văn hóa cham

74
Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 3 ĐỜI SỐNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI CHĂM

Upload: bryancham

Post on 31-Jul-2015

170 views

Category:

Documents


1 download

DESCRIPTION

van hoa cham

TRANSCRIPT

Page 1: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 3

ĐỜI SỐNG, LỄ HỘI, PHONG TỤC TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI CHĂM

Page 2: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 4

ịch sử: Dân tộc Chăm vốn sinh tụ ở duyên hải miền Trung Việt

Nam từ rất lâu đời, đã từng kiến tạo nên một nền văn hoá rực rỡ với ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá Ấn Ðộ. Ngay từ những thế kỉ thứ XVII, người Chăm đã từng xây dựng nên vương quốc Chămpa. Hiện tại cư dân gồm có hai bộ phận chính: Bộ phận cư trú ở Ninh Thuận và Bình Thuận chủ yếu theo đạo Bàlamôn (một bộ phận nhỏ người Chăm ở đây theo đạo Islam truyền thống gọi là người Chăm Bà ni). Bộ phận cư trú ở một số địa phương thuộc các tỉnh Châu Ðốc,Tây Ninh, An Giang, Ðồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh theo đạo Islam (Hồi giáo) mới.

oạt động sản xuất: Người Chăm có truyền thống nông nghiệp

ruộng nước, giỏi làm thuỷ lợi và làm vườn trồng cây ăn trái. Bên cạnh việc làm ruộng nước vẫn tồn tại loại hình ruộng khô một vụ trên sườn núi. Bộ phận người Chăm ở Nam Bộ lại sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới, dệt thủ công và buôn bán nhỏ, nghề nông chỉ là thứ yếu.

ghề thủ công phát triển ở vùng Chăm nổi tiếng là dệt lụa tơ tằm

và nghề gốm nặn tay, nung trên các lò lộ thiên. Việc buôn bán với các dân tộc láng giềng đã xuất hiện từ xưa. Vùng duyên hải miền Trung đã từng là nơi hoạt động của những đội hải thuyền nổi tiếng trong lịch sử.

n: Người Chăm ăn cơm, gạo được nấu trong những nồi đất

nung lớn, nhỏ. Thức ăn gồm cá, thịt, rau củ, do săn bắt, hái lượm và chăn nuôi, trồng trọt đem lại. Thức uống có rượu cần và rượu gạo. Tục ăn trầu cau rất phổ

biến trong sinh hoạt và trong các lễ nghi phong tục cổ truyền.

ặc: Nam nữ đều quấn váy tấm. Ðàn ông mặc áo cánh ngắn xẻ

ngực cài khuy. Ðàn bà mặc áo dài chui đầu. Màu chủ đạo trên y phục là màu trắng của vải sợi bông. Ngày nay, trong sinh hoạt hằng ngày, người Chăm ăn mặc như người Việt ở miền Trung, chỉ có chiếc áo dài chui đầu là còn thấy xuất hiện trong giới nữ cao niên.

: Người Chăm cư trú tại Ninh Thuận, Bình Thuận, ở nhà đất

(nhà trệt). Mỗi gia đình có những ngôi nhà được xây cất gần nhau theo một trật tự gồm: nhà khách, nhà của cha mẹ và các con nhỏ tuổi, nhà của các cô gái đã lập gia đình, nhà bếp và nhà tục trong đó có kho thóc, buồng tân hôn và là chỗ ở của vợ chồng cô gái út.

L

H

Nghề dệt thổ cẩm của người Chăm đang phát triển và thích ứng với kinh tế hàng hoá, phục vụ đáng kể cho nhu cầu du khách khắp cả nước.

N

Ă

M

Page 3: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 5

Phương tiện vận chuyển: Chủ yếu và thường xuyên vẫn là cái gùi cõng trên lưng. Cư dân Chăm cũng là những người thợ đóng thuyền có kỹ thuật cao để hoạt động trên sông và biển. Họ làm ra những chiếc xe bò kéo, trâu kéo có trọng tải khá lớn để vận chuyển trên bộ.

uan hệ xã hội: Gia đình người Chăm mang truyền thống mẫu hệ,

mặc dù xã hội Chăm trước đây là xã hội đẳng cấp, phong kiến. Ở những vùng theo Hồi giáo Islam, tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Cư dân Chăm vốn được phân thành hai thị tộc: Cau và Dừa như hai hệ dòng Niee và Mlô ở dân tộc Ê đê. Về sau thị tộc Cau biến thành tầng lớp của những người bình dân, trong khi thị tộc Dừa trở thành tầng lớp của quý tộc và tăng lữ. Dưới thị tộc là các dòng họ theo huyết hệ mẹ, đứng đầu là một người đàn bà thuộc dòng con út. Mỗi dòng họ lại có nhiều chi họ. Xã hội cổ truyền Chăm được phân thành các đẳng cấp như xã hội Ấn Ðộ cổ đại. Họ có những vùng cư trú riêng và có những ngăn cách rõ rệt: không được thiết lập quan hệ hôn nhân, không sống cùng một xóm, không ăn cùng một mâm...

ưới xin: Phụ nữ chủ động trong quan hệ luyến ái. Hôn nhân cư trú

phía nhà vợ, con sinh ra đều theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân.

a chay: Người Chăm có hai hình thức đưa người chết về thế

giới bên kia là thổ táng và hoả táng. Nhóm cư dân theo đạo Bàlamôn thường

hoả táng theo giáo luật, còn các nhóm cư dân khác thì thổ táng. Những người trong cùng một dòng họ thì được chôn cất cùng một nơi theo huyết hệ mẹ.

hà mới: Người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi dựng nhà

mới phải thực hiện một số nghi lễ cúng thần như: cúng Thổ thần để đốn gỗ tại rừng. Khi gỗ vận chuyển về làng phải làm lễ đón cây. Lễ phạt mộc được tổ chức để khởi công cho việc xây cất ngôi nhà.

ễ tết: Người ta thực hiện nhiều nghi lễ nông nghiệp trong một

chu kỳ năm như: lễ khai mương đắp đập, lễ hạ điền, lễ mừng lúa con, lễ mừng lúa ra đòng. Nhưng lễ lớn nhất vẫn là lễ Bon katê được tổ chức linh đình tại các đền tháp vào giữa tháng mười âm lịch.

ịch: Người Chăm có nông lịch cổ truyền tính theo lịch âm. ọc: Dân tộc Chăm có chữ từ rất sớm. Hiện tồn tại nhiều bia kí,

kinh bằng chữ Chăm. Chữ Chăm được sáng tạo dựa vào hệ thống văn tự Sascrit, nhưng việc sử dụng chữ này còn rất hạn hẹp trong tầng lớp tăng lữ và quý tộc xưa. Việc học hành, truyền nghề, vẫn chủ yếu là truyền khẩu và bắt chước, làm theo.

ăn nghệ: Nhạc cụ Chăm nổi bật có trống mặt da Paranưng, trống

vỗ, kèn Saranai. Nền dân ca - nhạc cổ Chăm đã để lại nhiều ảnh hưởng đến dân ca - nhạc cổ của người Việt ở miền Trung như trống cơm, nhạc nam ai, ca hò Huế... Dân vũ Chăm được thấy trong các ngày hội Katê diễn ra tại các đền tháp.

hơi: Trẻ em thích đánh cù và thả diều, đánh trận giả, thi cướp cờ,

chơi trò bịt mắt bắt dê. http://cema.gov.vn/modules.php?name=Content&op=details&mid=48

Q

C

M

N

L

L H

V

C

Page 4: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 6

LEÃ HOÄI KATEÂ CUÛA NGÖÔØI CHAÊM BaøLaMoân

TS. Nguyễn Đức Toàn atê là mùa lễ hội lớn trong năm của người Chăm Bà La Môn tại Ninh

Thuận và Bình Thuận. Lễ hội Katê có ý nghĩa kính nhớ ông bà tổ tiên, những người đã khuất, tưởng nhớ đến các vị anh hùng dân tộc (được người Chăm suy tôn thành thần) như Pô Rô mê và Pô Klong Garai: các vị vua đã có nhiều công lao đối với người Chăm thuở xa xưa như kiến thiết đất nước, hướng dẫn làm thủy lợi và sản xuất nông nghiệp. Lễ hội Katê còn có ý nghĩa tưởng nhớ đến ông bà tổ tiên bên ngoại (tức bên cha, vì người Chăm theo mẫu hệ). Tương tự ý nghĩa kính nhớ ông bà tổ tiên trong Katê, người Chăm có lễ Chabur (vào 15/9 lịch Chăm) để tưởng nhớ ông bà tổ tiên bên nội (bên mẹ). Chabur đồng thời là dịp sùng kính thần mẹ xứ sở Pô Nagar – vị thần lớn nhất của người Chăm. Lễ hội Chabur thường được tổ chức với quy mô nhỏ hơn so với lễ hội Katê.

Những nghi lễ chính của Katê được diễn ra nơi các đền tháp. Ở Ninh Thuận, có ba địa điểm hành lễ là đền thờ Pô Nagar (ở làng Chăm Hữu Đức thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận), tháp Pô Romê (ở gần làng Chăm Hậu Sanh, thuộc địa bàn huyện Ninh Phước, cách trung tâm thị xã Phan Rang gần 20 Km về phía tây nam theo đường bộ) và tháp Pô Klong Garai (ở thị trấn Tháp Chàm, cách Phan Rang 5 Km theo đường quốc lộ 27 từ Phan Rang đi Đà Lạt).

Theo truyền thống, ngày 1 tháng 7 lịch Chăm là ngày chính lễ của lễ hội Katê, được tổ chức tại các đền tháp của người Chăm. Vì thế, ngày này còn được gọi là ngày lên tháp. Tính theo dương lịch, ngày lên tháp tương ứng với khoảng thời gian từ giữa tháng 9 đến giữa tháng 10 dương lịch. Năm nay (2004), ngày lên tháp nhằm vào ngày 13/10 dương lịch. Đến ngày lên tháp, ngay từ khi trời chưa kịp sáng, khắp các palay Chăm (làng Chăm) của người Chăm Bà La Môn tại Ninh Thuận đã nhộn nhịp tiếng mọi người gọi nhau để chuẩn bị “lên tháp” (các tháp Chăm thường được xây dựng trên các ngọn đồi).

Đến khoảng 7 - 8 giờ sáng hôm lên tháp, y phục của các “thần vua” được rước từ danok lên trên tháp để hành lễ. Theo truyền thống, y phục vua Chăm do người Raglai gìn giữ và được đem đến danok vào ngày kế trước hôm lên tháp. Ở Ninh Thuận có ba danok: danok vua Pô Rô mê ở làng Chăm Hậu Sanh, danok nữ thần Pô Nagar ở làng Chăm Hữu Đức và danok vua Pô Klong Garai tại làng Phước

K

Page 5: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 7

Đồng, cả ba danok đều nằm trên địa bàn huyện Ninh Phước. Đoàn rước “y-trang” (trang phục của vua) lên tháp gồm dàn cờ ngũ sắc, các cô gái Chăm múa lễ duyên dáng và rực rỡ trong chiếc áo dài Chăm nhiều màu, các vị chức sắc Bà La Môn Giáo và những thầy lễ dân gian trang trọng trong bộ lễ phục bước cạnh kiệu rước y trang, nối tiếp kiệu rước là các đông đảo đồng bào Chăm và du khách từ các nơi quy tụ về.

Ngay khi đoàn rước đến vừa đến trước cửa tháp, các cô gái Chăm phụ trách múa lễ liền biểu diễn các vũ điệu Chăm truyền thống để chào đón các vị thần linh về dự lễ hội Katê. Tiếp đến là nghi thức rảy nước trong Lễ Mở Cửa Tháp do thầy Cả Sư (Pô Dhia) và các thầy Bà Xế (Pasêh) thực hiện và nghi thức tắm tượng (Pamưnay Yăng) được tiến hành nơi tượng thờ (bên trong lòng tháp hoặc tại chính điện của các đền thờ). Những nghi thức này xuất phát từ các tập tục bản địa vốn có nguồn gốc sâu xa là nền văn minh nông nghiệp lúa nước liên quan đến thuật cầu đảo (cầu mưa). Y phục vua Chăm được Pô Dhia làm lễ ban phước và trao cho Muk Pajâu (Bà múa lễ cộng đồng) mặc vào tượng vua trong tháp thờ. Sau khi tiến hành nghi thức tắm tượng, cuộc tế lễ bắt đầu.

Trong khung cảnh trang nghiêm tại lòng tháp, tiếng thầy Kadhar kể tiểu sử và ca tụng công đức các vị thần hòa quyện với tiếng kèn saranai, đàn kanhi réo rắt và tiếng trống ginăng rộn rã. Trong khi đó, ở trước thềm cửa tháp, các phụ nữ Chăm bày biện la liệt các lễ vật cúng thần linh để cầu xin ơn lành, cầu cho gia đình một năm mới an khang thịnh vượng. Lễ vật có cả món ngọt lẫn món mặn như: ngạnh (dê), cơm, canh, món mặn, xôi, chuối, bánh ngọt, trái cây… . Thời gian cúng lễ trên tháp được kéo dài cho đến xế chiều và kết thúc vào khoảng 15 - 16 giờ cùng ngày bằng nghi lễ đóng cửa tháp. Trong khoảng thời gian từ lúc mở cửa tháp cho

đến khi đóng cửa tháp, từng dòng người đông đảo tiếp tục tuôn về các đền tháp. Người lớn mang lễ vật đến cầu khấn được buôn may bán đắt, gia đình bình an, hòa thuận hoặc dâng lễ để tạ ơn thần đã đáp ứng lời cầu xin; thanh niên nam nữ cầu thần ban cho văn hay, chữ tốt, nghề nghiệp tinh thông, tình duyên mặn nồng... các phụ nữ hiếm muộn cũng tranh thủ dịp này để đến tháp cầu tự. Thông thường, những ai có nhu cầu được buôn may bán đắt, học hành tấn tới thì đến cầu với Pô Klong Garai, muốn có sức mạnh, uy dũng thì tìm đến Pô Romê, còn muốn cầu tự thì tìm đến với Pô Nagar. Sau khi cầu khấn cùng thần linh, mọi người lưu lại chút ít thời gian để cùng nhau chuyện trò, ghi hình kỷ niệm hoặc sum họp ăn uống… . Không chỉ có người Chăm lên tháp, mà còn có một số người Việt ở khu vực lân cận các tháp Chăm cũng đến cầu xin, cúng bái. Các du khách thường đến viếng tháp Pô Klong Garai mà ít đến tháp Pô Romê, do tháp Pô Klong Garai có vị trí gần quốc lộ và trung tâm thị trấn Tháp Chàm, thuận tiện cho các loại xe vào sát chân đồi tháp.

Sẽ là một thiếu sót lớn nếu chỉ đến dự Katê vào ngày lên tháp, bởi vì theo truyền thống hàng năm, trong ngày tiếp đón y phục vua Chăm do đồng bào Raglai mang từ trên núi xuống (kế trước ngày lên tháp), tại làng Chăm Hữu Đức (Ninh Phước - Ninh Thuận) bao giờ cũng có tổ chức múa Chăm (múa quạt) với quy mô lớn. Các du khách sẽ bị choáng ngợp bởi khung cảnh hoành tráng và sự uyển chuyển của hàng trăm thiếu nữ Chăm với những vũ điệu duyên dáng hòa nhịp cùng tiếng trống ginăng rộn rã. Cuộc múa diễn ra dưới ánh nắng cháy bỏng giữa trưa hè (khoảng 12 - 13 giờ trưa) của vùng đất Phan Rang khô hạn trong sự tham gia cổ động của cả ngàn người. Tiếp theo tiết mục múa Chăm là các hoạt động thi đấu thể thao. Buổi tối ngày hôm đó, cũng tại Hữu Đức, mọi người sẽ cùng dự đêm văn

Page 6: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 8

nghệ truyền thống Chăm để thưởng thức các điệu múa Chăm từ múa dân gian cho đến múa cung đình, những làn điệu dân ca từ cổ truyền cho đến hiện đại… .

Katê có ba cấp độ là Katê đền tháp, Katê làng và Katê gia đình. Những ngày tiếp theo “ngày lên tháp” (Katê đền tháp), người Chăm tiến hành Katê làng. Tuần tự từng làng Chăm theo từng nhóm đền tháp tổ chức cúng Katê làng ở kajang (nhà lễ) của mỗi làng. Sau Katê làng, bà con người Chăm tiếp tục Êw Lithay (cúng ông bà) tại gia đình, gọi là Katê gia đình. Trong những ngày mừng tết Katê, ai đó có việc phải đi đâu xa cũng đều tranh thủ tìm về mái ấm gia đình. Người ta đến thăm hỏi nhau, tiệc tùng, vui chơi giải trí… Trong những ngày diễn ra lễ hội Katê, tại các làng Chăm thường có các hoạt động thể thao, giao lưu văn nghệ… .

Ở làng dệt cổ truyền Mỹ Nghiệp (thuộc thị trấn Phú Quý - Ninh Phước - Ninh Thuận), đôi khi còn có hội thi tay nghề dệt và triển lãm các mặt hàng thổ cẩm do người Chăm sản xuất. Xưa kia, người Chăm ăn tết Katê trong một tháng, nay được gói gọn lại trong vài ngày.

Đến dự lễ hội Katê là đến với nền văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm. Katê là dịp để mọi người gần gũi, gắn bó, đoàn kết, thương yêu nhau hơn. Đồng thời, Katê cũng là dịp vui chơi, giải trí sau một năm lao động miệt mài. Lễ hội Katê còn là môi trường sống động trong việc bảo lưu và phát triển văn hóa truyền thống Chăm, là một biểu hiện gìn giữ bản sắc dân tộc của cộng đồng người Chăm, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa Việt Nam đa dạng và giàu bản sắc.

http://gilaipraung.com/

Ñoäc ñaùo nhöõng neùt vaên hoùa Chaêm

ântộc thiểu số Chăm có khoảng trên 100.000 dân, xếp thứ 17 trong 54 thành phần

tộc người nước ta; sống tập trung đông nhất ở 3 tỉnh Bình Thuận, Ninh Thuận và An Giang. Ngoài ra họ còn cư trú một phần ở các tỉnh từ Nam Trung Bộ đến Ðông và Tây Nam Bộ. Hiện nay người Chăm còn sống rải rác ở nhiều nước khác như Campuchia, Thái Lan, Malaysia…

Những nét đặc sắc của văn hoá Chăm thể hiện từ tiếng nói, chữ viết, từ nghệ thuật và kỹ thuật tạo dáng của các ngôi tháp bằng đất, các pho tượng bằng đá, đến các sản phẩm vải thêu, dệt hoa văn, dệt thổ cẩm hoặc đồ gốm và các vật dụng phục vụ cho cuộc sống hàng ngày.

Người Chăm có tiếng nói và chữ viết riêng của mình. Chăm Tây cùng với sự

duy trì phát triển Hồi giáo trong việc học tập giới luật và tìm hiểu kinh thánh Koran nên đã dùng chữ Ả Rập và chữ Mã Lai. Cho đến bây giờ Chăm Tây sử dụng loại chữ Mã Lai khá thành thạo trong việc ghi chép và thư từ… Chăm Ðông thì sử dụng chữ Thrah và xem đó là loại chữ truyền thống.

Người Chăm luôn tự hào về những ngôi tháp Chăm-pa cổ kính xây dựng bằng đất nung độc đáo. Hình ảnh vũ nữ Chăm-pa cổ xưa đã được chạm khắc vào các đền tháp, trong đó bức phù điêu Vũ nữ Trà Kiệu là một trong những tuyệt tác. Là một bộ phận của nền văn hoá dân tộc, kiến trúc dân gian của người Chăm cũng có một lịch sử và truyền thống lâu đời. Bàn tay và khối óc sáng tạo của dân tộc Chăm làm sáng tỏ tính phong phú, đa dạng, giúp chúng ta thấy được sự giao

D

Page 7: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 9

lưu văn hoá, quá trình phát triển của tộc người.

Người ta còn thấy nhiều nét trạm trổ và các bức tượng bằng đá thể hiện nếp sinh hoạt ca múa và chơi nhạc dân gian rất sinh động. Người Chăm luôn mang trong máu của mình một tâm hồn văn nghệ dân tộc đặc biệt. Nghệ thuật truyền thống luôn được người Chăm nuôi dưỡng, trân trọng và liên tục truyền cho nhau từ bao đời nay.

Múa Chăm phong phú và độc đáo. Hầu như mỗi làng Chăm có một đội múa riêng. Những điệu múa cổ xưa nhất thường được trình diễn trong các lễ hội. Các nghệ nhân Chăm đã sáng tác thêm những điệu múa đặc sắc như múa chàm rông, múa đoa pụ (đội bình nước trên đầu). Múa quạt là điệu múa phổ thông của người Chăm. Khi múa, các vũ nữ dùng quạt làm đạo cụ để biểu diễn những loại múa khác nhau. Múa bóng mang tính tôn giáo và cũng rất phổ biến của người Chăm. Trong những nét đặc trưng của múa Chăm là múa ổn định theo nhạc. Dàn nhạc đệm cho múa thương gồm hai trống Pa-ra-nưng và một kèn sa-ra-nai. Nhìn chung, vũ điệu Chăm-pa nhằm phô diễn vẻ đẹp của con người.

Người Chăm có nhiều lễ hội trong năm, như hội Rija, Roya, Ramadan, lễ Pơk Băng Yang, lễ Katê… Trong đó, lễ hội Katê là một trong những lễ hội lớn nhất của người Chăm được tổ chức thường xuyên vào đầu tháng 7 (lịch âm) tức là vào trung tuần tháng 9 (âm lịch) và tháng 10 (dương lịch) để tưởng nhớ các vị anh hùng dân tộc và ông bà tổ tiên.

Thổ cẩm là nghề truyền thống của người Chăm. Thiếu nữ đến tuổi lấy

chồng, ai cũng biết dệt vải. Những tấm khăn, cái áo làm ra được coi là thước đo của sự đảm đang tháo vát của các cô gái Chăm. Nghề dệt thổ cẩm đòi hỏi sự tỉ mỉ và khéo léo. Ðể có một tấm chăn, các cô gái phải cần mẫn ngồi bên khung cửi từ sáng đến chiều tối với sự nhịp nhàng, chuẩn xác trong từng thao tác. Chỉ cần một mối chỉ bị rối, mặt vải sẽ không còn mịn nữa. Các sản phẩm dệt của người Chăm khá phong phú, đáp ứng rộng rãi cho nhu cầu trang phục, trang sức của người Chăm.

Vào dịp hội hè, lễ lạc, trai gái Chăm còn trang sức bằng các thắt lưng do người Chăm tự dệt. Hầu như phần lớn các sản phẩm vải của người Chăm không thể thiếu các loại hoa văn trang trí, nhất là trên các y phục cổ truyền của các thiếu nữ.

Nghề truyền thống khác của người Chăm là nghề làm đồ gốm. Làng Chăm Bầu Trúc duy nhất có nghề làm đồ gốm từ lâu đời. Hầu như gia đình nào cũng làm, phần lớn do phụ nữ đảm đang. Từ chiếc lu đựng nước, chiếc nồi đất, bộ khuôn đổ bánh xèo đến siêu sắc thuốc, chiếc cà om đều rất dụng công với những hoa văn độc đáo của dân tộc. Sản phẩm gốm Chăm còn được trao đổi rộng rãi với nhiều vùng và nhiều tộc người khác nữa. Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta thấy rằng người Chăm đã có một nền văn hoá thật phong phú về nội dung, đa dạng về diện mạo. Nền văn hoá ấy đã được thể hiện trong nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực kiến trúc; đó là kết quả của quá trình hoạt động có định hướng trong một thời gian lịch sử lâu dài.

http://www.nguoicham.com/nc

Page 8: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 10

hà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Inrasara nhận định: “Sự ra đời sớm của chữ viết đã tạo điều kiện cho văn học viết của người Chăm phát triển. Chính chữ viết đã cho người Chăm có một nền văn minh rực rỡ và độc

đáo một thời”. Xưa nay, chúng ta biết đến sự đặc sắc

của văn hóa Chăm qua các điệu múa của vũ nữ Apsara, sự độc đáo của lễ hội Rija Nưgar, Katê hay sự bí ẩn của các ngôi tháp cổ. Tuy nhiên, nền văn minh Chămpa xưa còn là ngôn ngữ Chăm và nền văn học viết có từ rất sớm. Tất cả đang được giới thiệu tới công chúng Thủ đô trong triển lãm Không gian văn hóa Chăm, tại 36 Điện Biên Phủ, Hà Nội.

Chămpa là dân tộc có chữ viết sớm nhất Đông Nam Á. Theo các nghiên cứu về văn bia cổ, ngay từ thế kỷ thứ IV người Chăm đã có chữ viết của mình. Tiếng Chăm có 65 ký hiệu và 24 chân ngữ bắt nguồn từ hệ thống chữ thảo của Ấn Độ. Chữ viết Chăm cũng không ngừng hoàn thiện và phát triển. Theo ông Thập Liên Trưởng, chuyên gia ngôn ngữ của Trung tâm Nghiên cứu văn hóa Chăm tại Ninh Thuận: “Khoảng đầu thế kỷ XVII, chữ Akhan thrah - chữ Chăm hiện đại, đã thoát khỏi vỏ bọc của chữ Phạn và được sử dụng phổ biến trong các thư tịch cổ và bia ký còn lưu lại ngày nay”.

Người Chăm cổ có một kỹ thuật làm giấy điêu luyện và độc đáo, tiếc là nay đã

thất truyền. Nguyên liệu chính để làm giấy là lá buông (loại lá phổ biến tại địa bàn cư trú của người Chăm), ngoài ra người Chăm còn làm giấy từ vỏ cây bồ đề có màu trắng đục, dày và dai, trơn mặt, ít thấm nước. Mực viết được chế từ vỏ cây akuh rất tốt vì chóng khô, đen đậm, không bay màu. Đầu bút là đầu các que tre vót nhọn và về sau sử dụng đầu kim loại.

Các thư tịch cổ nhất bằng chữ Chăm còn lại cách ngày nay khoảng 300 năm. Các cuốn sách cổ từ vài trang đến vài trăm trang giấy chứa đựng toàn bộ văn hóa Chăm với các chủ đề chính là kinh luật tôn giáo, ngoài ra còn có các nội dung về văn học, triết học, hướng dẫn nghi lễ, những bài tụng ca, lịch pháp, thiên văn, phong thủy, âm nhạc, y - dược học, pháp thuật, tử vi - bói toán, gia huấn ca… Văn học cũng xuất hiện nhiều trong các thư tịch cổ của người Chăm, trong đó có chép lại các sử thi của Ấn Độ như Ramayana, Mahabharata, Bhagavata… Bên cạnh sách cổ, các văn bia cổ chính là mảng quan trọng của văn học Chăm. Các bia ký Chămpa bằng chữ Phạn được viết chủ yếu theo những thể thơ của Ấn Độ, nội dung nhuốm màu sắc tâm linh huyền

N

Page 9: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 11

hoặc, lời thơ mỹ miều, văn hoa. Trong các sáng tác văn thơ, các tác giả Chăm thường sử dụng nhiều điển tích và ẩn dụ của văn học Ấn Độ để thể hiện sự hiểu biết và thông thái của mình. Song song với nó là một dòng văn học dân gian, với ca dao, dân ca truyền miệng bình dân gần gũi.

Người Chăm không thích nói về những điều thực tế, kỹ thuật hay vật chất. Tính đa chủ đề, khái quát được thể hiện rõ trong từng cuốn sách. Qua những cuốn sách mỏng nói về các nghi lễ tâm linh, chúng ta còn bắt gặp trong đó một bài thơ, một lời chúc phúc, vài ý tưởng, quan điểm tôn giáo, triết học...

Chữ viết của người Chăm có một thời gian bị bỏ rơi. Từ năm 1978 đến nay, Ban biên soạn sách tiếng Chăm đã xuất bản các cuốn sách bằng ngôn ngữ Chăm cho các lớp tiểu học của con em người Chăm. Tạp chí Sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu Chăm mang tên Tagalau xuất bản từ năm 2000, góp phần gìn giữ văn hóa viết Chăm. Bên cạnh đó, dòng văn học bằng tiếng Chăm đã bắt đầu hồi sinh và phát triển với các nhà thơ đương đại như:

Inrasara, Đồng Chuông Tử, Trà Vigia, Nguyễn Phú Hải, Tuệ Nguyên…

Nhà thơ, nhà nghiên cứu văn hóa Chăm Inrasara đã tham gia biên soạn gần 40 đầu sách về văn hóa Chăm như Văn học Chăm khái luận, Từ điển song ngữ Việt – Chăm, tạp chí Tagalau; đồng thời là một trong những người có công tạo dựng lại văn hóa Chăm và giới thiệu tới nhiều vùng. Ông nhận định: “Sự ra đời sớm của chữ viết đã tạo điều kiện cho văn học viết của người Chăm phát triển. Chính chữ viết đã cho người Chăm có một nền văn minh rực rỡ và độc đáo một thời. Qua các thư tịch cổ, chúng ta có thể nhận thấy văn hóa Chăm là văn hóa đùa vui, chịu chơi cả trong đau khổ”.

Hiện các thư tịch cổ cùng bia ký chưa được sự quan tâm tập hợp và gìn giữ đúng mức. Sách cổ vẫn được lưu truyền trong cộng đồng Chăm, nhưng do sự bảo quản thủ công đã khiến nhiều cuốn bị hư hỏng. Kỹ thuật làm giấy độc đáo của người Chăm hiện chưa được phục dựng để bảo tồn…Đó là những điều mà các nhà nghiên cứu văn hóa Chămpa còn trăn trở.

http://www.nguoidaibieu.vn/Trangchu/VN

Page 10: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 12

Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận có số dân đông nhất (57.137), chiếm gần 50% người Chăm ở Việt Nam. Họ sống tập trung thành từng làng palei riêng biệt và bảo lưu đậm nét nhiều tập tục truyền thống như nghi lễ, hội hè, tục cúng tế đền tháp, tục cưới gả, tang ma, tín ngưỡng, tôn giáo, luật tục, văn chương, làng nghề…mang bản sắc văn hoá riêng.

1. Làng Palei Chăm: Hiện nay người Chăm ở Ninh Thuận

có tất cả 22 làng palei thuộc 13 xã và 4 huyện thị (Ninh Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn, thị xã Phan Rang - Tháp Chàm). Trong đó được phân chia ra thành hai cộng đồng: Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn giáo) và Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo). Mỗi cộng đồng tôn giáo lại sinh sống thành từng palei riêng biệt. Trong tổng số 22 làng palei thì có 15 làng Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal. Mặc dù là một dân tộc Chăm Ahiêr và 7 làng Chăm Awal. Mặc dù là một dân tộc Chăm nhưng phân chia ra làm hai nhóm Chăm, ảnh hưởng đạo giáo khác nhau (Ahiêr và Awal), sống tách biệt nhau. Tuy vậy hai nhóm này vẫn cùng mang một đặc trưng văn hoá chung.

