp hạng chính thức và phần bù rủi ro tương ứng. Nhằm xây dựng một bảng xếp hạng tín nhiệm và phần bù rủi ro tương ứng, tác giả căn cứ theo hệ thống xếp hạng do http://www.bondsonline.com đưa ra dựa trên một hệ số duy nhất là khả năng thanh toán lãi vay. Hệ thống xếp hạng này được xây dựng cho ba lĩnh vực cơ bản là dịch vụ tài chính, công ty công nghiệp lớn và công ty chế tạo nhỏ. Theo hệ thống này, Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn được xếp vào loại hình doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn. Căn cứ vào hệ thống xếp hạng tín nhiệm của doanh nghiệp công nghiệp quy mô lớn và mức lãi suất phi rủi ro, để ước lượng chi phí sử dụng nợ vay tương ứng với từng mức xếp hạng tín nhiệm được thể hiện trong bảng 4.
Bảng 4. Ước lượng chi phí sử dụng nợ vay theo xếp hạng tín nhiệm
Doanh nghiệp công nghiệp có quy mô lớn
Khả năng TT lãi vay Xếp hạng Phần bù rủi ro
Lãi suất phi
rủi ro
Chi phí sử dụng
nợ vay TT >Z <= TO
-100 0,2 D 20,00% 8,87% 28,87%
0,2 0,65 C 12,00% 8,87% 20,87%
0,65 0,8 CC 10,00% 8,87% 18,87%
0,8 1,25 CCC 7,50% 8,87% 16,37%
1,25 1,5 B- 6,50% 8,87% 15,37%
1,5 1,75 B 5,65% 8,87% 14,52%
1,75 2 B+ 4,50% 8,87% 13,37%
2 2,25 BB 3,65% 8,87% 12,52%
2,25 2,5 BB+ 3,20% 8,87% 12,07%
2,5 3 BBB 2,50% 8,87% 11,37%
3 4,25 A- 1,70% 8,87% 10,57%
4,25 5,5 A 1,50% 8,87% 10,37%
5,5 6,5 A+ 1,40% 8,87% 10,27%
6,5 8,5 AA 1,25% 8,87% 10,12%
8,5 100 AAA 0,75% 8,87% 9,62%
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa trên hệ thống xếp hạng tín nhiệm
Lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT) của Công ty BCC năm 2012 là 458.665 triệu đồng. Giá
trị EBIT năm 2012 sẽ được cố định để tính toán cơ cấu vốn tối ưu khi hệ số nợ thay đổi. Mức lãi
suất tiền vay áp dụng để xác định số tiền lãi vay phải trả là mức lãi suất cho vay dài hạn bình
quân trong 3 năm qua, theo tính toán của tác giả là 10,19%. Dựa trên hệ thống xếp hạng tín
nhiệm trên, tác giả tính toán chi phí sử dụng nợ vay sau thuế (CPSDNVST ) tại mỗi mức hệ số nợ.
Bảng 5. Chi phí sử dụng nợ vay sau thuế tại các mức hệ số nợ
Hệ số
nợ Tổng NV Nợ vay Lãi vay
Khả
năng
TTLV
Xếp
hạng CPSDNVTT CPSDNVST
0% 4.351.771 0 0 - AAA 9,62% 7,22%
10% 4.351.771 435.177,1 44.344,5 10,34 AAA 9,62% 7,22%
20% 4.351.771 870.354,2 88.689,1 5,17 A 10,37% 7,78%
30% 4.351.771 1.305.531,3 133.033,6 3,45 A- 10,57% 7,93%
40% 4.351.771 1.740.708,4 177.378,2 2,59 BBB 11,37% 8,53%
50% 4.351.771 2.175.885,5 221.722,7 2,07 BB 12,52% 9,39%
60% 4.351.771 2.611.062,6 266.067,3 1,72 B 14,52% 10,89%
70% 4.351.771 3.046.239,7 310.411,8 1,48 B- 15,37% 11,53%
80% 4.351.771 3.481.416,8 354.756,4 1,29 B- 15,37% 11,53%
90% 4.351.771 3.916.593,9 399.100,9 1,15 CCC 16,37% 12,28%
Nguồn: Tính toán của tác giả
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 81 - 86
85
Xác định chi phí sử dụng vốn bình quân tại các mức hệ số nợ
Dựa trên kết quả xác định chi phí sử dụng vốn cổ phần và chi phí sử dụng nợ vay sau thuế tại mỗi
mức hệ số nợ. Tác giả tính toán chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC) tại mỗi mức hệ số nợ.
Bảng 6. Chi phí sử dụng vốn bình quân (WACC)
Hệ số nợ Hệ số VCSH CPSDVCP CPSDNVST WACC
0% 100% 9,55% 7,22% 9,55%
10% 90% 9,61% 7,22% 9,37%
20% 80% 9,68% 7,78% 9,30%
30% 70% 9,77% 7,93% 9,22%
40% 60% 9,90% 8,53% 9,35%
50% 50% 10,07% 9,39% 9,73%
60% 40% 10,32% 10,89% 10,66%
70% 30% 10,75% 11,53% 11,29%
80% 20% 11,60% 11,53% 11,54%
90% 10% 14,17% 12,28% 12,47%
Nguồn: Tính toán của tác giả
Qua bảng 6, khi hệ số nợ của công ty dao
động từ 0% đến 90% thì chi phí sử dụng vốn
bình quân dao động từ 9,22% đến 12,47%.
Tại hệ số nợ là 90%, chi phí sử dụng vốn bình
quân đạt là 12,47%. Tại hệ số nợ là 30%, chi
phí sử dụng vốn bình quân của công ty đạt
mức thấp nhất là 9,22%. Như vậy, kết cấu
vốn đạt 30% nợ vay và 70% vốn cổ phần là
kết cấu vốn có chi phí sử dụng vốn thấp nhất,
kết cấu vốn tối ưu của công ty.
KHUYẾN NGHỊ
Đối với công ty
Thứ nhất, công ty nên điều chỉnh hệ số nợ
theo giá trị thị trường trong trung hạn về hệ số
nợ tối ưu là 30%. Do hệ số nợ hiện tại của
công ty là quá cao, nên công ty cần điều chỉnh
xu hướng giảm nợ vay dài hạn và ngắn hạn
xuống. Giới hạn vay nợ của công ty có thể
tham khảo hệ số nợ trung bình ngành là 67%.
Như vậy, công ty có thể chủ động điều chỉnh
hệ số nợ theo giá trị thị trường trong khoảng
30% - 67%.
Thứ hai, ổn định tỷ lệ chi trả cổ tức trên vốn
điều lệ. Trong giai đoạn 2009 – 2012, tỷ lệ
chia trả cổ tức của công ty giảm dần, năm
2012 tỷ lệ chia trả cổ tức là 0%, tức là công ty
dành toàn bộ lợi nhuận để lại tái đầu tư. Điều
này sẽ gây khó khăn trong công tác tái cấu
trúc bằng hình thức phát hành cổ phiếu. Tuy
nhiên, với tình hình và triển vọng kinh doanh
sáng sủa hơn trong những năm tới. Công ty
nên duy trì tỷ lệ chia trả cổ tức là 0% nhằm
tập trung nguồn lực thực hiện tái cơ cấu, hạ
thấp hệ số nợ, tạo ra sự cân bằng tài chính của
công ty trong trung hạn.
Thứ ba, định kỳ phân tích lại chính sách cơ
cấu vốn của công ty. Cơ cấu vốn tối ưu được
xây dựng theo phương pháp chi phí sử dụng
vốn được tính toán dựa trên những số liệu quá
khứ và giả định tại một thời điểm. Quá trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là
quá trình động, các biến số thường xuyên thay
đổi. Vì vậy, công ty nên đánh giá lại chính
sách cơ cấu vốn khi có những thay đổi quan
trọng như sự thay đổi của chính sách thuế thu
nhập doanh nghiệp; Sự thay đổi trong chính
sách đầu tư; Sự thay đổi trong hiệu quả kinh
doanh...vv.
Đối với Chính phủ
Một là, thúc đẩy sự phát triển của thị trường
chứng khoán (TTCK). Sự phát triển của thị
trường chứng khoán là cơ sở ước lượng các
tham số như lãi suất phi rủi ro, tỷ suất lợi
nhuận của danh mục thị trường, hệ số beta,
giá trị thị trường của cổ phiếu…vv. Đây là
các biến số rất quan trọng để xác định chi
phí sử dụng vốn của mỗi công ty.
Nguyễn Việt Dũng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 81 - 86
86
Hai là, xây dựng tổ chức đánh giá hệ số tín
nhiệm. Hiện nay, tại Việt Nam, chưa có cơ
quan xếp hạng tín nhiệm chuyên nghiệp nào
xác định hạn mức tín nhiệm và phần bù rủi
ro tương ứng, làm cơ sở xác định chi phí sử
dụng vốn vay tại mỗi mức hệ số nợ. Do đó,
Chính phủ cần ban hành chính sách nhằm
xây dựng công ty đánh giá hệ số tín nhiệm.
Việc ra đời và công nhận dịch vụ định mức
tín nhiệm là một trong những bước đi để
thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu
doanh nghiệp phát triển, hỗ trợ các doanh
nghiệp huy động vốn để phát triển sản xuất
kinh doanh.
KẾT LUẬN
Quyết định về cơ cấu vốn là một quyết định
quan trọng của nhà quản trị tài chính. Việc
ước lượng cơ cấu vốn tối ưu dựa trên hệ
thống xếp hạng tín nhiệm khá đơn giản, căn
cứ vào các nhân tố nội tại của công ty mà
không xem xét đến các yếu tố liên quan đến
ngành kinh doanh, các thống kê thực nghiệm
của thị trường Mỹ có thể chưa thực sự phù
hợp với thị trường Việt Nam. Do đó, để xác
định cơ cấu vốn tối ưu có thể áp dụng nhiều
phương pháp khác nhau như phương pháp giá
trị hiện tại được điều chỉnh, phương pháp so
sánh và phương pháp phân tích hồi quy nhằm
đối chiếu, so sánh. Từ đó, lựa chọn cơ cấu
vốn tối ưu phù hợp nhất với đặc điểm của
doanh nghiệp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Vần, Vũ Văn Ninh (2013), “Giáo
trình Tài chính doanh nghiệp”, Nxb Tài chính.
2. Vương Đức Hoàng Quân (2008), “Rủi ro hệ
thống và vấn đề xác định hệ số bêta tại Việt Nam”,
Tạp chí tài chính,10/2008
3. Webside:
http://www. Stox.vn
http://www.stockbiz.vn ;
http://www.bondsonline.com
SUMMARY
USING THE APPROACH OF CAPITAL COST TO DETERMINE THE
OPTIMAL CAPITAL STRUCTURE OF ENTERPRISE
Nguyen Viet Dung*, Mai Thanh Giang, Duong Thanh Tinh
College of Economics and Business Administration - TNU
The modern theory of capital structure states that enterprises are able to reach an optimal structure
of capital by minimizing their capital costs. Nowadays, there have been some approaches to
determine the optimal structure. However, they face the question of reliabilities due to lack of an
appropriate quantitative approach.This paper aims to introduce a new approach which exploits
capital costs to identify an optimal structure of capital for business firms.
Key words: optimal capital structure, capital sources, enterprises
Ngày nhận bài:17/4/2014; ngày phản biện:22/4/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Văn Quyết – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0915.644.857
Trần Hoàng Tinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 87 - 92
87
THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC
MÔN HỌC GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH Ở TRUNG TÂM
GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG THÁI NGUYÊN
Trần Hoàng Tinh*
Trung tâm Giáo dục quốc phòng - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Quản lý hoạt động dạy học luôn là hoạt động quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với
công tác nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học ở mỗi cơ sở giáo dục và đào tạo. Vì vậy, nâng
cao hiệu quả và đổi mới quản lý hoạt động dạy học môn học giáo dục quốc phòng và an ninh ở
Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên trở nên cần thiết trong xu hướng phát triển hiện nay.
Bài viết đã tập trung làm rõ thực trạng hoạt động dạy học cũng như quản lý hoạt động dạy học.
Qua số liệu khảo sát đã có đánh giá thực tế, đưa ra được những thuận lợi, khó khăn, của công tác
quản lí hoạt động dạy học tại Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên. Trên cơ sở nghiên
cứu lí luận và khảo sát thực tiễn, đã đề xuất 6 biện pháp cụ thể để quản lý hoạt động dạy học môn
Giáo dục quốc phòng và an ninh ở Trung tâm Giáo dục quốc phòng Thái Nguyên. Ở mỗi biện
pháp đều có mối tương tác, liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau.
Từ khóa: Giáo dục quốc phòng, trung tâm, quản lý, hoạt động dạy học.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học [2]. Trong đó nâng cao hiệu quả và đổi mới quản lý giáo dục là nhiệm vụ có tính cấp bách của nền giáo dục nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa, là giải pháp có tính chiến lược được Đảng và Nhà nước cùng đông đảo mọi tầng lớp nhân dân quan tâm.
Giáo dục quốc phòng và an ninh (GDQP, AN) cho sinh viên cao đẳng nghề, cao đẳng, đại học là môn học chính khóa. Bảo đảm cho sinh viên có kiến thức cơ bản về đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; bổ sung kiến thức về phòng thủ dân sự và kỹ năng quân sự [4].
* Tel: 0988114316
Tuy nhiên, công tác dạy học GDQP, AN ở các trường Đại học khá đặc thù, vừa phải theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa phải theo quy định của Bộ Quốc phòng. Giảng viên giảng dạy cơ bản là các sĩ quan biệt phái, còn sinh viên thường chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của môn học này. Chính vì vậy, công tác quản lý hoạt động dạy học (HĐDH) môn học GDQP, AN ở các trường đại học khá phức tạp và còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng kịp yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân.
Trung tâm Giáo dục quốc phòng (GDQP) Thái Nguyên đã thực hiện giảng dạy môn học GDQP, AN với bề dày lịch sử trên 20 năm. Tuy nhiên, HĐDH vẫn còn là một bài toán chưa có đáp số cụ thể. Vì thế, việc đánh giá đúng thực trạng HĐDH và đưa ra những biện pháp quản lý HĐDH môn học GDQP, AN ở Trung tâm GDQP Thái Nguyên là việc làm hết sức cấp thiết.
THỰC TRẠNG HĐDH VÀ QUẢN LÝ HĐDH MÔN HỌC GDQP, AN TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC QUỐC PHÒNG THÁI NGUYÊN HIỆN NAY
Thực trạng hoạt động dạy môn GDQP, AN của đội ngũ giảng viên
- Về hoạt động giảng dạy
Trần Hoàng Tinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 87 - 92
88
Khi hỏi ý kiến của đội ngũ giảng viên bằng hình thức hỏi trực tiếp về hoạt động giảng dạy, có được kết quả sau: Đa số giảng viên đã chuẩn bị kỹ bài giảng trước khi lên lớp. Tuy nhiên có đến 50% số giảng viên không thường xuyên và chưa cập nhật thông tin mở rộng bài giảng cho sinh viên. Ngoài ra nhiều giảng viên mới chỉ đơn thuần lo hoàn thành việc truyền đạt kiến thức mà chưa quan tâm đến làm thế nào cho sinh viên cảm thấy hứng thú học tập, không sử dụng phương tiện dạy học tích cực, không trao đổi với sinh viên về phương pháp học tập tích cực để đạt hiệu quả cao. Chỉ có 20% giảng viên thường xuyên sử dụng phương pháp dạy học tích cực và 25% giảng viên thay đổi phương pháp dạy học khi sinh viên không hứng thú học. Việc lấy ý kiến phản hồi của sinh viên sau khi kết thúc môn học và tìm hiểu những khó khăn sinh viên gặp phải trong quá trình học tập không được thực hiện ở đa số giảng viên, mà chỉ được ở cấp Trung tâm. Có đến 40% giảng viên chưa bao giờ tìm hiểu những khó khăn của sinh viên gặp phải trong quá trình học tập. Việc làm này chỉ được làm thường xuyên ở 10% giảng viên và đôi khi ở 50% giảng viên. Đa số giảng viên đều nhận rõ tầm quan trọng của môn học nên việc kiểm tra, thi được thực hiện nghiêm túc để đánh giá đúng kết quả học tập của sinh viên.
- Về phương pháp dạy học
Qua kết quả khảo sát ta thấy phương pháp giảng dạy thuyết trình, vấn đáp là phương pháp giảng viên áp dụng thường xuyên nhất (90%). Những phương pháp dạy học tích cực như làm việc cặp, thảo luận nhóm, đóng vai theo tình huống rất ít khi được giảng viên sử dụng (thường xuyên 20%).
- Về phương tiện dạy học
Thực tế hiện nay có 60% giảng viên đã thường xuyên sử dụng máy chiếu và bài giảng điện tử để cho bài giảng sôi động hơn, hấp dẫn hơn. Nhưng bên cạnh đó, việc sử dụng tranh ảnh, sa bàn, vật thực trong giảng dạy còn hạn chế chỉ khoảng 20% giảng viên là sử dụng thường xuyên. Việc sử dụng mô hình vật thật trong giảng dạy của giảng viên cũng hạn chế, mới chỉ có 40% giảng viên là thường xuyên.
Thực trạng hoạt động học môn GDQP, AN
của sinh viên
Khi hỏi ý kiến của 200 sinh viên K22-KD1
(Khóa học GDQP, AN thứ 22 của sinh viên
trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh
doanh - Đại học Thái Nguyên) và 200 sinh
viên K22-SP2 (Khóa học GDQP, AN thứ 22
của sinh viên Trường Đại học Sư phạm – Đại
học Thái Nguyên) bằng hình thức hỏi trực
tiếp, có được kết quả sau: GDQP, AN là môn
học được nhiều sinh viên coi là môn học khó,
khô khan. Tuy nhiên có đến 85,00% sinh viên
thấy được tầm quan trọng của môn học và
82,00% sinh viên học vì là môn học bắt buộc.
Chính vì vậy, thời gian dành cho hoạt động tự
học và hoạt động ngoại khóa môn học GDQP,
AN của sinh viên chưa đáp ứng yêu cầu chung
hiện nay. Có đến 58,40% sinh viên không
chuẩn bị bài trước, không đặt câu hỏi cho
giảng viên, không tham khảo tài liệu và không
ghi lại bài giảng theo cách học riêng. Người
học vẫn mang nguyên phương pháp học ở bậc
phổ thông là thụ động và ỉ lại vào giảng viên
khi đã lên bậc học cao hơn.
Thực trạng quản lý HĐDH môn GDQP, AN
ở Trung tâm GDQP Thái Nguyên
Thực trạng quản lý trình, kế hoạch giảng
dạy môn học
- Quản lý việc thực hiện chương trình giảng
dạy của giảng viên
Để giám sát việc thực hiện chương trình giảng
dạy của giảng viên, Ban giám đốc đã thường
xuyên theo dõi việc thực hiện chương trình qua
kế hoạch của từng khóa. Nhưng việc đánh giá
tiến trình giảng dạy qua sổ đầu bài mới chỉ làm
tốt ở mức 65%. Việc kiểm tra việc thực hiện
tiến trình giảng dạy qua việc dự giờ đột xuất ở
trên lớp của Ban giám đốc được đánh giá ở
mức độ 53%. Điều này cho thấy thực trạng
quản lý việc thực hiện chương trình giảng dạy
ở Trung tâm là khá tốt.
- Quản lý việc lập kế hoạch công tác giảng
dạy của giảng viên
Đa số giảng viên đã nhận thức được tầm quan
trọng của việc lập kế hoạch giảng dạy và đã
thực hiện tương đối tốt việc cụ thể hóa nhiệm
vụ năm học và xây dựng những chỉ tiêu, quy
Trần Hoàng Tinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 87 - 92
89
định cụ thể về kế hoạch cá nhân. Tuy nhiên,
khi yêu cầu giảng viên lập kế hoạch cá nhân
thì nội dung kiểm tra nhiệm vụ lập kế hoạch
công tác giảng dạy của giảng viên và nội
dung sử dụng kết quả kiểm tra có giai đoạn
đạt thấp. Khoảng 60% ý kiến đánh giá tập
trung ở mức trung bình.
Thực trạng quản lý hoạt động giảng dạy của
giảng viên
- Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp
của giảng viên
Thực tế cho thấy các cán bộ quản lý và giảng
viên đã rất coi trọng những quy định cụ thể về
việc soạn bài và chuẩn bị lên lớp của giảng
viên (69% cho là tốt đối với cán bộ quản lý,
80% đối với giảng viên). Tuy nhiên, việc bồi
dưỡng phương pháp soạn bài và chuẩn bị bài
lên lớp có khóa học vẫn chưa được chú trọng
(có đến 50% giảng viên cho rằng việc làm
này chưa tốt). Công tác kiểm tra việc sử dụng
tài liệu tham khảo có giai đoạn chưa tốt.
- Quản lý nề nếp lên lớp giảng dạy và việc
vận dụng phương pháp, phương tiện dạy học
của giảng viên
Trung tâm đã lập kế hoạch quản lý việc thực
hiện nề nếp lên lớp, xây dựng quy định cụ thể
việc thực hiện giờ lên lớp của giảng viên, tổ
chức dạy thay, dạy bù ở mức tốt và rất tốt. Việc
nâng cao nhận thức về nhiệm vụ đổi mới
phương pháp dạy học, sử dụng phương tiện dạy
học đã được các nhà quản lý và giảng viên thực
hiện tốt (được đánh giá ở mức hơn 90%).
Nhưng việc bồi dưỡng năng lực sử dụng
phương pháp, phương tiện dạy học hiện đại lại
chưa tốt. Đó là vì các giảng viên GDQP, AN
chỉ được bồi dưỡng phương pháp dạy học một
cách lý thuyết. Còn việc bồi dưỡng phương
pháp, kỹ năng sử dụng phương tiện dạy học
hiện đại thì chủ yếu là các giảng viên tự học.
Trong khi đó, việc kiểm tra thường xuyên việc
sử dụng phương pháp, phương tiện dạy học
hiện đại cũng chưa được các nhà quản lý quan
tâm đúng mức.
- Quản lý việc kiểm tra đánh giá kết quả học
tập của sinh viên
Việc thực hiện quy chế thi, ra đề và chấm thi
được phần lớn đánh giá là thực hiện tốt và rất
tốt. Việc thành lập ngân hàng câu hỏi giúp cho
người quản lý lựa chọn đề thi một cách khách
quan, giảm thiểu tiêu cực trong thi, kiểm tra.
Công tác kiểm tra việc vào điểm của giảng
viên cũng thuận lợi hơn khi giảng viên trực
tiếp vào điểm trên phần mềm của Trung tâm,
từ đó Ban Giám đốc và các cấp quản lý có thể
kiểm tra định kỳ hàng tháng để biết từng giảng
viên có sổ điểm dựa theo yêu cầu của kế hoạch
giảng dạy hay không. Tuy nhiên, hoạt động
phân tích kết quả học tập định kỳ của sinh viên
chưa được đánh giá tốt.
- Quản lý việc tự trau dồi, tự bồi dưỡng của
giảng viên
Việc định hướng tự bồi dưỡng của giảng viên
được thực hiện khá tốt. Nhưng công tác chỉ đạo kiểm tra, giám sát việc thực hiện tự bồi
dưỡng, công tác kiểm tra hồ sơ tự bồi dưỡng và việc tổ chức giảng viên báo cáo kết quả tự
bồi dưỡng lại chỉ được đánh giá ở mức trung bình và chưa tốt.
Thực trạng quản lý hoạt động học tập của
sinh viên
Việc xác định động cơ học tập cho sinh viên có hơn một nửa số phiếu điều tra đánh giá ở
mức trung bình và chưa tốt. Việc hướng dẫn phương pháp học tập phù hợp cho sinh viên
cũng vậy dẫn đến có khóa chất lượng học GDQP, AN của sinh viên chưa đạt kết quả
như mong muốn. Việc xây dựng những quy định cụ thể về nề nếp học tập trên lớp của
sinh viên lại được đánh giá cao, nhưng nề nếp tự học của sinh viên lại được đánh giá là
chưa tốt.
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG QUẢN LÝ
HĐDH MÔN GDQP, AN CỦA TRUNG TÂM
Những kết quả đạt được về quản lý HĐDH
môn GDQP, AN ở Trung tâm GDQP – ĐH Thái Nguyên
- Công tác quản lý chương trình, kế hoạch giảng dạy môn học được thực hiện nghiêm
túc theo các nội dung chương trình đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, có sự
sáng tạo, chủ động với nhiều biện pháp quản lý hiệu quả.
- Công tác quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên: Trung tâm đã xây dựng được đội
Trần Hoàng Tinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 87 - 92
90
ngũ cán bộ, giảng viên tận tụy, tâm huyết với nghề, sẵn sàng nhận và thực hiện tốt mọi
nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt kế hoạch trong việc cử cán bộ giảng viên đi học, bồi
dưỡng về phương pháp dạy học đại học, nhất là đối với đội ngũ cán bộ giảng viên trẻ. Nhận
thức đúng đắn mục đích, yêu cầu và chỉ đạo thực hiện nghiêm túc hoạt động coi thi, kiểm
tra đánh giá kết quả dạy học. Vì vậy, đại đa số sinh viên đã nhận thức đúng vị trí, vai trò,
mục đích, yêu cầu về nội dung chương trình của môn học. Bên cạnh đó, Trung tâm đã thực
hiện quản lý và sử dụng, bảo quản, giữ gìn có hiệu quả các loại vũ khí, trang bị, phương tiện
đảm bảo cho dạy học, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm trong cải tiến mô hình học cụ, vũ
khí trang bị, phương tiện đảm bảo cho HĐDH có hiệu quả.
Hạn chế và nguyên nhân về quản lý HĐDH
môn GDQP, AN ở Trung tâm GDQP - ĐH
Thái Nguyên
* Hạn chế
- Công tác quản lý chương trình, kế hoạch
giảng dạy môn học: Chưa phát huy hết vai trò
của đội ngũ cán bộ, giảng viên và trí tuệ tập
thể trong quản lý và thực hiện nội dung
chương trình dạy học cho các đối tượng.
- Công tác quản lý hoạt động giảng dạy của
giảng viên: Trình độ của đội ngũ cán bộ giảng
viên chưa cao, chưa thực sự năng động, sáng
tạo; Chưa có kế hoạch trong việc đánh giá, rà
soát, đánh giá và phân loại trình độ phương
pháp dạy học cho các cán bộ giảng viên để đề
xuất đào tạo và bồi dưỡng về nghiệp vụ sư
phạm; Chưa điều chỉnh kịp thời về nội dung
câu hỏi thi, đề cương đáp án đánh giá kết quả
phù hợp với tính chất, yêu cầu của từng đối
tượng, nhất là đối với đối tượng liên kết đào
tạo GDQP, AN. Việc nhận xét, trả bài thi,
kiểm tra đánh giá kết quả của các đối tượng
chưa kịp thời và hiệu quả.
- Công tác quản lý hoạt động học tập của sinh
viên: Đa số sinh viên chưa thích nghi nhanh
chóng với môi trường học tập mang tính quân
sự, kỷ luật của Trung tâm, chưa xác định
đúng về ý nghĩa, vị trí, mục đích yêu cầu của
môn học nên có thái độ học tập và rèn luyện
chưa tốt.
- Công tác quản lý cơ sở vật chất và các điều
kiện phục vụ cho HĐDH: Quản lý bảo đảm về
số lượng các loại vũ khí, trang bị, phương tiện
day học còn thiếu so với qui mô, nhiệm vụ
đào tạo, việc quản lý còn thiếu tính kế hoạch,
chưa thực sự chủ động.
* Nguyên nhân:
- Khách quan: Do lịch sử để lại liên quan đến
chất lượng đội ngũ giảng viên; Bộ Giáo dục
và Đào tạo chưa có một qui chế rõ ràng và
hiệu quả trong việc chỉ đạo phân luồng các
trường học GDQP, AN tại Trung tâm, dẫn
đến việc xây dựng và thực hiện kế hoạch chưa
có tính chủ động; mặt khác giữa Bộ Giáo dục
và Đào tạo với Bộ Quốc phòng chưa có cơ
chế liên thông phối hợp một cách cụ thể đối
với việc đào tạo cán bộ và giảng viên; chế độ
chính sách đối với đội ngũ cán bộ giảng viên
GDQP, AN còn thấp.
- Chủ quan: Nhận thức chưa đồng bộ, tích
cực; chưa có sự phối hợp một cách chủ động
và hiệu quả trong việc xây dựng nội dung
chương trình đào tạo cho các đối tượng giữa
Trung tâm và các Nhà trường; chưa có cán bộ
chuyên trách làm công tác đảm bảo chất
lượng giáo dục; chưa chỉ đạo và thực hiện tốt
công tác giáo dục động viên cho sinh viên
một cách kịp thời về việc chấp hành các nội
qui, qui định, các chế độ học tập và rèn luyện;
việc duy trì các chế độ, qui tắc, nội qui trong
học tập, luyện tập của đội ngũ cán bộ giảng
viên chưa thường xuyên và chưa đồng đều.
Như vậy, thực trạng công tác quản lý HĐDH
môn GDQP, AN ở Trung tâm Giáo dục quốc
phòng Thái Nguyên trong những năm qua cho
thấy: đã phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán
bộ, giảng viên trong cả quản lý và thực hiện
nội dung dạy học để đạt được những hiệu quả
khá tốt. Tuy nhiên hiệu quả của công tác quản
lý với những tồn tại của nó cho thấy cần phải
tiếp tục đổi mới, nâng cao năng lực quản lý và
đề ra các biện pháp quản lý có hiệu quả hơn
nhằm tổ chức thực hiện HĐDH của Trung
tâm trong thời gian tới đạt được kết quả cao
Trần Hoàng Tinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 87 - 92
91
hơn. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả quản lý
HĐDH môn học GDQP, AN ở Trung tâm
GDQP Thái Nguyên cần phải đề ra những
biện pháp quản lý hiệu quả, phù hợp với đặc
điểm tình hình của HĐDH và tính chất đặc
thù của nhiệm vụ GDQP, AN ở Trung tâm
GDQP Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ HĐDH MÔN HỌC GDQP, AN TẠI TRUNG TÂM GDQP THÁI
NGUYÊN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Định hướng đổi mới công tác quản lý
HĐDH môn GDQP, AN
- Quá trình đổi mới quản lý HĐDH môn
GDQP, AN cho sinh viên phải đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội trong tình hình mới
và đáp ứng công cuộc đổi mới giáo dục và đào tạo hiện nay;
- Nắm vững quan điểm hệ thống, đồng bộ trong đổi mới quản lý HĐDH môn GDQP, AN;
- Đổi mới quản lý HĐDH môn GDQP, AN phải trên cơ sở nắm vững quan điểm kế thừa
và phát triển;
- Tiến hành đổi mới HĐDH phải bảo đảm
đúng mục tiêu GDQP, AN cho sinh viên trong bối cảnh mới theo định hướng của Đảng.
Một số biện pháp quản lý HĐDH môn
GDQP, AN ở Trung tâm GDQP Thái
Nguyên trong giai đoạn hiện nay
Biện pháp 1, Nâng cao nhận thức về tầm
quan trọng của môn học GDQP, AN cho mọi
đối tượng trong Trung tâm. Nhận thức, tư
tưởng là yếu tố quan trọng hàng đầu, có ý
nghĩa quyết định đến hiệu quả của hoạt động.
Qua đó để nâng cao hiệu quả, chất lượng
quản lý HĐDH từ đó nâng cao hiệu quả, chất
lượng HĐDH môn GDQP, AN ở Trung tâm
GDQP Thái Nguyên.
Biện pháp 2, Tăng cường quản lý công tác xây
dựng và tổ chức thực hiện chương trình, kế
hoạch dạy học. Nhằm quản lý chặt chẽ và tổ
chức chỉ đạo thực hiện mọi kế hoạch, chương
trình dạy học cho sinh viên một cách khoa học,
hiệu quả, phù hợp với mục tiêu yêu cầu đào tạo
đã đề ra cho sinh viên góp phần nâng cao hiệu
quả, chất lượng dạy học môn GDQP, AN ở
Trung tâm GDQP Thái Nguyên.
Biện pháp 3, Xây dựng động cơ học tập đúng đắn, kích thích tính chủ động sáng tạo của
người học. Bao gồm chuẩn bị về mặt tâm lý cho hoạt động học của sinh viên; tăng cường
quản lý nề nếp học tập trên lớp của sinh viên; tăng cường hoạt động tự học của sinh viên.
Biện pháp 4, Tăng cường xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên cả về số lượng và chất
lượng với cơ cấu hợp lý. Nhằm xây dựng đạt chuẩn đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên theo
Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh và qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Đồng thời
nâng cao chất lượng dạy học môn GDQP, AN nói riêng, chất lượng của công tác GDQP, AN
nói chung ở Trung tâm GDQP Thái Nguyên.
Biện pháp 5, Quản lý chất lượng hoạt động giảng dạy của giảng viên. Bao gồm: Quản lý chặt chẽ hoạt động giảng dạy và đổi mới, nâng cao phương pháp, chất lượng dạy học của đội ngũ giảng viên; Tăng cường quản lý hoạt động thi, kiểm tra đánh giá kết quả học tập.
Biện pháp 6, Tăng cường quản lý đảm bảo về số lượng, chất lượng các loại vật chất, vũ khí trang bị, phương tiện dạy học. Đảm bảo có đầy đủ công cụ lao động để người dạy truyền đạt kiến thức, xây dựng và hình thành kỹ năng kỹ xảo cho người học.
Các biện pháp tuy độc lập nhưng lại có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ với nhau, mỗi biện pháp có vị trí, vai trò khác nhau trong việc quản lý nâng cao chất lượng trên mỗi mặt công tác của HĐDH.
KẾT LUẬN
1. Quản lý HĐDH luôn là hoạt động quan trọng hàng đầu, có ý nghĩa quyết định đối với công tác nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học ở mỗi cơ sở giáo dục đào tạo. Chính vì vậy nâng cao hiệu quả và đổi mới quản lý HĐDH môn học GDQP, AN ở Trung tâm GDQP Thái Nguyên rất được quan tâm.
2. Bài viết đã tập trung vào làm rõ thực trạng HĐDH cũng như thực trạng quản lý HĐDH. Qua số liệu khảo sát đã có những đánh giá thực trạng đưa ra được những thuận lợi, khó khăn, điểm mạnh, điểm yếu của công tác quản lý HĐDH tại Trung tâm GDQP Thái Nguyên.
3. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và khảo sát thực tiễn, đã đề xuất 6 biện pháp cụ thể để quản lý HĐDH môn GDQP, AN ở Trung tâm
Trần Hoàng Tinh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 87 - 92
92
GDQP Thái Nguyên. Ở mỗi biện pháp đều có mối tương tác, liên hệ và hỗ trợ lẫn nhau.
4. Qua kiểm chứng, cả 6 biện pháp đề xuất đều được cán bộ làm công tác quản lý đánh giá là cần thiết và có tính khả thi. Nếu công tác tổ chức tốt, đồng bộ các biện pháp nêu trên và có được sự đồng thuận cao của các tổ chức trong đơn vị, sẽ giúp nâng cao chất lượng quản lý HĐDH môn học GDQP, AN tại Trung tâm./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chỉ thị số 12-CT/TW (ngày 03 tháng 5 năm
2007), “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác Giáo dục quốc phòng và an ninh trong
tình hình mới”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 8 Khóa XI.
3. Kế hoạch số 129/KH HDDGDQPANTWW
ngày 01/12/2011, “Công tác giáo dục quốc phòng
- an ninh giai đoạn 2012-2016”.
4. Luật Giáo dục quốc phòng, an ninh, ngày 19
tháng 6 năm 2013.
5. Nguyễn Thiện Minh (2013), Đẩy mạnh công tác
giáo dục quốc phòng - an ninh cho học sinh, sinh
viên trong tình hình mới, Tạp chí quốc phòng toàn
dân.
6. Quyết định số 412/QĐ-TTg ngày 10 tháng 4
năm 2012 của Thủ tướng chính phủ về việc “Quy
hoạch Hệ thống Trung tâm Giáo dục quốc phòng -
an ninh sinh viên giai đoạn 2011 - 2015”.
7. Hoàng Văn Tòng (2013), “Quản lí giáo dục
quốc phòng - an ninh cho sinh viên các trường
đại học Việt Nam trong bối cảnh mới”, Luận án
tiến sỹ.
SUMMARY
REALITY AND SOLUTION MANAGEMENT COURSEWORK TEACHING
ACTIVITIES IN EDUCATION, DEFENSE AND SECURITY OF THAI NGUYEN
CENTER FOR NATIONAL DEFENSE EDUCATION
Tran Hoang Tinh*
Center for National Defense Education - TNU
Management of teaching activities have always been the most important activity, is crucial to the
work of improving the quality of and effective teaching in each institution and training. So
increase the efficiency and innovation management coursework teaching activities in education,
defense and security in National Defense Education Center Resource becomes necessary in the
current development trends. The article has focused on clarifying the situation teaching activities
as well as the status management of teaching activities. Through survey data has made the
assessment of the situation given the advantages, disadvantages, strengths, weaknesses of
management teaching activities in National Defense Education Center. Based on the study of
reasoning and practices survey, proposed the 6 specific measures to manage teaching activities
education, defense and security in National Defense Education Center. Each measure has its
interaction, contact and support each other.
