saomaidata.orgsaomaidata.org/library/810.cosongonnguhocvatiengviet.docx · web viewmai ngỌc...

267
MAI NGỌC CHỪ VŨ ĐỨC NGHIÊU HOÀNG TRỌNG PHIẾN CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT (Tái bản lần thứ bảy) NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC MỤC LỤC CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT.....................................1 LỜI NÓI ĐẦU.......................................................... 1 Phần thứ nhất TỔNG LUẬN.............................................. 2 Chương I. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ..............................2 Chương II HỆ THỐNG TÍN HIỆU NGÔN NGỮ...............................11 Chương III NGUỒN GỐC VÀ DIỄN TIÊN CỦA NGÔN NGỮ.....................21 Chương IV PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ...................................30 Phần thứ hai CƠ SỞ NGỮ ÂM HỌC VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT..................46 Chương V ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGỮ ÂM HỌC.............................................................47 Chương VI ÂM TIẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT...............53 Chương VII ÂM TỐ VÀ PHÂN LOẠI CÁC ÂM TỐ............................59 Chương VIII ÂM VỊ VÀ CÁC HỆ THỐNG ÂM VỊ CỦA TIẾNG VIỆT.............62 Chương IX CÁC HIỆN TƯỢNG NGÔN ĐIỆU.................................71 Chương X NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM..........................78 Chương XI CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢ.....................................80 Phần thứ ba CƠ SỞ TỪ VỰNG HỌC và TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT.................86 Chương XII TỪ VỰNG HỌC VÀ TỪ.......................................86 Chương XIII CỤM TỪ CỐ ĐỊNH........................................103 Chương XIV NGHĨA CỦA TỪ...........................................112 Chương XV QUAN HỆ ĐỒNG ÂM, ĐồNG NGHĨA VÀ TRÁI NGHĨA TRONG TỪ VỰNG. 129 Chương XVI BIẾN ĐỔI TRONG TỪ VỰNG.................................140 A. NHỮNG BIẾN ĐỔI Ở BỀ MẶT...................................... 140 B. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG CHIỀU SÂU CỦA TỪ VỰNG...................145 C. NHẬN XÉT CHUNG............................................... 146 Chương XVII CÁC LỚP TỪ TRONG TỪ VỰNG..............................147 A. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO NGUỒN GỐC...............................147 B. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO PHẠM VI SỬ DỤNG.........................152

Upload: hoangkhue

Post on 26-Mar-2018

228 views

Category:

Documents


6 download

TRANSCRIPT

MAI NGỌC CHỪVŨ ĐỨC NGHIÊUHOÀNG TRỌNG PHIẾN

CƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT(Tái bản lần thứ bảy)

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC 

MỤC LỤCCƠ SỞ NGÔN NGỮ HỌC VÀ TIẾNG VIỆT.....................................................................1LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................................1Phần thứ nhất TỔNG LUẬN..........................................................................................2

Chương I. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ.........................................................2Chương II HỆ THỐNG TÍN HIỆU NGÔN NGỮ...........................................................11Chương III NGUỒN GỐC VÀ DIỄN TIÊN CỦA NGÔN NGỮ........................................21Chương IV PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ.................................................................30

Phần thứ hai CƠ SỞ NGỮ ÂM HỌC VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT.....................................46Chương V ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGỮ ÂM HỌC.........................................................................................................47Chương VI ÂM TIẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT..................................53Chương VII ÂM TỐ VÀ PHÂN LOẠI CÁC ÂM TỐ........................................................59Chương VIII ÂM VỊ VÀ CÁC HỆ THỐNG ÂM VỊ CỦA TIẾNG VIỆT...............................62Chương IX CÁC HIỆN TƯỢNG NGÔN ĐIỆU.............................................................71Chương X NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI NGỮ ÂM..............................................78Chương XI CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢ........................................................................80

Phần thứ ba CƠ SỞ TỪ VỰNG HỌC và TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT..................................86Chương XII TỪ VỰNG HỌC VÀ TỪ..........................................................................86Chương XIII CỤM TỪ CỐ ĐỊNH..............................................................................103Chương XIV NGHĨA CỦA TỪ.................................................................................112Chương XV QUAN HỆ ĐỒNG ÂM, ĐồNG NGHĨA VÀ TRÁI NGHĨA TRONG TỪ VỰNG............................................................................................................................129Chương XVI BIẾN ĐỔI TRONG TỪ VỰNG..............................................................140

A. NHỮNG BIẾN ĐỔI Ở BỀ MẶT.........................................................................140B. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG CHIỀU SÂU CỦA TỪ VỰNG...................................145C. NHẬN XÉT CHUNG........................................................................................146

Chương XVII CÁC LỚP TỪ TRONG TỪ VỰNG........................................................147A. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO NGUỒN GỐC........................................................147B. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO PHẠM VI SỬ DỤNG..............................................152C. PHÂN LỚP TỪ NGỮ TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰC................................................157

Phần thứ tư CƠ SỞ NGỮ PHÁP HỌC VÀ NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT.............................167Chương XVIII NGỮ PHÁP VÀ NGỮ PHÁP HỌC.......................................................167Chương XIX PHƯƠNG THỨC NGỮ PHÁP..............................................................170

Chương XX PHẠM TRÙ NGỮ PHÁP........................................................................174Chương XXI TỪ LOẠI............................................................................................183Chương XXII ĐOẢN NGỮ......................................................................................188Chương XXIII CÂU.................................................................................................195

LỜI NÓI ĐẦUTheo chương trình đào tạo năm năm, chia hai giai đoạn, giáo trình Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt được giảng cho sinh viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn năm thứ nhất và thứ hai của giai đoạn đầu.

Giáo trình này nhằm giới thiệu một cách giản dị và có hệ thống những khái niệm cơ bản, mở đầu của ngôn ngữ học và tiếng Việt. Trên cơ sở đó, sinh viên sẽ từ chỗ biết để rồi tiến tới hiểu những kiến thức sâu rộng hơn của khoa học về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng, được trình bày trong các giáo trình nâng cao ở giai đoạn sau.

Do vậy, giáo trình này không phảo là giáo trình Dẫn luận ngôn ngữ học như vẫn thường gặp; nhưng cũng chưa phải là giáo trình mang tính cách chuyên sâu của chuyên ngành hjep. Nó không đi vào những phân tích, lí giải hoặc tranh biện phức tạp, đa tuyến, mà chỉ có gắng trình bày một hệ thống, một cách hiểu. Mặt khác, có những vấn đề trong giáo trình chỉ nêu ra mà không trình bày kỉ vì sinh viên có thể tự tìm hiểu trong các tài liệu khác theo sự hướng dẫn của giáo viên.

Tuy nhiên, người học có thể dùng giáo trình với tư cách một tài liệu chính thức để thi nhận chứng chỉ cho từng học phần.

Nội dung của giáo trình gồm bốn phần, dự kiến trình bày trong 120 tiết học. Các chương mục không nhất thiết cân đối về số lượng trang in, mà được phân phối theo nội dung của vấn đề, và đánh số từ I đến XXIII.

Sau mỗi phần của giáo trình, danh mục tài liệu tham khảo có ghi rõ những tài liệu phổ biến, dễ dùng và sinh vên cần phải học thêm trong khi học.

Những người soan thảo giáo trinh được phân công như sau:Phần thứ nhất: Tổng luậnChương I, II: TS. Vũ Đức Nghiêu và PGS. Hoàng Trọng Phiến.Chương III, IV: TS. Vũ Đức Nghiêu.Phần thứ hai: Cơ sở ngữ âm học và ngữ âm tiếng Việt: PGS. Mai Ngọc Chừ.Phẩn thứ ba: Cơ sở từ vựng học và từ vựng tiếng Việt: TS. Vũ Đức Nghiêu.Phần thứ tư: Cơ sở ngữ pháp học và ngữ pháp tiếng Việt:Chương XVIII, XIX, XX: PGS. Mai Ngọc Chừ và PGS. Hoàng Trọng Phiến.Chương XXI, XXII, XXIII: PGS. Hoàng Trọng Phiến.

Trong khi soạn thảo giáo trình này, chúng tôi đã dược các đòng nghiệp trong và ngoài trường giúp đỡ nhiều. Riêng GS. Diệp Quang Ban đã đóng góp rất tích cực cho ba chương cuối của phần thứ tư.

Giáo trình này được tái bản là nhờ sự ủng hộ nhiệt tinh của Nhà xuất bản Giáo dục.

Chúng tôi xin chân thành cảm ơn tất cả.Vì có gắng để kịp đáp ứng nhu cầu về tài liệu học tập của sinh viên nên giáo

trình này được soạn ra, chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Chúng tôi chân thành đề nghị người sử dụng góp ý, phê bình để giáo trình được tốt hơn.

Hà Nội, tháng 6 năm 1997NHÓM BIÊN SOẠN

QUY ƯỚC TRONG CÁCH TRÌNH BÀY1. Các chú thích ở cuối trang ứng với những chữ số ghi ở phía tên, đặt giữa hai

ngoặcc tròn, ví dụ (1)/2. Tài liệu dẫn trong sách được ghi bằng chữ số, đặt giữa hai ngoặc vuông, ví

dụ [15]: Chữ số này ứng với số được ghi ở mục Tài liệu tham khảo cuối mỗi phần. Ví dụ ở phần II ( Cơ sở ngữ âm học và ngữ âm tiếng Việt) số [15] là tài liệu: Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm tiếng Việt, H.,1980.

3. Dấu ngoặc kéo: “…” được dùng để phiên âm các từ hoặc biểu thị các âm bằng chứ cái thông thường, ví dụ “a”, “cam”; dấu ngoặc vuông […] dừng ghi các âm tố, ví dự [sistra] và dấu vạch chéo dùng ghi các âm vị, ví dụ /tan/. Kí hiệu đặt trong hai ngoặc vuông và trong hai vạch chéo là kí hiệu phiên âm quốc tế.

Phần thứ nhất TỔNG LUẬN** *

Bản chất xã hội của ngôn ngữHệ thống tín hiệu ngôn ngữNguồn gốc và diễn tiến của ngôn ngữPhân loại các ngôn ngữ

Chương I. BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ.Về mặt thời gian lịch sử, chắc hẳn ngôn ngữ của loài người phải cổ xưa hơn rất

nhiều lần so với ngay cả những huyền thoại xưa cũ nhất. Nó gắn bó với sự sống của con người như đồ ăn thức uống, như sự thở ra, hít vào...; đến nỗi dường như không mấy khi mỗi người chúng ta nghĩ tới nó, nghĩ rằng có một cái gọi là ngôn ngữ tồn tại với mình.

Nhưng rồi có lúc chúng ta tự hỏi; Ngôn ngữ là gì ?

Lời giải đáp cho câu hỏi đó không phải chỉ có một và không thể chỉ có một, bởi vì bản thân ngôn ngữ vốn là một đối tượng hết sức phức tạp và đa diện.

I. TRƯỚC HẾT, NGÔN NGỮ LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI1. Nói rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội là bởi vì một sự thật hiển nhiên:

nó không phải là hiện tượng tự nhiên (vốn là những hiện tượng tồn tại một cách khách quan, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người) như sao băng, thủy triều, động đất...

Ngôn ngữ chỉ sinh ra và phát triển trong xã hội loài người, do ý muốn và nhu cầu: người ta phải giao tiếp với nhau trong quá trình sống và tổn tại, phát triển. Bên ngoài xã hội loài người, ngôn ngữ không thể phát sinh. Điều này được chứng minh qua hai câu chuyện sau đây. Chuyện thứ nhất: Theo nhà sử học Hêđôrôt, hoàng đế Zelan Utđin Acba đã cho tiến hành một thí nghiệm để xem một đứa trẻ không cần ai dạy bảo, có thể biết được đạo của mình hay không, có bỉết nói tiếng nói của tổ tiên mình và gọi tên vị thần của dòng đạo mình hay không. Ông ta đã cho bắt cóc một số trẻ sơ sinh thuộc nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo, dòng đạo khác nhau, đem nuôi cách li hoàn toàn với xã hội trong một tháp kín; không ai được đến gần; cho ăn uống qua một đường dây… Mười hai năm sau, cửa tháp được mở. Những đứa trẻ vẫn lớn lên; những chúng có nhiều biểu hiện của thú hơn là người; và không hề có biểu hiện nào về tiếng nói hoặc tín ngưỡng, tôn giáo cả. Chuyện thứ hai: Năm 1920, ở Ấn Đội, người ta phát hiện ra hai em bé gái được chó sói nuôi sống tỏng một cái hang. Một em khoảng hai tuổi, một em khoảng bảy, tám tuổi. Sauk hi được cứu trở về, em nhỏ bị chết; em lớn sống được, nhưng chỉ có những tập tính của chó sói: không có ngôn ngữ, chỉ biết gầm gừ, bò bằng cả tứ chi dựa trên hai bàn tay, hai bàn chân; thỉnh thoảng cất tiếng sủa như sói về ban đêm…

Sau gần bốn năm em bé này mới học được 6 từ, và sau 7 năm được gần 50 từ. Đến 16 tuổi, em mới nói như một đứa trẻ 4 tuổi và không sống được nữa.

2. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng của cá nhân tôi, cá nhân anh; mà nó là của chúng ta. Chính vì nó là cái chung của xã hội, của chúng ta; cho nên anh nói tôi mới hiểu, và chúng ta hiểu nhau. Về mặt này, đối với mỗi cá nhân, ngôn ngữ như một thiết chế xã hội chặt ché, được giữ gìn và phát triển trong chế đố chính là một tâp hợp của những thói quen nói, nghe và hiểu được tiếp thu một cách dễ dàng và liên tục ngay từ thời thơ ấu của mỗi chúng ta. Vì thế, những thói quen này về sau rất khó thay đổi. Nó như là một cái gì đấy bắt buộc đối với mỗi người trong mọi người.

Dẫu sao thì tiếng Việt cũng vẫn gọi con mèo, cái nhà, người mẹ… bằng các từ mèo, nhà, mẹ… Còn tiếng Anh thì gọi bằng các từ cat, house, mother… chứ không thể dễ dàng thay thế bằng từ khác hoặc đánh đổi cho nhau.

Mặt khác, sự phân biệt giữa ngôn ngữa chuẩn, ngôn ngữa văn hóa chung của mỗi cộng đồng dân tộc với các biến dạng khác của nó trong các cộng đồng người nhỏ hơn, phân chia theo phạm vi lãnh thổ hoặc tầng lớp xã hội ( gọi là những tiếng địa phương, phương ngữ xã hội)… cũng chính là những biểu hiện sinh động, đa dạng về tính xã hội của ngôn ngữ. Ví dụ, từ lời lẽ của tiếng Việt chuẩn mực được phát âm thành nhời nhẽ, đó là cách phát âm của phương ngữ Bắc bộ Việt Nam. Trong khi đó, nếu phát âm thành nờ nẽ thì đây lại là hiện tượng nói ngọng à bị coi là lỗi.

3. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tương sinh vật vì nó không mang tính di truyền. Người ta có được ngôn ngữ là nhờ quá trình học tập, tiếp thu từ những người cùng sống ở xung quanh.

Măt khác, so với tiếng kêu của các loài động vật, ngôn ngữ loài người cũng khác hẳn về chất. Tiếng kêu đó, loài động vật có thể dùng để “trao đổi thông tin” như: kêu gọi bạn tình trong các mùa hôn phối, hay là báo tin có thức ăn, có sự nguy hiểm… những rất cả đề vô tình xuất hiện dưới ảnh hương của những “cảm xúc” khác nhau. Chúng - những tiếng kêu đó- là bẩn sinh; sự “trao đổi thông tin” là vô ý thức. Đó là những kết quả của quá trình di truyền chứ không giống nhau như kết quả của trẻ em học nói.

Còn hiện tượng một só con vật học nói được tiếng người thì rõ ràng lại là kết quả của quá trình rèn luyện phản xạ có điều liện. Nhưng con vật “biết nói” đó dù thông minh đến mấy cũng không thể nào tự lĩnh hội được hoặc phát âm được nhữnga am thanh để biểu thị khai niệm khi nó ở ngoài một hoàn cảnh cụ thể với một kích thích cụ thể.

4. Chẳng những ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội như đã phân tích bên trên; mà hơn thế nữa, nó là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt này thể hiện ở chỗ nó không thuộc về kiến trúc thượng tầng của riêng một xã hội nào; cho nên khi một cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đổ của kiến trúc thượng tẩng tương ứng, thì nó (ngôn ngữ) vẫn là nó. Mặt khác ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Nó ứng xử bình đẳng đối với tất cả mọi người trong xã hội. Tuy vậy, mỗi người, mỗi nhóm người... không vô can với nó mà họ sử dụng cho nó mục đích của mình, theo cách của mình sao cho có hiệu quả nhất.

Chính vì tính chất đặc biệt này mà người ta không thể hi vọng tác động làm biến đổi ngôn ngữ bằng một cuộc cách mạng chính trị xã hội.

II. NGÔN NGỮ LÀ PHƯƠNG TIỆN GIAO TIẾP QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CON NGƯỜI.

1. Có thể hiểu một cách giản gị rằng: giao tiếp là sự truyền đạt thông tin từ người này đến người khác với một mục đính nhất định nào đó.

Sự giao tiếp được thực hiện nhờ hoạt động giao tiếp giữa hai hoặc hơn hai người với nhau trong một bối cảnh nahát định và bằng một phương tiện giao tiếp chung.

Các kết quả nghiên cứu về sinh lí học và tâm lí học cho thấy rằng ở con người, nhu cầu giao tiếp dường như mang tính bẩm sinh. Ngay cả bây giờ, nếu thiếu ngôn ngữ hoặc giao tiếp bằng ngôn ngữ bị hạn chế do những nguyên nhân nào đó thì người ta dùng “ngôn ngữ cử chỉ” cho đến khi không còn có thể trao đổi bằng “ngôn ngữ” này nữa mới thôi.

Khi giao tiếp, người ta trao đổi tư tưởng, tình cảm, trí tuệ, sự hiểu biết… với nhaul và tác động đến nhau. Chính nhờ thế mà con người mới tập hợp với nhau thành cộng đồng xã hội, có tổi chức và hoạt động của xã hội; những tư tưởng và trí tuệ của người này, thế hệ này mới truyền tới người khác, thế hệ khác được.

cẩu giao tiếp dường như mang tính bắm _rik _nrcảbây giò,nếu thiếu ngôn ngữ hoặc giao tiep bàng -mệt:-r.an chế do những nguyên nhân nào đố thì người ta I0unaf: r 1 r.<ử cử chỉ" cho đến khi không còn có thể trao aoi maĩiị 3;ニニ rữ_ này nưa mới thoi.

Những hoạt độgn được gọi là giao tiếp đó, đã được thực hiện nhờ một công cụ tốt nhất là ngôn ngữ. Nhờ nó mà con người có khả năng hiểu biết lẫn nhau, Nó là một trong những động lực bảo đảm sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Chức năng trung tâm của ngôn ngữ là chức năng giao tiếp.

2. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp giữa người với người; nhưng không phải mọi yếu tố, mọi đơn vị của nó đều tham gia như nhau vào quá trình này. Nói khác đi, các đơn vị của nó tham gia thực hiện chức năng xã hội vốn có của nó một cách khác nhau.

Trực tiếp tham gia vào quá trình mang thông tin và truyền đạt thông tin là các đơn vị định danh như từ, cụm từ; và các đơn vị thông báo như câu, văn bản. Chẳng hạn, các từ: ngườo, máy, nhà, cây, đi, cười, một, hai, giỏi... Các cụm từ: đá tai mèo, nhà cao tầng, bê tông đúc sản, mẹ tròn con vuông... Các câu: Người với người là bạn; Trên trái đất có chừng một triệu giống động vật, Máu người không phải nước lã... đều là những đơn vị trực tiếp mang thông tin hoặc truyền tải thông tin.

Ngược lại, các đơn vị như: âm vị, hình vị iại chỉ gián tiếp tham gia vào quá trình giao tiếp; bởi vì chúng chỉ là chất liệu cấu tạo nên những đơn vị vừa nêu trên mà thoi.

3. Trong xã hội loài người, phấn lớn nhất và trọng yếu nhất của thông tin (gồm các kiểu dạng, các nguồn gốc khác nhau) được tàng trữ và lưu hành nhờ ngôn ngữ. Nói như V.Lênin: Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.

Sở dĩ nó quan trọng nhất là vì trên gốc độ lịch sử và toàn diện mà xét, không một phương tiện giao tiếp nào có thể sánh được với nó.

Cho dù ngôn ngữ bằng lời của con người có bị những hạn chế về không gian và thời gian; cho dù ngoài ngôn ngữ ra, con người còn dùng những phương tiện giao tiếp khác nữa như: các điệu bộ, cử chỉ; các loại kí hiệu, tín hiệu giao thông; các biểu trưng quân hàm, quân hiệu; các tác phẩm nghệ thuật tạo hình, âm nhạc... nhưng ở vị trí trên hết và trước hết, vẫn phải là ngôn ngữ.

So với ngôn ngữ, các loại phương tiện giao tiếp khác chỉ có thể đóng vai trò là phương tiện bổ sung cho nó (giao tiếp ở đây được hiểu là giao tiếp trong đời sống rộng rãi thuộc phạm vi toàn xã hội). Sở dĩ nói như vậy là vì phạm vi sử dụng của chúng rất hạn chế; và mặt khác, chúng không đủ sức để phản ánh những hoạt động và kết quả hoạt động tư tưởng phức tạp của con người; còn như âm nhạc hay các tác phẩm nghệ thuật tạo hình thì chỉ có thể nhắc gợi, hướng người ta đến với một tư tưởng, tình cảm nào đó mà thôi. Trong khi các phương tiện giao tiếp bổ sung khác có thể được "biểu diễn lại", "diễn dịch lại” bằng ngôn ngữ, thì việc làm ngược lại, dường như là không thể; hoặc nếu có thể, thì kết quả chỉ là phần rất nhỏ và không đầy đủ.

III. NGÔN NGỮ LÀ HIỆN THỰC TRỰC TIẾP CỦA TƯ TƯỞNG1. Khi nói ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọgn nhất. chúng ta muốn

nhấn manh đến chứng năng hàng đầu của nó: chức năng giao tiếp.Bêncạnh đó ngôn ngữ còn có một chứ năng nữa là chức năng phản ánh. Tư

duy của con người – sự phản ánh thế giới khách quan xung quanh – chủ yếu được tiến hành, được thực hiện dưới hình thức ngôn ngữ.

Từ cội người của mình, ngôn ngữ loài người ra đời và phát triển là do người ta thấy cần phải nói với nhau một cái gì đó. Ở đây, mệnh đề này bao hàm hai vấn đề:

a) Con người đã có một cái gì đấy (những kết quả, quá trình hoạt động thuộc lĩnh vực tinh thần, tư tưởng…) cần phải được truyền đạt, trao đổi với người khác.

b) Phương tiện để truyền đạt những thông tin đó.Nói rõ hơn, các kết quả của sự phản ánh thế giứoi khách quan (cũng tức là tư

duy) của con người cần được thông báo với những người khác trong cộng đồng; và chính con người dọn phương tiện để thông báo là ngôn ngữa. Từ đây, nảy sinh vấn đề quan hệ giữa ngôn ngữ với tư duy.

2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữa với tư duy vốn hết sức phức tạp cho nên có thể tiếp cận nghiên cứu từ nhiều phương diện, nhừng xuất phát điểm khác nhau. Nếu chỉ xét từ góc độ chức năng phản ánh của ngôn ngữ không thôi, thì trước hết cần phải thấy: Hiện thực trực tiếp của tư tưởng là ngôn ngữ. (K.Mac)

Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa rằng ngôn ngữ chỉ là cái vỏ vật chất trống rỗng; mà nó là một thể chất hai mặt: vật chất - tinh thẩn.

Kết luận mà Mác nêu như vừa dẫn, hết sức quan trọng, ông còn có một nhận xét khác: Ngôn ngữ cũng cổ xưa như ý thức vậy (...) là ý thức thực tại, thực tiễn; và tương tự như ý thức, ngôn ngữ sinh ra chỉ do nhu cầu, do sự cần thiết phải giao tiếp với người khác.

Ở đây, cần phân biệt các tên gọi tư duy và ý thức. Bản thân tên gọi tư duy cũng đã có những cách hiểu không hoàn toàn đồng nhất trong các khoa học khác nhau như triết học, tâm lí học, sinh lí học thần kinh cao cấp... Ngay trong một khoa học, người ta cũng có thể hiểu tư duy là sự phản ánh thực tại khách quan được tiến hành bởi con người; hoặc cũng có thể hiểu tư duy là sản phẩm của các hoạt động trí tuệ đó.

Vậy ý thức cần phải được hiểu là nó rộng hơn tư duy. Nó là một tập hợp hoàn chỉnh gồm những yếu tố nhận thức về cảm xúc, có liên quan chặt chẽ với nhau, trong đó tư duy chỉ là một trong những quá trình nhận thức mà thôi.

Trong mối tương quan tư duy - ý thức thì tư duy là bộ phận cơ bản cấu thành ý thức; bởi vì trong ý thức, cùng với các quá trình nhận thức như cảm giác, tri giác, kí ức, biểu tượng, tư duy, còn có các quá trình cảm xúc gắn liền với sự đánh giá và trạng thái ý chí của con người.

Do dó khi nói về chức năng của ngôn ngữ trong quan hệ ngôn ngữ - tư duy như thế nào, thi cũng có thể nói về quan hệ ngôn - ý thức như vậy.

3. Ngôn ngữ là hình thức tồn tại, là phương tiện vật chất để thể hiện tư duy. Về phương diện này, tư duy là cái được biểu hiện còn ngôn ngữ là cái để biểu hiện tư duy. Các kết quả hoạt động của tư duy (thuộc lĩnh vực tinh thần) bao giờ cũng được khoác một cái vỏ vật chất âm thanh (ngôn ngữ) để thể hiện ra ngoài dưới dạng vật chất nhầm làm cho những người khác “thấy được”. Mối quan hệ ngôn ngữ - tư duy ở đây có thể hình dung như hai mặt của một tờ giấy vậy: đã có mặt này là phải có mặt kia. Chính ở trong ngôn ngữ và nhờ có ngôn ngữ mà ý thức tiềm tại trở nên được hiện thực hóa, thực tại hóa. Mặt khác chính trong quan hệ với tư duy, với ý thức mà ngôn ngữ không phải là cái xác không hồn, không phải là hiện tượng thuần túy vật chất. Nó trở thành hiện tượng vật chất – tinh thần.

Bởi thế ta không thể nói một tiếng hắt hơi hay nói một tiếng ho ( vì đó là những tiếng, những âm thanh phát ra vô ý thức do hoạt động, phản ứng thuần túy sinh lí của cơ thể con người). Tuy nhiên, ta có các từ ho, hắt hơi để nói trong những câu, chẳng hạn:

- Liên ho suốt ngày vì bị cảm lạnh- Ông ấy ngồi và hắt hơi liên tục.

4. Chẳng những là phương tiên vật chất để biểu đạt tư duy, ngôn ngữ còn là công cụ của hoạt động tư duy. Nó tực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển tư duy của con người.

Để tiến hành các hoạt động tư duy, trí tuệ, con người cần phải có một cái vốn tri thức, hiểu biết nhất định (có thể là nhiều hoặc ít, tùy theo). Vốn tri thứ đó con người có được nhờ những hoạt động thực tiễn, tìm hiểu và khám phá thế giứoi khách quan quanh mình. Nó được tang trữ, được bảo toàn chủ yếu nhờ ngôn ngữ; rồi chính nhờ ngôn ngữ mà người ta có thể truyền thụ những tri thức, những hiểu biết từ người này sang người khác, từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ nơi này đến nơi khác…

Về mặt sinh lí học thần kinh cao cấp, dự truyền dạt tri thức bằng ngôn ngữ, nhờ ngôn ngữ như vậy, chính là hiện tưởng ngôn ngữ tham gia vào việc tạo nên các liên hệ tạm thời. Nhờ các liên hệ tạm thời này mà con người khác hẳn động vật: Người ta không nhất thiết phải làm quen trực tiếp với sự vật này hay sự vật kia, nhưng vẫn có thể biết được ít nhiều nó là gì, nó như thế nào… nếu như có một người nào đó đã biết và nói lại cho biết, hoặc người ta biết được những sự vật khác có quan hệ đến chúng…( Tôi chưa thấy sao Hỏa bao giờ, nhưng tôi cũng biết được Phô bốt của nó là gì, nó như thế nào… nhờ các nhà thiên văn học nói cho biết).

Việc truyền kiến thức như thế đã rút ngắn được thời gian cần thiết cho sự tìm hiểu thế giới xung quanh con người. Cứ như vậy, truyền đạt, tích lũy, phát triển thêm... tư duy con người càng ngày càng trở nên phong phú hơn và sâu xa hơn.

5. Để làm rõ hơn bản chất của ngôn ngữ cùng với chức năng giao tiếp, chức năng phản ánh của nó, cần làm sáng tỏ hơn mối quan hệ tay ba giữa ý thức (tư duy) với ngôn ngữ và thực tại khách quan.

Ta biết rằng cội nguồn của ý thức chính là thực tại khách quan, vì ý thức chính là hình ảnh chủ quan của thực tại khách quan, là tồn tại được phản ánh. Ý thức được biểu hiện bằng ngôn ngữ. Vậy ngôn ngữ quan hệ gián tiep với thực tại khách quan thông qua ý thức. Quan hệ ngôn ngữ - ý thức - thực tại khách quan như vừa nêu, thường được biểu diễn qua một quan hệ bộ ba quen thuộc khác là từ - khái niệm - sự vật.

Ngôn ngữ và ý thức (tư duy) gắn bó với nhau như một, không bao giờ tách rời nhau, nhưng chúng không phải là một. Đối với thực tại khách quan, ngôn ngữ có tác dụng, vai trò như một công cụ để định danh, gọi tên cho các sự vật, hiện tượng, quan hệ... tổn tại trong đó. Mặt khác, quan trọng hơn là: ngôn ngữ như một công cụ để cấu trúc hóa, mô hình hóa thực tại khách quan. Nó cũng cho thấy được ít nhiều những đặc điểm văn hóa - dân tộc, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của mỗi

cộng đồng người; nhưng không thể nói đó là những biểu hiện cao thấp của các trình độ tư duy khác nhau.

IV. NGÔN NGỮ - LỜI NÓI - HOẠT ĐỘNG LỜI NÓI1.Trong giao tiếp ngôn ngữ, sở dĩ tôi nói, anh nghe và chúng ta hiểu nhau

được (mặc dù ai nấy đều nhận ra và phân biệt: đây là tiếng nói của tôi, kia là tiếng nói của anh…) là bởi vì giữa chúng ta đã có một cái chung và những cái riêng.

a) Cái chung đó của chúng ta bao gồm các âm, các từ, các bộ phận cấu tạo từ, các mô hình cấu tạo nhóm từ, mô hình cấu tạo câu, các thành phần câu... cùng với các quy tắc hoạt động, quy tắc biến đổi của chúng... vốn đã và đang được sử dụng trong không biết bao nhiêu lần khác nhau giữa những người đang cùng nói một ngôn ngữ.

Cái chung đó, trong ngôn ngữ học được gọi là ngôn ngữ.Đó là một hệ thống những đơn vị vật chất và những quy tắc hoạt động của

chúng, dùng làm công cụ giao tiếp của con người, được phản ánh trong ý thức của cộng đổng và trừu tượng hóa khỏi bất kì một tư tưởng, cảm xúc và ước muốn cụ thể nào.

Như vậy, ngôn ngữ không chỉ tồn tại riềng cho tôi hay riêng cho anh, mà tồn tại cho tất cả chúng ta. Nó đươc nhận thức và tương ứng với ý thức của cả cộng đồng chứ không phải chỉ tương ứng với ý thức của riêng anh hoặc riêng tôi. Nó, tự bản chất vốn là hiện tượng mang tính xã hội.

b) Là công cụ để giao tiếp giữa người với người, ngôn ngữ chứng tỏ các khả năng của mình trong các lời nói ra (kể cả dạng Nói lẫn dạng viết). Cái lời Nói ra đó, trong ngôn ngữ học được gọi là lời nói - kết quả của sự Nói năng.

Lời Nói là chuỗi liên tục các tín hiệu ngôn ngữ được xây dựng nên theo các quy luật và chất liệu của ngôn ngữ, ứng với nhu cầu biểu hiện những nội dung (tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, ý chí...) cụ thể. Với cách hiểu như vậy, nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt về mặt tên gọi thuật ngữ, ta có thể coi lời nói như là những văn bản, những diễn từ (discourse). Lời nói phân biệt với ngôn ngữ ở chỗ: nó mang những màu sắc cá nhân của chủ thể nói năng (người Nói cụ thể trong một tình huống cụ thể).

c) Có thể nói: giao tiếp bằng ngôn ngữ giữa người với người thực chất là sự truyền - nhận thông tin thông qua sự trao đổi văn bản (B.V. Kasevich). Nếu không tính đến sự giao tiếp bằng cách viết, thì giao tiếp bàng cách nói năng sẽ bao gồm:

- Hành vi nói ra của người Nói. Đây chính là hành vi sản sinh văn bản (diễn từ).- Hành vi hiểu văn bản (được thực hiện từ phía người nghe, người đối thoại).Trong đối thoại giao tiếp, giả sử có hai người, thì tư cách người nghe và người

nói được luân phiên nhau: anh Nói, tôi nghe và ngược lại, tôi Nói, anh nghe.

Hành vi Nói của người nói và hành vi hiểu của người nghe được gọi là hành vi lời nói; còn hệ thống các hành vi lời nói gọi là hoạt động lời nói.

2. Về sự phân biệt ngôn ngữ với lời Nói và xem xét mối quan hệ giữa chúng với nhau, phải kể F.de.Saussure là người đi đầu. Ông (và những người ủng hộ ông về sau) đã tách biệt hoàn toàn tuyệt đối giữa ngôn ngữ như một cái hoàn toàn có tính chất xã hội với lời nói như một cái hoàn toàn có tính cá nhân.

Sự thể không hoàn toàn hẳn như vậy. Thực chất phân biệt ngôn ngữ (langue) với lời nói (parole) là tự tách bạch giữa hai mặt của một vấn đề: Ngôn ngữ được thực tại hóa trong lời Nói; và lời Nói chính là ngôn ngữ đang hành chức, đang được dùng để giao tiếp giữa người với người.

Chính F.Saussure trong Giáo trinh ngôn ngữ học đại cương(1) cũng đã viết về vấn đề này như sau:

Hoạt dộng ngôn ngữ có một mặt cá nhân và một mặt xã hội, và không thể quan niệm mặt này mà thiếu mặt kia được.(tr.29)

(1) F.đe.Saussure. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã hội. Hà

Tất nhiên, hai đối tượng này gắn bó khăng khít với nhau và giả định lẫn nhau: ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập; về phương diện lịch sử, sự kiện của, lời nói bao giờ cũng đi trước (...) Cuối cùng, chính lời nói làm cho ngôn ngữ biến hóa. (tr.45)

Như vậy, so với ngôn ngữ và trong mối tương quan với ngôn ngừ, lời Nói không phải chỉ đơn thuần là cái gì đó thứ yếu, hoàn toàn ngẫu nhiên và hoàn toàn mang tính cá nhân. Nó cũng chính là ngôn ngữ - ngôn ngữ đang ở dạng hoạt động - và vì vậy, nó cũng mang trong mình mặt xã hội của ngôn ngữ lẫn những màu sắc cá nhân của người Nói - người sử dụng.

Ngôn ngữ hoạt động, hiện ra dưới dạng những chuỗi âm Nói tiếp nhau. Tuy nhiên, để sử dụng đựợc một ngôn ngữ, có thính giác tốt vẫn là chưa đủ. Người ta phải biết phân tích được các loạt âm thanh đó với những dấu hiệu riêng biệt, để biết trong đó: những âm đoạn nào ứng với cái gì, nằm trong những quan hệ nào-với các âm đoạn khác... Do đó, nếu không nắm được ngôn ngữ thì ta vẫn có thể nghe thấy lời Nói của người khác, nhưng không riết anh ta "Nói gì". Đối với đứa trẻ sơ sinh, trong những tháng đầu tiên, tiếng nói của những người xung quanh nó chẳng khác gì với các tiếng động, tiếng ồn ào khác. Ngay cả người lớn, khi chưa nắm được ngoại ngữ, anh ta có thể nghe thấy người ta Nói ngoại ngữ đó, nhưng không thể hiểu được; thậm chí cũng không thể nhắc lại từng câu, từng từ được. Sở dĩ như vậy là vì anh ta không biết "phân tích" cái chuỗi âm thanh lạ tai đó ra từng thành phần; từng

khúc đoạn; bộ phận... như thế nào; và các quy luật vận dụng chúng trong các tình huống nói năng như thế nào...

Kết cục, nếu nắm vững những hiểu biết về mối quan hệ biện chứng của cặp phạm trù cái chung - cái riêng trong học thuyết duy vật biện chứng Mác xít, chúng ta sẽ thấy mối quan hệ ngôn ngữ lời Nói một cách sáng rõ hơn nhiều.

Chương II HỆ THỐNG TÍN HIỆU NGÔN NGỮI. BẢN CHẤT TÍN HIỆU CỦA NGÔN NGỮ1. Trong đời sống của mình, loài người phát hiện, làm quen, xây dựng và sử

dụng nhiều kiểu loại tín hiệu khác nhau. Việc nghiên cứu toàn diện các loại tín hiệu đó, là nhiệm vụ trung tâm của khoa tín hiệu học (semiology).

Đã có nhiều quan niệm khác nhau và nhiều cách phân loại khác nhau đối với tín hiệu. Để cho vấn đề ở đây trở nên giản tiện, đỡ phức tạp, chúng ta quan niệm về tín hiệu như sau:

Tín hiệu là một sự vật (hoặc một thuộc tính vật chất, một hiện tượng) kích thích vào giác quan của con người, làm cho người ta tri giác được và lí giải, suy diễn tới một cái gì đó ngoài sự vật ấy.

Ví dụ: Cái đèn đỏ trong bảng đèn tín hiệu giao thông đường bộ là một tín hiệu; bởi vì khi Nó hoạt động (sáng lên) ta nhìn thấy nó và suy diễn tới sự cấm đoán, không được đi qua chỗ nào đó.

Vậy một sự vật sẽ là một tín hiệu nếu nó thỏa mãn các yêu cầu sau đây:a) Phải là một sự vật hoặc thuộc tính vật chất được cảm nhận qua giác quan

của con người; chẳng hạn: âm thanh, màu sắc, ánh sáng, hình vẽ, vật thể... Nói cách khác, tín hiệu phải là vật chất, kích thích đến giác quan của con người và con người cảm nhận được.

b) Phải đại diện cho một cái gì đó, gợi ra cái gì đó không phải là chính nó. Tức là cái mà nó đại diện cho, không trùng với chính nó. Ví dụ: Tín hiệu đèn đỏ báo hiệu nội dung cấm đi. Nội dung này và bản thể vật chất của cái đèn đỏ không hề trùng nhau.

Mặt khác nó cũng sẽ chỉ là tín hiệu khi mối liên hệ giữa nó với cái mà nó chỉ ra được người ta nhận thức, tức là người ta phải biết liên hội nó với cái gì.

c) Sự vật đó phải nằm trong một hệ thống tín hiệu nhất định để được xác định tư cách tín hiệu của mình cùng với các tín hiệu khác. Chẳng hạn, cái đèn đỏ vừa nói trên là một tín hiệu; thế nhưng nếu tách nó ra, đưa vào chùm đèn trang trí thì nó lại không phải là tín hiệu nữa. Sở dĩ như thế là vì chỉ có nằm trong hệ thống tín hiệu đèn giao thông, nó mới có tư cách tín hiệu, được xác định cùng với đèn xanh, đèn vàng nhờ sự đối lập quy ước giữa chúng với nhau.

2. Xuất phát từ bình diện tín hiệu học trong nghiên cứu ngôn ngữ, người ta bảo rằng ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, rằng nó có bản chất tín hiệu.

Theo quan niệm vừa trình bày bên trên, tín hiệu là cái phải có hai mặt: mặt biểu hiện vật chất và mặt được biểu hiện (cái mà mặt biểu hiện chỉ ra, làm đại diện cho). Vậy thì trong ngôn ngữ, trước hết phải coi các hình vị (những đơn vị nhỏ nhất mà có giá trị về mặt ngữ pháp ví dụ như: work, er, ing, ed... trong các từ: work, worker, working, worked... của tiếng Anh: hoặc như: săn, máy, bay, quạt, cánh... trong các từ: sân bay, máy bay, cánh quạt... của tiếng Việt) và các từ là những tín hiệu; bởi vì chúng có mặt biểu hiện là âm thanh, và mặt được biểu hiện là những ý nghĩa, những nội dung nhất định nào đó.

Ở đây cũng cần phải thấy rằng trong từ - đơn vị trung tâm của ngôn ngữ - có thể có nhiều quan hệ tín hiệu. Trước hết, âm thanh biểu hiện (làm tín hiệu cho) ý nghĩa. Tiếp theo, cả cái phức thể âm thanh - ý nghĩa đó lại biểu hiện, làm tên gọi, làm đại diện cho sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình... trong thế giới khách quan. Đến lượt mình, cả cái phức thể bộ ba này, trong những phát ngôn cụ thể, lại có thể làm tín hiệu, đại diện cho một sự vật khác. (Đó là những trường hợp chuyển nghĩa ẩn dụ, hoán dụ, trường hợp từ biểu thị nghĩa bóng... như ta vẫn thường gặp).

Tuy nhiên, nhiệm vụ chính của ngôn ngữ học không phải là nghiên cứu các sự vật, hiện tượng... được gọi tên; mà là nghiên cứu các phương thức phản ánh chúng trong ngôn ngữ nói chung và từng ngôn ngữ cụ thể.

3. Bản chất tín,hiệu và đặc trưng của tín hiệu ngôn ngữ thể hiện ở những điểm sau đây:

3.a. Cũng như các tín hiệu nói chung, tín hiệu ngôn ngữ là sự hợp nhất của cái biểu hiện với cái được biểu hiện. Cái biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ là âm thanh, còn cái được biểu hiện của nó là ý nghĩa, là khái niệm về sự vật được phản ánh được gọi tên. (ở đây, như trên vừa Nói, chúng ta đã gác sự vật được gọi tên sang một bên). Dưới dạng đơn giản hóa tới mức lí tưởng, ta có thể biểu diễn tín hiệu - từ CÂY trong tiếng Việt chẳng hạn, bằng lược đồ như sau:

Từ: CÂYÂM: CÂYÝ (Khái niệm)Loài thực vật có thân, lá rõ rệt hoặc có hình thù giống những thực vật cổ thân,

lá.Cái biểu hiện (cũng thường gọi là mặt biểu hiện) và cái được biểu hiện của tín

hiệu ngôn ngữ gắn bó khăng khít với nhau, và đã có cái này là có cái kia. Người ta có thể hình dung chúng như hai mặt của một tờ giấy vậy, đã có mặt này, tất phải có mặt kia.

3.b. Hai mặt của tín hiệu ngôn ngữ không bao giờ tách rời nhau, nhưng lại có quan hệ võ đoán với nhau. Điều này có nghĩa là chúng ta không tìm được lí do cho việc giải thích vì sao âm này lại có ý này hoặc ý này vì sao lại được "chứa" trong âm này...

Trong ví dụ vừa nêu trên kia, bản thân âm CÂY không hề có mối liên hệ bên trong nào, cũng như không có sức mạnh quy định, ràng buộc nào đối với cái ý mà nó biểu thị. Ngược lại, cái ý (khái niệm) loài thực vật có thân, lá, ... không hề tự mình quy định tên gọi cho mình, không hề có tác động quyết định nào đối với áo khoác vật chất âm thanh của mình.

Dùng âm này hay âm kia để biểu thị ý (nội dung) này hay ý khác... tất cả đều do quy ước, do thói quen (hoặc suy đến cùng là do thói quen) của tập thể cộng đồng.

Nếu quả thật quan hệ giữa mặt biểu hiện và được biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ là quan hệ có lí do, quan hệ quy định lẫn nhau thì đã không có hiện tượng cùng một sự vật như nhau, một khái niệm như nhau, nhưng mỗi ngôn ngữ đã cấp cho nó một âm khác nhau; và trong một ngôn ngữ đã không có hiện tượng từ đồng âm, đồng nghĩa tồn tại.

Tuy nhiên, trong ngôn ngữ, các từ tượng thanh, các thán từ lại dường như là những luận chứng phản lại nguyên lí về tính không lí do giữa mặt biểu hiện và được biểu hiện. Để giải đáp, chúng ta hãy tự hỏi: các từ tượng thanh và thán từ trong mỗi ngôn ngữ là bao nhiêu ? Chúng có phải là toàn bộ ngôn ngữ, hay phần cốt lõi, cơ bản của ngôn ngữ không ? Tại sao cùng một sự vật nhưng trong ngôn ngữ này người ta gọi nó bằng cái tên có tính tượng thanh, còn ngôn ngữ kia thì lại không ? ...

Cuối cùng, cần ghi nhận rằng sự tượng thanh cũng chỉ là tương đối, gần đúng mà thôi; và trong các ngôn ngữ khác nhau đã tượng thanh cũng một từ theo những cách ít nhiều khác nhau. Bên cạnh đó, các từ cảm thán cũng trong một tình hình tương tự như vậy.

Nhìn trên góc độ lịch sử và toàn thể, những từ được coi là có lí do cũng sẽ lu mờ dần cái lí do ấy đi để nhận lấy tính chất của tín hiệu ngôn ngữ nói chung, là vốn không có tính lí do.

3.c. Mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ là âm thanh - là cái nghe được chứ khồng nhìn thấy được. Nó “diễn ra trong thời gian và có những đặc điểm vốn là của thời gian: a) Nó có một bề rộng và b) bề rộng đó chỉ có thể đo trên một chiều mà thôi” F.de.Saussure).

Nói rõ hơn, mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ có tính hình tuyến. Khi tín hiệu ngôn ngữ đi vào hoạt động (giao tiếp) chúng hiện ra lần lượt cái này tiếp theo sau cái kia, làm thành một chuỗi, một tuyến theo bề rộng một chiều của thời gian.

Chính điều này làm cho tín hiệu ngôn ngữ khác với các tín hiệu khác, bởi vì trong khi mặt biểu hiện của tín hiệu ngôn ngữ có tính hình tuyến, thì các tín hiệu loại khác có thể được sắp xếp, phân bố trên một không gian đa chiều, thậm chí bất chấp trật tự không gian và thời gian.

Tình hình tuyến này lộ rõ ngay khi người ta biểu hiện cấc yếu tố đó bằng chữ viết và đem tuyến không gian của những tín hiệu vẫn tự thay thế cho sự kế tiếp trong thời gian (F.de.Saussure).Với ngôn ngữ, người ta không thể nào nói ra hai yếu tố cùng một lúc. Chúng phải được phát âm nối tiếp theo nhau trong ngữ lưu, hết cái này đến cái kia. Ví dụ, ta hãy quan sát một phát ngôn được ghi lại bằng những kí hiệu chữ viết như sau:

Ai-đi-đằng-ấy-xa-xa-để-em-ôm-bóng-trăng-tà-năm-canh...Chính vì vậy, thuộc tính này (tính hình tuyến) được coi như một nguyên lí cơ

bản của ngôn ngữ, có giá trị chi phối cơ chế hoạt động của ngôn ngữ. Nó cũng dẫn đến rất nhiều hệ quả, mà một trong những hệ quả quan trọng nhất là quan hệ ngữ đoạn giữa các đơn vị ngôn ngữ. Điều này chẳng những quan trọng đối với người tham gia vào cuộc đối thoại, giao tiếp bằng ngôn ngữ (để người ta có thể nghe được, nhận ra một cách phân minh các tín hiệu, các yếu tố trong lời của người Nói ra) mà còn rất quan trọng đối với người phân tích ngôn ngữ học.

Dựa vào các chuỗi được nói ra đó, người phân tích ngôn ngữ học phân tích và nhận diện được các đơn vị ngôn ngữ, phát hiện được các quy tắc kết hợp các yếu tố, các đơn vị, các thành phần để có các từ, nhóm từ, câu, đoạn văn và văn bản.

4. Ngôn ngữ, như đã trình bày, vốn là hiện tượng mang bản chất xã hội và thuộc số các hiện tượng xã hội. Mặt khác, nó còn có một bản chất nữa không kém phần quan trọng là: ngay từ đầu, ngôn ngữ đã đồng thời là tín hiệu, mang bản chất tín hiệu.

Chính bản chất tín hiệu của ngôn ngữ, với tất cả những đặc trưng riêng biệt và tính phức tạp trong tổ chức hệ thống của mình, là một nhân tố trung tâm bảo đảm cho nó trở thành phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của con người.

III. HỆ THỐNG VÀ CẤU TRÚC CỦA NGÔN NGỮ1. Những khái niệm mở đầu1.1. Hàng ngày, chúng ta vẫn nói hoặc nghe nói tới những tên gọi như: hệ

thống giáo dục phổ thông, hệ thống đèn thắp sáng, hệ thống ống cấp thoát nước... Chúng ta đã dùng từ hệ thống - không đòi hỏi được giới hạn một cách nghiêm ngặt về mặt: thuật ngữ...

Hiện nay, khái niệm hệ thống được sử dụng trong rất nhiều ngành khoa học; và đã có không ít quan niệm về nội dung, cũng như cách tiếp cận thuật ngữ này.

Một cách hiểu thường gặp về hệ thống, được phát biểu như sau: Đó là một tổng thể những yếu tố có liên hệ qua lại và quy định lẫn nhau, tạo thành một thể thống nhất phức tạp hơn. Cách hiểu hệ thống như vậy có thể được diễn giải rõ thêm:

- Đó là một tập hợp các yếu tố- Các yếu tố đó phải có quan hệ qua lại với nhau, quy định lẫn nhau. Từ đây

suy ra rằng: mỗi yếu tố chỉ thể hiện được mình và có được "phẩm chất" của mình trong hệ thống "của mình".

- Các yếu tố quan hệ với nhau theo những cách thức nhất định như thế, tạo thành một tập hợp có tư cách một chỉnh thể.

Vậy, có thể xem bộ cờ tướng là một hệ thống; ba cái đèn màu xanh, đỏ, vàng của tín hiệu giao thông đường bộ là một hệ thống...

1.2. Hệ thống nào cũng có cấu trúc của nó. Khái niệm cấu trúc thường xuyên đi đôi cùng với khái niệm hệ thống. Cấu trúc được hiểu là tổng thể các mối quan hệ trong hệ thống, là phương thức tổ chức của hệ thống.

Như thế, cấu trúc chỉ là một thuộc tính cấu tạo hệ thống; nó có được trong hệ thống chứ không ở ngoài hệ thống. Nếu hiểu được tổ chức bên trong của hệ thống như thế nào, là ta đã hiểu được cấu trúc của nó. ví dụ: Khi coi một tòa nhà cao tầng là một hệ thống hoàn chỉnh, nếu ta "nắm" được tòa nhà ấy có bao nhiêu đơn nguyên, mỗi đơn nguyên có bao nhiêu tầng, mỗi tầng có bao nhiêu phòng. các đơn nguyên, các tầng và các phòng đó thuộc những loại nào, kiểu gì, được sắp đặt như thế nào, nương tựa vào nhau ra sao, quan hệ nối kết với nhau như thế nào... thì nghĩa là ta đã biết được, hiểu được cấu trúc của hệ thống - tòa nhà đó.

Tuy nhiên, có điều cần lưu ý là dường như chúng ta đã nói tới cấu trúc như một cái gì đấy chỉ thuần túy là một tổng thể, một mạng lưới của các quan hệ, mà không kể gì đến các yếu tố có quan hệ. Sự thể là vẫn phải tính đến cả các yếu tố trong khi miêu tả và xem xét cấu trúc; nhưng đôi khi, để nhằm vào những mục tiêu nhất định, người ta đã trừu tượng hóa chúng mà thôi.

1.3. Trong tự nhiên và xã hội có rất nhiều loại hệ thống. Tuy vậy, các hệ thống chức năng là loại quan trọng nhất. Đó là loại hệ thống được cấu tạo, được xây dựng nhằm những mục đích nhất định; và trong đó, mỗi yếu tố hoặc loại yếu tố phải thực hiện một chức năng nào đó.

Ngôn ngữ là hệ thống chức năng, bởi vì nó do con người tạo lập để thực hiện chức năng vô cùng quan trọng: chức năng làm công cụ giao tiếp, chức năng phản ánh tư duy của con người...

2. Hệ thống và cấu trúc của ngôn ngữ.

2.1. Sở dĩ ta nói được: ngôn ngữ là một hệ thống là vì nó thỏa mãn những yêu cầu, đáp ứng những tiêu chí cần yếu của khái niệm hệ thống nói chung. Nó là một tổng thể, một tập hợp các yếu tố - các đơn vị của nó - và các đơn vị này có những mối quan hệ thuộc nhiều kiểu dạng khác nhau.

Ngôn ngữ cũng có cấu trúc của nó, bởi vì nó có một tổ chức bên trong, có một mạng lưới quan hệ phức tạp, đa dạng giữa các kiểu loại yếu tố - đơn vị khác nhau của mình.

2.2. Các đơn vị của ngôn ngữ - cũng tức là các yếu tố của nó - phân biệt nhau về chức phận trong hệ thống, vị trí trong hệ thống và cũng phân biệt nhau về cấu tạo của mình. Để nhận diện và phân biệt chúng về mặt khoa học, người ta phải dùng các kĩ thuật phân tích ngôn ngữ học.

Theo trình tự từ lớn đến nhỏ (như vẫn thường gọi) có thể kể ra các đơn vị của ngôn ngữ là: câu – từ - hình vị - âm vị.

Trong số này, càu có chức năng cơ bản là thông báo. Từ (có nhà nghiên cứu còn kể thêm cả cụm từ) là đơn vị có chức năng danh. Hình vị và âm vị là những đơn vị đảm nhận chức năng cấu tạo (hình vị để cấu tạo và biến đổi từ; âm vị để cấu tạo và phân biệt mặt biểu hiện - vật chất âm thanh - của các đơn vị khác. Ví dụ:

a) Các câu: They saw that his ideas were both clever and pratical (tiếng Anh)... Họ đã thấy những ý tưởng của ông vừa thông minh vừa thiết thực (tiếng Việt)...

b) Các từ: They - saw - that - his - ideas - were - both – clever - and - practical (t.Anh)...

Họ - đã - thấy - những - ý tưởng - của - ông - vừa - thông minh - thiết thực (t.Việt)...

Các hình vị: fly-er; work - ed; book - s; un-cover; im- possible; love-ly... (t.Anh); tàu-thủy; đường-sắt; cá-vàng; xe — cộ; láu-cá; học-trò; nhà-máy; lười-nhác... .(t.Việt)

Các âm vị: k-a-d (card) b-i-g (big) t-u (too) s-ou (so)... (t. Anh) s-a (xa) l-a-m (làm) k-u-n (cùn)... (t.Việt).

2.3. Các đơn vị của ngôn ngữ, như vậy là không phải chỉ gồm một loại. Căn cứ vào chức năng đảm nhận trong hệ thống, người ta đã tách ra được các loại đơn vị như vừa trình bày trên đây. Mọi loại đơn vị đó, đến lượt chúng, lại làm thành một tiểu hệ thống trong hệ thống lớn là hệ thống ngôn ngữ. Người ta gọi mỗi tiểu hệ thống (gồm những đơn vị đồng loại) của ngôn ngữ là một cấp độ. Đó là vì (như dưới đây sẽ trình bày) các tiểu hệ thống đó có quan hệ chi phối nhau.

Vậy tương ứng, ta thấy ngôn ngữ có các cấp độ (được gọi tên rằng tên của đơn vị lập thành nó) là: cấp độ câu, cấp độ từ, cấp độ hình vị, cấp độ âm vị.

2.4. Các đơn vị của ngôn ngữ quan hệ với nhau rất phức tạp và theo nhiều kiểu. Đặc biệt, càng đi vào hoạt động giao tiếp, các quan hệ đó càng thể hiện ra dưới nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên, xét ngôn ngữ với tư cách một hệ thống, người ta thường đi đến ba quan hệ cốt lõi nhất, có khả năng chi phối toàn bộ cơ chế hoạt động của hệ thống này như sau:

2.4.a. Quan hệ cấp bậc (hierarchical relatỉon).Người ta cũng gọi đây là quan hệ tôn ti hoặc quan hệ bao hàm, quan hệ cấp

hệ. Chúng ta gọi đó là quan hệ cấp bậc với ngụ ý thể hiện tính tôn ti, thứ bậc của các cấp bậc ngôn ngữ. Quan hệ cấp bậc thể hiện ở chỗ: đơn vị thuộc cấp độ cao hơn bao giờ cũng bao hàm đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn. Ngược lại, đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn bao giờ cũng nằm trong đơn vị thuộc cấp độ cao hơn; và là thành tố để cấu tạo đơn vị thuộc cấp độ cao hơn.

Điều đó có nghĩa là: câu bao hàm từ; từ bao hàm hình vị; hình vị bao hàm âm vị. Ngược lại, âm vị nằm trong hình vị, hình vị nằm trong từ, từ nằm trong câu. Vậy xét về mặt thành tố cấu tạo, mỗi đơn vị thuộc cấp độ cao hơn bao giờ cũng gồm ít nhát một đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn. Ví dụ:

Hình vị gồm một âm vị: pari-e (t.Pháp), book-s (t.Anh).Từ gồm một hình vị: eau (t.Pháp); narbTO (t.Nga); người, đẹp, hát... (t.Việt).Câu gồm một từ Feu ! (t.Pháp); Attention ! (t.Anh); Bat (t.Khmer); Cháy !

(t.Việt).Thậm chí, một văn bản (gần đây với sự phát triển của bộ môn ngôn ngữ học

văn bản, người ta đã chứng minh và coi văn bản cũng là đơn vị ngôn ngữ) có thể chỉ gồm một câu, một từ như trong tục ngữ, các danh ngôn, các câu khẩu hiệu, lời nhắc nhở, khuyến cáo...

Chẳng hạn:Pass along !... Attention: train !... (t.Anh)Tốt gỗ hơn tốt nước sơn. (t.Việt)Lắc trước khi dùng. (lời ghi trên nhãn lọ thuốc)Thuốc tiêm, không được uống. (-nt-)Rõ ràng, đơn vị ở cấp độ thấp hơn bao giờ cũng là cái đi vào để cấu tạo đơn vị

thuộc cấp độ cao hơn. Quan hệ cấp bậc là quan hệ giữa các đơn vị không đồng loại, những đơn vị khác nhau về cấp độ, tức là khác nhau về phẩm chất, về chức năng mà chúng đảm nhận trong hệ thống ngôn ngữ.

2.4.b. Quan hệ ngữ đoạn (syntagmatical relation)Quan hệ ngữ đoạn là quan hệ Nói kết các đơn vị ngôn ngữ thành chuỗi khi

ngôn ngữ đi vào hoạt động. Cơ sở của nó chính là tính hình tuyến của ngôn ngữ. Tính chất này bắt buộc các đơn vị ngôn ngữ phải nối tiếp nhau lần lượt trong ngữ

lưu để cho ta - những kết hợp gọi là ngữ đoạn (syntagmes), ví dụ: Bàn này; Bàn này bằng gỗ; Bàn này bằng gỗ lim; Đã làm rồi; Còn vui hơn nữa; Sẽ nhớ mãi...

Thực chất, quan hệ ngữ đoạn là quan hệ của tính tương cận. Nó liên kết các yếu tố lại để tạo thành những đơn vị lớn hơn; chẳng hạn, liên kết các hình vị để tạo từ; liên kết các từ để tạo nhóm từ; liên kết các từ, nhóm từ để tạo câu; liên kết các câu để tạo đoạn văn bản hoặc văn bản..,

Ta có thể hình dung quan hệ ngữ đoạn là quan hệ giữa các yếu tố các đơn vị, nối tiếp nhau trên một trục nằm ngang theo tuyến tính gọi là trục ngữ đoạn. Trên trục này chỉ có những đơn vị đồng dạng (hiểu với nghĩa là thuộc cùng cấp độ, có chức phận như nhau) thì mới trực tiếp kết hợp với nhau. Đó là một nguyên tắc.

Chẳng hạn, từ trực tiếp kết hợp với từ (hoặc nhóm từ có chức phận tương đương) chứ không phải là trực tiếp kết hợp với câu hoặc hình vị của từ khác.

2.4.c. Quan hệ liên tưởng (associative relation)Ở đây, chúng ta hãy dùng tên gọi này với nội dung bao gồm cả cái mà trong

một số tài liệu về ngôn ngữ học gọi là quan hệ hệ hình hay quan hệ đối vị (paradigmatical relation).

Trên kia chúng ta đã thấy quan hệ ngữ đoạn là quan hệ hiện diện trên tuyến tính, dựa vào sự nối tiếp nhau của hai hay nhiều yếu tố trên trục ngữ đoạn.

Quan hệ liên tưởng là quan hệ "xâu chuỗi" một yếu tố xuất hiện với những yếu tố khiếm diện đứng sau lưng nó và về nguyên tắc có thể thay thế cho nó. Ví dụ:

1 - Đứng sau lưng từ chè trong ngữ đoạn đang uống chè là một loạt từ: cà phê, bia, rượu, thuốc, nước... Chúng hoàn toàn đủ khả năng về nguyên tắc để thay vào vị trí của chè.

Chúng sẵn sàng thay thế cho nhau "khi cần thiết".Có thể biểu diễn hai ví dụ này dưới dạng như sau:đang uống:cà phê— chè— bia— rượu— thuốc— nướcMỗi dãy yếu tố, đơn vị được lập thành nhờ quan hệ liên tưởng, gọi là một dãy

liên tưởng hoặc hệ đối vị (paradigme). Ta có thể hình dung dãy này theo chiều của một trục thẳng đứng, vuông gốc với trục ngữ đoạn; và gọi nó là trục liên tưởng.

Sự liên tưởng có thể được tiến hành dựa trên tính tương đồng (chủ yếu là tương đồng về mặt được biểu hiện) hoặc tính tương phản (đối lập, trái nghĩa). Như

vậy, quan hệ liên tưởng mang tính nội dung, dựa vào nội dung, ý nghĩa hơn là quan hệ ngữ đoạn. Mặt khác nếu quan hệ ngữ đoạn là quan hệ hiện diện giữa hai hay nhiều yếu tố trong các ngữ đoạn hiện thực thì quan hệ liên tưởng lại là khiếm diện. Nó khiếm diện vì nó là sợi dây liên hệ giữa một yếu tố xuất hiện với những yếu tố "đứng sau lưng" yếu tố này, trú ngụ trong đầu óc trong trí tuệ của người sử dụng ngôn ngữ.

Quan hệ liên tưởng cho phép người nói (người tạo lập văn bản) khi muốn nói một cái gì đó, được quyền lựa chọn lấy yếu tố thích ứng trong dãy liên tưởng có thể có. Tuy nhiên, sự lựa chọn này cũng còn phải tùy thuộc vào khả năng tổ hợp giữa các yếu tố được lựa chọn để đưa vào kết hợp trong ngữ đoạn nữa. Chứng tỏ rằng mỗi một kết hợp, một ngữ đoạn, một phát ngôn được hình thành, đều đã có sự chi phối, chế ước lẫn nhau và thống nhất với nhau giữ quan hệ ngữ đoạn và quan hệ liên tưởng. Điều này thể hiện rõ và phát huy tác dụng trong khi tạo lập văn bản giao tiếp nói chung, đặc biệt là trong sáng tác văn chương, nghệ thuật, thơ ca.

V dụ, trong câu thơ Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày ngày Tàn Đà, hẳn ông đã phải lựa chọn trong dãy liên tưởng như: khuôn-tuôn-cạn-ướt-đẫm... chẳng hạn, để lấy ra một từ thỏa đáng nhất. Từ khô được lựa chọn vì nó xứng với cái ý tác giả muốn: đồng thời bảo đảm sự tương hợp về mọi quy tắc ngôn ngữ với các yếu tố đứng trước và sau nó trong ngữ đoạn.

5. Nhận ra các đơn vị, các yếu tố, các lớp hạng yếu tố của ngôn: cùng những quan hệ phức tạp, đa dạng giữa các yếu tố, các lớp hạng này, là ta đã phát hiện ra được cấu trúc của nó. Mặt khác qua đó, tính hệ thống của ngôn ngữ cũng được làm sáng tỏ.

Tuy nhiên, nhận thức về hệ thống và cấu trúc của ngôn ngữ không phải chỉ là "biết để mà biết". Điều này cho,phép ngôn ngữ học nhìn nhận đối tượng nghiên cứu của mình một cách toàn diện sâu sắc hơn. Chính từ chỗ thấy được ngôn ngữ bao gồm nhiều đơn vị, yếu tố khác nhau, tạo thành nhiều tiểu hệ thống, nhiều bộ phận khác nhau có tác động, quan hệ qua lại với nhau mà trong ngôn ngữ học đã xây dựng những bộ môn nghiên cứu khác nhau, đi sâu vào nghiên cứu từng mặt, từng bộ phận, từng tiểu hệ thống đó. Chẳng hạn, ngữ âm học và âm vị học nghiên cứu cơ cấu âm thanh - mặt biểu hiện - của ngôn ngữ; ngữ pháp học nghiên cứu cơ cấu ngữ pháp của ngôn ngữ; từ vựng học nghiên cứu thành phần từ vựng của ngôn ngữ... Đến nay thì ngôn ngữ đã được nghiên cứu ở những góc độ chi tiết hơn với nhiều bộ môn cụ thể hơn nữa như: ngữ nghĩa học, phong cách học, ngữ pháp văn bản, từ nguyên học... và nhiều bộ môn liên ngành khác như: ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học tâm lí... Các bộ môn đó có thể nghiên cứu trên gốc độ chung đối với các ngôn ngữ, và thuộc về các bộ môn đại cương (tức là nghiên cứu những vấn đề chung, khái

quát cho nhiều hoặc cho các ngôn ngữ). Ngược lại, chúng cũng có thể nghiên cứu trong từng ngôn ngữ cụ thể như: ngữ âm học tiếng từ vựng học tiếng Việt, ngữ pháp học tiếng Việt...

Một cấu trúc phức tạp của những đơn vị không đồng loại có quan hệ qua lại với nhau; đó là cái điển hình đối với ngôn ngữ (A. Rephormatxki), Vì vậy, khi xét một sự kiện ngôn ngữ nào đó, ta phải luôn luôn ,đặt nó trong hệ thống. Tại đây, cấu trúc của hệ thống sẽ "thẩm định" phẩm chất của sự kiện đó trong mối quan hệ với hàng loạt sự kiện khác, yếu tố khác, ví dụ: xét một yếu tố a. Nó là cái gì ?

Việc xác nhận ngôn ngữ mang tư cách của một hệ thống cho ta một sự nhìn nhận trở lại đối với nguyên lí về tính võ đoán. Chính tính hệ thống của ngôn ngữ đã chế ước tính võ đoán. Về điểm này. F.de. Saussure có nêu một nhận xét quan trọng: Tất cả những gì có liên quan đến ngôn ngữ với tính cách là một hệ thống đều đòi hỏi (...) được nhìn nhận trên quan điểm sau đây, một quan điểm đã không được các nhà ngôn ngữ học chú ý mấy: sự hạn chế tính võ đoán (...). Nguyên lí này, nếu có hiệu lực vô hạn độ, sẽ dẫn tới tình trạng hết sức phức tạp; nhưng trí tuệ đã đưa được nguyên lí trật tự và đều dặn vào một số bộ phận trong khối các tín hiệu, và chính đó là vai trò của cái có nguyên do tương đối).

Cuối cùng, cũng cần nói thêm: hệ thống ngôn ngữ không phải là một cái gì đấy cứng nhắc và hoàn toàn bất biến. Là một hệ thống thuộc loại hệ thống chức năng, ngôn ngữ phải có những biến đổi để đáp ứng với yêu cầu làm công cụ giao tiếp của con người.

Trong tiến trình phát triển của mình, hệ thống này hiện ra tư cách là cái của ngày hôm nay, đang tổn tại và hành chức, nhưng chính nó cũng lại là sản phẩm, là tài sản của ngày hôm qua, từ các thế hệ xa xưa truyền lại. Nó vừa là kết quả của hiện tại, lại vừa là kết quả của quá khứ. Bởi vậy, người ta có thể nghiên cứu ngôn ngữ ở một trạng thái cụ thể, vào một đoạn thời gian nào đó, được giả định như là "đứng im" không có thay đổi gì, hệ thống ngôn ngữ được coi như là hoàn toàn ổn định... Nghiên cứu như thế gọi là nghiên cứu đổng đại (synchronic). Ngược lại, người ta có thể nghiên cứu ngôn ngữ (các yếu tố, các bộ phận của nó) đã có những biến đổi gì, biến đổi như thế nào… trong các trạng thái xét theo tiến trình lịch sử... Hướng nghiên cứu này gọi là nghiên cứu theo quan điểm lịch đại (diachronic).

Đổng đại và lịch đại không đối nghịch nhau mà thống nhất biện chứng với nhau. Nếu ta coi mỗi trạng thái ngôn ngữ như một "lát cắt" đổng đại thì lịch đại chính là một dãy liên tục mang tính kế thừa của chính những lát cát đồng đại đó. Ngược lại, đối với lịch đại, mỗi lát cát đổng đại chỉ là một sự phân cắt. Ít nhiều mang tính chất ước lượng mà thôi.

Chương III NGUỒN GỐC VÀ DIỄN TIÊN CỦA NGÔN NGỮCác dạng ngôn ngữ đã và dạng hiện diện trên hành tinh của chúng ta, hết sức

đa dạng và sinh động. Mỗi ngôn ngữ cụ thể như thế lại có một nguồn gốc trực tiếp hoặc gián tiếp của nó, với những chiều hướng biến động, phát triển không phải bao giờ cũng hoàn toàn như nhau. Tuy nhiên, đó là những vấn đề được nghiên cứu riêng cho từng ngôn ngữ một.

Ở đây, chúng ta sẽ chỉ nói đến những "chuyện chung" của ngôn ngữ trong xã hội loài người nói chung.

I. NGUỒN GỐC CỦA NGÔN NGỮ1. Không phải chỉ có chúng ta hôm nay mới tự hỏi: ngôn ngữ của con người ra

đời từ đâu? nhờ ai, nhờ cái gì ?... Việc đặt những vấn đề đại loại như thế và lời giải đáp cho chúng, thực ra đã có không ít và có từ lâu, thậm chí từ xa xưa.

Khi đức tin vàọ sức mạnh sáng tạo vạn năng nơi Thượng Đế bị đổ vỡ (vì chẳng bao giờ có Thượng Đế cả) thì không ai còn nghĩ rằng Thượng Đế đã tạo ra loài người chúng ta và cho ta ngôn ngữ để ta biết Nói như biết thở vậy.

Người ta cũng đã có gắng đi tìm nguồn gốc ngôn ngữ ở trần gian, nơi ngôn ngữ đang tồn tại và hoạt động. Thế là các giải thuyết như: thuyết tượng thanh, thuyết về tiếng kêu động vật, thuyết về tiếng kêu trong phối hợp lao động, thuyết cảm thán bộc lộ tâm lí tình cảm, thuyết quy ước xã hội... lần lượt xuất hiện. Ngày nay, bình tĩnh mà xét, các giả thuyết đó đều có phần đúng của nó, nhưng tiếc thay, chỉ đúng được với một vài sự kiện hoặc hiện tượng ngôn ngữ mà thôi. Nhìn nhận như thế về nguồn gốc ngôn ngữ, thật chẳng khác nào thấy một vài cây đã vội kết luận cho rừng bởi vì "thấy cây mà chẳng thấy rừng".

2. Với sự ra đời của triết học duy vật biện chứng, vấn đề nguồn gốc ngôn ngữ được xem xét và phân tích một cách toàn diện hơn, khoa học và hợp lí hơn: con người là chủ thể sáng tạo và sử dụng ngôn ngữ; vậy phải tìm hiểu sự ra đời của ngôn ngữ gắn liên với nghiên cứu nguồn gốc con người cả trong quá trình phát sinh giống nòi lẫn quá trình phát sinh và phát triển của mỗi cá thể.

Các kết quả nghiên cứu về triết học, sinh vật học, khảo cổ học, sinh lí học thần kinh và ngôn ngữ học... kết luận rằng lao động đã làm phát sinh, phát triển loài người và làm phát sinh ngôn ngữ trong quá trình đó.

2.a. Hàng triệu năm trước đây, tổ tiên của chúng ta vốn là một loài vượn người sống trên cây trong những cánh rừng tiền sử. Do nhiều biến động của tự nhiên, những cánh rừng ấy bị tiêu diệt. Thức ăn trên tầng cây cao ngày càng trở nên khó kiếm. Loài vượn người ấy buộc lòng phải rời ngọn cây cao (vốn là nơi trú ẩn, sinh sống từ lâu đời) xuống đất đi lang thang kiếm ăn.

Trên mặt đất, sự di động chủ yếu không còn là leo trèo như trên cây nữa; đã thế, kẻ thù lại nhiều hơn... Việc tìm kiếm thức ăn và tự vệ để sinh tồn... đã buộc loài

vượn người này tập dần dược cách đi bằng hai chỉ sau và đứng thẳng mình lên. Cái bản trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người chính là việc đứng thẳng mình lên và đi bằng hai chân đó. Để có được dáng đứng thẳng lên, loài vượn người xưa kia đã phải "tập đi" hàng nghìn năm chứ không đơn giản như một em bé tập đi bây giờ, chỉ một tháng là xong.

Thế là hai tay con vượn người được giải phóng. Đôi chân bây giờ hoàn toàn đảm đương việc đi lại. Đôi tay ngày càng trở nên khéo léo hơn, biết sử dụng các vật sẵn có làm công cụ tự vệ, kiếm ăn; và quan trọng hơn: nó biết chế tạo ra công cụ lao động. Con người đã chuyển dần thành con người vượn rồi thành người (người nguyên thủy).

Dáng đứng thẳng cũng làm cho tầm mắt của tổ tiên chúng ta được rộng và xa hơn; đồng thời lồng ngực nở hơn và những cơ quan của bộ máy phát âm có điều kiện phát triển hơn.

Mặt khác, có công cụ trong tay, những con người tiền sử đó kiếm được nhiều thức ăn hơn và chuyển dần từ đời sống ăn thực vật (cây, quả, củ, rễ...) sang đời sống ăn thịt. Thêm vào đó, việc tìm ra và sử dụng được lửa cũng đã khiến họ chuyển từ ăn sống sang ăn chín. Một hệ quả quan trọng đã diễn ra, thức ăn chín, mềm khiến xương hàm người ta không cần phải to thô như trước nữa; lồi cằm (phần trước xương hàm dưới) vểnh ra rõ dần.

