uỶ ban nhÂn dÂn cỘng hoÀ xà hỘi chỦ … ban...uỶ ban nhÂn dÂn tỈnh ninh bÌnh...
TRANSCRIPT
UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH NINH BÌNH
Số: / BC-UBND
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Ninh Bình, ngày tháng 12 năm 2019
BÁO CÁO
Công tác chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh Ninh Bình năm 2019
Kính gửi: Văn phòng Chính phủ
Thực hiện công văn số 9324/VPCP-TH ngày 12/10/2019 của Văn phòng
Chính phủ, UBND tỉnh Ninh Bình báo cáo công tác chỉ đạo, điều hành năm 2019,
như sau:
I. Những ưu điểm nổi bật:
1. Tập trung thực hiện tích cực, có hiệu quả các cơ chế, chính sách và
giải pháp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; đẩy mạnh sản xuất
công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới và phát triển dịch vụ, đặc
biệt là dịch vụ du lịch; nâng cao chất lượng các hoạt động văn hóa xã hội và
giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội; an ninh quốc phòng được đảm bảo, trật
tự an toàn xã hội được ổn định
- UBND tỉnh đã khẩn trương chỉ đạo giao kế hoạch năm 2019 cho các đơn
vị sớm và tổ chức triển khai các nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp thực hiện kế
hoạch; tập trung giải quyết tháo gỡ khó khăn giúp các đơn vị và doanh nghiệp
thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu đề ra; ban hành chương trình công tác của UBND
tỉnh, tập trung vào 31 nhiệm vụ cơ bản, trọng tâm, 135 nhiệm vụ cụ thể để triển
khai thực hiện.
- UBND tỉnh đã xây dựng và ban hành kịp thời các cơ chế chính sách phù
hợp đối với từng địa phương, đảm bảo đúng mục đích, đúng pháp luật nhằm tăng
cường thu hút đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp.
- Thực hiện nghị quyết số 01/NQ-CP Chính phủ về những nhiệm vụ, giải
pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển KT-XH và dự toán
NSNN năm 2019, các chỉ đạo của Trung ương, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã
ban hành các Kế hoạch, đề án tập trung chỉ đạo thực hiện, cụ thể hóa nhiệm vụ của
từng ngành, từng đơn vị, xây dựng các giải pháp chi tiết, tổ chức tập trung thực hiện
và đã đem lại những kết quả tích cực.
- Thường xuyên rà soát, kịp thời chấn chỉnh và thực hiện các giải pháp tăng
cường công tác quản lý nhà nước trên địa bàn. Đặc biệt về đầu tư xây dựng cơ bản,
tài chính, tín dụng, thu ngân sách, an ninh trật tự trên địa bàn, giải quyết khiếu nại tố
cáo an toàn lao động, bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, văn hóa du lịch.
2. Thực hiện nghiêm quy chế làm việc
- UBND tỉnh đã bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, quy định
của Nhà nước, ban hành 05 Kế hoạch triển khai để thực hiện các Nghị quyết, kết
luận của Ban cán sự Đảng UBND tỉnh; đồng thời, ban hành Chương trình công
tác năm 2019 với 31 nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt theo từng quý và 135 nhiệm
2
vụ cụ thể giao cho từng đơn vị thực hiện tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị phát
huy lợi thế, huy động các nguồn lực tập trung giải quyết, tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội và
quyền lợi của người lao động; phát triển du lịch; bảo vệ tài nguyên, môi trường;
tăng cường quốc phòng, an ninh; chủ động phòng, chống, giảm nhẹ thiên tai, tìm
kiếm cứu nạn; nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại; đẩy mạnh công tác phòng,
chống tham nhũng, lãng phí.... thực hiện theo đúng phương châm hành động của
Chính phủ trong năm 2019 là "kỷ cương, liêm chính, hành động, sáng tạo, bứt
phá, hiệu quả".
- UBND tỉnh duy trì tốt chế độ giao ban hàng tuần giữa Chủ tịch và các Phó
Chủ tịch, ban hành kịp thời Thông báo về chủ trương của tỉnh đến các ngành và địa
phương triển khai thực hiện, đảm bảo yêu cầu nhiệm vụ.
- UBND tỉnh đã bám sát các chủ trương, chính sách của Đảng, quy định
của Pháp luật, bám sát chỉ đạo của Chính phủ, Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy
và của HĐND tỉnh trong các lĩnh vực để ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo
điều hành. Trong năm 2019, UBND tỉnh đã tiếp nhận, xử lý trên 20.000 văn bản
của Trung ương, các ngành, địa phương, tổ chức. Đồng thời ban hành trên
10.000 văn bản các loại phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác chỉ đạo điều hành.
- Chế độ thông tin, báo cáo được thực hiện nghiêm túc. Công tác kiểm tra việc
thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh được đề cao; kịp thời phát hiện thiếu sót, chỉ đạo
quyết liệt khắc phục hậu quả và giải quyết các vấn đề nảy sinh.
- UBND tỉnh Ninh Bình đã thực hiện nghiêm túc Quy chế làm việc của Chính
phủ, thực hiện tốt các nhiệm vụ được Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ giao đảm
bảo tuân thủ đúng theo Quyết định số 42/2014/QĐ-Ttg ngày 27/7/2014 của Thủ
tướng Chính phủ.