Palei Chăm thường định cư trên những vùng gò đất cao, xung quanh là ruộng lúa và nương rẫy. Mỗi palei có khoảng từ 300 - 400 hộ gia đình, tập hợp bởi nhiều tộc họ sinh sống với nhau. Các khuôn viên nhà ở được bố trí theo hướng Bắc – Nam.

Trong mỗi palei Chăm đều có một đền thờ thần (sang Pô yeang) và ở đầu làng có nhà làng (sang palei). Cách palei không xa thường có một nghĩa địa (kút, ghôr). Mỗi palei Chăm đều có đơn vị quản lí hành chính thôn, đoàn Thanh niên, Hội Nông dân… Bên cạnh đó còn có Hội đồng phong tục (Hội đồng già làng) chăm lo cúng tế và cùng với chính quyền tham gia giải quyết những vụ bất đồng của các thành viên trong làng liên quan đến phong tục, tập quán. Palei Chăm có luật tục riêng gọi là adat. Nếu

như Palei Chăm là đơn vị cư trú cổ truyền mang tàn dư của công xã nông thôn thì gia đình lại là bộ phận hình thành nên đặc trưng ấy. Gia đình trong palei Chăm được tổ chức theo hình thái gia đình mẫu hệ, bao gồm gia đình lớn (mưngawôm pruang) và gia đình nhỏ (mư ngawôm sít). Thành viên cơ bản trong gia đình được tính theo huyết thống bên mẹ. Trong mỗi gia đình có đàn bà lớn tuổi đứng đầu gọi là “Po sang” (chủ nhà). Các gia đình có cùng chung một mẹ sinh ra thường bố trí chung nhà cửa trong một khuôn viên. Tương tự như vậy, các gia đình chung một dòng họ phía mẹ thường bố trí nhà cửa cùng dãy với nhau. Mỗi dòng họ có một tộc trưởng đứng đầu gọi là “akauk gơp”. Ngày xưa trưởng tộc là đàn bà, ngày nay được thay thế bởi người đàn ông. Nhiệm vụ của trưởng tộc là quản lí các thành viên, giải quyết những vấn đề thắc mắc giữa các thành viên và chăm lo, tổ chức cúng tế những lễ nghi tín ngưỡng liên quan đến tộc họ. Mỗi dòng họ trong làng được phân biệt với nhau bằng nghĩa địa của dòng họ mẹ (kút, ghôr). Mỗi dòng họ có một vật thờ tổ gọi là “Chiết atâu” (Chiếc Atâu là một loại giỏ đan bằng tre hình hộp vuông có nắp đậy, dùng để bỏ y trang, đồ cúng lễ của tổ tiên tộc họ. Chiếc Atâu chỉ được đem ra ngoài khi tộc họ có dịp cúng lễ).

Đơn vị cơ cấu căn bản của hệ thống thân tộc của người Chăm là mẫu hệ gia tộc. Những mối quan hệ bên mẹ là quan hệ thân thuộc và quan trọng nhất. Tổ tiên được thờ phụng là tổ tiên bên mẹ. Quyền thừa kế tài sản thuộc về con gái út. Phụ nữ Chăm nắm quyền quyết định trong gia đình. Vai trò Cậu (cey) được đề cao và

Page 11: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 13

vẫn còn chi phối mạnh mẽ trong gia đình người Chăm hiện nay.Nói chung sinh hoạt làng (palei), gia đình (mưngawôm), tộc họ (gơp tian) của người Chăm phản ánh đậm nét chế độ mẫu hệ thể hiện trên các mặt: sự phân hoá xã hội, quan hệ về gia đình và hình thức hôn nhân; hình thái tín ngưỡng; phương thức sản xuất và quyền sở hữu tài sản… Vì vậy cơ chế xã hội truyền thống người Chăm gắn bó chặt chẽ với nhau và được vận hành bằng luật tục (adat). Họ sống trên cơ sở bình đẳng, đoàn kết thương yêu lẫn nhau. Cùng nhau bảo vệ, lưu giữ thuần phong mỹ tục, những giá trị văn hoá của tổ tiên. Có thể nói làng palei, gia đình người Chăm là mắc xích quan trọng, gắn liền chặt chẽ với nhau, tạo nên một cơ cấu xã hội cổ truyền bền vững, trở thành cái nôi bảo tồn và lưu giữ văn hoá Chăm, lễ hội Chăm trong suốt những tháng năm thăng trầm của lịch sử dân tộc.

2. Đời sống kinh tế: Người Chăm định cư trên dải đất

miền Trung với đặc điểm địa hình là miền đất hẹp, kéo dài và được cấu tạo bởi ba vùng: Núi - Đồng bằng - Biển cả. Khí hậu nơi đây khắc nghiệt, khô ẩm, nhiều nắng, ít mưa. Điều kiện tự nhiên, địa lí môi sinh đó đã hình thành nên nền kinh tế của người Chăm.

Trong nền kinh tế truyền thống của mình, người Chăm có một nền nông nghiệp phát triển khá sớm. Từ lâu đời họ đã biết đắp đập khai mương để trồng lúa nước mà đến nay vẫn còn các dấu vết các công trình thủy lợi trên dải đất miền trung như: đập Do Linh (Quảng Trị), đập Nha Trinh và đập Marên (Ninh Thuận). Họ còn có kĩ thuật canh tác ruộng nước khá cao. Tùy theo loại ruộng như ruộng gò (hamu tamu), ruộng cát (hamu cwah), ruộng sâu (hamu dhong) mà họ có kĩ thuật canh tác và sử dụng các loại giốngl úa ngắn ngày, cho năng suất cao như loại

giống lúa chiêm, lúa mùa (padai bidiên, padai halim, paday ia ok, padai kuprok…). Do đó không phải ngẫu nhiên mà người Trung Quốc và người Kinh đều du nhập giống lúa của người Chăm mà họ thường gọi là “lúa Chiêm”.Bên cạnh làm ruộng người Chăm còn là những người làm vườn giỏi. Họ trồng nhiều hoa màu và cây ăn trái như ngô, khoai lang, đậu xanh, đậu nành, chuối, dừa, hồ tiêu… Nhờ đó mà dân cư có hoa quả và ăn rau xanh 4 mùa. Bên cạnh nghề nông, người Chăm còn biết khai thác những khu rừng lớn có các loại gồ mun, trầm hương, vỏ cây làm thuốc nhuộm… rất được ưa thích trên thị trường. Họ cũng biết khai thác tài nguyên khoáng sản ở xứ họ để đem bán ở xa. Người Chăm còn làm nghề biển, họ là những thủy thủ can trường, là những người buôn bán giỏi. Những chiếc thuyền buôn của họ thường vượt biển khơi đi đến hải cảng Trung Quốc và có mối quan hệ với các nước Java trong thời cổ trung đại. Nói chung kinh tế truyền thống của người Chăm bao gồm cả nghề nông, nghề đi biển và khai thác rừng. Ba hình thái kinh tế đó đã góp phần làm cho đời sống kinh tế Chăm phát triển phồn thịnh và hiện nay còn in dấu ấn đậm nét trong lễ hội Chăm. Tuy nhiên ngày nay, một số ngành kinh tế truyền thống đã bị mất đi. Hiện nay người Chăm không còn làm nghề biển. Tuy một số làng Chăm ở Ninh Thuận như Bỉnh Nghĩa, Tuấn Tú vẫn còn sống gần biển nhưng họ không làm nghề biển mà lại quay lưng với biển. Đa số (khoảng 95%) người Chăm Ninh Thuận ngày này sống bằng nghề nông, và một số ít làm nghề chăn nuôi và khai thác rừng. Đến nay họ vẫn còn phát huy truyền thống làm lúa nước và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Hoạt động nông nghiệp vẫn là nền kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế chủ đạo trong đời sống kinh tế của người Chăm hiện nay.

http://www.vnptninhthuan.com.vn

Page 12: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 14

ễ dựng chòi cày (Padang paday tuan):

Lễ dựng chòi cày là lễ mở đầu công việc đồng áng hàng năm của người Chăm. Trước khi khởi đầu công việc cày gieo người Chăm thường dựng lên một cái chòi nhỏ ở gần ruộng của mình để trú ngụ tránh mưa nắng và để dụng cụ lao động trong thời gian cày cấy. Lễ này được thực hiện trên thửa ruộng từng gia đình.

Thầy cúng lễ là ông “Cai mương” (Hamu ia) hoặc “Ong Từ”( Camưney). Ngày cúng lễ là ngày thứ tư hay thứ bảy trong tuần. Lễ vật gồm có 1 cặp gà, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau…

Các vị thần linh được cầu cúng trong lễ này là các vị thần như thần trời, thần cha (Po yang amư), thần mẹ, thần sông (Po patau ia), thần thủy lợi như Pô KLong Garai, Pô Rômê và các vị khẩn hoang tiền hiền… Mục đích lễ này, họ cầu mong cho mưa thuận gió hòa, công việc cày cấy được suông sẻ, mùa màng tốt tươi…

ễ cúng ruộng lúc lúa đẻ nhánh (Iew po Bhùm):

Sau khi ruộng lúa cày gieo xong khoảng tháng sau thì họ tiếp tục làm lễ cúng cho cây lúa đẻ nhánh. Lễ vật cúng cho lễ này tương tự như lễ cúng dựng chòi cày. Những thần linh cầu cúng của lễ này chủ yếu là thần mẹ xứ sở Po Inư Nưgar.

ễ cúng lúa làm đòng (Padai dôk tian):

Lễ này người Chăm cúng lúc lúa đang dậy thì con gái. Họ quan niệm hồn lúa cũng như hồn người. Đây là giai đoạn quan trọng quyết định và ảnh hưởng đến năng suất cây lúa. Lễ này khác với lễ trước là lễ vật cúng 1 con dê, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau… Chủ tế lễ là thầy Kadhar kéo đàn Rabap (đàn tương tự như đàn nhị người Kinh), ông Cai mương (Hamu ia) hoặc ông Camưney. Các vị thần linh được mời về dự lễ cũng tương tự như lễ vừa nêu trên nhưng nội dung hành lễ này phong phú hơn, thầy Kadhar vừa kéo đàn Rabap vừa mời các vị thần và hát về những bài thánh ca, ca ngợi công đức của các vị thần mẹ (Po Inư Nưgar) đã dạy người trồng lúa, cày cấy đem lại lúa gạo cho người Chăm và hát ngợi ca các vị thần thủy lợi như Po Kluang Garai, Po Rame đã đem nước về cho dân làng tưới tiêu, trồng lúa.

L

Lễ hội cầu đảo

L

L

Page 13: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 15

ễ thu hoạch lúa (Iew Yang Trun Yuak):

Lễ này thường diễn ra vào tháng 11 lịch Chăm (tháng 10 âm lịch). Khi cúng lễ, người Chăm phải chọn ngày tốt (ngày thứ tư hoặc thứ bảy) để xuống gặt lúa. Lễ này do ông Cai mương hoặc ông Cai đập cúng (ôn Binưk). Lễ vật gồm có 1 cặp gà, rượu, trứng, trầu cau, xôi chè… Nội dung cúng tương tự như lễ lúa làm đòng. Khi lễ cúng này kết thúc thì ông thầy cúng bước xuống ruộng, dùng lưỡi liềm cắt một bó lúa để khai lễ ngày gặt lúa. Cách 3 ngày sau ruộng lúa mới được thu hoạch. Bó lúa lễ được chủ ruộng đem về nhà để trên trần nhà đến mùa sau thì đem ra cúng.

ễ lúa mới lên sân (Da a patai tagok lan):

Lễ này nội dung tương tự như lễ cúng lúa làm đòng. Mục đích là lễ tạ ơn các vị thần thánh, tổ tiên đã phù hộ độ trì cho họ thóc lúa đầy bồ.

Nói chung qua 5 lễ nghi nông nghiệp của người Chăm như trên, đã phản ảnh nhu cầu sinh trưởng của cây lúa (từ lúc cày gieo, lúa đẻ nhánh, lúa đơm đòng đến lúa chín). Mặc dù đây là lễ nghi tổ chức từng gia đình nhưng lại liên quan đến mùa vụ của cả cộng đồng nên nó trở thành lễ hội cộng đồng. Ngày nay, kể từ sau năm 1975 thì hệ thống lễ nghi nông nghiệp này không còn phụ hợp nữa mà đã biến mất.

ễ cầu đảo (Palau Sah):

Lễ palau sah là lễ cầu đảo liên quan đến cầu mưa, cầu nước của

người Chăm. Lễ được tổ chức vào tháng 4 lịch Chăm. Lễ này ngoài tổ chức ở các

đền tháp Chăm còn được tổ chức tại các cửa biển. Đây là lễ chung cho cả cộng đồng Chăm Ahiêr (Chăm ảnh hưởng Bàlamôn) và Chăm Awal (Chăm ảnh hưởng Hồi giáo).

Ngày xưa, cứ đến tháng 4 Chăm lịch - mùa khô hạn nắng nóng thì người Chăm đến các cửa biển Lâm Ngư (xã Phương Hải, Ninh Hải) và gần cửa biển Cà Ná (Phước Diêm - Ninh Phước) và cửa biển Mỹ Tân (Mỹ Tường, Ninh Hải) để cúng lễ.

Lễ Palau sah là một nghi lễ tổng hợp của các lễ thức người Chăm. Đây là lễ cúng chung cho các vị thần Chăm như các vị thần Bàlamôn (Yang bimon - yang aklak), các thần Hồi giáo - Bàni (yang birow - thánh alla); thần núi, thần sông, thần biển… Các vị chức sắc cúng lễ như tu sĩ Paseh của nhóm Chăm Ahiêr, tu sĩ Acar của nhóm Chăm Awal, thầy cúng tín ngưỡng dân gian như Kadhar (thầy kéo đàn Rabap), thầy Mưduôn (thầy vỗ trống Basanưng), thầy Ka-in (thầy bóng), Muk Pajau (Bà bóng), ông Cai đập (binưk), ông Cai mương (Hamu ia)…

Riêng lễ Palau Sah (cầu đảo) ở Bỉnh Nghĩa (Ninh Hải) có nội dung khác lễ cầu đảo (Yuơr yang) ở các vùng Chăm khác. Lễ Palau sah ở thôn Bỉnh Nghĩa có nội dung tương tự như lễ hội múa Rija Nưgar (Lễ hội múa tống ôn đầu năm). Còn lễ Palau sah ở vùng Chăm có đặc điểm chung như nhau và bao gồm các tiểu lễ như sau:

ễ Rija harei (lễ múa ban ngày):

Lễ này được tiến hành trong một nhà lễ làm bằng tre, mái lợp

bằng tranh hoặc bằng tấm bạt, hướng

L

L

L L

Page 14: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 16

mặt về phía mặt trời lặn. Lễ vật gồm có 1 con gà, 5 mâm cơm (mỗi mâm có cơm, canh cá và cá khô), 3 mâm chuối, hai mâm trầu, rượu, trứng… và 5 mâm xôi chè.

Lễ do Mưduôn (thầy vỗ trống Paranưng) và ông Ka-in (thầy bóng thực hiện). Đặc điểm của lễ này là Mưduôn vỗ trống Paranưng hát mời các vị thần như thần núi (Po cơk), thần sông biển (Po Riyak), thần chèo thuyền (po tang ahuak), thần giữ rừng trầm (Po gilau), đặc biệt là thần thủy lợi như Pô KLong Garai, Pô Rô mê… Khi ông Mưduôn hát các tiểu sử ca ngợi các công lao đức độ của các vị thần thì thầy bóng (Ka-in) múa phụ họa trong tiếng trống Ginăng, Paranưng, kèn Saranai Chăm. Bà con dân làng dự lễ cầu cúng khấn vái và tham gia múa mừng.

ễ cúng Rija Dayuap (lễ cúng ban đêm):

Lễ này được tiến hành vào lúc chiều tối hoặc ban đêm do Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) và bà bóng (Muk Pajau) thực hiện. Lễ này có sự tham gia của tu sĩ Po Acar nhóm Chăm Awal. Lễ vật gồm 1 con dê, 5 mâm cơm, xôi chè, trầu cau, rượu trứng, bánh trái… Thầy Kadhar (thầy kéo đàn Rabap) hát mời các vị thần như Po Au loah, Po Bal Gina, Po Cah ya, và thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar), Pô KLong Garai, Pô Rô mê (Vua Chăm được suy tôn thành thần thủy lợi), thần núi (Po Cơk), thần sông (Po Patau Ia), thần biển (Yang tasik)… Ông Kadhar hát thì bà bóng múa phụ họa…

ễ tế thần lửa (cuh yang apui):

Lễ này do tu sĩ paseh thực

hiện. Đây là lễ cúng các vị thần Chăm ở đền tháp (yang Bimon) đặc biệt là cúng tế thần lửa (yang apui) để cầu thần lửa đem lại lửa làm sấm chớp, mây, mưa… Nội dung lễ này tương tự như lễ nghi đốt thần lửa ở đền tháp Chăm.

ễ rước gậy thần của tu sĩ Acar (Gay bhong):

Lễ này do nhóm tu sĩ Chăm Awal thực hiện. Nghi lễ này rất long trọng, Po Acar và dân làng rước gậy thần (Gay bhong) - gậy lễ rao giảng kinh của thánh Mohamach từ thánh đường hồi giáo đến cửa sông, cửa biển để cầu mưa. Nghi thức cúng lễ này tương tự như lễ hội Ramưwan Chăm Awal. Lễ vật gồm 5 mâm xôi chè, chuối. Tu sĩ Po Acar đọc kinh Coran, cầu thánh Alla (Pamrơ) về hưởng lễ, dâng làng van vái, cầu khấn cho thánh Alla hiệu nghiệm, ban cho dân làng mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi.

Ngoài lễ Palau Sah (Lễ cầu đảo) như trên, vào thời điểm này (tháng 4 lịch Chăm), từng làng người Chăm còn tổ chức lễ hội cầu đảo cho riêng mình, chủ yếu họ cầu cúng Po Nai (Nữ hoàng đi tu tại núi Chà Bang - Ninh Thuận) và lễ cúng Po Riyak (thần sóng biển)… Lễ này diễn biến tương tự như lễ múa ban ngày (Rija harei) do thầy Maduôn và Ka-in thực hiện. Lễ lôi cuốn cả dân làng tham gia trở thành ngày hội của các palei Chăm.

Nói chung Lễ Palau Sah là lễ nghi tổng hợp của người Chăm. Lễ này không những tập trung các chức sắc, tu sĩ, các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng mà nó còn lôi kéo được dân làng, từng thôn và từng khu vực tham gia. Cùng với lễ

L

L

L

Page 15: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 17

Palau Sah (cầu đảo), thời điểm này còn có lễ cầu đảo Po Nai, Po Rijak đã góp phần làm cho lễ hội Chăm sôi động hẳn lên. Đây là thời điểm lễ hội Chăm diễn ra khắp nơi, từ bãi trống đầu làng đến mỏm núi, bờ sông, bờ biển là cho làng Chăm thực sự là mùa trẩy hội. Tháng tư là mùa nắng nóng - mùa cầu mưa, cầu nước - mùa cầu khấn cho dân làng khỏi bệnh tật bởi sức nóng khắc nghiệt của vùng nhiệt đới. Do vậy thời điểm này là mùa diễn ra nhiều nghi lễ hội hè ở khắp mọi nẻo của làng - Palei Chăm.

ễ chặn nguồn nước (Kap kraung Halau):

Sau khi làm lễ cầu đảo, trời bắt đầu ban xuống cơn mưa cho dân làng cày cấy. Để tránh mưa nhiều, gây ra bão lụt thì người Chăm còn tổ chức làm lễ chặn nguồn nước. Lễ này được thực hiện ở các cửa sông lớn. Lễ được diễn ra ở hai cộng đồng Chăm Ahiêr và Chăm Awal. Lễ này có nghi thức diễn ra khá long trọng do các tu sĩ po Acar, Ong binưk (cai đập)… thực hiện. Trong lễ này, ngoài việc lễ vật là 5 mâm cơm và xôi chè, người Chăm còn rước gậy lễ rao giảng kinh của Mohamach (Gay bhong) ở trong thánh đường (sang mưgik) đến cửa sông. Trong nghi lễ này có 9 tu sĩ Acar nhóm Chăm Awal - Chăm ảnh hưởng Hồi giáo mặc áo màu đen (aw juk) để thực hiện lễ. Họ đọc kinh Coran… cầu nguyện thánh Alla xin đừng mưa nhiều, gây lũ lụt phá hoại mùa màng, nhà cửa, xóm làng. Khi lễ kết thúc tất cả tu sĩ Po Acar ở trần lội xuống sông làm lễ “té nước” và kết thúc nghi lễ.

Nghi lễ này ngoài chức sắc, tu sĩ thực hiện còn có sự tham gia của một số

dân làng, tín đồ ở các thôn, các vùng cùng hưởng chung đập nước tham gia cúng lễ. Tất cả bà con dân làng cúng lễ vật đều cầu mong cho trời ban cho mưa thuận gió hòa, không gây lũ lụt phá hoại mùa màng.

ễ tế trâu (Ngak kabaw yang patau):

Lễ tế trâu là loại lễ nghi cúng tế lớn nhất trong hệ thống lễ nghi nông nghiệp của người Chăm. Lễ được tổ chức 7 năm 1 lần. Lễ vật cúng một con trâu trắng tại núi Đá Trắng thuộc thôn Như Ngọc, Ninh Phước, Ninh Thuận.

Nguồn gốc của lễ này theo truyền thuyết kể lại: Ngày xưa khi người Chăm chưa có vua, ông “kay Klong, kay Biên” mới đào đất lấp biển, phá núi để hình thành đất đai, sông biển cho người Chăm. Lúc đó ở xứ Chăm có một Chằn tinh (Rak) từ đâu xuất hiện đòi làm vua xứ Chăm. Chằn tinh đòi vua Chăm phải nộp nhiều thứ thuế và nộp cả người đẹp. Về sau Chằn tinh còn đòi vua Chăm nộp cả công chúa. Thấy Chằn tinh ngày càng gieo tai họa cho dân làng, và để cứu công chúa ra khỏi tay Chằn tinh. Vua cầu xin thần linh phù hộ cho dân làng và giúp vua tiêu diệt cho được Chằn tinh. Vua tập trung dân làng, ra tay chiến đấu nhiều ngày đêm với Chằn tinh. Cuối cùng Chằn tinh bị vua chém đầu, Chằn tinh bị giết chết, xương chất đống thành núi màu trắng. Từ sự tích đó, tại làng này có một ngọn núi Đá Trắng, trên núi có một cái hang sâu mà dân gian gọi hang đó là đầu và miệng của Chằn tinh và lấy tên núi đó là “Cơk yang Patau” (Núi vua chúa). Từ đó dân làng thoát khỏi tai họa. Về sau để trừ Chằn tinh phá hoại dân làng, mùa

L

L

Page 16: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 18

màng, dân làng thường cúng trâu trắng 7 năm một lần.

Lễ cúng trâu trắng do Cai lệ (Hamu ia), thầy Kadhar (thầy kéo đàn Rabap), Muk pajau (bà bóng) thực hiện… Lễ được thực hiện một ngày từ sáng đến chiều. Trong buổi sáng, Ông Cai lệ dắt trâu trắng đến chân núi Đá Trắng và làm lễ tâu trình với thần Yang tại tấm bi “Yang tikuh” (thần Chuột) bằng lễ vật 3 trứng gà, rượu và trầu cau… Sau khi tâu trình thần Yang, ông Cai lệ trở lại chân núi Đá Trắng, ông Cai lệ đọc lời khấn làm lễ tẩy uế con trâu và xin phép thần Yang làm lễ cắt cổ trâu. Nghi thức lễ cắt cổ trâu diễn ra rất trọng thể. Trước khi bị cắt cổ cúng thần, con trâu được làm lễ tẩy thể bằng “nước thần” (nước có pha cát lồi). Sau đó trâu được buột lại bốn chân và vật ngã nằm xuống đất. Ông Hamu ia (Cai lệ) cầm cây kiếm dài hướng về phía mặt trời mọc, tay cầm 3 tem trầu cau và một nắm gạo trắng vung lên trời để cầu siêu cho linh hồn con trâu. Ông Hamu ia cầu thánh Alla, thần đất, thần núi Đá Trắng, thần Chằn tinh (Cơk yang patau)… cho phép ông được cắt cổ trâu và các vị thần sớm cầu siêu cho linh hồn con trâu và các vị thần nhanh mà đến hưởng lễ. Hết lời cầu khấn ông cắt cổ trâu. Trong lúc cắt cổ trâu ông Cai lệ nín thở cho đến khi huyết trâu chảy hết và trâu tắt thở trong tiếng chiêng và lời hát lễ của thầy Kadhar kéo đàn Rabap.

Lễ vật cúng thần Yang, thần Chằn tinh ở núi Đá Trắng, ngoài thịt trâu còn có hai con gà luộc, bánh chà cung (bánh bột gạo), 2 chén rượu cần, trứng, trầu cau, bánh trái…

Địa điểm cúng lễ ngoài tại chân núi Đá Trắng - nơi hành lễ chính, họ còn cúng tại nơi dựng tấm bi “Yang Tikuh” một mâm cơm, 1 mâm thịt, 1 mâm cỗ bánh (bánh tét, trái cây hoa quả). Và cúng tại đỉnh núi đá trắng gồm: 1 mâm cơm, một mâm thịt trâu, 1 cỗ bánh, 1 thau huyết trâu.

Nghi thức hành lễ, thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát thánh ca mời các vị thần thì ông Cai lệ (Humua ia) đánh chiêng và Bà bóng (Muk pajau) dâng lễ vật. Họ mời các vị thần như thần đất (Po bhum), các vị thần núi ở núi đá trắng (Po cơk yang patau), thần sông (Po patau ia), thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar), thần thủy lợi (Pô KLong Garai, Pô Rô mê), thần chuột phá hoại mùa màng (Yang tikuh)… Lễ này có sự tham gia của dân làng ở khu vực núi Đá Trắng, họ cũng dâng bánh trái, cầu khấn, múa mừng tạo thành một lễ hội mang tính khu vực. Lễ này từ lâu đã trở thành phong tục, tín ngưỡng của người Chăm. Do đó cứ 7 năm 1 lần, người Chăm tổ chức lễ cúng trâu tại núi Đá Trắng. Dân gian Chăm có câu tục ngữ để tưởng nhớ đến tục lễ trên như sau:

Bilan năm yang tikuh

Bilan tajuh yang patau

(Tháng sáu cúng thần chuột phá hoại mùa màng

Tháng bảy cúng thần Chằn tinh ở núi Đá Trắng)

http://www.vnptninhthuan.com.vn/SacCham/Lehoi.htm

Page 17: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 19

Trong hệ thống lễ hội Chăm lễ Puis, Payak là loại lễ nghi tín ngưỡng của người Chăm có từ lâu đời. Đây là lễ hội của tộc họ được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 3 năm hoặc 7 năm một lần. Lễ Puis, Payak là hai loại lễ khác nhau, tuỳ theo phong tục thờ cúng, hệ thống thờ thần mà mỗi tộc họ tổ chức lễ Puis hoặc Payak để tế thần linh.

Lễ Puis:

Là loại lễ nghi của tộc họ cúng để trả lễ và thết đãi thần linh (Jiư muk key) - cụ thể là lễ tế thần Po Rame. Lễ này thường được tổ chức theo định kỳ 1 năm, 2 năm hoặc 7 năm một lần khi tộc họ làm ăn được mùa, phát đạt con cháu sum họp.

Lễ Puis được tổ chức phổ biến trong tộc họ thuộc các làng thờ tháp Pô Rô mê như Hậu sanh, Mỹ Nghiệp, Vĩnh Thuận, Vụ Bổn, Hiếu Thiện (Ninh Thuận)… Còn các tộc họ khác thờ cúng thuộc khu vực tháp Pô KLong Garai (Đô Vinh - Ninh Thuận) thì làm lễ cúng Payak. Tục lễ ấy đã có từ xưa đến nay và đã trở thành phong tục, tín ngưỡng của tộc họ. Cứ như thế khi đến chu kỳ cúng lễ hàng năm thì tộc họ phải thực hiện những lễ cúng trên.

Khi đến một chu kỳ cúng lễ Puis của tộc họ thì trưởng tộc họ (akauk gơp) có nhiệm vụ đi thông báo đến các thành viên tộc họ và góp tiền của để thực hiện lễ cúng. Khi đã đủ điều kiện về vật chất và tài chính thì ông trưởng tộc đem lễ vật (trầu, rượu) đến nhà thầy Kadhar Gru - thầy tế lễ Puis để xem ngày lành thàng tốt cúng lễ. Thông thường thì lễ Puis thực

hiện được bất cứ tháng nào trong năm và phải là ngày chẳn trong tháng 3, 4, 5 trừ tháng 11 và 12 (bilan Puis, mak). Vì hai tháng này người Chăm thường cử hành lễ đăng quan, tiến chức cho các vị vua chúa cho nên phải kiêng cữ.

Sau khi được thầy Kadhar ấn định ngày tháng tổ chức lễ thì lễ Puis được diễn ra trong một nhà lễ (Kajang) trong lễ Puis có hai loại: Loại nhà lễ không có lợp mái (Kajang mưtưh danah buah) và nhà lễ lợp mái (kajang bah bauh). Tuỳ theo tộc họ có tục cúng nhà lễ nào thì dựng theo nhà lễ kiểu ấy. Ở hai nhà lễ này mặc dù hình thức khác nhau nhưng nội dung hành lễ, lễ vật hiến tế đều giống nhau. Ở đây chỉ khảo tả lại lễ Puis có hình thức nhà lễ một mái.

Trong ngày làm lễ, từ sáng sớm tộc họ tập trung đông đủ tại nhà được tổ chức lễ. Phụ nữ được phân công nhau chuẩn bị lễ vật như gói bánh, trầu cau, bánh trái… Còn đàn ông thì làm heo, gà… và dựng nhà lễ. Nhà lễ không rộng lắm (4m x

Lễ rước y trang Nữ thần Pô Inư Nưgar

Page 18: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 20

5m), chủ yếu làm bằng tre, và mái thì lợp tranh hoặc tấm bạt và mở một lối ra vào ở hướng đông – tây.

Lễ vật cúng lễ Puis bao gồm:

- 1 bộ y phục đàn ông (1 cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo sah, 1 cái khăn đội đầu) và 1 bộ trang phục đàn bà (1 cái váy trắng, 1 dây thắt lưng, 1 cái áo, 1 cái khăn đội đầu). Hai bộ trang phục này được treo lên trước bàn tổ trong nhà lễ (Kajang).