Tuy nhiên, trong số các biến đổi về mặt sinh học của con người, sự tiến bộ của bộ não là quan trọng nhất nhờ lao động, nhờ ăn thịt, bộ não của tổ tiên chúng ta cũng phức tạp dần lên; những phần vỏ não trực tiếp liên quan đến tiếng nói như thùy trán, thùy thái dương và phần dưới thùy đỉnh, phát triển mạnh. Kết cục là so với những người bà con anh em họ của tổ tiên chúng ta, bộ não con người ngày nay (tính theo tỉ lệ giữa trọng lượng của não với trọng lượng toàn thân) lớn hơn khỉ đột 10 lần, hơn đười ươi 6 lẩn, hơn khỉ đen 2 lần và hơn vượn 4 lần.

Như vậy, lao động đã tạo ra con người và tạo ra những tiền đề thứ nhất về mặt sinh học để ngôn ngữ có thể phát sinh. Có thể nói lao động để chuẩn bị và "tạo cơ sở vật chất" để loài người có những cơ quan thích hợp cho việc sản sinh tiếng nói.

2.b. Cũng chính lao động đã tạo ra nhân tố xã hội để ngôn ngữ phát sinh. Lao động đã liên kết con người thành những bầy đàn, những cộng đồng và về sau thành xã hội có tổ chức. Muốn cùng chung sức để làm việc gì đó, người ta cần phải thỏa thuận với nhau là sẽ làm gì, làm như thế nào... Những điều "biết được" về thế giới xung quanh, những kinh nghiệm trong lao động cần phải được thông báo cho nhau từ người này sang người khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác...

Đến đây thì con người (dù là người cổ nhất) đã khác con vật về chất. Người ta đã đến lúc thấy “cần phải nói với nhau một cái gì đó” bởi vì họ đã có cái cần phải nói với nha và có phương tiện để nói với nhau. Phương tiện ấy chúng ta gọi là ngôn ngữ. Vậy không có ai khác, chính lao động đã sáng tạo ra con người và ngôn ngữ của con người. Lao động đã làm cho bộ óc của con người cổ xưa biết hoạt động "theo kiểu người" và có một công cụ vừa để tiến hành những hoạt động đó, vừa làm phong phú hóa nó, nâng nó lên "trình độ của con người". Đó là ngôn ngữ.

2.c. Tự bản chất của mình, từ khi mới phát sinh, ngôn ngữ vốn công cụ, là phương tiện để con người giao tiếp với nhau, Thế nhưng, lúc đầu nó chưa phải là ngôn ngữ như chúng ta đang có hiện nay; mà là thứ ngôn ngữ chưa phân thành âm tiết rõ ràng, bởi vì cái lưỡi, cái cằm và hàm dưới, hệ dây thanh... chưa phù hợp, thuần thục với công việc mới mẻ, đầy phức tạp công việc phát tiếng nói - này; thậm chí có bộ phận còn đang trên đường hoàn nện dần.

Tuy vậy, người ta không đợi cho mọi bộ phận cấu âm phát triển thật hoàn chỉnh rồi mới nói với nhau. Những tiếng nói còn lẫn, còn nhòe, và ú ớ đó đã được phối hợp với các động tác, dáng vẻ của cơ thể, mặt mũi, vai, tay, chân (nhất là đôi tay) để "phát biểu" nghĩ, tình cảm của họ. Thoạt đầu tiếng nói của con người chưa khác các điệu bộ bao nhiêu. (Điều này còn để lại những tàn dư của nó trong một số ngôn ngữ mà hiện nay ta còn thấy được. Chẳng hạn, trong ngôn ngữ dân tộc Êvê, người ta không dùng một từ đi mà lại dùng nhiều từ khác nhau, miêu tả các kiểu đi khác nhau.

dô bô hô bô hô: đi nặng nề, phục phịchdô dê dê: đi một cách vững vàngdô bu la bu la: đi nhanh bừa đidô pi a pi a: đi rón réndô gô vu gô vu: đi khập khiễng, đầu chúi xuống...)Dần dần, con người sử dụng tiếng nói thành thạo hơn và bỏ xa những cách

"phát biểu" bằng cử chỉ, động tác; bởi lẽ ngôn ngữ thành tiếng của họ ngày càng mạch lạc hơn, hoàn thiện hơn, trở thành hệ thống tín hiệu thứ hai, hệ thống "tín hiệu loan báo các tín hiệu".

Hoạt động tín hiệu là hiện tượng chung cho mọi loài động vật trên hành tinh chúng ta; nhưng con người, với ngôn ngữ của mình đã có thêm một phương thức mới, khác hẳn về chất. Nhờ có ngôn ngữ này mà từ đây, ngay trong đêm đen, con người nghe được (tức là nhận được) một tín hiệu có nghĩa "mặt trời" chẳng hạn, thì anh ta đã nghĩ tới , đã hình dung ra mặt trời rồi, không cần phải đợi cho đến khi nhìn tận mắt nữa.

Đối với động vật, chỉ có những kích thích trực tiếp về thị giác, thính giác: khứu giác, xúc giác mới trở thành tín hiệu kích thích được. Ngược lại, đối với con người, ngoài những thứ đó, người ta còn có các từ trong ngôn ngữ để thay thế cho chúng. Đến đây thì cái gọi là ngôn ngữ thực sự hình thành và không bao giờ rời xa loài người nữa.

II. DIỄN TIẾN CỦA NGÔN NGỮỞ trên, chúng ta đã phân tích và thấy rằng ngôn ngữ xuất hiện cùng với quá

trình hình thành ý thức, gắn liền với lao động, với sự xuất hiện của con người và xã hội loài người. Vậy, xem xét quá trình diễn tiến của ngôn ngữ trong sự diễn tiến của xã hội loài người sẽ là điều hợp lí.

Về mặt dân tộc học, người ta đã phân loại các đơn vị tổ chức xã hội loài người thành các bậc: thị tộc, bộ lạc, bộ tộc và cuối cùng là dàn tộc. Bên cạnh đó, học thuyết về các hình thái kinh tế xã hội lại phân chia lịch sử xã hội theo một cách khác và được các hình thái kinh tế xã hội ứng xử với các giai đoạn phát triển như: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa.

Trên thực tế, khó lòng có thể vạch ra từng bậc trong sự diễn tiến của ngôn ngữ một cách "phân đoạn" như vậy. Tuy nhiên, trong chừng mực nhất định, người ta vẫn cổ thể dựa vào những ranh giới phân đoạn đo nhiều hoặc ít, tùy theo, vì chẳng còn có cách nào hơn.

1. Chế độ công xã nguyên thủy ứng với loại cộng đổng thị tộc và bộ lạc (còn gọi chung là các nhóm dân tộc học) trong đó bộ lạc là đơn vị cơ sở.

Mỗi bộ lạc như thế cư trú trên một lãnh thổ, mọi người trong bộ lạc có quan hệ kinh tế với nhau, mang những đặc điểm đời sống - văn hóa chung và nói cùng một thứ tiếng.

Về mặt ngôn ngữ, thời kì này có hai xu hướng dường như trái ngược nhau, nhưng nhiều khi lại đan xen vào nhau: xu hướng chia tách, phân tán và xu hướng liên minh, hợp nhất.

Xu hướng chia tách thường xảy ra khi một bộ lạc tăng trưởng dân số không ngừng và đến một lúc nào đó, do nhiều điều kiện khác nhau ( nhưng nhu cầu sinh sống là chủ yếu buộc người ta tự nhiên phải tác ra thành những bộ phận, những nhóm cư trú phân tán trên nhiều địa bàn khác nhau. Do điều kiện sống xa nhau, thậm chí biệt lập, rất ít tiếp xúc hoạc không có tiếp xúc nữa, các bộ phận cư dân đó về sau đã hình thành nên (một cách tự nhiên) những bộ lạc độc lập.

Trong quá trình đó, những khác biệt về mặt ngôn ngữ đã nảy sinh rồi được củng cố qua nhiều thế hệ và trở thành ngôn ngữ khác nhau có cùng nguồn gốc, hoặc trở thành những phương ngữ, thổ ngữ khác nhau của một ngôn ngữ chung. Các nhà dân tộc học, sử học, ngôn ngữ học cùng với nhưng ngành khoa học hữu

quan, khi nghiên cứu sự thân thuộc về mặt cội người giữa các tộc người, của một ngôn ngữ, đã thấy rất rõ điều đó. Chẳng hạn: Các nhóm phương ngữ: Mày, Rục, Sách, Arem, Mãliền của tiếng Chứt; các nhóm phương ngữ: Thổ, Poọng, Đan Lao , Li Hà, Cuối Chăm, Cuối Niêu của tiếng Thổ ở khu vực Đông Nam Trường Sơn – Việt Nam; Các phương ngữ của tiếng Papua ở Châu Phi, các phương ngữ của tiếng Litva ở Liên Xô… hẳn là đã là kết quả của quá trình chia cách và khuyếch tán như vậy.

Có thể nói, ngôn ngữ của các bộ lạc, tự nó đã là những mầm mống để hình thành các phương ngữ, thổ ngữ trong giai đoạn xã hội phát triển cao hơn sau này.

Xu hướng hợp nhất có lẽ hay xảy ra vào giai đoạn chót của chế độ công xã nguyên thủy đang chuyển dần sang xã hội có giai cấp Lúc này, có những liên minh bộ lạc được hình thành (hoặc là bằng cách một bộ lạc này chinh phục các bộ lạc khác, hoặc là một số bộ lạc tự nguyện liên minh với nhau vì những nguyên nhân nào đó).

Liên minh bộ lạc là điều kiện hết sức thuận lợi để các ngôn ngữ (dù không gần gũi nhau lắm về mặt cội nguồn, hoặc hoàn toàn không có quan hệ thân thuộc đi chăng nữa) tiếp xúc chặt với nhau và tác động, ảnh hưởng lẫn nhau. Thường có hai lối tác động:

Thứ nhất, một ngôn ngữ bộ lạc chiến thắng các ngôn ngữ khác và trở thành ngôn ngữ chung trong cộng đồng toàn liên minh. Tuy vậy, nó vẫn chịu ảnh hưởng của các ngôn ngữ không chiến thắng khác và thay đổi ít nhiều bộ dạng của mình đi; nhất là ở mặt ngữ âm và từ vựng. Tiếng Latin của người La Mã trong các vùng bị người La Mã chinh phục, là như vậy.

Thứ hai, tiếp xúc ngôn ngữ dẫn đến pha trộn ngôn ngữ và thậm chí có thể làm nảy sinh một ngôn-ngữ mới. Thế nhưng, đây không phải là sự pha trộn cơ giới, đảo đều; cũng không phải là sự tạo thành một ngôn ngữ hoàn toàn mới, khác hẳn các ngôn ngữ tham gia tiếp xúc, pha trộn; bởi vì ngôn ngữ mới này vẫn giữ cơ cấu hình thái của một trong những ngôn ngữ thuộc thành phần pha trộn đó làm cơ sở nền tảng cho mình. Chính nhờ cái cơ sở (gọi là cơ tầng) đó mà người ta vẫn xác định được ngôn ngữ mới thân thuộc với ngôn ngữ nào hơn và thuộc vào nhóm nào trong phổ hệ của họ ngôn ngữ.

Lối tiếp xúc, ảnh hưởng như thế, ngay gần đây, người ta vẫn còn có thể kiểm chứng được trong không hiếm ngôn ngữ hiện đang tồn tại. Ví dụ:

1/ Tiếng Việt trong quá trình tiếp xúc lâu đời với tiếng Hán, đã vay mượn vào vốn từ của mình một khối lượng rất lớn các từ và yếu tố tạo từ cùng với một số ảnh hưởng khác về mặt ngữ pháp; nhưng không vì thế mà nó thuộc cùng một nhóm gần gũi về cội nguồn với tiếng Hán.

Ở châu Âu, quan hệ giữa tiếng Anh với tiếng Pháp; tiếng Rumani với các ngôn ngữ Slave và tiếng Hi Lạp, tiếng Hung, người ta cũng thấy những tình hình tương tự: tiếng Anh vẫn thuộc số các ngôn ngữ Giecman, còn tiếng Pháp, tiếng Rumani vẫn thuộc về các ngôn ngữ Roman.

2/ Theo A.G.Odricua, người Sán Chấy(1) ở Việt Nam vốn là người Dao gốc Quý Châu - Trung Quốc, di cư đến Quảng Đông rồi di cư sang Việt Nam sống chung với người Tày, Nùng. Tại đây, ngôn ngữ của họ, tiếng Sán Chấy, là một ngôn ngữ pha trộn gồm cơ tầng Dao với tiếng Tày Nùng.

(1) Sán Chấy là tên tự nhận của người Cao Lan và người Sán Chỉ.Như vậy, điểm nói rõ về mặt ngôn ngữ trong thời kì công xã nguyên thủy, thời

kì của các thị tộc, bộ lạc là luôn luôn diễn ra quá trình chia tách và liên minh, tiếp xúc. Một mặt, sự chia tách gia tăng số lượng các ngôn ngữ khác nhau hoặc các phương ngữ thổ ngữ khác nhau trong một ngôn ngữ; mặt khác, sự tiếp xúc lại dẫn đến tình trạng gần nhau, và tới một mức nào đó sẽ lén pha trộn ngôn ngữ.

2. Thay thế chế độ công xã nguyên thủy là chế độ xã hội có giai cấp, gắn liền với sự thiết lập nhà nước (trước hết là những nhà nước cổ đại) theo kiểu nào đó của phương Đông hoặc phương Tây.

Tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể ở từng nơi mà các nhà nước đó đã được xây dựng bằng những cách khác nhau, bởi những nguyên nhân ít nhiều khác nhau. Các nhà nước cổ đại ở Hi Lạp, La Mã, Ai Cập, Ấn Độ, Trung Hoa và vùng Cận Đông là sản phẩm của những bộ lạc hoặc liên minh bộ lạc chiến thắng để thống trị các tộc người khác trong cộng đồng. Một số nơi khác (rất có thể như nước Văn Lang ở Việt Nam thời xưa chẳng hạn) lại xây dựng nhà nước trên cơ sở của một liên minh tự nguyện, thiết lập chính trị trung ương thống nhất, khả dĩ tập trung sức mạnh toàn cộng đồng để đối phó với thiên tai hoặc các cuộc xâm lăng, thôn - của ngoại nhân.

Nhà nước ra đời đòi hỏi trong cộng đồng phải có một ngôn ngữ thống nhất làm ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ đó có thể là một ngôn ngữ bản địa của người chiến thắng như tiếng Latin từ sau năm 49 trước công nguyên ở đế quốc La Mã, tiếng Xôngai trong lãnh thổ của nhà nước Xôngai (ở châu Phi) trước đây; cũng có thể là ngôn ngữ của bộ lạc làm hạt nhân, trung tâm cho nhà nước như tiếng Việt trong lãnh thổ nước Văn Lang thời xưa. Mặt khác, một số nơi, cùng với sự hình thành nhà nước là quá trình xuất hiện, xây dựng chữ viết (hoặc là tự sáng tạo, hoặc là vay mượn, cải biên, hoặc là tiếp thu hẳn một hệ thống của ngoại tộc).

Người nắm được và sử dụng chữ viết lúc đó chủ yếu là các trí thức trong tầng lớp thống trị, các tăng lữ thuộc các tôn giáo hoặc thương nhân (như ở Cận Đông và vùng Địa Trung Hải). Vì vậy, trong giai đoạn này ngôn ngữ nhà nước không phải ở nơi nào cũng đồng thời là ngôn ngữ của toàn dân. Thậm chí, khi nhà nước đã đạt tới

trình độ quản lí tổ chức và tập trung cao (như trong chế độ phong kiến về sau chẳng hạn) thì cái gọi là ngôn ngữ nhà nước, ngôn ngữ có tính chính thống thường cũng có nghĩa là ngôn ngữ viết, phân biệt với ngôn ngữ nhân dân (là ngôn ngữ dùng trong giao tiếp rộng rãi hàng ngày) và có khi nó xa cách với ngôn ngữ nhân dân.

Điều này còn diễn ra cho tận đến lúc ngôn ngữ dân tộc dần dần chiếm ưu thế trong mọi phạm vi giao tiếp của cả nước.

Dầu sao thì sự ra đời của nhà nước cũng đã có ảnh hưởng đến ngôn ngữ. Nó là nhân tố vừa đòi hỏi, vừa thúc đẩy việc tìm kiếm, xây dựng một ngôn ngữ chính thức, thống nhất về phương diện quốc gia, dù có đồng thời là ngôn ngữ toàn dân hay không.

3. Nét nổi bật trong thời kì hình thành dân tộc là hình thành một ngôn ngữ dân tộc thống nhất.

Dân tộc vốn là một phạm trù lịch sử, xuất hiện vào một giai đoạn nhất định, với những điều kiện và hoàn cảnh nhất định.

Một trong những điều kiện quan trọng bắt buộc, để bảo đảm một cộng đồng người hình thành một dân tộc (ví dụ như điều kiện về lãnh thổ, về kinh tế, về cấu tạo tâm lí và văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần. ) là cộng đồng đó phải có một ngôn ngữ chung.

Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức, thống nhất của nhà nước với ngôn ngữ thống nhất của dân tộc không phải bao giờ cũng trùng nhau. Tình trạng này hiện nay chúng ta vẫn còn quan sát được ở nhiều nước châu Phi: tại đó, có nhiều ngôn ngữ của các dân tộc bản địa, nhưng ngôn ngữ nhà nước lại là một thứ tiếng châu Âu nào đó, được phổ biến từ thời thực dân. Ví dụ tiếng Anh ở Nigiêria, tiếng Pháp ở Mali và Ghinê...

Dân tộc được hình thành, làm tăng cường thêm sự thống nhất về nhiều mặt, trong đó có thống nhất ngôn ngữ. Những dị biệt của ngôn ngữ mang tính xã hội hoặc lãnh thổ giữa các bộ lạc, bộ tộc bị triệt thoái dần; còn những nét chung, thống nhất càng ngày càng được phát hiện, xây dựng và củng cố để thành tài sản chung của tất cả mọi người.

Thông thường, ngôn ngữ dân tộc có thể được xây dựng trên cơ sở của một phương ngữ có sẵn (thường là phương ngữ ở vùng trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa trong quan hệ nhà nước) hoặc xây dựng trên cơ sở của các tác động qua lại dẫn đến sự tổng hòa, có chọn lọc từ các phương ngữ khác nhau, ví dụ, có thể coi tiếng Việt với phương ngữ Bắc (mà trung tâm là hai vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã) thuộc trường hợp thứ nhất; còn tiếng Nga với sự tổng hòa các phương ngữ Bắc Nga và Nam Nga cùng một phần tiếng Slave cổ, thuộc về trường hợp thứ hai.

Tính thống nhất của ngôn ngữ dân tộc, tuy vậy, vẫn buộc phải chấp nhận tình trạng còn tồn tại những phương ngữ địa lí và phương ngữ xã hội. Đó là sự thực hiển nhiên mà chúng ta hoàn toàn có thể quan sát được thống nhất trong cái đa dạng, và đa dạng trên một căn bản thống nhất. Tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Khmer, tiếng Lào, tiếng Thái Lan cũng như tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Anh... đều như thế.

Sự hình thành ngôn ngữ dân tộc thống nhất cũng sẽ thường dẫn đến việc xây dựng ngôn ngữ văn học (hiểu theo nghĩa rộng, không phải chỉ là ngôn ngữ trong văn học nghệ thuật). Đó là thứ ngôn ngữ có quy chế, được trau đổi dù có chính thức hay không.

Thật ra, quá trình hình thành ngôn ngữ dân tộc và xây dựng ngôn ngữ văn học (của dân tộc) không phải bao giờ cũng đi đôi với nhau hoặc tiếp liền nhau. Trong khi ở Hi Lạp cổ đại, ngôn ngữ văn học được xây dựng từ rất sớm (thế kỉ III trước Công nguyên) thì trước đây và ngay cả thời gian không xa so với hiện nay. Ở nhiều nơi người ta dùng hẳn một ngôn ngữ khác (cùng với chữ viết của nó) để làm ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ nhà nước. Ngôn ngữ văn học như thế cũng đồng thời chỉ có nghĩa là ngôn ngữ viết. Ngôn ngữ đó thường là của những dân tộc khác có nền văn hóa, văn học hết sức rực rỡ. Chẳng hạn một số nước châu Âu dùng tiếng Latin; vùng Bắc Phi và Tiểu Á, một số nước dùng tiếng Ả Rập; còn vùng Lào, Thái Lan, Campuchia dùng tiếng Pali, Sanskrit; Việt Nam dùng tiếng Hán...

Khi ngôn ngữ đân tộc dần dần khẳng định được vai trò và vị trí của mình, nó cũng sẽ được nhân dân tích cực trau dồi, làm cho có quy chế, có chuẩn mực cả ở hình thức nói lẫn hình thức viết. Do vậy, nó được dùng trong mọi lĩnh vực giáo dục, văn hóa, văn học nghệ thuật, thông tin đại chúng... Từ đây, ngôn ngữ dân tộc của nhân dân được lựa chọn, được quy chế hóa để trở thành ngôn ngữ văn học của dân tộc mình.

4. Xem xét diễn tiến của ngôn ngữ loài người nói chung cũng như của một ngôn ngữ nói riêng, hầu như người ta hiếm gặp những trường hợp biến đổi và phát triển đơn tuyến. Những điều trình bày trên đây, quả thực đã có phần đơn giản hóa vấn đề đi rất nhiều để cho phù hợp với mục đích của chúng ta: chỉ quan sát những đường hướng khái quát và giản lược nhất mà thôi.

Dù sao thì ngôn ngữ cũng không bao giờ không biến đổi. Chỉ có điều, khi khảo sát diễn tiến của bất kì ngôn ngữ nào cũng vậy, cần lưu ý rằng:

a) Nó không phát triển, biến đổi theo phương thức đột biến và cách mạng, mặc dù luôn luôn biến đổi không ngừng.

b) Trong các quá trình biến đổi, do những tác động ảnh hưởng nhiều chiều, nhiều kiểu của nhiều nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ, thì ba mặt: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp của nó vẫn không biến đổi đồng đều như nhau. Để thực hiện được chức

năng làm công cụ giao tiếp và phản ánh, bảo đảm cho mọi người sử dụng có thể hiểu được nhau, mặt từ vựng của ngôn ngữ bao giờ cũng thay đổi nhanh nhạy nhất, mặt ngữ âm biến đổi chậm hơn rất nhiều so với từ vựng, còn ngữ pháp là bộ phận biến đổi chậm nhất và ít nhiều nó mang tính cách của một nhân tố, một thành phần bảo thủ.

Đối với việc nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của ngôn ngữ nói chung hay từng mặt, từng bộ phận của nó nói riêng, nhận thức đó là một trong những điều rất có ý nghĩa và cần thiết.

Chương IV PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮI. CÁC NGÔN NGỮ TRÊN THẾ GIỚIVÀ CƠ SỞ PHÂN LOẠI1. Hiện nay chưa có một ngôn ngữ chung cho tất cả mọi người trên trái đất,

mà, chỉ có những ngôn ngữ riêng, cụ thể của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng người.Theo thống kê mới đây, trên thế giới có khoảng 5.650 ngôn ngữ: Tuy nhiên,

con số này chưa phải là tuyệt đối chính xác, vì nó còn liên quan đến tiêu chí: thế nào là một ngôn ngữ độc lập. Trong số ngôn ngữ vừa nêu, có khoảng 1400 "ngôn ngữ" chưa phải những ngôn ngữ độc lập hoặc đang có nguy cơ bị tiêu biến.

Về mật độ phân bố, số lượng ngôn ngữ ở mỗi khu vực trên trái đất, cũng như số người sử dụng mỗi ngôn ngữ, rất không đồng đều. Chẳng hạn, chỉ riêng khu vực rừng núi Đông Nam Á đã có tới 180 ngôn ngữ khác nhau (có thể nói đó là một mật độ rất dày). Ở châu Úc, khoảng 250 ngôn ngữ chỉ có khoảng hơn 40.000 người sử dụng.

Trong xu thế ngày càng mở rộng quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia từ trước đến nay và từ nay về sau, việc dạy và học tiếng luôn luôn đồng hành với những việc thuộc loại phải đi trước một bước. Mặt khác, nghiên cứu lịch sử một dân tộc cũng không thể tách rời lịch sử ngôn ngữ của dân tộc đó. Bởi vậy, ngôn ngữ học đã lưu tâm nghiên cứu, so sánh, phân loại các ngôn ngữ để giúp tìm ra những con đường tối ưu cho công việc đó.

2. Việc phân loại các ngôn ngữ có thể dựa vào những tiêu chí bên ngoài chúng như: số lượng người nói, chủng tộc, ranh giới địa lí... Thế nhưng, những cách làm đó ngay từ đầu đã bộc lộ sự thiếu nghiêm chỉnh, thiếu khoa học và không đem lại lợi ích gì.

Vì vậy, người ta phải dựa vào những tiêu chí ở ngay trong bản thân ngôn ngữ.3. Khi phân loại các ngôn ngữ, người ta buộc phải so sánh chúng với nhau, bởi

vì "chúng ta nhận thức mọi điều trong thế giới này, không có con đường nào khác là thông qua so sánh" (K.D. Usinxku).

Những phương pháp cơ bản thường được áp dụng trong so sánh ngôn ngữ là:

3.a. Phương pháp so sánh lịch sử. Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho nghiên cứu, phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn. Mục đích của nó là phát hiện những nét phản ánh quan hệ thân thuộc, gần gũi về nguồn gốc giữa các ngôn ngữ để quy chúng vào những phổ hệ ngôn ngữ cụ thể khác nhau.

3.b. Phương pháp so sánh loại hình. Phương pháp này chủ yếu áp dụng cho nghiên cứu, phân loại các ngôn ngữ theo loại hình. Mục đích chính của nó là nghiên cứu những đặc trưng của các loại hình ngôn ngữ và nghiên cứu những đặc trưng về mặt loại hình của các ngôn ngữ, để quy các ngôn ngữ cụ thể vào những loại hình khác nhau.

3.c. Phương pháp so sánh đối chiếu.Phương pháp này áp dụng cho việc đối chiếu các ngôn ngữ khác nhau, bất kể chúng có quan hệ nào về mặt cội nguồn hoặc loại hình hay không. Nó không nhằm phát hiện quan hệ cội nguồn hay sự tương đồng về loại hình giữa các ngôn ngữ đó; mà nhằm vào mục đích phát hiện những tương đồng và khác biệt chủ yếu trên diện đồng đại ở một hay nhiều bình diện, bộ phận của các ngôn ngữ đó.

Ví dụ, người ta có thể đối chiếu ngay tiếng Anh ở nước Anh với tiếng Anh ở Hoa Kì và thấy rằng có nhiều dị biệt trong việc dùng giới từ. Không phải là ít trường hợp, khi người Anh dùng giới từ in thì người Mĩ lại dùng on

in the Streeton the Streetin the train...on the train...Về từ vựng ngữ nghĩa cũng vậy. Cũng là tiếng Anh cả, nhưng nếu người Anh

dùng subway với nghĩa là "đường ngầm dành riêng cho người đi bộ" thi người Mĩ lại dùng nó với nghĩa là "đường xe điện ngầm". Trong khi đó, để chỉ "đường xe điện ngầm” người Anh từ underground hoặc tube. Cùng là cái vỉa hè, người Anh gọi là pavement, còn người Mĩ lại gọi là sidewalk.

Đối với phương pháp so sánh đối chiếu, cần chú ý phân biệt ngôn ngữ là đối tượng nghiên cứu (A) với ngôn ngữ là phương nghiên cứu (B). Nếu A là đối tượng nghiên cứu thì B chỉ là cái đưa ra đối sánh với A để làm sáng tỏ những điều mà người nghiên cứu cần quan tâm trong A mà thôi. Chẳng hạn, người ta có thể đối chiếu hệ thống ngữ âm tiếng Việt với một hệ thống ngữ âm X nào đó để dạy tiếng Việt cho người dùng tiếng X là ngôn ngữ mẹ đẻ; hoặc có thể đối chiếu những vấn đề ngữ pháp như: thời gian của thời, các ý nghĩa của các thể... trong tiếng Anh, tiếng Nga với tiếng Việt, để góp phần dạy tiếng Anh, tiếng Nga cho người Việt được tốt hơn.

II. PHÂN LOẠI CÁC NGÔN NGỮ THEO CỘI NGUỒN

Tiền đề cho cách phân loại nàyViệc phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn dựa trên những ti để chính sau

đây:1.a. Trong lịch sử, có những ngôn ngữ mà vì một lí do nào đó đã bị chia tách

ra thành nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ bị chia tách đó thường được gọi là ngôn ngữ mẹ hay ngôn ngữ cơ sở. Như vậy, về nguyên tắc, có thể tìm tòi ngược dòng thời gian lịch sử của những ngôn ngữ được giả định là vốn cùng "sinh ra" từ một ngôn ngữ mẹ, để quy chúng vào những nhóm, những chi, những ngành, những dòng... khác nhau, tùy theo mức độ quan hệ thân thuộc nhiều hay ít.

Ví dụ, các ngôn ngữ quanh sa mạc Sahara thuộc họ ngôn ngữ hiện nay, là kết quả của sự chia tách một ngôn ngữ chung: thời xa xưa. Còn ở Việt Nam, có thể quy tiếng Việt và tiếng Mường vào một nhóm gọi là nhóm các ngôn ngữ Việt - Mường cùng với các tiếng như: tiếng Chứt, tiếng Nguồn...

1.b. Ba mặt: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp của ngôn ngữ và các tiểu hệ thống của nó biến đổi không đồng đều, có những mặt, những yếu tố, những bộ phận được bảo toàn rất lâu dài; nhưng cũng có những yếu tố, những bộ phận đã biến đổi với những mức độ khác nhau. "Hầu như trong mỗi từ hoặc mỗi hình thức của từ lúc nào cũng có một cái gì đó mới và một cái gì đó cũ".

1.c. Sự biến đổi ngữ âm (điều cần tìm kiếm đầu tiên trong khi nghiên cứu quan hệ cội nguồn của ngôn ngữ) không phải là những biến đổi hỗn loạn mà thường có lí do, có quy luật và theo hệ thống. Ví dụ tiếng Việt cổ có âm (ml); hiện nay ở tất cả mọi trường hợp, âm này đã biến đổi thành âm (nh) ở Bắc Bộ và âm (l) ở Bắc Trung Bộ, Nam Bộ. Hãy so sánh:

mlờinhờilờimlỡnhỡlỡmlàinhài (quạt)làimlátnhát (chém)lát1.d. Tiền đề quan trọng nhất là tính võ đoán trong quan hệ ngữ âm với ý

nghĩa. Chẳng hạn giữa khái niệm "cây" và âm "CÂY" trong tiếng Việt không hề có

mối quan hệ tự nhiên nào quy định lẫn nhau, vì vậy, nếu hai, ba ngôn ngữ mà không có quan hệ gì với nhau về cội nguồn thì để gọi tên cùng một vật, hiện tượng, chúng thường có những từ khác nhau. (Từ tree của tiếng Anh với từ cây của tiếng Việt là như vậy).

Bởi thế, ta có quyền giả định rằng: những từ gần gũi nhau về âm thanh, có liên quan hoặc gắn bó với nhau ở ý nghĩa thường luôn luôn bắt nguồn từ cùng một gốc nào đó. Có thể đưa ra một số ví dụ trong các tiếng Việt, Mường, Chứt, Môn, Khmer để so sánh như sau:

Việt: một, ba, nước, tay, đầu, tócMường: mộc, pa, đak, thai , tlôk, thakChứt: Môch, pa, đak, si, kulôk, usukMôn: mual, pi, đak, tai, kduk, sokKhmer: Muôi, bây, tuk, dây, kbal, sof2. Khi so sánh các ngôn ngứ cần phải lưu ý những gì.Nếu không thận trọng giữa các sự kiện ngôn ngữ đưa ra để so sánh có thể

chúng ta dễ mắc phải sai lầm vì bị chúng đánh lừa ở B vẻ giống nhau hoặc khác nhau bề ngoài. Bởi thế khi so sánh, cần phải luôn luôn để ý tới những điểm sau đây:

2a. Việc so sánh được tiến hành không thể chỉ căn cứ vào riêng một mặt ngữ âm hay ngữ pháp, vì:

a.1 Những đặc điểm trong cơ cấu ngữ âm hay ngữ pháp của ngôn ngữ, mặc dù nhiều nhưng cũng chỉ là hữu hạn, Do đó, có thể có những đặc điểm, hiện tượng cùng hiện diện trong nhiều ngôn ngữ khác nhau mà chắc chắn những ngôn ngữ đó lại không có quan hệ gì với nhau về mặt cội nguồn. Như V. B.Kasevich cho biết chẳng hạn, nhiều ngôn ngữ ở Đông Nam Á và Tây Phi đều có thanh điệu; và thậm chí chúng còn có cả những điểm giống nhau đến kì lạ về ngữ pháp; nhưng rõ ràng là không có lí do gì để khẳng định rằng chúng có quan hệ họ hàng (cội nguồn) với nhau.

a.2 Đôi khi ngược lại, có những ngôn ngữ chắc chắn có quan hệ họ hàng với nhau, nhưng trong cấu trúc của chúng lại có những khác biệt rất đáng kể. So sánh tiếng Nga, tiếng Bungari, tiếng Asam và tiếng Hinđu, người ta thấy tiếng Bungari và tiếng Asam có tính phân tích trội hơn tiếng Nga và tiếng Hinđu mặc dù tiếng ra với tiếng Bungari, tiếng Hinđu với tiếng Asam, từng đôi một quan hệ thân thuộc, cội nguồn.

2.b. Các từ cảm thán, từ tượng thanh, từ trùng âm ngẫu nhiên thường là rất ít, ví dụ động từ cắt trong tiếng Việt và cut trong Tiếng Anh; từ mata trong tiếng Mã Lai với từ mati trong tiếng “Hi Lạp đều có nghĩa là "mắt"...; từ vay mượn (ngôn ngữ nào cũng: đều phải gạt ra ngoài, khi tiến hành công việc khảo sát ở đây. Chúng không

có giá trị làm căn cứ cho các đánh giá và kết luận. Nếu dựa vào chúng, người nghiên cứu sẽ bị dẫn vào những kết luận sai lạc hết sức nguy hại; thậm chí thiếu đúng đắn.

2.c. Nghiên cứu cội nguồn ngôn ngữ phải chú ý trước hết tới những từ cơ bản. Đó là bộ phận từ vựng bền vững nhất, có lịch sử xa xưa nhất, được mọi người, mọi nơi, vào mọi lúc đều có thể sử dụng (Ví dụ: các từ chỉ số đếm, chỉ bộ phận thân thể, chỉ hành động cơ bản, của con người, chỉ quan hệ gia đình, chỉ các hiện tượng tự nhiên, chỉ những sự vật thiết yếu trong đời sống con người...). Vì thế, điều quan trọng là chúng có thể bảo lưu được, hoặc phản ánh được những yếu tố, những đặc điểm chắc chắn là cổ xưa.

2.d. Các sự kiện đưa ra làm cứ liệu so sánh không đòi hỏi phải giống nhau hoàn toàn về mọi mặt (nhiều khi sự giống nhau hoàn toàn lại không có ích gì, vì chẳng nói lên được cái gì cả). Cái mà người nghiên cứu phải tìm tòi ở đây là khảo sát xem chúng (các ngôn ngữ) có những tương ứng với nhau trong hàng loạt trường hợp hay không. Chính các thế tương ứng đó lại là những chứng cứ rõ ràng nhất, tốt nhất về quan hệ họ hàng giữa các ngôn ngữ. Ví dụ, âm đầu /y/ và /ft/ của tiếng Việt tương ứng với âm đầu /k/ và /tl/ của tiếng Mường trong hàng loạt từ sau đây, là rất giá trị.

Việt: gà, gạo, gốc, gái.Mường: ka, káu, kôk, káyViệt: trứng, trèo, trả, tre..Mường: tláng, tleo, tlả, tle2.e. Khi xác lập được những dãy sự kiện trong hai ngôn ngữ và chứng minh

được rằng những dãy đó có quan hệ nguồn gốc với nhau, thì điều này vẫn chưa đủ để nói là hai ngôn ngữ có quan hệ họ hàng. Ta phải luôn luôn cảnh giác ở chỗ này vì dễ bị nhầm lẫn.

Hàng loạt từ gốc Hán trong tiếng Việt khi so với tiếng Hán là như vậy. Chúng có mặt trong tiếng Việt là do vay mượn, tiếp xúc chứ không phải do tiếng Hán với tiếng Việt là có cùng một cội nguồn. Ví dụ: cận-gần; kính-gương; can-gan; kiếm-gươm; kíp-gấp...

3. Để so sánh và phân loại ngôn ngữ theo nguồn gốc thì phải làm những gì. Có rất nhiều việc phải làm, mà những công việc đó đòi hỏi phải có sự tỉ mỉ, thận trọng cần thiết, trên đại thể, có thể quy về ba việc quan trọng nhất, ứng với ba bước sau đây.

3.a Chọn sự kiện (cái đưa ra để so sánh) và lập thành những những dãy tương ứng với nhau. Cái được đưa ra để lập thành các dãy tương ứng đó phải là từ hoặc hình vị; bởi vì đây là những đơn vị tối thiểu. được xét ở cả hai mặt: ý nghĩa và âm thanh.

Điều quan trọng nhất là phải xem xét những tương ứng tìm tòi hiện diện đều đặn trong hàng loạt trường hợp hay không. Người ta đã phát hiện các tương ứng phụ âm /0/ và /d/; /tw/ và /tsv/; /p/ và /pf/... giữa tiếng Anh và tiếng Đức qua các dãy từ như:

Anh: thick, thing, bath,...twice, twelve, twenty,…Đức: dic, ding, bad,...zweiman, zwolf, zwanzigr…- Khi so sánh các loại từ có âm đầu /k’/ hoặc /tl/ của tiếng Mường với hàng loạt

từ có âm đầu /S/ hoặc /t/ trong tiếng Việt có người ta kết luận được rằng tiếng Mường và tiếng Việt cổ tương ứng/k’/ hoặc /tl/, /S/ hoặc /t/.

Cần lưu ý một tình hình đặc biệt là: hiện tượng vay mượn từ giữa các ngôn ngữ thì rất hay gặp; nhưng vay mượn một hình thức ngữ pháp thì cực kì hiếm hoi. Vì thế, nếu tìm được những tương ứng thuộc lĩnh vực ngữ pháp (hình thái học) giữa hai ngôn ngữ thì sự tương ứng đó rất có giá trị. Chẳng hạn, so sánh hệ hình thái tiếng Anh với tiếng Đức, ta thấy rõ là có những tương ứng đều đặn sau đây:

Tiếng Anhsing-sang-sungdrink-drank-drunksink-sank-sunksmall-smaller-smallestquick-quicker-quickest rich-richer-richest Tiếng Đứcsing-sang-gesungentrink-trank-getrunkensink-sank-gesunkenklein-kleiner-kleinsteschnell-schneller-schnellste reich-reicher-reichste.3.b. Xác định niên đại và phục nguyên.b.1. Sau khi lập được những thế tương ứng của các yếu tố, các dạng, người ta

tiến tới xác định xem dạng nào cổ hơn dạng nào; hay là cả hai cùng bất nguồn từ một dạng thứ ba cổ hơn. Có làm như thế mới tái lập được dạng cổ của chúng. Mỗi dạng được xác định là cổ hơn và vừa tái lập được, phương pháp so sánh lịch sử gọi là một nguyên hình; và khi ghi chúng lên mặt giấy, người ta thường đánh một đầu (*) ở đằng trước. ví dụ: *taner, *bl, *kl, *kr...

Thực ra, phục nguyên các nguyên hình là các công việc tốn nhiều công sức nhất và đòi hỏi phải tỉ mỉ. Ta có thể quan sát quá trình phục nguyên Ấn Âu của số từ

bảy qua các từ tương ứng của tiếng Hi Lạp, Latin và Sanskrit; để có một hình dung sơ qua về sự phức tạp đầy thú vị của nó.

1+ Trước hết, nhìn vào các từ tương ứng ta thấy dạng của chúng như sau:Sanskrit: SaptaHi Lạp: heptaLatin: Septem.Lập bảng đối chiếu thành phần âm thanh các từ và theo nguyên tắc số đông

ta được:s a p t a 0h e p t a 0s e p t e mNhìn theo cột dọc, số đông sẽ cho phép ta phục nguyên được dạng cổ của

chúng là *Septa.2 + Bây giờ ta xem xét các khả năng biến đổi âm vị học có cho phép ta phục

nguyên được như thế hay không./S/ - /h/ (+)/a/ - /e/ (+)/e/ - /a/ (+)/0/ - /m/ (-)Trên thực tế, không thể có khả năng ở dạng gốc có âm cuối zero, rồi về sau

zero biến đổi thành /m/. Vậy chỉ có thể nghĩ tới khả năng vốn xưa nó có /m/ rồi âm này bị rụng đi. Vì thế dạng phục nguyên cần sửa lại là *Septam.

3+ Cuối cùng, ta phải kiểm tra xem những biến đổi được ta định lạ như thế..., như thế... có phù hợp hay không với những biến đổi mẫu mưc, đã được khẳng định là chắc chắn có trong các ngôn ngữ đó.

* /S/ Ấn Âu =>/b/Hi Lạp(+)* /e/ Ấn Âu =>/a/Sanskrit(+)* /a/ Ấn Âu =>/0/Latin (+)* /m/ Ấn Âu=>/0/Sanskrit(-)Hi Lạp(-)Người ta thường thấy tiếng Hi Lạp và Sanskrit thường không: hiện tượng

rụng /m/ ở cuối từ. Vậy cái dạng vừa được sửa chữa *Septam là không chấp nhận được. Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, người ta đã phát hiện ra hiện tượng /a/ trong tiếng

Hi Lạp và Sanskrit đôi khi lại có nguồn gốc từ âm /m/ Ấn Âu mà ra. Đó là một âm mang tính chất nửa nguyên âm, nửa phụ âm, và chính nó đã biến thành /em/ trong tiếng Latin. Đến đây, thế là rõ. Dạng tái lập (phục nguvên) cuối cùng phải là *Septem.

b.2. Từ chỗ phục nguyên được dạng cổ, so sánh với các dạng có sau, ta mới vạch ra được các sự kiện ngôn ngữ đã diễn biến trong lịch sử như thế nào. Mặt khác, lại phải có gắng phục nguyên được càng nhiều sự kiện ngôn ngữ và càng toàn diện ở các mặt của cấu trúc ngôn ngữ càng tốt; để tiến tới mục tiêu lí tưởng là phục nguyên được cấu trúc hoàn chỉnh của ngôn ngữ mẹ (ngôn ngữ nguyên sơ) ban đầu.

3.c. Căn cứ vào kết quả của hai bước làm việc trên đây và cân nhắc tới nhiều phương diện khác bằng những phương pháp và thủ tục cụ thể (nhiều khi rất phức tạp) người ta mới xác định được mức độ thân thuộc nhiều hay ít giữa các ngôn ngữ, để làm một việc có thể coi là cuối cùng trong nghiên cứu cội nguồn, là quy chúng vào nhóm nào trong các chi (nhánh) thuộc ngành và dòng nào trong các ngữ hệ (họ ngôn ngữ).

Một ngữ hệ thường được biểu diễn dưới dạng sơ đồ hình cây và được gọi là cây ngữ hệ hoặc cây ngữ tộc. Chẳng hạn, người ta đã dựng cây ngữ hệ Ấn Âu; hoặc M.Ferlus đã dựng cây ngữ hệ của ngữ hệ Nam phương như sau:

4. Kết quả phân loại.Kết quả của việc phân loại các ngôn ngữ theo cội nguồn cho ta ngữ hệ. Trong

mỗi ngữ hệ lại phân chia ra các dòng. Từ các dòng chia ra các ngành, rồi các ngành chia ra các chi nhánh. Mỗi chi (nhánh) lại còn có thể chia ra các nhóm gồm những ngôn ngữ cụ thể.

Hiện nay, các nhà nghiên cứu đã xác định được nhiều ngữ hệ mà trong số đó, có những ngữ hệ lớn thường hay được nhắc như:

4 1. Ngữ hệ Ấn Âu. Ngữ hệ này gồm những dòng chính như: dòng Ấn Độ, dòng Iran, dòng Bantic, dòng Slave, dòng German, dòng Roman, dòng Hi Lạp, Anbani...

Tiếng Nga, Ba Lan, Chee, Slovac, Bungari... thuộc dòng Slave. Tiếng Anh, Đức, Hà Lan... thuộc dòng German. Tiếng Latin, Italia, Pháp. Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Rumani... thuộc dòng Roman.

4 2. Ngữ hệ Sêmít có các dòng chính như: dòng Sêmít, dòng Ai Cập, dòng Kusit, dòng Becbe, dòng Sát-Hamít.

4 3. Ngữ hệ Thổ (Nhĩ Kì) gồm các ngôn ngữ như: Thổ Nhĩ Kì, Kiếcghiđi, Tácta, Azecbaizan...

4 4. Ngữ hệ Hán - Tạng có các dòng chính như: dòng Hán, dòng Tạng-Miến...

4 5. Ngữ hệ Nam phương gồm các dòng chính như: dòng Nam Thái (Austro Thái), dòng Nam Á (Austroasiatique). Trong dòng Nam Á có các ngành: Nahali, Munđa, Nicôba và Môn - Khmer.

Theo M. Ferlus và một số nhà nghiên cứu khác trong và ngoài Việt Nam, tiếng Việt, tiếng Mường nằm trong nhóm Việt - Mường, ngành Môn - Khmer thuộc dòng Nam Á cùng với các nhóm ngôn ngữ Ba Na, Kha Mú, Ka Tu, Khmer... trong ngữ hệ Nam phương Austrique).

II. PHÂN LOẠI NGÔN NGỮ THEO LOẠI HÌNH1. Phương pháp và mục đíchMỗi cách phân loại ngôn ngữ dùng một phương pháp so sánh khác nhau. Phân

loại theo cội nguồn thì như trên đã nói dùng phương pháp so sánh lịch sử làm căn bản, để tìm cội nguồn và quan hệ cội nguồn của các ngôn ngữ.

Nghiên cứu phân loại các ngộn ngữ theo loại hình thì dùng phương pháp so sánh loại hình. Từ đây đã hình thành bộ môn loại hình học. Một trong những mục đích quan trọng ở đây là xác định các kiểu loại hình (typs) ngôn ngữ dựa trên những dấu hiệu cấu trúc cơ bản của chúng, rồi phân loại, sắp xếp các ngôn ngữ vào các loại hình ấy.

Một "loại hình ngôn ngữ" thường được biểu hiện là một cái mẫu trừu tượng, trong đó bao gồm một hệ thống các đặc điểm có liên quan với nhau, chi phối lẫn nhau, cái này đòi hỏi phải có cái kia hoặc giả định sự vắng mặt của cái kia... (Ví dụ, nếu một loại hình ngôn ngữ nào đó có phạm trù cách hoặc giống thì người ta suy ra được rằng thế nào nó cũng có phạm trù số)

Muốn xác định loại hình và phân loại theo loại hình, người ta phải áp dụng các thủ pháp làm việc của loại hình học, phân tích so sánh các sự kiện để phát hiện sự đẳng cấu (isomorphism) trong các ngôn ngữ.

Nếu so với nghiên cứu ngôn ngữ khu vực và sự tiếp xúc ngôn ngữ thì rõ ràng là so sánh loại hình có những yêu cầu riêng. Nghiên cứu ngôn ngữ khu vực và sự tiếp xúc ngôn ngữ áp dụng phương pháp so sánh vừa có nét giống với so sánh lịch sử, lại vừa có nét giống với so sánh loại hình. Mục đích của nó không thuần túy chỉ là đi tìm quan hệ nguồn gốc hay quan hệ đẳng cấu về mặt loại hình. Nó đi tìm kiếm và phát hiện sự giống nhau cũng như những xu thế phát triển gặp nhau giữa các ngôn ngữ trong vùng nhờ sự tiếp xúc văn hda hoặc vị trí gần nhau giữa các dân tộc trong khu vực.

2. Kết quả phân loạiHiện nay, bảng phân loại các ngôn ngữ gồm bốn loại hình: loại hình hòa kết,

chắp dính, đơn lập, đa tổng hợp; đã được đa số các nhà nghiên cứu chấp nhận.56

2.1. Loại hình ngôn ngữ hòa kết (fỉexional)Loại hình ngôn ngữ này có một tên gọi khác nữa, cũng tương đối phổ biến là

loại hình khuất chiết. Nó bao gồm chủ yếu các ngôn ngữ thuộc, ngữ hệ Ấn Âu, ngữ hệ Sêmít và một số ngôn ngữ: châu Phi.

Loại hình này thể hiện ba đặc trưng cơ bản sau đây:a) Trong hoạt động ngôn ngữ, từ cổ biến đổi hình thái, tức là từ nọ đòi hỏi từ

kia sự hợp dạng. Điều này cũng có nghĩa rằng, ở đây, ý nghĩa ngữ pháp của từ, các quan hệ ngữ pháp của từ, được thể hiện ngay trong bản thân từ.

Các biến đổi: i-me; he-him, they-them...work-worked; play-played...Trong tiếng Anh, cũng để phục vụ cho yêu cầu hợp dạng như vậy.Ngoài sự biến đổi bằng các biến tố ở cuối từ cho hợp dạng, các ngôn ngữ hòa

kết còn có nhiều hiện tượng được gọi là "biến tố bên trong" cũng với mục đích như vừa nêu trên. Chẳng hạn có thể kể ra:

- Biến đổi số ít - số nhiều của danh từman- men; goose geese... (tiếng Anh)- Biến đổi thời hiện tại - quá khứ của động từ:take -took; see- saw... (tiếng Anh)- Biến đổi thể hoàn thành - thể chưa hoàn thành:b) Sự đối lập căn tố - phụ tố trong các ngôn ngữ hòa kết là rất rõ rệt. Mặt

khác, chúng được kết hợp với nhau rất chặt đến nỗi căn tố cũng không thể đứng một mình, mà chỉ tồn tại và hoạt động được khi đi kèm với phụ tố mang những ý nghĩa ngữ pháp nhất định. Ngược lại, phụ tố lại cũng chỉ thể hiện được các ý nghĩa ngữ pháp (một cách xác định) khi chúng kết hợp với căn tố. Ví dụ , trong tiếng Nga, căn tố pyK- phải đúng trong kết hợp với phụ tố -a (hoặc -e - y- om) và ngược lại các phụ tố đó cũng phải trong kết hợp với căn tố pyK để cho các hình thái: pyKa, pyKe, pyKCLM... thì chúng mới tồn tại và hoạt động được.

c) Trong các ngôn ngữ thuộc loại hình hòa kết, một ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu hiện bằng nhiều phụ tố; và ngược lại, nhiều ý nghĩa ngữ pháp có thể được biểu diễn đồng thời bằng một phụ tố. Tức là ở đây, sự tương ứng giữa phụ tố với ý nghĩa ngữ pháp không phải là một đối một một cách chặt chẽ.

Khi nghiên cứu các ngôn ngữ hòa kết, người ta còn chia chúng thành hai nhóm (hai tiểu loại hình) gọi là nhóm các ngôn ngữ hòa kết phân tích và nhóm các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp.

Các ngôn ngữ hòa kết phân tích (điển hình là tiếng Anh; và trong chừng mực đáng kể, kể cả tiếng Pháp nữa) giảm bớt sự biến đổi hình thái của từ và tăng cường sử dụng từ hư, trật tự từ, ngữ điệu... để diễn đạt các quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp. Nói cách khác, chúng gia tăng các phương tiện bên ngoài từ để thể hiện các ý nghĩa đó.

Ví dụ 1. Dùng từ hư trong tiếng Pháp, tiếng Anh:L’ami-les ami; la maison - les maisons... (tiếng Pháp) shall, will + V (động từ)... (tiếng Anh)Ví dụ 2 . Dùng trật tự từ trong tiếng Pháp, tiếng Anh: papier de décor - décor de papier... (tiếng Pháp)tap water - water tap; garden flower - flowergarden... (tiếng Anh)Ví dụ 3. Dùng ngữ điệu trong tiếng Anh:Các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp, ngược lại, mang đầy đủ ba đặc trưng loại hình

cơ bản nêu trên; và tăng cường tính tổng hợp với tất cả sức mạnh và sự nổi trội của chúng.

Nhóm các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp bao gồm các ngôn ngữ dòng Slave Nói chung,, cùng với tiếng Đức, tiếng Latin, tiếng Hi Lap cổ, tiếng Sanskrit, nhiều ngôn ngữ dòng Roman (trừ tiếng Anh, tiếng Pháp), các ngôn ngữ họ Sêmít như tiếng Arập, tiếng Do Thái cổ... Điển hình nhất cho nhóm ngôn ngữ này mà chúng ta quen biết là tiếng Nga.

2.2. Loại hình ngôn ngữ chắp dính (agglutinate)Nếu trong một ngôn ngữ có hiện tượng cứ nối tiếp thêm một cách máy mốc,

cơ giới vào căn tố nào đó một hay nhiều phụ tố; mà mỗi phụ tố đó lại chỉ luôn luôn mang một ý nghĩa ngữ pháp nhất định thôi; thì người ta bảo hiện tượng đó là hiện tượng chắp dính; hoặc hiện tượng thể hiện tính chắp dính.

Loại hình ngôn ngữ chắp dính bao gồm những ngôn ngữ có tính chắp dính. Loại hình này có ba đặc điểm cơ bản nhất là:

a) Quan hệ ngữ pháp và ý nghĩa ngữ pháp của từ được biểu diễn ngay trong bản thân từ bằng phương tiện phụ tố. Điều này cũng giống với các ngôn ngữ hòa kết. Ví dụ một ngôn ngữ họ Thổ dùng hậu tố -lar hoặc -dor để thể hiện ý nghĩa ngữ pháp số nhiều của danh từ.

adam (người đàn ông)- adamlar (những người đàn ông)kadin (người đàn bà)- kadinlar (những người đànbà)coi (bàn tay)- coldor (những bàn tay)

b) Căn tố nói chung hầu như không biến đổi hình thái và có thể tồn tại, hoạt động độc lập được khi không có phụ tố đi. kèm Điều này khác với căn tố của ngôn ngữ loại hình hòa kết: căn tố ở đây có thể hoạt động tách biệt với phụ tố. So sánh:

adam- adamlarCol- ColdorEv- Evlerc) Mỗi phụ tố chắp dính luôn luôn chỉ biểu diễn một ý nghĩa ngữ pháp; và

ngược lại, mỗi ý nghĩa ngữ pháp bao giờ cũng được biểu thị bằng một phụ tố riêng. Bởi thế, trong hoạt động ngôn ngữ, độ dài của từ có thể tương đối lớn; vì các phụ tố cứ được nối tiếp vào căn tố một cách "tự động" để biểu diễn cho đủ những ý nghĩa ngữ pháp cẩn thiết phải diễn đạt.

Ví dụ:Ev: căn phòngEvi: căn phòng của tôiEviden: từ căn phòng của tôi (ra) Evleriden: từ những căn phòng của tôi (ra)Các ngôn ngữ họ Thổ (như tiếng Thổ Nhĩ Kì, Kazak, Kiecghidi, Tuormenia,

Azecbaizan, Kazan -Tacta...). Các ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Ugô- Phần Lan, tiếng Ban Tu ở châu Phi... là những ngôn ngữ điển hình cho loại hình chắp dính. Ngoài ra, tiếng Mông Cổ, Nhật Bản, Triều Tiên, một số ngôn ngữ của thổ dân châu úc, châu Mĩ, cũng được một vài nhà nghiên cứu xếp vào loại hình này.

2.3. Loại kình ngôn ngữ đơn lập (isolate)Bên cạnh tên gọi dơn lập thường dùng, loại hình ngôn ngữ này còn được gọi là

ngôn ngữ phi hình thải, ngôn ngữ không biến hình, ngôn ngữ dơn tiết, phàn tiết... tùy theo người ta nhấn mạnh vào đặc trưng này hay đặc trưng kia của chúng.

Tiếng Việt, tiếng Hán và các ngôn ngữ vùng Đông Nam Ấ được coi là tiêu biểu cho loại hình ngôn ngữ đơn lập; đặc biệt là tiếng Việt và tiếng Hán cổ đại. Ngoài ra loại hình này cũng bao gồm cả tiếng Aranta ở châu úc, tiếng Êvê, tiếng Joruba ở châu Phi.

Loại hình ngôn ngữ đơn lập thể hiện 4 đặc điểm chính.a) Trong hoạt động ngôn ngữ, từ không biến đổi hình thái; tức là chúng không

đòi hỏi ở nhau sự hợp dạng như trong các ngôn ngữ hòa kết. So sánh: Tôi nhìn họHọ nhìn tôi

(Các từ tôi, họ làm chủ ngữ hay bổ ngữ đều không biến đổi hình thái, đông từ cũng không biến đổi theo ngôi, số của chủ ngữ… Trong khi đó, ở tiếng Anh chắc chắn phải có sự biến đổi I-me, they-them)

b) Các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp được biểu thị chủ yếu bằng từ hư và trật tự từ. Ví dụ:

-Dùng từ hư:Người - những người (Việt)Rien- kompung rien – rien hơi (Khmer)Học- đang học – học rồi (Việt)-Dùng trật tự từCửa trước – trước cửa (Việt)Tiền môn – Môn tiền (Hán)Mdai top oi băư: Mẹ (vừa) mới cho bú (Khmer); Kon dzum top mdai oi băư: Con

có khóc mẹ mới cho bú.c) Nhiều ngôn ngữ trong loại hình đơn lập (điển hình là tiếng Hán, tiếng Việt

có một loại đơn vị đặc biệt thường được gọi là hình tiết. Hình tiế là đơn vị có nghĩa (hoặc luôn luôn có khả năng mang nghĩa mà vỏ âm thanh của nó lại trùng khít với một âm tiết ( đơn vị phát âm tự nhiên nhỏ nhất). Chính bởi vậy mà nó có khả năng khi thì được sử dụng, đi vào hoạc động vớ tư cách một từ, khi thì lại chỉ được dùng với tư cách yêu tố cấu tạo từ (hình vị). Ví dụ

Tiếng Việt: Tre-tre pheo; vàng – cá –cá vàng…Tiếng Hán:Hsien sheng – tiên sinh: (người) sinh trướcHsien sheng – tiên sinh: tự xưng gọi người đáng kính, sinh trước – ngàiThế cho nên, hệ quả là các ngôn ngữ trong loại hình này, việc xác định ranh

giới từ trong ngữ lưuu càng trở nên phức tạp và khó khă hơn; câu chuyện về phân định từ ở đây, cho đến nay vẫn còn có nhiều điều phải bàn đi tính lại. Chẳng hạn trong tiếng Việt, đứng trước các chuỗi hai hình tiết như: hờn giận, yêu thương, thương nhớ, trước sau, to béo, cao lớn, nhường nhịn, đi lại, ra vào... người ta thường phải biện luận không ít trước khi khẳng định một thái độ đối xử với chúng là một từ hay hai.

d) Hiện tượng cấu tạo từ bằng phụ tố rất ít hoặc hầu như không phát triển trong các ngôn ngữ đơn lập (ví dụ tiếng Việt, tiếng Mường). (Nói rằng rất ít, không có nghĩa là hoàn toàn không có. Ta cổ thể quan sát thấỵ một số phụ tố trong các tiếng như: Khmer, Chàm, Kơ Ho, Pa Kô-Taôih, Mnông - Preh... nhưng chúng ít và hoạt động yếu).

Vì thế quan hệ dạng thức (quan hệ về mặt hình thái) giữa các từ yếu đến mức dường như là chúng tổn tại rất "rời rạc", rất "tự do" trong câu. Có lẽ tên gọi rời rạc hay đơn lập (isolate) trước hết đã xuất phát từ tình hình đó. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, ta thấy hàng loạt những trường hợp như: cha mẹ - mẹ cha; trước sau - sau trước; làng xóm -xóm làng; bé nhỏ - nhỏ bé ... hoặc người bạn học.

—> (Người bạn học) ở đây. (Người bạn) học ở đây.Mặt khác cũng bởi tính hình thái của từ yếu như thế, quan hệ hình thái yếu

như thế, cho nên mới có người quan niệm rằng ngôn ngữ đơn lập là ngôn ngữ không cổ từ loại. Chẳng hạn, xem trong tiếng Việt.

- đẽo cày - đi cày ngoài đồng - cày ruộng- mua cá - cá khô —> Trên trời, dưới cá, chỗ nào cững cá, góc chợ nào cũng

cá.- Nhà này cũng gỗ lim cả.(Danh từ cá, cụm danh từ gỗ lim vừa đứng ở vị trí của danh từ lại vừa đứng

được ở vị trí điển hình của động từ.)2.4. Loại hình ngôn ngữ đã tổng hợp (polysynthetic)Các ngôn ngữ đa tổng hợp còn được gọi tên là ngôn ngữ hỗn nhập hay ngôn

ngữ lập khuôn, vì chúng có hai đặc điểm nổi bật như sau:a) Có một loại đơn vị đặc biệt, vừa là từ vừa là câu, được cấu trúc trên cơ sở

động từ. Trong đơn vị đó, có thể có mặt luôn cả bổ ngữ, trạng ngữ; và nhiều khi gồm cả chủ ngữ. Đơn vị đó, người ta gọi là đơn vị lập khuôn.

Như vậy ở đây có thể xem cơ cấu ngữ pháp của phát ngôn cũng đồng thời là cơ cấu ngữ pháp của từ.

Ví dụ: NitampendaTôi sẽ yêu nó.Atakupenda. Nó sẽ yêu anh.Trong hai phát ngôn này (cũng đổng thời là hai đơn vị lập khuôn- tiếng

Suakhili) đều có động từ (penda làm cơ sở. Chúng phát ngôn) bao gồm cả chủ ngữ a(nó), ni (tôi) lẫn bổ ngữ ku (anh) m (nó) và yếu tố chỉ thời của động từ: ta (sẽ).

b) Đặc điểm thứ hai như một hệ quả rút ra từ đặc điểm thứ nhất: Các ngôn ngữ đa tổng hợp vừa có nét giống với ngôn ngữ chấp dính ở chỗ: chúng cũng tiếp nối các hình vị vào với nhau; lại vừa có nét giống với các ngôn ngữ hòa kết ở chỗ: khi kết hợp các hình vị với nhau, có thể có biến đổi vỏ ngữ âm (dạng thức) của hình vị. So sánh:

AtakupendaNó - chủ ngữ = aNitampendanó - bổ ngữ = mTrên thực tế, tính đa tổng hợp (hỗn nhập, lập khuôn) của loại hình ngôn ngữ

này thể hiện ở một số lượng không nhiều các đơn vị lập khuôn. Nói cách khác, người ta ít gặp loại đơn vị này vì chúng chỉ chiếm khoảng 2 - 3% tổng số từ mà thôi. Chính vì lẽ: mà đã có những ý kiến phê phán việc tách các ngôn ngữ đa tổng hợp như trên thành một loại hình riêng.

Những nhà nghiên cứu chủ trương xác lập loại hình này và tách nó riêng biệt ra, thường quy vào đây các ngôn ngữ: Sucôt, Camsat, Suakhili, một số ngôn ngữ vùng Capcaz và một số ngôn ngữ Á cổ.

3. Ghi chú thêm cho cách phân loại theo loại hìnhỞ mức lí tưởng, mỗi loại hình ngôn ngữ phải là một cái mẫu trong đó bao gồm

một hệ thống thuần khiết các đặc điểm đặc thù cho loại hình đó. Thế nhưng thực tế tình hình bức tranh phân loại lại không đơn giản vậy. Trước hết, ranh giới loại hình không phải là một bức tường thành "bất khả xâm phạm". Không phải rằng: một ngôn ngữ đã thuộc một loại hình thì tất cả mọi yếu tố trong hệ thống và cấu Trúc của nó đều phải mang đặc điểm của loại hình đó; mà ngược lại, một ngôn ngữ thuộc loại hình này vẫn có thể "để lọt" vào trong mình những hiện tượng, những yếu tố mang đặc trưng của loại hình khác; chỉ có điều, những hiện tượng và yếu tố đó gồm một số lượng nhỏ, đồng thời không đủ "tính trội" để "phá vỡ những đặc trưng loại hình điển hình của nó” mà thôi. Ta có thể thấy điều đó qua phân tích vài ví dụ.

Ví dụ 1. Trong tiếng Nga, một ngôn ngữ hòa kết điển hình, người ta vẫn gặp hiện tượng mang tính phân tích, hoạt động theo cơ chế phân tích tính, thể hiện ý nghĩa ngữ pháp "một cách đơn lập".

Ví dụ 2. Hiện tượng thêm đuôi biểu thị ý nghĩa phản thân cho động từ tiếng Nga; hoặc thêm đuôi -ed để biểu diễn ý nghĩa quá khứ cho động từ tiếng Anh... Chúng ta đều biết rõ cả: wanted, loved, sarted...

Người ta bảo đó là những hiện tượng mang tính chắp dính lọt vào trong hai ngôn ngữ thuộc loại hình hòa kết này; bởi vì yếu tố -ed được tiếp hợp vào động từ "một cách chắp dính".

Tuy có những điều như trên, nhưng việc phân loại ngôn ngữ theo loại hình vẫn không bị ảnh hưởng gì. Ngay cả việc tách ra nhóm các ngôn ngữ hòa kết phân tích và nhóm các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp cũng vậy: các ngôn ngữ hòa kết phân tích thì bớt đặc trưng và mức độ tổng hợp tính, tăng cường đặc trưng phân tích tính; còn các ngôn ngữ hòa kết tổng hợp thì lại giảm bớt tối đa các biểu hiện phân tích tính và

tăng cường triệt để các đặc trưng tổng hợp tính. Không phải vì một vài hiện tượng "khác lạ" hoặc "để lọt vào" mà có thể làm phá vỡ được những đặc trưng loại hình của một ngôn ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẤO CHÍNH (PHẦN I)1. J. Aitchison. Ngôn ngữ học đại cương. STPaul’s house warwichk lanc. Lon

don EC41972 (tiếng Anh)2. V.G.Gak. Ngữ pháp lí thuyết tiếng Pháp, Nxb Đại học Moskva, 1979 (Tiếng

Nga)3. B. N. Golovin. Dẫn luận ngôn ngữ học Nxb Đại học, Moskva, 1983 (Tiếng

Nga)4. Hoàng Thị Câu. Tiếng Việt trên các miền đất nước. Nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội, 1989.5. L Hjelmslev. Ngôn ngữ. Bản dịch Tiếng Việt – Đại học Tổng hợp, Hà Nội,

1973.6. V.I Kodukov. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, Moskva, 1979 (tiếng

Nga).7. G.A. Klimov . Âm vị và hình vị. Nxb Khoa học, Moskva, 1967 (Tiếng Nga)8. V.A. Kochergina. Dẫ luận ngôn ngữ học, Nxb Đại học Tổng hợp Moskva,

1979( Tiếng Nga)9. Triệu Nguyên Nhiệm. Ngôn ngữ và các hệ thống biểu trưng. Bản dịch Tiếng

Việt – Đại học Tổng hợp Hà Nội.10 A. A. Rephormatskị. Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục, Moskva, 1967

(tiếng Nga).11. N. V. Stankevich. Loại hình các ngôn ngữ, Nxb Đại học và thcn, Hà Nội,

1982.12. JU. Stepanov. Những cơ sở của ngôn ngữ học đại cưng, Bản dịch tiếng Việt,

Ncb Đậi học và thcn, Hà Nội, 1984.13. Viện hàn lâm khoa học Liên Xô. Những phương pháp nghiên cứu cội nguồn

ngôn ngữ, Tập 3, Ngôn ngữ học đại cương (Bản dịch tiếng Việt – Viện Ngôn ngữ học Viện Khxh Việt Nam.

NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC14. Mác-Ăngghen-Lênin bàn về ngôn ngữ. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962.15. V.B. Kasevich. Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương. (Bản dịch

tiếng Việt), Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1982.Đọc từ mục 1 đến mục 38, mục 52 đến mục 67.

16. F. de. Saussure. Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội, 1973. Đọc các mục:

Phần dẫn luận: chương I đến chương V Phần thứ nhất: chương I, chương II Phần thứ hai: chương V, chương VI Phần thứ năm: chương II, IV, V

Phần thứ hai CƠ SỞ NGỮ ÂM HỌC VÀ NGỮ ÂM TIẾNG VIỆT*

* *• Đối tượng, phương pháp tầm quan trọng của ngữ âm học• Âm tiết và đặc điểm của âm tiết tiếng Việt• Âm tố và phân loại các âm tố• Âm vị và các hệ thống âm vị của tiếng Việt• Các hiện tượng ngôn điệu: trọng âm, ngữ điệu, thanh điệu• Những hiện tượng biế đổi ngữ âm thích nghi,đồng hóa, dị hóa• Chữ viết và chính tả.

Chương V ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGỮ ÂM HỌC

I. ĐỐI TƯỢNG CỦA NGỮ ÂM HỌC1. Ngữ âm là gì ?Ngôn ngữ, như chúng ta đã đề cập đến ở phần I, là phương tiện giao tiếp quan

trọng nhất của con người. Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, ngay từ khi mới xuất hiện, ngôn ngữ đã tồn tại dưới hình thức âm thanh. Con người giao tiếp được với nhau chính là nhờ ở hình thức vật chất này. Mặt âm thanh đã làm nên tính chất hiện thực của ngôn ngữ. Bởi vậy, nói đến ngôn ngữ là nói đến ngôn ngữ bằng âm thanh. Hiện nay chưa có dân tộc nào dùng một ngôn ngữ phi âm thanh để trao đổi tư tưởng.

Trong ngôn ngữ học, người ta gọi hình thức âm thanh của ngôn ngữ là ngữ âm. Ngữ âm, vì vậy, là cái vỏ vật chất của ngôn ngữ, là hình thức tồn tại của ngôn ngữ.

Ngữ âm là âm thanh nhưng không phải bất kì âm nào do con người phát ra cũng là ngữ âm. Tiếng nấc, tiếng ho, tiếng ợ không phải là ngữ âm vì chúng không phải là phương tiện biểu đạt của ngôn ngữ, không có chức năng giao tiếp.

2. Ngữ âm học (phonetics) là khoa học nghiên cứu mặt ngữ âm của ngôn ngữ. Tuy nhiên đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học không chỉ là những dòng âm thanh

cụ thể của tiếng nói mà còn là những đơn vị ngữ âm, những quy luật tổ chức, kết hợp các âm. Ngoài ra, ngữ âm học còn nghiên cứu cả chữ viết - một phương tiện ghi lại ngôn ngữ bằng văn tự. Ngữ âm học được phân thành ngữ âm học đại cương và ngữ âm học cục bộ. Ngữ âm học đại cương nghiên cứu những quỵ luật ngữ âm chung cho tất cả các ngôn ngữ trên thế giới (quy luật kết hợp, quy luật biến đổi phát triển của các âm...), những nguyên lí cấu tạo chung của các âm (như nguyên lí cấu tạo nguyên âm, phụ âm), những phương pháp nghiên cứu ngữ âm, lí luận chung về cách viết và chính tả, v..v..

Ngữ âm học cục bộ nghiên cứu ngữ âm của một ngôn ngữ cụ thể ví dụ ngữ âm tiếng Anh, ngữ âm tiếng Việt, ... Ngữ âm học cục bộ có thể chia nhỏ thành:

+ Ngữ âm học miêu tả nghiên cứu ngữ âm ở trạng thái hiện đại (đương đại) của nó, ví dụ ngữ âm học tiếng Pháp hiện đại ngữ âm học tiếng Nga hiện đại.

+ Ngữ âm học lịch sử nghiên cứu quá trình phát triển lịch sử của hệ thống ngữ âm, chẳng hận quá trình tlăm - trăm; Tlem — Trèm — Chèm; Tlem - Từ Liêm, blời - giời — trời,... trong tiếng Việt.

Mặt âm thanh của ngôn ngữ, tức ngữ âm, không phải là một hiện tượng đơn giản. Do tính chất phức tạp của nó, người ta buộc phải xem xét nó từ nhiều góc độ khác nhau. Theo truyền thống ngôn ngữ học, nó được nghiên cứu từ các mặt dưới đây.

2.1. Từ mặt sinh vật học (cấu âm)Mỗi một âm do con người phát ra đều là kết quả của một hoạt động nhất định

của bộ máy phát âm của con người; hơn nữa nó là đối tượng của sự tri giác thính giác có quan hệ với những quá trình nhất định nảy sinh từ cơ thể con người. Nghiên cứu ngữ âm: mặt sinh lí học tức là nghiên cứu xem những cơ quan nào tham gia vào việc tạo ra âm thanh ngôn ngữ và quá trình tạo lập đó diễn ra như thế nào. Đại thể, có thể hình dung quá trình phát âm như sau: 1) mệnh lệnh được truyền đi từ vỏ não, từ trung tâm điều khiển nói năng nằm ở bán cầu não; 2) sự truyền đạt mệnh lệnh này theo dây thần kinh đến các cơ quan thực hiện trực tiếp sự hoạt động của bộ máy hô hấp (phổi, phế quản, khí quản) cũng như cơ hoành và toàn bộ lồng ngực; 4) hoạt động phức tạp của các cơ quan phát âm (dây thanh, lưỡi, môi, ngạc, hàm dưới...). Toàn bộ những hoạt động của bộ máy hô hấp và của các cơ quan phát âm tạo ra một âm tương ứng được gọi là sự cấu âm.

Bộ máy phát âm của con người có thể phân chia thành ba bộ phận chính.a) Cơ quan hô hấp. Đây là các cơ quan ở lồng ngực như hoành cách, phế

quản, thanh quản, phổi... Nhiệm vụ của các cơ quan hô hấp là cung cấp mức không khí cần thiết để tạo ra các dao động âm thanh và truyền âm ra ngoài.

b) Thanh hầu. Đó là cơ quan phát ra âm thanh. Thanh hầu có cấu tạo như một cái hộp do bốn miếng sụn hợp lại. Bên trong có dây thanh. Dây thanh có thể rung động theo hướng căng lên hay chùng xuống, mở ra hay khép vào vì nó gồm hai màng mỏng giống như đôi môi. Dây thanh chính là nguồn âm. Dây thanh của phụ nữ, trẻ em thường mảnh và căng hơn của đàn ông, người già, do đó âm phát ra nghe cao hơn.

