tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

32
Tiểu luận Triết học MỤC LỤC MỞ ĐẦU.............................................. 2 CHƯƠNG I............................................ 3 PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG..........3 HY LẠP CỔ ĐẠI....................................... 3 1. Nguồn gốc và khái niệm của phép biện chứng.......3 2. Phép biện chứng duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại................................................. 4 CHƯƠNG II........................................... 6 TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA HÊRACLÍT....6 1. Tiểu sử của Hêraclít............................. 6 2. Tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít. 6 2.1. Quan niệm về bản nguyên của vũ trụ...........7 2.2. Logos với tư cách là sự thống nhất ( hài hòa ) và đấu tranh giữa các mặt đối lập...........8 2.3. Học thuyết về dòng chảy.....................12 2.4. Quan niệm về nhận thức và con người.........13 3. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít đối với lịch sử phát triển của phép biện chứng.............................................. 15 KẾT LUẬN........................................... 18 TÀI LIỆU THAM KHẢO................................. 19 Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 1

Upload: nguyenthanh141

Post on 17-Jan-2015

11.134 views

Category:

Documents


12 download

DESCRIPTION

Tiểu luận môn Triết học nâng cao

TRANSCRIPT

Page 1: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................2

CHƯƠNG I..........................................................................................................3

PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG..........................3

HY LẠP CỔ ĐẠI.................................................................................................3

1. Nguồn gốc và khái niệm của phép biện chứng.............................................3

2. Phép biện chứng duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đại..............................4

CHƯƠNG II.........................................................................................................6

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA HÊRACLÍT.......6

1. Tiểu sử của Hêraclít........................................................................................6

2. Tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít.......................................6

2.1. Quan niệm về bản nguyên của vũ trụ..................................................7

2.2. Logos với tư cách là sự thống nhất ( hài hòa ) và đấu tranh giữa

các mặt đối lập..............................................................................................8

2.3. Học thuyết về dòng chảy.....................................................................12

2.4. Quan niệm về nhận thức và con người..............................................13

3. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít đối với

lịch sử phát triển của phép biện chứng...........................................................15

KẾT LUẬN........................................................................................................18

TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................19

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 1

Page 2: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

MỞ ĐẦU

Xuất hiện từ thời cổ đại, đến nay, phép biện chứng đã trải qua nhiều giai

đoạn phát triển khác nhau, gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.

Tuy nhiên, để có thể đạt đến trình độ rực rỡ, toàn diện của phép biện

chứng duy vật trong triết học Mác-Lênin sau này không thể không kể đến sự

hình thành manh nha của phép biện chứng mộc mạc, chất phác từ thời cổ đại.

Điều này được thể hiện rõ nét trong triết học cổ đại của Ấn Độ, Trung Quốc và

đặc biệt là Hy Lạp. Minh chứng rõ nhất là tư tưởng của hàng loạt các nhà biện

chứng tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại như: Hêraclít, Xôcrát, Platôn, Arixtốt...

Nếu như Hêraclít đã xây dựng được học thuyết về dòng chảy, xây dựng

được một số phạm trù của phép biện chứng như Logos để luận bàn về những

quy luật khách quan của thế giới vật chất và coi đó là nội dung cơ bản của phép

biện chứng thì sau ông, phép biện chứng Hy Lạp cổ đại tiếp tục được hòan thiện,

pháp triển với nhiều nội dung phong phú. Đó là Xôcrát, người đầu tiên sử dụng

thuật ngữ biện chứng theo nghĩa là nghệ thuật tranh luận, hướng các bên cùng

quan tâm tới vấn đề đang tranh luận với mục đích đạt chân lý bằng con đường

đối lập các ý kiến của họ qua hình thức hỏi – đáp. Đó là Arixtốt với nhiều tư

tưởng về phạm trù, quy luật và xây dựng các hình thức cơ bản của tư duy.

Ph.Ăngghen khẳng định: “Những nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà

biện chứng tự phát bẩm sinh…”.

Trong khuôn khổ tiểu luận này, em chỉ xin trình bày, làm rõ thêm tư

tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít – người từng được V.I.Lênin đánh

giá là nhà biện chứng đầu tiên trong lịch sử.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 2

Page 3: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

CHƯƠNG I

PHÉP BIỆN CHỨNG VÀ LỊCH SỬ PHÉP BIỆN CHỨNG

HY LẠP CỔ ĐẠI

1. Nguồn gốc và khái niệm của phép biện chứngThuật ngữ “biện chứng” có gốc từ tiếng Hy Lạp là dialektica ( với nghĩa

là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận ). Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ

thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn

trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ những lập luận. Người

Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn trong

tri thức đó và quá trình đi tới chân lý là quát trình giải quyết những mâu

thuẫn trong lập luận.

Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dùng đối lập với “siêu

hình”. Đó là lý luận đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái

liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển

không ngừng.

Theo Ph.Ăngghen, phương pháp biện chứng là “xem xét những sự vật và

những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau

của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và tiêu vong của

chúng”.

Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và lịch sử phát triển của nó trải

qua một số giai đoạn cơ bản:

Đầu tiên là phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cổ đại. Đặc trưng

chung của phép biện chứng thời kỳ này là tính tự phát, ngây thơ. Các nhà

triết học cổ đại nghiên cứu sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng

trong bức tranh chung, chỉnh thể về thế giới. Do trình độ còn thấp kém về

khoa học, nên phép biện chứng cổ đại mới chỉ là những quan điểm biện

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 3

Page 4: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

chứng mang tính suy luận, phỏng đoán trên cơ sở những kinh nghiệm trực

giác mà chưa được chứng minh bằng khoa học.

Thứ hai là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức.

Ph.Ăngghen khẳng định, đây là “hình thức thứ hai của phép biện chứng, hình

thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học tự nhiên Đức, là triết học cổ điển

Đức từ Cantơ đến Hêghen”. Nếu phép biện chứng thời kỳ cổ đại chủ yếu

được đúc rút từ kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày thì phép biện chứng

duy tâm trong triết học cổ điển Đức đã trở thành một hệ thống lý luận tương

đối hoàn chỉnh và trong một chừng mực nhất định, đã trở thành một phương

pháp tư duy triết học phổ biến. V.I.Lênin còn cho rằng, phép biện chứng duy

tâm trong triết học cổ điển Đức đã tạo ra bước quá độ chuyển biến về thế giới

quan và lập trường từ chủ nghĩa duy vật siêu hình thế giới quan khoa học tư

duy biện chứng.

Tiếp theo là phép biện chứng duy vật. Ph.Ănghen định nghĩa “Phép biện

chứng là khoa học về sự liên hệ phổ biến” và “Phép biện chứng (…) là môn

khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự

nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”. V.I.Lênin viết “Phép biện chứng,

tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất

và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con

người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng.

C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa và phát triển sáng tạo những “hạt nhân hợp

lý” trong tư tưởng triết học nhân loại, mà trực tiếp là phép biện chứng duy

tâm của Hêghen và đặt nó trên nền tảng duy vật. Phép biện chứng duy vật

chính là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp

biện chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Có thể nói rằng,

phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 4

Page 5: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

2. Phép biện chứng duy vật trong triết học Hy Lạp cổ đạiPhép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại được thể hiện trong triết học của

các nhà triết học duy vật về tự nhiên, xã hội và con người với các đại diện

tiêu biểu là: Talét, Anaximen, Anaximanđrơ, Hêraclít, Đêmôcrít…

Với Talét, thế giới bắt đầu từ nước. Nước là cơ sở của mọi sự vật. Mọi

thứ sinh ra từ nước và khi phân hủy lại trở thành nước.

Anaximen lại cho rằng khởi nguyên của thế giới là không khí. Sự xuất

hiện của vô số các vật thể và sự quay lại khởi nguyên đầu tiên của chúng là

quá trình cô đặc và làm loãng ra của không khí

Anaximanđrơ cho rằng nguồn gốc và cơ sở của vạn vật là Apâyrôn – một

thứ không xác định vô hạn cả về đại lượng lẫn thuộc tính, không thể chuyển

hóa thành một khởi nguyên nào khác.

Về phép biện chứng Hy Lạp cổ đại thì Hêraclít được xếp ở vị trí trung

tâm. Ông được đánh giá là “một trong những nhà sáng lập ra phép biện

chứng”. Hêraclít đã tìm ra bản nguyên của thế giới từ một hành chất đầu tiên,

đó là lửa. Ông cũng làm rõ tính thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.

Ngoài ra, ông còn được mọi người biết đến nhiều bởi học thuyết dòng chảy

phổ biến với mệnh đề nổi tiếng “không ai có thể tắm hai lần trên một dòng

sông”.

Một đại diện tiêu biểu cho lập trường duy vật Hy Lạp cổ đại là Đêmôcrít.

Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới là nguyên tử. Sự kết hợp hoặc tách

rời các nguyên tử theo những kết cấu khác nhau tạo thành vạn vật trong thế

giới.

Trên cơ sở trình bày tóm lược phéo biện chứng Hy Lạp cổ đại nói trên, ta

có thể thấy rằng đặc điểm cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật Hy Lạp

cổ đại là tính chất phác, ngây thơ. Điều đó là do các nhà triết học chỉ muốn

vẽ lên bức tranh thế giới mà không có chủ định nghiên cứu phép biện chứng.

Khoa học lúc bấy giờ cũng chưa phát triển để chứng minh cho các tư tưởng

biện chứng. Thêm vào đó là do ảnh hưởng của thần thoại đến nền triết học

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 5

Page 6: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Hy Lạp cổ đại nên phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại vẫn

còn phảng phất yếu tố thần thoại.

