tu-tuong-con-nguoi-xa-hoi-trong-triet-h.pdf

66
Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại Trang 1 LỜI MỞ ĐẦU Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác. Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại là một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối tượng của triết học phương Tây nói chung ngoài phần siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như bản thể, ý thức, hư vô... còn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có liên quan tới con người như cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức…. Các vấn đề về con người như con người tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trò của con người trong quá trình nhận thức như thế nào… hay những vấn đề và xã hội như quan hệ giữa các nhân và xã hội, ai quan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá nhân, quan hệ giữa cá nhân và nhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia phương Tây. Bài tiể luận này sẽ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng con người và xã hội được thể hiện trong quan điểm của các triết gia thuộc các trường phái triết học khác nhau trong Triết học Phương Tây từ cổ đại tới cận đại.

Upload: anh-bien-nguyen

Post on 22-Oct-2015

14 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 1

LỜI MỞ ĐẦU

Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được

thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ. Những triết học đầu tiên trong lịch sử xuất hiện

vào khoảng thế kỷ VIII – VI trước công nguyên ở Ấn Độ cổ đại, Trung quốc cổ đại, Hy

Lạp và La Mã cổ đại và ở các nước khác.

Triết học được xem là một hình thái ý thức xã hội, là học thuyết về những nguyên

tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức về thái độ của con người đối với thế giới, là khoa

học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Triết học Phương Tây nói chung và Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cận đại là

một bộ phận quan trọng trong hệ thống triết học thế giới. Đối tượng của triết học phương

Tây nói chung ngoài phần siêu hình học bàn về những ý niệm trừu tượng như bản thể, ý

thức, hư vô... còn lại là những hành trình vào các vấn đề cụ thể có liên quan tới con người

như cảm giác, nhận thức, ký ức, hạnh phúc, đạo đức…. Các vấn đề về con người như con

người tri thức thế giới xung quanh như thế nào, vai trò của con người trong quá trình nhận

thức như thế nào… hay những vấn đề và xã hội như quan hệ giữa các nhân và xã hội, ai

quan trọng hơn, đạo đức là vấn đề xã hội hay vấn đề cá nhân, quan hệ giữa cá nhân và

nhà nước… là trọng tâm trong quan điểm của các triết gia phương Tây. Bài tiể luận này

sẽ tập trung tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng con người và xã hội được thể hiện trong quan

điểm của các triết gia thuộc các trường phái triết học khác nhau trong Triết học Phương

Tây từ cổ đại tới cận đại.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 2

CHƯƠNG I – KHÁI QUÁT VỀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI ĐẾN

CẬN ĐẠI

I.1. TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

I.1.1. Điều kiện/hoàn cảnh ra đời

Hy Lạp cổ đại là một lãnh thổ rộng lớn bao gồm khu vực miền Nam bán đảo

Ban-căng (thuộc Châu Âu), nhiều hòn đảo nằm trên biển Êgiê và cả một vùng rộng

lớn ở ven biển bán đảo Tiểu á. Yếu tố địa lý tự nhiên này đã tạo điều kiện cơ bản để

nền nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp Hy Lạp cổ đại phát triển từ rất sớm.

Quá trình lịch sử lâu dài với không ít những thăng trầm của vùng đất Hy Lạp cổ đại

gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội và tư tưởng triết học của nó trong đó sự phân

chia xã hội thành giai cấp, sự phân công lao động xã hội thành lao động trí óc và lao

động chân tay đã dẫn tới sự hình thành một đội ngũ các nhà trí thức chuyên nghiệp

chuyên nghiên cứu về khoa học, triết học.. Sự hình thành triết học Hy Lạp không diễn

ra một cách ngẫu nhiên mà là kết quả tất yếu của việc kế thừa những di sản tinh tuý

của truyền thống trong sáng tác dân gian, trong thần thoại, trong các mầm mống của

tri thức khoa học (khoa học tự nhiên). Nhưng bên cạnh đó, sự xuất hiện của những trí

thức khoa học và triết học trong thời kỳ này đã tạo nên một bước ngoặt lớn về nhận

thức của con người, phá vỡ ý thức hệ thần thoại và tôn giáo nguyên thuỷ.

Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất, những tri thức về khoa học tự

nhiên phát triển mạnh, được trình bày trong hệ thống triết học - tự nhiên của các nhà

triết học cổ đại, bên cạnh đó, khoa học thời bấy giờ chưa phân ngành nên các nhà triết

học đồng thời cũng là các nhà Toán học, nhà Vật lý học... Từ các yếu tố đó có thể

khẳng định rằng, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi ra đời đã có sự gắn bó với nhu

cầu thực tiễn và gắn với khoa học.

Triết học Hy Lạp cổ đại phát triển qua 3 thời kỳ sau:

- Triết học thời kỳ tiền Socrates (thời kỳ sơ khai)

- Triết học thời kỳ Socrates (thời kỳ cực thịnh)

- Triết học thời kỳ Hy Lạp hoá

I.1.2. Nội dung/đặc điểm chính

Triết học Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào lúc xã hội này đã phát triển lên chế độ

chiếm hữu nô lệ với hai giai cấp chủ yếu là chủ nô và nô lệ nên nó là hệ tư tưởng, là

thế giới quan của giai cấp chủ nô thống trị, đồng thời nó còn là công cụ bảo vệ, duy trì

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 3

địa vị, quyền lợi của giai cấp chủ nô, là công cụ nô dịch, đàn áp các giai cấp khác về

mặt tư tưởng. Bên cạnh tính giai cấp rõ rệt đó, triết học Hy Lạp cổ đại coi trọng, đề

cao vai trò của con người, coi con người là tinh hoa của tạo hoá. Do là một trong

những nền triết học mở đường trong lịch sử triết học nhân loại hơn nữa các quan niệm

triết học được rút ra trên cơ sở suy luận, suy đoán từ sự quan sát trực tiếp các sự kiện

xảy ra trong tự nhiên, trong xã hội nên triết học Hy Lạp cổ đại mang nặng tính sơ

khai, chất phác, ngây thơ. Tuy nhiên, từ trong sự khởi đầu đó, các nhà triết học sau

này đã nhìn thấy ở triết học Hy Lạp cổ đại mầm mống của tất cả các kiểu thế giới

quan sau này và xem nó là một đỉnh cao của triết học nhân loại. Tuỳ thuộc vào từng

thời kỳ lịch sử, tuỳ từng không gian địa lý cụ thể mà triết học Hy Lạp cổ đại chia

thành các trường phái và các giai đoạn phát triển khác nhau.

Trên thực tế, mặc dù triết học duy vật Hy Lạp ra đời trên nền tảng thần thoại và

tôn giáo nhưng thế giới quan lại hoàn toàn mới lạ dựa trên cơ sở trí tuệ sâu sắc đã đem

lại cho con người giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống con người đặt ra,

giúp họ có cách sống hợp lý trong xã hội. Có thể coi triết học Hy Lạp cổ đại là đỉnh

cao của văn minh Hy Lạp, với các đặc trưng cơ bản:

- Triết học Hy Lạp đã có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào lưu,

trường phái, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần.

Toàn bộ nền triết học thế giới sau này cũng dựa trên những nền tảng cơ bản đó.

- Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã biết gắn bó chặt chẽ triết học với khoa học

tự nhiên để tổng hợp mọi hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau để hướng tới việc

xây dựng thế giới quan tổng thể, biến triết học thành "khoa học của các khoa

học".

- Triết học Hy Lạp cổ đại mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai,

cố gắng giải thích các sự vật hiện tượng trong một khối duy nhất thường xuyên

vận động và biến đổi không ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng

của triết học Hy Lạp cổ đại đã làm thành hình thức đầu tiên của phép biện

chứng.

- Thể hiện tính giai cấp sâu sắc, đã thể hiện nó là thế giới quan và ý thức hệ của

giai cấp chủ nô thống trị trong xã hội bấy giờ.Vì thế dễ hiểu tại sao phần lớn

các nhà triết học thời kì này đều coi nô lệ không phải là con người mà chỉ là

công cụ biết nói.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 4

- Triết học Hy Lạp đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con

người là vốn quý, là trung tâm hoạt động của thế giới, là tinh hoa cao quý nhất

của tạo hóa.”Con người là thước đo tất thảy mọi vật”(Pitago). Mặc dù vậy, con

người ở đây cũng chỉ là con người cá thể, giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh

đạo đức, giao tiếp và nhận thức.

I.1.3. Các triết gia tiêu biểu

Hy Lạp là một trong những chiếc nôi của nền văn minh nhân loại. Ở đó xuất

hiện rất sớm và đạt được những thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối

với sự phát triển của tư tưởng triết học sau này. Thời kì này nổi bật lên với tên tuổi

của các nhà duy vật như Đêmôcrit, Hêraclit, Arixtôt, Êpiquya… Trong nội dung của

bài tiểu luận này, chúng ta sẽ xem xét những thành tựu của nền triết học này thông qua

sự đóng góp của các triết gia tiêu biểu như Hêraclit, Đêmôcrit, Platon và Arixtôt,

Socrates.

I.1.3.a. Hêraclit

Hêraclit đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để giải quyết vấn đề “cơ sở đầu

tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể. Ông cho rằng lửa chính là bản nguyên

của thế giới, là cơ sở duy nhất và phổ biến của tất cả mọi sự vật, hiện tượng tự nhiên.

Lửa là cơ sở làm nên sự thống nhất của thế giới. Thế giới vận động theo trật tự mà ông

gọi là logos: logos khách quan và logos chủ quan quan hệ với nhau như là quan hệ

giữa khách thể và nhận thức. Và như vậy thì sự phù hợp với logos khách quan là tiêu

chuẩn để đánh giá tư duy con người. Đây là một đóng góp có giá trị của Heraclit cho

phép biện chứng sau này.

Tuy chưa được trình bày dưới dạng một hệ thống các luận điểm như sau này

nhưng phép biện chứng của Hêraclit đã đề cập tới hầu hết những luận điểm cốt lõi của

phép biện chứng dưới dạng các câu danh ngôn mang tính thi ca và triết lý. Ông quan

niệm về vận động vĩnh viễn của vật chất. Quan niệm về vận động đã được một số nhà

triết học trước đó đề cập nhưng phải đến Heraclit thì mới tồn tại với tư cách là học

thuyết về vận động với câu nói nổi tiếng “không ai có thể tắm hai lần trên cùng một

dòng sông”. Quan niệm về vận động của ông có nội dung cốt lõi là tư tưởng về sự

thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.

Hêraclit đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và triết học duy vật cổ đại

nói riêng tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những yếu tố biện

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 5

chứng. Học thuyết của ông được nhiều nhà triết học sau này kế thừa. Mác và Ăng

ghen coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại, đồng thời hai

ông cũng vạch rõ những hạn chế, sai lầm của Hêraclit về mặt chính trị trong quan

niệm phản dân chủ, thù địch với nhân dân do ông chủ trương.

I.1.3.b. Đêmôcrit:

Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmocrit nêu ra khái niệm không gian.

Theo ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những nguyên tử vận

động vĩnh viễn. Không gian là những khoảng trống giữa các vật thể, nhờ đó các vật

thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Xuất phát từ học thuyết nguyên tử, Đêmocrit cho rằng

không gian là gián đoạn và có thể phân chia vô tận.

Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa duy vật Đêmôcrit là quyết định luận (thừa nhận

sự ràng buộc theo luật nhân quả và tính quy luật của các hiện tượng tự nhiên) nhằm

chống lại mục đích luận (là quan điểm duy tâm cho rằng cái thống trị trong tự nhiên

không phải là tính nhân quả mà có tính mục đích). Sự thừa nhận tính nhân quả, tính tất

yếu và tính quy luật trong giới tự nhiên là một trong những thành quả có giá trị nhất

của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại.

Đêmocrit có nhiều công lao trong việc xây dựng lý luận về nhận thức. Ông đặt

ra và giải quyết một cách duy vật vấn đề đối tượng của nhận thức, vai trò của cảm giác

với tính cách là điểm bắt đầu của nhận thức và vai trò của tư duy trong việc nhận thức

tự nhiên.

Nét đặc sắc trong triết học duy vật của Đêmôcrit là chủ nghĩa vô thần. Ông cho

rằng sở dĩ con người tin vào thần thánh là vì con người bất lực trước những hiện tượng

khủng khiếp của tự nhiên. Theo ông, thần thánh chỉ là sự nhân cách hoá những hiện

tượng tự nhiên hay là những thuộc tính của con người. Thí dụ, mặt trời mà tôn giáo

Hy Lạp đã thần thánh hoá thì ông cho đó chỉ là một khối lửa.

Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrit là ông đã bền bỉ đấu tranh cho quan

niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp theo của

triết học duy vật.

I.1.3.c. Platon:

Platon là một nhà triết học duy tâm khách quan. Ông là người đầu tiên xây

dựng hệ thống hoàn chỉnh đầu tiên của chủ nghĩa duy tâm khách quan, đối lập với thế

giới quan duy vật. Ông đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại chủ nghĩa duy vật đặc

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 6

biệt là chống lại những đại biểu của chủ nghĩa duy vật thời bấy giờ như Hêraclit,

Đêmôcrit. Theo Platon, giới tự nhiên thế giới của những vật cảm tính bắt nguồn từ

những thực thể tinh thần tức là từ những ý niệm; vật thể cảm tính chỉ là cái bóng của ý

niệm. Ông cho rằng, để nhận thức được chân lý người ta phải từ bỏ mọi cái hữu hình

cảm tính; phải “hồi tưởng” lại những gì mà linh hồn bất tử quan sát được trong thế

giới ý niệm. Thuyết hồi tưởng thần bí này được xây dựng trên cơ sở học thuyết về linh

hồn bất tử, tính độc lập của linh hồn với thể xác.

Nếu ở Đêmocrit, phép biện chứng được sử dụng để phục vụ khoa học thì ở

Platon phép biện chứng lệ thuộc vào triết học duy tâm. Đường lối Platon chống lại

đường lối Đêmôcrit trong triết học Hy Lạp cổ đại, chống lại thuyết nguyên tử của

Đêmôcrit. Các hiện tượng tự nhiên bị ông quy về các quan hệ toán học. Đạo đức học

của ông được xây dựng trên học thuyết về linh hồn bất tử là một hình thức của lý luận

tôn giáo, là bộ phận quan trọng nhất của ý thức tư tưởng của tầng lớp chủ nô quý tộc.

Platon là một trong những nhà triết học xuất sắc nhất trong nền triết học Hy

Lạp cổ đại, hệ thống triết học của ông đề cập đến nhiều học thuyết như ý niệm, nhận

thức luận... và dù cho còn có hạn chế nhưng ông là người có công lớn trong việc

nghiên cứu các vấn đề về ý thức xã hội, đặt nền tảng cho việc xây dựng các khái niệm,

phạm trù và tư duy lý luận.

I.1.3.d. Arixtôt:

Ông đã nêu lên học thuyết bốn nguyên nhân, trong đó ông cho rằng bất kỳ sự

vật nào, nếu tồn tại bao giờ cũng xuất phát và được tạo thành từ bốn nguyên nhân:

nguyên nhân hình dạng, nguyên nhân mục đích, nguyên nhân vật chất, nguyên nhân

vận động. Bên cạnh học thuyết bốn nguyên nhân, Arixtôt còn xây dựng học thuyết về

linh hồn và nhận thức luận. Ông phê phán quan niệm của Platon về linh hồn bất tử,

ông cho rằng không chỉ có con người mà mọi thực thể sống đều có linh hồn và không

phải mọi linh hồn đều bất tử. Lý luận nhận thức của Arixtôt chứa đựng nhiều tư tưởng

hợp lý và nhiều yếu tố duy vật. Theo ông, đối tượng của nhận thức là ở bên ngoài con

người, quá trình nhận thức là quá trình phản ánh đối tượng bên ngoài ấy và trải qua

nhiều cấp độ từ thấp đến cao, chưa hoàn thiện đến hoàn thiện theo trình tự : Cảm giác,

biểu tượng, kinh nghiệm, nghệ thuật, khoa học. Đạo đức học của Arixtôt phản ánh rõ

nhất lập trường giai cấp của ông. Ông cho rằng, đạo đức phải phục vụ quyền lợi của

nhà nước, hành vi nào làm suy yếu nhà nước là không có đạo đức. Đạo đức phải gắn

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 7

liền với hành vi của con người, tiêu chuẩn đánh giá một cá nhân có đạo đức không

phải ở lời nói mà là ở hành động. Triết học của Arixtôt tuy còn những hạn chế, dao

động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, nhưng ông vẫn xứng đáng là bộ óc

vĩ đại nhất trong các bộ óc vĩ đại của nền triết học Hy Lạp cổ đại, “là vị hoàng đế

Maxêđoan” của triết học.

I.1.3.e. Socrates

Socrates xuất thân trong một gia đình khá giả ở Athen. Cha làm nghề điêu khắc,

mẹ là nữ hộ sinh. Ông hướng về chính thể chủ nô quý tộc chống lại chủ nô dân chủ.

Năm 399 BC, ông bị chủ nô dân chủ kết án tử hình về tội “coi thường luật pháp,

chống lại chế độ bầu cử dân chủ”. Đối với ông chỉ có văn nói sống động, và văn viết

đã bị khô cứng. Vì vậy cuộc đời ông không để lại một tác phẩm nào. Chỉ biết được

ông qua đệ tử của ông.

Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trước

nghiên cứu về giới tự nhiên. Nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con

người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác hơn là sự nhận thức

của con người về chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ông,

đề tài con người trở thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học phương

Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã

hội mà trước hết là hành vi đạo đức.

Xuất phát từ “đạo đức học duy lý”, ông cho rằng, “Hiểu biết là cơ sở của điều

thiện, ngu dốt là cội nguồn của cái ác, và chỉ có cái thiện phổ biến mới là cơ sở của

đạo đức, mới là cơ sở của đức hạnh. Ai tuân theo cái thiện phổ biến thì người đó mới

có đạo đức. Và muốn theo cái thiện phổ biến thì phải hiểu được nó, muốn hiểu được

nó phải thông qua các cuộc tranh luận, tọa đàm, luận chiến tìm ra chân lý theo cách

thức mà về sau được gọi là “phương pháp Socratess”. Trở nên thấp kém hơn bản

thân mìnhkhông phải là cái gì khác hơn ngoài sự ngu dốt, trở nên cao cả hơn bản

thân mình không phải cái gì khác ngoài sự thông thái”.

Phương pháp triết học của ông gồm bốn bước: Một là “mỉa mai”, tức là nêu ra

những câu hỏi mẹo, mang tính châm biếm, mỉa mai nhằm làm cho đối phương sa vào

mâu thuẫn. Hai là “đỡ đẻ tinh thần”, giúp cho đối phương thấy được con đường để tự

mình khám phá ra chân lý. Ba là “qui nạp”, tức là xuất phát từ cái riêng lẻ khái quát

thành những cái phổ biến, từ những hành vi đạo đức riêng lẻ tìm ra cái thiện phổ biến

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 8

của mọi hành vi đạo đức. Và phương pháp cuối cùng là “định nghĩa”, là chỉ ra hành vi

thế nào đạo đức, quan hệ thế nào là đúng mực. Phương pháp này đối với ông chỉ có

những người có tri thức như giai cấp quý tộc và các triết gia mới là những người có

đạo đức. Bốn bước này quan hệ chặt chẽ với nhau trên bước đường tìm kiếm tri thức

chân thật, bản chất giúp con người sống đúng với tư cách và phận sự, của nó trong đời

sống xã hội.

Sự đóng góp của ông thay đổi từ nguyên lý vũ trụ sang nguyên lý nhân minh đã

làm nên một bước chuyển mới trong nền triết học. Cho nên, triết học Hy Lạp mới lấy

ông làm tiêu chí để phân kỳ, nó là thẩm định những giá trị của tư tưởng Socratess đối

với sự phát triển trong lịch sử.

Ông là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời cổ đại, ông không để lại cho

đời một tác phẩm nào, vì ông chỉ thường xuyên đàm luận mà không viết. Ngày nay

chúng ta sở dĩ biết được được về Socratess là do các học trò của ông và những tư

tưởng khác .

Như vậy, nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là đã đặt ra hầu hết các vấn đề

cơ bản của triết học mà sau này các học thuyết triết học khác sẽ từng bước giải quyết

theo nội dung của thời đại mình, nó bao chứa mầm mống của tất cả thế giới quan về

sau này. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa phép biện

chứng và phép siêu hình được thể hiện rất rõ. Những thành tựu triết học cơ bản của nó

xứng đáng ghi một mốc son trong lịch sử triết học của loài người.

I.1.4. Nhậ định chung

Triết học Hy Lạp-La Mã cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc,

nối những bến bờ triết học sau này. Đến nay những gì mà triết học Hy Lạp cổ đại

mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó. Triết lý Hy Lạp cổ đại là những

viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Ta có

thể thấy cả bề mặt và bề trái của Châu Âu ngày nay qua nền triết học Hy Lạp cổ đại.

Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ đài triết học nhân loại và trở nên bất hủ. Marx

nói: “Dại dột cho ai không thấy giá trị Hy Lạp cổ đại”. Nền triết học duy vật Hy Lạp

cổ đại đã đạt những thành tựu rực rỡ về mọi mặt và đã có những cống hiến lớn lao vào

kho tàng văn học của loài người. Hơn hai mươi lăm thế kỉ đã qua, thời đại nô lệ Hy

Lạp đã lùi xa trong quá khứ của lịch sử loài người, nhưng cho đến ngày nay, triết học

Hy Lạp cổ đại vẫn không hề mất đi giá trị của nó. Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 9

nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và chúng ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa Châu

Âu ngày nay nếu không đi ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy hoàng

của văn hóa Hy Lạp cổ đại, Ăngghen viết “Chúng ta luôn luôn phải quay về với

những thành tựu trong triết học cũng như trong mọi lĩnh vực khác của dân tộc nhỏ bé

này, một dân tộc mà tài năng và hoạt động có tính chất toàn diện của nó đã đảm bảo

cho nó có một địa vị mà không có một dân tộc nào khác có tham vọng đạt tới trong

lịch sử tiến hóa của nhân loại”.

Ưu điểm:

- Triết học cổ Hy Lạp như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời

của người dân Hy Lạp, tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người.