Thanh hầu là khoang cộng hưởng đầu tiên của bộ máy phát âm.c) Các khoang cộng hưởng ở phía trên thanh hầu: khoang yết hầu, khoang

mũi, và khoang miệng.Từ trong thanh hầu, âm được phát ra rất nhỏ nhưng nhờ có các khoang cộng

hưởng ở trên mà được khuếch đại to lên nhiều.Khoang miệng là một hộp cộng hưởng động, ở đây có các cơ quan ngôn ngữ

quan trọng như môi, ngạc, lợi, răng và đặc biệt là lưỡi. Lưỡi có thể vận động linh hoạt theo mọi hướng: tiến ra trước, lùi lại sau, nâng cao lên, hạ xuống thấp, do đó mà làm cho khoang miệng luôn luôn thay đổi. Lưỡi có vai trò quan trọng như vậy nên đã có hàng loạt thành ngữ nói về nó: Lưỡi không xương nhiều đường lất léo; Uốn ba tấc lưỡi, Uốn lưỡi bẩy lần hãy nói (thành ngữ Pháp); v.v... Thậm chí, ở nhiều ngôn ngữ từ lưỡi đã được dùng để biểu hiện ý nghĩa "ngôn ngữ, tiếng nói", chẳng hạn tiếng Pháp: langue, tiếng Anh tongue,… . Cùng với lưỡi, hoạt động của môi, hàm dưới... cũng làm cho hình dáng và thể tích của khoang miệng thay đổi, vì vậy đã tạo ra được sự muôn màu muôn vẻ cho các âm phát ra.

1. Môi2. Răng3. Lợi.4. Ngạc cứng5. Ngạc mềm (rèm ngạc)6. Lưỡi con7. Đầu lưỡi8. Mặt lưỡi9. Gốc (cuối) lưỡi10. Nắp họngA. Khoang yết hầuB. Khoang miệngC. Khoang mũiTất cả các cơ quan phát âm có thể chia thành hai loại: Các cơ quan chủ động

và các cơ quan thụ động.

Thuộc loại chủ động là những cơ quan vận động được và đóng vai trò chính khi cấu tạo các âm, ví dụ: dây thanh, lưỡi, môi, lưỡi con, ngạc mềm.

Những cơ quan thụ động không vận động được và khi cấu âm chúng giữ vai trò hỗ trợ, kèm theo sự vận động của cơ quan chủ động. Ví dụ: lợi, răng, ngạc cứng. Các cơ quan này thường là những "điểm tựa" để cho các cơ quan chủ động hướng tới.

2.2. Từ mặt vật lí học (âm học)Âm thanh của ngôn ngữ có nhiều điểm giống với các âm thanh khác trong tự

nhiên. Nó cũng là kết quả của sự chấn động của các phần tử không khí trong tự nhiên vốn bắt nguồn từ một vật: nhất định. Cũng như các âm thanh thường gặp, âm thanh ngôn ngữ cũng có những thuộc tính vật lí (âm học) cần được nghiên cứu.

a) Độ cao. Âm thanh phát ra bao giờ cũng ở một độ cao nhất định. Mức độ cao thấp của âm phụ thuộc vào sự chấn động nhanh hay chậm của các phần tử không khí trong một đơn vị thời gian xác định. Nói cách khác, độ cao của âm phụ thuộc vào tần số động. Tần số dao động của dây thanh quy định độ cao của giọng nói con người.

b) Độ mạnh. Độ mạnh của âm do biên độ dao động quyết định. Biên độ dao động càng lớn âm phát ra càng mạnh. Trong ngôn ngữ, phụ âm phát ra thường mạnh hơn nguyên âm. Độ mạnh còn được gọi là cường độ.

c) Độ dài. Độ dài hay trường độ của âm phụ thuộc vào sự chấn động lâu hay chống của các phần tử không khí. Trong tiếng Việt, ví dụ, a trong hai dài hơn a trong hay.

d) Âm sắc. Âm sắc là bản sắc, là sắc thái riêng biệt của một âm. Cùng một nốt nhạc nhưng âm thanh của các loại đàn khác nhau sẽ có những sắc thái khác nhau. Đó là sự khác nhau về âm sắc. Cùng một bài hát và hát ở cùng một độ cao như nhau nhưng tiếng hát của Thanh Hoa vẫn khác với tiếng hát của Thu Hiền, đó cũng là sự khác nhau về âm sắc.

Âm sắc khác nhau là do:- Vật tạo ra âm khác nhau, chẳng hạn vật bằng đồng như chuông âm sẽ khác

với vật bằng gỗ như mõ.- Cách làm cho vật phát ra âm khác nhau, vi dụ dùng phím đánh đàn, dùng

tay bật đàn, dùng cung kéo nhị, v.v...- Hiện tượng cộng hưởng khác nhau như tiếng Nói của một người ở nhà xây và

ở nhà gỗ, v.v... Đây là lí do giải thích vì sao các nhà hát phải có một kiến trúc đặc biệt.

e) Tiếng dộng và tiếng thanh. Các phân tử không khí khi chấn động tạo ra các chuyển động âm thanh nhịp nhàng, điều hòa, có chu kì ta sẽ có tiếng thanh; ngược

lại - các chuyển động không nhịp nhàng, điều hòa sẽ tạo ra tiếng động. Thường thường, các nguyên âm cho nhiều tiếng thanh còn các phụ âm - nhiều tiếng động.

Hai mặt sinh vật học và vật lí học vừa nêu trên của việc nghiên cứu ngữ âm đã làm thành cái mà các nhà ngôn ngữ học xưa nay vẫn gọi là mặt tự nhiên của nó, Xét thuần túy về phương diện này có thể coi ngữ âm học là một bộ phận của ngôn ngữ học nghiên cứu những phương thức cấu tạo và những thuộc tính âm học của lời nói của con người. Tuy nhiên, ngữ âm không phải là một hiện tượng có tính tự nhiên thuần túy. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Ngữ âm - mặt biểu đạt của nó - cũng có tính chất xã hội. Vì vậy cần phải nghiên cứu ngữ âm từ một mặt khác nữa.

2.3. Từ mặt chức năng xã hội.Đối với người Việt, đối với xã hội Việt Nam, hai tiếng rác và rắc là hai vỏ âm

thanh của hai từ hoàn toàn khác nhau về nghĩa. Hai tiếng này có ba yếu tố giống nhau là r, c và ”dấu sắc". Sự giống nhau giữa chúng chỉ là ở chỗ trong rác, a được phát âm dài trong rắc thì nó được phát âm ngắn hơn. Như vậy, đối với tiếng Việt, đối với xã hội Việt Nam, đặc trưng về trường độ (độ dài) được coi trọng. Nhờ nó, ta có thể phân biệt được hàng loạt cặp từ kiểu tám - tắm, bát - bắt, cán - cắn v.v... Ở đây đặc trưng về trường độ có một chức năng xã hội rõ rệt: phân biệt ý nghĩa của các từ. Tuy nhiên đối với người Nga, tình hình không phải như thế. Một từ như pak (tạm ghi và đọc theo chữ Việt là rác) dầu có được phát âm với một nguyên âm ngắn đi chăng nữa (kiểu như rắc) thì ý nghĩa của từ vẫn không thay đổi; người Nga vẫn hiểu là "con tôm". Do đó, đối với người nói tiếng Nga, đặc trưng về trường độ không có chức năng phân biệt nghĩa của từ. Như vậy là cùng một đặc trưng âm học (trường độ) nhưng xã hội này coi trọng, xã hội khác lại xem thường. Đó là tính chất xã hội của ngữ âm. Tính chất xã hội của ngữ âm giúp ta giải thích được vì sao số lượng nguyên âm và phụ âm ở các ngôn ngữ trên thế giới không như nhau: tiếng Nga có 34 phụ âm và 5 nguyên âm, Tiếng Việt có 22 phụ âm và 16 nguyên âm, V.V..

Tỉnh chất xã hội làm cho hệ thống ngữ âm của các ngôn ngữ thế giới trở nên đa dạng, nhiều vẻ. Vì vậy, khi xem xét các Lin tượng ngữ âm, người nghiên cứu không thể không quan tâm thích đáng đến chức năng xã hội của chúng.

Tóm lại, đối tượng của ngữ âm học là ngữ âm với sự xem xét từ ba mặt của nó: mặt sinh vật học (cấu âm), mặt vật lí học (âm học) và mặt chức năng xã hội (ngôn ngữ học).

II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN cứu CỦA NGỮ ÂM HỌCDo ngữ âm học nghiên cứu cả mặt tự nhiên lẫn mặt xã hội của ngữ âm cho

nên nó đã sử dụng hai loại phương pháp nghiên cứu chủ yếu khác nhau: một loại thích dụng với các khoa học tự nhiên, một loại thích dụng với các khoa học xã hội. [15]

Loại thứ nhất là phương pháp quan sất, miêu tả các hiện tượng ngữ âm. Sự quan sát có thể tiến hành bằng mắt, bằng tai của người nghiên cứu. Ví dụ, khi quan sát một người nào đó phát âm hai tiếng tu hú người nghiên cứu nhìn thấy hai môi người phát âm tròn lại và nhô về phía trước. Đó là sự quan sát trực tiếp. Quan sát còn có thể tiến hành bàng phương pháp gián tiếp tức là qua máy. Ngữ âm học thực nghiệm đã dùng hàng loạt máy mốc hiện đại để quan sát âm thanh lời nói. Chung quy lại có thể phân thành bốn loại phương tiện chính là:

+ Các phương tiện ghi hình cung cấp những đường ghi trên giấy hay trên phim ảnh. Những đường ghi này không thể chuyển lại thành âm thanh mà chỉ có thể xem bằng mắt.

+ Các phương tiện ghi âm lên mặt sáp, mặt nhựa, băng từ tính... để khi cần có thể chuyển các đường ghi thành âm thanh trở lại.

+ Các phương tiện ghi vị trí của các cơ quan cấu âm (máy ảnh, máy quay phim bằng tia X).

+ Các phương tiện ghi và phân tích âm thanh bằng máy quang phổ, máy hiện sống v.v...

Phương pháp quan sát bằng máy cho ta những cứ liệu chính xác. Nó giúp người nghiên cứu quan sát được những sắc thái quá nhỏ bé của âm thanh mà thính giác con người không có khả năng nhận biết, phân biệt. Tuy nhiên nó không phải là phương pháp duy nhất và không phải trong trường hợp nào cũng có thể thay thế được phương pháp quan sát trực tiếp.

Phương pháp thứ hai vốn thích dụng với các khoa học xã hội là phương pháp suy luận. Trong ví dụ đã dẫn ở 1.3, từ chỗ người Việt có phân biệt nghĩa của hai từ rác và rắc, nhà nghiên cứu suy ra được rằng trong tiếng Việt trường độ có tác dụng phân biệt nghĩa, có một chức năng xã hội. Phương pháp suy luận dựa trên sự đối chiếu, so sánh các từ để tìm ra cái có ý nghĩa ngôn ngữ học.

Trong hai loại phương pháp nghiên cứu kể trên, phương pháp quan sát, miêu tả thường đi trước và là bước chuẩn bị cho phương pháp suy luận. Song đi trước không có nghĩa là quyết định. Để tìm ra hệ thống nguyên âm, phụ âm của một ngôn ngữ nào đó, người nghiên cứu không thể không tiến hành bước thứ hai: bước suy luận. Với ý nghĩa đó mà nói thỉ chính phương pháp suy luận mới phương pháp chủ yếu của ngữ âm học.

III. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGỮ ÂM HỌCNgữ âm học có một ý nghĩa thực tiễn rất lớn. Những thành tựu của nó đã được

sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Ngữ âm học đưa ra những cơ sở khoa học để xây dựng âm chuẩn cho một ngôn ngữ, đặt chữ viết cho các dân tộc chưa có chữ viết và cải tiến hệ thống chữ viết của các dân tộc đã có chữ từ trước.

Kiến thức ngữ âm học rất cần cho việc dạy và học ngoại ngữ. Nếu người dạy có những tri thức vững chắc về ngữ âm học và người học cũng có những khái niệm tối thiểu về môn này thì kết quả học tập sẽ tốt hơn, bởi vì người học không đơn thuần "bắt trước" lối phát âm của người nước ngoài mà tiếp thu nó một cách có ý thức, dựa trên sự so sánh cấu âm của tiếng ngoại quốc với tiếng mẹ đẻ của mình.

Những tri thức khoa học về ngữ âm học có thể giúp ích cho việc dạy phát âm, dạy học theo đúng âm chuẩn, dạy chính tả, phân tích cách tổ chức âm thanh của một tác phẩm thơ, v.v...

Ngoài ra ngữ âm học còn có một vai trò nhất định trong việc khôi phục lại ngôn ngữ cho những người bệnh mắc chứng mất ngôn do chấn thương sọ não, những trẻ em câm - điếc từ nhỏ; trong việc kiểm tra sự minh xác của đường dây trong ngành thông tin trong việc đặt lời cho ca khúc phù hợp với nhạc để không tạo nên sự méo mó, sai lạc cho lời ca, v.v…(1)

(1) vể vấn để cuối cùng này có thẻ tham khảo, chẳng hạn Mai Ngọc Chừ. Thanh điệu tiếng Việt và sự "tròn vành rõ chữ" của tiếng hát dân tộc. "Thông tin khoa học của Trường Dại học Tổng hợp Hà Nội" (chuyên san Ngôn ngữ học) số 5.1982.

Với các bộ môn khác của ngôn ngữ học như ngữ pháo học và từ vựng học, ngữ âm học cũng có một tác dụng hỗ trợ nhất định để làm sáng tỏ những hiện tượng có liên quan đến các bộ môn này (ví dụ, quy luật tổ chức ngữ âm trong các từ láy v.v..).

Chương VI ÂM TIẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆTI. KHÁI NIỆM ÂM TIẾTChuỗ lời nói mà con người phát ra gồm nhiều khúc đoạn dài ngắn khác nhau.

Đơn vị phát âm ngắn nhất là âm tiết (syllable). Dừ lời nói có chậm lại đến đâu chăng nữa thì cũng chỉ tác được đến âm tiết là hết. Một câu như Vườn hồn có lối nhưng chưa ai vào. Có cả thảy 8 âm tiết.

Cần chú ý rằng đây nói về tính chất không thể phân chia được của âm tiết về phương diện phát âm còn về phương diện thính giác thì khác. Khi nghe một âm tiết như ba, người Việt có thể phân nó thànhc ác yếu tố nhỏ hơn b và a/ Sự phân tíc ấy hoàn toàn dựa trên kinh nghiệm đối chiếu các tiếng với nhau, ví dụ, đối chiếu ba với na, ca,xa… và bới bô, be, bi,…

Sở dĩ về phương diện phát âm, âm tiết có tính chất toàn vẹn, không thể phân chia dược là bở vì nó được phát âm bằng một đợt căng của cơ thịt của bộ máy phát âm. Cứ mỗi lần cơ thịt của bộ máy phát âm căng lên rồi chùng xuống là ta có một

âm tiết. Lời nói của con người là một chuỗi đợt căng chùng như thế. Có thể biểu diễn quá trình ấy bằng một đường gợn sóng như hình bên.

Khi phát âm mỗi một ân tiết, các cơ thịt của bộ máy phát âm đều trải qua ba giai đoạn: tăng cường độ căng, đỉnh điểm căng thẳng và giảm độ căng. Trương ứng với ba giai đoạn này là sự phát triển của độ vang: tăng cường độ vang cao nhất và giảm dần độ vang. Trên sơ đồ đường cong hình sin biểu thị quá trình phát âm âm tiết, đỉnh đường cong (cực đại) tương ứng với giai đoạn thứ hai còng chỗ hõm xuống (cực tiểu ) thì tương ứng với độ căng thấp nhất. Đỉnh hình sin là đỉnh âm tiếng, chỗ hõm xuống à biết giới âm tiết. Biên giới giữa các âm tiết, vì vậy, là biên giới giữa hai đợt căng.

Đứng ở vị trí đỉnh âm tiết thường là các nguyên âm ( như I và e trong ví dụ dưới(, đôi khi cũng có thể là một phụ âm, ví dụ: table “ cái bàn” (trong tiếng Anh và tiếng Pháp, ở đây [1] nằm ở đỉnh âm tiết). Đứng ở vị trí biên giới là các phụ âm hoặc bán nguyên âm, chẳng hạn: bàn, học, màu, hai.

Dựa vào cách kết thứ, các âm tiết được chia thành hai loại lớn: mở và kép. Mỗi loại như thế còn được phân thành hai loại nhỏ hơn. Như vậy có thể nói về bốn loại âm tiết như sau:

- Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm vang (như: “m”, “n”, “ng”, “nh”,…) được gọi là những âm tiết nửa khép, ví dụ: ánh trăng rằm.

- Những âm tiết kết thúc bằng một phụ âm không vang được gọi là những âm tiết khép, ví dụ: học tập tốt.

- Những âm tiết kết thúc bằng một bán nguyên âm được gọi là những âm tiết nửa mở, ví dụ: kêu gọi.

- Nhưng âm tiết kết thúc bằng cách giữ nguyên âm sắc của nguyên âm ở đỉnh âm tiết được gọi là các âm tiết mở, ví dụ: vo ve, thủ thỉ.

II. ĐẶC ĐIỂM CỦA ÂM TIẾT TIẾNG VIỆTĐể chỉ khải niệm âm tiết trong ngôn ngữ học, theo truyền thống người Việt

thường dùng từ tiếng hoặc tiếng một. Tiếng, tức âm tiết, của tiếng Việt cổ những đặc điểm đáng chú ý dưới đây:

1) Có tính độc lập cao.Trong dòng lời nói, âm tiết tiếng Việt bao giờ cũng được thể hiện khá đầy đủ,

rõ ràng, được tách và ngắt ra thành từng khúc đoạn riêng biệt. Khác với âm tiết của một số ngôn ngữ, âm tiết tiếng Việt thường không bị nhược hóa (reduction) hay mất đi. Trong tiếng Nga chẳng hạn, khi nói nhanh [Mariya Ivanovna] có thể trở thành [mar’van:a] [17]. Ớ ngôn ngữ này, như L. R. Zinóer nhận xét: Khi nói nhanh, tất cả những cái gì không có trọng âm dầu có thể nhược hóa đến cùng cực [17].

Trong một số ngôn ngữ Âu châu, ngoài hiện tượng nhược hóa còn có cả hiện tượng Nói âm (liaison). Bốn âm tiết của tiếng Anh: this is a book khi kết hợp lại thành câu sẽ được phát âm nối dính với nhau thành: This is a book (Đây là một quyển sách). Trong tiếng Pháp tình hình cũng hệt như thế.

Ví dụ: Les amis (Những người bạn)Vont ils ? (Họ có đi không ?)Ở tiếng Nga, hiện tượng nối âm không phổ biến nhưng không phải không có.Trong tiếng Việt không bao giờ có hiện tượng nối âm như trên. Các âm tiết

không hề bị "biến dạng" ở trong lời nói.Im ắn không nói thành I mắngPháp y không nói thành phá pyThức ăn không nói thành thứ ănCác anh không nói thành cá canh Khác với âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu, âm tiết nào của tiếng Việt cũng

mang một thanh điệu nhất định (xin xem kỉ ở phần thanh điệu sẽ trình bày sau). Chính đặc điểm này đã làm cho sự thể hiện của từng âm tiết trong chuỗi lời nói càng được nêu bật hẳn lên.

Do có sự thể hiện rõ ràng như vậy cho nên việc vạch ra ranh giới giữa các âm tiết trong tiếng Việt dễ dàng hơn nhiều việc phân chia ranh giới âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu. Trong tiếng Nga chảng hạn, khi nghe một ngừời nào đó phát âm một từ gồm các âm tiết như (nơi, thị trấn), người mới học tiếng Nga khó xác định được ranh giới âm tiết đi qua đâu.

Vì vậy để xác định rõ ranh giới âm tiết trong những từ phức tạp, các nhà nghiên cứu thường phải viện đến phương pháp nghiên cứu khách quan, đặc biệt là cách phân tích lời nói bằng quang phổ. Trong tiếng Việt, trái lại, các âm tiết được phát ra hết sức khúc chiết, rành rọt, rõ mồn một, cho nên người nghe có thể nhận biết một cách dễ dàng ranh giới của chúng và số lượng âm tiết trong một câu nói. Muốn biết được một câu văn hay một câu thơ bao nhiêu âm tiết, ta có thể xác định bằng cách nghe xem có bao nhiêu hơi, bao nhiêu "tiếng một" được phát ra. Tính chất tách bạch từng âm tiết còn được phản ánh trên văn tự: người ta viết rời từng âm tiết (chữ) chứ không viết liền thành từ như kiểu chữ Nga, chữ Anh, chữ Pháp.

Những điều vừa trình bày trên đây về sự thể hiện của âm tiết tiếng Việt chứng tỏ rằng, so với âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu, âm tiết tiếng Việt có tính độc lập cao hơn hẳn.

2. Có khả năng biểu hiện ý nghĩaTrong các ngôn ngữ Âu châu, âm tiết chỉ là một đơn vị ngữ in thuần túy. Âm

tiết nếu bị tách ra khỏi từ chứa nó thì trở nên nghĩa hoàn toàn. Một từ, ví dụ Kupaca

của tiếng Nga (giáp bào) nếu tách riêng thành các âm tiết ku , pa, ca thì đó chỉ là những đơn ngữ âm đơn thuần, Trong tiếng Việt, ngược lại, có một tình hình đáng chú ý là tuyệt đại da số các âm tiết đầu có nghĩa. Số những âm tiết tự thân mang nghĩa chiếm tuyệt đại đa số. Nói cách khác, ở tiếng Việt gần như toàn bộ các âm tiết đều hoạt động như từ. Có thể dẫn ra hàng loạt ví dụ: mắt, dầu, tay, bụng, mày, mưa, gió, nhà, săn, vườn, học, ăn, ngủ, dẹp, tốt...

Ngoài những âm tiết có nghĩa hiển nhiên như trên, trong tiếng Việt hiện đại còn một số âm tiết mà hiện nay được coi là vô nghĩa như pheo (trong tre pheo), núc (bếp núc), lè (xanh lè), v.v... Song nếu lùi lại quá khứ thì những âm tiết này trước đây đều có nghĩa cả: pheo — tre, núc — bếp, le = xanh. Dấu vết ý nghĩa này vẫn còn lại trong các ngôn ngữ dân tộc, chẳng hạn, trong tiếng Mường.

Như trên đã nói, tuyệt đại đa số các âm tiết đều là từ đơn. Một số âm tiết tuy chưa hẳn là một từ hoàn toàn độc lập như các từ đơn nhưng trong những hoàn cảnh nhất định chúng vẫn có khả năng hoạt động như một từ thực sự. Âm tiết ngơi trong khổ thơ sau đây là một ví dụ:

Bao bà mẹ từ tâm làm mẹYêu quý con như đẻ con raCho con nào áo nào quàCho củi con sưởi cho nhà con ngơi

(Tố Hữu)Âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu không bao giờ có khả năng ấy nếu đó

không phải là một từ đơn thực sự.Chính vì mỗi âm tiết của tiếng Việt đều có khả năng biểu hiện ý nghĩa cho nên

người Việt mới có điều kiện tạo ra được cách chơi chữ theo lối tách từ kiểu: có hội mà không có nghị, có nghị mà không có quyết (tách đôi các từ hội nghị, nghị quyết). Trong thơ ca hiện tượng tách từ ghép để mỗi âm tiết tồn tại như một từ đơn khá nhiều và thường tạo ra một sự biểu hiện ý nghĩa độc đáo, chẳng hạn, Nguyễn Du không viết.

Mặt sao dày dạn gió sươngThân sao ong bướm chấn chường bấy thânMà viết:Mặt sao dày gió dạn sươngThân sao bướm chán ong chường bấy thân

(Truyện Kiều)Cách chẻ đôi các từ: dày dạn, gió sương, ong bướm, chán chường rõ ràng có

tác dụng nhấn mạnh hơn hẳn vào tính chất tiều tụy, tàn tạ của nàng Kiều trước

sóng gió của cuộc đời. Các cách nói bướm lả ong lơi, bướm, chán ong chường, ra ngẩn vào ngơ v.v... vì vậy rất hay được các nhà thơ sử dụng.

Áp lực về ngữ nghĩa của các âm tiết tiếng Việt nhiều khi mạnh đến mức làm cho những âm tiết nước ngoài vốn vô nghĩa vào trong Việt cũng được "ban" cho một lượng ngữ nghĩa nhất định. Đây là những trường hợp rút gọn theo kiểu:

Itali: ÝKennơđi: KenĐối với người Italia, riêng âm tiết đầu trong tổ hợp bốn âm không có ý nghĩa

chỉ tên nước. Ngược lại, âm tiết "Ý” đã được “Việt Nam hóa” hoàn toàn có thể mang ý nghĩa của cả tổ hợp này.

Ngoài ra, cách nói tắt theo kiểu dồn nghĩa của cả từ đa tiết hoặc của cả tổ hợp từ chỉ vào một âm tiết nhất định như cổ- cận-dân (cổ đại, cận đại, dân gian), cao-xà-lá (cao su, xà phòng, thuốc lá), gạo mậu (gạo mậu dịch) v.v... Suy cho cùng cũng bát nguồn từ đặc điểm vừa nêu của âm tiết tiếng Việt.

Tóm lại, trong tiếng Việt, âm tiết không chỉ là một đơn vị ngữ 1 đơn thuần như âm tiết trong các ngôn ngữ Âu châu mà còn là một đơn vị từ vựng và ngữ pháp chủ yếu. Ở đây mối quan hệ giữa âm và nghĩa trong âm tiết cũng chặt chẽ và thường xuyên như trong từ của các ngôn ngữ Âu châu [13]. Và đó chính là một đặc trưng loại hình chủ đạo của tiếng Việt.

3. Có một cấu trúc chặt chẽ3.1 Âm tiết tiếng Việt không phải là một khối không thể chia lìa được mà là

một cấu trúc. Mô hình cấu trúc tổng quát của tất cả các âm tiết tiếng Việt là [15]:Mỗi âm tiết tiếng Việt, ở dạng đầy đủ nhất có 5 phần.Thành phần thứ nhất có chức năng phân biệt các âm tiếu với nhau về cao độ.Đó là thanh điệu. Mỗi âm tiết đều mang một trong sáu thanh điệu.Nhưng âm tiết như em ơi đi xem mặc dù không có dâu thah nhưng vẫn mang

một thanh điệu nhất định. Trong âm tiết loạt, ta có thanh nặng.Thành phần thứ hai có chức năng mở đầu một âm tiết. Các âm tiết khác nhau

có thể phân biệt với nhau bằng những cách mở đầu khác nhau. Đó là âm đầu. Âm đầu bao giờ cũng do các phụ âm đảm nhiệm. Trong những âm tiết như: anh em ơi ta có phụ âm đầu /p/ (âm tắc thanh hầu), còn trong âm tiết loại thì đố là /1/.

Thành phần thứ ba có chức năng làm thay đổi âm sắc của âm tiết sau lúc mở đầu, cụ thể là làm trầm hóa âm tiết. Đó là âm đệm. Thành phần này do bán nguyên âm /w/ đảm nhiệm. Trong loạt bán nguyên âm này được viết bằng con chữ o . Ở những âm tiết như đẹp, xinh không có sự tồn tại của /w/, người ta gọi đó là âm đệm zêrô.

Thành phần thứ tư quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết, là hạt nhân của âm tiết. Thành phần này bao giờ cũng do một nguyên âm đảm nhiệm. Nó có tên là âm chính. Trong âm tiết loạt, /a/ giữ vai trò này.

Thành phẩn cuối cùng đảm nhiệm chức năng kết thúc âm tiết. Nó có thể là một phụ âm như /t/ trong loạt, /n/ trong lan hoặc một bán nguyên âm như /u/ trong kêu, /i/ trong gọi . Người ta gọi thành phần, này là âm cuối. Cũng như âm đệm, âm cuối có thể là zêrô như trong các âm tiết có ba chú bé.

3.2. Năm thành phần cấu tạo âm tiết tiếng Việt không phải bình đẳng như nhau về mức độ độc lập và về khả năng kết hợp.

Nhiều sự kiện ngôn ngữ chứng tỏ rằng thanh điệu và âm đầu kết hợp với phần còn lại của âm tiết (phần vấn) một cách lỏng lẻo. Người ta có thể tìm được nhiều bằng chứng về sự phân li, về một đường ranh giới khá rõ ràng giữa các thành phần này. Trong số những bằng chứng đó, bằng chứng về cách nói lái của người Việt là hiển nhiên hơn cả. Ở các nói lái cây còn => con cầy, thưa anh rằng=> răng anh thừa, người ta thấy rõ khả năng tách thanh điệu ra khỏi phần còn lại của âm tiết. Còn những trường hợp nói lái kiểu hiện đại => hại điện (càng hiện đại bao nhiêu thì càng hại điện bấy nhiêu), cá đua => cua đá (Cồn Cỏ có con cá đua là con cua đá) thì chúng ta lại nahạn thấy có sự giao hoán các âm đầu giữa hai âm tiết.

Trái lại, các yếu tố của phần vần bao gồm âm đệm + âm chính + âm cuối thì kết hợp với nhau khá chặt chẽ. Người ta ít tìm thấy nhưng bằng chứng hiển nhiên về sự phân li của chúng. Thực nghiệm cũng đã chỉ ra rằng giữa âm chính và âm cuối thường có bù trừ, đắp đổi cho nhau về trường độ, nghĩa là nếu âm chính dài thì âm cuối ngắn và ngược lại [6]. So với hai thành phần thanh điệu và âm đầu, các thành phần âm đệm, âm chính và âm cuối có tính độc lập thấp hơn hẳn.

Căn cứ vào mức độ độc lập không như nhau, vào khả năng kết ì:c lỏng, chặt khác nhau của các thành phần cấu tạo âm tiết,

Người ta Nói rằng âm tiết tiếng Việt có cẩu trúc hai bậc [15], [6].- Bậc 1 là bậc của những yếu tố kết hợp với nhau lỏng lẻo, có tính độc lập cao.

Đó là thanh điệu, âm đầu và phần vần.- Bậc 2 là bậc của những yếu tố kết hợp với nhau khá chặt chẽ, có tính độc lập

thấp. Đó là những yếu tố của phần vần âm đệm, âm chính và âm cuối.Có thể mô tả cấu trúc hai bậc của âm tiết tiếng Việt qua một sơ đồ hình cây

như sau:Âm Tiết: + Âm đầu, Vần, Thanh điệu+ Âm điệm, âm chính, âm cuối

Cách dạy trẻ em học “đánh vần" hiện nay ở lớp 1 là tuân theo cấu trúc hai bậc này: cuộn các yếu tố bậc hai lại thành vần trước (o + a + n = oan), sau đó mới thêm âm đầu và thanh điệu vào (t + oan = toan, toan + huyền = toàn).

Trong các ngôn ngữ Âu châu, các yếu tố cấu tạo âm tiết không xếp thành hai bậc như trong tiếng Việt. Mối quan hệ giữa các yếu tố chỉ là những dấu cộng đơn thuần theo một hàng ngang.

Chương VII ÂM TỐ VÀ PHÂN LOẠI CÁC ÂM TỐI. ĐỊNH NGHĨAÂm tố (sound) là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa. Âm

tiết na chẳng hạn, gồm hai âm tố mà trên chữ viết được ghi bằng hai chữ cái n và a; pen (cái bút) của tiếng Anh gồm ba âm tố.

Chữ viết của các ngôn ngữ thường không giống nhau và có hiện tượng dùng nhiều con chữ khác nhau để ghi cùng một âm hoặc trái lại, dùng một con chữ ghi nhiều âm khác nhau. Vì vậy, để ghi âm tố, người ta đã thống nhất dùng con chữ in Latin lấy từ bảng kí hiệu phiên âm quốc tế đặt trong hai ngoặc vuông ví dụ [n], [a], và theo nguyên tắc mỗi con chữ chỉ dùng để ghi một âm. Tuy nhiên, trong lời nói, âm tố không phải bao giờ cũng được phát âm với một tư thế điển đình mà thường có những sắc thái khác nhau, những nét “rườm”. Để ghi lại sắc thái ấy, người ta đã sử dụng một số dấu hụ đặt bên cạnh các kí hiệu phiên âm, chẳng hạn, dấu ngửa đặt trên nguyên âm chỉ tính chất ngắn (ví dụ: [ă], dấu hai chấm chỉ tính chất dài (ví dụ: [a:]), dấu khuyên tròn nhỏ chỉ tính chất trong môi (ví dụ: [bo]),v..v…

II. PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẦ CÁC ÂM Tố 1 Nguyên âm và phụ âmDựa theo cách thoát ra của luồng không khí khi phát âm, các yếu tố thường

được phân làm hai loại chính: nguyên âm (vowel) và phụ âm (consonant).Từ đây về sau, tác giả sẽ sử dụng các kí hiệu phiên âm khi cần thiết.Khi dây thanh dao động, âm được tạo nên nếu đi ra ngoài tự do, có một âm

hưởng êm ái, dễ nghe ta sẽ có các nguyên âm, ví dụ: [i], [e], [a], [u], [o]. Về mặt âm học, các nguyên âm bao giờ cũng là tiếng thanh bởi vì khi phát âm các nguyên âm, sự chấn động của các phần tử không khí thoát ra có một chu kì khá đều đặn. Về mặt cấu âm, khi phát âm một nguyên âm, bộ máy phát âm làm việc đều hòa, căng thẳng từ đầu đến cuối. Sự hoạt động đều hòa ấy của bộ máy phát âm làm cho luồng hơi thoát ra có cường độ yếu nhưng không hề bị cản lại.

Trái lại, luồng không khí từ phổi đi ra nếu bị cản trở ở một điểm nào đó, chẳng hạn, sự khép chặt của hai môi khi phát âm [b], [m], sự tiếp xúc giữa đầu lưỡi với lợi như khi phát âm [t], [d], gây nên tiếng nó hoặc tiếng xát và gây nên một âm hưởng "khó nghe", ta sẽ có các phụ âm. Về mặt âm học, các phụ âm thường tạo nên một tần số chấn động không ổn định và, do đó, là tiếng động. Về mặt cấu âm, khi phát

âm các phụ âm, bộ máy phát âm làm việc không đều hòa, khi căng khi chùng, tạo cho luồng không khí phát ra một cường độ mạnh hơn các nguyên âm.

Ngoài hai loại âm tố chủ yếu trên đây còn có loại âm tố thứ ba mang tính chất trung gian, đó là các bán nguyên âm hay các bán phụ âm. Những âm tố này vừa mang tính chất nguyên âm vừa mang tính chất phụ âm. Hai âm [-i] và [-u] trong hải cẩu là thuộc loại này.

2. Miêu tả và phân loại các nguyên âmKhi miêu tả và phân loại các nguyên âm, người ta thường dựa vào những tiêu

chuẩn chính là vị trí của lưỡi, độ mở của miệng và hình dáng của môi.2.1 .Theo vị trí của lưỡi có thể phân các nguyên âm thành:Các nguyên âm dòng (hàng) trước, tức là khi phát âm đầu lưỡi đưa về phía

trước, ví dụ: [i], [e] của tiếng Việt, tiếng La Ha, tiếng Mường,…- Các nguyên âm dòng giữa. Khi phát âm các nguyên âm này, phần giữa của

lưỡi nâng lên phía ngạc. Các nguyên âm trong chớ, chứ của tiếng Việt thuộc loại này.

- Các nguyên âm dòng sau: Đây là những nguyên âm kiểu của tiếng Việt Mường. Đặc trưng của lối cấu âm các âm này là phần sau của lưỡi nâng lên hướng ngạc mềm.

2.2. Theo độ mở của miệng, các nguyên âm được phân thành:- Các nguyên âm có độ mở rộng như: [a], [ă] của tiếng Việt, tiếng Tày - Nùng,

tiếng La Ha, tiếng Dao, tiếng Mường.- Nguyên âm có độ mở hẹp như [i], [u] trong các ngôn ngữ Việt, Mèo, Pà Hưng,

La Ha, Mường, Dao,…Ngoài ra còn có thể có loại hơi rộng hoặc hơi hẹp nếu phân tách một cách chi

tiết hơn nữa.2.3. Theo hình dáng của dôi môi, người ta phân biệt các nguyên âm không

tròn môi như [i], [e], [a] với các nguyên âm tròn môi.Ngoài ba tiêu chuẩn chính như trên có thể kể ra một số tiêu chuẩn khác, ví dụ

tiêu chuẩn về trường độ, về tính mũi hóa. Theo tiêu chuẩn trường độ sẽ có sự đối lập nguyên âm dài với nguyên âm ngắn, ví dụ: [a] và [ă] trong cam và căm. Theo tính mũi hóa có sự phân biệt [a] và [ă] như Jean và Janne trong tiếng Pháp.

Theo cách phân tích trên đây, chúng ta có thể nhận diện vị trí của các nguyên âm thường gặp qua một hình thang nguyên âm

Trong hình thang nguyên âm quốc tế vừa dẫn, ba vạch đứng thể hiện ba dòng nguyên âm: trước, giữa, sau. Phía bên trái mỗi vạch đứng là các nguyên âm không tròn môi, bên phải - các nguyên âm tròn môi. Theo chiều từ trên xuống dưới, càng xuống phía dưới, độ mở miệng càng rộng hơn.

3. Miêu tả và phân loại các phụ âmViệc miêu tả và phân loại các phụ âm thường căn cứ vào hai tiêu chuẩn chính

là phương thức cấu âm và vị trí cấu âm.3.1. Theo phương thức cấu âm, các phụ âm được phân thành:- Các âm tắc. Khi không khí đi ra bị cản trở hoàn toàn, phải phá vỡ sự cản trở

ấy để ra ngoài và gây nên tiếng nổ, ta có phụ âm tắc. Thuộc loại tắc, ngoài những âm nổ thuần túy như [p], [t], [k] còn phải kể đến các âm mũi và âm bật hơi trong thơ thẩn. Đặc trưng của phụ âm mũi là khi phát âm chúng, không khí thoát qua đường mũi (cùng với đường miệng) để ra ngoài. Đối với âm bật hơi ngoài tiếng nổ xảy ra ở miệng còn đồng thời có một tiếng xát nhẹ ở khe hở giữa hai mép dây thanh.

- Các âm xát. Khi cấu âm các phụ âm xát, không khí đi ra bị cản trở không hoàn toàn, phải lách qua một khe hở nhỏ giữa hai cơ quan cấu âm, gây nên tiếng xát nhẹ. Ví dụ [v], [f], [h] trong các từ vỗ, phải, hô. Cũng thuộc loại xát còn phải kể đến phụ âm bên như [l] của tiếng Việt. Cách cấu âm đặc trưng của phụ âm này là có sự cọ xát của luồng không khí ở hai bên mép lưỡi khi chúng thoát ra ngoài.

- Các âm rung. Đó là các kiểu âm [R] trong các ngôn ngữ khác nhau. Đặc điểm cấu âm của loại phụ âm này là ở chỗ lưỡi con hoặc đầu lưỡi chấn động liên tục làm cho luồng không khí bị chặn lại và mở ra liên tiếp, gây nên một loạt tiếng rung.

Ngoài cách phân loại các phụ âm thành ba kiểu tắc, xát, rung còn có một cách phân loại khác căn cứ vào đặc điểm âm học của phụ âm. Đó là cách phân chia thành các âm vang và các âm ồn.

- Các âm vang của tiếng Việt trong từ muôn năm, nghe, nhỏ, lắm. Các phụ âm vang có đặc điểm là trong thành phần cấu tạo của chúng tiếng thanh là chính, là cơ sở.

- Các âm ồn. Đặc trưng của phụ âm ồn có nhiều tiếng động (tiếng ồn) trong thành phần cấu tạo của chúng. Các phụ âm ồn có thể phân nhỏ thành các âm hữu thanh và các âm vô thanh. Sự phân nhỏ này hoàn toàn căn cứ vào chỗ khi cấu âm dây thanh có rung hay không.

3.2. Căn cứ vào vị trí cấu âm, các phụ âm được phân thành Iim loại chính.- Các âm môi. Khi vật cản là hai môi, ta có các âm môi - môi,của tiếng Việt,

tiếng Nga, tiếng Anh. Khi vật cản môi dưới và hàng răng cửa của hàm trên, ta có các âm môi – răng.

- Các âm đầu lưỡi: Nếu đầu lưỡi áp chặt vào hàng răng cửa của hàm trên, âm phát ra sẽ được gọi là âm đầu lưỡi - răng. Đầu lưỡi còn có thể áp vào lợi hoặc quặt lên phíạ ngạc tạo nên các âm đầu lưỡi - lợi, hoặc đầu lưỡi- ngạc trong các từ sa, trường ở cách phát âm miên Trung hoặc miền Nam.

- Các âm mặt lưỡi. Đó là những âm kiểu trong các từ cha, nha. ở đây mặt lưỡi được nâng lên phía ngạc cứng.

- Các âm cuối lưỡi hoặc gốc lưỡi. Nét đặc trưng cấu âm của các phụ âm cuối lưỡi là phần cuốĩ lưỡi được nâng lên tiếp xúc với ngạc mềm (rèm ngạc).

- Các âm thanh hầu. Không khí đi ra bị cản trở trong thanh hầu sẽ tạo nên các âm thanh hầu. Âm [h] trong từ hối hả là thuộc loại này.

Những tiêu chuẩn phân loại trên đây đã được sử dụng tổng hợp để miêu tả một phụ âm nào đó. Phụ âm chẳng hạn là phụ âm gốc lưỡi, vang - mũi, tắc, phụ âm [p]- môi, ồn, vô thanh, tắc, phụ âm [d] - đầu lưỡi, ồn, hữu thanh, tắc, v.v...

Tuy nhiên, ngoài những tiêu chuẩn chính như trên, khi miêu tả các phụ âm, người ta còn chú ý đến xu hướng phảt ảm của chúng. Xu hướng này được thể hiện ở chỗ bộ phận phát âm không hoạt động bình thường như thường lệ mà nhích về một phía nào đó, tạo ra một sắc thái âm thanh mới.

Khi một âm gốc lưỡi được phát âm với xu hướng nhích về trước, trở thành một âm mặt lưỡi - ngạc, người ta gọi đó là hiện tượng ngạc hóa. Đây là hiện tượng ngạc hóa trong những từ như bình bịch, chênh chếch (xem thêm chương X).

Ngược lại, khi mặt lưỡi nhích sâu vào phía ngạc mềm hay khẩu mạc, ta có hiện tượng mạc hóa. Đó là hiện tượng âm [l] tối so với âm [l] sáng trong tiếng Anh, âm [l] cứng so với âm [l’] mềm trong tiếng Nga.

Trường hợp một âm vốn không có cách cấu âm tròn môi nhưng lại được phát âm với hai môi tròn lại, ví dụ [t] trong tủ, to, tổ, được gọi là hiện tượng môi hóa.

Chương VIII ÂM VỊ VÀ CÁC HỆ THỐNG ÂM VỊ CỦA TIẾNG VIỆTI. ĐỊNH NGHĨAÂm vị là gì ?Trong một từ như ba của tiếng Việt, ngoài thanh điệu, có hai đơn vị tối thiểu b

và a. Nhờ hai đơn vị ấy người Việt nhận diện được từ ba và phân biệt được vỏ âm thanh của từ này với âm thanh của các từ khác như va, la, ca, bi, bô, be, v.v… Như vậy mỗi đơn vị ngữ âm tối thiểu như b và a đều có hai chức năng: 1) Cấu tạo nên vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa (trong trường hợp này, đó là vỏ âm thanh của từ ba) và 2) phân biệt ( khu biệt) vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa. Mỗi một đơn vị như vậy được gọi là một âm vị. Âm vị (phoneme), vì vậy, được định nghĩa là đơn vị tối thiểu của hệ thống ngữa âm của một ngôn ngữ dùng để cấu tạp và phân biệt vỏ âm thanh của các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ. ĐỂ ghi âm vị, người ta thường đặt kí hiệu phiên âm ở giữa hai vạch nghiêng song song.

Đến đây một câu hỏi tiếp theo lại được đặt ra là: vậy các đơn khác nhau (tức các âm vị) phân biệt với nhau ở những đặc trưng nào? Muốn trả lời được câu hỏi đó chúng ta phải xác định những đặc trưng âm học và cấu âm tạo nên một âm vị cụ

thể, để so sánh những đặc trưng của âm vị này với những đặc trưng của âm vị khác để tìm ra sự khác biệt. Hãy lấy âm vị /n/ làm ví dụ. Âm vị này có ba đặc trưng đáng chú ý là đầu lưỡi, tắc và vang. Tính chất đầu lưỡi làm cho phụ âm này khác với một phụ âm cũng có tính chất tắc và vang như nó nhưng không có tính chất đầu lưỡi mà có tính chất gốc lưỡi. Tính chất tắc làm cho /n/ phân biệt với /l/ là một phụ âm xát, mặc dù cả hai đều là âm vang và đầu lưỡi. Cuối cùng, tính chất vang phân biệt /n/ với /t/ vốn có tính chất ổn và cũng giống /b/ ở tính chất tắt và đầu lưỡi.

Ba đặc trung đầu lưỡi, vang, tắc làm phân biệt các phụ âm có tính chất gần giống nhau, do đó làm cho na phân biệt với nga, với ta với la, làm cho nay phân biệt với ngay, với tay và với lay, v.v… được gọi là những đặc trưng khu biệt (nét khu biệt, dấu hiệu khu biệt, tiêu chí khu biệt). Các đặc trưng khu biệt là những đặc trưng có tác dụng giúp người bản ngữ nhận diện các âm vị, phân biêt các âm vị với nhau và do đó phân biệt các đơn vị có nghĩa của ngôn ngữ.

Quá trình phân tích trên đây cho thấy nội dung của âm vị /n/ được xác định bằng ba đặc trưng khu biệt. Do đó, cs một cách khai quát, âm vị còn được định nghĩa là một chùm hoặc một tổng thể đặc trưng khu biệt được thể hiện đồng thời.[9]

2. Phân biệt âm vị với âm tốÂm vị là một đơn vị trừu tượng còn âm tố là một đơn vị cụ thể. Âm vị được thể

hiện ra bằng các âm tố và âm tố là sự thể hiện của âm vị... Tiếng Việt có một âm vị /N/ nhưng trong lời nói hàng ngày không phải lúc nào ta cũng phát âm những âm [n] cụ thể hoàn toàn như nhau: Khi thì nó mạnh lên, khi thì nó yếu đi, khi thì nó lại được phát âm hơi tròn môi (như trong no, nô). Đó là những âm tố cụ thể. Có thể con chúng như [n1], [n2], [n3],… và cái “lõi” chung của cả dãy là cái gốc (âm vị) /N/. Yếu tố gốc ấy chỉ có ba đặc trưng khu biệt còn mỗi một yếu tố cụ thể thì ngoài ba đặc trưng này còn có cả những đặc trưng khác nữa, ví dụ đặc trưng tròn môi như trong no, nô. Điều đó có nghĩa là âm vị chỉ gồm những đặc trưng khu biệt còn âm tố thì gồm cả những đặc trưng khu biệt còn âm tố thì gồm cả những đặc trưng khu biệt lẫn những đặc trưng không khu biệt.

Chính vì âm vị là cái chung, là cái mang chứ năng khu biệt nên nói đến âm vị là nói đến mặt xã hội. Trái lại, vì âm tố là sự thể hiện của âm vị, là một yếu tố âm thanh cụ thể cho nên nói đến âm tố là nói đến mặt tự nhiên của ngữ âm.

Nói đến âm vị là chỉ bó hẹp trong một ngôn ngữ nhất định vì vậy có thể nói /k/ và /y/ là hai âm vị của tiếng Việt nhưng không thể nói đó là hai âm vị của tiếng Hán, Ngược lại, nói đến âm tố là nói đến một cái gì chung cho mọi ngôn ngữ chứ không phải chỉ cho ngôn ngữ này hay ngôn ngữ khác.

3. Biến thể của âm vị

Âm vị được thể hiện ra bằng các âm tố. Những âm tố cùng thể hiện một âm vị được gọi là các biến thể (variant) của âm vị. Các biến thể thường được phân chia ra làm hai loại: các biến thể kết hợp và các biến thể tự do. Biến thể kết hợp là biến thể bị quy định bởi vị trí, bởi bối cảnh ngữ âm. [m] trong màn và [m] trong mũ là hai biến thể của âm vị /m/. Biến thể thứ hai do đi trước nguyên âm tròn môi [u] nên bị môi hóa. Đó là biến thể kết hợp. Biến thể tự do, ngược lại, là biến thể không bị quy định bởi bối cảnh ngữ âm. Từ mẹ chẳng hạn, có người phát âm với một âm mở to gần lại có người phát âm hẹp gần và có âm [i] nhẹ ở đầu. Đó là những biến thể tự do của âm vị /e/.

II. CÁC HỆ THỐNG ÂM VỊ CỦA TIẾNG VIỆTỞ các ngôn ngữ Âu châu, trong cùng một từ một phụ âm, có thể khi thì đứng ở

cuối khi thì đứng ở đẩu âm tiết. Trong trường hợp này, đổ là hai biến thể vị trí của cùng một âm vị phụ âm /m/. Trong tiếng Việt, chúng ta không có cơ sở gì để nói rằng /m/ trong mê và /m/ trong êm là một âm vị bởi vì chúng vừa khác nhau về đặc điểm cấu âm (một âm mở ra, một âm đóng lại) lại vừa khác nhau về chức năng khu biệt. Hơn nữa, trong cùng một từ, không bao giờ chúng ta thấy có hiện tượng đổi vị trí như /m/ trong từ của tiếng Nga. vì vậy /m/ trong mê và /m/ trong êm là hai âm vị thuộc hai hệ thống khác nhau.

Do tình hình trên, trong các thứ tiếng Âu châu, khi miêu tả và phân loại các âm vị, người ta thường chỉ chia chúng ra làm hai loại chính đối lập nhau về đặc trưng âm học và cấu âm: hệ thống nguyên âm và hệ thống phụ âm.

Đối với tiếng Việt, tình hình không đơn giản như vậy. Các âm tiết tiếng Việt, như đã trình bày ở chương trước, đối lập nhau theo nhiều thành tố: thanh điệu, âm đầu, âm đệm, âm chính và âm cuối. Và ở vị trí của mỗi thành tố dầu có một loạt âm vị cùng đảm nhiệm một chức năng như nhau. Như vậy, xét theo chức năng khu biệt, tiếng Việt có không phải 2 mà 5 hệ thống âm vị khác nhau: hệ thống âm đầu, hệ thống âm đêm, hệ thống âm chính, hệ thống âm cuối và hệ thống thanh điệu.

1. Hệ thống âm đầua) Danh sách cấc âm đầu.Tiếng Việt có tất cả 22 phụ âm làm nhiệm vụ âm đầu.Theo cách phân loại phụ âm đã trình bày ở chương trước, có thể mô tả hệ

thống phụ âm đầu trong một bảng ở trang sau.Trong danh sách trên chúng ta không kể đến hai âm [P] và [R] vì chúng chỉ

tồn tại trong những từ phiên âm tiếng nước ngoài, ví dụ: parabôn, pêlixilin. Riêng âm [R] có tồn tại ở một vài địa phương nhưng phạm vi rất hạn chế.

Ba âm quật lưỡi (uốn lưỡi), không có trong tiếng Hà Nội và một số vùng lân cận. Tuy nhiên, các âm này rất phổ biến ở miền Trung và miền Nam, vì vậy không thể không đưa chúng vào hệ thống.

Phụ âm /ʔ/ tồn tại trong những âm tiết như ai, ơi, ăn, oản. Cách đánh vần "tự nhiên" của trẻ theo kiểu ờ + ăn = ăn, ờ + oan = oan, v.v... đã xác nhận sự tồn tại của âm vị này.

b) Sự thể hiện bằng chữ viết của các âm đầu:Trừ âm vị /ʔ/ không được ghi lại trên chữ viết, phần lớn các phụ âm còn lại đều

có một cách thể hiện.Có một số trường hợp đáng chú ý là:- Phụ âm /z/ được viết bằng d hoặc gi. Nói cách khác, hai cách viết d và gi

ngày nay đều được phát âm thành /z/, ví dụ da thịt, gia đình.- Âm vị /k/ được viết bằng k khi đi trước các nguyên âm /i, e, ε, ie / ví dụ: kì,

kèn, kế, kiến; bằng q khi đi trước âm đệm /w/ ví dụ: quân, quen, quá; bằng c trong những trường hợp còn lại, ví dụ: con cáy.

- /ɤ/ được ghi bằng gh khi đứng trước /i, e, ε /, ví dụ: ghi, ghế, ghen và bằng g trong những trường hợp còn lại; ví dụ: gây gổ.

- / ɲ / được viết bằng ngh khi đi trước / i, e, ε, ie l chẳng hạn: nghi, nghẹn, nghề, nghiến và bằng ng trong những trường hợp khác, ví dụ: ngủ ngon.

c) Vai trò cùa âm đầuc1. Vai trò của âm đầu trong việc nhận diện âm tiếtNgười ta nhận diện âm tiết dựa vào các thành phần cấu tạo nên nó, tức là dựa

vào những cái phân biệt các âm tiết với nhau. Số lượng âm vị đảm nhiệm một thành phần nào đó càng lớn thì việc nhận diện một âm tiết càng dễ. So với các thành phần khác như âm đệm, âm chính, âm cuối, thanh điệu thì âm đầu có số lượng lớn nhất, do đó âm đầu có chức năng khu biệt lớn hơn cả. Dựa vào thành phần này người ta dễ nhận diện âm tiết hơn dựa vào các thành phần khác. Đây là một trong những lí do giải thích vì sao người Việt đã viết tắt dựa vào âm đầu ví dụ MDQD (mậu dịch quốc doanh), HTX (hợp tác xã). Một điều hiển nhiên là cách viết tắt dựa vào âm đầu như XHCN dễ nhận diện âm tiết hơn cách viết tắt dựa vào thanh điệu chẳng hạn ~ . ? ~

2. Vai trò của âm đầu trong các vần thơ Việt NamVần (rhyme) là sự hòa âm giữa hai âm tiết ở những vị trí nhất định trong dòng

thơ, khổ thơ. Sự hòa âm này được tạo ra chủ yếu nhờ sự đồng nhất vận mẫu của hai âm tiết hiệp vần, ví dụ: chồng – đồng, đào - vào. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, sự đồng nhất âm đầu cũng có thể góp phần tạo ra một hòa âm nhất định, ví dụ:

Da trời ai nhuộm mà lamTình ta ai nhuộm, ai làm cho phai

(Nguyễn Bính)Song vần không chỉ có sự đồng nhất mà còn có sự khác biệt để tránh lặp vần -

một hiện tượng thường làm cho người nghe cảm thấy rất "ngang tai". Và âm đầu có vai trò chính, vai trò chủ đạo trong việc tạo ra mặt khác biệt trong văn thợ Việt Nam: ví dụ: đào - vào, ta - ca (1).

(1)Xin xem về vấn đề này trong: Mai Ngọc Chừ [2], [12].2. Hệ thống âm đệma) Khi phát âm những âm tiết như tuấn, ngoan, hai môi của người phát âm

tròn lại. Yếu tố tròn môi trong những âm tiết kiểu này được gọi là âm đệm /w/.Âm đệm /w/ có cấu tạo gần giống như nguyên âm làm âm chính /u/ trong

những âm tiết như hút, lụt nhưng khác với âm chính /u/ ở vị trí và chức năng mà nó đảm nhiệm ở trong âm tiết. Âm chính bao giờ cũng nằm ở đỉnh âm tiết, quyết định âm sắc chủ yếu của âm tiết. Âm đệm, trái lại, chỉ nằm ở sườn đường cong đi lên và chỉ có chức năng tu chỉnh, hoàn thiện thêm, làm trầm hóa âm sắc của âm tiết. So sánh hai âm tiết lụt và luật sẽ thấy rõ điều đó.

Ở những âm tiết như tấn, ngan yếu tố tròn môi như trên không tồn tại. Người ta gọi đó là âm đệm zêrô.

b) Trong lời nói, độ mở của âm đệm /w/ phụ thuộc vào độ mở của nguyên âm - âm chính đi sau. Nếu nguyên âm đi sau là nguyên âm rộng như /a, ă, ε/ thì âm đệm cũng được mở rộng, ví dụ, hoa hòe, xoăn. Ngược lại nếu nguyên âm đi sau là nguyên âm hẹp như /i, e, ɤ, ɤˇ/ thì /w/ cũng được thu hẹp lại ví dụ hủy, huê, tuân.

c) Trên chữ viết, âm đệm /w/ có hai cách thệ hiện phản ánh hai biến thể rộng, hẹp của nó. Nó được ghi bằng con chữ o khi đi trước các nguyên âm rộng /a, ă, ε/, ví dụ: họa hoằn, hoa hòe. Nó được ghi bằng con chữ u khi đi trước các nguyên âm còn lại, ví dụ: huy, huệ, tuần, thuở.

Một điểm đáng chú ý nữa là khi đi sau phụ âm /k/ (với cách viết là q), âm đệm /w/ bao giờ cũng được viết bằng u ví dụ: qua, que, quăn quy, quê,...

d) Âm đệm /w/ không phân bố sau các phụ âm môi /m, b, f, v/.Một số trường hợp đi ra ngoài quy luật này đều là các từ phiên âm từ tiếng

nước ngoài, ví dụ: ô tô buýt, thùng phuy, khăn voan.Trong tiếng Việt, hai âm có cấu âm như nhau hoặc gần nhau thì không kết

hợp với nhau. /w/ là một bán nguyên âm tròn môi, vì vậy nó không đi với các phụ âm môi.

Sau các phụ âm /n, ɤ / sự xuất hiện của /w/ cũng rất hạn chế (chỉ trong vài từ như noãn cầu, noãn sào, goá).

3. Hệ thống âm chínha) Danh sách các nguyên âm làm âm chính.Tiếng Việt có tất cả 13 nguyên âm đơn và 3 nguyên âm đôi làm âm chính. Theo những tiêu chuẩn phân loại nguyên âm đã trình bày (chương VII) mà cụ

thể là dựa vào vị trí của lưỡi, độ mở của miệng hình dáng của môi và thời gian phát âm (trường độ), có thể mô tả các nguyên âm đơn tiếng Việt trong bảng dưới đây.

Xét về mặt âm học, các nguyên âm hàng trước thuộc loại âm sắc bổng, hàng sau - trầm; các nguyên âm có độ mở lớn sẽ có âm lượng lớn, độ mở nhỏ - âm lượng nhỏ.

Ba nguyên âm đôi thuộc về ba hàng: trước, sau không tròn môi và sau tròn môi. Các nguyên âm này đứng ngoài sự đối lập về độ mở (âm lượng) vì chúng được phát âm "trượt" chứ không cố định như các nguyên âm đơn.

b) Sự thể hiện bằng chữ viết của các âm chính.Có 10 nguyên âm chỉ có một cách thể hiện bằng chữ viết.Đó là: /e, ε, ɤ, ɤˇ, a, ɯ, u, o, ɔ /Cần chú ý rằng nguyên âm / ε / được viết bằng chữ cái a trong những từ có

vần anh hoặc ach, ví dụ: rành mạch, tanh tách, nguyên âm /ɔ/ chỉ tồn tại trong những từ có vần ong hoặc oc, ví dụ: ròng rọc, long dong.

Năm nguyên âm có hai cách thể hiện bằng chữ viết.- Nguyên âm /i/ được viết bằng i và y, ví dụ: chi li, ý kiến.- Nguyên âm / ɔ/ được viết bằng oo khi đi trước / ŋ, k/ ví dụ: xoong, moóc,

loong toong và bằng o trong những trường hợp còn lại, ví dụ: gọi to.- Nguyên âm /ă/ được ghi bằng a trong những âm tiết có vần au hoặc ay, ví

dụ: đau tay, chau mày và bằng ă, ví dụ: loắt choắt.- Nguyên âm đôi /uo/ được ghi bằng ua ở những âm tiết có âm cuối zêrô, ví dụ:

mua rùa và bằng uô khi âm cuối không phải zêrô, ví dụ: luống cuống, buôn buốt.- Nguyên âm đôi l ɯ, ɤ l được ghi bằng ưa đối với những âm tiết có âm cuối

zêrô, chẳng hạn: lưa thưa và bằng ươ trong những trường hợp khác, chẳng hạn: vườn tược.

Riêng nguyên âm đôi /ie/ có tới 4 cách thể hiện. Nó được ghi bằng yê ở những âm tiết có âm đệm /w/ và có âm cuối không phải zêrô, ví dụ: tuyên truyền, hoặc âm cuối khác zêró, âm đệm zêrô và âm đầu /?/, ví dụ: yên, yếu. Trong những âm tiết cổ âm cuối không phải zêrô, âm đệm zêrô và âm đầu không phải /ʔ/ thì nó được ghi là iê, ví dụ: chiếu điện. Với những âm tiết có âm cuối zêrô, nguyên âm đôi này được viết bằng ia, ví dụ chia mía. Cũng với âm cuối zêrô nhưng có đệm /w/ thì nó lại được ghi bằng ya, chẳng hạn khuya.

c) Sự thể hiện và quy luật biến dạng của các âm chính trước âm cuối.

Ở những âm tiết có âm cuối zêrô, nguyên âm làm âm chính giờ cũng ở thể dài, ví dụ: đi về nhà.

Khi đi trước / ŋ, k/ (với cách viết là nh, ch hoặc ng, c), các nguyên âm hàng trước, hàng sau tròn môi và nguyên âm hàng sau không tròn môi / ɯ / đều bị ngắn lại. Ví dụ: thích, tỉnh mịch, chênh chếch, lùng sục, hừng hực (trừ hai trường hợp ngoại lệ là các vần eng éc, oong ooc - dấu vết của cách phát âm cổ còn sót lại).

Các nguyên âm đôi bao giờ cũng ở thể dài vì khi cấu âm chúng đòi hỏi phải có một thời gian nhất định đủ để lướt được từ âm nọ đến âm kia. Các nguyên âm này đều bắt nguồn từ một yếu tố có độ mở hẹp trượt xuống một yếu tố cùng hàng có độ mở lớn hơn. Khi âm cuối là zêrô, hiện tượng trượt càng đi xa hơn và các yếu tố thứ hai của cả ba nguyên âm đôi đều có xu hướng tiến gần đến [A]. Đây là lí do giải thích vì sao những người đặt chữ viết đã dùng cùng một con chữ a để ghi các yếu tố thứ hai của cả ba nguyên âm đôi này. Ví dụ chưa mua mía.

d) Quy luật phân bố các âm chínhd1) Quy luật phản bó âm chính sau âm đầu và âm đệm.Trong những âm tiết có âm đệm zêrô, nói chung mỗi nguyên âm đều có thể đi

sau tất cả các phụ âm đầu, trừ hai trường hợp:- Nguyên âm đôi /uo/ không đi sau phụ âm /f/.- Nguyên âm đôi /ie/ không xuất hiện sau / ɤ /.Khi đi sau âm đệm/w/ sự phân bố của âm chính có mấy điểm đáng chú ý là:- Sau /w/ không xuất hiện các nguyên âm hàng sau tròn môi và các nguyên

âm hàng sau không tròn môi. Sở dĩ như vậy là vì âm đệm /w/ và các nguyên âm này rất gần nhau về đặc điểm cấu âm.

- Cũng theo quy luật trên, các nguyên âm hàng trước /i, e, ε, ie/ khi đã kết hợp với âm đệm /w/ vốn là một bán nguyên âm môi thì cũng không bao giờ kết hợp với các phụ âm cuối là âm môi /m, p/.

d2) Quy luật phân bố âm chính trong các vần thơTrong các vần thơ Việt Nam, hai nguyên âm - âm chính ở hai âm tiết hiệp vần

với nhau thường đồng nhất, cùng hàng hoặc cùng độ mở [2], [12], [1]. Một số ví dụ:- Đồng nhất:

Thương ai bằng nỗi thương conNhớ ai bằng nỗi gái son nhớ chồng

(Ca dao)- Hai nguyên âm cùng hàng:Anh cách em như đất liền xa cách bể Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em Em thân thuộc sao thành xa lạ thế

Sắp gặp rồi, sóng lại đẩy xa thêm(Chế Lan Viên)

Thân em như ớt chín câyCàng tươi ngoài vỏ càng cay trong lòng

(Ca dao)- Hai nguyên âm cùng độ mở:Tôi muốn những đêm đông giá lạnh Chiêm bao dừng luẩn quất bên cô Bằng không tôi muốn cô dừng gặp Một trẻ trai nào trong giấc mơ.

(Nguyễn Bính)4. Hệ thống âm cuốia) Danh sách các âm cuốiNgoài âm cuối zêrô, tiếng Việt còn có tám âm cuối có nội dung tích cực trong

đó 6 phụ âm /m, n, ŋ, p, t, k/ và hai bán nguyên /-u, i/ Vị trí của từng âm vị trong hệ thống âm cuối có thể trình bày khái quát trong bảng sau:

b) Sự thể hiện hàng chữ viếtÂm vị zêrô không được ghi lại trên chữ viết. Cần chú ý tới 4 trường hợp sau:Phụ âm /k/ được ghi bằng ch khi xuất hiện trong những âm tiết có các vần ich,

êch, ach, tức là khi nó đi sau /i, e, ε /, ví dụ: chếch, thích, sạch. Ở các âm tiết khác, nó được ghi bằng c, ví dụ: được, việc, bóc, lạc.

Phụ âm /ŋ/ được ghi bằng nh trong những âm tiết có các vần inh, ênh, anh, tức là khi nó đi sau /i, e, ε/, ví dụ: mình, khênh, bánh. Nó được ghi bằng ng trong những trường hợp khác, ví dụ: vùng vằng, không, hàng.

Bán nguyên âm /-u/ được viết bằng o trong những âm tiết có các vần ao, eo, tức là khi nó đi sau /a, ε /,ví dụ: leo cao, trèo, vào. Còn lại, nó được ghi bằng u, ví dụ: kêu cứu, tiu nghỉu, bêu riếu.

Bán nguyên âm /-i/ được ghi bằng y ở những âm tiết có vần ay, ây, ví dụ: mây bay. Trong những âm tiết khác, nó được ghi bằng i, ví dụ: nói, dài, rồi.

c) Sự thể hiện quy luật biến dạng của các âm cuốiTất cả các phụ âm cuối đều là những phụ âm đóng. Âm /m/ trong /nam/ chẳng

hạn, được phát âm khép lại chứ không bật ra theo kiểu [na - m] của tiếng Nga. Đây cũng là một trong những lí do giải thích vì sao tiếng Việt không có hiện tượng nối âm. Trong các ngôn ngữ Âu châu, do phụ âm cuối từ được phát âm bật ra, do sự kết hợp của nó với nguyên âm đi trước khá lỏng lẻo nên khi gặp nguyên âm của từ đi sau, nó dễ dàng bắt quan hệ để tạo nên một âm tiết khác.

Trong số các phụ âm cuối thì /ŋ, k/ có sự biến dạng đặc biệt. Khi đi sau các nguyên âm hàng trước, chúng bị kéo về phía trước và trở thành / ɲ,c/, ví dụ: tỉnh mịch, bách bệnh. Khi đi sau các nguyên âm tròn môi, chúng cũng bị tròn môi lây, ví dụ học, đúc, đồng.

Khi đi sau các nguyên âm dài, các bán nguyên âm /-u, i/ có bị biến dạng ít nhiều tùy thuộc vào độ mở của nguyên âm đi trước. Nếu nguyên âm đi trước có độ mở hẹp thì bán nguyên âm cuối cũng có độ mở hẹp, ví dụ: gửi, túi, níu, cứu. Ngược lại, nếu nguyên âm đi trước có độ mở rộng thì âm cuối cũng được mở rộng hơn, ví dụ: hai, bác.

d) Quy luật phản bố các âm cuối.d1) Quy luật phân bố âm cuối sau âm chínhNói chung tất cả các phụ âm cuối đều phân bố sau tất cả các âm chính, trừ

một số trường hợp là / ŋ, k/ không đi sau / ɤ /,/m, p/, không đi sau / ɯ ɔˇ, εˇ/, /n, t/ không đi sau / ɔˇ, εˇ /. Như vậy sau / ɔˇ, εˇ / chỉ có thể là / ŋ / hoặc /k/ (trong các vần anh, ach, ong, oc).

Hai bán nguyên âm cuối /-u, -i/ kết hợp với âm chính theo nguyên tắc xa nhau về cấu âm, cụ thể là:

- Bán nguyên âm /—i/ thuộc hàng trước chỉ xuất hiện sau các nguyên âm hàng sau (không tròn môi và tròn môi), ví dụ: gửi, nơi, ấy, túi, rồi).

- Bán nguyên âm /-u/ thuộc hàng sau tròn môi chỉ xuất hiện sau các nguyên âm hàng trước và các nguyên âm hàng sau không tròn môi, ví dụ: rêu rao, lâu, keo.

d2) Quy luật phân bố âm cuối trong các vần thơTrong các vần thơ, âm cuối trong cặp âm tiết hiệp vần phân bố theo những

nguyên tắc sau [1] [2] [12].- Đồng nhất hoàn toàn, ví dụ:Gia đình mình đã sơ tán chưa em Chiều thứ bảy em có về phố nhỏ Có ngập ngừng trước khi mở cửa Lá sấu rơi xúc động bên thềm

(Thanh Thảo)- Các âm thuộc cùng nhom vang mũi /m, n, ŋ / đi với nhau.Ví dụ:Sao đặc trời sao sáng suốt đêm Sao dêm chung sáng chẳng chia miền Trời còn có bữa sao quên mọc Anh chẳng đêm nào chẳng nhớ em

(Nguyễn Bính)

- Các âm cùng nhóm tắc - vô thanh /p, t, k/ đi với nhau. Ví dụ:Ngày mai anh đi em có buồn khôngCon đường đôi mình em đến lớpMột mình em giữa hai bờ nướcCây phượng, cây bàng cành cứ níu sang nhau

(Trần Nhương)

Chương IX CÁC HIỆN TƯỢNG NGÔN ĐIỆUỞ trên chúng ta đã đề cập đến khái niệm âm vị. Xưa nay, theo truyền thống

ngôn ngữ học, các âm vị luôn luôn được thể hiện kế tiếp nhau trong lời nói bằng những khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác, mỗi âm vị đều chiếm một khúc đoạn. Tuy nhiên, để tạo nên từ bà chẳng hạn, đồng thời với những âm vị như /b/, /a/ còn phải có thanh huyền - một hiện tượng được thể hiện đồng thời với các âm vị trên. Để tạo nên từ cecrpa đổng thời với các âm vị Nga /sestra/ còn phải có hiện tượng nhấn giọng ở âm tiết [ra]. Những hiện tượng ngữ âm vừa nêu không được định vị trên tuyến thời gian như các âm vị thông thường mà được thể hiện đồng thời với các âm vị dó. Đó là những hiện tượng ngôn điệu (prosodic facts) hay điệu tính. Những hiện tượng ngôn điệu chủ yếu là ngữ điệu, trọng âm và thanh điệu.

I. NGỮ ĐIỆUNgữ điệu (intonation) là sự chuyển động của thanh cơ bản của giọng nói, là sự

nâng cao hoặc hạ thấp giọng Nói trong câu.Cùng với các chỗ ngừng, ngữ điệu cũng là một phương tiện phân loại lời nói. Song ngữ điệu được dùng không chỉ để phân đoạn lời nói. Chức năng chính

của nó là nối liền các bộ phận của lời nói lại với nhau, làm cho lời nói trở nên liền mạch.

Ngữ điệu còn được sử dụng để biểu hiện tính chất của các loại câu. Ở đây nó đóng vai trò là một phương thức ngữ pháp thực thụ. Qua ngữ điệu, người nghe có thể biết được câu nói thuộc loại trần thuật,, nghi vấn hay mệnh lệnh (cầu khiến), v.v... Ví dụ:

- Anh đi? (lên giọng - câu hỏi)- Anh đi! (mệnh lệnh)Trong nhiều ngôn ngữ, sự chuyển động lên của ngữ điệu thường chức năng

tiếp tục, tức là nó thông báo mệnh đề chưa kết thúc, sự chuyển động xuống - có chức năng kết thúc, tức là nó cho biết mệnh đề đã hết. Ngoài ra sự vận động theo hướng nằm ngang có thể có ý nghĩa liệt kê. Ví dụ: Đây: bàn, ghế, tủ, giường...

Cuối cùng, ngữ điệu còn có ý nghĩa đặc biệt trong việc biểu hiện tất cả những sắc thái cảm xúc đa dạng của lời nói. Qua ngữ điệu, người nghe có thể biết được

thái độ, tình cảm của người nói: phẫn nộ, yêu thương, chế diễu, vui vẻ, buồn phiền, lo lắng, hờn dỗi...

Trong tiếng Việt, ngữ điệu thường được sử dụng đồng thời với những từ tình thái như à, ư, nhi, nhé... Sử dụng tốt các phương tiện này sẽ làm cho lời nói trở nên sinh động, có "hồn” và nâng cao được hiệu quả giao tiếp.

II. TRỌNG ÂMTrọng âm (accent) là sự nêu bật một trong những âm tiết của - bằng những

phương tiện ngữ điệu nhất định.Sự nêu bật được tiến hành bằng cách nhấn mạnh âm tiết (tức là bằng cường

độ phát âm) được gọi là trọng âm lực. Sự nêu bật được tiến hành bằng cách kéo dài thời gian phát âm được gọi là trọng âm lượng. Trên thực tế còn có cả những trường hợp nhấn trọng âm vừa bằng cường độ lại vừa bằng thời gian phát âm. Trong tiếng Nga chẳng hạn, âm tiết mang trọng âm vừa được phát mạnh vừa được kéo dài hơn các âm tiết khác.

Tùy từng ngôn-ngữ mà trọng âm có thể cố định hay tự do. Trọng âm cố định là trọng âm bao giờ cũng rơi vào vị trí nhất định của từ. Ví dụ, trong tiếng Sec (Tiệp) trọng âm bao giờ cũng là âm tiết đầu từ, trong tiếng Balan - ở âm tiết trước âm tiết cuối, trong phần lớn các ngôn ngữ Chiur - ở âm tiết cuối. Trọng âm cố định có chức năng phân giới, tức là phân biệt ranh giới giữa các từ. Dựa vào trọng âm, người ta có thể biết được đến đâu hết một từ và bắt đầu một từ khác. Chẳng hạn, nếu trọng âm luôn luôn rơi vào âm tiết, đầu thì cứ đến âm tiết nhấn trọng âm người ta biết là đã sang một từ mới; nếu nó luôn rơi vào âm tiết trước âm tiết cuối thì khi đến trọng âm người ta biết còn một âm tiết nữa sẽ hết từ.

Trọng âm tự do là trọng âm không ở vào vị trí nhất định của từ: trong từ này nó ở âm tiết đầu, trong từ kia - ở âm tiết cuối, trong từ thứ ba - ở âm tiết trước âm tiết cuối, v.v.... Trong các ngôn ngữ có trọng âm tự do, trọng âm có chức năng khu biệt ý nghĩa của từ, nghĩa là khi thay đổi vị trí của trọng âm sẽ dẫn đến việc thay đổi hoặc phá vỡ ý nghĩa của từ.