- Ngoài trang phục lễ, lễ vật dâng cúng còn có cơm canh, rượu trứng, cá khô, bánh chakun (bánh hấp bằng bột gạo), cơm rượu (tapai thanh) và 3 chén rượu cần (ia tapay) và hoa quả…

Tất cả những lễ vật được sắp xếp theo mâm lễ. Tùy theo lễ cúng vị thần nào mà mâm lễ vật được xếp trên mâm 5 tầng, 7 tầng, 8 tầng hoặc 9 tầng. Mỗi tầng lễ vật được sắp xếp xen kẽ nhau bao gồm: bánh tét (pay nung), bánh chakun (kur), bánh tráng (pay Chăm), cá khô (rik), chuối (patey)… Tổng cộng tất cả 16 mâm lễ, trong đó hai mâm xếp 9 tầng (kaya salipan), 2 mâm xếp 7 tầng (kaya tajuh), 4 mâm xếp 8 tầng (kaya dalipan), 3 mâm xếp 5 tầng (kaya limư) và với 5 mâm cơm (cơm, canh, cá khô, thịt gà luộc…) Tất cả mâm lễ vật được đặt hai bàn tổ (sanai) chính bên trong nhà lễ.

Ngoài những mâm lễ như trên thì ở chính giữa nhà lễ còn có bàn tổ của Muk Pajau (bà bóng) - bàn tổ chính của nhà lễ. Ở bàn tổ này có đặt một “thôn hala”, 1 khay trầu le, khay rượu, gạo lễ (brah kran) tô nước lã và chén lửa đốt trầm. Ở bên trái bàn tổ bà bóng còn có bàn tổ thầy kéo đàn Rabap và bàn tổ của chủ nhà (Po sang). Ở hai bàn tổ này, mỗi bàn có đặt

một khay trầu, khay rượu, bình trà, chén lửa đốt trầm.

Lễ Puis do thầy kéo đàn Rabap (Kadhar) và bà bóng (Muk pajau) là chủ tế lễ chính. Sau khi vật đã chuẩn bị xong thì trong buổi sáng hôm đó chủ nhà đem lễ vật trầu rượu đến làm lễ đón rước đàn Rabap và gạo lễ - vật tổ của thầy Kadhar và Muk pajau. Sau đó lễ được tiến hành, bà bóng khấn vái mời thần linh, tổ tiên trong nhà trình lễ. Sau đó là làm lễ cúng cá khô (ngak yang tachauk rik) và cúng 5 mâm cơm (ieu tamư salao lithey).

Sau lễ cúng các vị thần tổ tiên trong nhà (Po truak patra) thì thầy Kadhar và Muk pajau bắt đầu cúng mời đãi các vị thần linh sau: Thần Siva (Po Ginôr mưtri), Thần trong nhà (Yang di sang), Thần mẹ xứ sở (Po Inư Nưgar taha), Thần mẹ xứ sở Hamu Mưrâu (Po Inư Nưgar hamu Mưrâu), Thần mẹ xứ sở Hamu Ram (po Inư Nưgar Hamu Ram), Quan văn (Po Par), Vua Chăm thế kỷ XVII (Po Rame), Vua Chăm thế kỷ XIV (Po Thun Garai), Quan phó vương miền núi (Po Garai phauk), Po Klaung Kasat, Cey Thuơr (biệt hiệu thần Po Klaung Garai), Thần Yang in (Po Yang In), Thần rừng trầm, rừng quế (po Tang, Po Galau), Thần sóng biển (Po Riyak), Chàng trai trẻ (Po Dam), Tổ tiên (Po Trauk, Po Patra).

Mỗi vị thần trên khi được mời về dự thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài thánh ca, ca ngợi công lao tiểu sử của các vị thần. Trong lúc thầy Kadhar hát bài thánh ca thì bà bóng (Muk pajau) rót rượu cầu khấn và dâng lễ vật. Bà con dự lễ cũng cầu khấn cho các vị thần linh vui lòng hưởng lễ vật của tộc họ dâng cúng mà phù hộ độ trì cho tộc họ. Nghi thức hành lễ cúng thần linh và nội dung hát ở lễ Puis này tương tự như nghi lễ cầu cúng ở

Page 19: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 21

các lễ liên quan đến đền tháp Chăm như lễ mở cửa tháp (pơh băng yang), lễ hội Katê…

Tiếp theo lễ đãi thần linh thì bà bóng (Muk pajau) còn múa dâng lễ. Múa dâng lễ chỉ được thực hiện ở phần tế lễ đãi thần Siva (Po Ginôr Mưtri), Po Inư Nưgar, Po Rame. Nghi thức múa cúng lễ 3 vị thần vừa nêu trên đều như nhau. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời, bà bóng múa và dâng lễ vật mỗi vị thần một khay trầu và một ché rượu cần. Chỉ có múa dâng lễ ở vị thần mẹ xứ sở thì bà bóng còn có tục múa dâng gạo, lúa bằng động tác múa đi xung quanh 3 mũng gạo và múa đạp vào đống lúa đổ sẵn trên chiếu lễ ở bàn tổ. Nghi thức múa lễ này người Chăm còn gọi là “múa đạp lúa”. Lễ múa này người Chăm nhằm tưởng nhớ vị thần mẹ Po Inư Nưgar - Nữ thần hiện thân cho mẹ lúa, hồn lúa và họ cầu mong cho được mùa màng, đời sống ấm no, sung túc.

Những điệu múa hát theo lễ như trên được hòa vào tiếng đàn Rabap, trống Basanưng, Chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (người Chăm gọi là tăm gek). Tất cả những lời ca điệu múa ấy mang một âm hưởng trầm hùng cùng với tiếng vỗ tay nhiệt thành của những người tham gia lễ tạo nên một nhạc lễ riêng biệt đặc sắc của lễ Puis, Payak mà người Chăm gọi nhạc lễ này là điệu nhạc “Chiêng jăp”

Sau lễ múa hát kết thúc thì họ tổ chức lễ tiễn đưa các vị thần hưởng lễ về thiên giới. Lễ này ông thầy kéo đàn Rabap và bà bóng cúng tâu trình với các thần linh là lễ tế đãi thần của tộc họ đến đây kết thúc. Bà bóng ngồi rót rượu, tay cầm

những hạt lúa nổ (kaman) rãi khắp bàn tổ trong nhà lễ rồi rót rượu xuống đất miệng cầu khấn: Nghi lễ cúng thần đã kết thúc, cầu mong các vị thần trong đền tháp (yang bimôn kalan), các vị thần trong nhà (yang di sang) và tổ tiên… phù hộ độ trì cho tộc họ sức khỏe, được mùa, đoàn kết sum họp, thương yêu lẫn nhau… Sau lời khấn thì nghi lễ chấm dứt. Nhà lễ lập tức được dỡ bỏ, nghi lễ tế thần linh - Puis kết thúc trong ngày.

Lễ Payak:

Là lễ của tộc họ chủ yếu là cúng vị thần tổ tiên (yang di sang) và thần Pô KLong Garai. Lễ payak do các tộc thuộc các làng Chăm thờ tháp Pô KLong Garai thực hiện như: làng Phước Đồng, Chất Thường, Hiếu Lễ, Hoài Trung (Ninh Phước - Ninh Thuận)…

Hành lễ Payak cũng tương tự như lễ Puis là do thầy Kadhar và bà bóng thực hiện.

Lễ này chỉ khác ở chỗ là khi thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát mời vị thần Siva thì bà bóng thực hiện nghi lễ “thả ba

Cả sư dâng lễ vật cúng thầnPôklong Garai

Page 20: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 22

hạt gạo trôi trong lọ nước”, rồi bà bóng đợi cho đến khi 3 hạt gạo trôi đến gần nhau thì dùng lá trầu vớt 3 hạt gạo lên. Đó là điềm báo tộc họ này sum họp, làm ăn thịnh vượng, may mắn. Sau đó họ làm lễ thết đãi cơm, rượu cần như lễ Puis vừa nêu trên.

Trong lễ tế các vị thần linh trong lễ Payak, khi cúng đến thần Pô KLong Garai - đối tượng cúng chính của lễ này thì thầy Kadhar có một nghi lễ riêng. Khi cúng thần Pô KLong Garai thì thầy Kadhar kéo vạt áo lên trùm đầu và hát những bài thánh ca, bà bóng dâng lễ vật cơm canh, ché rượu cần cho thần, rồi bà bóng múa lễ mừng.

Múa trong lễ Payak phong phú hơn lễ Puis. Ngoài lễ múa mừng (tamia ôn), dâng đạp lúa (tammia jaup paday) còn có múa ngậm lửa (tamia jauk apaui), múa thoát y (tamia halang halaup), múa mừng hạt lúa (tamia ôn kaman), múa cho con ăn (tamia crauk lithey ka anưk), múa ru con (tamia dai anưk)…

- Nghi thức múa mừng và múa đạp lúa tương tự như lễ Puis.

- Múa ngậm lửa: là một điệu múa của bà bóng, tay cầm 3 cây nến thắp sáng rồi ngậm lửa vào miệng. Khi bà bóng ngậm lửa vào miệng mà nhún nhảy thì thầy Kadhar kéo đàn Rabap và nghệ nhân khác vỗ trống Paranưng, đánh chiêng dồn dập… Khi bà bóng múa và ngậm tắt 3 nén lửa thắp sáng thì múa lễ này kết thúc.

- Múa thoát y: Để thực hiện điệu múa lễ này ngoài bộ y phục màu trắng mà bà bóng mặc đang hành lễ, thì bà bóng còn mặc chồng lên thêm một cái váy màu đen. Khi tiếng nhạc lễ cất lên thì điệu múa bắt đầu. Bà bóng tay cầm hai đầu váy đen vừa mặc, vừa làm động tác mở

váy ra. Bà bóng cứ làm động tác cầm hai đầu váy múa nửa kín nửa hở; nhảy múa trước bàn tổ để dâng cúng thần linh. Nghi thức múa mặc váy nửa kín, nửa hở như trên người Chăm gọi là múa thoát y (tamin lang halaup).

- Nghi lễ múa mừng hạt lúa nổ: Bắt đầu điệu múa “Mừng hạt lúa nổ”. Bà bóng nằm dài trên chiếc chiếu cổ (ciew ang) đặt ở chính giữa nhà lễ, đầu hướng về hướng đông. Bên cạnh bà bóng nằm có đặt một chén nước lễ, trong đó có 3 hạt lúa nổ và một chén rượu cần. Khi vào lễ múa thì bà bóng ngậm nước phun vào bàn tổ 3 lần rồi múa mừng theo tiếng đàn Rabap, tiếng trống Paranưng và tiếng Chiêng lễ.

- Nghi lễ múa cho con ăn: Lễ múa này do bà bóng và vũ sư của tộc họ thực hiện. Chuẩn bị lễ vật múa cho con ăn bao gồm: mâm cơm, canh, cá, gà luộc, chuối. Sau khi lễ vật chuẩn bị xong thì bà bóng và vũ sư ngồi vào bàn tổ. Trên vai bà vũ sư có đeo một chiếc váy trắng ngang ngực - tượng trưng cho tục “điệu con”. Lúc vào lễ thì bà con dự lễ rót rượu khấn vái tổ tiên thần linh cho tộc họ con đàn cháu đống. Thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát bài lễ “cho con ăn”. Trong lúc Kadhar hát lễ thì bà bóng làm động tác cho con ăn. Đầu tiên bà bóng múa cho con uống nước, tiếp đó là xúc miệng cho con bằng nước muối. Sau đó là cho con ăn cơm với cá, đùi gà và cuối cùng là trái chuối. Tất cả lễ vật đó bà bóng bỏ vào chiếc váy trắng mà vũ sư đang đeo trước ngực. Vì chiếc váy đeo tượng trưng cho con. Sau lễ cho ăn thì bà bóng múa mừng.

- Múa lễ ru con: Múa lễ ru con do vũ sư (Muk Rija) thực hiện. Bắt đầu vào lễ này thì nhà lễ được tháo gỡ để trống ở đầu nhà lễ. Ở phần trống này họ treo một

Page 21: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 23

tấm váy trắng làm võng ru con. Khi vào lễ bà bóng ngồi vào bàn tổ rót rượu khấn vái và vũ sư đứng bên cạnh chiếc võng và treo bằng váy trắng làm động tác ru con theo tiếng hát bài ru con (duah dai anưk) về nữ thần mẹ Po Inư Nưgar do thầy Kadhar kéo đàn Rabap hát… Đây là điệu múa lễ cuối cùng trong hệ thống múa đãi tế thần linh Payak của tộc họ. Cũng tương tự như lễ cúng đãi thần linh - Puis đã trình bày ở trên, lễ Payak này cũng kết thúc lễ bằng nghi thức lễ tiễn đưa các vị thần linh về lại thiên giới (palau yang).

Lễ tế trâu tộc họ tại tháp Pô KLong Garai:

Từ xa xưa người Chăm còn có tục lễ tế trâu, tục gọi là “Kabaw akadang khun salao” để tế đãi thần linh. Lễ này do một họ tộc thực hiện. Hiện nay họ còn cúng tế trâu 7 năm một lần. Lễ này tương tự như lễ cúng đãi thần linh Payak. Chỉ khác là cúng trâu nướng nguyên con và phải cúng tại một rạp lễ gần chân núi tháp Pô KLong Garai. Hành lễ tế trâu ngoài nội dung múa hát, nó còn có nghi thức lễ nướng trâu nguyên con khiêng lên dâng cúng tại tháp Pô KLong Garai theo nghi thức lễ cúng như lễ mở cửa tháp, lễ hội Katê… Lễ này cũng do thầy Kadhar và bà bóng thực hiện.

Tóm lại: Lễ tế trâu này cũng nằm trong loại nghi lễ cúng thần linh của tộc họ như lễ Puis, Payak. Nhưng lễ nghi Puis, Payak là loại nghi lễ của tộc họ phổ biến hơn. Lễ Puis và Payak là ngày hội của tộc họ - Ngày lễ hội mừng được mùa, mừng con cháu đầy đàn, no ấm, biểu hiện sự giàu sang phú quý của tộc họ mà làm lễ tạ ơn và thết đãi thần linh. Loại hình lễ hội của tộc họ này còn chứa đựng nhiều

dấu ấn về văn hóa, tín ngưỡng bản địa cổ sơ có trước khi người Chăm tiếp nhận, ảnh hưởng loại hình tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo. Chính lễ nghi này là tiền đề để hình thành nên nghi thức lễ cúng tế ở đền tháp Chăm. Tín ngưỡng ấy thể hiện ở hình thức tế lễ, nội dung tế lễ. Lễ Puis, Payak do thầy cúng lễ Kadhar và Muk Pajau thực hiện, không có tu sĩ Paseh và Acar tham gia. Văn hóa, tín ngưỡng bản địa ấy còn thể hiện dấu ấn cổ sơ như tục thờ cúng tổ tiên, tục làm nhà một mái, tục ăn lúa nổ, lúa rang, uống rượu cần… Đó là biểu hiện lối sống của cư dân tiền nông nghiệp mới thoát thai từ nghề săn bắn và hái lượm. Đặc biệt ở hệ thống lễ này, có nghệ thuật múa dân gian Chăm như múa mừng, múa đạp lúa, múa ngậm lửa, múa hát ru con… Tất cả những điệu múa này chỉ mới dừng lại ở những động tác đơn giản của múa cổ điển như động tác nhún nhảy cổ tay, bàn chân, đi, đứng, ngồi… Cùng với múa là nhạc lễ Puis, Payak cũng vậy. Nhạc ở đây chỉ là nhạc cụ đơn giản như đàn Rabap, chiêng, nhạc gõ bằng gỗ (tăm gek), có cả tiếng vỗ tay… với khúc thức đơn giản mang tính cổ điển. Tuy vậy, cả múa và nhạc ở lễ Puis, Payak chính là tiền đề, là con đường manh nha để hình thành và nâng cao loại hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống Ginăng, Paranưng và kèn Saranai Chăm sau này. Đây chính là loại hình nghệ thuật múa nhạc cổ điển mang tính bản địa của dân tộc Chăm rất quý giá có trước loại hình múa quạt Chăm và nhạc lễ trống Ginăng, kèn Saranai hiện nay. Chính nó là cội rễ, là nền tảng, là phần hồn góp phần quan trọng để hình thành nên kho tàng nghệ thuật múa hát đặc sắc, tô thêm những sắc màu rực rỡ cho lễ hội Chăm.

http://www.vnptninhthuan.com.vn/SacCham/Lehoi01.htm

Page 22: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 24

NGƯỜI CHĂM CÓ MỘT LÀNG NGHỀ CỔ

TS.Phan Quốc Anh hững nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa thường rất quan tâm đến đồ gốm. Họ đi khai quật khắp nơi, bởi lẽ gốm là một nghề rất cổ của loài người. Thông qua những hiện vật, di chỉ gốm, người ta có thể nghiên cứu được

con người và xã hội trong quá khứ.

Dọc theo quốc lộ I, cách thành phố Phan Rang Tháp Chàm khoảng 7 km về phía nam có làng Chăm Bầu Trúc. Đây là một làng nghề cổ, những người Chăm ở đây đang sản xuất ra những sản phẩm gốm cổ bằng phương pháp tối cổ. Trong lịch sử, những người của nền văn hóa Đông sơn cách đây hơn 2000 năm đã biết sử dụng bàn xoay để làm gốm. Còn ở làng Chăm BầuTrúc, bước vào thế kỷ 21, những người Chăm ở đây vẫn hàng ngày làm gốm không có bàn xoay. Người thợ làm gốm vẫn phải đi vòng quanh, xoay theo đồ gốm đang làm. Đó là một phương pháp thủ công tối cổ vào thời tiền Đông sơn ở Đại Việt.

Những sản phẩm gốm Chăm Bầu Trúc thì sao? Anh em ở Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận thường nói vui, bây giờ chỉ cần lấy vài mảnh gốm Bầu Trúc đem ra chôn ở Bắc Ninh hay Hà Tây, ở Nghệ An hay Quảng Namv.v.. Sau đó lại đào lên và làm thông báo khoa học, đưa tin về việc phát hiện một nền văn hóa cổ. Trung tâm sẽ lại tha hồ mà tổ chức hội thảo, các nhà khảo cổ tha hồ công việc nghiên cứu. Đó là nói vui, nhưng trên thực tế, trong lịch sử, sản phẩm gốm Chăm của dân làng Bầu Trúc đã từng được các thương gia buôn bán thông thương với các nước trên thế giới bằng nhiều con đường khác nhau. Gốm cổ Chăm đã được tìm thấy khắp nhiều nơi trong và ngoài nước. Sản phẩm gốm Chăm sản xuất ra hiện nay ở làng Bầu Trúc vẫn không khác gì mấy so với hàng vài nghìn năm trước đây. Có đồ gốm thô và có cả đồ gốm mịn Ngoài việc không có bàn xoay, lò nung gốm của người Chăm hiện nay cũng rất cổ. Đó là kiểu nung bán lộ thiên. Độ nung của gốm Chăm hiện nay cũng vẫn chỉ dưới 1000 0C.

Việc tiêu thụ sản phẩm thì sao? Hiện nay ở Ninh thuận có 22 làng Chăm với khoảng trên 60 nghìn dân và chỉ có một làng làm gốm là làng Bầu Trúc. Người Chăm vẫn sử dụng những sản phẩm gốm do mình sản xuất ra. Khi được hỏi tại sao không dùng đồ dùng bằng nhôm, bằng nhựa cho thuận tiện? Bà con Chăm trả lời rằng đồ gốm nấu cơm cũng như thức ăn ngon hơn, đựng nước và nấu nước uống ngon hơn, giá cả lại rẻ hơn. Đồ gốm Chăm hiện nay vẫn được chở đi bán ở khắp nơi. Ngoài những đồ dùng như chum, vại, nồi niêu, ché, chậu v.v…những sản phẩm khác như bếp lò nấu than, lò làm bánh Căn, bánh Xèo vẫn dễ tiêu thụ ở cả thị trường trong và ngoài tỉnh.

N

Page 23: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 25

Tuy nhiên, làng gốm Chăm vẫn chỉ nổi tiếng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa làng nghề thủ công. Chính phương pháp thủ công của lịch sử để lại đã không đáp ứng nhu cầu kinh tế thị trường hiện nay. Do phương pháp thủ công nên tốn rất nhiều công lao động dẫn đến giá thành cao. Mẫu mã sản phẩm không được đổi mới. Việc tiêu thụ sản phẩm ngày càng khó khăn do hàng tiêu dùng bằng những nguyên liệu khác như nhôm, nhựa ngày càng phong phú, một phần lại bị tư thương ép giáv.v..Đây chính là những nguyên nhân dẫn đến những lo ngại về sự tồn vong của một làng nghề đã có hàng nghìn năm tuổi.

Trước đây, làng Bầu Trúc có hơn 300 hộ làm nghề gốm, nay chỉ còn được gần 70 hộ. Những hộ này hiện nay cũng chỉ sản xuất cầm chừng do hàng gốm ngày càng khó tiêu thụ, giá cả ngày càng rẻ. Nhiều hộ đầu tư sản xuất càng nhiều càng lỗ. Các hộ dân chuyển sang trồng lúa, trồng nho có lãi hơn. Nghề gốm ngày càng bị coi nhẹ. Nguy cơ biến mất của một làng nghề có hàng nghìn năm tuổi đang hiển hiện.

Nguyên nhân từ đâu?

Họa sĩ Đàng Năng Thọ, người trở nên nổi tiếng nhờ những tác phẩm nghệ thuật làm từ đất gốm nung, cũng là người dân làng Bầu Trúc, tâm sự:” Báo chí, các nhà nghiên cứu khoa học, các nhà văn hóa ai cũng ca ngợi làng gốm Bầu Trúc, coi Bầu Trúc là một làng nghề truyền thống nổi tiếng của nền văn hóa Chăm chúng tôi.Thế nhưng chẳng ai quan tâm đến sự sống còn của nó, nhà nước không đầu tư, cũng không hề có một chính sách nào để bảo tồn làng nghề. Các cụ già trong làng rất lo lắng, nghề làm gốm đang bị thất truyền từng ngày. Bà con làng nghề Bầu Trúc chúng tôi chỉ mong được sự quan tâm chỉ đạo, định hướng của nhà nước để làm sao duy trì được làng nghề”.

Việc duy trì làng nghề truyền thống gốm Chăm không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về mặt bảo lưu văn hóa dân tộc. Người Chăm có một nền văn hóa phong phú, đa dạng, trong đó gốm Chăm đã góp phần rất lớn trong việc nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt nam nói riêng và lịch sử văn hóa Đông Nam Á nói chung./.

http://www.nguoicham.com/nc/

Page 24: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 26

“KHÔNG GIAN VĂN HÓA CHĂM” GIỮA LÒNG HÀ NỘI

ân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa cổ, có một nền văn hóa dân gian độc đáo và đặc sắc được giữ gìn cho đến tận ngày nay. Không Gian Sáng Tạo Trung Nguyên sẽ giới thiệu một

“Không gian văn hoá Chăm” giữa lòng Hà Nội. Triển lãm sẽ khai mạc tại 36 - Điện Biên Phủ-Hà Nội vào chiều 28/5 và được trưng bài tới hết ngày 11/6/2010.

Dân tộc Chăm, xưa kia là cư dân của Vương quốc Champa cổ, hiện có khoảng 20 vạn người, nhiều nhất ở Ninh Thuận - 85.000 người, và Bình Thuận - 37.000 người. Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, sinh hoạt hàng ngày vẫn giữ nếp truyền thống với các lễ hội dân gian rất đặc sắc. Rija Nưgar (vào đầu năm Chăm lịch, tức tháng 4 Dương lịch) và Katê (Tết Chăm, vào tháng 7 Chăm lịch, tức tháng 10 Dương lịch) là hai lễ hội quan trọng hơn cả.

Người Chăm biết sử dụng chữ viết từ khá sớm. Bia Võ Cạnh bằng chữ Sanskrit ở Nha Trang (năm 192 sau Công nguyên) và bia Đông Yên Châu (cuối thế kỉ IV) là minh văn bằng chữ bản địa có mặt sớm nhất trong khu vực. Ngôn ngữ-chữ viết phát triển thúc đẩy văn học Chăm phát triển theo. Song hành với văn học bình dân như tục ngữ, ca dao, truyện cổ… là nền văn học viết có mặt từ rất sớm: văn bi kí, sử thi, trường ca, thơ thế sự, thơ triết lí, gia huấn ca… Mặc dù đã thất tán nhiều, nhưng ngày nay người ta vẫn có thể tìm đọc một số tác phẩm, như những cuốn sách 150 năm tuổi tại triển lãm “Không gian văn hoá Chăm” lần này. Đặc biệt, người Chăm rất giỏi nghề thủ công, nổi bật nhất là nghề gốm và dệt thổ cẩm. Nói về nghề gốm, hiện còn hai cộng đồng Chăm còn giữ nghề này là làng Bầu Trúc (Ninh Thuận) và xã Phan Hòa (Bình Thuận). Đất sét trộn cát mịn được nhồi nhuyễn thành hình quả bí đặt lên bàn kê (chứ không phải bàn xoay); người thợ vừa đi giật lùi vừa dùng tay tạo khối đất thành dáng cơ bản. Hoa văn trang trí gốm Chăm khá đơn giản, thường là hình sóng hay hình con thoi, được tạo bằng que nhỏ, răng lược hay vỏ sò... Sản phẩm gốm được phơi khô cả trong nhà và ngoài nắng, trước khi đem nung bằng củi, phân trâu bò khô, rơm rạ… Sau 2 - 3 tiếng, người thợ dùng sào móc sản phẩm và dùng màu thực vật chiết từ da cây săng, trái thị để tạo màu cho gốm ngay khi gốm còn nóng. Do nung bằng nhiều nguyên liệu khác nhau, lửa táp không đều, nên không có hai sản phẩm gốm Chăm nào hoàn toàn giống nhau.

D

Page 25: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 27

Trước đây, gốm Chăm gồm ba nhóm: gốm nấu (nồi nấu cơm, nồi nấu canh, trách kho cá, bếp lò,…); gốm đựng (khương đựng gạo, lu đựng nước, ảng...); và gốm dùng trong sinh hoạt chung. Ngày nay, nhờ biết tạo nhiều mẫu mã mới, gốm Chăm không chỉ là mặt hàng tiêu dùng tự cung tự cấp nữa mà phần nào đã trở thành hàng mĩ nghệ, nhưng kĩ thuật sản xuất vẫn không thay đổi. “Không gian văn hoá Chăm” tự hào giới thiệu với người xem hơn 50 sản phẩm tiêu biểu cho gốm Chăm xưa và nay.

Với người Chăm, dệt thổ cẩm là nghề “mẹ truyền con nối”. Nghề này hiện vẫn là nguồn sống của cả làng Mỹ Nghiệp (Ninh Thuận), mảnh đất văn vật từ thời Vương quốc Champa cổ mà tên còn tìm thấy trong bi kí. Khoảng thập niên 50 trở về trước, người Chăm thường trồng bông để lấy sợi và dùng lá cây, vỏ cây để tạo màu, còn ngày nay, các nguyên liệu từ tơ sợi cho đến thuốc nhuộm đều được mua sẵn. Trên nền vải ưa thích là màu đen hay đỏ, người thợ Chăm dệt nên các loại hoa văn rất phong phú và độc đáo: có hoa văn được bố trí trên toàn mặt vải, có hoa văn chạy song song với nền sợi dọc, cũng có hoa văn hình động vật cách điệu như rồng, phụng, chim trão, công… Trong xã hội Chăm, có thể phân biệt mức độ sang hèn của một người chỉ qua hoa văn trên y phục. Như phụ nữ Chăm thuộc tầng lớp trên thì mặc y phục có hoa văn chim trão hay chim phụng..., còn phụ nữ tầng lớp dưới thì mặc y phục có hoa văn dây rừng… Đến với “Không gian văn hoá Chăm”, người xem có cơ hội thưởng lãm những mẫu hoa văn thổ cẩm Chăm cổ xưa và nguyên bản nhất.

Triển lãm còn có sự tham gia của nghệ nhân Thuận Thị Trụ, danh hiệu “Bàn tay vàng thổ cẩm Việt Nam”, cùng tham gia hành trình giới thiệu văn hóa Chăm. Bà là người có công sưu tầm hơn ba mươi hoa văn nền tưởng như đã thất truyền và từ đó cách điệu ra khoảng năm mươi hoa văn khác. Công ty Dệt may thổ cẩm Inrahani do bà thành lập là công ty thổ cẩm đầu tiên và duy nhất ở Việt Nam, chuyên chế tác hàng thô thành các sản phẩm phục vụ cuộc sống như váy áo, túi xách, ví, thắt lưng, khăn trải bàn …, góp phần đưa thổ cẩm Chăm được nhiều người biết đến hơn. Tại triển lãm, bà sẽ kể những câu chuyện thú vị về văn hóa Chăm thông qua phần trình diễn nghệ thuật dệt thổ cẩm và những điệu múa của mình.

http://www.hanoimoi.com.vn

Page 26: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 28

Huyeàn bí TEÁT Kateâ cuûa ngöôøi Chaêm

gười Chăm có ba ngày Tết trong

năm để cùng nhau tụ họp lại tưởng nhớ các vị thần linh, tổ tiên và tổ chức những hoạt động vui chơi giải trí. Cuối thu, khi mùa màng đã thu hoạch xong, theo lịch của người Chăm là ngày 1 tháng 7 (tương ứng vào khoảng cuối tháng 9 Dương lịch), các làng Chăm lại rộn ràng vui Tết Katê.

Hư thực chuyện di vật vua Chăm

Theo ông Phú Trạm - Inrasara, một nhà nghiên cứu văn hóa Chăm, hội viên Hội văn nghệ dân gian Việt Nam: Trước đây, ngày Tết của người Chăm là một dịp lễ khác được tiến hành vào đầu tháng tư (lịch Chăm).

Đây mới là ngày lễ có ý nghĩa xua đuổi cái xấu của năm cũ, đón mừng cái may mắn của năm mới. Tuy nhiên, do quy mô của lễ hội Katê lớn hơn, lại có thêm phần lên tháp tiến hành các nghi thức, nên lễ Katê được biết đến

nhiều hơn và trở thành cái Tết lớn nhất của người Chăm trong năm.

Những cụ già người Chăm kể lại: Ngày trước, lễ hội Katê có thể kéo dài đến nửa tháng, nhưng ngày nay đã được rút xuống chỉ còn ba ngày. Ngày đầu tiên dành để chuẩn bị quần áo cho các thần linh. Ngày thứ hai rước quần áo lên tháp cho các thần. Ngày thứ ba, dành cho cúng tế thần làng và tổ chức trò chơi, cúng tế tại gia đình.

Nhà nghiên cứu Phú Trạm cho biết, theo truyền thuyết, người Raglai vốn là con út của vua, là em của người Chăm. Trong thực tế, qua nhiều lần trải qua thăng trầm trong hàng trăm năm lịch sử, các vị vua người Chăm đã phải nhiều phen lánh nạn.