- Vai trò của tự nhiên và con người được đề cập một cách khách quan nhằm đi

đến tìm hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu.

- Đạo đức lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại được đề cập.

- Là nền tảng cho các trường phái triết học sau này.

- Khoa học Duy nghiệm và Duy lý manh nha hình thành.

- Trả lời phần nào câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức thế giới không?

Hạn chế

- Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thể hiện tính bao trùm của nó về mọi lĩnh vực

trong thế giới quan của con người. Ra đời trong điều kiện còn quá ít và sơ khai nên

trình độ phát triển tư tưởng văn hóa của nhân loại thời kì này nói chung còn thấp. Triết

học thời kì này đã đề cập tới những vấn đề thế giới quan cơ bản của con người. Tuy

nhiên do sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động chân tay quá lớn, nên nhìn chung

các quan niệm triết học còn mang nặng tính tự biện.

- Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ yếu.

- Các vấn đề triết học còn chưa rõ ràng, còn rời rạc chưa hệ thống hóa.

- Tuy có đặt vai trò của con người, nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần

linh.

I.2. TRIẾT HỌC TÂY ÂU TRUNG CỔ

I.2.1. Điều kiện, hoàn cảnh ra đời

Xã hội Tây Âu thời trung cổ là khoảng thời kỳ lịch sử ngàn năm (từ thế kỷ thứ IV

đến thế kỷ XIV). Vào thế kỷ V, những cuộc nổi dậy của nô lệ và những cuộc đấu tranh

giai cấp bên trong cùng với sự tiến công của những man tộc bên ngoài đã đưa tới sự

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 10

sụp đổ của đế quốc La Mã phương Tây. Chính những sự kiện đó đã dẫn đến kết quả

chấm dứt hình thái kinh tế - xã hội nô lệ cổ đại, và chế độ phong kiến Tây Âu ra đời.

Đây là thời kỳ hình thành và phát triển PTSX phong kiến phương Tây.

Nền kinh tế trong xã hội phong kiến mang tính chất tự nhiên, tự cấp, tự túc bởi

vì sản phẩm làm ra chỉ nhằm giải quyết các nhu cầu của các công xã và thái ấp. Các

thái ấp là một thế giới đóng kín; quyền chiếm hữu ruộng đất và tư liệu sản xuất cũng

như sản phẩm làm ra không hoàn toàn thuộc về người lao động (nông dân hay nông

nô) mà thuộc về giai cấp địa chủ phong kiến. Vì vậy, phong trào đấu tranh của nông

dân lao động, thợ thủ công, dân nghèo thành thị chống bọn phong kiến và tầng lớp bóc

lột khác là một nội dung chủ yếu của lịch sử xã hội phong kiến.

Sự hình thành vô số những điền trang thái ấp phong kiến Tây Âu đã tạo ra một

chế độ phong kiến cát cứ phân quyền. Trong điều kiện đó, tôn giáo nhất thần đã có cơ

hội phát triển với tư cách là công cụ tinh thần thiêng liêng của giai cấp phong kiến

thống trị. Thiên chúa giáo - một dòng tôn giáo giữ truyền thống bảo thủ nhất của Cơ

đốc giáo – đã trở thành một tôn giáo độc tôn của các nước phong kiến Tây Âu. Sự

thống trị của uy quyền phong kiến và thần quyền giáo hội đã cản trở sự phát triển của

khoa học và kỹ thuật. Triết học cũng bị phụ thuộc vào thần học. Bản chất của CNDV

gắn liền với khoa học, thời kì này đã không có điều kiện để phát triển. Trong thời đại

phong kiến, tôn giáo và thần học là hệ tư tưởng thống trị trong đời sống tinh thần của

xã hội. Tôn giáo đã bắt những hình thái khác của của ý thức xã hội phải phụ thuộc vào

nó. Ăng-ghen viết: "Nhà thờ với việc chiếm hữu ruộng đất theo lối phong kiến của nó

là mối liên hệ thực tế giữa các nước khác nhau; tổ chức nhà thờ theo lối phong kiến đã

dùng tôn giáo để bảo vệ nhà nước phong kiến quý tộc. Thêm vào đó, giáo sỹ là giai

cấp độc nhất có học thức. Do đó mà tín điều của nhà thờ tất nhiên là yếu tố xuất phát

và là cơ sở của mọi sự suy nghĩ. Pháp luật, khoa học tự nhiên, triết học - tất cả nội

dung của các khoa học đó đều được trình bày sao cho phù hợp với học thuyết của nhà

thờ. Vai trò của tôn giáo biểu hiện đặc biệt ở chỗ nó làm chủ ý thức của quần chúng

nhân dân và dùng sự áp bức về tinh thần của nó để ủng hộ sự bóc lột tàn tệ của bọn

phong kiến. Điều đó giải thích vì sao giai cấp nông dân hết sức đông đảo nhưng "tối

tăm về trí tuệ" và bị tước hết mọi quyền hành”...

Như vậy, thời kỳ này không chỉ có phong kiến quý tộc giữ vai trò thống trị mà

giới tăng lữ, giáo hội và nhà thờ đã thiết định được một sức mạnh chưa từng có của

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 11

thần quyền, có khả năng chi phối cả quyền lực chính trị. Bởi vậy trong suốt nhiều thế

kỷ, triết học và khoa học đã trở thành nô tì của thần học, tồn tại và hiện thân trong vai

người ca tụng, biện minh cho các tín nhiệm của tôn giáo, phản bác, loại bỏ các tư

tưởng dị giáo, đa thần và các quan niệm vô thàn tiến bộ. Tình hình này đã cắt nghĩa sự

đồng quyền của giáo hội trong văn học và giáo dục. Các tín điều của tôn giáo là những

nguyên lý của giáo dục, là cơ sở của thế giới quan và nhân sinh quan.

Từ thế kỷ X đã diễn ra nhiều cuộc Thập tự chinh với mục đích là xâm chiếm,

cướp đoạt của cải của các nước phong kiến nhỏ ở Phương Đông (vùng vịnh Ả Rập)

nhưng lại núp dưới danh nghĩa bảo vệ tôn giáo, chống bọn tà giáo, giải phóng vùng đất

thánh… Những cuộc chiến tranh tôn giáo này đã đem lại những kết quả ngoài mong

muốn của những người khởi xướng ở chỗ là đã tạo nên sự giao lưu văn hoá Đông-Tây

tác động mạnh mẽ đến sự phát triển tư tưởng, khoa học và kinh tế ở Tây Âu. Thiên văn

học và toán học phát triển khá mạnh vào thế kỷ XIII; cơ học, vật lý học, hoá học hình

thành mà tiêu biểu là Lêônarơ Phibômátchi, Anbécphôn Bônstết, Rôgie Bêcơn.

Sự phát triển kinh tế đã dẫn đến đòi hỏi gia tăng sự hiểu biết. Tình trạng mù

chữ, thất học, sống đơn điệu của các lãnh địa không thể tiếp tục duy trì. Vì vậy chỉ

trong vòng hai thế kỷ (XII, XIII) ở Tây Âu hàng loạt các trường đại học đã ra đời.

Tóm lại, từ lập trường DVBC mà xét thì thời kỳ trung cổ không phải là quá

trình đứt đoạn của lịch sử mà là một thời kỳ “trong nỗi đau đớn đã sinh ra một nền văn

minh mới, tạo cơ sở cho sự ra đời của những bộ tộc hiện đại chuẩn bị cho lịch sử

tương lai ở Châu Âu”.

I.2.2. Nội dung, đặc điểm chính

Thứ nhất, sự phát triển của những tư tưởng triết học các nước Tây Âu thời

Trung cổ bị chi phối rất mạnh bởi tư tưởng tôn giáo và thần học. Theo Ăngghen, trong

thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu, triết học chỉ là "đầy tớ", "con sen" cho thần học. bởi vì

nhiệm vụ của triết học là giải thích đúng đắn và chứng minh về mặt hình thức cho

những tín điều tôn giáo do nhà thờ Kitô giáo thống trị, đứng đầu là Giáo hoàng La Mã

đặt ra. Đây là thời kỳ lịch sử mà tiếng nói "trí tuệ và lương tri nhân loại" bị áp đảo bởi

sự tuyên truyền của giáo hội về đức tin nơi Thiên chúa. Đây cũng là thời kỳ các nhà

thần học được phép tuyên bố rằng mọi tri thức của nhân loại đều có thể rút ra từ Kinh

thánh (Cựu ước và Tân ước); rằng tất cả những gì trái với kinh thánh đều đáng nguyền

rủa và xử tội.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 12

Thứ hai, sự tồn tại và phát triển mạnh mẽ của tư tưởng triết học kinh viện (chủ

nghĩa kinh viện) cũng là một nét nổi bật của thời kỳ Trung cổ ở Tây Âu. Triết học thời

kì này giải quyết các vấn đề xa rời thực tế cuộc sống. Vấn đề trung tâm mà các nhà

kinh viện chú ý nghiên cứu là vấn đề mối quan hệ giữa tri thức và niềm tin (tôn giáo).

Những căn cứ để triết học kinh viện "luận chứng" chính là những tín điều trong các

cuốn kinh thánh, chứ không phải là những kiến thức khoa học, không phải là thực tiễn

quan sát và thí nghiệm của khoa học như giai đoạn sau này, cũng không phải là thực

tiễn kinh tế xã hội hiện thực. Bởi vậy, những luận chứng của nó mang tính "sáo rỗng"

hình thức mà thiếu đi nội dung hiện thực của cuộc sống sinh động. Triết học kinh viện

là triết học chính thức của giai cấp phong kiến, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học

và triết học duy vật.

Thứ ba, cuộc đấu tranh giữa hai phái Duy thực và Duy danh cũng là đặc trưng

của tư tưởng triết học Trung cổ Tây Âu. Cuộc đấu tranh giữa hai phái trên chứa đựng

khả năng phát triển tiếp tục hai khuynh hướng cơ bản trong triết học- chủ nghĩa duy

tâm và chủ nghĩa duy vật.

Phái Duy thực luận chứng về mặt triết học sự tồn tại có thật, duy nhất của cái chung;

còn phái Duy danh thì ngược lại, chứng minh cho sự tồn tại duy nhất, có thật của cái

riêng. Phái Duy danh có khuynh hướng duy vật, phái Duy thực lại có xu hướng duy

tâm về triết học.

Thứ tư, con người – sinh linh bé nhỏ, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng trong tội

tổ tông, ăn năn sám hối trong kiếp làm người”

I.2.3. Các triết gia tiêu biểu

I.2.3.a. Ôguýtxtanh (354-430)

Ông sinh ở Taghết (Bắc Phi), nay thuộc Angiêri; là giáo chủ, nhà văn, nhà triết

học. Ông viết một loạt tác phẩm: "Sự thú tội", "Về thành đô của Thượng đế", "Về

những tà đạo", "Về sự bất tử của linh hồn", "Chống các nhà hàn lâm viện "v.v.

Tư tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của ông là: Toàn bộ thế giới là do

Thượng đế sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn

năng, có quyền lực tuyệt đối; thượng đế là "Bác sĩ của trái tim mình", ý chí của con

người là tự do, song nằm trong giới hạn tiền định của Thượng đế; quá trình nhận thức

của con người là quá trình nhận thức của Thượng đế. Thượng đế là chân lý tối cao.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 13

Theo Ôguýtxtanh, chỉ có ơn huệ tối cao của "Thượng đế, mà đại biểu trên trái

đất là giáo hội mới cứu vớt được đời sống tương lai. Bởi vì, toàn bộ lịch sử là cuộc

đấu tranh giữa những người theo thần linh để củng cố "Thành phố thần thánh" và

những người theo quỷ dữ để tổ chức ra "thành phố trần gian". Vì vậy phải có uy thế

của quyền lực tinh thần đối với quyền lực thế tục, cần có uy quyền thế giới của giáo

hội. Tuy nhiên, trong quan điểm triết học của Ôguýtxtanh cũng bộc lộ những mâu

thuẫn không thể giải quyết được. Một mặt, ông thừa nhận Thượng đế sáng tạo ra tất

cả; nhưng mặt khác ông lại cho rằng "không có Thượng đế trong các sự vật cảm biết".

Thí dụ, khi quan sát giới tự nhiên thấy vẻ đẹp của thân thể, sự rực rỡ của ánh sáng, sự

dịu dàng của âm điệu, mùi thơm của hoa lá v.v. ông cho rằng nó không được đánh giá

bởi Thượng đế.

Tóm lại, Ôguýtxtanh là nhà triết học ra sức bảo vệ tôn giáo, chống khoa học và

triết học duy vật.

I.2.3.b. Giăngxicốt Ơrigiennơ (810 - 877)

Là người Ai Len, là một trong những nhà tư tưởng nổi tiếng thời Trung cổ, là

người theo chủ nghĩa duy thực triệt để. Ông viết một loạt tác phẩm nổi tiếng như: "Về

sự tiền định của Thượng đế", "Về sự phân chia giới tự nhiên" v.v.

- Trong triết học của Ơrigiennơ nổi lên một số vấn đề sau:

+ Triết học của ông là một hệ thống duy tâm tìm cách kết hợp chủ nghĩa

Platonvới Thiên chúa giáo. Ông nói; "Triết học chân chính và tôn giáo chân chính là

một".

+Trung tâm trong học thuyết của ông là chứng minh cho sự tồn tại và vai trò tối

cao của Thượng đế đối với đời sống con người và giới tự nhiên.Theo ông, bản thân

quá trình thế giới là sự giáng thế liên tục của Thượng đế. Như vậy đó đã bao hàm

những nhân tố phiếm thần luận. Trong tác phẩm "Về sự phân chia giới tự nhiên", ông

đã chia sự phát triển của giới tự nhiên qua 4 giai đoạn: Giai đoạn một, giới tự nhiên

biểu hiện như là vật vừa được sáng tạo- đó là Thượng đế được xem như cơ sở đầu tiên

của quá trình thế giới. Giai đoạn hai, giới tự nhiên biểu hiện như là vật vừa sáng tạo,

vừa được sáng tạo - đó là "con" của Thượng đế - là kẻ trung gian giữa Thượng đế và

thế giới. Giai đoạn ba, giới tự nhiên biểu hiện như là vật được sáng tạo - đó là thế giới

các sự vật cụ thể, thế giới muôn loài trong đó có con người. Giai đoạn bốn, giới tự

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 14

nhiên biểu hiện là vật không phải sáng tạo, cũng không được sáng tạo - đó là Thượng

đế, nhưng ở đây Thượng đế được xem như mục đích của quá trình thế giới.

+ Triết học của G. Ơrigiennơ đã trình bày mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí -

một vấn đề trung tâm của triết học Trung cổ. Theo ông, giữa lòng tin và lý trí là hoàn

toàn có thể dung hợp được; nếu phủ nhận lý trí đề cao tôn giáo hoặc đề cao lý trí phủ

nhận tôn giáo đều là nguy hiểm cho nhà thờ.

+ Về nhận thức luận, ông cho rằng cái chung có trước cái riêng và cơ sở của cái

riêng; cái chung là cái bản chất của sự vật; bởi vì các sự vật đều bắt nguồn từ cái

chung và cái chung chứa đựng các sự vật bên trong. Ở đây bộc lộ rõ tính chất duy

tâm trong nhận thức luận ở Ơrigiennơ.

Như vậy, toàn bộ học thuyết của G. Ơrigiennơ là sự tiếp tục của quan điểm

Platon dưới hình thức mới. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đã làm cho phái tôn giáo

chính thống nghi ngờ những tác phẩm của ông và cuối cùng những tác phẩm của ông

bị chính thức kết án là "những tà thuyết nguy hiểm" cổ vũ "Phái dị giáo" nên đã bị đốt.

I.2.3.c. Pie Abơla (1079 -1142)

Là người Pháp, giảng viên nổi tiếng ở các trường đại học Pa-ri. Ông là người

theo chủ nghĩa duy danh.

Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, ông đề cao vai trò của

lý trí: Lòng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, theo ông, nguyên lý xuất phát là "hiểu

để mà tin", và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra toàn bộ nội dung

của chân lý tôn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tôn giáo nào đó là xác

đáng hay không xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập luận

chân lý, bởi lẽ "sự linh cảm" không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của các thành

quả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm.

Pie Abơla cho rằng: Khái niệm chung không tồn tại bên ngoài sự vật cụ thể,

không có đời sống độc lập, nhưng nó không tồn tại trong bản thân các sự vật; khái

niệm chung cũng không nằm trong bản thân từ ngữ, mà nằm trong ý nghĩa của từ ngữ.

Như vậy, triết học của Pie Abơla ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiện

một khoa học thực nghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống của

nhà thờ. Nhà thờ gọi ông là kẻ "chống chúa trời", là kẻ tà đạo.

I.2.3.d. Rôgiê Bêcơn (khoảng 1214 - 1294)

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 15

Là người Anh, một tu sĩ đã phải sống 14 năm trong các nhà giam của Giáo hội.

Ông đóng một vai trò là người đi tiên phong trong khoa học thực nghiệm của thời đại

mới. Triết học của Rôgiê Bêcơn cũng đóng một vai trò quan trọng trong cuộc đấu

tranh chống triết học kinh viện; chống giáo hội, lên án bọn giáo sỹ và sự áp bức của

giai cấp phong kiến, bênh vực quyền lợi của nhân dân; song không chống tôn giáo nói

chung.

Rôgiê Bêcơn đã đưa ra quan niệm mới về đối tượng của triết học. Theo ông,

triết học là khoa học lý luận chung giải thích mối quan hệ giữa các khoa học bộ phận

và đem lại cho các khoa học đó những quan điểm cơ bản; còn bản thân triết học được

xây dựng trên thành quả của các khoa học đó.

Sức mạnh và bản chất của học thuyết R. Bêcơn chủ yếu là sự phê phán phương

pháp kinh viện chủ nghĩa. Ông cho rằng: phải dựa vào kinh nghiệm để "đạt tới chỗ

nhận thức nguyên nhân của hiện tượng" để thay thế cho cái lõi rỗng tuếch, hình thức

chủ nghĩa của phương pháp kinh viện.

Theo R.Bêcơn con đường nhận thức chân lý gặp bốn trở ngại do triết học kinh

viện gây ra: một là, sự sùng bái trước cái uy tín không có cơ sở; hai là, thói quen thừa

nhận những quan niệm được coi là rõ ràng; ba là, tính vô căn cứ của những đánh giá

thuộc về số đông và bốn là, sự thông thái giả tạo của các học giả.

Theo R.Bêcơn, nguồn gốc của nhận thức là uy tín, lý trí và kinh nghiệm, nhưng

uy tín phải được chứng minh bằng kinh nghiệm và thực nghiệm, nếu không chỉ là lý

trí ngụy biện, giáo điều, vô ích. Ông coi kinh nghiệm là tiêu chuẩn của chân lý, thước

đo của lý luận: đồng thời ông rất coi trọng tri thức khoa học bởi lẽ "không có sự nguy

hiểm nào lớn hơn sự ngu dốt". Việc coi kinh nghiệm là thước đo chân lý là bước ngoặt

quan trọng trong lý luận về nhận thức. Tư tưởng của R.Bêcơn là tiếng chuông báo

hiệu sự kết thúc của chủ nghĩa kinh viện và mở đầu cho thời kỳ khoa học thực

nghiệm. Chính đây là sự tiến bộ của thời ông và có tác dụng chống chủ nghĩa kinh

viện.

Khác với chủ nghĩa kinh viện chính thống chuyên nghiên cứu thần học,

R.Bêcơn chủ yếu hướng sự nghiên cứu của mình vào khoa học tự nhiên. Do đó ông

coi khoa học thực nghiệm là chúa tể của khoa học và ông đã có nhiều đóng góp cho

các ngành khoa học này.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 16

Triết học của R. Bêcơn bộc lộ những xu hướng duy vật, ông nắm bắt được

những biến đổi xã hội chỉ vừa mới bắt đầu xảy ra và đi trước thời đại ông trong những

ước mơ và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học. Vì vậy, ông luôn bị nhà nước phong

kiến và giáo hội truy nã, cầm tù.

Triết học R. Bêcơn có nhiều tư tưởng tiến bộ, nhưng không thoát ra khỏi hạn

chế của thời đại mình - thời đại thống trị của tôn giáo và nhà thờ; ông đã tuyên bố sự

phụ thuộc của triết học vào lòng tin; ông nghiên cứu về "tính chất rõ ràng của tư

tưởng" xuất phát từ mẫu mực đầu tiên của Thượng đế, và về "lý trí hoạt động tiên

nghiệm".

Ông là một triết gia, một nhà khoa học người Anh, tiến sĩ thần học đại học tổng

hợp Paris. Tác phẩm chính là:

- Về sư kéo dài sự sống của con người

- Chỉ dẫn để nghiên cứu thần học

- Chỉ dẫn để nghiên cứu triết học

- Tiểu phẩm ca ngợi toán học

- Về cầu vồng

- Triển vọng

- Về sai lầm của các bác sĩ…

I.2.3.e. Tô mát đa canh (1225-1274)

Sinh ở Italia, là nhà thần học, nhà triết học kinh viện nổi tiếng; Ngoài ra ông

còn nghiên cứu những vấn đề pháp quyền đạo đức, chế độ nhà nước và kinh tế. Triết

học của ông được đạo Thiên chúa coi là triết học duy nhất đúng đắn và lấy làm hệ tư

tưởng của mình.

Tômát Đacanh nghiên cứu nhiều lĩnh vực: thần học, triết học, pháp quyền, đạo

đức, chế độ nhà nước, kinh tế. Với 18 cuốn sách, trong tuyển tập của ông hợp thành

bộ bách khoa toàn thư về hệ thống tư tưởng thống trị thời trung cổ hưng thịnh.

Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực

trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa

nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.