Key words: Defense education, centre, management, teaching activities
Ngày nhận bài:05/3/2014; ngày phản biện:18/3/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Phạm Hồng Quang – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0988114316
Dương Đức Minh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 93 - 98
93
APPLYING PROJECT-BASED LEARNING TO ENGLISH CLASSROOM
TO PROMOTE STUDENTS’ AUTONOMY, COLLABORATION
AND LIFELONG LEARNING
Duong Duc Minh*
Thai Nguyen University
SUMMARY The world is changing, so it is clear that students needboth knowledgeandskills to succeed. This
need is driven by not only workforce demands for high-performance employees who can
plan,collaborate, and communicate, but also by the need to help all youngpeople learn civic
responsibility and master their new roles as globalcitizens. However, motivating and engaging
students in active learning is challenging even for the most experienced teachers. Therefore,
Project-based Learning (PBL) is important in the learning process as it refers to students
designing, planning, and carrying out an extended project that produces a publicly-exhibited
output such as a product, publication, or presentation. This article aims to introduce some basic
theories as well as some practical steps in constructing a PBL class in order to promote students’
autonomy and lifelong learning. Besides providing useful information on PBL, ideas to address
issues and overcome obstacles are included to ensure teachers practise PBL.
Key words: project-based learning, ELT, autonomy, lifelong learning.
INTRODUCTION*
Project-based Learning (PBL) is a model for
classroom activity that shifts away from the
usual classroom practices of short, isolated,
teacher-centered lessons. PBL learning
activities are long-term, interdisciplinary,
student-centered, and integrated with real-
world issues and practices. It promotes
understanding, which is true knowledge. In
PBL, students explore, make judgments,
interpret, and synthesize information in
meaningful ways. In other words, learners in
PBL had the opportunity to construct
knowledge by generating their projects based
on their interests and individual differences.
They made connections between their new
knowledge and their existing knowledge and
were able to apply them to similar settings.
They learnt in a meaningful context while
creating the end product [16].
PRINCIPAL FEATURES OF PBL
The characteristics of PBL are consistent
among educators who studied and
implemented this teaching method [3], [5],
* Tel: 0983192994, Email: [email protected]
[12]. Features of PBL include: (a) complex
explorations over a period of time; (b) a
student-centered learning activity whereby
students plan, complete and present the task;
(c) challenging questions, problems or topics
of student interest which become the center of
the project and the learning process; (d) the
de-emphasis of teacher-directed activities; (e)
frequent feedback from peers and facilitators,
and an opportunity to share resources, ideas
and expertise through the whole process in
the classroom; (f) hands-on activities and the
use of authentic resources and technologies;
(g) a collaborative learning environment
rather than a competitive one; (h) the use of a
variety of skills such as social skills and
management skills; (i) the use of effort in
connecting ideas and acquiring new skills
during different stages of projects; (j) the
production of meaningful artefacts that can be
shared with peers, teachers, and experts in a
public presentation; and (k) assessment in
both the process of working from the first
stage to the last stage and the finished project.
It is clear that PBL has several distinct
characteristics which build upon the essence of
Dương Đức Minh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 93 - 98
94
authentic learning. Therefore, it is important to
study how authentic learning facilitates a
project based learning environment.
Authentic learning
Authentic activities are one of the main
features of PBL as students have an
opportunity to connect to real world situations
while completing their projects [6]. Authentic
learning allows students to experience
relevant and real-world tasks. It makes their
learning more meaningful by connecting prior
knowledge to their current study. Students
have real-life roles which are similar to the
real world outside the class room and these
necessitate teamwork, negotiation, and the
use of problem-solving skills [14].
In addition, a PBL project allows students to
engage in authentic situations and practices.
They have the opportunity to use other than
their textbooks, they need to search and
investigate their project through the use of
other resources (e.g. Internet, local
community, advertising materials, and verbal
communication in the real world.)
Roles of Teachers and Students in PBL
A teacher in PBL is a facilitator of skill
acquisition and an advisor. As a facilitator,
the teacher generates activities and students
have opportunities to draw and strengthen
their skills in inquiry, critical thinking and
problem-solving [8]. To ensure the
successful environments flourish, teachers
can help learners develop goals, monitor the
process of learning, answer questions raised
by students and suggest options whenever
students reach a deadlock[15]. Furthermore,
teachers need to maximize students’ thinking
and learning and help students who struggle
to find solutions [8]. In the early stages of
PBL, teachers need to help students to
develop an assessment tool such as a rubric,
which is used at different stages of the
project lifecycle. In addition, [8]stated that
teacher as the advisor should establish
rapport with students and care for students
by helping them to achieve their journey of
learning. To make students feel confident
and motivated throughout their project,
teachers should be aware of the abilities,
aptitudes and learning styles of students who
have different paces of learning [6].
The role of the student in PBL is of great
importance. As PBL involves student-directed
learning, the student needs to beinvolved in
three major roles: (a) as a self-directed
learner, (b) as a team member/collaborator
and (c) as a knowledge manager/leader [7].
As self-directed learners, students choose the
topic that is related to their experiences and
interests. Besides being responsible for their
own learning, as team members with shared
goals students also need to work
collaboratively for the success of the project.
As team members, they need to have a sense
of ownership and empowerment of their own
project [7]. Since the final outcome is in part
their responsibility as part of the whole class
or group work, students need to be team
members willing to work and put in effort to
make it right [9].
It can be concluded that the roles of teachers
and students in PBL are equally important
and that they need to be flexible for
successful participation with each other. The
teacher is not a leader but a facilitator, an
advisor, and a knowledge master, while the
student is not a passive learner but a self-
directed learner, a team member/collaborator,
and a knowledge manager/leader.
Learner autonomy
Learner autonomy is promoted through
project work. In PBL, students are allowed to
select the project topic and to be involved in
designing and planning their project and the
process of learning with support from
teachers [6]. [11] mentions thatPBL
classroom settings can narrow “the gap
between traditional classrooms and more
learner and learning-centered settings”. When
students have responsibility for their own
learning, they are motivated and feel more
competent and self-determined.
Dương Đức Minh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 93 - 98
95
It can be concluded that students in PBL
involved in the various project work stages
(selecting and investigating topics, collecting
data, interpreting and presenting data, assessing
the project) will have enhanced connection with
and self-control over their own learning.
Therefore, PBL fosters learners to become
autonomous and lifelong learners [4].
Cooperative learning
In PBL, students’ learning activities are
normally organized in small groups with the
emphasis on achieving the objective under the
direction of the group members who have
shared goals. Each member of the group is a
center of learning, and responsible not only
for learning but also for helping other
members learn and to give support. Learners
work through the project with support from
the teacher and feedback from teachers, peers
and field specific experts throughout the
project [6],[8].
BENEFITS OF PBL IN LANGUAGE
LEARNING
PBL plays an important role in developing
learners’ target language for real-life
purposes. It helps language students become
more competent in the use of the target
language and promotes learners’ autonomy,
learner centeredness, learner motivation and
integrated skill practice [11].
Research has shown that there are many
benefits to using PBL in the language
classroom. These are:
• Gaining language proficiency, self-efficacy
and self-esteem.
• Using real-life language and experiencing
language in meaningful life situations.
• Developing motivation, self-confidence and
the cognitive domain in second/foreign
language learning.
ASSESSMENT OF PBL
In disciplines other than language teaching,
various assessment practices can be
integrated. For example, homework
assignments, laboratory exercises, final
project papers and presentations can be
employed to measure content outcomes, while
implementation evaluation, informal
evaluation and project papers are used to
assess scientific process learning outcomes. In
addition, assessing the overall outcomes of
students can be done through a peer review
form, a faculty review panel, a final research
presentation and a final paper [1].
In language learning, students in PBL use real
communication, authentic language and
learning experiences to achieve the goals of
learning. Therefore, performance assessments
are crucial in PBL as they allow a variety of
assessments to evaluate students’ process of
learning and tasks. Therefore, multiple types
of formative and summative assessment
should be integrated as a part of an effective
assessment program [9],[10].
In PBL, students can evaluate their own team
members’ work or peers’ work by offering
suggestions for improvement or giving
support. Having experience withpeer
assessment during the learning process helps
learners to evaluate their peers’ final projects
more easily and also allows teachers to assist
and supervise the learning process among
students [2].
Self-assessment enables students to evaluate
their own work by reflecting on the
performance, work progress and overall
learning process that leads to their
achievement Peer and self-assessment
promote lifelong learning, self-awareness and
critical reflection skills [2].
STEPS OF PROJECT DEVELOPMENT
The process of PBL is an ongoing process
undertaken by students with support from
teachers. PBL’s complex, systematic but
flexible framework helps students to shape
their projects and understand what is expected
of them. To understand each stage clearly,
this articlesummarizes the four general steps
of project development from the following
educators [6],[13]. The four main steps of
PBL are shown below:
Dương Đức Minh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 93 - 98
96
The following is the summary of the four
project steps:
Starting the project: this stage involves
selecting the topic that is of interest and
relevance to students. The teacher can create
guiding questions so that students have an
idea of what to do and are encouraged to
study or develop. Students then establish the
project outline and plan the method of
development, the final outcomes and
individual’s responsibilities. The project
should be challenging and motivating
suchthat students can develop and have the
flexibility to work attheir own level, while
team members within the group offer advice
and assistance. This is an important feature as
it contributes to a successful outcome.
Developing the project: this stage involves the
research which isundertaken by all group
members either individually, in pairs, or as a
group. This should be decided by the group
before commencing the project. Students
search for information to answer their driven
question, note down the results they achieve,
any problems they encounter and ways to
solve them. This is an efficient process that can
be used to improve the project as it progresses.
Reporting to the class: this stage involves
presenting and receiving feedback from other
students on the progress of and improvements
to the project. The steps occurring throughout
the project are assessed to make sure that
students comprehend the problems and apply
the skills and concepts necessary to complete
the project.
Assessing the project: the final product can be
evaluated by an individual student, students
as a group, a teacher or external audience.
This stage allows students to apply and
present what they have learned.
CONCLUSION
It is clear that PBL is a systematic
methodology that is able to be implemented
in classroom settings including foreign
languagecontexts [11]. The development of
PBL in a classroom can be carefully
employed under a process that guides
practitioners and students in organizing
projects.
APPENDICE
Frequently Asked Questions about PBL
Why should I use Project-based Learning?
PBL is extremely effective as a method for
engaging students in their learning. With
engagement comes focus, discipline, and
mastery of academic content. Further,
students have the opportunity to work on
problems and issues relevant to their lives, as
well as learn vital work and life skills
necessary to succeed in schools or in working
environments.
Does Project-based Learning incorporate
content and standards?
PBL encourages learning of specified subject
matter, concepts and standards. Projects begin
withcurriculum standards and alternative
assessment tools are used to determine what
students have learnt. Projects are designed
around a Driving Question/Essential Question
which knits together intended outcomes and
project activities.
How does Project-based Learning differ from
Problem-based learning?
PBL and problem-based learning are similar,
and the terms are sometimes used
interchangeably. Both are based on inquiry
into an authentic problem or question.
Problem-based learning is a term commonly
used for research in colleges and universities,
while Project-based Learning is a term used
in schools.
Step 1: Starting the Project
Step 2: Developing the Project
Step 3: Reporting to the Class
Step 4: Assessing the Project
Dương Đức Minh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 93 - 98
97
How long should projects last?
A period of 2 - 6 weeks is recommended for
projects as it ensures maximum effectiveness
and solid assessment.
I have heard that PBL requires too much time.
PBL changes the nature of teachers’ planning
process where more time is required for
planning because materials, performance
assessments, and activities must be mapped
out before the project begins. However,
teachers often finds time spent working
closely with students, rather than preparing
new lessons once the project has begun.
Can other teaching methods be used along
with Project-based Learning?
Yes, PBL incorporates all traditional teaching
tools, methods, lectures, text-books, and
conventional assessments. However, the
nature of PBL demands students spending the
bulk of the project working in groups to find
answers to questions and deriving conclusions
Do I have to train my students to participate
in a PBL classroom?
Not only do you have to train your students in
soft skills, e.g. collaboration, facilitation, oral
presentation; the habits of mind like inquiry
and resilience buttheir parents, administrators
and fellow teachers as well. PBL is an
excellent way to get the community into the
classroom to function as tutors, experts, guest
speakers and panel members. Transparency is
the key to aPBL classroom, “We want the
public in our classrooms.” If teachers in
traditional schools complain about the lack of
parental involvement, it is not true in a PBL
classroom.
Do I have to have Internet access in my
classroom to effectively employ PBL?
It’s imperative that studentsare given access
to as many resources as possible, and the
Internet is certainly a powerful resource.
However, a functioning school resource
center or library provides greater advantages
to students.
How can I effectively monitor the many
project groups engaged in PBL?
Assigning and rotating students’ roles in
small groups are useful ways to allow groups
to progress without having the teacher within
the group most of the time. This will allow
teachers to circulate at a slower pace.
Rotating roles among students, and teachers
providing feedback on how they performed in
their roles will allow each student to
experience having to both talk and listen as
well as to lead and follow.
REFERENCES
1. Blumenfeld, P. C., & Palincsar, A. (1991).
Motivating project-based learning: Sustaining the
doing, supporting the learning. Educational
Psychologist, 26(3 & 4), 369-398.
2. Buchanan, E. A. (2004). Online Assessment
in Higher Education: Strategies to Systematically
Evaluate Student Learning, Distance Learning and
University Effectiveness
3. Curtis, D. (2002). The Power of Projects.
Educational Leadership, 60(1), 50-53.
4. Diffily, D. (2001). Real-World Reading and
Writing through Project-Based Learning. (ERIC
Reproduction Services No. ED 453 520).
5. Helle, L., Tynjala, P., & Olkinuora, E.
(2006). Project-based learning in post-secondary
education-theory, practice and rubber sling shots.
Higher Education, 51(2), 287-314.
6. Markham, T., Mergendoller, J., Larmer, J., &
Ravitz, J. (2003). Project Based Learning
Handbook. Canada: Buck Institute for
Education.Paradigms for Online Learning.
Hershey, PA: IGI.
7. Murchú, D. O. (2005). New Teacher and
Student Roles in the Technology-Supported,
Language Classroom. International Journal of
Instructional Technology and Distance Learning,
2(2), 3-10.
8. Newell, R. J. (2003). Passion for Learning:
How Project-Based Learning Meets the Needs of
21st Century Students. Lanham, MD: Scarecrow
Press.
9. Sidman-Taveau, R. L. (2005). Computer-
Assisted Project Based Learning in Second
Language: Case Studies in Adult ESL. PhD
Thesis. The University of Texas at Austin.
10. Slater, T., Beckett, G. H., & Aufderhaar, C.
(2006). Assessing Projects as Second Language
and Content Learning. OUP
Dương Đức Minh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 93 - 98
98
11. Stoller, F. (2002). Project Work: A Means to
Promote Language and Content. Cambridge: CUP
12. Solomon, G. (2003). Project-Based
Learning: a Primer. Technology & Learning, 23,
10-20.
13. Stanley, D. (2000). Project Based Learning-
6C's of Motivation. Retrieved from
http://www.coe.uga.edu/epltt/LessonPlans.htm.Ret
rieved date: 20 Mar 2014.
14. Woo, Y., Herrington, J., Agostinho, S., &
Reeves, T. (2007). Implementing Authentic Tasks
in Web-Based Learning Environments. Retrieved
from http://www.educause.edu/161831. Retrieved
date: 15 Mar 2014.
15. Woodward, J., & Cuban, L. (2001). A Review
of Technology, Curriculum, and Professional
Development: Adapting Schools To Meet the
Needs of Students with Disabilities. Thousand
Oaks, CA: Corwin Press.
16. Wrigley, H. S. (1998). Knowledge in Action:
The Promise of Project-Based Learning. Focus on
Basics, 2(D), 13-18.
TÓM TẮT
ỨNG DỤNG HOẠT ĐỘNG HỌC THEO ĐỀ ÁN VÀO DẠY
VÀ HỌC TIẾNG ANH NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH TỰ HỌC
VÀ HỌC TẬP SUỐT ĐỜI CỦA SINH VIÊN
Dương Đức Minh* Đại học Thái Nguyên
Thế giới đang thay đổi. Vì vậy rõ ràng là học sinh cần cả kiến thức và kỹ năng làm việc (như lập
kế hoạch, phối hợp làm việc và giao tiếp) để thành công trong học tập cũng như khi ra trường. Tuy
nhiên, việc thúc đẩy và khuyến khích sinh viên tích cực trong học tập là thách thức ngay cả đối với
những giáo viên giàu kinh nghiệm nhất. Do đó, Học theo Đề án (PBL) đóng vai trò quan trọng
trong quá trình học tập, bởi vì để học PBL, sinh viên cần thiết kế, lập kế hoạch, và thực hiện một
dự án mở rộng mà kết quả là một sản phẩm cụ thể. Bài báo này nhằm giới thiệu một số lý thuyết
cơ bản cũng như một số bước thực tế trong việc xây dựng một lớp học PBL để thúc đẩy tính tự chủ
của học sinh, sinh viên và để thúc đẩy việc học tập suốt đời. Ngoài việc cung cấp thông tin hữu ích
về PBL, đề án học tập PBL, bài viết cũng góp phần giải đáp phần nào những khó khăn, thắc mắc
từ phía giảng viên khi tham gia giảng dạy học theo đề án (PBL).
Từ khóa: học theo đề án, tự học, học tập suốt đời, học ngoại ngữ.
Ngày nhận bài:21/3/2014; ngày phản biện:07/4/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Lê Quang Dũng – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0983192994, Email: [email protected]
Phạm Thị Mai Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 99 - 104
99
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG PHÂN PHỐI MẶT HÀNG THÉP
XÂY DỰNG CỦA TỔNG CÔNG TY CỔ PHẦN THÉP VIỆT NAM
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Phạm Thị Mai Yến*
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Trong những năm qua, Tổng Công ty cổ phần thép Việt Nam (VNSTEEL) bán phần lớn sản phẩm
của mình thông qua các công ty kinh doanh thép - bên thứ ba, chứ không bán trực tiếp cho người
sử dụng. Trong khi đó các công ty thép hàng đầu đang tiến về hạ nguồn, kiểm soát việc phân phối
để thu lợi nhuận cao hơn. Các DN quá lệ thuộc vào kết quả bán hàng của các công ty thương mại
khiến các DN thép thuộc VNSTEEL mất đi thế kiểm soát giá cả, không phục vụ khách hàng lớn do
đó không nắm bắt được phần lợi nhuận bổ sung. Qua nghiên cứu thực tế về hệ thống phân phối
thép của VNSTEEL, bài báo đề xuất 03 mô hình phát triển hệ thống phân phối mặt hàng thép xây
dựng của VNSTEEL trong giai đoạn hiện nay, đó là: 1) Tổ chức kênh phân phối của các nhà phân
phối lớn; 2) Tổ chức bán hàng và phân phối; 3) Mô hình quản lý khách hàng quan trọng, phân phối
độc quyền và chính sách giá của VNSTEEL.
Từ khóa: Hệ thống phân phối, Mô hình hệ thống phân phối mặt hàng thép xây dựng.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế diễn
ra ngày một mạnh mẽ đã và đang tác động tới
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt
là hoạt động marketing của các doanh nghiệp
Việt Nam. Các Doanh nghiệp sản xuất thép
xây dựng nước ta nói chung và Tổng Công ty
cổ phần thép Việt Nam (VNSTEEL) nói riêng
đang đứng trước những cơ hội và thách thức
to lớn do quá trình này mang lại. Thị trường
thép xây dựng Việt Nam hiện đang chứa đựng
nhiều mâu thuẫn, mất cân đối cung cầu với
những biến động thất thường về giá cả, hiệu
quả kinh doanh thấp,... Chẳng hạn, vào thời
điểm cuối năm 2003 và đầu năm 2004 thị
trường thép xây dựng có sốt nóng, do biến
động trên thị trường thép thế giới và sự tăng
trưởng quá nóng của ngành xây dựng, dẫn
đến giá bán thép xây dựng trên thị trường
Việt Nam tăng cao đột biến. Nhưng ngay sau
đó, diễn biến thị trường lại theo chiều ngược
lại, đặc biệt là vào năm 2008, 2009 và đến
nay ngành thép Việt Nam nói chung và
VNSTEEL nói riêng vẫn gặp rất nhiều khó
khăn như: công nghệ sản xuất lạc hậu,
phương thức quản lý từ sản xuất đến tiêu thụ
* Tel: 0916.046.998
sản phẩm còn yếu kém, nguồn nguyên liệu
chưa chủ động được, hệ thống phân phối chưa
đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của
người sử dụng,... đã ảnh hưởng lớn đến hiệu
quả hoạt động kinh doanh của DN thép.
Như vậy, cả trên phương diện lý thuyết và
thực tiễn đang rất cần có những nghiên cứu toàn diện về quản trị kênh phân phối thép xây
dựng của các DN sản xuất thép tại Việt Nam nói chung và VNSTEEL nói riêng. Trên thực
tế, cũng chưa có công trình nghiên cứu nào về tổ chức và quản lý kênh phân phối mặt hàng
thép xây dựng của VNSTEEL trong thời gian qua. Các DN thép nói chung và VNSTEEL
nói riêng đang cần hoàn thiện hoạt động quản trị các kênh phân phối của mình nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh và lợi thế cạnh tranh dài hạn. Vì vậy, việc nghiên cứu thực trạng tổ
chức và quản lý hệ thống phân phối mặt hàng thép xây dựng của VNSTEEL thời gian qua,
từ đó đề xuất mô hình phát triển hệ thống phân phối mặt hàng thép xây dựng của
VNSTEEL là cấp bách.
THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ
HỆ THỐNG PHÂN PHỐI MẶT HÀNG THÉP XÂY DỰNG CỦA VNSTEEL
Hiện nay VNSTEEL đã có 8 chi nhánh, 54
cửa hàng phân phối thép được phân bổ rộng
Phạm Thị Mai Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 99 - 104
100
khắp trên địa bàn cả nước, tiêu thụ 70 - 75%
tổng lượng thép sản xuất ra. VNSTEEL có
kênh bán hàng qua nhà phân phối, chủ yếu
bán cho các công trình trọng điểm quốc gia,
trong đó tỷ lệ cung ứng cho các công trình
trọng điểm quốc gia qua kênh này chiếm 25 -
30%. Các doanh nghiệp (DN) thuộc
VNSTEEL tổ chức tiêu thụ sản phẩm thép
theo hai mô hình: (i) Thông qua hệ thống chi
nhánh, cửa hàng trực thuộc với lượng thép tự
tiêu thụ 70%; (ii) Thông qua nhà phân phối
(Thép Miền Nam và các liên doanh bán sản
phẩm). Trong đó, hệ thống bán buôn cấp 1
bao gồm 30 DN như: Thái Hưng, Sơn
Trường, Xuân Hòa,… Riêng VNSTEEL có 5
công ty gồm 36 chi nhánh, xí nghiệp và 50
cửa hàng.
Hệ thống tổ chức kinh doanh và lưu thông của
VNSTEEL được kiến tạo và vận hành theo sơ
đồ ở hình 1.
Theo mô hình trên, VNSTEEL tổ chức tiêu
thụ sản phẩm thép theo ba hệ thống chủ yếu:
- Hệ thống lưu thông thép do các công ty sản
xuất thép 100% vốn của VNSTEEL tổ chức
và quản lý: Trong hệ thống này, tiêu thụ qua
mạng lưới các chi nhánh, cửa hàng chiếm
khoảng hơn 70% khối lượng thép sản xuất
của các công ty. Giá bán thép do nhà máy sản
xuất quy định thống nhất trong hệ thống chi
nhánh và cửa hàng, có cơ chế chiết khấu theo
khối lượng và địa phương.
Hình 1. Hệ thống tổ chức kinh doanh và lưu thông thép của VNSTEEL
Tổng công ty Thép Việt Nam (VNSTEEL)
Công ty SX thép
(100% vốn
trong nước)
Các công ty
thương mại
Công ty liên
doanh SX thép
Chi nhánh của
các đơn vị SX
Cửa hàng của
các chi nhánh
Các công ty, DN,
cửa hàng ngoài
VNSTEL
Nhập khẩu thép,
phôi thép
Nguồn hàng SX
của VNSTEEL
Công ty
bán buôn
Đại lý ở
các vùng Cửa hàng bán buôn,
bán lẻ trực thuộc
Các DN và
cửa hàng tư nhân
Đại lý
bán lẻ
Người tiêu dùng
Phạm Thị Mai Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 99 - 104
101
- Đối tượng khách hàng của các công ty sản
xuất thép nói trên gồm các doanh nghiệp
thương mại và hộ tiêu dùng trực tiếp. Tuy các
đơn vị sản xuất đều ưu tiêu bán trực tiếp đến
người tiêu dùng cuối cùng, nhưng trên thực tế
rất khó thực hiện do các nguyên nhân về vấn
đề tài chính, cơ chế thanh toán, chiết khấu
thương mại,v.v…
- Hệ thống lưu thông thép do các công ty
thương mại của VNSTEEL tổ chức và quản
lý: Trong hệ thống này, tiêu thụ qua mạng
lưới các chi nhánh, cửa hàng của các công ty
thương mại trực thuộc VNSTEEL khoảng
12,4% khối lượng thép SX của công ty SX
100% vốn của VNSTEEL.
- Các hệ thống lưu thông thép do các nhà
phân phối ngoài VNSTEEL tổ chức và quản
lý. Trên 50% lượng thép do các công ty SX
100% vốn của VNSTEEL được tiêu thụ qua
mạng lưới phân phối của các công ty thương
mại ngoài VNSTEEL. Đối với hệ thống này,
hầu như VNSTEEL không thể kiểm soát chất
lượng, giá bán và điều tiết lượng hàng cung
ứng trên các địa bàn. Mặc dù các công ty liên
doanh SX thép của VNSTEEL tiêu thụ thép
qua hệ thống các nhà phân phối cấp I.
Nhìn chung, số lượng các DN buôn bán cấp I
hoạt động ở quy mô cấp vùng (như các công
ty thương mại trực thuộc VNSTEEL, các DN
ngoài VNSTEEL) tham gia trong hệ thống
lưu thông thép của VNSTEEL là 40 đơn vị.
Mỗi công ty SX có khoảng 15 - 20 nhà phân
phối bán buôn cấp II có quy mô hoạt động
cấp tỉnh, thành và làm đại lý cho các DN bán
buôn cấp I. Mức độ cạnh tranh giữa các nhà
phân phối khá mạnh mẽ. Mỗi công ty SX có
khoảng 100 khách hàng tiêu thụ. Các nhà
phân phối thép của VNSTEEL đều tham gia
vào hệ thống phân phối thép của nhiều nhà
sản xuất khác nhau với quy mô nhỏ, nhưng
lớn nhất chỉ chiếm 5 - 7% lượng tiêu thụ hàng
tháng của VNSTEEL nên không chi phối
được thị trường.
Tuy nhiên, kênh phân phối của VNSTEEL
hoạt động chưa thực sự hiệu quả do thiếu
các biện pháp đánh giá, kiểm soát cũng như
khuyến khích các thành viên kênh hoạt
động. VNSTEEL lệ thuộc nhiều vào các công
ty thương mại kinh doanh thép để bán hàng
đến tay người tiêu dùng. Các công ty thương
mại và nhà phân phối thép được đối xử như
người sử dụng và không được quản lý tích
cực để đảm bảo độ phủ thị trường mục tiêu.
Các đại lý bán hàng do bị hạn chế về quyền
lợi khi bị kiểm soát giá nên sẽ hoạt động
cũng kém hiệu quả nếu như không có những
chính sách khuyến khích hợp lý. Bên cạnh
đó, việc bán hàng và phân phối được tổ
chức bởi từng nhà máy thép, trong đó mỗi
nhà máy tự chịu trách nhiệm bán thép do
nhà máy mình sản xuất. Độ phủ có sự
chồng chéo của các công ty phân phối sản
phẩm kim khí.
Trong giai đoạn hội nhập quốc tế với sự gia
nhập ngày càng nhiều các đối thủ cạnh tranh
nước ngoài, thì ngoài việc cung cấp những
sản phẩm đa dạng với chất lượng tốt,
VNSTEEL cần nhanh chóng xây dựng một hệ
thống phân phối rộng để đảm bảo kênh ngắn
nhưng vẫn cung cấp kịp thời sản phẩm tới thị
trường, và giảm giá thành tạo lợi thế cạnh
tranh so với các đối thủ khác.
Một điều rất bất ổn nữa trong khâu phân phối
trong thời gian qua tại các DN thép thuộc
VNSTEEL là phân phối theo kiểu bình quân,
nhỏ giọt cho các đại lý. Chẳng hạn như: tại thị
trường Hà Nội, TISCO có tới mấy chục đại
lý, nhưng mỗi tuần chỉ đưa đến từng đại lý
một lượng trung bình. Cách làm này dễ khiến
khách hàng hiểu nhầm là thiếu hàng, rồi giới
tư thương lại đồn thổi lên mỗi khi giá phôi
thép thế giới thay đổi. Hơn nữa, việc bán
thép, với một lượng sản phẩm phân phối hạn
chế như vậy, có thể dẫn tới các phản ứng tiêu
cực ở người bán. Công ty cần thực hiện các
hoạt động nghiên cứu nhu cầu khách hàng tại
các thị trường và đưa ra một chiến lược phân
phối sản phẩm tại các thị trường này một cách
hợp lý hơn.
Thực tế cho thấy một trong những điểm yếu
của các DN thép thuộc VNSTEEL là hệ thống
phân phối chưa đáp ứng được nhu cầu ngày
càng cao của người sử dụng thép, chưa thể
phân tích dự đoán được nhu cầu tiêu thụ thép
để có thể chủ động hoạt động kinh doanh và
Phạm Thị Mai Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 99 - 104
102
tránh rủi ro. Vì vậy, một trong những giải pháp quan trọng của các DN thép thuộc VNSTEEL là phát triển hệ thống phân phối và mở rộng thị trường tiêu thụ.
MÔ HÌNH PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
PHÂN PHỐI MẶT HÀNG THÉP XÂY
DỰNG CỦA VNSTEEL TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
Một là, xây dựng và tổ chức lại kênh phân
phối tiêu thụ sản phẩm thép theo định hướng
chiến lược về thị trường và khách hàng, phân
định rõ ràng vai trò lãnh đạo kênh, liên kết
chặt chẽ các thành viên kênh để tạo sức mạnh
tổng hợp. Cụ thể:
- Các DNSX cần chú trọng phát triển kênh
phân phối sản phẩm đến tận tay người tiêu
dùng để tăng lượng tiêu thụ sản phẩm được SX
ra, đồng thời giảm sự phụ thuộc vào các kênh
phân phối bên ngoài VNSTEEL. Như vậy, DN
mới có thể kiểm soát được chất lượng sản
phẩm thép và giá bán trên thị trường.
- Các DNSX thép liên kết chặt chẽ với các
doanh nghiệp lưu thông (các công ty kim khí)
trong VNSTEEL để tiêu thụ sản phẩm. Cùng
với đó, các DN thép thuộc VNSTEEL liên
doanh, liên kết với nhà đầu tư ở các địa
phương thực hiện các dự án chợ đầu mối kinh
doanh thép, siêu thị vật liệu xây dựng lớn… để
cung cấp thép cho các đầu mối này theo
phương thức giao hàng tại đại lý nhằm phát
triển tiêu thụ theo xu hướng tập trung hóa.
- Xây dựng kênh phân phối thép theo hướng tăng số đại lý bán hàng, giảm quan hệ “mua đứt bán đoạn” để kiểm soát được giá bán thép, giảm sự đầu cơ, găm hàng của các nhà phân phối làm ảnh hưởng tới sản xuất và tiêu thụ thép.
- Tổ chức mạng lưới bán thép tại các tỉnh, đặc biệt các tỉnh miền núi, nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
- Thực hiện hoạt động kinh doanh, phân phối thép xây dựng đúng với Quy chế “đại lý đúng là đại lý”; đã lập hệ thống thì phải kiểm tra, giám sát được hệ thống do mình lập ra.
- Phát triển thương hiệu để nâng cao hình ảnh và sự nhận biết của người tiêu dùng với sản phẩm của các DN thép thuộc VNSTEEL.
Hai là, tập trung củng cố và phát triển mô hình kênh phân phối thép xây dựng có quy mô lớn.
Các DN thép thuộc VNSTEEL hiện là nhà sản xuất và cung ứng thép lớn, hướng phát triển là phải xây dựng cho mình kênh phân phối thép có thương hiệu mạnh, đó là các kênh phân phối độc lập do nhà cung ứng quản lý và lãnh đạo kênh. Trong hệ thống phân phối sẽ có nhà phân phối chuyên nghiệp trực thuộc tập đoàn, các tổng đại lý và đại lý do nhà phân phối làm chủ.
Hình 2. Mô hình tổ chức hệ thống kênh phân phối của các nhà phân phối lớn
Khách hàng
lớn
Các nhà máy ở
phía Bắc
CTy TM / Nhà
phân phối
Các nhà máy ở
phía Nam
Tổ chức trung
tâm bán hàng
và phân phối
Khách hàng
trung bình
Các nhà máy thép
Khách hàng
mua lẻ
Khách hàng Bán hàng và phân phối
Phạm Thị Mai Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 99 - 104
103
Hình 3. Mô hình tổ chức bán hàng và phân phối
Ba là, tái cơ cấu, cải thiện hoạt động bán hàng và phân phối.
- Thiết lập hệ thống quản lý khách hàng quan trọng để phục vụ các khách hàng lớn và các dự án xây dựng lớn.
- Xây dựng mạng lưới các nhà phân phối độc quyền cho TISCO và Thép Miền Nam.
- Xây dựng và thống nhất chiến lược giá cho các kênh bán hàng khác nhau.
Bốn là, tổ chức Marketing và bán hàng theo sản phẩm, cùng với bộ phận biệt lập chuyên quản lý khách hàng chủ chốt.
- Tổ chức bán hàng và phân phối theo sản phẩm tạo sự tập trung về mặt quản lý để đảm bảo rằng các phân khúc sản phẩm mới sẽ được phát triển thành công và cho phép nhân sự bán hàng đảm nhận vai trò bán hàng chuyên biệt ở một số loại sản phẩm cụ thể như: thép cây, cốt thép bêtông, thép cuộn, thép hình… Ngoài ra, việc quản lý khách hàng chủ chốt là điều kiện cần thiết để có thể điều phối các yêu cầu của các khách hàng mua với số lượng lớn với các loại sản phẩm khác nhau.
Năm là, đẩy mạnh xuất khẩu. Trong hoàn cảnh tiêu thụ thép trong nước đang gặp vô vàn khó khăn như hiện nay, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu là một trong những cứu cánh cho nhiều DN. Các DN cần giữ vững xuất khẩu thép ở thị trường truyền thống và tìm thêm các thị trường mới như: Đông Nam Á, Mỹ, Canada, châu Phi…
Sáu là, áp dụng phương pháp quản lý khách hàng quan trọng, xây dựng một mạng lưới các nhà phân phối độc quyền và điều phối chính sách giá.
- Về quản lý khách hàng quan trọng: triển khai hệ thống quản lý khách hàng quan trọng và thành lập lực lượng bán hàng nội bộ để quản lý mối quan hệ với các công ty xây dựng lớn.
- Về phân phối: xây dựng một mạng lưới các nhà phân phối độc quyền cho TISCO và Thép Miền Nam và tích cực quản lý họ như một kênh bán hàng nhằm bao quát các khách hàng có quy mô vừa và nhỏ.
- Về định giá: điều phối chính sách giá cho các kênh bán hàng khác nhau và xây dựng một chiến lược định giá cho từng phân khúc cụ thể.
Thép dài Thép dẹt Quản lý khách hàng
chủ chốt
Miền
Nam
Miền
Bắc
Tổ chức
bán hàng & phân phối
Chịu trách nhiệm bán hàng
và phân phối sản phẩm
thép dài: thép cây, cốt thép
bê tông, cuộn, hình…
Chịu trách nhiệm bán hàng
và phân phối sản phẩm thép
dẹt: HRC, CRC, Tôn mạ,
thép tấm…
- Quản lý các khách hàng
chủ chốt (mua từ số
lượng nào đó trở lên), và
đóng vai trò đầu mối liên
hệ duy nhất cho khách
hàng.
- Điều phối các bộ phận
sản phẩm để giao hàng
theo yêu cầu của khách
hàng.
Phạm Thị Mai Yến Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 99 - 104
104
Hình 4. Mô hình quản lý khách hàng quan trọng, phân phối độc quyền
và chính sách giá của VNSTEEL
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Đào (Chủ nhiệm đề tài) (2001), Tổ chức hoạt động kinh doanh của Tổng công ty thép Việt Nam giai đoạn 2002 - 2005, Đề tài nghiên cứu khoa học, Tổng công ty thép Việt Nam, Hà Nội.
2. Hiệp hội thép Việt Nam (2002), Báo cáo nghiên cứu thị trường thép xây dựng tại Việt Nam.
3. Hiệp hội thép Việt Nam (2007), Các bài tham luận hội thảo Công nghiệp thép Việt Nam trong bối cảnh hội nhập WTO, Hà Nội.
4. Nguyễn Bách Khoa - Nguyễn Hoàng Long (2005), Marketing Thương mại, Nxb Thống kê, Hà Nội. 5. Tổng công ty thép Việt Nam (2010), Chiến lược phát triển cho Tổng công ty thép Việt Nam đến năm 2015 và
tầm nhìn cho các năm tiếp theo (2025), Hà Nội.