Khái niệm trọng âm tự do không trùng làm một,với khái niệm trọng âm di động. Đặc điểm của trọng âm di động là trong khi từ biến đổi hình thái, Nó có thể thay đổi vị trí. Trọng âm di động cũng có thể có ở các ngôn ngữ có trọng âm tự do mà cũng có thể có ở các ngôn ngữ có trọng âm cố định.

Trong các ngôn ngữ Âu châu như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp, trọng âm có vai trò đáng kể, Trong tiếng Việt và các ngôn ngữ có thanh điệu khác, vai trò của trọng âm có bị "mờ nhạt" đi trước sự tồn tại của thanh điệu. Tuy nhiên sẽ là không đúng nếu như có thái độ cực đoan cho rằng tiếng Việt hoàn toàn không có trọng âm.

Trong tiếng Việt, trọng âm được nêu bật chủ yếu bằng cách tăng cường trường độ của nguyên âm). Nói cách khác, trọng âm của tiếng Việt chủ yếu là trọng âm lượng. Tiếng Việt có một số từ không bao giờ mang trọng âm (ví dụ từ cái - loại từ). Tuy nhiên có những từ trọng âm được thể hiện khá rõ, ví dụ: cà khẳng, cà khiu, tóe tòe loe. Tuyệt đại đa số các thực từ đều mang trọng âm. Có những cặp từ đối lập trong đó trọng âm là tiêu chí khu biệt duy nhất, ví dụ cho, để là động từ. (Tôi cho anh quyển; Nó để khăn lên bàn) với cho, để là từ hư (quét cho sạch, để anh hiểu). Có những từ đa tiết, nếu đặt sai trọng âm thì từ đó bị phá vỡ; mỗi âm tiết thành một từ riêng biệt, ví dụ bảo với = nói theo và bảo (động từ) + với (giới từ).

III. THANH ĐIỆU VÀ CÁC THANH ĐIỆU CỦA TIẾNG VIỆT1. Định nghĩaThanh điệu (tone) là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết có

tác dụng cấu tạo và khu biệt vỏ âm thanh của từ hoặc hình vị. Sự khác nhau giữa cà và cá là sự khác nhau về thanh điệu: âm tiết cả được phát âm cao, âm tiết cà đựợc phát âm thấp. Nhờ thanh điệu, các câu sau đây đã được hiểu theo các ý nghĩa khác nhau: Con ba ba đâu ròi, Con bà ba đâu ròi, Con ba bà đâu, Còn bà ba đâu rồi,...

Như vậy, nếu như ngữ điệu là đặc trưng của cảu, trọng âm là đặc trưng của từ thì thanh điệu là đặc trưng của âm tiết. Không phải ngôn ngữ nào cũng có thanh điệu. Tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Lào có thanh điệu. Các ngôn ngữ Anh, Nga, Pháp, Khmer không có.

2. Miêu tả các thanh điệu tiếng ViệtTiếng Việt có 6 thanh điệu. Trên chữ viết, năm thanh được ghi lại bằng năm

dấu huyền, ngã, hỏi, sắc, nặng còn một thanh không được ghi lại bằng một dấu nào cả. Có thể gọi đó là thanh không dấu.

a) Thanh không dấu. Đây là thanh điệu cao, có đường nét vận động bằng phẳng từ đầu đến cuối. Ví dụ: đi xe ca sang Gia Lâm.

b) Thanh huyền. So với thanh không dấu, thanh huyền là một thanh thấp. Đường nét vận động của thanh này cũng bằng phẳng như thanh không dấu tuy về cuối có hơi đi xuống.

Như vậy, sự khác nhau giữa thanh không dấu và thanh huyền chủ yếu là ở độ cao. Một số sinh viên nước ngoài học tiếng Việt đã phát âm ba thành bà hoặc ngược lại, là do không phân biệt được hai mức cao - thấp của chúng.

c) Thanh ngã. Thanh ngã bắt đầu ở độ cao gần ngang thanh huyền nhưng không đi ngang mà vút lên kết thúc ở độ cao cao hơn cả thanh không dấu.

Ở thanh ngã, đường nét vận động bị gãy ở giữa do trong quá trình phát âm có hiện tượng bị tác thanh hầu (xem hình dưới). Đây là chỗ khó phát âm đối với trẻ em

và đối với người nước ngoài học tiếng Việt. Thanh này hay bị phát âm thành thanh sắc: ngã —> ngá, nước lã —> nước lá.

d) Thanh hỏi. Đây là một thanh thấp và có đường nét gãy ở giữa. Độ cao lúc bắt đầu của thanh hỏi gần ngang thanh huyền. Sau khi đi ngang một đoạn, thanh này đi xuống và lại đi lên cân xứng với đường đi xuống. Độ cao lúc kết thúc bằng độ cao lúc ban đầu. Ở trẻ em mới học nói, thanh hỏi thường được phát âm thành thanh nặng, ví dụ mỏ cửa — mợ cựa. Ở miền Trung và miền Nam hai thanh ngã và hỏi không được phân biệt vì vậy hay xảy ra tỉnh trạng lẫn lộn “dấu ngã" và "dấu hỏi" khi viết chính tả.

e) Thanh sắc. Lúc bắt đầu, độ cao của thanh sắc gần ngang với thanh không dấu nhưng thanh sắc không đi ngang mà đi lên. Ở những âm tiết có những âm cuối là /p, t, k/ như bắt cóc, nấp thì thanh sắc vút cao ngay, gây ấn tượng ngắn, ở phương ngữ miền Trung có vùng phát âm một số âm tiết mang thanh sắc thành thanh hỏi, ví dụ ý chí —>ý chỉ.

g) Thanh nặng. Thanh nặng là một thanh thấp và có đường nét xuống dần. Ở những âm tiết có âm cuối /p, t, k/ như học tập, một thanh nặng được phát âm xuống ngay. Ở thanh nặng cũng có hiện tượng tắc thanh hầu trong quá trình phát âm.

3. Phân loại các thanh điệu tiếng ViệtTrong phần miêu tả ở trên, chúng ta thấy các thanh điệu phân biệt với nhau

theo hai đặc trưng chủ yếu: độ cao và đường nét vận động. Dựa vào hai đặc trưng này, có thể phân loại các thanh điệu theo hai cách:

- Các thanh có âm vực cao: không dấu, ngã, sắc.- Các thanh có âm vực thấp: huyền, hỏi, nặng.Trong loại âm vực cao, thanh không dấu thuộc bậc cao vừa, còn ngã, sắc thì

cao hẳn.Theo đường nét vận động hay theo âm điệu, các thanh được chia ra:- Những thanh có đường nét bằng phẳng (truyền thống gọi là thanh bằng):

không dấu, huyền.- Những thanh có đường nét không bằng phẳng (truyền thống là thanh trắc):

ngã, hỏi, sắc, nặng.Trong số các thanh trắc có thể phân nhỏ thành:+ Các thanh có đường nét gãy: ngã, hỏi.+ Các thanh có đường nét không gãy: sắc, nặng.Những điều vừa trình bày được tóm tắt trong bảng sau:4. Quy luật phân bố các thanh điệu.a) Thanh điệu trong các kiểu âm tiết

Sự phân bố thanh điệu trong âm tiết liên quan chặt chẽ với thành phần âm cuối.

Ở những âm tiết có âm cuối là phụ âm tắc vô thanh /p, t, k/ chỉ có thể có thanh nặng hoặc thanh sắc. Các thanh không dấu, huyền, ngã, hỏi không thể tồn tại được ở những âm tiết loại này. Sở dĩ như thế là vì:

- Hai thanh không dấu và huyền có đường nét âm điệu bằng phẳng. Đường nét này đòi hỏi phải có một trường độ nhất định mới bộc lộ được. Trong khi đó thì những âm tiết có âm cuối /p, t, k/ bị đống chặt lại làm cho một phần trường độ ở cuối thực chất chỉ là một khoảng im lặng. Vì vậy hai thanh này không có điều kiện để thể hiện đầy đủ đặc trưng bằng phẳng của mình.

- Hai thanh ngã và hỏi có nét đặc trưng ở tính chất gãy. Nếu xuất hiện trong điều kiện trường độ hạn chế thì chúng cũng không bộc lộ được đường nét vận động phức tạp này.

Ở những âm tiết có âm cuối không vô thanh, tất cả các thanh điệu đều có thể xuất hiện.

Như vậy, trong sáu thanh điệu thì hai thanh sắc và nặng có phạm vi phân bố rộng nhất: ở tất cả các kiểu âm tiết.

b) Thanh điệu trong các vần thơ.Trong các vần thơ truyền thống Việt Nam, thanh điệu trong hai âm tiết hiệp

vần với nhau được phân bố theo nguyên tắc cùng âm điệu, cụ thể là cùng bằng hoặc cùng trắc. Ví dụ:

-Cùng bằng: Bỏ thuyền bỏ bến bỏ dòng trongCô lái đò kia đi lấy chồngVần bóng cô em từ dạo ấyĐể buồn cho những khách sang sông.

(Nguyễn Bính)- Cùng trắc: Sông bến Hải bên bồi bên lởCầu Hiền Lương bên nhớ bên thương

(Tố Hữu)Một điểm cần chú ý là đối với những âm tiết đều là vần thơ, ở trên cùng một

dòng nhưng không hiệp vần với nhau (tức là mỗi âm tiết đều bắt vần với một âm tiết ở dòng khác) thì nguyên tắc cùng âm điệu không hoàn toàn bắt buộc. Ở thể song thất lục bát, trong câu thất thứ hai, hai âm tiết là vần thơ không bao giờ cùng âm điệu. Ví dụ:

Thư thường lại người không thấy lại

Hoa dương tàn đã trả rêu xanh Rêu xanh mấy lớp chung quanh…

(Chinh phụ ngâm)Tuy nhiên, trong thể lục bát, ở câu bát, hai âm tiết – vần thơ bao giờ cũng

cùng âm điệu, tức là cùng bằng, và đối lập nhau về âm vực. Ví dụ:Nói ra sợ mất lòng emVan em em hãy giữ nguyên quê mùaNhư hôm em đi lễ chùaCứ mặc như thế cho vừa lòng anh.

(Nguyễn Bính)c) Thanh điệu trong các từ láyTrong tiếng Việt hiện đại, như đã nói, thanh ngã là một thanh cao và thanh hỏi

là một thanh thấp. Tuy nhiên, về mặt lịch sử, vị trí của hai thanh này ngược lại: thanh hỏi cao, thanh ngã thấp.

Như vậy trước đây các thanh cao là: không dấu, hỏi, sắc và các thanh thấp là huyền, ngã, nặng.

Trong các từ láy đôi của tiếng Việt, hai thanh điệu trong hai âm tiết của từ được phân bố theo nguyên tắc cùng âm vực như trên, cụ thể là các thanh không dấu, hỏi, sắc đi với nhau, các thanh huyền, ngã, nặng đi với nhau. Một số ví dụ:

đo đỏ nhan nhản hăm hấp đỏ đắnnhàn nhạt bì bõm kệch cỡm bàng bạcd) Thanh diệu trong các thành ngữMột đặc điểm nổi bật của các thành ngữ tiếng Việt là tính chất đối. Trừ những

thành ngữ được cấu tạo bằng ba âm tiết, những thành ngữ từ bốn âm tiết trở lên thường được chia thành hai vế, đọc thành hai nhịp, ở những thành ngữ loại này, hai vế của một thành ngữ ngoài sự đối xứng về số lượng âm tiết còn có sự đối xứng khá đều đặn về thanh điệu. Quy luật đối xứng đó được thể hiện ở chỗ: các âm tiết cuối của mỗi vế thường mang những thanh đối lập nhau về âm tiết. Mô hình đối xứng là:

...b/ ...t

...t/ ...bVí dụ:

- Màn trời/ chiếu đất- Đứng núi này/ trông núi nọ- Giật đầu cá/ vá đầu tôm- Việc nhà thì nhác/ việc chú bác thì siêngTính chất đối xứng bằng/ trắc trên đây đôi khi có thể "lan" đến âm tiết thứ hai,

thứ ba kể từ âm tiết cuối trở lên.Ví dụ ...666/ ...ttt- Treo đàu dê/bán thịt chó....tbb/...btt.- Đổ mồ hôi/sôi nước mắt....bbt/...ttb- Đời cua cua mảy /dời cấy cáy dào.

Chương X NHỮNG HIỆN TƯỢNG BIẾN ĐỔI NGỮ ÂMTrong lời nói, các âm tố được phát âm không phải một cách biệt lập mà tạo

thành từng chuỗi, từng hàng, ở đây các âm tố có thể bị ảnh hưởng bởi những bối cảnh ngữ âm hoặc bởi sự tác động: lẫn nhau. Trong trường hợp đầu, những biến đổi ngữ âm là những biến đổi vị trí, trong trường hợp sau - những biến đổi kết hợp [7].

I. NHỮNG BIẾN ĐỔI VỊ TRÍTrong các ngôn ngữ Âu châu, những biến đổi vị trí của các âm tố thường bị

quy định bởi vị trí đối với trọng âm, vị trí ở đấu hay ở cuối từ.Trong số các biến đổi vị trí, hiện tượng nhược hóa (reduction) được coi là phổ

biến hơn cả. Nhược hóa là làm yếu âm tố đi về cường độ và trường độ. Hiện tượng nhược hóa nguyên âm thường là trọng âm quy định.

Những biến đổi của các âm tố ở đầu hay cuối từ cũng là những biến đổi vị trí hay gặp. Những biến đổi này thường xảy ra đối với các phụ âm. Trong một số ngôn ngữ, ví dụ tiếng Nga, ở cuối từ, các phụ âm hữu thanh thường được phát âm thành âm vô thanh tương ứng: [b] [p], [d] - [t], [g] - [k],...

Trong tiếng Việt, như đã nói, trọng âm không có vai trò "thống trị” do đí sự chi phối của nó đối với các âm tố cũng không có hiệu lực đáng kể, không gây nên hiện tượng nhược hóa mạnh như trong các ngôn ngữ Âu châu;

Mô hình âm tiết tiếng Việt với 5 thành tố đã tạo nên một cấu trúc rất chặt chẽ. Ở tất cả các vị trí, các âm tố, nói chung, không bị biến đổi, kể cả vị trí cuối từ là vị trí vốn rất dễ tạo nên sự biến đổi âm tố trong các ngôn ngữ Âu châu. Vì vậy, so với các ngôn ngữ này, tiếng Việt ít có những biến đổi vị trí.

II. NHỮNG BIẾN ĐỔI KẾT HỢPNhững biến đổi kết hợp nảy sinh khi các âm tố kết hợp lại với nhau trong

chuỗi lời nói.

Bản chất của những biến đổi kết hợp sẽ được hiểu một cách dễ dàng khi ta chú ý đến ba giai đoạn cấu âm một âm tố: tiến, giữ và lui. Khi ranh giới giữa các giai đoạn này bị thay đổi, xê dịch thì sẽ làm xuất hiện những biến đổi âm tố khác nhau.

Nếu giai đoạn lui của âm đi trước ảnh hưởng đến giai đoạn tiến của âm tố đi sau (hay giai đoạn tiến của âm đi sau phải thích nghi với giai đoạn lui của âm đi trước) thì sẽ xuất hiện những biến đổi kết hợp xuôi; còn nếu giai đoạn tiến của âm tố đi sau ảnh hưởng đến giai đoạn lui của âm tố đi trước (hay giai đoạn lui của âm tố đi trước phải thích nghi với giai đoạn tiến của âm tố đi sau) thì sẽ có những biến đổi kết hợp ngược. Sau đây là một số hiện tượng biến đổi âm tố do sự kết hợp tạo nên.

1. Hiện tượng thích nghi (accommodation). Hiện tượng thích nghi phát sinh khi có sự kết hợp giữa một phụ âm và một nguyên âm. Đó là hiện tượng một trong hai âm tố biến đổi đi để phù hợp, thích nghi với âm bên cạnh. Ví dụ, trong tiếng Việt [t] là một phụ âm không tròn môi nhưng khi đi với các nguyên âm tròn môi như [u], [o] nó cũng bị tròn môi lây chẳng hạn tu, tô. [k] là một phụ âm gốc lưỡi, khi đi với các nguyên âm hàng trước như [i], [e] Nó cũng bị kéo về phía trước chẳng hạn: ki, kế. Đố là những hiện tượng thích nghi ngược vì âm đi trước phải biến đổi cho gần với âm đi sau.

Một trong những ví dụ về hiện tượng thích nghi xuôi là trường hợp của những từ có các vần inh, ich, anh, ach, ênh, êch. Ở đây a phụ âm cuối khi đi sau các nguyên âm hàng trước bị kéo lên trước và trở thành: chinh chích, bềnh bệch, sành sạch.

2. Hiện tượng đồng hóa (assimilation): Đồng hóa cũng là hiện tượng thích nghi nhưng xảy ra đối với các âm cùng loại: nguyên âm với nguyên âm, phụ âm với phụ âm. Hai nguyên âm hoặc hai phụ âm gần nhau, một âm biến đi để có cấu âm gần với âm kia hơn. Trong tiếng Nga [Sbit’] được phát âm thành [zbit’]; Ở đây [S] là âm vô thanh được phát âm thành âm hữu thanh [z] do đi trước âm hữu thanh [b]. Đó là hiện tượng đồng hóa ngược.

Trong tiếng Việt, hiện tượng đồng hóa thường gặp ở các thành phần. Ví dụ: năm mười - năm mươi (âm tiết thứ hai được chuyển từ thanh huyền sang thanh không dấu để phù hợp với âm tiết thứ nhất), muôn vạn — muôn vàn (âm tiết thứ hai chuyển từ một thanh trắc sang một thanh bằng để gần với âm tiết thứ nhất), v.v...

3. Hiện tượng dị hóa (katabolism): Hai nguyên âm hoặc hai phụ âm có cấu âm gần nhau, một âm biến đi để cho chúng trở nên khác nhau . Đó là hiện tượng dị hóa. Một vài thí dụ của tiếng Nga:

[tramvai] – [tranvai]([m] và [v] đều là phụ âm môi, để cho khác nhau, [m] được chuyển thành [n]

là âm lưỡi).

[bomba] – [bonba]([m] và [b] đều là phụ âm môi, vì vậy [m]-[n])Trong tiếng Việt, hiện tượng dị hóa hay xẩy ra ở các từ láy và theo một quy

luật khá chặt chẽ. Quy luật đó là:p-m: đẹp đẹp – đèm đẹp, chiếp chiếp – chiêm chếp, xốp xốp – xôm xốp, sụp

sụp – sùm sụp.Hiện tượng dị hóa còn xẩy ra chỉ ở thanh điệu, ví dụ:Ngoài những hiện tượng biến đổi ngữ âm phổ biến đã nêu trên, trong các ngôn

ngữ trên thế giới còn có thể có những biến đổi khác nữa, ví dụ, hiện tượng thêm âm (ai ấy — ai nấy, người nào người ấy — người nào người nấy), hiện tượng bớt âm (ba mươi mốt —> băm mốt, phải không — phỏng) v.v... Tất cả những hiện tượng này nói chung, đều tồn tại với mục đích làm cho cách phát âm trở nên dễ dàng, thuận tiện hơn.

chậm chậm —> chầm chậmĐậm đậm—> đầm dậmTúng túng-> tung túngĐỏ đỏ—> đo đỏ

Chương XI CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢI. VAI TRÒ CỦA CHỮ VIẾT VÀ MỘT VÀI NHẬN XÉT VỀ CÁC KIỂU CHỮ VIẾT1. Vai trò của chữ viếtNgôn ngữ âm thanh trong một thờĩ gian rất dài đã trở thành công cụ duy nhất

để con người có thể truyền đạt cho nhau những kinh nghiệm sản xuất và đấu tranh. Tuy nhiên việc sử dụng ngôn ngữ âm thanh không phải không có những hạn chế nhất định. Khi hai người giao tiếp bằng lời, ảnh hưởng của ngôn ngữ âm thanh chỉ có hiệu lực trong một phạm vi nhất định. Ngoài phạm vi ấy, người này không thể nghe được tiếng nói của người kia. Như vậy là ngôn ngữ âm thanh có sự hạn chế nhát định về mặt không gian. Mặt khác, "lời nói gió bay", mỗi lời nói chỉ được thu nhận vào đúng lúc nó được phát ra. Hết thời điểm ấy, nó không tồn tại nữa. Chính vì thế mà đến ngày nay chúng ta không còn nghe được tiếng Nói của các bậc anh hùng dân tộc như Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung [3]. Xét về mặt này, ngôn ngữ âm thanh cũng không vượt qua được cái hố ngăn cách của không gian.

Để khắc phục hai mặt hạn chế đó của ngôn ngữ âm thanh, con người đã tìm ra một hình thức thông tin mới: thông tin bằng chữ. Như vậy, chữ viết ra đời do nhu

cầu thông tin liên lạc xét về mặt không gian và nhu cầu truyền đạt những kinh nghiệm sản xuất và đấu tranh xét về mặt thời gian.

Chữ viết là một hệ thống kí hiệu đồ họa dược sử dụng để cố định hóa ngôn ngữ âm thanh. Chức năng của chữ viết, vì vậy, là đại diện cho lời nói. So với lời nói thì chữ viết xuất hiện sau. Vì vậy chữ viết tất phải phụ thuộc vào lời nói. Khi giữa lời nói và chữ viết không có sự phù hợp nữa thì phải cải tiến chữ viết chứ không phải có tìm cách phát âm theo chữ viết hiện hành, bởi vì làm như vậy là "ngược", chẳng khác nào sửa đầu cho vừa mũ, sửa chân cho vừa dép, sửa người cho vừa quần áo.

2. Các kiểu chữ viếta) Chữ viết ghi ýLà chữ viết cổ nhất của loài người, chữ viết ghi ý không có quan hệ với mặt

âm thanh mà chỉ có quan hệ với mặt ý nghĩa của ngôn ngữ. Quan hệ giữa ý và chữ ở đây là trực tiếp.

Ví dụ điển hình nhất về chữ viết ghi ý là các chữ số, các dấu: 1, 2, 3, =, V, +, ... Khi ta viết, ví dụ, số 1, người Việt, người Nga, người Pháp, người Anh, người Khmer đều hiểu, mặc dù người mỗi nơi phát âm một khác: người Việt phát âm là "một", người Nga - [adin], người Anh - [wan] (one), người Khmer - [muoi].

Thông thường mọi một chữ ghi ý đều biểu thị trực tiếp nội dung, ý nghĩa của một từ. Do đó, về nguyên tác, có bao nhiêu từ phải đặt ra bấy nhiêu kí hiệu để ghi. Số lượng từ của một ngôn ngữ tuy không vô hạn nhưng rất lớn vì vậy số lượng kí hiệu để biểu thị ý nghĩa của nó sẽ nhiều vô kể, trong khi đó thì khả năng ghi nhớ của bộ đc con người lại có hạn. Đây là điều bất tiện cơ bản, là hạn chế chính của chữ viết ghi ý.

b) Chữ viết ghi âmChữ viết ghi âm không quan tâm đến mặt nội dung, ý nghĩa của từ mà chỉ ghi

lại chuỗi âm thanh của từ đó. Chữ viết ghi âm là đại diện của ngữ âm chứ không phải của ý nghĩa. Quan hệ giữa chữ và ý ở đây là một quan hệ gián tiếp mà âm là trung gian.

Chữ viết ghi âm được chia ra làm hai loại; chữ ghi âm tiết và chữ ghi âm vị. Ở chữ viết ghi âm tiết, mỗi kí hiệu biểu thị một âm tiết. Số lượng âm tiết so với số lượng từ thì ít hơn nhiều, vì vậy chữ ghi âm tiết đơn giản hơn hẳn chữ ghi ý. Đối với chữ ghi âm vị, mỗi kí hiệu biểu thị một âm vị. Quan hệ giữa âm vị và kí hiệu là quan hệ 1 - 1 đối với một hệ thống chữ viết lí tưởng. Khi quan hệ này bị thay đổi, ví dụ một âm vị có nhiều cách ghi hoặc nhiều âm vị chỉ có một cách ghi, thì phải đặt vấn đề cải tiến chữ sao cho phù hợp với hệ thống âm vị.

So với chữ viết ghi ý, chữ viết ghi âm, nhất là chữ ghi âm vị, tiến bộ hơn nhiều. Ưu thế đặc biệt của kiểu chữ viết này là ở chỗ số lượng kí hiệu ghi âm được giảm

xuống nhiều lần vì số lượng âm vị của một ngôn ngữ thường chỉ nằm trong khoảng trên 10 và dưới 100 (theo P.X.Kuznêxov), do đó con người có thể tiết kiệm được sức lực và thời gian trong việc học đọc, học viết.

II. CHÍNH TẢ VÀ MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHUẨN CHÍNH TẢChính tả là sự chuẩn hóa hình thức chữ viết của ngôn ngữ. Đó là một hệ thống

các quy tắc về cách viết các âm vị, âm tiết, từ, cách dùng các dấu câu, lối viết hoa...Chuẩn chính tả có những đặc điểm chính sau đây [14]:1. Đặc điểm đầu tiên của chuẩn chính tả là tính chất bất buộc gần như tuyệt

đối của nó. Đặc điểm này đòi hỏi người viết bao giờ cũng phải viết đúng chính tả. Chữ viết có thể chưa hợp lí nhưng khi đã được thừa nhận là chuẩn chính tả thì người cầm bút không được tự ý viết khác đi. Ai cũng biết rằng viết ghế, ghen không hợp lí và tiết kiệm bằng gế, gen nhưng chỉ có cách viết thứ nhất mới được coi là đúng chính tả. Vì vậy nói đến chuẩn chính tả là nói đến tính chất pháp lệnh. Trong chính tả không có sự phân biệt hợp lí - không hợp lí, hay - dở mà chỉ có sự phân biệt đúng - sai, không lỗi - lỗi. Đối với chính tả yêu cầu cao nhất là cách viết thống nhất, thống nhất trong mọi văn bản, mọi người, mọi địa phương.

2. Do chuẩn chính tả có tính chất bắt buộc gần như tuyệt đối cho nên nó ít bị thay đổi như các chuẩn mực khác của ngôn ngữ (như chuẩn ngữ âm, chuẩn từ vựng, chuẩn ngữ pháp). Nói cách khác, chuẩn chính tả có tính chất ổn định, tính chất có hữu khá rõ. Sự tồn tại nhất nhất hàng thế kỉ của nó đã tạo nên ấn tượng về một cái gì "bất di bất dịch", một tâm lí rất bảo thủ. Chính vì thế mặc dù biết rằng cách viết iên ngỉ hợp lí hơn nhưng đối với chúng ta nó rất "gai mắt", khó chịu vì trái với cách viết từ bao đời nay. Mặt khác, do tính chất "trường tồn" này mà chính tả thường lạc hậu so với sự phát triển của ngữ âm. Sự mâu thuẫn giữa ngữ âm "hiện đại" và chính tả "cổ hủ" là một trong những nguyên nhân chính làm cho chính tả trở nên rắc rối.

3. Ngữ âm phát triển, chính tả không thể giữ mãi tính chất có hữu của mình mà dần dần cũng có một sự biến động nhất định. Do đó, bên cạnh chuẩn mực chính tả hiện có lại có thể xuất hiện một cách viết mới tồn tại song song với Nó, ví dụ: phẩm zá, anh zủng bên cạnh phẩm giá, anh dũng, trau dồi bên cạnh trau giòi, dòng nước bên cạnh giòng nước, dành cho đồng thời với giành cho, v.v...Tình trạng có nhiều cách viết như vậy đòi hỏi phải tiến hành chuẩn hóa chính tả.

III - TÌNH HÌNH CHỮ VIẾT VÀ CHÍNH TẢ CỦA TA HIỆN NAYA. Đánh giá chungChữ viết của ta có tên là "chữ quốc ngữ". Chữ quốc ngữ là chữ ghi âm vị, vì

vậy, Về mặt lí thuyết nó tiến bộ mà về mặt thực tiễn thì nó dễ học, dễ nhớ. Hơn nữa, nếu so với các thứ chữ ghi âm khác như chữ Anh, chữ Pháp thì chữ quốc ngữ dễ học hơn hẳn do giữa âm và chữ không có một khoảng cách quá xa.

Tuy nhiên trong chữ viết và chính tả của ta hiện nay vẫn đang một số mặt hạn chế đáng lưu ý.

1. Trong chính tả hiện nay đang có những trường hợp cùng một âm vị nhưng được viết tùy tiện theo hai cách khác nhau. Đó là cách viết lung tung i/y và d/gi. Ví dụ hy/hi sinh, mị/mỵ dân, kì/kỳ, lí/lý, giãi/dãi, giò/dò, giàn/dàn, giây/dây, giô/dô, dăm/giăm, ... Đây là hai trường hợp được viết không thống nhất nhiều người, thậm chí ngay trong một người ở những lúc khác nhau, những văn bản khác nhau.

Ngoài hai trường hợp trên, còn một số trường hợp khác cũng không có sự tương ứng 1-1 giữa âm vị và cách thể hiện nhưng có nguyên tắc chính tả rõ ràng, do đó không gây nên cách viết lung tung, ví dụ gh và g; k, c và q,...

2. Một tình hình đáng quan tâm nữa là cách viết không thống nhất đối với những âm tiết khó xác định một chuẩn mực phát âm cụ thể, tức là những tiếng chưa có cách phát âm ổn định và những -ng có đến vài ba biến thể phát âm địa phương khác nhau, ví như: trưng/chưng bày, cay xè/sè, công sá/xá, bảy/bẩy, giàu/giầu, lỉnh/lãnh, thật/thực/thiệt, nhất/nhứt,...

3. Một vấn đề khác không liên quan đến ngữ âm nhưng cũng nằm trong phạm vi chính tả là cách viết hoa tùy tiện.

- Viết hoa tên người: Phan Vũ Diễm Hằng, Phan vũ diễm Hằng hay Phan vũ Diễm Hằng ?

- Viết hoa tên đất: Hải Phòng hay Hải phòng, Kiên Giang hay Kiên giang?- Viết hoa tên các cơ quan, tổ chức, xí nghiệp: Bộ Giao thông Vận tải, bộ Giao

thông vận tải hay Bộ giao thông vận tải ? Trường đại học Tổng hợp Hà Nội, trường đại học Tổng hợp Hà Nội hay Trường đại học Tổng hợp Hà Nội?

4. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài (tên người, tên đất) và các-luật ngữ khoa học kĩ thuật lại càng rối ren. Các tên này vào các in bản tiếng Việt thường được viết theo nhiều cách:

- Dịch nghĩa: biển Đen (hoặc Hắc Hải), Mũi Hảo Vọng- Viết nguyên dạng chữ gốc: Ferdinanó de Saussure- Phiên âm:+ Trực tiếp: Napôlêông, Mêhicô,…+ Qua một ngôn ngữ khác: Ý đại lợi, Anna Kha Lệ Ninh (qua Hán - Việt),

Sêchpia (Shakespeare) (qua Anh),...5. Cuối cùng là vấn đề dùng hay không dùng dấu nối: Hải - Phòng hay Hải

Phòng, Rumani hay Ru-ma-ni, Tachiana hay Ta-chi-a-na.Những cách viết không thống nhất như trên đòi hỏi phải được chuẩn hóa càng

nhanh càng tốt.B. Một số quy định về chuẩn hóa chính tả

Trên cơ sở những ý kiến thảo luận qua các hội nghị về chính tả và thuật ngữ trong những năm qua, Ủy ban Khoa học xã hội và Bộ Giáo dục đã thông qua một số quy định về chính tả để kịp thời thống nhất chính tả trong sách giáo khoa cải cách giáo dục và từng bước khắc phục tình trạng viết lung tung hiện nay. Dưới đây là một số quy định đã được đông đảo các nhà nghiên cứu ủng hộ).

1. Thống nhất viết nguyên âm - âm chính /i/ bằng chữ cái “I”, ví dụ: lí luận, kỉ thuật, mỉ thuật...

Chú ý: - Khi cần phân biệt uy với ui như túy với túi thì vần uy vẫn viết như cũ.- i hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, ví

dụ: y (hắn ta), ý kiến, yêu, ầm ỉ, ỉ eo.2. Khi trong thực tế đang tồn tại hai hình thức chính tả mà mưa xác định được

một chuẩn duy nhất thì có thể chấp nhận cả hai hình thức ấy, ví dụ: eo sèo / eo xèo, sứ mạng / sứ mệnh.

3. Về cách viết hoa tên riêng tiếng Việt.- Tên người và tên nơi chốn: viết hoa tất cả các âm tiết và không dùng gạch

nối, ví dụ: Trần Quốc Toản, Binh Trị Thiên, Phan Vũ Diễm Hằng.- Tên tổ chức, cơ quan: chỉ viết hoa âm tiết đầu trong tổ hợp - dùng làm tên, ví

dụ: Đảng cộng sản Việt Nam, Trường đại học bách khoa Hà Nội, Ủy ban bảo vệ bà mẹ trẻ em.

4. Về cách viết tên riêng không phải tiếng Việt.- Nếu chữ nguyên ngữ dùng chữ cái Latin thì giữ nguyên trên chữ viết như

trong nguyên ngữ, ví dụ: Paris.- Nếu chữ viết nguyên ngữ dùng một hệ thống chữ cái khác -ni áp dụng lối

chuyển tự chính thức sang chữ cái Latin.- Nếu chữ viết nguyên ngữ không phải là chữ ghi âm bằng chữ cái (ghi từng

âm) thì dùng một cách phiên âm chính thức bằng chữ cái Latin, ví dụ: Tokyo.- Những tên riêng đã có hình thức quen thuộc thì nói chung không cần thay

đổi, ví dụ: Pháp, Anh, Hi lạp, Bắc Kinh, Lỗ Tấn.- Chỉ viết hoa âm tiết đầu từ, ví dụ: Puskin.5. Về việc dùng dấu nối.- Dùng dấu nối trong các liên danh như: cách mạng khoa học – kỉ thuật, môn

hóa - dược, Quảng Nam - Đà Nẵng.- Dùng dấu nối khi chỉ giới hạn về không gian, thời gian, số lượng, ví dụ:

chuyến tàu Hà Nội - Huế, thời kì 1945 - 1954, sản lượng 5-7 tấn.- Khi phân biệt ngày, tháng, năm: 2-9-1945, 30-4-1975. Trên đây mới chỉ là những quy định đối với một số trường hợp đang gây nên

tình trạng hỗn độn trong cách viết. Trong việc chuẩn hóa chính tả và cải tiến chữ

viết còn nhiều vấn đề nữa cần tiếp tục thảo luận, nghiên cứu, chẳng hạn, viết d/gi thống nhất bằng z, việc dùng f thay ph, việc bỏ h trong gh, ngh... Và, xa hơn nữa, việc thống nhất dùng một trong ba cách viết c, k, q, dùng một cách thể hiện cho âm đệm lwl, ... Đố là những công việc của tương lai.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH(PHẦN II)

1. Nguyễn Phan Cảnh. Ngôn ngữ thơ. Nxb Đại học và gdcn, H, 1988.2. Mai Ngọc Chừ. Tìm hiểu vần thơ Việt Nam. Luận án PTS, H. 1986.3. Nguyễn Thiện Giáp. Dẫn luận ngôn ngữ học (in rônêô). Trường Đại học Tổng

hợp Hà Nội ấn hành.4. Lữ Huy Nguyên. Nói lái trong tiếng Việt. "Ngôn ngữ" Số 3-1971.5. Đoàn Thiện Thuật. Đóng góp vào việc giới định từ da tiết bằng tiêu chí trọng

âm trong tiếng Việt, Thông báo khoa học Văn học - ngôn ngữ, tập II, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 1966.

6. Gordina M.V. Vấn đề âm vị trong tiếng Việt. "Những vấn đề ngôn ngữ học", M., N 6, 1959 (tiếng Nga).

7. Kochergina V.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Trường Đại học Tổng hợp Moskơva (Những cơ sở của ngữ âm - âm vị học), 1979 (tiếng Nga).

8. Reformatski A.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, M., 1967 (tiếng Nga).

9. Trubezkoj N.X. Những cơ sở âm vị học. Nxb Sách nước ngoài, M., 1960 (tiếng Nga).

NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC10.Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Đại học và then, H., 1975 (Phần

thứ nhất: Tiếng)11. Hoàng Thị Châu. Tiếng Việt trên các miền đất nước. Nxb Khoa học xã hội,

H., 1989.12. Mai Ngọc Chừ. Văn thơ Việt Nam dưới ánh sáng ngôn ngữ học. Nxb Đại học

và gdcn, H., 1991.13. Cao Xuân Hạo. Vê cương vị ngôn ngữ học của tiếng. "Ngôn ngữ". Số 2-

1985.14. Hoàng Phê. Vấn đề cải tiến và chuẩn hóa chính tả. "Ngôn ngữ" số 3 + 4-

1979.15. Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Nxb Đại học và then. H., 1980.16. Cù Đình Tú..Ngữ âm học tiếng Việt hiện dại, Nxb Giáo dục. H., 1978.17. Zinder L.R. Ngữ âm học đại cương, Nxb Giáo dục, H., 1964.

Phần thứ ba CƠ SỞ TỪ VỰNG HỌC và TỪ VỰNG TIẾNG VIỆT

• Từ vựng học và từ• Cụm từ cố định• Nghĩa của từ• Quan hệ đồng âm, đồng nghĩa và nghĩa trong từ vựng• Biến đổi trong từ vựng• Các lớp từ trong từ vựng

Chương XII TỪ VỰNG HỌC VÀ TỪI. TỪ VỰNG HỌC LÀ GÌ1. Nói cho đơn giản thì từ vựng học (lexicology) là bộ môn ngôn ngữ học

nghiên cứu từ vựng của ngôn ngữ.Vậy đối tượng nghiên cứu của từ vựng học là từ vựng.Từ vựng được hiểu là tập hợp tất cả các từ và đơn vị tương đương với từ trong

ngôn ngữ.Đơn vị tương đương với từ là những cụm từ cố định, cái mà người ta vẫn hay

gọi là các thành ngữ, quán ngữ. Ví dụ: ngã vào võng đào, múa tay trong bị, con gái rượu, tóc rễ tre, của đáng tội... trong tiếng Việt; hoặc Wolf in sheep’s clothing (Sói đội lốt cừu), like a bat out of hell (ba chân bốn cẳng)... trong tiếng Anh.

2. Nhiệm vụ và mục đích cơ bản của từ vựng học là phải giải đáp những vấn đề chính như:

a) Từ là gì; Nó được tạo nên bằng cái gì và như thế nào ?b) Nghĩa của từ là gì; muốn phân tích cho ra được cái nghĩa đó thì phải làm thế

nào?c) Thực chất các kiểu tập hợp từ vựng như: đồng âm, đồng nghĩa, trái nghĩa,

các trường từ vựng... là gì và nghiên cứu nó như thế nào.d) Phân chia các lớp từ vựng bằng cách nào; và những con đường phát triển

của từ vựng ra sao...Trong thực tế, nghiên cứu từ vựng có thể xuất phát từ những binh diện khác

nhau và dùng những phương pháp khác nhau. Nếu khảo sát những vấn đề chung cho mọi (hoặc nhiều) từ vựng của nhiều ngôn ngữ, là ta nhìn ở bình diện của từ vựng học đại cương.

Ngược lại nếu chỉ quan tâm đến những vấn đề của một từ vựng trong một ngôn ngữ nào đó, là ta đứng trên bình diện nghiên cứu cụ thể. Ví dụ: từ vựng học tiếng Việt, từ vựng học tiếng Hán, từ vựng học tiếng Anh...

Khi nghiên cứu một từ vựng đương đại (hiện đại) nào đó, người ta phân tích, miêu tả theo cách nhìn đổng đại, và thường gọi tên như: từ vựng học (tiếng Việt, tiếng Nga...) hiện đại.

Ngược lại, nghiên cứu từ vựng với cách nhìn lịch đại sẽ xây dựng nên bộ môn từ vựng học lịch sử, khảo sát sự diễn biến của từ vựng trong quá trình phát triển - lịch sử của nó. Ở đây, phương pháp so sánh lịch sử và các nhân tố ngoài ngôn ngữ, sẽ rất được chú ý khai thác, sử dụng.

3. Như đã nói từ đầu, các bộ môn: từ vựng học, ngữ âm học và ngữ pháp học là những bộ môn tương đối độc lập. Tuy vậy, cũng không tách biệt nhau hoàn toàn mà vẫn có liên quan đến nhau.

Ngữ pháp học và từ vựng học đều có đối tượng nghiên cứu là từ; đặc biệt, vấn đề cấu tạo từ như là một phần giao giữa hai bộ môn này, khiến cho cả hai đều phải cùng thảo luận. Đối tượng nghiên cứu của ngữ âm học thì riêng hẳn: chỉ chú ý đến mặt âm thanh của từ. Thế nhưng ba bộ môn này nhiều khi đã phải sử lung kết quả nghiên cứu của nhau. Việc phân tích nghĩa của từ dùng phương pháp sử dụng ngữ cảnh, việc phân định ranh giới chẳng hạn, làm sao có thể bỏ qua không dựa vào các dấu hiệu và quy tắc ngữ pháp, ngữ âm như: nguyên tắc kết hợp từ chức năng và trật tự ngữ pháp, hiện tượng chuyển đổi từ loại, các hiện tượng trọng âm (nhất là trọng âm lực - dynamic accent), hiện tượng mất tính thanh của âm cuối... Mặt khác, nghiên cứu các biến thể, biến dạng của từ, nhất là nghiên cứu từ vựng lịch sử và từ nguyên, chắc chắn phải sử dụng những hiểu biết về ngữ âm học, âm vị học. Ngược lại, không hiếm những hiện tượng ngữ pháp và ngữ âm (nhất là ngữ âm lịch sử) chỉ có thể giải quyết qua những phân tích "một cách từ vựng học" như phân tích về từ cổ, từ lịch sử, từ ngữ địa phương,..

Ngoài ra, các bộ môn khác, kể cả trong và ngoài ngôn ngữ học như: phong cách học, từ điển học, lịch sử văn hóa văn minh... cũng đều ít nhiều liên quan tới từ vựng học.

4. Có những bộ môn hình thành trên cơ sở nghiên cứu những mặt, những bộ phận khác nhau của từ vựng. Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt về cách hiểu thì có thể xem như chúng được tách ra từ từ vựng học vậy. I

4.a. Trước hết là từ nguyên học. Bộ môn này có mục đích tìm hiểu, giải thích và xác định những hình thức, những ý nghĩa có tính chất cội nguồn của từ. Nó tiếp cận đối tượng nghiên cứu bằng cách nhìn lịch đại là chủ yếu; và nhiều khi còn phải vận dụng cả dữ liệu của những ngành khoa học lân cận như: sử học, dân tộc học, văn hóa và chính trị...

Một ví dụ: Miền Trung Việt Nam có con sông gọi là sông Mã. Trong dân gian, người ta giải thích rằng gọi nó là sông Mã vì nó chảy xiết, nhanh và mạnh như ngựa phi; và sông Mã nghĩa là "sông Ngựa".

Cách giải thích cảm tính, chủ quan, không chứng cớ như vậy, gọi là từ nguyên học dân gian.

Từ nguyên học khoa học phải tìm những chứng cớ khoa học để giải thích. Thật ra, sông Mã là lối nói "trại" đi của cái tên đích thực: sông Mạ, được ghi bằng một chữ Hán, đọc là Mã (ngựa).

Mạ trong tiếng Việt xưa (nay còn lưu lại trong phương ngữ miền Trung) vốn có nghĩa là "mẹ". Những con sông lớn ở vùng Đông Nam Á thường được gọi bằng cái tên cọ nghĩa "mẹ" (với ngụ ý là lớn, lớn nhất) như vậy. Chẳng hạn:

Tiếng Việt cổ sông Cái, rào cái = sông mẹTiếng Thái Lan cổ Menam = sông mẹTiếng Môn cổ có Meklong = sông mẹ(Mô hình tên gọi này còn thể hiện qua cách đặt tên cho một số sự vật "lớn"

khác trong tiếng Việt: ngón tay cái, cột cái, mảy cải, ngón chăn cái, đũa cái...)Vậy tên gọi sông Mạ không ngoài quy luật đặt địa danh nêu trọng toàn vùng,

và cần thiết hiểu sông Mã = sông Mạ = sông Cái (nghĩa là "sông mẹ", "sông lớn") chứ không phải là “sông Ngựa".

Nghiên cứu từ nguyên là công việc đầy khó nhọc, nhưng hết sức thú vị.4.b. Bộ môn danh học nghiên cứu các quy luật đặt tên: tên người, tên sông,

tên núi non, tên vùng đất... vì vậy, ở đây có hai phần: nhân danh học và địa danh học.

Ví dụ 1. Nhân danh học có thể nghiên cứu các quy luật đặt tên riêng của người Việt, Hán, Khmer, Mường... và phải gắng tìm câu trả lời cho những câu hỏi đại loại như:

- Tên gọi riêng của từng người trong các dân tộc đó có những yếu tố gì, dùng để biểu thị cái gì ?

- Giới tính có được biểu thị trên tên gọi hay không ?- Tên họ của vợ và chồng có ảnh hưởng gì sau khi lấy nhau không? Các yếu tố

tâm lí, thẩm mĩ, kiêng kị... có ảnh hưởng đến việc đặt tên không, và nếu có thì gây tác động theo xu hướng nào...

Nhìn lướt qua tên riêng của người Việt trong gần một thế kỉ nay, ta có thể thấy:

Tên nữ, trước đây bắt buộc phải là:Họ + thị (thể hiện giới tính) + Tên riêng (lúc chưa lấy chồng)Họ chổng + thị + Tên chổng (từ khi lấy chồng)

Tên nam giới thường là:Họ + tên đệm (tùy thích và không nhất thiết phải có) + tên riêng.Hiện nay, tên gọi của nữ giới không bắt buộc phải dùng yếu tố thị. Ví dụ: Trần

Phượng Li, Ngô Việt Hà... Phụ nữ ngày nay lấy chồng vẫn dùng họ tên mình, không phải gọi theo chồng nữa.

Mặt khác, rất nhiều tên kép đã xuất hiện, dùng cho cả nam lẫn nữ: Kiều Oanh, Hoàng Lan, Tuấn Anh, Diễm Mi... và thậm chí, có cả những tên riêng ít nhiều đặc biệt như: Thanh Thanh, Nôen, Diễm Diễm, Li Li...

Tên riêng người Việt đang có những biến động rất đa dạng tùy theo giới tính, trình độ giáo dục, nghề nghiệp, môi trường sống và sở thích cá nhân. Xu hướng chung là đẹp hóa tên riêng và đa dạng hóa tên riêng. Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì người Việt cũng không dùng tên của bố, mẹ, ông, bà, cụ, kị, tên của những người khả kính trong quan hệ với mình để đặt tên cho mình. Trong quan niệm của họ, đó là điều kiêng kị đến mức có thể được xếp vào phạm vi của đạo đức ứng xử.

Ví dụ 2. Nghiên cứu quy luật đặt tên sông ở Đông Nam Á người ta thấy nét nói bật là chúng thường mang yếu tố chỉ khái niệm "nước" hoặc "sông". Vùng ngôn ngữ Tày, Thái dùng yếu tố nặm/nậm: Nậm Tà (sông Hồng), Nặm Tè (sông Đà), Nặm Má (sông Mã), Nặm Khoáng (sông Mê Kông) và các con sông khác như: Nặm Le, Nậm Na, Nậm Róm...

Ở Thái Lan có sông Mê Nam (Mê:mẹ, Nam = nặm) vùng ngôn ngữ thuộc nhóm Môn - Khmer (tiếng Ba Na, Hrê, Xê Đăng...) người ta dùng yếu tố dak: sông Đak Rong, sông Đak Min, hồ Đak Lak...

4.c. Ngữ nghĩa học là bộ môn nghiên cứu các vấn đề về nghĩa của từ. Nó liên quan trực tiếp nhất đến từ điển học là bộ môn nghiên cứu những vấn đề lí thuyết và kĩ thuật xây dựng các loại từ điển. Từ điển học liên quan rất chặt chẽ với từ vựng học và ngữ nghĩa học. Có thể phân chia từ điển thành hai loại lớn.

c.1. Các từ điển bách khoa: Đây là loại từ điển không nhằm xây dựng các từ trong ngôn ngữ nói chung, mà chủ yếu đưa ra và giải thích các khái niệm; trình bày từ lai lịch của nó đến các quan điểm khác nhau, cùng với những thay đổi của nó (nếu có) về mặt nội dung...

Loại từ điển bách khoa cho tất cả các lĩnh vực, gọi là bách khoa toàn thư; còn loại cho từng lĩnh vực một thì gọi là từ điển bách khoa chuyên ngành. Ví dụ: Từ điển bách khoa nông nghiệp, Từ điển bách khoa y học.

c.2. Từ điển ngôn ngữ: đây là loại từ điển được xây dựng bằng từng con đường "ngôn ngữ học". Chúng được phân loại ra như sau:

Từ điển một ngôn ngữ, được biên soạn cho một ngôn ngữ cụ thể nào đó ở từng mặt, từng lĩnh vực. Ví dụ: từ điển giải thích; từ điển đồng nghĩa; từ điển chính tả; từ

điển từ nguyên; từ điển tần số (chung hoặc cho từng lĩnh vực); từ điển ngược inversal dictionary)...

Từ điển nhiều ngôn ngữ, được biên soạn trên cơ sở đối chiếu hai hay nhiều ngôn ngữ. Ở đây cũng có thể gồm từ điển đối chiếu phổ thông như: Từ điển Anh - Việt; Từ điển Nga - Việt; Từ điển Việt - Pháp... từ điển đối chiếu chuyên ngành như: Từ điển toán học Anh - Việt; Từ điển y học Nga - Việt; Từ điển hóa học Anh - Việt...

5. Ở Việt Nam, nếu xét một cách nghiêm ngặt thì từ giữa thế kỉ XX trở về trước, chúng ta chưa hề có bộ môn từ vựng học nói riêng và ngôn ngữ học nói chung.

Có chăng, chỉ có thể nói, do yêu cầu cụ thể, với những mục đích khác nhau, một số từ điển đã được làm ra ở nước ta nhờ một số người vốn không phải là chuyên nghiên cứu ngôn ngữ học (Việt và không phải Việt). Chẳng hạn:

- Dictionnarium Annamiticum - Lusitanum et Latinum của ie. Rhodes. Romae; 1651.

- Dictionaire Annamite - Franqais của M.Genibrel , Tân Định. 1898.- Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa của Túc Tăng Pháp tính (khoảng thế kỉ XVI -

XVII. Bản dịch của Nxb Khoa học Hà Nội, 1985).- Đại nam quốc âm tự vị của Paul Huỳnh Tịnh Của; Sài Gòn, 1825.Tuy vậy, qua vài thập kỉ gần đây, bộ môn từ vựng học ở nước ta đã đạt được

những kết quả rất đáng trân trọng, đống góp công sức đáng kể vào công việc nghiên cứu tiếng Việt nói chung.

II. TỪ VÀ CẤU TẠO TỪ1. Vấn đề định nghĩa từ1.a. Mỗi chúng ta, đã tiếp thu và nhận ra cái gọi là từ thông qua thực tiễn học

tập và sử dụng ngôn ngữ.Cái khổ là ở chỗ phải nêu ra một định nghĩa có tính lí thuyết về từ. Cho đến

nay, trong ngôn ngữ học, các định nghĩa về từ đã được đưa ra không ít. Các định nghĩa ấy, ở mặt này hay mặt kia đều đúng, nhưng đều không đủ và không bao gồm hết được tất cả các sự kiện được coi là từ trong các ngôn ngữ và ngay cả trong một ngôn ngữ cũng vậy. Chẳng hạn:

Từ là một tổ hợp âm có nghĩa chăng? Từ là một tổ hợp các âm phản ánh khái niệm chăng? Từ là một đơn vị tiềm tàng khả năng trở thành câu chăng? Từ là một kí hiệu ngôn ngữ ứng với một khái niệm chăng?...

Tình trạng phức tạp của việc định nghĩa từ, do chính bản thân từ trong các ngôn ngữ, không phải trường hợp nào cũng như nhau. Chúng có thể khác nhau về:

- Kích thước vật chất- Loại nội dung được biểu thị và cách biểu thị

- Cách thức tổ chức trong nội bộ cấu trúc- Mối quan hệ với các đơn vị khác trong hệ thống ngôn ngữ như hỉnh vị, câu ...- Năng lực và chức nhận khi hoạt động trong câu nóiXét hai từ hợp tác xã và nếu trong tiếng Việt làm ví dụ, ta sẽ thấy:Từ thứ nhất có kích thước vật chất lớn hơn nhiều so với từ thứ hai; và cấu trúc

nội tại của nó cũng phức tạp hơn nhiều.Từ thứ nhất biểu thị một khái niệm, có khả năng hoạt động độc lập trong câu,

làm được chủ ngữ, bổ ngữ, định ngữ... trong câu; còn từ thứ hai lại không biểu thị khái niệm không có được năng lực để thực hiện những chức phận như từ thứ nhất...

Vì những lẽ đó, không hiếm nhà ngôn ngữ học (kể cả F.de. Seissure, S. Bally, G.Glison...) đã chối bỏ khái niệm từ, hoặc nếu nhận khái niệm này thì họ cũng lãng tránh việc đưa ra một khái niệm chính thức.

Lại có những nhà nghiên cứu xuất phát từ một lĩnh vực cụ thể nào đó, đã đưa ra những định nghĩa từng mặt một như từ âm vị học, từ ngữ pháp, từ chính tả, từ từ điển...

Dù sao, từ vẫn là đơn vị tồn tại tự nhiên trong ngôn ngữ; và chính nó là đơn vị trung tâm của ngôn ngữ; bởi vì đối với mỗi chúng ta, nói như ý của E.Sapir thì việc nhận thức từ như là cái gì đấy hiện thực về mặt tâm lí, chẳng có khó khăn gì đáng kể.

1.c. Mong muốn của các nhà ngôn ngữ học đưa ra một định nghĩa chung, khái quát, đầy đủ về từ cho tất cả mọi ngôn ngữ, tiếc thay, cho đến nay vẫn chưa đạt được và có lẽ sẽ không thể đạt dược. Chúng ta có thể đồng tình với L.Serba khi ông cho rằng từ trong ngôn ngữ khác nhau, sẽ khác nhau..., và không thể có được một khái niệm về từ nói chung.

Tuy thế, để có cơ sở tiện lợi cho việc nghiên cứu, người ta vẫn thường chấp nhận một khái niệm nào đó về từ tuy không có sức bao quát toàn thể nhưng cũng chỉ để lọt ra ngoài phạm vi của nó một số lượng không nhiều các trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn:

Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây dựng nên cầu. Quan niệm này gần với quan niệm của B.Golovin trong cuốn sách Dẫn luận ngôn ngữ học của ông. Nó cũng có nhiều nét gần với quan niệm của L.Bloomfield, coi từ là một hình thái tự do nhỏ nhất. Có nghĩa rằng từ là một hình thái nhỏ nhất có thể xuất hiện độc lập được.

1.d. Ngay cả những quan niệm như thế, sự thực cũng không phải là áp dụng được cho tất cả mọi ngôn ngữ và tất cả mọi kiểu - Chẳng hạn từ nếu vừa nói bên trên cũng như từ và, với, thì, trong tiếng Việt; từ and, up, in, of... của tiếng Anh không thỏa mãn được điều kiện "tái hiện tự do" trình bày trong quan niệm này.

Gặp những trường hợp tương tự như vậy (trường hợp của những cái mà ta vẫn gọi là từ hư) người ta phải có những biện luận riêng:

- Trước hết, tất cả chúng đều có nghĩa của mình ở dạng này hay dạng khác, thể hiện bằng cách này hay cách khác.

- Thứ hai, khả năng "tái hiện tự do" của chúng được thể hiện "một cách không tích cực". Cần nhớ là trong ngôn ngữ, chỉ có những đơn vị cùng cấp độ thì mới trực tiếp kết hợp với nhau. Xét hai câu bình thường trong tiếng Việt và tiếng Anh:

- Em sống với bố và mẹ.- He will leave here after lunch at two o’clock.Ở đây, em, bố, mẹ, sống, he, leave, here, lunch, two, o’clock chắc chắn là các

từ. Vậy thì với, và, will, after, at cũng phải là từ.- Thứ ba, không hiếm từ hư trong một số ngôn ngữ đã được chứng minh là có

nguồn gốc từ từ thực. Sự hao mòn ngữ nghĩa cùng với sự biến đổi về chức năng của chúng đã xảy ra. Tuy vậy, không vì thế mà tư cách từ của chúng bị xóa đi. Ví dụ: trong tiếng Hinđu: me (trong) < madhya (khoảng giữa) của tiếng Sanscrit; ke arth (để, vì) < artha (mục đích) của Sanscrit... trong tiếng Hausa: bisan (trên) < bisa (đỉnh, chóp); gaban (trước) < gaba (ngực)... trong tiếng Việt: của < của (danh từ); phải < nhải (động từ); bị < bị (động từ)...

Việc xét tư cách từ cho những trường hợp như: nhà lá, áo len, đêm trăng, chó mực, cao hổ cót... trong tiếng Việt còn phức tạp hơn nhiều. Trong các ngôn ngữ khác cũng không phải là không có tình hình tương tự.

Mặc dù các nhà nghiên cứu đã có gắng tìm tòi những tiêu chí cơ bản, phổ biến để nhận diện từ (như: tính định hình hoàn chỉnh, tính thành ngữ, do A.Smirnitskij đưa ra chẳng hạn) nhưng khi đi vào từng ngôn ngữ cụ thể, người ta vẫn phải đưa ra hàng loạt tiêu chí khác nữa, có thể cụ thể hơn, khả dĩ sát hợp với thực tế từng ngôn ngữ hơn, và thậm chí phải có cả những biện luận riêng.

2. Cấu tạo từ2.a Từ được cấu tạo nhờ các hình vị. Nói cách khác, từ được ra nhờ một hoặc

một số hình vị kết hợp với nhau theo những nguyên tắc nhất định. Ví dụ:Từ tiếng Anh antipoison= anti + poisonVậy hình vị là gì ?Quan niệm thường thấy về hình vị, được phát biểu như sau:Hình vị là đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa và/hoặc có giá trị (chức năng) về

mặt ngữ pháp.Quan niệm này xuất phát từ truyền thống ngôn ngữ học châu Âu vốn rất mạnh

về hình thái học, dựa trên hàng loạt các ngôn biến hình. Chẳng hạn trong dạng thức played của tiếng Anh người ta thấy ngay là: play và -ed. Hình vị thứ nhất gọi tên, chỉ

khái niệm về một hành động, còn hình vị thứ hai biểu thị thời của hành động đặt trong mối quan hệ với các từ khác trong câu mà played xuất hiện.

Các hình vị được phân chia thành những loại khác nhau. Trước là sự phân loại thành các hình vị tự do và hình vị hạn chế (bị ràng buộc).

Hình vị tự do là những hình vị mà tự nó có thể xuất hiện với tư cách những từ độc lập, ví dụ: house, man, black, sleep, walky.. của tiếng Anh; nhà, người, đẹp, tốt, đi, làm.. của tiếng Việt.

Hình vị hạn chế là những hình vị chỉ có thể xuất hiện trong tư thế đi kèm, phụ thuộc vào hình vị khác. Ví dụ: -ing, -ed, -s,... của tiếng Anh;

Trong nội bộ các hình vị hạn chế, người ta còn chia thành hai loại nữa: các hình vị biến đổi dạng thức (các biến tố) và các hình vị phái sinh.

- Hình vị biến tố là những hình vị làm biến đổi dạng thức của từ để biểu thị quan hệ giữa từ này với từ khác trong câu. Ví dụ: cats, played, ivorked, singing ... trong tiếng Anh.

- Hình vị phái sinh là những hình vị biến đổi một từ hiện có cho một từ mới. Ví dụ:

kind - kindness, merry - merryly, (to) worh - worker,...của tiếng Anh.Lĩnh vực nghiên cứu về cấu tạo từ chú ý trước hết đến các hình vị tự do và

hình vị phái sinh.Nếu căn cứ vào vị trí của hình vị trong từ, người ta có thể phân chúng thành

hai loại lớn: gốc từ (cái mang ý nghĩa từ vựng chân thực, riêng cho từng từ) và phụ tố (cái mang ý nghĩa ngữ pháp, chung cho từng lớp, nhiều từ). Tùy theo phụ tố đứng ở trước gốc từ, trong gốc từ hay sau gốc từ, người ta gọi chúng lần lượt là tiền tố, trung tố và hậu tố.

2.b. Từ trong các ngôn ngữ được cấu tạo bằng một số phương thức khác nhau. Nói khác đi, người ta có những cách khác nhau trong khi sử dụng các hình vị để tạo từ.

1 - Dùng một hình vị tạo thành một từ. Phương thức này thực chất là người ta cấp cho một hình vị cái tư cách đầy đủ của một từ; vì thế, cũng không có gì khác nếu ta gọi đây là phương thức từ hóa hình vị. Ví dụ các từ: nhà, người, đẹp, ngon, viết, ngủ... của tiếng Việt; các từ dây, tức, phle, kôn,..của tiếng Khmer, các từ: in, of, with, and...của tiếng Anh, Nga là những từ được cấu tạo theo phương thức này.

(Thật ra, nói “dùng một hình vị tạo thành một từ” hoặc "từ hoá hình vị" là không hoàn toàn chặt chẽ về lôgic, vì điều đó ngụ ý rằng hình vị phải là cái có trước từ. Trong khi đó, xét tới ngọn nguồn và tổng thể ngôn ngữ thì từ phải là cái có trước, còn đơn vị mang tư cách hình vị và những "hình vị được từ hoá" chỉ là các kết quả

có được ở hậu kì. Do vậy, đây chỉ là cách nói cho giản tiện trong việc phân loại và miêu tả mà thôi.)

2 - Tổ hợp hai hay nhiều hình vị để tạo thành từ.2.a. Phương thức phụ gia.a.1. Phụ thêm tiền tố vào gốc từ hoặc một từ có sẵn.Ví dụ: tiền tố -y - npu ...trong tiếng Nga:2.2. Phụ thêm hậu tố.Hậu tố -er, -ness, -less, -ly, -ity... của tiếng Anh trong các từ: player, kindness,

homeless...a.3. Phụ thêm trung tố2.b. Ghép các yếu tố (hình vị) gốc từ.Phương thức này cũng gọi là phương thức hợp thành.Ví dụ:trong tiếng Anh: homeland, newspaper, inkpot… trong tiếng Việt: dường sắt, cá vàng, sân bay...Ở đây không phải chỉ kể những trường hợp ghép các hình vị thực gốc từ, mà

còn kể cả trường hợp ghép các hình vị vốn hiện diện là những từ hư, những "từ ngữ pháp" như bởi vì, cho nên,... trong tiếng Việt.

2.c. Phương thức lấyThực chất của phương thức này là lặp lại toàn bộ một phần của từ, hình vị ban

đầu trong một số lần nào đó theo quy tắc cho phép, để cho một từ mới. Ví dụ như những từ:

- co ro, lúng túng, giỏi giang, vành vạnh,... của tiếng Việt.Trên đây đã trình bày một số phương thức cơ bản để cấu tạo từ trong các

ngôn ngữ. Sự thật thì các phương thức ấy có những biểu hiện còn đa dạng hơn và đôi khi chúng đan xen vào nhau Mặt khác, cũng cần lưu ý là các phương thức tạo từ không hiện diện và hoạt động đồng đều trong mọi ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong các ngôn ngữ Ấn Âu, phương thức phụ gia có hiệu lực mạnh bởi một trong những lí do là ở các ngôn ngữ này, sự đối lập hình vị gốc từ với các phụ tố là nét nổi bật; và chúng có những hệ hình thái cực kỉ phát triển. Trong khi đó tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, không biến hình lại chủ yếu dựa vào phương thức hợp thành và phương thức láy. Kết cục là trong mỗi ngôn ngữ tồn tại một tình trạng gần như là đáp đổi bù trừ giữa các phương thức cấu tạo từ: phương thức này ít hoạt động thì gia tăng phương thức kia để "bù lại".

3. Từ trong tiếng Việt

Nếu không đòi hỏi thật nghiêm ngặt và chấp nhận một cách nhìn để làm việc thì quan niệm về từ đã trình bày ở phần trên là có thể dùng được cho tiếng Việt. Có thể phát biểu lại như sau:

Từ là đơn vị nhỏ nhất có nghĩa, có kết cấu vỏ ngữ âm bền vững, hoàn chỉnh, có chức năng gọi tên, được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để tạo câu.

Ví dụ: nhà, người, ảo, củng, nếu, sẽ, thì,...đường sắt, sân bay, dạ dày, đen sì, dai nhách,...3.a. Đơn vị cấu tạo. Đơn vị cơ sở để cấu tạo từ tiếng Việt là các tiếng, cái mà

ngữ âm học vẫn gọi là các âm tiết.Mặc dù nguyên tắc phổ biến là các từ được cấu tạo từ các hình vị, nhưng hình

vị trong các ngôn ngữ khác nhau có thể không như nhau.3.a.1. Tiếng của tiếng Việt có giá trị tương đương như hình vị trong các ngôn

ngữ khác, và người ta cũng gọi chúng là các hình tiết (morphemsyllable) - âm tiết có giá trị hình thái học.

- Về hình thức, nó trùng với âm đoạn phát âm tự nhiên được được gọi là âm tiết (syllable).

- Về nội dung, nó là đơn vị nhỏ nhất có nội dung được thể hiện. Chí ít nó cũng có giá trị hình thái học (cấu tạo từ). Sự có mặt hay vắng mặt của một tiếng trong một "chuỗi lời nói ra" nào đó, bao giờ cũng đem đến tác động nhất định về mặt này hay mặt khác. Ví dụ:

đỏ - đo đỏ - đỏ đắn - đỏ rực - đỏ khé – đỏ sẫm... vịt - chân vịt - chân con vịt...3.a.2. Xét về ý nghĩa, về giá trị ngữ pháp, vê năng lực tham gia cấu tạo từ...

không phải tiếng (hình tiết) nào cũng như nhau.Trước hết có thể thấy ở bình diện nội dung:a - Có những tiếng tự nó mang ý nghĩa, được quy chiếu vào một đối tượng,

một khái niệm như: cây, trời, cỏ, nước, sơn, hỏa, thủy, ái...b - Có những tiếng tự thân nó không quy chiếu được vào một hiện tượng, một

khái niệm; nhưng có sự hiện diện của nó trong cấu trúc từ hay không, sẽ làm cho tình hình rất khác nhau. Đó là chưa kể không ít trường hợp đã tìm ra nghĩa của chúng trong quá khứ lịch sử của tiếng Việt. Chúng nhiều khi là kết quả của hiện tượng hao mòn ngữ nghĩa (desemantic) đến mức tối đa như vẫn thường gặp. Ví dụ: (dai) nhách; (xanh) lè; (áo) xống; (tre): ICO; (cỏ) rả; (đường) sả; (e) lệ; (trong) vất; (nắng) nôi...

c — Có những tiếng tương tự như loại b. vừa nêu, nhưng chúng lại xuất hiện trong những từ mà tất cả các tiếng tham gia tạo từ đều như thế cả (đều không quy chiếu vào một khái niệm, một đối tượng - nếu tách rời nhau). Ví dụ: mồ - hôi - bò -

hòn - mì - chính - a - pa - tít... Các từ ở đây có thể thuộc nguồn gốc Việt hư: mồ hôi, bồ hòn... nhưng cũng có thể thuộc nguồn gốc ngoại li như: mì chính, a pa tít...

Sự tranh luận về giá trị và ý nghĩa của tiếng, thực sự chỉ tập rưng ở những tiếng thuộc loại b. và c.; nhất là loại c. Tuy nhiên, tư cách và giá trị tương đương với hình vị trong tiếng Việt vẫn có thể chứng minh được (mặc dù chưa thực sự có sức thuyết phục tuyệt đối cho tất cả mọi trường hợp) qua các hiện tượng tách rời lặp, chen thành tố, hoặc rút gọn... Ví dụ:

sung sướng - ăn sung mặc sướng (quần) xi mi li - (quần) xi (...)Mặt khác, cũng cần thấy rằng các tiếng thuộc loại c. này không chiếm số

lượng nhiều trong tiếng Việt; và đa số trong số đó lại thuộc nguồn gốc ngoại lai. Chúng thuộc phạm vi ở vùng biên chứ không phải ở vùng tâm của tiếng Việt. Hơn nữa, mặc dù chưa có những chứng cứ đầy đủ về mặt tâm lí ngôn ngữ học, nhưng chúng ta cũng phải lưu ý đến một điều là: trong ứng xử ngôn ngữ, dường như người Việt luôn luôn có tâm lí chờ đợi ở mỗi tiếng (bất kể tiếng đố như thế nào) một nghĩa nào đấy; hoặc sẵn sàng cấp cho nó một nghĩa nào đấy. Nếu không vậy thì làm sao người ta có thể chấp nhận được những tiếng, những câu như sau: Trời đất khen sao khéo khéo phòm của Hồ Xuân Hương ?

Nói tóm lại, trong Việt ngữ học hiện nay, nếu lấy tiêu chí: có chỉ ra, có quy chiếu vào đối tượng nào, khái niệm nào hay không: thì người ta vẫn quen phân loại và gọi các tiếng thuộc loại a. kể trên là loại tiếng có nghĩa; còn các tiếng loại b. và c. là tiếng vô nghĩa.

3.a.3. Về năng lực hoạt động ngữ pháp, có thể căn cứ vào tiêu chí: "có khả năng hoạt động tự do hay không" để chia các tiếng thành hai loại.

X- Loại tiếng tự do: có thể hoạt động tự do trong lời nói với tư cách từ. Thật ra thì chúng là những tiếng mà tự thân một mình đã đủ khả năng tạo thành từ. Chẳng hạn: làng, xã, người, đẹp, nói, đi...

y- Loại tiếng không tự do: Loại này gồm hai nhóm.Những tiếng không tự do nhưng tự thân chúng có mang nghĩa: thủy, hỏa, hàn,

trường, đoản, sơn...Những tiếng không tự do mà tự thân không mang nghĩa: (lạnh) lẽo, (đen)

nhảnh; mồ, hôi, cà, phê...Tuy nhiên, ranh giới giữa các loại tiếng không phải là hoàn toàn tuyệt đối. Cần

phải lưu ý đến những trường hợp trung gian giữa loại này với loại kia, phạm vi này với phạm vi kia.

3 b. Phương thức cấu tạoTừ điển tiếng Việt được cấu tạo hoặc là bằng cách dùng một tiếng, hoặc là tổ

hợp các tiếng lại theo lối nào đó.

3 b.1. Phương thức dùng một tiếng làm một từ sẽ cho ta các từ đơn (còn gọi là từ đơn tiết). Vậy từ đơn ở đây được hiểu là những từ được cấu tạo bằng một tiếng.

Ví dụ: tôi, bác, người, nhà, cây, hoa, trâu, ngựa, đi, chạy, cười, đùa, vui, buôn, hay, đẹp, vì, nếu, đã, đang, à, ư, nhỉ, nhé...

3 b.2. Phương thức tổ hợp (ghép) các tiếng lại, mà giữa các tiếng (thành tố cấu tạo) đó có quan hệ về nghĩa với nhau, sẽ cho ta những từ gọi là từ ghép. Dựa vào tính chất của mối quan hệ mễ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo, có thể phân loại từ ghép tiếng như sau:

Từ ghép đẳng lập. Đây là những từ mà các thành tố cấu tạo có quan hệ bình đẳng với nhau về nghĩa, ở đây, có thể lưu ý tới hai khả năng.

Thứ nhất, các thành tố cấu tạo trong từ đêu rõ nghĩa. Khi dùng mỗi thành tố như vậy để cấu tạo từ đơn thì nghĩa của từ đơn và nghĩa của các thành tố này không trùng nhau.

So sánh: ăn (khác) ăn ở (khác) ăn nói (khác) ở (khác) nói...Thứ hai, một thành tố rõ nghĩa tổ hợp với thành tố không rõ nghĩa. Trong hầu

hết các trường hợp, những yếu tố không rõ nghĩa này vốn rõ nghĩa nhưng sau bị bào mòn dần đi ở các mức độ khác nhau. Bằng con đường tìm tòi từ nguyên và lịch sử, người ta thường xác định được nghĩa của chúng. Ví dụ: chợ búa, bếp núc, đường sá, tre pheo, cỏ rả, sầu muộn, chó má, gà qué, cá mú, xe cộ, áo xống...

Từ ghép đẳng lập biểu thị ý nghĩa khái quát và tổng hợp. Đây là một trong những điểm làm cho nó khác với các từ ghép chính phụ.

Từ ghép chính phụ. Những từ ghép mà có thành tố cấu tạo này phụ thuộc vào thành tố cấu tạo kia, đều được gọi là từ ghép chính phụ. Thành tố phụ có vai trò phân loại, chuyên biệt hóa và sắc thái hóa cho thành tố chính, ví dụ: tàu hỏa, đường sắt, sân bay, hàng không, nông sản, cà chua, máy cái, dưa hấu, cỏ gà, xấu bụng, tốt mã, lão hóa, xanh lè, đỏ rực, ngay đơ, thẳng tắp, sưng vù...

3.b.3. Phương thức tổ hợp các tiếng trên cơ sở hòa phối ngữ âm cho ta các từ láy (còn gọi từ lấp láy, từ láy âm).

Từ láy tiếng Việt có độ dài tối thiểu là hai tiếng, tối đa là bốn tiếng và còn có loại ba tiếng. Tuy nhiên, loại đầu tiên là loại tiêu biểu nhất cho từ láy và phương thức láy của tiếng Việt.

Một từ sẽ được gọi là từ láy khi các yếu tố cấu tạo nên chúng có thành phần ngữ âm được lặp lại; nhưng vừa có lặp (còn gọi là điệp) vừa có biến đổi (còn gọi là đối). Ví dụ: đỏ đắn: điệp phần âm đầu, đối ở phấn vần. vì thế, nếu chỉ có điệp mà không có đối (chẳng hạn như: người người, nhà nhà, ngành ngành…, thì ta có dạng láy của từ chứ không phải là từ láy. Kết hợp tiêu chí về số lượng tiếng với cách láy, có thể phân loại từ láy như sau:

Từ lấy gồm hai tiếng (cũng gọi là từ láy đôi) có các dạng cấu tạo như sau:Láy hoàn toàn. Gọi là láy hoàn toàn nhưng thực ra bộ mặt ngữ âm của hai

thành tố (hai tiếng) không hoàn toàn trùng khít nhau, chỉ có điều là phần đối của chúng rất nhỏ khiến người ta vẫn nhận ra được hình dạng của yếu tố gốc trong yếu tố được gọi là yếu tố láy. Cá thể chia các từ láy hoàn toàn thành ba lớp nhỏ hơn:

a) Lớp những từ láy hoàn toàn, chỉ đối nhau ở trọng âm (một trong hai yếu tố được nói nhấn mạnh hoặc kéo dài). Ví dụ: cào cào, ba ba, châu chấu, đu đủ, rề rề, lăm lăm, khăng khăng, kìn kìn, lù lù, lâng lâng, dùng dùng, hây hây, gườm gườm, dăm dăm...

b) Lớp từ láy hoàn toàn, đối nhau ở thanh điệu. Nguyên tắc đối thanh điệu ở đây là: thanh bằng đối với thanh trắc trong mỗi nhóm cùng âm vực; và bằng đứng trước, trắc đứng sau.