Tômát Đacanh coi đối tượng của triết học là nghiên cứu “chân lý của lý trí”,

còn đối tượng của thần học là nghiên cứu “chân lý của lòng tin tôn giáo”. Thượng đế

là khách thể cuối cùng của triết học và thần học, cho nên không có mâu thuẫn giữa

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 17

thần học và triết học. Nhưng triết học thấp hơn thần học, giống như lý trí của người

thấp hơn “lý trí của thần”. CNDT của Tômát Đacanh thể hiện một cách công khai với

quan điểm cho rằng, giới tự nhiên do Trời sáng tạo ra từ hư vô. Sự phong phú, hoàn

thiện và trật tự của giới tự nhiên được quyết định bởi sự thông minh của Trời. Trật tự

đó được Trời quy định theo thứ bậc như sau: bắt đầu từ các sự vật không có linh hồn,

tiến qua con người, tới các thần thánh và cuối cùng là bản thân Chúa Trời. Mỗi bậc

dưới đều cố gắng đạt tới bậc trên, toàn bộ hệ thống mong tiến tới Chúa Trời. Con

người do Chúa Trời tạo ra theo “hình dáng của mình” và sắp xếp theo những đẳng cấp

khác nhau. Nếu người nào vượt ra khỏi đẳng cấp của mình là có tội với Chúa Trời.

Chính quyền nhà vua là thừa lệnh “ý của Trời”. Quyền lực tối cao bao trùm hết thảy

thuộc về giáo hội.

Đứng trên lập trường duy thực ôn hoà, Tômát Đacanh giải quyết vấn đề bản

chất của cái chung. Ông cho rằng cái chung tồn tại trên ba phương diện:

Thứ nhất, cái chung tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của Chúa Trời như là hình

mẫu của sự vật riêng lẻ.

Thứ hai, cái chung tồn tại trong các sự vật riêng lẻ.

Thứ ba, cái chung được tạo ra bằng con đường trừu tượng hoá của trí tuệ con

người từ các sự vật riêng lẻ.

Về lý luận nhận thức, Tômát Đacanh cho rằng nhận thức diễn ra trong chủ thể

nhờ tiếp thu ở khách thể những gì giống với chủ thể, chứ không phải mọi tồn tại của

khách thể đều được tiếp thu; đó là hình ảnh của sự vật, chứ không phải bản thân sự

vật. Ông đã chia "hình dạng" thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính, trong đó

hình dạng lý tính cao hơn hình dạng cảm tính. Bởi vì, nhờ nó ta mới biết được cái

chung chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt, còn hình dạng cảm tính cũng có vai trò

quan trọng, bởi vì nhờ nó cảm giác trở nên cảm thụ tích cực.

Như vậy, lý luận nhận thức của Tômát Đacanh áp dụng học thuyết về "hình dạng" của

Arixtốt, nhưng loại bỏ cái sinh khí, cái sống động, sự tìm tòi chân lý trong học thuyết

của Arixtot; là một bước tiến trong triết học kinh viện Trung cổ.

Là đại biểu của phái duy thực trong giai đoạn hưng thịnh của phái duy thực

trong giai đoạn hưng thịnh của chủ nghĩa kinh viện. Học thuyết của ông được thừa

nhận là triết học chính thức duy nhất của Giáo hội Thiên chúa.

I.2.3.f. Đơn Xcốt (1265 – 1308)

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 18

Ông là một trong những nhà kinh viện, nhà duy danh luận lớn nhất thế kỉ

XIII. Ông sinh trưởng ở Anh, tốt nghiệp và là giáo sư của trường đại học Ôcxpho.

Về mặt triết học, cũng như các nhà tư tưởng khác thời trung cổ, Đơn Xcốt coi

vấn đề mối quan hệ giữa triết học và thần học là vấn đề chủ yếu. Theo ông, đối tượng

của thần học là nghiên cứu Thượng đế, còn đối tượng của triết học (siêu hình học) là

tồn tại (hiện thực khách quan- vật chất, giới tự nhiên). Về quan hệ giữa lý trí và lòng

tin tôn giáo thì ông đề cao vai trò của lòng tin hơn lý trí.

Về vấn đề tồn tại của Thượng đế, Đơn Xcốt đã giải quyết từ lập trường thần

học. Theo ông, vì thượng đế là một tồn tại bất tận, cho nên chứng minh về sự tồn tại

của thượng đế có nghĩa là chứng minh rằng “cái tồn tại bất tận” đó là có.

Trong học thuyết triết học của mình, ông cho rằng ngoài Thượng đế là hình

thức thuần túy phi vật chất ra thì mọi thực thể còn lại (kể cả tinh thần và thiên thần)

đều là vật chất hoặc bao gồm cả hình thức và vật chất. Song về căn bản, triết học của

ông vẫn là duy tâm, chưa phải duy vật. Là một nhà duy danh luận, trong học thuyết

của mình, Đơn Xcốt cũng nghiên cứu vấn đề cái chung. Ông cho rằng cái chung

không chỉ là sản phẩm của lý trí, nó là cơ sở trong bản thân các sự vật. Trong lĩnh vực

nhận thức luận, ông đã đề cập vấn đề vai trò của yếu tố tinh thần, của lý trí và ý chí.

Về vai trò của lý trí và ý chí, ông đã chó rằng thống trị mọi dạng hoạt động của con

người không phải là lý trí mà là ý chí. Ý chí cao hơn lý trí, và hơn nữa ở Thượng đế

thì ý chí trở thành tự do.

Về vấn đề quan hệ giữa lý trí và lòng tin ông cho rằng lý trí và lòng tin, tri thức

và thần học là không thể và không nên dung hòa, vị trí hàng đầu phải thuộc về lòng tin

còn lý trí đóng vai trò phụ thuộc.

I.2.3.g. Guyôm Ốccam (1300 – 1350)

Là nhà văn, nhà chính tri nổi tiếng thời đại mình, nhà thần học và triết học kinh

viện Anh, nhà tư tưởng của giai cấp phong kiến thế tục trong cuộc đấu tranh chống

Giáo hoàng.

Gắn với các hoạt động có tính chất chính trị chống Gíao hoàng, bảo vệ nhà

nước phong kiến thế tục là hoạt động triết học của Ôccam. Triết học của ông đã chống

đối kịch liệt hệ tư tưởng chính thống (hệ tư tưởng Đạo Thiên Chúa ). Trong vấn đề

trung tâm của triết học trung cổ - vấn đề mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, giữa linh

cảm và tri thức, Ốccam đã làm sâu sắc thêm những quan điểm của Đơn Xcốt.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 19

Tuy là người bảo vệ nhiệt tâm lòng tin tôn giáo như mọi nhà triết học khác ở

thời đại phong kiến, nhưng ở Ốccam chúng ta cũng thấy rõ sự tan vỡ của chính cơ sở

triết học kinh viện và sự mất tác dụng của nó. Bởi vì, cái trục của triết học Ốccam là

chủ nghĩa duy danh có khuynh hướng duy vật.

Là một nhà duy danh luận, Ốccam cho rằng chỉ có những sự vật riêng lẻ, đơn

nhất là tốn tại thực. Khái niêm, danh từ theo Ốccam chỉ là những kí hiệu của sự vật.

Trong lý luận nhận thức của mình, Ốccam cũng chia nhận thức làm 2 loại:

nhận thức trực giác (ông hiểu là nhận thức kinh nghiệm) và nhận thức trừu tượng.

Nhận thức trực giác được ông đặt cao hơn nhận thức trừu tượng, nó bao gồm cảm tính

và sự tự quan sát.

Trong lý thuyết đạo đức Ốccam cũng phát triển quan điểm của Đơn Xcốt. Ông

phủ nhận sự khác nhau tuyệt đối giữa điều thiện và điều ác. Vì theo ông ý chí của

Thượng đế có thể biến hành vi tội lỗi của con người thành hành vi tốt.

I.2.4. Nhận định chung

Trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lòng tin và lý trí, có nhà triết học đề cao

vai trò của lý trí: Lòng tin phải lấy lý trí làm cơ sở. Bởi vì, nguyên lý xuất phát là

"hiểu để mà tin", và lý trí cho ta những phương tiện chính xác để vạch ra toàn bộ nội

dung của chân lý tôn giáo và câu trả lời đúng đắn về một tín điều tôn giáo nào đó là

xác đáng hay không xác đáng. Nhiệm vụ của sự tìm kiếm triết học là vạch ra và lập

luận chân lý, bởi lẽ "sự linh cảm" không thể là tiêu chuẩn cho tính chân lý của các

thành quả của lý trí, trái lại lý trí mới bảo đảm cho những điều linh cảm. Như vậy, triết

học thời kì này ở mức độ nhất định đã báo hiệu sự xuất hiện một khoa học thực

nghiệm của giai đoạn mới, phần nào xa lìa tín điều chính thống của nhà thờ.

Nhìn chung, chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống của xã hội phong kiến

Tây Âu thời Trung cổ. Đặc điểm chủ yếu nhất của khuynh hướng này là: phục tùng

thần học, theo chủ nghĩa duy tâm, phương pháp suy luận hình thức chết cứng, chủ

nghĩa tín ngưỡng đối lập với tư tưởng khoa học... Mục đích cao nhất của chủ nghĩa

kinh viện là phục vụ tôn giáo và nhà thờ, do đó đã xuyên tạc học thuyết của các nhà

triết học tiến bộ thời cổ đại, đặc biệt là triết học của Arixtốt.

Trong sự thống trị khắc nghiệt của tôn giáo và thần học, thời kỳ này cũng xuất

hiện cuộc đấu tranh của các xu hướng duy vật trong triết học và trong các phong trào

"tà giáo" chống chủ nghĩa ngu dân của nhà thờ. Các trào lưu tự nhiên bằng thực

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 20

nghiệm xuất hiện, sự giải phóng khoa học tự nhiên thoát khỏi ách thống trị của thần

học bắt đầu. Tất cả những cái đó đã chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và

và triết học trong thời đại Phục hưng.

I.3. TRIẾT HỌC TÂY ÂU PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI

I.3.1 Đặc điểm kinh tế - xã hội, khoa học và văn hoá

Khi bóng đêm của đêm trường Trung cổ bị những ánh sáng bình minh của nền

văn minh công nghiệp chiếu rọi thì Tây Âu đã có những bước chuyển dữ dội, chuyển

sang thời kỳ phục hưng, thời đại phục sinh những giá trị của nền văn hoá cổ đại Hy La

đã bị lãng quên trong nền chuyên chế phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Châu Âu.

Xét về bản chất kinh tế, thời kỳ phục hưng là giai đoạn quá độ của PTSX

TBCN. Đây là thời kỳ tích luỹ tư bản đầu tiên được mở rộng. Người nông dân bị đuổi

ra khỏi ruộng đất của họ, bạo lực của kẻ cường quyền đã tách người lao động ra khỏi

tư liệu sản xuất. Các công trường thủ công dần dần át cách làm ăn kiểu phường hội

phong kiến. Các chủ thủ công nghiệp ngày càng có vị trí và vai trò quan trọng trong

nền kinh tế, họ trở thành giai tầng mới nắm giữ sức mạnh kinh tế - giai cấp tư sản;

trong khi người nông dân do không còn ruộng đất phải ra thành phố kiếm kế sinh nhai

bằng cách làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ là tiền thân của giai cấp vô

sản sau này.

Chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và các đạo luật hà khắc của nó đã

bước vào giai đoạn lụi tàn. Phong trào chống phong kiến của nông dân, thợ thủ công

trào dâng khắp Châu Âu. Giai cấp tư sản trở thành kẻ đồng minh. Người ta không chỉ

đòi xoá bỏ đặc quyền, đặc lợi của giai cấp phong kiến, những chướng ngại trên con

đường phát triển theo xu hướng TBCN mà còn chĩa mũi nhọn vào giáo hội La Mã,

thành luỹ tinh thần của chế độ phong kiến. Đặc điểm của phong trào đã ảnh hưởng

đến toàn bộ cuộc đấu tranh tư tưởng lúc bấy giờ, bao gồm cả sự phát triển của triết

học. Thế giới quan của giai cấp tư sản thể hiện dưới hình thức duy vật và vô thần này

càng rõ nét.

Do đòi hỏi của thực tiễn sản xuất vật chất, các ngành khoa học tự nhiên bắt đầu

phát triển và đây cũng là thời kỳ gặt hái bội thu về các thành tựu khoa học kỹ thuật

như sử dụng năng lượng nước, dệt, khai mỏ, luyện kim, chế tạo vũ khí, in ấn, hàng

hải… Chẳng hạn với việc sử dụng năng lượng nước đã cho phép thay thế dần sức

người và sức súc vật trong sản xuất.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 21

Chính sự phát triển của khoa học tự nhiên và kỹ thuật đã trở thành chỗ dựa

vững chắc cho giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống thần học và chủ nghĩa duy

tâm.

Về mặt văn hoá, những tư tưởng triết học, những phát kiến khoa học của thời

cổ đại được khôi phục và phát triển. Các nhà tư tưởng tiên tiến của thời đại phục hưng

đặc biệt dương cao ngọn cờ nhân văn. Họ xem con người là đối tượng nghiên cứu của

triết học, những tư tưởng tốt đẹp về con người của Protagore, Socrates…trở thành tiền

đề lý luận cho ước mơ giải phóng con người. Các giá trị toán học của Talet, hình học

của Euclide, những yếu tố duy vật trong triết học của Epicure,..cũng dược xem xét và

ghi nhận thoả đáng.

Khác với thời phục hưng, thời cận đại (thế kỷ XVII - XVIII) ở các nước Tây

Âu là thời kỳ giai cấp tư sản đã dành được chính quyền, PTSX TBCN được xác lập và

trở thành PTSX thống trị, nó đã tạo ra những vận hội mới cho khoa học, kĩ thuật phát

triển mà trước hết là khoa hoc tự nhiên, trong đó cơ học đã đạt được trình độ là cơ sở

cổ điển. Khoa học tự nhiên thời kỳ này mang đặc trưng là khoa học tự nhiên - thực

nghiệm. Đặc trưng ấy tất yếu dẫn tới “thói quen” nhìn nhận đối tượng nhận thức trong

sự trừu tượng, tách rời, không vận động, không phát triển, nếu có đề cập đến vận động

thì là sự vận động máy móc không phát triển.

I.3.2 Những đặc điểm, nội dung chính:

Triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng

- Triết học thời kỳ này là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh

chống phong kiến và giáo hội.

- Tư tưởng của các nhà triết học phục hưng có tính hai mặt: vừa có những tiến

bộ nhưng còn chứa nhiều yếu tố duy tâm, luẩn quẩn với hình thức “phiếm thần luận”

hay “tự nhiên thần luận”.

- Triết học thời kỳ này gắn liền với vấn đề nâng cao giá trị khát vọng giải

phóng con người.

- Triết học thời kỳ này là những tư tưởng xã hội học thấm nhuần chủ nghĩa

nhân văn.

Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại

- Đây là thời kỳ thắng lợi của CNDV đối với CNDT, của những tư tưởng vô

thần đối với hữu thần.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 22

- CNDV thời kỳ này mang hình thức của CNDV siêu hình, máy móc. Phương

pháp siêu hình thống trị, phổ biến trong lĩnh vực tư duy triết học và khoa học.

- Đây là thời kỳ xuất hiện những quan điểm triết học tiến bộ về lĩnh vực xã hội,

nhưng nhìn chung vẫn chưa thoát khỏi quan điểm duy tâm trong việc giải thích xã hội

và lịch sử.

I.3.3 Các triết gia tiêu biểu

I.3.3. a. Francis Bacon (1561-1626)

Là nhà triết học duy vật kiệt xuất của nước Anh. Mác đánh giá Bacơn là “ông

tổ thực sự của chủ nghĩa duy vật Anh và của khoa học thực nghiệm hiện đại”.

Các tác phẩm chính:

- Khái lược về đạo đức và chính trị

- Đại phục hồi các khoa học

- Công cụ mới

- Lịch sử sự sống và cái chết

Bacơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất. Khoa học không

biết một cái gì khác ngoài thế giới vật chất, ngoài giới tự nhiên. Ông cho rằng con

người cần phải thống trị, phải làm chủ giới tự nhiên. Điều đó có thực hiện được không

hoàn toàn phụ thuộc vào sự hiểu biết của con người. Bacơn cho rằng tri thức là sức

mạnh, sức mạnh là tri thức. Do đó cần có một khoa học mới lấy giới tự nhiên làm đối

tượng nghiên cứu nhằm biến tự nhiên thành “giang sơn” của con người.

Bacơn phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện vì nó xa rời cuộc sống, chỉ dựa

vào những lập luận tuỳ tiện không có nội dung và chẳng đem lại lợi ích gì cho con

người. Theo Bacơn, triết học phải giúp con người trở nên mạnh hơn. Nhiệm vụ của

triết học là nhận thức giới tự nhiên và các mối liên hệ phức tạp của nó.

Về nhận thức luận và phương pháp luận.

Một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt ở thời cận đại đó là vấn đề

nhận thức luận và phương pháp luận. Bacơn đã dành một vị trí thích đáng để bàn về

những nội dung này.

Trước hết để nhận thức đúng bản chất của sự vật thì phải chỉ ra khả năng và

giới hạn nhạn thức của con người. Một trong những ảnh hưởng đến quá trình nhận

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 23

thức chân lý, theo Bacơn đó là những sai lầm vốn có trong tư duy, do sai lầm trong lý

tính mang lại.

Những sai lầm do lý tính tạo ra, Bacơn gọi là những IDOLA (ảo tưởng, ảo ảnh

- theo tiếng Hy Lạp cổ Idola là những hình ảnh bị phản ánh một cách lệch lạc). Ý

nghĩa tích cực của những ảo ảnh là ở chỗ không chỉ chống lại các suy luận vô căn cứ

của thần học, kinh viện mà còn đặt cơ sở xã hội cho quá trình nhận thức. Đó là tôn

trọng khách quan, phê phán và không giáo điều. Một ý nghĩa không chỉ thuộc về thời

Cận đại mà cho tất cả các thời đại. Ý nghĩa đã trở thành nguyên tắc của nhận thức.

Về phương pháp luận, theo Bacơn cần phải rà soát những phương pháp trước

đây để từ đó kế thừa và triển khai phương pháp mới.

Ông cho rằng từ trước đến nay con người chủ yếu sử dụng hai phương pháp là

phương pháp con nhện và phương pháp con kiến. Cả hai phương pháp này đều bộc lộ

hạn chế, vì vậy ông đề xuất phương pháp con ong. “Con ong chọn phương thức hành

động trung gian, nó khai thác vật liệu từ hoa ngoài vườn và ruộng đồng nhưng sử

dụng và biến đổi nó phù hợp với khả năng và chỉ định của mình. Công việc đích thực

của triết học cũng không khác gì công việc đó”.

Về vai trò của phương pháp, Bacơn cho rằng “người què chạy đúng hướng sẽ

nhanh hơn kẻ lành chạy sai đường” hoặc “phương pháp giống như ngọn đèn soi

đường cho lữ khách trong đêm đông”.

Ông đề xuất phương pháp quy nạp. Theo ông đó là phương pháp tối ưu để nhận

thức, khám phá những bí mật của đối tượng nhận thức. Bản chất của phương pháp này

là xuất phát từ những sự kiện riêng biệt sau đó tiến dần lên những nguyên lý phổ biến,

khẳng định bản chất của sự vật.

Triết học Bacơn là triết học duy vật không triệt để khi ông không dám công

khai xung đột với tôn giáo. Điều này thể hiện tính thoả hiệp trong triết học của ông.

Mặc dù vậy, triết học duy vật của Bacơn đã có tác dụng tích cực đối với sự phát triển

của khoa học, nó giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của nhà thờ và giáo hội.

I.3.3. b. Renne Descartes (1596-1650)

Cũng như Bacơn, Đêcáctơ đã chú ý đến nghiên cứu phương pháp nhận thức

khoa học để tạo nên khả năng đi sâu vào nghiên cứu những bí mật của giới tự nhiên.

Ông tin tưởng rằng, với phương pháp mới có thể đạt đươc những tri thức có ích cho

cuộc sống. Triết học của ông có tính chất nhị nguyên. Ông cho rằng, hai thực thể tinh

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 24

thần và vật chất tồn tại độc lập với nhau, nhưng cả hai thực thể này đều phục tùng

nguyên thể thứ ba – nguyên thể tối cao là thần linh. Nhị nguyên luận của Đêcáctơ biểu

hiện tính chất thoả hiệp của hệ tư tưởng tư sản.

Gạt bỏ những đạo lý kinh viện của tôn giáo, Đêcáctơ đưa lý trí lên vị trí hàng

đầu trong lý luận về nhận thức. Gống như Bacơn, ông cho rằng nhiệm vụ của thí

nghiệm không phải là phát minh ra các quy luật của tự nhiên mà là khẳng định những

tri thức, những quy luật mà lý trí phát hiện ra. Nếu Bacơn cho rằng điều kiện cần thiết

đầu tiên để xây dựng một khoa học chân chính về khoa học tự nhiên là tẩy rửa được

mọi ảo tưởng, thì Đêcáctơ thừa nhận rằng sự nghi ngờ là điểm xuất phát của phương

pháp khoa học. Ông nhấn mạnh rằng, dù anh nghi ngờ mọi cái nhưng không thể nghi

ngờ rằng anh nghi ngờ. Đêcáctơ nói: Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại, và ông cho đó là

nguyên lý cơ bản bất di bất dịch. Ý nghĩa tiến bộ của nguyên lý trên là ở chỗ nó đề cao

vai trò của lý trí, phủ nhận một cách tuyệt đối những gì mà người ta mê tín. Nhưng

nguyên lý ấy lại thể hiện tính chất duy tâm, vì Đecáctơ đã không nhìn thấy rằng không

thể đi tìm tiền đề xuất phát của nhận thức ở ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản

thân đời sống thực tiễn xã hội.

Đêcáctơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý của Đêcáctơ ở

một mức độ khá lớn có liên hệ với chủ nghĩa duy tâm, vì ông cho rằng trong lý trí của

c người có “những tư tưởng bẩm sinh”, độc lâp với kinh nghiệm. Ông đã thừa nhận

một cách sai lầm rằng, những nguyên tắc cơ bản của logic học và toán học là những

cái “bẩm sinh”, không phụ thuộc vào kinh nghiệm.

Trong học thuyết về tự nhiên, Đêcáctơ là một nhà duy vật, ông coi vật chất là

một thực thể duy nhất, là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận thức. Quảng tính là thuộc

tính cơ bản của vật chất, nhưng ông lại đi đến đồng nhát vật chất với quảng tính, và

ngược lại, ở đâu không có quảng tính thì không có vật chất. Vật chất choán đầy vũ trụ,

không có không gian trống rỗng. Đêcátơ thừa nhận tính vĩnh cửu của vật chất. Vạn

động cơ học được ông xem như là một biểu hiện sức sống của vật chất. Vận động

được chuyển từ vật này đến vật khác và không bao giờ bị tiêu diệt. Luận điểm của

Đêcáctơ về tính không bị tiêu diẹt của vận động được Ph.Ăngnhen đánh giá như một

thành tựu khoa học vĩ đại.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 25

Đêcáctơ thừa nhận sự xuất hiện của thế giới thực vật và động vật trong quá

trình vận động. Nhưng ông chưa thấy sự khác nhau vè chất giữa thế giới sinh vật, coi

cơ thể sống là một cỗ máy phức tạp.