6. Philip Kotler, Marketing Management, Prentice Hall, New Jersey.
SUMMARY
DEVELOPMENT MODEL OF DISTRIBUTION SYSTEMS OF BUILDING STEEL
PRODUCTS OF VIETNAM STEEL CORPORATION IN THE CURRENT PERIOD
Pham Thi Mai Yen* College of Technology – TNU
In recent years, most of VNSTEEL’s products were sold through steel companies – the third Party, not
directly to the customers. Meanwhile, leading steel companies are reaching downstream premises and
controlling distribution to return more on capital. The enterprises subject to sailing result of trading companies, which made Steel Corporation of VNSTEEL as TISCO and South Steel impossible to
control the price and serve the incumbent, cannot control the supplementary profit. By studying steel
distribution system of VNSTEEL, this article proposes 03 developing model for steel distribution system of VNSTEEL at current time. First, organizing distribution channel of big distributors; second,
sales and distribution organization; third, managing model of important customers, exclusive distribution and price policy of VNSTEEL.
Key words: distribution system, distribution system model of steel for building.
Ngày nhận bài:14/3/2014; ngày phản biện:17/3/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Đoàn Quang Thiệu – Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0916.046.998
- Điều phối giá giữa các kênh khác
nhau.
- Xây dựng chiến lược giá cho các
phân khúc khách hàng khác nhau.
Quản lý
khách hàng
quan trọng
Phân phối
độc quyền
Chính sách
giá
- Thiết lập đội ngũ bán hàng nội bộ để quản
lý mối quan hệ với các công ty xây dựng lớn.
- Giảm sự lệ thuộc vào công ty thương mại-
bên thứ 3 trong việc bán hàng cho các khách
hàng quan trọng là các công ty xây đựng lớn.
- Xây dựng mạng lưới các nhà phân phối độc
quyền cho TISCO và VNSTEEL.
- Các nhà phân phối độc quyền được hỗ trợ tốt
hơn và được hưởng ưu đãi về điều khoản bán
hang, đổi lại họ chỉ bán sản phẩm của
TISCO/VNSTEEL.
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
105
THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HỆ THỐNG
ĐIỂM DÂN CƯ HUYỆN YÊN THẾ - TỈNH BẮC GIANG
THEO HƯỚNG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Đỗ Thị Tám1*, Nguyễn Ngọc Toàn2, Phan Đình Binh3
1Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội 2 UBND huyện Yên Thế, tỉnh Bắc Giang
3Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Nghiên cứu phân tích thực trạng hệ thống điểm dân cư (ĐDC) huyện Yên Thế trong bối cảnh cả
nước đang thực hiện chính sách “Tam Nông”. Kết quả nghiên cứu cho thấy huyện có 108.805
người, 28.096 hộ, với tổng diện tích tự nhiên là 30.308,61 ha. Đất khu dân cư là 2.242,82 ha (trong
đất khu dân cư, đất ở là 1.179,10 ha, chiếm 52,57%). Huyện gồm 21 xã, thị trấn với 210 điểm dân
cư. Trung bình mỗi xã có 10 điểm dân cư. Mỗi điểm dân cư trung bình có 518 người và 134 hộ.
Việc phân loại điểm dân cư dựa trên một số tiêu chí của tiêu chuẩn Việt Nam số 4418 năm 1987
và các tiêu chí xây dựng nông thôn mới theo Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của
Chính phủ. Kết quả phân loại 210 điểm dân cư có 18 điểm dân cư loại 1; 79 điểm dân cư loại 2
và 113 điểm dân cư loại 3. Đến năm 2020, hệ thống dân cư phát triển theo 4 vùng của huyện theo
đặc điểm phát triển của từng vùng với 48 điểm dân cư loại 1; 97 điểm dân cư loại 2 và 65 điểm
điểm dân cư loại 3.
Từ khóa: Đất khu dân cư, Yên Thế, nông thôn mới, chính sách tam nông
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Đất khu dân cư có vai trò rất quan trọng trong
đời sống con người. Đó là nơi ăn ở, sinh sống,
vui chơi, giải trí, nghỉ ngơi phục hồi sức lao
động của con người [6]. Tổ chức hợp lý mạng
lưới khu dân cư sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác quản lý Nhà nước về đất đai, đáp
ứng yêu cầu tổ chức và phát triển sản xuất của
các ngành kinh tế, thoả mãn tốt nhất nhu cầu
của nhân dân, tạo sự đa dạng cảnh quan và
bảo vệ môi trường. Năm 2009, Chính phủ ra
Quyết định số 491/QĐ-TTg về việc ban hành
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới [2].
Đây là căn cứ quan trọng để đánh giá và quy
hoạch hệ thống ĐDC một cách khoa học, hợp
lý nhằm phát triển vùng nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Huyện Yên Thế nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh
Bắc Giang với tổng diện tích tự nhiên
30.308,61 ha, dân số 108.805 người, phân bố
trong 21 xã, thị trấn (trong đó có 5 xã vùng
cao) [4]. Hiện nay, sự phân bố mạng lưới dân
cư trên địa bàn huyện còn một số vấn đề tồn
* Tel: 0986739960; Email:[email protected]
tại như: hệ thống đô thị phát triển chưa ổn
định, cơ sở hạ tầng ở nhiều ĐDC nông thôn
còn thiếu, các công trình công cộng còn chưa
đảm bảo. Vì vậy, đánh giá thực trạng và định
hướng phát triển hệ thống ĐDC một cách
khoa học trên cơ sở đảm bảo có đủ quỹ đất để
phục vụ cho việc thực hiện các dự án phát
triển kinh tế đồng thời nâng cao chất lượng
cuộc sống của người dân trong huyện là rất
cần thiết.
Bài viết phân tích thực trạng việc tổ chức sử
dụng đất trong các ĐDC huyện Yên Thế, làm
cơ sở xây dựng định hướng phát triển hệ
thống ĐDC hợp lý đáp ứng nhu cầu phát triển
kinh tế, xã hội theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu
Số liệu thứ cấp được thu thập từ các cơ quan
Nhà nước, các sở, các phòng ban trong huyện.
Nguồn số liệu sơ cấp thu thập bằng phương
pháp điều tra trực tiếp từ 210 ĐDC thông
qua bộ câu hỏi soạn sẵn và điều tra bổ sung
từ thực địa. Các tiêu chí điều tra từ các ĐDC
gồm: thông tin chung về ĐDC; thực trạng sử
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
106
dụng các loại đất trong ĐDC; cơ sở hạ tầng
trong ĐDC; kinh tế, xã hội và môi trường
trong ĐDC.
Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu đất đai được xử lý bằng phần mềm EXCEL để thống kê toàn bộ diện tích đất đai của huyện và thống kê mô tả (tính số trung bình, tần suất, phần trăm, độ lệch) để mô tả đặc điểm của các ĐDC.
Phương pháp thống kê: dùng để thống kê toàn bộ diện tích đất đai của huyện theo sự hướng dẫn thống nhất của Bộ Tài nguyên và Môi trường, phân nhóm các số liệu điều tra để xử lý và tìm ra xu thế biến động đất đai.
Phương pháp phân loại hệ thống ĐDC: căn cứ vào một số tiêu chí của tiêu chuẩn Việt Nam số TCVN 4418 năm 1987 và Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới [2] gồm 5 nhóm tiêu chí là: quy hoạch, hạ tầng kinh tế xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất, văn hóa-xã hội - môi trường, và hệ thống chính trị. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của huyện, các tiêu chí trên được tổng hợp thành 9 nhóm. Mỗi nhóm tiêu chí được phân thành 4 cấp, tương ứng với 4 điểm (bảng 3). Điểm số của mỗi ĐDC được tính bằng cách cộng điểm của 9 nhóm tiêu chí trên. Phân loại ĐDC được xác định căn cứ vào điểm số của mỗi ĐDC: ĐDC loại 1: có điểm số trên 25 điểm; ĐDC loại 2: có điểm số từ 20-25 điểm; ĐDC loại 3: có điểm số dưới 20 điểm. Định hướng sử dụng đất khu dân cư trong tương lai được tính toán dựa trên định mức sử dụng đất cấp huyện của Bộ TN&MT, với các loại đất chính là đất ở, đất giao thông và đất xây dựng các công trình công cộng. Trong quá trình nghiên cứu có tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc cảnh quan và quy hoạch.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Thực trạng phát triển hệ thống ĐDC huyện Yên Thế
Thực trạng phân bố các khu dân cư
Huyện có 2.242,82 ha đất khu dân cư, trong đó đất ở là 1.179,10 ha, chiếm 52,57%. Đất khu dân cư gồm 2 loại chính: đất khu dân cư đô thị có 133,81 ha (diện tích đất ở đô thị là 60,11 ha, đất xây dựng công trình công cộng là 14,33 ha, đất giao thông là 40,76 ha, đất
cây xanh là 6,22 ha) và đất khu dân cư nông thôn có 2109,01 ha (diện tích đất ở là 1118,99 ha, đất xây dựng công trình công cộng là 116,79 ha, đất giao thông là 646,42 ha, đất cây xanh là 140.07 ha). Tổng số ĐDC toàn huyện là 210 ĐDC, phân bố trong 21 xã và thị trấn. Bình quân số ĐDC trên xã là 10 điểm. Tổng dân số toàn huyện là 108.805 người và 28.096 hộ. Bình quân trên một ĐDC có 518 người và 134 hộ. Mức độ tập trung dân cư thấp hơn nhiều so với huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương với bình quân 1377 khẩu/ĐDC và 410 hộ/ĐDC [5], huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa bình quân mỗi ĐDC có 677 người và 166 hộ [1]. Hệ thống ĐDC phát triển theo 4 vùng:
- Vùng trung tâm gồm 6 xã với 47 ĐDC. Bình quân số ĐDC/xã là 7,8; số người/ĐDC là 568 và số hộ/ĐDC là 138, lớn hơn so với bình quân chung toàn huyện và với vùng khác trong huyện.
- Vùng Tây Bắc gồm 5 xã với 62 ĐDC, bình quân mỗi xã có 12,4 ĐDC.
- Vùng Đông Nam gồm 7 xã với 71 ĐDC, bình quân mỗi xã có 10,1 ĐDC. Vùng này dân cư sống tập trung thành ĐDC lớn, bình quân dân số/ĐDC và số hộ/ĐDC cao hơn so với mức bình quân chung của huyện.
- Vùng Tây Nam gồm 3 xã với 30 ĐDC. Bình quân ĐDC/xã là 10, số người/xã là 522 người và số hộ/xã là 143 hộ.
Thực trạng sử dụng đất khu dân cư
Trong đất khu dân cư, đất ở có 1.179,10 ha chiếm 52,57%. Xét về cơ cấu đất ở trong khu dân cư, tỉ lệ này thấp hơn rất nhiều so với huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương với 82,14% [6], huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa với 76,95% [1]; và cao hơn huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định với 50,38% [3] và chỉ bằng 0,60-0,78 lần so với định mức của Bộ TN&MT. Bình quân đất ở trên đầu người là 108,37 m2, cao hơn từ 1,20 - 1,55 lần so với định mức. Trong đó, vùng Trung tâm có diện tích đất ở bình quân cao nhất là 118,4m2 và cao hơn định mức từ 1,32-1,69 lần. Thấp nhất là vùng Tây Bắc với diện tích đất ở bình quân là 103,03 m2, cao hơn định mức từ 1,14 - 1,47 lần. Vì vậy, trong tương lai cần hạn chế mở mới các ĐDC, tăng khả năng tự giãn trên đất vườn.
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
107
Bảng 1. Hiện trạng hệ thống điểm dân cư huyện Yên Thế
Tiêu chí Vùng
Trung tâm
Vùng
Tây Bắc
Vùng
Đông Nam
Vùng
Tây Nam
Toàn
huyện
1. Số điểm dân cư (điểm) 47 62 71 30 210
2. Số nhân khẩu (người) 26.708 28.445 38.002 15.650 108.805
3. Số hộ (hộ) 6.495 7.426 9.882 4.293 28.096
4. Số khẩu/ ĐDC (người) 568 459 535 522 518
5. Số hộ/ ĐDC (người) 138 120 139 143 134
6. Diện tích khu DC (ha) 543,05 589,35 832,36 278,06 2242,82
- Đất ở (ha) 316,21 293,07 407,46 162,36 1179,10
- Đất XD CTCC (ha) 40,29 20,25 56,1 14,48 131,12
- Đất giao thông (ha) 135,69 248,18 244,67 58,64 687,18
- Đất cây xanh (ha) 33,72 21,9 55,1 35,57 146,29
- Đất TTCN (ha) 7,51 2,74 55,29 1,37 66,91
- Đất khác 9,63 3,21 13,74 5,64 32,22
Bảng 2. So sánh thực trạng sử dụng đất trong khu dân cư của huyện Yên Thế
với định mức sử dụng đất cấp huyện của bộ Tài nguyên & Môi trường*
Loại đất trong khu dân cư
Vùng
Trung
Tâm
Vùng
Tây
Bắc
Vùng
Đông
Nam
Vùng
Tây
Nam
Bình
quân
huyện
Định
mức
So sánh
với định
mức của
Bộ (lần)
Đất ở
Cơ cấu (%) 58,23 49,73 48,95 58,39 52,57 67 - 87 0,60 - 0,78
Diện tích
(m2/người) 118,40 103,03 107,22 103,74 108,37 70 - 90 1,20 - 1,55
Đất XD
CTCC
Cơ cấu (%) 7,42 3,44 6,74 5,21 5,85 2 - 3 1,95 - 2,93
Diện tích
(m2/người) 15,09 7,12 14,76 9,25 12,05 2 - 3 4,02 - 6,03
Đất
giao
thông
Cơ cấu (%) 24,99 42,11 29,39 21,09 30,64 9 - 10 3,06 - 3,40
Diện tích
(m2/người) 50,81 87,25 64,38 37,47 63,16 9 - 10 6,32 - 7,02
Đất cây
xanh
Cơ cấu (%) 6,21 3,72 6,62 12,79 6,52 2 - 3 2,17 - 3,26
Diện tích
(m2/người) 12,63 7,70 14,50 22,73 13,45 2 - 3 4,48 - 6,73
Đất
TTCN
Cơ cấu (%) 1,38 0,46 6,64 0,49 2,98 8- 11 0,27 - 0,37
Diện tích
(m2/người) 2,81 0,96 14,55 0,88 6,15 8 - 11 0,56 - 0,77
*Công văn số 5763/BTNMT-ĐKTK ngày 25/12/2006 của Bộ Tài Nguyên & Môi trường
Đất xây dựng công trình công cộng có diện
tích là 131,12 ha, chiếm 5,85% đất khu dân
cư. Xét về cơ cấu cao gấp từ 1,95-2,93 lần so
với định mức. Diện tích bình quân trên đầu
người là 12,05 m2, cao hơn so với định mức
từ 4,02-6,03 lần. Vùng Tây Bắc có diện tích
bình quân thấp nhất trong huyện là 7,12
m2/người, cao hơn định mức là 2,37-3,56 lần.
Trong tương lai cần có giải pháp sử dụng hợp
lý quỹ đất này, giảm việc mở rộng các công
trình nhằm tránh lãng phí đất.
Đất giao thông trong khu dân cư có 687,18
ha, chiếm 30,64%. Xét về cơ cấu cao hơn
nhiều so với định mức (gấp từ 3,06-3,40 lần).
Bình quân trên đầu người là 63,16 m2, so với
định mức cao hơn 6,32-7,02 lần. Vùng có
diện tích bình quân đất giao thông cao nhất là
vùng Tây Bắc với diện tích 87,25 m2/người và
cao hơn định mức là 8,73-9,69 lần. Thấp nhất
là vùng Tây Nam với bình quân 37,47
m2/người, cao hơn định mức là 3,75-4,16 lần.
Trong tương lai, để tiết kiệm quỹ đất cho các
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
108
mục đích sử dụng khác, cần hoàn thiện hệ thống giao thông hiện có thay vì việc mở rộng hoặc
mở mới các tuyến giao thông.
Đất cây xanh có 146,29 ha, chiếm 6,52% đất khu dân cư. Xét về cơ cấu cao hơn so với định mức
từ 2,17 - 3,26 lần. Diện tích bình quân trên đầu người là 13,45 m2, cao hơn 4,48-6,73 lần so với
định mức.
Bảng 3. Kết quả phân cấp một số tiêu chí đánh giá điểm dân cư
Chỉ tiêu Thang
điểm
Kết quả đánh giá
Số lượng (%)
Nhóm A 210 100,00
A1: ĐDC có ý nghĩa lớn về hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển của huyện và trở lên 4 5 2,38
A2: ĐDC có ý nghĩa lớn về hành chính, kinh tế, văn hoá, xã hội ảnh
hưởng đến quá trình phát triển của Thị trấn, các trung tâm cụm xã 3 31 14,76
A3: ĐDC có ý nghĩa về kinh tế, xã hội tác động ảnh hưởng đến quá
trình phát triển của xã 2 66 31,43
A4: Các ĐDC còn lại 1 108 51,43
Nhóm B 210 100,00
B1: ĐDC có diện tích > 25 ha 4 1 0,48
B2: ĐDC có diện tích từ 15 - 25ha 3 25 11,90
B3: ĐDC có diện tích từ 10 - 15ha 2 85 40,48
B4: ĐDC có diện tích < 10ha 1 99 47,14
Nhóm C 210 100,00
C1: ĐDC có dân số > 900 dân 4 6 2,86
C2: ĐDC có dân số từ 600 - 900 dân 3 45 21,43
C3: ĐDC có dân số từ 300 - 600 dân 2 147 70,00
C4: ĐDC có dân số < 300 dân 1 12 5,71
Nhóm D 210 124,76
D1: ĐDC có các đường trục cứng hóa > 80% và đường ngõ xóm không
lầy lội 4 52 24,76
D2: ĐDC có các đường trục cứng hóa từ 60 - 80% và đường ngõ xóm
không lầy lội > 90% 3 26 12,38
D3: ĐDC có các đường trục cứng hóa nhỏ hơn 60% và đường ngõ xóm
không lầy lội > 90% 2 56 26,67
D4: ĐDC có các đường trục cứng hóa < 60% và đường ngõ xóm lầy lội 1 128 60,95
Nhóm E 210 100,00
E1: ĐDC có tỷ lệ nhà kiên cố > 80% và không có nhà tạm 4 17 8,10
E2: ĐDC có tỷ lệ nhà kiên cố từ 50 - 80% và tỷ lệ nhà tạm<5% 3 79 37,62
E3: ĐDC có tỷ lệ nhà kiên cố < 50 % và tỷ lệ nhà tạm < 10% 2 80 38,10
E4: ĐDC có tỷ lệ nhà tạm > 10% 1 34 16,19
Nhóm F 210 100,00
F1: ĐDC có tỷ lệ hộ dùng điện > 95%, tỷ lệ hộ dùng điện thoại > 70%
và tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh > 85% 4 102 48,57
F2: ĐDC có tỷ lệ hộ dùng điện từ 65% - 95%, tỷ lệ hộ dùng điện thoại
từ 50 - 70% và tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh từ 60 - 85% 3 58 27,62
F3: ĐDC có tỷ lệ hộ dùng điện từ 45% - 65%, tỷ lệ hộ dùng điện thoại
từ 30 - 50% và tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh từ 40 - 60% 2 34 16,19
F4: ĐDC có tỷ lệ hộ dùng điện < 45%, tỷ lệ hộ dùng điện thoại < 30%
và tỷ lệ hộ dùng nước hợp vệ sinh < 40% 1 16 7,62
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
109
Nhóm G 210 100,00
G1: ĐDC có tỷ lệ lao động qua đào tạo > 35% và tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp THCS được tiếp tục học THPT, bổ túc, dạy nghề > 85% 4 25 11,90
G2: ĐDC có tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 25% - 35% và tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học THPT, bổ túc, dạy nghề từ
65% - 85%
3 122 58,10
G3: ĐDC có tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 15% - 25% và tỷ lệ học
sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học THPT, bổ túc, dạy nghề từ
50% - 65%
2 47 22,38
G4: ĐDC có tỷ lệ lao động qua đào tạo < 15% và tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp THCS được tiếp tục học THPT, bổ túc, dạy nghề < 50% 1 16 7,62
Nhóm H 210 100,00
H1: ĐDC có tỷ lệ lao động nông nghiệp < 35% 4 7 3,33
H2: ĐDC có tỷ lệ lao động nông nghiệp từ 35% - 50% 3 1 0,48
H3: ĐDC có tỷ lệ lao động nông nghiệp từ 50% - 65% 2 11 5,24
H4: ĐDC có tỷ lệ lao động nông nghiệp > 65% 1 191 90,95
Nhóm I 210 100,00
I1: ĐDC có tỷ lệ hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa > 70% 4 78 37,14
I2: ĐDC có tỷ lệ hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa từ 65% - 70% 3 21 10,00
I3: ĐDC có tỷ lệ hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa từ 50% - 65% 2 66 31,43
I4: ĐDC có tỷ lệ hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa < 50% 1 45 21,43
Bảng 4. Thực trạng và định hướng phát triển hệ thống điểm dân cư huyện Yên Thế
Chỉ tiêu ĐVT Năm 2012 Năm 2020
Tổng số 1 2 3 Tổng số 1 2 3
1. Tổng dân số Người 108.805 13.672 41.808 53.325 120.400 33.194 54.016 33.190
2. Tổng số hộ Hộ 28.096 3.484 10.601 14.011 30.995 8.357 13.890 8.748
3. Quy mô hộ Người/Hộ 11,67 3,90 3,90 3,80 3,88 3,97 3,89 3,79
4. Diện tích đất
Khu dân cư Ha 2.242,81 288,53 860,16 1.094,12 2.597,14 931,54 1.045,25 620,35
5. Diện tích
đất ở Ha 1.179,10 144,73 459,79 574,57 1.316,68 416,62 558,48 341,58
6. Tổng số ĐDC
Điểm 210 18 79 113 210 48 97 65
7. Một số chỉ tiêu bình quân
- Diện tích đất
khu dân cư/ một ĐDC
Ha 10,68 16,03 10,89 9,68 12,37 19,41 10,78 9,54
- Số dân/ĐDC Người 518 759 529 471 573 691 556 510
- Số hộ/một ĐDC
Hộ 133 193 134 123 147 174 143 134
- Diện tích đất khu dân cư/hộ
m2 798,27 828,16 811,40 780,90 837,93 1.114,74 752,52 709,11
- Diện tích đất
ở/hộ m2 419,67 415,42 433,73 410,09 424,81 498,55 402,08 390,45
- Diện tích đất
khu dân cư/người
m2 206,13 211,04 205,74 205,18 215,71 280,63 193,51 186,91
- Diện tích đất
ở/người m2 108,37 105,86 109,98 107,75 109,36 125,51 103,39 102,92
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
110
Đất tiểu thủ công nghiệp trong khu dân cư có
66,91 ha, chiếm 2,98%. Xét về cơ cấu chỉ
bằng từ 0,27-0,37 lần so với định mức. Diện
tích bình quân toàn huyện là 6,15 m2/người,
thấp hơn 0,56-0,77 lần so với định mức. Tập
trung ở cụm công nghiệp Phồn Xương; Bố Hạ
và khu khai thác than Đông Sơn - Đồng Hưu;
và các khu làng nghề tiểu thủ công nghiệp ở
Bố Hạ, Hương Vỹ, Đông Sơn.
Diện tích đất khác có 32,22ha, đó là các di
tích trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế và các
khu tôn giáo tín ngưỡng trên địa bàn huyện.
Phân loại hệ thống điểm dân cư
Kết quả nghiên cứu cho thấy huyện Yên Thế
có 210 ĐDC trong đó có 18 ĐDC loại 1; 79
ĐDC loại 2 và 113 ĐDC loại 3. Huyện có 9
ĐDC đô thị (đều là ĐDC loại 1) và 201 ĐDC
nông thôn. Trong đó có 47,14% tổng số ĐDC
có quy mô diện tích nhỏ hơn 10 ha, cho thấy
quy mô đất đai của các ĐDC huyện Yên Thế
không cao. Nhóm ĐDC có diện tích từ 10 –
15 ha chiếm 40,48%. Các ĐDC có quy mô
lớn hơn chỉ chiếm 0,48% tổng số ĐDC. Các
ĐDC trong huyện có quy mô dân số ở mức
trung bình, trong đó chiếm khoảng 70% tổng
số ĐDC. Các ĐDC có quy mô dân số dưới
300 dân chỉ chiếm 5,71% tổng số ĐDC. Về
hệ thống hạ tầng kỹ thuật, và hệ thống đường
giao thông vẫn còn một lượng lớn ĐDC
đường ngõ xóm còn trong tình trạng lầy lội,
chiếm tới 60,95% tổng số ĐDC. Tình trạng
nhà tạm vẫn còn khá nhiều ở các ĐDC, chỉ có
17 ĐDC chiếm 8,10 % có tỷ lệ nhà kiên cố
lớn hơn 80% và không có nhà tạm. Hạ tầng
xã hội ở các ĐDC ở mức trung bình. Toàn
huyện vẫn còn đến 90,95% ĐDC có tỷ lệ lao
động nông nghiệp trên 65%. Hiện nay, có
37,14% số ĐDC có hộ đạt gia đình văn hóa
trên 70%.
Định hướng phát triển hệ thống điểm dân
cư huyện Yên Thế đến năm 2020
Căn cứ vào Quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch các ngành và Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của tỉnh
Bắc Giang và huyện Yên Thế; căn cứ kết quả
phân loại hệ thống ĐDC huyện Yên Thế năm
2013, dự báo đến năm 2020 dân số của huyện
là 120.400 người và 30.995 hộ. Định hướng
phát triển hệ thống ĐDC phát triển theo 4
vùng như sau:
* Vùng Trung tâm: Thị trấn Cầu Gồ đóng vai
trò là đô thị trung tâm của huyện với vị trí
thuận lợi, cơ sở hạ tầng đồng bộ và hoàn
thiện, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển kinh
tế xã hội của huyện. Cụm công nghiệp Phồn
Xương được quy hoạch gần với các ĐDC xã
Phồn Xương dọc đường TL398 và gần với
khu đô thị mới của thị trấn Cầu Gồ. Định
hướng đến năm 2020 cần mở rộng thị trấn lên
250 - 300 ha và xây dựng một khu đô thị mới
kết hợp với việc phát triển các khu dịch vụ chất
lượng cao với diện tích 15,08 ha tại phố Hoàng
Hoa Thám.
* Vùng Tây Bắc: khu vực ngã ba Mỏ Trạng
giữ vai trò phát triển kinh tế cho xã Tam Tiến
và là nơi tập trung đầu tư để xây dựng thành
trung tâm cụm xã của các xã vùng cao của
huyện. Đến năm 2020 vùng này sẽ quy hoạch
mở rộng khu vực Mỏ Trạng xã Tam Tiến
thành Thị trấn Mỏ Trạng với quy mô 260 ha
vai trò là trung tâm kinh tế xã hội, dịch vụ
thương mại, du lịch nghỉ dưỡng, tiểu thủ công
nghiệp của tiểu vùng phía Bắc huyện Yên Thế.
* Vùng Đông Nam: Với việc hình thành cụm
công nghiệp mới trong khu vực thị trấn và
Nhà máy xi măng mới nằm phía Tây và đặc
biệt là tác động của trục hành lang kinh tế
Nam Ninh- Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng,
trục vành đai 5 của Vùng Thủ đô Hà Nội thì
thị trấn Bố Hạ sẽ là một đô thị dịch vụ - công
nghiệp, dự kiến có quy mô dân số trong
khoảng 10.000 - 12000 người, diện tích cần
được mở rộng lên khoảng 250 - 300 ha để đáp
ứng nhu cầu phát triển mới.
* Vùng Tây Nam: Đến năm 2020, huyện
Yên Thế sẽ tập trung đầu tư phát triển cơ sở
vật chất hạ tầng, phát triển quy mô đất đai
khu vực đồi Bia xã An Thượng để đưa khu
vực này trở thành trung tâm cụm xã của
vùng Tây Nam và phấn đấu trở thành thị tứ.
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
111
Giải pháp phát triển hệ thống ĐDC
Giải pháp về chính sách: cần phải hoàn thiện
các chính sách về bồi thường, giải phóng mặt
bằng; tổ chức việc đấu thầu đất ở; khuyến
khích sử dụng đất theo nguyên tắc tiết kiệm,
có hiệu quả, bảo vệ tài nguyên đất và môi
trường; ưu tiên trong đầu tư cơ sở hạ tầng; ưu
tiên với các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng núi cao; khuyến khích sự tham gia
của của nhân dân trong quy hoạch xây dựng
nông thôn mới.
Giải pháp về quy hoạch: Việc sử dụng các
loại đất trong khu dân cư của huyện chưa hợp
lý so với định mức sử dụng đất trong khu dân
cư của Bộ TN&MT. Để các ĐDC phát triển
theo hệ thống, đảm bảo chất lượng, huyện
Yên Thế cần xây dựng đồng bộ và thống nhất
các loại quy hoạch: Quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế xã hội; Quy hoạch sử dụng đất;
quy hoạch phát triển các ngành; Quy hoạch
phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang
các khu dân cư hiện có và Quy hoạch nông
thôn mới tất cả các xã.
Giải pháp về huy động nguồn vốn: Để hoàn
thiện hệ thống cơ sở hạ tầng trong các ĐDC
đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn. Do vậy cần
phải có những chính sách thu hút vốn đầu tư
từ nhiều nguồn để xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn; đổi mới cơ chế tài chính, phát huy
nội lực.
KẾT LUẬN
Huyện Yên Thế có 210 ĐDC, phân bố trong
21 xã/thị trấn. Trung bình mỗi xã có 10 ĐDC
và mỗi ĐDC có 518 người, 134 hộ. Cơ cấu sử
dụng các loại đất trong khu dân cư chưa hợp
lý so với định mức sử dụng đất của Bộ
TN&MT. Huyện có 210 ĐDC (18 ĐDC loại
1,79 ĐDC loại 2 và 113 ĐDC loại 3), các
ĐDC phát triển theo 4 vùng: Trung tâm,
Đông Nam, Tây Nam và Tây Bắc. Định
hướng đến năm 2020, huyện sẽ có 210 ĐDC,
trong đó có 48 ĐDC loại 1, 97 ĐDC loại 2,65
ĐDC loại 3. Diện tích đất phi nông nghiệp
trong khu dân cư tăng lên 354,33 ha (đất ở
tăng lên 136,6 ha: đất ở đô thị tăng 58,58 ha,
đất ở nông thôn tăng 78,02 ha). Để phát triển
hệ thống ĐDC thống nhất và nâng cao chất
lượng cuộc sống, chính quyền địa phương cần
phải xây dựng hoàn chỉnh các loại quy hoạch
và có các chính sách huy động nguồn vốn từ
ngân sách Nhà nước và nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[. Hà Thế Anh, Đỗ Thị Tám (2012), “Thực trạng
và định hướng phát triển hệ thống điểm dân cư
huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa”, Tạp chí
Khoa học và Phát triển, Tập 10, số 7/2012. Trang
1014-1023.
2. Chính phủ (2009) Quyết định số 491/QĐ-TTg
ngày 16-4-2009 của Chính phủ về việc ban hành
Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
3. Vũ Văn Nam (2012), Thực trạng và định hướng
phát triển hệ thống điểm dân cư huyện Giao Thủy,
tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ nông nghiệp,
Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Phòng Thống kê huyện Yên Thế (2012), Niên
Giám thống kê.
5. Vũ Văn Trọng (2012), Thực trạng và định
hướng phát triển hệ thống điểm dân cư huyện
Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Luận văn thạc sĩ nông
nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp, Hà Nội.
6. Đỗ Đức Viêm (2005), Quy hoạch xây dựng và
phát triển điểm dân cư nông thôn, Nxb Xây dựng,
Hà Nội.
Đỗ Thị Tám và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 105 - 112
112
SUMMARY
CURRENT STATE AND ORIENTATION OF SYSTEM
OF RESIDENTIAL AREAS IN YEN THE DISTRICT,
BAC GIANG PROVINCE TOWARDS RURAL INNOVATION
Do Thi Tam1*, Nguyen Ngoc Toan2, Phan Dinh Binh3
1Hanoi University of Agriculture 2 People’s Committee Yen The district, Bac Giang province
3College of Agriculture and Forestry - TNU
The study aims at analyzing the nature of residential areas of Yen The district in response to “Tam
nong” policy. The results show that the district has a population of 108805 people, 28096
households, and a total area of 30308.61 hectares. In which, the land for residential areas is
2242.82 hectares, including 1179.10 hectares for housing (52.57%). It consists of 21 communes
with 210 residential areas. In average, each commune had 10 residential areas. Each residential
area includes 518 people and 134 households. Based on some criteria of Vietamese standards No.
4418 in 1987 and the criteria to build new rural areas, according to A Set of National Criteria for
Renewing Rural Areas in Decision No. 491/QD-TTg. Based on that, 210 residential areas of Yen
The were classified into 3 levels: level 1 with 18; level 2 with 79; and level 3 with 113 residential
areas. By 2020, the system of residential areas will develop in to 4 regions according to regional
advantages includings level 1 with 38; level 2 with 97; and level 3 with 65 residential areas.
Key words: Residential areas, Yen The, Rural innovation, “Tam nong” plolicy.
Ngày nhận bài:08/4/2014; ngày phản biện:24/4/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Đàm Xuân Vận – Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0986739960; Email:[email protected]
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
113
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở HUYỆN PHỔ YÊN –THÁI NGUYÊN
Ngô Xuân Hoàng*
Trường Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Sau gần hai năm triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới,
huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, bước đầu đạt được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên để xây
dựng chương trình nông thôn mới của huyện theo đúng kế hoạch đề ra, trong thời gian tới huyện
cần quan tâm đến triển khai thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: Hoàn thiện chính sách, công
tác điều hành quản lý; Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, tuyên truyền xây dựng nông thôn
mới, nâng cao nhận thức của cư dân nông thôn; Hoàn chỉnh quy hoạch và thực hiện quản lý theo
quy hoạch; Phát triển kinh tế, ổn định an sinh xã hội; Tổ chức tiếp nhận và huy động các nguồn lực
xây dựng nông thôn mới.
Từ khóa: Giải pháp, thúc đẩy, nông thôn mới, Phổ Yên, Thái Nguyên
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tại huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên, sau
gần hai năm triển khai thực hiện, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn
mới (MTQGXDNTM) đã trở thành phong trào được cả hệ thống chính trị và nhân dân
địa phương tích cực tham gia và bước đầu đạt được một số kết quả khả quan. Tuy nhiên,
Chương trình triển khai thực hiện còn chậm so với yêu cầu, một số tiêu chí cũng chưa thật
phù hợp với đặc thù kinh tế - xã hội của địa phương, một bộ phận cán bộ Đảng viên và
nhân dân nhận thức chưa rõ về vị trí, tầm quan trọng của Chương trình cũng như vai trò
chủ thể của người dân trong xây dựng nông thôn mới, bộ máy quản lý chưa hoàn thiện,
lãnh đạo các cấp, nhất là ở cơ sở còn nhiều vướng mắc trong chỉ đạo thực hiện.... Để khắc
phục dần những hạn chế trên đây, đúc rút những bài học kinh nghiệm cho Chương trình
mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới tại địa phương, chúng tôi đã tiến hành nghiên
cứu thực trạng xây dựng nông thôn mới ở huyện Phổ Yên, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm thúc đẩy quá trình này ở huyện Phổ Yên trong thời gian tới.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để có thông tin và số liệu phục vụ nghiên
cứu, chúng tôi đã điều tra sơ bộ 15 xã nằm
* Tel: 0912.140.868; Email: [email protected]
trong quy hoạch xây dựng nông thôn mới của
huyện, trong đó chọn bốn xã điểm để điều tra
chi tiết gồm (Tân Hương, Hồng Tiến, Đồng
Tiến, Nam Tiến), mỗi xã chọn ngẫu nhiên 50
hộ để điều tra thu thập thông tin. Các phương
pháp thu thập số liệu thứ cấp, thu thập số liệu
sơ cấp đã được sử dụng trong quá trình điều
tra 39 chỉ tiêu đánh giá 19 tiêu chí xây dựng
nông thôn mới. Phương pháp thống kê mô tả,
phương pháp tính toán so sánh, phương pháp
chuyên gia, chuyên khảo… đã được sử dụng
trong quá trình nghiên cứu.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Quá trình xây dựng nông thôn mới ở huyện
Phổ Yên
Công tác chỉ đạo, điều hành quản lý: Ban chỉ
đạo huyện đã quán triệt các văn bản chỉ đạo tới
tận các cơ sở trong toàn huyện. Lựa chọn các
nội dung đột phá để thực hiện. Thành lập Ban
chỉ đạo xây dựng nông thôn mới, ban hành các
nghị quyết, chương trình hành động, xây
dựng kế hoạch triển khai. Tổ chức phát động
và thực hiện phong trào thi đua “toàn dân
chung sức xây dựng nông thôn mới”. Huyện
cũng chỉ đạo các xã thành lập Ban chỉ đạo,
Ban quản lý xây dựng nông thôn mới. Thực
hiện triển khai rà soát đánh giá thực trạng nông
thôn để xác định điểm xuất phát xây dựng
nông thôn mới. Tích cực triển khai lập quy
hoạch, thực hiện các đề án phát triển kinh tế -
xã hội của huyện giai đoạn (2010-2015) gắn
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
114
với việc xây dựng nông thôn mới cụ thể trên
địa bàn. Tổ chức quán triệt các văn bản chỉ đạo
của cấp trên về xây dựng nông thôn mới đến
các xóm và đến các hộ dân.