CHƯƠNG II

TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA HÊRACLÍT

1. Tiểu sử của HêraclítHêraclít (khoảng 540-475 TCN) xuất thân từ nhà nước thị thành Ephec

thuộc vùng Tiểu Á của Hy Lạp. Ông sống trong thời kỳ lịch sử căng thẳng

của các nhà nước thị thành Hy Lạp, khi mà dân thường đã dành được thắng

lợi trong cuộc đấu tranh gay gắt với tầng lớp quý tộc dòng dõi. Ông trưởng

thành và sự nghiệp sáng tác của ông rơi vào giai đoạn đầu của cuộc chiến

tranh Hy Lạp - Ba Tư nổ ra, đó là thời điểm trọng đại của lịch sử Plada cổ

đại.

Sinh thời Hêraclít là một nhà đại quý tộc thuộc dòng dõi Côđơriđốp. Theo

luật, ông là con trai đầu nên được thừa kế chức Badin, nhưng ông đã nhường

đặc quyền ấy cho em trai của mình để đi du lịch khắp nơi và dành thời gian

nghiên cứu về triết học. Như vậy, Hêraclít vốn là người có nguồn gốc đại quý

tộc nhưng ông đã tự tách mình ra, lựa chọn một con đường đi riêng biệt. Tuy

nhiên, ông cũng không thuộc giai cấp đang lên. Tư tưởng triết học của ông

thể hiện sự tiến bộ ở chỗ có phản ánh phong trào nhân dân, có nội dung nhân

dân thông qua những mâu thuẫn chia rẽ của giai cấp quý tộc.

2. Tư tưởng biện chứng trong triết học của HêraclítHọc thuyết của Hêraclít, phép biện chứng của ông nói riêng ở một chừng

mực nào đó là sự xem xét về mặt triết học các sự kiện lịch sử và các chuyển

biến xã hội diễn ra ở thời kỳ ông sống.

Hêraclit giữ vị trí trung tâm trong lịch sử phép biện chứng Hy Lạp cổ đại.

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin đã dành cho học thuyết của Hêraclít

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 6

Page 7: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

mà cụ thể là cho phép biện chứng của ông sự đánh giá rất cao. V.I.Lênin coi

ông là “một trong những người sáng lập ra phép biện chứng”. Trong bảng

tóm tắt cuốn “Những bài giảng về lịch sử triết học” của Hêghen, Lênin lưu ý,

chính Hêghen cũng thừa nhận Hêraclít có ảnh hưởng đến ông. Lênin cũng

thừa nhận phép biện chứng của Hêraclít có tính chất khách quan. Trong các

luận điểm biện chứng cơ bản của Hêraclít đặc biệt quan trọng là tư tưởng về

sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh giữa các mặt đối lập.

2.1. Quan niệm về bản nguyên của vũ trụ

Trong khi Talét cho rằng bản nguyên của thế giới là nước thì Hêraclít lại

cho rằng lửa là nguồn gốc sinh ra tất thảy mọi vật: “Mọi cái biến đổi thành

lửa và lửa biến thành mọi cái tựa như trao đổi vàng thành hàng hóa và hàng

hóa thành vàng”. “ Lửa sống nhờ đất chết, không khí sống nhờ lửa chết, nước

sống nhờ không khí chết, đất sống nhờ nước chết”.

Hêraclít cho rằng, vũ trụ không do ai sáng tạo ra, luôn luôn là lửa, sống

động, vĩnh cửu, bùng cháy theo những quy luật của mình: “Thế giới này chỉ

là một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng

tạo ra nó, nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ

đo của những cái đang rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi tàn”.

Theo Hêraclít, sự phát sinh ra vũ trụ từ lửa là con “đường đi xuống”, đồng

thời cũng là sự “thiếu hụt lửa”. Và, vũ trụ xét về tổng thể là cái đơn nhất

nhưng cái đơn nhất đó là tổng thể của sự thống nhất của vạn vật, trong vũ trụ

đơn lẻ này những sự vật hiện tượng nội tại nó tự biến đổi đa dạng, vận động

chuyển hóa sang mức độ khác nhau, mà tất cả cơ sở của sự biến đổi ấy là lửa.

Theo ông, “lửa bao quát tất cả và phân xử tất cả”. Hỏa hoạn của vũ trụ

cũng đồng thời là tòa án của vũ trụ. Theo đó, hỏa hoạn vũ trụ không chỉ là

một sự kiện vật lý đơn thuần mà còn là một hành vi “đạo đức”. Bản thân vũ

trụ không phải do chúa trời hay một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra mà chính

là lửa.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 7

Page 8: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Ngọn lửa trong quan niệm của Hêraclít mang tính vật chất là sự so sánh

trực quan cảm tính với logos trừu tượng – cái được dùng để chỉ bản chất

lôgic – lý tính của tồn tại và quy định trật tự, như là “độ” của mọi quá trình.

Do vậy, ngọn lửa mang tính vật chất của Hêraclít là “có lý tính” có liên quan

tới logos là “ngọn lửa có lý tính”. Ngọn lửa của Hêraclit thể hiện tính cơ

động và tính tích cực của tồn tại, đồng thời cũng thể hiện bản chất ổn định và

trật tự bất biến của thế giới, bản chất mang tính vật chất.