3. Kinh tế - xã hội tiếp tục phát triển
Năm 2019 là năm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020, trước những biến động của tình hình kinh tế -
chính trị trong nước, thế giới và diễn biến phức tạp, khó lường của dịch bệnh;
song UBND tỉnh đã bám sát sự chỉ đạo của Chính phủ, Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh,
nêu cao tinh thần trách nhiệm, đoàn kết, phát huy dân chủ, tập trung lãnh đạo,
chỉ đạo kịp thời, sâu sát, quyết liệt, linh hoạt, có trọng tâm, trọng điểm; cùng với
sự nỗ lực, quyết tâm phấn đấu của các ngành, các cấp, cộng đồng doanh nghiệp,
quân và dân trong tỉnh đã tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu
nghị quyết của HĐND tỉnh ngay từ những tháng đầu năm. Do đó, tình hình phát
triển kinh tế - xã hội năm 2019 tiếp tục tăng trưởng và phát triển toàn diện trên
tất cả các lĩnh vực: Tốc độ tăng trưởng (GRDP) cao nhất từ đầu nhiệm kỳ, đạt
10,02%, thu ngân sách đạt kết quả cao; sản xuất công nghiệp tăng trưởng
mạnh; nông nghiệp tiếp tục phát triển, phong trào xây dựng Nông thôn mới đạt
kết quả tốt; dịch vụ, du lịch tiếp tục phát triển; văn hóa - xã hội có tiến bộ, an
sinh xã hội được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân tiếp tục
được cải thiện và nâng cao. Công tác xúc tiến đầu tư được quan tâm, công tác
đối ngoại được mở rộng; quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường; an
ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Công tác cải cách hành
3
chính, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền điện tử, giải quyết
khiếu nại, tố cáo được tập trung chỉ đạo và có chuyển biến tích cực; hoạt động
của chính quyền các cấp có nhiều đổi mới, hiệu quả quản lý nhà nước được
nâng lên rõ rệt. Đã hoàn thành và hoàn thành vượt mục tiêu 16/16 chỉ tiêu chủ
yếu về phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, trong đó có 09/16 chỉ tiêu vượt mục
tiêu kế hoạch; Nhiều chỉ tiêu đã đạt và vượt ở mức cao so với mục tiêu Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XXI.
- Sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao, tổng giá trị sản
xuất (theo giá SS 2010) đạt trên 71,83 nghìn tỷ đồng, tăng 24,46% so với năm
2018, vượt 25,81% kế hoạch năm. Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực chiếm tỷ
trọng lớn và có mức tăng trưởng cao so với năm 2018 như: lắp ráp xe ô tô tăng
14,1% và đóng góp 26,94% vào tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp;
Modul camera đạt 178,2 triệu chiếc, tăng 71,7% và đóng góp 24,11% vào tốc độ
tăng trưởng của ngành công nghiệp; kính nổi, tăng 34,1%; linh kiện điện tử tăng
22,4%; giày, dép tăng 63,7%... Bên cạnh đó, một số sản phẩm có mức sản xuất
giảm sút so với năm 2018 như: Phân lân nung chảy, phân hỗn hợp NPK giảm
22,4%, thép cán các loại giảm 4,4%...Phát triển tiểu thủ công nghiệp tập trung tại
các cụm công nghiệp tiếp tục ổn định theo quy hoạch đã được phê duyệt; các
làng nghề, ngành nghề thủ công mỹ nghệ được quan tâm và phát triển, góp phần
gìn giữ và phát huy nét văn hóa truyền thống của địa phương, tạo ra nhiều sản
phẩm tiêu biểu phục vụ du lịch và xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
- Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, nhất là bệnh Dịch tả
lợn Châu Phi, biến động của giá cả thị trường… Song các cấp, các ngành và
nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực phấn đấu, tập trung khắc phục khó khăn, chuyển
đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản
xuất, thực hiện nhiều mô hình sản xuất có hiệu quả cao. Giá trị sản xuất/1 ha đất
canh tác đạt 130 triệu đồng, vượt kế hoạch đề ra. Tổng giá trị sản xuất đạt 8,65
nghìn tỷ đồng, tăng 2,35% so với năm 2018.
+ Một số diện tích đất trồng lúa kém hiệu quả được chuyển đổi mục đích sử
dụng để nuôi thủy sản kết hợp với trồng cây lâu năm nên tổng diện tích gieo
trồng đạt 98,7 nghìn ha, giảm 887,6 ha so với năm 2018. Năng suất lúa đạt 60,8
tạ/ha, tăng 0,4 tạ/ha so với năm 2018; diện tích lúa đặc sản, chất lượng cao đạt
65,6%.
+ Chăn nuôi gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ảnh hưởng của dịch tả lợn
Châu Phi đã xảy ra tại 142 xã, phường; phải tiêu hủy trên 6.243 tấn. Đã tích cực
thực hiện các biện pháp phòng, chống, khống chế dịch bệnh, hỗ trợ xử lý thiệt
hại trên 228 tỷ đồng, cấp 335 nghìn con gà giống, giúp người dân kịp thời
chuyển hướng sản xuất. Đặc biệt là các cơ sở chăn nuôi lợn quy mô lớn vẫn đảm
bảo an toàn.
+ Nuôi trồng thủy sản tăng cả về diện tích, sản lượng và nâng cao được
chất lượng sản xuất con giống cũng như giá trị sản phẩm. Phát triển lâm nghiệp
được chú trọng, nhất là chăm sóc, trồng rừng phòng hộ và khoanh nuôi tái sinh
rừng đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra. Công tác phòng chống thiên tai,
tìm kiếm cứu nạn đạt kết quả tốt.