Công tác đào tạo, tập huấn, tuyên truyền xây
dựng nông thôn mới
Năm 2013 Đài truyền thanh truyền hình huyện
đã có 320 tin bài tuyên truyền chủ trương,
chính sách, 48 chuyên mục về xây dựng nông
thôn mới. Ngoài ra tuyên truyền bằng băng
HD, đĩa CD về các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước về Chương trình xây dựng
nông thôn mới. Bên cạnh đó huyện cũng đã tổ
chức cho các xã xây dựng nông thôn (NTM)
thăm quan học tập kinh nghiệm xây dựng nông
thôn mới tại 2 xã ở tỉnh Tuyên Quang. Trong
năm 2012-2013, huyện đã tổ chức thực hiện
được 07 lớp tập huấn cho trên 453 lượt người
tham dự với nội dung “Cơ chế huy động
nguồn lực và quản lý tài chính ngân sách trong
Chương trình xây dựng NTM” và “Hướng dẫn
triển khai quy hoạch xây dựng NTM; Hướng
dẫn xây dựng đề án nông thôn mới, đề án phát
triển sản xuất”. Các xã đã tổ chức được 44 lớp
tập huấn với 2.733 lượt người tham gia về nội
dung xây dựng nông thôn mới.
Kết quả xây dựng nông thôn mới ở huyện
Phổ Yên
Xây dựng quy hoạch, phát triển sản xuất nâng
cao thu nhập cho người dân
Tính đến ngày 28/9/2012 toàn huyện đã có
quyết định phê duyệt đề án quy hoạch nông
thôn mới cho 15/15 xã trên địa bàn toàn
huyện, đạt 100%. Sau đó huyện đã tổ chức
tập huấn hướng dẫn các xã xây dựng đề án
xây dựng NTM, đề án phát triển sản xuất.
Tính đến ngày 31/12/2012 có 15/15 xã đã xây
dựng, trình phê duyệt đề án xây dựng NTM
và 15/15 xã đã xây dựng, trình phê duyệt đề
án phát triển sản xuất. Đến hết tháng 03/2013
hoàn thành phê duyệt các đề án NTM và đề
án phát triển sản xuất cho toàn bộ các xã
trong huyện. Năm 2013 các cơ quan, đơn vị
tổ chức thực hiện được 51 lớp đào tạo nghề
với số lao động theo học nghề là 2.500 người.
Hầu hết các lao động sau đào tạo đều có việc
làm bước đầu tạo thu nhập. Hàng năm, Trạm
khuyến nông tập huấn chuyển giao khoa học
kỹ thuật cho bà con nông dân, phối hợp với
các đơn vị thực hiện các mô hình để phát triển
sản xuất. Tính đến hết năm 2013 đã tổ chức
được 215 lớp với 4.270 lượt người tham gia.
Một số mô hình thực hiện và đạt kết quả cao
như: Mô hình trồng mới và trồng lại 100 ha chè
cành. Mô hình trồng cây thanh long 05 ha tại xã
Phúc Thuận. Mô hình chăn nuôi gà hướng thịt
quy mô gia trại với 6.000 con. Mô hình hỗ trợ
hộ nông dân nghèo và cận nghèo chăn nuôi gà
thả vườn, quy mô: 7.500 con.
Bảng 1. Kết quả xây dựng mô hình phát triển sản xuất, tập huấn KHKT và đào tạo nghề cho người dân
TT Nội dung Đơn vị
tính
Trang
trại
Hợp tác
xã
Doanh
nghiệp
1 Mô hình sản xuất 112 31 0
- Trồng trọt Mô hình SX 10
- Chăn nuôi Mô hình SX 94
- Lâm nghiệp Mô hình SX 2
- Thủy sản Mô hình SX 6
- Công nghiệp, Tiểu thủ công nghiệp Mô hình SX 31
- Làng nghề Mô hình SX
2 Tập huấn KHKT
- Số lớp Lớp 215
- Số người tham gia Người 4.270
3 Đào tạo nghề
- Số lớp đào tạo Lớp 51
- Số người tham gia Người 2.500
Nguồn: Phòng Nông nghiệp huyện Phổ Yên
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
115
Kết quả huy động các nguồn lực thực hiện
Huyện Phổ Yên, trong hai năm thực hiện xây
dựng nông thôn mới, tổng kinh phí đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn là 156.353 triệu đồng.
Trong đó ngân sách nhà nước là: 136.673 triệu đồng, vốn tín dụng: 4.000 triệu đồng,
vốn nhân dân đóng góp: 15.680 triệu đồng. Vốn đầu tư, hỗ trợ cho các nội dung (Quy
hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển sản xuất, tuyên truyền, tập huấn, đào tạo
nghề lao động nông thôn,...), trong đó tập trung chủ yếu cho xây dựng kết cấu hạ tầng
(135.884 triệu đồng) chiếm 87% tổng nguồn vốn thực hiện. Mức độ đầu tư của ngân sách
Nhà nước năm 2012 đã tăng hơn 2011 là 8.639 triệu đồng: Ngân sách trung ương tăng
4.358 triệu, tương đương 12,1%; vốn chương trình MTQGXDNTM tăng 1.550 triệu đồng,
tương đương 217,7%, đây là một tín hiệu tích cực thể hiện có sự quan tâm đầu tư của các
cấp tới phong trào xây dựng nông thôn mới. Tuy nhiên huy động từ khu vực dân cư lại
giảm đi 12.640 triệu đồng tương đương giảm khoảng 89% so với năm 2011, điều này là do
nguồn lực từ khu vực cộng đồng dân cư chủ yếu được đóng góp từ ngày công xây dựng
đường xá, kênh mương, cải tạo vườn tạp..., đã thực hiện phần nhiều ở năm 2011. Tỷ trọng
dành cho xây dựng kết cấu hạ tầng là chủ yếu, chiếm 87% nguồn lực thực hiện, tiếp theo là
đào tạo nghề cho lao động nông thôn, chiếm 15,6%; một số nội dung như xây dựng kết cấu
hạ tầng, phát triển sản xuất và đào tạo nghề cho lao động nông thôn thực hiện năm sau
đều cao hơn năm trước; một số nội dung còn lại như quy hoạch, tuyên truyền, tập huấn,
thực hiện giảm so với năm 2011, điều này là phù hợp với quá trình xây dựng nông thôn
mới ở địa phương.
Kết quả tổng hợp đạt được các tiêu chí quốc
gia về nông thôn mới
Tiêu chí để đánh giá kết quả xây dựng và
hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới bao gồm 19 tiêu chí, cụ thể như sau: Quy
hoạch và thực hiện quy hoạch; Giao thông; Thủy lợi; Điện nông thôn; Trường học; Cơ sở
vật chất văn hóa; Chợ nông thôn; Bưu điện; Nhà ở dân cư; Thu nhập; Hộ nghèo; Tỷ lệ lao
động có việc làm thường xuyên; Hình thức tổ
chức sản xuất; Giáo dục; Y tế; Văn hóa; Môi trường; Hệ thống tổ chức chính trị; Quốc
phòng, an ninh. Qua kết quả đánh giá cho thấy: 15 xã đã hoàn thành tiêu chí 1 (tỷ lệ đạt
100%); 09 xã hoàn thành tiêu chí 3 (tỷ lệ đạt 60%); 10 xã hoàn thành tiêu chí 4 (tỷ lệ đạt
67%); 10 xã hoàn thành tiêu chí 5 (tỷ lệ đạt 67%); 01 xã hoàn thành tiêu chí 7 (tỷ lệ đạt
7%); 10 xã hoàn thành tiêu chí 8 (tỷ lệ đạt 67%); 02 xã hoàn thành tiêu chí 9 (tỷ lệ đạt
13%); 05 xã hoàn thành tiêu chí 10 (tỷ lệ đạt 33%); 05 xã hoàn thành tiêu chí 11 (tỷ lệ đạt
33%); 04 xã hoàn thành tiêu chí 12 (tỷ lệ đạt 27%); 07 xã hoàn thành tiêu chí 13 (tỷ lệ đạt
47%); 07 xã hoàn thành tiêu chí 14 (tỷ lệ đạt 47%); 14 xã hoàn thành tiêu chí 15 (tỷ lệ đạt
93%); 06 xã hoàn thành tiêu chí 16 (tỷ lệ đạt 40%); 13 xã hoàn thành tiêu chí 18 (tỷ lệ đạt
87%); 15 xã hoàn thành tiêu chí 19 (tỷ lệ đạt 100%); các tiêu chí 2, 6 và 17 chưa có xã nào
thực hiện được.
Tổng hợp kết quả trong toàn huyện theo
nhóm cho thấy: Số xã đạt chuẩn nông thôn mới và nhóm 1 (đạt chuẩn từ 14-18 tiêu chí):
chưa có xã nào đạt được; nhóm 2 (đạt chuẩn từ 9-13 tiêu chí): có 09/15 xã đạt (tỷ lệ đạt
60%); nhóm 3 (đạt chuẩn từ 5-8 tiêu chí): có 04/15 xã đạt (tỷ lệ đạt 27%); nhóm 4 (đạt
chuẩn dưới 5 tiêu chí): có 02/15 xã đạt (tỷ lệ đạt 13%). Như vậy có thể nhận thấy đa số
các xã trong huyện mức độ thực hiện đạt mức 9 đến 13 tiêu chí (chiếm 60%). Đây là
cơ sở để lãnh đạo các cấp, các ngành tiến hành rà soát, lựa chọn ưu tiên đầu tư cho các
đơn vị có khả năng hoàn thành xây dựng nông thôn mới theo từng giai đoạn, đảm bảo
lộ trình đã đề ra. Các tiêu chí giao thông, cơ sở vật chất văn hóa, môi trường (hiện chưa
có xã nào thực hiện được) và một số tiêu chí có số ít đơn vị hoàn thành là chợ nông thôn,
nhà ở dân cư đạt chuẩn, cơ cấu lao động, thu nhập, hộ nghèo, đang là những vấn đề khó
khăn với huyện Phổ Yên sau gần 2 năm triển khai xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện. Đây là những tiêu chí mà huyện Phổ Yên cần tập trung và có giải pháp hiệu quả,
ưu tiên thực hiện để đưa chương trình xây dựng nông thôn mới trong toàn huyện về
đích đúng yêu cầu đề ra.
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
116
Bảng 2. Tổng hợp kết quả thực hiện các tiêu chí theo nhóm
TT Phân theo nhóm Thực hiện các tiêu chí Số xã Tỷ lệ (%) Ghi chú
1
Nhóm 1
Đạt 19 tiêu chí 0.0
2 Đạt 18 tiêu chí 0.0
3 Đạt 17 tiêu chí 0.0
4 Đạt 16 tiêu chí 0.0
5 Đạt 15 tiêu chí 0.0
6 Đạt 14 tiêu chí 0.0
7
Nhóm 2
Đạt 13 tiêu chí 1 6.7
8 Đạt 12 tiêu chí 2 13.3
9 Đạt 11 tiêu chí 4 26.7
10 Đạt 10 tiêu chí 0.0
11 Đạt 9 tiêu chí 2 13.3
12
Nhóm 3
Đạt 8 tiêu chí 2 13.3
13 Đạt 7 tiêu chí 0.0
14 Đạt 6 tiêu chí 1 6.7
15 Đạt 5 tiêu chí 1 6.7
16
Nhóm 4
Đạt 4 tiêu chí 2 13.3
17 Đạt 3 tiêu chí 0.0
18 Đạt 2 tiêu chí 0.0
19 Đạt 1 tiêu chí 0.0
20 Đạt 0 tiêu chí 0.0
Nguồn: Phòng NN&PTNT huyên Phổ Yên và điều tra của tác giả
Bảng 3. Mức độ phát triển kinh tế sau khi xây dựng nông thôn mới
TT Chỉ tiêu Năm
2010
Năm
2012
So sánh
Số tuyệt
đối
Số tương
đối
1 Thu nhập bình quân (Triệu đồng) 12,4 21,2 + 8,8 171,0
2 Tỷ lệ hộ nghèo (%) 8,3 6,2 - 2,1 74,6
3 Mô hình sản xuất hiệu quả (mô hình) 143 143 -
4 Giá trị sản xuất nông nghiệp (tỷ đồng) 459,6 497,2 +37,6 108,2
Nguồn: Phòng Thống kê huyện Phổ Yên
Kết quả phát triển kinh tế của nông hộ khi xây
dựng nông thôn mới
Kết quả điều tra quá trình xây dựng nông thôn
mới ở huyện Phổ Yên sau 2 năm triển khai
thực hiện cho thấy: Thu nhập bình quân đầu
người trong huyện đã tăng 8,8 triệu đồng lên
21,2 triệu đồng/năm so với 12,4 triệu đồng
năm 2010; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn
6,2% năm 2012 so với 8,3% năm 2010. Các
mô hình trồng mới và trồng lại 100 ha chè
cành, mô hình trồng cây thanh long ruột đỏ,
mô hình chăn nuôi gà thả vườn, trồng hoa ly,
hoa cúc, trồng nấm, nuôi thỏ, nuôi baba…,
được phát triển và nhân rộng ở nhiều địa
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
117
phương, mỗi năm tạo việc làm mới cho trên
4000 lao động nông thôn, góp phần tăng thu
nhập, cải thiện đời sống cho nông dân. Cùng
với thay đổi tư duy sản xuất, nhận thức của
người dân trong huyện về xây dựng nông
thôn mới cũng được nâng lên, họ cùng nhau
góp sức, chủ động thực hiện chương trình
NTM. Nhiều tiêu chí được huyện triển khai
đạt kết quả cao như: Quy hoạch; y tế; trường
học; điện nông thôn; bưu điện; thuỷ lợi.
Một số giải pháp thúc đẩy quá trình xây
dựng nông thôn mới cho huyện Phổ Yên
Hoàn thiện chính sách, công tác điều hành
quản lý
Bổ sung, hoàn thiện và trình cấp có thẩm
quyền ban hành các văn bản hướng dẫn thực
hiện còn thiếu; đồng thời rà soát bổ sung sửa
đổi các quy định, hướng dẫn đã có để phù hợp
với thực tiễn xây dựng NTM như: Cơ chế
lồng ghép các chương trình mục tiêu Quốc
gia trên địa bàn xã; Chính sách hỗ trợ thông
qua các tổ chức tín dụng, Quỹ đầu tư phát
triển địa phương... Hoàn thiện các chính sách
vĩ mô tạo cơ sở phát triển nông thôn bền
vững, các chính sách nên hướng về: huy động
nguồn lực để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng;
Thu hút đầu tư của các doanh nghiệp vào phát
triển sản xuất trên địa bàn… Tăng cường,
nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban chỉ đạo
các cấp: trên cơ sở tuyển dụng, đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu của
công cuộc xây dựng nông thôn mới. Nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã:
Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ làm
công tác xây dựng NTM gắn với chương trình
đào tạo công chức xã (đề án theo Quyết định
số 1956/QĐ-TTg). Tăng cường công tác kiểm
tra, đôn đốc: giám sát kịp thời, điều chỉnh
những vướng mắc cho phù hợp với thực tiễn,
xử lý nghiêm những hành vi, trường hợp thiếu
tích cực, thiếu trách nhiệm, tiêu cực trong quá
trình triển khai xây dựng NTM.
Tăng cường công tác đào tạo, tập huấn, tuyên
truyền xây dựng nông thôn mới, nâng cao
nhận thức của cư dân nông thôn
Tổ chức tuyên truyền sâu rộng, đồng thời
triển khai có hiệu quả các phong trào thi đua,
đánh thức tính năng động, tiềm tàng của
người dân. Công tác tuyên truyền cần phải
hướng tới mọi giai cấp, tầng lớp trong cộng
đồng. Công tác tuyên truyền cần phải thường
xuyên, liên tục, mọi lúc, mọi nơi và được tiến
hành bằng nhiều phương pháp linh hoạt. Tăng
cường tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện các chương trình cụ thể như: chuyển đổi
cơ cấu giống cây trồng, vật nuôi; sản xuất
theo quy hoạch các vùng kinh tế, dồn điền,
đổi thửa, đưa công nghệ khoa học, kỹ thuật và
cơ giới hoá trong sản xuất.
Hoàn chỉnh quy hoạch và thực hiện quản lý
theo quy hoạch
Rà soát hiện trạng, bổ sung điều chỉnh quy
hoạch đảm bảo hiện đại, văn minh, bền vững,
ổn định cho phát triển sản xuất, phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương. Khảo sát,
nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung, quy hoạch
tổng thể phát triển kinh tế, xã hội của huyện,
trong đó rà soát, bổ sung quy hoạch sản xuất
nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát huy
lợi thế so sánh của từng vùng, bố trí cơ cấu
cây, con, tăng cường đầu tư và nâng cao chất
lượng, hiệu quả các vùng chuyên canh, ưu
tiên phát triển các cây trồng, vật nuôi có quy
mô sản xuất lớn và thị trường ổn định như
lúa, ngô, chè, rau, trâu, bò, lợn… chú trọng
đến hàng nông sản có ưu thế của từng vùng.
Tiếp tục thực hiện quy hoạch và xây dựng các
trung tâm xã, cụm xã, thị trấn theo hướng đô
thị hoá, tạo diện mạo mới cho nông nghiệp,
nông thôn và là cơ sở để giúp đỡ người dân
từng bước chuyển dịch từ sản xuất thuần nông
sang thương mại, dịch vụ .
Phát triển kinh tế, ổn định an sinh xã hội
Đổi mới và xây dựng các hình thức tổ chức
sản xuất, dịch vụ có hiệu quả. Nhân rộng các
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
118
hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu
quả như: tổ, nhóm, hiệp hội làng nghề, hợp
tác xã... với phương châm: “Theo điều kiện
cụ thể từng địa phương, để lựa chọn phương
án thực hiện phù hợp với quy mô lớn theo
hướng sản xuất hàng hoá”. Đẩy mạnh nghiên
cứu chuyển giao Khoa học công nghệ phục vụ
sản xuất. Tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân
rộng, mở rộng các dịch vụ phục vụ sản xuất
nông nghiệp như bảo vệ thực vật, vật tư nông
nghiệp, quản lý và đổi mới hoạt động của các
loại hình hợp tác xã nông nghiệp, làm cầu nối
để nhân dân thực sự tiếp cận với các dịch vụ
theo cơ chế thị trường. Phát triển mạnh công
nghiệp, dịch vụ, thực hiện công nghiệp hoá
nông thôn. Làm tốt công tác tuyên truyền, vận
động để huy động nguồn lực từ các tổ chức,
doanh nghiệp và nhân dân (tiền, ngày công,
hiến đất, vật tư…).
Tổ chức tiếp nhận và huy động các nguồn lực
xây dựng nông thôn mới
Tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu
tư, khuyến khích các thành phần kinh tế trong
và ngoài nước tham gia phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn. Nghiên cứu, rà soát
và đề xuất sửa đổi, bổ sung quy định về cơ
chế lồng ghép các nguồn vốn từ các chương
trình, dự án đầu tư trên địa bàn; ưu tiên đầu
tư, hỗ trợ cho 4 xã điểm xây dựng NTM và
các xã có khả năng hoàn thành xây dựng
NTM trong giai đoạn 2011-2020. Đổi mới các
hình thức, phương pháp để nâng cao hiệu quả
huy động các nguồn vốn đầu tư, đặc biệt chú
trọng đến thu hút đầu tư từ cộng đồng dân cư
để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng; thu hút đầu
tư của các doanh nghiệp vào phát triển sản
xuất trên địa bàn. Ban hành cơ chế quản lý,
chính sách hỗ trợ cho xây dựng nông thôn
mới ở địa phương thông qua các ngân hàng,
các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư phát triển địa
phương, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân
có điều kiện tiếp cận với nguồn vốn ưu đãi
đầu tư cho khu vực nông thôn.
KẾT LUẬN
Sau 2 năm thực hiện Chương trình mục tiêu
Quốc gia xây dựng nông thôn mới tại huyện
Phổ Yên, với sự đồng lòng chung sức của
toàn thể nhân dân trong huyện, chương trình
xây dựng nông thôn mới huyện Phổ Yên
bước đầu đã đạt được một số kết quả khả
quan: Giá trị sản xuất nông nghiệp đã tăng
8,17%; cơ cấu cây trồng vật nuôi có sự
chuyển dịch đúng hướng; diện tích, số lượng
cây con có giá trị kinh tế cao đang dần được
nâng lên; tỷ trọng nông nghiệp tuy giảm
nhưng chất lượng tăng lên; hệ thống hạ tầng
giao thông, điện, nước sinh hoạt, kênh
mương thủy lợi được đầu tư bước đầu đã
đáp ứng yêu cầu sản xuất và sinh hoạt; cơ
cấu lao động nông thôn chuyển dịch theo
hướng giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp, tăng
tỷ lệ dịch vụ, công nghiệp; đời sống vật chất
và tinh thần của người dân nông thôn được
cải thiện; hệ thống chính trị được củng cố,
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững. Tuy nhiên so với bộ tiêu chí Quốc
gia về nông thôn mới thì huyện còn nhiều
việc phải làm trong thời gian tới để có thể
đưa chương trình xây dựng nông thôn mới
của huyện về đích đúng thời gian đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Vũ Trọng Khải (2004), Tổng kết và
xây dựng mô hình phát triển Kinh tế - Xã hội nông
thôn mới kết hợp truyền thống làng xã với văn
minh thời đại, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.
2. GS.TS. Bùi Xuân Lưu (2004), Bảo hộ hợp lý
nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb Thống kê, Hà Nội.
3. GS.TS. Đỗ Kim Chung, PGS.TS. Kim Thị
Dung, “Chương trình nông thôn mới ở Việt Nam -
một số vấn đề đặt ra và kiến nghị”, Tạp chí Phát
triển kinh tế, số 262 tháng 8/2012.
4. Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020,
www.nongthonmoi.gov.vn/.
5. Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục
tiêu Quốc gia Xây dựng nông thôn mới huyện Phổ
Yên 02 năm 2011- 2012, tháng 2/2013.
6. Báo cáo kết quả thực hiện 02 năm Chương
trình MTQG xây dựng NTM tỉnh Thái Nguyên,
phương hướng, nhiệm vụ công tác trọng tâm năm
2013 của tỉnh Thái Nguyên, tháng 3/2013.
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
119
SUMMARY
SOLUTIONS PRIMARILY TO PROMOTE THE PROCESS OF BUILDING
NEW RURAL MODEL IN PHO YEN DISTRICT -THAI NGUYEN PROVINCE
Ngo Xuan Hoang *
College of Economic and Technology – TNU
After nearly two years of implementing the national target program on building new rural areas,
Pho Yen district, Thai Nguyen province, initially achieved some positive results. However, the
program to build new rural district in accordance with the plan, in the future, regardless of the
district implemented a number of measures primarily follows: Completing the policy, the
administration management justice; Intensify training, training, dissemination of new rural
construction, to raise awareness of rural residents; Complete planning and implementation
management as planned; Economic development, stable social security; The receiving
organization and mobilization resources for building a new countryside.
Key words: Solutions, promote, rural new model, Pho Yen, Thai Nguyen
Ngày nhận bài:22/8/2014; ngày phản biện:15/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Ứng Trọng Khánh – Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0912.140.868; Email: [email protected]
Ngô Xuân Hoàng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 113 - 119
120
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
121
ĐỊNH HƯỚNG QUẢN LÝ, TỔ CHỨC ĐÀO TẠO CHƯƠNG TRÌNH TIÊN TIẾN
ĐÁP ỨNG NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA KIỂM ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH ABET
Đỗ Lệ Hà*
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Chương trình tiên tiến (CTTT) gồm 35 chương trình được triển khai tại 23 trường đại học hàng
đầu Việt Nam trên cơ sở áp dụng chương trình đào tạo gốc đang được triển khai tại các trường đại
học tiên tiến của Hoa Kỳ và được giảng dạy bằng tiếng Anh trong điều kiện tốt nhất của các
trường đại học tại Việt Nam. Các CTTT được nhập khẩu về Việt Nam đều đã được kiểm định theo
các tiêu chuẩn khác nhau, trong đó, các chương trình thuộc khối ngành kỹ thuật được kiểm định
theo tiêu chuẩn khối Kỹ thuật Công nghệ (Accreditation Board of Engineering and Technology -
ABET). Những kinh nghiệm trong việc định hướng quản lý, tổ chức đào tạo CTTT dựa trên các
yêu cầu cơ bản của tiêu chuẩn kiểm định ABET tại trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH
Thái Nguyên được trình bày trong bài báo này cho thấy đây là một hướng tiếp cận mới trong việc
quản lý, tổ chức đào tạo đại học tại Việt Nam. Hơn nữa, điều này chứng minh cho việc xây dựng
mô hình đổi mới trong giáo dục đại học là hoàn toàn có cơ sở thực tiễn.
Key words: Kiểm định chương trình; ABET; CTTT; Quản lý tổ chức đào tạo
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào
tạo Việt Nam là chủ trương quan trọng của
Đảng và Nhà nước nhằm đưa giáo dục và đào
tạo nước nhà lên ngang tầm với khu vực và
quốc tế, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công
nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Một
trong những hướng đổi mới giáo dục đại học
là triển khai các CTTT nhập khẩu từ các nước
phát triển chủ yếu từ Hoa Kỳ nhằm nhập khẩu
một mô hình đào tạo mới vào Việt Nam để từ
đó xây dựng các mô hình đào tạo tiên tiến cho
đất nước [1].
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp - Đại
học Thái Nguyên là một trong 23 trường đại
học hàng đầu của cả nước được giao nhiệm
vụ tổ chức đào tạo hai CTTT ngành Kỹ thuật
Cơ khí và Kỹ thuật Điện [1, 2]. Nội dung của
“Đề án đào tạo theo các chương trình tiên tiến
của Nhà nước” chỉ rõ kiểm định chương trình
là một vấn đề mà các trường tổ chức CTTT
bắt buộc phải thực hiện. Xác định được đây là
một công việc rất lớn, đòi hỏi phải có quá
trình thực hiện nên ngay từ khi bắt đầu triển
khai, Nhà trường đã mạnh dạn áp dụng những
yêu cầu cơ bản của các tiêu chuẩn kiểm định
* Tel: 0912.660.336; Email: [email protected]
ABET trong việc định hướng quản lý, tổ chức
đào tạo các CTTT. Thực tế sau 6 năm triển
khai chương trình, Nhà trường đã đạt được
những kết quả đầu tiên về đào tạo thông qua
việc xây dựng thành công môi trường đào tạo
quốc tế tại chính Nhà trường và chỉ ra rằng
CTTT chính là đòn bảy để Nhà trường định
hướng các hoạt động quản lý tổ chức đào tạo.
NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CỦA KIỂM
ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH THEO TIÊU CHUẨN ABET 2013-2014
Yêu cầu đối với người học
Trong quá trình triển khai đào tạo, Nhà
trường phải đánh giá được thành tích học tập của sinh viên để làm cơ sở cho việc giám sát,
thúc đẩy việc học tập của sinh viên, người học phải được Nhà trường thông báo về
chương trình đào tạo và các thông tin liên quan đến nghề nghiệp. Đảm bảo sinh viên tốt
nghiệp đáp ứng tất cả các yêu cầu đặt ra trong chương trình đào tạo.
Yêu cầu về chuẩn đầu ra
Sinh viên tốt nghiệp phải đạt được các yêu
cầu sau:
- Khả năng ứng dụng kiến thức, kỹ năng vào
giải quyết các vấn đề kỹ thuật.
- Khả năng áp dụng kiến thức về toán học,
khoa học và kỹ thuật.
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
122
- Khả năng thiết kế và tiến hành thí nghiệm,
cũng như để phân tích và diễn giải dữ liệu.
- Có khả năng hoạt động trên các nhóm đa
ngành.
- Khả năng xác định, xây dựng và giải quyết
các vấn đề kỹ thuật.
- Sự hiểu biết về trách nhiệm nghề nghiệp và
đạo đức.
- Khả năng giao tiếp hiệu quả.
- Kiến thức rộng cần thiết để hiểu được tác
động của các giải pháp kỹ thuật trong bối
cảnh toàn cầu, kinh tế, môi trường và xã hội.
- Nhu cầu và khả năng tham gia học tập
suốt đời.
- Kiến thức về các vấn đề đương đại.
- Khả năng sử dụng các kỹ thuật, kỹ năng và
công cụ kỹ thuật hiện đại cần thiết cho thực
hành kỹ thuật.
Yêu cầu về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo phải nhất quán với các
mục tiêu giáo dục và có thể đạt được kết quả
kỳ vọng của chương trình. Các yêu cầu về
chương trình đào tạo phải cụ thể với từng học
phần, giảng viên phải đảm bảo thực hiện đầy
đủ các yêu cầu của chương trình, phù hợp với
mục tiêu và tổ chức đào tạo của chương trình.
Điều này được thể hiện thông qua việc kết
hợp giữa kiến thức toán học ở bậc đại học và
các kiến thức khoa học ứng dụng, khả năng
áp dụng các chủ đề khoa học phù hợp với
chương trình…
Chương trình phải công bố mục tiêu đào tạo
sao cho phù hợp với nhiệm vụ của tổ chức,
nhu cầu của người học, phải có tài liệu tham
khảo, đảm bảo tính hệ thống, tính hiệu quả
của quá trình, có sự kiểm tra thường xuyên
việc đảm bảo mục tiêu của chương trình đào
tạo đối với sự phát triển của tổ chức và thị
trường lao động.
Yêu cầu về đội ngũ
Giảng viên giảng dạy chương trình phải có
chuyên môn phù hợp với chuyên ngành giảng
dạy thông qua trình độ, tính chuyên nghiệp,
kinh nghiệm, tính liên tục trong phát triển
chuyên môn, tính kỷ luật, khả năng giảng dạy
hiệu quả và kỹ năng giao tiếp. Tóm lại, giảng
viên phải có kiến thức và kinh nghiệm xã hội
rộng và sâu để đảm nhận toàn bộ chương
trình. Từng chuyên ngành đào tạo phải có đủ
số lượng giảng viên để duy trì tính liên tục, ổn
định, giám sát, tương tác và tư vấn sinh viên.
ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC TRONG
QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CTTT NHẰM ĐẠT
CHUẨN ABET TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP - ĐH THÁI
NGUYÊN
Từ kinh nghiệm thực tế trong việc triển khai
đào tạo các chương trình đại trà tại một
trường Đại học Kỹ thuật truyền thống kết hợp
với kinh nghiệm quản lý đào tạo được học tập
tại các trường đại học tiến tiến, nhằm triển
khai thành công CTTT đạt được những yêu
cầu cơ bản của chuẩn ABET, Nhà trường cần
phải có định hướng chiến lược trong quản lý
đào tạo CTTT một cách đúng đắn và phù hợp
nhất. Đó là phải đề ra được các chiến lược
quản lý nhằm xây dựng được một đội ngũ
năng động, sáng tạo, cơ sở vật chất tốt và môi
trường văn hóa làm việc và học tập hiện đại.
Chiến lược quản lý được bắt đầu triển khai từ
năm học 2013-2014 với những nội dung cụ
thể như sau: Quản lý theo chất lượng đầu ra;
trao quyền tự chủ về đánh giá chất lượng cho
các Khoa trong nhà trường; phân tích kỹ tất
cả các dữ liệu đầu vào và đầu ra của Nhà
trường; công khai minh bạch về chính sách và
tài chính của Nhà trường; cập nhật những
thông tin mới, kiểm soát và loại bỏ những ảnh
hưởng tiêu cực tác động đến các mặt hoạt
động của Nhà trường. Từ việc xây dựng và
hoàn thiện chiến lược quản lý, Nhà trường đã
thực hiện những công việc cụ thể trong việc
triển khai CTTT, cụ thể:
Xây dựng đội ngũ năng động và sáng tạo
Nhân tố đội ngũ là nhân tố quan trọng nhất để
duy trì sự tồn tại và khẳng định thương hiệu
của Nhà trường. Việc phát triển đội ngũ của
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
123
trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp được
tiến hành thông qua hai con đường đó là bồi
dưỡng tại chỗ và bồi dưỡng tại nước ngoài.
Đối với bồi dưỡng tại chỗ việc làm đầu tiên
có ý nghĩa quyết định sự thành bại của quản
lý đó là đổi mới tư duy trong đội ngũ giảng
viên về tác phong làm việc, về cách tiếp cận
với giáo dục đại học của các nước tiên tiến
thông qua việc nâng cao trình độ tiếng Anh.
Nhà trường định hướng không chỉ dừng ở chỗ
biết tiếng Anh mà còn phải sử dụng được
tiếng Anh thông qua việc giảng viên phải
được sử dụng tiếng Anh vào việc rà soát, điều
chỉnh chương trình đào tạo theo mô hình của
Hoa Kỳ cũng như việc sử dụng sách tiếng
Anh làm giáo trình cho các học phần kỹ thuật
và công nghệ. Bên cạnh đó, Nhà trường còn
tiến hành bồi dưỡng giảng viên ở nước ngoài
thông qua việc gửi giảng viên sang tập huấn ở
các trường đối tác nhằm trau dồi trình độ
ngoại ngữ, hoạt động chuyên môn và tiếp cận
nghiên cứu khoa học hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất tốt phục vụ đào
tạo: Bên cạnh nhân tố con người thì yếu tố cơ
sở vật chất để phục vụ đào tạo là vô cùng
quan trọng. Trong đó, Nhà trường đã tập
trung vào việc đổi mới tư duy trong đầu tư cơ
sở vật chất, thay vì đầu tư dàn trải, thì chỉ tập
trung khai thác có hiệu quả các cơ sở vật chất
hiện có, đặc biệt khai thác hệ thống máy móc
hiện đại tại các phòng thí nghiệm để thông
qua đó nâng cao trình độ chuyên môn, rèn
luyện năng lực nghiên cứu khoa học. Nhà
trường đổi mới định hướng đầu tư xây dựng
các phòng thí nghiệm chuyên sâu mũi nhọn,
các phòng thí nghiệm nghiên cứu tiến tới hội
nhập với quốc tế trong việc sáng chế ra các
sản phẩm mới thay thế cho việc nghiên cứu
khoa học mới chỉ dừng ở lý thuyết.
Xây dựng môi trường văn hóa làm việc và
học tập hiện đại: Một đội ngũ tốt, một
chương trình đào tạo tốt, một hệ thống cơ sở
vật chất hiện đại vận hành trên một môi
trường làm việc và học tập thiếu sáng tạo liệu
có thể đáp ứng được yêu cầu của một bộ tiêu
chí khắt khe và toàn diện như ABET? Và để
trả lời câu hỏi này, Nhà trường đã và đang
xây dựng cùng lúc các chiến lược đổi mới
song song và xây dựng một môi trường văn
hóa làm việc và học tập hiện đại là công việc
quan trọng nhất. Đó là phòng làm việc riêng
cho giảng viên, là việc đăng ký đề tài NCKH
theo hướng tạo ra sản phẩm. Đó là môi trường
để sinh viên được thể hiện khả năng thông
qua việc chủ động xây dựng được kế hoạch
học tập cho bản thân, xác định được mục tiêu
phấn đấu cá nhân và đáp ứng yêu cầu đầu ra
về chuyên môn, ngoại ngữ, kỹ năng nghề
nghiệp. Đó là nơi có các điều kiện đầy đủ về
học tập, sinh hoạt (khu liên hợp dịch vụ), thể
dục thể thao để mọi hoạt động của sinh viên
có thể gắn bó với nhà trường, tận dụng tất cả
thời gian hành chính của Nhà trường để học
tập theo nhóm, nghiên cứu khoa học và phát
triển các kỹ năng giao tiếp để thành công
trong tương lai.
NHỮNG KẾT QUẢ CƠ BẢN THU ĐƯỢC
TRONG TỔ CHỨC ĐÀO TẠO CTTT
Với định hướng chiến lược trong việc triển
khai đào tạo CTTT như ở trên, Nhà trường đã
thành công trong việc xây dựng môi trường
đào tạo quốc tế, tạo dựng được một mô hình
đào tạo mới trong Nhà trường để từ đó tạo
thành đòn bảy nhân rộng sang các chương
trình đào tạo khác của Nhà trường.
Kết quả thu được từ phía người học: về đầu
vào thì sinh viên CTTT cũng giống như sinh
viên các chương trình đại trà của nhà trường,
điểm khác biệt lớn nhất là sinh viên được học
tập trong môi trường với các giáo sư đến từ
nhiều trường đại học nước ngoài, mang theo
sự đa dạng về phương pháp giảng dạy, về văn
hóa, khối lượng giữa kiến thức lý thuyết và
thực hành, thực tập hiện đại. Khối lượng kiến
thức mà giáo sư cung cấp cho sinh viên
thường không quá lớn nhưng tính thực tiễn
của khối lượng kiến thức này cao hơn rất
nhiều so với khối lượng kiến thức “hàn lâm”
vẫn được cung cấp trong các trường đại học
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
124
Việt Nam. Hoạt động học có tính chất nghiên
cứu cao, bắt buộc người học phải chủ động,
sáng tạo trong việc tiếp nhận kiến thức. Bên
cạnh đó, phương pháp giảng dạy có tính
tương tác cao, sinh viên “bình đẳng” với giáo
sư trong hoạt động học tập. Ngôn ngữ học tập
bằng tiếng Anh. Để từ đó, kết quả sinh viên
tốt nghiệp có điểm Toefl- ITP từ 500 điểm trở
lên, có khả năng thiết kế, tư duy logic tốt,
kiến thức rộng về các vấn đề kỹ thuật hiện đại
do cập nhật nhanh từ những giáo sư nước
ngoài. Sinh viên học CTTT thường rất năng
động, khả năng giao tiếp tiếng Anh, kỹ năng
làm việc tốt nên rất thuận lợi trong việc tìm
học bổng, thực tập nghề nghiệp tại nước
ngoài và đặc biệt xin việc tại các công ty liên
doanh quốc tế tại Việt Nam. Năm học 2013-
2014, sinh viên CTTT đã đăng được 2 bài báo
trên các tạp chí nước ngoài, 5 sinh viên đi
thực tập tại nước ngoài trong thời gian 6
tháng - 1 năm, 100% sinh viên tốt nghiệp có
việc làm tại các doanh nghiệp nước ngoài
trong thời gian 1-3 tháng.