BẰNGThanh không dấu (1)Huyền (2)TRẮCHỏi (4) Sắc (5)Ngã (3) Nặng (6) Ví dụ: đo đỏ, ra rả, hây hầy, hau háu, hơ hớ, ngay ngấy, phơi phới, sừng sững,

chòm chỗm, vành vạnh, lừng lững, hơn hớn, càu cạu, thoang thoảng...Tuy nhiên, ở đây vẫn có một số ngoại lệ như: cỏn con, dửng dưng, mảy may,

cuống cuồng...c) Lớp từ láy hoàn toàn, đối ở phần vần nhờ sự chuyển đổi âm cuối theo quy

luật dị hóa (xem chương X):m - png - cn - tnh - chVí dụ: ăm ắp, chiêm chiếp, cầm cập, lôm lốp, hèm hẹp...chan chát, khin khít, sòn sột, thơn thớt, ngùn ngụt... khang khác, vầng vặc, rừng rực, phưng phức, phăng phắc... anh ách, chênh chếch, dành dạch, phành phạch, rinh rích...Thanh điệu của các yếu tố trong mỗi từ vẫn tuân theo quy luật của lớp b.Lảy bộ phận. Những từ láy nào chỉ có điệp ở phần âm đầu, hoặc điệp ở phần

vần thì được gọi là từ láy bộ phận. Căn cứ vào đó, có thể chia từ láy bộ phận thành hai lớp.

a) Lớp từ láy (điệp) âm đầu, đối ở phần vần; ví dụ như: bập bênh, cò kè, hó he, thơ thẩn, đẹp đẽ, làm lụng, ngơ ngác, say sưa, xoắn xuýt, vồ vập, hấp háy...

Trong lớp này, có những từ xét về mặt lịch sử vốn không phải là từ láy, nhưng vì quan hệ về nghĩa giữa các yếu tố của chúng mất dần đi, làm cho quan hệ ngữ âm ngẫu nhiên giữa các yếu tố đó nói lên hàng đầu, và hiện giờ người Việt nhất loạt coi chúng là từ láy, Ví dụ: chùa chiền, tuổi tác, giữ gìn, sân sướng... Nghĩa của những từ như vậy được tổ chức theo kiểu của các từ tre pheo, chó má, đường sá, xe cộ, áo xống...

Trong khi xét sự đối vần ở đây, cũng cần lưu ý tới hiện tượng đối ứng ở âm chính. Hiện tượng này không phải là quy luật toàn thể, nhưng khá đều đặn ở một số nhóm từ:

u đối với i: cũ kỉ, hú hí, xù xì, tủm tỉm, mũm mỉm...ô - ê: ngô nghê, xồ xề, hổn hển, thỗn thện...o - e: ho he, vo ve, khò khè, võ vẽ, nhỏ nhẻ...i - a: hỉ hả, rỉ rả, xí xóa, hỉ hoáy...u - ă: tung tăng, hung hăng, vùng vằng, thủng thẳng...u - ơ: ngu ngờ, rù rờ, khù khờ, củn cỡn...ô - a: bỗ bã, hốc hác, mộc mạc...ê - a: nghê nga, khe kha, rề rà, xuề xòa, hể hả...b) Lớp từ láy (điệp) phần vần, đối ở âm đầu; ví dụ như: bâng khuâng, bơ vơ,

lừng chừng, lù đù, lã chã, càu nhàu, lỗ mỗ, thao láo, hấp tấp, tủn mủn, lụp xụp, lảng vảng, lúng túng, co ro, lan man, lang nhàng...

Gần nửa số lượng từ láy vần có âm đẩu của tiếng thứ nhất là âm l- và phần lớn chúng có chứa một tiếng còn rõ nghĩa. Tuy vậy, vẫn có không ít từ mà cả hai tiếng đều không rõ nghĩa; ví dụ: bải hoải, hấp tấp, lập cập, bầy hầy, thình lình, xiểng liểng, xó ró, lấc cấc...

Từ láy ba và bốn tiếng được cấu tạo thông qua cơ chế cấu tạo từ láy hai tiếng. Tuy vậy, từ láy ba tiếng dựa trên cơ chế láy hoàn toàn, còn từ láy bốn lại dựa trên cơ chế láy bộ phận là chủ yếu. Ví dụ: khít khìn khịt, sát sần sạt, dửng dừng dưng, trơ trờ trờ,... đủng đà đủng đỉnh, lôi thôi lếch thếch, linh tinh lang tang, vội vội vàng vàng...

Trên thực tế, số lượng từ láy ba tiếng và bốn tiếng không nhiều. Mặt khác, có thể coi chúng chỉ là hệ quả, là bước "tiếp theo" trên 3 chế láy của từ láy hai tiếng mà thôi. Từ láy ba là láy toàn bộ kèm theo sự biến thanh và biến vần (ví dụ: nhũn - nhủn nhũn nhùn; xốp - xốp xồm xộp...). Nhiều khi ta gặp những "cặp bài trùng" giữa từ láy hai tiếng và láy ba tiếng như: sát sạt - sát sàn sạt; trụi lủi - trụi thui lủi - trụi

thùi lụi, nhũn nhùn - nhũn nhùn nhùn; khét lẹt - khét len lẹt. .. Từ láy bốn tiếng thì tình hình cấu tạo có đa tạp hơn. Có thể là:

- "Nhân đôi" từ láy hai tiếng nhưng biến vần của tiếng thứ hai thành e, a, ơ, à, cho phù hợp, hài hòa về âm vực giữa các vần, các thanh:

vớ vẩn – vớ va vớ vẩn.lề mề - lề mà lề mề...Nhân đôi từ láy hai tiếng nhưng biến đổi sao cho hai tiếng đầu có thanh điệu

thuộc âm vực cao, hai tiếng sau mang thanh liệu âm vực thấp: bồi hồi - bổi hổi bồi hồi.

- Nhân đôi từng tiếng của từ láy hai tiếng:hùng hổ - hùng hùng hổ hổvội vàng - vội vội vàng vàng- Thực hiện cách thứ ba vừa nêu, nhưng biến âm đầu của tiếng nứ nhất và thứ

ba thành -l-Nhồm nhoàm - lòm nhồm loàm nhoàmthơ thẩn - lơ thơ lẩn thẩn.Ngoài ra, còn có một số từ khác không cấu tạo theo các cách nêu trên; hoặc

từ một từ gốc có thể cấu tạo hai từ láy bốn tiếng chứ không phải chỉ có một. Chẳng hạn: bù lu bù loa; bông lông ba la; hoặc: bắng nhắng - bắng nha bắng nhắng; bắng nhắng bặng nhặng...

Sự biểu đạt ý nghĩa của từ láy rất phức tạp và rất thú vị; nhất là ở nhiều nhóm từ cùng có khuôn cấu tạo lại có thể có những điểm giống nhau nào đó về nghĩa. Điều này cần được khảo sát riêng tỉ mỉ hơn.

3.b.4. Trừ các kiểu từ đã trình bày trên đây, tiếng Việt còn co một lớp từ mà người bản ngữ hiện nay không thấy giữa các thành tố cấu tạo (các tiếng) của chúng có quan hệ gì về ngữ âm hoặc ngữ nghĩa. Vì vậy, từ gđc độ phân loại, cần tách chúng ra và gọi là các từ ngẫu hợp với ngụ ý: các tiếng tổ hợp với nhau ở đây một cách ngẫu nhiên. Lớp từ này có thể bao gồm:

- Những từ gốc thuần Việt: bồ câu, bồ hòn, bồ nông, mồ hóng, mồ hôi, kì nhông, cà nhắc, mặc cả...

- Những từ vay mượn gốc Hán (hoặc phiên âm qua âm Hán Việt) thông qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ (trong số này có những từ mà từng thành tố của chúng trước đây vốn rõ nghĩa, nhưng nay không được người Việt nhận thức nữa).

Ví dụ: mâu thuẫn, hi sinh, trường hợp, kinh tế, câu lạc bộ, mì chính, tài xế, vằn thắn, lục tàu xá...

- Những từ vay mượn gốc Ấn - Âu qua con đường sách vở hoặc khẩu ngữ như: axít, mít tinh, sơ mi, tùng bê, mùi xoa, xà phòng, cao su, ca cao, hắc ín, sô cô la...

Bộ phận từ này trong những năm gần đây có xu hướng gia tăng do các mối quan hệ quốc tế mở rộng, tạo điều kiện cho sự tiếp xúc, vay mượn và du nhập từ ngữ, nhất là trong lĩnh vực thông tin, khoa học và kĩ thuật.

3.c. Biến thể của từ. Trong hoạt động của mình, một số từ tiếng Việt có thể có biến động về cấu trúc. Tuy nhiên, cần nói rằng đó không phải là những biến dạng theo nguyên tắc hình thái học như các dạng thức khác nhau của từ trong ngôn ngữ biến hình, ở đây, chúng thường chỉ được coi là dạng lâm thời biến động hoặc dạng lời nói của từ. Có nghĩa rằng, những biến động ấy không đều đặn, không thường xuyên ở tất cả mọi từ. Chúng chỉ lâm thời xảy ra ở một số từ trong một số trường hợp sử dụng mà thôi. Đại thể, có những dạng biến động như sau:

3.c.1. Biến một từ có cấu trúc lớn, phức tạp hơn sang cấu trúc nhỏ, đơn giản hơn. Thực chất đây là sự rút gọn một từ dài thành từ ngắn hơn. Ví dụ:

ki lô gam - ki lô - kí-lô(ông) cử nhân - (ông) Cử(ông) tú tài - (ông) TúXu hướng biến đổi này không có tính bắt buộc, không đều đặn ở mọi từ; và

nhiều khi chỉ vì lí do tiết kiệm trong ngôn ngữ, Không phải ngày nay tiếng Việt mới có hiện tượng rút gọn như vậy, mà những cặp từ song song tồn tại giữa một bên là từ đa tiết với một bên là từ đơn tiết chứng tỏ rằng hiện tượng này đã có từ lâu. Chẳng hạn:

ve ve - vebươm bướm - bướmđom đóm - đóm (Đồng không con)

đóm lập lòe (Tản Đà)Rất nhiều tên gọi các tổ chức chính trị, xã hội, các danh nhân, địa danh...

trong tiếng Việt ngày nay đã được rút gọn lại như vậy.Đảng cộng sản Việt Nam - ĐảngHợp tác xã - HợpCác dạng nói gộp, rút gọn các từ có yếu tố chung như sau đây thực chất cũng

nằm trong xu hướng này:tâm lí, sinh lí - tâm, sinh lítrang bị, thiết bị - trang thiết bịXu hướng biến đổi một từ đơn giản thành một từ có cấu trúc phức tạp hơn,

trong tiếng Việt hiện này không thấy có. Rất có thể vì nó trái với nguyên tắc tiết kiệm mà người sử dụng ngôn ngữ thường xuyên phải tính đến.

3.c.2. Lâm thời phá vỡ cấu trúc của từ, phân bố lại các yếu tố tạo từ với những yếu tố khác ngoài từ chen vào. Ví dụ:

khổ sở - lo khổ lo sởngặt nghẽo - cười ngặt cười nghẽodanh lợi: ham danh chuộng lơiham chuộng: ham danh chuộng lợiSự biến đổi theo kiểu này rất đa dạng, nhằm nhiều mục đich. Cũng có khi

người nói, với dụng ý ít nhiều mang tính chơi chữ, đã phá vỡ cấu trúc từ để dùng yếu tố tạo từ với tư cách như một từ. Ví dụ: tìm hiểu-tìm mà không hiểu, đánh đổ-đánh mãi mà không đổ...

Chương XIII CỤM TỪ CỐ ĐỊNHI. KHÁI NIỆM1. Đơn vị dùng làm chất liệu cơ sở để tạo ra câu - đơn vị giao tiếp - không phải

chỉ có từ. Ngoài từ ra, còn có một loại đơn vị gọi là cụm từ cố định. Có thể nêu một khái niệm giản dị cho cụm từ cố định điển hình như sau:

Cụm từ cố định là đơn vị do một số từ hợp lại; tồn tại với tư cách một đơn vị có sẵn như từ, có thành tố cấu tạo và ngữ nghĩa cũng ổn định như từ.

Chính vì thế cụm từ cố định được gọi là đơn vị tương đương từ. Chúng tương đương với nhau về tư cách của những đơn vị được làm sẵn trong ngôn ngữ; và tương đương với nhau về chức năng định danh, chức năng tham gia tạo câu. Chẳng hạn, các cụm hold the balance even between two parties; to speak by the book... của tiếng Anh; ruộng cả ao liền; qua cầu rút ván; tóc rễ tre; con gái rượu... của tiếng Việt... đều là những cụm từ cố định, chúng được tái hiện và tái lặp cũng như các từ vậy.

2. Cụm từ cố định cần được phân biệt với những đơn vị lân cận, dễ lầm lẫn với chúng, là từ ghép và cụm từ tự do.

Trước hết, nếu so sánh một từ ghép điển hình với một cụm từ cố định điển hình ta thấy chúng đều giống nhau ở chỗ:

+ Cùng có hình thức chặt chẽ, cấu trúc cố định,+ Cùng có tính thành ngữ.+ Cùng là những đơn vị làm sẵn trong ngôn ngữ.Ví dụ: sinh viên, học tập, dỏ rực, ngon lành, hoa hòng... ăn ốc nói mò, mặt trái

xoan, vênh váo như bố vợ phải đấm...Ở đây, cần nói thêm về cái gọi là tính thành ngữ. Thực ra, khái niệm này chưa

phải là đã tuyệt đối rõ ràng. Nói chung, thường gặp nhất là cách hiểu như sau: Giả sử có một kết cấu X gồm các yếu tố a, b, c... hợp thành X = a + b + c. Nếu ý nghĩa của X mà không thể giải thích được bằng ý nghĩa của từng yếu tố a, b, c , thì người ta bảo kết cấu X (hoặc tổ hợp X) có tính thành ngữ.

Vậy chứng tỏ rằng tính thành ngữ có các mức độ cao, thấp khác nhau trong các tổ hợp, kết cấu khác nhau; bởi vì cách tổ chức nội dung và hình thức của chúng theo những con đường, những phương sách rất khác nhau. Đối chiếu với các ví dụ nêu trên, ta sẽ thấy điều đó.

Từ ghép với cụm từ cố định phân biệt, khác nhau ở chỗ:+ Về thành tố cấu tạo: thành tố cấu tạo của từ ghép là hình vị; còn thành tố

cấu tạo của cụm từ cố định là từ. So sánh:news + paper = newspaperễnh + ương = ễnh ươngspeak + by + the + book= speak by the bookbán + bò + tậu + ễnh + ương = bán bò tậu ễnh ương+ Về ý nghĩa: Nghĩa của cụm từ cố định được xây dựng và tổ chức theo lối tổ

chức nghĩa của cụm từ; và nói chung là mang tính hình tượng. Chính vì vậy, nếu chỉ căn cứ vào bề mặt, vào nghĩa của từng thành tố cấu tạo thì nói chung là không thể hiểu được nghĩa đích thực của toàn cụm từ. Ví dụ: anh hùng rơm, đồng không mông quạnh, tiếng bấc tiếng chì...

Trong khi đó, đối với từ ghép, thì nghĩa định danh (trực tiếp hoặc gián tiếp) theo kiểu tổ chức nghĩa của từ lại là cái cốt lõi và nói lên hàng đầu.

Ví dụ: mắt cá (chân), đầu ruồi, chân vịt, đen nhảnh, xanh lè, tre pheo, thuyền trưởng...

Đối với cụm từ tự do, cụm từ cố định cũng có những nét giống nhau và khác nhau.

Chúng giống nhau bởi lẽ đương nhiên thứ nhất: cả hai đều là cụm từ, được tạo lập bằng sự tổ hợp của các từ.

Nét giống nhau thứ hai là giống nhau về hình thức ngữ pháp. Điều này dẫn đến hệ quả là quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành tố cấu tạo cũng giống nhau. Ví dụ:

nhà ngói cây mít; nhà tranh vách đất... (cụm từ cố định) cháo gà cháo vịt; phở bò miến lươn... (cụm từ tự do)Tuy vậy, quan sát kĩ thì thấy chúng khác nhau ở những mặt rất quan trọng.- Cụm từ cố định hiện diện với tư cách là đơn vị của hệ thống ngôn ngữ, ổn

định và tồn tại dưới dạng làm sẵn. Trong khi đố cụm từ tự do được tạo ra trong lời nói, trong diễn từ (discourse). Nó hợp thành đấy, rồi tan đấy, vì nó không tồn tại dưới dạng một đơn vị làm sẵn. Cụm từ tự do chỉ là sự lấp đầy từ vào một mô hình ngữ pháp cho trước mà thôi.

- Vì tồn tại dưới dạng làm sẵn nên thành tố cấu tạo cụm từ cố định có số lượng ổn định, không thay đổi. Ngược lại, số thành tố cấu tạo cụm từ tự do có thể thay đổi tùy ý. Ví dụ: mẹ tròn con suông, mồm năm miệng mười... số thành tố cấu tạo luôn

luôn ổn định; thế nhưng một cụm từ tự do những người cười chẳng hạn có thể thêm bớt các thành tố một cách tùy ý để cho ta những cụm từ có kích thước khác nhau.

- những người này - những người chưa nói đã cười này .- những người vừa mới đến mà chưa nói đã cười này...+ Về ý nghĩa, cụm từ cố định có ý nghĩa như một chỉnh thể tương ứng với một

chỉnh thể cấu trúc vật chất của Nó. Có nghĩa là nó có tính thành ngữ rất cao; còn cụm từ tự do thì không như vậy. Ví dụ chỉnh thể ý nghĩa của cụm từ cố định: rán sành ra mỡ; méo miệng đòi ăn xôi vò; say như điếu đổ... có tính thành ngữ cao đến mức tối đa; còn những cụm từ tự do như rán mỡ; miệng cười; say thuốc lào... thì tính thành ngữ của chúng chỉ là zero.

II. PHÂN LOẠI CỤM TỪ CỐ ĐỊNHMặc dù có nhiều điểm giống nhau về nguyên tắc, nhưng cách xây dựng, tạo

lập cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau; không hoàn toàn như nhau. Vì thế, cụm từ cố định trong các ngôn ngữ khác nhau có thể được phân loại khác nhau.

- Phân loại theo mức độ tính chất về ngữ nghĩa: tách ra 5 loại- Phân loại theo đặc điểm các từ trong thành phần của cụm từ cố định: tách

thành 4 loại.- Phân loại theo mô hình cấu trúc: tách ra 16 loại.- Phân loại theo nguồn gốc: tách ra 6 loại.Việc nghiên cứu cụm từ cố định của tiếng Việt tuy chưa thật sâu sắc và toàn

diện nhưng đã có không ít kết quả công bố trong một số giáo trình giảng dạy trong nhà trường đại học và tạp chí chuyên ngành.

Nếu tạm thời chấp nhận tên gọi mà chưa xác định ngay nội dung khái niệm của chúng, thì có thể tóm tắt một trong những bức tranh phân loại cụm từ cố định tiếng Việt như sau:

CỤM TỪ CỐ ĐỊNH+NGỮ CỐ ĐỊNH:QUÁN NGỮ Ví dụ: của đáng tội...; NGỮ CỐ ĐỊNH ĐỊNH DANH Ví dụ: mặt trái

xoan...+THÀNH NGỮ:Ví dụ: mẹ tròn con vuông...Dưới đây là một số miêu tả cụ thể.1. Thành ngữ1.a. Định nghĩa: Thành ngữ là cụm từ cố định, hoàn chỉnh về cấu trúc và ý

nghĩa. Nghĩa của chúng có tính hình tượng hoặc / và gợi cảm.

Ví dụ: ba cọc ba đồng; chó cắn áo rách; nhà ngói cây mít; bán bò tậu ễnh ương; méo miệng đòi ăn xôi vò; ông mất của kia bà chìa của nọ; đủng đỉnh như chỉnh trôi sông...

Các cụm từ cố định - thành ngữ như thế đều thỏa mãn định: nghĩa nêu trên. Chúng là những thành ngữ điển hình.

1.b. Phân loại. Có nhiều cách phân loại thành ngữ. Trước hết có thể dựa vào cơ chế cấu tạo (cả nội dung lẫn hình thức) để chia thành ngữ tiếng Việt ra hai loại.

1.b.1. Thành ngữ so sánh. Loại này bao gồm những thành ngữ: cấu trúc là một cấu trúc so sánh. Ví dụ: lạnh như tiền; rách như tổ đỉa; cưới không bằng lại mặt...

Mô hình tổng quát của thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông thường khác:

A ss BỞ đây A là vế được so sánh. B là vế đưa ra để so sánh, còn s là từ so sánh:

như, bằng, tựa, hệt...Tuy vậy, sự hiện diện của thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa dạng,

không phải lúc nào ba thành phần trong cấu trúc thành ngữ cũng phải đầy đủ. Chúng có thể có các kiểu:

A.ss.B. Đây là dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh. Ví dụ: đắt như tôm tươi; nhẹ như lông hồng; lạnh như tiền; dai như đỉa đói; rách như tổ đỉa; đủng đinh như chĩnh trôi sông; lừ đừ như ông từ vào đền...

(A).ss.B. ở kiểu này, thành phần A của thành ngữ không nhất thiết phải có mặt. Nó có thể xuất hiện hoặc không; nhưng người ta vẫn lĩnh hội đủ ý nghĩa của thành ngữ ở dạng toàn vẹn.

Vi dụ: (rẻ) như bèo; (chắc) như đinh đóng cột; (vui) như mở cờ trong bụng; (to) như bò tuột cạp; (khinh) như rác; (khinh) như mẻ; (chậm) như rùa.

ss.B. Trường hợp này, thành phần A không phải là của thành ngữ. Khi đi vào hoạt động trong câu nói, thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A một cách tùy nghi; nhưng nhất thiết phải có A là của câu nói và nằm ngoài thành ngữ. Ví dụ

Ăn ở với nhau như mẹ chồng với nàng dâu.Xử sự với nhau như mẹ chồng với nàng dâu.Giữ ý giữ tứ với nhau như mẹ chồng với nàng dâu.Có thể kể ra một sổ thành ngữ kiểu này như:như tầm ăn rỗi; như vịt nghe sấm; như con chó ba tiền; như gà mắc tóc; như

đỉa phải vôi; như ngậm hột thị...Đối với thành ngữ so sánh tiếng Việt, có thể nêu một vài nhận xét về cấu trúc

của chúng như sau.

+ Vế A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiện diện trên cấu trúc hình thức; nhưng nội dung của nó thì vẫn luôn luôn là cái được "nhận ra". A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc trạng thái hành động... nào đó. Rất ít khi chúng ta gặp những khả năng khác.

+ Từ so sánh trong thành ngữ so sánh tiếng Việt phổ biến là từ như; còn những từ so sánh khác, chẳng hạn tựa, tựa như, như thể, bằng, tày... (gương tày liếp; tội tày đình; cưới không bằng lại mặt...) chỉ xuất hiện hết sức ít ỏi.

+ Vế B (vế để so sánh) luôn luôn hiện diện; một mặt để thuyết minh cho A, làm rõ A; mặt khác, nhiều khi nó lại chỉ bộc lộ ý nghĩa của mình trong khi kết hợp với A, thông qua A. ví dụ: ý nghĩa "lạnh" của tiền chỉ bộc lộ trong lạnh như tiền mà thôi. Các thành ngữ: nợ như chúa Chổm; rách như tổ đỉa; say như điểu đổ; say khướt cò bợ... cũng tương tự như vậy.

Mặt khác, các sự vật, hiện tượng, trạng thái... được nêu ở B phản ánh khá rõ nét những dấu ấn về đời sống văn hóa vật chất và tinh thần của dân tộc Việt. Đối chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy sắc thái dân tộc của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.

+ Vế B có cấu trúc riêng không thuần nhất.- B có thể là một từ. Ví dụ: lạnh như tiền; rách như tổ đỉa, nợ như chúa Chổm;

đắng như bồ hòn; rẻ như bèo; khinh như mẻ.- B có thể là một cụm từ. Ví dụ: như bóng với hình; như mẹ chồng với nàng

dâu; ngọt như mía lùi; giữ như giữ mả tổ.- B có thể là một kết cấu chủ - vị (một mệnh đề). Ví dụ: như đỉa phải vôi; như

chó nhai giẻ rách; lừ đừ như ông từ vào đền; như thầy bói xem voi; như xẩm sờ vợ.Ngoài những điều nói trên, khi đối chiếu các thành ngữ so sánh với các cấu

trúc so sánh thông thường của tiếng Việt, ta thấy:+ Các cấu trúc so sánh thông thường có thể có so sánh bậc ngang hoặc so

sánh bậc hơn. ví dụ: Anh yêu em như yêu đất nước (so sánh bậc ngang).Dung biết mình đẹp hơn Mai (so sánh bậc hơn)+ Từ so sánh và các phương tiện so sánh khác (chỗ ngừng, các cặp từ phiếm

định hô ứng...) được sử dụng trong các cấu trúc so sánh thông thường, rất đa dạng: như, bằng, tựa, hệt, giống, chẳng khác gì, y như là, hơn, hơn là...

+ Một vế A trong cấu trúc so sánh thông thường có thể kết hợp với một hoặc hai; thậm chí một chuỗi nhiều hơn các vế B qua sự nối kết với từ so sánh. Ví dụ:

- Kết hợp với một B:Cổ tay em trắng như ngà,

Con mắt em liếc như là dao cau.

- Kết hợp với một chuỗi B: Những chị cào cào (...) khuôn mặt xoan như e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.

+ Cấu trúc so sánh thông thường rất đa dạng, trong khi đó thành ngữ so sánh ít biến dạng hơn và nếu có thì cũng biến dạng một cách giản dị như đã nêu trên. Lí do chính là ở chỗ thành ngữ so sánh là cụm từ cố định; chúng phải chặt chẽ và bền vững về cấu trúc và ý nghĩa.

1.b.2. Thành ngữ miêu tả ẩn dụ. Là thành ngữ được xây dựng trên cơ sở miêu tả một sự kiện, một hiện tượng bằng cụm từ, nhưng biểu hiện ý nghĩa một cách ẩn dụ.

Xét về bản chất, ẩn dụ cũng là so sánh; nhưng đây là so sánh ngẩm; từ so sánh không hể hiện diện. Cấu trúc bề mặt của thành ngữ loại này không phản ánh cái nghĩa đích thực của chúng. Cấu trúc đó, có chăng chỉ là cơ sở để nhận ra một nghĩa “sơ khởi” "cấp một" nào đó; rồi trên nền tảng của "nghĩa cấp một" này người ta mới rút ra, nhận ra và hiểu lấy ý nghĩa đích thực của thành ngữ. Ví dụ: xét thành ngữ: ngã vào võng đào.

Cấu trúc bề mặt của thành ngữ này cho thấy:- (Có người nào đó) bị ngã - tức là gặp nạn, không may.- Ngã, nhưng rơi vào võng đào (một loại võng được coi là sang trọng, tốt và

quý) - tức là vẫn được đỡ bằng cái võng, êm, quý sang, không mấy ai và không mấy lúc được ngồi, nằm vào đó.

Từ cách hiểu cái nghĩa cơ sở qua cấu trúc bề mặt này, người ta rút ra và nhận lấy nghĩa thực của thành ngữ như sau:

Gặp tình huống tưởng như không may nhưng thực ra lại là rất may (và thích gặp tình huống đó hơn là không gặp bởi vì có lợi hơn là không gặp).

Căn cứ vào nội dung của thành ngữ miêu tả ẩn dụ kết hợp cùng với cấu trúc của chúng, có thể phân loại nhỏ hơn như sau:

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu một sự kiện. Trong các thành ngữ này chỉ có một sự kiện, một hiện tượng nào đó được nêu. Chính vì vậy cũng chỉ một hình ảnh được xây dựng và phản ánh. Ví dụ: ngã vào võng đào; nuôi ong tay áo; nước đổ dầu vịt; chó có váy lĩnh; hàng thịt nguýt hàng cả; vải thưa che mắt thánh; múa rìu qua mắt thợ;...

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương đồng. Ở đây, trong mỗi thành ngữ sẽ có hai sự kiện, hai hiện tượng được nêu, được phản ánh. Chúng tương đồng hoặc tương hợp với nhau (hiểu một cách tương đối).

Ví dụ: ba đầu sáu tay; nói có sách mách có chứng; ăn trên ngồi trốc; mẹ tròn con vuông; hòn đất ném đi hòn chì ném lại

Những thành ngữ miêu tả ẩn dụ nêu hai sự kiện tương phản. Ngược lại với loại trên, mỗi thành ngữ loại này cũng nêu ra hai sự kiện, hai hiện tượng nhưng tương phản nhau hoặc chí ít cũng không tương hợp nhau. Ví dụ: các thành ngữ: một vốn bốn lời; méo miệng đòi ăn xôi vò; miệng thơn thớt dạ ớt ngâm; bán bò tậu ễnh ương; xấu máu đòi ăn của độc...

Bên cạnh việc phân loại thành ngữ tiếng Việt theo cơ chế cấu tạo và cấu trúc, còn có thể phân loại chúng theo số tiếng. Một nét nổi bật đáng chú ý ở đây là các thành ngữ có số tiếng chẵn (bốn tiếng, sáu tiếng, tám tiếng) chiếm ưu thế áp đảo về số lượng (xấp xỉ 85%). Điều này có cơ sở của nó. Người Việt rất ưa lối nói cân đối nhịp nhàng và hài hòa về âm điệu. Ngay ở bậc từ ta cũng thấy rằng hiện nay các từ song tiết (hai tiếng) chiếm tỉ lệ hơn hẳn các loại khác.

Đến lượt mình, tỉ lệ 85% thành ngữ đó gây nên một áp lực về số lượng, khiến cho những cụm từ như: trăng tủi hoa sầu; tan cửa nát nhà; tháng đợi năm chờ; ăn gió nằm mưa; lót đó luồn đây; gìn vàng giữ ngọc... nhanh chóng mang dáng dấp của các thành ngữ và rất hay được sử dụng.

2. Quán ngữQuán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại diễn từ

(discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của chúng là để đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh hoặc để liên kết trong diễn từ.

Ví dụ: của dáng tội; (nói) bỏ ngoài tai; nói tóm lại; kết cục 2; nói cách khác...Thật ra, tính thành ngữ và tính ổn định cấu trúc của quán ngữ không được như

thành ngữ. Dạng vẻ của cụm từ tự do còn in đậm Trong các cụm từ cố định thuộc loại này. Chỉ có điều, do nội dung biểu thị của chúng được người ta thường xuyên nhắc đến cho nên linh thức và cấu trúc của chúng cũng tự nhiên ổn định dần lại và rồi người ta quen dùng như một đơn vị có sẵn.

Có thể phân loại các quán ngữ của tiếng Việt như sau, dựa vào phạm vi và tính chất phong cách của chúng.

Những quán ngữ hay dùng trong phong cách hội thoại, khẩu ngữ: của đáng tội; khỉ vô phép; khổ một nỗi là; (nói) bỏ ngoài tai; nói dại đổ đi; còn mồ ma; nó chết (một) cái là; nói (...) bỏ quá cho; cắn rơm cắn cỏ; chẳng nước non gì; đùng một cái; chẳng ra chó gì; nói trộm bóng vía...

Những quán ngữ hay dùng trong phong cách viết (khoa học, chính luận...) hoặc diễn giảng như:

nói tóm lại; có thể nghĩ rằng; ngược lại; một mặt thì; mặt khác thì; có nghĩa là; như trên đã nói; từ đó suy ra; có thể cho rằng; như sau; như dưới đây; như đã nêu trên; sự thực là; vấn đề là ở chỗ...

Khó lòng có thể phân tích, phân loại quán ngữ theo cơ chế cấu tạo hoặc cấu trúc nội tại của chúng. Tuy nhiên, sự tồn tại của những đơn vị gọi là quán ngữ không thể bỏ qua được; và chức năng của chúng có thể chứng minh được không khó khăn gì. Tình trạng đa tạp và đẩy biến động của các quán ngữ cũng như những đặc trưng bản tính của chúng, khiến cho ta nếu nghiêm ngặt thì phải nghĩ rằng: chúng đứng ở vị trí trung gian giữa cụm từ tư do với cụm từ cố định chứ không hoàn toàn nghiêng hẳn về một bên nào, mặc dù ở từng quán ngữ cụ thể, có thể nặng về bên này mà nhẹ về bên kia một chút hay ngược lại.

3. Ngữ cố định định danh3.a. Tên gọi này chúng ta tạm dùng (vì nó chưa thật chặt về nội dung) để chỉ

những đơn vị vốn ổn định về cấu trúc và ý nghĩa hơn các quán ngữ rất nhiều, nhưng lại chưa có được ý nghĩa mang tính hình tượng như thành ngữ.

Chúng thực sự là các cụm từ cố định, nhưng được tạo dựng theo cách gần như cách tạo những từ ghép mà người ta vẫn hay gọi là từ ghép chính phụ. Chẳng hạn: quân sư quạt mo; anh hùng rơm; kỉ luật sắt; tuần trăng mật; con gái rượu; giọng ông kễnh; tóc rễ tre; mắt ốc nhồi; má bánh đúc; mũi dọc dừa…

3.b. Thực chất đó là những cụm từ cố định, định danh, gọi tên sự vật. Trong mỗi cụm từ như vậy thường có một thành tố chính và một vài thành tố phụ miêu tả sự vật được nêu ở thành tố chính.

Nó miêu tả chủ yếu bằng con đường so sánh nhưng không hề có từ so sánh. Thành tố chính thường bao giờ cũng là thành tố gọi tên.

Con đường tạo dựng những cụm từ như: lông mày lá liễu lông mày sâu róm; mắt lá răm; mắt ốc nhồi; mắt lợn luộc; mắt bồ câu; mắt lươn... gần như đồng hình với con đường tạo dựng các từ ghép: đen sì; đen sẫm; đen trũi; đen láy; đen nhánh; đen xỉn...

Chính bởi vậy, ở đây có hai hướng chuyển đi ngược chiều nhau và thâm nhập vào nhau. Một số thành ngữ so sánh bị khử từ so sánh dễ được nhập vào số những cụm từ thuộc kiểu này: ngang cành bứa; cay xé; dẻo kẹo; đen thui; trẻ măng... Ngược lại, một số cụm từ vốn được tạo ra theo kiểu này, nhưng vì tính thành ngữ, tính hình tượng đạt tới mức độ gần tương đương các thành ngữ thực sự, lại rất có thể dễ được nhận vào hàng ngũ của các thành ngữ. Ví dụ: tuần trăng mật; kỉ luật sắt; con gái rượu; sách gối đầu giường; hòn đá thủ vàng; bạn nối khố; thẳng ruột ngựa; toạc móng heo...

3.c. Các ngữ cố định định danh thường tập trung với mật độ khá đậm ở khu vực tên gọi các bộ phận cơ thể con người như: tóc rễ tre; lông mày lá liễu; lông mày sâu róm; mắt lá răm; mắt bò câu; mắt ốc nhồi; râu ngạnh trê; má bánh đúc; mặt trái

xoan; mũi dọc dừa; mồm cá ngão; răng cải mả; chân vòng kiềng; chân chữ bát; mặt lưỡi cày; bụng cóc; mình trắm...

Một số ít hơn là tên gọi của các sự vật khác hoặc tên gọi của một trạng thái, thuộc tính. Chẳng hạn: giọng ông kễnh; đá tai mèo; kỉ luật sắt; gót sắt; con gái rượu; bạn áo ngắn; sách gối đầu giường; hòn đá thử vàng; bạn nối khố; cười cầu tài; tấm gương vàng; bạn vàng; toạc móng heo; thẳng ruột ngựa...

Rõ ràng là cơ chế cấu tạo những cụm từ trên đây không khác những cụm từ làm tên gọi cho một số sự vật hiện tượng như: than quả bàng; bánh ca vát; máy bay chuồn chuồn; chuối tay bụt. Chỉ có điều, tính thành ngữ của những cụm từ như thế thấp hơn mức tận cùng mà thôi.

3.d. Cũng như tình trạng của quán ngữ, các cụm từ là ngữ định định danh có những biểu hiện không đồng đều nhau ở điểm này hoặc điểm khác. Rõ ràng là, nhìn chung, chúng ổn định cả cấu trúc lẫn ngữ nghĩa. Nhưng tính thành ngữ thì lại kém, thậm chí kém xa hoặc rất xa so với những thành ngữ chân chính. Tự nhiên, chúng cũng không phải là từ ghép, nếu xét về bậc được cấu tạo. Chỉ có điều, cơ chế cấu tạo của chúng có phần giống với các từ ghép chính phụ thì chúng ta phải thừa nhận.

Ở những mức độ khác nhau, chúng hiện diện như là đơn vị đứng giữa cụm từ cố định - thành ngữ với từ ghép.

4. Những hiện tượng trung gianViệc phân loại các cụm từ cố định tiếng Việt như vừa trình bày trên đây không

phải là đã vạch ra những ranh giới tuyệt đối giữa các loại; và không phải các đơn vị trong mỗi loại đều thể hiện những thuộc tính thuần khiết của loại. Chúng ta đã thấy là quán ngữ ít nhiều mang tính chất trung gian giữa cụm từ cố định với cụm từ tự do; còn ngữ cố định định danh thì có tính trung gian giữa cụm từ cố định với từ ghép.

Mặc dầu vậy, chúng vẫn là những cụm từ có tính cố định. Chỉ có điều tính cố định đó cao hay thấp, nhiều hay ít mà thôi.

Có thể coi các cụm từ cố định tiếng Việt có vùng tâm và vùng biên; có đơn vị điển hình và đơn vị không điển hình. Thành ngữ chắc chắn thuộc vùng trung tâm.

Thế nhưng ngay ở khu vực thành ngữ cũng có những đơn vị trung gian được cấu tạo theo lối thành ngữ nhưng tính tự do, kém ổn định vẫn còn rõ nét.

Có những đơn vị đã đạt-được tính thành ngữ khá cao nhưnu tính bển chắc, tính chỉnh thể về cấu trúc lại còn kém ổn định Nghĩa là số thành tố cấu tạo nên chúng có thể còn tảng hay giảm được một cách tùy nghi.

Rất nhiều cụm tử cấu tạo theo kiểu thành ngữ so sánh là nhu thế: nhức như búa bổ; đắt như vàng; gầy như gọng vó; buồn như cha chết; hôi như chuột chù; bẩn như hủi; lôi thôi như ổ chó...

Ngược lại, có những đơn vị khác, tính ổn định về cấu trúc khá bảo đảm; tức là không thể thêm bớt các thành tố cấu tạo một cách tùy nghi; nhưng tính thành ngữ, tính nhất thể về nghĩa vẫn chưa cao. Nghĩa của cả cụm từ vẫn là nghĩa được hiểu nhờ từng thành tố cộng lại. Ví dụ: bàn mưu tính kế; đi ra đi vào; buôn gian bán lận; suy đi tính lại; nghỉ tới nghỉ lui; gìn vàng giữ ngọc; trăng tủi hoa sầu; chân mây cuối trời; than thân trách phận; ăn thô nói tục; yêu trẻ kính già...

Những đơn vị như thế đã, đang và chắc là sẽ còn được tạo lập trong tiếng Việt. Đó là những sản phẩm được tạo ra trong đời ng hoạt động ngôn ngữ. Trả lời cho câu hỏi: "chúng có trở thành thành ngữ hay không" thật là khổ. Hẳn rằng còn phải qua thời gian, qua thực tế sử dụng, qua rất nhiều tác động của các nhân tố trong và ngoài ngôn ngữ nữa... mới có thể kết luận được.

Chương XIV NGHĨA CỦA TỪI. NGHĨA CỦA TỪ LÀ GÌLưỡng phân ngôn ngữ, ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm thanh)

và mặt được biểu hiện (nội dung). Nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai.Ví dụ, từ CAY trong tiếng Việt có vỏ ngữ âm như ta đọc lên, và từ này có nội

dung, có nghĩa của nó.1. Khái niệm nghĩa (sense) của từ đã được nêu ra từ lâu và cũng đã có nhiều

cách hiểu, nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy vậy. việc nêu lại và bình luận các quan niệm về nghĩa, chúng ta đành tạm gác sang một bên cho cách trình bày ở đây đỡ cồng kềnh, phức tạp.

2. Để trả lời câu hỏi chính: nghĩa của từ là gì? trước hết ta phải trở lại với bản chất tín hiệu của từ. Từ là tín hiệu; nó phải "nói lên", phải đại diện cho, phải được người sử dụng quy chiếu về một cái gì đó.

2.a. Khi một người nghe hoặc nói một từ nào đó, mà anh ta quy chiếu, gán nó vào đúng sự vật có tên gọi là từ đổ như cả cộng đồng xã hội vẫn gọi, đồng thời ít nhiều anh ta cũng biết được những đặc trưng bản chất của sự vật đó, và anh ta sử dụng từ đó trong giao tiếp đúng với các mẹo luật mà ngôn ngữ có từ đc cho phép, ta nói rằng anh ta đã hiểu nghĩa của từ đó.

Ví dụ một người Việt hoặc không phải là Việt, nói hoặc nghe một từ như CÂY chẳng hạn; mà anh ta có thể:

- Quy chiếu, gắn được từ cây vào mọi cái cây bất kì trong thực tại đời sống.- Ít nhiều cũng biết được đại khái như: cây là loài thực vật mà phần thân, lá đã

phân biệt rõ; ví dụ như: cây mía, cây tre.- Dùng từ CÂY trong giao tiếp, phát ngôn... đúng với quy tắc ngữ pháp tiếng

Việt.Ta nói được rằng: anh ta hiểu nghĩa của từ CÂY trong tiếng Việt.

Cho tới nay, đa số các nhà nghiên cứu đều quan niệm nghĩa của từ là những liên hệ. Tuy nhiên, đó không phải là những liên hệ lôgic tất yếu; mà là những liên hệ phản ánh, mang tính quy ước, được xây dựng bởi những cộng đồng người bản ngữ.

Mỗi khi học nghĩa của một từ, chúng ta đều học bằng cách liên hội từ với những cái mà từ đó chỉ ra (trước hết là sự vật, hiện tượng, hành động, hoặc thuộc tính... mà từ đó làm tên gọi cho nó). Mặt khác, nghĩa của từ cũng được học thông qua hoặc liên quan với vô vàn tình huống giao tiếp ngôn ngữ mà từ đó được sử dụng.

Thuở nhỏ, ta thấy một cái cây bất kì chẳng hạn. Ta hỏi đó là cái gì; và được trả lời đó là cái cây. Dần dần, nay với cây này, nay với cây khác, ta liên hội được từ CÂY của tiếng Việt với chúng. Thế rồi bước tiếp theo nữa, ta dùng được từ cây trong các phát ngôn như trồng cây, chặt cây, tưới cây, cây đổ, cây rau, cây hoa... và tiến tới hiểu cây là loài thực vật, có thân, rễ, lá hoặc hoa, quả... Vậy là ta đã hiểu được nghĩa của từ CÂY.

Đến đây, có thể phát biểu vắn tắt lại như sau: Nói chung, nghĩa của từ là những liên hệ được xác lập trong nhận thức của chúng ta giữa từ với những cái mà nó (từ) chỉ ra (những cái mà nó làm tín hiệu cho).

2.b. Câu hỏi tiếp theo là: nghĩa của từ tồn tại ở đâu?Ta đã thừa nhận và chứng minh bản chất tín hiệu của từ, rằng nó có hai mặt;

mặt hình thức vật chất âm thanh và mặt nội dung ý nghĩa; hai mặt này gắn bó với nhau như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì cũng không có mặt kia. Vậy nghĩa của từ tồn tại trong từ; nói rộng ra là trong hệ thống ngôn ngữ. Nó là cái phần nửa làm cho ngôn ngữ nói chung và từ nói riêng, trở thành những thực thể vật chất - tinh thần.

Nghĩa của từ không tồn tại trong ý thức, trong bộ óc của con người. Trong ý thức, trong tư duy của con người chỉ có những hoạt động nhận thức, hoạt động tư duy... mà thôi. Điều này ngụ ý rằng: trong ý thức, trong bộ óc trí tuệ của con người chỉ tồn tại sự hiểu biết về nghĩa của từ chứ không phải là nghĩa của từ.

Từ những điều trên đây, suy tiếp ra rằng những lời trình bày, giải thích trong từ điển, cái mà ta vẫn quen gọi là nghĩa của từ trong từ điển, thực chất là những lời trình bày tương đối đồng hình với sự hiểu biết của ta về nghĩa của từ mà thôi.

3. Từ có liên hệ với nhiều nhân tố, nhiều hiện tượng. Bởi thế, nghĩa của từ cũng không phải chỉ có một thành phần, một kiểu loại. Khi nói về nghĩa của từ, người ta thường phân biệt các thành phần nghĩa sau đây.

a - Nghĩa biểu vật (denotative meaning): Là liên hệ giữa từ với sự vật (hoặc hiện tượng, thuộc tính, hành động...) mà nó chỉ ra. Bản thân sự vật, hiện tượng, thuộc tính, hành động... đó, người ta gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat). Biểu

vật có thể hiện thực hoặc phi hiện thực , hữu hình hay vô hình , có bản chất vật chất hoặc phi vật chất. Ví dụ: dát, trơi, mưa, nắng, nóng, lạnh. ma, quỷ, thánh, thân, thiên đường, địa ngục...

b - Nghía biểu niệm (signifieative meaning):Là liên hệ giữa từ với ý (hoặc ý nghĩa, ý niệm - signiíication - nếu chúng ta không cẩn phân biệt nghiêm ngặt mấy tên gọi này). Cái ý đó người ta gọi là cái biểu niệm hoặc biểu niệm (sự phản ánh các thuộc tính của biểu vật vào trong ý thức của con người).

c - Ngoài hai thành phần nghĩa trên đây, khi xác định nghĩa của từ, người ta còn phân biệt hai thành phần nghĩa nữa. Đó là nghĩa ngữ dụng và nghĩa cấu trúc.

Nghĩa ngữ dụng (pragmatical meaning) cũng còn được gọi là nghĩa biểu thái, nghĩa hàm chỉ (connotative meaning) là mối liên hệ giữa từ với thái độ chủ quan, cảm xúc của người nói.

Nghĩa cấu trúc (structural meaning) là mối quan hệ giữa từ với các từ khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ giữa từ này với từ khác thể hiện trên hai trục: trục đối vị (paradigmatial axis) và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis). Quan hệ trên trục đối vị cho ta xác định được giá trị của từ, khu biệt từ này với từ khác; còn quan hệ trên trục ngữ đoạn cho ta xác định được ngữ trị (valence) - khả năng kết hợp - của từ.

Thật ra, những phân biệt như trên là cần thiết và hợp lí; nhưng không phải các thành phần nghĩa đó hiện diện trong mỗi từ bao giờ cũng đồng đều và rõ ràng như nhau, vì thế, trong từ vựng - ngữ nghĩa học, nhiều khi người ta chỉ nhắc đến nghĩa ngữ dụng, nghĩa cấu trúc; thậm chí cả nghĩa biểu vật nữa, như những xác nhận về sự tồn tại của chúng hơn là phân tích, chứng minh cho thật minh bạch.

4. Đối với từ vựng - ngữ nghĩa học, cái quan trọng nói lên hàng đầu là nghĩa biểu niệm. Cần phải hiểu mối liên hệ mà chúng ta nói tới trong quan niệm về nghĩa của từ ở đây chính là mối liên hệ chỉ xuất, mối liên hệ phản ánh; cho nên nghĩa biểu niệm cũng có thể hiểu là sự phản ánh sự vật - biểu vật (đúng hơn, là phản ánh các thuộc tính, các đặc trưng của chúng) trong ý thức con người, được tiến hành bằng Từ.

Trọng tâm chú ý phân tích, miêu tả của từ vựng - ngữ nghĩa học là nghĩa biểu niệm chứ không phải là các thành phần khác. Chúng chỉ được lưu ý trong những trường hợp cần thiết mà thôi). Vì vậy, ở đây khi không thật bắt buộc phải xác định rành mạch về mặt thuật ngữ, thì chúng ta sẽ nói đến nghĩa với nội dung được hiểu là nghĩa biểu niệm cho giản tiện.

5. Cần phân biệt nghĩa của từ với khái niệm. Nghĩa và khái niệm gắn bó với nhau rất mật thiết, nhưng nói chung là chúng không trùng nhau.

Khái niệm là một kết quả của quá trình nhận thức, phản ánh những đặc trưng chung nhất, khái quát nhất và bản chất nhất: của sự vật, hiện tượng. Người ta có được khái niệm chủ yếu là nhờ những khám phá, tìm tòi khoa học nội dung của một khái niệm có thể rất rộng, rất sâu, tiệm cận tới chân lí khoa học; và có thể được diễn đạt bằng hàng loạt những ý kiến nhận xét. Mặt khác, rõ ràng là không phải khái niệm nào cũng được phản ánh bằng từ; nó có thể được biểu hiện bằng hơn một từ. Ví dụ: nước cứng; tổ hợp quỹ dạo; máy gặt đập liên hợp; công nghệ sinh học...

Nghĩa của từ cũng phản ánh những đặc trưng chung, khái quát của sự vật, hiện tượng do con người nhận thức được trong đời sống thực tiễn tự nhiên và xã hội. Tuy nhiên, nó có thể chưa phải là kết quả của nhận thức đã tiệm cận tới chân lí khoa học. Vì thế, sự vật, hiện tượng nào mà càng ít được nghiên cứu, khám phá thì nhận thức về nó được phản ánh trong nghĩa của từ gọi tên nó, càng xa với khái niệm khoa học.

Bên cạnh đó, ta thấy rằng không phải từ nào cũng phản ánh khái niệm (các thán từ và các từ công cụ ngữ pháp chẳng hạn) và trong nghĩa của từ còn có thể hàm chứa cả sự đánh giá về mặt này hay mặt khác, có thể chứa cả cảm xúc và thái độ của con người...

Để tiện so sánh, chúng ta phân tích từ nước của tiếng Việt Khái niệm khoa học về nước là: Hợp chất của ôxi và hyđro mà trong thành phần của mỗi phân tử nước, có hai nguyên tử hyđro với một nguyên tử ôxi.

Nghĩa “nôm” của từ nước có thể được miêu tả dưới dạng từ điển ngắn gọn là: chất lỏng không màu, không mùi và hầu như không vị, có sẵn trong hồ ao, sông suối...

Miêu tả như thế thật ra là chưa đủ. Rất nhiều thứ, loại (biểu vật) được người Việt quy về loại nước mà chỉ cần chúng bảo đảm thuộc tính lỏng; còn có nước nhiều hay ít; mùi vị thế nào; thậm chí có nước hay không... đều không quan trọng. Chẳng hạn: nước biển, nước mắm, nước xốt, nước dứa, nước ép hoa quả.

phở nước (đối lập với phở xào)mỡ nước (đối lập với mỡ khổ) nước gang (gang lỏng - Ví dụ: đổ nước gang vào khuôn đúc)nước dãi, nước bọt, nước mắt, nước giải, nước ối...Phân tích như trên đây chứng tỏ rằng nghĩa và khái niệm không đồng nhất. Đó

là nói về các từ nói chung. Đối với nhiều thuật ngữ khoa học, sự phân biệt giữa nghĩa và khái niệm không cần đặt ra nữa: chúng đã tiệm cận đến giới hạn của nhau

II. CƠ CẤU NGHĨA CỦA TỪ1. Một từ có thể có một hoặc nhiều nghĩa, nhưng đó không phải là những tổ

chức lộn xộn.

Nếu là một từ nhiều nghĩa (đa nghĩa) thì các nghĩa đó của từ có quan hệ với nhau, được sắp xếp theo những cơ cấu tổ chức nhất định.

Trọng từng nghĩa của mỗi từ cũng vậy; chúng gồm những thành tố nhỏ hơn, có thể phân tích ra được (dưới đây sẽ gọi là những nghĩa tố - seme) và cũng được sắp xếp theo một tổ chức nào đó.

Như vậy xét cơ cấu nghĩa của từ là ta xác định xem từ đó có bao nhiêu nghĩa, mỗi nghĩa có bao nhiêu thành tố nhỏ hơn; và tất cả chúng được sắp xếp trong quan hệ với nhau như thế nào.

2. Mỗi một nghĩa thường gồm một số nghĩa tố được tổ chức lại.Nghĩa tố được hiểu là một dấu hiệu lôgic ứng với một thuộc tính chung của sự

vật, hiện tượng (biểu vật) được đưa vào nghĩa biểu niệm...Đó cũng chính là yếu tố ngữ nghia chung của các từ thuộc cùng một nhóm từ

hoặc riêng cho nghĩa của một từ đối lập với nghĩa của những từ khác trong cũng một nhóm"

Ví dụ, một nghĩa của từ chăn trong tiếng Việt được phân tích là: bộ phận thân thể động vật - ở phía dưới cùng - để đỡ thân thể đứng yên hoặc vận động dời chỗ.

Trong nghĩa này có ba dấu hiệu lôgic của sự vật ứng với ba thuộc tính chung của nó, đã được đưa vào. Đó là ba nghĩa tố của một nghĩa trong từ chân.

Ba nghĩa tố trên đây được phát hiện thông qua sự tập hợp và so sánh với các từ khác: tay, đầu, vai, ngực, bụng, lưng...

Nghĩa tố bộ phận thân thể động vật chung cho mọi từ trong nhóm.Hai nghĩa tố còn lại được phát hiện thông qua so sánh với các từ trong nhóm

để thấy những khác biệt trong dấu hiệu lôgic về vị trí, chức năng của sự vật được gọi tên (biểu vật).

Ta có thể hình dung một tập hợp các nghĩa tố của nghĩa cũng tương tự như một tập hợp các nét khu biệt của âm vị vậy. Chỉ có điều ở đây, các nghĩa tố nằm trong tương quan giả định lẫn nhau và thuyết minh cho nhau. Chúng có quan hệ thứ tự tôn ti trong tổ chức nghĩa, ví dụ: Trong nghĩa, của từ chăn vừa phân tích, ta có ba nghĩa tố gọi theo thứ tự là a. b. c.

Tuy nhiên, đó không phải là thứ tự thời gian, tuyến tính; mà là thứ tự từ cái lớn đến cái nhỏ, từ cái cần yếu nhất đến cái ít cần yếu hơn... Điều này được miêu tả lại trong từ điển như một "phổ" của những lời giải nghĩa vậy.

Việc phân tích nghĩa của từ cho đến những thành tố cuối cùng không còn có thể phân tích tiếp tục được nữa; (tức là phân tích cho hết được các nghĩa tố cần yếu) là một yêu cầu bắt buộc vể mặt nguyên tắc. Thế nhưng, trên thực tế, cho tới nay vẫn chưa có được một phương pháp tổng quát đủ mạnh để cho phép xác định trong số các "dấu hiệu logic" cái nào được coi là nghĩa tố, còn cái nào thì không. Bởi thế,

khi phân tích nghĩa từ, có lúc chúng ta buộc phải có những biện luận riêng cho từng nhóm, thậm chí từng từ.

3. Ở điểm 1, chúng ta đã nói rằng một từ có thể đơn nghĩa hoặc đa nghĩa. Tính đa nghĩa của ngôn ngữ ở cấp độ từ thể hiện qua từ đa nghĩa. Quan hệ đa nghĩa là một trong những dạng quan trọng nhất thuộc các kiểu quan hệ ngữ nghĩa trong từ.

3.a. Có thể định nghĩa về từ đa nghĩa như sau: Từ đa nghĩa là những từ có một số nghĩa biểu thị những đặc điểm, thuộc tính khác nhau của một đối tượng, hoặc biểu thị những đối tượng khác nhau của thực tại.

Ví dụ: Động từ che trong tiếng Việt có hai nghĩa. Động từ ăn có 12 nghĩa… (Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Hà Nội, 1988). Chúng là các từ đa nghĩa.

Với tư cách là đơn vị định danh, từ đa nghĩa cho ta thấy rằng: từ có thể di chuyển từ chỗ gọi tên cho đối tương này sang gọi tên cho cả đối tương khác; từ chỗ có nghĩa này, có thể có thêm nghĩa khác.

Sự “di chuyển” đó có nguyên nhân ở nhận thức của người bản ngữa và tính chất tiết kiệm trong ngôn ngữ. Hai nhân tố này tác động và ảnh hưởng lẫn nhau đã dẫn đến việc tạo lập từ đa nghĩa của từ vựng.

3.b Các nghĩa của từ đa nghĩa được xây dựng và tổ chức theo những cách thức, trật tự nhất định. Vì vậy, người ta cũng có thể phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại, nhưng thường gặp nhất là những lưỡng phân quan trọng như sau:

b.1 Nghĩa gốc – nghĩa phát sinh.Lưỡng phân này dựa vào tiêu chí nguồn gốc của nghĩa. Nghĩa gốc được hiểu là

nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trên cơ sở nghĩa đó mà người ta xây dựng nên nghxia khác. Ví dụ chân:

1. Bộ phận thân thể động vật ở phía dưới cùng, để đỡ thân thể đứng yên hoặc vận động rời chỗ.

2. Cương vị, phận sự của một người với tư cách là thành viên của một tổ chức (có chân trong ban quản trị).

(…)Nghĩa 1 của từ chân ở đây là nghĩa gốc. Từ nghĩa 1 người ta xây dựng nên các

nghĩa khác của từ này bằng những con đường cách thức khác nhau.Nghĩa gốc thường là nghĩa không giải thích được lí do; và có thể được nhận ra

một cách độc lập không cần thông qua nghĩa khác.Nghĩa phái sinh là nghĩa được hình thành dựa trên cơ sở nghĩa gốc; và vì vậỵ

chúng thường là nghĩa có lí do; và được nhận ra qua nghĩa gốc của từ.Nghĩa 2 của từ chân vừa nêu là một ví dụ về nghĩa phái sinh.b.2. Nghĩa tự do - nghĩa hạn chế

Lưỡng phân này một mặt dựa vào mối liên hệ giữa từ (với tư cách là tên gọi) với đối tượng; mặt khác, là khả năng bộc lộ của nghĩa trong những hoàn cảnh khác nhau mà từ xuất hiện.

Nếu một nghĩa được bộc lộ trong mọi hoàn cảnh, không lệ thuộc vào một hoàn cảnh bắt buộc nào; thì nghĩa đó được gọi là nghĩa tự do.

Xét từ SẮT trong tiếng Việt, nó có nghĩa:Kim loại - rắn, cứng - màu xám sáng - tỉ khối 7,88; nóng chảy ở nhiệt độ

1535°c.Nghĩa này là nghĩa tự do vì được bộc lộ trong mọi hoàn cảnh: giường sắt; mua

sắt; có công mài sắt có ngày nên kim...Ngược lại, nếu một nghĩa chỉ được bộc lộ trong một (hoặc vài) hoàn cảnh bắt

buộc thì nghĩa đó được gọi là nghĩa hạn chế. Ví dụ: Ngoài nghĩa vừa nêu, từ SẮT còn bộc lộ nghĩa: nghiêm ngặt, cứng rắn và buộc phải làm theo trong hoàn cảnh hạn chế”: kỉ luật sắt hoặc bàn tay sắt.

Từ mũi với nghĩa "hơi ngửi thấy nói chung" và nghĩa "mùi thiu, ôi, khó chịu" (thịt có mùi) cũng là trường hợp như vậy.

b.3. Nghĩa trực tiếp - nghĩa chuyển tiếpHai loại nghĩa này được phân biệt dựa vào mối quan hệ định danh giữa từ với

đối tượng.Nếu một nghĩa trực tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật một

cách trực tiếp, thì người ta gọi đó là nghĩa trực tiếp (cũng có khi gọi là nghĩa đen).Ví dụ: nghĩa thứ nhất, của từ chân và từ sắt như vừa nói ở trên, là những nghĩa

trực tiếp.Nếu một nghĩa gián tiếp phản ánh đối tượng, làm cho từ gọi tên sự vật một

cách gián tiếp (thường thông qua hình tượng hoặc nét đặc thù của nó), thì người ta bảo nghĩa đó là nghĩa chuyển tiếp (hay còn gọi là nghĩa bóng).

Chẳng hạn, xét từ bụng trong tiếng Việt. Từ này có một nghĩa là "ý nghĩ, tình cảm tâm lí, ý chí của con người”. Nghĩa này là nghĩa chuyển tiếp (nghĩa bóng). Người Việt thường nói: bụng bảo dạ; suy bụng ta ra bụng người; con người tốt bụng;...

Trong khi đó, nghĩa trực tiếp của từ bụng phải là: "bộ phận cơ thể người, động vật, trong có chứa ruột, dạ dày,.." (ví dụ, người ta vẫn nói: mổ bụng moi gan; bụng mang dạ chửa; no bụng đói con mắt;...)

b.4. Nghĩa thường trực - không thường trựcLưỡng phân này dựa vào tiêu chí: nghĩa đang xét đã nằm trong cơ cấu chung

ổn định của nghĩa từ hay chưa.

Một nghĩa được coi là nghĩa thường trực, nếu nó đã đi vào cơ cấu chung ổn định của nghĩa từ và được nhận thức một cách ổn định, như nhau trong các hoàn cảnh khác nhau.

Ví dụ: Các nghĩa đưa ra xét của từ chân, bụng, sát,...đã nêu bên trên, đều là nghĩa thường trực. Chúng đã nằm trong cơ cấu nghĩa của các từ đó một cách rất ổn định, thường trực.

Ngược lại, nếu có một nghĩa bất chợt sinh ra tại một hoàn cảnh nào đó trong quá trình sử dụng, sáng tạo ngôn ngữ, nó chưa hề đi vào cơ cấu ổn định, vững chắc của nghĩa từ, thì nghĩa đó được gọi là nghĩa không thường trực của từ. Loại nghĩa này cũng còn ỉược gọi là nghĩa ngữ cảnh.

Ví dụ: Tên gọi áo trắng chỉ có nghĩa là "thầy thuốc" hoặc "nhân viên y tế nói chung" trong những hoàn cảnh nói như:

Đây tôi sống những ngày nhân hậu nhấtMỗi mai hồng áo trắng đến thăm tôi.

(Chế Lan Viên)Trong khi đó, áo trắng trong hoàn cảnh nói sau đây lại không phải vậy:Tôi về xứ Huế chiều mưa Em ơi áo trắng bây giờ ở đâu.

(Nguyễn Duy)Những lưỡng phân trên đây chưa phải là toàn bộ sự phân loại nghĩa của từ;

nhưng đó là những lưỡng phân quan trọng. Chúng sẽ được vận dụng như những tiêu chí cần thiết trong khi phân tích để nhận diện, chia tách các nghĩa của từ đa nghĩa cho hợp lí.

3.c. Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của các từ, trong ngôn ngữ có nhiều cách. Tuy nhiên, có hai cách quan trọng nhất thường gặp trong các ngôn ngữ là: chuyển nghĩa ẩn dụ (metaphor) và chuyển nghĩa hoán dụ (metonymy).

c.1. Ẩn dụ:Ẩn dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên sự liên tưởng so sánh

những mặt, những thuộc tính... giống nhau giữa các đối tượng được gọi tên.Có thể diễn giải định nghĩa này như sau:Giả sử ta có từ T là tên gọi cho đối tượng Đ1 (và lẽ đương nhiên, T có nghĩa

S1).Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 nào đó, mà người ta thấy giữa Đ1 và Đ2

có những nét, những mặt nào đó giống nhau, người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả Đ2. Lúc này, một nghĩa S2 tương ứng được xác lập trong T.

Chúng ta nói rằng ở đây đã diễn ra một phép ẩn dụ.

Ví dụ: từ CÁNH trong tiếng Việt, có nhiều nghĩa. Khi định danh cho cánh chim; cánh chuồn chuồn; cánh bướm... nó có nghĩa là: bộ phận dùng để bay của chim, dơi, côn trùng; có hình tấm, rộng bản; tạo thành đôi đối xứng ở hai bên thân và có thể khép vào, mở ra.

Trên cơ sở so sánh nhiều sự vật khác có hình dạng tương tự (hoặc người Việt liên tưởng và cho là chúng tương tự nhau) người đã chuyển CÁNH sang gọi tên cho những bộ phận giống hình cánh chim ở một số vật: cánh máy bay, cánh quạt, cánh hoa, cánh chong chóng, cánh cửa, ngôi sao năm cánh, kề vai sát cánh đấu tranh, cánh tay; cánh buồm; cánh rừng, cánh đồng, cánh quân ... (những tên gọi sau này đã khác rất xa so với cánh chim).

c.2. Hoán dụHoán dụ là một phương thức chuyển tên gọi dựa trên mối liên xệ lôgic giữa

các đối tượng được gọi tên.Định nghĩa này có thể được thuyết minh lại như sau:Giả sử ta có từ T là tên gọi của đối tượng Đ1 và từ này có nghĩa S1.Khi cần gọi tên cho một đối tượng Đ2 mà giữa Đ2 với Đ1 có rồi liên hệ lôgic

nào đó (như liên hệ giữa bộ phận với toàn thể; giữa nguyên liệu với sản phẩm tạo thành chẳng hạn) thì người ta có thể dùng T để gọi tên luôn cho cả Đ2. Lúc này từ T được xây dựng thêm, được cấp thêm cho một nghĩa S2. Người ta bảo như thế là đã có một phép chuyển nghĩa hoán dụ.

Ví dụ: vụng vá vai (áo) tài vá nách (áo)Ở đây, tiếng Việt đã lấy bộ phận thân thể để gọi tên bộ phận trang phục

tương ứng.c.3. Cơ sở để thực hiện các phương thức chuyển nghĩa trong các ngôn ngữ rất

đa dạng. Mặc dù vậy, đây cũng chính là điểm gặp gỡ nhau nhiều nhất giữa các ngôn ngữ (so sánh từ wing - cái cánh- trong tiếng Anh với từ cánh trong tiếng Việt hoặc từ: -kbal - cái đầu - trong tiếng Khmer với từ đầu trong tiếng Việt chẳng hạn).

Việc miêu tả đầy đủ và tỉ mỉ các cơ sở chuyển nghĩa ấy cần phải được dành cho những khảo sát riêng.

III. PHÂN TÍCH NGHĨA CỦA TỪ1. Phân tích, miêu tả cho được cấu trúc nghĩa của từ, là một trong những

nhiệm vụ và mục đích hàng đầu của việc nghiên cứu từ vựng ngữ nghĩa.Trong lĩnh vực này, người ta đã đề xướng nhiều phương pháp phân tích nghĩa

của từ, nhưng thường gặp và dễ dùng nhất là phương pháp sử dụng ngữ cảnh.2. Ngữ cảnh là gì2.a. Khi dùng ngôn ngữ để giao tiếp, người ta nói ra những câu, những phát

ngôn chứ không phải là những từ rời rạc. Tại đó, các từ kết hợp với nhau theo những

quy tắc và chuẩn mực của ngôn ngữ. Cũng trong câu hoặc phát ngôn cụ thể, người ta mới biết được rằng: tại trường hợp, hoàn cảnh cụ thể này, từ có nghĩa gì (tức là nó bộc lộ nghĩa nào trong số các nghĩa của nó).

Ví dụ, khi ta nghe thấy chỉ một từ CHẮC trong tiếng Việt thôi, thì không thể biết được người nói muốn nói tới nghĩa nào của từ này. Thế nhưng từng nghĩa một của từ CHẮC, sẽ xuất hiện rất rõ ràng, nếu ta nghe thấy nó trong các phát ngôn, những chuỗi từ đại loại như:

Lúa đã chắc hạt; Nhà xây rất chắc; Lời nói chắc như đinh đóng cột; Ông này chắc đã có con lớn; Anh làm thế, dễ người ta không biết đấy chắc...

Định nghĩa về ngữ cảnh được phát biểu như sau:Ngữ cảnh của một từ là chuỗi từ kết hợp với nó hoặc bao xung quanh nó, đủ

để làm cho nó được cụ thể hóa và hoàn toàn xác định về nghĩa.(Định nghĩa này cho thấy rằng ngữ cảnh có thể tối thiểu là một từ, tối đa là

một chuỗi lớn hơn, có khả năng ứng với một câu, một phát ngôn...).2.b. Sở dĩ từ bộc lộ một nghĩa xác định nào đó trong ngữ cảnh chứa nó là vì

trong mỗi ngữ cảnh, từ thể hiện khả năng kết hợp từ vựng và khả năng kết hợp ngữ pháp của mình.

Khả năng kết hợp ngữ pháp của từ là khả năng nó có thể đứng ở một vị trí nhất định trong những cấu trúc nhất định nào đó. Nói khác đi, đó là khả năng từ có thể tham gia vào những cấu trúc ngữ pháp nào.

Ví dụ, trong tiếng Việt, động từ có khả năng kết hợp với các đã, đang, sẽ, sắp, lại, vừa... ở đằng trước; và: xong, rồi, ở đằng sau (ví dụ: đang đi, làm mãi...).

Nếu từ thuộc lớp ngữ pháp nào, thuộc từ loại nào... thì sẽ được quy định cho những khả năng tương ứng, những vị trí tương ứng rong các mô hình cấu trúc ngữ pháp.

Ngược lại, khả năng kết hợp từ vựng của từ lại là khả năng hợp giữa một nghĩa của từ này với một nghĩa của từ khác, sao cho tổ hợp được tạo thành phải phản ánh đúng với thực phù hợp với lôgic và thói quen sử dụng ngôn ngữ của người bản ngữ.

Ví dụ: Người Việt vẫn Nói: ăn cơm, học bài; nhắm mắt... và cũng nói: bây giờ đang mùa thu; trông vẫn con gái như ai; nhà này cũng năm tầng... mà không thể nói: ăn bài; học cơm; nhắm miệng; bây giờ đang nhà...

Có những từ có khả năng kết hợp từ vựng rất rộng, nhưng có những từ thì khả năng đó lại hẹp hoặc vô cùng hẹp. Chẳng hạn các động từ: nhắm, nháy, nghển, kiễng, phưỡn, mấp máy... có khả năng kết hợp từ vựng rất hẹp. Mỗi động từ đó chỉ kết hợp được với một hoặc vài danh từ khác mà thôi.

Có thể diễn giải khả năng kết hợp từ vựng của từ như sau:

- Khi có hai từ A và B kết hợp với nhau chẳng hạn, thì không phải lúc đó tất cả các nghĩa của A đều hiện lên và kết hợp với tất cà các nghĩa của B.

- Nếu ta hình dung mỗi từ có một "phổ" nghĩa:A = a, b, c...B = X, y, z...thì sự kết hợp AB về mặt từ vựng có thể là kết hợp nghĩa ax, by, bz, bx, ay,

az... tùy trường hợp cụ thể mà AB phản ánh.Ví dụ: Xét kết hợp che đầu trong câu: Trời mưa một mảnh áo bông che đầu; ta

thấy:Từ che có 2 nghĩa: a/ (...)b) Ngăn cho khỏi bị một tác động nào đó từ bên ngoài.Từ đầu có 4 nghĩa:x/ Bộ phận thân thể người, động vật nằm ở vị trí trên cùng hoặc trước nhất.y/(...)z(...)f(...)Khả năng kết hợp từ vựng của che với đầu trong trường hợp này là kết hợp

của nghĩa b với nghĩa X.Những phân tích như vừa nêu trên chứng tỏ rằng: khả năng kết hợp từ vựng

của các từ quy định và cho phép chúng có kết hợp với nhau được hay không. Ngược lại thông qua các kết hợp cụ thể từ này với các từ khác, ta có thể phát hiện dần từng nghĩa riêng của từ, tiến tới xác định được cả một "phổ", cả một cơ cấu của nghĩa từ. Điều này cũng tương tự như hình thái học phát hiện tất cả các từ hình của từ trong hoạt động lời nói để rồi quy chúng về cái gọi là từ vị vậy.

3. Cách dùng phương pháp phân tích theo ngữ cảnhKhi áp dụng phương pháp phân tích nghĩa qua ngữ cảnh cho từ tiếng Việt,

chúng ta phải làm những việc cụ thể như sau (Tất nhiên đây mới chỉ là cái cơ bản chứ chưa phải là những thao tác chi tiết);

a) Tập hợp ngữ cảnh: Đây là bước đầu tiên, bắt buộc phải thực hiện vì đó là tư liệu làm việc. Trước hết phải xác định được các ngữ cảnh (có chứa từ mà ta cần phân tích) trong các loại văn bản thành văn thuộc các loại hình phong cách chức năng khác nhau sau đó trích các ngữ cảnh đó ra và tập hợp lại.

b) Phân loại ngữ cảnh: khi đã thu được số lượng ngữ cảnh đủ nhiều, đáng tin cậy, phản ánh đủ hết các nghĩa của từ, chúng ta sẽ phân loại. Những ngữ cảnh nào cùng làm hiện thực hóa một nghĩa của từ (tức là trong những ngữ cảnh đó, từ xuất

hiện với cùng một nghĩa) thì được xếp vào một nhóm gọi là nhóm ngữ cảnh cùng loại.

Nếu việc phân loại ngữ cảnh làm càng chuẩn xác thì sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc tách nghĩa của từ đa nghĩa; bởi vì từ càng đa nghĩa thì càng phức tạp, càng khó xử lí.

Xét các ngữ cảnh chứa từ SAY như sau đây làm ví dụ.1. Má hồng không thuốc mà say.2. Đất say đất cũng lăn quay,Trời say trời cũng đỏ gay ai cười.3. Say thuốc lào. 4. Say xe. 5. Say sóng.6. Da anh đen cho má em hồngCho duyên em thắm cho lòng anh say.7. Các cụ ông say thuốc. 8. Các cụ bà say trầu.9. Còn con trai con gái, chỉ nhìn mà say nhau.Các ngữ cảnh trên đây được phân thành hai nhóm.Nhóm 1 gồm ngữ cảnh 1, 6, 9.Nhóm 2 gồm ngữ cảnh 2, 3, 4, 5, 7, 8/c) Phân tích nghĩaĐối với từ đơn nghĩa, nhiệm vụ ở bước này là so sánh với các từ khác cùng

nhóm (tương đồng, tương cận hoặc tương phản với nó để phát hiện các nghĩa tố cần yếu trong cấu trúc nghĩa cửa từ.