I.4. TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC

I.4.1. Điều kiện kinh tế - xã hội

Khái niệm “triết học cổ điển Đức” dùng để chỉ triết học của nước Đức ở nửa

cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, được mở đầu từ hệ thống triết học của

I.Cantơ, trải qua Phíchtơ, Senlinh đến triết học duy tâm khách quan của Hêghen và

triết học duy vật nhân bản của Phoiơbắc.

Chỉ trong một thời kỳ lịch sử khoảng một thế kỷ, triết học cỏ điển Đức đã tạo

những tiền đề lý luận hết sức quan trọng cho sự ra đời của triết học Mác vào giữa thế

kỷ XIX.

Triết học cổ điển Đức ra đời trong một điều kiện lich sử hết sức đặc biệt. Nước

Đức vào cuối XVIII đầu XIX vẫn còn là một quốc gia phong kiến điển hình với 360

quốc gia tự lập trong Liên bang Đức hết sức lạc hậu về kinh tế và chính trị. Trong khi

đó, ở nước Anh cuộc cách mạng công nghiệp,ở nước Pháp cuộc cách mạng tư sản đã

nổ ra làm rung chuyển Châu Âu, đưa châu Âu bước vào nền văn minh công nghiệp.

Chính thực tại đau buồn của nước Đức và tấm gương của các nước Tây Âu đã

thức tỉnh tinh thần phản kháng của giai cấp tư sản Đức. Nhưng giai cấp này sống rải

rác ở những vương quốc nhỏ tách rời nhau, nhỏ bé về số lượng, yếu kém về kinh tế và

chính trị, nên họ vừa muốn làm cách mạng, lại vừa muốn thoả hiệp với tầng lớp phong

kiến quý tộc Phổ đang thống trị thời đó, giữ lập trường cải lương trong việc giải quyết

những vấn đề phát triển của đất nước.. Chính điều này đã quy định nét đặc thù của

triết học cổ điển Đức: Nội dung cách mạng dưới một hình thức duy tâm, bảo thủ,; đề

cao vai trò tích cực của tư duy con người, coi con người là một thực thể hoạt động, là

nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học.

Trên một ý nghĩa nhất định, triết học cổ điển Đức không chỉ là sự phản ánh

những điều kiện kinh tế - chính trị và xã hội nước Đức mà còn của cả các nước Châu

Âu lúc đó.

I.4.2. Đặc điểm Triết học cổ điển Đức

- Triết học cổ điển Đức chứa đựng một nội dung cách mạng nhưng hình thức của

nó cực kỳ “rối rắm”, bảo thủ. Đặc điểm này thể hiện rõ nét nhất trong triết học của

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 26

Cantơ và Hêghen.

- Đề cao vai trò tích cực của hoạt động con người, coi con người là một thực thể

hoạt động, là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Con người là chủ

thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của chính mình; tư duy và ý thức của

của con người chỉ có thể phát triển trong quá trình con người nhận thức và cải tạo thế

giới.

- Tiếp thu tư tưởng biện chứng trong triết học cổ đại, triết học Đức xây dựng

phép biện chứng trở thành phương pháp luận triết học độc lập với phương pháp tư duy

siêu hình trong lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Giả thuyết hình

thành vũ trụ của Cantơ; việc phát hiện ra những quy luật và phạm trù của Hêghen đã

làm cho phép biện chứng trở thành một khoa học thực sự mang ý nghĩa cách mạng

trong triết học. Đây là một đặc điểm nổi bật của triết học cổ điển Đức.

- Với cách nhìn bao quát, biện chứng, nhiều nhà triết học Đức có tham vọng xây

dựng một hệ thống triết học vạn năng không những làm nền tảng cho thế giới quan

của con người mà còn trở thành một thứ khoa học của các khoa học. Do vậy, trong

học thuyết triết học của Cantơ, Duyrinh, Hêghen thường bàn đến nhiều vấn đề như:

khoa học tự nhiên, pháp quyền, lịch sử, luân lý, mỹ học.

I.4.3. Các triết gia tiêu biểu

I.4.3. a. Cantơ (1724 - 1804)

Nét nổi bật trong triết học của Cantơ là những quan niệm biện chứng về giới tự

nhiên. Trong tác phẩm Lịch sử phổ thông và lý thuyết bầu trời, ông đã nêu giả thuyết

có giá trị về sự hình thành vuc trụ bằng cơn lốc và kết tụ của các khối tinh vân. Cantơ

cũng đưa ra một luận đề sau này được khoa học chứng minh về ảnh hưởng lên xuống

của thuỷ triều do lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng gây ra đã ảnh hưởng tới trái

đất, làm cho vòng xoáy của trái đất quanh trục của nó mỗi ngày một chậm lại.

Ăngghen đã đánh giá những phỏng đoán của Cantơ là sự công phá vào quan điểm siêu

hình (kể cả trong triết học và khoa học).

Triết học của Cantơ là triết học nhị nguyên. Ông thừa nhận sự tồn tại của thế

giới các “vật tự nó” ở bên ngoài con người, thế giới đó có thể tác động tới các giác

quan của chúng ta. Ở điểm này, Cantơ là nhà duy vật. Mặt khác, ông lại cho rằng thế

giới các vật thể quanh ta mà ta thấy được lại không liên quan gì đến cái gọi là “thế

giới vật tự nó”, chúng chỉ là các “hiện tượng…phù hợp với cái cảm giác và tri thức do

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 27

lý tính của ta tạo ra. Nhưng các cảm giác và tri thức không cung cấp cho hiểu biết gì

về “thế giới vật tự nó”. Nói cách khác, theo Cantơ nhận thức con người không chỉ biết

được hiện tượng bề ngoài mà không xâm nhập vào được bản chất đích thực của sự

vật, không phán xét gì được sự vật như chúng tự thân tồn tại. Như vậy, trong lĩnh vực

nhận thức luận, Cantơ là người theo thuyết “không thể biết” (tất nhiên là khác với

Hium). Nhận thức luận của Cantơ có tính chất duy tâm thể hiện ở sự phản ứng của

ông với chủ nghĩa duy vật Pháp và sự khôi phục lại Thượng đế. Ông nói rằng trong

nhận thức cần hạn chế phạm vi của lý tính để dành cho đức tin.

Tính chất duy tâm trong triết học của Cantơ không nhất quán, đầy mâu thuẫn.

Lênin nhận xét: “Đặc trưng chủ yếu của triết học Cantơ là ở chỗ nó dung hoà chủ

nghĩa duy ý chí với chủ nghĩa duy tâm, thiết lập sự thoả hiêp giữa hai chủ nghĩa đó kết

hợp hai khuynh hướng triết học khác nhau và đối lâp trong một hệ thống triết học duy

nhất. Khi Cantơ thừa nhận rằng một cái gì đó ở ngoài chúng ta thì Cantơ là người duy

vật. Khi ông tuyên bố rằng cái vật tự nó ấy không thể nhận thức được là siêu nghiệm,

là ở thế giới bên kia thì ông ta là người duy tâm”.

C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đánh giá cao những công trình của Cantơ về

khoa học tự nhiên, về những vấn đề phép biện chứng, nhưng đã bác bỏ thuyết không

thể biết và nghiêm khắc phê phán những quan niệm duy tâm của Cantơ về không gian

và thời gian, về các phạm trù bởi vì, Cantơ coi phạm trù chỉ là hình thức tiên thiên của

lý tính con người.

I.4.3. b. Hêghen (1770 - 1831)

Là nhà biện chứng, đồng thời là nhà triết học duy tâm khách quan. Triết học

của ông đầy mâu thuẫn. Nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân hợp lý,

chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển, thì hệ thống triết học duy tâm của ông

phủ nhận tính chất khách quan của những nguyên nhân bên trong vốn có của sự phát

triển của tự nhên và xã hội. Ông cho rằng, khởi nguyên của thế giới không phải là vật

chất mà là “ý niệm tuyệt đối” hay “tinh thần thế giới”. Tính phong phú, đa dạng của

thế giới hiện thực là kết quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Ý niệm

tuyệt đối tồn tại vĩnh viễn. “Ý niệm tuyệt đối” theo nhận xét của Lênin chỉ là một cách

nói theo đường vòng, một cách khác nói về Thượng đế mà thối. Cho nên triết học của

Hêghen là sự biện hộ cho tôn giáo.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 28

Hêghen dã có công trong việc phê phán tư duy siêu hình và ông là người đầu

tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên, lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa

là trong sự vận động và biến đổi không ngừng. Đồng thời trong khuôn khổ của hệ

thống triết học duy tâm của mình, Hêghen không chỉ trình bày các phạm trù như chất,

lượng, phủ định, mâu thuẫn,… mà còn nói đến các quy luật “lượng đổi dẫn đến chất

đổỉ và ngược lại”, “phủ dịnh của phủ định” và “quy luật mâu thuẫn”. Nhưng tất cả cái

đó chỉ là quy luật vận động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối.

Trong hệ thống triết học của Hêgen, không phải ý thức, tư tưởng phát triển trong sự

phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên và xã hội, mà ngược lại, tự nhiên phụ thuộc

vào sự phát triển của ý niệm tuyệt đối.Ý niệm tuyệt đối, tinh thần thế giới là tính thứ

nhất, giới tự nhiên là tính thứ hai do tinh thần thế giới và ý niệm tuyệt đối quyết định.

Nó là một sự “tồn tại khác” của tinh thần, sau khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” ấy,

ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn

cao nhất, giai đoạn tột cùng, được Hêghen gọi là tinh thần tuyệt đối.

Tóm lại, Hêghen là nhà triết học biện chưng duy tâm khách quan. Là nhà triết

học duy tâm khách quan, Hêghen cho rằng “ý niệm tuyệt đối” là cái có trước vật chất,

tồn tại vĩnh viễn không phụ thuộc vào con người, tạo ra hiện thực khách quan. Giới tự

nhiên chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm tuyệt đối” Tính đa dạng của thực tiễn được

ông xem như là kết quả tác động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối. Là nhà biện chứng,

ông đã có công nêu ra những phạm trù, quy luật cơ bản của phép biện chứng. Nhưng

phép biện chứng của Hêghen là phép biện chứng duy tâm, vì vậy Mác gọi đó là phép

biện chứng lộn ngược đầu xuống đất, vì đó cũng chỉ là quy luật của sự phát triển của

“ý niệm tuyệt đối” mà thôi. Mặc dù vậy, ông vẫn là người đầu tiên trình bày toàn bộ

giới tự nhiên và lịch sử dưới dạng một quá trình không ngừng vận động và biến đổi,

phát triển và cố gắng vạch ra mối liên hệ bên trong của sự vận động và phát triển ấy.

K. Marxvà Ăng ghen đã phê phán một cách triệt để tính chất phản khoa học và

thần bí của “ý niệm tuyệt đối” trong triết học Hêghen; đồng thời hai ông đánh giá cao

và tiếp thu “hạt nhân hợp lý” trong phép biện chứng của Hêghen để xây dựng và phát

triển học thuyết về phép biện chứng duy vật của mình.

I.4.3. c. Lutvich Phoiơbăc (1804 -1872)

Là một trong những nhà triết học duy vật lớn nhất thời kỳ trước C.Mác. Công

lao vĩ đại của Phoiơbăc là ở chỗ trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghiã duy tâm và

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 29

thần học, ông đã khôi phục lại địa vị xứng đáng của triết học duy vật; đã giáng một

đòn rất nặng vào triết học duy tâm của Hêghen và chủ nghĩa duy tâm nói chung.

Phoiơbắc chứng minh rằng, thế giới vật chất, giới tự nhiên không do ai sáng tạo

ra, nó tồn tại độc lập với ý thức con người và không phụ thuộc vào bất cứ thứ triết học

nào. Do đó cơ sở tồn tại của giới tự nhiên nằm ngay trong giới tự nhiên. Chống lại hệ

thống duy tâm của Hêghen - hệ thống coi giới tự nhiên là sự tồn tại khác của tinh thần.

Phoiơbắc chỉ ra rằng triết học mới này phải có tính chất nhân bản, phải kết hợp với

khoa học tự nhiên.

Nguyên lý nhân bản của triết học Phoiơbắc là xoá bỏ sự tách rời giữa tinh thần

và thể xác do triết học duy tâm và triết học nhị nguyên tao ra. Mặt tích cực trong triết

học nhân bản của Phoiơbắc còn ở chỗ ông đấu tranh chống các quan niệm tôn giáo

chính thống của đạo thiên chúa, đặc biệt là quan niệm về Thượng đế. Trái với các

quan niệm tôn giáo và thần học cho rằng Thượng đế tạo ra con người, ông khẳng định

chính con người tạo ra Thượng đế. Khác với Hêghen nói về sự tha hoá của ý niệm

tuyệt đối. Phoiơbắc nói về sự tha hoá của bản chất con người vào Thượng đế. Ông lập

luận rằng bản chất tự nhiên của con người là muốn hướng tới cái chân, cái thiện nghĩa

là hướng tới cái gì đẹp nhất trong một hình tượng đẹp nhất về con người, nhưng trong

thực tế những cái đó co người không đạt được nên đã gửi gắm tất cả ước muốn của

mình vào hình tượng Thượng đế; từ đó ông phủ nhận mọi thứ tôn giáo và thần học về

một vị Thượng đế siêu nhiên đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống

con người.

Tuy nhiên, triết học nhân bản của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Khi

ông đòi hỏi triết học mới - triết học nhân bản - phải gắn liền với tự nhiên thì đồng thời

đã đứng luôn trên lập trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc

về con người và xã hội.

Công lao to lớn của Phoiơbắc còn ở chỗ, ông không chỉ đấu tranh chống chủ

nghĩa duy tâm mà còn đấu tranh chống lại những người duy vật tầm thường. Ông đã

có quan niệm đúng đắn là, không thể quy các hiện tượng tâm lý về các quá trình lý –

hoá; công nhận con người có khả năng nhận thức được thế giới. Ông đã kịch liệt phê

phán những người theo chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. Trong sự phát

triển lý luận nhận thức duy vât, Phoiơbắc đã biết dựa vào thực tiễn là tổng hợp những

yêu cầu về tinh thần, về sinh lý mà chưa nhận thức được nội dung cơ bản của thực tiễn

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 30

là hoạt động vật chất của con người, là lao động sản xuất vật chất, đấu tranh giai cấp

và hoạt động thực tiễn của nó là cơ sở của nhận thức cảm tính và lý tính.

Như vậy, Phoiơbắc đã có những đóng góp xuất sắc vào lịch sử đấu tranh của

chủ nghĩa duy vật chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo. Ông đã vạch ra mối liên

hệ giữa chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, chỉ ra sự cần thiết phải đấu trnah loại bỏ tôn

giáo hữu thần, coi đó là sự tha hoá bản chất của con người. Ông đã có công khôi phục

và phát triển chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII, XVIII.

Tuy nhiên trong lúc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của triết học Hêghen,

Phoiơbắc lại vứt bỏ luôn phép biện chứng của Hêghen. Cũng như các nhà triết học

giai đoạn trước Mác, Phoiơbăc rơi vào duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.

Mặc dù triết học của Phoiơbắc có những hạn chế, nhưng cuộc đấu tranh của

ông chống lại chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nói chung đã có ý nghĩa lịch sử to lớn. Vì

vậy, triết học của Phoiơbắc trở thành một trong những nguồn gốc lý luận của chủ

nghĩa Mác.

I.4.4. Nhận định chung

Triết học cổ điển Đức là một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn nhưng nó đã tạo

ra những thành quả kỳ diệu trong lịch sử triết học. Trước hết, nó đã từng bước khắc

phục những hạn chế siêu hình của triết học duy vật thế kỷ XVII, XVIII. Thành quả lớn

nhất của nó là những tư tưởng biện chứng đã đạt tới trình độ một hệ thống lý luận –

điều mà phép biện chứng cổ đại Hy Lạp đã chưa đạt tới và chủ nghĩa duy vật thế kỷ

XVII – XVIII cũng không có khả năng tạo ra.

Tuy nhiên hạn chế lớn nhất của triết học cổ điển Đức là tính chất duy tâm

khách quan của Hêghen, còn về chủ nghĩa duy vật của Phoiơbắc thì xét về thực chất

không vượt qua được trình độ chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII Tây Âu.

Những hạn chế và thành quả của triết học cổ điển Đức đã được triết học Mác

khắc phục, kế thừa và nâng lên một trình độ mới của chủ nghĩa duy vật hiện đại.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 31

CHƯƠNG II. TƯỞNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI TRONG TRIẾT HỌC

PHƯƠNG TÂY CỔ ĐẠI TỚI CẬN ĐẠI

II.1. Tư tưởng con người, xã hội trong Triết học Hy Lạp cổ đại

II.1.1 Tư tưởng con người

Triết học phương Tây nói chung nghiên cứu, tìm hiểu các vấn đề về con người

để làm tăng thêm sức mạnh cho con người nhằm chinh phục thế giới khách quan. Triết

học phương Tây đã tập trung nghiên cứu con người một cách khá toàn diện, mà đặc

biệt là đề cao con người, con “con người là trung tâm của vũ trụ”, là “thước đo của

vạn vật”; chú ý đến những phẩm chất tự nhiên và tự do của con người. Quan điểm về

con người trong triết học phương Tây thể hiện rõ nét qua các thời kỳ với hai khuynh

hướng duy vật và duy tâm rất rõ nét, đặc biệt là trong giai đoạn phát triển rực rỡ của

Triết học Hy Lạp cổ đại. Chúng ta có thể lược khảo các quan điểm về con người trong

triết học Hy Lạp cổ đại qua tư tưởng của các triết gia tiêu biểu sau đây.

Heraclit

Về nhân bản học. Heraclit quan điểm rằng con người là sự thống nhất cả hai mặt

đối lập ẩm ướt và lửa. Linh hồn của con người là biểu hiện của lửa. Lửa đưa con người

đến điều thiện, làm cho con người trở nên hoàn hảo, lửa là thôi thúc ở trong tim để ngăn

ngừa những cám dỗ vì chống lại khoái cảm còn khó hơn chống lại sự giận dữ.

Về mặt nhận thức. Theo ông, nhận thức khởi đầu từ cảm tính thông qua các

giác quan để con người nhận thức các sự vật cụ thể. Ông cũng nhận thấy vai trò không

giống nhau giữa các giác quan trong nhận thức “mắt và tai là người thầy tốt nhất

nhưng mắt tốt hơn tai”. Ông chia nhận thức thành hai cấp độ là nhận thức cảm tính và

nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính chỉ là sự tiếp cận với logos nhưng không chắc

chắn. Nhận thức lý tính là con đường đạt tới chân lý nên ông đề cao.

Đêmôcrit

Theo ông, con người là một loại động vật, nhưng về khả năng có thể học được

bất kỳ cái gì nhờ có tay chân, cảm giác và năng lực trí tuệ trợ giúp. Đêmôcrit đứng

trên lập trường vô thần phủ nhận thượng đế và thần linh; thần chỉ là sự nhân cách hóa

hiện tượng tự nhiên hay thuộc tính của con người. Theo ông, linh hồn không phải là

cái siêu vật chất, mà là cái bản nguyên bằng lửa trong cơ thể; nó cũng được cấu tạo từ

các nguyên tử hình cầu giống như lửa và có tốc độ vận động lớn hơn các nguyên tử

khác. Sự sống và con người không phải do thần thánh tạo ra mà là kết quả của quá

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 32

trình biến đổi của chính tự nhiên, được phát sinh từ những vật thể ẩm ướt dưới tác

động của nhiệt độ. Trong đó, nhận thức của người ta bắt nguồn từ cảm giác. Nhờ sự

vật tác động vào các giác quan mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có

nội dung chân thật, nhưng không đầy đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ

bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh

được mùi vị, âm thanh, mầu sắc, hình dáng của sự vật, mà không phản ánh được

nguyên tử và chân không.

Platon

Platon mô tả linh hồn được cấu thành từ ba yếu tố: lý trí, tinh thần và dục vọng.

Trước hết, có sự ý thức về một mục tiêu hay giá trị, đây là hành vi của lý trí. Kế đến

có một lực thúc đẩy hành động, đó là tinh thần, ban đầu mang tính trung lập, nhưng

rồi ngã theo đường của lý trí. Sau cùng, có ham muốn những điều về thân xác, đó là

dục vọng. Như ông đã minh họa hình ảnh này trong quyển Phaedrus là người đánh xe

có hai con ngựa kéo, bánh xe không thể đi đâu nếu không có hai con ngựa, vì vậy cả

ba phải liên kết với nhau và làm việc chung với nhau để đạt các mục tiêu chung. Cũng

thế đối với linh hồn con người, lý trí hoạt động cùng với tinh thần và dục vọng, và tác

động trên chúng. Lý trí phải điều khiển tinh thần và dục vọng.

Theo ông, ba yếu tố cấu thành linh hồn được phân làm hai phần: : lý tính và phi

lý tính. Phi lý tính gồm hai phần: tinh thần và dục vọng. Phần lý tính được tạo dựng

bởi tạo hóa – linh hồn của vũ trụ; phi lý tính được tạo dựng bởi các thần linh. Phần phi

lý tính là phần không hoàn hảo, nó kéo linh hồn rơi xuống nhập vào thân xác. Vì vậy,

linh hồn muốn tìm về chỗ cũ của nó, nó phải hướng thượng. Chính vì thế mà đạo đức

học của Platon là đi từ trên xuống mà mình phải bắt chước. Linh hồn có một bản chất

bất trị và xấu nơi những thành phần phi lý tính của nó, nguyên nhân của cái ác đã tồn

tại ngay từ tình trạng tiền hiện hữu của linh hồn.