Nếu như Talét coi nước là khởi nguyên của thế giới với tư cách là

một thực thể sinh ra mọi vật thì Hêraclít đã hiểu khởi nguyên theo nghĩa độ

cao hơn, coi lửa không chỉ là thực thể sản sinh ra mọi vật, mà còn là khởi tổ

thống trị toàn thế giới. Lửa đó sản sinh ra không chỉ các sự vật vật chất, mà

cả những hiện tượng tinh thần, kể cả linh hồn con người.

Với quan niệm coi toàn bộ vũ trụ như một ngọn lửa bất diệt, thế giới này

là lửa thì ông đã tiếp cận được những quan niệm duy vật và nhấn mạnh tính

bất diệt và vĩnh viễn của thế giới. Ông đã thể hiện những tư tưởng đầu tiên về

sự thống nhất vật chất của thế giới khi coi lửa là bản nguyên của tất thảy mọi

vật.

Đánh giá quan niệm này của Hêraclit, Lênin coi đó là “một sự trình bày

rất hay những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng”

2.2. Logos với tư cách là sự thống nhất ( hài hòa ) và đấu tranh giữa các mặt đối lập.

Lần đầu tiên được Hêraclít sử dụng với tư cách là một trong các khái niệm

triết học cơ bản và trở nên rất phổ biến trong toàn bộ triết học cổ đại, đó là

thuật ngữ “logos”. Ở người Hy Lạp “logos” tùy thuộc vào văn cảnh ngôn

ngữ đã có ý nghĩa rất khác nhau. Hêraclít cũng đưa vào “logos” nội dung

không như nhau, chẳng hạn trong một câu nói của Hêraclit “logos” có nghĩa

là sự thống nhất của mọi cái hiện hữu.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 8

Page 9: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Sự thống nhất ở đây có nghĩa là sự đồng nhất, hài hòa giữa các mặt đối

lập. Theo Hêraclít, ngày và đêm, thiện và ác… không phải là một – đó là

điều mà ai cũng hiểu. Song có điều ngày và đêm, thiện và ác, cũng như mọi

mặt đối lập tạo thành một chỉnh thể thống nhất thì ít ai hiểu: vì ngày – đêm,

mùa hè – mùa đông, chiến tranh – hòa bình… là nối tiếp nhau tạo thành tính

chu kỳ và lặp lại nhất định nhưng người ta lại không hiểu được rằng bản thân

tính chu kỳ và tính lặp lại đó được quy định bởi sự thống nhất, hòa hợp giữa

các mặt đối lập, tức là bởi “logos” phổ biến.

Khi coi lửa là bản nguyên vật chất, là nguyên tố vật chất đầu tiên của mọi

dạng vật chất, toàn bộ thế giới hay vũ trụ chẳng qua chỉ là sản phẩm biến đổi

của lửa “hết thảy mọi sự vật đều chuyển hóa thành lửa, lửa cũng chuyển hóa

thành hết thảy sự vật”. Hêraclít đã đi đến quan niệm về tính thống nhất của

vũ trụ, ông cho rằng vũ trụ - cái thế giới mà con người đang sống trong đó

thống nhất ở một cái duy nhất là ngọn lửa vĩnh hằng, bất diệt. Sự thống nhất

ấy của vũ trụ được Hêraclít hình dung như là sự lan tỏa hương vị với nồng độ

khác nhau trong khói thuốc từ một điếu thuốc đang được đốt cháy bởi lửa.

Trong quan niệm của Hêraclít, “chiến tranh” hay “đấu tranh” là một trong

các hình ảnh – khái niệm quan trọng nhất của ông. Ông gọi chiến tranh là cha

đẻ và hoàng đế của mọi thứ hiện tồn. Chiến tranh có thể biến một số người

trở thành thần thánh, số khác là người; nó biến một số người thành nô lệ, số

khác là người tự do.

“Chiến tranh” vừa là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập vừa là sự thống

nhất của chúng. Cuộc đấu tranh không những là sự đối lập mà còn là sự liên

hệ giữa các mặt đối lập. Hêraclít còn cho rằng đấu tranh là nguồn gốc của

mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ và đó là một mặt trong “sự sống” của mọi

cái đang diễn ra. Mặt khác trong “sự sống” ấy là tính hòa hợp, tính có trật tự,

tính hài hòa. Một chỉnh thể thống nhất bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối

lập của nó, giống như cái ác bao giờ cũng tồn tại với các mặt đối lập của nó

là cái thiện, cái chết với mặt đối lập của nó là cái sống và ngươc lại… Vấn đề

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 9

Page 10: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

là ở chỗ mặt đối lập nào chiếm ưu thế trong một thời điểm cụ thể. Hêraclít

cho rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là hiện tượng phổ biến trong vũ trụ,

không có đấu tranh sẽ không có bất cứ sự hài hòa nào và ngược lại khi đấu

tranh không còn thì mọi cái cũng biến mất. Điều đó cho thấy trong quan niệm

của Hêraclít đấu tranh giữa các mặt đối lập là tất yếu, là quy luật tất yếu của

vũ trụ, là logos vũ trụ. Với ông, đấu tranh của các mặt đối lập là mang tính

phổ biến, là nguồn gốc ra đời của mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ.