Riêng từ đa nghĩa, vấn đề phức tạp hơn. Cùng với việc so sánh, phát hiện các nghĩa tố cần yếu của từng nghĩa, thì việc tách ra bao nhiêu nghĩa trong toàn bộ cơ cấu nghĩa từ phải được tiến hành rước một bước. Ta cần phải làm những bước sau đây:

1. Xác định nghĩa gốc của từ (trong thế tương quan lưỡng phân nghĩa gốc - nghĩa phái sinh). Nghĩa gốc của từ có thể là một nghĩa từ nguyên; nhưng cũng có thể chỉ là một nghĩa phái sinh rồi phái sinh tiếp tục ra nghĩa khác. Ví dụ từ BẠC có ba nghĩa:

a/ Mỏng manh, ít ỏi, không trọn vẹn: mệnh bạcb/ ít ỏi, sơ sài (trái với hậu): lễ bạc lòng thànhc/ Không nhớ ơn nghĩa, không giữ được tình nghĩa trọn vẹn trước sau như một:

ăn ở bạc với bố mẹ.Nghĩa a. của tính từ bạc là nghĩa từ nguyên, vốn từ gốc HánNghĩa b. và c. của nó đều được phái sinh từ nghĩa a.

Thế nhưng trong tiếng Việt hiện đại, nghĩa c. mới là nghĩa phổ biến nhất. Dựa vào nghĩa gốc, ta phát hiện các nghĩa phái sinh và các quy tắc chuyển nghĩa của chúng.

2. Xác định nghĩa không thường trực (nghĩa ngữ cảnh) nếu có. để loại trừ khỏi phạm vi mà chúng ta đang quan tâm. Như vậy chỉ những nghĩa thường trực mới được đưa vào phân tích xử lí

3. Ngay trong khi phân loại ngữ cảnh, thực chất là đã bao hàm việc tách nghĩa từ trong đó rồi. Vì vậy, nếu phân loại ngữ cảnh mà chuẩn xác thì số nhóm ngữ cảnh cùng loại nói chung là ứng với số nghĩa khác nhau của từ.

IV. NGHĨA CỦA TỪ TRONG HOẠT ĐỘNG NGÔN NGỮỞ trên, chúng ta đã tạm thời cô lập hóa hai bình diện: ngôn ngữ và lời nói, để

xem xét nghĩa của từ trong ngôn ngữ như một hệ thống tĩnh. Còn một vấn đề nữa là trong hoạt động ngôn ngữ thì về phương diện nghĩa, từ sẽ như thế nào?

Tuy ngôn ngữ và lời nói không tách biệt nhau, nhưng về nguyên tắc nghiên cứu, nhiều khi sự cô lập hóa tạm thời như vậy vẫn là cần thiết và hữu ích.

1. Khi từ đi vào hoạt động ngôn ngữ, nghĩa của nó được hiện thực hóa, cụ thể hóa và được xác định. Lúc đó các thành phần nghĩa trong cơ cấu nghĩa của từ sẽ giảm tính chất trừu tượng và khái quát đến mức tối thiểu để đạt tới tính xác định, tính cụ thể ở mức tối đa.

Ví dụ, từ CHÂN trong tiếng Việt, với tư cách là đơn vị của ngôn ngữ có 6 nghĩa khác nhau (theo Từ điển tiếng Việt. Hà Nội 1988). Cơ cấu đó đã được xây dựng nên một cách khái quát, và khi nhận thức từ này dưới dạng một từ của ngôn ngữ, của từ điển, thì người ta hướng đến nó như một cái tổng thể chung. Chỉ khi nào đi vào những phát ngôn cụ thể như:

- Mong cho chân cứng đá mềm- Chân đi chữ bát, mắt thì hướng thiên,.,thì một trong 6 nghĩa của từ này mới được bộc lộ, được cụ thể hóa và được

xác định. Chính vì không bị ràng buộc cố định vào một hoặc một phạm vi sự vật nào đó nên các đơn vị từ ngữ mới có được khả năng hoạt động rộng rãi và trở nên có tính khái quát cao; để rồi khi đi vào hoạt động trong vãn bản mới trở thành cụ thể và xác định.

2. Mặt khác, cũng trong hoạt động ngôn ngữ, đồng thời với sự giảm thiểu tính khái quát thì từ lại có thể được gia tăng những sắc thái mới, nội dung mới do chính sự vật mà nó biểu thị đem lại. Chẳng hạn, xét các từ máu, lửa, rủ, bùn trong câu:

Nước Việt Nam từ máu lửaRũ bùn đứng dậy sáng lòa(Nguyễn Đình Thi)

Ở đây, các từ nêu trên không chỉ đơn thuần mang các nội dung ngữ nghĩa vốn có của chúng nữa. Chúng đã mang những sắc thái mới, sắc thái bổ sung mà chỉ trong những bối cảnh sử dụng như - diễn từ (discourse) này mới có được. Các biểu vật máu, lửa, bùn... không phải chỉ là máu, lửa và bùn như trong từ điển chỉ ra, giải thích nữa.

Cái gọi là các nghĩa ngữ cảnh của từ đã được xây dựng và nảy sinh trong những điều kiện như vậy; và cái gọi là các phép ẩn dụ, hoán dụ tu từ học cũng được thực hiện dựa trên cơ sở đó.

Ví dụ:- Ông đã ngủ một giấc 30 năm, rồi đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng ông

mới bừng tỉnh.Trong giao tiếp, nhiều khi nghĩa ngữ cảnh, nghĩa lâm thời, nghĩa được hiểu

ngầm, hiểu lại... nhờ các thủ pháp tu từ, mới chính là cái quan trọng hàng đầu; nhất là trong khi xây dựng, tiếp nhận và phân tích các diễn từ, các văn bản nghệ thuật.

Ví dụ 1. Số từ 100 trong câu ca dao:Yêu nhau vạn sự chẳng nề,Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.

không còn là số đếm đúng 100 nữa. Nó đã mang nghĩa nhiều và chỉ được nhận thức với ý nghĩa đó mà thôi.

Ví dụ 2. Các từ: ngày mai, nhen, lửa, tia, hồng trong đoạn văn sau đây cũng vậy. Chúng không còn chỉ biểu thị nghĩa trực tiếp như trong từ điển nữa. Đó chỉ là các nghĩa cơ sở, làm nền tảng cho người ta nhận thức các nghĩa chuyển tiếp xa hơn:

Tôi muốn nói với các em một điều: các em ngày mai lớn lên, ai chẳng có một sự nghiệp? Và trong số các em sao lại chẳng có những anh hùng? Khi ấy, hãy nhìn lại mà xem; trong sự nghiệp mà chúng ta đã làm, đừng bao giờ nên quên một tia lửa hồng mà người thầy giáo thân yêu của chúng ta đã nhen lên trong lòng chúng ta ngay từ những ngày thơ ấu.

(Xuân Trình)3. Các từ kết hợp với nhau theo quy tác ngữ pháp và ngữ nghĩa, bộc lộ khả

năng kết hợp từ vựng và kết hợp ngữ pháp của mình, nhưng hai loại quy tắc này không phải bao giờ cũng song hành với nhau.

a - Có những câu hoàn toàn đúng về mặt ngữ pháp, nhưng lại không chấp nhận được về mặt ngữ nghĩa hoặc lôgic (trong điều kiện thông thường), ví dụ:

- Những tư tưởng xanh lục không màu đang ngủ một cách giận dữ.(N. Chomsky)

- Thóc giống cần chuột trong bồ,Hàng trăm lá mạ đuổi vồ con trâu.

(Ca dao)b - Ngược lại, có những câu lại chứa những kết hợp từ được chấp nhận, được

hiểu về mặt ngữ nghĩa, nhưng rõ ràng là có cái gì đó bất thường về ngữ pháp, ở đây, từ đã có những biến động, thậm chí biến động rất quan trọng về bản chất từ vựng ngữ nghĩa cũng như bản chất ngữ pháp của mình. Hiện tượng vẫn quen gọi là lâm thời chuyển từ loại, cũng như việc sử dụng từ vốn thuộc phạm trù này trong ý nghĩa, chức năng của từ thuộc phạm trù khác... là những ví dụ chứng minh cho tính linh động như thế.

Chẳng hạn:- Tôi thấy chúng tôi thay đổi. Tiếng nói khác đi. Mặt hơi trứng cá.

(Nam Cao)- Tôi ra con xe. Tôi nhảy con mã sang bên này. Tôi vào tướng thì bên kia hết

chiếu.c - Khi kết hợp với nhau, các từ chẳng những phải tuân theo quy tắc ngữ pháp

mà còn phải tuân theo quy tắc ngữ nghĩa. Chúng phải tương hợp với nhau về nghĩa.Người ta coi hai từ A và B là tương hợp với nhau về nghĩa khi A đòi hỏi ở B một

nghĩa tố s thì B không được chứa và cho xuất hiện nghĩa tố đối lập -s; và ngược lại.Vậy một kết hợp từ sẽ được coi là đúng hay sai tùy theo nó có thỏa mãn điều

kiện nêu trên hay không, ví dụ:- Một con chó ốm. Câu đúng, vì:chó: động vật...ốm: trạng thái... động vật- Một con chó chết đang thở gấp. Câu sai vì:chó: động vật...chết: mất khả năng trao đổi chấtthở: đang hoạt động trao đổi chất.Vậy chứng tỏ rằng khi hai từ A và B kết hợp với nhau thì chúng phải cùng chứa

một nghĩa tố giống nhau.Tuy nhiên, thực tế vẫn có những kết hợp bất thường mà lại chấp nhận được và

còn được coi là hay; bởi đó là những câu, những kết hợp đòi hỏi phải có sự hiểu lại; hoặc chúng được tạo dựng nhờ các thủ pháp tu từ như: nhân hóa, vật hóa hoặc cố tình vi phạm nguyên tắc tương hợp về nghĩa để gây hiệu quả tu từ.

Ví dụ 1. Thầy lí vội sủa lên mấy tiếng. Anh chông bèn láy thước phang cho một trận.

(Truyện cười dân gian)Từ sủa chỉ kết hợp với chó; nhưng ở đây, thầy lí đã được vật hóa; và câu nêu

trên là câu chấp nhận được.

Ví dụ 2: Trong các câu sau đây, những thuộc tính của người đã được gán cho chó và cào cào theo lối nhân hóa để trong kết hợp từ, sự tương hợp về nghĩa vẫn được bảo đảm.

- Nhưng kẻ lên tiếng trước nhất là con Mực (...) Nó đứng lặng vẫy đuôi, đầu cúi xuống, hai mắt nhèm ươn ưót nhìn đất như tủi phận.

(Nam Cao)- Những chị cào cào trong làng ra, mĩ miều áo đỏ áo xanh mớ ba mớ bảy, từng

bước chân chầm chậm, khoan thai, khuôn mặt trái xoan như e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.

(Tô Hoài)Ví dụ 3. Xét các câu sau:Đời y sẽ mốc lên, sẽ gỉ đi, sẽ mòn, sẽ mục ra ở một xó nhà quê (...) Rồi y sẽ

chết mà chưa làm gì cả, chết mà chưa sống ! (...) Chết là thường. Chết ngay trong lúc sống mới thật là nhục nhã.

(Nam Cao)Ở đây, để hiểu được người nói (tác giả) muốn nói gì, cần có sự "hiểu lại" biểu

vật và biểu niệm của hai từ: sống và chết, chúng đã có sự xê dịch. Cần phải hiểu sống trong kết hợp chết mà chưa sống có nghĩa là sống mà như chưa sống hoặc không phải là sống: chết trong kết hợp chết ngay trong lúc sống có nghĩa là chưa chết mà như đã chết rồi.

Biểu niệm trong các từ đó, ở trường hợp cụ thể này là quan niệm về ý nghĩa của cái chết và cái sống trong cuộc đời con người chứ không còn là biểu niệm hay biểu vật thông thường vốn có của chúng nữa. Chính tác giả Nam Cao đã trình bày: Làm để có ăn, ăn để sống, sống để đợi chết... cả cuộc đời chỉ thu gọn vào bằng ấy việc thôi ư ? (...) Sống là để làm một cái gi dẹp hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống, phải làm thế nào cho phát triển lên tận độ những khả năng của loài người chứa dựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công cuộc tiến bộ chung. Mỗi người chết đi phải để lại một chút gì cho nhân loại. Có thú vị gi là cái lối sống co quắp vào mònh, cái lối sống quá ư loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào cái dạ dày

(Hoàng Phê. Ngôn ngữ, số 3-4/1981).Ví dụ 4. Những câu như sau đấy, đã được tạo dựng bằng sự vi phạm nguyên

tắc tương hợp nghĩa để gây hiệu quả tu từ:Nhiều anh con trai làng thấy cô có sắc lại có vốn, muốn hỏi cô làm vợ để dược

cưới cả cô lẫn cái vốn của cô.(Nam Cao)

Ở đây từ cưới có nghĩa tố "động vật" đòi hỏi bổ ngữ của nó phải đáp ứng nghĩa tố này. Thế nhưng từ vốn lại bộc lộ nghĩa tố "bất động vật". Nguyên tắc tương hợp nghĩa đã được vi phạm một cách cố ý để gây hiệu quả tu từ là sự mỉa mai.

Như đã nói, khi đến với ngữ nghĩa là chúng ta bước sang một phạm vi dường như không bờ bến của những ý kiến và những vấn đề. Những điều trình bày trên đây hoàn toàn không phải là đã đủ cho nó, dù mới chỉ nói về nghĩa của từ, chưa kể đến nghĩa của câu. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của từ vựng ngữ nghĩa, việc làm quen với những vấn đề như vậy, vẫn là cần thiết để chuẩn bị cho việc tiếp xúc với những giáo trình về ngữ nghĩa sâu hơn sau này.

Chương XV QUAN HỆ ĐỒNG ÂM, ĐồNG NGHĨA VÀ TRÁI NGHĨA TRONG TỪ VỰNG

Ba quan hệ: đồng âm, đồng nghĩa và trái nghĩa trong từ vựng thể hiện ở các từ đồng âm, từ đồng nghĩa và từ trái nghĩa. Đó cũng chính là một số kiểu tổ chức của từ vựng.

I. TỪ ĐỒNG ÂM1. Trước hết có thể nêu định nghĩa sau đây:Từ đồng âm là những từ trùng nhau về hình thức ngữ âm nhưng khác nhau về

nghĩa.Ví dụ: Trong tiếng Anh có 3 từ (viết là to, too, two; đọc là /tu/) làm thành một

nhóm từ đồng âm.Tiếng Việt cũng có những nhóm đồng âm như:đường (đường tàu Thống nhất); đường (mua một cân đường)sao (ông sao trên trời); sao (sao anh lại làm như thế); sao (đi sao giấy khai

sinh); sao (sao thuốc nam).2. Hiện tượng đồng âm nói chung và từ đồng âm nói riêng, thường xảy ra ở

những đơn vị có kích thước vật chất không lớn: tức là có thành phần ngữ âm không phức tạp. Vì vậy ta chỉ có đồng âm giữa từ với từ là chủ yếu; và đấy là nét chủ đạo; còn đồng âm giữa từ với cụm từ hoặc cụm từ với cụm từ thì rất hiếm hoi.

Chẳng hạn những loại đồng âm như: the sun’s rays meet // the sons raise meat; hoặc: jack in the box // jack-in~the-box trong tiếng Anh là rất ít gặp.

Mỗi hiện tượng đồng âm ở những cụm từ như vậy chỉ lập thành được từng cặp mà thôi. Trong khi đó các từ trong một nhóm từ đồng âm có thể là hai, ba hoặc dăm bảy từ; thậm chí nhiều hơn nữa.

Hiện tượng từ đồng âm có mặt trong ngôn ngữ là một tất yếu vì số lượng âm thanh mà con người phát ra được và dùng làm vỏ ngữ âm cho các từ, dù có nhiều đến mấy cũng chỉ có giới hạn của nó.

3. Từ đồng âm trong tiếng Việt, do đặc trưng loại hình đơn lập của tiếng Việt quy định, có những đặc điểm riêng.

a) Trước hết, vì tiếng Việt không biến hình nên những từ nào đồng âm với nhau thì luôn luôn đồng âm trong tất cả mọi bối cảnh được sử dụng. Đặc điểm này rất khác so với các ngôn ngữ biến hình Ấn - Âu.

Một từ trong các ngôn ngữ biến hình có thể tham gia vào nhóm đồng âm nào đó ở dạng thức này mà lại không đồng âm ở dạng thức khác. Có nghĩa là chúng có thể đồng âm với nhau ở một hoặc vài dạng thức chứ không nhất thiết đồng âm ở tất cả mọi dạng thức. Ví dụ, trong tiếng Anh:

- Động từ (to) meet nguyên đặng, đồng âm với danh từ meat; nhưng dạng thức quá khứ của nó (met) thì lại không. Các từ: saw (tục ngữ, cách ngôn) - saw (cái cưa) - sore (đau đớn) đồng âm với nhau và đồng âm với saw (dạng quá khứ của động từ (to) see.

b) Vì tiếng Việt không có sự đối lập gốc từ với phụ tố; các từ được tạo nên chủ yếu bằng sự kết hợp tiếng với tiếng , cho nên đồng âm giữa từ với từ là kết quả của đồng âm tiếng với tiếng. Điều này đã được triệt để khai thác khi người Việt sử dụng đồng âm trong nghệ thuật chơi chữ của mình; đến mức, chẳng hạn tên riêng Hitle đã được tách ra hai tiếng và được liên hội với hai động từ hít và le. Người ta thách đối: Hit - Le; và được đối lại cũng bằng một tên riêng của người Việt bằng con đường liên hội tương tự Phùng - Há.

4. Các từ đồng âm có thể được phân chia thành các kiểu loại. Tuy nhiên, do những đặc điểm riêng của từng ngôn ngữ cụ thể, bức tranh phân loại có thể khác nhau.

4.1. Chẳng hạn, đối với các từ đồng âm tiếng Anh, người ta chia ra:a) Những từ đồng âm, đồng tự:coper (anh lái ngựa)- coper (quán rượu nổi)jet (màu đen hạt huyền) - jet (tia nước, tia máu...).b) Những từ đồng âm, không đồng tự:son (con trai) - sun (mặt trời) meat (thịt) - meet (gặp)Loại đồng âm này là phổ biến nhất.c) Những từ đồng tự không đồng âm:tear : xé, bứt mạnhtear : nước mắt4.2. Các từ đồng âm tiếng Nga lại có thể được phân loại theo kiểu khác, thành

đồng âm hoàn toàn và đồng âm không hoàn toàn (đồng âm bộ phận).

a) Từ đồng âm hoàn toàn là những từ trùng nhau về ngữ âm trong tất cả mọi dạng thức ngữ pháp của chúng, ví dụ:

b) Đồng âm bộ phận là những từ chỉ đồng âm với nhau ở một hoặc vài ba dạng thức ngữ pháp nào đố. ví dụ:

Ba danh từ này chỉ đồng âm với nhau khi [1] ở dạng thức số ít cách một; bởi vì [2] và [3] không có dạng thức số nhiều.

4.3. Trong tiếng Việt tình hình phân loại từ đồng âm có khác. Có thể nêu một trong những cách phân loại như sau:

a) Đồng âm từ với từ: ở đây tất cả các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm đều thuộc cấp độ từ. Loại này lại được chia thành hai loại nhỏ hơn.

a.1. Đồng âm từ vựng: Tất cả các từ đều thuộc cùng một từ loại. Ví dụ:+ đường (đắp đường)+ đường (đường phèn)+ đường kính (một loại đường để ăn)+ đường kính (dây cung lớn nhất của đường tròn)+ cất (cất vó)+ cất (cất tiền vào tủ)+ cất (cất hàng)+ cất (cất rượu)...a.2. Đồng âm từ vựng - ngữ pháp: Các từ trong nhóm đồng âm với nhau khác

nhau về từ loại, ví dụ:+ chỉ (cuộn chỉ)+ chỉ (chỉ tay năm ngón)+ chỉ (chỉ còn có dăm đồng).+ câu (Nói vài câu)+ câu (rau câu)+ câu (chim câu)+ câu (câu cá)...Loại từ đồng âm này chiếm số đông trong tiếng Việt.b) Đồng âm từ với tiếng, ở đây các đơn vị tham gia vào nhóm đồng âm khác

nhau về cấp độ; và kích thước ngữ âm của chúng đều không vượt quá một tiếng.Ví dụ:- Con trai Văn Cốc lên dốc bàn cò, đứng lăm le cười khanh khách.Con gái Bát Chàng bán hàng thịt ếch ngòi châu chấu nói ương ương.- Nhà của để lầm than con thơ trẻ láy ai rèn cặp Cơ đồ đành bỏ bế vợ trẻ trung lắm kẻ đe loi.

5. Đại bộ phận các từ đổng âm không được giải thích về nguồn gốc; nhưng có một số từ, nhóm từ người ta có thể phát hiện ra con đường đã hình thành nên chúng.

5.1. Những nhổm đồng âm không tìm được lí do hình thành, chủ yếu gồm các từ bản ngữ. ví dụ: bay (D) - bay (Đ); rắn (T) - rắn (D); đá (D) - đá (Đ); sắc (T) - sắc (Đ)... của tiếng Việt, là những nhóm đồng âm như vậy.

5.2. Số còn lại, con đường hình thành nên chúng có thể là:a) Do tiếp thu, vay mượn các từ của ngôn ngữ khác. Từ được vay mượn có thể

đồng âm với từ của bản ngữ và chúng tạo nên nhóm đồng âm; hoặc cũng có khi hai, ba từ cùng được vay mượn từ những ngôn ngữ khác nhau và đồng âm với nhau, ví dụ:

Trong tiếng Việt: sút (giảm, sút - nguồn gốc Việt) sút2 (sút bóng - nguồn gốc Anh)

b) Do cấu tạo các từ phái sinh bằng các phụ tố.c) Do sự tách biệt nghĩa của từ đa nghĩa, một nghĩa nào đố bứt ra khỏi cơ cấu

nghĩa chung và hình thành một từ mới đồng âm với chính từ ban đầu. Ở đây, thực ra đã có sự đứt đoạn trong chuỗi liên hệ về nghĩa để dẫn đến những cặp từ đồng âm. Ví dụ

Trong tiếng Việt: quà (món ăn ngoài bữa chính) quà (vật tặng cho người khác)d) Do sự chuyển đổi từ loại. 5.3. Đối với tiếng Việt, ngoài những nhóm đổng âm không xác định được căn

nguyên, những nhóm hình thành do vay mượn từ, tách nghxia của từ đa nghĩa… còn có một con đường rất đáng chú ý là sự biến đổi ngữ âm của từ do kết quả của một quá trinh biết đổi ngữ âm lịch sử nào đó. Chẳng hạn: hòa – và (từ nối) đồng âm với động từ và (và cơm) ; mấy – với ( từ nối) đồng âm với động từ với (giơ tay với thử trời cao thấp).

Mlời – lời (lời nói)Lợi – lời (buôn bán có lời)Cách phát âm của tiếng địa phương (như phương ngữ Bắc Bộ chẳng hạn) cũng

dẫn đến những trường hợp đồng âm trong phương ngữ đó, dù là phương ngữ phổ biến. Ví dụ:

Che (tre) đồng âm với che (che đầu)Da (ra) đồng âm với da (lột da, da thịt)Xâu (sâu) đồng âm với xâu (xâu cá)6. Tuy không phải lúc nào cũng đạt được kết quả tuyệt đối hài lòng , nhưng

người ta đã đưa ra những tiêu chí như sau để phân việt từ đa nghĩa với từ đồng âm:

a. Nếu hau từ khác nhau về người gốc, trung nhau về ngữ âm thì đó là hai từ đồng âm. Ngược lại nếu giống nhau cả về ngữ âm lẫn nguồn gốc thì cần nghĩa tới khả năng đó là hiện tượng đa nghĩa.

Tiêu chí về nguồn gốc gặp phải khó khăn là phải xác định từ nguyên của từ. Trong khi đó, vấn đề từ nguyên không phải bao giờ cũng được phát hiện và giải quyết một cách ổn thỏa.

b. Nếu có một nghĩa nào đó của từ đa nghĩa đã tác xa, đã đứt đoạn mối liên hệ với toàn bộ cơ cấu nghĩa chung thì nó cũng hình thành nên một từ đồng âm với từ ban đầu.

Tiêu chí về sự đứt đoạn liên hệ nghĩa không phải luôn luôn rõ ràng và ít nhiều không tránh khỏi chủ quan.

c. Tiêu chí về hình thái và cú pháp lại xác định rằng nếu hai từ có hệ hình thái biến đổi khác nhau hoặc khả năng kết hợp, chi phối từ khác một các khác nhau m thì đó là hai từ đồng âm.

Tiêu chí này đạt được nguyên tắc hình thức khóa, nhưng khó áp dụng được cho các ngôn ngữ không biến hình.

d. Đối với tiếng Việt, một ngôn ngữ không biến hình rất tiêu biểu, chúng ta không thể áp dụng tiêu chí hỉnh thái mà có thể vận dụng riêng lẻ hoặc phối hợp những tiêu chí như sau:

d.l. Nếu có sự tách nghĩa dẫn đến đứt đoạn mối liên hệ về nghĩa thì nên coi ở đây đã hình thành những từ đồng âm

Ví dụ: cây (cây tre) - cây 2 (cây át cơ)cây (cây vàng)Giữa cây tre và cây vàng đã hoàn toàn đứt đoạn mối liên hệ về nghĩa. Chúng

cần được coi là hai từ đồng âm.d.2. Đối với hiện tượng vẫn gọi là chuyển từ loại, cần có những biện luận cụ

thể, vì tình hình của chúng không thuần nhất về nhiều mặt; và đặc biệt là mối liên hệ về nghĩa của mỗi từ trong các tư cách từ loại khác nhau vẫn còn rõ rệt: cây1 - cây2; cưa1 - cưa2; đục1 - đục2.

Khi một từ được dùng trong hai tư cách từ loại khác nhau với hai nghĩa riêng, trong đó nếu nghĩa mới phái sinh do chuyển từ loại đã có khả năng độc lập làm cơ sở tạo nên nghĩa phái sinh khác; thì lúc này nên tách ra thành hai từ đồng âm. Nếu không thỏa mãn điều kiện đó thì cần xử lí nó với tư cách là từ đa nghĩa. Ví dụ:

CHAI1.dt: Chỗ da dày và cứng lại vì bị cọ xát nhiềuCHAI2.dt: 1/ (Nói về da) đã trở thành dày và cứng vì bị cọ xát nhiều: cầm cuốc

nhiều đã chai tay.

2/ (Nói vê đất) đã trở thành cứng, không xốp, khổ cày bừa: đất ruộng bị chai cứng

3/ Đã trở thành trơ, lì vì đã quá quen: bị mắng nhiều đã chai mặt, không còn biết xấu hổ là gì nữa.

Ở đây nên tách ra chai1 và chai2 vì từ nghĩa 1 của chai2 (phái sinh từ chai1) đã tiếp tục phái sinh ra nghĩa 2 và nghĩa 3.

7. Nghiên cứu và khảo sát kĩ các từ đồng âm cả về lí thuyết lẫn thực tiễn đều rất cần thiết; đặc biệt trong lĩnh vực từ điển và, dịch máy.

Trong ngôn ngữ giao tiếp nói chung, từ đồng âm với những sác thái riêng của từng ngôn ngữ cụ thể, thường được sử dụng trong các hiện tượng chơi chữ rất đặc biệt.

II. TỪ ĐỒNG NGHĨA1. Đã có không ít quan niệm được nêu lên cho hiện tượng này với những dị

biệt ít nhiều. Nhìn chung, có hai hướng quan niệm chính: một là dựa vào đối tượng được gọi tên, hai là dựa vào khái niệm do từ biểu thị.

Thực ra, từ đồng nghĩa không phải là những từ trùng nhau hoàn toàn về nghĩa. Chúng nhất định có những dị biệt nào đố bên cạnh sự tương đồng (mặc dù phát hiện sự dị biệt đó không phải lúc nào cũng dễ dàng). Chính sự dị biệt đó lại là lí do tồn tại và làm nên những giá trị khác nhau giữa các từ trong một nhóm từ đồng nghĩa. Rõ ràng tính đồng nghĩa có những mức độ khác nhau; và ta có thể nêu quan niệm như sau:

Từ đồng nghĩa là những từ tương đồng với nhau về nghĩa; khác nhau về âm thanh và có phân biệt với nhau về một vài sắc thái ngữ nghĩa hoặc sắc thái phong cách... nào đó, hoặc đổng thời cả hai.

Ví dụ: cố, gắng, cố gắng(trong tiếng Việt)... là những nhóm từ đồng nghĩa.2. Những từ đồng nghĩa với nhau tập hợp thành một nhóm gọi là nhóm đồng

nghĩa. Trong ba ví dụ vừa nêu, ta có ba nhóm đồng nghĩa của tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Việt.

- Những từ đồng nghĩa với nhau không nhất thiết phải tương đương với nhau về số lượng nghĩa; tức là các từ trong một nhóm đồng nghĩa không nhất thiết phải có dung lượng nghĩa bằng nhau: từ này có thể có một hoặc hai nghĩa; nhưng từ kia có thể có tới dăm bảy nghĩa. Thông thường các từ chỉ đồng nghĩa ở một nghĩa nào đó. Chính vì thế nên một từ đa nghĩa có thể tham gia vào nhiều nhóm đồng nghĩa khác nhau: ở nhóm này nó tham gia với nghĩa này; ở nhóm khác, nó tham gia với nghĩa khác.

Ví dụ: Từ coi của tiếng Việt là một từ đa nghĩa, tùy theo từng nghĩa được nêu lên để tập hợp các từ, mà coi có thể tham gia vào các nhóm như:

b) Trong mỗi nhóm từ đồng nghĩa thường có một từ mang nghĩa chung, được dùng phổ biến và trung hòa về mặt phong cách; được lấy làm cơ sở để tập hợp và so sánh, phân tích các từ khác. Từ đó gọi là từ trung tâm của nhóm.

Ví dụ trong nhóm từ:yếu, yếu đuối, yếu ớt của tiếng Việt, từ yếu được gọi là từ trung tâm.

Tuy nhiên, việc xác định từ trung tâm của nhóm không phải lúc nào cũng dễ và đối với nhóm nào cũng làm được. Nhiều khi ta không thể xác định một cách dứt khoát được theo những tiêu chí vừa nêu trên, mà phải dựa vào những tiêu chí phụ như: tần số xuất hiện cao (hay được sử dụng) hoặc khả năng kết hợp rộng.

Chẳng hạn trong các nhóm từ đổng nghĩa tiếng Việt như: hồi, thuở, thời hoặc chờ, đợi; hoặc chỗ, nơi, chốn... rất khó xác định từ nào là từ trung tâm.

(Vấn đề từ trung tâm sẽ được nhắc lại ở điểm 3 tiếp sau).3. Tập hợp đủ các nhóm từ đồng nghĩa; phân tích cho hết được những nét

giống nhau, khác nhau giữa các từ trong mỗi nhóm, luôn luôn là mong muốn của những người nghiên cứu và xử lí vấn đễ từ đồng nghĩa.

Có nhiều thao tác ít nhiều mang tính kĩ thuật và nguyên tắc hoặc kinh nghiệm trong khi phân tích nhóm từ đồng nghĩa; nhưng tất cả đều nhằm vào mục đích chung của hai bước cơ bản sau đây.

Coi – xem: coi hát - xem hátCoi - giữ: coi nhà - giữ nhà3.a. Lập danh sách các từ trong nhómMỗi nhóm đồng nghĩa có thể nhiều hay ít tùy theo tiêu chí đưa ra để tập hợp

nhưng phải luôn luôn dựa vào nghĩa biểu niệm của từ.a.1. Trước hết phải chọn một từ đưa ra làm cơ sở để tập hợp các từ khác. Từ

này thường cũng chính là từ trung tâm của nhóm; chẳng những nó được lấy làm cơ sở để tập hợp từ khác mà còn là cơ sở để so sánh, phân tích và giải thích chúng, ví dụ: với từ sợ của tiếng Việt, ta tập hợp thêm một số từ khác và lập thành nhóm đồng nghĩa: sợ - hãi - kinh - khiếp - sợ hãi - khiếp sợ.

a. 2. Khi lập nhóm đồng nghĩa phải luôn luôn cảnh giác với các cách diễn đạt đồng nghĩa, với các hiện tượng chuyển nghĩa có tính chất phong cách, tu từ. Đó là những trường hợp ”đồng nghĩa ngữ cảnh” hoàn toàn có tính chất lâm thời và thuộc về kĩ thuật tạo lập văn bản, do phong cách học nghiên cứu. Ví dụ:

- Bác đã đi rồi sao Bác ơi !- Áo nâu cũng với áo xanhNông thôn củng với thị thành đứng lên.3.b. Phân tích nghĩa của từng từ trong nhóm

Ở bước này phải phát hiện những tương đồng và dị biệt giữa các từ trong nhóm với nhau. Công việc cụ thể phải làm là:

b.1. Cố gắng phát hiện và xác định cho được từ trung tâm của nhóm. Từ trung tâm thường là từ có mang nghĩa chung nhất, dễ dùng và dễ hiểu nhất. Về mặt phong cách, nó có tính chất trung hòa. Chẳng hạn, trong nhóm mồ - mả - mộ - mồ mả thì mộ là từ trung tâm, vì nó đáp ứng các đặc điểm vừa nêu.

Trong tiếng Việt, từ trung tâm của nhóm đồng nghĩa, nói chung có một số biểu hiện về hình thức như sau:

Nếu trong nhóm có cả từ đơn tiết lẫn đa tiết thì từ trung tâm thường là từ đơn.Nếu trong nhóm có những từ không có khả năng tạo từ phái sinh hoặc tạo rất

ít từ phái sinh, thì còn lại, từ nào có khả năng phái sinh lớn nhất, từ đó cũng thường là từ trung tâm.

Nếu một từ trực tiếp trái nghĩa với từ trung tâm của một nhóm đồng nghĩa khác thì nó cũng sẽ chính là từ trung tâm trong nhóm của mình.

Chẳng hạn, xét hai nhóm:1) Hiền - lành - hiền lành - hiền hậu - hiền từ - nhân hậu - nhân từ.2) Ác - dữ - độc ác - hiểm độc - ác nghiệtTa thấy ở nhóm 1, hiền là từ trung tâm vì nó thỏa mãn tất cà những đặc điểm

nêu trên. Trong nhóm 2, ác sẽ được coi là từ trung tâm cũng vì những lí do như vậy và nó trái nghĩa với hiền.

Tuy nhiên, một từ đa nghĩa có thể đồng thời tham gia vào nhiều nhóm đồng nghĩa khác nhau nên có thể ở nhóm này nó là từ trung tâm nhưng ở nhóm khác thì lại hoàn toàn không có tư cách đó.

b.2. Lần lượt đối chiếu các từ trong nhóm với từ trung tâm và đối chiếu giữa các từ không phải là từ trung tâm với nhau ta sẽ phát hiện những tương đồng và dị biệt về nghĩa. Sự tương đồng sẽ có ở tất cả mọi từ; còn sự dị biệt thì sẽ có ở từng từ trong nhóm. Vì thế khi đối chiếu, ta nên đối chiếu với từ trung tâm trước, như là so sánh với một mẫu số chung vậy.

Sự dị biệt giữa các từ đồng nghĩa nhiều khi rất tinh tế và khó phát hiện. Thường gặp nhất là những dị biệt sau đây:

+ Dị biệt về một số sắc thái nghĩa bổ sung như: mức độ trừu tượng, khái quát của khái niệm; hoặc phương thức, công cụ, chủ thể tiến hành, tiếp nhận hành động; hoặc thái độ của người nói đối với người nghe; hoặc sự đánh giá của người nói... Ví dụ: xét hai từ: cố - gắng.

Nét chung của hai từ này là: đưa sức ra nhiều hơn bình thường để làm cho được việc gì đó.

Nét riêng (dị biệt) của có so với gắng là ở mục đích của hành động này: làm cho kì được, kì xong công việc mà chủ thể biết là khó khăn. Chẳng hạn: cố làm cho xong, cố quên những chuyện không vui đi; cố nhớ lại xem hôm qua đã nói gì.

Nét dị biệt của gắng so với cố là: làm cho tốt công việc mà biết là nên làm. Chẳng hạn, có thể nói: gắng lên chút nữa học cho giỏi, gắng chịu dựng khó khăn để động viên nhau.

+ Dị biệt về phạm vi sử dụng hoặc sắc thái phong cách, thái độ bình giá của người nói, ví dụ:

quả - trái: Quả có phạm vi sử dụng rộng hơn trải.phụ nữ - đàn bà: Phụ nữ có sắc thái trang trọng hơn đàn bà.+ Dị biệt về khả năng kết hợp cú pháp và kể cả kết hợp từ vựng. Ví dụ:Ta có: trái na, trái bưởi, mặt trái xoan... nhưng không thể có trái chuông, trái

trứng gà, mặt quả xoan...Ta có: một mực, rất mực, mẫu mực, mức sống, mức lương, định mức, vượt

mức... chứ không để một mức, rất mức, mẫu mức, mực sống, mực lương, định mực, vượt mực... mặc dù hai từ mức và mực là hai từ đồng nghĩa, trong rất nhiều trường hợp chúng thay thế được nhau.

4. Nhận biết để tập hợp, phân tích thấu đáo các nhóm đồng nghĩa sẽ giúp cho người ta sử dụng từ ngữ được chuẩn xác và tinh tế hơn, phù hợp với tâm lí và thói quen của người bản ngữ hơn. Điều đó rất quan trọng đối với việc dạy và học tiếng.

III. TỪ TRÁI NGHĨA 1. Vốn là một hiện tượng không hoàn toàn đơn giản, các quan điểm về từ trái

nghĩa đã được đưa ra cũng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Tuy vậy, nét chung được đề cập trong tất cả các quan niệm là: sự đối lập về nghĩa.

Quan niệm thường thấy và được đa số chấp nhận, được phát biểu như sau:Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa đối lập nhau trong mối quan hệ tương liên.

Chúng khác nhau về ngữ âm và phản ánh từng khái niệm tương phản về lôgic.Ví dụ: cao và thấp trong câu dưới dãy là hai từ trái nghĩa:

Bây giờ chồng thấp vợ caoNhư đôi đũa lệch so sao cho bằng.

2. Từ quan niệm nêu trên, suy ra rằng: những từ có vẻ đối nghịch nhau về nghĩa nhưng không nằm trong thế quan hệ tương liên thì đó không phải là hiện tượng trái nghĩa. Chẳng hạn trong các câu: Nhà này tuy bé mà xinh. Cô ấy dẹp nhưng lười; ... thi bé-xinh; đẹp-lười có vẻ đối nghịch nhau; nhưng chúng không phải là những hiện tượng trái nghĩa, vì không nằm trong quan hệ tương liên. Ngược lại, hai từ cao và thấp lại là trái nghĩa, vì chúng nằm trong quan hệ tương liên.

Những từ được cấu tạo bằng phụ tố, tạo ra những cặp từ có nghĩa ngược nhau (Ví dụ như: care - careless,...trong tiếng Anh) đều là những từ trái nghĩa cùng gốc. Chúng là kết quả của hiện tượng phái sinh trong từ vựng. Từ vựng học, trong trường hợp cần thiết, có thể đề cập tới hiện tượng này; nhưng mục tiêu nghiên cứu cơ bản của nó vẫn phải là những từ trái nghĩa khác gốc, tồn tại với tư cách của một kiểu tổ chức trong từ vựng, như: cao – thấp; ngắn - dài; dại - khôn; xấu - tốt;…

3. Trong các nhóm từ trái nghĩa, không có từ trung tâm như trong nhóm đồng nghĩa. Mỗi từ ở đây có thể được hình dung như là nằm ở vị trí của một âm bản hay dương bản của nhau vậy. Từ này như là một tấm gương phản chiếu của từ kia, và ngược lại. Ví dụ:

buồn: có tâm trạng tiêu cực, không thích thú của người đang gặp đau thương hoặc gặp việc không được như ý.

vui: có tâm trạng tích cực, thích thú của người đang gặp việc mình thích hoặc điều gì đó được như ý.

Vì thế, trong mỗi nhóm từ trái nghĩa sẽ chỉ gồm hai từ, và thường được gọi là một cặp trái nghĩa. Trong mỗi cặp như vậy, hai từ thường có quan hệ đẳng cấu nghĩa với nhau. Đặc điểm này chẳng những làm cho dung lượng nghĩa của chúng tương đương nhau mà kéo theo cấu trúc hình thức của chúng cũng thường tương đương hoặc gần tương đương nhau. So sánh:

+ nặng - nhẹ; nặng nề - nhẹ nhàng; buồn bã - vui vẻ; + high – low; fat - thin; long - short...Nói rằng hai từ trái nghĩa nhau tương đương với nhau về dung lượng nghĩa thì

không phải là chúng nhất thiết phải có số lượng nghĩa bằng nhau. Điều quan trọng là cái nghĩa làm cho hai từ đi vào quan hệ trái nghĩa, phải có dung lượng tương đương nhau. Bởi vậy, cũng như hiện tượng đồng nghĩa, ở đây, một từ đa nghĩa có thể tham gia vào nhiều cặp trái nghĩa khác nhau. Điều này cũng ngụ ý rằng một từ nào đó, có thể có quan hệ trái nghĩa với nhiều từ trong nhóm đồng nghĩa, ví dụ:

+ mềm - cứng; mềm - rắn (mềm nắn rắn buông)+ già - trẻ; già - non (già giải non hột)4. Việc xác định các cặp trái nghĩa có nhiều phức tạp nên không thể chỉ dựa

hẳn vào một tiêu chí nào đó. Thông thường người ta hay dựa vào những tiêu chí sau đây:

4.a. Nếu hai từ là trái nghĩa thì chúng cùng có khả năng kết hợp với một từ khác bất kì nào đó mà quy tắc ngôn ngữ cho phép. Suy rộng ra là chúng phải cùng có khả năng xuất hiện trong một ngữ cảnh.

Ví dụ: người khôn - người dại; bóng tròn - bóng méo;hoặc: no bụng đói con mắt; dốt đặc hơn hay chữ lỏng;

Nếu hai từ là trái nghĩa thì chúng phải bảo đảm mối quan hệ liên tưởng đối lập với nhau một cách thường xuyên và mạnh; bởi vì mỗi từ trong cặp trái nghĩa như là tấm gương phản chiếu của từ kia. Ở đấy, để giảm bớt đến mức tối đa tính chủ quan của cái gọi là quan hệ liên tưởng, ta có thể thực hiện thêm hai thủ tục kiểm tra:

b.1. Phân tích nghĩa của hai từ đố xem chúng có đẳng cấu hay không.b.2. Trường hợp có nhiều liên tưởng mà cũng bảo đảm tính đẳng cấu về nghĩa

thì cặp liên tưởng nào nhanh nhất, mạnh nhất, có tần số xuất hiện cao nhất, sẽ được coi là trung tâm, đứng đầu trong chuỗi các cặp trái nghĩa.

Ví dụ: cứng - mềm : Chân cứng đá mềm.cứng - dẻo : Thép cứng thay cho thép dẻo.cứng - nhủn : Khi quả xanh, vỏ cứng; khi chín, vỏ nhũn.Trong ba cặp liên tưởng này, cặp cứng – mềm phải đứng ở vị trí trung tâm, vị

trí hàng đầu.4.c. Đối với từ trái nghĩa tiếng Việt, ngoài những tiêu chí nêu trên, còn có thể

quan sát và phát hiện chúng qua những biểu hiện bổ sung như sau:- Về mặt hình thức, hai từ trái nghĩa trong cặp thường có độ dài bằng nhau (về

số lượng âm tiết), rất ít khi lệch nhau.- Nếu cùng là từ đơn tiết thì hai từ trong cặp trái nghĩa lại thường cùng đi đôi

với nhau, tạo thành những kết hợp như: dài ngắn, trẻ già, trước sau, sớm muộn, đầu cuối, ngược xuôi, lớn bé.. biểu thị nghĩa khái quát tổng hợp, bao gồm hết các đối tượng "từ A đến Z" trong một phạm trù của đời sống và thế giới.

- Trừ vài ba cặp từ như: hồng hào - xanh xao; nhã nhặn - tục tằn; còn nếu hai từ A và B là trái nghĩa thì:

Hoặc là cả hai cùng không có cấu tạo từ láy;Hoặc là một bên có, một bên không;Hoặc cả hai bên cùng có âm tiết láy sẽ không cùng khuôn vần.Ví dụ ra - vào; trong - ngoài; lên - xuống....mừng - lo; mừng//lo lắng lành - rách; lành lặn//rách rưới5. Nghiên cứu các từ trái nghĩa không thể bỏ qua trường hợp những từ vốn

không trái nghĩa với nhau; nhưng trong một số ngữ cảnh chúng lại được dùng với tư

cách như những cặp trái nghĩa, chẳng hạn: đầu voi đuôi chuột; mặt sứa gan lim; miệng hùm gan sứa...

Những từ như thế, người ta vẫn quen gọi là từ trái nghĩa ngữ cảnh, tức là chúng chỉ nằm trong thế đối sánh trái nghĩa tại một vài ngữ cảnh nào đó chứ không phải là một quan hệ ngữ nghĩa trong tổ chức ngữ nghĩa của từ vựng. Cơ sở hình thành mối quan hệ trái nghĩa ngữ cảnh chính là ở các nghĩa ẩn dụ, hoán dụ, những biểu trưng... của từ, nảy sinh trong từng ngữ cảnh cụ thể đó. Ví dụ:

Chồng người xe, ngựa người yêuChồng tôi áo rách tôi chiều tôi thương.

Tình hình trên đây dẫn đến một hệ quả là: trong thực tiễn sử dụng ngôn ngữ đã có vô cùng nhiêu trường hợp thiết lập và dùng trái nghĩa ngữ cảnh. Có thể gọi chúng là những từ đối nghĩa. Tính chất đối nghĩa này thể hiện rõ rệt nhất trong những lối nói muốn làm nói bật sự đối lập giữa hai vế, hai mặt, hai đối tượng... nào đó, mà người Việt rất hay dùng. Ví dụ: Gò với núi cũng kể là cao, bể với ao cũng kể là trũng; Đói lòng ăn nắm lá sung, chồng một thì lấy chồng chung thi đừng; Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết; Sống cục đất mát cục vàng....

Chương XVI BIẾN ĐỔI TRONG TỪ VỰNG A. NHỮNG BIẾN ĐỔI Ở BỀ MẶT

I. HIỆN TƯỢNG RƠI RỤNG BỚT TỪ NGỮ1. Trong ngôn ngữ vốn có một nguyên tắc chung là chỉ lưu giữ những yếu tố,

những đối lập hữu ích; những yếu tố, những đối lập nào thừa (chứ không phải là yếu tố dư – thiếu theo cách của lí thuyết thông tin) không phù hợp với nhu cầu sử dụng của con người, thì đều bị loại bỏ.

Ví dụ: Trước đây, tiếng Việt có những từ như: mựa (chớ), sá (nên), nữa (hơn), tác (tuổi), chiền (chùa)... hoặc những từ như: thái y, thái giám,... quả thực, nông hội, khổ chủ... thế nhưng ngày nay, trong đời sống giao tiếp thường nhật, chúng đã gần như vắng bóng hẳn, hoặc hoàn toàn không còn nữa.

2. Nguyên nhân làm cho một từ rơi rụng đi, có thể trong ngôn ngữ; nhưng cũng có thể là những nguyên nhân ngoài ngôn ngữ.

2.a. Nguyên nhân trong ngôn ngữ cơ bản là do sự tranh chấp về giá trị và vị trí sử dụng. Sự va chạm bởi quan hệ đồng âm hoặc đồng nghĩa đã dẫn tới tình trạng tranh chấp đó.

Sự va chạm trong quan hệ đồng âm giữa hai từ A và B không phải bao giờ cũng làm cho một từ phải "ra đi". Chỉ trong một số ít trường hợp, khi cả hai cùng hiện diện được trong ngữ cảnh và gây nên tình trạng lộn xộn, gây mơ hồ hoặc hiểu lầm thì lúc đó một trong hai từ mới bị triệt thoái. Ví dụ: trong tiếng Anh có từ leten

(cho phép) và letten (cản trở, vướng). Cả hai từ này đều biến đổi thành let và đồng âm với nhau. Trong một số hoàn cảnh chúng gây nên những hiểu lầm. Từ let (cản trở, vướng) nay đã biến mất khỏi đời sống giao tiếp thông thường và chỉ còn để lại bóng dáng của mình trong một số lối nói chuyên môn hóa của môn thể thao ten nít và môn luật học mà thôi.

Va chạm về đồng nghĩa là khả năng thường gặp trong rất nhiều trường hợp. Nếu A và B đồng nghĩa với nhau và mỗi từ không có một giá trị, phẩm chất riêng, khác biệt nhau, thì một trong hai từ đó sẽ dần dần bị rơi rụng. Ngoài ra, nếu A và B như nhau về mọi mặt nhưng một trong hai từ đó lại có những khó khăn trong sử dụng chẳng hạn, thì nó cũng dần dà bị lãng quên. Tình trạng của các cặp từ tiếng Việt: tác = tuổi, chác = đổi; chiền = chùa; han = hỏi; gìn = giữ... đều là những từ như vậy.

Khi có tranh chấp và một từ bị rơi rụng thì có thể nó "một đi không trở lại". Đó là những trường hợp như các từ của tiếng Việt xưa: mựa (chớ), bui (chỉ), nhẫn (tới), phen (so bì), tua (nên), khứng (chịu), khóng khảy (vui mừng), thửa (giới từ)... Ngược lại, cũng có khi nó còn để lại tàn dư của mình trong từ vựng hiện đại mà ngày nay ta khó hoặc rất khó nhận ra. Chảng hạn tiếng Việt xưa có các từ như: đòi (theo), chiền (chùa), tác (tuổi), han (hỏi), nữa (hơn), âu (lo), chác (đổi), ngặt (nghèo)... Trong từ vựng tiếng Việt ngày nay, chúng đã không còn tư cách là từ nữa, mà chỉ còn để lại dấu vết của mình trong các từ theo đòi, chùa chiền, tuổi tác, hỏi han, hơn nữa, lo âu, đổi chác, ngặt nghèo... mà thôi.

2.b. Nguyên nhân trong ngôn ngữ thứ hai là sự biến đổi ngữ âm. Trong quá trình diễn biến của ngôn ngữ nói chung và từ vựng nói riêng, bộ mặt ngữ âm của một từ có thể biến đổi đến nỗi khác lạ hẳn với dạng vốn có ban đầu. Kết cục là dạng cũ của từ bị mất - bởi vì dạng mới hình thành về sau đã thay thế vào chỗ của nó. Các từ: mấy > với; hòa > và; liễn > lẫn; phen > sánh; mlời > lời của tiếng Việt đã bị rụng đi bởi nguyên do biến đổi ngữ âm như thế.

2.c. Nguyên nhân trong ngôn ngữ thứ hai là sự rút gọn từ. Nếu một từ nào đó lại có dạng rút gọn của mình thì thông thường, dạng nguyên ban đầu dần dần nhường chỗ cho dạng rút gọn. Điều này được định luật Zipf ủng hộ. Zipf đã chứng minh rằng trong ngôn ngữ, những từ thông dụng thường có xu hướng ngắn hơn những từ không thông dụng. Ví dụ, tiếng Anh hiện nay đã rút ngắn các từ refrigearator, television, aeroplane thành fridge, TV (hoặc tele), plane; và chúng được dùng phổ biến hơn.

Trong tiếng Việt, ta cũng có thể thấy hàng loạt trường hợp tương tự như vậy: Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghia Xô - Viết — Liên Xô; Việt Nam độc lập đồng minh hội- Việt minh; vô tuyến truyền hình — vô tuyến...

Tuy nhiên, dù có kích thước dài nhưng không phải từ nào cũng rút gọn được; nhất là đối với những từ phổ biến, được dùng với tần số cao. Khi đó ta thường không gặp dạng rút gọn của nó thay thế cho nó , mà có thể gặp một từ khác ngắn hơn thay thế cho nó. Chẳng hạn, tiếng Anh đã dùng pram (cái xe nôi - rút gọn từ perambulator) thay thế cho baby carriage; và đang ưa dùng car hơn là automobile.

2.d. Đối với các nguyên nhân ngoài ngôn ngữ làm cho một từ bị triệt thoái thì trước hết phải tính đến nguyên nhân lịch sử và xã hội.

Khi những sự vật, hiện tượng, chức vị, quan hệ... trong đời sống xã hội mà bị mất đi bởi những lí do lịch sử, thì tên gọi của chúng cũng giảm dần vị trí tích cực, rồi mất đi theo. Chúng, hoặc là bị rơi rụng hẳn khỏi đời sống giao tiếp hàng ngày hiện tại, hoặc là vẫn còn để lại hình bóng của mình đâu đó mà rất ít được đề cập, sử dụng. Chẳng hạn, các từ: bẩm, lạy, cấm thành, tử cấm thành, long cổn, hốt, hài, mộc, giáo, hỏa hổ, thần công, thượng hoàng... đã rút lui khỏi từ vựng tiếng Việt ngày nay bằng con đường như thế.

Các nguyên nhân xã hội so với nguyên nhân lịch sử, đa dạng và phức tạp hơn. Có thể do thói quen sử dụng, sự ưa thích hoặc tiện lợi, thậm chí kể cả "mốt” nói năng cũng đủ cho một từ nào đố chiếm ưu thế hơn hẳn so với từ hoặc ngữ đang tranh chấp với nó. Tình hình này có thể được minh họa bằng những cặp từ như radio - đài... của tiếng Việt, hoặc table napkin – serviette; radio - wireleess trong tiếng Anh. Trong mỗi cặp như thế, nếu một từ được xã hội chấp nhận và ưa dùng hơn thì từ kia sẽ phải thoái lui khỏi vị trí vốn có của nó.

Sự kiêng kị, nói tránh tên là một lí do về mặt xã hội khiến cho một từ (tên gọi) nào đó rất dễ bị mất đi. Trên thế giới hầu như nơi nào cũng có hiện tượng kiêng kị, tránh gọi tên một vài sự vật, hiện tượng, hành động... nào đó. Ngư dân Việt Nam phần nhiều không gọi cá voi mà gọi cá ông hoặc (cá) ông voi. Khi gặp cá voi chết người ta bảo rằng: (ông) lụy. Trong rất nhiều ngôn ngữ dòng Santic, Slave, German, không thấy có một cái "tên cúng cơm" của con gấu. Người ta đã gọi chệch đi bằng những tên khác nhau... Nhiều ngôn ngữ Slave khác cũng gọi giống như tên gọi trong tiếng Nga. Trong khi đó cái "tên cúng cơm" nguyên thủy của con vật này từ thời ngôn ngữ Ấn - Âu chung, vẫn được bảo lưu trong các ngôn ngữ khác như: ursus (tiếng Latin) - ours (tiếng Pháp) - orso (tiếng Italia) - oso (tiếng Tây Ban Nha) - arktos (tiếng Hi Lạp) - rksah (tiếng Ấn Độ Cổ) (tiếng Acmênia) - ari (tiếng Anbani) - art (tiếng Irland). Sự quên lãng trong các ngôn ngữ nêu trên chỉ có thể giải thích hợp lí bằng lí do là sự kiêng kị.

Trong cuộc sống của thế giới văn minh bây giờ, sự kiêng kị cũng vẫn còn chưa hết. Người ta kiêng, tránh một từ nào đó, thay thế nó bằng một từ khác, có thể vì nó

động chạm đến một niềm sùng tín, dị đoan; hoặc cũng có thể chỉ vì một sự xấu hổ, ngại ngùng nào đó mà từ có thể gây nên. Ví dụ:

Ở nước Anh, nhiều người hay dùng passing way hơn là dying (đang chết; hấp hối) và dùng malignant grovoth hơn là dùng cancer (bệnh ung thư). Còn ở Mĩ, người ta lại muốn tránh dùng - lavatory (vốn ban đầu chỉ có nghĩa là nơi tắm rửa). Họ muốn thay thế nó bằng comfort station hoặc powder room; hoặc little girl’s room. Một người Việt nếu muốn tỏ ra mình không phải là kẻ thô lỗ, thì anh ta nói nước tiểu, nước giải thay cho nước đái; nói đi tiểu, đi giải thay cho đi đái...

II. SỰ XUẤT HIỆN CÁC TỪ NGỮ MỚICác từ ngữ mới thường xuất hiện để bù đắp những thiếu hụt. không thỏa mãn,

không phù hợp với nhu cầu định danh các sự vật, hiện tượng trong đời sống và thế giới của con người. Đôi khi, chúng cũng xuất hiện một phần bởi một trong cách định danh muốn dành cho sự vật một tên gọi mới hơn dù nó đã có tên gọi rồi. Tuy nhiên, lí do thứ nhất vẫn là lí do chủ yếu. Có hai con đường cơ bản làm xuất hiện một từ ngữ mới.

1. Con đường đầu tiên và quan trọng hơn cả là dùng những yếu tố, những chất liệu và quy tắc sẵn có trong ngôn ngữ dân tộc "của mình" để cấu tạo từ mới. Ngoài các phương sách cấu tạo từ thường gặp như đã nói ở chương XII ra, còn có thể kể thêm như sau:

1.a. Phương pháp loại suy. Có thể hiểu đây là cách tạo từ bằng con đường noi theo cấu tạo của từ có trước. Ví dụ:

Tiếng Việt vay mượn từ bidon và cresson của tiếng Pháp nhưng rồi đã tân trang cấu trúc của chúng theo mẫu của một dãy từ mà người Việt tưởng rằng chúng thuộc cùng một loại cấu tạo như nhau:

bidon - binh tông (cùng dãy sau binh tích, binh trà...) cresson - cải xoong (cùng dãy sau cải canh, cải bẹ...)

Tiếng Anh đã cấu tạo motoway (xa lộ) theo railway và laundromat (hiệu giặt là tự động) theo automat.

1.b. Hòa đúc hai từ có sẵn tạo thành từ mới. Ví dụ:Tiếng Anh: smog= smoke + fogBrunch= breakfast + lunchMotel= motor + hotel1.c. Rút ngắn một cụm từ hoặc từ dài hơn, tạo thành một từ mới. Ví dụ:Tiếng Việt:khiếu tố — khiếu nại + tố cáo giao liên - giao thông + liên lạcTiếng Anh:

public house — pub (quán rượu, quán ăn) perambulator — pram (xe nôi)omnibus — (xe buýt)1.d. Hình thành từ mới do cách ghép các con chữ (âm) ở đầu hoặc cuối từ

trong một nhóm từ với nhau. Ví dụ: ở tiếng Anh, RADAR, SIDA, LASER... và một số tên gọi của các tổ chức quốc tế như FAO, UNICEF, UNESCO... đều đã hình thành bằng con đường như vậy.

1.e. Hình thành từ mới bằng cách chuyển đổi từ loại của từ có sẵn. Ví dụ:Tiếng Anh: garage (gara) - to garage (cho ô tô ra vào)do one’s hair — hair - do (kiểu tóc; việc làm đầu).Trường hợp một, chuyển danh từ sang động từ. Trường hợp nai, chuyển động

từ sang danh từ.2. Con đường thứ hai làm xuất hiện từ ngữ mới là vay mượn.2.a. Trong ngôn ngữ nào cũng có hiện tượng vay mượn từ ngữ noặc yếu tố cấu

tạo từ từ một ngôn ngữ khác.+ Người ta có thể vay mượn các từ, ví dụ như:Trong tiếng Việt: mít tinh, bốc, ten nít... (nguồn gốc Anh), ga, xăng, sơ mi, xà

phòng... (nguồn gốc Pháp), bôn sê vích, côm xô môn... (nguồn gốc Nga), câu lạc bộ, ngân phiếu, mậu dịch (nguồn gốc Hán), shi, lượn, bản... (gốc Tày Nùng).

Trong tiếng Anh: telephone, thermodynamic... (gốc Hi Lạp cổ), cliche, boutique... (nguồn gốc Pháp).

+ Cũng có khi người ta vay mượn yếu tố cấu tạo từ hoặc lấy từ của một ngôn ngữ khác làm yếu tố cấu tạo từ trong ngôn ngữ ìa mình. Chẳng hạn: các phụ tố - able; ible; ent của tiếng atin; các phụ tố - ism; - ist; -ite của tiếng Hi Lạp; các phụ tố -age; - ance; - ate của tiếng Pháp đã được vay mượn vào tiếng Anh. Trong khi đó, tiếng Việt mượn các yếu tố: - hóa; - sinh; - viên (nguồn gốc Hán) hoặc mượn hẳn một từ trong ngôn ngữ khác, đem kết hợp với một yếu tố có sẵn của mình để tạo ra từ mới.

canh + gác (garde - gốc Pháp) - canh gáckhăn + piêu (gốc Thái) — khăn piêulàng + bản (gốc Tày Nùng) — làng bản+ Căn ke lại từ ngữ của ngôn ngữ khác cũng là một hiện tượng vay mượn

ngoài ngôn ngữ. Kết quả của hiện tượng căn ke là người ta có một từ mới, được tạo nên bằng cách trực dịch từng yếu tố cấu tạo trong từ của ngôn ngữ khác, ví dụ: Tiếng Việt có các từ vườn trẻ, nhà văn hóa... là căn ke từ các tên gọi trong tiếng Nga. Tiếng Tày Nùng có từ đin nựa là căn ke từ đất thịt trong tiếng Việt. Người Pháp vay mượn từ skyscraper của tiếng Anh và đã "đồ” lại thành gratte - ciel.

2.b. Đối với các từ ngữ vay mượn, mỗi ngôn ngữ đều có cách xử lí khác nhau bên cạnh những đường nét chung. Người Việt khi vay mượn từ ngữ và đưa vào sử dụng trong ngôn ngữ của mình, thường có những điều chỉnh như sau:

+ Cải tổ cấu trúc ngữ âm của từ cho phù hợp với ngữ âm tiếng Việt và đồng thời có thể rút ngắn từ lại. Nói chung, từ nào có dị biệt với ngữ âm tiếng Việt cũng được cải tạo ít nhiều. Ví dụ: beton - bêtông; garde - gác; boulon - bu lông, bù loong; essence - xăng; enveloppe - lốp... meeting - mít tinh; cowboy - cao bồi; tennis - ten nít... thục địa - thục (củ thục); tiểu tiện - tiểu (đi tiểu); tri huyện - huyện (ông huyện)...

+ Cải tổ nghĩa của từ. Vay mượn từ nhưng lại cấp cho nó một nghĩa khác với nghĩa vốn có của nó. ví dụ: tử tế là từ gốc Hán vốn có nghĩa là "cặn kẽ, chu đáo", nhưng vào tiếng Việt, Nó đượ: cấp cho nghĩa tốt bụng. Tương tự như vậy, các nghĩa: "lên mặt hợm hĩnh, tỏ thái độ kiêu ngạo" đã được cấp cho hai từ hãnh diện sỉ diện mà từng yếu tố một vốn có những ý nghĩa hoàn toàn khác: hãnh = may mắn; sỉ = học trò; kẻ có học thức...

B. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG CHIỀU SÂU CỦA TỪ VỰNGThực chất, nói cho giản dị hơn thì đây là những biến đổi về phương diện ngữ

nghĩa của từ trong từ vựng. Những biến đổi này rất phức tạp và tinh tế, nhiều khi chồng chéo lên và cùng diễn ra với những biến đổi ở bề mặt đã phân tích bên trên. Có hai hướng chính trong biến đổi nghĩa của từ cần được kể tới sau đây:

1. Thu hẹp nghĩa của từĐúng ra, phải hiểu đây là sự thu hẹp phạm vi biểu hiện (định danh) của từ. Xu

hướng này có thể tìm thấy trong những từ như: thầy... của tiếng Việt; meat, deer của tiếng Anh...

Thầy: Từ chỗ gọi tên cho các đối tượng như: thầy giáo, thầy đò, thầy khóa, thầy lang, thầy cai, thầy lí, thầy kỉ, thầy thông... hiện nay từ này chỉ còn dùng chủ yếu với nghĩa thầy giáo và thầy thuốc.

Meat vốn có nghĩa "thực phẩm" nói chung; deer vốn chỉ "con vật" nói chung; nhưng nay tiếng Anh đã thu hẹp bớt dung lượng nghĩa của các từ này lại: meat = thịt; còn từ deer chỉ có nghĩa là "con hươu".

Hiện tượng thu hẹp nghĩa rất hay gặp trong khi xây dựng thuật ngữ cho các ngành khoa học: người ta thu hẹp nghĩa của từ thông thường lại và chỉ dùng với một nghĩa thuật ngữ, nghĩa chuyên nôn hóa nào đó. Trong tiếng Việt, xu hướng thu hẹp nghĩa nói chung là không mạnh bằng mở rộng nghĩa.

2. Mở rộng nghĩa của từXét các ví dụ:

Động từ land trong tiếng Anh có nghĩa là "tiếp đất, hạ cánh" luống mặt đất). Hiện nay động từ này mở rộng nghĩa ra, bao gồm cả việc hạ cánh xuống mặt nước (The swan landed on the lake - Con thiên nga hạ cánh xuống mặt hồ).

Động từ cắt trong tiếng Việt vốn có nghĩa là: "làm đứt bằng sắc". Hiện nay nghĩa của từ này mở rộng ra gồm cả "việc chấm dứt hành động, việc làm nào đó" (cắt viện trợ, cắt quan hệ, cắt đường chuyền bóng...) hoặc "phân công làm việc gì đó theo luân phiên hoặc thứ tự lần lượt" (cắt trực nhật, cắt người canh đê, cắt lượt đi tuần...).

Cơ sở của việc mở rộng nghĩa của từ chính là sự chuyển đi tên gọi dẫn đến việc chuyển nghĩa theo xu hướng mở rộng (các cách chuyển nghĩa, đã trình bày ở mục II chương XIV). Đồng thời với mở rộng nghĩa, tất yếu là mở rộng phạm vi định danh của từ. Ví dụ: Trước đây tiếng Việt có từ đồng hồ vốn có nghĩa là "cái hồ làm bằng đồng, trong chứa nước để cho chảy dần đi, căn cứ vào lượng nước đã chảy đi nhiều hay ít để tính thời gian". Ngày nay từ này đã chuyển sang gọi vật dùng để đo thời gian nói chung mà bất kể nó được làm bằng gì, hoạt động theo nguyên tắc nào: đồng hồ quả lắc, đồng hồ điện tử...

Tương tự như trên, ta có thể thấy từ fee (tiền công, tiền thù lao), pen (bút) trong tiếng Anh cũng vậy. Fee vốn có nghĩa là "gia súc". Thời xưa gia súc đã từng được dùng làm vật thanh toán giá trị. Pen vốn co nghĩa là "lông ống, lông vũ". Loại lông này thời xưa được dùng làm bút viết.

C. NHẬN XÉT CHUNG1. Các biến đổi trong từ vựng được quy về những xu hướng như trên, thật ra

chỉ là sự phân loại cho tiện việc phân tích. Thực tế các sự kiện biến đổi trong từ vựng nhiều khi đa dạng và phong phú, phức tạp hơn.

2. Các biến đổi đó không phải lúc nào cũng diễn ra trong tình trạng tách rời nhau. Chúng có thể cùng diễn ra ở một từ ngữ nào đấy và chồng chéo lên nhau, tác động đến nhau. Xét ví dụ sau đây:

Tiếng Việt vay mượn tiếng Hán từ long nhãn. Từ này vốn có nghĩa "quả nhãn". Người Việt đã dùng nó ở hai dạng

a) long nhãn; b) nhãn; với hai nghĩa khác nhau:long nhãn = cùi nhãn phơi, sấy khônhãn = quả (hoặc cây) nhãn.Như vậy ở đây, người Việt đã vay mượn từ, rút ngắn từ để cho một từ mới, vì

họ cấp cho nó nghĩa mới; còn từ nguyên dạng thì lại cung cấp cho nó một nghĩa khác với nghĩa vốn có ban đầu. Rõ ràng, đã có một số biến đổi cùng diễn ra ở một đơn vị từ vựng.

Chương XVII CÁC LỚP TỪ TRONG TỪ VỰNGNếu nhìn vào hệ thống từ vựng bằng con mắt thuần ngữ pháp học, người ta có

thể phân chia nó thành những lớp hạng khác nhau một cách tương đối chặt chẽ và mạch lạc. Ngược lại, nếu nhìn bằng con mắt từ vựng học thì việc phân chia nó thành các lớp dường như có vẻ không được phân minh bằng. Tuy nhiên, từ vựng vẫn không phải là một tập hợp hỗn độn.

A. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO NGUỒN GỐCI. Trên thực tế, hầu như không có từ vựng cửa ngôn ngữ nào lại chỉ hình thành,

xây dựng bằng con đường "tự nó". Trong những ngôn ngữ được sử dụng khá rộng rãi trên thế giới như tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp... người ta vẫn có thể thấy hàng loạt từ ngữ mà chúng vay mượn, hoặc vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ khác. Tiếng Việt của chúng ta cũng vậy.

Như thế, điều mà người ta dễ thấy nhất ở đây là nói lên đường phân giới giữa hai lớp từ ngữ: lớp từ bản ngữ (còn gọi là lớp từ thuần) và lớp từ có nguồn gốc khác, xa lạ (còn gọi là lớp từ ngoại lai). Phân tích qua tiếng Việt, ta sẽ rõ điều đó.

II. Ở từ vựng tiếng Việt, lớp từ ngữ ngoại lai được phân thành hai lớp nhỏ hơn: lớp các từ ngữ gốc Hán và lớp các từ ngữ gốc Ấn Âu (chủ yếu là gốc Pháp).

1. Các từ ngữ gốc Hán1.a. Tiếng Việt đã trải qua quá trình tiếp xúc với tiếng Hán từ rất lâu đời, thông

qua nhiều con đường và bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau. Có thể chia quá trình tiếp xúc Hán - Việt thành hai giai đoạn lớn: một là giai đoạn từ đầu công nguyên đến đầu đời Đường (đầu thế kỉ VIII); hai là giai đoạn từ đời Đường (thế kỉ VIII - thế kỉ X) trở về sau. Hai lần tiếp xúc lớn này cung cấp cho từ vựng tiếng Việt hai nguồn từ gốc Hán mà như trước nay vẫn quen gọi là từ Hán cổ và từ Hán - Việt.

1.b. Từ Hán cổ là những từ gốc Hán được du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn một. Vì đi vào tiếng Việt đã lâu, đã được đổng hóa rất mạnh, nên những từ này hiện nay nói chung không còn cái vẻ xa lạ đối với người Việt nữa, ví dụ: chè, ngà, chén, chém, chim, buông, buôn, buồm, mùi, mùa...

1.c. Từ Hán Việt là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt trong giai đoạn hai, mà người Việt đã đọc âm chuẩn (Trường An) của chúng theo hệ thống ngữ âm của mình. Cách đọc đó được duy trì (với những biến đổi ít nhiều) cho đến tận ngày nay, ví dụ: trà, mã, trọng, khinh, vượng, cận, nam, nữ...

Tên gọi "từ Hán Việt" còn bao gồm cả những từ vốn không phải là gốc Hán, mà do người Hán mượn một ngôn ngữ khác, rồi người Việt vay mượn lại và đọc theo âm Hán Việt như các từ Hán Việt khác. Ví dụ, có những từ vốn xuất thân nguồn gốc Nhật Bản như: trường hợp, nghĩa vụ, phục tùng, phục vụ, điều chế, đại bản doanh, kinh tế, thủ tục, biện chứng, khái quát, mĩ thuật, cộng hòa... Có những từ lại vốn

xuất thân từ nguồn gốc Phạn (Sanskrit) như Phật, niết bàn, Di lặc, Thích ca mâu ni... Có từ lại vốn thuộc nguồn gốc châu Âu như: câu lạc bộ, Anh Cát Lợi, Mạc Tư Khoa...

Bên cạnh đó, những từ do người Việt tạo ra nhưng sử dụng yếu tố cấu tạo có nguồn gốc Hán thì cũng được gọi là từ Hán Việt. Chẳng hạn: y sĩ, đặc công, thể công, công an, thúc bách, đại đội, tiểu đoàn, thiếu tá, hao mòn, ca hát, hiểm nghèo, thanh vắng, ca ngợi, người bệnh, tàu thủy, tàu hỏa, cướp đoạt ... (Tuy nhiên, loại này cần có thái độ nhìn nhận riêng).

1.d. Cũng là những từ gốc Hán nhưng có một nhóm được du nhập vào tiếng Việt thông qua con đường khẩu ngữ của những người nói phương ngữ tiếng Hán. Nhóm này có số lượng không nhiều và nói chung không đem lại cho tiếng Việt ảnh hưởng đáng kể nào. Ví dụ: xì dầu, mì chính, vằn thắn, xá xíu, sủi cảo, lẩu, lục tào xá, tào phớ, chí ma phù, bát bảo lường xà,...

1.e. Diễn biến của các từ gốc Hán nói chung trong tiếng Việt rất phức tạp. Tuy vậy, những kết quả phân tích về chúng đã cho phép rút ra một số hướng như sau:

+ Trước hết, chúng được Việt hóa, được "cải tổ" về mặt ngữ âm. Đó là một tất yếu. Thậm chí, có hàng loạt từ được Việt hóa tới hai lần, dẫn tới hai kết quả tồn tại song song: một cách đọc được gọi là cách đọc Hán Việt, một cách đọc được gọi là Hán Việt Việt hóa. Cách đọc thứ hai làm mờ hẳn nguồn gốc của chúng đi, đưa chúng vào vị trí sâu hơn trong tiếng Việt. Ví dụ: kính – gương; các – gác; can – gan; cận - gần; kí - ghi; quả- góa; kiếm – gươm; họa - vạ...

Một biểu hiện khác của sự cải tổ về ngữ âm là rút ngắn từ lại. Ví dụ: cử nhân - cử (cụ cử); tú tài - tú (cậu tú); thục địa - thục (củ thục); tiểu đồng - tiểu (chú tiểu); tiểu tiện - tiểu (đi tiểu);...

+ Về năng lực hoạt động, khả năng nhập hệ của các từ gốc Hán trong tiếng Việt rất không đồng đều. Rất nhiều từ có khả năng hoạt động độc lập, tự do, đến mức có lẽ trừ những người có vốn Hán học và những nhà nghiên cứu ra, không mấy ai còn để ý đến hoặc "cảm thấy" nguồn gốc Hán của chúng nữa. ví dụ: đầu, bút, tuyết, thánh, hiền, tiên, Phật, ông, bà, cô, cậu, cao, thấp,…

+ Về mặt ý nghĩa, không phải từ gốc Hán nào trong tiếng Việt cũng giữ y nguyên cái nghĩa vốn có của nó. Một số từ chỉ còn được dùng với một hoặc vài nghĩa trong số nhiều nghĩa của chúng.