Khi rời quê nhà lánh nạn, không muốn tháp bị hoang phế nên phải gửi lại vương miện, mũ mão, quần áo cho người Raglai, vốn là tộc người sống ở miền núi, trong các bản làng có đường

lên hiểm trở để ai có ý định trộm cướp cũng khó thực hiện được.

Hàng năm, cứ trước ngày khai hội một hôm, người Raglai lại từ buôn làng trên núi, rước các di vật xuống làng Chăm. Trước lễ hội chính một ngày, cả hai dân tộc cùng làm lễ rước y phục về đền thờ trong làng. Lễ thỉnh y phục gồm các tiết mục đàn hát ca ngợi công đức của các vua, dâng lễ vật và khấn mừng thần kéo dài đến khuya mới chấm dứt.

Sau lễ hội, di vật lại theo họ về bảo quản, thờ cúng trong một ngôi nhà riêng. Qua nhiều đời, ngày nay vẫn còn nhiều bảo vật của các vị vua được gìn giữ như áo, thắt lưng... Để "đến hẹn lại lên", mùa Tết Katê năm sau, anh em người Chăm - Raglai lại cùng nhau sum họp. Cũng ở một số nơi, tục lệ này không còn.

Ông Phú Trạm kể lại câu chuyện ở chính ngôi làng quê hương ông: Làng Chăm Chakleng, xã Mỹ Nghiệp, thị trấn

N

Page 27: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 29

Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Trong làng có đền thờ một vị tướng tài người Chăm nhưng y phục của vị tướng lại được gửi mãi tại một làng người Raglai trên đèo Krông Pha (thuộc huyện Ninh Sơn, cách đó khoảng 30km). Hàng trăm năm không sao, đến một mùa Katê gần đây, người Raglai của làng đó sau lễ hội xin với các già làng được gửi lại y phục cho được ở đền làng Chăm luôn vì người ở làng Raglai cùng họ với người Chăm đến nay đều đã không còn ở nhà, không có điều kiện đi lại hàng năm. Mùa katê năm sau đó, lễ hội ở làng quê ông Phúc Trạm vắng bóng áo xanh của người anh em Raglai.

Lễ Katê - bức tranh nhiều sắc màu

Từ 5 giờ sáng ngày lễ chính, dân làng Chăm đã bắt đầu làm lễ xin rước y phục từ đền thờ làng lên tháp Chăm. Trong khi vị cả sư (Pô Dhia) làm lễ khấn tại đền thờ làng, đoàn rước gồm các thầy trong ban tế lễ, dàn nhạc người Chăm và người Raglai, các nam thanh niên khiêng kiệu, các

thiếu nữ trong đội múa... đã chờ sẵn trước sân đền thờ làng.

Đúng 7 giờ sáng, sau màn trình diễn của các thiếu nữ với tiết mục vừa múa quạt vừa đội bình hoa trên đầu mà bình không hề ngả nghiêng, lễ rước y phục từ làng lên tháp bắt đầu.

Đi đầu đoàn rước là cờ Tổ quốc và đoàn nhạc công người Raglai, tiếp đến là các thầy trong ban điều hành. Kiệu đặt y phục của các thần được hộ tống xung quanh bởi các bức trướng, lọng che nắng, cờ lễ hội và đội thiếu nữ múa quạt.

Đoàn người gồm dân làng và khách thập phương kéo dài theo sau trên đường làng dẫn lên tháp Chăm trong tiếng nhạc do đội nhạc lễ vừa đi vừa cử hành. Cờ đỏ sao vàng của cờ Tổ quốc, áo tím nẹp xanh của người Raglai, áo trắng khăn đỏ của đàn ông người Chăm và muôn vàn sắc tía của trang phục truyền thống phụ nữ Chăm tạo thành một bức tranh khổng lồ nhiều màu sắc.

Tại cụm tháp chính của tỉnh Ninh Thuận,

qua đoạn đường khoảng 4 km từ thôn Phước Đồng tới khu vực tháp Poklong Garai, đội rước lễ còn phải leo qua hàng trăm bậc thang dẫn lên chân tháp. Hàng vạn người dân địa phương và khách du lịch đã đợi sẵn đoàn rước lễ từ dưới chân đồi.

Những nghi thức huyền bí

Lễ Katê cuốn hút khách thập phương tới tham dự không chỉ để ngắm nhìn bức tranh sinh hoạt cộng đồng nhiều màu sắc, không chỉ vì những điệu múa huyền ảo của các vũ nữ hay tiếng kèn saranai, tiếng trống ginăng bập bùng... Katê còn huyền ảo với những lời khấn nguyện, những nghi thức hành lễ độc đáo và đầy chất huyền bí.

Trên sân tháp hướng về phía tháp chính, sau phần tặng quà và chúc mừng của chính quyền địa phương, sẽ là phần trình diễn điệu múa quạt của các thiếu nữ người Chăm và các nhạc công Raglai trình diễn điệu nhạc dân tộc.

Kết thúc phần múa hát, lễ cúng xin phép

Page 28: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 30

thần Siva cho mở cửa tháp được cử hành với lễ vật là rượu, trứng, trầu cau và nước thánh (nước pha trầm). Đọc xong những lời cầu khấn bằng tiếng Chăm, một vị trong ban tế lễ hắt lọ nước thánh lên phù điêu thần Siva trên vòm cửa tháp, xin phép được mở cửa tháp để ban tế vào hành lễ.

Theo quan niệm của người Chăm, đền tháp là nơi trú ngụ của thần linh, vì vậy trong lễ hội lớn nhất trong năm này, phải có nghi thức tắm cho tượng. Nước thánh được vảy lên mình tượng, trong khi những người xung quanh nhảy múa, hát và hứng nước rỏ từ tượng thần rớt xuống để bôi lên cơ thể mình cầu may mắn. Ban tế lễ tiếp tục cử hành buổi lễ với các nghi thức tiếp theo là mặc y phục cho tượng, đại lễ với nghi thức dâng lễ vật, lễ tạ, lễ ban ơn.

Trong tất cả các bước hành lễ, đều có đặc trưng là thầy cả sư đọc kinh, thầy kéo đàn hát các bài hát lần lượt mời các vị thần về chứng giám dự lễ (tổng cộng có khoảng hơn 30 bài hát trong buổi lễ tương ứng

với lời mời hơn 30 vị thần), bà bóng thì rót rượu, dâng lễ vật lên thần linh.

Trong khi đó, bà con người Chăm ở phía ngoài tháp cũng bày đồ cúng ra trên bãi cỏ để cúng tế, cầu mong thần linh ban cho một năm mới mưa thuận gió hòa, ban cho gia đình và người thân được may mắn, khỏe mạnh...

Tuy nhiên, những nghi thức bên trong tháp như đã nêu trên chỉ được các giáo sỹ trong ban tế lễ chứng kiến và mô tả lại cho người khác biết, chứ chưa từng nhà nghiên cứu, hay du khách nào được chiêm ngưỡng.

Vì vậy, chưa từng có bức ảnh hay cuốn video nào được thực hiện trong các tháp Chàm nơi thờ các vị vua. "Ngay cả đến tôi là một người Chăm, lại là một người nghiên cứu văn hóa, nhưng không phải là người có nhiệm vụ nên cũng chưa lần nào trong đời được chiêm ngưỡng phía bên trong tháp Chàm, dù đã nhiều lần năn nỉ được vào bên trong", ông Phú Trạm nói.

Cũng theo ông Phú Trạm, các giáo sỹ người Chăm thường "giấu nghề", vì vậy không ít nghi lễ, tập tục kỳ bí của người Chăm hoặc không được giải thích, hoặc đã dần mai một. Ông nêu ra một ví dụ: "Không ít trường hợp, các giáo sỹ khi không có người kế tục đã thả trôi sông hàng trăm cuốn kinh sách quý. Vì theo quan niệm của họ, sách là của thánh thần, nếu giáo sỹ không dùng nữa thì phải thả trôi sông trả thần linh".

Nhiều thế kỷ trước, sách "Đại Nam nhất thống chí" đã viết: "Tục Chăm thì hàng năm cứ tháng 10, tức như tháng giêng của Kinh là Tết. Đến kỳ thì sắm đủ cỗ bàn cúng tiên tổ, hội khách khứa bạn bè". Nhiều thế kỷ sau, những phong tục này vẫn được người Chăm giữ vẹn nguyên

Mai Minh http://giadinh.net.vn/200902

05020223239p0c1023/huyen-bi-tet-kate-cua-nguoi-

cham.htm

Page 29: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 31

LỄ HỘI RAMƯWAN CỦA NGƯỜI CHĂM HỒI GIÁO

Đình Hy ằng năm, cứ đến cuối tháng 8, suốt tháng 9 (tháng Ramadan, tính theo lịch

Hồi giáo, trong bài viết này thể hiện ngày tháng theo lịch Hồi giáo), người Chăm Hồi giáo tổ chức lễ hội Ramưwan. Theo các sử liệu, Hồi giáo du nhập vào người Chăm sau thế kỷ X. Quá trình đó lại gặp tín ngưỡng bản địa thờ Mẫu (Pô Inư Nưgar) và Bàlamôn giáo trước đó, nên đã có những biến đổi về lễ nghi cúng kính so với các vùng Hồi giáo khác ở Đông Nam Á, Trung Á, Trung Đông... và Hồi giáo được người Chăm gọi là đạo Bàni (cũ), còn nguyên mẫu gọi là đạo Islam (mới). Tìm hiểu sâu lễ này thì đây là tháng nhịn ăn, chay niệm của các tu sĩ Hồi giáo và là dịp để tín đồ người Chăm Hồi giáo cúng gia tiên để tưởng nhớ người thân đã mất, đồng thời tổ chức ca múa nhạc dân gian vui hội ở tất cả các làng Chăm Hồi giáo.

Theo thống kê hiện nay, làng Chăm Hồi giáo, tại tỉnh Ninh Thuận có 08 làng. Tại tỉnh Bình Thuận có 07 làng. Ngoài ra còn ở vùng Châu Đốc, Châu Giang (tỉnh An Giang) và tại quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh.

Nhìn chung ở các làng Chăm, lễ hội Ramưwan diễn ra trình tự như sau:

1. Tảo mộ: vào những ngày cuối cùng của tháng 8, tín đồ Chăm mặc trang phục truyền thống mang theo lễ vật, trẻ em xách nước đi đến các nghĩa

địa (ghurrăk) để tảo mộ và cúng. Những tu sĩ Hồi giáo chủ lễ, cầu kinh Coran bằng tiếng Ả Rập, vị phụ tế vẩy nước thánh lên từng viên đá (bia mộ). Mỗi dòng họ có một nghĩa địa riêng, tất cả thành viên trong dòng họ đều kính cẩn cúng bái, cầu khấn mời tổ tiên về hưởng mùa Ramưwan với con cháu. Kết thúc phần cúng, ở mỗi ngôi mộ đều để dưới đá bia một miếng trầu. Người Chăm Hồi giáo có tập quán khi chết, chôn đầu quay về hướng Bắc, nghiêng mặt về hướng Tây. Trên ngôi mộ có 2 viên đá. Lễ tảo mộ và cúng kính được xem như là sự hành hương của người Chăm về với tổ tiên, ông bà.

2. Cúng gia tiên: sau phần tảo mộ và cúng mời, họ về nhà, gia chủ chuẩn bị một chỗ trang trọng trên giường hoặc phảng, trải chiếu mới bày trầu cau, trà, hoa quả (chỗ này chính là nơi tổ tiên về ngự). Khi lễ vật và người phục vụ đã chuẩn bị xong, vị chủ lễ là thầy Achar (1 chức sắc Hồi giáo), hoặc người thông hiểu, thuộc Kinh thánh làm lễ tẩy trần. Mọi người chỉnh tể trang phục. Vị chủ lễ khấn nguyện và vẽ bùa, toàn gia đình bắt đầu cúng. Lễ vật cúng thường có 2 loại được chưng lên các mâm có chân cao đó là: mâm lễ ngọt gồm: bánh trái, chè và mâm lễ mặn có cơm, canh, cá, thịt dê, gà, và trầu cau, trầm hương (tín đồ Hồi giáo kiêng ăn thịt con heo, con dông, kiêng uống rượu).

H

Page 30: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 32

Tuần tự, lễ vật được dâng nhiều đợt, mỗi đợt 2 mâm thức ngọt và thức mặn và gia chủ khấn mời tên 1 vị thần, vị tổ tiên và cầu phù hộ cho toàn gia tộc, toàn làng xóm, tín đồ.

Trong những ngày này, về phần hội, tuỳ theo khả năng các làng để có tổ chức văn nghệ dân gian, thi dệt vải, đội nước, thi cày bằng bò, các trò chơi thể thao... tạo ra không khí vui nhộn để bước vào tháng chay tịnh. Đây là dịp thu hút đông đúc mọi người, mọi dân tộc khác đến chung vui, có năm mỗi làng thu hút hàng ngàn người đi lễ hội.

3. Lễ chay niệm:

Cuối ngày 30 tháng 8, các chức sắc Hồi giáo vào hẳn trong Thánh Đường ôn luyện kinh Coran và chay tịnh. Lúc này đông đảo tín đồ đội mâm lễ vật đến Thánh Đường để dự khai lễ Ramưwan. Kể từ đây, các chức sắc ở, sinh hoạt trong Thánh Đường 1 tháng. Mỗi ngày đêm họ cầu kinh 5 lần với những quy tắc chặt chẽ. Trong vòng 1 tháng này, có 4 ngày thứ 6 làm lễ cầu kinh, giảng kinh và 4 đêm thứ 5 vừa cầu kinh vừa cầu nguyện tổ tiên bằng những bài riêng.

Tục lệ trong tháng chay tịnh Ramưwan là: 15 ngày đầu tín đồ trong làng hoàn toàn không được phép sát sinh, các gia đình không được cúng kính (theo quan niệm tổ tiên cũng đang chay tịnh). Chỉ đến ngày thứ 15, sau khi làm lễ Muk trũn, tín đồ mới được phép

sát sinh và cúng tổ tiên ở trong làng. Đến ngày thứ 20, người ta làm lễ Ôn trũn, lễ vật và hình thức cúng như các lễ khác, song sau lễ này, tín đồ bên ngoài dâng gạo vào Thánh Đường với ý nghĩa hành hương đến Thánh địa La Meca, bố thí người nghèo...

Đến đêm thứ 30, thân nhân các chức sắc Hồi giáo đem phần gạo được chia từ Thánh Đường về nấu cơm để rạng sáng hôm sau dâng lên Thánh Đường, phần còn lại mời tất cả mọi người trong làng cùng đến ăn. Thực phẩm có trứng, muối mè...

Sáng ngày thứ 31 này, tại Thánh Đường, toàn thể chức sắc, tu sĩ và tín đồ trong cả làng làm lễ kết thúc tháng Ramưwan, họ đọc kinh cầu an lành cho muôn người. Sau đó mọi người về lại gia đình mình mở đầu cho một năm mới sau tháng chay tịnh Ramưwan.

Lễ hội Ramưwan của cộng đồng người Chăm Hồi giáo, cũng như lễ hội Katê của người Chăm Bàlamôn có ý nghĩa văn hoá truyền thống cũng như giá trị tâm linh, tình cảm, đoàn kết cộng đồng, dân tộc, tương tự ngày tết Nguyên Đán của người Kinh, nên có nhiều người gọi là tết. Nhân dịp này, mọi người đều phấn khởi, cùng nhau cầu nguyện cho mọi người bình yên, xóm làng thanh tịnh, ai cũng lấy tình thương yêu để đối xử với nhau, chia sẻ khó khăn lẫn nhau theo truyền thống bao đời truyền lại.

http://cema.gov.vn/modules.php?mid=982&name=Content&op=details

Page 31: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 33

PHONG TỤC THẢ DIỀU CỦA ĐỒNG BÀO CHĂM

àng năm, vào thứ bảy của tháng 11 (lịch Chăm), một dòng tộc "Yang In" ở Ninh Thuần mặc bộ đồ truyền thống dân tộc tập trung đến một bãi đất rộng đầu làng - nơi vừa dựng sẵn một cái rạp vuông nhỏ để

thực hiện nghi lễ thả diều. Lễ tục này đồng bào Chăm gọi là Papăn kalang Pô Yang In để phù hộ cho con cháu khỏe mạnh, hạnh phúc, mùa màng bội thu.

Cánh diều đựợc thiết kế theo giới tính diều đực và diều cái. Diều đực hình thoi, có hai túi tròn, tượng trưng cho bộ phận sinh dục nam. Khung thân dài 1,5 mét, cánh dài 0,6 mét, rộng 1,4 mét, được làm bằng tre và buộc dây mây. Mặt trước cánh dán giấy đỏ, mặt sau dán tờ giấy ghi ngày con cháu thực hành nghi lễ và sử lược về Ngài Pô Yang In do ông Kadhar thảo bằng chữ Chăm. Diều đực đựợc gắn sáo hai tầng và ba cái đuôi dài chừng 5 mét bằng lá buông to bản. Dây buộc diều là dây màu (dây rừng) được tết vận thừng, dài từ 50-100 mét, cuộn trong khung gỗ hình chữ H. Diều cái chỉ lớn bằng 1/3 diều đực, không có túi, không dán giấy viết sự tích Poo Yang, sáo diều một tầng.

Ông Kadhar dâng lễ vật gồm có: chuối, trứng, trầu cau, rượu, thịt dê hay chè xôi... và làm phép mời Ngài Pô Yang In về chứng giám cho lòng thành của con cháu. Lễ vật này tượng trưng cho sự thịnh vượng phát đạt của con cháu trong một năm làm ăn.

Trong không khí đượm mùi trầm hương từ chiếc lư đồng tỏa ra, bà Pajâu nâng cánh diều từ trong rạp đi ra rồi thả dây. Chiếc diều đã được gắn ống sáo nên khi lên cao, gặp gió mạnh phát ra âm thanh vi vu. Đồng bào cho rằng diều lượn càng uyển chuyển, tiếng sáo càng thanh chứng tỏ sự hưởng ứng của các bậc thần linh càng nhiều. Ở dưới đất, Kadha vừa kéo đàn kanhi vừa hát bài ca về Pô Patao Yang In và Chay Tathun... Con cháu dòng tộc Yang In thả diều từ sáng đến tối mịt mới thu diều về, bóc giấy, cắt khung để sang năm mang ra dán giấy tiếp tục thả.

Theo quan niệm của đồng bào Chăm, cánh diều sẽ là sợi dây liên lạc hai thế giới âm, dương để báo cáo tình hình làm ăn cũng như sức khỏe của con cháu cho tổ tiên biết, đồng thời cầu xin tổ tiên ban phúc lành năm tới. Cánh diều quê vừa mang giá trị văn hóa dân tộc, vừa gợi nét thanh bình hiện vẫn được đồng bào Chăm bảo lưu.

http://vitinfo.com.vn/Muctin/Honviet/Phongtuctapquan/LA35938/default.htm

H

Page 32: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 34

THÁP CHĂM VÀ ĐIÊU KHẮC CHĂM

Page 33: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 35

ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN MINH ẤN ĐỘ ĐẾN VIỆC HÌNH THÀNH VĂN MINH CHAMPA 1. Ảnh hưởng của chữ viết Ấn Độ

đến lịch sử chữ viết Champa.

Ấn Độ là một quốc gia sớm có chữ viết. Nhờ những khám phá về khảo cổ học đã xác định được ngay từ nền văn hóa Harappa chữ viết đã được sử dụng phổ biến trong công việc hành chính cũng như thường ngày.

Đến khoảng thế kỉ V TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một loại chữ khác gọi là chữ Kharosthi. Đây là một loại chữ phỏng theo chữ viết vùng Lưỡng Hà. Sau đó lại xuất hiện chữ Brami, một loại chữ được sử dụng rộng rãi. Các văn bia của Asoka đều viết bằng loại này. Trên cơ sở chữ Brami, người Ấn Độ lại đặt ra chữ Davanagari có cách viết đơn giản thuận tiện hơn. Đó là thứ chữ mới để viết tiếng Sanskrit. Đến nay ở Ấn Độ và Nepan vẫn dùng loại chữ này.

Như vậy, nền văn minh Ấn Độ đã sáng tạo ra ít nhất là 4 loại chữ viết khác nhau.

Champa sớm tiếp xúc với nền văn minh Ấn Độ, đã tiếp nhận văn tự Ấn Độ ngay từ ngày lập quốc. Một đặc điểm của chữ viết Champa là ghi chép trên bia đá, nội dung bia kí thường phản ánh việc dâng tế thần linh, tường thuật lại biến cố đã xảy ra đối với vương triều, ca ngợi công đức của thần linh và bậc minh vương tiền nhiệm. Văn bia được khắc chữ từ thế kỉ IV đến thế kỉ XV bằng cả văn tự Chăm cổ và Sanskrit.

Sau thế kỉ XV, người Champa không viết chữ lên bia đá nữa mà viết trên

những vật liệu khác như giấy, tre, vải, da…

Nói đến chữ viết Champa là nói đến chữ Akhar Thrah, một loại chữ được dùng phổ biến cho đến ngày này vẫn còn lưu truyền.

Từ chữ Akhar Thrah, người Champa đã biến hóa thêm nét thành nhiều chữ viết khác nhau, có chức năng sử dụng vào những mục đích khác nhau.

Đó là:

Akhar Yok : chữ bí ẩn.

Akhar Atwơr : chữ treo, chữ tắt.

Akhar Kalimưng : chữ con nhện, chữ thấu.

Ngoài ra còn có chữ chỉ thấy trên bia kí là :

Akhar Hayap

Akhar Rik

Tất cả các kiểu chữ và biến thể Akhar (chữ viết) đó điều bắt nguồn từ một trong những chữ viết ở miền Nam Ấn Độ thuộc hệ văn tự Brami.

Qua những lần biến thể chữ viết ngày càng phù hợp với âm tiết của tiếng Champa . Sự tiếp nhận văn tự Ấn Độ để tạo nên Akhar Thrah là một bước phát triển mới của lịch sử ngôn ngữ Champa. Bởi vì, người Ấn Độ nếu không có sự hướng dẫn cần thiết sẽ không đọc được Akhar Thrah.

Trên cơ sở chữ phạn và lấy dạng nét cong của chữ phạn, người Chăm đã xây dựng thành một hệ thống văn tự Chăm

Page 34: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 36

cổ để ghi chép tiếng nói của mình, gồm 16 nguyên âm, 31 phụ âm, khoảng 32 dấu âm sắc và chính tả. .

2. Ảnh hưởng của sử thi Ấn Độ trong văn học Champa.

Ấn Độ có hai bộ sử thi rất đồ sộ là Mahabharata và Ramayana. Hai bộ sử thi này được truyền miệng từ nửa đầu thiên niên kỉ I TCN rồi được chép lại bằng khẩu ngữ, đến các thế kỉ đầu công nguyên thì được dịch ra tiếng Sanskrit. .

Người Champa đã đón nhận hai bộ sử thi theo cách tư duy của họ và phù hợp với tâm lí của cộng đồng. Văn học Champa khá phát triển với nhiều thể loại phong phú như : Thần thoại, sử thi, truyện cổ, thơ ca, văn xuôi, văn vần…

Thơ ca Champa rất dồi dào âm điệu, nội dung trữ tình và thường là thơ lục bát gieo vần lục tứ và bát lục. Bên cạnh văn học viết, văn học dân gian của người Chăm cũng khá phát triển dưới nhiều thể loại và phản ánh nhiều nội dung về tâm lí dân tộc và các khía cạnh xã hội.

Đặc điểm của văn học thành văn của Champa là phản ánh thời cuộc, khắc họa nhiều mặt của đời sống xã hội, ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình yêu gia đình và quê hương. Nhưng các tác phẩm có giá trị cao về nghệ thuật và nội dung thường khuyết danh người sáng tác. Điều này, nói lên các tác phẩm đó là do quá trình sáng tác của cả cộng đồng và qua các thế hệ nối tiếp cùng tham gia sáng tác.

Những bản trường ca anh hùng cũng khá phong phú, được sáng tác liên tục, phổ biến rộng rãi và lưu truyền đến

ngày nay. Bên cạnh việc tiếp nhận văn học Ấn Độ trực tiếp vào những thời điểm Hindu giáo ảnh h ưởng sâu sắc. Sau này, dòng chảy của văn học Ấn Độ vẫn đến được với Champa qua trung gian là Malaysia, một quốc gia cũng ảnh hưởng văn minh Ấn Độ.

Dĩ nhiên khi đến Champa, những dòng tư tưởng cũng có khác để phù hợp, với cuộc sống và sinh hoạt Champa. Đó là những thể loại văn học dân gian, với những bài hát lễ, hát giao duyên, những kinh văn, bài xướng ca được biểu diễn vào dịp lễ quan trọng liên quan đến Hindu giáo.

3. Ảnh hưởng của tôn giáo Ấn Độ đến Champa.

Ấn Độ là nơi sản sinh ra rất nhiều tôn giáo, trong đó quan trọng nhất là Bàlamôn giáo về sau là Hindu giáo và Phật giáo. Ngoài ra còn có một số tôn giáo khác như đạo Jain, đạo Xích.

Bàlamôn giáo sớm được truyền bá ở Đông Nam Á và một thời kì dài độc tôn làm quốc giáo. Ở Ấn Độ Bàlamôn chia hạng người ra thành giai cấp rất chặt chẽ.

- Braman (Bàlamôn) là đẳng cấp của những người làm nghề tôn giáo.

- Ksatơrya là đẳng cấp của các chiến sĩ.

- Vaisya là đẳng cấp của những người bình dân làm các nghề như chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán, một số nghề thủ công.

- Suđra là đẳng cấp của những người cùng khổ, vốn là con cháu của các bộ lạc bại trận không có tư liệu sản xuất.

Page 35: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 37

Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ đẳng cấp là sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc. Nhưng các tăng lữ Bàlamôn thì dùng uy lực của thần linh để giải thích hiện tượng xã hội ấy.

Nếu như Bàlamôn giáo ở Ấn Độ nghiêm khắc bao nhiêu thì ở Champa chế độ đẳng cấp rất mờ nhạt. Vì Bàlamôn giáo không những là quốc giáo mà còn là hệ tư tưởng của giai cấp thống trị, tôn giáo của đẳng cấp trên. Do vậy, Bàlamôn giáo chỉ ảnh hưởng trong cung đình, dòng dõi quý tộc mà thôi.

Champa tiếp nhận tư tưởng Bàlamôn giáo của Ấn Độ kết hợp với tín ngưỡng địa phương làm cho sắc thái của tôn giáo có sự biến sắc rõ ràng.

Trong ba vị thần tối cao của Bàlamôn giáo là Braman, Siva, Visnu, thì thần Siva được coi trọng hơn cả, thể hiện qua vị trí nơi đặt tượng thần, thường là gian điện chính, nơi trung tâm, điều này thấy rõ ở các đền tháp Champa.

Tôn giáo Ấn Độ ảnh hưởng khá mạnh mẽ ở Champa từ niềm tin, tư tưởng, tư duy về kĩ thuật, đến trang phục đời thường. Dĩ nhiên cũng bị dân gian hóa nhiều nên trở thành bản sắc riêng của Champa.

Bên cạnh niềm tin vào các vị thần Ấn Độ, người Champa còn thờ phụng nhiều vị thần khác có nguồn gốc siêu nhiên hay những công thần khai quốc. Việc nhân thần hóa được thờ phượng cùng với các thần linh Ấn Độ là điều hiếm hoi chỉ thấy ở Champa.

Có lẽ ngày từ Ấn Độ, Bàlamôn không có người sáng lập, không hệ

thống giáo lí chặt chẽ nên khi đến Champa nó dễ bị xâm nhập vào tín ngưỡng dân gian bản địa. Do vậy, Bàlamôn giáo ở Champa thiên nhiều về nghi thức cúng lễ ở đền tháp và những lễ hội dân gian hơn là chú tâm học tập kinh kệ.

4. Ảnh hưởng của kiến trúc, điêu khắc Ấn Độ đến nghệ thuật xây dựng tháp Champa.

Thời cổ trung đại Ấn Độ đã có một nền nghệ thuật phong phú đặc sắc, bao gồm nhiều mặt, trong đó nổi bật nhất là ngành kiến trúc, điêu khắc. Thời Harappa, nhà cửa chỉ mới xây bằng gạch, đến vương triều Morya nghệ thuật kiến trúc đá mới bắt đầu phát triển mà các công trình tiêu biểu là cung điện, chùa tháp, chùa tháp, trụ đá.

Như vậy, tất cả những công trình công cộng, công trình tôn giáo đều làm bằng vật liệu bền, thể hiện sức mạnh uy quyền của nhà vua và vương triều. Nói chung nghệ thuật tạo hình Ấn Độ phần lớn nhằm vào đề tài tôn giáo, nhưng vì bắt nguồn từ cuộc sống thực tế, nên tính hiện thực vẫn thể hiện rất rõ nét, ví dụ tượng nhiều tay nhiều đầu là phỏng theo tư thế của đội múa trong đền chùa và cung đình.

Khi các tôn giáo Ấn Độ, vượt biên giới qua các eo biển mà truyền qua Tích Lan, Java, Cao Miên, Thailand, Mianmar, Tây Tạng, Khotan, Turkestan, Mông Cổ, Trung Hoa thì nghệ thuật Ấn Độ cũng lan tràn theo vào các xứ đó.

Champa cũng đón nhận dòng chảy của nền văn minh Ấn Độ từ biển đông. Một điều dễ nhận thấy kiến trúc đi cùng

Page 36: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 38

với tôn giáo. Hầu hết, các công trình kiến trúc ở Champa đều phục vụ cho nhu cầu tôn giáo, dù cho những tác phẩm điêu khắc, kiến trúc đạt được giá trị mỹ thuật cao so với đương đại cũng đều nói lên đề tài tôn giáo.

Trong suốt chiều dài lịch sử Champa, vương triều nào khi lên nắm quyền đều cho xây dựng hoặc trùng tu công trình tôn giáo để chứng tỏ sự tồn tại của vương triều mình, phô trương sức mạnh quốc gia, nhưng quan trọng hơn cả vẫn nhằm vào mục đích tạ ơn thần linh qua việc dâng lễ vật cúng cho đền tháp. Vì đã phù trợ sức mạnh và chiến thắng cho vương triều.

Như các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á cùng chịu ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, vật liệu cơ bản và chủ yếu để xây dựng đền tháp là gạch và đá. Có thể nói, Champa là bậc thầy về kĩ thuật chế tác gạch, trải qua bao thế kỉ, những tháp gạch Champa vẫn còn tươi rói, màu sắc ánh hồng, vàng, kết dính với nhau một cách kì lạ mà nhiều nhà khoa học còn chưa thể giải mã hết.