4
+ Xây dựng nông thôn mới tiếp tục được đẩy mạnh và đạt kết quả tốt; tổ
chức thành công Hội nghị tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Năm 2019 có 3 xã và 24
thôn nông thôn mới kiểu mẫu, có thêm 10 xã NTM. Đến nay đã có 02 huyện đạt
chuẩn NTM, 01 thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM, 101/118 xã về
đích NTM, vượt xa mục tiêu Nghị quyết đại hội 21 đã đề ra.
+ Công tác thủy lợi, đê điều và phòng chống lụt bão, tiếp tục được quan
tâm, chỉ đạo, chú trọng vào công tác tưới, tiêu cho cây trồng và củng cố hệ thống
công trình thủy lợi phục vụ sản xuất. UBND tỉnh đã sớm ban hành Phương án
02/PA-UBND ngày 04/4/2019 về phương án ứng phó thiên tai theo cấp độ rủi ro
thiên tai trên địa bàn tỉnh Ninh Bình; Trong năm, các đồng chí lãnh đạo UBND
tỉnh đã đi kiểm tra thực tế công tác phòng chống lụt bão tại các điểm xung yếu
và quyết định cấp vốn dự phòng ngân sách cấp tỉnh để xử lý một số điểm xung
yếu đáp ứng yêu cầu phòng chống lụt bão năm 2019 với tổng số kinh phí là
42,103 tỷ đồng. Việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vụ vi phạm về đê điều và
Luật Phòng chống thiên tai được tăng cường; nhiệm vụ thường trực phòng, chống
lụt bão, tìm kiếm cứu nạn 24/24h được thực hiện thường xuyên. Công tác phòng
cháy chữa cháy rừng được tập trung chỉ đạo; tập trung chữa cháy rừng hiệu quả,
không để lây lan rộng.
Hoạt động xuất khẩu có sự tăng trưởng vượt bậc về kim ngạch và mở rộng
thị trường. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 2,1 tỷ USD, tăng 35,2% so với
năm 2018. Một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như: Camera và linh kiện
điện thoại, Ximăng clanke, quần áo, giầy dép... Kim ngạch nhập khẩu ước đạt
2,8 tỷ USD, tăng 47,5%; chủ yếu là máy móc thiết bị, linh kiện điện tử, phụ liệu
may mặc…
- Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 1,2% so với năm 2018 và đạt
kế hoạch đề ra. Trong đó: Vốn ngân sách Nhà nước tăng 19,5%; vốn Trái phiếu
Chính phủ giảm 9,1%; vốn ngoài nhà nước tăng 2,3%. Tập trung vào các công
trình trọng điểm về phát triển hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, xây dựng nông
thôn, phục vụ sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Thu hút, xúc tiến đầu tư
đạt nhiều kết quả khả quan; năng lực cạnh tranh cấp tỉnh được nâng lên.
Năm 2019 đã cấp mới Giấy chứng nhận đầu tư cho 46 dự án, tăng 22 dự án
so với năm 2018 với tổng vốn đăng ký gần 10,3 nghìn tỷ đồng, tăng gấp 5 lần.
Có trên 809 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 10% so với năm 2018, với tổng số
vốn đăng ký hoạt động kinh doanh 5.500 tỷ đồng. Đồng thời thành lập Đoàn
kiểm tra liên ngành kiểm tra rà soát các dự án, qua đó xử lý nghiêm các sai
phạm và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện
các dự án trên địa bàn tỉnh.
- Dịch vụ tài chính, ngân hàng tiếp tục phát triển. Huy động vốn tăng
18,3% so với năm 2018, cho vay tăng trên 18%; đã hạn chế được tình trạng nợ
xấu; cho vay hộ nghèo, hộ chính sách tăng 7,7%; cơ bản đáp ứng nhu cầu phát
triển.
- Hoạt động du lịch tiếp tục phát triển và đạt được nhiều kết quả tích cực;
có 7,65 triệu lượt khách, tăng 4,79% so với năm 2018, doanh thu tăng 12,5%.
Công tác quản lý Nhà nước về du lịch tiếp tục được quan tâm coi trọng, tổ chức
5
tốt các Lễ hội, các chương trình du lịch và tích cực chuẩn bị các điều kiện tổ
chức năm Du lịch Quốc gia 2020 - Hoa Lư, Ninh Bình. Nâng cao chất lượng
dịch vụ, phát triển du lịch bền vững; mở thêm nhiều tour, điểm đến mới với
nhiều loại hình du lịch đa dạng; cơ sở hạ tầng, chất lượng dịch vụ được cải thiện,
nhất là dịch vụ lưu trú chất lượng cao.
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2019 đạt 15.280 tỷ đồng, vượt
50,8% kế hoạch, tăng 19,5% so với năm 2018. Trong đó: Thu nội địa, không
bao gồm tiền sử dụng đất, xổ số kiến thiết đạt 6.603 tỷ đồng, vượt 20,9% kế
hoạch, tăng 46,7%; thu tiền sử dụng đất 3.285 tỷ đồng, gấp 3,8 lần kế hoạch,
tăng 18,8%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 5.345 tỷ đồng, vượt 42% kế hoạch
và tăng 41,4% so với năm 2018. Tổng chi ngân sách địa phương ước thực hiện
cả năm đạt 12.949,4 tỷ đồng, đạt 140% kế hoạch. Các nhiệm vụ chi ngân sách
được đảm bảo kịp thời theo đúng dự toán; đáp ứng các nhiệm vụ an sinh xã hội,
phục vụ sản xuất, khắc phục hậu quả thiên tai... Đồng thời, đã tăng cường lồng
ghép đầu tư và ưu tiên trả nợ XDCB.