Khi nói tới chiến tranh hay đấu tranh với tư cách là nguồn gốc của mọi sự

vận động và biến đổi, Hêraclít cũng nói tới chiến tranh chính nghĩa “chiến

tranh là phổ biến, chính nghĩa tức là chiến tranh”. Đề cao chiến tranh và đấu

tranh coi chiến tranh như ông hoàng, song Hêraclít cũng kêu gọi con người

đừng có quá kiêu hãnh về chiến tranh. Ông cũng luôn cho rằng chiến tranh và

đấu tranh một khi vượt quá “độ”, bất chấp “sự công bằng”, “tính hợp lý” của

vũ trụ sẽ bị chính vũ trụ trừng phạt.

Tất cả quan niệm ấy của Hêraclít về chiến tranh cho thấy mặc dù ông coi

“chiến tranh là cha của mọi vạn vật” là “vua của mọi vạn vật” song ông

không phải là người tuyên truyền cho cuộc chiến tranh phi nghĩa giữa người

với người. Việc Hêraclít nhấn mạnh vai trò của chiến tranh luôn gắn liền với

việc ông thường xuyên kêu gọi người dân Hy Lạp hãy đứng lên tiến hành đấu

tranh vũ trang để giải phóng các thành phố của đất nước mình khỏi ách thống

trị của Batư.

Về phương diện triết học, quan niệm của Hêraclít về chiến tranh chính là

quan niệm của ông về sự đấu tranh giữa các mặt đối lập với tư cách là nguồn

gốc của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ. Nếu vũ trụ là cái có thật tự, luôn

vận động, biến đổi theo logos của nó và trong vũ trụ ấy “vạn vật ra đời đều

dựa vào logos của nó” thì đấu tranh giữa các mặt đối lập trong mỗi sự vật,

hiện tượng phải diễn ra trong khuôn khổ của logos, chứ không phải trong

khuôn khổ của các vô trật tự của thói tùy tiện vốn mâu thuẫn với logos của

vũ trụ.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 10

Page 11: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Hêraclít là người đầu tiên đã đặt vấn đề nhận thức luận về quan hệ giữa

logos chủ quan và logos khách quan của mình tức là khả năng thống nhất của

chúng. Hêraclít cho rằng logos thế giới con người (chủ quan) có đủ khả năng

để phù hợp với logos thế giới (khách quan) mặc dù điều đó diễn ra không

phải thường xuyên và hoàn toàn không phải ở mọi người. Hêraclít phàn nàn

rằng dù liên hệ, giao tiếp trực tiếp và thường xuyên với logos khách quan và

chi phối mọi sự vật nhưng logos đó vẫn xa lạ đối với nhiều người thường

xuyên va chạm với nó, xong nhiều người vẫn không hiểu được nó. Mặc dù

vậy, logos khách quan về thực chất là thống nhất, là giống nhau và ở một

chừng mực nào đó là đồng nhất.

Logos của tâm hồn con người và logos của thế giới sinh vật là một logos

được xem xét trên hai phương diện: thế giới nội tâm của con người và cấu

trúc bên ngoài của các sinh vật. Nếu chúng giống nhau và trùng hợp nhau,

nếu logos chủ quan của người bằng cách nào đó là đồng nhất với logos khách

quan của các sinh vật thì đó suy ra rằng việc nhận thức logos của thế giới bên

ngoài là có thể có được bằng con đường tự nhận thức, bằng các nỗ lực của

bản thân là cái duy nhất tạo thành phẩm giá cá nhân, công lao cá nhân. Tự

nhận thức đưa con người đi từ thế giới nội tâm tới thế giới bên ngoài. Trên

con đường đó tâm hồn con người ngày một phong phú hơn, mở rộng hơn và

phát triển hơn. “Logos tự phát triển là vốn có ở tâm hồn”.

Quan niệm của Hêraclít về logos chủ quan một cách vận động chứ không

phải đứng im. Chỉ nhờ tính tích cực này con người mới có thể có lối thoát ra

thế giới sinh vật bên ngoài.

Dấu hiệu cơ bản về tính sáng suốt đích thực của con người theo Hêraclít

là ở việc nhận thức được logos của tồn tại, là nhận thức được sự thống nhất

giữa các mặt đối lập.

Hêraclít đã vạch ra một cách rất độc đáo sự thống nhất mâu thuẫn giữa

logos và sự đa dạng của các sinh vật, biện chứng của cái đơn nhất và các số

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 11

Page 12: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

nhiều nói chung. Trên thực tế logos là phổ biến, vốn có ở sinh vật nhưng

đồng thời về một phương diện nào đó lại nằm ở bên ngoài chúng.

Đặc trưng của Hêraclít là ý muốn thể hiện bản chất mâu thuẫn của logos

khách quan qua logos chủ quan của tâm hồn con người.