Trên tổng thể thân tháp bằng gạch, những thợ điêu khắc đã chạm trỗ hoa văn, những con vật thiên liêng của Hindu giáo hay cảnh sinh hoạt trong cung đình, rất sinh động và chân thật.

Đặc điểm của gạch Champa là mềm, xốp nên khi dựng xong hình thể, dáng tháp hoàn chỉnh, sau đó sẽ chạm, khắc, khảm lên tháp những môtip mà nhà vua và quần chúng nhân dân muốn gởi gắm vào.

Tháp Champa thường gồm 3 tầng, tầng trên cùng là đặt các vị thần quốc giáo, tầng giữa thường diễn tả hoạt

động sống của cung đình, tầng đề là tầng âm chỉ gia cố nền móng cho vững chắc không có trang trí.

Mỗi một ngôi tháp chỉ có một lối vào chính cũng là vị trí đặt các nhân thần (Vua được thần thành hóa), đồng thời là thực hành các nghi lễ chính thức vào những ngày lễ trong đại của Bàlamôn giáo. Các mặt còn lại đều là cửa giả và đóng kín.

Hình thể của một tháp Champa bao giờ cũng thu nhỏ dần khi càng lên cao. Trên chóp đỉnh thường đặt một Linga. Người Champa đã tiếp thu kĩ thuật xây dựng tháp từ Ấn Độ, nhưng qua bàn tay kĩ sư Champa các khối tháp trở nên hài hòa, cứng rắn, mạnh mẽ, dễ gần gũi nhưng đầy bí hiểm. Quan sát tháp ở bất cứ vị trí đâu và vào lúc nào cũng thấy nét uy nghiêm tráng lệ.

5. Ảnh hưởng của lịch pháp Ấn Độ đến cách tính lịch của Champa.

Từ rất sớm người Ấn Độ đã biết chia một năm làm 12 tháng, mỗi tháng 30 ngày, mỗi ngày 30 giờ, cứ 5 năm thì thêm 1 tháng nhuận. Các nhà thiên văn học Ấn Độ cổ đại đã biết được quả đất và mặt trăng đều hình cầu, biết được quỹ đạo của mặt trăng và tính được các kì trăng tròn trăng khuyết. Họ còn phân biệt 5 hành tinh Hỏa-Thủy-Mộc-Kim-Thổ, biết được một số chòm sao và sự vận hành của các ngôi sao chính. Tác phẩm thiên văn học cổ nhất của Ấn Độ là quyển Siddhantas ra đời vào khoảng thế kỉ V TCN.

Người Champa đã sớm tiếp thu và biết cách tính lịch pháp. Không những thế các học giả trong triều đình Champa lúc bấy giờ đã nghiên cứu và tính khá

Page 37: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 39

thạo vị trí di chuyển theo thời gian của các hành tinh để định thời gian một cách chính xác.

Từ ngày đầu dựng nước Champa đã tiếp thu hệ thống lịch Saka của Ấn Độ một cách chủ động. Trong tiếng Champa lịch gọi là Sakawi hay Takawi. Một năm của người Champa là 12 tháng, một tuần có 7 ngày. Cách tính trên dựa vào sự vận hành của mặt trăng và của các chòm sao.

Lịch pháp được ứng dụng khá rộng rãi trong nông nghiệp để biết sự biến đổi của tiết trời mà gieo trồng và chọn giống vật nuôi cho thích hợp. Đồng thời Champa vốn là cư dân hoạt động mạnh mẽ trên con đường hàng hải quốc tế, nên lịch được ứng dụng để xem ngày, giờ dự đoán bão tố trước khi ra khơi.

Bên cạnh đó, mỗi một mùa tương ứng với một kiểu thời tiết, đều diễn ra những lễ hội có tính chất cộng đồng như lễ Rija Nagar, lễ hội Kate để cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an.

Hiện nay, người Champa quần cư theo cộng đồng tôn giáo, nên lịch pháp cũng theo lịch tôn giáo vì thực hành theo lễ thức tôn giáo. Với ba nhóm Chăm cơ bản tương ứng với 3 loại lịch riêng và tất nhiên trong sinh hoạt cũng sử dung Tây lịch.

- Người Chăm Braman có Sakawi Ahier.

- Người Chăm Bani có Sakawi Awar.

- Người Chăm Islam có Sakawi Islam.

Trong vương triều Po Rome, đã có sự kết hợp lịch Ahier và Awar tạo thành

một hệ thống lịch mới gọi chung là lịch âm dương.

Như vậy, bên cạnh lịch Tây, người Champa còn có 4 loại cách tính lịch khác trong hoạt động tôn giáo. Chính điều này, mặc nhiên gây khó khăn lớn trong cộng đồng vì thiếu sự thống nhất về ngày tháng hành lễ và kiên cự trong lễ cưới, ma chay. Sự phân bố dân cư theo địa bàn tôn giáo kéo theo sự phân hóa khu vực sử dụng lịch pháp.

Kết luận.

Từ thế kỉ II-XV, văn hóa Champa đậm nét ảnh hưởng văn minh Ấn Độ. Trong những năm đầu công nguyên văn minh Ấn Độ cũng từng lan tỏa đến Việt Nam. Điển hình là sự xuất hiện trung tâm Phật giáo Luy Lâu ở Bắc Ninh. Tuy nhiên, do sự đô hộ của Trung Quốc, người Việt bị nền văn minh Trung Hoa thống trị sâu sắc.

Sự gặp gỡ của nền văn minh Trung Quốc và nền văn minh Ấn Độ thể hiện rõ ràng ở Việt Nam và Champa trong tổ chức đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội.

Khi Việt Nam, từng bước thoát khỏi sự thống trị của Trung Quốc cũng là giai đoạn Champa đã đạt được nhiều thành tựu văn minh. Trước nhu cầu phát triển kinh tế đất nước và khắc phục những gánh nặng do chính sách khai thác thời Bắc thuộc để lại Việt Nam đã kiến thiết lại đất nước.

Các vương triều Việt Nam đã thi hành một chính sách thống nhất và liên tục. Đó là chính sách Nam tiến, đã từng bước đẩy lùi nền văn minh Ấn Độ ở Đông Nam Á mà Champa là một đại diện.

Page 38: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 40

Có thể nói rằng, sự sụp đổ của nền văn minh Champa là sự sụp đổ của nền văn minh Ấn Độ trước nền văn minh Trung Hoa. Vương quốc Champa không còn tồn tại nữa, nhưng những giá trị đặc sắc nhất của văn minh Champa vẫn còn bảo tồn và được các tộc người hậu duệ Champa lưu truyền.

Như các quốc gia cùng ảnh hưởng văn minh Ấn Độ, các Stupa tức Bimon Kalan (theo tiếng Chăm). Là ngôi đền thiêng liêng của quốc gia thờ các vị thần có nguồn gốc Ấn Độ như Brahma, Siva, Visnu, Ganesa, Nandin cùng các nhân thần.

Ảnh hưởng về kĩ thuật xây dựng đền tháp như việc chọn các vật liệu có tính năng bền vững, các môtip, các hình thể tháp. Ví dụ : tháp Po Klong Garai ở thành phố Phan Rang. Bên cạnh một tháp chính còn có hai ngôi tháp phụ là nơi để dâng lễ có mái tháp hình yên ngựa hay mái thuyền biểu tượng của ngọn núi thiên liêng Meru ở Ấn Độ.

Nét đặc sắc của đền tháp Champa là ảnh hưởng kiến trúc Ấn Độ nhưng vẫn có nét riêng, độc đáo chỉ thấy ở Champa. Có giống chăng là các tượng thần được thờ phượng trong các ngôi tháp.

Còn điêu khắc của các đền tháp Champa, ngoài hình tượng ngọn lửa ở các góc tháp ( như hình tượng rồng chầu nguyệt ở các ngôi đình người Việt), có nhiều hình tượng trang trí rất sinh động, phổ biến hơn cả là những nét chạm khắc trực tiếp lên thân tháp quan cảnh sinh hoạt, múa hát trong cung đình của các vũ nữ Apsara, các nhân vật

trong sử thi Mahabrata hay các thần hộ pháp.

Về tôn giáo, khi tiếp nhận Hindu giáo ở từ Ấn Độ và một thời gian lâu dài trở thành quốc giáo thống trị trong suốt lịch sử Champa. Hindu giáo trở thành hệ tư tưởng chính trị để quản lí đất nước.

Quá trình tiếp biến Hindu giáo đã làm cho nó khác với chính quốc rất nhiều điểm. Như Champa không có sự phân chia đẳng cấp nghiêm khắc như Ấn Độ. Mặc nhiên, ở Champa xuất hiện nhiều bí ẩn, nghi lễ, nghi thức tôn giáo mới mà không hề tìm thấy ở Ấn Độ. Vì trước khi du nhập tôn giáo ở bên ngoài, Champa là một nước nông nghiệp. Bởi thế, họ gắn những nghi lễ nông nghiệp gắn vào niềm tin tôn giáo tạo ra nhiều nghi lễ mới trong quá trình thực hành nghi thức tôn giáo.

Càng đặc sắc, khi dòng tư tưởng Islam giáo mới du nhập đã kết hợp, hòa lẫn với Bàlamôn tạo nên Bàni giáo. Có lẽ rằng, trên thế giới chẳng có nơi nào mà hai ý thức hệ tư tưởng hòa lẫn vào nhau được như ở Champa. Các tôn giáo tồn tại song song với nhau. Đây là sự minh chứng cho tính dung hợp và khả năng tiếp biến những luồn văn hóa từ bên ngoài.

Về văn học, trước khi tiếp thu văn học Ấn Độ, văn học dân gian đã khá phát triển ở Champa như thần thoại, cổ tích. Tiếp xúc với văn học Ấn Độ và sau là Malaysia đã làm cho nền văn học bác học Champa phát triển. Thể loại văn học này, thể hiện qua các bài minh văn, các bài xướng ca, các câu thần chú được ghi trên bia đá.

Page 39: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 41

Sự ảnh hưởng của văn học Ấn Độ rõ nét nhất là bộ sử thi Mahabrarata và Ramayana, sự đứt đoạn, mất liên hệ qua lại cũng làm phai mờ sức truyền bá văn học Ấn Độ.

Về sau văn học Champa tiếp xúc qua con đường Mã Lai đã đưa văn học Champa đạt nhiều thành tựu và để lại nhiều tác phẩm có gia trị như Deva Mano, Ariya Nai Mai Mang Kah. Những sáng tác văn học Chăm về sau vẫn giữ được nét đặc sắc riêng.

Về văn tự, quá trình cải biên chữ Brami của Ấn Độ đến Akhar Thrah Champa là cả một thời gian lâu dài. Vai trò của Akhar Thrah rất quan trọng, là loại chữ viết được dùng phổ biến và rộng rãi trong quần chúng, ghi chép tất cả các công việc hành chính của vương triều, chép sử, sáng tác văn chương. Điểm mới của Akhar Thrah là từ mẫu chữ Brami qua sự cải biến để ghi âm tiết Champa. Và trên thế giới chỉ còn người Chăm sử dụng hệ thống chữ Akhar Thrah do họ sáng tạo ra.

Ngày nay, Akhar thrah đang được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, bởi sự cải biên làm mất đi tính trong sáng của ngôn ngữ, chỉ vì mục đích đơn giản hóa để đưa vào giảng dạy trong học đường, điều này làm cho chữ viết Chăm mất đi tính thống nhất và tạo ra cách viết khác nhau trong cùng một ngôn ngữ.

Về lịch pháp, rất quan trọng đối với nghề làm nông nghiệp và đi biển hàng

ngày. Nên vấn đề ngày, giờ tốt xấu rất được chú ý trong đời sống.

Sự tiếp nhận lịch Saka của Ấn Độ được ghi chép rõ ràng trên các bia kí được tìm thấy. Tuy nhiên cách chuyển lịch Saka để phù hợp với điều kiện thực tế như thế nào thì ít được biết đến. Bởi những tri thức về thiên văn học của Champa chưa được nghiên cứu nhiều.

Người Champa đã chuyển lịch Saka sang Sakawi để phục vụ cho việc tiến hành các lễ hội dân gian, nghi lễ trong nông nghiệp, đặc biệt là ngày hành lễ tôn giáo.

Tóm lại, nền văn minh Ấn Độ một thời huy hoàng khắp Đông Nam Á đã để lại nhiều di sản giá trị tuyệt vời về mặt nghệ thuật. Trên cơ sở văn minh Ấn Độ, người Champa đã tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo thành nét văn hóa riêng, độc đáo cho riêng mình. Nền văn minh Champa ảnh hưởng sâu sắc văn minh Ấn Độ từ ý thức hệ quản lí thần dân với thuyết nhân thần.

Sự giao lưu, tiếp biến văn hóa dễ nhận diện nhất là nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc ở các đền tháp cổ nằm khắp miền Trung Việt Nam. Và nét Bàlamôn giáo còn hiện hữu đến cách thức tổ chức xã hội.

Văn minh Ấn Độ đã được tiếp nhận một cách hòa bình và hài hòa với văn hóa bản địa tạo nên văn minh Champa rực rỡ trong lịch sử

http://www.nguoicham.com/nc/

Page 40: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 42

THAÙP CHAØM ÔÛ PHAN RANG Tỉnh Ninh Thuận còn nhiều di tích kiến trúc cổ của người Chăm là các

tháp, các làng nghề truyền thống. Hiện nay, tỉnh còn ba tháp cổ là: tháp Pôklông Garai, tháp Hòa Lai, tháp Pôrômê được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, nơi đây vẫn là điều bí ẩn đối với nến kiến trúc đương đại

Tháp PôKlông Garai

Di tích tháp PôKlông Garai được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XIII đầu thế kỷ XIV, nằm trên đồi Trầu thuộc phường Đô Vinh, cách trung tâm thị xã Phan Rang - Tháp Chàm 9 km về hướng tây bắc. Đây là một công trình độc đáo, được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật và điêu khắc Chăm.

Tháp PôKlông Garai gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau, nhưng hiện nay còn lại ba ngôi tháp xây bằng gạch Chăm. Đó là tháp Cổng (cao 8,56m), tháp Lửa (cao 9,31m) và tháp Chính- tháp thờ vua PôKlông Garai (cao 21,59m, mỗi cạnh rộng hơn 10m). Bố cục và cấu trúc của mỗi tháp là cả một công trình nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Mỗi cạnh, mỗi tầng và mỗi mặt của từng tháp được chạm khắc trang trí bằng các hoạ tiết gốm, đá với đủ loại hình người, hình đuôi rồng, hình lá, hình bò thần. Tất cả công trình chạm trổ, điêu khắc đều phản ánh đầy đủ ý nghĩa về nghệ thuật và tôn giáo của người Chăm

Tháp Hòa Lai

Cụm tháp Hòa Lai còn có tên là Ba Tháp, nằm ven quốc lộ 1A, cách Phan Rang 14km về phía bắc, được xây dựng từ đầu thế kỷ thứ IX. Cụm tháp được các nhà nghiên cứu phương Tây đánh giá là kiến trúc tháp cổ và đẹp nhất của dân tộc Champa.

Đáng tiếc là ngày nay tháp chính đã bị sụp đổ, chỉ còn lại tháp Bắc và tháp Nam, nhưng cũng trong tình trạng hoang tàn. Một thân tháp hình khối lập phương khỏe khoắn, nhô lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả hệ thống các tầng tháp nhỏ dần. Các tháp còn lưu lại những hoa văn được điêu khắc rất tỉ mỉ, tinh xảo và tuyệt đẹp trên vòm cửa, trụ ốp, diềm mái...

Tháp Pôrômê

Được coi là phiên bản của tháp PôKlông Garai. Có thể thấy sự thừa hưởng có tính sáng tạo rất rõ nét ở công trình nghệ thuật kiến trúc này. Trong đó, Linga tám tay với khuôn mặt của vua thần hóa Pôrômê là một ví dụ. Hình bà Thu Chí (bà Trinh Nữ), vợ của vua ở miếu thờ với bộ ngực tròn, đầy đặn, nở nang và đôi mắt vô cùng sống động của một cô gái Chăm cũng nói lên điều đó.

http://www.ninhthuan.gov.vn

Page 41: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 43

N

ói đến văn hóa Chăm không thể không nói tới các tháp Chăm đứng sừng sững, uy nghi trước nắng gió của thời gian. Bình Định là nơi còn lại nhiều tháp và nguyên vẹn nhất trong số những tỉnh có kiến trúc Chăm.

Tháp Chăm được thừa nhận về độ tinh tế. B.Broslier trong cuốn Indochine Carefour des arts (Pris 1961) nhận xét: "Về cấu trúc, tháp Chăm đẹp hơn tháp Khmer, sở dĩ như vậy là do họ (người Chăm) giữ được ý thức về chất liệu (gạch) và biết tôn trọng bản chất của nó, trong khi đó người Khmer có xu hướng dựng lên một khối bằng bất cứ vật liệu nào rồi chạm khắc lên. Nghệ thuật kiến trúc Chăm cân bằng, có nhịp điệu và sáng sủa hơn, nó tạo cho tháp Chăm một vẻ đẹp không thể bỏ qua". Từ thế kỷ V-VI, sử sách Trung Hoa đã phải công nhận người Chăm là bậc thầy trong nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc gạch.

Việc các tháp Chăm được làm từ những viên gạch đỏ hồng chồng khít lên nhau không thấy mạch hồ đã tạo nên huyền thoại. Các chuyên gia Ba Lan cho rằng, người Chăm dùng gạch nung sẵn rồi gắn với nhau bằng vữa đất sét, sau đó toàn bộ được nung lại. Một số nhà nghiên cứu thì nêu ra giả thuyết cho rằng người Chăm đã dùng keo chiết từ thực vật (như cây bàn chải + mật mía hoặc nhựa cây dầu rái) để dán các viên gạch với nhau. Những nghiên cứu gần đây cho thấy người Chăm đã sử dụng kết hợp một số biện pháp kỹ thuật khác nhau để xây tháp...

Sự tinh tế của các tháp Chăm còn thể hiện ở vô số những hình chạm khắc tỉ mỉ trau chuốt do nghệ nhân đục đẽo trực tiếp lên tường tháp đã được xây sẵn, không thể vì một sai sót mà phá đi xây lại được. Hoàn toàn có lý khi Parmentier nhận xét:

"người Chăm chạm gạch như chạm gỗ, đẽo đá như đẽo

gỗ". Về cấu trúc quần thể, các tháp Chăm

có hai loại. Loại thứ nhất là các quần thể kiến trúc bộ ba gồm ba tháp song song thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva (như tháp Dương Long). Loại thứ hai là các quần thể kiến trúc có mộ tháp trung tâm thờ thần Siva và các tháp phụ vây quanh (tháp Cánh Tiên, tháp Thủ Thiện, tháp Thốc Lốc). Loại này thường xuất hiện muộn hơn (khoảng thế kỷ IX trở về sau).

Về hình dáng, phần lớn các tháp Chăm đều có hình ngọn núi (Sikhara), trên các góc có các tháp nhỏ ứng với đỉnh núi nhỏ. Tuy kiến trúc núi có nguồn gốc truyền thuyết từ Ấn Độ nhưng với người Chăm, chúng lại biểu tượng cho thiên nhiên miền Trung trùng điệp núi non và phản ánh đúng chất dương tính trong tính cách bản địa của văn hóa Chăm (núi = dương). Chất dương tính này còn bộc lộ rõ ở những tháp mô phỏng hình sinh thực khí nam. Bên cạnh tháp chính hình ngọn núi, còn có tháp có mái cong hình thuyền (tháp Bánh Ít) - dấu hiệu đặc thù trong kiến trúc nhà cửa cư dân Đông Nam Á.

Như vậy, từ chỗ vay mượn dạng Sikhara Ấn Độ, tháp Chăm đã đi đến chỗ hòa quyện và phối kết khá nhiều sáng tạo mang dấu ấn của tính cách bản địa Chăm và văn hóa nông nghiệp khu vực. Hầu hết tháp Chăm đều là lăng mộ thờ vua. Ngoài ra, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo trợ của nhà vua. Do tính chất lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật hẹp, chỉ có chỗ cho các pháp sư hành lễ chứ

Tháp Đôi Quy

Nhơn

Page 42: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 44

không phải là nơi cho các tín đồ hội tụ và cầu nguyện.

TS. Đinh Bá Hòa

http://www.baobinhdinh.com.vn

Page 43: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 45

DẤU ẤN VĂN HÓA CHĂMPA Ở TÂY NGUYÊN

iệc tháp Bang Keng, huyện Krông Pa (Gia Lai) đang được tiến hành khai quật hy vọng hé lộ thêm nhiều điều về dấu ấn văn hóa Chăm pa tại Tây Nguyên.

Sau 4 năm kể từ khi ngành văn hóa Gia Lai phát hiện tháp Bang Keng, việc khai quật cho đến giữa 6.2010 mới được tiến hành. Đây là một phát hiện khá quan trọng về tháp Chăm ở vùng đất này.

Tháp Bang Keng được xây dựng trên vùng đất thuộc buôn Jú, xã Krông Năng (Krông Pa) ngày nay. Tháp có bình diện hình vuông, mặt chính hướng về phía Đông (sông Ba). Phần trong của tháp trước đó đã có dấu hiệu đào bới nên phần kiến trúc bên trong bị phá vỡ. Phần tường phía Nam bị phá sập hoàn toàn. Điều rất đáng tiếc là những kiến trúc bên trong cũng như các đồ vật linh thiêng đi kèm chẳng hạn như linga, yoni... đều không còn.

Thạc sĩ Nguyễn Quốc Mạnh, người chịu trách nhiệm chính trong cuộc khai quật tháp cho biết: “Nhiều khả năng đây là một kiến trúc ảnh hưởng Ấn Độ giáo. Căn cứ trên lượng gạch khai quật và quy mô của công trình, chúng tôi có thể nhận định đây là một đền thờ hơn là tháp. Công trình được xây trên gò cao có thể tượng trưng cho núi Nêru, còn mặt chính quay về sông Ba tượng trưng cho biển sữa như truyền thuyết. Kiến trúc này có diện tích 6,4 x 7,8m, móng sâu 1,8m, được gia cố bằng lớp cát và đá cuội to cỡ nắm tay trước khi xây gạch lên. Gạch dùng để xây nên công trình kiến trúc này có kích thước khá lớn là 40 x 20 x 8cm, nặng gần 20kg. Phần trên của kiến trúc đã bị sụp hoàn toàn... Đây là một công trình được xây dựng hoàn chỉnh. Nhưng hiện chúng tôi vẫn chưa xác định được lò gạch, nơi cung cấp nguyên liệu cho công trình”.

Trước đây, một số học giả người Pháp đã có những ghi nhận từ rất sớm các tháp Chăm ở Kon Tum, Cheo Reo (Ayun Pa ngày nay) và một số địa điểm khác của Tây Nguyên. Nhưng mọi việc cũng dừng lại tại đó... Ngoài ra, cùng với việc phát hiện một bia đá có khắc chữ Phạn của người Chăm cổ tại thôn Tư Lương, xã Tân An, huyện Đăk Pơ, tỉnh Gia Lai (Thanh Niên đã thông tin) gần đây, thì dấu ấn của văn hóa Chăm vẫn là câu hỏi lớn cần sự giải đáp của những nhà nghiên cứu. Hiện vẫn chưa có một công trình khoa học chỉn chu nào đề cập toàn bộ đến sự xuất hiện của người Chăm và những dấu ấn văn hóa của họ ở vùng đất Tây Nguyên.

Thiên Trúc. http://www.thanhnien.com.vn/

V

Page 44: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 46

TRANG PHỤC – TRANG SỨC CỦA NGƯỜI CHĂM

Page 45: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 47

CÁC LOẠI TRANG PHỤC CHĂM

gười Chăm là một dân tộc sớm hình thành nước và chịu ảnh hưởng nhiều loại hình tôn giáo, văn hoá khác nhau. Ngoài tôn giáo Bàlamôn. Hồi giáo người Chăm còn theo tín ngưỡng dân gian xã hội Chăm còn có nhiều giai

cấp: vua chúa, quý tộc, bình dân. Do đó, mỗi giai cấp, tầng lớp; mỗi chức sắc tu sĩ tôn giáo người đều có mỗi trang phục riêng.

Trang phục vua chúa Chăm: Trang phục vua chúa Chăm ngày xưa

rất phong phú và đa dạng. Thế nhưng cho đến nay do biến động của lịch sử vua chúa Chăm đã mất đi, kéo theo sự biến mất về trang phục của họ. Cho đến nay, do chất liệu vải bị huỷ hoại theo thời gian, trang phục vua chúa Chăm không còn tìm ra được hiện vật nào còn nguyên vẹn. Hiện nay chúng ta chỉ tìm thấy trang phục Chăm thông qua tư liệu cổ, bia kí và những tượng thờ, phù điêu trên các đền tháp Chăm.

Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, trang phục vua chúa Chăm được mô tả như sau: “Y phục vua Chúa Chăm gồm có áo bào bằng lụa, có hoa bằng vàng, trên nền đen hay xanh lá cây.Áo lót bằng vải trắng, nhỏ sợi mịn màng, đôi khi có thêu dệt hay viền tua bằng vàng; vua chỉ có mặc một áo này không có áo ngoài gì khác trong những buổi chầu, không phải đại lễ (Tân Đường Thư). Ở ngang lưng đeo bên ngoài lễ phục một cái đai vàng nạm ngọc và trang trí những vòng hoa (Nam Tề Thư, LVIII, 66a). Vua đi dép da đỏ (Tống Thư, CCCXXXIX), còn giầy và ủng thì thêu và nạm ngọc (Chư Phiên Chí), cổ, ngón tay, ngực vua thì mang rất nhiều đồ trang sức...”

Ngay từ thời nhà Đường, Thông điển cho chép đàn ông đàn bà Chiêm Thành đều quấn ngang một mảnh vải cổ bối. Đường thư cũng có nói đến “vua choàng một tấm vải trắng mịn”. Ngoài ra, các loại trang phục của vua (và kể cả quí tộc

cung đình Chăm) như cái sampot hiện còn trong kho... được dệt chen vào đó các hoa chi tiết bằng lụa trắng và đen có điểm chỉ vàng trên nền chỉ đỏ thành những hình Gảuda trong các dáng điệu nhảy múa hay cầu nguyện, và những con vật kỳ dị khác đã làm tăng vẻ đẹp mượt mà, đa sắc của vải lụa Chăm.

Theo nhiều nguồn tư liệu cổ khác còn nhận xét: “Trang phục Chăm xưa và ngày nay, không khác trang phục của người Mã Lai ”, nó là mảnh vải gọi là “Kama”(trích Lương thư, LIV, 54a) quấn quanh người từ phải sang trái và che từ ngang lưng đến chân. Ngoài miếng vải đó ra, cả đàn ông đàn bà không mặc gì thêm nữa, trừ mùa đông họ mặc áo dài (Tuỳ thư,LXXXII, 37a). Người thường dân thì đi chân đất (Cưu đường thư, CXCVII, 32a); và mặc theo một tác giả nói chỉ có vua chúa mới đi giầy (Durand, truyện Galathee, Befeo, v ,336), hình như những người quyền quí cũng đi giầy da thuộc (Lương thư, LIV,54, a). Họ bối tóc (Cựu đường thư,LIV,54a), đàn bà thì bối thành hình cái búa (Văn hiến thông khảo) và xâu lỗ tai để đeo những vòng nhỏ bằng kim loại (Lương thư, LIV,54a). Cũng như người Mãlai, họ rất sạch sẽ; mỗi ngày họ tắm nhiều lần, xoa mình bằng thứ dầu cao làm bằng lông não và xạ hương. Họ cũng dùng gỗ thơm để ướp quần áo (Tân đường thư, CXVII,32a).

Ngoài thư tịch cổ, trên bia kí còn miêu tả trang phục vua Chăm như sau: Vua Chăm Vikrantarman HI điểm trong

N

Page 46: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 48

những miếng vàng đeo lũng lẳng, có những chuỗi hạt ngọc xanh và ngọc trai lóng lánh như ánh trăng hôm rằm, vua được che bằng cái lộng trắng nó trùm lên vòng tròn cả bốn phương trời, Vua đeo vương miệng, đai vòng cổ, hoa tai bằng chuỗi hòn ngọc,bằng vàng, toả ra hào quang giống như những dây leo (Tống Sử, CCCIXXIX,22a).

Trên bia kí lai trung ở Huế, nội dung có phần mô tả về cách ăn mặc của Vua Champa Indravarman III (918) là áo Vua có thêu dính nhiều vàng bạc. Bia kí Pô Nưgar cũng đề cập đến Vua Chăm Wikratavarman III (854) mặc áo đen và xanh, có đính hoa văn và chỉ làm bằng vàng. Áo khác cũng làm bằng vải thô thêu chỉ bằng vàng rất đẹp.

Ngoài bia kí nói trên các nhà khoa học còn tìm thấy nhưng trang phục của người Chăm trên các phù điêu, trên các tượng thờ ở các đền tháp như các tượng thần Siva. Vũ nữ Chăm Apxara với những dãi áo mỏng được trang trí bằng những nét hoa văn thật đẹp mắt, tinh vi. Đi xa hơn nữa là các nhà khoa học còn tìm thấy các loại quần áo được trang bị cho binh lính Chămpa, chẳng hạn như bức phù điêu chạm khắc trên tường tháp Angkor wat, mô tả cảnh chiến đấu đội quân Chămpa tiến vào đánh Angkor vào thế kỷ XIII. Bức phù điêu này cho thấy binh lính Chămpa mặc quần áo ngắn có đeo dải Bàlamôn; mặc áo ngắn cụt tay có dệt hoa văn, đầu đội mũ.

Bên cạnh trang phục, người Chăm còn có nhiều loại đồ trang sức quí giá. Vì là nghề luyện Kim sớm phát triển cho nên, họ đã sản xuất ra nhiều đồ trang sức đa dạng và độc đáo. Sử Trung Quốc còn chép lại, khi vào Chămpa tướng nhà Lương – Đàn Hoa Chi đã cướp được tượng vàng Chămpa “Nấu chảy tượng vàng ra mấy ngàn cân”. Tư liệu trong cuốn Tuỳ thư còn cho biết: Tướng Lưu Phương “cướp được 18

tượng thần đúc bằng vàng của Champa”. Do nghề luyện kim phát triển sớm cho nên người Chăm đã chế tạo ra nhiều hàng thủ công, đặc biệt là đồ trang sức khá tinh xảo. Sản phẩm thủ công đó là những đồ trang sức, vật dụng bằng vàng, bạc, đồng được họ sử dụng để dâng cúng cho thần thánh, phục vụ vua chúa, giai cấp quí tộc... trong đời sống hằng ngày. Những cổ vật Chămpa đáng chú ý được biết đến là các loại vương miện, khuyên tai hai đầu thú, hình vành khăn, bông tai, hạt chuỗi bằng đá, thuỷ tinh, vàng, bạc được tìm thấy ở các di chỉ Sa Huỳnh và các nhóm di tích khác ở dọc dải đất miểnTrung Việt Nam. Chẳng hạn như: Đồ trang sức hình cảnh hoa cở lớn (Đồng Dương- Thăng Bình – Quảng Nam- Đà Nẳng) là một loại vương miện đẹp ở đầu thế kỷ XII – XIII sau công nguyên. Ngoài ra còn có các loại bình bát, vòng tay bằng vàng, bạc... có niên đại ở thế kỷ XVII trở về sau đều là những cổ vật quí giá được trang trí, chạm khắc nhiều dáng vẻ tinh xảo và đẹp mắt, góp phần làm phong phú nền trang phục của người Chăm.