Linh hồn là hoàn hảo theo bản tính. Khi linh hồn từ bỏ thế giới hình thức nhập

vào thân xác, nó đi từ thế giới cái một sang thế giới của cái nhiều. Linh hồn trôi dạt

giữa biển cả rối rắm của muôn vàn sự vật và chịu tác động của mọi thứ sai lạc do bản

chất lừa dối của các sự vật. Trong thân xác linh hồn cảm nghiệm cảm giác ham muốn,

lạc thú, đau đớn cũng như sợ hãi và tức giận. Linh hồn cũng cảm nhận được sự yêu

thích với một loạt những sự vật đa dạng từ miếng ăn đơn sơ nhất đến nếm cảm sự ngọt

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 33

ngào của tình yêu, chân lý, cái đẹp thuần túy và vĩnh cửu. Thân xác như một chướng

ngại vật khó chịu đối với linh hồn, tinh thần và dục vọng. Khi nhập vào thân xác, sự

hài hòa ban đầu của các phần khác nhau của linh hồn tiếp tục bị đảo lộn, trí thức trước

kia bị bỏ quên mà tính trì truệ của thân xác như là một chướng ngại vật khó chịu làm

cản trở sự phục hồi tri thức.

Vậy làm thế nào để phục hồi đạo đức đã mất? Platon cho rằng: Lý trí phải dành

lại quyền điều khiển các phần phi lý tính của bản ngã. Chỉ tri thức mới có khả năng

tạo ra đức hạnh, bởi vì chính sự ngu dốt hay tri thức sai lạc đã tạo ra cái ác. Trí thức

nằm sâu trong kí ức trí khôn. Những gì linh hồn biết trước kia bây giờ nhớ lại. Nó di

chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ mê muội sang hiểu biết. Phải có một tác nhân bên

ngoài giúp linh hồn thức tỉnh, bắt linh hồn đứng dậy, quay lại… và vươn tới ánh sáng.

Khi trí khôn đi từ mức độ thấp lên cao, nó dần nhớ lại những gì nó đã biết trước đây

và cần thiết phải biết để đạt sự hòa hợp nội tâm. Sự phát triển đạo đức song song với

tri thức của người ấy, vì sự tăng trưởng tri thức làm gia tăng tình yêu đối với chân,

thiện và mỹ (cái đẹp). Đức hạnh là tri thức, vì đó là hành trình đi tìm kiếm khôn ngoan

để biết hành động nào là đúng thật sự, tri thức đích thực về những hậu quả của mọi

hành vi, đức hạnh là sự hoàn thành một chức năng độc đáo.

Như thế, đức hạnh như sự hoàn thành chức năng. Đời sống tốt lành là đới sống

có sự hài hòa nội tâm, an lạc và hạnh phúc. Lý trí có một chức năng và chỉ tốt khi nó

hạnh động đúng. Dục vọng có chừng mực, không lấn lướt lý chí, quân bình trong lạc

thú và ước muốn sẽ dẫn tới đức hạnh tiết độ. Ý chí thuộc phần tinh thần của linh hồn,

giữ giới hạn và chừng mực, tránh hành động nông nỗi, trở thành sức mạnh đáng tin

cậy dẫn tới đức hạnh can đảm. Lý trí không để mình bị khuấy động bởi những dục

vọng dẫn tới đức hạnh khôn ngoan. Tiết độ là sự kiểm soát hợp lý các dục vọng. Can

đảm là sự sai khiến hợp lý của tinh thần. Mỗi phần hoàn thành chức năng chuyên biệt

của mình sẽ dẫn tới đực hạnh công bằng. Công bằng là đức hạnh tổng hợp, nó phản

ánh sự đạt tới an lạc hài hòa nội tâm của con người. Điều này chỉ đạt được khi mỗi

phần của linh hồn hoàn thành đúng chức năng của mình. Như vậy, công bằng là sự hài

hòa bên trong linh hồn giữa ba quan năng: lý trí, tinh thần và dục vọng. Công bằng là

tạo điều kiện cho con người hoàn thành chức năng của mình.

Arixtốt

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 34

Arixtốt cho rằng con người có phần linh hồn và phần thể xác, tựa như mỗi sự

vật đều được hình thành từ vật chất và hình thức. Ông phê phán Platon xem “thể xác

chỉ là nơi trú ngụ tạm thời của linh hồn bất tử ". Theo ông, linh hồn không có trong cơ

thể chết; không thể có linh hồn nếu không có vật chất. Nhưng ông lại chia linh hồn

làm 3 loại: linh hồn thực vật có hoạt động nuôi dưỡng và sinh sản; linh hồn động vật

có khả năng cảm ứng với môi trường xung quanh; linh hồn con người có hoạt động lý

tính, đây là loại linh hồn cao nhất. Trong con người có cả ba loại linh hồn nói trên.

Khi người ta chết, riêng linh hồn lý tính còn tồn tại bất diệt. Quan niệm về linh hồn

như trên chứng tỏ rằng Arixtốt là nhà triết học không triệt để, vừa phê phán Platon,

vừa kế thừa quan điểm duy tâm của Platon.

Lý luận về nhận thức của Arixtốt là đỉnh cao của sự phát triển các tư tưởng về

nhận thức luận thời cổ đại Hy Lạp. Ông đã đặt ra những vấn đề hệ trọng về nhận thức

luận, như các vấn đề: đối tượng của nhận thức, khả năng nhận thức của con người, vấn

đề chân lý và khoa học về tư duy. Điểm đặc sắc trong lý luận nhận thức của ông là

phương pháp suy luận ba bước (tam đoạn luận) của lôgíc hình thức. Ông là người thừa

hưởng triết lý sâu sắc của Platon, tuy nhiên khác với Platon coi ý niệm là đối tượng

của nhận thức, ông khẳng định rằng thế giới khách quan là đối tượng của nhận thức, là

nguồn gốc của kinh nghiệm; tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai. Theo

ông, mọi tri thức đều bắt nguồn từ cảm giác về những sự vật đơn nhất được khái quát

lại mà có.

Đạo đức học của Arixtôt phản ánh rõ nhất lập trường giai cấp của ông. Ông cho

rằng, đạo đức phải phục vụ quyền lợi của nhà nước, hành vi nào làm suy yếu nhà nước

là không có đạo đức. Đạo đức phải gắn liền với hành vi của con người, tiêu chuẩn

đánh giá một cá nhân có đạo đức không phải ở lời nói mà là ở hành động. Việc đánh

giá một con người còn dựa trên quan điểm của cá nhân ấy về hạnh phúc. Theo ông,

người nào tuyệt đối hoá sự hưởng thụ vật chất thì không khác gì con vật vì “hạnh phúc

của con người là sự thông thái”. Vì quan niệm của con người về hạnh phúc khác nhau,

đa dạng nên việc đánh giá một con người hết sức phức tạp và khó khăn. Một người có

đạo đức phải có các phẩm chất như: thông thái, dũng cảm, chế ngự dục vọng... tất cả

được chỉ đạo bởi lý trí và còn một phẩm chất nữa là chính nghĩa, trong đó thông thái

là phẩm chất cao nhất. Nông dân có phẩm chất chủ yếu là chế ngự dục vọng, nhà nước

phải tạo điều kiện cho họ phát huy phẩm chất này. Nô lệ không có phẩm chất đạo đức.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 35

Trong quan hệ ứng xử giữa người và người thì phẩm chất tối ưu là trung vị (dũng cảm,

khiêm tốn, hào phóng...) là sự kết hợp của hai yếu tố đối lập nhau là liều lĩnh, khoe

khoang, hoang phí... và nhút nhát, tự ti, hà tiện...

Socrates

Triết học của ông khác với các nhà triết học trước đó. Các nhà triết học trước

nghiên cứu về giới tự nhiên nhưng ông dành phần lớn vào việc nghiên cứu về con

người, về đạo đức, về nhân sinh quan. Triết học không gì khác hơn là sự nhận thức

của con người về chính mình, “con người hãy nhận thức chính mình”. Bắt đầu từ ông,

đề tài con người trở thành một trong những chủ đề trong tâm của triết học phương

Tây. Vì vậy, quan điểm triết học của ông bàn đến vấn đề con người trong đời sống xã

hội mà trước hết là hành vi đạo đức.

Socrates tìm cách khám phá ra các chân lý chung cho con người trong các cuộc

đàm thoại, theo ông để có cuộc đàm thoại được, những người tham gia cuộc đàm thoại

phải có “ngôn ngữ chung” nhất định, ngôn ngữ đó mang tính khách quan, nhờ đó con

người mới khám phá ra chân lý một cách đích thực mà ai cũng phải thừa nhận. Theo

ông ý thức của con người trong cuộc đàm thoại, ngoài yếu tố chủ quan, còn có một nội

dung khách quan, có tri thức phổ biến mang tính tổng quát. Đó là những tri thức

chung mà mỗi con người chúng ta có được bằng nỗ lực của mình.

Nhận thức luận của ông chủ yếu là thể hiện qua đạo đức của con người. Đạo đức

học của ông mang tính chất duy lý, ông thừa nhận Đạo Đức và Tri Thức thống nhất là

một “ Mỗi điều thiện đó là tri thức và mỗi điều ác đó là sự dốt nát”, mỗi hành vi vô

đạo đức đều là kết quả của sự dốt nát của chúng ta. Ông cho rằng cai thiện phổ biến là

cơ sở của đạo đức, là tiêu chuẩn của đức hạnh, muốn tuân thủ theo cái thiện thì phải

nắm bắt được nó, hiểu nó, để phát hiện được cái phổ biến, phải có phương pháp tìm ra

chân lý thông qua các cuộc tranh luận.

II.1.2 Tư tưởng về xã hội

Đêmôcrite

Đêmôcrit đứng trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten

chống lại chế độ chuyên chính. Ông cho rằng “cái nghèo trong chế độ dân chủ cũng

quý hơn cái hạnh phúc của công dân dưới thời quân chủ y như là tự do quý hơn nô lệ”.

Nhưng do xuất thân từ tầng lớp chủ nô nên ông chỉ đề cập đến dân chủ của chủ nô và

công dân tự do; còn nô lệ phải biết tuân theo người chủ. Ông coi nhà nước là trụ cột

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 36

của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn

mực đạo đức.

Trong quan điểm chính trị, xã hội của mình, Đêmôcrit tập trung vào các vấn đề

đạo đức và nhà nước, từ đó chú tâm lý giải những động lực, sự phát triển của xã hội

loại người. Ông cho rằng khi tổ tiên của loài người thoát ra khỏi thế giới động vật thì

đời sống của họ hết sức mông muội, họ sống thành những bầy đàn khác nhau, bị tự

nhiên chi phối hoàn toàn. Điều này dẫn tới những hệ quả: Ban đầu con người tìm kiếm

thức ăn để thoả mãn nhu cầu sống, chưa có ý thức dự trữ và tích luỹ thức ăn (tư tưởng

và hành động tư hữu) do vậy con người sẽ bị thiếu thức ăn vào những thời điểm mà

thời tiết, thiên nhiên khắc nghiệt. Về sau này, dần dần người ta đã biết tích luỹ, dự trữ

thức ăn và biến nó thành thói quen. Do con người sống thành những bầy đàn khác

nhau, lượng tài sản tư hữu không giống nhau nên xảy ra tranh giành giữa các thành

viên trong bầy đàn và giữa các bầy đàn. Con người trở nên có tư tưởng chiếm đoạt và

tư hữu, đây là một bước phát triển mới của xã hội loài người. Cũng do thời tiết khắc

nghiệt nên con người nảy sinh nhu cầu mặc quần áo che chắn cơ thể, đây cũng là một

bước tiến đáng kể của lịch sử. Dần dần họ biết dùng lửa sưởi ấm và làm chín thức ăn.

Thêm một bước nữa, họ có ngôn ngữ để cố kết các mối quan hệ, trao đổi thông tin,

tiếng nói trước hết là mô phỏng âm thanh của tự nhiên, các bầy đàn khác nhau có sự

mô phỏng khác nhau nên xuất hiện các ngôn ngữ khác nhau. Tất cả những bước tiến

này là do hoàn cảnh sống, nhu cầu tồn tại, tính cách... tạo ra. Như vậy, dù triết học của

ông còn mang tính thô sơ, chất phác, nhưng với những thành tựu triết học rực rỡ của

mình, Đêmôcrit đã đưa chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại lên một đỉnh cao mới.

Platon

Trong tác phẩm Nước cộng hoà (Chính thể cộng hoà), Platon chia linh hồn làm

ba bộ phận: lý tính hay trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Tương ứng với ba bộ phận ấy là

ba hạng trong xã hội. Hạng thứ nhất, là các nhà triết học, nhà thông thái. Hạng này lý

tính giữa vai trò chủ đạo, thích hợp với việc lãnh đạo nhà nước. Hạng thứ hai, là

những người lính, võ sĩ mà linh hồn của họ tràn đầy xúc cảm gan dạ, biết phục tùng lý

trí và nghĩa vụ, thích hợp với việc bảo vệ an ninh của nhà nước cộng hoà. Hạng thứ

ba, là đại chúng, gồm những người nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Hạng này

linh hồn của họ không đi xa hơn những khát vọng cảm tính thích nghi với lao động

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 37

chân tay, làm ra của cải vật chất phục vụ cuộc sống của nước cộng hoà. Vì vậy, công

lý là ở chỗ mọi người phải sống đúng vị trí của mình.

Để duy trì trật tự xã hội, Platon cho rằng sự tồn tại của nhà nước là cần thiết,

nhưng ba hình thức nhà nước hiện nay đều xấu. Một là nhà nước của bọn vua chúa

xây dựng trên khát vọng làm giầu, ham danh vọng, đưa đến chiến tranh. Hai là, nhà

nước quân phiệt của một số ít người giầu có, áp bức số đông, đưa đến tội ác. Ba là,

nhà nước dân chủ đem lại quyền lực cho số đông; đó là một nhà nước tồi tệ.

Platon nêu lên mô hình một nhà nước mà ông cho là lý tưởng, đó là nhà nước

cộng hoà vì nó được xây dựng với ba đẳng cấp (tương ứng với ba loại linh hồn, ba

phẩm chất đạo đức) là đẳng cấp cai trị (có linh hồn trí tuệ, phẩm chất thông thái và

chủ yếu là các triết gia), đẳng cấp vệ quân (bảo vệ bộ máy cai trị và an ninh xã hội, có

phẩm chất dũng cảm, trung thành), đẳng cấp nông dân và thợ thủ công (có nhiệm vụ

tạo ra vật chất nuôi sống xã hội, có phẩm chất cần cù, chịu khuất phục và chế ngự dục

vọng) Trong nhà nước ấy, quan hệ bất bình đẳng giữa các hạng người phải được duy

trì, bởi vì nó hợp với tự nhiên, hợp với sự phân công trong xã hội. Sự tồn tại của nhà

nước lý tưởng phải dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất và sự phân công hài

hoà giữa các nghề trong xã hội. Để khắc phục sự phân chia giàu nghèo, cần xoá bỏ gia

đình và tư hữu. Trẻ con sinh ra được đưa vào các cơ quan giáo dục riêng, lựa chọn

những đứa trẻ khỏe mạnh, nuôi dưỡng chúng để trở thành vệ binh. Các nhà thông thái,

triết học sẽ được lựa chọn trong số vệ binh này.

Quan niệm về một nhà nước lý tưởng trên đây của Platon chứa đựng nhiều mâu

thuẫn. Một mặt, ông muốn xoá bỏ tư hữu, mặt khác, ông lại chủ trương duy trì sự bất

bình đẳng giữa các hạng người. Một mặt, ông đề cao hình thức cộng hoà, mặt khác

ông lại ra sức bảo vệ lợi ích của giai cấp chủ nô quý tộc, chống lại nhà nước dân chủ

Aten. Nhà nước mà ông coi là lý tưởng, thực chất chỉ là sự biện hộ cho giai cấp chủ nô

quý tộc. Đúng như nhận xét của Mác, nó chỉ là lý tưởng hoá chế độ đẳng cấp của

Aicập vào Aten mà thôi.

Theo ông, thể chế nhà nước lý tưởng nhất là nhà nước cộng hoà. Ông cho rằng giai

cấp nô lệ không thuộc một đẳng cấp nào hếtvì họ không phải là con người, họ chỉ là

một động vật biết nói tiếng người, là một công cụ biết nói, họ không có một quyền

nào khác ngoài quyền được tự do làm nô lệ cho người khác.

Arixtôt

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 38

Theo Arixtôt, một xã hội bình đẳng chỉ có thể thực hiện qua chế độ pháp trị. Do

vậy, ông đã nghiên cứu những thiếu sót và vô lý bất bình đẳng ở chế độ phong kiến

hay ở chế độ quân chủ và lập ra một chế độ dân chủ lấy luật pháp làm tiêu chuẩn để

định đoạt mọi vấn đề trong xã hội. Ông cho rằng tất cả con người đều có một mục

đích chung: có được cuộc sống tốt đẹp trong sự bình đẳng. Do vậy, những mối liên hệ

của con người trong xã hội theo ông là qua cộng đồng. Con người không thể sống

thiếu cộng đồng và cộng đồng cũng sẽ không được hình thành nếu không có được sự

đoàn kết của tất cả thành viên. Ông cho rằng triết lý của Platon qua lý tưởng khó thực

hiện được, cho nên ông đã nghĩ đến việc phải dùng một hiến pháp với sự đồng ý của

đa số. Chúng ta có thể thấy nền chính trị ở Mỹ là do một phần ảnh hưởng sâu nặng

triết học của Arixtôt, lấy hiến pháp làm nền tảng cho tự do và dân chủ.

Socrates

Theo Socrates đã khuất phục tư tưởng Thrasymachus chính bằng lý lẽ của sự

công bằng giữa hai giai cấp thống trị và bị trị, trong một xã hội chỉ có bình đẵng mới

có thể tồn tại vĩnh viễn trong một cộng đồng hay một quốc gia và cũng chỉ có bình

đẳng mới đem lại hạnh phúc cũng như hòa bình cho mọi người. Socrates cũng đã bàn

đến sự bình đẳng của phụ nữ trong xã hội là điều cần thiết. Đối với Socrates và Platon,

công lý là sự hài hòa giữa tất cả giai cấp trong xã hội, hơn thế nữa, công lý cũng chính

là sự hài hòa trong mọi tâm hồn chúng ta. Công lý sẽ không tồn tại nếu không có sự

tương trợ và kết nối giữa sự chín chắn trong suy nghĩ và cân nhắc trong hành động.

Chúng ta có thể tự hiểu tâm hồn chúng ta sẽ không nhận ra được công lý nếu chúng ta

nóng giận hay buồn chán hoặc có những suy nghĩ tiêu cực. Tâm hồn chúng ta chỉ có

thể hiểu được cái thiện và cái ác khi chúng ta có sự bình an và thông thái trong suy

nghĩ. Do đó, một con người phải tự nhận thức tất cả những gì mà mình đang làm.

II.2. Tưởng con người, xã hội trong Triết học Tây Âu trung cổ

II.2.1 Tư tưởng con người

Ôguýtxtanh

Khi bàn về vấn đề con người, Ôguýtxtanh đã khẳng định: ý chí của con người

là tự do, nhưng chỉ trong giới hạn tiền định của Thượng đế. Đối với Oguytxtanh, tư

tưởng cơ bản trong học thuyết triết học của ông là: Toàn bộ thế giới là do Thượng đế

sáng tạo ra và được nhận thức bởi thượng đế. Thượng đế có sức mạnh vạn năng, có

quyền lực tuyệt đối; thượng đế là "Bác sĩ của trái tim mình", ý chí của con người là tự

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 39

do, song nằm trong giới hạn tiền định của Thượng đế; quá trình nhận thức của con

người là quá trình nhận thức của Thượng đế. Thượng đế là chân lý tối cao.

Đơnxcốt

Đơnxcốt đề cập tới vai trò của tinh thần, lý trí và ý chí trong nhận thức của con

người. Theo ông, tinh thần là hình thức của thân thể con người, gắn với thân thể con

người đang sống do Thượng đế ban cho ngay từ khi con người ta mới sinh ra. Lý trí

của con người được hình thành từ hoạt động của tinh thần và từ bản thân đối tượng

nhận thức; nhưng cái thống trị mọi hoạt động của con người không phải là lý trí mà là

ý chí. Ý chí cao hơn lý trí; ở Thượng đế thì ý chí trở thành tự do.

II.2.2 Tư tưởng xã hội

R. Bêcơn

Triết học của R. Bêcơn bộc lộ những xu hướng duy vật, ông nắm bắt được

những biến đổi xã hội chỉ vừa mới bắt đầu xảy ra và đi trước thời đại ông trong những

ước mơ và ý tưởng về sự tiến bộ của khoa học.

Về xã hội, R.Bêcơn có những tư tưởng tiến bộ. Ông bênh vực quyền lợi của

nhân dân, lên án sự áp bức bóc lột của phong kiến. Ông chống giáo hoàng và bóc trần

những xấu xa của tầng lớp thầy tu, nhưng ông không chống tôn giáo nói chung.

R.Bêcơn dũng cảm vạch trần tội ác của giai cấp phong kiến và những tội lỗi của giới

giáo sĩ. Ông cho rằng cuộc chiến tranh bất tận của bọn quý tộc phong kiến, và đi kèm

với nó là chính sách thuế khóa nặng nề, đã hủy hoại cuộc sống của người dân lao

động.

Mặc dù chống giáo hoàng và giáo sĩ nhưng ông không chống lại tôn giáo nói

chung. Do chịu ảnh hưởng của thần học và giáo hội mà ông vẫn còn cho rằng triết học

phụ thuộc và thần học.

II.3. Tư tưởng con người, xã hội trong Triết học Tây Âu phục hưng đến cận đại

II.3.1 Tư tưởng con người

Phranxis Bêcơn

Ph.Bêcơn coi con người là sản phẩm cuả tạo hoá, do vậy khoa học về con

người cũng là khoa học về tự nhiên. Tiếp thu quan niệm của Arixtốt về con người,

Ph.Bêcơn chia linh hồn thành các dạng "linh hồn thực vật", "linh hồn động vật", "linh

hồn lý tính". Hai phần đầu thuộc về linh hồn cảm tính, có cả ở thực vật và động vật.