2.3. Học thuyết về dòng chảyDựa vào việc nghiên cứu tự nhiên bằng quan sát trực tiếp và căn cứ vào

những kinh nghiệm cảm tính Hêraclit đã khái quát thành một kết luận nổi

tiếng về vật chất vận động “Mọi sự vật đều trôi đi, chảy đi, không có cái gì

tồn tại mà lại cố định”; rằng “ không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông

bởi vì nước mới không ngừng chảy trên sông” ngay cả “mặt trời cũng mỗi

ngày một mới”. Với quan niệm về vận động này, nhiều nhà triết học Hy Lạp

cổ đại đã coi Hêraclit là nhà “triết học vận động”và gọi thuyết của ông là

“thuyết về dòng chảy”.

Nếu các nhà triết học thuộc trường phái Mile chú ý nhiều về kết cấu vật

chất thì Hêraclit lại chú ý nhiều về vận động. Hình ảnh về ngọn lửa cũng là

hình ảnh sống động. Tán thành quan niệm này của Hêraclit, Hêghen đã lý

giải “lửa là thời gian vật lý, nó là sự không yên tĩnh tuyệt đối”. Hêghen còn

nhận xét: “Hêraclit nói: Tất cả đều là sinh thành, sinh thành ấy là nguyên tắc

cái đó bao trong thành ngữ, cái tồn tại không hơn gì cái không tồn tại”. Quan

niệm về sự vận động vĩnh viễn của vật chất hay học thuyết về “dòng chảy”

chính là nguyên lý xuất phát trong quan niệm của Hêraclit về vũ trụ là học

thuyết xuyên suốt của ông.

Ở Hêraclit không những dòng sông mà cả mặt trời cũng thường xuyên và

liên tục đổi mới, nhưng mặt khác ông lại cho rằng không có gì ổn định và bất

biến hơn là dòng sông luôn chảy và hơn mặt trời luôn chiếu sáng. Tính biến

đổi của dòng sông không loại trừ sự đứng im, là cái mà nhờ đó dòng sông là

xác định, ổn định và bất biến, cũng như vậy chúng ta có thể nói rằng sự đứng

im và tính xác định của dòng sông không loại trừ sự vận động (chảy) của nó.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 12

Page 13: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Hêraclit thừa nhận sự thống nhất mâu thuẫn của vận động và đứng im, sinh

thành và hiện hữu chứ không phải là ở việc thừa nhận sự vận động là nhờ có

sự hy sinh của đứng im.

Đóng góp cơ bản của Hêraclit trong lịch sử phép biện chứng là cách trình

bày đầu tiên về quy luật thống nhất giữa các mặt đối lập. Ông đã cố thể hiện

bản chất mâu thuẫn của các sự vật trong logos chủ quan và chỉ ra sự thống

nhất biện chứng của nhận thức và biện chứng của thế giới. Trên con đường

đó ông đã vấp phải các trở ngại mà đến nay vẫn chưa khắc phục hoàn toàn.

Đó là vấn đề khả năng phản ánh bản chất mâu thuẫn của các sự vật, kể cả bản

chất mâu thuẫn của vận động vào logic của các khái niệm.

Hêraclit đã diễn đạt bản chất mâu thuẫn của các sự vật, bản chất của

chúng là cái do ông khám phá ra, bằng các hình ảnh, khái niệm.Đó là khiếm

khuyết trong phương thức tư duy của ông nhưng đồng thời đó cũng là điểm

mạnh của ông. Hêraclit đã sử dụng rất hay các tiềm năng về nghĩa và gây ấn

tượng – cảm tính của hình ảnh trực quan, các sự so sánh nghệ thuật.

2.4. Quan niệm về nhận thức và con người2.4.1. Về nhận thức

Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các giác quan để con

người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không giống

nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất

nhưng mắt tốt hơn tai”.

Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và nhận thức

lý tính. Hêraclit đánh giá cao vai trò của các giác quan trong nhận thức các sự

vật đơn lẻ – tức là nhận thức cảm tính. Theo ông, nhận thức cảm tính cho

phép con người tìm được cái lý. Hêraclit cho rằng nhận thức nghiên cứu vũ

trụ, logos phải dựa trên cơ sở của cái nhìn và nghe thấy: “tôi thích cái gì mà

có thể nhìn thấy được và nghe thấy được” – ông nói. Tuy vậy, nhận thức đó

mới chỉ dừng lại ở nhận thức cái bề ngoài và có nhiều hạn chế.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 13

Page 14: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Vì vậy, theo Hêraclit để nhận thức được đầy đủ về sự vật – nhận

thức được chân lý cần phải phải có lý trí – tức là nhận thức bằng lý tính. Đó

chính là chìa khóa giúp con người nhận thức được về logos. Ông viết: “tư

duy có một ý nghĩa vĩ đại và sự thông thái chính là ở chỗ nói lên chân lý, ở

chỗ lắng nghe tự nhiên rồi hành động thích hợp với tự nhiên”.

Và theo ông, không phải ai cũng hiểu được chân lý – tức là nhận thức

được logos ngoại trừ những nhà thông thái. Và những nhà thông thái đó là do

họ sống tuân theo logos.

2.4.2. Về con người

Trong lịch sử triết học Hy Lạp, Hêraclit không chỉ được coi là người sáng

lập ra phép biện chứng mà còn là người có quan niệm độc đáo về con người.