- Công tác Giáo dục - Đào tạo có chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, được công nhận tỉnh đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non
cho trẻ em 5 tuổi, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, THCS mức độ 3 và đạt
chuẩn xóa mù chữ mức độ 2. Tỷ lệ trường học đạt chuẩn quốc gia các cấp học
đều đạt và vượt mục tiêu Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 21 đề ra. Kỳ thi tốt
nghiệp THPT quốc gia năm 2019, tỷ lệ tốt nghiệp của tỉnh đạt 98,93%, tiếp tục
xếp thứ 3 toàn quốc về điểm trung bình các môn thi.
- Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm chỉ đạo,
thực hiện đồng bộ trên cả 2 lĩnh vực phòng bệnh và chữa bệnh, không để xảy ra
dịch bệnh lớn trên địa bàn. Hoạt động khám, chữa bệnh có nhiều tiến bộ, đã
triển khai áp dụng thành công nhiều kỹ thuật mới trong điều trị, hạn chế tối đa
việc chuyển bệnh nhân lên tuyến trên. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của
cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh; an ninh trật tự bệnh viện, an
toàn vệ sinh thực phẩm được tăng cường; thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính
sách và đúng lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân, đạt 91,2%, vượt kế hoạch đề ra.
- Hoạt động văn hóa - thông tin, phát thanh truyền hình diễn ra đa dạng, sôi
nổi, thiết thực kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, các sự kiện chính trị; tạo
không khí vui tươi, phấn khởi, thúc đẩy các phong trào thi đua trong tỉnh. Đặc
biệt là tổ chức thành công Lễ kỷ niệm 60 năm Bác Hồ về thăm Ninh Bình, tổng
kết phong trào thi đua kỷ niệm 50 năm thực hiện di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Tiếp tục củng cố và phát huy các thiết chế văn hóa ở cơ sở, thực hiện có
hiệu quả nếp sống văn hóa ở khu dân cư, xây dựng nếp sống văn minh cũng như
các phong trào tình làng, nghĩa phố xóm được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Phong trào thể dục thể thao quần chúng diễn ra sôi nổi, thể thao thành tích cao
tiếp tục phát triển và đạt nhiều kết quả đáng khích lệ. Công tác quản lý nhà
nước về lễ hội được tăng cường, tình hình an ninh trật tự tại các lễ hội trên địa
bàn tỉnh được đảm bảo.
- Hoạt động khoa học công nghệ có nhiều kết quả, các tiến bộ kỹ thuật đã
được áp dụng góp phần thiết thực trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Quản lý đất đai, tài nguyên môi trường đã có nhiều chuyển biến tích cực, hiệu
6
quả; việc kiểm tra, kiểm soát, giám sát đánh giá và khắc phục các tác động môi
trường được tăng cường; đã kiên quyết xử lý nghiêm các vi phạm.
- Công tác giảm nghèo, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh xã hội đạt
nhiều tiến bộ.Tập trung triển khai có hiệu quả Nghị quyết số 03-NQ/BCSĐ ngày
08/01/2019 của Ban Cán sự Đảng UBND tỉnh về đổi mới, tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo đối với công tác người có công và giảm nghèo bền vững trên địa
bàn tỉnh. Đã giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 3,63% năm 2018 xuống còn 2,57% năm
2019. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công. Việc thăm hỏi, tặng
quà, chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, người nghèo trẻ em, các
đối tượng bảo trợ xã hội trong các dịp lễ, tết đảm bảo chu đáo, kịp thời, đúng đối
tượng, đúng quy định. Tổ chức thăm hỏi, tặng trên 178 nghìn suất quà, trên 38 tỷ
đồng; đào tạo nghề cho 17.300 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề
lên 52%; đã giải quyết việc làm cho trên 20 nghìn lao động, đưa đi xuất khẩu
1.400 lao động. Quan trọng là đã thực hiện tốt các chính sách về lao động, tiền
lương, bảo hiểm xã hội, thu nhập người lao động được nâng lên, đảm bảo hài
hòa giữa người sử dụng lao động và người lao động góp phần phát triển các
doanh nghiệp bền vững.
- Công tác xây dựng chính quyền đạt nhiều kết quả quan trọng; thực hiện
tốt các quy định về việc tuyển dụng sử dụng cán bộ, công chức cấp xã và những
người hoạt động không chuyên trách ở xã; tổ chức, biên chế hành chính, sự
nghiệp, lao động đảm bảo đúng quy định; tiếp tục triển khai đề án vị trí việc làm
ở các sở, ngành; thực hiện tốt chính sách tinh giản biên chế; đẩy mạnh công tác
quản lý, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; hoàn
thiện hồ sơ, bản đồ địa chính và xây dựng cơ sở dữ liệu về địa giới hành chính;
trình Thủ tướng Chính phủ sắp xếp các xã huyện Kim Sơn; sáp nhập xã Chính
Tâm, xã Xuân Thiện thành xã Xuân Chính, chia tách xã Yên Mật và sáp nhập
với xã Kim Chính và Như Hòa.
- Cải cách hành chính tiếp tục được đẩy mạnh thực hiện ở tất cả các cấp,
các đơn vị. Chỉ số Cải cách hành chính của tỉnh xếp thứ 9 toàn quốc, tăng 2 bậc;
đứng thứ 2/9 tỉnh Đồng bằng sông Hồng, chỉ số hài lòng của người dân xếp thứ
2/63 tỉnh, thành phố. Tiếp tục thực hiện tốt cơ chế một cửa, một cửa liên thông,
góp phần nâng cao chất lượng giải quyết thủ tục hành chính theo hướng công
khai, minh bạch; tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý
nhà nước, chuẩn bị tốt các điều kiện đưa Trung tâm dịch vụ Hành chính công đi
vào hoạt động.