Trong con người, linh hồn cảm tính là một dạng chất lỏng, pha loãng trong cơ thể.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 40

Chúng vận động theo các dây thần kinh, tựa như các đường ống, tác động lên các giác

quan, điều khiển chức năng sống của cơ thể. Bộ phận linh hồn này có thể bị huỷ hoại

cùng cơ thể khi con người chết đi. Linh hồn lý tính có nguồn gốc từ Thượng đế. Đó là

một khả năng kì diệu mà chúa đã ban cho con người, mang tính thần thánh. Vì con

người có cả hai dạng linh hồn nên con người vừa rất gần với động vật lại vừa có cái gì

đó siêu phàm, và do đó, bản chất con người không cho phép con người theo lập

trường hoàn toàn vô thần. Con người cần có tôn giáo để vượt qua những lúc con người

mềm yếu, bất lực. Tôn giáo mang lại cho con người niềm tin nhưng nhà thờ không

được phép dùng các biện pháp chống lại các nhà vô thần, không được cản trở các hoạt

động khoa học, nghệ thuật của con người.

Tômát Hôpxơ

Con người, theo T.Hôpxơ là một thực thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội.

Về bản tính tự nhiên, mọi người khi sinh ra đều như nhau, sự khác nhau nhất định

giữa họ không lớn. Nhưng con người ai cũng có khát vọng và nhu cầu riêng của mình.

Đây là tiền đề để con người làm điều ác. Mỗi người đều ích kỉ, vì lợi ích riêng của

mình mà có thể chà đạp tất cả. "Con người là một động vật độc ác và ranh ma hơn cả

chó sói, gấu và rắn". Mỗi người hành động trước tiên là "vì tính ích kỉ yêu bản thân

mình chứ không phải vì xã hội, không phải vì lợi ích của người khác". Vì thế mà đẩy

loài người đến chiến tranh liên miên, gây ra bao nhiêu đau khổ và chết chóc. Công lý

và khoa học về pháp quyền, bởi vậy, luôn luôn bị bác bỏ bởi những ngòi bút và thanh

kiếm. Theo T.Hôpxơ, bản tính tự nhiên của con người đó là tính ích kỉ; trạng thái xã

hội mà con người sống là "một cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả".

Tuy nhiên, theo T.Hôpxơ, "trạng thái tự nhiên" trên đây của con người ngày

nay không còn nữa; nó tồn tại một cách trọn vẹn ở thời nguyên thuỷ xa xưa. Tư tưởng

của T.Hôpxơ được Đácuyn áp dụng vào thế giới động vật và phát hiện ra quy luật đấu

tranh sinh tồn và chọn lọc tự nhiên của các loài sinh vật. Sau đó những người theo chủ

nghĩa Đácuyn xã hội truyền bá, áp dụng trở lại xã hội.

Quan niệm của T.Hôpxơ mặc dù chưa đánh giá đúng mức đặc trưng riêng của

loài người so với loài vật, chưa thấy được bản tính xã hội, tính nhân loại của con

người, nhưng nó mang những yếu tố hợp lý nhất định: Một mặt, nó cho thấy sự tương

đồng nào đó giữa loài người và loài vật, mặt khác, nó chỉ ra rằng, chính lợi ích của các

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 41

cá nhân là một trong những động lực trực tiếp của hoạt động của con người và phát

triển của xã hội.

Rơnê Đêcáctơ

Ông khẳng định, con người được cấu thành từ linh hồn và thể xác. Theo quan

điểm nhị nguyên luận, ông hoàn toàn tách biệt thể xác và linh hồn, coi chúng có

nguồn gốc từ hai thực thể tư duy và quảng tính hoàn toàn tách biệt. Ông coi linh hồn

con người là một thực thể mà bản chất của nó là tư duy, tồn tại không cần đến và

không phụ thuộc vào bất kì một sự vật vật chất nào. Linh hồn là bất diệt, nó không bị

phân huỷ khi con người chết. Con người có được là do Thượng đế ghép linh hồn vào

thể xác. Cơ thể con người là chỗ trú chân tạm thời của linh hồn khi anh ta sống.

Giooc Beccơli

Cũng như các nhà duy tâm khác, G.Beccơli quan niệm con người bao gồm

linh hồn và thể xác; linh hồn là cái quyết định. Thể xác thuộc về các vật thể tự nhiên,

tức các cảm giác. Do vậy, thể xác tồn tại được là nhờ linh hồn cảm nhận nó. Thể xác

phải tuân theo cái gậy chỉ huy của linh hồn.

Đối với linh hồn con người, G.Beccơli cho rằng, "tồn tại nghĩa là cảm nhận".

Có nghĩa là linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác mà trước hết là cảm

nhận thể xác của con người. Về nhận thức luận, xuất phát từ quan điểm thế giới chỉ là

chỉ là tổ hợp các cảm giác của con người, G.Beccơli cho rằng linh hồn là cái quyết

định quá trình nhận thức. Linh hồn chỉ tồn tại khi nó cảm nhận các sự vật khác, và

cũng chỉ khi nó bắt đầu cảm nhận thì chúng ta mới có được tri giác về sự vật.

G.Beccơli đề cao cảm giác, đồng nhất toàn bộ các ý niệm của con người với

các cảm giác. Các khái niệm trừu tượng chỉ là kết quả so sánh và phân tích các cảm

giác. Mặc dù các ý niệm, tức các cảm giác, tồn tại trong linh hồn nhưng chúng khác

với linh hồn, bởi vì linh hồn là cơ chất và nền tảng "nuôi dưỡng" các ý niệm, cảm

giác.

Theo G.Beccơli, chân lý là sự phù hợp giữa sự suy diễn của con người về sự

vật với chính bản thân sự vật đó tồn tại trên thực tế. Tuy nhiên, ông phủ nhận sự tồn

tại khách quan của chân lý. Tri thức được coi là đúng khi nó thoả mãn một trong

những tiêu chuẩn sau:

1) Tính rõ ràng cả các tri giác cảm tính;

2) Tính đồng thời của các tri giác gần như là giống nhau ở một vài người;

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 42

3) Sự tương đồng của nhiều cảm giác với nhau;

4) Tính đơn giản và dễ hiểu;

5) Sự phù hợp với ý chúa và tuân theo ý Chúa.

Trong tất cả các tiêu chuẩn trên thì tiêu chuẩn phù hợp với ý Chúa là quan trọng nhất

và đáng tin cậy nhất.

Điđơrô và các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỉ XVIII

Đ.Điđrô cho rằng con người được cấu thành từ thể xác và linh hồn. Thể xác và

linh hồn thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn không có nguồn gốc từ chúa mà là một

tổng thể các hiện tượng tâm lý. Bản thân nó cũng là đặc tính của vật chất. Ông viết:

"Không có cơ thể con người thì nó (tức linh hồn) không là cái gì cả. Tôi khẳng định

rằng, không có cơ thể con người thì không thể giải thích được cái gì cả". Ông nhấn

mạnh, cơ thể con người là khí quan vật chất của tư duy, ý thức cũng như mọi quá trình

tâm lý của anh ta. Ông đã nhận thấy, nhân cách con người là sản phẩm của hoàn cảnh

môi trường xung quanh nhưng chưa hiểu được rằng, bản thân môi trường và hoàn

cảnh đó cũng là sản phẩm của hoạt động con người, và vì vậy, cả con người lẫn hoàn

cảnh sống của nó đều mang tính lịch sử. Đây cũng là hạn chế chung của các triết học

trước Mác.

Theo các nhà triết học Khai sáng thì con người là một bộ phận của giới tự

nhiên, là một động vật suy nghĩ nhờ giác quan. Tư tưởng của con người chịu sự quy

định của cấu trúc cơ thể trong sự tác động qua lại với môi trường và điều kiện sống.

Con người là một thể thống nhất hữu cơ giữa hai mặt thể xác và linh hồn. Con người

là sản phẩm của hoàn cảnh, của xã hội nên cần thay đổi hoàn cảnh xã hội, quan hệ

phong kiến…Cơ sở để cải tạo cuộc sống hiện tại, để vươn tới con người là lý tính. Lý

tính của con người là sản phẩm do sự tác động của vật chất đến các giác quan gây nên

cảm giác. Cảm giác là nguồn gốc của lý tính, lý tính của con người bắt nguồn từ kinh

nghiệm. Phương pháp để đạt tới lý tính là quan sát và thực nghiệm. Như vậy, các nhà

Khai sáng đấu tranh vì thắng lợi của “vương quốc trí tuệ” trên cơ sở tự do chính trị,

bình quyền. Các nhà Khai sáng coi đấu tranh vì quyền lợi mà thiên nhiên ban tặng cho

mình là “con người tự nhiên”. Việc tuyên truyền cho “con người tự nhiên” dẫn đến

khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” là khẩu hệu phổ biến thời cách mạng Tư sản

Pháp. Các nhà triết học Khai sáng cho rằng bản tính con người là không ác và con

người cần được giáo dục đúng đắn có nghĩa là được khai sáng. Con gnười được giáo

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 43

dục đúng đắn sẽ trở thành “kẻ ích kỷ sáng suốt”với nguyên tắc của nó là “hãy tự lo

liệu cuộc sống cho mình và người khác cũng được sống”. Theo nguyên tắc này thì một

chế độ thích hợp sẽ là chế độ đảm bảo sự bình đẳng của mọi công dân, không phụ

thuộc vào tầng lớp, dân tộc… Một chế độ như vậy sẽ mở ra khả năng làm lợi cho mỗi

người, ít bị đau khổ và thoả mãn một cách tối đa, không làm thiệt hại tới những quyền

lợi cá nhân của những người khác. Tư tưởng giải phóng con người xuất hiện rất phù

hợp với xu thế phát triển của thời đại.

II.3.2 Tư tưởng xã hội

Tômát Hôpxơ

Xuất phát từ quan niệm về trạng thái tự nhiên của con người, T.Hôpxơ khẳng

định khả năng bẩm sinh của con người càng bình đẳng bao nhiêu thì nó càng bất hạnh

bấy nhiêu, vì cuộc đấu tranh sinh tồn của mỗi người càng khó khăn và phức tạp. Ai

cũng phải lo sợ cho tính mạng và cuộc sống của mình. Và chính điều đó đã thúc đẩy

mọi người đi đến kí kết khế ước xã hội, thiết lập nên nhà nước. Do vậy, mỗi dân tộc

đều phải trải qua hai giai đoạn phát triển: giai đoạn tự nhiên và giai đoạn xã hội công

dân (giai đoạn có nhà nước).

Nhà nước là sự sáng tạo cao nhất mà con người có thể làm được. Sau khi nhân

dân lập ra nhà nước, nhà nước đóng vai trò điều hành sự phát triển của xã hội, xử phạt

những ai vi phạm lợi ích chung của mọi người. Nhà nước "tựa như một con người

nhân tạo" mà chính phủ là linh hồn của con người đó. Tuy nhiên sự xuất hiện của nhà

nước cũng có mặt hạn chế, ở chỗ nó làm giảm các khát vọng tự nhiên của con người,

do đó tự do của con người bị thu hẹp. Nhưng con người cần phải có nhà nước để được

sống yên ổn. Đạo luật của nhà nước là tất yếu. Nhiệm vụ của nhà nước là phải trừng

phạt, nhưng công minh; mỗi cá nhân có nghĩa vụ phải tuân theo.

II.4. Tư tưởng con người, xã hội trong Triết học cổ điển Đức

II.4.1 Tư tưởng con người

Cantơ

Khác hẳn với các nhà triết học Anh, Pháp, Cantơ không chỉ bàn đến lĩnh vực

bản thể luận, nhận thức luận mà còn bàn đến con người với tính cách là một chủ thể

hoạt động. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thực tiễn” Cantơ đã đưa ra quan điểm

như sau: Con người là chủ thể hoạt động là nền tảng và là điểm xuất phát của mọi vấn

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 44

đề triết học. Con người vừa là chủ thể, đồng thời là kết quả quá trình hoạt động của

chính mình. Bản thân lịch sử là phương thức tồn tại của con người. Mỗi cá nhân hoàn

toàn làm chủ vận mệnh của mình và tự ý thức về mình. Bên cạnh quan điểm tiến bộ

đó, Cantơ cùng bộc lộ hạn chế ở chỗ, đề cao sự mạnh trí tuệ của con người tới mức

cực đoan: sáng tạo ra các quy luật của thế giới. Thần thánh hóa con người tới mức coi

bản thân thế giới tự nhiên phải hoạt động theo ý chí con người.

Về lĩnh vực nhận thức con người, khi nghiên cứu triết học Cantơ, người ta cũng

có thể thấy rất rõ thái độ trân trọng của ông đối với con người và lý trí con người. Chỉ

có điều, là một nhà triết học độc đáo nên việc đề cao con người ở Cantơ cũng rất khác

biệt so với các nhà tư tưởng khác. Theo Cantơ, "thế giới vật tự nó" là thế giới dành

cho cảm giác.

Do vậy, thế giới đó đóng kín đối với lý tính và đối với khoa học. Tuy thế, theo

cách giải thích của Cantơ, đối với "thế giới vật tự nó", con người không phải là tuyệt

nhiên không thể vươn tới được. Bởi lẽ, con người, trong quan niệm của Cantơ, luôn

sống trong cả hai thế giới - thế giới mà cảm giác có thể đạt tới và thế giới mà trí tuệ có

thể đạt tới (còn gọi là thế giới khả giác và thế giới khả niệm).

Thế giới mà cảm giác có thể đạt tới, theo Cantơ, đó là giới tự nhiên. Còn thế giới mà

trí tuệ đạt tới - đó là thế giới của tự do. Tự do trong quan niệm của Cantơ là một trạng

thái mà ở đó, con người hoàn toàn không bị lệ thuộc vào những nguyên nhân tiền định

nào đó vốn có trong thế giới có thể cảm giác được. Tự do là khả năng tiên nghiệm đặc

biệt cho phép giác tính con người hoạt động độc lập với các quy luật tất yếu của tự

nhiên trong lĩnh vực hiện tượng luận, nó tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực

hiện tượng luận. Trong biên giới của tự do, hành động và hành vi của con người

không bị chi phối bởi lý tính lý luận mà bị chi phối bởi tính thực tiễn. Lý tính được

gọi là thực tiễn, theo Cantơ, là lý tính mà ý nghĩa chủ yếu của nó là điều chỉnh hành vi

con người. Động lực của lý tính thực tiễn không phải là tư duy, mà là ý chí của con

người. Cantơ gọi ý chí của con người là vương quốc của sự tự trị. ở đây, ý chí của con

người được quy định không phải bởi các nguyên nhân bên ngoài, tức là những nguyên

nhân thuộc về tính tất yếu của giới tự nhiên hoặc những nguyên nhân thuộc về

Thượng đế. Theo Cantơ, ý chí của con người được quy định bởi những quy luật, luật

lệ vốn có của riêng nó. Đó là những quy luật, luật lệ mà ý chí tự đặt ra cho bản thân

mình.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 45

Như đã nói ở trên, chính Cantơ chứ không phải ai khác, là người đầu tiên đã đề

xuất và "bảo vệ một cách quyết liệt nhất" việc phân chia nhân học thành một khoa học

độc lập. Trong so sánh với các lĩnh vực tri thức đã được xác lập, Cantơ coi nhân học,

mà trước hết là nhân học triết học (philosophical anthropology) là một ngành có đối

tượng riêng của mình, có phương thức nghiên cứu riêng của mình. Theo P.S.

Gurevich, “nhà nghiên cứu sâu sắc hơn cả trong tư tưởng Nga hiện đại về vấn đề con

người” , thì "Cantơ là người đầu tiên của nền triết học châu Âu khẳng định rằng, con

người là một thực thể độc nhất vô nhị có khả năng suy tư một cách riêng biệt và độc

đáo. Con người - là khách thể bí ẩn và hấp dẫn tột cùng của sự tư biện triết học. Để

khám phá bí ẩn của con người, cần phải có những công cụ không tầm thường và độc

lập. Trong ý nghĩa đó, nhân học triết học đối lập với khu vực tri thức triết học truyền

thống - bản thể luận (học thuyết về tồn tại), logic học, lý luận nhận thức, lịch sử triết

học, đạo đức học, thầm mỹ học, triết học tự nhiên, triết học xã hội, triết học lịch sử”.

Với Cantơ, nhận thức con người cũng có nghĩa là nhận thức thế giới; chỉ có thông qua

con người, các vấn đề của nhận thức thế giới, xã hội mới được giải quyết. Cantơ viết:

"Mục tiêu của tất cả những thành tựu văn hoá mà con người học được là ứng dụng

những tri thức và những kinh nghiệm đã thu nhận được vào thế giới. Nhưng đối tượng

quan trọng nhất trong thế giới mà những tri thức này có thể ứng dụng được - đó là con

người, chừng nào con người còn là mục đích tự thân cuối cùng" . Khi xác định nhiệm

vụ cho triết học, Cantơ tự đặt cho riêng mình 4 câu hỏi mà về sau người ta hiểu đó là 4

nội dung cơ bản của toàn bộ nhận thức con người:

1. Tôi có thể biết gì?

2. Tôi có thể làm gì?

3. Tôi có thể hy vọng gì?

4. Con người là gì?

Theo Cantơ, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ nhất thuộc về nhận thức luận. Câu hỏi

thứ hai dành cho đạo đức học. Câu hỏi thứ ba dành cho tôn giáo và thần học, đòi hỏi

tôn giáo phải cắt nghĩa những hy vọng thực tế và phi thực tế của con người. Và cuối

cùng, nhiệm vụ trả lời câu hỏi thứ tư thuộc về nhân học - nhân học, mà ngay trong

cách đặt vấn đề của Cantơ cũng đã được phân biệt rạch ròi với nhận thức luận, với đạo

đức học và với tôn giáo. Rõ ràng, đây là một kiểu phân loại hết sức độc đáo mà trước

đó, khoa học, tôn giáo và triết học thường có thái độ loại trừ nhau, không thừa nhận

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 46

tiếng nói và vị thế của nhau trong đời sống tinh thần con người. Cách phân loại của

Cantơ đặt lại vấn đề về ý nghĩa của sự tồn tại người trong chính nhận thức. Hơn thế

nữa, Cantơ còn chỉ rõ thực chất của sự nhận thức thế giới nói chung đối với con

người, hoá ra lại chính là, nhận thức con người; Cantơ viết: "Về thực chất, toàn bộ

điều đó (4 câu hỏi và sứ mệnh trả lời 4 câu hỏi ấy) có thể quy giản về nhân học. Bởi

vì, ba vấn đề đầu tiên thuộc về vấn đề cuối cùng".

Kể từ Cantơ, nhân học triết học nói riêng và đặc biệt, các ngành nhân học thực

nghiệm khác đã có những bước tiến rất dài trong nhận thức về con người và đời sống

con người. Ngày nay, nhắc đến nhân học người ta rất ít nói về Cantơ, nhưng quả thực

công lao của ông đối với ngành khoa học này thì khó có thể phủ nhận.

Quan niệm về đạo đức: Để trả lời câu hỏi “Tôi cần phải làm gì?” Cantơ đã xây

dựng một số quan niệm về đạo đức, những quan niệm đó chứa đựng trong tác phẩm

“Phê phán lý tính thực tiễn”. Ông cho rằng, trong xã hội cần phải có các quy tắc đạo

đức. Các quy tắc đó không thể xuất phát từ yếu tố cảm tính nhất thời mà phải xuất

phát từ lý tính. “Lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên lý và chuẩn mực

đạo đức” bởi vì các khát vọng cảm tính chỉ đưa con người tới ích kỷ, phi đạo đức.

Cantơ đưa ra nguyên lý cơ bản của đạo đức, gọi là mệnh lệnh tuyệt đối. Mệnh

lệnh đòi hỏi mọi người sống phù hợp với tự nhiên, tôn trọng mình, tôn trọng người

khác, sống theo lẽ phải, tôn trọng sự thật, sống bình đẳng trong cộng đồng. Người này

có quyền nào đó, thì mọi người khác phải có quyền như thế, tạo điều kiện để họ thực

hiện được quyền đó. Mọi người cần phải ngăn chặn những hành động trái với mệnh

lệnh tuyệt đối.

Ông còn cho rằng: Tự do là phạm trù trung tâm của đạo đức, là lý tưởng cao cả

nhất của nhân loại, là cái cao quý nhất trên trần gian.

Quan điểm đạo đức tuy có nhiều điểm không tưởng phi lịch sử, phi giai cấp,

thiếu cơ sở hiện thực nhưng chứa đựng nhiều tư tưởng nhân đạo sâu sắc vì nó góp

phần xóa bỏ quan niệm ích kỷ hẹp hòi, giải phóng tư tưởng con người khỏi gông cùm

của ý thức hệ phong kiến.

Heghen

Ông chịu ảnh hưởng rất lớn từ tư tưởng của Cantơ, một phần từ các tác phẩm

của Heraclitus và Spinoza. Ông triển khai di sản triết học của Cantơ và hình thành nên

thuyết duy tâm siêu hình học của mình.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 47

Ông đề cập về con người và khả năng lớn lao của lý trí con người. Hegel đã

thiết lập mệnh đề tổng quát rằng “cái gì có lý tính là hiện thực và cái gì hiện thực là lý

tính”, từ mệnh đề này ông đi đến kết luận rằng bất cứ cái gì tồn tại đều có thể hiểu

được. Điều này ông đi ngược lại với những gì mà Cantơ đã đề cấp đến nhưng cho là

không thể giải quyết được trong nhận thức của lý trí thuần tuý như: Vấn đề Thượng

Đế, Bản Ngã và Vũ trụ. Bằng tổng hợp triết học đồ sộ của mình, Hegel tin lý trí con

người có thể lý giải tất cả mọi vấn đề của thực tại.

Riêng vấn đề con người, khác với Cantơ, Hegel cho rằng các phạm trù không

phải như là những quá trình của tinh thần mà như là những thực tại khách quan có sự

tồn tại độc lập với cá thể tư duy. Ông xem xét những chủ đề về sự tha hóa của con

người khỏi Thượng Đế và sự phục hồi của sự duy nhất bị đánh mất giữa cái hữu hạn

và cái vô hạn, sự vô hạn này là đời sống sáng tạo vốn ôm ấp mọi tư tưởng trong một

vũ trụ duy nhất và đó chính là Thượng Đế hay Toàn Thể hoặc là Thực tại như là một

toàn thế.