Như vậy, từ các nguồn tư liệu trên, tuy còn ít ỏi nhưng cũng giúp chúng ta hình dung được cách ăn mặc của các vua chúa, các vũ nữ, các tầng lớp trong xã hội Chăm ngày xưa. Với trình độ phát triển kinh tế xã hội thời đó, cách ăn mặc của người Chăm đã định hình và phát triển cao mang đặc trưng văn hoá và văn minh của riêng mình. Sau này với sự biến đổi của lịch sử, tuỳ theo mỗi thời đại của trang phục Chăm về sau có nhiều biến đổi và cho đến nay trên nền tảng đó, người Chăm vẫn còn lưu giữ được trang phục truyền thống của mình.

Trang phục nam giới và nữ giới: Trang phục nữ giới: Trong bất cứ

dân tộc nào, thời đại nào người phụ nữ là người lưu giữ một cách bền vững bản sắc văn hoá riêng của dân tộc mình. Áo

Page 47: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 49

truyền thống của phụ nữ Chăm ngày nay là biểu hiện sắc thái riêng ấy của dân tộc Chăm mà người ta dễ dàng nhận biết, không lẫn lộn được với bất cứ dân tộc nào khác.

Áo (aw): Áo truyền thống của người phụ nữ

Chăm là áo dài bít tà, mặc chui đầu mà họ gọi là “Aw loah” (áo có 3 lỗ). Áo có một lỗ chui đầu và hai ống tay. Áo này xưa kia được cấu tạo bằng 7 mảnh vải may ghép với nhau, người Chăm gọi là “aw kauk kaung”. Nhóm áo này ở phần trên thân áo chạy dài từ vai xuống ngang bụng thì dừng lại. Vì khổ vải của khung dệt ngày xưa không cho phép vải rộng quá 1m; phần thứ hai từ ngang bụng đến quá đầu gối hoặc đến gót chân phần này cũng được may ghép hai phần, ở mặt trước và mặt sau: hai cánh tay được nối lại với hai phần vai và nách áo; và cuối cùng hai mảnh nhỏ đắp vào hai bên hông, người Chăm gọi bộ phận này là “dwa boong”. Cổ áo thường khoét lỗ hình tròn hoặc hình trái tim. Nhìn chung từng chiếc áo dài truyền thống Chăm ngày xưa chỉ là những tấm vải ghép lại mà người may quay tròn thành hình ống để bó thân người mặc. Áo có nhiều màu khác nhau như màu đỏ, vàng, đen, trắng... Nhưng mỗi cái áo đều luôn có hai màu (đen-đỏ-xanh-trắng hoặc tím ,vàng). Áo chỉ là những tấm vải thô, trơn không có trang trí hoa văn. Nhưng thay vào đó thì các phụ nữ trẻ khi mặc áo dài truyền thống đi hội họ thường choàng loại dây thắt lưng có thêu hoa văn trước ngực và buột xung quanh lưng gọi là “Taley kabak”.

Ngày nay áo dài truyền thống Chăm đã cải tiến. Do kỷ thuật dệt đã mở rộng được khổ vải cho nên áo dài Chăm không còn là những mảnh vải nối ghép (kauk kuang) nữa mà áo dài Chăm được may bằng 4 mảnh vải cùng màu nối nhau. Những phụ nữ Chăm trẻ thường

mặc áo dài đến quá đầu gối phủ lên váy mặc, may hơi bó tay, thân hơi phình rộng, ở hai bên hông áo “dwa boong” họ cải tiến bằng cách mở một đường ngay eo hông, có may thêm hàng khuy bấm hoặc nút dính gọi là “aw eo”.

Ngày xưa phụ nữ Chăm, ngoài mặc áo dài thì bên trong còn có áo lót gọi là áo klăm, giống như yếm của người Kinh, gồm có mảnh vải nhỏ che ngực, và dãi vải nhỏ buột qua vai và lưng. Ngày nay áo này không được mặc phổ biến mà thay vào đó là “áo nhỏ” giống như áo lót bên trong của người Kinh.

Váy, Khăn (Aban, khan): Váy người Chăm có hai loại: váy kín

và váy mở (aban) là loại váy quấn bằng tấm vải, hai mép vải không may dính vào nhau, khi mặc cặp váy được xếp vào và lận vào bên trong giữ chặt eo hông. Còn váy kín (khan) thì hai mép đầu vải được may dính vào nhau hình ống. Phụ nữ lớn tuổi thường mặc váy mở (aban) còn váy kín dành cho phụ nữ trẻ tuổi. Chỉ có váy mở (aban) có nhiều hoa văn trang trí và có may cạp váy, còn váy kín thì không có hoa văn trang trí.

Váy (aban) Chăm là loại sarong, đây là sản phẩm được mặc phổ biến phụ nữ của Chăm. Váy có kích thước (160cm x 90cm). Váy của người Chăm được trang trí nhiều loại hoa văn và màu sắc khác nhau. Váy Chăm có nhiều màu đen, đỏ, xanh... nhưng chủ yếu là nền đen, dệt nhiều hoa văn. Váy Chăm có nhiều loại, căn cứ vào kỷ thuật dệt, hoa văn trang trí mà họ có tên các loại váy khác nhau như sau:

- Váy dệt có đường viền (đường sọc đứng)

- Váy Chăm không có đường viền - Váy có cạp (loại biyor) Váy Chăm đa số được phủ kín hoa

văn trên bề mặt. Hoa văn được kết hợp

Page 48: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 50

với nhiều màu sắc khác nhau trên màu nền như đen, đỏ, xanh tạo nên nhiều kiểu dáng hoa văn phong phú như: hoa văn quả trám (bingu tamun), hoa văn hình con thằn lằn (kachak), hoa văn 4 cánh (tuk riteh), hình ô vuông (bingu caor)... Váy Chăm thường may cạp ở rèm chân theo chiều ngang hoặc chiều dài của váy gọi là jih hoặc biyon. Đàn bà bình dân thường mặc váy có hình quả trám (bingu tamum), hoa văn hình dây leo (biyon hareh). Còn đàn bà quí tộc mặc váy có nhiều hoa văn mà phổ biến là hoa văn 4 cánh (bingu riteh) và vua chúa Chăm còn sử dụng việc dệt thêm những sợi chỉ bằng vàng, bạc vào váy của họ. Còn đàn bà lớn tuổi thì mặc váy có hoa văn hình hạt lúa nổ (bingu kamang). Loại váy này không phổ biến, người Chăm kiên cử khi dệt thì phải cúng cho vị tổ nghề Pô Nưgar một cặp gà.

Cùng với váy, phụ nữ Chăm còn mặc một loại “khan” (khăn mặc) có kích thước khoảng (142cm x 77cm). Khăn mặc đàn bà có nền màu trắng, đen, xanh, vàng... Hoa văn thường dệt phủ kín trên bề mặt như hoa văn quả trám, hoa cà dược, hoa văn mắc lưới, hoa văn caro (hình vuông). Tuy nhiên loại hoa văn này phụ nữ Chăm không mặc phổ biến bằng loại váy (aban) Chăm. Cũng như vậy, khăn mặc phụ nữ Chăm còn dùng để choàng, đắp ngủ trong mùa có thời tiết lạnh.

Khăn đội đầu (tanrak): Khăn đội của phụ nữ Chăm thường

dệt bằng vải thô màu trắng , xanh, đỏ,vàng... Khăn có kích thước (129cm x 32cm), có dệt loại hoa văn quả trám, cùng màu phủ kín lên mặt vải, khăn đội đầu của người Chăm hồi giáo Bà Ni thường màu trắng, có may thêm cạp vải hoa văn theo dọc đường biên của khăn gọi là “khăn mbram”. Còn phụ nữ Chăm Bàlamôn bình dân thường thích đội

khăn màu trơn, không may cạp vải hoa văn. Ngoài ra phụ nữ Chăm còn có loại khăn choàng vai, và khăn cầm tay màu đỏ và hộp túi vải để đựng trầu cau.

Cách đội khăn của người Chăm là quấn lên đầu, vòng từ sau ra trước, một phần trùm xuống đỉnh đầu, rồi hai mép gặp lại, buông chùng xuống hai tai. Ngày nay việc đội khăn truyền thống chỉ còn lại ở phụ nữ lớn tuổi, còn giới trẻ thì đội nón, chỉ còn đội khăn truyền thống trong những dịp lễ hội.

Trang phục nam giới: Đây là loại áo ngắn (aw lah) truyền

thống của người đàn ông Chăm. Áo được may bởi 6 mảnh vải với nhau: mặt thân sau có hai mảnh vải tách rời, rồi họ lại may dính vào nhau tạo thành một đường viền chạy dọc theo sóng lưng (khổ vải khung dệt không cho phép khổ vải quá một mét nên họ phải dùng hai mảnh để may ghép lại): phía thân trước cũng gồm hai mảnh vải ghép lại; và hai bộ phận còn lại là hai vải ống tay may dính vào hai phần nách và phần vai. Áo ngắn chỉ mặt chùng xuống đến mông, xẻ hai bên hông khoảng 20cm. Áo ở phía trước có đường xẻ, đính khuy và hai bên vạt trước có hai cái túi. Cổ áo thường là cổ con, tròn đứng, ôm sát cổ. Áo thường có nhiều màu trắng: trắng, đỏ, xanh, vàng... nhưng không có trang trí hoa văn.

Áo nam giới Chăm còn có một loại áo khác gọi là “aw tah” (áo dài). Áo được dệt bằng vải thô màu trắng, được may ghép bằng nhiều mảnh vải. Áo tah không xẻ thân phía trước, không có hàng khuy mà chỉ xẻ một đường xiên trước ngực, dùng dây để buột thay nút. Áo mặt chui đầu (aw loah) và phủ dài đến đầu gối. Áo này hiện nay không được mặc phổ biến chỉ được mặc trong các nghi lễ.

Váy, khăn (aban, khan):

Page 49: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 51

Theo truyền thống từ xa xưa, tất cả người Chăm đàn bà đàn ông đều mặc váy (sarông). Thông thường ngày nay thì người đàn ông mặc khăn. Khăn mặc của người đàn ông Chăm có nhiều loại. Khăn mặc của đàn ông bình dân được dệt bằng vải thô màu trắng; khăn mặc không có hoa văn trang trí. Còn đàn ông quí tộc là mặc khăn cũng màu trắng nhưng dệt bằng tơ, có hoa văn quả trám phủ kín bề mặt khăn. Cách mặc váy, khăn mặc của đàn ông cũng giống như cách mặc váy của phụ nữ Chăm.

Dây thắt lưng (taley ka-in) Ngoài việc mặc váy đàn ông Chăm

còn buột dây lưng: là loại dây thắt lưng có khổ vải rộng khoảng 10cm-25cm dài khoảng 180cm-250cm. Nó thường dùng cho người đàn ông và người đàn bà mặc váy, có ba loại:

- Loại thường: đây là loại dây thắt lưng trơn dệt bằng vải thô (cotton) màu trắng không có dệt hoa văn, loại dây thắt lưng này có khổ hẹp, thường dùng cho người đàn ông bình dân.

- Loại dây lưng dệt bằng tơ, có thêu nhiều hoa văn màu sắc sặc sỡ, có khổ rộng như loại hoa văn quả trám, hoa văn mắt gà, hoa văn hình neo thuyền... Những loại hoa văn này thường dùng cho giai cấp quí tộc.

- Loại dây thắt lưng có khổ rộng khoảng 10cm, được dệt hai mặt hoa văn nổi. Hoa văn thường bố trí thành một dải nhiều hình xen kẻ nhau với màu sắc sặc sỡ như hoa văn quả trám, hoa văn chân chó, hoa văn hình móc mỏ neo... Ngoài ra loại này còn có hoa văn hình rồng, hình người... Loại dây lưng này chỉ dùng cho vua chúa và chức sắc tôn giáo.

Cách buột dây thắt lưng của người Chăm là quấn một vòng qua lưng rồi buột gút lại, thả chùn hai đầu dây có tua ra phía trước.

Đồ đội đầu (tanrak): Đồ đội đầu của đàn ông Chăm chủ

yếu là khăn. Người đàn ông bình dân thì sử dụng khăn dệt trơn bằng vải thô trắng và đàn ông quí tộc thì đội khăn có dệt hoa văn hình quả trám cùng màu trắng phủ kín lên mặt vải. Ngoài khăn đội đầu người đàn ông Chăm còn có khăn vắt vai, túi nhỏ đeo vai và túi đựng thuốc hút.

Cách đội khăn của Chăm là quấn vòng lên đầu từ phía sau ra phía trước, rồi thả hai mép gập lại, buông chùn xuống ở gần hai tai. Đối với người đàn ông trẻ tuổi thì không đội khăn mà chỉ vắt khăn chéo qua vai. Cũng như phụ nữ Chăm, ngày nay việc đội khăn truyền thống chỉ có ở người đàn ông lớn tuổi, còn giới trẻ thì đội nón, chỉ còn đội khăn truyền thống trong những dịp lễ hội.

Trang phục chức sắc tôn giáo, tín ngưỡng Chăm:

Trang phục tu sĩ Bàlamôn Chăm: Tu sĩ Chăm Bàlamôn gọi là paseh,

họ chuyên phục vụ các lễ nghi cúng tế cho tín đồ Chăm theo Bàlamôn như các lễ nghi đền tháp, đám tang, lễ nhập kút... Hàng ngũ tu sĩ paseh có nhiều thứ bậc khác nhau như paseh đung akuak (tu sĩ mới tập sự), paseh lyah (cấp thứ hai), paseh luah (cấp thứ ba), pô bac (phó cả sư) và cuối cùng là pô Adhia (chức cả sư) - người giữ chức vụ cao nhất trong hàng ngũ paseh.

Tầng lớp paseh này có sắc phục riêng và mỗi cấp bậc của tu sĩ paseh đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên bộ phận của trang phục. Pô Adhia (cả sư) mặc áo trắng, mặt váy, buột dây lưng và khăn đội đầu. Áo Pô Adhia là loại vải màu trắng, mặc dài qua đầu gối, dệt bằng vải thô không có hoa văn, vải may thụng được ghép lại bởi 6 mảnh vải (hai mảnh vải thân trước, hai mảnh vải thân sau, hai mảnh vải ống tay): áo

Page 50: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 52

không xẻ tà, không mặc chui đầu mà khi mặc hai phần thân được xếp chồng lên nhau, rồi buột dây vải ở hông và gần phía ngực trái. Áo này người Chăm gọi là áo “Aw tikuak”.

Tu sĩ Adhia mặc áo váy hở màu trắng. Khăn mặc có may cạp váy là loại hoa văn hình rồng. Pô Adhia (cả sư) còn buộc dây thắt lưng dệt hoa văn hai mặt, như các loại hoa văn hình quả trám, hoa văn chân chó, hoa văn neo thuyền. Loại cạp váy dây lưng này để dành cho chức sắc Pô Adhia, vua chúa tu sĩ cấp dưới và dân thường.

Pô Adhia đội đầu bằng khăn hai loại khăn: khăn “puah” và “khan mưham taibi”. Đây là loại khăn dài màu trắng có hai tua vải đỏ, có cạp vải, may viền ở hai đầu và dệt hoa văn. Đây là loại khăn chỉ dành riêng cho giới chức sắc và tu sĩ.

Cùng với áo, khăn đội đầu, váy, dây lưng, còn có đeo khăn đỏ, và bốn túi nhỏ hình âm vật trước ngực (tượng trưng cho âm) để đựng trầu cau, thuốc hút.

Cách mặc áo , váy buột lưng, quấn khăn của tu sĩ Bàlamôn cũng tương tự như cách mặc áo váy của người đàn ông bình dân đã trình bày trên.

Nói chung trang phục của Pô Adhia (cả sư) là tiêu biểu cho tu sĩ đạo Bàlamôn. Các trang phục của tu sĩ cấp dưới Paseh cơ bản đều giống trang phục của Pô Adhia nhưng chỉ khác và phân biệt được với nhau ở chỗ là áo của Pô Adhia, ống tay được may hai lớp vải, còn tu sĩ bình thường chỉ được may một lớp vải. Pô Adhia thì mặc váy có cạp váy hình rồng, thắt dây lưng có hoa văn hai mặt nhiều hoa văn. Còn tu sĩ cấp bình thường, mặc váy trơn, không có cạp váy và thắt dây lưng có hoa văn thường như hoa văn quả trám, hoa văn con thằn lằn...

Trang phục tu sĩ chăm Hồi giáo- Bà Ni:

Tu sĩ Chăm Hồi giáo Bà Ni gọi là Pô Achar, họ chuyên phục vụ các lễ nghi cúng tế cho tín đồ theo đạo Hồi giáo – Bà Ni như các lễ nghi ở thánh đường, đám tang, lễ cưới... Cũng giống như tu sĩ Bà La Môn, hàng ngũ tu sĩ Achar có nhiều thứ bậc khác nhau như: cấp Achar-jăm ak (tu sĩ mới tập sự), khotip (cấp thứ hai), Imưm (phó cả sư) và cuối cùng là Pô Gru (cả sư) – người giữ chức vụ cao nhất trong hàng ngũ Achar.

Tầng lớp Achar này có sắc phục riêng và mỗi cấp bậc của tu sĩ Achar đều thể hiện những chi tiết khác nhau trên bộ phận của trang phục. Pô gru Achar mặc áo dài phình rộng gọi là – Aw tah, được ghép lại bằng sáu miếng vải với nhau. Áo Pô Gru có xẻ ở trước thân áo, có may khuy cài trước ngực một đường ngắn khoảng 15cm, còn từ dưới ngực đến chân thì để hở. Áo Pô char có may ghép một mảnh vải màu trắng ở trước ngực và phần trên của thân sau một loại hoa văn bốn cánh hình cung nhọn, gợi nét hình vòm mái nhọn của thánh đường Hồi giáo.

Pô char cũng mặc váy, buột thắt lưng như cả sư Bà La Môn nhưng lại đội khăn loại khác. Pô Achar còn đeo một chùm khăn đỏ ở trước ngực (tượng trưng cho dương vật – yếu tố dương) và 4 túi nhỏ ở phía sau. Còn trang phục của các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì cơ bản giống nhau, chỉ có một số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên thắt lưng. Cách phân biệt các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì cơ bản giống nhau chỉ có một số chi tiết khác nhau trên cạp váy, trên dây lưng. Cách phân biệt các cấp bậc trong hàng ngũ tu sĩ Hồi giáo Bà Ni cũng tương tự như cách phân biệt trên trang phục của tu sĩ Bàlamôn.

Page 51: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 53

Nói chung trang phục của tu sĩ Hồi giáo Bà Ni và tu sĩ Bàlamôn ngoài những nét cơ bản giống ở váy, khăn đội đầu, dây thắt lưng nó còn có một số chi tiết khác nhau mà dễ nhận thấy nhất là: trang phục tu sĩ Hồi giáo Bà Ni có may ghép hoa văn 4 cánh hình cung nhọn ở trước ngực, còn áo tu sĩ Bàlamôn không có hoa văn. Tu sĩ Pô Char Hồi giáo có đeo chùm khăn dài trước tượng trưng cho dương vật và tu sĩ Bàlamôn thì trước ngực có đeo cái túi nhỏ tượng trưng âm vật. Có thể nói trang phục của tu sĩ Hồi giáo Bà Ni là nữa phần của trang phục tu sĩ Chăm Bàlamôn và ngược lại. Và ngay trong bản thân trang phục của tu sĩ cũng có hai phần: Phần âm và phần dương. Trang phục của tu sĩ Hồi giáo Bà Ni là tượng trưng cho nữ , nhưng trước ngực lại có đeo chùm vải đỏ hình dương vật và đầu không để tóc tượng trưng cho nam. Còn ngược lại, trang phục tu sĩ Chăm Bàlamôn là tượng trưng cho nam, nhưng ở phía sau lại đeo túi hình âm vật và đầu búi tóc tượng trưng cho nữ. Điều này biểu hiện yếu tố lưỡng nghi trong trang phục Chăm là: trong âm có dương và trong dương có âm. Giữa Chăm Bàlamôn và Chăm Hồi giáo Bà Ni vừa là âm, vừa là dương, hội nhập chuyển hoá lẫn nhau. Vì vậy giữa Chăm Hồi giáo Bà Ni và Chăm Bàlamôn tuy hai nhưng vẫn là một.

Trang phục chức sắc tín ngưỡng Chăm:

Y phục Ong Kadhar (thầy kéo đàn Kanhi):

Thầy Kadhar là thầy kéo đàn kanhi (đàn dây giống như đàn nhị) hát những bài thánh ca để cúng lễ ở các đền tháp và lễ nghi tín ngưỡng khác của người Chăm như lễ cúng ruộng, lễ nhập kút... của người Chăm. Thầy kadhar có sắc phục tương tự như cả sư Chăm Bàlamôn.

Thầy kadhar mặc áo dài trắng, mặc váy trắng viền hoa văn rồng, đầu đội khăn có tua đỏ, vai vắt khăn đỏ và đeo túi.

Trang phục On-Ka-In (thầy bóng) Ong ka in là thầy cúng tín ngưỡng

dân gian Chăm, thường múa phục vụ trong lễ cúng đầu năm Chăm... Trang phục ong ka in cũng tương tự như trang phục đàn ông bình dân Chăm là mặc áo “aw lah”, mặc khăn không có cạp váy và dây thắt lưng bằng vải trắng thô không có hoa văn, chỉ khác ở chỗ là ong ka in đội loại khăn có tua đỏ. Loại khăn đội giống chức sắc tu sĩ tôn giáo Bàlamôn và Hồi giáo.

Trang phục muk Pajau (bà bóng): Muk pajau là thường đi đôi với ông

Kadhar chuyên phục vụ lễ nghi tín ngưỡng Chăm. Muk pajau mặc loại “aw sah kamey” tương tự như áo Kadhar như áo Pajau chỉ mặc ngắn đến đầu gối. Áo được may bằng loại vải thô màu trắng có xẻ một đường dài tư dưới nách phải dọc xuống theo thân áo và một đường xẻ khác nằm xiên chồng lên phần thân áo trước ngực tiếp giáp với phần cổ áo, tạo cho cổ áo thành hình trái tim. Khi mặc áo, đường xẻ được kết dính lại với nhau bằng dây vải buột chặt dưới nách và hông. Mu pajau còn thường mặc áo dài phụ nữ Chăm trong nghi lễ nhưng áo đó phải là màu trắng, hoặc mặc váy trắng có cạp váy dệt hoa văn ở hai đầu váy gọi là “Biyor”, đầu đội khăn màu trắng có viền hoa văn gọi là khăn “khan puah” và hai bên tai có đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ gọi là “bruei”.

Trang phục On Mưduôn (thầy vỗ trống Paranưng):

Ong Mưduôn thầy vỗ trống Paranưng hát bài thánh ca và điều khiển lễ Rija (lễ múa) của người Chăm. Ong Mưduôn có sắc phục riêng. Mưduôn mặc áo dài màu trắng, cổ con, có xẻ vạy

Page 52: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 54

dọc từ dưới nách bên phải chạy đến phần chân người mặc. Từ nách áo bên phải lại xẻ một đường xiên ở ngực đến chính giữa cổ áo. Những đường xẻ này khi mặc áo vào được kết dính lại bằng hàng nút kết dính. Mưduôn mặc loại váy thường và buộc dây lưng như đàn ông Chăm bình dân. Khăn đội đầu là loại khăn trắng, có tua màu đỏ tương tự như khăn các tu sĩ Chăm và một loại nữa là khăn trắng tua trắng gọi là khăn “siep kabuak”.

Trang phục muk Rija (vũ sư): Mu Rija là thường đi đôi với Ong

Mưduôn chuyên phục vụ lễ múa người Chăm gọi là lễ Rija. Mu Rija mặc loại “aw tuak patih” được may bằng loại vải màu trắng tương tự như áo dài truyền thống của phụ nữ Chăm. Muk Rija mặc váy “ khan mbar jih”. Đây là loại váy màu đen, có cạp váy dệt hoa văn viền ở xung quanh bìa váy, đầu đội khăn màu trắng, không có hoa văn và hai bên có đeo hoa tai có đính tua màu đỏ.

Trang phục chức sắc tín ngưỡng Chăm, ngoài ông kadhar, On Mưduôn, thầy Ka in, Muk pajau, Muk Rija... thì còn có trang phục của thầy cúng (Gru tiap bhut, tiap kalơn) và trang phục của Muk buh (bà đơm cơm phục vụ lễ). Tuy nhiên trang của thầy cúng là giống như trang phục của đàn ông bình dân Chăm, nhưng chỉ khác là trang phục thầy cúng mặc màu trắng không được mặc áo màu. Tương tự như vậy trang phục của Muk buk cũng giống như Muk Payau bà bóng không khác nhau mấy, cũng là mặc áo Sah kamey hoặc áo dài Chăm màu trắng, mặc áo váy có cạp hoa văn Biyon, đội khăn tuak. Chỉ có Muk Buk đạo Hồi giáo Bà Ni thì trang phục giống như trang phục của phụ nữ bình dân Chăm nhưng chỉ được mặc một màu trắng và đội khăn “mbram” giống như phụ nữ Hồi giáo Bà Ni.

Các bộ phận khác của trang phục:

Trang sức: Cùng với y phục, người Chăm kể cả

đàn ông, đàn bà; giai cấp quí tộc, tầng lớp bình dân: Chức sắc tôn giáo, tín ngưỡng đều sử dụng đồ trang sức. Ngày xưa, đàn bà, đàn ông Chăm đều để tóc dài búi tóc. Ngày nay, đàn ông Chăm chỉ có tu sĩ Bàlamôn và vị chức sắc tín ngưỡng dân gian thì để tóc dài còn đàn ông bình thường thì cắt tóc ngắn. Tu sĩ Hồi giáo Bà Ni thì không để tóc. Khi để tóc dài thì các cụ già thường hay búi tóc và dùng dây vải để cột tóc và đội khăn. Còn phụ nữ trẻ thường búi tóc và dùng trâm cài.

Người phụ nữ Chăm thường đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ hình nấm, hình tròn, hình vành khăn làm bằng vàng, đồng thau và có đính tua vải đỏ; cổ có đeo xâu chuỗi hột tròn hình bầu dục làm bằng vàng hoặc đồng thau, mặt nhẫn có đính hột đen được bao quanh bằng hoa 4 cánh. Người đàn ông Chăm thì dùng trang sức đơn giản hơn, họ chỉ đeo đơn giản chiếc nhẫn tròn, mặt nhẫn có đính hột đen và được bao quanh bằng hình hoa 8 cánh mà họ thường gọi là chiếc nhẫn Mưta. Chiếc nhẫn Mưta chính là biểu trưng là dấu hiệu để nhận biết đồng tộc Chăm. Vì vậy khi người Chăm chết đi, ngoài trừ y phục, họ còn mang theo chiếc nhẫn Mưta. Họ còn dùng chiếc nhẫn Mưta để thực hiện nghi lễ quan trọng trong đám tang để tiễn đưa linh hồn cho người chết về giới khác.

Đồ mang (guốc, dép): Ngoài trang sức, người Chăm còn sử

dụng guốc dép để mang. Theo tư liệu cổ ghi lại, ngay từ thời xa xưa vua chúa Chăm đã biết đi giầy, mang dép, bằng gỗ da. Cách đây không lâu, các cụ già Chăm vẫn thường mang guốc gỗ, da làm bằng vải hoặc da trâu để mang. Nhưng đó chỉ là một số, còn hầu hết người dân Chăm kể cả đàn ông, đàn bà đều đi chân đất. Ngày nay cũng giống như các dân

Page 53: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 55

tộc khác, người Chăm thường mang giầy dép công nghiệp.

Trang phục Chăm trong sinh hoạt lễ hội:

Những bộ trang phục vừa liệt kê, mô tả trên là những bộ trang phục cơ bản thường gặp trong đời sống bình thường và đời sống tôn giáo tín ngưỡng Chăm. Tuy nhiên, trang phục Chăm không phải lúc nào cũng thế mà tuỳ nơi, tuỳ lúc họ còn mặc những kiểu trang phục khác nhau nhưng không khác xa với nét trang phục truyền thống.

Trang phục lao động: trong điều kiện lao động trên ruộng nước, đất rẫy khô, người đàn ông, đàn bà Chăm vẫn mặc trang phục truyền thống của mình. Người đàn ông Chăm khi làm ruộng nước thì hay mặc quần ngắn hai ống tới đầu gối, không mặc váy. Họ không mặc trang phục màu trắng trong lao động mà chủ yếu là sử dụng vải màu, loại vải cũ trơn, không có thêu hoa văn.

-Trang phục trong tang lễ: Trong tang lễ, cũng như trang phục liệm cho người chết, người Chăm thường sử dụng màu trắng. Trang phục đem theo cho người chết thường được phân chia theo tuổi tác và giai cấp. Nếu người chết thuộc giai cấp quí tộc khi chết đi thì được làm đám tang “4 thầy paseh” thì quần áo được đem theo là 5 bộ hay 9 bộ. Nếu người chết thuộc tầng lớp bình dân thì chỉ được cử hành đám tang “2 thầy paseh” thì quần áo đem theo là 4 bộ. Mỗi bộ quần áo Chăm được qui định theo trang phục đàn ông và đàn bà. Một bộ trang phục đàn bà bao gồm: khăn đắp màu âm và khăn đắp màu dương: loại khăn khác mang màu âm và khăn đắp mang màu dương, khăn đội, áo dài Chăm, áo sah kamay; váy, khăn mặc có may cạp váy biyon: dây quấn người chết. Còn bộ trang phục cho đàn ông khi chết là áo sah likey: váy, chăn mặc là loại chăn “khan bar jih” hoặc “khan

marang”; khăn đội đầu người chết đàn ông là khăn có may cạp vải đính tua đỏ hoặc loại khăn thường, dây thắt lưng và dây quấn người chết.

Trang phục trong ngày cưới: Trong ngày cưới kể cả cô dâu chú rể đều mặc trang phục truyền thống trong nghi lễ. Nữ mặc áo dài, mặc váy đội khăn. Nam cũng vậy, mặc váy áo lah đàn ông, đội khăn che mặt. Áo váy cưới có dệt hoa văn đẹp. Áo cưới có nhiều màu khác nhau như trắng, xanh, đỏ, vàng... nhưng trong nghi lễ phải mặc áo trắng. Trong ngày cưới, cô dâu chú rể đeo nhiều đồ trang sức như nhẫn, vòng tay, xâu chuỗi.