- Công tác thanh tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân luôn
được xác định là một trong những nhiệm vụ chính trị trọng tâm và thường xuyên
được tập trung, quan tâm chỉ đạo. Năm 2019, các tổ chức thanh tra đã tiến hành
93 cuộc thanh tra hành chính, 232 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành. Qua
thanh tra, kiểm tra phát hiện vi phạm 17,9 tỷ đồng, kiến nghị thu hồi về ngân
sách nhà nước 11,6 tỷ đồng.
- Các cơ quan nhà nước đã tiếp 2.992 lượt công dân đến khiếu nại, tố cáo,
tăng 15,3% so với năm 2018; đã giải quyết 38/51 vụ việc khiếu nại thuộc thẩm
quyền, đạt tỷ lệ 74,5%. Trong đó: các sở, ngành đã giải quyết và tham mưu Chủ
tịch UBND tỉnh giải quyết là 13/16 vụ việc, UBND các huyện, thành phố giải
7
quyết 5/8 vụ việc. Nhiều vụ việc tồn động, kéo dài đã được giải quyết, cơ bản
không còn tình trạng công dân khiếu kiện đông người tại trụ sở các cơ quan tỉnh.
- Công tác phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm chống lãng phí
tiếp tục được tuyên truyền và đẩy mạnh. Đã thực hiện công khai minh bạch về
chi tiêu tài chính, các Quy hoạch, Kế hoạch, nhất là quy hoạch sử dụng đất, kế
hoạch đầu tư xây dựng. Các tổ chức thanh tra trong tỉnh đã tiến hành 23 cuộc
thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng
tại 23 đơn vị, chỉ ra một số tồn tại và chấn chỉnh kịp thời.
- Công tác thi đua khen thưởng có nhiều đổi mới; phát động các phong trào
thi đua thiết thực, hiệu quả, hướng về cơ sở và người lao động trực tiếp; kịp thời
biểu dương, khen thưởng những điển hình tiên tiến; góp phần động viên các cấp,
các ngành, các tầng lớp nhân dân thi đua lao động sản xuất và công tác. Đặc biệt
đã thực hiện tốt công tác lập hồ sơ, truy tặng danh hiệu "Bà mẹ Việt Nam Anh
hùng".
- Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo đạt hiệu quả tốt; tạo điều kiện
cho các tôn giáo hoạt động có nền nếp, đúng chính sách, đúng pháp luật; quan
tâm chỉ đạo giải quyết kịp thời những kiến nghị chính đáng của các tổ chức tôn
giáo. Đã động viên được các tổ chức tôn giáo và nhân dân có đạo đoàn kết,
gương mẫu chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước,
tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện xã hội, các phong trào xoá
đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống “Tốt đời, đẹp Đạo”.
- Thực hiện tốt chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là hỗ trợ
làm kinh tế, phát triển văn hóa, y tế, giáo dục... Đã tổ chức thành công Đại hội
Đại biểu các Dân tộc thiểu số tỉnh Ninh Bình lần thứ III năm 2019.
- Tình hình an ninh chính trị tiếp tục ổn định, trật tự an toàn xã hội trên địa
bàn được đảm bảo, không để bị động, bất ngờ, không để phát sinh phức tạp,
hình thành “điểm nóng”. Chủ động nắm và kiểm soát được tình hình, chỉ đạo
giải quyết tốt những vấn đề liên quan đến an ninh trật tự và các vụ việc tranh
chấp, khiếu kiện; xây dựng và triển khai Kế hoạch công tác công an đảm bảo an
ninh trật tự phục vụ chuẩn bị, tổ chức Đại hội đảng bộ các cấp trên địa bàn tỉnh
và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13;
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả 10 mô hình phong trào bảo vệ an ninh Tổ
quốc; về xây dựng “Tổ dân phố, thôn, xóm an toàn”; tăng cường lãnh đạo xây
dựng Công an xã, thị trấn chính quy. Thực hiện có hiệu quả các đợt cao điểm tấn
công trấn áp tội phạm, đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa hoạt động móc nối, lôi
kéo của các tổ chức phản động, triệt phá các ổ nhóm tội phạm hoạt động côn đồ,
bạo lực, tội phạm đánh bạc. Các giải pháp đảm bảo trật tự an toàn giao thông và
trật tự đô thị được thực hiện quyết liệt, tai nạn giao thông giảm cả 3 tiêu chí.
Nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa phương được đảm bảo, đã duy trì thực
hiện nghiêm túc chế độ sẵn sàng chiến đấu, công tác tuyển quân, huấn luyện,
diễn tập, phòng thủ khu vực; tăng cường thực hiện các biện pháp quản lý, bảo vệ
chủ quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực vùng biển;
kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới biển với nhiệm vụ
tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững
8
mạnh. Tích cực tham gia phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn và thực hiện tốt
chính sách hậu phương quân đội.
- Hoạt động đối ngoại được mở rộng, đảm bảo tính chủ động và đạt được
nhiều kết quả. Trong năm 2019, đã đón tiếp 113 đoàn khách nước ngoài đến
thăm quan, làm việc, tìm hiểu cơ hội hợp tác đầu tư, kinh doanh tại tỉnh. Công
tác đón tiếp chu đáo, đảm bảo đúng nghi thức ngoại giao, tạo ấn tượng tốt đẹp
khi đến với Ninh Bình. Các dự án ODA, FDI, viện trợ phi chính phủ tiếp tục
được triển khai có hiệu quả.