Trong quan niệm về con người theo Hêraclit, con người có 2 mặt đối lập là

lửa và ẩm ướt, lửa sinh ra linh hồn. Nếu người nào đó có nhiều yếu tố lửa thì

người ấy là người tốt vì linh hồn người ấy khô ráo, sạch sẽ. Còn người nào có

nhiều yếu tố ẩm ướt là người xấu và trong con người luôn có sự đấu tranh và

chuyển hóa dưới 2 mặt: bệnh tật và sức khỏe, cái thiện và cái ác, cái đói và

cái no, cái mệt mỏi và cái thú vị “Trong con người chúng ta, sống và chết,

thức và ngủ, trẻ và già, trước và sau đều là một, cái sau biến hóa thành cái

trước, cái trước biến hóa trở lại thành cái sau”, “mọi vật sinh ra duy nhất, duy

nhất sinh ra mọi vật”.

Về xã hội, Hêraclit đề cao vai trò của tầng lớp quý tộc, coi thường số

đông nô lệ. Ông nói: “Đối với tôi, một người nếu là ưu tú nhất thì là một

chục nghìn người”. Ông chủ trương dùng bạo lực để đàn áp phong trào dân

chủ. Ông cũng là người có cái nhìn hiện thực khi cho rằng sự bất bình đẳng

là do bất bình đẳng về lợi ích.

Sự vận động và phát triển liên tục của mọi sự vật theo Hêraclit do tính tất

yếu khách quan, quy luật (logos) quy định. Lời nói, suy nghĩ, ngôn ngữ của

con người là logos chủ quan dùng để nêu lên logos khách quan, người nào

thấu hiểu logos và làm đúng theo logos thì người đó là người có trí tuệ. Đối

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 14

Page 15: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

với con người, theo ông cũng theo đúng quy luật đó. Ông khẳng định, trong

cuộc sống con người lo toàn việc sống nhưng nó cũng chết dần; con người

vui lòng sinh con đẻ cái để chuẩn bị cho sự chết.

Về lý luận nhận thức, Hêraclit cho rằng nhiệm vụ của nhận thức là phải

hiểu biết sâu sắc về tự nhiên, ông quan niệm tư tưởng có một giá trị rất vĩ đại,

trí tuệ là ở chỗ biết lý giải sự thật và lắng nghe tự nhiên để giải thích và hành

động theo tự nhiên.

3. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclít đối với lịch sử phát triển của phép biện chứng

Có thể nhận xét chung rằng, trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử nhân loại

với cách nhìn biện chứng về thế giới thì trên phương diện thế giới quan, các

nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã vượt bỏ những ảnh hưởng của thế giới quan

thần thoại và tôn giáo, đem lại cho loài người một phương pháp tư duy mới –

tư duy triết học. Tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại đã mở

đầu cho sự phát triển những tư tưởng biện chứng phương Tây. Những vấn đề

được các nhà triết học Hy Lạp đặt ra là những viên đá tảng tạo tiền đề cho sự

phát triển tư tưởng biện chứng trong triết học sau này.

Các nhà triết học thuộc trường phái Milê và Hêraclít là những người đã

đặt nền móng cho sự phát triển triết học trên lập trường duy vật. Với phương

pháp tư duy độc đáo của mình, với cách nhìn biện chứng, mà hình thức đầu

tiên là nhìn nhận thế giới trong sự thống nhất, các nhà triết học Hy Lạp cổ đại

đã truy tìm nguồn gốc của thế giới, tính thống nhất của thế giới từ một dạng

vật chất cụ thể. Với Talét là nước, Anaximen là không khí, Anaximanđrơ là

Apâyrôn…, còn đối với Hêraclít là lửa. Tư tưởng biện chứng trên lập trường

duy vật về bản thể luận này càng về sau càng được phát triển trừu tượng hơn

trong thuyết nguyên tử của Đêmôcrít…. Sau này, định nghĩa vật chất của

Lênin đã đưa lập trường duy vật lên đến đỉnh cao của sự hoàn thiện và triệt

để.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 15

Page 16: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Hêraclít là người đầu tiên trình bày quy luật thống nhất ( hài hòa ) và đấu

tranh của các mặt đối lập. Trong đó, ông cho rằng thế giới là một chỉnh thể

thống nhất tuyệt đẹp bao gồm các mặt đối lập. Hơn thế nữa, ông còn khẳng

định được rằng đấu tranh của các mặt đối lập là quy luật phổ biến của thế

giới, là điều kiện để tồn tại. Nhận thức thế giới là nhận thức quy luật thống

nhất ( hài hòa ) và đấu tranh của các mặt đối lập. Trong “Bút ký triết học”,

V.I.Lênin đã đánh giá rằng, tư tưởng này của ông khiến nhà triết học lỗi lạc

của Hy Lạp cổ đại là Arixtốt phải nát óc “đấu tranh” lại.