Trong tác phẩm chính đầu tiên của ông là Hiện tượng luận về tinh thần

(Phenomenology of the Spirit), Hegel đề cập đến khả năng biện chứng của con người,

“khởi đi với những mức độ thấp nhất của ý thức và công trình của con người một cách

biện chứng hướng đến mức độ mà ở đó tâm trí con người đạt tới quan điểm tuyệt đối”.

Phoiơbắc

Vốn là người có tư tưởng cách tân, Phoiơbắc mơ tới việc thiết kế những đồ án cho

việc cải cách triết học và ông thực sự đã làm như vậy trong 2 tác phẩm: Những luận

điểm dự thảo cho cuộc cải cách triết học (1842), Những luận đề cơ bản của triết học

tương lai (1843). Trong các tác phẩm đó ông đã khai mở một hướng đi mới cho các

nhà triết học hậu thế, đó là truy tìm bí mật của triết học ngay trong giới tự nhiên và

con người: “Hãy quan sát giới tự nhiên và con người, bạn sẽ thấy trong đó những bí

mật của triết học". “Quan điểm của tôi chỉ có thể biểu đạt trong hai từ: Giới tự nhiên

và con người". Với cách đặt vấn đề như vậy, người thiết kế đồ án triết học mới này đi

sâu vào việc nghiên cứu bản chất con người bắt đầu từ việc truy tìm:

1) mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên,

2) mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại,

3) mối quan hệ giữa người và người,

4) mối quan hệ giữa người và thần.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 48

Tiếp thu những thành tựu của khoa học tự nhiên trên nền tảng của chủ nghĩa duy

vật nhân bản, Phoiơbắc cho rằng, con người không phải là sản phẩm của thượng đế

như các nhà thần học quan niệm, nó cũng không phải là sự tha hoá của ý niệm tuyệt

đối như Heghen nói, mà là sản phẩm của giới tự nhiên, ông viết: "Giới tự nhiên là ánh

sáng, điện từ, từ tính, không khí, nước, lửa, đất, động vật, thực vật, là con người, bởi

vì con người là một thực thể hoạt động thiếu tự chủ và vô thức". Như vậy, sự phát sinh

và tồn tại của con người cũng giống như sự phát sinh và tồn tại của của các hiện tượng

tự nhiên khác, chỉ có điều khác là: con người là sản phẩm tiến hoá cao nhất của giới tự

nhiên, là một sinh vật bậc cao, có tính vượt trội so với các loài động vật khác ở đời

sống tinh thần của nó: "Sự khác biệt căn bản giữa loài người và loài vật là gì? Câu trả

lời chung rất đơn giản là: đó là sự khác nhau trong ý thức đúng với nghĩa chân chính

của từ này... Bởi ý thức theo nghĩa chính xác chỉ có ở chỗ, khi chủ thể có khả năng

nhận thức được loài của mình, bản chất của mình. Động vật nhận thức mình như một

cá thể, nó chỉ làm chủ được quá trình tự cảm giác mà thôi, chứ không phải như một

loài...bởi vậy, động vật sống đơn giản một mình, còn con người sống có bạn. Đời sống

nội tâm của con vật hoà đồng với thế giới bên ngoài, còn con người sống với cả hai

chiều: nội tâm và thế giới bên ngoài. Đời sống nội tâm của con người liên quan mật

thiết với loài và bản chất của nó. Con người suy nghĩ, bàn luận và nói với chính

mình".

Toàn bộ mối quan hệ giữa giới tự nhiên và con người phản ánh mối quan hệ giữa

thế giới vô cơ và thế giới hữu cơ, phản ánh tiến trình tiến hoá của sự sống, theo nghĩa

thế giới vô cơ là tiền đề, là cơ sở nền tảng của mọi sự sống nói chung, của đời sống

con người nói riêng. Con người chỉ có thể tồn tại trong giới tự nhiên, trong sự tiếp xúc

với thế giới khách quan bên ngoài nó, và cũng chính thế giới này quy định sự tồn tại

và phát triển của các giác quan con người chứ không phải ngược lại như chủ nghĩa

duy tâm chủ quan khẳng định. Ánh sáng tồn tại không phải để cho con mắt nhìn, mà

con mắt tồn tại bởi vì có ánh sáng, tương tự như vậy, không khí tồn tại không phải để

cho con người hít thở mà con người hít thở bởi vì có không khí, bởi vì, nếu không có

không khí thì sẽ không có sự sống. Tồn tại một mối quan hệ tất yếu giữa thế giới vô

cơ và thế giới hữu cơ. Mối quan hệ qua lại này chính là cơ sở, là bản chất của sự sống.

Bởi vậy, chúng ta không có căn cứ nào để giả định rằng, nếu như con người có nhiều

cảm giác hay nhiều cơ quan thì nó sẽ hiểu biết được nhiều thuộc tính hay nhiều sự vật

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 49

của tự nhiên hơn... con người có vừa đủ những giác quan cần thiết để cảm nhận thế

giới trong tính toàn vẹn và tính tổng thể của nó.

Từ việc quan sát hình thể bên ngoài của con người,.cho đến mọi hoạt động lao

động sản xuất cũng như hoạt động tinh thần của nó, Phoiơbắc cho rằng, con người là

một sinh vật có hình thể vật lý -sinh lý ở trong không gian và thời gian, nhờ vậy nó có

năng lực quan sát và suy nghĩ vượt trội so với các loài sinh vật khác. Bản chất con

người là một cái gì đó thống nhất toàn vẹn giữa hai phương diện thể xác (tồn tại) và

tinh thần (tư duy). Sự thống nhất toàn vẹn này đảm bảo cho con người có thể tồn tại

và phát triển như một sinh vật cao nhất, hoàn thiện nhất trong mọi sinh vật hiện có.Và

sai lầm của chủ óc, nghĩa duy tầm là sự toan tính thủ tiêu sự thống nhất toàn vẹn đó

của con người, tách rời tư duy con người khỏi tồn tại của nó, biến tư duy thành một

thực thể siêu tự nhiên có khả năng sáng tạo nên thế giới vật chất. Còn sai lầm của chủ

nghĩa nhị nguyên là đánh đồng tư duy và tồn tại, coi chúng như những thực thể tồn tại

độc lập bên cạnh nhau đó là một sụ khẳng định vòng vo, là lối nói nửa vời, tách đôi

trái ngược.

Phê phán những quan điểm sai lầm của chủ nghĩa duy tầm và chủ nghĩa nhị

nguyên trong việc tách đôi thể xác và tinh thần, tồn tại và tư duy, Phoiơbắc đã thừa

nhận một cách dứt khoát rằng quan hệ thực sự của tồn tại đối với tư duy là tồn tại -

chủ thể, tư duy - thuộc tính. Tư duy xuất phát từ tồn tại, chứ không phải tồn tại xuất

phát từ tư duy… cơ sở của tồn tại nằm ngay trong tồn tại chính là cảm tính, là nguyên

lý trí tuệ là sự tất yếu và chân lý... bản chất của tồn tại với tư cách một tồn tại chính là

bản chất của giới tự nhiên. Tại sao tồn tại là chủ thể, còn tư duy là thuộc tính (của

chính chủ thể đó)? Để trả lời câu hỏi này, theo Phoiơbắc, chúng ta cần đến từ đâu đến,

bộ óc từ đâu đến, cơ quan cơ thể từ đâu đến, thì tinh thần cũng đến từ đấy ngay cả

hoạt động tinh thần cũng là việc làm của cơ thể, của đầu óc con người, hoạt động đó

khác với các hoạt động khác ở chỗ, nó là hoạt động của đầu óc.

Không phải là người nghiên cứu sâu về sinh lý học, song Phoiơbắc cũng nhận

thấy rằng, mỗi con người cụ thể bằng xương bằng thịt đang sống và hoạt động là

những bằng chứng sinh động về sự thống nhất giữa thể xác và tinh thần, giữa phương

diện vật lý và phương diện tâm lý. Sự thống nhất này phản ánh sự thống nhất giữa cấu

trúc và chức năng, giữa giải phẫu học và sinh lý học. Và cũng từ đó ông dễ dàng rút ra

một kết luận triết học duy vật rằng, tư duy, ý thức của con người không là cái gì khác

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 50

như là thuộc tính vốn có của một dạng vật chất có tổ chức cao - bộ óc con người.

Chính ở đây, ông đã phần nào phỏng đoán được nội dung vấn đề cơ bản của triết học,

điều mà sau này Ăngghen đã phát biểu một cách rõ ràng hơn trong tác phẩm Lutvich

Phơbách và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức.

Sau khi công nhận một cách dứt khoát rằng, tồn tại là chủ thể, tư duy là thuộc

tính, ý thức là sản phẩm của bộ óc con người, Phoiơbắc đi đến việc tìm hiểu sâu hơn

bản chất tự nhiên - sinh học của con người. "Bản chất chung của con người là gì?

Những nhân tính cơ bản trong con người là gì? Đó là lý tính, ý chí và trái tim. Con

người hoàn thiện có năng lực tư duy, sức mạnh ý chí và nguồn lực tình cảm. Năng lực

tư duy chính là ánh sáng của nhận thức, sức mạnh của ý chí chính là năng lượng của

tính cách, nguồn lực tình cảm chính là tình yêu... Trong ý chí, tư duy và tình cảm luôn

chứa đựng bản chất tối cao, tuyệt đối của con người và mục đích tồn tại của nó... con

người tồn tại để nhận thức, yêu thương và mong muốn. Nhưng mục đích của lý tính,

của ý chí, của tình yêu là gì? Là để làm cho con người trở thành người tự do". Đoạn

trích này là một văn bản điển hình thuộc Chương I với nhan đề Bản chất chung của

con người trong tác phẩm Bản chất Kitô giáo, do Phoiơbắc viết vào năm 1841. Qua

những lời lẽ đó, nhà triết học cổ điển Đức muốn chứng minh rằng, bản chất chung của

con người là tổng hoà mọi khát vọng chính trị, mọi năng lực nhận thức và nhu cầu tự

nhiên - sinh học đã trầm tích trong quá trình phát triển lịch sử lâu dài của nó.

II.4.2 Tư tưởng xã hội

Cantơ

Thừa nhận và phát triển tư tưởng về khế ước xã hội, Cantơ cho rằng: Nhà nước là sự

liên kết của mọi người trong khuôn khổ pháp luật nhằm giám sát và bảo đảm bình

đẳng cho mọi công dân. Nhà nước ra đời không phải là ngẫu nhiên, mà do mâu thuẫn

của xã hội nhằm giải quyết những đối kháng xã hội, điều hoà sự phát triển của xã hội

theo hướng ngày càng hoàn thiện. Cantơ mong muốn giải quyết mâu thuẫn đó bằng

hòa bình, ông muốn xóa bỏ chiến tranh vì theo ông, chiến tranh phá hoại các chuẩn

mực đạo đức của con người.

Mặc dù quan niệm về chính trị xã hội của Cantơ còn hạn chế ở chỗ chưa nhận

thấy nền tảng kinh tế làm nảy sinh các mặt khác nhau của xã hội, nhưng nó đã bao

hàm nhiều giá trị tư tưởng quý báu. Nó đặt nền móng cho quan điểm duy vật lịch sử

sau này.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 51

Hegen

Hêgen là một trong những nhà triết học tiền bối, có nhiều đóng góp trong việc

phát triển lý luận về nhà nước pháp quyền tư sản. Ông đã dùng phép biện chứng, luận

chứng cho sự tất yếu ra đời của hình thái Nhà nước pháp quyền tư sản.

Nhà nước pháp quyền tư sản, theo Hêgen, là kiểu hình thái Nhà nước có tính

lịch sử toàn thế giới thay thế hình thái Nhà nước kiểu La Mã. Nhà nước này được hình

thành dựa trên 2 nền tảng là gia đình và xã hội công dân. Những giai đoạn quan trọng

trong quá trình hình thành Nhà nước pháp quyền là:

- Hình thành xã hội công dân: Trong thời kỳ này, cái cá nhân đặc thù của tất cả

mọi người (sở hữu tư nhân? cá thể, lợi ích cá nhân…) được thừa nhận, xã hội giàu có

rất nhanh, nhưng mối quan hệ giữa người với người thì lại cực kỳ căng thẳng, như chó

sói với chó sói” (do chủ nghĩa cá nhân phát triển), đạo đức của xã hội dường như bị

phá vỡ. Tuy nhiên, xã hội công dân sẽ dần dần đi vào trật tự, đi vào quỹ đạo phát triển

hợp lý nhờ sự hình thành và củng cố các thiết chế của nó là cảnh sát, toà án, các hiệp

hội và sự hình thành của thiết chế nhà nước chính trị. Một số triết gia coi giai đoạn

này tương ứng với giai đoạn phát triển ban đầu, “sơ khai”, “hoang dã” của Nhà nước

tư sản.

- Hình thành nhà nước chính tri: Nhà nước chính trị chỉ có thể được hình thành

trên cơ sở trong xã hội đã có thiết chế xã hội công dân. Đây là thiết chế quyền lực đối

nội (thiết chế quyền lực nhằm đối phó với bên ngoài là chính quyền quân sự). Sự phi

chính trị của lực lượng cảnh sát và quận đội trong các nước tư bản phát triển hiện nay,

có phần bắt nguồn từ các quan điểm triết học về xã hội công dân và Nhà nước chính

trị của Hêgen. Nhà nước chính trị ra đời nhằm khắc phục các hạn chế của thiết chế gia

đình và xã hội công dân.

Theo Hêgen, nhà nước chính trị thể hiện sự thống nhất quyền lực sống động

trên cơ sở phân hoá, khác biệt hợp lý của 3 loại quyền lực: 1) quyền của cái phổ quát

(đại diện cho ý chí của tất cả các tầng lớp xã hội), nói cách khác, đó là quyền lập pháp.

Thiết chế tương ứng với nó là nghị viện (Thượng nghị viện và Hạ nghị viện). 2)

Quyền của cái đặc thù (giải quyết các vấn đề đặc thù, liên quan đến từng tầng lớp,

trường hợp cụ thể trên cơ sở các luật lệ phổ quát do nghị viện ban hành). Đó là cơ

quan hành pháp. Thiết chế tương ứng là chính phủ. 3) Quyền của cái đơn nhất, nói

cách khác, đó là quyền của nguyên thủ quốc gia, người ký các quyết định của nhà

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 52

nước và có một số quyền phủ quyết đối với nghị viện (nhiều chuyên gia ngày nay coi

tư pháp là cơ quan quyền lực thứ 8, nhưng theo Hêgen và nhiều triết gia khác thì tư

pháp chỉ là thiết chế của xã hội công dân). Trong Nhà nước pháp quyền, quyền lực

của cái đơn nhất (nguyên thủ quốc gia) không phải là thứ quyền lực tuỳ tiện như trong

các kiểu Nhà nước khác, mọi văn bản để nguyên thủ quốc gia ký đều do các cơ quan

chức năng chuẩn bị kỹ lưỡng, cho nên, về thực chất, chữ ký của nguyên thủ quốc gia

chỉ có ý nghĩa, theo cách nói của Hêgen, là “đánh dấu chấm trên đầu chữ i”.

Theo Hêgen, mỗi dân tộc có quyền có hình thái Nhà nước đặc thù phù hợp với

trình độ phát triển của mình, nhưng thời đại có quyền cao hơn. Thời đại sẽ không

thèm “đếm xỉa” đến quyền đặc thù của các quốc gia nếu các quyền này đi ngược lại xu

thế phát triển của nó. Dân tộc nào không nắm bắt được tinh thần thời đại và vươn lên

hoà nhập với thời đại thì bất hạnh là điều không tránh khỏi.

Quan niệm nhà nước pháp quyền của Hêgen hoàn toàn khác với quan niệm

Nhà nước pháp trị. Nhà nước pháp quyền trước hết phải là một Nhà nước hợp lý, chỉ

có thể được hình thành trong xã hội hiện đại (khi đã có xã hội công dân). Luật pháp

của Nhà nước pháp quyền nghiễm nhiên được đề cao, không cẩn bất cứ một áp lực

nào, vì nó là sản phẩm của một Nhà nước hợp lý. Sự đề cao pháp luật chỉ là hệ quả

chứ không phải là tiền đề của Nhà nước pháp quyền. Không phải cứ đề cao pháp luật

là có được Nhà nước pháp quyền. Theo Hêgen, Nhà nước hợp lý là Nhà nước mà

trong đó, sự thống nhất giữa ý chí của cá nhân với quy luật phát triển tất yếu của xã

hội được đảm bảo. Muốn thế, Nhà nước này phải là một Nhà nước chính trị, sự thống

nhất của quyền lực là sự thống nhất hữu cơ – thống nhất trên cơ sở phân hoá, đối lập

hợp lý của 3 thiết chế quyền lực: 1) Nghị viện: cơ quan lập pháp, đại diện cho ý chí

của toàn dân, 2) Chính phủ: cơ quan hành pháp, giải quyết công việc hàng ngày của

đất nước trên cơ sở các quy định pháp luật, 3) Nguyên thủ quốc gia: người đứng đầu

đất nước, có quyền quyết định cuối cùng đối với các công việc của đất nước. Nhà

nước này chỉ có thể được hình thành khi xã hội công dân đã ra đời. Hai nền tảng cơ

bản của Nhà nước pháp quyền là gia đình và xã hội công dân.

Gia đình là thực thể luân lý trực tiếp, có nền tảng là sự đồng nhất cảm tính, đó

là tình yêu. Nhưng do nền tảng của gia đình là cái cảm tính nên các quy định của gia

đình dễ mang tính chủ quan và phiến diện.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 53

Xã hội công dân là thiết chế bảo vệ quyền của cái cá nhân đặc thù, sự khác biệt.

đối lập. Không có xã hội công dân thì không có nhân quyền. Nền tảng của xã hội công

dân là cái trí tính (logic hình thức, tư duy siêu hình). Trí tính và gắn liền với nó là

nhân quyền trừu tượng (tách rời với quốc quyền) cũng phiến điện, có thể đẩy mối

quan hệ giữa người với người đến chỗ thù địch, đối xử với nhau như “chó sói với chó

sói”, Xã hội công dân cũng là nơi ý thức đạo đức được khẳng định và phát triển.

Hêgen cho rằng, nhân quyền thể hiện quyền tự do của con người đối với tồn tại

bên ngoài, trước hết là các sản phẩm lao động do chính mình làm ra (quyền sở hữu, ký

kết hợp đồng kinh tế, quyền thành lập và tham gia các hiệp hội…). Đạo đức thể hiện

quyền tự do của con người đối với chính bản thân mình: con người lấy mình làm đối

tượng, tự bắt mình tuân theocác khuôn mẫu hành vi, ứng xử mà mình cho là tất, thiện.

Chính vì thế, hành vi đạo đức mới là hành vi tự nguyện. Quyền của đạo đức cao hơn

nhân quyền. Tuy nhiên, cả nhân quyền và đạo đức cũng chỉ là những quyền tự do có

tính hình thức, phiến diện, không thực chất nếu không phù hợp với quốc quyền, với

luật pháp của Nhà nước pháp quyền.

Nhà nước pháp quyền là sự thống nhất biện chứng “chân lý” của gia đình và xã

hội công dân. Nền tảng của nhà nước là cái lý tính (tư duy biện chứng). Cái lý (thể

hiện qua các quy định pháp luật) của Nhà nước pháp quyền giống như các mạch máu

xuyên suốt các thiết chế xã hội công dân và gia đình, thâm nhập vào các quy định cảm

tính của gia đình và trí tỉnh của xã hội công dân, khắc phục tính chủ quan, phiến diện,

sự hạn chế của chúng. Trong Nhà nước pháp quyền, tình yêu (gia đình), nhân quyền,

đạo đức (xã hội công dân) và cái lý tính (Nhà nước chính trị) thống nhất với nhau.

Theo Hêgen, Nhà nước sẽ tồn tại vĩnh cửu. Quyền của Nhà nước chỉ thấp hơn quyền

của thời đại.

Phoiơbắc

Trong quan niệm về tự nhiên, Phoiơbắc là nhà duy vật; còn trong quan niệm về

xã hội ông lại thể hiện quan điểm duy tâm. Ông khẳng định những thời kỳ lịch sử loài

người sở dĩ khác nhau chỉ do những thay đổi các hình thức tôn giáo; thay thế tôn giáo

cũ bằng tôn giáo mới sẽ làm cho xã hội tiến lên. Ở đây, Phoiơbắc chưa thấy được vai

trò của thực tiễn xã hội quyết định sự vận động phát triển của xã hội loài người.

Khi bàn đến tôn giáo, Phoiơbắc cho rằng, tôn giáo là sản phẩm tất yếu của tâm

lý cá nhân và của sự tưởng tượng của con người. Tôn giáo thể hiện sự mềm yếu, bất

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 54

lực của con người trước sức mạnh tự nhiên và điều kiện của xã hội. Chính con người

đã bày đặt ra thần thánh bằng cách trìu tượng hóa bản chất con người. Do vậy, cần

thay thế tôn giáo cũ bằng thứ tôn giáo mới không cần có thần thánh, chúa trời mà lấy

tình yêu giữa người với người làm nền tảng.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 55

CHƯƠNG III. SO SÁNH TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI TRONG TRIẾT

HỌC PHƯƠNG TÂY TỪ CỔ ĐẠI ĐẾN CẬN ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG

ĐÔNG

III.1. Quan điểm về con người trong triết học Phương Đông.

Một trong những vấn đề trọng tâm của triết học phương Đông là vấn đề con

người. Khi bàn về con người, triết học phương Đông thường đi sâu vào các vấn đề về

nguồn gốc, bản chất con người,… để tìm ra con đường, phương pháp giải phóng con

người, mưu cầu một cuộc sống hạnh phúc cho con người.

III.1.1 Quan điểm về con người trong triết học Ấn Độ:

Triết học Ấn Độ rất phong phú, huyền bí với Kinh Vêđa, Kinhpanishad, đạo

Jaina, đạo Phật và các trào lưu triết học mang tính hệ thống, chặc chẽ như: triết học

Lôkayatta, Vaisêsika, Nyaya, Yôga, Vêđanta… đã có nhưng tư tưởng triết học rất

khác nhau về con người. Điểm nổi bật của quan điểm về con người trong triết học Ấn

Độ là luôn hướng về đời sống tâm linh, cố gắng tìm hiểu bản chất con người và chỉ ra

con đường giải phóng cho con người. Về vấn đề con người và giải phóng con người

đã được các nhà triết học Ấn Độ bàn luận một cách khá rộng rãi ngay từ thời cổ đại.