II. Một số tồn tại
- Dịch tả lợn Châu Phi bùng phát với quy mô lớn trong toàn tỉnh, diễn biến
dịch bệnh phức tạp, khó lường gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất chăn nuôi.
- Còn chậm đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất gắn với
xây dựng nông thôn mới, việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cây trồng vật nuôi, áp
dụng khoa học kỹ thuật cao vào sản xuất chưa nhiều.
- Môi trường thu hút đầu tư vào tỉnh gặp khó khăn, nhất là thu hút đầu tư
vào lĩnh vực nông nghiệp, du lịch, dịch vụ. Một số công trình, dự án cấp bách
gặp khó khăn về nguồn vốn đầu tư; công tác giải phóng mặt bằng một số dự án
lớn, trọng điểm còn chậm.
- Công tác quản lý Nhà nước về đất đai, đầu tư xây dựng cơ bản, khai thác
tài nguyên khoáng sản ở một số địa phương còn bất cập; công tác đo đạc, chỉnh
lý biến động đất đai, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp
sau dồn điền đổi thửa còn chậm; việc kiểm tra, giám sát và xử lý hành vi vi
phạm về trật tự xây dựng và kinh doanh lưu trú du lịch trong vùng Di sản chưa
kịp thời, thiếu kiên quyết.
- Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội còn tiềm ẩn nhiều phức
tạp, nhất là tội phạm ma túy, đánh bạc, tổ chức đánh bạc sử dụng công nghệ cao,
“tín dụng đen”.
Nguyên nhân:
Nguyên nhân khách quan:
- Thời tiết, dịch bệnh diễn biến bất thường đã ảnh hưởng đến sản xuất và
đời sống của nhân dân.
- Quy định về đất đai, thủ tục đầu tư, xây dựng còn chồng chéo, vướng
mắc, khó thực hiện. Quy định về kỷ luật, chấp hành kỷ cương và cách xử lý cán
bộ chưa đủ tính răn đe, chưa tạo chuyển biến mạnh trong ý thức, thái độ thực thi
công vụ của cán bộ, công chức.
Nguyên nhân chủ quan
- Công tác phối hợp giữa ngành với ngành, ngành với cấp có nơi thiếu chặt chẽ.
- Trong sản xuất nông nghiệp người dân chưa thực sự mạnh dạn đổi mới,
áp dụng các mô hình sản xuất theo hướng khoa học, hiệu quả; còn tư tưởng
trông chờ sự hỗ trợ của Nhà nước.
Một bộ phận cán bộ, công chức và người đứng đầu một số cơ quan đơn vị
hiệu quả làm việc chưa cao, còn tư tưởng trông chờ, thiếu nhạy bén, kém sáng
tạo. Vẫn còn tình trạng một số cán bộ năng lực hạn chế, thiếu trách nhiệm trong
9
việc giải quyết các thủ tục hành chính, gây phiền hà, sách nhiễu cho các tổ chức,
cá nhân và doanh nghiệp; công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực hiện
chưa thường xuyên, nghiêm túc.
III. Phương hướng nhiệm vụ năm 2020
Năm 2020 là năm cuối thực hiện các mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ 21, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020, cũng là
năm tiến hành Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
13 của Đảng. Nền kinh tế của tỉnh đang tiếp tục đà tăng trưởng, trên cơ sở phát
huy các tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từ đầu nhiệm kỳ
đến nay và tận dụng tối đa các cơ hội. Bên cạnh đó, dự báo dự báo sẽ còn nhiều
khó khăn, rủi ro, tác động đến nền kinh tế - xã hội của tỉnh.
Ủy ban nhân dân tỉnh xác định mục tiêu và giải pháp để phát triển kinh tế -
xã hội năm 2020, cụ thể như sau: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thành
công Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13. Thực
hiện hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, khâu đột phá gắn với đổi mới mô hình
tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế. Đẩy
mạnh tái cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở triển khai đồng bộ,
hiệu quả các cơ chế chính sách với trọng tâm về cải cách hành chính, ứng dụng
công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền điện tử. Tháo gỡ khó khăn trong
phát triển sản xuất - kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh; cải thiện môi
trường đầu tư, ưu tiên thu hút những dự án lớn tạo đà tăng trưởng cho giai đoạn
tới. Tập trung phát triển du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tổ chức
thành công Năm Du lịch quốc gia 2020 Hoa Lư - Ninh Bình. Phát triển kinh tế
đi đôi với phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội, nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Chú trọng bảo vệ môi trường, phòng
chống thiên tai, ứng phó biến đổi khí hậu. Thực hành tiết kiệm, phòng chống
tham nhũng, lãng phí; tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo. Nâng cao hiệu quả
công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế; củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh, ổn
định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Về nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu phát triển các ngành, lĩnh vực
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử gắn với rà
soát, sắp xếp và kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính tinh gọn, hoạt động hiệu
lực, hiệu quả; công tác phân cấp giải quyết công việc gắn với chính sách tinh
giản biên chế; vận hành hoạt động có hiệu quả Trung tâm phục vụ hành chính
công tỉnh Ninh Bình, nâng cao chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, nâng
cao năng lực cạnh tranh, tạo chuyển biến rõ nét nhất là các nhóm, chỉ tiêu thành
phần xếp hạng thấp trong chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI).
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước trong đẩy mạnh việc thực hiện tái cơ cấu kinh tế
của tỉnh một cách đồng bộ, toàn diện, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn với tăng
chất lượng, hiệu quả, nâng cao năng suất lao động; đảm bảo an sinh xã hội, giảm
nghèo bền vững.