Kết quả thu được trong việc xây dựng đội
ngũ: Từ chiến lược về phát triển đội ngũ của
Nhà trường, trường Đại học Kỹ thuật Công
nghiệp đã có những “cuộc cách mạng” nhằm
nâng cao năng lực giảng dạy của giảng viên.
Về chuyên môn nghiệp vụ, Nhà trường đã và
đang tập trung kết hợp bồi dưỡng giảng viên
về kiến thức chuyên môn và tiếng Anh. Nhà
trường đã cử gần 50 giảng viên đi thực tập
chuyên môn và nâng cao trình độ tiếng Anh
tại Hoa Kỳ trong thời gian từ 2-5 tháng, tính
đến tháng 6/2014, 75% giảng viên của Nhà
trường đã đạt điểm Toelf- ITP từ 450 điểm trở
lên và một nửa trong số đó đã đạt điểm Toefl
– ITP 500. Nhà trường đã thành lập Khoa
Quốc tế với 4 bộ môn chuyên môn giảng dạy
bằng tiếng Anh. Nhà trường cũng bố trí
phòng làm việc cho giảng viên giống các
trường đại học ở nước ngoài nhằm tăng
cường tính tương tác giữa giảng viên và sinh
viên. Điều này đã phần nào hạn chế được việc
giảng viên chỉ tập trung việc học thuộc lòng
các dữ kiện (lý thuyết) trong giáo dục đại học
và thiếu các nghiên cứu hiện đại, giảm thiểu
tối đa tính thụ động và không muốn thay đổi
hoặc cải tiến của giảng viên.
Kết quả thu được về cơ sở vật chất: Trải
qua quá trình xây dựng và tích lũy, nhà
trường có hệ thống cơ sở vật chất tốt, cơ bản
đảm bảo nhu cầu học tập và sinh hoạt của
sinh viên. Nhà trường có 2 thư viện, đặc biệt
là thư viện sách tiếng Anh gần 3.000 cuốn với
hệ thống số hóa toàn bộ tài liệu. Nhà trường
cũng đang cho xây dựng khu liên hợp dịch vụ
cho sinh viên và đưa vào hoạt động từ tháng
9/2014, khu liên hiệp thể thể dục thể thao (sân
vận động, sân bóng cỏ nhân tạo).
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG QUẢN
LÝ NHẰM TRIỂN KHAI THÀNH CÔNG
CTTT TRÊN CƠ SỞ CÁC TIÊU CHUẨN
CƠ BẢN CỦA ABET
Từ chiến lược trong quản lý đào tạo CTTT
nhằm đạt chuẩn ABET đến những kết quả thu
được trong quá trình triển khai, với mục tiêu
phát triển tiếp sang các chương trình đại trà
khác, nhà trường đã rút ra một số kinh
nghiệm như sau:
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý và giảng
viên là chìa khóa của sự thành công
Do chương trình tiên tiến được giảng dạy
bằng tiếng Anh, có thể nói đây là rào cản lớn
nhất đối với giảng viên của Nhà trường. Một
số giảng viên được đào tạo ở nước ngoài về,
song vẫn không tự tin để giảng dạy. Vì vậy,
để bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ việc đầu
tiên là phải bồi dưỡng tiếng Anh. Về chuyên
môn, có thể tiến hành bằng hai con đường bồi
dưỡng tại chỗ và cử sang các trường đối tác
của CTTT để bồi dưỡng. Việc bồi dưỡng
ngoại ngữ và các kỹ năng trong nghiên cứu và
thực hành giảng dạy hiện đại cần có con
đường riêng đó là phát huy được nhận thức
của giảng viên trong việc cần phải có các kỹ
năng đó để phục vụ giảng dạy. Đặc biệt, Nhà
trường tạo cơ hội cho giảng viên cập nhật
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
125
những kiến thức mới về chuyên ngành và trực
tiếp giải quyết các vấn đề của thực tiễn để lấy
kinh nghiệm giảng dạy cho sinh viên. Nhà
trường có cơ chế đánh giá năng lực làm việc,
bồi dưỡng, đề bạt giảng viên thông qua việc
lượng hóa được khối lượng công việc và
những đóng góp, thành tích của giảng viên
đối với Nhà trường.
Tiếp tục có cơ chế đầu tư chọn lọc để nhân
rộng CTTT sang các chương trình đào tạo
khác phù hợp điều kiện thực tế của Nhà
trường và hướng phát triển của các trường
Đại học trên thế giới
Đến thời điểm hiện nay, kết quả lớn nhất mà
CTTT đạt được tại trường Kỹ thuật Công
nghiệp là đổi mới tư duy cho hơn 400 giảng
viên, bồi dưỡng được tiếng Anh cho trên 400
giảng viên và bồi dưỡng nghiệp vụ tại trường
đối tác của CTTT gần 100 giảng viên. Từ đó
khẳng định, CTTT có ý nghĩa vô cùng quan
trọng đối với các trường đại học ở ngoài các
thành phố lớn nơi mà còn nhiều hạn chế trong
việc hội nhập với các trường đại học của thế
giới. CTTT đã hoàn thành sứ mệnh xây dựng
một ngành, một khoa trọng điểm để từ đó lan
rộng sang toàn trường. Tuy nhiên, với mục tiêu
tiếp tục triển khai chương trình ở một cấp độ
mới và lan tỏa sang sâu, rộng và có hiệu quả
tích cực sang các chương trình đào tạo khác
đòi hỏi Nhà trường phải chọn lọc được ngành
đào tạo, quyết định mức đầu tư và lượng hóa
bằng các số liệu cụ thể mà các đơn vị được đầu
tư cam kết đạt được, giao quyền chủ động
trong việc quyết định hướng cho ngành sẽ
được đầu tư để phát triển cho Khoa triển khai.
Giao cho đơn vị toàn quyền quyết định việc
nâng cao chất lượng và cập nhật chương trình
đào tạo; cách thức để thiết lập một cơ chế
nhằm bảo đảm các nguồn lực được phân bổ
dựa trên thành tích công việc và chất lượng;
đào tạo năng lực cho giảng viên trong việc
thiết kế nội dung chương trình, phương pháp
sư phạm, tiếp xúc với sinh viên và nghiên cứu
thông qua các nỗ lực phát triển về mặt chuyên
môn nghiệp vụ có hệ thống; Cách thức tổ chức
lại khối lượng công việc để giảng viên có thêm
thời gian chuẩn bị giáo án, tiếp xúc với sinh
viên và thực hiện nghiên cứu.
KẾT LUẬN
Những kinh nghiệm được rút ra trong quá
trình triển khai, quản lý tổ chức đào tạo CTTT
chưa thực sự đủ để đáp ứng được những yêu
cầu của việc kiểm định chương trình. Việc
kiểm định chương trình đòi hỏi phải được áp
dụng trong điều kiện cụ thể tình hình hình của
từng Nhà trường, song những kinh nghiệm
này có ý nghĩa giúp cho Nhà trường rút kinh
nghiệm, tổng hợp để điều chỉnh công tác quản
lý một cách phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất, bên cạnh đó tích lũy được các biện pháp
quản lý phục vụ tốt cho quá trình tổ chức
kiểm định sau này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Đề án đào tạo
theo chương trình tiên tiến tại một số trường đại
học của Việt Nam giai đoạn 2008-2015, Hà Nội.
2. Các Giáo sư của các trường Đại học USA, Các
báo cáo kết thúc giảng dạy, Thái Nguyên.
3. Phạm Quốc Hùng, Giới thiệu về bộ tiêu chuẩn
ABET (tổng hợp), 2010
Đỗ Lệ Hà Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 121 - 126
126
SUMMARY
ORIENTING MANAGEMENT AND TRAINING ORGANIZATION
OF ADVANCED PROGRAM TO MEET THE BASIC REQUIREMENTS
OF ABET EDUCATION ACCREDITATION
Do Le Ha* College of Technology – TNU
35 Advanced Programs (APs) implemented in 23 leading university in Vietnam are based on
applying the original curriculums which are currently carrying out at advanced university in USA
and are taught in English in the best conditions of Vietnameseuniversity. APs imported to Vietnam
are accredited according to different criteria, in which technical programs are accredited by
Accreditation Board of Engineering and Technology (ABET). Experiences in orienting
management and training organization of APs based on the basic requirements of ABET in Thai
Nguyen University of Technology presented in this paper show that this is a new approach in
management and training organization for Vietnamese higher education. Furthermore, this certifies
that building an innovation model in higher education is completely factual basis.
Key words: accreditation; ABET; AP; trainingorganization
Ngày nhận bài:27/8/2014; ngày phản biện:15/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Nguyễn Thị Thu Hương – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0912.660.336; Email: [email protected]
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
127
PHÁT TRIỂN THANG ĐO MỘT SỐ KHÁI NIỆM TIẾP THỊ
DỰA VÀO KHÁCH HÀNG
Lê Đăng Lăng1*, Lê Tấn Bửu2
1Trường Đại học Kinh tế-Luật 2Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
TÓM TẮT Nghiên cứu nhằm phát triển thang đo lường khái niệm bao bì sản phẩm, ấn tượng cửa hiệu, độ phủ
bán hàng, quảng cáo và khuyến mãi. Phương pháp nghiên cứu định tính được thực hiện bởi kỹ
thuật phỏng vấn tay đôi với nhà nghiên cứu (2), thảo luận nhóm tập trung với chuyên gia (06) và
với khách hàng (08) để phát triển tập biến quan sát đo lường khái niệm. Phương pháp nghiên cứu
định lượng bởi nghiên cứu sơ bộ (n=210) và chính thức (n=628) để kiểm định thang đo. Sản phẩm
trong nghiên cứu định lượng chính thức là 10 thương hiệu nước giải khát trong 05 ngành hàng
chính. Kết quả xây dựng thang đo bao bì sản phẩm gồm 03 thành phần, các khái niệm còn lại được
đo lường bởi một thành phần. Thang đo lường các khái niệm và thành phần đạt giá trị và độ tin
cậy. Kết quả có ý nghĩa đóng góp một số thang đo cần thiết cho những nghiên cứu liên quan trong
thực tiễn kinh doanh và học thuật.
Từ khóa: Thang đo lường; Bao bì; Ấn tượng cửa hiệu; Độ phủ bán hàng, Quảng cáo; Khuyến mãi;
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Tiếp thị hỗn hợp ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong quảng bá thương hiệu. Theo
Nielsen, TNS, TKL,... thì quảng cáo nói
chung chiếm rất nhiều ngân sách tiếp thị,
nhưng để tương tác trực tiếp nhằm tạo cơ hội
để khách hàng trải nghiệm sản phẩm thì
không thể thiếu các hoạt động bao bì sản
phẩm, khuyến mãi và hai yếu tố rất quan
trọng trong bán hàng là độ phủ và ấn tượng
điểm bán. Với ngành giải khát, điểm bán hàng
rất quan trọng, chiếm tỷ trọng doanh thu cao
nhất chính là các cửa hiệu [24]. Do vậy, việc
xác định ảnh hưởng của quảng cáo, bao bì sản
phẩm, khuyến mãi, độ phủ bán hàng và ấn
tượng cửa hiệu đến nhận thức của khách hàng
thì rất quan trọng. Đây là sự mong đợi của rất
nhiều quản trị viên Marketing trong bối cảnh
ngân sách có hạn.
Về mặt học thuật, cần có thang đo lường các
khái niệm liên quan đến tiếp thị để đánh giá
sự ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả xây
dựng thương hiệu được chặt chẽ, nhưng qua
tổng hợp lý thuyết thì chưa thấy có thang đo
lường bao bì sản phẩm, còn thang đo ấn
tượng cửa hiệu, độ phủ bán hàng, quảng cáo
* Tel: 0917183979; Email: [email protected]
và khuyến mãi giá đã được Yoo et al [29] xây
dựng trong ngành hàng tiêu dùng lâu bền.
Nhưng hành vi tiêu dùng trong hai ngành hàng
này rất khác nhau. Do vậy, nhu cầu cần nghiên
cứu xây dựng thang đo các khái niệm này cho
ngành nước giải khát là rất lớn. Từ đó, mục
đích của nghiên cứu là dựa vào nhận thức của
khách hàng đối với thương hiệu trên cơ sở lý
thuyết tín hiệu xã hội để phát triển thang đo
các khái niệm này nhằm cung cấp cho thị
trường và giới học thuật một số thang đo cần
thiết phục vụ cho các nghiên cứu liên quan.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Tín hiệu xã hội được định nghĩa là tín hiệu
thông tin hay truyền tin cung cấp thông tin
một cách trực tiếp hay gián tiếp về các sự
kiện xã hội như các thái độ về mặt xã hội, các
quan hệ, cảm xúc xã hội [26]. Do vậy, những
tín hiệu được phát đi từ thương hiệu là nguồn
gốc tạo nhận thức, thái độ của khách hàng đối
với thương hiệu, làm cơ sở để xây dựng thang
đo cho các khái niệm. Mặt khác, dựa vào lý
thuyết tín hiệu xã hội, các nhà nghiên cứu về
Marketing đã phát triển nhiều lý thuyết,
nhưng chưa thấy có thang đo các khái niệm
trên được xây dựng và kiểm định chặt chẽ cho
ngành nước giải khát mặc dù rất nhiều nghiên
cứu đã đề cập đến.
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
128
Bao bì sản phẩm
Kotler [21] cho rằng bao bì sản phẩm như các
hoạt động thiết kế và tạo ra hộp, thùng hay
gói chứa đựng sản phẩm. Arens [2] phát biểu
bao bì là vật liệu chứa đựng sản phẩm, bề
ngoài bao gồm thiết kế, màu sắc, hình dáng,
nhãn hiệu và vật liệu sử dụng. Theo
Brassington and Pettit [7], bao bì là bất kỳ
hộp hay gói chứa đựng sản phẩm được chào
bán và có thể bao gồm nhiều chất liệu như
thủy tinh, giấy, kim loại hay nhựa. Luca and
Penco [22] khám phá các yếu tố hình thành
bao bì rượu gồm: hình dạng, nguyên liệu,
hình tượng và ngữ văn; Hilgenkamp and
Shanteau [18] phát hiện tên thương hiệu có
ảnh hưởng đến đánh giá chất lượng sản phẩm;
Agariya et al. [1] phát hiện mối quan hệ nhân
quả giữa sự kết nối bao bì với thương hiệu,
màu sắc và kích cỡ bao bì; giữa sự kết nối bao
bì với quốc gia xuất xứ và biểu tượng, logo có
trên bao bì; Deliya and Parmar [13] đề xuất
một số yếu tố hình thành bao bì gồm: màu
sắc, hình ảnh nền, chất liệu, kiểu chữ, thiết kế
đóng gói, thông tin cung cấp và sự cải tiến
của bao bì; Deliya [12] khám phá các yếu tố
hình thành bao bì được ưa thích gồm: nguyên
liệu, hình dáng, kích cỡ, màu sắc, nội dung và
cách thiết kế bao bì;...
Ấn tượng cửa hiệu và độ phủ bán hàng
Theo Srivastava and Shocker [27] thì vai trò
của việc thiết kế và quản lý kênh bán hàng
như một công cụ tiếp thị làm tăng giá trị
thương hiệu ngày càng tăng cao. Hơn nữa,
nước giải khát thường được bán qua hệ thống
trung gian với độ bao phủ rộng để đáp ứng
nhu cầu cần được thỏa mãn ngay của khách
hàng. Do vậy, trong ngành này, hệ thống kênh
bán hàng trung gian đóng vai trò rất quan
trọng, trong đó tính chuyên nghiệp của các
cửa hiệu là yếu tố tạo nên ấn tượng cửa hiệu
và sự phổ biến của sản phẩm, được gọi là độ
phủ bán hàng có vai trò quyết định. Đây là
những thành phần chính của bán hàng, là một
trong năm thành phần chính của tiếp thị hỗn
hợp [21]. Thang đo ấn tượng cửa hiệu và độ
phủ bán hàng được phát triển dựa vào thang
đo ban đầu của Yoo et al. [29], gồm 03 phát
biểu mỗi loại.
Quảng cáo
Quảng cáo là một hình thức trong chiêu thị
hỗn hợp [21]. Đây là hình thức truyền thông
tin có chủ đích nhằm thay đổi nhận thức, thái
độ và hành vi của đối tượng. Hình thức này
có thể được thực hiện thông qua truyền hình,
báo, tạp chí, mạng internet,... Thang đo khái
niệm này được phát triển dựa vào thang đo
của Yoo et al. [29] với 03 phát biểu.
Khuyến mãi
Khuyến mãi là hoạt động chiêu thị hỗ trợ bán
hàng với bản chất là tăng giá trị sản phẩm tạm
thời để kích thích tiêu dùng trong ngắn hạn
[21]. Khuyến mãi gồm nhiều hình thức, trong
đó khuyến mãi giá thường được đề cập đến.
Do đó, nhận thức của khách hàng về khuyến
mãi và khuyến mãi giá thường không thật sự
rõ ràng. Thang đo ban đầu của khái niệm này
dựa vào đề xuất của Yoo et al. [29] gồm 03
phát biểu.
Quy trình xây dựng thang đo
Xây dựng thang đo khái niệm là quá trình
thiết kế và đánh giá một tập các biến quan sát
dùng để đo lường khái niệm nghiên cứu cần
đo lường [23]. Các biến này chính là các câu
phát biểu mô tả khái niệm. Khi xây dựng
thang đo cần chú ý 03 tính chất: 1) Hướng; 2)
Độ tin cậy; 3) Giá trị hội tụ và phân biệt. Một
số quy trình xây dựng thang đo phổ biến như
quy trình của DeVellis [11], Bollen [5] hay
Churchill [9], trong đó quy trình của
Churchill được xem là chặt chẽ hơn do việc
kiểm định thang đo được thực hiện 02 lần. Do
vậy, nghiên cứu này sử dụng quy trình của
Churchill để xây dựng thang đo, trong đó thay
thế phương pháp MTMM (Multitrait-
Multimethod; đa khái niệm, đa phương pháp)
bằng phân tích nhân tố khám phá (EFA) và
phân tích nhân tố khẳng định (CFA) như đề
xuất của Nguyễn Đình Thọ [23].
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu định tính để xây dựng tập biến
quan sát đo lường khái niệm. Nghiên cứu
định lượng để đánh giá sơ bộ thang đo. Cuối
cùng, nghiên cứu định lượng chính thức để
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
129
kiểm định thang đo. Bảng câu hỏi được thiết
kế theo thang đo Likert 05 điểm. Kỹ thuật
phỏng vấn trực tiếp được sử dụng. Đối tượng
nghiên cứu là khách hàng hiện tại và tiềm
năng của ngành giải khát, cụ thể là sinh viên
đại học. Mẫu được lấy theo phương pháp hệ
thống có bước nhảy 4 với thuộc tính kiểm
soát là nghề nghiệp (sinh viên) và độ tuổi (18-
23). Cụ thể, từ danh sách mẫu là khách hàng
cũng chính là sinh viên, tiến hành phỏng vấn
đối tượng ở vị trí thứ 5, 10, 15,... theo danh
sách. Thêm vào đó, đối tượng không có cơ
hội chọn thương hiệu yêu thích để trả lời mà
tùy thuộc vào sự ngẫu nhiên khi khảo sát,
nghĩa là từ một bảng câu hỏi chuẩn, phát triển
thành 06 bảng câu hỏi (cho nghiên cứu sơ bộ)
hay 10 bảng câu hỏi (cho nghiên cứu chính
thức) với nội dung như nhau chỉ khác tên
thương hiệu sản phẩm, sau đó để các bảng
câu hỏi với thương hiệu nghiên cứu khác
nhau theo từng tập bìa phỏng vấn. Khi khảo
sát, lấy ngẫu nhiên bảng câu hỏi với tên
thương hiệu sản phẩm đã được thiết kế sẵn để
phỏng vấn đối tượng. Dữ liệu được xử lý trên
SPSS 20.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phát triển tập các biến quan sát
Dựa vào kết quả nghiên cứu tài liệu tiến hành
phỏng vấn tay đôi với hai nhà nghiên cứu là
giảng viên Marketing để xác định và điều
chỉnh nội dung khái niệm cho phù hợp ngành
giải khát và thị trường Việt Nam. Kỹ thuật
phỏng vấn là dùng câu hỏi mở dựa vào dàn
bài thiết kế sẵn, được thực hiện vào đầu tháng
06/2013 tại TP.HCM. Kết quả khám phá
những nội dung chính làm cơ sở để xây dựng
tập biến quan sát đo lường khái niệm. Tiếp
đến, thảo luận nhóm tập trung với 06 chuyên
gia là giám đốc Marketing (PR/Truyền thông)
vào nữa đầu tháng 06/2013. Kỹ thuật là dùng
các câu hỏi mở dựa vào dàn bài thảo luận. Kết
quả khám phá thang đo sơ bộ của bao bì sản
phẩm gồm 21 biến. Cuối cùng, thảo luận
nhóm tập trung với 08 khách hàng của ngành
giải khát vào giữa cuối tháng 06/2013. Kết
quả có một số điều chỉnh và bổ sung so với
kết quả thảo luận chuyên gia.
Đánh giá sơ bộ thang đo
Đánh giá sơ bộ thông qua nghiên cứu định
lượng, được thực hiện 06-08/2013. Sản
phẩm nghiên cứu là nước giải khát với tiêu
chí: 1) Thuộc ngành hàng có dung lượng thị
trường lớn; 2) Có thị phần dẫn đầu; 3)
Thương hiệu nổi tiếng với nhiều hoạt động
truyền thông. Dựa vào Euromonitor
International [14], 6 thương hiệu được chọn:
CocaCola, Pepsi, Không Độ, C2, Sting,
Number One.
Hình 1: Thương hiệu khảo sát
Kết quả khảo sát thu được 210 bảng câu hỏi.
Mẫu được chia khá đều cho các thương hiệu
(Hình 1) với nữ chiếm 72,9%; độ tuổi 18-22
chiếm 91,9%; mẫu học năm hai và ba lần
lượt 48,1% và 42,9%, còn lại là năm nhất và
tư. Mẫu được khảo sát tại các trường Đại học
Kinh tế - Luật (53,3%), Đại học Công nghiệp
TP.HCM (30,5%), Đại học Công nghệ Kỹ
thuật TP.HCM (8,65%) và Đại học Văn
Lang (7,6%) với ngành kinh tế (85,2%) và
luật (14,8%).
Theo Nunnally and Burnstein [25], để phân
tích Cronbach’s alpha thì thang đo phải có
tính đơn hướng. Điều này cũng được khẳng
định bởi Nguyễn Đình Thọ [23]. Do vậy,
trong nghiên cứu này, do đang trong quá trình
xây dựng thang đo nên EFA trước, sau đó
Cronbach’s alpha sẽ phù hợp hơn. Điều kiện
phân tích Cronbach’s alpha là α≥0,6 và tương
quan biến tổng ≥0,3 [25]. Điều kiện EFA là
kiểm định KMO có KMO>0,6, Bartlett’s Test
có Sig.<0,05, hệ số tải nhân tố ≥0,5 [17],
chênh lệch hệ số tải nhân tố ≥0,3 [19], tổng
phương sai trích ≥50% [16]. Kết quả EFA sau
khi loại các biến không đạt điều kiện thì tại
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
130
Eigenvalue=1,169 có tổng phương sai trích là
72,415% trích được 08 thành phần. Các hệ số
tải nhân tố đều lớn hơn 0,5, chênh lệch hệ số
tải nhân tố trong mỗi biến đều lớn hơn 0,3.
Các hệ số α đều lớn hơn 0,6 và các tương
quan biến tổng đều lớn hơn 0,3.
Kiểm định thang đo
Theo Euromonitor International [14] thì 10
thương hiệu dẫn đầu thị phần trong 05 ngành
hàng chính được chọn nghiên cứu: Không Độ,
C2, CocaCola, Pepsi, Aquafina, Lavie,
Twister, Vfresh, Sting và Number One. Mẫu
khảo sát là sinh viên vì theo một số công ty
nghiên cứu thị trường như Nielsen, TNS,
FTA và sản xuất nước giải khát như THP hay
Tribeco thì nhóm đối tượng này chính là
khách hàng của ngành giải khát. Điều này
cũng phù hợp với thế giới khi Atilgan et al.
[3] khẳng định sinh viên đại học chính là
khách hàng của ngành giải khát nên sử dụng
sinh viên là đối tượng nghiên cứu thì được
chấp nhận, thậm chí là sự mong đợi [3]; thêm
vào đó, theo Yoo et al [29] nếu đối tượng
khảo sát biết và có kinh nghiệm sản phẩm tốt
thì họ có khả năng cung cấp những trả lời
đáng tin cậy. Nghiên cứu này được thực hiện
từ 11/2013 đến 02/2014. Mẫu với kích cỡ
n=628, chia đều các thương hiệu (10%) với
đặc điểm như bảng 1.
Kiểm định thang đo thông qua EFA,
Cronbach’s alpha(α) và CFA. Điều kiện để
mô hình tương thích dữ liệu thị trường là χ2
có p > 0,05 hoặc χ2/df ≤ 2, một số trường hợp
có thể không lớn hơn 3 [8] và các chỉ số CFI,
TLI không nhỏ hơn 0,9 [4] , RMSEA ≤ 0,08,
nếu RMSEA ≤ 0,05 là rất tốt [29]. Kết quả
EFA sau khi loại SD1, SD2 và PA9 do có hệ
số tải nhân tố thấp thì tại Eigenvalue=1,048,
tổng phương sai trích là 70,337%, trích được 07
thành phần, gồm Ấn tượng cửa hiệu, Quảng
cáo, Khuyến mãi, Độ phủ bán hàng và 03
thành phần của Bao bì sản phẩm, được đặt tên
là Bao bì nhận diện, Bao bì thu hút và Bao bì
liên tưởng dựa vào nội dung của biến đo
lường. Các hệ số α đều lớn hơn 0,6 và các
tương quan biến tổng lớn hơn 0,3. Kiểm định
giá trị phân biệt của 03 thành phần bao bì sản
phẩm cho thấy các hệ số tương quan (r) đều
khác 1 ở độ tin cậy 95% nên đạt giá trị phân
biệt. CFA chung cho các khái niệm. Kết quả
cho thấy mô hình có χ2=571,715 (p=0,000),
df=259; χ2/df=2,207; CFI=0,960, TLI=0,954;
RMSEA=0,044. Các trọng số đều lớn hơn 0,5
và đều có ý nghĩa thống kê. Kiểm định giá trị
phân biệt cho thấy các hệ số tương quan (r)
đều khác 1 ở độ tin cậy 95% nên các khái
niệm thật sự khác biệt.
Đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng độ tin
cậy tổng hợp (pc), phương sai trích (pvc ) và hệ
số Cronbach’s alpha (α). Điều kiện để thang
đo có độ tin cậy là pc≥0,5 [20], pvc≥0,5 [16]
và α≥0,6 [25]. Kết quả đánh giá các giá trị pc ,
pvc và α cho thấy các thang đo đều đạt yêu cầu
ngoại trừ pvc của bao bì thu hút hơi thấp. Giải
pháp cải thiện là loại bỏ biến có trọng số thấp,
bắt đầu từ biến PA13 thì phương sai trích là
49,5%, có thể được chấp nhận do các chỉ tiêu
khác đều cao (Hình 2). Nếu tiếp tục loại PA14
thì pvc và α tăng lên, nhưng thường trong CFA
rất ít mô hình nào có tất cả các chỉ tiêu đều
đạt yêu cầu [17], do đó, tùy vào mục đích sử
dụng mà giữ lại hay loại bỏ biến PA14. Thêm
vào đó, nếu loại PA14 thì sẽ tiếp tục loại
PA16 để đảm bảo tương quan biến tổng lớn
hơn 0,3 khi Cronbach’s alpha.
Tóm lại, kết quả kiểm định cho thấy thang đo
các thành phần và các khái niệm đạt tính đơn
hướng, ngoại trừ ấn tượng cửa hiệu và thành
phần bao bì nhận diện (do có kết nối sai số),
giá trị hội tụ, giá trị phân biệt và độ tin cậy.
Thêm vào đó, bao bì sản phẩm được đo lường
bởi 03 thành phần, được đặt tên là bao bì
nhận diện, bao bì thu hút và bao bì liên tưởng.
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
131
Bảng 1: Mẫu khảo sát (chính thức)
Khu vực Xuất xứ Giới tính Tuổi Năm học Trường-Ngành
HCM: 25,5%
Hà Nội: 25,5%
Đà Nẵng: 25,8%
Cần Thơ: 23,2%
Trong
nước:
29,8%
Ngoài
nước:
70,2%
Nam: 28,7%
Nữ: 71,3%
18-23:
99,2%
Trên 23:
0,8%
Năm 1: 8,4%
Năm 2: 24,2%
Năm 3: 30,1%
Năm 4: 27,7%
Năm 5: 8,6%
Trường học: 11
Ngành: 29
Hình 2. Kết quả CFA lần 2 (chuẩn hóa)
KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý QUẢN TRỊ
Nghiên cứu đã phát triển được thang đo của
một số khái niệm: bao bì sản phẩm là một
thang đo gồm 03 thành phần, được đặt tên là
bao bì nhận diện, bao bì liên tưởng và bao bì
thu hút; ấn tượng cửa hiệu, độ phủ bán hàng,
quảng cáo và khuyến mãi là các thang đo chỉ
có một thành phần. Các thang đo đều đạt giá
trị và độ tin cậy. Những thang đo này dự kiến
có những đóng góp có ý nghĩa cho lĩnh vực
học thuật. Cụ thể, một số thang đo được xây
dựng là nguồn tham khảo có giá trị cho những
nghiên cứu mối quan hệ giữa một số hình
thức tiếp thị và các khái niệm khác. Quy trình
và phương pháp nghiên cứu được vận dụng
cũng có thể là nguồn tham khảo hữu ích cho
các học viên sau đại học trong một số nghiên
cứu liên quan đến xây dựng và kiểm định
thang đo.
Ngoài ra, các công ty nước giải khát (nghiên
cứu thị trường/truyền thông) có thể sử dụng
các thang đo làm dữ liệu thiết kế bảng câu hỏi
khảo sát nhận thức của khách hàng để đo
lường hiệu quả các chiến dịch tiếp thị đối với
thương hiệu. Phương pháp thực hiện là sử dụng
thang đo Likert 05 hoặc 07 điểm để phỏng vấn
khách hàng cho điểm các phát biểu. Kết quả tính
điểm trung bình để từ đó nhận định sự thành
công hay thất bại của chiến dịch. Thêm vào đó,
mỗi khái niệm có nhiều biến đo lường nên tùy
vào điểm trung bình có thể xem xét cải thiện các
hoạt động tương ứng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Agariya, Johari, Sharma, Chandraul and
Singh (2012), “The Role of Packaging in Brand
Communication”, International Journal of
Scientific and Engineering Research, 3(2), 1-13;
2. Arens, F. W., (1996), Contemporary
Advertising, Mcgraw-Hill Higher Education,
USA;
3. Atilgan, Aksoy, and Akinci (2005),
“Deteminants of the bran equity- a verification
approach in the beverage industry in Turkey”,
Marketing Intelligence and Planning, 23(3), 237-
248;
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
132
4. Bentler, P.M. and Bonett, D.G. (1980),
“Significance tests and goodness of fit in the
analysis of covariance structures”, Psychological
Bulletin, 88(3), 588-606
5. Bollen K.A (1989), Structural Equations
with Latent Variables, John Wiley and Sons, NY;
6. Bollen K.A (1989), Structural Equations
with Latent Variables, NY: John Wiley and Sons;
7. Brassington, F. and Pettit, S. (1997),
Principks of Marketing, Pitman Publishing,
London;
8. Carmines, E. and McIver, J. (1981),
Analyzing models with unobserved variables:
analysis of covariance, Sage Publications, CA;
9. Churchill, G.A. (1979), “A Paradigm for
developing better measures of marketing
constructs”, Journal of Marketing Research, 16,
64-73;
10. Churchill, G.A. (1979), “A Paradigm for
developing better measures of marketing
constructs”, Journal of Marketing Research, 16,
pp.64-73;
11. De Vellis, R.F (1991), “Scale Development:
Theory and Applications”, Journal of Educational
Measurement, 31(1), pp.79-82.
12. Deliya M.M (2012), “Consumer Behavior
Towards The New Packaging Of FMCG
Products”, National Monthly Refereed Journal of
Research in Commerce and Management, 1(11),
199-211;
13. Deliya M.M. and Parmar B.J. (2012), “Role
of Packaging on Consumer Nuying Behavior-
Patan Distric”, Global Journal of Management
and Business Research, 12(10), 49-67;
14. Euromonitor International (2013), Soft
Drinks in Vietnam;
15. Fornell, C. and Larker, D.F.(1981),
“Evaluating structural equation models with
unobservable variables and measurement error”,
Journal of Mark Research, 18 (02/1981), 39-50;
16. Gerbing, W.D. and Anderson, J.C. (1988),
“An update paradism for scale development
incorporating unidimensionality and its
assessments”, Journal of Marketing Research,
25(2), 186-192;
17. Hair, Black, Babin, Anderson and Tatham
(2006), Multivariate Data Analysis, 6th ed.,
Prentice Hall, NJ;
18. Hilgenkamp H. and Shanteau J. (2010),
“Functional Measurement Analysis of Brand
Equity: Does Brand Name affect Perceptions of
Quality?”, Psicolo1gica, 31, 561-575;
19. Jabnoun, N. and Al-Tamimi, H.A.H. (2003),
“Measuring perceived quality at UAE commercial
banks”, International Journal of Quality and
Reliability Management, 20(4), 458-472.
20. Joreskog,K.G.(1971),“Statistical analysis of
sets of congeneric tests”, Psychometrica, 36(2),
109-133;
21. Kotler P (1994), Marketing Management,
Prentice Hall, NJ;
22. Luca and Penco (2006), “The Role of
Packaging in Marketing Communicaation: an
Explorative Study of the Italian Wine
Business”,3rdInternational Wine Business
Research Conference, Montpellier,6-7-8/07/2006;
23. Nguyễn Đình Thọ (2011), Phương pháp
nghiên cứu khoa học trong kinh doanh: Thiết kế
và thực hiện, NXB Lao động-Xã hội, TP.HCM;
24. Nielsen (2012), Consumer Confidence
Survey and Retail Audit;
25. Nunnally J.C and Bernstein I.H (1994),
Psychometric Theory, 3rd ed, McGraw-Hill, NY;.
26. Poggi and D’Errico (2010), “Cognitive
Modelling of Human Social Signals” In
Proceedings of SSPW 2010 – Social signal
Processing Workshop, ACM, Sheridan Press, NY;
27. Srivastava, Rajendra K. & Shocker Allan
D. (1991), Brand equity: a perspective on its
meaning and measurement, Working Paper Series,
Report Number 91-124, MA: Marketing Science
Institute, Cambridge;
28. Steiger, J.H. (1990), “Structural Modeling
Evaluation and Modification: An Interval
Estimation Approach”, Multivariate Behavioral
Research, 25, 175.
29. Yoo B, Donthu N and Lee S (2000), “An
Examination of Selected Marketing Mix Elements
and Brand Equity”, Journal of the Academy of
Marketing Science, 28(2), 195-211.