Trang phục trong ngày hội: So như ngày cưới, trong ngày hội thì trang phục Chăm đa dạng và lộng lẫy hơn. Ngoài trang phục chức sắc, tu sĩ tín ngưỡng, tôn giáo với màu áo trắng khăn đỏ truyền thống không được thay đổi thì các chàng trai, cô gái Chăm lại mặc áo truyền thống với nhiều màu sặc sỡ, tinh nguyên (màu trắng, đỏ, xanh, vàng...) Trong ngày hội để tăng thêm nét đẹp cho bộ đồ truyền thống của mình, những thiếu nữ Chăm ngoài đeo hoa tai có đính tua vải màu đỏ, đeo nhiều còng tay, nhẫn vàng, họ còn choàng lên vai, vắt chéo qua ngang ngực và lưng một dãi băng ngang, trên đó có dệt hoa văn đẹp mắt góp phần tăng thêm vẻ đẹp độc đáo của áo dài Chăm. Ngày hội chính nơi hội tụ, là dịp để cho người Chăm phô ra tất cả những kiểu dáng và màu sắc của trang phục. Trang phục Chăm đến lượt mình cùng với nghệ thuật khác góp phần tô thêm cho ngày hội Chăm một sắc màu độc đáo, có bản sắc riêng.

Tóm lại: Ngày nay trang phục Chăm có nhiều biến đổi, trang phục truyền thống của vua chúa Chăm, giai cấp quí tộc đã biến mất, chỉ còn một số ít được sử dụng trong các lễ tục cúng tế nhưng nó đã lai căng nhiều kiểu trang phục của vua chúa phong kiến Trung Hoa và Việt

Page 54: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 56

Nam. Ngày nay trang phục truyền thống của người Chăm chỉ còn sử dụng ở các cụ già và các vị chức sắc tôn giáo, tín ngưỡng. Trang phục giới trẻ người Chăm hiện nay đang hướng dần ảnh hưởng trang phục phương Tây. Thanh niên Chăm thường mặc quần tây, áo sơ mi: ngoài phần lớn phụ nữ Chăm còn giữ được trang phục truyền thống còn lại một số phụ nữ trẻ Chăm đã bắt đầu thay dần cái váy bằng cái quần tây, quần jean và áo sơ mi. Họ chỉ sử dụng trang phục truyền thống trong các dịp lễ hội.

Trang phục truyền thống Chăm đa dạng trong sắc thái biểu hiện. Nó đã trải qua nhiều thời đại lịch sử khác nhau, cùng ảnh hưởng nhiều yếu tố văn hoá khác nhau. Cho đến nay, mặc dù có nhiều sự biến đổi, lai căng và có nhiều sự tác động, ảnh hưởng từ yếu tố bên ngoài nhưng trang phục Chăm vẫn còn lưu giữ một phong cách riêng, phong cách ấy đã góp phần quan trọng hình thành nên bản sắc văn hoá Chăm mà không lẫn lộn được với các dân tộc khác.

Đặc trưng của trang phục Chăm: Trang phục Chăm rất phong phú đa

dạng, mà ở đây không thể giới thiệu một cách đầy đủ. Tuy nhiên, qua một vài trang phục tiêu biểu của người Chăm đã trình bày trên cho thấy, trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng, hoa văn, màu sắc. Trang phục Chăm mang những đặc trưng như sau:

Trang phục Chăm chủ yếu là dùng chất liệu sẵn có trong thiên nhiên như bông, tơ tằm... dùng để dệt vải hầu như không dùng nguyên liệu từ da, lông của súc vật. Những nguyên liệu vừa sẳn có vừa nhẹ, mỏng mặc thoáng. Phù hợp với khí hậu nóng ẩm ở miền Trung Việt Nam. Trong cách may cắt quần áo, thường là may áo xẻ ngực, không có cổ, váy áo may rộng, không bó sát người. Về loại hình y phục, các kiểu may, mặc

của người Chăm cũng theo lối quấn, choàng là phổ biến hơn cả. Đó là cái váy mảnh, sà rông, tấm choàng, tấm trùm... thực chất đó là những mảnh vải có kích thước khác nhau, khi mặc có chung một cách là choàng, quấn quanh cơ thể, kể cả áo dài Chăm thực chất cũng là tấm vải may quay tròn thành hình ống bao quanh cơ thể con người. Kỹ thuật may mặc này không chỉ riêng có ở người Chăm mà nó còn phổ biến ở các cư dân ở vùng phía Nam Trường Sơn Tây Nguyên nước ta và mang cả đặc trưng chung của loại hình cư dân nông nghiệp làm nghề trồng trọt trong vùng nhiệt đới gió mùa Châu Á.

Đặc trưng trang phục truyền thống Chăm mà chúng ta dễ nhận thấy nhất là loại áo bít tà, kéo dài quá đầu gối, khoét cổ tròn, hình trái tim, được lắp ghép bằng nhiều mảnh vải mang nhiều màu sắc khác nhau. Do có đặc điểm như vậy nên người Chăm gọi áo dài truyền thống của họ là “Kuak kuang” (áo may ghép nhiều mảnh vải), hay “Aw dwa boong” (áo may ghép hai mảnh vải nhỏ ở eo hông) hoặc gọi là “Aw loah” (áo 3 lỗ mặc chui đầu). Loại áo này của người Chăm vừa có nét riêng, vừa có nét chung gần gũi với áo dài truyền thống của cư dân Nam Đảo như Êđê, Churu, Jarai, Raglai và các dân tộc người Mã Lai... mà các nhà nghiên cứu thường gọi chung kiểu áo này là áo “Phôncho”.

Đặc trưng của trang phục Chăm là không trang trí hoa văn trên nền vải áo. Hoa văn trên trang phục Chăm chủ yếu là được trang trí từng mảnh vải rồi may ghép vào các bộ phận của trang phục như loại cạp váy, dây thắt lưng. Loại này dùng để may dính vào cạp váy, vào khăn trùm đầu, khăn mặt, chỉ có váy phụ nữ Chăm, hoa văn được trang trí cả trên cạp váy và trên nền vải. Hoa văn trên trang phục Chăm chủ yếu là hoa văn quả trám, hột đậu ván, hạt lúa nổ, mắt gà,

Page 55: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 57

hoa văn neo thuyền, hoa văn mắc lưới, hoa văn nưgarit, Makala...

Trang phục Chăm có màu sắc phong phú. Trong trang trí người Chăm không pha trộn bất cứ màu nào khác với nhau nhưng họ có nghệ thuật phối màu riêng trên nền vải. Vì vậy màu thổ cẩm, cũng như màu trang phục Chăm, mặc dù sử dụng màu nguyên nhưng không chói chang như các màu áo dân tộc Tây Nguyên và một số dân tộc phía Bắc nước ta, màu sắc Chăm vừa hài hoà, vừa sâu lắng.

Trang phục Chăm, chủ yếu là áo mặc thường ngày cũng như trong lễ hội họ thường mặc áo với gam màu nóng như màu đỏ, xanh, vàng... Còn trang phục của các chức sắc tôn giáo, thầy cúng, các cụ già thường là mặc áo trắng. Màu trắng còn tham gia vào trong tang lễ, kể cả trang phục người bị tang và đồ liệm cho người chết đều có mặc màu trắng. Nếu so sánh với màu khác tỉ lệ sử dụng trang phục màu trắng của người Chăm trong tôn giáo, tín ngưỡng, nghi lễ hội hè, đám tang... có yếu tố trội hơn. Điều đó cho thấy người Chăm là dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-polinesien có nguồn gốc từ biển cả “màu trắng” nền trắng lại liên quan đến biển, trong chừng mực con người sống ở đấy phải đối phó, trong lao động hằng ngày, với nắng gắt trên cát, và khi cần thiết phải lẫn vào nền sáng của cát và sóng biển.

Màu sắc của trang phục Chăm, ngoài mục đích trang trí để diễn đạt cái đẹp của thiên nhiên, con người, thì màu sắc trên trang phục của người Chăm còn thể hiện tính phồn thực. Sự phồn thực ấy chính là hai mảng màu đối lập, trái ngược nhau giữa màu lạnh và màu nóng.

Trang phục Chăm không chỉ có nhu cầu để cho đẹp mà nó gắn liền với tín ngưỡng, những điều kiêng cữ và cấm kỵ. Ngoài việc cúng tổ vị tổ sư nghề dệt vải người Chăm còn có một số kiêng kỵ

trong nghề dệt vải may mặc. Khi dệt “taley ssang”(dây buột liệm người chết), thì kiêng kỵ người đàn bà có kinh hoặc đang trong tuổi sinh đẻ không được dệt mà chỉ có thiếu nữ và phụ nữ lớn tuổi qua thời kỳ kinh nguyệt mới được dệt. Họ quan niệm chỉ có phụ nữ như vậy thì mới được tinh khiết, không ô uế, đem lại sự bình yên thanh thản cho người chết được siêu thoát nơi chốn thiên đường. Khi dệt các hoa văn phục vụ các chức sắc, tôn giáo như dalah bingun trun (hoa văn rồng cách điệu), talay ka in mankăm (dây lưng có dệt hoa văn nổi hai mặt) thì cũng kiêng cữ như trên. Riêng áo của các chức sắc kiêng kỵ không cho người thường chạm tay vào hoặc may cắt, chỉ có các chức sắc, tu sĩ và chính vợ ông ấy tự may cắt. Người Chăm có phong tục là thường may sẵn các loại quần áo chuẩn bị cho người chết để sẵn trong nhà. Loại trang phục này có nhiều kiêng cữ, không phải ngày nào cũng lấy ra được mà chỉ được lấy ra khỏi nhà vào ngày thứ bảy, hoặc trong gia đình có dịp cúng lễ. Nếu lấy ra tuỳ tiện không đúng ngày lành tháng tốt đó là dấu hiệu báo điềm xấu, trong gia đình sẽ có người chết hoặc của cải trong nhà sẽ ra đi.

Ngoài y phục, phải kể đến trang sức Chăm. Hầu hết các di chỉ nằm trên địa bàn cư trú người Chăm như văn hoá Sa Huỳnh đều tìm thấy nhiều đồ trang sức mà phổ biến là khuyên tai, xâu chuỗi, còng tay và nhẫn... Ngày nay một số đồ trang sức ấy đã biến mất, một số còn lại không khác xa mấy nhưng đơn giản hơn. Người Chăm ngày nay vẫn còn thích đeo khuyên tai có đính tua vải màu đỏ, cổ đeo xâu chuỗi, vòng tay và ngón tay đeo nhẫn, đặc biệt là chiếc nhẫn Mưta đã trở thành biểu tượng mang đặc trưng riêng của cộng đồng, phản ánh linh hồn và bản sắc của dân tộc Chăm. Như vậy, trang sức người Chăm hiện nay tuy đơn giản nhưng cùng với y phục, đến lượt mình trang sức góp phần

Page 56: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 58

đáng kể trong việc hình thành trang phục Chăm phong phú đa dạng.

Là dạng thức văn hoá vật chất, trang phục Chăm không chỉ là đáp ứng nhu cầu che thân, mặc đẹp và biểu hiện cảm xúc thẩm mỹ, mà trang phục Chăm còn chứa đựng nhiều yếu tố văn hoá tinh thần và văn hoá xã hội. Thông qua trang phục của người Chăm, có thể phân biệt tầng lớp xã hội, đẳng cấp của các chức sắc tôn giáo, phân biệt người giàu sang, kẻ nghèo hèn, đàn ông và đàn bà. Chẳng hạn, chức sắc tu sĩ mới được mặc váy, trùm khăn bằng loại hoa văn hình rồng và buộc dây lưng có dệt hoa văn hai mặt, còn tu sĩ bình thường chỉ mặc váy, khăn không dệt hoa văn. Đàn ông quí tộc thì mặc khăn, dây lưng, khăn trùm đầu có dệt hoa văn hình quả trám, chân chó, đeo nhẫn vàng... Còn đàn ông bình dân chỉ mặc váy bình thường, vắt khăn chéo không trang trí hoa văn, đeo nhẫn bằng đồng. Phụ nữ quí tộc mặc váy dệt hoa văn hình rồng cách điệu, váy của họ có dệt những sợi chỉ tơ và thêu những sợi chỉ bằng vàng. Còn phụ nữ bình thường thì mặc váy có hoa văn dây leo, đeo đồ trang sức bằng đồng... Các loại hoa văn và cách thức thể hiện hoa văn trên trang phục của người Chăm đều theo qui tắc nhất định, thể hiện đựợc thẩm mỹ, phong tục tập quán, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo trong xã hội Chăm.

Không chỉ dừng lại ở đó, trang phục Chăm còn hàm chứa trong đó một số nội dung, giá trị phong phú. Nội dung ấy, ghi nhiều dấu ấn văn hoá trên nhiều bình diện khác nhau. Đó là dấu ấn của người Chăm - chủ nhân của nền văn hoá sinh sống ở dãy đất miền Trung có khí hậu nóng, ẩm, với địa hình môi sinh giữa

núi, đồng bằng, biển cả. Qua trang phục, từ cách may mặc, cho đến hoa văn là một bộ phận cấu thành, mang tín hiệu đặc trưng của trang phục cho thấy, người Chăm sinh sống bằng nghề trồng lúa nước được biểu hiện bằng những hoa văn trên trang phục như hoa văn quả trám, hoa văn hạt lúa, hoa văn hình dích dắt, răng cưa tượng trưng cho núi, cho sông nước và nghề đi biển như trang phục màu trắng có hoa văn mỏ neo, hoa văn mắc lưới. Họ là cư dân nông nghiệp với tín ngưỡng đa thần, thờ thần mặt trời (hoa văn 8 cánh trên trang phục, chiếc nhẫn Mưta là hình mặt trời), thần núi, thần sông. Hoa văn trên trang phục còn in dấu ấn chủ nhân của nền văn hoá này theo tôn giáo Bàlamôn thờ những con vật linh như các loại chim thần Garuđa, Makala có nguồn gốc Ấn Độ. Chủ nhân của nền văn hoá này không những đã sớm bước vào một xã hội phân chia giai cấp (qua các trang phục của các tầng lớp bình dân, quí tộc, vua chúa) mà đã sớm hình thành một đất nước.

Nói chung trang phục Chăm phong phú về kiểu dáng và đa dạng về sắc thái biểu hiện. Nó không chỉ đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của con người (ăn, mặc, ở...), thể hiện được thẩm mỹ, phong tục tập quán, giới tính, giai cấp, tín ngưỡng, tôn giáo trong xã hội Chăm mà nó còn in dấu ấn văn hoá, phản ánh đầy đủ về sắc thái, diện mạo một nền văn hoá Chăm. Trang phục Chăm chính là kho tàng tư liệu phong phú, kho tàng ấy không chỉ dừng lại ở giá trị vật chất đơn thuần mà nó còn mang một giá trị văn hoá, lịch sử, nghệ thuật... của người Chăm-một dân tộc đã có một thời phát triển rực rỡ ở khu vực Đông Nam Á.

Theo vietnamtourism.edu.vn

Page 57: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 59

GIỚI THIỆU TÁC PHẨM:

NGHỀ DỆT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI CHĂM

gười Chăm là một dân tộc thiểu số trong khối

cộng đồng dân tộc Việt Nam, có một kho tàng văn hoá đồ sộ và đặc sắc. Kho tàng ấy không những chỉ có những đền tháp lộng lẫy, nguy nga, đứng sừng sững trên những đồi cao suốt dọc dải đất miền Trung mà còn có một di sản nghệ thuật múa hát, lễ hội và nghề thủ công truyền thống độc đáo như nghề gốm và nghề dệt vải. Hiện nay, người Chăm ở Ninh Thuận vẫn còn bảo lưu nghề dệt cổ truyền có hàng ngàn năm lịch sử, gắn liền với thời kỳ hưng thịnh của nền kinh tế Chămpa một thời phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á.

Xin giới thiệu đến các bạn cuốn sách: “Nghề dệt cổ truyền của người Chăm” của tác giả Sakaya, do nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc phát hành năm 2003. Sách dày 236 trang, khổ sách 13x19cm.

Nội dung cuốn sách “Nghề dệt cổ truyền của người Chăm” được trình bày thành ba phần chính như sau:

Phần thứ nhất: Làng dệt người Chăm Mỹ Nghiệp. Phần này giới thiệu tên gọi, địa danh; điều kiện tự nhiên – xã hội và lịch sử hình thành của làng dệt Mỹ Nghiệp.

Làng Mỹ Nghiệp cũng như bao làng Chăm khác có tên gọi chính thức trong giấy tờ hành chính bắt đầu từ thời Minh Mạng. Từ đó đến nay, làng Mỹ Nghiệp có nhiều biến đổi trong việc phân chia trực thuộc địa giới hành chính, có lúc thuộc phủ, đạo, huyện, thị trấn…

N

Page 58: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 60

Từ thời Minh Mạng đến năm 1954 thì thôn Mỹ Nghiệp có lúc thuộc phủ Bình Thuận, phủ Ninh Thuận, đạo Phan Rang… Từ năm 1954 – 1975, thời Mỹ Nguỵ thì thôn Mỹ Nghiệp lại thuộc xã Phước Hải, quận An Phước, tỉnh Ninh Thuận. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 theo chủ trương của Đảng – Nhà nước vào năm 1976 hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận sáp nhập vào thành tỉnh Thuận Hải thì Mỹ Nghiệp vẫn giữ nguyên tên gọi hành chính là thôn Mỹ Nghiệp, xã Phước Hải nhưng lại thuộc huyện An Sơn. Đến năm 1992 tỉnh Thuận Hải lại được chia tách thành hai tỉnh như cũ là Ninh Thuận và Bình Thuận. Từ đó đến năm 2002 địa danh hành chính thôn Mỹ Nghiệp được đổi thành “ Khu phố 11” thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Điều kiện tự nhiên và xã hội của làng dệt Mỹ Nghiệp rất khó khăn trong việc phát triển nông nghiệp. Đất đai ở đây khô cằn, bạc màu, khí hậu khô nóng, không thuận lợi cho việc phát triển cây lúa nhưng rất thuận lợi cho việc trồng bông dệt vải. Hoạt động kinh tế của làng Chăm Mỹ Nghiệp chủ yếu làm nghề nông và nghề dệt vải. Quy trình dệt vải Chăm Mỹ Nghiệp bắt đầu từ khâu kéo sợi, quay tơ đến dệt vải đều do phụ nữ làm là chính. Nghề nông do đàn ông đảm nhiệm.

Hiện nay làng dệt Mỹ Nghiệp vẫn còn bảo lưu được những giá trị văn hoá, không chỉ giữ nguyên vẹn cấu trúc của một làng nghề, từ hình thái xã hội, quan hệ tộc người, tổ chức lao động sản xuất, hoạt động kinh tế, trao đổi sản phẩm cho đến tôn giáo, tín ngưỡng… đều mang đậm nét cơ chế của xã hội mẫu quyền gắn với nghề thủ công truyền thống xa xưa.Trong gia đình người Chăm, đàn bà đóng vai trò quan trọng, làm chủ thể gia đình và họ tộc. Làng Chăm Mỹ Nghiệp là một trong những làng Chăm theo Bàlamôn giáo. Người Chăm Mỹ Nghiệp có một hệ thống nghi lễ và tục thờ cúng phong phú, đa dạng.

Phần thứ hai: Nghề dệt người Chăm Mỹ Nghiệp. Phần này giới thiệu về nghề dệt Chăm trong quá khứ lịch sử và hiện nay. Mô tả chi tiết về các loại khung dệt, qui trình dệt vải, từ trồng bông, kéo sợi, nhuộm màu, dệt vải, váy, áo cho đến bố cục, đường nét và màu sắc trong nghệ thuật trang trí hoa văn. Ngoài ra còn trình bày cách tổ chức sản xuất và những nghi lễ, kiêng kị trong nghề dệt vải Chăm.

Người Chăm có một nền thủ công truyền thống rất phong phú như nghề làm gạch, xây tháp, nghề đóng thuyền, đóng xe trâu, làm gốm và dệt vải…Tuy nhiên trong quá trình biến đổi lịch sử thì một số nghề thủ công của người Chăm đã thất truyền. Hiện nay chỉ còn lưu giữ được một số nghề tiêu biểu như nghề gốm và nghề dệt. Nghề dệt cổ truyền của người Chăm Mỹ Nghiệp là một trong những nghề thủ công truyền thống còn tồn tại đến ngày nay trong di sản văn hoá của người Chăm Ninh Thuận.

Làng dệt Mỹ Nghiệp là làng dệt truyền thống nổi tiếng từ lâu đời. Ở làng này, những kỹ năng, kỹ xảo của nghề dệt được trao truyền cho nhau “ mẹ truyền con nối” từ thế hệ này đến thế hệ khác. Hoa văn thổ cẩm Chăm chứa nhiều yếu tố nghệ thuật trong kho tàng văn hoá Chăm. Những nét cơ bản của hoa văn đám tang,

Page 59: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 61

trên gốm Chăm, trên những bệ thờ, đền tháp đều có những mô típ, đường nét tương đồng với hoa văn trên vải Chăm. Có thể nói thổ cẩm Chăm là nơi hội tụ những đường nét, gam màu, hình khối, cả về nghệ thuật dân gian và bác học trong kho tàng nghệ thuật Chăm muôn màu, muôn vẻ. Nghề dệt Chăm từ khung dệt, đến sản phẩm dệt, môtíp hoa văn và nghệ thuật trang trí, người Chăm mặc dù có phong cách riêng của mình nhưng vẫn mang nét chung của nghề dệt cổ truyền Đông Nam Á. Đặc trưng chung ấy chính là kết quả của một quá trình truyền bá, tiếp thu kiến thức nghề nghiệp, quá trình giao lưu, trao đổi kinh tế - văn hoá giữa người Chăm và các tộc người khác ở nước ta và Đông Nam Á.

Sản phẩm dệt không chỉ phục vụ cho đời sống phong tục người Chăm mà còn có cả cho các dân tộc khác như Eđê, Churu, Kơho, Raglai…Ngày nay, sản phẩm dệt của người Chăm được du khách ưa chuộng trên thị trường du lịch ở các nước. Vì vậy, hiện nay nghề dệt đang trở thành nguồn lợi kinh tế quan trọng đối với người Chăm ở Mỹ Nghiệp, tỉnh Ninh Thuận.

Phần thứ ba: Nhận xét, so sánh, kiến nghị và giải pháp. Căn cứ trên những cứ liệu khoa học ở các phần nêu trên, phần này đưa ra nhận xét chung về nghề dệt cổ truyền của người Chăm Mỹ Nghiệp. Qua đó, còn so sánh nghề dệt Chăm với nghề dệt của một số dân tộc khác ở nước ta và khu vực Đông Nam Á. Cuốn sách còn đưa ra những giải pháp, kiến nghị cho nghề dệt người Chăm Mỹ Nghiệp trong cơ chế thị trường, cũng như trong sự nghiệp bảo tồn di sản văn hoá dân tộc ngày nay.

Mặc dù trải qua nhiều biến thiên của lịch sử, người Chăm vẫn còn bảo lưu được nghề dệt cổ truyền của riêng mình. Nghề dệt ấy mặc dù là tiêu biểu cho trình độ sản xuất cổ xưa nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nghề dệt Chăm đã và đang góp phần đáng kể trong việc tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống hàng ngày và làm phong phú thêm bản sắc văn hoá Chăm

Cuốn sách “ Nghề dệt cổ truyền của người Chăm” giới thiệu đến các bạn một bức tranh chung nhất về làng nghề, một di sản văn hoá quý giá của người Chăm trong kho tàng văn hoá của đại gia đình các dân tộc Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Là một dạng văn hoá vật chất, một bộ phận cấu thành nền văn minh Chămpa, nghề dệt Chăm không chỉ là một nhu cầu thiết yếu để phục vụ cuộc sống như ăn, ở, mặc… mà nó còn gắn với nhu cầu thẩm mỹ, phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng. Nghề dệt Chăm với sản phẩm đa dạng, còn tạo nên y phục Chăm, một y phục có sắc thái riêng góp phần quan trọng trong việc hình thành nên một bản sắc văn hoá Chăm mà không lẫn lộn được với dân tộc khác.

Nguyễn Thị Hoà Thư viện tỉnh Ninh Thuận

Page 60: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 62

ĐẾN THÁP CHĂMPA BÍ ẨN XÂY DỰNG rong kho tàng di sản kiến trúc của dân

tộc, nghệ thuật kiến trúc Chămpa có vị trí đặc biệt quan trọng. Gần 900 năm từ cuối

thế kỷ thứ VII đến nửa đầu thế kỷ XVII, bằng sự lao động không mệt mỏi và tài năng sáng tạo tuyệt vời, người Chăm đã xây dựng nên một nền kiến trúc điêu khắc độc đáo với hàng trăm đền tháp trải dài suốt từ miền Trung đầy nắng và gió, đến vùng đất phía Nam trù phú của Tổ quốc.

Trải bao thăng trầm của lịch sử và thiên tai khắc nghiệt, ngày nay số lượng đền tháp Chămpa còn lại không nhiều, lại trong tình trạng hư hỏng, xuống cấp nghiêm trọng, nhưng đó là những di sản kiến trúc vô giá không chỉ của quốc gia mà còn của nhân loại, là nhân chứng về một nền văn hoá Chămpa cổ rực rỡ, rất cần được giữ gìn, tôn tạo và bảo tồn.

Khám phá nghệ thuật xây dựng đền tháp Chămpa là vấn đề hấp dẫn được người Pháp tìm tòi từ những năm đầu thế kỷ thứ XX cho đến các nhà khoa học Việt Nam hôm nay.

Xin trân trọng giới thiệu đến các bạn cuốn sách: “Đền tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng” do nhà xuất bản Xây dựng phát hành năm 2007. Sách dày 334 trang. Khổ sách 11x20cm.

Cuốn sách “ Đền tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng” là kết quả của đề tài khoa học được nghiên cứu công phu do Viện Khoa học – Công nghệ Xây dựng - Bộ Xây dựng chủ trì, với sự tham gia của một tập thể gồm các nhà khoa học có uy tín trong các lĩnh vực: Kiến trúc, Xây dựng, Lịch sử, Khảo cổ, Mỹ thuật. Đề tài không chỉ dừng lại ở việc giới thiệu lịch sử, kiến trúc Chămpa, đánh giá hiện trạng của các di tích kiến trúc, mà còn dành nhiều công sức nghiên cứu kỹ càng về kỹ thuật xây dựng từ việc xử lý nền móng, kỹ thuật kiến trúc, kỹ thuật điêu khắc, lực liên kết, cường độ chịu nén, khả năng chịu lực của khối xây tháp đến việc sử dụng các phương pháp khoa học, công nghệ hiện đại để xác định thành phần pha và thành phần khoáng của gạch, của chất kết dính giữa các viên gạch, nhằm đưa tới cho các bạn những khám phá khoa học mới về kỹ thuật xây dựng các đền tháp Chămpa, một kỹ thuật rất đặc biệt đã bị thất truyền.

Sách gồm 5 chương: Chương 1: Lược sử, khảo cổ, kiến trúc Chămpa Chương 2: Thực trạng các di tích, phế tích kiến trúc đền tháp Chămpa Chương 3: Kỹ thuật xây dựng các đền tháp Chămpa Chương 4: Phục chế khối xây mài chập đền tháp Chămpa Chương 5: Định hướng bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị các đền tháp Chămpa Kế thừa các thành tựu nghiên cứu đã có, kể từ khi nước nhà được thống nhất, các

di tích văn hoá của dân tộc Chăm đã được nhà nước quan tâm nghiên cứu nhiều hơn và

T

Page 61: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 63

hầu hết các di tích kiến trúc đền tháp Chămpa hiện còn đều đã được Nhà nước ta công nhận xếp hạng di tích lịch sử - kiến trúc - nghệ thuật.

Các nghiên cứu mới chủ yếu tập trung vào kiến trúc, nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ và cũng chỉ bước đầu, những vấn đề phân tích khoa học công nghệ về nền móng, vật liệu, kỹ thuật xây dựng, kỹ thuật điêu khắc có đặt ra, song chưa thể tập trung đi sâu nhằm giải đáp dứt điểm những vấn đề còn được coi là bí ẩn, để trên cơ sở đó có thể đưa ra các giải pháp tu bổ toàn diện và hữu hiệu. Cuốn sách: “ Đền tháp Chămpa – Bí ẩn xây dựng” đã giới thiệu những kết quả nghiên cứu về kỹ thuật xây dựng và phát huy giá trị các đền tháp Chămpa. Các đền tháp Chămpa được xây dựng bằng kỹ thuật xây mài chập có lớp vỏ ngoài, vỏ trong và lớp ruột. Tháp được xây theo trình tự như sau: lựa chọn vị trí, quy hoạch mặt bằng, chọn hướng tháp. Sau đó tiến hành các bước như: gia cố nền, xây móng, xây thân tháp, ngọn tháp và đỉnh tháp. Sau khi xây xong tháp, người ta tiến hành điêu khắc trên bề mặt gạch của tháp. Các chi tiết điêu khắc trang trí bằng sa thạch hoặc đất nung được chuẩn bị trước rồi lắp đặt vào vị trí dự kiến trong quá trình xây tháp.

Kỹ thuật xây vòm giả hai phương tạo ra các vòm cửa trên thân tháp có chiều cao lớn hơn chiều ngang vòm tháp. Với sự phát triển kỹ thuật này thành kỹ thuật xây vòm giả ba phương, có thể tạo nên ba kiểu ngọn tháp khác nhau. Hay nói cách khác kiến trúc tháp là biểu hiện bên ngoài của kết cấu khối xây các vòm giả. Với kỹ thuật vòm giả có thể làm triệt tiêu lực đẩy ngang ở chân vòm, làm ổn định các vòm cửa, nóc tháp. Đồng thời với kỹ thuật này, tải trọng của tháp được phân tải đều lên toàn bộ tường tháp và móng tháp, làm cho tháp có khả năng chịu lực cao, cùng với kỹ thuật xây mài chập làm cho tháp có tuổi thọ cao.

Vật liệu xây tháp chủ yếu là gạch đất sét nung, được chế tạo theo công nghệ riêng biệt, có độ xốp lớn, độ dẻo dai cao, cho phép gia công bằng cách cưa, cắt, mài, đục, chạm. Chất kết dính được sử dụng trong xây dựng tháp là nhớt cây có thể tan trong nước như nhớt Ô dước, Bời lời. Các loại nhớt này giúp cho khối xây có cường độ ban đầu cũng như sự phát triển cường độ về lâu dài, đảm bảo cho khối xây có khả năng chịu kéo và nhất là khả năng chịu nén.