10
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng dịch vụ và
công nghiệp, nhất là dịch vụ du lịch; đưa du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn
gắn với bảo tồn và phát triển giá trị các di sản. Phát triển công nghiệp với các
sản phẩm công nghiệp công nghệ cao, công nghệ sạch. Tăng cường công tác xúc
tiến đầu tư, tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt theo định hướng thu hút
đầu tư của tỉnh. Phát triển nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng trong cơ cấu
ngành kinh tế nhưng tăng trưởng về giá trị và có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo
hướng sản xuất hàng hóa gắn với nhu cầu thị trường.
- Tập trung nguồn lực để triển khai lập Quy hoạch tỉnh Ninh Bình thời kỳ
2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo đúng quy định của Luật Quy hoạch và
các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
1. Về phát triển kinh tế:
- Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
bền vững. Phấn đấu GRDP năm 2020 tăng từ 8% trở lên so với năm 2019.
- Tập trung thu hút vốn đầu tư. Thực hiện các cơ chế khai thác, huy động
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của các thành phần kinh tế, đặc biệt là nguồn
lực xã hội từ Doanh nghiệp, nhân dân, từ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sản
xuất và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước đối với công tác đầu tư; đặc biệt là hiệu quả sử dụng đất đối
với các dự án.
- Triển khai đồng bộ, hiệu quả các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh
nghiệp, các chương trình hành động cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp, phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Tạo cơ chế chính
sách thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể, hợp tác xã; thúc đẩy
hình thành các tập đoàn kinh tế quy mô lớn, tiềm lực mạnh, hiệu quả và sức
cạnh tranh cao.
Cụ thể:
- Phát triển mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tăng cường
thu hút đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng kỹ thuật, tạo mặt bằng thu hút các nhà
đầu tư thứ cấp vào các khu, cụm công nghiệp; ưu tiên thu hút các dự án thuộc
ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô và công nghiệp điện tử, các dự án ứng
dụng công nghệ cao, công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, các dự án công
nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, các dự án có quy
mô lớn, sản phẩm có tính cạnh tranh cao, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước; đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ thi công các dự án, nhà máy công nghiệp lớn
đang triển khai trên địa bàn tỉnh.
Phát triển tiểu thủ công nghiệp, khôi phục và phát triển các làng nghề,
ngành nghề thủ công mỹ nghệ trên địa bàn tỉnh, góp phần gìn giữ và phát huy
nét văn hóa truyền thống của địa phương; Tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao
động, nhất là lao động nông thôn. Phấn đấu tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất
(giá SS 2010) công nghiệp - xây dựng năm 2020 tăng khoảng 11,1%, trong đó,
riêng công nghiệp tăng 12,5% so với năm 2019.
- Thực hiện có hiệu quả Chương trình phát triển nông nghiệp với xây dựng
nông thôn mới; đẩy mạnh phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao gắn
11
với nâng cao giá trị sản xuất trên 1 ha đất canh tác và thu nhập cho nhân dân; tập
trung phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, hình thức tổ chức sản xuất tiên
tiến và bền vững; khuyến khích, thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp;
đảm bảo thực hiện tốt mỗi vùng một sản phẩm đặc trưng; có biện pháp ứng phó
với diễn biến phức tạp, lâu dài, khó lường của dịch tả lợn Châu Phi. Tập trung
chỉ đạo xây dựng huyện Gia Viễn đạt chuẩn huyện NTM trong đầu năm 2020 và
huyện Yên Mô đạt chuẩn huyện NTM vào năm 2021; thêm 6 xã NTM, 9 xã và
73 khu dân cư Nông thôn mới kiểu mẫu,
- Tiếp tục triển khai có hiệu quả Kế hoạch số 101/KH-UBND ngày
14/8/2019 của UBND tỉnh về việc cơ cấu lại ngành du lịch Ninh Bình đáp ứng
yêu cầu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; Tổ chức thành công
năm Du lịch Quốc gia 2020 - Hoa Lư - Ninh Bình; phấn đấu năm 2020 đón 7,78
triệu lượt khách với doanh thu du lịch đạt trên 3,9 nghìn tỷ đồng. Đẩy mạnh
công tác thông tin, xúc tiến thương mại; phát triển các ngành dịch vụ bảo hiểm,
bưu chính viễn thông, giao thông vận tải… Tập trung phát triển, khai thác các
sản phẩm có sức cạnh tranh, có giá trị gia tăng cao, chiếm tỷ trọng xuất khẩu
lớn; tận dụng tối đa các lợi thế từ các Hiệp định thương mại, các chính sách mới.
Mở rộng hợp tác kinh tế, liên kết vùng, liên vùng.
- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, mở rộng hợp tác đối ngoại, tăng
cường quảng bá, tuyên truyền về tình hình phát triển kinh tế - xã hội, về tiềm
năng thế mạnh, truyền thống lịch sử, văn hoá và con người Ninh Bình; các hoạt
động xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, trao đổi văn hóa.
2. Về phát triển văn hoá, xã hội
- Tiếp tục thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển giáo dục đào tạo, đáp
ứng yêu cầu của xã hội và hội nhập quốc tế gắn với tăng cường huy động các
nguồn lực của xã hội đầu tư cho phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 2019-
2025; sắp xếp đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đạt chuẩn về
chuyên môn, nghiệp vụ; tăng cường cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo hướng
hiện đại hóa, chuẩn hóa, đồng bộ hóa; đẩy mạnh hoạt động giáo dục hướng
nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giáo dục phổ thông giai đoạn
2018-2025; nâng cao chất lượng đào tạo nghề.
- Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân
gắn với đổi mới, đầu tư nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở; đưa Bệnh viện Sản nhi
mới vào hoạt động trong Quý 1 năm 2019, khắc phục căn bản tình trạng quá tải
bệnh viện; tiếp tục thực hiện phương án tự chủ về tài chính đối với các đơn vị sự
nghiệp y tế công lập, nâng cao chất lượng khám chữa bênh; tăng cường tuyên
truyền, vận động nhân dân tham gia bảo hiểm y tế, thực hiện hiệu quả lộ trình
bảo hiểm y tế toàn dân.
- Phối hợp tốt quản lý kinh tế - xã hội với quản lý an sinh xã hội; Đổi mới
các cơ chế, chính sách tạo việc làm, giải quyết việc làm và các chính sách xã hội.
Thực hiện tốt chính sách xã hội hoá trong lĩnh vực an sinh xã hội và giảm nghèo;
Đổi mới sự lãnh đạo, chỉ đạo về công tác thực hiện chính sách đối với người có
công, tập trung xây, sửa chữa nhà cho các đối tượng gia đình chính sách, người có
công, người nghèo; phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 2,0%.
12
- Tiếp tục đổi mới hoạt động khoa học, công nghệ; tăng cường đầu tư ứng
dụng khoa học công nghệ, ưu tiên các lĩnh vực gắn với chuyển đổi mô hình, cơ
cấu kinh tế, nhất là lĩnh vực công nghiệp chế biến và nông nghiệp công nghệ
cao; tạo sự đột phá, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Tích cực xây
dựng và nhân rộng các mô hình ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản
xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Tập trung cao cho quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản, đất đai;
kiểm soát chặt chẽ quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, đảm bảo môi trường. Tạo
chuyển biến tích cực từ cơ sở, từ cá nhân được giao nhiệm vụ đến cơ quan, tổ
chức và đặc biệt là người đứng đầu trong lĩnh vực Tài nguyên, môi trường.
Chủ động xây dựng và thực hiện có hiệu quả các giải pháp chống thiên tai, ứng
phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển kinh tế xanh và phát triển bền vững.
Xây dựng văn hóa, con người Ninh Bình đậm đà bản sắc dân tộc; Nâng cao
chất lượng xây dựng, thực hiện nếp sống văn hóa, văn minh cơ sở; tập trung
nâng cao chất lượng phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”,
cuộc vận động “toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, và
các phong trào thi đua yêu nước của địa phương.
3. Về cải cách hành chính; giải quyết khiếu nại, tố cáo; phòng, chống
tham nhũng, lãng phí và công tác thi đua khen thưởng -Thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 18 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; Đẩy mạnh cải cách hành chính,
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; nâng cao chỉ số cải cách hành chính
của các Sở, ban, ngành và UBND cấp huyện (DDCI); triển khai thực hiện tốt các
quy định của nhà nước về công tác quản lý, sử dụng công chức, viên chức trên
địa bàn tỉnh, tiếp tục thực hiện hiệu quả chính sách tinh giản biên chế và cơ cấu
lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông
tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng chính quyền điện tử.
Thực hiện tốt nếp sống văn hóa công sở.
-Triển khai quyết liệt các giải pháp phòng chống tham nhũng, lãng phí,
nhất là trong lĩnh vực quản lý đất đai, đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài sản Nhà
nước. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao
hiệu quả của công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, không để các vụ
việc tồn đọng, kéo dài. Đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực trong công tác quản lý
công chức, viên chức.
Tập trung cao cho việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo Nâng cao
hiệu quả của công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, không để các vụ
việc tồn đọng, kéo dài theo tinh thần chỉ đạo tại Chỉ thị số 35 của Bộ Chính trị.
- Tiếp tục đổi mới chất lượng công tác thi đua khen thưởng, hướng về cơ
sở, người lao động trực tiếp, góp phần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước
trên địa bàn.
4. Về quốc phòng, an ninh, công tác tôn giáo, dân tộc
- Tăng cương công tac quôc phong, quân sư đia phương, công tác biên
phòng. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW của Bộ Chính
trị (khóa X) và các nghị định của Chính phủ về khu vực phòng thủ. Triển khai
13
tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an
nhân dân năm 2020; đón nhận và tư vấn giới thiệu việc làm cho quân nhân hoàn
thành nghĩa vụ quân sự trở về địa phương; quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng
lực lượng Công an xã chính quy.
Triển khai đồng bộ các biện pháp đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn
xã hội phục vụ đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XIII. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động nắm chắc tình hình, kịp
thời giải quyết các biểu hiện mâu thuẫn, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, không
để diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh
trật tự và công tác tổ chức đại hội đảng.
- Tiếp tục quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt các chính sách
về tôn giáo, dân tộc; xây dựng tình đoàn kết giữa các tổ chức tôn giáo, các dân
tộc; hướng dẫn, tạo điều kiện để các tôn giáo tổ chức tốt các hoạt động theo quy
định của Pháp luật; tăng cường hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
Trên đây là báo cáo kiểm điểm công tác chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh
Ninh Bình năm 2019, UBND tỉnh Ninh Bình trân trọng báo cáo./.
Nơi nhận: - Như trên;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- Lãnh đạo VP UBND tỉnh;
- TTTH-CB;
- Lưu: VT,VP2(HQT).
TM. UỶ BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH
Tống Quang Thìn