Trong quan điểm nhận thức, ông có những tư tưởng biện chứng cực kỳ

sâu sắc. Ông đưa ra quan điểm của mình về phương pháp nhận thức: khi

nhận thức cái chung, cái phổ biến, khi tìm ra được những biểu hiện đa dạng

của nó trong các sự vật đơn lẻ thì cần đối chiếu, so sánh các sự vật cá biệt,

đơn lẻ với cái chung, cái phổ biến. Với quan điểm nhận thức này, Hêraclít đã

có cái nhìn đúng đắn đầu tiên về cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Ông

cũng là người đưa ra khái niệm logos chủ quan và logos khách quan, theo đó,

logos chủ quan của con người có mối quan hệ biện chứng với logos khách

quan của thế giới. Nhận thức của con người là một quá trình đi từ logos chủ

quan đến logos khách quan hay nói cách khác nhận thức là một quá trình đi

từ nhận thức cảm tính đến tư duy trí tuệ. Bản chất của nhận thức thế giới là

nhận thức logos khách quan.

Trong học thuyết về dòng chảy phổ biến, Hêraclít cũng đưa ra những tư

tưởng biện chứng của mình. Một câu nói nối tiếng của ông là: “Không ai có

thể tắm hai lần trên một dòng sông”. Điều này khẳng định vận động, biến đổi

là phổ biến, vĩnh cửu. Tuy nhiên, ông cũng khẳng định vận động và đứng im

là sự thống nhất mâu thuẫn của các mặt đối lập. Tư tưởng vận động của ông

đã được Ph.Bêcơn kế thừa và phát triển trong triết học của mình.

Có thể thấy rằng, tư tưởng biện chứng của Hêraclít và triết học của ông có

một vai trò nhất định trong nền triết học nói chung và lịch sử phát triển phép

biện chứng nói riêng. Qua thời gian, giá trị những tư tưởng biện chứng trong

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 16

Page 17: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

triết học của ông vẫn được khẳng định và ông sẽ còn được nhắc đến nhiều

hơn nữa.

Bên cạnh những đóng góp đối với lịch sử phát triển của phép biện chứng

thì tư tưởng biện chứng của Hêraclít vẫn còn những hạn chế nhất định.

Ở Hêraclít, thống nhất mới chỉ được quan niệm ở nguồn gốc chung của sự

vật mà vẫn chưa thấy được sự thống nhất giữa các sự vật trong những mối

liên hệ cụ thể, hay như sự vận động cũng chỉ là vận động trong một vòng

khép kín. Vận động trong quan niệm của ông còn đơn giản, chưa đi đến được

quan niệm vận động tạo nên sự đa dạng và phong phú của các sự vật và hiện

tượng, vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng theo nấc thang đi lên.

Một điểm hạn chế nữa trong tư tưởng biện chứng của Hêraclít là hầu hết

những tư tưởng biện chứng của ông đều được thể hiện qua những câu văn

giàu hình ảnh, châm ngôn nhiều ẩn dụ, đa nghĩa. Điều này tạo nên tính không

nhất quán trong các tư tưởng, quan điểm, luận điểm của ông.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 17

Page 18: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

KẾT LUẬN

Hêraclit – nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người không chỉ nổi tiếng với học

thuyết về “dòng chảy” mà còn trở lên bất hủ với quan niệm độc đáo về sự hài

hòa và đấu tranh của các mặt đối lập, về tính thống nhất của vũ trụ, là học thuyết

xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của ông. Những tư tưởng biện chứng này

đã làm nên sự khác biệt giữa ông so với các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, đã làm

cho triết học và tên tuổi của ông còn lưu mãi đến ngày nay và mai sau.

Mặc dù còn những hạn chế nhất định trong lối văn phong của mình, song

phép biện chứng của Hêraclít xứng đáng giữ vị trí trung tâm trong triết học Hy

Lạp cổ đại. Nó đã mở đầu cho tư tưởng biện chứng và sự phát triển của phép

biện chứng sau này. Những vấn đề được các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đặt ra

là viên đá tảng trong tiến trình lịch sử hình thành và phát triển của phép biện

chứng của nhân loại. Đúng như V.I.Lênin đã từng nói: Con người chỉ tiếp tục

công việc mà Hêraclít và Arixtốt đã vạch ra.

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 18

Page 19: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1]. PGS, TS. Đoàn Quang Thọ ( chủ biên ), Giáo trình triết học, Nxb. Lý

luận Chính trị, H., 2006.

[2]. Lịch sử triết học Hi – La, Tủ sách ĐH tổng hợp Hà Nội, 1990, Tập 1,

tr. 1.

[3]. GS, TS. Nguyễn Ngọc Long – GS, TS. Nguyễn Văn Vui ( đồng chủ

biên ), Giáo trình triết học Mác – Lênin, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.,

2006.

4. TS. Nguyễn Viết Thông ( tổng chủ biên ), Giáo trình Những nguyên lý

cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB. Chính trị Quốc gia, H., 2009.

5. Ngô Đức Thịnh, Giáo trình triết học Mác – Lênin, NXB. Chính trị

Hành chính, H., 2009.

6,

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 19

Page 20: Tư tưởng biện chứng trong trếit học của hêraclít

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thị thanh – Cao học báo chí K17 20