Chẳng hạn từ nhất vốn có hơn 10 nghĩa nhưng đi vào tiếng Việt, nó chỉ còn giữ lại nghĩa "thứ tự trên hết" khi hoạt động tự do: hạng nhất, giỏi nhất, xếp thứ nhất...Đôi khi trong những tổ hợp này mượn nguyên khối từ gốc Hán, nó mới lưu giữ ý nghĩa "số từ một" như: nhất cử nhất dộng, nhất cử lưỡng tiện, nhất thể hóa...

Cũng có từ đổi hẳn nghĩa của mình đi. Ví dụ:

bạc (mỏng - quên ơn); khinh (nhẹ — coi thường); tâm (tim — tấm lòng, bụng dạ con người); tử tế (kĩ lưỡng —> tốt bụng); đáo để (đến đấy, đến tận cùng — độc ác, riết róng); sung sướng (đầy đủ, thông suốt — sướng, hạnh phúc)...

1.f. Các từ gốc Hán nói chung và từ Hán Việt Nói riêng, có vị trí rất đặc biệt trong từ vựng tiếng Việt. Chúng có số lượng rất lớn và năng lực sản sinh mạnh. Chúng ra nhập vào mọi lĩnh vực giao tiếp của đời sống người Việt: chính trị, văn hóa, khoa học, kĩ thuật, quân sự, ngoại giao, y tế, pháp luật... Điều này không có gì lạ, bởi vị trí và quá trình tiếp xúc lâu đời giữa tiếng Hán với tiếng Việt tất dẫn đến kết quả đó.

Điều quan trọng là ở chỗ chúng ta phải có cách nhìn nhận và xử lí các nhóm, các lớp trong lớp từ gốc Hán này sao cho thỏa đáng, phù hợp với nhu cầu xây dựng một hệ thống từ vựng tiếng Việt phong phú, đầy đủ mà vẫn không làm giảm bớt bản sắc tiếng nói dân tộc.

2. Các từ ngữ gốc Ấn Âu2.a. Bộ phận từ ngữ này vào Việt Nam từ khi nước ta bị người Pháp xâm lược

và chịu ảnh hưởng trực tiếp của họ (giữa thế kỉ XIX). Vừa bằng con đường khẩu ngữ vừa qua con đường chính thức trong giáo dục nhà trường và giao tiếp hành chính, hàng loạt từ gốc Pháp đã du nhập vào tiếng Việt. Mặt khác, một số từ nguồn gốc Anh; rồi gần đây, một số từ nguồn gốc Nga cũng đã được tiếp thu: mít tinh, ten nít, bốc, bồi, cao bồi, tiu, xi ke, côm xô môn, bôn sê ví ch, men sê vích, Trôtskit, Xô viết...

Nhìn chung, các từ ngữ gốc Ấn Âu (chủ yếu là gốc Pháp) đã thâm nhập vào khá nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ đời sống giao tiếp thường ngày (bao gồm tên gọi một số món ăn, thuốc men, quần áo, đồ đạc, dụng cụ...) cho đến các ngành văn hóa, nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, y tế... đều có chúng tham gia. Ví dụ: phomat, kem, xúc xích, pênixilin, canh ki na, caphêin, sơ mi...

2.b. Khi được du nhập vào tiếng Việt, sự biến đổi về nghĩa của các đơn vị từ ngữ nguồn gốc Ấn Âu tỏ ra không mấy rõ rệt và không làm nảy sinh những đối lập, khác biệt quan trọng như là ở các từ gốc Hán. Thế nhưng vấn đề cải tổ bộ mặt ngữ âm của chúng lại là cái quan trọng hàng đầu, bởi vì cơ cấu âm thanh trong từ Ấn Âu khác, thậm chí khác xa với cơ cấu âm thanh của từ tiếng Việt. Trước hết, chúng được đọc (nói) theo cách đọc (nói) của người Việt. Có nghĩa là các từ được phân chia thành những âm tiết tách rời (nếu là từ dài) và phát âm theo cơ cấu ngữ âm của âm tiết tiếng Việt Người Việt thêm thanh điệu cho các âm tiết đó, bỏ bớt âm trong các tổ hợp phụ âm, hoặc lại chuyển âm này thành âm khác cho phù hợp với cách phát âm của mình, ví dụ: poste - bốt; cafe - cà phê; carrotte - cà rốt; gare - ga; douille - đui (đèn);...

Biến đổi thứ hai là người Việt có xu hướng rút ngắn bớt độ dài của các từ gốc Ấn Âu. vì vậy, đối với những từ ngắn thì họ chỉ việc cấu trúc hoa lại cho thành một âm tiết theo kiểu Việt là xong. Chẳng hạn: sou –xu; chef - xếp; gare - ga; boy - bồi; valse - van; frein – phanh; gramme - gam...

Ngược lại, những từ dài thường được người Việt rút ngắn bớt; đặc biệt là ở những từ vay mượn qua tiếp xúc khẩu ngữ: enveloppe-lốp; essence-xăng; casserole-xoong; creme - kem; cravate - ca vát; hydrogene - hyđrô...

2.c. ứng xử của các đơn vị từ ngữ gốc Ấn Âu trong tiếng Việt không phải chỉ có một kiểu, một đường.

Có thể thấy ngay là những từ nào vốn là đơn tiết hoặc được đơn tiết hóa thì khả năng nhập vào tiếng Việt rất mạnh. Chúng cũng tương tự như những từ gốc Hán đã được Việt hóa hoàn toàn vậy. Ví dụ: xăng, lốp, dạ, len, săm, phanh, dui, ghi, ga, ray, gác, bốt...

Tình hình của những từ đa tiết có khác. Đặc biệt, những từ có ba âm tiết trở lên, hoặc những từ có âm tiết còn mang tổ hợp phụ âm vốn được mượn thông qua con đường sách vở, thì dấu ấn ngoại lai còn rất rõ: xà phòng, may ô, ki lô, các tông, bê tông, pa nen, sơ mi, đăng ten, xích đu, sô cô la, granitô...

2.d. Việc thu nhận, xử lí các từ gốc Ấn Âu trong tiếng Việt đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thời sự; nhất là trong bối cảnh chúng ta đang càng ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác với thế giới như hiện nay về nhiều mặt. Cần có thái độ đúng đắn đối với các từ vay mượn. Chúng ta không ngại ngần khi cần phải vay mượn từ ngữ, khi mà ta còn thiếu, còn chưa có; vì đó là một trong những phương sách làm giàu của mọi từ vựng. Sự hòa nhập của nhiều từ vay mượn vào tiếng Việt đã chứng tỏ điều đó.

Thế nhưng, sẽ là không đúng, nếu ta co thái độ ỷ lại, chỉ trông chờ vào nguồn từ ngữ của ngôn ngữ khác, mà không chủ động sáng tạo từ ngữ cho vốn từ vựng của mình. Riêng việc phiên âm, tân trang lại các từ gốc Ấn Âu sẽ theo một quy định có tính chất pháp lệnh thống nhất trong phạm vi toàn quốc gia.

III. Như đã nói ở trên, trong mọi từ vựng, trừ những từ ngoại nhập ra, phần cơ bản còn lại được gọi là lớp từ bản ngữ hay lớp từ thuần; chẳng hạn: lớp từ thuần Việt, thuần Nga, thuần Khmer,...

Lớp từ thuần Việt là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt. Nó làm chỗ dựa và có vai trò điều khiển, chi phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác.

Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc Nam phương, bao gồm cả Nam Á và Tày Thái. Những kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy rằng nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có những tương ứng,

những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc nhóm ngôn ngữ trong vùng.

Ví dụ:1. Tương ứng Việt - Mường: vợ, chồng, ông, ăn, uống, cười, bơi, nằm, khát,

trốn, gáy, mỏ, măm, rá, chum, nồi, vại, váy, cơm, cây, củ, rạ, mây, cau, cỏ, gà, trứng...

2. Tương ứng Việt - Tày Thái: đường, rẫy, bắt, bóc, buộc, ngắt, gọt, dãn, bánh, vắng, mo, ngọn, méo, vải, mưa, đồng, móc, nụ, gà, chuột, đâm...

3. Tương ứng với các ngôn ngữ nhóm Việt - Mường đồng thời với nhóm Bru - Vân Kiều: trời, trăng, đêm, bụng, ruột, kéo, bốc, ngấy, khạc, củi, hột, rắn, khô...

4. Tương ứng với nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer ở Tây Nguyên Việt Nam: trời, mây, mưa, sấm, sét, bàn chân, đầu gối, da, óc, thịt, mỡ, bố, mẹ, mày, nó, nuốt, cản, nói, kêu, còi, mặc, nhảm, bếp, chổi, đọi...

5. Tương ứng với nhóm Việt- Mường và các ngôn ngữ Môn - Khmer khác: sao, gió, sông, đất, nước, lửa, đá, người, tóc, mật, mắt, mũi, răng, lưỡi, cổ, lưng, tay, chân, mấu, xương, cằm, đít, con, cháu...

6. Tương ứng với nhóm Việt Mường và Tày Thái: bão, bể, bát, dao, gạo, ngà voi, than, phân, cày, đen, gạo, giặt...

7. Tương ứng Việt - Inđônêxia: bố, ba, bu, mẹ, bác, ông, cụ, đất, trầu, sông, cái, cây, núi, đồng, mất, nghe, đèn, đêm, trắng, tuổi, ăn, cướp, bướm, sáng, rất, nấu, này/ ni, là, rằng, ngày...

Các ví dụ trên đây chứng tỏ rằng cội rễ của từ vựng tiếng Việt hết sức phức tạp. Chúng gồm nhiều nguồn đan xen, chồng chéo, thậm chí phủ lấp lên nhau. Nghiên cứu chúng sẽ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc khảo cứu nguồn gốc tiếng Việt nói chung.

B. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO PHẠM VI SỬ DỤNGTrong từ vựng của ngôn ngữ nào cũng vậy, có những từ ngữ chỉ được dùng

trong một phạm vi hẹp nào đấy. Giới hạn của các phạm vi đó có thể là lãnh thổ, có thể là tầng lớp xã hội người...

I. THUẬT NGỮ1. Thuật ngữ là những từ ngữ làm tên gọi cho các khái niệm, các đối tượng

được xác định một cách chặt chẽ, chuẩn xác trong mỗi ngành, mỗi lĩnh vực khoa học chuyên môn.

Ví dụ: Trong sinh vật học ta có: họ, loài, giống, bộ, lớp, ngành, đột biến, di truyền, tính trội, tính lặn, biến dị, phân bào, đơn bào, đa bào, miễn dịch, kháng thể, kháng nguyên...

Trong ngôn ngữ học ta có âm vị, hình vị, từ vị, cú vị, nghĩa vị, ngữ pháp vị, âm tố, âm vực, nguyên âm, phụ âm, bán nguyên âm, âm tiết, âm đệm, âm chính, âm cuối, âm đoạn, âm vực...

Như vậy, mỗi môn khoa học, kĩ thuật đều có một hệ thống thuật ngữ của mình. Tuy nhiên, đó không phải là những từ vựng biệt lập, mà chúng là những bộ phận riêng trong từ vựng của một ngôn ngữ thống nhất.

2. Thuật ngữ luôn luôn biểu thị khái niệm được xác định trong một ngành khoa học và lệ thuộc vào hệ thống khái niệm của ngành đó. Trong các khoa học còn có danh pháp (danh từ khoa học) của từng ngành. Danh pháp và thuật ngữ không phải là một. Danh pháp chỉ là toàn bộ tên gọi cụ thể của các đối tượng được dùng trong từng ngành khoa học mà thôi. Chẳng hạn, nếu ta có một danh sách về tên của các loài thực vật ở Việt Nam: xoan, muông, bằng lăng, lát hoa, lát văn, lim, đinh, sến, táu, dổi, dẻ, xoan đào... thì đó là danh pháp thực vật Việt Nam.

So với từ ngữ thông thường thì thuật ngữ có ngoại diên hẹp hơn nhưng nội hàm sâu hơn và được biểu thị một cách lôgic chặt chẽ hơn. Trong thuật ngữ không bao giờ biểu thị những sắc thái phụ như thái độ đánh giá của người nói, xấu nghĩa hay đẹp nghĩa, khen hay chê, kính trọng hay xem thường... Từ ngữ bình thường cũng biểu thị khái niệm nhưng đó là "khái niệm đời thường" chứ không hẳn là "khái niệm khoa học", có tính nghiêm ngặt của nó. Ví dụ: nước - "hợp chất của ôxi và hiđrô" khác với nước trong nước mắt, nước dãi, nước bọt, nước tiểu, mỡ nước, phở nước, nước xốt, nước mắm, nước mưa, nước ao...

3. Thuật ngữ có ba đặc điểm cơ bản sau đây3.a. Tính chính xác. Chính xác ở đây là chính xác và chuẩn tắc về nội dung

khái niệm do nó biểu thị. Nội dung đó có thay đổi hay không, thay đổi như thế nào là tùy theo sự phát triển, khám phá của ngành khoa học chứ không lệ thuộc vào những biến đổi của hệ thống từ vựng, ngôn ngữ như các từ thông thường.

3.b. Tính hệ thống. Mỗi thuật ngữ đều nằm trong một hệ thống nhất định và hệ thống ấy phải chặt chẽ. Trước hết là phải bảo đảm tính hệ thống về mặt nội dung trong toàn bộ hệ thống các khái niệm của từng ngành. Từ tính hệ thống về nội dung, dẫn đến tính hệ thống về hình thức biểu hiện. Tính hệ thống về hình thức, ngược lại giúp cho người ta biểu thị được và nhận ra được tính hệ thống trong nội dung, ví dụ: Trong toán học ta có: đại số, hàm số, tham số, hiệu số, thương số, tích số, tổng số, tử số, mẫu số, cơ số, căn số, hằng số, biến số, biến chính, biến bổ trợ, biến lưỡng trị, biến bù, biến phụ thuộc, biển riêng, biến độc lập, biến ngẫu nhiên...

3.c. Tính quốc tế. Trước hết phải là quốc tế hóa về mặt nội dung. Đây là yêu cầu tất yếu; và nói chung nội dung khái niệm của một ngành khoa học trong các

nước là không lệch nhau. Đó cũng là biểu hiện của sự thống nhất khoa học trên con đường nhận thức chân lí.

Cái khó là quốc tế hóa về mặt hình thức. Không thể đòi hỏi sự quốc tế hóa hoàn toàn về mặt hình thức của các thuật ngữ được, vì mỗi ngôn ngữ có những thuộc tính riêng của nó. Có nên chăng là chỉ phấn đấu đạt tới tính quốc tế ở cách xây dựng cấu trúc của mỗi thuật ngữ mà thôi.

Tuy vậy, thực tế cho thấy nhiều ngành khoa học ở một số khu vực trên thế giới đã có những hệ thống thuật ngữ ít nhiều mang tính quốc tế trong khu vực đó, ví dụ: khu vực Châu Âu với các ngôn ngữ Ấn Âu, khu vực tiểu Á, Bắc Phi với tiếng A Rập, khu vực Đông Á và Nam Á với ảnh hưởng của tiếng Hán...

4. Vấn đề xây dựng và tiêu chuẩn hóa các hệ thống thuật ngữ thuộc các ngành khoa học ở nước ta đã được nêu ra, thực hiện và vẫn đang tiếp tục thực hiện. Một số từ điển thuật ngữ đối chiếu đã được biên soạn để phục vụ cho những ngành hữu quan và đang tiếp tục xây dựng, biên soạn thêm, hoặc bổ sung, hoàn thiện.

II. TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG1. Những từ thuộc một phương ngữ (tiếng địa phương) nào đó của ngôn ngữ

dân tộc và chỉ phổ biến trong phạm vi lãnh thổ của dịa phương đó, thì được gọi là từ địa phương.

Như vậy khái niệm từ địa phương trước hết nhằm vào những khác biệt về mặt từ vựng chứ không phải là những khác biệt vế mặt ngữ âm. Sự khác biệt chẳng hạn như: lắt lẻo - lắc lẻo; gập ghềnh - gập nghình... không phải là mục tiêu chú ý của từ vựng học.

2. Có những con đường khác nhau đã dẫn tới sự hình thành những kiểu từ địa phương khác nhau.

2.a. Do sự vật được gọi tên chỉ có ở một vài địa phương nhất định nên tên gọi của chúng trở thành từ địa phương. Loại này trong từ vựng chung của toàn dân tộc không có từ tương ứng với chúng. Ví dụ: nhút, ló, (quả) tắt, chẻo... (phương ngữ Trung Bộ), sầu riêng, măng cụt, tràm, chôm chôm, tràm bầu, chao... (phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ Việt Nam).

2.b. Có những từ cùng gọi tên một sự vật, hiện tượng với từ trong từ vựng chung; nhưng hai từ khác nhau hoàn toàn về mặt ngữ âm. Ví dụ: ngái - xa, nỏ - không, rào-sông, rú - núi, mồ-dầu, tê- kia, rứa - thế, chộ - thấy, trốc- dầu, nhủ - bảo, xán - đập ném... (phương ngữ Trung Bộ); má - mẹ, điệp - phượng, mè- vừng, muỗng - thìa, lượm - nhặt, mắc cỡ - xấu hổ... (phương ngữ Nam Trung Bộ và Nam Bộ).

Trường hợp này có thể có hai nguyên nhân chính. Một là, cùng một sự vật nhưng mỗi địa phương, trong quá trình phát triển cùng dân tộc, đã định danh một cách khác nhau. Dần dần một tên gọi (một cách định danh) của một địa phương trở

nên phổ biến rộng rãi, khiến cho tên gọi của địa phương kia không thể phổ biến được nữa. Nó chỉ còn hoạt động tồn tại trong phạm vi địa phương và trở thành từ địa phương. Hai là, cả hai từ vốn đã cùng là từ của từ vựng chung, nhưng sau đó, vì xung đột đồng nghĩa, một từ phải rút lui và được bảo toàn trong phạm vi địa phương rồi trở thành từ địa phương. Các cặp từ: đầu - trốc, nhủ - bảo... là như vậy.

2.c. Nhiều từ vốn là dạng cổ của từ tương ứng trong từ vựng chung hiện nay. Dạng cổ đó được bảo toàn trong một địa phương, còn dạng mới, dạng hậu kì của chúng thì đi vào từ vựng chung. Kết cục là hai dạng chỉ khác nhau ở một bộ phận ngữ âm nào đó mà thôi. Ví dụ: gấy - gái, chí – chấy, nác - nước, kha- gà, khót - gọt, cúi - gối, ví- với ...

2.d. Kiểu từ địa phương thứ tư là những từ đồng âm với từ trong từ vựng chung, có hai khả nảng có thể dẫn đến tình hình này: Một là chúng quan hệ đồng âm thuần túy, ngẫu nhiên, hai là do trước đây, chúng vốn chỉ là một từ, nhưng một địa phương nào đó đã chuyển đổi đối tượng gọi tên của từ đi, theo những chiều hướng khác nhau; hoặc ngược lại, từ trong từ vựng chung đã chuyển đổi đi như thế. Chúng ta có thể so sánh những ví dụ sau đây.

Từ Nghĩa chung Nghĩa trong phương ngữ Nam Bộ

ốm có bệnh gầyhòm vật hình hộp săng, quan tài

Thằn lằn Thằn lằn Thạch sùngKiềng Bếp kiềng Rế

3. Các biến dạng địa phương của ngôn ngữ về mặt này hay mặt khác, hiện đang tồn tại như một tất yếu. Điều đó, một mặt nói lên rằng ngôn ngữ thống nhất của dân tộc vẫn tồn tại và thể hiện trong tính đa dạng của nó; mặt khác, lại nói lên rằng sự tồn tại các tiếng địa phương là kết quả của những diễn biến lịch sử xã hội rất khác nhau. Chính vì thế, từ vựng địa phương được xem như nơi bảo tồn được những chứng tích xa xưa của ngôn ngữ dân tộc. Trong nhiều khía cạnh khảo sát, xử lí đối với từ địa phương, việc tìm tòi những tàn dư cổ còn sót lại trong đó, là điều rất có giá trị và đáng chú ý.

1. Từ nghề nghiệp là một lớp từ bao gồm những đơn vị từ ngữ được sử dụng phổ biến trong phạm vi những người cùng làm một nghề nào đó.

Ví dụ: các từ: thiu, choòng, lò chợ, lò thượng, di lò... là những từ thuộc nghề thợ mỏ. Các từ: bó, vét, xịt, phủ, bay, hom, thí một, thí hai, lốt sống... là của nghề sơn mài.

2. Thật ra, nghề nào cũng co những từ ngữ riêng của nó để chỉ: đối tượng lao động, động tác lao động, nguyên liệu sản xuằt, sản phẩm làm ra, công cụ để lao động... để đựng đổ đạc

III. TỪ NGHỀ NGHIỆPTuy vậy, không phải là hễ người ngoài nghề thì không thể biết được từ nghề

nghiệp. Người ta (trong phạm vi rộng rãi toàn xã hội) vẫn có thể hiểu được chúng nhiều hay ít tùy theo mức độ quen biết của xã hội đối với nghề đó.

Ví dụ, nghề làm ruộng ở Việt Nam, nói chung cả xã hội đều không xa lạ với nó. Ai cũng biết và sử dụng rất tự nhiên các từ như: cày, bừa, ruộng, bón, gieo... nhưng chắc chắn không phải ai cũng biết các từ: chia vè, cứt gián, nứt nanh, cắm vè, lúa con, bông cài, đỏ đuôi, đứng cái...

Như vậy, lớp từ nghề nghiệp tập trung chủ yếu ở những nghề mà xã hội ít quen như: nghề làm giấy, làm đổ gốm, làm sơn mài (hoặc hát tuồng, hát chèo vốn cũng được coi là nghề), nghề đúc đổng, nghề chài lưới...

Ở một nước nông nghiệp như Việt Nam, những nghề thủ công nghiệp hoặc tiểu công nghiệp vốn phân tán và không tiếp xúc rộng rãi với toàn xã hội. Vì thế, những nghề thuộc phạm vi này có nhiều "từ nghề nghiệp" hơn cả. Ví dụ:

Nghề thợ mộc có: bào cóc, bào phá, bào xoa, chàng tách, mộng vuông, mộng nanh sấu, mộng mỏ sẻ, xảm, phạt mộc, cất nóc, cầu phong, tàu mải, bát đấu, thượng lương, long cốt, cột thành, kẻ, bẩy, thuận, bức bàn... Nghề hát tuồng có; đào, kép, lão, mụ, vai ấu, đào thương, đào chiến, đào điên, đào võ, đào lẳng, đào yêu, đào đẻ, đào tiên, kép vãn, kép võ, kép xanh, kép phong tình, kép trắng, kép đỏ, kép rằn, kép núi, kép biển, lão đỏ, lão trắng, lão đen, lão văn, lão võ, mụ ác, mụ lành... (xem thêm: Tạp chí sân khấu. 11 - 12/1977).

3. Nói chung, sự hoạt động của các từ nghề nghiệp là không đồng đều; có từ thì vô cùng hạn chế, nhưng cũng có không ít từ ngữ đã đi vào vốn từ vựng chung. Chúng được coi là một trong những nguồn cung cấp thêm từ ngữ để làm phong phú hơn cho vốn từ vựng chung.

IV. TIẾNG LÓNG1. Nói cho giản dị thì tiếng lóng là một bộ phận từ ngữ do những nhóm, những

lớp người trong xã hội dùng để gọi tên những sự vật, hiện tượng, hành động... vốn đã có tên gọi trong vốn từ vựng chung, nhằm giữ bí mật trong nội bộ nhóm mình, tầng lớp mình.

Khi nói đến tiếng lóng, người ta vẫn quen nghĩ rằng đó là ngôn ngữ riêng của những bọn lưu manh, trộm cắp, bất lương, bọn làm ăn bất chính. Cách hiểu này có phần hẹp hòi và không phản ánh đúng thực tế cuộc sống ngôn ngữ.

Sự thật là: mỗi tầng lớp xã hội, nói đúng hơn là mỗi một "tiểu xã hội" đều có thể có những từ ngữ riêng (nhiều hay ít), được sử dụng riêng, nhằm giữ những bí mật riêng hoặc đùa vui riêng. Ví dụ: Bộ đội phòng không không quân có những từ ngữ như: lính phòng không (chưa vợ), lái F (vợ còn trẻ, chưa có con), lái bà già (vợ đã có vài con, vợ đã cứng tuổi), đi Rờ, đi bán kính (tranh thủ về nhà trong khoảng cách gần...).

Ngay cả sinh viên cũng có tiếng lóng của họ: phao (tài liệu sử dụng gian lận trong khi thi), chết (thi hỏng), ngành (nhìn trộm bài), phim (ghi sẵn bài vào giấy để xem trộm) a lô (ra hiệu cầu cứu hoặc bảo cho bạn).

2. Mặc dù cùng là những từ ngữ được dùng hạn chế trong từng nhóm, từng tầng lớp người, nhưng tiếng lóng và từ nghề nghiệp căn bản khác nhau. Từ nghề nghiệp dùng để gọi tên cho những đối tượng có trong nghề. Nó không có tên gọi tương ứng trong từ vựng chung. Như vậy, ứng xử ngôn ngữ của từ nghề nghiệp và tiếng lóng là khác nhau. Tính chất hạn chế trong sử dụng của hai loại từ này cũng khác nhau: tiếng lóng được dùng để giữ bí mật một cách có ý. Mặt khác, đôi khi cũng còn phải tính đến cả yếu tố mốt của tiếng lóng nữa.

Chính vì vậy, khi tính bí mật của một từ tiếng lóng bị giải tỏa, tính chất mốt của nó đã mất đi, thì nó cũng bị xóa bỏ. Tiếng lóng rất ít khi đi vào vốn từ vựng chung, nhưng từ nghề nghiệp thì ngược lại.

3. Ở nước ta, trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống, trừ một nhóm rất ít người buôn gian bán lận, làm ăn bất chính hoặc trộm cắp lưu manh, có vốn tiếng lóng khá phong phú để góp phần che giấu hành vi của họ, hoặc tỏ ra cho có vẻ anh chị, thời thượng" còn thì các tầng lớp xã hội khác rất ít tiếng lóng (mà tiếng lóng củạ họ lại chỉ để vui đùa là chủ yếu).

Như đã nói, tiếng lống có tính "thời sự" và "mốt" của Nó. Việc tổng kết, phát hiện nghĩa tiếng lóng và cách cấu tạo của nó luôn luôn "lạc hậu" so với sự đổi mới vì tính không ổn định của nó.

V. LỚP TỪ CHUNG1. Trừ những từ ngữ thuộc các lớp từ được sử dụng hạn chế về mặt lãnh thổ

(từ địa phương) hoặc về mặt "phương ngữ xã hội’ (thuật ngữ, tiếng lóng, từ nghề nghiệp) số còn lại được gọi là lớp từ vựng chung hoặc từ vựng toàn dân.

Ngay tên gọi của lớp từ này cũng đã ngụ ý rằng nó gồm những từ ngữ mà toàn dân, mọi người, mọi nơi, mọi lúc đều có thể sử dụng một cách rộng rãi.

Lớp từ này có khối lượng từ ngữ lớn nhất, và trong từ vựng của ngôn ngữ nào cũng vậy, nó đóng vai trò làm nền tảng. Nó cũng là cơ sở để thống nhất từ vựng và thống nhất ngôn ngữ dân tộc, đồng thời là tài sản chung để mọi thành viên trong dân tộc, trong xã hội sử dụng làm công cụ giao tiếp chung; bởi vì nó gọi tên cho tất

cả những sự vật, hiện tượng, thuộc tính, quá trình, thiết yếu nhất trong sự tồn tại của đời sống con người.

2. Trong tương quan với từ địa phương, từ nghề nghiệp, thuật ngữ và cả tiếng lóng, lớp từ ngữ chung vừa làm chỗ dựa cho chúng, lại vừa được chúng bổ sung cho. Trong trường hợp cần thiết, vẫn có những từ ngữ trong các lớp từ được sử dụng hạn chế đó, được chấp nhận và tiếp thu vào vốn từ vựng chung (dĩ nhiên, không phải là tất cả mọi từ). Đó là sự tác động qua lại hai chiều, là biểu hiện của tính thống nhất trong cái đa dạng của từ vựng.

C. PHÂN LỚP TỪ NGỮ TÍCH CỰC VÀ TIÊU CỰCI. Tích cực và tiêu cực ở đây được hiểu là từ ngữ có đóng vai trò tích cực trong

đời sống giao tiếp hay không, tức là chúng có thường xuyên được sử dụng hay không.

1. Trong thực tế, có rất nhiều từ ngữ luôn luôn được mọi người sử dụng ở mọi nơi, mọi lúc. Nghĩa là chúng thường xuyên xuất hiện trong giao tiếp (ở dạng này hay dạng khác, nói hay viết, độc thoại hay đối thoại...). Chúng thuộc lớp từ tích cực vì được sử dụng "một cách tích cực".

2. Ngược lại, có những từ ngữ rất ít được sử dụng, hoặc chỉ sử dụng trong bối cảnh giao tiếp nào đó (vì không phải là quen thuộc với đa số người trong xã hội). Chúng thuộc lớp từ tiêu cực vì chỉ được sử dụng "một cách tiêu cực", ví dụ, trong tiếng Việt, các từ: am, lệ (sợ), thái thú, suất đội... là những từ tiêu cực; còn: nhà, người, đi, đẹp... là những từ tích cực.

II. Mỗi địa phương, mỗi tầng lớp xã hội, mỗi lứa tuổi, giới tính, mỗi nghề nghiệp và ngay cả mỗi cá nhân... đều có từ vựng tích cực và tiêu cực của riêng mình, bởi vì việc tích lũy, xây dựng và sử dụng từ ngữ ở các đối tượng đó không thể đồng đều, như nhau được, và do rất nhiều nhân tố tác động, ảnh hưởng.

1. Ở đây, chúng ta nói đến từ ngữ tích cực của cả cộng đồng dân tộc trong bối cảnh toàn xã hội; còn từ ngữ tích cực của các đối tượng có tính chất bộ phận như nói trên, sẽ được nghiên cứu riêng, do những yêu cầu riêng.

2. Lớp từ ngữ tích cực là thành phần cơ bản, trụ cột của từ vựng. Chứng cớ là: để dạy tiếng cho người nước ngoài, người ta thường biên soạn những từ điển tối thiểu, bao gồm những từ ngữ hay được dùng nhất để cung cấp cho họ. Từ điển này sẽ góp phần giúp cho họ nhanh chóng nắm bắt được những từ ngữ thường được dùng một cách tích cực nhất và nhanh chóng đi vào đời sống giao tiếp chung với người bản ngữ.

Khi phương pháp thống kê, nghiên cứu định lượng được áp dụng vào từ vựng học, người ta nhận xét rằng từ vựng tích cực bao gồm những từ ngữ có tần số xuất hiện cao (hay được sử dụng, sử dụng một cách tích cực) và độ phân bố lớn (được sử

dụng rộng rãi trong nhiều hoàn cảnh và loại hình giao tiếp). Trên cơ sở lí thuyết như vậy, người ta đã tiến hành xây dựng các loại từ điển tần số (từ điển tần số chung và từ điển tần số cho từng lĩnh vực) để phục vụ cho việc dạy và học tiếng, ví dụ như từ điển tần số tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tiệp, tiếng Đức, tiếng Việt...

III. Như trên đã nói, lớp từ tiêu cực bao gồm những từ ngữ ít được sử dụng trong ngôn ngữ chung. Vậy những thuật ngữ khoa học, kĩ thuật thuộc các lĩnh vực chuyên môn hẹp và sâu, những từ địa phương không có khả năng phổ biến; đặc biệt là những từ đã cổ, đã lỗi thời, hoặc vừa mới nảy sinh chưa được toàn xã hội biết đến và sử dụng... đều thuộc lớp từ này.

Có ba bộ phận của lớp từ tiêu cực cần xét kĩ là từ cổ, từ lịch sử và từ mới.I. Từ cổTừ cổ là những từ bị đẩy ra ngoài hệ thống từ vựng hiện tại, bởi trong quá

trình phát triển, biến đổi, đã xảy ra những xung đột vê đồng nghĩa hoặc đồng âm và bị từ khác thay thế.

Chính vì vậy các từ cổ đều có từ tương ứng, đồng nghĩa với chúng trong trạng thái từ vựng hiện tại.

Sự thật là mức độ tiêu biến của các từ cổ không đồng đều. Có hai dạng cần phân biệt:

a) Những từ đã mất hẳn trong từ vựng hiện tại. Muốn tìm và hiểu những từ này phải lùi lại những tài liệu ghi chép được trong quá khứ để khảo sát và phân tích. Ví dụ trong tác phẩm Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi (thế kỉ XV) có những từ cổ của tiếng Việt thuộc dạng này như: bui (chỉ), cóc (biết), chăng (không), khứng (chịu), mảng (nghe), mựa (đừng, chớ), mấy (với), tượng (có lẽ, hình như), thìn (giữ gìn), thửa (từ nối), phen (so bì), tua (nên), chỉn (chỉ, vẫn), phô (các, mọi), xoa (hẩm), lọn (trọn), hòa (và)...

b) Những từ đã bị đẩy khỏi vị trí vốn có của chúng nhưng vẫn còn để lại dấu vết của mình: trở thành thành tố cấu tạo trong một vài từ nào đó; hoặc cũng có khi đứng trong một thành ngữ, tục ngữ nào đó mà người ta hiện nay không biết ý nghĩa của chúng là gì. Chẳng hạn, trong một số tác phẩm cổ thuộc các thế kỉ trước, chúng ta còn thấy có hàng loạt đơn vị như vậy (đối chiếu với các từ hiện, đại tương ứng):

âu (lo âu), lác (lác đác), lệ (e lệ), nàn (phàn nàn), bỏng (bé bỏng), rập (giúp rập), dấu (yêu dấu), giã (giã từ), han (hỏi han)...

Lại có một số từ tuy không trở thành thành tố cấu tạo từ như trên mà vẫn đứng trong một số lối nói hạn chế nào đó, nhưng người ta ít hiểu hoặc không hiểu chúng nữa. Ví dụ:

khôn (khôn lường ; khôn xiết...); dấu (con vua, vua dấu, con châu cháu, châu cháu yêu; chúa dấu vua yêu một cái này (Hồ Xuân Hương); cả (sông cả, con cả, cả

ăn cả mặc lại càng cả lo); đăm, chiêu (gà kia mày gáy chiêu đăm); giái (già giái non hột); dái (khôn cho người ta dái, dại cho người ta thương)... (đăm = bên phải; chiêu = bên trái; giái = quà, trái; dái = sợ, kính, nể).

2. Từ lịch sửa) Từ lịch sử là những từ bị đẩy ra ngoài phạm vi từ vựng chung, tích cực bởi

các nguyên nhân lịch sử và xã hội. Khi đối tượng từ biểu thị, gọi tên bị gạt ra ngoài đời sống xã hội thì tên gọi của nó cũng mất dần vị trí vốn có trước đây. Chẳng hạn, các từ gọi tên chức tước, phẩm hàm, quan chế, các công việc thi cử, thuế má... thời xưa trong tiếng Việt, nay đã trở thành từ lịch sử. Trong đời sống giao tiếp chung, rất hiếm khi chúng được nhắc tới: thái thú, thái học sinh, thượng thư, toàn quyền, công sứ, đốc đồng, tú kép, tú mền, cử nhân, hoàng giáp, thám hoa, bảng nhãn, nghè, cống, khóa sinh, ống quyển, áp triện...

Về cơ bản, đối với xã hội ngày nay, những từ như thế người ta vẫn có thể hiểu được hoặc hiểu được ít nhiều. Chúng không có từ đồng nghĩa trong từ vựng hiện nay như là các từ cổ. Khi nói về những vấn đề lịch sử xã hội thời trước, nếu cẩn, người ta vẫn phải iử dụng những từ đổ.

b) Khi nói về từ lịch sử và từ cổ trong tiếng Việt, ta cẩn chú tới một bộ phận gồm những từ như: hỏa tiễn, hỏa xa, hỏa chầu, hỏa pháo, hải dàng, hải phỉ, tiềm thủy dinh, hàng không mẫu hạm, diên chủ, diên trang, dân cày, khai hội, gác đờ bu, gác đờ xen, pooc ba ga, ghi đông...

Nếu lấy tiêu chí là bị từ khác thay thế (từ đồng nghĩa với chúng trong từ vựng hiện đại) thì phải nhất loạt gọi chúng là các từ cổ. Thế nhưng, thực tế là người hiện thời hôm nay vẫn hiểu chúng khá rõ, thậm chí đôi khi rất rõ và vẫn dùng, vì chúng chỉ mới bị thay thế cách đây không lâu, hoặc đang trên đường bị thay thế hẳn. Bởi vậy, để phản ánh tình hình đó, có khi người ta tách chúng ra thành một nhóm gọi là nhóm các từ cũ với ngụ ý phân biệt về tính chất và mức độ cổ so với các từ cổ thực sự, xa xôi với tình trạng ngôn ngữ ngày hôm nay.

3. Từ mớiTrong chương XVI, chúng ta đã nói về một số con đường xuất hiện, cách cấu

tạo các từ ngữ mới. Đó là một chuyện; còn vị trí và vai trò của các từ ngữ mới đối với từ vựng và đời sống giao tiếp lại là một chuyện khác.

a) Khi một từ vừa mới xuất hiện, chắc chắn chưa có nhiều người trong phạm vi toàn xã hội biết đến. Nó còn nằm trong phạm vi giao tiếp hẹp nào đó. Vì thế Nó thuộc về lớp các từ ngữ tiêu cực.

Tuy vậy, nếu sau đó, từ này được chấp nhận và phổ biến trong xã hội một cách rộng rãi thì nó lại nhanh chóng đi vào lớp từ vựng tích cực. Do đó cái gọi là từ mới phải luôn luôn được xét trong một thời gian cụ thể, một tình trạng từ vựng cụ

thể. Chẳng hạn hiện nay trong tiếng Việt các từ ngữ: tin học, phần cứng, phần mềm, đầu vào, đầu ra... mới được nói tới trên một số phương tiện thông tin đại chúng. Chúng chưa được dùng phổ biến sâu rộng trong phạm vi toàn xã hội và chưa đứng vào lớp từ tích cực của toàn dân. Thời gian và sự sử dụng của xã hội đối với những từ này trong tương lai sẽ trả lời: chúng có đứng vào lớp từ đó hay không.

Ngược dòng thời gian cách đây khoảng 10-15 năm, các từ cát xét, tủ lạnh, bếp ga... vẫn còn là những tên gọi mới trong từ vựng tiếng Việt, giống như các từ: kháng chiến, súng cối, đại liên, tiểu tiên, trung đội, dân công, vành đai, tề, ngụy, lô cốt... trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp hoặc: Việt minh, phê bình, Liên Xô, ủy ban, yêu cầu, phản công, đoàn thể... vào thời kì Cách mạng tháng Tám vậy. Thế nhưng ngày nay, các từ đó đã đi vào lớp từ tích cực của tiếng Việt; và màu sắc mới của chúng không còn nữa.

Thời gian để cho một từ mới có chính thức đi vào lớp từ tích cực hay không, thường là ngắn, thậm chí đôi khi rất ngắn. Ngược lại, thời gian để một từ trở nên cũ hoặc cổ thường là kéo dài hơn vì nó tồn tại dai dẳng khá lâu.

b) Từ vựng của mọi ngôn ngữ được phong phú hóa, đa dạng hóa không phải chỉ ở chỗ có những từ ngữ mới xuất hiện. Nó còn thể hiện ở việc tạo dựng nghĩa mới cho những từ hiện có; hoặc tìm tòi những cách dùng mới cho chúng. Nói khác đi, từ vựng chẳng những có những cái mới ở bề mặt, mà còn có những cái mới ở chiều sâu của nó. (Điều này chúng ta đã nói tới ở chương XVI về những biến đổi trong từ vựng.)

Nếu ta nói rằng nghĩa này hay nghĩa kia của một từ là nghĩa mới, ta phải luôn luôn đặt trong một mốc thời gian để so sánh. Ví dụ, cách đây vài chục năm các nghĩa tương ứng của một số từ ngữ như sau là nghĩa mới:

tổ chức = làm đám cướixây dựng = lấy vợ, lấy chồngđặt vấn đề = ngỏ lời về ý định yêu đương.Khoảng mươi năm về trước, nghĩa của từ phường hội trong lối nói chủ nghĩa

tập thể phường hội; hoặc lạnh trong chiến tranh lạnh; và cụm từ bật đèn xanh cũng ở trong tình trạng như vậy.

Thế, có nghĩa là: nghĩa mới của từ cũng có giới hạn tiêu cực và tích cực giống như từ mới.

Hiện nay trong tiếng Việt, con đường mở mang, tạo dựng nghĩa mới cho từ đang phát triển mạnh bên cạnh việc tạo các từ mới. Một trong những biểu hiện rõ của con đường đó là hiện tượng dùng một từ trong những tư cách từ loại khác nhau. Điều này có lí do của nó. Khi chuyển đổi từ loại của từ như vậy, sự biến động trong cấu trúc nghĩa của chúng đã xảy ra và dẫn tới cả những biến động về bản chất từ

vựng - ngữ pháp của chúng nữa. Ví dụ: băn khoăn - những băn khoăn; ảnh hưởng tới chúng ta - những ảnh hưởng của phong trào cách mạng...

Tương tự như vậy, ta có hàng loạt trường hợp: những day dứt; có hai suy nghĩ nghiêm chỉnh; rất con người; tác phong công nghiệp; lối làm ăn còn rất tiểu nông...

Lẽ đương nhiên, ở đây phải luôn luôn lưu ý tới những cách dùng, những sáng tạo cá nhân. Rất có thể một tác giả, một cá nhân nào đó trong khi sử dụng ngôn từ có thể xây dựng, đưa ra một cách dùng mới, một sắc tháỉ mới trong nội dung cho từ; và cách dùng đó, sắc thái mới đố rất độc đáo. Thế nhưng, nó có được phổ biến, được cả xã hội chấp nhận và dùng theo hay không, lại là một vấn đề khác.

Ví dụ, chúng ta rất thú vị với lối nói ga bay ( = sân bay); bầu mây ( = bầu trời); trả động (= báo yên)... của Nguyễn Tuân; nhưng chúng chỉ lóe sáng lên trong tác phẩm của riêng ông mà thôi. Những trường hợp tương tự như vậy mới chỉ đem lại cho từ cái gọi là nghĩa không thường trực - kết quả của những cách dùng ngôn ngữ đậm màu sắc tu từ.

D. PHÂN LỚP TỪ NGỮ THEO PHONG CÁCH SỬ DỤNGI. Các phong cách chức năng, các ứng xử ngôn ngữ trong những hoàn cảnh

giao tiếp khác nhau, được hình thành và nhận diện dẩn dẩn trong quá trình phát triển của ngôn ngữ và xã hội. Từ vựng học cũng phân lớp từ vựng theo tiêu chí phong cách chức năng nhưng không hoàn toàn là sự khảo sát, phân loại của phong cách học.

II. Ngôn ngữ giao tiếp của con người tổn tại dưới hai dạng cơ bản là Nói và viết. Về mặt thuật ngữ, trước đây chúng ta vẫn thường gặp các tên gọi: phong cách nói hoặc phong cách khẩu ngữ đặt trong thế đối lập với phong cấch viết hoặc phong cách sách vỏ.

Tuy rằng gọi tên như vậy, nhưng thực tế trong nội dung người ta muốn phân biệt giữa một bên là ngôn ngữ thông tục, "đời thường", chưa có sự gia công trau dồi, ít gắn với những chuẩn tắc nghiêm nhặt; còn một bên là ngôn ngữ được trau dồi, chọn lọc, gắn liền với những chuẩn tắc đó.

Thật ra, ngay trong phong cách nói cũng có sự phân biệt giữa lời nói được chọn lọc, trau dồi (ví dụ như lời diễn giảng, thuyết trình, lời phát biểu chính thức có chuẩn bị sẵn,…) với lời nói chưa được chọn lọc kĩ và trau dồi cẩn thận (ví dụ như trong nói năng thân mật thông thường hàng ngày, thậm chí có thể chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ nhất ở đây nhích gần về phía ngôn ngữ thuộc phong cách viết hơn; còn loại thứ hai, từ bản chất của nó, được gọi đích danh là khẩu ngữ - một tên gọi mà tuy không nói ra một cách hiển minh, nhưng ít nhiều bên trong, người ta có ý phân biệt nó với ngôn ngữ nói, nói chung.

Như thế, có thể nhận ra trong từ vựng ba lớp từ mang đặc điểm của ba phong cách: lớp từ ngữ khẩu ngữ, lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, và cuối cùng là lớp từ ngữ trung tính (hoặc còn gọi: trung hòa về phong cách) có thể dùng trong mọi phong cách khác nhau.

III. LỚP TỪ KHẨU NGỮCái gọi là khẩu ngữ mà chúng ta xét ở đây, chỉ gồm khẩu ngữ của toàn xã hội

nói chung.Có thể nhận thấy ở lớp từ khẩu ngữ của tiếng Việt một số dấu hiệu sau đây:a. Về mặt cấu trúc hình thức, các từ ngữ thuộc lớp này khi đi vào hoạt động

giao tiếp, ít nhiều có thể "tự do, phóng túng" nếu điều kiện cho phép. Nói cách khác, chúng có nhiều khả năng biến đổi cấu trúc vốn có của mình. Ví dụ:

- Tách rời ra và chen thêm những yếu tố khác vào.học hành - học với hành, học với chả hành chòng con chồng con - chồng với con- Tăng cường các dạng láy hoặc lặp lại từÔng - ông ông ênh ênhđàn ông - đàn ông đàn angcon gái - con gái con đứab. Ưa dùng những từ ngữ có sắc thái đánh giá cực đại theo chiều nào đó để

cường điệu sự đảnh giá của người nói, lôi cuốn sự chú ý của người nghe, ví dụ: lo thắt ruột, chờ đỏ mắt, đánh sặc tiết, chạy bở hơi tai, chẻ xác ra, no đòn, cứng họng, (tức) sôi mấu, (giận) tím mặt...

c. Chấp nhận những lối xưng hô thân mật hoặc đậm màu sắc bày tỏ thái độ. Bên cạnh đó là những từ ngữ có sắc thái thông tục, thậm chí thô thiển. Chẳng hạn, về từ xưng hô, có thể dùng: mày, tao, cậu, tớ, minh, chúng minh, bọn mình, y, hàn, hắn ta, bọn nó, tụi nó, thằng, thằng cha, con mẹ, mụ, con mụ, mụ ta... Về những từ đánh giá hoặc miêu tả hành vi, có: ngu, tồi, mèng, chẳng ra chó gì, chằng nước mẹ gì, ăn thua gì, ăn thua mẹ gì, nước non gì, ăn vàng ăn bạc gì, biết tay, phải lòng, cực, cực kì, nghiêm, gìn...

d. Rất ưa dùng các quán ngữ, thành ngữ để đưa đẩy, rào đón: hoặc để diễn đạt cho sinh động, ví dụ: của đáng tội; có đời thuở nhà ai; thôi thì...; thì đã đành là vậy; nó chết một nỗi (một cái) là...; đánh dùng một cái; ấm ớ hội tề; chầu rìa hút thuốc vặt; tuần chay nào cững có nước mắt; ai biết quan đái mà hạ võng; lụy như lụy đò...

Thậm chí, đôi khi để tỏ thái độ thân thương, quỹ mến của các bậc cha chú, ông bà... đối với trẻ em, người ta còn dùng cả những lời "mắng yêu" nghe chừng rất thông tục như: thằng chó con, con cún con, cha bố (cô, cậu...).

Để minh họa, chúng ta hãy xét lời của hai bà già trong hai bối cảnh:- Gớm ! Lại còn thế nữa cơ dấy. Đến lụy như lụy đò cũng còn chẳng ăn thua

nữa là lại bỏ buộc. Có mà họ thì phế đi. Bao nhiêu đời chủ nhiệm rồi, đổ lên đổ xuống mãi rồi mới đậu đến thằng bố cháu nhà tôi. Nó hiền lành tốt nhịn... Dân ở đây họ đáo để lắm kia. Bằng lòng thì chén chú chén anh, không bằng lòng thì cứ là đổ .

(Nguyễn Thị Ngọc Tú. Buổi sáng)- Nào, thằng chó con, bố con mày lại sắp bỏ di cho bằng hết đây. Dậy nào,

dậy nào, cha thằng bố mày, dậy di tè rồi lại vào kềnh không có nặng, bà không bế được.

(Xuân Cang. Đêm hồng)e. Sắc thái khẩu ngữ và biểu cảm của lớp từ khẩu ngữ còn thể hiện rõ ở sự

hiện diện và hoạt động của những từ thưa gửi: dạ, thưa... các từ ngữ cảm thán: ôi, ối, ôi trời, trời ơi, trời đất ơi, cha mẹ ơi... các ngữ khí từ: à, ừ, nhỉ, nhé...

Mặt khác, việc dùng các từ ngữ với sắc thái nghĩa mới, hoặc kèm theo những nghĩa ngữ cảnh, nghĩa lâm thời... khá phổ biến. Bởi lẽ giản dị là: khẩu ngữ ít nhiều "phóng túng" về mặt chuẩn tắc.

Tuy vậy, dầu thế nào đi nữa thì cũng phải khẳng định lại rằng tính thông tục của khẩu ngữ Nói chung và từ vựng khẩu ngữ Nói riêng, không phải là sự nói tục và các từ tục. .Nếu không thấy sự khác biệt về bản chất này, lạm dụng các từ tục thì sẽ dẫn đến chỗ làm vẩn đục ngôn ngữ, phá mất cái gọi là thẩm mĩ ngôn ngữ, thậm chí vi phạm đạo đức trong giao tiếp.

IV. LỚP TỪ NGỮ THUỘC PHONG CÁCH VIẾT1. Bản thân tên gọi này đã ngụ ý rằng ở đây gồm những từ ngữ chỉ chủ yếu

dùng trong các sách vở, báo chí. Người ta cũng thường hiểu đằng sau tên gọi này còn có một ẩn ý khác: đó là lớp từ ngữ có được chọn lọc, được trau dồi, được "văn hóa hóa" và gắn bó với chuẩn tắc nghiêm ngặt.

2. Lớp từ ngữ thuộc phong cách viết bao gồm chủ yếu những từ ngữ thường xuyên được dùng gắn liền với nội dung của một số phong cách chức năng cụ thể như:

a) Phong cách khoa học: gắn bó với các thuật ngữ khoa học, các từ ngữ chuyên môn hóa: dạo hàm, ẩn số, quỹ tích...)âm vị, hình vị, từ pháp, ngữ pháp, âm tố, phụ tố...

b) Phong cách hành chính sự vụ: Chủ yếu gồm các từ ngữ thường dùng trong những văn bản pháp lí, ngoại giao, hành chính: công văn, công hàm, công ước, hòa ước, tạm ước, hiệu lực, biên bản, sao lục, tố tụng, chiểu theo, đơn phương...

c) Phong cách chính luận báo chí: gồm những từ ngữ thường dùng trong các văn bản chính luận, bày tỏ thái độ, quan điểm: cộng sản , vô sản, tư sản, đế quốc, thực dân suy thoái, vũ trong, xâm lược, chiến tranh, cánh tả, cánh hữu, cấp trên...

d) Phong cách văn học (nghệ thuật): có thể tổng hòa các phong cách khác bằng những thủ pháp riêng của từng thể loại và từng truyền thống văn học của mỗi dân tộc, mỗi giai đoạn.

3. Việc cố gắng xác định những tiêu chí thuần hình thức cho lớp từ ngữ thuộc phong cách viết này là hết sức khó khăn; bởi vì chính bản thân nó hết sức đa dạng và luôn luôn linh động. Tuy nhiên cũng có thể thấy có một số biểu hiện tương đối rõ rệt như sau:

a) Không mang tính thông tục. Chính vì thế mà các từ ngữ của lớp từ này và lớp từ khẩu ngữ hầu như không đi vào địa phận của nhau.

b) Chủ yếu gồm các thuật ngữ, các từ ngữ chuyên môn hóa của các lĩnh vực: văn hóa, văn học nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, chính trị, quân sự, hành chính, pháp luật, triết học, kinh tế... Trong các từ ngữ đố, nhìn chung, cấu trúc hình thức của chúng là có tính hệ thống và theo chuẩn mực chặt chẽ.

c) Về mặt nội dung ý nghĩa, các từ ngữ ở đây Nói chung là mang tính khái quát, trừu tượng hoặc gợi cảm, hình tượng... tùy theo phạm vi riêng của mỗi phong cách chức năng.

d) Về mặt nguồn gốc, thì phần nhiều là các từ gốc Hán và gốc Ấn Âu được du nhập.

Ở đây, vai trò của các từ Hán Việt có vị trí rất đặc biệt. Nó có mặt ở khắp mọi địa hạt của các phong cách khác nhau và điều quan trọng là tính đa hướng, tính tĩnh tại, gắn liền với thế giới của những ý niệm đã đem lại cho các từ Hán Việt trong tiếng Việt cái sắc thái trang trọng và bác học của chúng. Cũng chính vì vậy mà chúng mới hoạt động một cách tích cực trong lớp từ thuộc phong cách viết đến như thế. (*)

Trong số các bộ phận từ ngữ thuộc các phong cách chức năng cụ thể vừa kể trên, riêng bộ phận từ ngữ hay dùng trong thơ ca và văn xuôi nghệ thuật còn được gọi là từ vựng thơ ca hay từ vựng văn học.

Đối với truyền thống ngữ văn Việt Nam, bộ phận đó gắn liền với các từ ngữ Hán - Việt. Sự phân biệt giữa văn chương bác học, văn chương của "thế giới chủ nghĩa" với văn chương bình dân, được thể hiện rõ rệt nhất ở đó.

Đi vào các tác phẩm văn chương Việt Nam trước đây, chúng ta chủ yếu tiếp xúc với những bóng nguyệt, gương nga, bóng ác, vầng kim ô, du khách, lữ khách, giai nhân, tài tử, trầm tư, li tao, đồng vọng, tịch liêu, tráng sỉ, chinh phụ... những thu thảo, ngư ông, ngư phủ, cù lao, Tràng Thành, thu phong, tiêu phòng... Cũng ở đó, ta

sẽ gặp hàng loạt các điển cố, điển tích như: Tầm Dương, Tiêu Tương, Cô Tô, Hoàng Hạc, sóng thu ba, sóng khuynh thành, lá thắm chỉ hồng, thềm hoa, lệ hoa, mành Tương, kết cỏ ngậm vành, bỉ sắc tư phong...

Hiện tượng này có lí do lịch sử và truyền thống của nó. Ngày nay, từ ngữ trong thơ ca, nghệ thuật đã có những đổi khác. Giữa ngôn ngữ giao tiếp rộng rãi với ngôn ngữ "chữ nghĩa" hiện nay đã không còn khoảng cách quá xa như trước nữa; bởi vì, một mặt, trình độ vấn hóa của nhân dân đã không ngừng được nâng cao lên; mặt khác, thơ ca, nghệ thuật của chúng ta đã "dân hóa" rất mạnh; nó trở về gần với cuộc đời hơn nhiều so với văn chương thời xưa.

Chẳng hạn, cũng là câu chuyện hẹn thề mong nhớ, nhưng chắc hẳn ngôn từ trong Chinh phụ ngâm, trong Truyện Kiều... không hoàn toàn giống như lối nói ngày nay.

V. LỚP TỪ NGỮ TRUNG HÒA VỀ PHONG CÁCHTrừ những từ ngữ mang dấu hiệu đặc trưng của lớp từ khẩu ngữ và lớp từ vựng

thuộc phong cách viết, số còn lại (chiếm phần cơ bản trong từ vựng nói chung) được gọi là lớp từ vựng trung hòa. Các từ ngữ ở đây không có những dấu hiệu riêng như dấu hiệu của hai lớp từ nói trên. Chúng có thể được dùng như nhau trong tất cả các phong cách chức năng khác nhau. Sự thật là: ranh giới giữa các lớp từ ở đây không phải những đường kẻ phân minh. Trừ những đơn vị từ ngữ mang đặc trưng điển hình của từng lớp, số còn lại đứng ở khoảng giữa rộng hơn với một đường ranh giới có thể dễ dàng di động.

Ở đây, một lần nữa, ta lại thấy tính linh động trong khả năng chuyển hóa ranh giới lớp hạng của các từ ngữ.

Cùng với việc phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc, theo vai trò và phạm vi sử dụng... cách phân loại từ ngữ theo phong cách sử dụng cũng cho thấy quang cảnh sinh động của tính thống nhất trong sự đa dạng và phức tạp của từ vựng.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH(Phần III)1. B.N. Golovin. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học Moskva, 1983 (tiếng

Nga).2. V. I. Kodukhov. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, Moskva, 1979 (tiếng

Nga).3. B. I. Kosovskij. Ngôn ngữ học đại cương (Lí luận về từ và từ vựng của ngôn

ngữ). Nxb Đại học., Minsk, 1974 (tiếng Nga).4. M.I. Phomina. Tiếng Nga hiện đại (Từ vựng học). Nxb Đại học, Moskva, 1978

(tiếng Nga).

5. A.A. Rephormatskij. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Giáo dục, Moskva, 1967 (tiếng Nga).

6. E.v. Rozen. Từ vựng học tiếng Đức hiện nay. Nxb Đại học, Moskva, 1976 (tiếng Nga).

7. Ju. Stepanov. Những cơ sở của ngôn ngữ học dại cương. Nxb Giáo dục, Moskva, 197.5 (tiếng Nga); Nxb Đại học và then, Hà Nội, 1984 (tiếng Việt).

8. N.M. Sanskij. Thành ngữ học tiếng Nga hiện đại. Nxb Đại học. Moskva, 1985 (tiếng Nga).

9. Jean Aitchison. Ngôn ngữ học đại cương. ST. Paul’s house warwick lane, London; EC 4. 1972 (tiếng Anh).

NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC(Phần III)10. Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Đại học và then, Hà Nội, 1975.11. Đỗ Hữu Châu. Từ vựng ngữ nghỉa tiếng Việt. Nxb Giáo dục. Hà Nội, 1981.12. Đỗ Hữu Châu. Các binh diện của từ và từ tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội, 1986.13. Nguyễn Thiện Giáp, Từ vựng học tiếng Việt. Nxb Đại học và then, Hà Nội,

1985.14. Cao Xuân Hạo. Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng. Tạp chi Ngôn ngữ số

2-1985.15. Nguyễn Văn Tu. Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại. Nxb Đại học và then, Hà

Nội, 1976.

Phần thứ tư CƠ SỞ NGỮ PHÁP HỌC VÀ NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT*

* *• Ngữ pháp và ngữ pháp học• Phương thức ngữ pháp• Phạm trù ngữ pháp• Từ loại• Đoản ngữ• Câu

Chương XVIII NGỮ PHÁP VÀ NGỮ PHÁP HỌCI. NGỮ PHÁP LÀ GÌ ? CÁC BỘ MÔN CỦA NGỮ PHÁP HỌC1) Ngữ pháp là thuật ngữ dịch từ grammaire (tiếng Pháp) grammar (tiếng Anh)

mà gốc là grammatikè technè ("nghệ thuật viết") của tiếng Hi Lạp. Thuật ngữ này

có hai nghĩa: (1) là một bộ phận của cấu trúc ngôn ngữ, nó có đơn vị của nó khác với các đơn vị của từ vựng và ngữ âm; (2) là một ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu sự hoạt động, sự hành chức theo những quy tắc nhất định để biến các đơn vị ngôn ngữ thành các đơn vị giao tiếp. Để phân biệt rạch ròi hai nghĩa trên có thể dùng thuật ngữ ngữ pháp cho nghĩa (1) và ngữ pháp học cho nghĩa (2). Với ý nghĩa đó mà nói thi ngữ pháp học là khoa học nghiên cứu về ngữ pháp.

2) Ngữ pháp học gồm có hai bộ phận: từ pháp học và cú pháp học (theo cách phân chia truyền thống).

a - Từ pháp học chuyên nghiên cứu về các quy tắc biến hình của từ, các phương thức cấu tạo từ và các đặc tính ngữ pháp của từ loại.

b - Cú pháp học nghiên cứu những quy tắc kết hợp từ, nhóm; từ thành các kết cấu cú pháp để ngôn ngữ trở thành "phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài người".

Hai bộ phận trên có mối quan hệ khăng khít với nhau: nếu biết cách đặt câu nhưng không nắm vững quy tắc biến hình và các đặc điểm ngữ pháp của từ thì đặt câu sẽ không đúng, trái lại nếu chỉ biết quy tắc biến hình từ mà không biết cách kết hợp từ thành câu, thành phát ngôn thì vẫn không giao tiếp dược. Chi có trong cú pháp học, các nhân tố thông báo mới trở thành hiện thực, hành vi ngôn ngữ mới có ý nghĩa. Và cũng chính ở địa hạt này, các đơn vị bậc thấp hành chức và thể hiện nét khu biệt của mình trong hệ thống các đơn vị ngôn ngữ. Nói một cách nôm na, cú pháp học là việc tổ chức câu nói thành các phát ngôn, thành văn bản. Và văn bản là sản phẩm cuối cùng của hoạt động ngôn ngữ.

Ngữ pháp học lại có thể chia thành: ngữ pháp học dại cương và ngữ pháp học cụ thể.

Ngữ pháp học đại cương nghiên cứu những quy luật chung của hoạt động ngữ pháp trong tất cả các ngôn ngữ. Ngữ pháp học cụ thể nghiên cứu đặc trưng ngữ pháp của từng ngôn ngữ. Trong ngữ pháp học cụ thể có thể chia ra ngữ pháp lí luận và ngữ pháp thực hành. Song dù ở góc độ nào, nhà ngữ pháp học cũng phải đề cập đến những vấn đề cơ bản nhất dưới đây:

- Đặc trưng trừu tượng ngữ pháp khác với trừu tượng từ vựng và trừu tượng ngữ âm ở chỗ nào ?

- Đơn vị của ngữ pháp là gl ?- Những quy tắc nào làm thành cơ chế của ngữ pháp mà nhờ đó ngôn ngữ trở

thành phương tiện tàng trữ và truyền đạt thông tin tuyệt vời của xã hội.II. TRỪU TƯỢNG NGỮ PHÁP, Ý NGHĨA TỪ VỰNG VÀ Ý NGHĨA NGỮ PHÁPCác đơn vị ngôn ngữ là kết quả của quá trình trừu tượng hóa khác nhau về

chất.

Trong từ vựng, từ là cái đại diện cho hàng loạt sự vật đã được khái quát hóa thành tên gọi. Tên gọi của sự vật không tương ứng với từng sự vật riêng lẻ mà với cả lớp sự vật có cùng bản chất. Từ cây chẳng hạn không biểu hiện một cây cụ thể nào mà là khái niệm cây. Đó là tên gọi cho hàng loạt: cây mít, cây ổi; cây cao, cây thấp; cây già, cây non; cây to, cây nhỏ,...

Trong ngữ âm, âm vị cũng là một đơn vị trừu tượng, khái quát. Âm vị trừu tượng mang trong nó những đặc trưng khu biệt được khái quát hoa từ hàng loạt âm tố cụ thể. Âm vị /N/ chẳng hạn, là sự khái quát các nét khu biệt từ các âm tố n1, n2, n3, n4... Đúng như V. I. Lênin nhận xét: Trong ngôn ngữ chỉ có cái khái quát mà thôi.

Trừu tượng trong ngữ pháp có phần khác với trừu tượng trong từ vựng và ngữ âm. Trừu tượng ngữ pháp là trừu tượng mang ý nghĩa phạm trù. Phạm trù số trong tiếng Anh và tiếng Nga chẳng hạn là khái quát từ hai khía cạnh đối lập của ý nghĩa ít và nhiều. Phạm trù thề trong tiếng Nga là khái quát hai ý nghĩa hoàn thành/ không hoàn thành.

Như vậy không chỉ từ vựng học mà cả ngữ pháp học cũng quan tâm đến ý nghĩa. Nhưng nếu như từ vựng học quan tâm đến nghĩa từ vựng, tức là ý nghĩa sự vật của từ thì ngữ pháp học quan tâm đến một kiểu ý nghĩa khác: ý nghĩa ngữ pháp. Ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa phạm trù. Đối với từ vựng học (1), (2) và là ba từ khác nhau, bởi ý nghĩa sự vật của chúng khác nhau. So theo quan điểm ngữ pháp, tất cả ba từ trên đều thuộc về loại: danh từ giống đực, số ít, cách 1.

Ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp gắn liền mật thiết nhau. Từ với tư cách là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ vốn có cả hai ý nghĩa đó. Ý nghĩa từ vựng phân biệt một từ với hàng loạt từ khác còn ý nghía ngữ pháp thì thống nhất các từ trong nhóm lại. Ý nghĩa ngữ pháp là sự trừu tượng hóa từ ý nghĩa từ vựng. Ý nghĩa ngữ pháp đi kèm với ý nghĩa từ vựng và không thể tồn tại tách khỏi ý nghĩa từ vựng.

Rút ra hệ luận: Mỗi hiện tượng ngữ pháp luôn luôn có hai mặt: mặt bên trong, tức là cái gì được biểu hiện và mặt bên ngoài, tức là nhờ cách gì mà cái gì đó được biểu hiện. Quan hệ giữa hai mặt này như hai mặt của một bàn tay, còn sự tương ứng giữa chúng có thể là một / một hoặc > 1. Vấn đề này sẽ được xem xét kĩ hơn khi chúng ta đề cập đến khái niệm ý nghĩa ngữ pháp và phương thức ngữ pháp.

III. ĐƠN VỊ NGỮ PHÁPTính chất tuyến tính của lời nói và tính hệ thống của ngôn ngữ cho phép nhận

diện các đơn vị ngữ pháp. Đó cũng là các phẩm ít làm thành đặc trưng của ngữ pháp.

Tính chất tuyến tính của lời nói thể hiện ở chỗ phát ngôn được thực hiện trong thời gian, yếu tố này nối tiếp yếu tố khác. Theo quan điểm đó, bất cứ phát ngôn nào

cũng là một chuỗi, chia thành những mắt xích nối tiếp nhau, chẳng hạn, câu được phân thành từ, từ được phân thành hình vị, v.v...

Tính hệ thống của ngôn ngữ không phải là ở cách tổ chức bên ngoài đơn giản của các chất liệu ngôn ngữ mà là ở chỗ tất cả các yếu tố đồng loại của cấu trúc ngôn ngữ đều có sự liên hệ, nương tựa vào nhau; nhờ đó mà mỗi yếu tố có được giá trị của mình như những bộ phận đối lập nhau, khu biệt nhau trong cái toàn thể (một chỉnh thể).

Xét đơn vị ngữ pháp phải dựa vào các phương tiện sau đây.1. Đơn vị ngữ pháp là thể thống nhất của nội dung ngữ pháp (ý nghĩa) và hình

thức ngữ pháp (phương thức). Mỗi đơn vị được nhận biết như một từ vị (lexemè). Từ vị là từ trong đó tập hợp tất cả các hình thái (dạng thức biểu hiện) của nó.

Trái lại, hình thái từ trong tiếng Việt phải được xét ở khả năng kết hợp/ không kết hợp của nó với các từ khác, ví dụ, danh từ kết hợp được với số từ, loại từ, tính từ, chỉ định từ: ba chiếc bàn cũ này; tính từ kết hợp được với rất, quá, lắm: rất hay, quá đẹp, thú vị lắm mà không kết hợp với từng.

2. Đơn vị ngữ pháp phải có ý nghĩa ngữ pháp (chứ không phải ý nghĩa từ vựng, ý nghĩa vật thể, ý nghĩa khái niệm).

3 Đơn vị ngữ pháp là các phạm trừ ngữ pháp chứ không phải hình vị, từ (như lâu nay người ta quan niệm một cách mơ hồ). Hình vị, từ chỉ là vật liệu để cấu thành các kết cấu ngữ pháp mang nghĩa phạm trù. Các kết cấu này là thể thống nhất của ý nghĩa ngữ pháp và phương thức biểu hiện chúng. Nếu không có các phương thức này thì hình vị, từ chỉ là những đơn vị của từ điển, những đơn vị của ngôn ngữ chứ chưa được hiện thực hoàn thành các đơn vị của hoạt động lời nói.

Các đơn vị ngữ pháp có thể chia thành các đơn vị ở diện cấu tạo (hình thái học) và ở diện chức năng, các kết cấu cú pháp (cú pháp học).

Chương XIX PHƯƠNG THỨC NGỮ PHÁPBất kì ý nghĩa của một từ, một tổ hợp từ hay một câu nào cũng có những hình

thức thể hiện của nó. Ý nghĩa ngữ pháp cũng vậy, được thể hiện bằng những hình thức nhất định. Một trong những nhiệm vụ quan trọng của ngữ pháp học là nghiên cứu những phương tiện biểu hiện của các ý nghĩa ngữ pháp được sử dụng trong các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Và nhà ngôn ngữ học cần khái quát các hình thức đó lại thành những phương thức chính, gọi là phương thức biểu thị ý nghỉa ngữ pháp. Có thể dẫn ra một số phương thức ngữ pháp chủ yếu như sau:

I. PHƯƠNG THỨC PHỤ TỐPhương thức phụ tố được dùng phổ biến trong các ngôn ngữ Nga, Anh, Pháp.

Trong tiếng Anh phụ tố s trong các từ books (sách), desks (bàn học sinh), boys (con

trai), phụ tố es trong glasses (cốc), boxes (hộp) biểu hiện ý nghĩa ngữ pháp "số nhiều".

Phụ tố được thêm vào trước từ gọi là tiền tố. Khi phụ tố ở cuối từ như s trong books người ta gọi là hậu tố. Phụ tố có thể được thêm vào giữa, khi đó nó có tên là trung tố, ví dụ trong tiếng Êđê và tiếng Jarai: bơsao "cãi nhau", bơrơsao "sự cãi nhau", bơmut "ghét" - bơrơmut "sự căm thù", pơsur "khiêu khích" - pơbơsur "sự khiêu khích".

II. PHƯƠNG THỨC LUÂN PHIÊN NGỮ ÂM HỌC HOẶC BIẾN TỐ BÊN TRONGÝ nghĩa ngữ pháp có thể được biểu hiện bằng sự biến đổi của thành phần ngữ

âm của bản thân gốc từ, hay nói cách khác, bằng hiện tượng biến tố bên trong. Ví dụ, trong tiếng Anh:

Số ítFoot (bàn chân)Tooth (răng)Man (người đàn ông)Số nhiềuFeet (những bàn chân)Teeth (những cái răng) Men (những người đàn ông)và trong tiếng Xudan:kat (khuôn khổ)ket (những khuôn khổ)vot (cái lều)voot (những cái lều)Ở đây ý nghĩa ngữ pháp về số được biểu hiện bằng việc luân phiên âm vị chứ

không phải bằng hiện tượng thêm phụ tố. Phương thức này được dùng nhiều trong tiếng Ả rập, một phần trong các ngôn ngữ Anh, Đức, Pháp.

III. PHƯƠNG THỨC THAY TỪ CĂNTheo phương thức này, người ta dùng hẳn một từ căn khác để thể hiện ý nghĩa

ngữ pháp. Cấp so sánh của các tính từ chỉ ý nghĩa "tốt" và "xấu" trong một số ngôn ngữ Ấn - Âu thường sử dụng phương thức này. Ví dụ [10]:

Tốt Tốt hơn Xấu Xấu hơnTiếng Anh Good Better Bad Worse

Pháp Bon Meilleur Mauvais Pire

IV. PHƯƠNG THỨC TRỌNG ÂMPhương thức này được dùng trong tiếng Nga.

V. PHƯƠNG THỨC LẶPLặp bao gồm lặp toàn phần hay lặp bộ phận. Nó thường hay được sử dụng để

biểu thị số nhiều, ví dụ trong tiếng Mã Lai: orang (người), orang - orang (nhiều người), trong từ ngữ Xumer: kup (đất nước), kup - kup (nhiều nước), trong tiếng Ilakano (đảo Philippin): talon (cánh đồng), taltalon (những cánh đồng), ở tiếng Việt cũng có hiện tượng này, ví dụ:

Ngành — ngành ngành,nhà — nhà nhàngười — người người,ngày - ngày ngàylớp – lớp lớpVI. PHƯƠNG THỨC TỪ HƯCác ý nghĩa ngữ pháp có thể biểu hiện không phải bên trong từ mà ở ngoài từ.

Phương thức dùng từ hư là một phương thức như vậy.Từ hư, như đã nói ở trên, là những từ mất đi ý nghĩa định danh mà chỉ biểu

hiện ý nghĩa quan hệ giữa các thành phần câu (như giới từ, từ nối) hoặc giữa các câu (từ nối) cũng như chỉ ra các ý nghĩa ngữ pháp độc lập với tổ hợp từ trong câu (loại từ, mạo từ, trợ từ, các ngữ khí từ, từ đệm).

Các mạo từ trong tiếng Pháp được sử dụng để chỉ giống và số của danh từ: la bonté (lòng tốt), la là hư từ chỉ giống cái; le portrait (bức họa truyền thần), le chỉ giống đực, les portraits (những bức họa truyền thần), les chỉ số nhiều. Từ hư của trong tiếng Việt, từ hư rôboh trong tiếng Khmer biểu thị ý nghĩa ngữ pháp về sự sở hữu: áo của anh, tiền của chị, Côn chboong rôboh khnhum (Con đầu lòng của tôi), Chantiêp rôboh boong (Cái đĩa của anh). Trong tiếng Nga và tiếng Việt từ hư + động từ biểu hiện ý nghĩa tương lai

Tôi sẽ đọcAnh sẽ đọcAnh áy sẽ đọcVII. PHƯƠNG THỨC TRẬT TỰ TỪỞ trong câu, khi các từ được sắp xếp theo những trật tự trước, sau khác nhau

thì sẽ tạo ra những ý nghĩa khác nhau. Trong câu Anh yêu em , anh là chủ ngữ còn em là bổ ngữ. Trái lại, khi trật tự trên bị thay đổi, ví dụ Em yêu anh thì ý nghĩa của câu sẽ khác đi và quan hệ ngữ pháp giữa anh và em cũng thay đổi.