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
133
PHỤ LỤC: THANG ĐO LƯỜNG CÁC KHÁI NIỆM
Khuyến mãi
PD5 Các chương trình khuyến mãi của X thường hấp dẫn tôi
PD6 Tôi rất thích tham gia các chương trình khuyến mãi của X
PD2 Tôi thích các khuyến mãi của X
Quảng cáo
AD7 Tôi rất thích các quảng cáo của X
AD6 Các quảng cáo của X rất hấp dẫn
AD8 Các quảng cáo của X gây được ấn tượng tốt với tôi
Ấn tượng cửa hiệu
SI2 Những cửa hiệu mà tôi có thể mua X thì nổi tiếng
SI1 Những cửa hiệu mà tôi có thể mua X thì sang trọng
SI3 Những cửa hiệu mà tôi có thể mua X thì có nét đặc trưng riêng
SI4 Những cửa hiệu mà tôi có thể mua X thường có bán những thương hiệu nổi tiếng
SI5 Những cửa hiệu mà tôi có thể mua X thường bán những sản phẩm chất lượng cao
Độ phủ bán hàng
SD4 Tôi có thể mua X ở bất kỳ đâu
SD5 Tôi dễ dàng tìm ra nơi có bán X
Bao bì sản phẩm
Thành phần 1: Bao bì nhận diện
PA2 Bao bì giúp tôi nhận ra ngay X trong số các sản phẩm cạnh tranh khác
PA1 Bao bì giúp tôi dễ dàng nhận ngay ra X
PA8 Màu sắc bao bì giúp tôi nhận ra X
PA7 Hình ảnh trên bao bì giúp tôi nhận diện ngay ra X
Thành phần 2: Bao bì liên tưởng
PA4 Bao bì giúp tôi cảm nhận chất lượng của X
PA5 Bao bì làm tôi có những liên tưởng đến chất lượng của X
PA3 Bao bì giúp tôi liên tưởng đến độ tin cậy của X
Thành phần 3: Bao bì thu hút
PA11 Kiểu chữ sử dụng trên bao bì thu hút sự chú ý của tôi với X
PA12 Thiết kế nhãn hiệu trên bao bì của X thu hút sự chú ý của tôi
PA14 Sự cải tiến bao bì của X thu hút sự chú ý của tôi
PA16 Kiểu dáng bao bì của X tạo sự chú ý với tôi
Ghi chú: X là tên của một thương hiệu nước giải khát
Lê Đăng Lăng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 127 - 134
134
SUMMARY
DEVELOPING SCALES OF CONSUMER-BASED
SELECTED MARKETING CONSTRUCTS
Le Dang Lang1*, Le Tan Buu2
1University of Economics and Law 2University of Economics, Ho Chi Minh city
This study purpose is to develop and validate scales of selected marketing constructs: product
packaging, store image, distribution intensity, advertising and sales promotion. The qualitative
research method is used by indepth-interview and focus-group techniques to develop items which
are statements for measuring constructs. The quantitative research method is applied to validate
scales. That is done by two stages: preliminary (n = 210) and official (n = 628). The research
product (official research) consists of ten brands in five key categories of beverage. The research
result show that construct of product packaging has three components, scale of other constructs has
only one component. All scales are reliability and validity. The result has a significant contribution
on academy and realization by supplying some necessary scales.
Key words: Scale; Packaging; Store image; Distribution intensity; Advertising; Sales promotion;
Ngày nhận bài:22/8/2014; ngày phản biện: 20/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Gấm – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0917183979; Email: [email protected]
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 135 - 139
135
ẢNH HƯỞNG CỦA CHUẨN MỰC XÃ HỘI ĐẾN HÀNH VI PHÀN NÀN
VÀ TRUYỀN MIỆNG TIÊU CỰC CỦA KHÁCH HÀNG
Phạm Văn Hạnh*, Nguyễn Đức Thu, La Qúi Dương
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Hiểu được hành vi phàn nàn của khách hàng có thể giúp các hãng dịch vụ giảm rủi ro của việc mất
những khách hàng hiện tại, nâng cao chất lượng dịch vụ thông qua việc tiếp nhận thông tin phản
hồi từ những phàn nàn của khách hàng. Bài viết này nghiên cứu ảnh hưởng của chuẩn mực xã hội
đến hành vi phàn nàn và xu hướng truyền miệng tiêu cực, đồng thời giải thích nguyên nhân khách
hàng bực mình lại không phàn nàn trên giác độ hành vi kiểm soát cảm xúc của họ. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng, khách hàng nhận thức áp lực xã hội cao sẽ tham gia nhiều hơn vào hành vi kiểm
soát cảm xúc và có xu hướng ít phàn nàn với nhà cũng cấp so với những khách hàng nhận thức áp
lực xã hội thấp. Tuy nhiên, khách hàng không phàn nàn thường có xu hướng nói xấu nhiều hơn
cho người khác về dịch vụ.
Từ khóa: chuẩn mực xã hội, kiểm soát cảm xúc, hành vi phàn nàn, truyền miệng tiêu cực, xu
hướng phàn nàn.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Các nghiên cứu trước đây đã nghiên cứu mối liên hệ giữa cảm xúc tiêu cực và hành vi phàn nàn của khách hàng, tuy nhiên, từ khi trải quả cảm xúc tiêu cực đến việc thực hiện hành vi phàn nàn là một quá trình. Hành vi phàn nàn cũng bị ảnh hưởng bởi áp lực xã hội. Khi khách hàng nhận thấy áp lực xã hội là lớn thì họ có xu hướng ít phàn nàn. Mặc dù các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng hành vi phàn nàn bị ảnh hưởng bởi áp lực xã hội, không có nghiên cứu nào nghiên cứu sâu ảnh hưởng của áp lực xã hội lên hành vi phàn nàn và từ đó ảnh hưởng đến việc truyền miệng tiêu cực của họ. Khi khách hàng không phàn nàn họ có xu hướng truyền miệng tiêu cực. Nhận biết được hành vi không phàn nàn và tìm hiểu rõ nguyên nhân của việc không hài lòng sẽ giúp cho các hãng dịch vụ nâng cao được chất lượng dịch vụ để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, hạn chế việc truyền miệng tiêu cực đến những khách hàng khác.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ GIẢ THUYẾT
NGHIÊN CỨU
Hành vi phàn nàn của khách hàng
Khi khách hàng không hài lòng với dịch vụ
họ có xu hướng phản ứng lại với với sự không
* Tel: 01234-292-293; Email: [email protected]
hài lòng đó. Landon (1980) [3] định nghĩa
hành vi phàn nàn như là một sự thể hiện sự
không hài lòng bởi một khách hàng riêng lẻ
đối với một bên có trách nhiệm trong kênh
phân phối hoặc đại lý xử lý phàn nàn. Các
nghiên cứu gần đây xem xét hành vi phàn nàn
trên giác độ động. Tronvoll (2007) [7] coi
hành vi phàn nàn như là một quá trình sẽ xuất
hiện nếu những gì xảy ra vượt ra ngoài vùng
chịu đựng trong quá trình tương tác dịch vụ
hoặc/và trong việc đánh giá giá trị sử dụng.
Theo như Tronvoll, hành vi phàn nàn chỉ xảy
ra khi mà sự không hài lòng vượt ra ngoài
ngưỡng chịu đựng hay tầm kiểm soát cảm xúc
của khách hàng. Rõ ràng rằng không phải
khách hàng nào cũng phàn nàn vì nếu hành vi
phàn nàn nằm trong giới hạn chịu đựng khách
hàng sẽ không thể hiện cảm xúc.
Truyền miệng tiêu cực
Truyền miệng chính là việc người này cung
cấp thông tin cho người khác theo con đường
không chính thống và không thuộc dạng văn
bản. Truyền miệng có vai trò quan trọng trong
việc thu hút những khách hàng mới. Trong
kinh doanh dịch vụ, khi khách hàng không hài
lòng với dịch vụ, họ có xu hướng rời bỏ nhà
cung cấp. Họ còn truyền miệng tới những
khách hàng khác làm giảm đi khả năng thu
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 135 - 139
136
hút những khách hàng mới của doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp hạn chế được những thông
tin truyền miệng tiêu cực thì danh tiếng của
doanh nghiệp càng được nâng cao.
Việc điều chỉnh cảm xúc của khách hàng
Trong một số dịch vụ, khách hàng nhận thấy
rằng cảm xúc của họ có thể ảnh hưởng tới
chất lượng dịch vụ hoặc họ có thể nhận được
dịch vụ tốt hơn nếu họ thể hiện những cảm
xúc phù hợp, họ sẽ chủ động điều chỉnh các
xúc của họ và không biểu hiện những cảm
xúc không mong muốn. Khách hàng có thể
không hài lòng hoặc thất vọng về dịch vụ,
nhưng biểu hiện cảm xúc của họ có thể làm
cho dịch vụ trở nên tệ hơn. Có hai chiến lược
mà khách hàng có thể sử dụng để điều chỉnh
cảm xúc của họ đó là: thay đổi nhận thức và
che giấu cảm xúc.
Thay đổi nhận thức
Đây là việc khách hàng giải thích các nguồn
tác động cảm xúc theo góc độ khác để giảm
nhẹ sự ảnh hưởng. Thông qua việc thay đổi
cách nghĩ về vấn đề xảy ra hoặc đánh giá lại
theo một hướng ít tiêu cực hơn sẽ làm giảm
tác động của cảm xúc tiêu cực. Ví dụ: một
khách hàng đến một hiệu làm tóc và họ không
hài lòng với dịch vụ, họ có thể nghĩ rằng đây
là một tai nạn còn chủ cửa hiệu đã cố gắng
hết sức. Khi khách hàng áp dụng chiến lược
này họ có xu hướng suy nghĩ ôn hòa hơn với
những lỗi nảy sinh và ít phàn nàn về chất
lượng dịch vụ.
Che giấu cảm xúc
Che giấu cảm xúc là việc khách hàng biểu
hiện thái độ hoặc nét mặt khác với những gì
mà họ thực sự trải qua. Che giấu cảm xúc đề
cập đến việc kiềm chế biểu hiện cảm xúc
bằng cách kiểm soát hành vi cảm xúc để điều
khiển việc biểu hiện cảm xúc. Nói theo cách
khác, che giấu cảm xúc là một dạng che đậy
có ý thức của hành vi thể hiện cảm xúc trong
khi cảm xúc xuất hiện.
Vai trò của chuẩn mực xã hội
Nếu khách hàng nhận thấy ảnh hưởng của
chuẩn mực xã hội cao hơn, họ sẽ tham gia
nhiều hơn vào điều chỉnh cảm xúc. Khi khách
hàng nhận thức được rằng cảm xúc của họ có
thể làm cho những người khác chú ý, họ sẽ cố
gắng che giấu và giảm ý định phàn nàn. Vì
thế, chuẩn mực xã hội sẽ làm tăng khả năng
và xu hướng khách hàng tham gia vào thay
đổi nhận thức và che giấu cảm xúc. Khách
hàng càng nhận thức áp lực từ phía xã hội, họ
càng tham gia nhiều hơn vào việc điều chỉnh
cảm xúc. Nếu khách hàng nhận thức áp lực từ
phía người khác khi họ phàn nàn, họ có thể cố
gắng kiểm soát cảm xúc của họ và cố gắng
duy trì trạng thái cảm xúc đến cuối của quá
trình dịch vụ. Một số giả thuyết được đưa ra
như sau:
H1: Khi khách hàng nhận thức cao hơn về
chuẩn mực xã hội họ sẽ tham gia nhiều hơn
vào chiến lược thay đổi nhận thức khi lỗi dịch
vụ xảy ra.
H2: Khi khách hàng nhận thức cao hơn về
chuẩn mực xã hội họ sẽ tham gia nhiều hơn
vào việc che giấu cảm xúc của mình khi lỗi
dịch vụ xảy ra.
VAI TRÒ CỦA VIỆC KIỂM SOÁT CẢM
XÚC VÀ HÀNH VI PHÀN NÀN
Lỗi dịch vụ có xu hướng tạo ra cảm xúc tiêu
cực của khách hàng. Khi khách hàng trải qua
lỗi dịch vụ, họ không phàn nàn ngay với người
cung cấp dịch vụ. Có hai quá trình xảy ra trong
quá trình dịch vụ: Đầu tiên, khách hàng thường
có xu hướng đánh giá lại khả năng của họ để
kiểm soát tình huống hoặc đánh giá những
hành động thay thế có thể. Thay đổi nhận thức
được coi như là một chiến lược hữu ích để thay
đổi tâm trạng. Thứ hai, mặc dù khách hàng
cảm thấy tức giận khi trải qua lỗi dịch vụ,
không phải tất cả họ sẽ thể hiện đúng cảm giác
trong quá trình dịch vụ. Trước khi tiến hành
hành vi phàn nàn, khách hàng cũng tham gia
vào chiến lược che giấu. Để có được sự che
đậy, khách hàng cần phải tham gia vào quá
trình kiểm soát phản ứng hiện thời của họ, so
sánh phản ứng cảm xúc của họ với tình trạng
mong muốn và cố gắng tiến sát tình trạng
mong muốn. Từ những thảo luận trên, hai giả
thuyết được đề xuất bao gồm:
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 135 - 139
137
H3: Khách hàng tham gia vào chiến lược thay
đổi nhận thức sẽ ít phàn nàn hơn so với khách
hàng không sử dụng chiến lược này.
H4: Khách hàng sử dụng chiến lược che giấu
cảm xúc sẽ ít phàn nàn hơn so với khách hàng
không tham gia vào chiến lược này.
KIỂM SOÁT CẢM XÚC VÀ TRUYỀN
MIỆNG TIÊU CỰC
Khi khách hàng kiểm soát cảm xúc, họ có xu
hướng ít phàn nàn về chất lượng dịch vụ khi
lỗi xảy ra. Tuy nhiên, do kiểm soát cảm xúc,
những cảm xúc tiêu cực bị kìm nén và nếu sự
khách hàng không phàn nàn để giải tỏa hết
những ấm ức trong lòng họ có xu hướng bày
tỏ điều đó với người khác. Họ có thể sẽ phàn
nàn với người thân bạn bè và khuyên họ
không tiêu dùng dịch vụ của hãng mà họ
không hài lòng. Các khách hàng hài lòng với
dịch vụ thường có xu hướng quay lại tiêu
dùng dịch vụ mà họ cảm thấy thỏa mãn, họ sẽ
nói tốt về dịch vụ cho những người khác.
Trong khi đó, những khách hàng không hài
lòng và không nói ra sự không hài lòng đó sẽ
có xu hướng nói xấu về dịch vụ và về hãng.
Từ những vấn đề trên, hai giả thuyết được
đưa ra như sau:
H5: Khách hàng tham gia vào chiến lược thay
đổi nhận thức có xu hướng truyền miệng tiêu
cực nhiều hơn so với những người không sử
dụng chiến lược này.
H6: Khách hàng tham gia vào chiến lược che
giấu cảm xúc có xu hướng truyền miệng tiêu
cực nhiều hơn so với những người không sử
dụng chiến lược này.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế kịch bản và quy trình
Một kịch bản về lỗi dịch vụ thông thường
được thiết kế để tạo phản hồi cảm xúc. Trong
nghiên cứu được thiết kế dạng thực nghiệm
này, những người tham gia sẽ đọc một kịch
bản về tình huống lỗi dịch vụ trong một nhà
hàng. Tình huống này mô tả lỗi dịch vụ gây ra
bởi nhân viên trong đó khách hàng bị đối xử
không công bằng. Người tham gia sẽ được
hỏi thành nhóm từ 30-40 người. Họ sẽ tham
gia vào tình huống đóng vai mà ở đó họ tưởng
tượng rằng họ là những khách hàng đi ăn
trong một nhà hàng và trải qua dịch vụ lỗi.
Sau đó họ trả lời câu hỏi liên quan đến nhận
thức của họ về chuẩn mực xã hội, hành vi
kiểm soát cảm xúc của họ, hành vi phàn nàn,
và hành vi truyền miệng tiêu cực. Nghiên cứu
này được tiến hành tại trường Đại học Kinh tế
và Quản trị Kinh doanh thuộc Đại học Thái
Nguyên. Tổng số 260 sinh viên tham gia, đa
phần trong số họ tuổi từ 19-22. Tất cả những
người này đã từng trải qua các tình huống gặp
phải dịch vụ lỗi.
Đo lường
Năm mục hỏi được dùng để đo lường chiến
lược thay đổi nhận thức và ba mục dùng để đo
lường việc che giấu cảm xúc ( thang đo Likert
7-điểm) được điều chỉnh từ những mục thuộc
nghiên cứu của Gross và John [2] và Gabbott
[1]. Bốn mục hỏi được dùng để đo lường ý
định phàn nàn được trích và điều chỉnh từ
nghiên cứu của Singh [5]. Hai mục hỏi được
dùng để đo lường nhận thức về chuẩn mực xã
hội được trích từ nghiên cứu của Rimal [4].
Ba mục hỏi để đánh giá xu hướng truyền
miệng tiêu cực được trích từ nghiên cứu của
Chih, Wang, Hsu, và Cheng [8]. Sau quá trình
xử lý, một vài mục bị loại do thiếu ý nghĩa
thống kê, một vài mục khác bị loại sau khi
tiến hành phân tích nhân tố kiểm định vì hệ số
điều chỉnh mô hình.
PHÂN TÍCH VÀ KẾT QUẢ
Kết quả cho thấy giá trị t-value của tất cả giá
trị truyền tải tiêu chuẩn ước lượng đều có ý
nghĩa ở mức p<0,01. Mô hình đo lường cho
các biến thể hiện độ phù hợp hợp lý với χ2
=352.57, GFI=.91, CFI=.95, RMSEA=.053.
Giá trị AVE đều vượt qua hệ số tương quan
bình phương của các cặp biến. Kết quả thể
hiện các biến là phân biệt.
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 135 - 139
138
** mức ý nghĩa p<0,01
Mô hình 1: Mô hình nghiên cứu
Giả thuyết 1 và 2 cho rằng khách hàng nhận
thức về áp lực xã hội cao sẽ tham gia vào việc
kiểm soát cảm xúc nhiều hơn khi xảy ra lỗi
dịch vụ so với những khách hàng nhận thức
áp lực xã hội thấp hơn. Kết quả phân tích số
liệu đã chỉ ra chuẩn mực xã hội có mối quan
hệ thuận chiều với việc khách hàng áp dụng
chiến lược thay đổi nhận thức (β=0,22;
p<0,01) và chiến lược che giấu cảm xúc
(β=0,24; p<0,01). Giả thiết 1 và 2 được chứng
minh. Việc khách hàng áp dụng chiến lược
thay đổi nhận thức và che giấu cảm xúc có
mối quan hệ ngược chiều với ý định phàn nàn
mới mức ý nghĩa p<0,01. Giả thiết 3 và 4 đã
được chứng minh. Kết quả này khẳng định,
khi khách hàng áp dụng hai chiến lược này họ
xu hướng ít phàn nàn. Tuy nhiên, kết quả
phân tích số liệu thực nghiệm cũng cho thấy,
khách hàng kiểm soát cảm xúc và ít phàn nàn
nhưng sẽ tham gia nhiều hơn vào việc truyền
miệng tiêu cực, nói xấu. Vì vậy, có quan hệ
thuận chiều giữa việc kiểm soát cảm xúc và
hành vi truyền miệng tiêu cực. Giả thuyết 5
(β=0,29, p<0,01) và 6 (β=0,19, p<0,01) được
chứng minh.
THẢO LUẬN
Nghiên cứu này đã đề cập đến một vấn đề
quan trọng thu hút nhiều sự quan tâm của lý
luận marketing đó là tại sao khách hàng bực
mình không phàn nàn. Mặc dù các nghiên cứu
trước đây đã chỉ ra nguyên nhân việc khách
hàng kiểm soát cảm xúc nên họ có xu hướng
không phàn nàn. Tuy nhiên, nghiên cứu này
đi xa hơn khi tìm ra ảnh hưởng chuẩn mực xã
hội đến hành vi kiểm soát cảm xúc của khách
hàng và từ đó ảnh hưởng đến ý định truyền
miệng tiêu cực.
Hành vi không phàn nàn khó để quan sát hơn
là hành vi phàn nàn. Khi lỗi dịch vụ xảy ra và
tùy thuộc vào mức độ tức giận, khách hàng có
thể phàn nàn hoặc không. Nếu khách hàng
chủ động kiểm soát cảm xúc của bản thân, sẽ
rất khó cho các hãng dịch vụ có thể phát hiện
phát hiện liệu rằng khách hàng hài lòng hoặc
không. Trong thực tế, lỗi dịch vụ xảy ra
thường xuyên và mỗi giai đoạn trong quá
trình dịch vụ luôn chứa đựng những rủi ro gây
ra lỗi. Khi khách hàng không hài lòng mà
không nói ra thì họ có xu hướng nói xấu nhà
cung cấp đó và tìm kiếm nhà cung cấp khác.
Từ kết quả của nghiên cứu này, một số gợi ý
cho các hãng dịch vụ nhằm nâng cao chất
lượng dịch vụ thông qua việc khuyến khích
khách hàng tham gia nhiều hơn vào việc phàn
nàn được đưa ra.
Thêm nữa, các hãng dịch vụ có thể nhận được
phản hồi từ khách hàng không hài lòng bằng
cách giảm ảnh hưởng của áp lực xã hội lên
hành vi kiểm soát cảm xúc của khách hàng và
ý định phàn nàn. Khách hàng có thể sẽ kiềm
chế việc thể hiện thái độ vì những chuẩn mực
xã hội. Nếu các hãng dịch vụ có thể định
hướng khách hàng với những hướng dẫn để
khuyến khích họ phàn nàn, họ sẽ cảm thấy
thoải mái hơn với việc đưa ra những gợi ý với
người cung cấp dịch vụ. Ví dụ nhà hàng có
Thay đổi
nhận thức
Chuẩn mực xã
hội
Truyền miệng
tiêu cực Che giấu
cảm xúc
Ý định phàn
nàn
0,22**
0,24** -0,16**
0,29**
0,19**
*
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 135 - 139
139
thể treo một tấm biển mà trên đó ghi dòng
chữ “Góp ý của quý vị sẽ rất hữu ích đối với
việc nâng cao chất lượng dịch vụ của chúng
tôi”. Tấm biển giúp khách hàng nhận ra rằng
hành vi phàn nàn của họ không bị coi là
những hành vi không phù hợp tại nhà hàng và
giảm áp lực từ phía người khác lên hành vi
phàn nàn của họ. Các hãng dịch vụ cũng nên
khuyến khích nhân viên thể hiện sự thân thiện
khi nhận được những góp ý từ khách hàng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gabbott, M., Y. Tsarenko, and W. H. Mok
(2010), “Emotional Intelligence as a Moderator of
Coping Strategies and Service Outcomes in
Circumstances of Service Failure,” Journal of
Service Research, 14 (2) 234-248.
2. Gross, J. J. and O. John (2003), “Individual
Differences in Two Emotion-Regulation
Processes: Implications for Affect, Relationships,
and Well-being,” Journal of Personality and
Social Psychology, 85, 348-362.
3. Landon, E. L. (1980), “The Direction of
Consumer Complaint Research,” Advances in
Consumer Research, 7, 335-338.
4. Rimal, R. N. and K. Real (2003),
“Understanding the Influence of Perceived
Norms on Behaviors,” Communication Theory,
13, 184–203.
5. Singh J. (1988), “Consumer Complaint
Intentions and Behavior: Definitional and
Taxonomical Issues,” Journal of Marketing, 52,
93-107.
6. Stephens N. and K. P. Gwinner (1998), “Why
Don't Some People Complain? A Cognitive-
Emotive Process Model of Consumer Complaint
Behavior,” Journal of the Academy of Marketing
Science, 26 (3), 172-189.
7. Tronvoll, B. (2007a), “Complainer
Characteristics When Exit Is Closed,”
International Journal of Service Industry
Management, 18 (1), 25-51.
8. Wen-Hai Chiha, Kai-Yu Wangb∗, Li-Chun
Hsua and I-Shin Cheng, From disconfirmation to
switching: an empirical investigation of switching
intentions after service failure and recovery, The
Service Industries Journal, Vol. 32, No. 8, June
2012, 1305–1321
SUMMARY
THE EFFECT OF SOCIAL NORM ON CUSTOMER COMPLAINT BEHAVIOR
AND NEGATIVE WORD-OF-MOUTH
Pham Van Hanh*, Nguyen Duc Thu, La Qui Duong
College of Economics and Business Administration - TNU
Understanding customer complaint behavior can help service firms reduce the risks of losing
current customers, improve service quality through receiving feedback from customer complaint.
This paper studies the effect of social norm on complaint behavior and negative word-of-mouth. It
also explains the reasons why angry customers do not complain in perspective of emotion
regulation behavior. The results showed that customers who perceive highly social pressure
engage more on emotion regulation and less complain to providers than those who perceive low
social pressure. However, customers who do not complain intend to engage more on delivering
negative words about service to other people.
Key words: social norm, emotion regulation, complaint behavior, negative word-of-mouth,
complaint intention.
Ngày nhận bài: 04/6/2014; ngày phản biện: 24/6/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Trần Quang Huy – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 01234-292-293; Email: [email protected]
Phạm Văn Hạnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 135 - 139
140
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
141
GIẢI PHÁP MARKETING ĐỊA PHƯƠNG NHẰM THU HÚT
KHÁCH DU LỊCH ĐẾN SƠN LA
Lê Ngọc Nương*, Nguyễn Hải Khanh
Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Hoạt động marketing ngày nay không chỉ giới hạn trong phạm vi doanh nghiệp hay một ngành
nghề cụ thể mà còn phát triển trong phạm vi của một vùng, khu vực, địa phương hay quốc gia.
Marketing như vậy được gọi là marketing địa phương và có thể được vận dụng trong một tỉnh
(thành phố). Sơn La là một tỉnh miền núi nằm phía Tây Bắc tổ quốc, có nền văn hoá đa sắc màu
cùng với những ưu đãi của thiên nhiên. Sơn La có vị trí chiến lược quan trọng trên cung đường du
lịch Tây Bắc với nhiều lợi thế về phát triển du lịch. Tuy nhiên, trên thực tế tiềm năng và thế mạnh
về du lịch của Sơn La chưa được khai thác một cách hiệu quả để xứng đáng là một ngành kinh tế
mũi nhọn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà. Nghiên cứu đã chỉ ra thực
trạng khai thác, phát triển du lịch và xây dựng những giải pháp marketing địa phương nhằm tạo lợi
thế cạnh tranh cho địa phương và thu hút khách du lịch đến Sơn La ngày một nhiều hơn.
Từ khóa: Marketing địa phương, Sơn La.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Sơn La là một tỉnh miền núi nằm phía Tây
Bắc tổ quốc, vị trí địa lý nằm sâu trong lục địa
với trung tâm là thành phố Sơn La, cách Hà
Nội 320 km theo trục Quốc lộ 6 Hà Nội – Sơn
La – Điện Biên - Lai Châu. Có thể nói Sơn La
là một tỉnh có nền văn hoá đa sắc màu với 12
dân tộc anh em sinh sống, cùng với những ưu
đãi của thiên nhiên như nguồn nước nóng, các
hang động, thung lũng, núi non hùng vĩ… cho
thấy Sơn La có một tiềm năng rất lớn để phát
triển du lịch địa phương.
Nhân dịp cách mạng Tháng Tám và Quốc
khánh 2-9 năm 2011 (từ ngày 27/8 đến
2/9/2011) lần đầu tiên những sản phẩm du
lịch sinh thái, văn hóa lịch sử nổi tiếng tại
Sơn La và vùng Tây Bắc đã được tỉnh Sơn La
tổ chức, giới thiệu trong chương trình du lịch
“Qua miền Tây Bắc, Sơn La - 2011”. Chương
trình đã nhận được sự quan tâm, quảng bá
rộng khắp của các cơ quan thông tấn, báo chí,
mọi người trong và ngoài nước.
Sự kiện lớn này thể hiện sự quan tâm đặc biệt
của Đảng và Nhà nước dành cho ngành du
lịch Sơn La. Bởi lẽ Sơn La có vị trí chiến lược
quan trọng trên cung đường du lịch Tây Bắc
* Tel: 0973282586
với nhiều lợi thế về phát triển du lịch, có thể
kể đến như khu du lịch cao nguyên Mộc Châu,
du lịch lòng hồ Thủy điện Sơn La - thủy điện
lớn nhất Đông Nam Á, các di tích lịch sử, văn
hóa cộng đồng... Tuy nhiên, trên thực tế tiềm
năng và thế mạnh về du lịch của Sơn La chưa
được khai thác một cách hiệu quả để xứng
đáng là một ngành kinh tế mũi nhọn góp phần
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
nhà. Trong khi đó, tại Sơn La chưa có nghiên
cứu ứng dụng nào đề cập đến vận dụng lý luận
marketing địa phương để tạo lợi thế cạnh tranh
cho địa phương và thu hút khách du lịch đến
Sơn La ngày một nhiều hơn.
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đánh giá thực trạng khai thác, phát triển du
lịch Sơn La trong giai đoạn 2008 - 2012, khảo
sát - đánh giá các nguồn lực, cơ sở hạ tầng, cơ
chế chính sách cần thiết cho phát triển du lịch
bền vững và xây dựng những giải pháp
marketing địa phương nhằm thu hút khách du
lịch đến Sơn La giai đoạn từ năm 2012 đến
năm 2020.
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Chủ thể là
Marketing địa phương, khách thể là ngành
du lịch Sơn La.
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
142
- Phạm vi nghiên cứu: Thực trạng du lịch Sơn La từ năm 2008 - 2012 tại địa bàn tỉnh
Sơn La.
- Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình
nghiên cứu, nhóm tác giả thực hiện đề tài sử dụng các phương pháp sau:
Phân tích - tổng hợp: Trên cơ sở các thông tin và số liệu thu thập được, nhóm tác giả tiến
hành công việc tổng hợp phân tích, đánh giá.
Phân tích - so sánh: Những thông tin và số
liệu thu thập trong một thời kỳ nhất định, nhóm tác giả sử dụng để so sánh, phân tích
đánh giá giữa các thời kỳ khác nhau
Điều tra, phỏng vấn: thiết kế bảng hỏi, chọn
mẫu và tiến hành thu thập dữ liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phân tích - dự báo: Sau khi tổng hợp được tất
cả các thông tin, trên cơ sở đó đưa ra những dự
báo cho vấn đến nghiên cứu trong những năm
tiếp theo.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Phương pháp và kết quả điều tra xã hội
học về du lịch Sơn La
Nhóm tác giả đã thiết kế bảng câu hỏi và phát
ngẫu nhiên cho 140 khách du lịch tại TP. Sơn
La, Mộc Châu và Mường La. Số phiếu thu về,
sử dụng được là 140 phiếu. Trong đó, 50
phiếu tại Thành phố Sơn La, 45 phiếu tại Mộc
Châu và 45 phiếu tại Mường La. Đặc điểm
của đối tượng được khảo sát cụ thể như sau:
Bảng 1. Đối tượng khách du lịch được khảo sát
(Đơn vị tính: người)
Du khách
Giới tính Độ tuổi
Nam Nữ <18 18-24 25-34 35-55 >55
1. Khách nội địa 69 56 5 23 36 52 9
Miền Bắc 36 26 3 12 17 25 5
Miền Trung 21 17 2 8 13 18 2
Miền Nam 12 13 0 3 6 9 2
2. Khách Quốc tế 8 7 0 2 4 7 2
Bảng 2. Mức độ đánh giá của du khách về du lịch Sơn La
(Đơn vị tính: %)
Những ý kiến về cơ sở hạ tầng và chất lượng phục vụ
tại các điểm du lịch Sơn La
Thang đánh giá
Rất
không
đồng
ý
Không
đồng
ý
Trung
lập
Đồng
ý
Rất
đồng
ý
1. Hệ thống giao thông thuận lợi 24% 67% 7% 2% 0%
2. Giá cả sinh hoạt hợp lý 2% 19% 25% 51% 3%
3. Cảnh quan thiên nhiên đẹp 1% 9% 14% 34% 42%
4. Có những nét văn hóa đặc trưng của địa phương 27% 41% 18% 12% 2%
5. Con người tại địa phương thân thiện, hiếu khách 3% 8% 10% 44% 35%
6. Phòng ở tiện nghi, thoải mái 15% 21% 32% 24% 8%
7. Các điểm du lịch có nhà vệ sinh sạch sẽ 21% 39% 26% 11% 3%
8. Dễ dàng lựa chọn phương tiện đi lại 22% 36% 28% 13% 1%
9. Những di tích lịch sử được bảo tồn tốt 26% 35% 27% 9% 3%
10. Các lễ hội văn hóa độc đáo 20% 33% 20% 18% 9%
11. Hệ thống điện, nước tại các điểm du lịch tốt 19% 28% 29% 19% 5%
12. Có nhiều đoàn khách khác cùng đến tham quan 14% 29% 34% 17% 6%
13. Có sẵn những chỉ dẫn thông tin du lịch 25% 40% 25% 8% 2%
14. Hướng dẫn viên, thuyết minh viên địa phương nhiệt
tình, chuyên nghiệp 19% 33% 22% 21% 5%
15. Hài lòng khi du lịch đến Sơn La 8% 29% 54% 13% 4%
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
143
Qua bảng 1 chúng ta thấy tỉ lệ khách du lịch
là nam đi du lịch nhiều hơn (55%), độ tuổi đi
du lịch nhiều nhất là từ 35 đến 55 tuổi. Với
khách nội địa thì đa số du khách đến Sơn La
là từ miền Bắc (chiếm 48%). Số liệu cho thấy
lượng khách có độ tuổi từ 18 đến 34 chưa
nhiều và đối tượng khách trên 55 còn thấp,
đối tượng khách dưới 18 tuổi còn rất ít. Thực
tế này sẽ định hướng cho ngành du lịch Sơn
La phát triển những sản phẩm du lịch dành
cho lứa tuổi chiếm đa số là từ 35 đến 55 tuổi.
Qua số liệu bảng 2, chúng ta cần lưu ý những
điểm tốt và chưa tốt, cụ thể như sau:
* Những điểm được đánh giá chưa tốt:
Cơ sở vật chất phục vụ du lịch: Về hệ thống
giao thông, có đến 67% không đồng ý là giao
thông thuận lợi, có đến 58% người cho rằng
việc lựa chọn phương tiện đi lại không dễ
dàng. Điều này ảnh hưởng đến việc quyết
định đi du lịch của du khách và ảnh hưởng
đến việc du khách có quyết định quay lại Sơn
La hay không. Về phòng ở tiện nghi, thoải
mái: chỉ có 32% số người đồng ý, còn lại cho
rằng không đồng ý và ý kiến trung lập không
đánh giá rõ rệt.
Ấn tượng địa phương: Có đến 68% số người
cho rằng Sơn La chưa có những điểm đặc
trưng riêng về du lịch. Các lễ hội chưa gây ấn
tượng khó phai trong du khách (có 53% số
người không đồng ý). Nghĩa là việc tạo dựng
ấn tượng, các lễ hội và hình tượng của địa
phương chưa hiệu quả và chưa được chú
trọng gìn giữ và phát huy đúng mức.
Tại các điểm du lịch: Các nhà vệ sinh bị đánh
giá là không tốt, có đến 60% du khách cho
rằng nhà vệ sinh chưa đáp ứng được tiêu
chuẩn vệ sinh. Hệ thống điện nước cũng bị
đánh giá là chưa tốt (47% không đồng ý và
29% là ý kiến trung lập). Thông tin chỉ dẫn về
du lịch cũng không sẵn có tại các điểm du lịch
(65% số người không đồng ý và rất không
đồng ý). Những di tích lịch sử chưa được bảo
tồn đúng mức (61%).
* Những điểm được đánh giá tốt
Về cảnh quan thiên nhiên được đa số du
khách đánh giá là đẹp (chiếm 76%), giá cả
sinh hoạt và tiền thuê phòng được cho là hợp
lý (chiếm 54%), con người tại địa phương
được đánh giá là rất thân thiện, hiếu khách
(chiếm 79%).
Về mức độ hài lòng sau khi đi du lịch Sơn La,
số liệu khảo sát chưa kết luận được về mức độ
hài lòng, ý kiến trung lập chiếm 54%, số cho
là hài lòng chiếm 17% và số cho là không hài
lòng chiếm 37%. Nghĩa là du lịch Sơn La
chưa xác định rõ được nhu cầu và mong
muốn của du khách, chưa có những giải pháp
hiệu quả thỏa mãn nhu cầu và mong muốn
của du khách tốt hơn những địa phương khác
trong toàn quốc.
Thực trạng marketing địa phương nhằm
thu hút khách du lịch đến Sơn La
* Số lượt khách du lịch đến Sơn La
Năm 2012, lượng khách đến với Sơn La đạt
hơn 400.000 lượt, tăng 4,8 lần so với năm
2003, trong đó có 63.606 lượt khách quốc tế.
Qua đồ thị 1, chúng ta thấy rằng lượt khách
đến Sơn La tăng vọt từ năm 2008 sang 2009,
sau đó tiếp tục giữ được mức tăng trong các
năm tiếp theo. Trong đó, việc thu hút khách
nội địa tăng cao hơn so với lượng khách quốc
tế. Sự việc này do công tác phát triển và xúc
tiến du lịch được quan tâm mạnh mẽ của
chính quyền địa phương.
* Thu nhập từ du lịch Sơn La
Đồ thị 2 cho thấy thu nhập từ du lịch năm 2012
đạt hơn 200 tỷ đồng, tăng 6,5 lần so với năm
2003, nâng cao vai trò của du lịch ở địa
phương. Ngày càng khẳng định ngành du lịch
Sơn La hoàn toàn có thể trở thành ngành mũi
nhọn góp phần xóa đói giảm nghèo, thúc đẩy
kinh tế xã hội Sơn La phát triển.
* Nguồn lực ngành du lịch Sơn La
Sau hơn 10 năm thực hiện chiến lược phát
triển du lịch, hệ thống cơ sở lưu trú và dịch
vụ hỗ trợ đã phát triển khá nhanh, thu hút
trên 150 tổ chức, doanh nghiệp và cùng
nhiều thành phần kinh tế tham gia vào lĩnh
vực phát triển du lịch, tạo việc làm cho trên
2.000 lao động trực tiếp trong ngành và trên
4.000 lao động gián tiếp, được thể hiện qua
đồ thị 3.
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
144
Đồ thị 1. Lượt khách du lịch đến Sơn La trong giai đoạn 2003-2012
Đồ thị 2. Thu nhập du lịch đến Sơn La trong giai đoạn 2003-2012
Đồ thị về tỷ lệ cơ cấu trình độ trong nguồn lực du lịch cho thấy rằng tỷ lệ những người có trình
độ đại học và trên đại học còn hạn chế (dưới 10%), điều này khó có thể thúc đẩy và nâng tầm du
lịch Sơn La lên mức đạt tiêu chuẩn cao về chất lượng, ngang tầm đẳng cấp với ngành du lịch trên
toàn quốc và trong khu vực, dẫn đến sức cạnh tranh yếu trong thu hút du khách. Số lượng nhân
lực chưa qua đào tạo và làm việc trái ngành chiếm tỷ lệ lớn (trên 60%), điều này dẫn đến chất
lượng phục vụ trong ngành du lịch không chuyên nghiệp do không được đào tạo đúng chuyên
ngành, cần phải đào tạo lại và đào tạo bổ sung cho lực lượng lao động này.