Điển hình như sau:

Kinh Upanishad: Con người bao gồm thể xác và linh hồn (átman).

- Linh hồn sống của con người là sự biểu hiện / bộ phận của “tinh thần tối

cao” (Brahman).

- Thể xác của con người là cái “vỏ bọc” của linh hồn, là nơi trú ngụ tạm thời

của linh hồn bất tử.

Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa danh & sắc, do vô minh mang lại

- Cuộc sống trần thế của con người chỉ là sống gửi, đầy khổ ải; on người phải

hướng tới cuộc sống vĩnh cửu của mình - niết bàn.

- Con người phải diệt trừ dục vọng, khắc phục vô minh, từ bỏ tham, sân, si; bằng

cách tự giác thực hành “bát chánh đạo”, “tam học”, “lục độ”, phải hiểu biết “tứ

diệu đế”, v.v.

Phái Lôkayata đã có quan điểm duy vật khi cho rằng rằng, bốn yếu tố (đất, nước,

lửa, gió) là bản nguyên vật chất từ đó sinh ra thế giới vạn vật và con người.

III.1.2 Quan điểm về con người trong triết học Trung Quốc:

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 56

Quan điểm về con người trong triết học Trung Quốc rất đa dạng và phức tạp, thậm chí

xung đột, mâu thuẫn nhau hết sức gay gắt. Nhưng nhìn chung, các trường phái triết

học điều lấy con người làm trung tâm và mục tiêu nhận thức, đồng thời đề cao tính

nhân văn, khẳng định giá trị của con người đối với chính bản thân mình và đối với thế

giới bên ngoài.

Nho giáo: Con người bị quyết định bởi thiên mệnh

- “Thiên mệnh chi vị tính, suất tính chi vị đạo, tu đạo chi vị giáo” (Khổng

Tử);

- Quan điểm của Mạnh Tử : Nhân chi sơ, tính bản thiện

Mạnh Tử cho rằng bản chất con người vốn là thiện, tính thiện đó là do thiên

phú chứ không phải là do con người lựa chọn. Nếu con người biết giữ gìn thì làm cho

tính thiện ngày càng mạnh thêm; nếu không biết giữ gìn sẽ làm cho nó ngày càng mai

mọt đi thì con người trở nên nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.

Từ đó, Mạnh Tử kết luận: bản chất con người là thiện nhưng con người hiện

thực có thể là ác, đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo lộn. Cho nên, để

thiết lập quốc gia thái bình thịnh trị thì phải trả lại cho con người tính thiện bằng

đường lối chính trị lấy nhân nghĩa làm gốc.

Tuân Tử: Nhân chi sơ, tính bản ác: Bản tính con người khi sinh ra đã ác. Tuy

nhiên, Tuân tử vẫn tin vào khả năng cải tạo con người. Ông nói: “Nhân chi tính ác, kỳ

thiện giả ngụy dã” (Bản tính của người là ác, những điều thiện là do con người đặt ra),

có nghĩa là tuy con người có bản chất xấu, nhưng bản chất đó có thể cải tạo được nhờ

cái thiện do con người tạo ra – cái thiện ấy là sản phẩm của giáo dục, lễ nghĩa, hình

pháp, mà Tuân tử đặc biệt coi trọng.

Đổng Trọng Thư, một người kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực

đoan quan niệm rằng trời và con người có thể thông hiểu lẫn nhau (thiên nhân cảm

ứng). Nhìn chung, đây là quan điểm duy tâm, quy cuộc đời con người vào vai trò

quyết định của “thiên mệnh”.

Mặc gia: chống lại Thiên mệnh, đưa ra Thiên ý

- Không có số mệnh; chỉ có Thiên ý [ý của Trời (và của Quỷ thần) muốn mọi

người yêu nhau không phân biệt sang hèn, là khuôn phép của hành vi con người].

- Nếu thuận theo ý Trời, con người sẽ được giàu sang, trường thọ, & ngược lại.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 57

- Nếu nỗ lực làm việc, tiết kiệm, con người sẽ no đủ, & ngược lại.

- Con người phải thực hành Kiêm ái, Thượng đồng, Thượng hiền,…

Đạo gia: Con người sinh ra từ Đạo (tự nhiên), do đó con người phải sống vô vi

(hợp với tự nhiên), không nên tranh đoạt biết xa lánh đời để trở về với tự nhiên

(Lão Tử)

Pháp gia: Con người ta sinh ra vốn đã có sẵn lòng tham dục, tư lợi; mọi quan hệ

xã hội đều được xây dựng trên cơ sở tính tốn lợi ích cá nhân. Vì thế, kẻ thống trị

phải căn cứ vào tâm lý tránh hại, cầu lợi, vị kỷ của con người mà định ra pháp luật

(để thưởng phạt) nhằm duy trì trật tự xã hội.

Âm dương gia: Con người được tạo thành âm dương / ngũ hành,…

Tóm lại, triết học Trung Quốc khi bàn về con người đã đưa ra nhiều quan điểm hết

sức phong phú và sâu sắc, nhiều khi mâu thuẫn hết sức gay gắt, điều đó phản ánh cuộc

đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật vô thần với quan điểm duy tâm,tôn giáo. Nhưng cách

trình bày nhiều khi chồng chéo nhau, xâm nhập nhau, lọc bỏ, tiếp thu lẫn nhau. Do

vậy, khó phân biệt thành trường phái, xu hướng khác nhau. Một trong những tư tưởng

độc đáo về con người triết học Trung Quốc là tư tưởng “thiên thời hợp nhất”, đề cao

con người nhưng không tuyệt đối hóa con người, chủ trương giữ gìn sự cân bằng, ổn

định mối quan hệ tự nhiên-xã hội; quan hệ giữ con người với con người. Khi bàn về

con người, các nhà triết học Trung Quốc chỉ quan tâm đến các vấn đề như: “tính

người”, “tâm người”v.v…Nghĩa là chỉ bản đến các phẩm chất tinh thần, ý thức, tâm

lý, tư tưởng của con người. Chính vì vậy mà các tư tưởng triết học về xã hội-nhân văn

đặc biệt phát triển, còn tư tưởng triết học về tự nhiên lại đơn giản, nghèo nàn.

III.1.3 Nhận xét

Như vậy, có thể thấy Triết học Phương Tây từ cổ đại đến cổ đại và Triết học

Phương Đông có điểm chung là lấy con người làm đối tượng nghiên cứu và tư tưởng

về con người cũng có nhiều nét tương đồng. Cả hai nền triết học giai đoạn này có

những điểm giao thoa, đặc biệt là quan điểm về con người, về linh hồn và thể xác, về

đạo đức con người….

Tuy nhiên có thể nhận thấy sự khác biệt rõ ràng giữa hai nền triết học này như

sau:

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 58

- Triết học Phương Đông nhấn mạnh sự thống nhất trong mối quan hệ giữa con

người và vũ trụ trên cơ sở nguyên tắc “thiên nhân hợp nhất”, sự hòa hợp giữa con

người và vũ trụ, như Mạnh Tử đã từng nói “vạn vật đều có trong ta”. Trong khi đó,

triết học phương Tây lại tách con người ra khỏi vũ trụ, coi con người là chủ thể, là

chúa tể để nghiên cứu chinh phục vũ trụ.

- Do thế giới quan triết học khác nhau nên hướng tiếp cận cũng có tính chất

khác nhau. Hướng tiếp cận nghiên cứu trong Triết học Phương Đông mang tính hướng

nội, hay nói cách khác, nghiên cứu thế giới cũng là để làm rõ con người và vấn đề bản

thể luận khá mờ nhạt. Ngược lại, hướng tiếp cận nghiên cứu trong Triết học Phương

Tây mang tính hướng ngoại, hay nghiên cứu con người để giải thích thế giới khách

quan và bản thể luận luận về vũ trụ in dấu đậm nét.

- Triết học Phương Tây quan tâm mổ xẻ mặt sinh học, tâm lý con người, đề cao

cái tự nhiên – mặt sinh vật trong con người, ít chú ý tới mặt xã hội của con người,

chú ý giải phóng con người về mặt nhận thức, có lúc đề cao con người nhân vị, con

người cá nhân đến cực đoan trong khi triết học Phương Đông lại tập trung, quan tâm

tới mối quan hệ người với người và đời sống tâm linh, tình cảm của con người, ít quan

tâm tới mặt sinh vật của con người. Triết học phương Đông chủ yếu nghiên cứu mặt

đạo đức con người thiện hay ác trên lập trường của giai cấp thống trị nên nghiên cứu

con người là để cai trị con người, chứ không phải để giải phóng con người.

III.2. Quan điểm về xã hội trong triết học Phương Đông

III.2.1 Quan điểm về xã hội trong Triết học Ấn Độ cổ - trung đại.

Triết học Ấn Độ cổ - trung đại đã đặt ra và cố giải quyết nhiều vấn đề, song

những vấn đề được ưu tiên giải quyết là nhóm các vấn đề thuộc về nhân sinh, nhằm

tìm kiếm con đường giải thoát chúng sinh ra khỏi thực tế xã hội luôn xung độ đẳng

cấp và chủng tộc khắc nghiệt.

+ Tư tưởng Upanisad: tính bất biến của chế độ đẳng cấp.

+ Phật giáo phản đối chế độ đẳng cấp, tố cáo bất công, đòi công bằng bình đẳng xã

hội. Dù Phật giáo mang tính duy tâm chủ quan, thần bí, không tưởng nhưng chứa tính

nhân bản, nhân đạo sâu sắc.

III.2.2 Quan điểm về xã hội trong Triết học Trung Hoa cổ - trung đại.

Triết học Trung Hoa cổ - trung đại tập trung giải quyết những vấn đề do thực

tiễn đạo đức - chính trị - xã hội của thời đại đặt ra.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 59

Nho gia:

Khổng Tử chú trọng Tam đức “Người quân tử có trí nên không nhầm lẫn, có

nhân nên không buồn phiền, có dũng nên không có gì phải kinh sợ”

Mạnh Tử coi trọng Tứ đức

Đổng Trọng Thư đề cao Ngũ thường “trời có ngũ hành, xã hội có ngũ luân,

người có ngũ thường”.

Nhận xét: Nho gia đưa ra mẫu người quân tử (cai trị XH bằng phẩm chất đạo

đức) nhằm xây dựng xã hội đại đồng (tam cương).

Để trở thành người quân tử phải lấy tu thân làm gốc; tu thân rồi tề gia, trị quốc,

bình thiên hạ;

Muốn tu thân phải đạt đạo, đạt đức, biết thi, thư, lễ, nhạc;

Muốn hành động hiệu quả phải thực hành đường lối nhân trị & chính danh.

+ Hán Nho: Đến đời Hán, Đại Học & Trung Dung được gộp vo Lễ Ký. Hán Vũ

Đế nghe theo Đổng Trọng Thư đưa Nho giáo lên hàng Quốc giáo (hệ tư tưởng -đề cao

quyền lực của giai cấp thống trị, coi Thiên tử là con trời, dùng lễ trị để che đậy pháp

trị).

+ Tống Nho: Đến đời Tống, Đại Học, Trung Dung được tách ra khỏi Lễ Ký và

cùng với Luận ngữ và Mạnh Tử tạo nên bộ Tứ Thư. Tứ Thư & Ngũ Kinh là kinh điển

Nho gio. Chu Hy, Trình Hạo, Trình Di đã bổ sung các yếu tố tâm linh và siêu hình để

đo tạo quan lại và cai trị nhân dân.

Nhận xét: Triết học Nho gia quan điểm về xã hội thông qua quan điểm về

người quân tử. Một xã hội lý tưởng là một xã hội được người quân tử cai trị. Tuy

nhiên, người quân tử và xã hội đại đồng mãi mãi chỉ là một lý tưởng.

Đạo gia:

+ XH càng xa đạo càng có nhiều mâu thuẫn (tai họa). Thủ tiêu mâu thuẫn trong

XH bằng cách: Đẩy mạnh 1 trong 2 mặt đối lập để tạo ra sự chuyển hóa (phản phục)

hay cắt bỏ 1 trong 2 mặt đối lập để làm cho mặt kia tự mất đi (quân bình).

+ Hành động hay nhất là không can thiệp đến việc đời, nhưng nếu phải làm thì

hãy làm cái không làm một cách kín đáo (vô vi).

+ Thánh nhân trị vì thiên hạ bằng vô vi Xóa mọi ràng buộc về đạo đức, pháp

luật; Trả lại cho con người cái bản tính tự nhiên của nó.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 60

+ XH lý tưởng là XH nguyên thủy chất phác, tự nhiên (vô vi): con người tách

khỏi XH, hòa tan vào đạo (nước nhỏ dân ít biệt lập; không dùng thuyền, xe, gươm

giáo…; bỏ văn tự, tư lợi, không học hành...).

Mặc gia:

Chủ thượng đồng (thống nhất tư tưởng, hành động mọi người trong XH, đồng

thuận trên dưới), thượng hiền (tiến cử & sử dụng người tài trong việc công; phế bỏ

quan bất tài…), tiết dụng, tiết táng, phi nhạc, phi công…Về chính trị, Mặc gia đại biểu

cho tầng lớp tiểu tư hữu đang bị phá sản trong thời Chiến quốc chủ trương thỏa hiệp.

Pháp gia

+ Đời sống XH luôn biến đổi Không có khuôn mẫu chung cho mọi XH, không

có pháp luật luôn đúng Pháp luật biến chuyển theo thời đại thì thiên hạ trị, còn thời

thế thay đổi mà phép trị dân không đổi thì thiên hạ loạn.

+ Bản tính con người là ác Trong XH người tốt ít, kẻ xấu nhiều Muốn XH trị

không nên chờ số ít làm việc thiện (nhân nghĩa trị), mà phải ngăn số đông làm điều ác

(pháp trị).

+ Phải nắm lấy cái lý của vạn vật luôn biến hóa mà hành động cho phù hợp, phải

căn cứ vào nhu cầu của lịch sử, đặc điểm của thời thế mà lập ra chế độ, chính sách trị

nước thích hợp.

Có thể nói, thuyết pháp trị của Hàn Phi nói riêng, của Pháp gia nói chung chủ

trương lấy pháp luật làm căn bản trong cai trị đất nước, chủ trương nhà cầm quyền

không phải chú trọng nhiều đến việc tu thân theo nghĩa là đặt ra luật pháp cho rõ ràng

và ban bố cho mọi người cùng biết để tuân theo nghiêm chỉnh. Vì vậy, về nguyên tắc,

chủ trương pháp trị đối lập với chủ trương nhân trị. Nhưng xét cho cùng, pháp trị cũng

chỉ là một hình thức cụ thể của nhân trị mà thôi. Bởi vì muốn thi hành được các chủ

trương phái pháp gia nêu ra, xã hội cũng cần một đấng minh quân, một nhà vua sáng

suốt, am hiểu nguyên tắc pháp trị và chịu khép mình theo nguyên tắc đó. Trong thời

đại bấy giờ, chủ trương của phái Pháp gia dùng pháp luật để trị nước là đúng đắn.

III.2.3 Nhận xét:

So sánh với tư tưởng về xã hội trong Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại

nói trên thì có thể nhận thấy rằng, quan điểm về xã hội trong hai nền Triết học đều có

điểm chung là tư tưởng xã hội được nghiên cứu trên lập trường, tư tưởng của giai cấp

thống trị, cùng đạt tới một mục tiêu chung về xây dựng một xã hội lý tưởng, một nhà

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 61

nước/triều đại cai trị đảm bảo được hạnh phúc của con người. Tuy nhiên, có thể thấy,

tư tưởng về xã hội trong Triết học phương Tây từ cổ đại đến cận đại được phản ánh đa

dạng hơn trong các giai đoạn phát triển của lịch sử, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, sang

chế độ phong kiến và qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do vậy, tư tưởng về xã hội đã có

những phát triển nhất định để phản ánh yêu cầu thực tiễn hình thành trong các chế độ

xã hội khác nhau này. Các tư tưởng trong Triết học phương Đông nói chung và tư

tưởng về xã hội nói riêng không mang tính đột phá mà chủ yếu là được kế thừa và

phát triển qua các giai đoạn khác nhau. Vì vậy, sự xung đột trong tư tưởng dù có ít

nhiều nhưng không gay gắt như trong Triết học phương Tây. Ngoài ra, do chế độ

phong kiến kéo dài nên những tư tưởng về xã hội trong Triết học phương Đông, đặc

biệt là Triết học Trung Hoa cổ đại chủ yếu phục vụ giai cấp thống trị và liên quan mật

thiết tới việc xây dựng một xã hội lý trưởng quân minh – tôi trung do người quân tử

cai trị.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 62

CHƯƠNG IV: SO SÁNH TƯ TƯỞNG CON NGƯỜI, XÃ HỘI TRONG TRIẾT

HỌC PHƯƠNG TÂY TỪ CỔ ĐẠI TỚI CẬN ĐẠI VÀ TRIẾT HỌC MARX

IV.1 Tư tưởng của triết học Marx- Lenin về con người xã hội:

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời

khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học và yếu tố xã hội.

Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do

đó, bản tính tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài

của nó. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con

người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là "thân thể vô cơ của con người"; con người là

một bộ phận của tự nhiên; là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi

trường tự nhiên.

Tuy nhiên, điều cần khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy

nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con

người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó. Trong lịch sử đã có

những quan niệm khác nhau phân biệt con người với loài vật, như con người là động

vật sử dụng công cụ lao động, là "một động vật có tính xã hội", hoặc con người

động vật có tư duy... Những quan niệm trên đều phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một

khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con người mà chưa nêu lên được nguồn

gốc của bản chất xã hội ấy

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con

người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà

trước hết là lao động sản xuất ra của cải vật chất. "Có thể phân biệt con người với súc

vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân

con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản

xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của

con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người

đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình".

Thông qua hoạt động sản xuất vật chất; con người đã làm thay đổi, cải biến

giới tự nhiên: "Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản

xuất ra toàn bộ giới tự nhiên"

Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất; hoạt

động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội của con người.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 63

Thông qua hoạt động lao động sản xuất, con người sản xuất ra của cải vật chất và

tinh thần, phục vụ đời sống của mình; hình thành và phát triển ngôn ngữ và tư duy;

xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất

xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã

hội.

Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của

con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng

thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cơ

thể với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến

hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm

lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình

thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định

quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo

nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học

và mặt xã hội. Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan

hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội

trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của

con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài

vật. Nhu cầu sinh học phải được "nhân hóa" để mang giá trị văn minh con người,

và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh

học. Hai mặt trên thống nhất với nhau, hoà quyện vào nhau để tạo thành con người

viết hoa, con người tự nhiên - xã hội.

Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, K. Marx đã nêu lên luận đề nổi

tiếng trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc: "Bản chất con người không phải là

một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản

chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội". Luận đề trên khẳng định

rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch

sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch

sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng

hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần

để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối

quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 64

tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã

hội của mình. Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có

nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt

tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt xã hội; ngay cả việc thực hiện những

nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan niệm bản chất con

người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn,

tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.

IV.2 Nhận xét:

Từ tư tưởng vê con người của triết học Marx và triết học trước Marx chúng

ta có thể thấy rõ điểm khác khác biết về tư tưởng con người đó là triết học trước

Marx đã không nhận thấy phương diện xã hội của con người mà nhờ đó con

người mới tiến hoá khác biệt với các loài động vật khác. Chính sự tác động của

phương diện xã hội mà xã hội loài người phát triển hình thành các hình thái nhà

nước theo thời gian. Điểm khác biệt thứ hai là triết học Marx đã sử dụng phương

pháp duy vật biện chứng khắc phục hạn chế của phương pháp duy tâm hay duy

vật ngây thơ chất phác của triết học thời kỳ cổ đại và trung đại và khắc phục hạn

chế phương pháp siêu hình của triết học thời kỳ phục hung cận đại hay phương

pháp duy vật biện chứng không triệt để của Hegel. Điểm khác biệt thứ ba là theo

Marx- Lênin không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh

lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch

sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 65

KẾT LUẬN

Trong Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại nói riêng và Triết học

phương Tây nói chung cũng như Triết học phương Đông, vấn đề con người, xã hội

luôn nằm trong số các vấn đề thu hút sự tham gia nghiên cứu của các triết gia tiêu

biểu qua các thời kỳ và giai đoạn. Tư tưởng của các triết gia về các vấn đề này

phản ánh thực tiễn điều kiện, hoàn cảnh kinh tế xã hội tại các giai đoạn này. Tuy

còn có những hạn chế nhất định do các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định

quy định tại thời điểm đó cũng như những hạn chế trong phương pháp tiếp cận

nhưng Triết học phương Tây từ cổ đại tới cận đại đã đánh dấu sự xuất hiện và phát

triển những tư tưởng mới, tiến bộ về con người, xã hội, đặt nền móng cho sự phát

triển nói chung của Triết học phương Tây. Những tư tưởng này sau này đã được

Marx, Ph. Ănghen và Lênin phân tích sâu sắc, chỉ ra những mặt hạn chế, kế thừa

những điểm mới, tiến bộ và phát triển một cách toàn diện các tư tưởng về con

người và xã hội.

Tư tưởng Con người, Xã hội trong Triết học Phương Tây cổ đại tới cận đại

Trang 66

Tài liệu tham khảo

1. Bùi Văn Hóa, Triết học Phương Tây, tài liệu giảng dạy, ĐHKHXHNV.

2. Đỗ Minh Hợp-Nguyễn Thanh-Nguyễn Anh Tuấn, Đại Cương Lịch Sử Triết Học

Phương Tây, NXB Tổng Hợp Tp HCM, 2003.

3. Hà Thúc Minh, Triết học cổ Hy Lạp La Mã, NXB. Mũi Cà Mau, 1997..

4. Nguyễn Hóa, Triết học cổ hy lạp giảng yếu, NXB. Thanh Niên, 2007.

5. Nguyễn Ngọc Thu - Bùi Văn Mưa, Đại Cương Lịch Sử Triết Học, NXB Tổng Hợp

TPHCM, 2003

6. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây, NXB Tổng Hợp TP. HCM,

2006.

7. Trịnh Đình Thanh, Khái lược lịch sử triết học Phương Tây, Tài liệu giảng dạy, Đại

học Mở TPHCM, 2009.