Điêu khắc các chi tiết được thực hiện trực tiếp trên mặt khối xây của tháp. Việc thực hiện được tiến hành bởi các nghệ nhân với các công cụ và thao tác chuyên biệt qua ba công đoạn: tạo hình khối, chạm thô, chạm tinh. Các chi tiết điêu khắc kiến trúc cũng có thể được chế tạo trước từ đá sa thạch hoặc đất nung rồi được lắp ghép vào trong quá trình xây tháp.

Đối với các đền tháp Chămpa, kỹ thuật xây dựng tháp thực chất là sự kết hợp hài hoà, chặt chẽ của kỹ thuật vật liệu gạch, kỹ thuật chất kết dính, công nghệ xây dựng và kỹ thuật điêu khắc. Mà biểu hiện vật chất của nó chính là kiến trúc, tỷ lệ kiến trúc các dạng điêu khắc trang trí. Qua đó nó thể hiện giá trị phi vật thể là nội dung thờ tự, tâm linh và cao hơn là ý nghĩa triết học cúa các đền tháp Chămpa.

Hiểu biết về lịch sử, văn hoá, kỹ thuật xây dựng các đền tháp Chămpa là điều kiện tiên quyết để bảo tồn trùng tu và phát huy giá trị di tích một cách tốt nhất.

Cuốn sách: “ Đền tháp Chămpa - Bí ẩn xây dựng” sẽ giúp cho những người làm công tác bảo tồn, trùng tu, quản lý di sản và du lịch văn hoá sẽ rút ra được nhiều bài học bổ ích mang tính thực tiễn và ứng dụng.

Sách có tại thư viện tỉnh Ninh Thuận, mời các bạn đón đọc. Nguyễn Thị Hoà. Thư viện tỉnh Ninh Thuận

Page 62: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 64

TRÊN KỆ SÁCH THƯ VIỆN TỈNH NINH THUẬN

Page 63: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 65

Page 64: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 66

Page 65: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 67

THƯ MỤC SÁCH 1. BÁ, TRUNG PHỤ. Gia đình và hôn nhân của người Chăm ở Việt Nam/ Bá Trung Phụ.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2001.- 312 tr.: ảnh; 19cm Cung cấp những kiến thức về gia đình và hôn nhân của người Chăm, đồng thời làm rõ cấu trúc tổ chức xã hội, gia đình, dòng họ, phong tục tập quán, lễ nghi và nhất là đặc trưng hôn nhân của người Chăm khác với các dân tộc anh em khác. Chỉ số phân loại 392/GI-100Đ Kho Địa chí: DCS.000179 2. BỐ, XUÂN HỔ. Truyền thuyết về các tháp Chăm trên miền đất Cực Nam Trung bộ = Legend of the Cham towers on the far southem of the VietNam central/ Bố Xuân Hổ.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 1995.- 95tr.; 19cm Giới thiệu lịch sử các tháp cổ của người Chăm ở Ninh Thuận và các tháp khác ở Cực Nam Trung bộ. Chỉ số phân loại: 398.0959758/TR527T Kho Đoc: DVN.005863 3. BỐ, XUÂN HỔ. Mẫu hệ Chăm trong thời đại mới/ Bố Xuân Hổ.-Bình Thuận: Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Thuận, 2001.- 45tr.:hình ảnh; 19cm Nguồn gốc hình thành và đặc trưng mẫu hệ Chăm. Các phong tục tập quán của dân tộc Chăm trong thời đại ngày nay như phong tục cưới xin, tang lễ… Chỉ số phân loại: 390.0959758 /M125H Kho Địa chí: DCS. 000278 - 000279 4. ĐẠT, NGỌC QUẬN. Vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào Chăm ở Ninh Thuận: Đề án/ Đạt Ngọc Quận.- Ninh Thuận: Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận, 2008.- 38tr.;30cm Khẳng định vấn đề dân tộc và việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào Chăm là nhiệm vụ quan trọng, từ đó sẽ cải thiện đời sống, văn hóa truyền thống luôn gìn giữ và phát triển đa dạng, trình độ dân trí ngày càng nâng cao. Chỉ số phân loại: 361.60959758/V121Đ Kho Địa chí: DCS.000782 5. ĐÌNH HY. Nhạc cụ truyền thống tộc người Chăm/ Đình Hy, Trượng Tốn.- Ninh Thuận: Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Thuận, 1996.- tập;19cm T.1.- Ninh Thuận: Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Ninh Thuận, 1996.- 94tr.;19cm Nghiên cứu về nhạc cụ truyền thống của tộc người Chăm bao gồm: trống Ginăng, trống Paranưng và kèn Saranai.

Page 66: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 68

Chỉ số phân loại: 784.19597/NH101C Kho Đọc: DVN.006432 6. H.PARMENTIER. Thống kê khảo tả các di tích Chăm ở Trung kỳ/ H.Parmentier: [Knxb], 1990 -1908.- 187 tr.;30cm Theo thứ tự thời gian, đây là tập sách thứ ba trong các ấn phẩm của Trường Viễn Đông Bác cổ, chuyên về thống kê khảo cổ học ở Đông Dương. Tập sách giới thiệu và thống kê, khảo tả lại các di tích Chăm ở Trung kỳ. Chỉ số phân loại: 390.0959758 /TH455K Kho Địa chí: DCS.000351 7. INRASARA. Ca dao – tục ngữ - thành ngữ - câu đố Chăm/ Inrasara.- Hà Nội: Văn hóa Dân tộc, 2006.-367tr.;21cm Chỉ số phân loại: 398.8 /C100D Kho Mượn: MVN.017789 - 017791. 8. INRASARA. Các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm/ Inrasara.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc,1999.- 211tr;19cm Cách nhìn tổng thể của tác giả về các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm với một nền văn hóa mang sắc thái độc đáo. Chỉ số phân loại: 398.09597/C101V Kho Đọc: DVN.007627 9. INRASARA. Lễ tẩy trần tháng tư: Thơ/ Inrasa.- Hà Nội: Hội Nhà văn, 2002.-95tr.;21cm Giới thiệu 22 bài thơ của tác giả Inrasara, dân tộc Chăm, sinh năm 1957 tại Mỹ Nghiệp tỉnh Ninh Thuận Chỉ số phân loại: 895.922134/L250T Kho Địa chí: DCS.000152 10. Tục ngữ - Thành ngữ - Câu đố/ Inrasara sưu tầm, dịch và chú thích.- Hà Nội: Văn hóa Dân tộc, 1995.- 258 tr.’ 19cm Giới thiệu khái quát về tình hình nghiên cứu ca dao, đồng dao, tục ngữ, câu đố, thành ngữ của dân tộc Chăm Chỉ số phân loại: 398.8 Kho Đọc: DVN.006210 11. INRASARA. Từ điển Việt – Chăm: Dùng trong nhà trường/ Inrasara, Phan Xuân Thành.- Hà Nội: Giáo dục, 2001.-511tr.;21cm Dành cho học sinh dân tộc học tập tiếng Việt, ngoài ra còn cung cấp những ngữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và văn hóa Chăm Chỉ số phân loại: 495.9223 Kho Mượn: MVN.016034 - 016036

Page 67: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 69

12. INRASARA. Văn hóa – xã hội Chăm: Nghiên cứu và đối thoại/ Inrasara.- Hà Nội: Văn học, 2003.- 355 tr.;19cm Nghiên cứu và đối thoại thực chất là các vấn đề văn hóa – xã hội Chăm, về ngôn ngữ - văn chương, về sáng tạo chân dung văn học Chăm. Chỉ số phân loại: 398.09597 Kho Đọc: DVN.000762 13. INRASARA. Văn học Chăm/ Inrasara.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 1996.- tập; 20cm T.2.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 1996.-347 tr.’20cm Chỉ số phân loại: 895.922134/V115H Kho Đọc: DVN.006203 14. LÊ, ĐÌNH PHỤNG. Tìm hiểu lịch sử kiến trúc tháp Chămpa/ Lê Đình Phụng.- Hà Nội: Viện Văn hóa và Thông tin, 2005.-303tr.;24cm Trong những di sản văn hóa Chămpa để lại, tháp Chămpa là loại hình kiến trúc tôn giáo duy nhất còn lại cho đến ngày nay. Đây là công trình kiến trúc đặc sắc của người Chăm được xây dựng theo suốt chiều dài lịch sử dân tộc và để lại một bản sắc riêng độc đáo cho dân tộc mình. Cuốn sách đã ghi lại để bạn đọc tìm hiểu kỹ về lịch sử, tiền đề tạo nên kiến trúc đền – tháp Chămpa; những đặc trưng và quá trình phát triển của nó. Từ đó, góp phần cho công tác trùng tu loại hình di tích đặc biệt này. Đây là những cơ sở, điều kiện tiên quyết phục vụ cho việc gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa của di tích vào cuộc sống đương đại. Chỉ số phân loại: 720.959758/T310H Kho Địa chí: DCS.000358 - 000359 15. LÊ, XUÂN DIỆM. Cổ vật Chămpa = Artefacts of champa/ Lê Xuân Diệm, Vũ Kim Lộc.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 1996.- 153tr.: hình ảnh; 26cm Giới thiệu những cổ vật trang sức, thờ cúng có chất liệu bằng kim loại: vàng bạc, đồng, đá quý…được trình bày lần lượt từ cổ vật tiền Chămpa đến Chămpa. Đây là những cổ vật lần đầu tiên được phát hiện, trong đó có đồ trang sức của người Chăm ở Ninh Thuận. Chỉ số phân loại: 736 Kho Đọc: DVN.007906 16. LƯU, TRẦN TIÊU. Giữ gìn những kiệt tác kiến trúc trong nền văn hóa Chăm/ Lưu trần Tiêu, Ngô Văn Doanh, Nguyễn Quốc Hùng.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2000.- 284 tr.” ảnh chụp; 21cm Giới thiệu đặc điểm địa lý, lịch sử văn hóa, những di tích kiến trúc Chăm và công tác quản lý, bảo tồn, tôn tạo và phát huy tác dụng của nền kiến trúc văn hóa Chăm, trong đó có nền văn hóa Chăm ở Ninh Thuận. Chỉ số phân loại: 720.959758

Page 68: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 70

Kho Địa chí: DCS.000121 - 000122 17. NGÔ, VĂN DOANH. Tháp Bà Thiên Y A Na hành trình của một nữ thần/ Ngô Văn Doanh.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2009.- 248 tr.; 20cm Giới thiệu tổng quan về tháp Bà Thiên Y A Na: quá trình hình thành và lịch sử của ngôi đền, lịch sử kiến trúc, các nghi lễ gắn với đền tháp… Chỉ số phân loại: 915.9756/TH109B Kho Đọc: DVN.013569 18. NGÔ, VĂN DOANH. Ninh Thuận trong lịch sử Chămpa/ Ngô Văn Doanh.- Hà Nội: Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, 2002.- 10tr.; 28cm. Tác giả nêu bật lịch sử của vùng đất Chămpa thuộc tỉnh Ninh Thuận thông qua các giai đoạn lịch sử: ngoài cõi Lâm Ấp, trong lòng Chămpa, dấu tích cuối cùng của Ninh Thuận đã giữ vai trò lịch sử đặc biệt đối với lịch sử của vương quốc Chămpa trong suốt chiều dài lịch sử. Chỉ số phân loại: 959.758/N312T Kho Đia chí: DCS.000087 19. NGÔ, VĂN DOANH. Văn hóa Chămpa/ Ngô Văn Doanh.- Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 1994.- 208 tr.: hình ảnh; 19cm Nền văn hóa Chăm pa rất đa dạng và phong phú. Từ đời sống chính trị, ngôn ngữ, chữ viết, âm nhạc, múa… đến nghệ thuật điêu khắc đều được ghi lại trong cuốn sách này. Chỉ số phân loại:390.0959758 /V115H Kho Địa chí: DCS.000215 20. NGUYỄN VĂN, KỰ. Di sản văn hóa Chăm= Heritage of cham cultural/ Nguyễn Văn Kự.- Hà Nội: Thế giới, 2008.-118tr.; 23cm Giới thiệu khoảng 100 bức ảnh về nền văn hóa nghệ thuật Chăm Chỉ số phân loại: 770.959758/D300S Kho Địa chí: DCS.000965 21. NGUYỄN ĐỨC TOÀN. Ảnh hưởng tôn giáo đối với tín ngưỡng của người Chăm ở Việt Nam: Luận án Tiến sĩ lịch sử chuyên ngành Dân tộc học/ Nguyễn Đức Toàn.-Tp. Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2002.- 172 tr.;27cm Tôn giáo – Tín ngưỡng là nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân nên nó có những ảnh hưởng nhất định trong sự phát triển của các dân tộc, đặc biệt là dân tộc Chăm, tôn giáo – tín ngưỡng bao trùm lên mọi hoạt động văn hóa, kinh tế, xã hội. Nội dung gồm 3 phần chính: Tổng quan ảnh hưởng của Bàlamôn giáo đối với tín ngưỡng Chăm và ảnh hưởng của Islam đối với tín ngưỡng Chăm Nhằm góp thêm sự hiểu biết về hệ thống tín ngưỡng – tôn giáo của người Chăm, hiểu rõ hơn về đặc điểm của nền văn hóa Chăm truyền thống. Từ đó góp phần vào việc kế thừa tinh hoa văn hóa Chăm trong việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam

Page 69: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 71

đa dân tộc, tăng cường sự hiểu biết giữa dân tộc Chăm với các dân tộc anh em cùng sinh sống trên Tổ quốc Việt Nam. Chỉ số phân loại: 398.0959758 /A107H Kho Địa chí: DCS.000382 22. NGUYỄN, HOÀNG ANH. Lịch sử hình thành và phát triển tháp Chăm tỉnh Ninh Thuận/ Nguyễn Hoàng Anh.- Tp. Hồ Chí Minh: Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2006.- 38tr.;30cm Đây là một công trình nghiên cứu khoa học cấp trường của sinh viên Nguyễn Hoàng Anh về lịch sử hình thành và phát triển tháp Chăm ở Ninh Thuận Chỉ số phân loại: 720.959758/L302S Kho Địa chí: DCS.000433 - 000434 23. PHAN, QUỐC ANH. Nghi lễ vòng đời của người Chăm Ahiêr ở Ninh Thuận/ Phan Quốc Anh.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2006.- 460tr.;21cm Nội dung tài liệu là những phát hiện và những nhận định mới về văn hóa truyền thống của người Chăm, đặc biệt đi vào chiều sâu đời sống tâm linh, tư tưởng của người Ahiêr. Với nghi lễ vòng đời của người Ahiêr là cốt lõi của đời sống tâm linh, niềm tin tín ngưỡng và là một mắt xích quan trọng, thông qua đó con người có thế tìm hiểu thế giới quan, nhân sinh quan, phong tục tập quán, tâm hồn, tình cảm của tộc người cần nghiên cứu, đồng thời sẽ là một môi trường bền vững trong việc bảo lưu vốn văn hóa truyền thống của dân tộc Chăm. Chỉ số phân loại: 392.0959758 /NGH300L Kho Địa chí: DCS.000528 -000529 24. PHAN, QUỐC ANH. Nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận: Luận án Tiến sĩ lịch sử/Phan Quốc Anh.- Bản sao, có bổ sung sửa chữa.- Hà Nội: Nxb. Hà Nội, 2004.- 286 tr.; 27cm Giới thiệu khái quát về văn hóa truyền thống của người Chăm Bàlamôn; những nghi lễ vòng đời bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa qua nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn ở Ninh Thuận. Chỉ số phân loại: 392.0959758 /NGH300L Kho Địa chí: DCS.000005 25. PHAN, QUỐC ANH. Tín ngưỡng dân gian người Chăm Ninh Thuận/ Phan Quốc Anh.- Ninh Thuận: [Knxb], 2002.-25tr.: hình ảnh; 30cm Tác giả phác họa bức tranh về văn hóa tín ngưỡng Chăm, các hệ thống thần linh, thấy chủ lễ, lễ vật, hệ thống nghi lễ dân gian thông qua một số tài liệu tham khảo và hình ảnh minh họa sinh động. Chỉ số phân loại: 390.0959758 /T311N Kho Địa chí: DCS.000045 25. PHAN, XUÂN BIÊN. Văn hóa Chăm/ Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp.- Hà Nội: Khoa học xã hội, 1991.- 392tr.: hình ảnh; 24cm

Page 70: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 72

Người Chăm là một dân tộc sinh sống lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Trong lịch sử phát triển xã hội tộc người, họ đã đạt được một trình độ cao về tô chức xã hội và đã sản sinh ra một nền văn hóa rực rỡ, phong phú và độc đáo. Chỉ số phân loại: 398.09597 /V115H Kho Mượn: MVL.000022 - 000023 26. PHÚ, VĂN HÂN. Đời sống văn hóa và xã hội người Chăm thành phố Hồ Chí Minh = Raidiuk ilamu saong sosal urang Cham ban raya Ho Chi Minh/ Phú Văn Hân chủ biên; Lý Tùng Hiếu hiệu đính. – Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2005.- 183 tr.; 20cm Với 18 bài nghiên cứu đề cập đến khá nhiều lĩnh vực: từ thực trạng kinh tế, văn hóa, xã hội đến tôn giáo, hôn nhân gia đình; từ văn học nghệ thuật đến giáo dục; từ tổ chức xã hội cộng đồng người Chăm thành phố Hồ Chí Minh đến tổ chức tôn giáo tại thánh đường…Đồng thời đề cập sâu hơn về giới người Chăm có đạo. Chỉ số phân loại: 305.899/Đ462S Kho Địa chí: DCS.000966 27. SAKAYA. Lễ hội của người Chăm/ Sakaya.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2003.- 382 tr.: hình ảnh; 21cm Giới thiệu 20 lễ hội trong số 75 lễ hội của người Chăm. Qua các lễ hội thấy được tổng thể văn hóa Chăm, một nền văn hóa lâu đời, phát sáng và thăng hoa. Chỉ số phân loại: 390.0959758 /L250H Kho Địa chí: DCS.000146 - 000148 28. SAKAYA. Nghề dệt cổ truyền của người Chăm/ Sakaya.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2003.- 236 tr.; 19cm Người Chăm là một dân tộc thiểu số trong khối cộng đồng dân tộc Việt Nam. Họ có một kho tàng văn hóa đồ sộ và đặc sắc. Kho tàng ấy không những chỉ có những đền tháp lộng lẫy, nguy nga, đứng sừng sững trên những đối cao suốt dọc dải đất miền Trung mà còn có một di sản nghệ thuật múa hát, lễ hội và nghề thủ công truyền thống độc đáo như nghề gốm, nghề dệt vải. Nghiên cứu nghề dệt Chăm một cách có hệ thống là một công việc không mấy dễ dàng. Cuốn sách này sẽ giới thiệu với bạn đọc về một bức tranh chung nhất về làng nghề - một di sản văn hóa quý giá của người Chăm trong kho tàng văn hóa của đại gia đình dân tộc Việt Nam phong phú, đa dạng và đặc sắc. Chỉ số phân loại: 746.0959758 /NGH250D Kho Địa chí: DCS.000176 - 000177 29. THẬP, LIÊN TRƯỞNG. Việc ăn uống của tộc người Chăm tỉnh Ninh Thuận/ Thập Liên Trưởng. – Ninh Thuận: Trung tâm nghiên cứu văn hóa Chăm Ninh Thuận, 199?.- 46tr.; 30cm Ngày nay, với sự tiến bộ của xã hội các bữa ăn của tộc người Chăm cũng được hòa nhập, tuy nhiên những bữa ăn thảo dã vẫn còn khá đậm nét mang sắc thái độc đáo truyền thống riêng của người Chăm. Chỉ số phân loại: 394.10959758 /V303Ă

Page 71: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 73

Kho Địa chí: DCS.000046 30. TRƯƠNG, HIẾN MAI. Hệ thống thủy lợi và lễ nghi nông nghiệp cổ truyền Chăm Ninh Thuận – Bình Thuận/Trương Hiến Mai, Sử Văn Ngọc.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2002.- 181 tr.; 19cm Dân tộc Chăm trong quá trình hình thành và phát triển đã tạo nên một nền văn minh rực rỡ, trong đó có nền văn minh lúa nước. Qua nghiên cứu các công trình thủy lợi xa xưa, mà ngày nay con người còn ca ngợi như công trình thủy lợi của vua Pô Yang – In, Pô Klongrai, Pôrômê và Pô Dăm. Hệ thống lễ nghi nông nghiệp rất đa dạng, trong phần lễ cũng như phần hội lúc nào cũng gắn bó với nhau trong các hình thái âm nhạc, nghi lễ. Từ những lễ nghi nông nghiệp đã khẳng định sự đóng góp cho nền văn hóa dân gian Chăm đầy bản sắc dân tộc. Chỉ số phân loại: 398.0959758 /H250T Kho Địa chí: DCS.000137, 000298 31. TRƯƠNG, HIẾN MAI. Truyện cổ dân gian Chăm/ Trương Hiến Mai… [ và những người khác] dịch, biên soạn, tuyển chọn.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2002.- 555tr.;19cm Truyện cổ dân gian Chăm với nội dung mang tính giáo dục cao, phản ảnh những hoài bão, mưu cầu công bằng trong cuộc sống lao động, hạnh phuc trong tình yêu. Chỉ số phân loại: 398.209597/TR527C Kho Đọc: DVN.007698 32. TÙNG LÂM. Truyện thơ Chàm/ Tùng Lâm; Quảng Đại Cường biên soạn.- Hà Nội: Văn hóa, 1993.- 123tr.; 19cm Giới thiệu 7 truyện thơ Chàm nhằm giúp chúng ta hiểu rõ thêm vốn văn nghệ dân gian Chăm. Chỉ số phân loại: 895.9221 /TR527T Kho Địa chí: DCS.000349 33. VĂN MÓN. Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bàu Trúc Ninh Thuận/ Văn Món.- Hà Nội: Văn hóa Thông tin, 2001.- 176 tr.: hình ảnh;21cm Nghề gốm cổ truyền của người Chăm Bàu Trúc tỉnh Ninh Thuận sẽ cung cấp tư liệu cho những nhà khoa học, những nhà quản lý, chính quyền địa phương một cách nhìn toàn diện về nghề gốm của người Chăm Bàu Trúc nói riêng và nghề thủ công truyền thống của người Chăm nói chung, trong sự nghiệp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Chỉ số phân loại: 738.0959758 /NGH250G Kho Địa chí: DCS.000967 34. VĂN MÓN. Trang phục người Chăm: Đề tài nhánh/ Văn Món.- Phan Rang: [Knxb], 2002.- 42tr.: hình ảnh; 28cm Tác giả trình bày cụ thể về quá trình tạo ra trang phục, các loại trang phục và đặc trưng của trang phục Chăm thông qua các hình ảnh, chi tiết màu sắc, đường nét độc đáo của người Chăm Ninh Thuận.

Page 72: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 74

Chỉ số phân loại: 391.40959758 /TR106P Kho Địa chí: DCS.000044 35. VĂN, THU BÍCH. Âm nhạc trong nghi lễ của người Chăm Bàlamôn/ Văn Thu Bích.- Hà Nội: Văn hóa dân tộc, 2004.- 230tr.; 21cm Nghệ thuật âm nhạc của người Chăm đóng vai trò rất quan trọng, nó dường như bất biến với thời gian và luôn tỏa sức sống mãnh liệt trong các sinh hoạt tinh thần, đặc biệt là trong các nghi lễ và lễ hội mang tính tôn giáo. Nội dung sách sẽ làm rõ thêm một số đặc trưng của âm nhạc Chăm thông qua các hình thức âm nhạc có lời và không lời; đồng thời tìm hiểu quá trình giao lưu và tiếp biến giữa âm nhạc nghi lễ Chăm Bà la môn với âm nhạc các tộc người khác, từ đó đề xuất một vài biện pháp thiết thực nhằm bảo tồn, kế thừa những cái hay trong âm nhạc nghi lễ của người Chăm Bà la môn để mĩa được trường tồn trong đời sống tinh thần của đồng bào Chăm. Chỉ số phân loại: 780.959758/Â120N Kho Địa chí: DCS.000356 - 000357 36. VŨ, THỊ HẰNG. Văn hóa Chăm và sự phát triển du lịch ở Ninh Thuận: Luận văn tốt nghiệp Cao cấp Lý luận chính trị/ Vũ Thị Hằng.- Ninh Thuận: Trường Chính trị tỉnh Ninh Thuận, 2010.- 100tr.: hình ảnh; 30cm Nội dung gồm 3 chương. Chương 1: Một số vấn đề lý luận về văn hóa và du lịch. Chương 2: Văn hóa Chăm và sự phát triển du lịch ở Ninh Thuận. Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển du lịch văn hóa ở Ninh Thuận Chí số phân loại: 915.97/V115H Kho Địa chí: DCS.000883 37. Hồ sơ di tích kiến trúc nghệ thuật tháp Hòa Lai ( Tân Hải, Ninh Hải, Ninh Thuận).- Ninh Thuận: Nhà Bảo tàng, 2000.- 18 tr.; 30cm Nội dung lý lịch di tích bao gồm: đặc điểm phân bố di tích, nhân vật lịch sử, sự kiện di tích, các loại hình và cách bảo quuanr di tích tháp Hòa Lai ở xã Tân Hairm huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Tháp Hòa Lia được xây dựng trên một mô đất cao và khá bằng phẳng của vùng đồng bằng thuộc địa phận làng Nhơn Sơn, Tổng Kinh Dinh, Đạo Ninh Thuận ( nay là làng Ba Tháp, xã Tân Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận). Di tích tháp Hòa Lai là một trong những trường hợp khá riêng biệt bvaf nhiều vấn đề còn tranh cãi. Cho đến nay, chua có nguồn tư liệu nào xác định một cách cụ thể lịch sử của việc xây dựng ngôi tháp này, mặc dù họ khẳng định rằng chủ nhân của những ngôi tháp này không phải ai khác mà chính là người Chăm cổ. Chỉ số phân loại: 720.959758 /H450S Kho Địa chí: DCS.000039 - 000041 38. Hồ sơ di tích nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Pôrômê.- Ninh Thuận: Sở Văn hóa Thông tin Thể thao tỉnh Ninh Thuận, 1992.- 12tr.; 21cm Di tích tháp Pô rô mê được xây dựng trên một ngọn đồi dốc đứng, cao khoảng 30m thuộc địa phận làng Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước. Di tích được xây dựng để thờ vua Pô rô mê. Tháp Pô rô mê là di tích lịch sử văn hóa gắn liền với phong tục, tín ngưỡng của đồng bào Chăm, là công trình có giá trị lớn về mặt nghệ

Page 73: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 75

thuật kiến trúc và điêu khắc. Tài liệu cung cấp những sự kiện, nhân vật lịch sử liên quan đến việc hình thành di tích, giá trị và biện pháp bảo quản di tích. Chỉ số phân loại: 720.959758/H450S Kho Địa chí: DCS.000065 - 000067 39. Hồ sơ khoa học di tích kiến trúc nghệ thuật tháp Pôklong Garai.- Ninh Thuận: Nhà Bảo tàng, 199?.- 12tr.: hình ảnh; 30cm Tháp Pôklong Garai được xây dựng để thờ vua Pôklong Garai. Vị vua có nhiều công lao đối với sự nghiệp phát triển của dân tộc Chăm. Công trình này đã huy động một lực lượng rất lớn các nhà kiến trúc, những người thợ kỹ thuật, điêu khắc giỏi để xây dựng công trình có một không hai trong lịch sử phát triển của dân tộc Chăm. Tháp được xây dựng trên đồi cao, thuộc địa phận phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang Tháp Chàm. Chỉ số phân loại: 720.959758 /H450S Kho Địa chí: DCS.000083 - 000085 40. Knh tế văn hóa dân tộc Chăm.- Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1992.- 143 tr.; 27cm Đây là tập kỷ yếu các báo cáo khoa học tham dự Hội thảo của 45 tác giả bao gồm các nội dung như: vấn đề nghiên cứu dân tộc Chăm, văn hóa, âm nhạc, kinh tế, hôn nhân, đám tang của người Chăm, vai trò của phụ nữ Chăm… Chỉ số phân loại: 330.0959758 /K312T Kho Địa chí: DCS.000026 41. Người Chăm = The Cham.- Hà Nội: Thông Tấn, 2009.- 191 tr.: hình ảnh; 20cm Đa phần là hình ảnh và một số bài viết minh chứng sinh động cho một nền văn hóa Chăm lâu đời với nghệ thuật điêu khắc phát triển và phong tục tập quan, lễ hội mang đầy màu sắc tôn giáo đã làm nên bản sắc Chăm. Chỉ số phân loại: 305.899/NG558C Kho Địa chí: DCS.000823 – 000825 42. Người Chăm ở Thuận Hải.- Thuận Hải: Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thuận Hải, 1989.- 373tr.; 19cm Nội dung sách là công trình nghiên cứu giữa Viện Khoa học Xã hội thành phố Hồ Chí Minh và UBND tỉnh Thuận Hải về nguồn gốc, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế xã hội, đặc điểm văn hóa, tôn giáo…của người Chăm ở tỉnh Thuận Hải Chỉ số phân loại: 305.899/NG558C Kho Đọc: DVN.004751 43. Trường ca tiếng cồng ông bà Hbia Lơđa dân tộc Chăm Phú Yên/ Ka Sô Liễng ghi chép biên dịch và viết lời giới thiệu; Oi Sáng kể.- Phú Yên: Hội Văn nghệ dân gian Phú Yên, 2000.- 952 tr.; 19cm Trường ca này nói về sự mâu thuẫn trong các tù trưởng giàu có luôn muốn mình hơn người, không muốn ai giàu hơn mình. Trường ca này được lưu truyền rộng rãi trong lòng dân tộc Chăm xã Phước Tân, huyện Sơn Hòa, tỉnh Phú Yên.

Page 74: Văn hóa Cham

Thư mục chuyên đề Văn hóa Chăm 76

Chỉ số phân loại: 895.9221 /TR561C Kho Đọc: DVN.011595 44. Từ điển Chăm – Việt.- Hà Nội: Khoa học xã hội, 1995.-907 tr.; 24cm Chỉ số phân loại: 495.9223/T550Đ Kho Đọc: DVL.001086 45. Xây dựng đời sống văn hóa vùng đồng bào dân tộc Chăm: Kỷ yếu hội thảo.- Hà Nội: Bộ Văn hóa Thông tin, 2005.- 239 tr.; 19cm Tập họp nhiều ý kiến từ các nhà quản lý, các nhà khoa học và các hoạt động thực tiễn về văn hóa dân tộc Chăm và phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trong vùng đồng bào Chăm ở ven miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long nhằm bảo tồn phatsh uy và phát triển văn hóa dân tộc Chăm. Chỉ số phân loại: 306.0959758 /X126X Kho Địa chí: DCS.000405 - 000409