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
145
Đồ thị 3. Cơ cấu trình độ nguồn nhân lực ngành du lịch
NHỮNG HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN
Sơn La là một tỉnh miền núi phía Tây Bắc
của Tổ quốc. Diện tích tự nhiên rộng đứng
thứ 3 cả nước, nhưng Sơn La lại là một
trong 7 tỉnh nghèo nhất nước. Cơ sở hạ tầng
cho phát triển du lịch còn nhiều khó khăn,
hạn chế. Đường giao thông, đường sông
chất lượng chưa cao, chưa đa dạng về loại
hình vận tải. Bên cạnh đó hệ thống khách
sạn nhà nghỉ, nhà hàng, chất lượng và số
lượng buồng phòng còn hạn chế.
Nền kinh tế còn chậm phát triển do điểm
xuất phát của nền kinh tế Sơn La thấp. Mặc
dù mấy năm gần đây, kinh tế của tỉnh đã có
khởi sắc, xuất hiện một số điển hình là nhân
tố thúc đẩy quá trình phát triển của tỉnh.
Tuy nhiên, kinh tế Sơn La nói riêng và kinh
tế Tây Bắc nói chung vẫn phát triển chậm
so với nhiều vùng trong cả nước.
GDP/người chỉ bằng 61% so với mức trung
bình của cả nước, thu không đủ chi, cơ cấu
kinh tế chuyển đổi chậm.
Sản phẩm du lịch còn nghèo nàn, khả năng
cạnh tranh chưa cao. Mặc dù có nhiều tiềm
năng để phát triển đa dạng sản phẩm nhưng
các sản phẩm chưa tạo được đặc trưng rõ nét,
chưa đa dạng để đáp ứng những nhu cầu du
lịch phong phú của khách hàng du lịch tiềm
năng. Nguyên nhân là do chưa có những
chuyên gia, tổ chức chuyên nghiệp về du lịch
tư vấn và triển khai những loại hình du lịch
hấp dẫn hướng về khách hàng.
Môi trường kinh doanh, đầu tư du lịch chưa
thực sự hấp dẫn cho nên cho thu hút được đầu
tư vào du lịch Sơn La. Những điểm du lịch mặc
dù có tiềm năng nhưng không được đầu tư đúng
mức thì vẫn đủ sức hấp dẫn để lôi cuốn khách
hàng đến với Sơn La. Các chính sách ưu đãi về
đầu tư cho du lịch, chế độ miễn giảm thuế, ưu
đãi về thuê đất cho lĩnh vực du lịch chưa đồng
bộ và rõ nét.
Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch còn nhiều
hạn chế, dẫn đến khách du lịch, nhất là khách
du lịch nước ngoài rất thiếu thông tin về Sơn
La. Hiện nay, chủ yếu thông qua hoạt động
triển lãm hàng năm để quảng bá về du lịch.
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
146
Các loại hình tuyên truyền, quảng bá chưa
phong phú và chưa được tiến hành thường
xuyên.
CÁC GIẢI PHÁP MARKETING ĐỊA
PHƯƠNG NHẰM THU HÚT KHÁCH DU
LỊCH ĐẾN TỈNH SƠN LA
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực du lịch
Để thực hiện tốt hoạt động Marketing địa
phương cần phải hết sức coi trọng đến lực
lượng phục vụ trong du lịch bởi chính những
người này sẽ có một sự tác động mạnh mẽ tới
du khách. Đặc biệt tạo điều kiện thuận lợi cho
các trường cao đẳng nghề, cao đẳng cộng
đồng hoạt động để từ đó có thể dễ dàng thu
hút các học sinh tốt nghiệp phổ thông theo
học nghề, giúp cho họ có một tay nghề kỹ
thuật vững chắc, góp phần vào sự nghiệp phát
triển du lịch của thành phố.
Đa dạng hóa sản phẩm du lịch hướng về
khách hàng
Dựa trên nguồn tài nguyên phong phú, đa
dạng có thể phát triển các loại hình du lịch
đặc trưng có sức hấp dẫn du khách như du
lịch khám phá, du lịch trải nghiệm, du lịch
cộng đồng, du lịch giúp đỡ người nghèo...
hướng về thỏa mãn nhu cầu và mong muốn
của khách du lịch. Bên cạnh đó cần chú trọng
đến đầu tư hoặc khuyến khích xây dựng các
tụ điểm vui chơi giải trí để giữ chân khách
như casino, vũ trường hiện đại, khách sạn đầy
đủ tiện nghi.
Rà soát lại quy hoạch du lịch
Sơn La hiện nay chủ yếu khai thác yếu tố
thiên nhiên mà chưa có một quy hoạch
tương xứng với những gì mình có. Vì thế
cần rà soát lại quy hoạch để Sơn La trong
tương lai sẽ trở thành một điểm đến hấp
dẫn, trở thành điểm đến du lịch bền vững.
Sự quy hoạch du lịch cần tính đến sự liên
hoàn giữa các khu du lịch, sự kết nối tạo
thành chuỗi giá trị không những trong
ngành du lịch và hỗ trợ tạo điều kiện lẫn
nhau trong việc thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển.
Tăng cường quảng bá du lịch
Để hình ảnh Sơn La trở nên quen thuộc với
mọi người cần chú ý đến hoạt động quảng bá
du lịch. Quảng bá Sơn La bằng cách thành lập
bộ phận chuyên trách hoặc thuê một công ty
PR chuyên nghiệp của nước ngoài để tổ chức
các sự kiện lớn nhằm quảng bá cho Sơn La.
Bên cạnh đó cần hoàn thiện khâu cung cấp
thông tin du lịch qua website, email, liên kết
với các web tìm kiếm nổi tiếng như Google,
Yahoo, MSN… để du khách nước ngoài dễ
tìm kiếm.
Nâng cao ý thức người dân
Sự thân thiện và lòng hiếu khách của người
dân Sơn La hiện nay đang được du khách
đánh giá cao, địa phương cần tập trung vào
thế mạnh này. Bởi lẽ cộng đồng địa phương
có một vai trò rất lớn trong sự phát triển du
lịch, các hoạt động du lịch đều có sự tham
gia của cộng đồng địa phương. Vì thế, để
nâng cao khả năng thu hút khách cần tác
động đến ý thức của cộng đồng để họ thực
sự trở thành những người bảo vệ các đối
tượng du lịch.
Thực hiện công tác liên kết phát triển du lịch
Trong quá trình cạnh tranh gay gắt như hiện
nay thì liên kết hợp tác trong phát triển du
lịch để cùng nhau phát triển lại trở nên cần
thiết hơn bao giờ hết. Hoạt động liên kết giữa
các tỉnh khu vực Tây Bắc, đặc biệt các tỉnh
trên cung đường quốc lộ 6 như Hòa Bình, Sơn
La, Điện Biên cần được triển khai thực hiện
đồng bộ. Các địa phương cũng phối hợp nhau
để tổ chức các sự kiện lớn như Festival qua
miền Tây Bắc, Hành trình “Điện Biên năm
xưa”, liên hoan văn hóa du lịch Tây Bắc.
Chính hoạt động liên kết sẽ khai thác được
các nét đặc trưng cũng như phát huy được các
thế mạnh về du lịch của các tỉnh để phát triển
du lịch của khu vực.
Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch
* Phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ phát
triển du lịch
- Đường bộ: những tuyến đường được xác
định là lộ trình du lịch với hành trình dài cần
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
147
xây dựng và hình thành trạm dịch vụ dừng
chân dọc theo các tuyến đường bộ với khoảng
cách hợp lý. Thường xuyên duy tu, sửa chữa
các tuyến đường hiện có.
- Đường không: Xúc tiến quá trình cải tạo và
xây dựng sân bay Nà Sản trở thành một sân
bay quốc tế hiện đại… Có chủ trương hỗ trợ
đối với các đường bay mới, ít khách để có thể
duy trì hoạt động.
- Đường sông: Nghiên cứu thiết lập đa dạng
các tuyến du lịch bằng đường sông đến Sơn
La qua dòng sông Đà. Xây dựng những điểm
ven sống thành chợ hàng hóa kết hợp du lịch,
xây dựng khu bán hàng lưu niệm, ẩm thực
phục vụ khách du lịch văn minh, sạch đẹp.
- Hoàn chỉnh hệ thống viễn thông - công nghệ
thông tin; xây dựng đồng bộ và hiện đại hoá
hệ thống biển báo, chỉ dẫn giao thông và du
lịch; xây dựng và cải tạo mạng lưới cấp điện,
nước cho các khu đô thị và du lịch.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
- Phát triển cả số lượng và chất lượng cơ sở
lưu trú nhằm đáp ứng nhu cầu của ngành du
lịch, đạt tiêu chuẩn 3 sao, 4 sao thỏa mãn nhu
cầu hưởng thụ chất lượng cao của phân khúc
thị trường cao cấp.
- Kiểm tra, lựa chọn và thông báo rộng rãi
những khách sạn, nhà hàng, dịch vụ ăn uống,
điểm mua sắm đạt tiêu chuẩn phục vụ khách
du lịch nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ở
các điểm du lịch, giúp du khách có cơ sở để
lựa chọn và quyết định.
- Ban hành những chính sách ưu đãi đầu tư,
thu hút và lựa chọn những dự án xây dựng
khách sạn cao cấp với quy mô lớn, đẳng cấp
quốc tế, kêu gọi xây dựng hạ tầng xanh thân
thiện với môi trường mà lại tiết kiệm được
chi phí.
- Nâng cấp và xây dựng thêm các khu vui
chơi giải trí, các resort, các khu mua sắm lớn,
hiện đại và đa dạng hóa về chủng loại hàng
hóa, các khu thể thao phù hợp với điều kiện
địa hình của thành phố.
- Phát triển các khu mua sắm để tăng chi tiêu
của du khách và có những chính sách ưu đãi
với những gian hàng của các làng nghề trong
khu mua sắm;
- Cần xây dựng một số khu vui chơi giải trí
hiện đại mang đặc trưng và sự khác biệt so
với những nơi khác.
- Nâng cao hơn nữa chất lượng các dịch vụ
kèm theo như dịch vụ vận chuyển, viễn thông,
y tế, ngân hàng… và đầu tư nâng cấp, trùng tu
các khu bảo tàng, văn hóa, sinh thái.
Phát triển du lịch gắn kết với cộng đồng
địa phương
Gia tăng sự hiểu biết về phát triển du lịch bền
vững, hướng tới cân bằng lợi ích kinh tế xã
hội, lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương
và vấn đề bảo vệ môi trường. Đảm bảo sự
tham gia của cộng đồng dân cư vào quá trình
xây dựng quy hoạch phát triển du lịch. Muốn
vậy phải để người dân địa phương tham gia từ
việc đánh giá thực trạng du lịch bền vững, lấy
ý kiến người dân về những biện pháp, đề ra
những nội quy để phát triển du lịch bền vững.
Khi người dân được tham gia và cùng trải
nghiệm quá trình này thì bản thân mỗi người
đã ý thức được trách nhiệm đối với môi
trường du lịch.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Mạnh (2009), Giáo trình
marketing du lịch, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.
2. Vũ Thị Thoa (2012), “Phát triển du lịch bền
vững”, Viện nghiên cứu phát triển du lịch,
http://www.vtr.org.vn/index.php?options=items&c
ode=2979
3. Kai Partale (2012), “Quản lý điểm đến cho 8
tỉnh miền núi Tây Bắc”, Chương trình Phát triển
Năng lực Du lịch có trách nhiệm với Môi trường
và Xã hội, http://www.esrt.vn/default.aspx?
portalid=1&tabid=356&itemid=16
4. Hoàng Vượng (2012), “Bộ thương hiệu du lịch
tám tỉnh Tây Bắc mở rộng”, Du lịch Việt Nam -
2012 - Số Xuân (2) - Tr. 50-51.
5. Sở Thương mại & Du lịch Sơn La (2006), Quy
hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Sơn La giai
đoạn 2007 -2020.
6. Vũ Trí Dũng, ThS Nguyễn Đức Hải (2011),
Marketing lãnh thổ, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân.
Lê Ngọc Nương và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 141 - 148
148
SUMMARY
LOCAL MARKETING SOLUTIONS TO ATTRACT TOURISTS
IN SON LA PROVINCE
Le Ngoc Nuong*, Nguyen Hai Khanh
College of Economics and Business Administration – TNU
Today's marketing activities are not limited in the scope of the business or a particular industry but
are developed in the scope of area, region, local or nation. This marketing is called local marketing
and can be applied in a province (city). Son La is a mountainous province located northwest of the
country, with colorful culture along with the good conditions in terms of nature. Son La has an
important strategic position with many advantages of tourism development. However, Son La
tourism has not been developed effectively as key economic sectors which contribute to promote
the social and economic development of the province. Research has shown reality of development,
tourism development and built local marketing solutions to create competitive advantages and to
attract more tourists to Son La.
Key words: Local marketing, Son La
Ngày nhận bài: 12/3/2014; ngày phản biện: 09/4/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Anh – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0973282586
Nguyễn Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 149 - 153
149
CÔNG TÁC QUẢN LÝ SINH VIÊN – NHÂN TỐ GOP PHẦN KHẲNG ĐỊNH
THƯƠNG HIỆU TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ VÀ QUẢN TRỊ KINH DOANH
Nguyễn Thị Thủy1*, Nguyễn Nam Hà2, Nguyễn Thị Hà Trang2
1Đại học Thái Nguyên 2Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT Công tác quản lý sinh viên là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giáo
dục, đào tạo của Nhà trường. Quản lý tốt học sinh, sinh viên sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá
trình trang bị kiến thức, kỹ năng chuyên môn, đồng thời còn tạo ra môi trường tốt cho việc rèn
luyện phẩm chất đạo đức, nhân cách và tác phong, lối sống cho sinh viên.
Bằng những nỗ lực trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý học sinh, sinh viên, trong những năm
vừa qua, công tác quản lý sinh viên trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh doanh- Đại học Thái
Nguyên đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trên các mặt công tác chính trị, tư tưởng, công tác
học tập rèn luyện, nghiên cứu khoa học, công tác an ninh trật tự, công tác sinh viên nội, ngọai trú.
Hằng năm, các sinh viên của Nhà trường tốt nghiệp được các đơn vị sử dụng lao động đánh giá
cao, bởi bên cạnh việc vững vàng về kiến thức, kỹ năng tay nghề chuyên môn, các sinh viên của
trường còn thực sự trưởng thành, có phẩm chất đạo đức tốt, đáp ứng được chuẩn đầu ra về tin học,
ngoại ngữ. Điều đó đã khẳng định và làm nên thương hiệu của Trường Đại học Kinh tế và Quản trị
Kinh doanh – Đại học Thái Nguyên.
Từ khóa: Công tác quản lý sinh viên, thương hiệu, Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh –
Đại học Thái Nguyên
Trường Đại học Kinh tế và Quản trị Kinh
doanh là một trường thành viên của Đại học
Thái Nguyên - một Đại học vùng, một trong
ba đại học lớn nhất cả nước, đã được Đảng và
Chính phủ quy hoạch phát triển thành đại học
trọng điểm quốc gia nên có nhiều cơ hội và
được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Chính
phủ. Sứ mạng của Nhà trường là đào tạo
nguồn nhân lực trình độ đại học và trên đại
học với chất lượng cao, nghiên cứu khoa học,
chuyển giao công nghệ và hợp tác quốc tế
trong các lĩnh vực kinh tế, kinh doanh và
quản lý nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế-xã hội, đặc biệt ở miền núi và
trung du Bắc bộ.* HSSV của Trường đến từ
trên 30 tỉnh, thành phía Bắc và miền Trung,
với lưu lượng và quy mô ngày càng tăng,
trước thực trạng đó công tác quản lý học sinh,
sinh viên (HSSV) trong những năm qua, luôn
được Nhà trường xác định là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của Nhà trường.
*Tel: 0915.212.799; Email: [email protected]
Quản lý tốt HSSV sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng
chuyên môn, đồng thời còn tạo ra môi trường
tốt cho việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, nhân
cách và tác phong, lối sống cho HSSV, làm tốt
công tác quản lý HSSV là cơ sở để Nhà trường
yên tâm vào việc mở rộng quy mô, nâng cao
chất lượng đào tạo để phát triển Nhà trường,
đáp ứng yêu cầu về số lượng, chất lượng
nguồn nhân lực làm giàu cho đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự điều
hành có hiệu quả của các cấp quản lý, sự phối
hợp chặt chẽ của các tổ chức đoàn thể và quyết
tâm phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
của đông đảo thầy giáo, cô giáo, cán bộ viên
chức và học sinh, sinh viên trong toàn trường,
công tác HSSV trường Đại học Kinh tế và
Quản trị Kinh doanh trong 10 năm qua đã thu
được nhiều kết quả và thành tích to lớn:
Cơ cấu tổ chức
Ngay sau khi nhà trường được thành lập bộ
máy quản lý HSSV của Nhà trường được thiết
lập theo một hệ thống từ Ban Giám hiệu –
Nguyễn Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 149 - 153
150
Phòng Công tác Học sinh sinh viên đến các
khoa. Ban Giám hiệu đã phân công 1 đồng chí
Phó Hiệu trưởng trực tiếp chỉ đạo công tác
HSSV; thành lập phòng Phòng Công tác Học
sinh sinh viên tham mưu cho Ban Giám hiệu
về công tác tư tưởng trong HSSV, công tác
HSSV, công tác KTX… Tại các khoa có 1
Phó Chủ nhiệm khoa phụ trách công tác
HSSV, 1 trợ lý quản lý sinh viên và đội ngũ
giáo viên chủ nhiệm kiêm cố vấn học tập
năng động, nhiệt tình có trách nhiệm cao[3].
Với hệ thống quản lý của Nhà trường như trên
nên mọi hoạt động trong công tác HSSV được
diễn ra nhanh chóng, kịp thời và đạt kết quả
cao. Tính đến năm học 2013-2014, qui mô
sinh viên chính quy của Nhà trường là 5117
sinh viên, được phân bố như sau [1]:
TT Khoa Số
lớp
Số sinh
viên
Ghi
chú
1 Quản trị Kinh
doanh 25 1444
2 Kế toán 25 1656
3 Kinh tế 29 1590
4 Ngân hàng -
Tài chính. 14 326
5 Quản lý - Luật
kinh tế 2 101
Tổng cộng 95 5117
Về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
Nhận thức rõ những khó khăn trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ quản lý HSSV, trên quan
điểm lấy “sinh viên làm trung tâm” những
năm qua Nhà trường đã nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện để sản phẩm đào tạo phải
là những công dân tốt, có ích cho xã hội,
những lớp HSSV khoẻ mạnh cả về thể chất và
tinh thần, có trình độ tay nghề và phẩm chất
đạo đức tốt. Nhà trường đặc biệt quan tâm
tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện cho HSSV ý
thức tôn trọng và thực hiện pháp luật, nội quy,
quy định. Hằng năm, ngay vào đầu năm học
mới, đầu khoá học nhà trường đã duy trì tuần
sinh hoạt công dân HSSV với những nội dung
phong phú và thiết thực từ chuyển tải những
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, tình hình thời sự trong và ngoài nước.
Cũng như ở địa phương đặc biệt là tình hình
tội phạm, tệ nạn xã hội, ma tuý, mại dâm, an
toàn giao thông, những nội quy, quy chế của
Bộ, của Đại học Thái Nguyên, cụ thể hoá của
Nhà trường, tổ chức cho HSSV học tập, thảo
luận và viết thu hoạch về những nội dung trên
để sinh viên thấy được trách nhiệm, quyền
lợi, nghĩa vụ và bổn phận của mình, làm căn
cứ thực hiện đúng và đủ. Mặt khác, Đoàn
Thanh niên, Hội sinh viên còn thường xuyên
phối hợp với các phòng ban chức năng trong
trường tổ chức hoạt động ngoại khoá như giao
lưu văn hoá, văn nghệ, thể dục, thể thao, sinh
hoạt chính trị, toạ đàm về phương pháp học
tập, về hoàn thiện kỹ năng trong giao tiếp ứng
xử... tạo môi trường sinh hoạt văn hoá lành
mạnh, thu hút đông đảo HSSV tham gia, góp
phần hạn chế, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực
và tệ nạn xã hội trong HSSV.
Từ những hoạt động trên mà nhận thức về
chính trị tư tưởng trong HSSV nhà trường đã
được nâng lên, trong mọi cư xử, hành động
đều thể hiện người có văn hoá, tình hình HSSV
được ổn định. Nhiều HSSV có nỗ lực phấn đấu
tốt trong học tập, rèn luyện đã được Nhà
trường quan tâm bồi dưỡng, kết nạp và trở
thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam [1].
Công tác học tập, nghiên cứu khoa học và
rèn luyện của HSSV
Trong những năm gần đây do tác động của cơ
chế thị trường, của Quy chế Học sinh, sinh
viên các trường đại học, cao đẳng và trung cấp
chuyên nghiệp hệ chính quy (Ban hành kèm
theo Quyết định số 42/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo) [3] và Quy chế Đào tạo
Đại học, Cao Đẳng hệ Chính quy theo hệ
thống tín chỉ (Ban hành kèm theo Quyết định
số 43/2007/QĐ-BGDĐTngày 15 tháng 8 năm
2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
[2], và chuẩn đầu ra tin học, ngoại ngữ theo
chuẩn quốc tế mà động cơ học tập, ý thức học
tập và kết quả học tập của HSSV đã được nâng
lên rõ rệt, việc học thêm ngoại ngữ, tin học
được các em tham gia tích cực, và có ý thức
trong việc nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên,
cũng còn một bộ phận không nhỏ HSSV còn
lơ là, chểnh mảng trong học tập mà sa đà vào
việc chơi bời, rượu chè quán xá đặc biệt là nạn
chơi game, trò chơi điện tử.
Nguyễn Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 149 - 153
151
Kết quả học tập, rèn luyện qua các năm 2011- 2013 [1]
Tiêu chí Năm 2011 2012 2013
Kỳ 1 Kỳ 2
I- Kết quả học tập
- Loại xuất sắc 0 1 4 17
- Loại giỏi 46 48 41 142
- Loại Khá 410 566 557 935
- Loại TB Khá 177 0 865 881
- Loại Trung bình 35 269 - 0
- Loại yếu 0 0 2141 1633
I- Kết quả rèn luyện
- Loại xuất sắc 179 372 363 544
- Loại giỏi 271 444 1262 1750
- Loại Khá 142 64 1551 1003
- Loại TB Khá 76 4 432 311
Việc tổ chức thực hiện các chế độ chính
sách đối với HSSV
Trong những năm qua nhà trường đã thực
hiện nghiêm túc các chế độ chính sách của
Đảng và Nhà nước đối với HSSV như học
bổng, trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi, học bổng
ngoài ngân sách và xét miễn giảm học phí
từng kỳ cho HSSV trong đó có quan tâm
đúng mức đối với những HSSV nghèo, có
hoàn cảnh khó khăn đột xuất. Ngoài ra còn
liên hệ với các tổ chức ngân hàng chính sách
cho sinh viên vay vốn tín dụng, với cơ quan y
tế để cho các em tham gia bảo hiểm y tế và
bảo hiểm toàn diện. Năm 2011 Nhà trường đã
cấp cho 837 suất học bổng khuyến khích học
tập, với tổng số tiền là: 276.685.000 đ, năm
2012 là 870 suất, tổng số tiền là
1.788.600.000đ, năm 2013 là 562 suất với
tổng số tiền là 1.040.000.000đ [1].
Công tác quản lý HSSV nội trú, ngoại trú
Nhằm tăng cường quản lý và tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho học tập và rèn luyện của
HSSV, năm 2010 Nhà trường đã đưa vào sử
dụng Ký túc xá gần 1200 chỗ ở, với phòng ở,
phòng tự học, đủ trang thiết bị cần thiết cho
việc học tập và sinh hoạt. Các cán bộ quản lý
KTX được phân công phụ trách từng khu vực
thường xuyên kiểm tra nhắc nhở việc thực
hiện trật tự nội vụ, đảm bảo vệ sinh môi
trường, đảm bảo thực hiện thời gian theo quy
định; Định kỳ tổ chức hội nghị sinh viên khu
nội trú nhằm lắng nghe ý kiến phản ánh của
HSSV để nhanh chóng khắc phục những vấn
đề phát sinh [1].
Hiện nay còn khoảng 80% số sinh viên chính
quy của trường còn ở ngoại trú[1]. Do đó nhà
trường tăng cường công tác quản lý HSSV
ngoại trú. Theo dõi thường xuyên chỗ ở của
sinh viên ngoại trú, định kỳ tổ chức lực lượng
phối hợp với công an, chính quyền địa
phương nơi trường đóng để kiểm tra và xử lý
HSSV ngoại trú vi phạm nội quy quản lý
ngoại trú và những quy định của địa phương.
Là đơn vị được Nhà trường giao nhiệm vụ
trực tiếp quản lý HSSV, Phòng Công tác
HSSV phân công cán bộ chuyên trách định kỳ
hằng tuần và đột xuất tổ chức kiểm tra ngoại
trú, nắm bắt tình hình ăn ở, việc chấp hành
nội quy, quy định tại nơi cư trú của HSSV,
cập nhật họ tên, địa chỉ, số điện thoại của chủ
nhà trọ để phối hợp quản lý. Định kỳ dự giao
ban với các Trưởng khu dân cư và Công an
các phường xã, nơi có sinh viên trường ngoại
Nguyễn Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 149 - 153
152
trú, từ đó có biện pháp can thiệp và kịp thời
xử lý, nhắc nhở các trường hợp vi phạm. Đại
đa số HSSV của trường có ý thức kỷ luật tốt,
tự giác, nghiêm túc trong việc chấp hành nội
quy, quy định của nhà trường cũng như của
địa phương. Tuy nhiên, công tác HSSV ngoại
trú là một vấn đề phức tạp và rất nhạy cảm,
địa bàn ngoại trú của HSSV rất rộng, cán bộ
quản lý HSSV ngoại trú của trường thì lại ít,
mặt khác còn nhiều hộ cho SV trọ chủ yếu
mang tính chất kinh doanh không quan tâm
đến công tác quản lý con người… nên cũng
còn nhiều điều phải bàn trong công tác HSSV
ngoại trú.
Công tác bảo đảm an ninh trật tự, kỷ cương
nề nếp, phòng chống tệ nạn xã hội và tội
phạm trong nhà trường
Để duy trì công tác an ninh trật tự trong nhà
trường, nhà trường đã thành lập 1 đội bảo vệ,
từng trải qua công tác có kinh nghiệm trong
công tác bảo vệ, duy trì trực tuần tra canh gác
24h/ngày. Bên cạnh đó, để phát huy tính tự
quản trong sinh viên, nhà trường đã thành lập
và thường xuyên kiện toàn đội Thanh niên
xung kích gồm 30 sinh viên, phân bố đều ở
các lớp, là những hạt nhân nòng cốt, mạng
lưới trật tự viên có vai trò tích cực trong việc
kiểm tra, đôn đốc thực hiện nội quy, quy định
trong và ngoài giờ học, nắm bắt các diễn biến
trong HSSV tới Nhà trường; đồng thời là lực
lượng nòng cốt trong việc giữ gìn an ninh, trật
tự trong Ký túc xá, thường xuyên phối hợp
với địa phương, cơ quan chức năng làm trong
sạch địa bàn trong đó đặc biệt là phòng PA83
Công an tỉnh Thái Nguyên, nhờ đó tình hình
an ninh trật tự trong nhà trường được giữ
vững và ổn định, đặc biệt không có HSSV vi
phạm pháp luật và các tệ nạn xã hội.
Hằng năm, lớp lớp sinh viên - sản phẩm của
Nhà trường tốt nghiệp được các đơn vị sử
dụng lao động đánh giá cao, bởi bên cạnh
việc vững vàng về kiến thức, kỹ năng tay
nghề chuyên môn, các sinh viên còn thực sự
trưởng thành, có phẩm chất đạo đức tốt, đáp
ứng được chuẩn đầu ra về tin học, ngoại ngữ
(áp dụng cho sinh viên chính quy tốt nghiệp
từ năm 2013). Điều đó đã khẳng định và làm
nên thương hiệu của Trường Đại học Kinh tế
và Quản trị Kinh doanh, đồng thời giúp cho
mỗi cán bộ, giảng viên tham gia thực hiện
chức năng quản lý HSSV thêm tự hào và càng
nhận thức rõ trọng trách của mình trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của
Nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, phục vụ nhu cầu nhân lực
cho phát triển kinh tế, xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 . Báo cáo tổng kết công tác HSSV trường đại
học Kinh tế và Quản trị kinh doanh các năm 2011,
2012, 2013.
2. Quy chế Đào tạo Đại học, Cao Đẳng hệ
Chính quy theo hệ thống tín chỉ (Ban hành kèm
theo Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐTngày
15 tháng 8 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo)
3. Quy chế Học sinh, sinh viên các trường đại học,
cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp hệ chính quy
(Ban hành kèm theo Quyết định số 42/2007/QĐ-
BGDĐT ngày 13 tháng 8 năm 2007 của Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
4. Quyết định của Hiệu trưởng trường đại học
Kinh tế và Quản trị kinh doanh ngày 27/3/2011
về việc ban hành Quy định Công tác Cố vấn học
tập tại Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh
doanh.
Nguyễn Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 149 - 153
153
SUMMARY STUDENT MANAGEMENT – A CONTRIBUTING FACTOR
FOR THE BRAND OF COLLEGE OF ECONOMICS AND BUSINESS
ADMINISTRATION – THAI NGUYEN UNIVERSITY
Nguyen Thi Thuy1*, Nguyen Nam Ha2, Nguyen Thi Ha Trang2
1Thai Nguyen University 2College of Economics and Business Administration - TNU
Student management is one of the most important tasks of education and training performance in
any schools and universities. Good management will facilitate students to master knowledge and
professional skills as well as provide them with a good environment for fostering moral
characteristics, personality and lifestyle.
With the best efforts, in recent years, the student management in College of Economics and
Business Administration – Thai Nguyen University has achieved many significant
accomplishments in terms of politics, ideology, academics, scientific research, security and student
accomodation management.
Anually, most of students graduating from the College are employed and appreciated because of
their strong knowledge, well-trained skills, good moral characteristics as well as their meeting the
output standard of information technology and foreign language. Such students’ success has
created and comfirmed the brand of College of Economics and Business Administration - Thai
Nguyen University.
Key words: Student management, brand, College of Economics and Business Administration –
Thai Nguyen University
Ngày nhận bài: 27/8/2014; ngày phản biện: 10/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: TS. Nguyễn Thanh Minh – Trường Đại học Kinh tế & QTKD – ĐH Thái Nguyên
* Tel: 0915.212.799; Email: [email protected]
Nguyễn Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 149 - 153
154
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 155 - 160
155
CHUẨN HOA KĨ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN -
GIẢI PHÁP THIẾT THỰC NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO,
TĂNG CƠ HỘI TÌM KIẾM VIỆC LÀM
Nguyễn Minh Tân*
Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT Chuẩn hóa trình độ và kĩ năng ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) cho cán bộ giảng viên
(CBGV) và sinh viên (SV) nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, tăng cơ hội tìm kiếm việc làm cho
SV sau khi ra trường là một trong những giải pháp cần thiết, khả thi và hoàn toàn phù hợp với sự
phát triển kinh tế, xã hội.
Tác giả đã trình bày ngắn gọn cơ sở khoa học và căn cứ thực tiễn của việc xây dựng đề án
chuẩn hóa mà Đại học Thái Nguyên (ĐHTN) đã ban hành và triển khai đồng bộ trong toàn
Đại học; phân tích một số chuẩn quốc tế về CNTT đang được áp dụng phổ biến hiện nay như
ICDL (International Computer Driving Licence), IC3 (Internet and Computing Core
Certification), MOS (Microsoft Office Specialist) vv…
Trên cơ sở mô tả nội dung chi tiết và đánh giá mức độ phù hợp của chuẩn IC3 quốc tế do tổ chức
Certiport của Mỹ xây dựng, tác giả đã trình bày khái quát một số giải pháp cụ thể mà ĐHTN đã
lựa chọn và tổ chức thực hiện như: đối tượng áp chuẩn và lộ trình triển khai, phương pháp và cách
thức tiến hành…
Với gần 4000 CBGV, SV được đào tạo, tập huấn và nhận chứng chỉ IC3 quốc tế sau 6 tháng triển
khai đại trà, đã khẳng định tính khả thi và phù hợp của các giải pháp mà ĐHTN đang thực hiện,
Bước đầu góp phần khẳng định vị thế, chứng minh năng lực đào tạo của Đại học Thái Nguyên.
Từ khóa: Chuẩn hóa; chuẩn đầu ra, ứng dụng CNTT; IC3 quốc tế; tin học đại cương;
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Trong thời đại toàn cầu hoá, một đất nước
mạnh về công nghệ thông tin và truyền thông
sẽ có nhiều lợi thế trong giao lưu kinh tế, văn
hoá và phát triển.
Quan điểm trên đã được khẳng định một cách
nhất quán và xuyên suốt qua hàng loạt các
Nghị quyết, chỉ thị, các đề án và chương trình
hành động từ trung ương đến địa phương
trong nhiều năm qua, như: Nghị quyết số 37 -
NQ/TW, ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị
khóa IX, Chỉ thị số 58-CT/TW của Bộ Chính
trị, Quyết định số 246/2005/QĐ-TTg ngày
06/10/2005 của Thủ tướng chính phủ, Nghị
quyết số 13-NQ/TƯ ngày 16/01/2012 của
BCH Trung ương, khóa XI về đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
* Tel: 0913.005.415
Đặc biệt, đề án: “Sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về CNTT-TT” được Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày 22/9/2010, đã nhấn mạnh mục tiêu
phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt tiêu chuẩn quốc tế và ứng dụng hiệu quả CNTT
trong mọi lĩnh vực với 6 nhóm nhiệm vụ, trong đó tập trung vào các vấn đề như: Phát
triển nguồn nhân lực CNTT đạt chuẩn; Ứng dụng hiệu quả CNTT trong cơ quan Đảng,
Nhà nước, trường học, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Quán triệt quan điểm trên, từ năm 2013, Đại học Thái Nguyên đã xây dựng đề án “Xây
dựng chuẩn CNTT cho cán bộ, giáo viên và sinh viên của Đại học Thái Nguyên”, Đề án
đã được triển khai và hoàn thành trong giai đoạn 2013-2015.
CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ CĂN CỨ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CHUẨN HÓA
Sử dụng chuẩn CNTT được quốc tế công nhận chính là khẳng định vị thế của nhà
trường, phù hợp với sự hội nhập quốc tế.
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 155 - 160
156
Tại Việt Nam, một số đơn vị đã sử dụng
chuẩn CNTT quốc tế như: Đại học Dân lập
Hải Phòng, Đại học Tôn Đức Thắng, Sở
Giáo dục và Đào tạo Đồng Nai, Đại học
Thăng Long,…
Tại ĐHTN, từ 2011, Trường Đại học Kinh tế
và Quản trị kinh doanh sử dụng chuẩn IC3,
Trường Đại học Công nghệ Thông tin và
Truyền thông sử dụng chuẩn MOS... bước
đầu khẳng định vị thế của nhà trường trong
việc đảm bảo chất lượng đào tạo, nâng cao
năng lực cạnh tranh, tăng cơ hội tìm kiếm
việc làm cho sinh viên khi ra trường.
Tuy nhiên, có một thực tế là hiện nay việc
giảng dạy tin học đại cương của các trường
thành viên còn mang tính tự phát, chưa đồng
bộ, thiếu thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời
nhu cầu của người học và của xã hội. Thực
trạng trên được phản ánh cụ thể qua 2 đợt thí
điểm đánh giá chất lượng sinh viên tốt nghiệp
tại một số cơ sở đào tạo của ĐHTN trong năm
2013 và 2014 vừa qua, trong đó, hiện trạng
chung là trình độ tin học căn bản và kĩ năng
sử dụng CNTT của CBGV và SV rất không
đồng đều và ở mức khá thấp.
Qua đó cho thấy, việc áp chuẩn đầu ra đồng
bộ, thống nhất, vừa phù hợp với đặc điểm
riêng của từng trường, từng chuyên ngành,
vừa đảm bảo mặt bằng chung về tin học căn
bản và đáp ứng yêu cầu thực tế của xã hội là
hết sức cần thiết.
Việc sử dụng các chuẩn quốc tế đã cho thấy
hiệu quả và thành công trong quá trình nâng
cao chất lượng dạy và học.
Đối với tiếng Anh, ĐHTN đã áp chuẩn tiếng
Anh B1, B2 khung Châu Âu cho đầu vào Sau
Đại học, Toeic, Toefl, Ielts cho tuyển dụng
công chức và từng bước phổ cập cho CBGV
và SV.
Đây chính là tiền đề cho việc sử dụng chuẩn
CNTT cho CBGV và SV của ĐHTN.
Việc sử dụng các chuẩn quốc tế nâng cao cơ
hội tìm kiếm việc làm cho SV ra trường.
Các công ty tư nhân, cơ quan nhà nước, các
nhà tuyển dụng đều đỏi hỏi ứng viên phải có
trình độ và kĩ năng sử dụng một cách có hiệu
quả các ứng dụng CNTT trong công việc. Vì
vậy, những ứng viên đạt chuẩn quốc tế (MOS,
IC3) có lợi thế rất lớn khi xin việc và tham dự
thẩm vấn, tác động tích cực đến các nhà tuyển
dụng, giảm thời gian, chi phí tổ chức thi,
kiểm tra, tăng hiệu quả và chất lượng nhân sự
được tuyển dụng.
Trong buổi làm việc với ĐHTN ngày
18/4/2013, Ông giám đốc nhân sự của Tập
đoàn Samsung Việt Nam đã cho biết: đầu
tháng 3/2013, tập đoàn thông báo tuyển 1000
kĩ sư CNTT cho tổ hợp Samsung Yên Bình,
Thái Nguyên, chỉ sau 2 tuần, đã có 14.000
ứng viên cả nước nộp hồ sơ, trong cuộc đua
này, những ứng viên có các chứng chỉ đạt
chuẩn quốc tế hoàn toàn chiếm ưu thế từ vòng
loại đến vòng phỏng vấn và sát hạch thực tế.
Đây là một minh chứng mang tính thực tiễn
và có sức thuyết phục cao.
Cũng tại buổi làm việc trên, Ông Dương Ngọc
Long, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Nguyên, cũng
khẳng định từ nay đến 2020, Thái Nguyên sẽ
trở thành một trong những trung tâm CNTT
lớn của khu vực như: khu công nghiệp điện tử
Samsung, khu công nghệ cao về CNTT Yên
Bình, khu Công nghiệp CNTT tập trung Quyết
Thắng… đòi hỏi một số lượng lớn lao động có
kiến thức và kĩ năng ứng dụng CNTT trong
công việc hàng ngày.
Bên cạnh đó, việc triển khai Chính phủ điện tử
trong các cơ quan Nhà nước, các đơn vị hành
chính sự nghiệp và mọi lĩnh vực hoạt động
kinh tế xã hội cũng đặt ra một nhu cầu rất lớn
và rất cấp bách về đội ngũ nhân lực có kiến
thức, kĩ năng đạt chuẩn nhất định về CNTT.
MỘT SỐ CHUẨN QUỐC TẾ VỀ CNTT
ĐANG ĐƯỢC ÁP DỤNG PHỔ BIẾN
HIỆN NAY
Chuẩn ICDL (International Computer
Driving Licence): là chuẩn quốc tế về kỹ năng
sử dụng máy tính, do tổ chức ECDL Quốc tế
xây dựng và phát triển, để kiểm tra và đánh
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 155 - 160
157
giá mức độ thành thạo các kỹ năng sử dụng
máy tính cơ bản của người dùng. Các kỹ năng
được kiểm tra qua 07 mô đun thi ICDL, trong
đó có Word, Excel, Power Point, Internet, Cơ
sở dữ liệu….
Chuẩn IC3 (Internet and Computing Core
Certification): là chuẩn quốc tế về sử dụng
máy tính và Internet do tổ chức Certiport của
Mỹ cấp. IC3 chuẩn hóa kiến thức về công
nghệ thông tin trong việc sử dụng máy tính
và Internet một cách có nền tảng, đáp ứng
đúng các mục tiêu, yêu cầu trong quá trình
hội nhập và toàn cầu hóa để tiến tới việc
công nhận lẫn nhau, phục vụ cho việc dịch
chuyển lao động giữa các quốc gia trong khu
vực. Đảm bảo được các yêu cầu về trình độ
và kỹ năng sử dụng CNTT trong thời đại
công nghệ số hiện nay.
Chuẩn MOS (Microsoft Office Specialist):
Được sáng tạo bởi Microsoft và triển khai bởi
Certiport (Hoa Kỳ). Là thước đo chuẩn quốc
tế về kỹ năng sử dụng tin học văn phòng, bao
gồm Microsoft Word, Microsoft Excel,
Microsoft PowerPoint, Microsoft Access,
Microsoft Outlook. Bài thi được thực hiện
trực tuyến, với hơn 25 ngôn ngữ được xây
dựng và đã được Việt hóa.
Từ các căn cứ pháp lí và cơ sở thực tiễn đã
phân tích, Trung tâm CNTT - ĐHTN (ITC) đề
xuất phương án xây dựng bộ chuẩn trình độ
CNTT cho cán bộ và giảng viên của ĐHTN
theo bộ chuẩn IC3 quốc tế của tổ chức
Certiport (Hoa Kỳ).
KHÁI QUÁT VỀ IC3 QUỐC TẾ
Chuẩn IC3 quốc tế hiện được công nhận và sử
dụng phổ biến trên thế giới, là chứng chỉ công
nhận kỹ năng sử dụng, khai thác máy tính
thành thạo của người học. Khẳng định hiểu
biết của người học về phần cứng, phần mềm
trên máy tính.
Mục tiêu: giúp người sử dụng khai thác được
các công cụ số: Máy tính, Internet, E-mail,
Smart phones/PDAs. Nắm rõ các vấn đề: Bảo
mật dữ liệu. Các quy định pháp luật liên quan
khi sử dụng phần mềm, Internet. Các phương
pháp an toàn truy cập Internet.
Yêu cầu:
Máy tính căn bản: Xác định dạng máy tính,
quá trình cung cấp thông tin và hoạt động kết
nối của các bộ phận máy tính; Xác định chức
năng của các thành phần trong máy tính; Xác
định được yếu tố quyết định hành vi mua thiết
bị máy tính của các cá nhân và tổ chức; Xác
định các bộ phận chính của máy tính và các
giải pháp xử lý chung liên quan đến phần
cứng máy tính…
Phần mềm máy tính: Xác định được cách thức
kết nối phần mềm và phần cứng máy tính;
Cách thức phát triển và nâng cấp của phần
mềm; Xác định được các dạng khác nhau của
phần mềm, các khái niệm chung liên quan
đến phần mềm, nhiệm vụ của từng phần; Xác
định được đâu là hệ điều hành và cách thức
nó hoạt động giải quyết các vấn đề liên quan
đến hệ điều hành; Kiểm soát windows, các
file và đĩa; Xác định cách thay đổi hệ thống
cài đặt, sửa chữa, chuyển đổi phần mềm; Làm
việc với chương trình và giải quyết các vấn đề
liên quan đến các chương trình; Thao tác và
kiểm soát màn hình desktop, các file và các ổ
đĩa; Xác định cách thay đổi hệ thống cài đặt,
sửa chữa và di chuyển phần mềm…
Chức năng sử dụng Microsoft Word: Có thể
chỉnh sửa, định dạng văn bản bao gồm việc sử
dụng được các công cụ định dạng tự động. Có
thể chèn, sửa, định dạng bảng, vẽ các biểu đồ
đơn giản.
Sử dụng Microsoft Excel: Làm việc thành
thạo với bảng tính dữ liệu, thay đổi, chỉnh sửa
được cấu trúc, định dạng trong bảng tính, sử
dụng các hàm cơ bản. Có thể sắp xếp dữ liệu,
sử dụng được các chức năng và tạo được các
biểu đồ…
Sử dụng Microsoft Powerpoint: Có thể tạo và
chỉnh sửa một bài diễn thuyết với những hiệu
ứng cơ bản.
Kết nối trực tuyến: Mạng và Internet; Thư
điện tử: Sử dụng Internet; Sử dụng các trình
duyệt web, tìm kiếm thông tin trên Internet;
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 155 - 160
158
Tác động của kết nối máy tính, Internet với xã
hội; Xác định những rủi ro của việc sử dụng
phần mềm ứng dụng; Xác định được cách sử
dụng Internet an toàn, hiệu quả và đúng luật…
ĐỐI TƯỢNG ÁP CHUẨN VÀ LỘ TRÌNH
THỰC HIỆN
Việc chuẩn hóa được triển khai theo lộ trình
phù hợp với từng nhóm đối tượng, bao gồm:
cán bộ, chuyên viên khối hành chính sự
nghiệp: Đội ngũ giảng viên các chuyên ngành
không chuyên tin; Sinh viên các chuyên
ngành không chuyên về CNTT (chuẩn đầu ra
cho môn tin học đại cương). Cụ thể như sau:
Chuẩn hóa trình độ CNTT đối với CBGV của
Đại học Thái Nguyên
- Bắt đầu từ năm 2013, Các cán bộ công chức
(CBCC) có nguyện vọng được tuyển dụng
vào ĐHTN đều phải đạt trình độ CNTT tương
đương chuẩn IC3 quốc tế.
- Chuẩn trên cũng sẽ được áp dụng đối với
toàn thể CBCC khối phòng ban và giảng viên
từ 45 tuổi trở xuống, đồng thời khuyến khích
các cán bộ quản lí phòng, ban trên 45 tuổi
phấn đấu đạt chuẩn trên (gọi tắt là CBGV).
Thiết kết khung chương trình môn tin học căn
bản thống nhất theo hướng tiếp cận chuẩn
IC3 đối với sinh viên các trường không thuộc
chuyên ngành CNTT
- Nhằm chuẩn hóa trình độ CNTT của SV
khối các trường không đào tạo chuyên ngành
CNTT, đáp ứng nhiệm vụ chuyên môn và
tăng cơ hội cạnh tranh trong tìm kiếm việc
làm, cần xây dựng chuẩn đầu ra theo hướng
tiếp cận và tương đương với Chuẩn quốc tế
và áp dụng thống nhất tại tất cả các trường
thành viên.
- Lộ trình thực hiện được triển khai thí điểm
từ năm học 2013-2014 cho đối tượng là sinh
viên các hệ đào tạo chất lượng cao, và một
số trường có đủ điều kiện. Triển khai đại trà
tại tất cả các trường thành viên từ năm học
2014-2015.
PHƯƠNG PHÁP VÀ CÁCH THỨC TỔ
CHỨC THỰC HIỆN
Đối với nhóm đối tượng là cán bộ phòng ban
và giảng viên không chuyên CNTT
ĐHTN hợp tác với tổ chức Certiport Hoa Kì,
thông qua đại diện tại Việt Nam là Công ty
IIG Việt Nam, là thành viên của Viện khảo thí
Giáo dục Hoa Kỳ (ETS). Theo thỏa thuận hợp
tác, IIG sẽ cung cấp khung chương trình
chuẩn của tổ chức Certiport Hoa Kì, cung cấp
bộ giáo trình chuẩn của cả 2 chương trình IC3
và MOS, ĐHTN được phép sử dụng khung
chương trình và 2 bộ giáo trình chuẩn trên để
đào tạo, tập huấn và được phép nhân bản
phục vụ công tác đào tạo tập huấn với một
mức phí ưu đãi.
Việc tổ chức thi sẽ theo các tiêu chí, tiêu
chuẩn và quy trình do Certiport Hoa Kỳ quy
định, đảm bảo tính nghiêm túc và khách quan,
trên nguyên tắc công khai, minh bạch và
không có sự can thiệp của bất cứ bên nào, vào
bất cứ một khâu nào trong suốt quá trình thi
cũng như kết quả thi.
ITC và IIG hợp tác thiết kế các phòng máy,
xây dựng testsite, cài đặt các chương trình,
phần mềm đảm bảo các yêu cầu kĩ thuật để tổ
chức thi tại Đại học Thái Nguyên, với một cơ
chế giám sát chặt chẽ của cả 2 bên nhằm đảm
bảo tính pháp lí và chất lượng của bài thi.
Với đối tượng là SV
Việc xây dựng chuẩn đầu ra môn tin học đại
cương thống nhất trong toàn ĐHTN vừa là
quy định của ngành, vừa nhằm đảm bảo mọi
sinh viên của ĐHTN ra trường đều đạt tới mặt
bằng chung về trình độ và kĩ năng ứng dụng
CNTT, phục vụ quá trình học tập trong nhà
trường cũng như sau khi ra môi trường công
tác, mặt bằng đó phải được xã hội nói chung
và các nhà tuyển dụng nhân lực nói riêng
chấp nhận.
Được sự chỉ đạo và thống nhất cao trong
Thường vụ đảng ủy, Ban giám đốc và Thủ
trưởng các đơn vị đào tạo, ITC được giao
nhiệm vụ chỉ đạo và phối hợp với các đơn vị
đào tạo tổ chức xây dựng khung chương trình,
đề cương môn học, ngân hàng đề thi và thang
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 155 - 160
159
điểm nhằm đảm bảo chuẩn đầu ra theo những
tiêu chí và yêu cầu đã được thống nhất.
Việc xây dựng chuẩn và tổ chức giảng dạy
để đạt chuẩn sẽ do chính các đơn vị, đặc
biệt là đội ngũ giảng viên các bộ môn tin
học đại cương thống nhất xây dựng và tổ
chức thực hiện.
Việc xây dựng chuẩn “tương đương với IC3”
có những thuận lợi cơ bản sau:
- Đã được xã hội và các nhà tuyển dụng
chấp nhận
- Đã được triển khai thành công ở một số cơ
sở đào tạo, trường đại học
- Đã thí điểm tại trường Đại học KT&QTKD
- ĐHTN trong 3 năm gần đây
- Đã có khung chương trình, giáo trình, tài
liệu, bộ ngân hàng câu hỏi, phương thức tổ
chức thi được IIG cho phép sử dụng để các
đơn vị tham khảo xây dựng và biên soạn, vừa
phù hợp với các tiêu chí của ĐHTN vừa tiết
kiệm rất nhiều thời gian và kinh phí.
- SV đạt chuẩn của ĐHTN sẽ “tương đương”
với các SV đạt chuẩn IC3 quốc tế, sẽ dễ dàng
dự thi để có chứng chỉ quốc tế mà không cần
ôn luyện hay phải học thêm nhiều.
Việc tổ chức giảng dạy cho sinh viên các
trường, do đội ngũ giảng viên bộ môn tin học
đại cương, sau khi đã được tập huấn đảm
nhiệm, căn cứ khung chương trình, kế hoạch
và chuẩn đầu ra do chính họ tham gia thiết kế
và xây dựng.
Việc tổ chức kiểm tra, thi cuối kì sẽ do các đơn
vị tổ chức theo kế hoạch đào tạo và quy trình
chung do Bộ GD&ĐT và ĐHTN quy định.
KẾT LUẬN
Sau 6 tháng triển khai đại trà (tính từ tháng
1.2014), đã có gần 4000 CBGV, SV và các
ứng viên tham dự thi tuyển công chức vào
ĐHTN đã được đào tạo, tập huấn và được cấp
chứng chỉ quốc tế đã khẳng định: việc áp
chuẩn IC3 quốc tế đối với CBGV và SV mà
ĐHTN đang thực hiện là một trong những
giải pháp cần thiết, khả thi và hoàn toàn phù
hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, góp phần
khẳng định vị thế, chứng minh năng lực đào
tạo của Đại học Thái Nguyên.
Sử dụng chuẩn CNTT cho toàn Đại học thể
hiện sự nhất quán trong đào tạo môn tin học
đại cương tại các đơn vị thành viên, giúp SV
ra trường có nhiều cơ hội tìm kiếm việc làm
hơn, dễ dàng làm chủ công việc mới, vận
dụng những kiến thức đã được đào tạo vào
môi trường thực tiễn.
Việc xây dựng chuẩn đầu ra thống nhất sẽ là
tiền đề để các cơ sở đào tạo từng bước tách
khâu kiểm tra, đánh giá kết quả học tập ra
khỏi quá trình đào tạo, tiến tới việc thành lập
các trung tâm kiểm định, đánh giá chất lượng
hoạt động độc lập với các cơ sở đào tạo, theo
đúng quan điểm dạy học hiện đại và xu hướng
chung hiện nay.
Việc áp chuẩn CNTT quốc tế hoàn toàn phù
hợp với định hướng chiến lược phát triển Đại
học Thái Nguyên trở thành Đại học Điện tử
giai đoạn 2015-2020.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thủ tướng Chính phủ (2010): Quyết định số
331/QD-TTg về Chiến lược phát triển công nghệ
thông tin và truyền thông Việt Nam đến năm 2010
và định hướng đến năm 2020.
2. Đại học Thái Nguyên (2012): Đề án “Xây dựng
chuẩn trình độ công nghệ thông tin cho cán bộ
công chức, giảng viên và sinh viên Đại học Thái
Nguyên kế hoạch triển khai giai đoạn 2013-2015”
3. Đại học Thái Nguyên (2006): Dự án Tăng
cường năng lực đào tạo, và ứng dụng CNTT
trong các lĩnh vực chuyên ngành của Đại học Thái
nguyên giai đoạn 2006-2010.
4. Nguyễn Minh Tân (2013): “Ứng dụng công
nghệ thông tin - viễn thông trong đổi mới phương
pháp dạy và học theo học chế tín chỉ, tầm nhìn
chiến lược của ĐHTN”; Tạp chí KH&CN Đại học
Thái Nguyên, số 50; 2/2009.
5. Nguyễn Minh Tân (2013): “Vận dụng các quan
điểm hiện đại của lý luận dạy học trong việc thiết
kế phương pháp dạy học theo hướng tích cực
hoá”, Tạp chí KH&CN Đại học Thái Nguyên Số
71, 9/2010.
Nguyễn Minh Tân Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 155 - 160
160
SUMMARY
STANDARDIZATION OF INFORMATION TECHNOLOGY APPLICATION
SKILL – A PRACTICAL SOLUTION TO TRAINING QUALITY
IMPROVEMENT AND INCREASE EMPLOYMENT OPPORTUNITIES
Nguyen Minh Tan*
Thai Nguyen University
Standardized skill level and application of IT for civil servants, teachers and students is the
necessary, feasible and entirely consistent solution and fully consistent with the economic and
social development.
The author presents brief scientific and practical bases of standardization scheme that TNU has
issued and implemented uniformly throughout the University;
Analysis of a number of international IT standards are being applied currently popular, such as:
ICDL (International Computer Driving Licence), IC3 (Internet and Computing Core Certification),
MOS (Microsoft Office Specialist) etc. ...
On the basis of detailed content description and conformity assessment of IC3 international
standards, Design by Certiport U.S., The author presents a number of solutions that TNU has made
such that: subjects and standards roadmap, method and manner development and implementation...
With nearly 4000 civil servants, teachers and students have been trained and certified international
IC3 after 6-month deployment, were able to confirm the feasibility and appropriateness of the
measures that are implemented TNU, Initially proven training capacity of Thai Nguyen University.
Key words: standardization, output standard, information technology application, international
IC3, fundamental informational technology
Ngày nhận bài: 27/8/2014; ngày phản biện: 20/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Phạm Đình Lâm – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0913.005.415
Trần Thị Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 161 - 165
161
COMPARING THE SATISFACTION LEVEL OF HEAD ENGLISH TEACHERS
WITH BEGINNING TEACHERS OF ENGLISH AT HIGH SCHOOLS WITH
DIFFERENT CHARACRETISTICS IN VIETNAM
Tran Thi Ngoc Bich*
Ministry of Education and Training, Vietnam
SUMMARY This study intends to examine the differences in satisfaction level with beginning English teachers at
high schools based on characteristics such as public/non-public status and location. The framework
for teaching performance was adapted from frameworks in Bransford, Darling-Hammond & LePage
(2005) and Ball & Cohen (1999). In this framework, the complex activities of teaching are divided
into 24 components clustered into the following 4 domains of teaching: knowledge of subject matter
and curriculum, knowledge of teaching, knowledge of learners, professional attitudes and values. The
research was carried at high schools in Hanoi and Ho Chi Minh City, two biggest cities in Vietnam.
The sample size is 94 head English teachers, asked to evaluate the teaching performance of
beginning English teachers in their school. The findings show that the satisfaction level of head
teachers with beginning teachers in non–public schools is higher than in public schools. The quality
of beginning English teachers in non-public schools and schools in rural area was more highly
appreciated than in public schools and schools in the city. Overall, the study seems to suggest that the
government should have the resolutions to minimize the gap between the schools in the rural and
urban area and between the public and private schools.
Key words: beginning English teachers, high school, and satisfaction.
INTRODUCTION*
Since Vietnam implemented Doimoi, an open
door policy welcoming foreign investment in
1986, the demand for highly qualified human
resources has been greater than ever before.
The government has regarded education as an
important element to develop the country. An
important function of public policies is to
distribute public resources rationally.
However the city – oriented policies have
created the disparity between urban and rural
areas in the field of education. The public
resources are allocated unfairly and majority
of high – quality education resources are
concentrated in cities. This has already led to
a serious unbalanced development in
education. The unbalanced development in
education has not only blocked the realization
of public interest and equity of education but
also restricted the harmonious social of
development between urban and rural areas. It
is necessary to look into public policies which
* Tel: 0905556609; Email: [email protected]
have influence on the division of public
resources and criticize them rationally to
narrow the gap in education between urban
and rural areas. Therefore, the study was
intended to examine the differences in
satisfaction level of head English teachers
with newly graduated teachers at high schools
based on characteristics such as public/non-
public status and location such as in suburban
and city center schools.
The design of the study for the most part
followed the quantitative research
methodology despite the fact that the
interviews were combined later. The research
was carried out on the teaching performance
of newly graduated teachers (beginning
teachers) at high schools in Hanoi and Ho Chi
Minh City.
This study utilized data sources drawn from
the heads of the English departments at high
schools. The reason for this decision on
sampling selection is that head English
teachers know a broader segment of a
teacher’s portfolio, especially those of
Trần Thị Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 161 - 165
162
beginning teachers through peer review. New
teachers are supervised, assisted and
evaluated by experienced teachers and head
teachers. The head teachers have well
understood the limitations and strong points
of beginning teachers, and periodically report
the evaluation of all English teachers to the
principal Board.
A questionnaire was distributed to 290 head
teachers of high schools with the assistance of
Hanoi and Ho Chi Minh Education
Departments. 94 head teachers of upper
secondary schools returned the completed
questionnaires.
The data were collected based on three major
aspects namely: the background and the
situation of recruitment of English teachers,
rating of teaching performance and
recommendation. The first part is the
background of the high school and head
English teachers with 14 questions about the
school name, address, type, number of teachers
and English teachers, education level, teacher
experience, recruitment information, probation
time, and probation content.
The main parts were the rating by head
English teachers, which contained 24 items.
This part aimed to measure how well teachers
performed their job. The 24 questions were
clustered into 4 major domains: knowledge of
subject matter and curriculum (6 items);
knowledge of teaching (7 items); knowledge
of learners (5 items); professional attitudes
and values embedded across knowledge
domains (6 items). This framework drew
upon Bransford, Darling - Hammond and
LePage (2005) and Ball and Cohen (1999).
Respondents were required to rate the
teaching performance of new teachers using a
five point Likert scale. The last part
consisting of two items is the
recommendation to improve the quality of
beginning teachers.
In addition to the questionnaire, this study
collected qualitative data from the interviews
with experienced head English teachers as
supplementary information to quantitative data
in hand. The interview structure was developed
ahead of field research with the main emphasis
on causes of limitations among new teachers as
evaluated by the head teachers.
The data analysis was conducted based on the
research questions.. T-test was employed to
compare the difference in the overall
satisfaction level at high schools with
different characteristics. This statistical tool
provided a meaningful base for comparison
between schools that are statistically
significant. The internal reliability of the head
English teachers’ rating of new teachers’
performance was at desired criteria α = 0.82.
After the analysis of the results from the
surveys, the recorded data from in-depth
interviews were transcribed, as were the
interview notes.
The framework for teaching performance was
adapted from frameworks in Bransford,
Darling - Hammond and LePage (2005) and
Ball and Cohen (1999). In this framework,
the complex activities of teaching are divided
into 24 components clustered into the
following 4 domains of teaching: Knowledge
of subject matter, Knowledge of teaching,
Knowledge of learners, Professional attitudes
and values.
RESULTS AND DISCUSSION
The Difference in terms of Rating Teaching
Performance between the Schools with
Different Characteristics
The Difference between the Public and Non
Public Schools
Among 24 variables, the rating result of
only 2 variables was statistically significant
in the difference between public and non –
public schools (p= 0.022, 0.020 < 0.05).
The mean rating for ‘culture’ and ‘modeling
ethical behavior’ in non-public school were
higher than in public schools. Teachers’
knowledge of culture and modeling ethical
behaviors in non-public schools are better
than in public schools.
Trần Thị Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 161 - 165
163
The Difference between the Schools in
Suburban Areas and City Centers
The T-test analysis on the difference between
schools in urban and suburban area in terms
of rating teaching of speaking skills and
assessment skills showed that the schools in
city centers differed significantly from those
in suburban areas in term of the rating result
on the items ‘assessment’ and ‘speaking
skills’( p = 0.028, 0.019 <0.05). Assessment
and speaking skills of new teachers in city
centers area are better than those of teachers
in suburban areas
Overall Satisfaction of Head Teachers with
Beginning Teachers
The five-point Likert scale ranging from (1)
‘very dissatisfied’ to (5) ‘very satisfied’ was
used to rate the overall satisfaction of head
teachers. Despite the fact that the head
English teachers are not satisfied with new
teachers at some variables, their overall
satisfaction was rated at an average of (2.96).
They are somewhat satisfied and dissatisfied
with new teachers. The majority of head
teachers rated the overall satisfaction level at
the neutral level (57%), while 20% are not
very satisfied and 20% are very satisfied.
There is no school that showed a rating of
very dissatisfied and only 3% of schools
showed ratings of very satisfied.
The Difference between Schools Having
Different Characteristics in terms of
Overall Satisfaction Levels
The Difference of Overall Satisfaction
Levels in Public and Non-public Schools.
The overall satisfaction in the non-public
schools is higher than in the public schools
(p=0.016 <0.05) . It is understandable that
the non–public schools have the right of
recruiting the teachers by themselves, while
the public schools have to recruit them
through prefectural boards of education. Since
the non-public schools recruit teachers
according their demand and needs, they are
more satisfied with the new teachers more
than the public schools.
The Difference in Overall Satisfaction Levels
at Schools in Suburban and Urban Areas
The overall satisfaction level of head teachers
with new teachers at schools in the city
centers is higher than in the suburban areas
(p=0.00 <0.05). It means that the ability of
new teachers in city centers is better than that
of their counterparts in suburban area.
After graduation, most teachers wish to live
and work in city centers because working and
living conditions are better than in rural or
suburban areas, and they normally have extra
income through part–time jobs. The excellent
graduates usually choose the schools in city
center to work. The schools in city centers
have more opportunities to recruit the
qualified teachers than in suburban areas. So
it is understandable that the head teachers are
more satisfied with the new teachers in city
centers than in suburban areas.
CONCLUSION
Conclusion
The main objective of this study was to
compare the satisfaction level of head English
teachers with beginning English teachers in
schools with different characteristics. This
may help the policy makers reduce the gap of
quality between schools with different
characteristics.
There is a statistically significant difference
between non-public and public schools in
terms of the overall satisfaction level of head
English teachers. The satisfaction level of head
English teachers with beginning English
teachers in non–public schools is higher than
in public schools. The quality of beginning
English teachers in non-public schools was
more highly appreciated than in public schools.
On the whole, based on the head teachers`
opinions, there is a gap, in terms of the
quality of beginning English teachers,
between schools with different characteristics.
Due to the advantages of location and their
independent role in the recruitment of
teachers, the schools in city centers and non-
public schools have employed better English
Trần Thị Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 161 - 165
164
teachers than the schools in suburban areas
and public schools. That is a possible issue
for policy-makers to minimize the gap in the
quality of teachers between locations and to
facilitate the involvement of public schools in
the recruitment of teachers.
Implications
The finding of this study shows that there is a
gap between the schools with different
characteristics such as public/non-public
status and location (in suburban and city
center). The quality of teachers in the schools
with different characteristics has the gap. The
new policies should make to distribute public
resources fairly and rationally to narrow this
gap. The policies ả are to encourage the
teachers to work in the rural area and to give
more autonomy to public schools to recruit
the new teachers.
REFERENCE
1. Ball, D. L. & Cohen, D. K. (1999). Developing
practice, developing practitioners: Toward a
practice-based theory of professional education.
In L. Darling-Hammond & G. Sykes (Eds.),
Teaching as the learning profession: Handbook of
policy and practice (pp. 3-32). San Francisco,
CA: Jossey-Bass.
2. Bransford & L. Darling-Hammond (2005).
Preparing teachers for a changing world: What
teachers should learn and be able to do (pp. 1-39).
San Francisco, CA: Jossey-Bass.
3. Brock, B. L., & Grady, M. L. (1997). From
first-year to first rate: Principals guiding
beginning teachers. Thousand Oaks, CA: Corwin
Press. P.11
4. Darling-Hammond L. (1999). Teacher quality
and student achievement: a review of state policy
evidence, p. 9-10, Stanford University. Retrieved
December 21th 2012 from: http://www.
politicalscience.uncc.edu/godwink/PPOL8687/W
K11March%2029%20Teachers/Darling-
Hammond%20Review%20essay%20on%2
0teacher%20quality%20and%20outcomes.pdf
5. Ewing R. & Smith D. (2003). Retaining
quality beginning teachers in the profession,
University of Sydney, 2(1), 15 -32.
6. Hall, J. K. (1998). The Communication
standards, in J. K. Philips (Ed.), Foreign language
standards: Linking research, theory, and practice,
Lincolnwood, IL: National Textbook Company.
7. Huong H. & Giang. M (2012). Failure of
English teachers. Retrieved October 12, 212
from: http://tuoitre.vn/Giao-duc/496164/Giao-
vien-tieng-Anh-rot-nhu-sung-rung.html
8. Koppich, EJ. &Kerchner, Ch.T. (1999).
Organizing the other half of teaching. In L.
Darling-Hammond & G. Sykes (Eds.), Teaching
as the learning profession: Handbook of policy
and practice (pp. 352-382). San Francisco, CA:
Jossey-Bass.
9. Lawson, H. (1992). Beyond the conception of
teacher education. Journal of Teacher Education,
43(3), 163-172.
10. Linda P. B., Paul T. S. et al. (2006). Models
and measures of beginning teacher quality, Sped.
Education, Hammill Institute on Disabilities, 40,
115. Retrieved December 20th 2012 from:
http://myweb.cwpost.liu.edu/nmarksbu/articles/Bl
antonetal.pdf
11. Martin, L. A., Chiodo, J. J., & Chang, L.
(2001). First-year teacher: Looking back after
three years. Action in Teacher Education, 23(1),
55–63.
12. Murnane R.J & Phillips B. R. (1981). What do
effective teachers of inner-city children have in
common? USA: Social science research 10(1), P.
83-100.
13. Nunan, D (2003). The impact of English as a
global language in education policies and
practices in the Asia-Pacific region. Tesol
Quarterly, 3(4) 589-613. The University of
Hongkong.
14. Richard, J. (2001). Curriculum development in
language teaching. Cambridge: Cambridge
university press.
15. Rivkin S.G., Hanushek, E. and Kain F. J.
(2005). Teachers, schools and academic
achievement. 73(2), 417-458. Econimetrica.
16. Simon, V. (1984). Perceived problems of
beginning teachers . Review of Educational
Research, 54: 143-178
17. Susan I. K (2000). Problems of beginning
teachers: Comparing graduates of bachelor's and
master's level teacher preparation programs pp.
83-96.
18. Tesol (2008). Standards for ESL/EFL teachers
of adults. Retrieved October 12, 212 from:
http://www.tesol.org/docs/books/standards-for-esl-
efl-teachers-of-adults-framework.pdf?sfvrsn=0
19. Yorke, M (2003). Formative assessment in
higher education: moves toward theory and the
enhancement of pedagogy practice. Higher
education, 45, 477-501. Netherland: Kluwer
Academic Publisher.
Trần Thị Ngọc Bích Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 125(11): 161 - 165
165
TÓM TẮT
SO SÁNH MỨC ĐỘ HÀI LÒNG CỦA CÁC TỔ TRƯỞNG TỔ TIẾNG ANH
VỚI CÁC GIÁO VIÊN TIẾNG ANH MỚI RA TRƯỜNG Ở CÁC TRƯỜNG
PHỔ THÔNG CO CÁC ĐẶC ĐIỂM KHÁC NHAU Ở VIỆT NAM
Trần Thị Ngọc Bích*
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Việt Nam
Mục tiêu của nghiên cứu này là xem xét sự khác biệt đối với mức độ hài lòng với những giáo viên
tiếng Anh ở bậc Trung học Phổ thông dựa trên những tính chất như trường công lập/ tư thục và
thành thị và nông thôn. Khuôn khổ phân tích của nghiên cứu này xuất phát từ nghiên cứu của
Bransford, Darling-Hammond & LePage (2005) và Ball & Cohen (1999). Trong khuôn khổ này,
những hoạt động giảng dạy được chia thành 24 nhân tố nhóm thành 4 lĩnh vực của giảng dạy: kiến
thức của môn và chương trình giảng kiến thức của người học, thái độ và giá trị nghề nghiệp.
Nghiên cứu này được tiến hành tại các trường THPT ở Hà Nội và TP HCM. Cỡ mẫu phân tích là
94 tổ trưởng tổ tiếng Anh của các trường, được hỏi để đánh giá việc giảng dạy của những giáo
viên tiếng Anh mới vào nghề trong trường. Kết quả phân tích mức độ hài lòng của Tổ trưởng tổ
tiếng Anh với những giáo viên trong trường Tư thục cao hơn trong trường Công lập. Chất lượng
của những giáo viên tiếng Anh mới ra trường ở trường tư thục và ở các trường thành phố được
đánh giá cao hơn trong trường Công lập và trường ở nông thôn. Tóm lại, nghiên cứu đưa ra một số
các giải pháp đề nghị Nhà nước cần có những biện pháp để thu hẹp khoảng cách về chất lượng
giáo viên đối với những trường ở nông thôn và thành thị hay giữa trường công lập và tư thục.
Từ khóa: giáo viên tiếng Anh, THPT, sự hài lòng
Ngày nhận bài: 27/8/2014; ngày phản biện: 03/9/2014; ngày duyệt đăng: 26/9/2014
Phản biện khoa học: ThS. Nguyễn Thị Thu Hương – Đại học Thái Nguyên
* Tel: 0905556609; Email: [email protected]
oµ soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE - BEHAVIOR
Content Page
Nguyen Thu Quynh - Conceptual metonymys “fear” in Truyen Kieu of Nguyen Du 3
Nguyen Thi Thu Huong - Some prominent features of the art of wording in Vi Hong’s novels 7
Tran Thi Ngoc Anh - Literary criticism and discourse in literary theory and criticism (some conceptual questions) 15
Ha Thi Thanh Hoa, Duong Thi Thuy Huong - Supply chain management at Hoang Gia Investment and
Commercial Joint Stock Company 21
Do Thi Thu Hang, Tran Tuan Anh, Hoang Thi Thu - Accounting the loss of goods: problem of commercial
enterprises 25
Nguyen Thi Hong Yen, Tran Pham Van Cuong, Nguyen Chi Dung - Diversification and forms of capital
mobilization and use at Vietnam Joint Stock Commercial Bank for industry and trade – Ha Giang branch 31
Do Thi Thuy Phuong - Credit risk management in Vinh Tuong branches of Bank for Agriculture and Rural
Development 39
Phi Thi Hieu - The construction of the psychological safety school environment 45
Nguyen Thi Uyen - Environment analysis and strategy orientation for local retailers in Vietnam 49
Tran Huy Ngoc, Nguyen Thi Ngan - Improving the quality of education on political theory for university
students in Vietnam nowadays 57
Le Thi Quynh Trang, Le Thi Thu - Elements influecing on teaching positives of lecturers 63
Nguyen Van Thanh, Hoang Thi Huyen - Physical activity patterns extra – curricular sport students College of
Economics and Business Administration - Thai Nguyen University 69
Nguyen Thi Lan Anh - Some issues in Thai Nguyen National General Hospital’s financial management 75
Nguyen Viet Dung, Mai Thanh Giang, Duong Thanh Tinh - Using the approach of capital cost to determine the optimal capital structure of enterprise 81
Tran Hoang Tinh - Reality and solution management coursework teaching activities in education, defense and
security of Thai Nguyen Center for National Defense Education 87
Duong Duc Minh - Applying project-based learning to English classroom to promote students’ autonomy, collaboration and lifelong learning 93
Pham Thi Mai Yen - Development model of distribution systems of building steel products of Vietnam steel
corporation in the current period 99
Do Thi Tam, Nguyen Ngoc Toan, Phan Dinh Binh - Current state and orientation of system of residential areas in Yen The district, Bac Giang province towards rural innovation 105
Ngo Xuan Hoang - Solutions primarily to promote the process of building new rural model in Pho Yen district -
Thai Nguyen province 113
Do Le Ha - Orienting management and training organization of advanced program to meet the basic requirements of Abet education accreditation 121
Le Dang Lang, Le Tan Buu - Developing scales of consumer-based selected marketing constructs 127
Pham Van Hanh, Nguyen Duc Thu, La Qui Duong - The effect of social norm on customer complaint behavior
and negative word-of-mouth 135
Le Ngoc Nuong, Nguyen Hai Khanh - Local marketing solutions to attract tourists in Son La province 141
Nguyen Thi Thuy, Nguyen Nam Ha, Nguyen Thi Ha Trang - Student management – a contributing factor for
the brand of College of Economics and Business Administration – Thai Nguyen University 149
Nguyen Minh Tan - Standardization of information technology application skill – a practical solution to training quality improvement and increase employment opportunities 155
Tran Thi Ngoc Bich - Comparing the satisfaction level of head English teachers with beginning teachers of
English at high schools with different characretistics in Vietnam 161
Journal of Science and Technology
125(11)
2014