Tiếng Việt, tiếng Thái, tiếng Khmer, tiếng Hán và hàng loạt ngôn ngữ khác trong khu vực Đông Nam Á đã dùng trật tự từ làm phương thức cơ bản để biểu thị quan hệ ngữ pháp giữa các từ với nhau. Trong các ngôn ngữ này, phương thức trật tự từ còn được sử dụng để tạo từ, ví dụ: sữa bò - bò sữa, tấm vải - vải tấm, mắt xanh

- xanh mắt, to đầu - đầu to. Với những ngôn ngữ lấy phương thức trật tự từ làm trọng, mỗi vị trí đầu có một ý nghĩa riêng, ở các câu:

Vị trí (1) nó, tôi, anh tuy là ba từ khác nhau về ý nghĩa từ vựng nhưng có cùng một ý nghĩa ngữ pháp: chủ ngữ; vị trí (2) đánh, nhìn, yêu - vị ngữ và vị trí (3) tôi, nó, em, - bổ ngữ.

Trái lại, ví dụ, cùng một từ tôi nhưng ở những vị trí khác nhau thi ý nghĩa ngữ pháp sẽ khác nhau.

- Tôi là bác sĩ (Tôi: chủ ngữ)- Anh của tôi là kĩ sư, (tôi: ý nghĩa sở hữu)- Thầy giáo cho tôi quyển sách, (tôi: bổ ngữ tiếp nhận)Trật tự từ trong các ngôn ngữ có thể có chỗ giống nhau mà cũng có thể có chỗ

khác nhau. Chỗ giống nhau giữa tiếng Việt và tiếng Hán là trật tự trong câu đều là chủ ngữ - vị ngữ - bổ ngữ. Tuy nhiên, giữa từ chính và từ phụ thì trật tự ở trong hai ngôn ngữ này lại trái ngược nhau, ví dụ, người Việt nói gió to, người Hán nói đại phong (đại - to, lớn, phong - gió). Người Việt Nói: Kia là cái nhà, người Nhật lại nói Kia cái nhà là (Are wa uchi desu). Người Việt Nói: Tôi có ba người con, người Khmer lại nói Tôi có con ba người (Khnhum miên côn bây neh). Người Việt nói: Mẹ đi đâu? nhưng người Jarai lại Nói: Đâu mẹ di ? (Pơcă anu nao).

Trong tiếng Việt quy tắc về trật tự của các từ cực kì chặt chẽ vì vậy khi gặp những hình thức ngược nhau về trật tự thì phải xem xét thận trọng. Thông thường những hình thức này không đơn thuần là hiện tượng đảo tùy tiện mà biểu hiện những nội dung, ý nghĩa khác nhau, ví dụ: Một bức tranh treo trên tường và trên tường treo một bức tranh; Bao giờ anh đi ? và Anh đi bao giờ?.

Ngoài 7 phương thức chính nêu trên còn có thể kể ra một vài phương thức khác nữa như phương thức ghép, phương thức ngữ điệu. Khác với phương thức phụ tố, ở phương thức ghép, người ta không liên kết hình vị gốc từ với các phụ tố trong một từ vị mà là liên kết hình vị gốc từ với hình vị gốc từ, do đó tạo ra một từ ghép mới thống nhất. Như vậy ghép dùng để cấu tạo từ. Ví dụ, trong tiếng Anh newspaper (báo) được ghép từ news (tin tức) và paper (giấy). Các từ nhà cửa, sách vở, quần áo trong tiếng Việt cũng được cấu tạo theo nguyên tắc ghép.

Trong những ngôn ngữ như tiếng Nga, tiếng Pháp, nếu nâng cao giọng nói ở cuối câu thì một câu tường thuật sẽ chuyển thành câu hỏi. Đó là phương thức ngữ điệu.

** *

Các phương thức ngữ pháp trên đây có thể phân thành hai kiểu: các phương thức bên trong từ (phụ tố, luân phiên ngữ âm, thay từ căn, trọng âm, lặp) và các

phương thức bên ngoài từ (hư từ, trật tự từ, ngữ điệu). Kiểu thứ nhất gọi là tổng hợp tính, kiểu thứ hai là phân tích tính.

Các nhà ngôn ngữ học dựa vào hai kiểu phương thức này đã phân các ngôn ngữ ra thành hai loại: các ngôn ngữ tổng hợp tính và các ngôn ngữ phân tích tính. Các ngôn ngữ tổng hợp tính là những ngôn ngữ dùng nhiều phương thức tổng hợp, các ngôn ngữ phân tích tính - dùng nhiều phương thức phân tích tính. Dĩ nhiên, việc phân chia này chỉ là tương đối bởi vì một ngôn ngữ thường sử dụng pha tạp nhiều phương thức. Tiếng Latin, tiếng Nga thuộc loại tổng hợp tính cao, tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Khmer phân tích tính cao. Tuy nhiên, tiếng Anh, tiếng Pháp được coi là phân tích tính cao nếu so với tiếng Nga và tiếng Latin nhưng sẽ là phân tích tính thấp nếu so với tiếng Hán, tiếng Việt.

Chương XX PHẠM TRÙ NGỮ PHÁPI. THẾ NÀO LÀ PHẠM TRÙ NGỮ PHẤPĐể hiểu rõ khái niệm này, chúng ta hãy bắt đầu bằng việc phân tích một ví dụ

cụ thể;Ở đây các phụ tố được thêm vào từ căn đã làm cho cùng một từ mà có nhiều

ý nghĩa ngữ pháp khác nhau: [1] có ý nghĩa về ngôi thứ nhất, [2] có ý nghĩa về ngôi thứ hai, [3] lại có ý nghĩa về ngôi thứ ba. Mỗi ý nghĩa ngữ pháp riêng lẻ như vậy được gọi là một ngữ pháp vị hay, nói gọn lại, một pháp vị. Không riêng động từ [x] mà tất cả các động từ trong tiếng Nga đều biến hình như thế và những sự biến hình ấy đều có tác dụng biểu thị những ý nghĩa ngữ pháp như thế. Từ ba ngôi lẻ tẻ, tức từ ba pháp vị dòng loại, từ nhiều động từ khác nhau đó, người ta khái quát lại thành một cái chung hơn gọi là phạm trừ ngôi của động từ.

Như vậy chỉ có thể nói về phạm trù ngữ pháp khi có một số ý nghĩa ngữ pháp nhất định, tức một số pháp vị đồng loại, ít nhất là hai. Trong một ngồn ngữ nào đó nếu chỉ có một ngôi thì không thể nói về phạm trù này được bởi vì phạm trù là một sự khái quát, không thể khái quát từ một (!). Hơn nữa, khi đã có ý nghĩa ngữ pháp thì nhất thiết phải có hình thức ngữ pháp (phương thức ngữ pháp) biểu thị các ý nghĩa đó. Ở ví dụ vừa dẫn trong tiếng Nga, đó là phương thức phụ tố.

Từ những nhận xét trên, có thể coi phạm trù ngữ pháp là sự khái quát của một số ý nghĩa ngữ pháp nhất định dược thể hiện ra bằng những phương thức ngữ pháp nhất định.

II. CÁC KIỂU PHẠM TRÙ NGỮ PHÁPTrong các ngôn ngữ trên thế giới, số lượng các phạm trù ngữ pháp không hoàn

toàn như nhau. Người ta thường nói đến bốn kiểu phạm trù chủ yếu như sau:1. Phạm trù phân loại từ: Thuộc về phạm trù này là từ loại. Việc phân chia các

từ vào một lớp nhất định, ví dụ các từ nhà, bát, quần áo vào lớp danh từ; học, đi, ấn

vào lớp động từ; đẹp, hay, đỏ vào lớp tính từ v.v... là dựa vào tính khái quát ngữ pháp của các từ như ý nghĩa "sự vật", ý nghĩa "hành động", ý nghĩa "phẩm chất" v.v...

Ở các ngôn ngữ Âu châu, người ta xác lập từ loại cho một từ nào đó thường căn cứ vào thuộc tính hình thái của nó. Hình thái ở đây thường được hiểu là hình thái trong, tức là sự biến hóa trong chính từ đó. Tuy nhiên, hình thái còn có thể được hiểu với nghĩa rộng hơn, bao hàm cả hình thái ngoài, tức là khả năng kết hợp từ này với từ khác. Đối với tiếng Việt, ngoài tiêu chí về ý nghĩa từ vựng, tiêu chí cú pháp này (khả năng kết hợp) có một tầm quan trọng đáng kể trong việc phân chia từ loại (xem chi tiết ở chương Từ loại sẽ trình bày sau).

Phân loại từ theo phạm trù từ loại là sự phân loại các từ vị mà không phải là theo hình thức từ. Song hình thức ngữ pháp của từ là dấu hiệu biểu minh cho tính chất ngữ pháp của nó. Danh từ trong tiếng Nga có thuộc tính biến cách, động từ có thuộc tính chia theo ngôi, thời, thể,... Trong tiếng Việt danh từ làm vị ngữ thường có là, động từ thì không có dấu hiệu đó, danh từ có số, tính từ và động từ không cần v.v...

Vấn đề phân loại các tiểu loại trong một từ loại rất quan trọng. Chẳng hạn, động từ là nhóm lớn. Nhóm này lại có động từ chỉ hướng / không chỉ hướng, động từ nội động / ngoại động... Trong nhóm danh từ có danh từ cập vật / bất cập vật, danh từ đếm được / không đếm được... Tiến hành phân tiểu loại càng tỉ mỉ bao nhiêu càng phong phú thông tin của mỗi từ bấy nhiêu.

Trong các ngôn ngữ trên thế giới, số lượng từ loại thực từ thường nằm trong khoảng 7 ± 2. Danh từ, động từ và tính từ được coi là những hệ thống từ loại phổ quát, có ở tất cả các ngôn ngữ.

2. Phạm trù ngữ pháp biến đổi từCác phạm trù ngữ pháp phân biệt với nhau về nội dung ngữ pháp. Phạm trù

ngữ pháp phân loại thì rộng lớn hơn, chung hơn. Các phạm trù ngữ pháp biến đổi từ, trái lại, nhỏ hẹp hơn, ít tính chất chung hơn. Bởi vậy, người ta gọi phạm trù ngữ pháp phân loại từ là phạm trù ngữ pháp chung còn phạm trù ngữ pháp biến đổi từ là những phạm trù ngữ pháp bộ phận. Tuy nhiên giữa phạm trù ngữ pháp chung và phạm trù ngữ pháp bộ phận có mối liên hệ nhất định. Những phạm trù ngữ pháp bộ phận ở một chừng mực nhất định có thể gắn với những từ loại nhất định và là đặc trưng để nhận diện các từ loại đó. Song tập hợp những phạm trù ngữ pháp bộ phận gắn với một từ loại nhất định, ở những ngôn ngữ khác nhau, thậm chí ở trong một ngôn ngữ, cũng khác nhau Chẳng hạn, phạm trù cách vốn có ở danh từ trong tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Tuyếc, tiếng Nhật... Song nó lại không có ở danh từ tiếng Việt,

tiếng Hán, tiếng Khmer và hàng loạt các ngôn ngữ Đông Nam Á khác. Và, ngay trong bản thân tiếng Nga, không phải tất cả các danh từ đều có phạm trù cách,

Muốn phát hiện được một phạm trù ngữ pháp biến đổi từ nào đó người ta phải dùng phương pháp đối lập. Phạm trù số ở danh từ tiếng Nga, tiếng Anh, tiếng Pháp chẳng hạn, bao gồm hai ý nghĩa đối lập nhau (số ít/ số nhiều) được diễn đạt bằng hai dạng thức đối lập nhau:

boy (bé trai)boys (những bé trai)cheval (ngựa)chevaux( những con ngựa)Phạm trù giống ở tính từ tiếng Nga bao gồm ba khía cạnh ý nghĩa (ba pháp

vị): giống đực, giống cái, giống trung. Chúng được diễn đạt bằng ba dạng thức đối lập nhau.

Cần chú ý rằng ở các phạm trù ngữ pháp biến đổi từ, mối quan hệ giữa ý nghĩa ngữ pháp và hình thức biểu hiện không nhất thiết phải là 1/1. Một hình thức có thể biểu hiện nhiều ý nghĩa ngữ pháp thuộc về những phạm trù ngữ pháp khác nhau, ví dụ phụ tố a trong cecrpa (chị em gái) cho ta biết 3 ý nghĩa ngữ pháp: giống cái, cách 1, số ít. Trái lại, một ý nghĩa ngữ pháp có thể được diễn đạt bằng nhiều phụ tố.

Thuộc về các phạm trù ngữ pháp biến đổi từ là phạm trù thời, phạm trù thể, phạm trù cách, phạm trù sổ', phạm trù ngôi, phạm trù giống và một số phạm trù khác nữa. Hai kiểu phạm trù ngữ pháp vừa trình bày - phạm trù phân loại từ và phạm trù biến đổi từ - thuộc địa hạt nghiên cứu của hình thái học. Hai kiểu phạm trù ngữ pháp sẽ trình bày dưới đây là thuộc về lĩnh vực cú pháp học theo cách hiểu truyền thống.

3. Phạm trù ngứ pháp về các vị trí của từKhái niệm vị trí được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ học nhưng vẫn chưa được

chính xác hóa.Vị trí được hiểu là một điểm trên chuỗi lời Nói do một từ (và các đơn vị có giá

trị tương đương với từ) chiếm giữ, hoàn thành một chức năng nhất định. Ví dụ, ta có hai câu:

- Anh (có) đi không ? (1)- Anh không đi à ( !) (2)Câu (1) (đi đứng trước không) là một câu hỏi,Câu (2) (không đứng trước đi) là câu phủ định, biểu hiện ý ngạc nhiên.Vị trí các yếu tố của câu tiếng Việt thường có khuôn trung hòa kiểu:trạng ngữ(1) - chủ ngữ(2) - vị ngữ(3) - bổ ngữ(4) - phương tiện(5)

Ví dụ: Trên những cánh dòng làng quê ngày nay, nông dân đã xới đất bằng máy móc hiện đại.

Ở đây mỗi thành phần câu đều chiếm một vị trí nhất định ở trong câu.Như vậy các thành phần câu như trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ, bổ ngữ... là

thuộc phạm trù ngữ pháp. Chúng được coi là những đơn vị mang nghĩa. Số lượng và chất lượng các thành phần câu là do chức năng của chúng chiếm, các vị trí trong mô hình câu quy định. Ở đây, vị trí là vị trí mang nghĩa… Dựa vào tính mắc nói các thành phần trong 4 quan hệ mà xác định tính chất của mỗi thành phần câu: a)quan hệ vị tính (tức là đối tượng và đặc trưng của nó); b) quan hệ đối tượng (tức là đối tượng phụ thuộc và đối tượng hay là quá trình chủ đạo), c) quan hệ thuyết định (tức là đặc trưng của đối tượng và chính đối tượng mang đặc trưng đó), d) quan hệ trạng huống (tức là tình trạng, tình thế, điều kiện, quá trình, động cơ mà đối tượng vận động). Phạm trù ngữ pháp thành phần câu về cơ bản dựa vào 4 quan hệ này. Quan hệ quy định ý nghĩa ngữ pháp của chúng. Chủ ngữ, vị ngữ gắn với quan hệ (a). Còn bổ ngữ, định ngữ, trạng ngữ gắn với các quan hệ khác hoặc gắn với cả 4 quan hệ (chẳng hạn trạng ngữ). Song vai trò của các thành phần câu không như nhau. Chủ ngữ và vị ngữ là xương sống của toàn cấu trúc câu, trong đó vị ngữ là cái đỉnh của cấu trúc. Giải được vị ngữ là giải được toàn câu.

Theo nguyên tắc quan hệ chức năng, ta có hai phạm trù thành phần câu: những thành phần chủ và những thành phần thứ (hay những thành phần trung tâm và những thành phần biên). Nhưng theo nguyên tắc tổ chức của chính bản thân thành phần thì ta lại có cách chia như sau:

Hệ thống thành phần câu+ đơn giản:(một từ hoặc đơn vị tương đương từ)+ phức hợp: + biểu hiện bằng tổ hợp các thành phần đồng loại+ biểu hiện bằng tổ hợp phân tích tính + biểu hiện bằng tổ hợp cú pháp:-biểu hiện bằng tổ hợp thành ngữ tính-biểu hiện bằng các đơn vị cú pháp phụ thuộc (câu phụ các kết cấu cú pháp

khai triển)Muốn kiểm tra thành phần câu có thể tiến hành bằng cách đặt câu hỏi ngữ

nghĩa - lôgic (ai ? cái gi ? như thế nào ? ở đâu ? bao giờ ? của cái gi ? mục đích gi ? do đâu ?...) kết hợp với cơ cấu nội tại của mỗi khúc đoạn (tức là đơn vị) được chiếm ở vị trí nào đó trong chuỗi phát ngôn.

4. Phạm trù kết cấu ngữ pháp của từ

a) Kết cấu là một tổ chức cú pháp bao gồm các dơn vị ngôn ngữ dược sắp xếp theo quan hệ trực tiếp trong lời nói. Kết cấu cũng có thể được hiểu là một tổ hợp từ hoặc nhóm từ có mối liên hệ trực tiếp. Chẳng hạn Tôi mua cuốn sách mới. ta có các kết cấu: tôi mua, mua sách và cả câu là một kết cấu [3].

Hoặc:Em nhắm mắt cho lòng anh lặng gió Cho sao trời yên rụng một dêm hoaThì các kết cấu câu sẽ là:Ở đây ta có các tầng liên hệ trực tiếp. Không thể có các kiểu: lòng anh - gió,

em - lặng gió, lòng anh - mắt, sao trời - đêm hoa, v.v... Cũng như vậy, không thể có tôi - sách, mua – mới.

b) Kết cấu phải có hai vế và liên hệ trực tiếp. Hai yếu tố chỉ có thể tạo thành kết cấu khi chúng có khả năng kết hợp với nhau. Mỗi khả năng kết hợp của một từ nào đó với một từ khác theo kiểu liên hệ nhất định sẽ tạo cho từ ấy một ngữ trị. Hãy lấy động từ chữa bệnh làm ví dụ. Với từ này, nếu có chủ thể (người) hành động thì nó thể hiện ngữ trị 1, nếu có đối tượng tiếp nhận (người) thì thể hiện ngữ trị 2, nếu có đối tượng trực tiếp (bệnh sốt) thì thể hiện ngữ trị 3, nếu có thêm phương tiện (thuốc gì) thì có ngữ trị 4 và nếu có thêm địa điểm (tại đâu) thì có ngữ trị 5. Như vậy từ này có 5 ngữ trị.

c) Kết cấu cú pháp tham gia tạo thành sườn cấu trúc câu và phát ngôn. Câu và phát ngôn là những đơn vị ngôn ngữ có hai mặt: ý nghĩa và phương tiện biểu hiện ý nghĩa. Song ý nghĩa ở cú pháp bao gồm hai khía cạnh: ý nghĩa thông báo và ý nghĩa ngữ pháp. Hình thức biểu hiện cũng bao gồm hai khía cạnh: khuôn hình cấu tạo và các đơn vị từ, tổ hợp từ, kết cấu lắp đầy các vị trí. Ở đây, do đã đề cập đến câu và phát ngôn nên cũng cần phải nói sơ qua về hai khái niệm này.

d) Câu là đơn vị thông báo nhỏ nhất của giao tiếp ngôn ngữ. Câu không chỉ nói về đối tượng, hiện tượng mà còn thông báo về một thông tin cần được hiện thực hóa bằng hành vi giao tiếp. Ý nghĩa ngữ pháp của nó được biểu hiện bằng các phương tiện ngữ pháp khác nhau: từ, nhóm từ, kết cấu cùng với ngữ điệu kết thúc và mang dấu chỉ về tình thái, về vị tính và chỉnh thể nội dung thông tin dưới các dạng, các lối cách khác nhau ở trong những điều kiện, những bối cảnh giao tiếp nhất định. Ví dụ:

- Nắng lên. Hồ Gươm xanh. (các câu đơn)- Gió. Mưa. Não nùng. (các câu đơn)- Tất nhiên! Cút! (các câu đơn)- Tài thật! Tài thật! Tài đến thế là cùng!Tiên sư anh Tào Tháo(các câu đơn)

- Khi chúng tôi đến nơi chỉ còn một dúm xương và rất nhiều bản thảo chẳng biết bán cho ai, anh Hoàng vẫn phong lưu".

(Nam Cao. Đôi mắt)(câu phức)

- Ở nơi ấy có một đồi mua tím Có con dường đất mịn mát chân đi.Ở nơi ấy có một rừng bưởi chín Có người em bé nhỏ ngóng ta về.(Đoạn thơ gồm 2 câu liên hợp vị ngữ)Câu có các kiểu được phân loại theo những nguyên tắc khác nhau: a) Theo tổ

chức, ta có câu đơn và câu ghép, b) Theo mục đích phát ngôn ta có câu tường thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh, câu cảm thản, c) Theo ngữ nghĩa - cú pháp cũng có thể phân thành câu ngắn, câu dài. Chi tiết về các cách phân loại câu tiếng Việt xin xem ở chương cuối cùng của cuốn sách này.

e) Phát ngôn là lời nói ra. Nó là cơ sở nhỏ nhất của văn bản. Câu là đơn vị hiện thực của phát ngôn. Phát ngôn ứng với câu và lớn hơn câu. Nói đến phát ngôn là nói đến các hành vi nói. Một phát ngôn có nhiều hành vi nói trong mối liên kết của bối cảnh, ngữ cảnh giao tiếp, ví dụ 1:

A nói: - Chào anh. Anh đi đâu đấy?B đáp: - Cảm ơn(1). Tôi khỏe(2). Còn anh(3)?Phát ngôn của A có hai hành vi nói (1) và (2)Phát ngôn của B có ba hành vi nói (1), (2), (3)Và các hành vi trên đây tạo nên các kiểu câu khác nhau.g) Phạm trừ kết cáu ngữ pháp có liên quan đến vấn đề hệ hình trong cú phápLâu nay người ta thường chú ý đến các kiểu câu một cách biệt lập mà ít quan

tâm đến mối liên hệ lẫn nhau của chúng, nhất là chưa chú ý đúng mức đến các quan hệ hằng thể và biến thể của câu.

Nghiên cứu quan hệ hệ hình cú pháp thực chất là nghiên cứu quan hệ giữa các kiểu cấu trúc câu và quy tắc sản sinh từ các câu này đến các câu khác.

Ví dụ 1: - Anh đi. (câu miêu tả)- Anh đi? Anh đi không ? (câu hỏi)- Anh đi !(câu mệnh lệnh)Ví dụ 2: - Nó giống cha.- Cha nó giống nó. - Hai cha con nó giống nhau.Ví dụ 3: - Công nhân làm việc ở mỏ - Công nhân mỏ.Ví dụ 4: - Em được tôi yêu.- Em yêu ! (đầu bức thư)Ví dụ 5: - Tôi có thể (không có thể, không )làm được việc này- Tôi làm hài tập này:

- Tôi có thề (không có thể, không) làm bài tập nàyVí dụ 6: - Cô ấy là bạn thân của tôi.- Người bạn thân của tôi chính là cô ấy.- Tôi coi cô ấy là bạn thân của tôi.Ví dụ 7: - Thầy khen nó giỏi.- Thầy khen nó là giỏi.- Nó được thầy khen giỏi.Ví dụ 8: - Em đã chiếm dược sự tin yêu của tôi.- Tôi tin yêu em - Em không

phản đối tôi.- Em đồng tình với tôi.Ví dụ 9: - Ngu dốt làm con người nghèo khổ mà thôi - Con người nghèo khổ chi

vì ngu dốt mà thôi.(khẳng định)Các ví dụ trên là những phép biến đổi đơn giản nhất của quan hệ hệ hình.Mỗi kiểu cấu trúc câu thường tham gia vào một dãy các đối lập và do vậy

chính nó cũng là một vế của một vài hệ hình. Ví dụ, ta có kiểu: Công nhân xây dựng nhà. Câu này tạo thành hệ hình các kiểu câu tường thuật, câu hỏi, câu mệnh lệnh, song, mặt khác, chính câu đó cũng tạo thành vế đối lập của câu bị động. Nhà này được (do) công nhân xây dựng hoặc Nhà này dược xây dựng bởi công nhân. (câu này không thuần Việt nhưng về ngữ pháp thì vẫn cho phép). Do đó miêu tả các quan hệ phải chú ý cả bên trong của hệ hình và giữa các hệ hình với nhau.

Giữa các vế của hệ hình cú pháp có quan hệ phái sinh (cũng tương tự như các quan hệ cấu tạo từ và biến hóa từ). Quan hệ phái sinh này giữa các câu cho ta câu phái sinh từ một câu gốc. Nhờ từ vựng và nhờ cú pháp mà ta phân biệt được câu phái sinh với câu gốc. Ví dụ: Chị tôi cắt cỏ.— Chị tôi cắt cỏ bằng liềm; Hiền may vá áo quần- Hiền thợ may.

Các quy tắc phái sinh cú pháp thường dùng là: Cấu tạo câu ghép từ câu đơn (theo cách gộp), cải biên câu ghép thành nhóm từ (theo cách rút gọn), ví dụ: Tôi biết rằng cô ấy đã ra đi rồi. Tôi biết việc ra đi của cô ấy. Ngoài ra còn phải kể đến quy tắc đồng nghĩa nữa. Theo quy tắc này, cấu trúc cú pháp thay đổi, nghĩa của câu vẫn giữ nguyên, ví dụ:

(1) Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo.(2) Giá băng tràn mọi nẻo, em sợ lắm.(3) Em sợ quá trước giá băng tràn mọi nẻo.(4) Giá băng tràn mọi nẻo làm em sợ lắm.(5) Cái băng giá đẩy em vào sợ sệt.Các câu. (1), (2) thay đổi không phải từ vựng mà là cú pháp. Các câu (3), (4),

(5) thay đổi cả từ vựng và cả cấu trúc cú pháp. Mặc dù có biến đổi nhưng tất cả các

câu đều giữ lại ý nghĩa chính. Đây cũng là cách chọn lựa các biến thể câu, là lao động nghệ thuật ngôn từ, nhất là đối với thi ca.

Các quy tắc trên đây có giá trị thực tiễn trong sáng tác văn học nghệ thuật, học ngoại ngữ và dạy ngữ văn ở trường phổ thông.

Trên đây là 4 loại phạm trù chính của ngữ pháp. Khi đi vào nghiên cứu tiếng Việt còn cần phải tìm hiểu thêm một phạm trù nữa, đó là phạm trù từ vựng - ngữ pháp.

5) Phạm trù từ vựng – ngữ phápMặc dù phạm trù này ít được các sách ngôn ngữ học thế giới quan tâm đúng

mức) nhưng nó lại được nhắc đến khá nhiều trong ngữ pháp tiếng Việt; Phạm trù từ vựng - ngữ pháp gắn liền với việc phân chia kho từ vựng của ngôn ngữ ra thành từng lớp, từng loại bởi vì một khối lượng lớn các từ trong ngôn ngữ thường không thuần nhất về mặt ngữ pháp. Thường thường người ta phân chia các từ căn cứ vào những dấu hiệu hoàn toàn hình thức, chẳng hạn chia động từ tiếng Pháp thành nhóm có đuôi - ir, nhđm có đuôi - er, chia tính từ tiếng Việt thành nhóm đơn âm, nhóm đa âm... Ngoài cách chia này còn một cách chia đáng chú ý hơn là chia vừa dựa vào đặc điểm hoạt động ngữ pháp của từ vừa dựa vào ý nghĩa khái quát của từ. ví dụ, chia vốn từ ra thành các từ thực và từ hư, các từ thực lại chia nhỏ thành danh từ, động từ, tính từ, v.v... Rồi động từ lại phân tiếp thành nội động từ/ ngoại động từ v.v... Cách chia này cũng gọi là từ vựng - ngữ pháp.

Nhưng phạm trù từ vựng - ngữ pháp tách riêng ra ở mục này khác ở mấy khía cạnh:

- Ở trên là dựa vào sự đối lập giữa các dạng trong từ, ở đây dựa vào thế đối lập giữa các tập hợp từ khác nhau trong kho từ vựng.

Ý nghĩa ngữ pháp nói đến trong cách phân chia trên là gồm ý nghĩa không thường trực vì mỗi ý nghĩa gắn với một dạng thức nhất định còn ở đây là ý nghĩa có tính thường trực: ý nghĩa hành động đi theo động từ, ý nghĩa trạng thái đi theo phó từ, và kèm với động từ, ý nghĩa nội động đi theo tiểu loại nội động từ v.v... Có thể hình dung khái quát như sau:

Vật thể Quá trinhTrừu tượng Danh từ Động từ

Cụ thể Tính từ Phó từ

(Nhờ tính từ kết hợp mà danh từ được xác lập, nhờ phó từ kết hợp mà động từ được thể cách hóa)

Hoạt động ngữ pháp của tập hợp từ này khác với tập hợp từ khác thể hiện ở chỗ:

(a) Chúng được cấu tạo như thế nào và chúng có khả năng biến dạng ra sao khi đặt chúng vào câu nói.

(b) Chúng có khả năng tham gia như thế nào vào các kết cấu chính phụ và kết cấu chủ vị.

Nếu có (a) là đặc điểm hình thái thì có (b) - là đặc điểm cú pháp.Các ngôn ngữ Nga, Anh, Pháp, Đức dựa vào cả ý nghĩa cú pháp và hình thái

nhưng coi trọng hình thái vì các ngôn ngữ này giàu hình thái, giàu kỉ thuật cấu tạo theo kiểu hòa kết, khuất chiết. Trái lại, tiếng Việt, tiếng Hán và các ngôn ngữ Đông Nam Á khác phải chú ý đến ý nghĩa khái quát và đặc điểm cú pháp vì ở các ngôn ngữ này từ không biến hình, biến dạng. Do nghèo về hình thái, tiếng Việt, tiếng Hán có kĩ thuật cấu tạo khác: cấu tạo theo kiểu niêm kết, với những cách ghép máy móc.

- Ăn đũa. = Ăn bằng đũa.khác Người hề ăn dũa.- Tình yêu mẹ khác Tình yêu của mẹ- Một điều đau khổ (+) nhưng không thể nói Một đau (-)Trong các ngôn ngữ, phạm trù từ vựng - ngữ pháp cũng có hiện tượng xê dịch,

không như nhau: ở tiếng Pháp, tiếng Anh có mạo từ: le, la, les, a, the, an, ... trong tiếng Việt lại có loại từ: con, cái, chiếc, tám ... Cùng là tính từ nhưng tính từ của tiếng Nga gần danh từ còn của tiếng Việt thì lại gần với động từ, v.v...

Chương XXI TỪ LOẠII. CƠ SỞ DÙNG PHÂN ĐỊNH TỪ LOẠINghiên cứu về từ loại là nghiên cứu các lớp từ của ngôn ngữ xét theo các đặc

trưng ngữ pháp của chúng. Để phân định các lớp từ (các từ loại) trong tiếng Việt, người ta thường lấy những tiêu chuẩn sau đây làm cơ sở (đây cũng là những đặc trưng ngữ pháp của từ ở mặt từ loại).

- Ý nghĩa khái quát (còn gọi là ý nghĩa phạm trù chung).- Khả năng kết hợp.- Chức vụ cú pháp của từ trong câu (còn gọi là thành phần câu).Cách hiểu và cách vận dụng các tiêu chuẩn này ở các nhà nghiên cứu có thể

không hoàn toàn giống nhau. Sau đây là một cách hiểu rộng về các tiêu chuẩn này.1) Ý nghĩa khái quát của từ là thứ ý nghĩa chung cho cả một lớp từ; ở tiếng

Việt, thứ ý nghĩa này không có dấu hiệu âm thanh biểu hiện ngay trong từ, nó chỉ tiềm ẩn trong từ và bộc lộ ra khi từ được kết hợp với từ khác. Nói rộng ra (kể cả các ngôn ngữ có biến hình từ) ý nghĩa khái quát là thứ ý nghĩa đi kèm với từ. Chẳng hạn, ý nghĩa chỉ vật của từ bàn sẽ bộc lộ khi nó được kết hợp với ấy ở sau: bàn ấy, ý nghĩa chỉ hành động của từ bàn khác sẽ bộc lộ khi nó kết hợp với hãy (ở trước): hãy bàn (việc ấy).

Sau đây là nội dung các ý nghĩa khái quát chính của các lớp từ Việt: ý nghĩa chỉ vật, ý nghĩa hành động, ý nghĩa trạng thái, ý nghĩa tính chất, ý nghĩa số lượng, ý nghĩa quan hệ, ý nghĩa tình thái. Ngoài ra, các chức năng sau đây cũng có tác dụng cho sự phân định từ loại như ý nghĩa khái quát ở một số lớp con từ chuyên dụng với những chức năng này: chức năng thay thế, chức năng nhấn mạnh, chức năng biểu thị cảm xúc.

2) Khả năng kết hợp là cái thể tiềm ẩn của mỗi từ trong việc kết hợp với từ khác để tự bộc lộ bản tính của mình. Không phải mọi cách kết hợp có thực của từ với từ đều là dấu hiệu của sự bộc lộ khả năng có tác dụng phân loại từ nói ở đây. Chỉ những cách kết hợp nào làm bộc lộ bản tính từ loại của từ, tức đặc trưng ngữ pháp của chúng, mới có tác dụng định loại chúng.

Từ trước đến nay, để xác định từ loại người ta sử dụng 2 cách xét khả năng kết hợp sau đây:

- Dùng từ chứng (từ làm chứng)- Dùng cụm từ chính phụ.Hai cách vừa nêu chỉ có tác dụng định loại một số hữu hạn (tuy là đa số) trong

vốn từ Việt. Muốn định loại toàn bộ vốn từ Việt phải mở rộng khả năng kết hợp đến bậc câu đơn (xét nó ở dạng hoạt động đầy đủ nhất, không chỉ bó hẹp ở nòng cốt câu trừu tượng "chủ ngữ - vị ngữ").(Xem mục tiếp theo: Các từ loại tiếng Việt)

3) Chức vụ cú pháp của từ trong câu là cái vị trí của từ trong mối liên hệ ngữ pháp với từ (hay cụm từ) khác trong câu. Có thể gọi chức vụ cú pháp của từ trong câu là "thành phần câu", nhưng cần nhắc rằng thuật ngữ "thành phần câu" vốn chỉ dành cho một số từ nhất định trong câu, tức là hiểu có hạn chế, không mở rộng ra cho tất cả các từ có nhiệm vụ cú pháp trong câu. Thuật ngữ thành phần câu dùng ở đây sẽ rộng hơn, nó được hiểu là chức vụ cú pháp của từ ở bậc câu.

Với việc định loại các từ cần nhớ rằng các từ thực thường có thể đảm nhiệm vài ba chức vụ cú pháp trong câu.

Mặt khác, việc định loại các từ có thể được thực hiện ở bậc khái quát cao hơn; phân biệt từ thực với từ hư.

Sự phân biệt từ thực với từ hư căn cứ vào cách phản ánh đối tượng xem xét vào vỏ âm thanh của từ.

Ý nghĩa của từ là sự phản ánh thuộc tính của đối tượng hiện thực hay đối tượng trừu tượng do tư duy đề ra vào vỏ âm thanh của từ thông qua chủ thể tư duy là con người xã hội. Sự phản ánh làm thành ý nghĩa của từ trong phần lớn trường hợp, diễn ra bằng một trong 2 cách sau đây: gọi tên (hay là định danh) và biểu thị kèm (kèm theo từ khác).

Từ thực là từ gọi tên đối tượng hiện thực hay đối tượng trừu tượng, bao gồm vật, hành động, trạng thái, tính chất, số lượng, quan hệ; ví dụ: mèo, tư tưởng, ma, quá khứ, chạy, suy luận, ngủ, đẹp, mười, nguyên nhân...

Từ hư là từ biểu thị quan hệ theo lối đi kèm theo các từ khác; ví dụ: đang (chỉ hiện tại - quan hệ thời gian), vì (chỉ quan hệ nguyên nhân), ư (chỉ ý nghi vấn - quan hệ của nội dung câu noi với mục đích nói)...

Thán từ cũng là từ hư bởi tính chất "ngôn ngữ" ở nó quá thấp. Đó là những từ biểu thị trực tiếp (không phải gọi tên) các trạng thái tâm - sinh lí. Nếu hiểu ý nghĩa là sự phản ánh thì sự phản ánh ở thán từ là sự phản ánh trực tiếp, không có nội dung. Thán từ gần gũi với tiếng kêu, tiếng than của động vật. Không phải vô cớ mà có những thán từ khá giống nhau tồn tại trong nhiều ngôn ngữ khác nhau.

II. CÁC TỪ LOẠI CỦA TIẾNG VIỆTChúng ta hiểu phân định từ loại là xếp tất cả các từ của một ngôn ngữ thành

những lớp, những nhóm căn cứ vào đặc trưng ngữ pháp của chúng. Theo đó vốn từ tiếng Việt có thể xếp vào 10 loại sau đây: danh từ, động từ, tính từ, số từ, đại từ, phụ từ, kết từ, trợ từ (nhấn mạnh), tình thái từ và thán từ.

Dưới đây chúng ta sẽ xét chúng ở mặt ý nghĩa khái quát, khả năng kết hợp và khả năng giữ chức vụ ngữ pháp trong câu.

Trên kia chúng ta đã nhắc đến 3 phạm vi được dùng để xét khả năng kết hợp trong việc phân định từ loại tiếng Việt. Về phương diện này 10 từ loại vừa nêu được xác định như trong bảng tổng hợp sau đây (dấu + và dấu - chỉ việc có thể và không thể xác định từ loại được ở phạm vi đó)

Sau đây chúng ta sẽ xem xét 3 từ loại lớn là danh từ, động từ và tính từ.1) Danh từDanh từ có ý nghĩa khái quát chỉ vật (hiểu rộng, bao gồm cả người, động vật,

thực vật, đồ vật, các chất, những khái niệm trừu tượng về vật tương đương với những thứ vừa kể) có thể đứng trước các từ ấy, nọ... và thường giữ vai trò chủ ngữ hoặc bổ ngữ trong câu.

Danh từ được phân chia bước đầu thành 2 lớp nhỏ là danh từ riêng và danh từ chung.

Danh từ riêng là tên gọi dùng chỉ cá thể vật như tên người (Nguyễn Văn Việt), tên đất (Hà Nội, Đông Nai, Buôn Ma Thuột), tên núi sông (Trường Sơn, Mê Công) v.v...

Danh từ chung là tên gọi của cả một lớp vật đổng tính xét theo một tiêu chuẩn đã chọn. Danh từ chung lại có thể tiếp tục chia thành nhiều nhóm theo những tiêu chuẩn khác nhau có tính đến đặc trưng ngữ pháp cụ thể hơn của chúng. Sau đây là vài ví dụ.

Căn cứ vào tính chất tổng hợp trong nội dung ý nghĩa của danh từ có thể tách ra những danh từ tổng hợp. Danh từ tổng hợp là những danh từ ghép gồm 2 (ít khi hơn 2) từ tố phân biệt nghĩa hoặc gần nghĩa gộp lại để chỉ vật kèm theo tính chất tổng hợp. Chẳng hạn quần áo, binh lính, bếp núc, máy móc. Phân biệt với danh từ tổng hợp là danh từ không tổng hợp (tất cả danh từ không mang ý nghĩa ấy).

Căn cứ vào hình thể của vật có thể chia danh từ chung thành:- Danh từ vật thể, chỉ người, động vật, thực vật, đồ vật.- Danh từ chất thể, chỉ vật xét ở chất thể của chúng: thể rắn như đất, đá, sắt,

muối; thể lỏng như nước, dầu...; thể hơi như hơi, khói...- Danh từ tượng thể, chỉ các vật thể tưởng tượng, các khái niệm chỉ vật trừu

tượng như ma, tiên...; tư tưởng, đạo đức, thói, nết...- Danh từ tập thể, chỉ các tập hợp vật thường là đồng chất được hình dung

thành một khối rời như đàn, bày, lũ, bọn... Có những động từ chỉ hành động được chuyển sang dùng như danh từ tập thể, cụ thể là nấm, mớ, vốc, bó, ôm...

Căn cứ vào khả năng kết hợp trực tiếp sau số từ (2, 3, 4, 10)... có thể chia danh từ chung thành các nhóm danh từ không đếm dược, danh từ đếm được.

- Danh từ không đếm được gồm có danh từ tổng hợp, danh từ chất thể. Ví dụ:- quần áo, thuốc men, xe cộ, máy móc...- muối, dầu, khói...- Danh từ đếm được gồm 2 nhóm nhỏ: danh từ đếm được tuyệt đối và danh từ

đếm được không tuyệt đối.Danh từ đếm được tuyệt đối có thể đứng sau số từ vô điều kiện, cụ thể là:+ Danh từ chỉ loại như: cái, con, cây, người, tấm, bức, tờ, sợi, cục, hòn, hạt,

giọt, làn...4- Danh từ chỉ đơn vị đại lượng như: mẫu, sào, thước, mét, mét vuông, lít,

kilôgam, tấn...; sải (dây), gang, nắm...+ Danh từ chỉ đơn vị hành chính, nghề nghiệp như: nước, tỉnh, xã, ban, hệ,

lớp, ngành, nghề, môn...+ Danh từ chỉ đơn vị thời gian như: năm, tháng, tuần, giờ, vụ, mùa, tuổi...+ Danh từ chỉ lần như: lần, lượt, phen, chuyến, trận...+ Danh từ chỉ đơn vị không gian như: chỗ, nơi, chốn, xứ, miền, khoảnh, phía,

bên...+ Danh từ chỉ màu sắc, mùi vị, âm thanh như: màu, sắc, mùi vị, tiếng, âm,

giọng...+ Danh từ chỉ khái niệm trừu tượng như: trí tuệ, tài năng, tu tưởng, khả năng,

thói, tật, nết...

+ Danh từ tập thể như: bọn, tụi, dàn, bộ...bó, nắm, vốc... (những danh từ gốc động từ này đồng thời cũng là danh từ đơn vị quy ước dân gian).

4- Danh từ phức (gồm 2 âm tiết trở lên) không tổng hợp chỉ người và vật như: học sinh, bác sĩ, xe đạp, bánh xe...

Danh từ đếm được không tuyệt đối chỉ có thể đứng trực tiếp sau số từ trong một số trường hợp như khi liệt kê, ví dụ: trong lòng có 3 gà, 4 vịt; khi tổ hợp số từ và danh từ làm vị ngữ hoặc định ngữ, ví dụ: Nó thích đồng hồ ba kim; Con hổ này ba chân. Đây là những danh từ vật thể ngoài những nhóm con liệt kê trên kia, và trong trường hợp đếm bình thường chúng thường phải đứng sau danh từ chỉ loại, ví dụ: một (hai, ba) ... con gà; một (hai, ba) cái chăn; một, (hai, ba) cây tre.

2) Động từĐộng từ có ý nghĩa khái quát chỉ hành động (hiểu rộng, bao gồm các hoạt

động vật lí - tâm lí - sinh lí), có thể đứng sau từ hãy và thường giữ chức vụ vị ngữ trong câu.

Trong lớp động từ có thể tách ra những lớp con sau đây căn cứ vào ý nghĩa và đặc trưng ngữ pháp:

a) Động từ chỉ trạng thái tâm lí, có đặc điểm là một mặt kết hợp được với hãy, mặt khác lại kết hợp được với rất. Ví dụ:

- yêu, nể, kính trọng, chán, ghét, ủ ê, mong , muốn , hiểu…b) Động từ tình thái, chỉ sự cần thiết, khả năng, bản thân chúng đã mang ý

nghĩa mệnh lệnh nên không kết hợp dễ dàng với hãy, nhưng dễ kết hợp với rất. Ví dụ:

- cần, nên, phải… có thể…c) Động từ chri trạng thái thụ động, ví dụ:- bị, được, mắc, phải , chịu…d) Động từ chỉ các trạng thái khác, ví dụ:- có, còn, hết, thôi, mất, xuất hiện…- ngủ, thức, mê, tỉnh, quên…- đứng, ngồi, nằm, quỳ…- vỡ, gãy, sứt, lành…d) Động từ chỉ hành động, chỉ hoạt động tinh thần và hoạt động vật lí, ví dụ:- đào hầm, đào đất, đào khoai, đào mả…Động từ nội động có nội dung ý nghĩa chỉ hoạt động không tác dụng lên đối

tượng mà tập trung ở chủ thể hành động. Ví dụ:- ngủ, nằm, đi, tỉnh, xuất hiện…3) Tính từ.

Tính từ có ý nghĩa khái quát chỉ tính chất, có thể đứng sau từ rất và thường làm vị ngữ hay định ngữ trong câu.

Tính từ thường được chia ra thành 2 lớp con: tính từ tính chất và tính từ quan hệ. Tính từ tính chất xuất hiện sau rất, quá hoặc trước lắm, quá. Ví dụ: xa, đẹp, đỏ, sạch , giỏi, cao, khô…

Tính từ quan hệ có khả năng kết hợp như tính từ tính chất, duy thay vì raát còn dùng được rặt ( không phải rặt những!). Ví dụ:

- tập quán rặt Việt Nam; giọng rặt Sài Gòn; tính tình rặt đàn bà; cử chỉ rặt côn đồ…

4) Chú thích về các từ loại khác- Số từ có tính chất của từ hư do chúng thường xuất hiện ở cùng một vị trí với

các quán từ những, các, một. Mấy từ này giữ vai trò thành tố phụ trước của đoản ngữ danh từ. Mặt khác số từ lại có tính chất thực từ vì đó là tên gọi các số đếm cụ thể và có thể giữ vai trò chủ ngữ hay bổ ngữ trong câu như dang từ. Vậy số từ thiên về phía thực từ nhiều hơn.

- Đại từ bao gồm nhiều nhóm, cự thể là đại từ nhân xưng, đại từ thay thế (thế, vậy), đại từ chỉ định, đại từ chỉ lượng (tất cả, cả). Trong đó đại từ nhân xưng có tính chất của từ thực nhiều hơn, đại từ chỉ định có tính chất từ hư nhiều nhất (nó được coi là chứng tố của danh từ). Tính chất hư chung của lớp đại từ là ở chức năng thay thế ( so sánh ý nghĩa của từ nguyên nhân với kết từ vì).

- Phụ từ là những từ chuyên làm thành tố phụ cho danh từ ( những, các, một, mọi, mỗi, từng…) và làm thành tố phụ cho vị từ (vẫn, cứ, vừa, đã, rồi…). Một số phụ từ vó thể dùng một mình làm câu trả lời.

- Kết từ là những từ dùng để chỉ quan hệ bình đẳng, quan hệ chính phụ và làm nhiệm vụ liên kết 2 từ hay 2 bộ phân từ ngữ với nhau. Ví dụ: và, còn, mà, thì, vì, nên, nếu, tuy, mặc dù,…

- Trợ từ nhất mạnh khôgnc ó mặt trong cấu tạo của nhóm từ, chúng thường chỉ xuất hiện ở bạc câu, ví dụ: cả, chính, đúng, đích thị, chỉ, những (5 vé)…

- Từ tình thái chỉ xuất hiện ở bậc câu để đánh dấu câu theo mục đích nói ( câu nghi vấn, câu mệnh lệnh, câu cảm thán, câu tường thuật), ví dụ, à, ư, nhỉ, nhé, hở, nghen...; hoặc biểu hiện nhận xét, thái độ của người nói đối với nội dung câu nói hoặc đối với người nghe, ví dụ: hình như, có lẽ, tất nhiên, ạ, đấy, đây...

- Thán từ dùng biểu thị cảm xúc và có quan hệ trực tiếp với cảm xúc chứ không có nội dung ý nghĩa rõ rệt. vì vậy nó có tính chất của từ hư (ở đây có nghĩa là ít có tính chất "ngôn ngữ” của loài người, gần với tiếng kêu biểu lộ cảm xúc của loài vật). Thán từ có thể tự mình làm thành câu, hoặc giữ vai trò thành phần phụ của câu, biến câu thành câu cảm thán, ví dụ:

- Ôi !- Ôi ! Tổ quốc giang sơn hùng vĩ...

(Tố Hữu)

Chương XXII ĐOẢN NGỮ

I. NHỮNG NHẬN XÉT KHÁI QUÁTCác từ trong chuỗi lời nói không phải là một chuỗi kế tiếp giản đơn mà có

những quan hệ nhất định với nhau. Mỗi từ không phải cùng một lúc có liên hệ với tất cả các từ trong câu mà trực tiếp liên hệ với một từ độc lập nào đó. Một nhóm những từ có liên hệ trực tiếp với nhau ở trong câu gọi là tổ hợp từ. Xét theo mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành tổ hợp từ, người ta phân biệt tổ hợp từ có quan hệ chủ vị, tổ hợp từ có quan hệ bình đẳng (còn gọi là liên hợp) và tổ hợp từ có quan hệ chính phụ. Loại tổ hợp từ thứ ba này được gọi là đoản ngữ.

So với các loại khác, đoản ngữ có vai trò quan trọng đặc biệt về mặt ngữ pháp: phân tích đoàn ngữ giúp chúng ta xác định được từ loại và tiểu loại của thành tố chính, và phân xuất được các lớp con thành tố phụ hoạt động với tư cách những bộ phận mang những chức vụ cú pháp khác nhau. Ngoài ra nắm được cách tổ chức đoản ngữ cũng tức là nắm được cách triển khai câu bằng con đường mở rộng các bộ phận của nó hoặc rút gọn, mô hình hóa câu để cho việc phân tích câu, hiểu câu được dễ dàng.

Tổ chức chung của đoản ngữ có ba phần: phần trung tâm, phần phụ trước và phần phụ sau.

Đoản ngữ được gọi tên theo từ loại của thành tố chính. Tiếng Việt cổ những kiểu đoản ngữ sau đây:

- Đoản ngữ danh từ : những con mèo đen ấy- Đoản ngữ động từ : đã đón xe được rồi- Đoản ngữ tính từ : đã cũ nhiêu ròi- Đoản ngữ số từ: gần 30, xấp xỉ 100, 50 hơn- Đoản ngữ đại từ: ba chúng tôiBa loại đoản ngữ danh từ, động từ và tính từ vừa phong phú vừa đa dạng.

Đoản ngữ động từ và đoản ngữ tính từ, nhìn chung, có nhiều điểm giống nhau. Với những nhận xét vừa nêu và do dung lượng sách có hạn, sau đây chúng tôi chỉ bàn sâu hơn ở đoản ngữ danh từ và đoản ngữ động từ.

II. ĐOẢN NGỮ DANH TỪ (DANH NGỮ)Danh ngữ là đoản ngữ có danh từ làm thành tố chính. Các thành tố phụ trong

danh ngữ chiếm giữ những vị trí khá ổn định trong lược đồ sau đây:

Tất cả những cái con mèo đen ấyvị trí -3 vị trí -2 vị trí -1 thành tố chính vị trí 1 vị trí 2

1) Thành tố chính của danh ngữTại phần trung tâm của danh ngữ chúng ta có thể gặp mấy kiểu thành tố

chính sau đây:- Thành tố chính là danh từ hay dạng ghép gồm một danh từ chỉ loại và một

danh từ, ví dụ: mèo, con mèo- Thành tố chính trong kiến trúc "danh từ chỉ loại + tổ hợp từ tự do miêu tả".Khi có một danh từ chỉ loại kết hợp với một "tổ hợp từ tự do miêu tả" dùng

miêu tả một sự vật ứng với một tình huống cụ thể thì danh từ chỉ loại là thành tố chính, còn tổ hợp từ miêu tả là thành tố phụ sau (vị trí 1). Ví dụ:

- hai người dang ngòi dọc sách dằng kia; những việc nói hôm nọ.- Thành tố chính là từ đại diện:Khi có một từ khác loại với danh từ đại diện cho danh từ vắng mặt đứng ở

phần trung tâm (do cách nói thành công thức hoặc do thđi quen) thì từ đại diện sẽ được coi là thành tố chính hiển hiện của nhóm, và đây vẫn là nhóm danh từ. Ví dụ:

- ba sôi, hai lạnh (— ba phần nước sôi, hai phần nước lạnh), hai đen (hai cốc cà phê den).

2) Thành tố phụ trước của danh ngữa - Vị trí - 1Từ cái ở vị trí - 1 có tác dụng chỉ xuất sự vật nêu ở thành tố chính, tức là

dường như tách sự vật ra để nhấn mạnh (nêu bật sự vật). Ngoài từ cái, cũng có khi gặp từ chỉ loại khác dùng làm từ chỉ xuất. Chẳng hạn:

... thì con người ấy ai cầu làm chi(Nguyễn Du)Từ cái chỉ xuất có thể xuất hiện trước danh từ chất thể (là những danh từ

không trực tiếp đứng sau số từ được), ví dụ:- cái thép này (thế mà tốt); cái đất nay; cái vải này. . ,Khi có từ chỉ xuất thì sau danh từ - thành tố chính thường có kèm định ngữ (x.

các ví dụ trên). Cách dùng không cố định ngữ kèm theo sau danh từ - thành tố chính chỉ gặp trong cách "nói lửng" ở khẩu ngữ, ví dụ:

- cái thằng...; cái con bé; cái anh...b - Vị trí - 2Ở vị trí - 2 là những lớp con từ sau đây:- Từ chỉ số lượng xác định hay là số từ: một, hai, ba, bốn, mười, hai trăm...- Từ chỉ số phỏng định: vài, vài ba, dăm, mươi...

- Từ hàm ý phân phối: mỗi, mọi, từng...- Quán từ: những, các, một , . .- Từ máySau đây là một số điều cần lưu ý liên quan đến việc sử dụng các từ ở vị trí -2:- Khi đã có từ chỉ xuất cái ở vị trí - 1 thì tại vị trí - 2 khó xuất hiện những từ

hàm ý phân phối mỗi, từng, mọi và quán từ các. Ví dụ không nói:- mỗi cái con mèo; các cái con mèo . - <- Số từ thường không đứng liền trước danh từ tổng hợp, trừ những danh từ

tổng hợp chỉ người thân thuộc, ví dụ:- hai vợ chồng; bốn anh chị em. . .Không nói:- bốn xe cộ; mười quần áo . . .- Danh từ tổng hợp nói chung, muốn xuất hiện sau số từ phải đứng sau danh

từ tập thể hay danh từ chỉ đơn vị đại lượng. Ví dụ:- hai bộ quần áo; năm dàn trâu bò; hai toa thuốc men- Các từ chỉ số phỏng định và từ những, từ mấy có thể đứng trước danh từ

tổng hợp khi có từ chỉ loại xen giữa, ví dụ:- dăm cái quần áo; những cái nồi niêu; mấy con gà vịt.- Từ những, từ các, từ mọi và những từ chỉ số từ phỏng định lớn có thể đứng

liền trước danh từ tổng hợp. ví dụ: những thợ thuyền; các tướng tá; mọi xe cộ; vài trăm binh lính...

c- Vị trí - 3Vị trí - 3 là vị trí các từ chỉ tổng lượng tất cả, hết thảy, tát thảy, hết cả, cả

(toàn bộ). Nhìn chung, những từ này có thể đứng liền trước những lớp con từ sau đây:

- Số từ, ở vị trí - 2: một (sau cả), hai, ba, bốn, mười...- Danh từ tập thể (khồng cần có từ ở vị trí - 2): dàn, lũ, bộ, bó, nắm...- Danh từ tập thể (không cần có từ ở vị trí - 2): quần, áo, binh, lính, xe cộ, mấy

móc...- Kiểu diễn đạt theo lối tổng hợp nhiều sự vật, một tập hợp sự vật, với số lượng

xác định trong những hoàn cảnh nhất định, ví dụ: những con gà Vông này; gà lòng này ỉ một con gà và ba con vịt…

Cần lưu ý mấy điểm sau đây:- Ý nghĩa tổng lượng có 2 khía cạnh khác nhau: toàn bộ nhiều vật rồi gộp lại

(= số nhiều), toàn bộ khối đơn vị rời nguyên vẹn (= số đơn). Các từ chỉ tổng lượng nêu trên không phải tất cả đều dùng được với cả hai khía cạnh ý nghĩa này.

- Các tiếng hết, cả, tất, thảy đứng riêng là những từ rời có nghĩa và nghĩa của chúng có phần gần nhau. Do đó khi chúng kết hợp lại thành từ ghép thì sự khác biệt giữa các từ ghép này rất khó nắm bắt. Hơn nữa sự khác biệt có khi gắn liền với chức vụ cú pháp của tổ hợp từ chứa chúng trong câu. Chẳng hạn ở vị trí bổ ngữ và trước từ mọi thì có thể dùng tất cả, hết thảy, tất thảy, hết cả, cả và thậm chí hết tất cả, hết tất thảy. Ví dụ có thể thay vào câu sau đây những từ vừa dẫn:

- Anh ta làm tất cả mọi việc.Thế nhưng nếu ở vị trí chủ ngữ thì tổ hợp từ làm chủ ngữ chỉ chấp nhận 3 từ

chỉ tổng lượng đầu.- Từ tất cả có thể xuất hiện trước hoặc sau danh từ - thành tố chính. Hai vị trí

này của tất cả có thể có khía cạnh ý nghĩa khác biệt sau đây: tất cả đứng trước (không hàm chứa là sau tất cả) chỉ "tổng lượng không có phần dư", tất cả đứng sau chỉ "tổng lượng có thể có phẩn dư". So sánh:

- tất cả 5 người (đều) đã có mặt (không còn ai nữa)- có mặt 5 người tất cả (có thể còn nữa)Trong cách dùng này tất cả có thể xuất hiện sau cả động từ như là một bộ

phận chỉ cách thức, ví dụ:- 5 người có mặt tất cả3) Thành tố phụ sau của danh ngữ- Vị trí 1Vị trí 1 là vị trí của những thực từ nêu đặc trưng của vật biểu thị bằng danh từ

ở vị trí trung tâm. Số lượng thực từ có mặt đồng thời để nêu những đặc trưng khác nhau tại vị trí này là không hạn chế, tuy nhiên thường gặp từ một đến ba. Về mặt từ loại, tại vị trí này có thể xuất hiện tất cả các loại từ thực, về cấu tạo, có thể là một từ hoặc một tổ hợp từ, kể cả tổ hợp từ chủ - vị, và ở vị trí này cũng có thể gặp ngữ cố định. Ví dụ:

- phòng tạp chí, phòng đọc, phòng hẹp, phòng mười bốn, phòng ngoài, chuyến trước, phòng (của) chúng tôi...

- sách báo trong nước và nước ngoài, cửa hàng sách báo ngoại văn, sách báo thư viện đặt mua...

- cuộc đời ba chìm bảy nổi...Khi ở vị trí này có vài ba thành tố xuất hiện đồng thời thì xu thế chung của trật

tự giữa chúng là:- Thành tố phụ nêu đặc trưng thường xuyên hơn sẽ đứng trước, ví dụ: chiếc áo

túi hộp / đẹp.- Thành tố phụ là danh từ hay vị từ đứng trước, đến thành tố số từ và cuối

cùng thành tố từ chỉ vị trí, ví dụ: đường tránh /số 4/ ở giữa.

- Thành tố phụ có dung lượng nhỏ thường đứng trước thành tố phụ có dung lượng lớn hoặc các thành tố có chứa kết từ. ví dụ: vấn đề cấp bách /số 1/ về sản xuất hàng tiêu dùng.

Những xu thế chung vừa nêu dễ bị vi phạm khi có yếu tố ngữ điệu (chỗ ngừng, điểm nhấn) tham gia vào câu.

b- Vị trí 2Vị trí 2 chuyên dùng cho các từ chỉ định ấy, nọ, kia, nay, đấy, đó như là dấu

hiệu đường biên giới cuối của danh ngữ (trừ trường hợp có thành tố chứa kết từ của thuộc vị trí 1, so sánh: việc ấy/ của anh và việc / của anh/ ấy). Với tư cách này các từ chỉ định ở vị trí 2 thường giúp vạch đường ranh giới giữa các thành phần câu, so sánh:

bài thơ hay - tổ hợp từ (danh ngữ)bài thơ này/hay - câu có chủ ngữ, vị ngữ rõ rệtII. ĐOẢN NGỮ ĐỘNG TỪ (ĐỘNG NGỮ)Động ngữ là nhóm từ chính phụ có động từ làm thành tố chính. Các thành tố

phụ trong động ngữ không thật ổn định đến mức như các thành tố phụ ở danh ngữ. Một cách tương đối có thể nêu nhận xét: phần lớn các thành tố phụ - từ hư phân bố về phía trước thành tố chính, phía sau nó thường gặp nhiều thành tố từ thực hơn, nhưng về cả 2 phía chưa nêu được những vị trí xác định như ở danh ngữ.

1. Thành tố chính của động ngữViệc xác định thành tố chính của động ngữ không phải là một việc giản đơn, ở

đây cũng tồn tại không ít vấn đề.- Các kiểu thành tố chính thường gặp ở động ngữ là:- một động từ, ví dụ: dang đọc tờ báo- một chuỗi động từ (không có thành tố phụ riêng), ví dụ: đã đi học rồi- một kiến trúc đặc biệt có ý nghĩa “khứ hồi”, ví dụ: vừa đi Nam Định về hôm

qua.- một thành ngữ, ví dụ: cứ chỉ tay năm ngón hoàiKhi gặp một chuỗi động từ - từ thực (ở đây tạm gác tiểu loại động từ tình thái)

thì việc xác định động từ nào chính, động từ nào phụ là việc không dễ dàng. Chúng ta sẽ xác định thành tố chính theo những quy ước sau đây (chỉ đề cập chuỗi 2 động từ - từ thực).

- Chuỗi động từ không có thành tố phụ riêng của từng động từ trong đó sẽ được coi là "dạng ghép" và không cần phân tích, ví dụ: đã đi ngủ rồi; đã đi học rồi; đã đi săn rồi; đang nằm ngủ ngoài sân. . .

- Chuỗi động từ có một hoặc cả hai động từ có thành tố phụ riêng thì động từ thứ nhất là thành tố chính, ví dụ: đã đi học ngoại ngữ; đã đi Đức học rồi, đã đi Buôn

Ma Thuột săn voi rồi; đang nằm ngoài sân ngủ (kìa); đang ngồi học bài ngoài sân; đang ngồi ngoài sân học bài...

- Chuỗi động từ có động từ thứ hai chỉ cách thức hệ quả của hoạt động nêu ở động từ thứ nhất thì động từ thứ nhất là thành tố chính (nhất là khi 2 động từ thuộc về 2 chủ thể khác nhau), ví dụ: ăn đứng, bò nghiêng, bắn quỳ, đập vỡ, bẻ gẫy, đánh chết…

2. Thành tố phụ trước của động ngữNhững từ hừ làm thành tố phụ trước có thể chia thành những lớp con với

những ý nghĩa khái quát như sau:- Những từ chỉ sự tiếp diễn tương tự: dầu, củng, vẫn, cứ, mãi, còn...- Những từ chỉ quan hệ thời gian; từng, dã, vừa, mới, dang, sẽ...- Những từ chỉ mức độ: rất, hơi, khí, quá,…- Những từ nêu ý khẳng định hay phủ định: có, không, chưa, chẳng. . .- Những từ nêu ý mệnh lệnh, khuyên nhủ: hãy, dừng, chớ...- Những từ chỉ tần số (số lần): thường, hay, năng, ít, hiếm (những từ này có

nhiều tính chất của từ loại tính từ như có thể đứng sau rất).Ngoài ra, cũng gặp tại vị trí ngay trước động từ (sau những từ thuộc mấy lớp

con kể trên) một số từ thực chỉ cách thức của hoạt động nêu ở động từ - thành tố chính. Chúng gồm 2 kiểu sau đây:

- Những từ phỏng thanh tượng hình và một số tính từ, ví dụ: ào ào chảy; lác đác rơi, khẽ kêu, ôn tồn đáp; nhẹ nhàng khuyên bảo; chóng phai; lâu mòn; tích cực làm việc; căn bản hoàn thành.

- Kiến trúc gồm một kết từ và một danh từ (tức là một "giới ngữ") chỉ điểm xuất phát; kiến trúc này thường đứng trước động từ chỉ hướng (ra, vào, lên, xuống...), ví dụ: từ quê ra, ở Bắc vô, dưới biển lên, ở trong Nam ra, trên Thái xuống…

3. Thành tố phụ sau của động ngữNhững thành tố phụ sau của động ngữ cũng phân được thành 2 loại: những từ

thực với tư cách là bổ ngữ hoặc trạng ngữ (của từ) và những từ phụ với những chức vụ cú pháp khác nhau.

a- Các từ thực có thể có mặt sau động từ - thành tố chính có 2 loại: loại do nội dung ỹ nghĩa từ vựng của động từ đòi hỏi và loại do hoàn cảnh khách quan quy định (hoàn cảnh không gian, thời gian, phương tiện, cách thức, không do nội dung từ vựng của động từ đòi hỏi). Loại từ thực thứ nhất được gọi là bổ ngữ (gồm có bổ ngữ trực tiếp và bổ ngữ gián tiếp), ví dụ:

- Mẹ đã mua sách cho Hải Đăng đấy. (sách là bổ ngữ trực tiếp; Hải Đăng là bổ ngữ gián tiếp)

Loại từ thực thứ hai là trạng ngữ của từ (hoặc bổ ngữ hoàn cảnh của từ), ví dụ:- Việt Anh đang làm bài trong nhà. (nhà là trạng ngữ của từ làm)b- Các phụ từ làm thành tố phụ sau của động ngữ gồm những lớp con sau đây:- Lớp từ chỉ ý kết thúc, gồm các từ xong, rồi,đã. Ví dụ: đọc xong, ốm rồi, nghỉ

đã (rồi hãy làm).Chú thích: từ xong chỉ sự hoàn thành, từ rồi chủ yếu chỉ ý kết thúc giai đoạn

mở đầu (tức là chỉ ý "đã bắt đầu") từ dã chỉ ý kết thúc trong tương lai.- Lớp từ chỉ ý mệnh lệnh trong quan hệ thân mật suồng sã, gồm các từ đi, nào,

thôi. Ví dụ: đọc đi; đứng lại nào; nghỉ tay thôi...- Lớp từ chỉ kết quả, gồm các từ được, mất, phải. Ví dụ: đọc được (tiếng Phấp);

rơi mất (cây bút); xéo phải (chân người khác).- Từ chỉ ý tự lực, ý "cho chính mình": lấy. Ví dụ tự: đóng (vở) lấy; (Vỡ lòng) học

lấy (những nghề nghiệp hay)...- Từ chỉ ý cùng chung: với, cũng. Ví dụ: Chàng đi thiếp cũng đi cùng; Cho nó

chơi với !- Từ chỉ ý qua lại (tương hỗ): nhau. Ví dụ: yêu nhau, xin nhớ lời nhau; gửi thư

cho nhau...- Lớp từ chỉ hướng hư hóa: ra, vào, tới, lui, qua lại... ví dụ: bàn vào, nói ra, bàn

lui, nhìn qua, làm lại (có ý lập)…Có thể kể vào đây từ cho chỉ hướng tâm lí, ví dụ: tôi đọc cho; người ta cười

cho…- Lớp từ chỉ mức độ, gồm các từ lắm, quá... ví dụ : thương quá; nghĩ ngợi quá;

nể lắm; hiểu lắm...- Lớp từ chỉ cách thức, gồm các từ ngay, liên, tức khắc, tức thì, dần, dần dần,

từ từ, nữa, hoài, luôn, mãi... ví dụ: đi ngay; ốm liền; giảm dần; học nữa; học mãi.Vị trí các thành tố phụ thuộc sau của động ngữ không thật ổn định, chỉ có thể

nêu nhận xét chung nhất sau đây: liền sau động từ thường có thể là các từ phụ chỉ cách thức, tiếp theo là các từ thực, cuối cùng là những từ phụ thuộc các lớp con khác.

Chương XXIII CÂUI. MỞ ĐẦU1. Về việc định nghĩa câuTrong một định nghĩa câu về mặt ngữ pháp hiện nay, cần tính đến các mặt

sau đây:- Câu là đơn vị của ngôn ngữ hay của lời nói ?- Mặt hình thức,- Mặt nội dung,

- Mặt chức năng.Chúng ta hiểu câu là đơn vị của ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và

bên ngoài) tự lập và có ngữ điệu kết thúc, mang một tư tưởng tương đối trọn vẹn có kèm thái độ của người nói hoặc chỉ biểu thị thái độ của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt tư tưởng, tình cảm với tư cách là đơn vị thông báo nhỏ nhất.

2. Về việc phân loại câuVới những căn cứ khác nhau, câu được phân loại thành những kiểu khác nhau.

Hiện nay có 3 căn cứ phân loại câu sau đây:2.1- Phân loại theo mục đích nói thì có 4 kiểu là: câu tường thuật (câu kể), câu

nghi vấn (câu hỏi), câu mệnh lệnh (câu cầu khiến), câu cảm thán (câu cảm).Câu tường thuật thường được dùng để xác nhận, kể lại, mô tả sự vật với các

đặc trưng nào đó hoặc một sự kiện với các chi tiết nào đó.Câu nghi vấn được dùng để nêu lên điều chưa biết hoặc còn hoài nghi và chờ

đợi sự trả lời, giải thích.Câu mệnh lệnh có mục đích bày tỏ ý muốn bắt buộc hoặc nhờ người nghe

thực hiện lệnh nêu lên trong câu.Câu cảm thán được dùng khi cẩn thể hiện riêng một mức độ nhất định của

những tình cảm khác nhau hoặc thái độ của người nói.2.2- Căn cứ vào mối quan hệ với hiện thực (hoặc điều tưởng tượng của tư duy)

sẽ có 2 kiểu câu là: câu khẳng định và câu phủ định.Câu khẳng định xác nhận sự có mặt của sự vật, sự kiện..., hay đặc trưng của

chúng.Câu phủ định xác nhận sự vắng mặt của sự vật, sự kiện..., hay đặc trưng của

chúng.Chú thích chung:a/ Hai nhóm kiểu câu nêu trên không tách rời nhau trong từng câu cụ thể, xét

ở mặt hình thức cấu tạo. Nói cách khác ta có cùng một lúc chẳng hạn câu nghi vấn khẳng định hoặc câu nghi vấn phủ định v.v...

b/ Trong hai nhóm kiểu câu nêu trên trong tiếng Việt, ở mỗi kiểu câu đều có dấu hiệu hình thức cấu tạo riêng, vì vậy sự phân loại chúng có căn cứ chung là căn cứ ngữ nghĩa - ngữ pháp.

2.3- Phân loại cầu theo cấu tạo cho ta 2 kiểu lớn là câu đơn và câu ghép. Mỗi kiểu lại có những kiểu nhỏ với đặc trưng cấu tạo riêng của mình. Sau đây là bức tranh phân loại chung.

Câu:+Câu đơn (CĐ):

-CĐ Hai thành phần-CĐ đặc biệt-(Câu dưới bậc)+(Câu có nhóm chủ vị làm thành phần)+Câu ghép:- CG Đẳng lập- CG Chính phụ- CG Qua lại - CG Chuỗi- CG LồngTrên đây là lược đồ các kiểu câu phân loại theo cấu tạo ngữ pháp (xem mỗi

kiểu ở từng mục tương ứng).Phần tiếp theo sẽ nêu khái quát về những kiểu câu này.II. CÂU ĐƠN (A): CÂU ĐƠN 2 THÀNH PHẦN1. Xác định phạm vi đối tượng nghiên cứuCâu đơn 2 thành phần là câu được làm thành từ một nhóm từ chủ ngữ - vị ngữ

tự lập (hiểu là không bị bao hàm trong một kiến trúc khác lớn hơn), Chủ ngữ và vị ngữ được coi là 2 thành phần chính của câu, chúng làm thành nòng cốt của kiểu câu này.

Trong hoạt động của mình, câu đơn 2 thành phần đầy đủ có thể có dạng tối thiểu và dạng tối đa.

Ví dụ về dạng tối thiểu:Chim hót.Ví dụ về dạng tối đa:Vì vậy, hôm ấy - đúng vào ngày cuối năm – mấy người thợ mới đã gửi cho ông

thư kí nhà máy một bức thư bằng đường bưu điện đấy.Ở ví dụ đầu chim là chủ ngữ, hót là vị ngữ; ở ví dụ thứ hai mấy người thợ mới

là chủ ngữ, đã gửi cho ông thư kí nhà máy một bức thư bằng đường bưu điện là vị ngữ.

Ngoài 2 thành phần làm nòng cốt câu, ở ví dụ thứ hai ta còn thấy có:- Trạng ngữ (của câu): hôm ấy- Phụ ngữ của câu: đấyCùng với nòng cốt, trạng ngữ câu và phụ ngữ câu làm thành khung của câu,

cái giới hạn ngoài cùng của câu.(1) Chúng tôi tạm dừng ở đây tên gọi thành phần câu và cách gọi thành phần

trong câu có kèm yếu tố ngữ (chủ ngữ, vị ngữ...). Tuy nhiên, quan niệm về thành phần câu của chúng tôi rộng rãi hơn, đó là nhũng thành tố tạo câu.

Ở ví dụ thứ hai ta còn thấy có những bộ phận nằm ngoài khung câu, đó là- Giải ngữ: đúng vào ngày cuối năm- Liên ngữ: vì vậyGiải ngữ là thành phần tách biệt, không có quan hệ ngữ pháp (hoặc có rất mờ

nhạt), chỉ có quan hệ ngữ nghĩa với toàn câu hoặc với một từ nào đó trong câu; tuy nhiên, nó vẫn luôn luôn hướng về bên trong câu, nó là thành phần nằm ngoài khung câu, nhưng là thành phần nội hướng, Liên ngữ là thành phần tách biệt và không cần cho câu chứa nó, nó chủ yếu làm nhiệm vụ nối câu chứa nó với câu khác. Đôi khi nội dung liên ngữ có hướng vào bên trong câu, tuy nhiên tính chất hướng ra bên ngoài câu vẫn luôn luôn là chủ yếu; nó là thành phần ngoại hướng.

Chủ ngữ, vị ngữ, trạng ngữ câu, phụ ngữ câu là những thành phần trong khung câu. Khi chúng là những cụm từ chính phụ, hoặc có từ khác đi kèm, có thể phân xuất được những thành phần câu khác nữa. Đó là:

- Bổ ngữ (trực tiếp và gián tiếp): một bức thư, (cho) ông thư kí nhà mấy- Trạng ngữ (của) từ: (bằng) đường bưu diện- Định ngữ: ấy, mấy, mới, nhà máy, một, bưu điện- Phụ ngữ của từ: đãNhư vậy bộ thành phần câu bao gồm những thành tố tạo câu thuộc những bậc

khái quát cao, thấp khác nhau; thể hiện các bước hiện thực hóa câu trong hoạt động. Trong bộ thành phần câu có những thành tố cần thiết cho câu, làm thành nòng cốt câu; có những thành tố bổ sung với tư cách những bộ phận tạo nên tính chất đầy đủ cho câu thích ứng với trường hợp sử dụng, cùng với nòng cốt những thành tố này cho thấy giới hạn bên ngoài của câu, tức khung câu; cũng có những thành tố là những bộ phận nằm ngoài khung câu như là những yếu tố dư thừa đối với cấu tạo ngữ pháp cần và đủ của câu rồi, nhưng là những yếu tố có thật và xuất hiện khá đều đặn khi câu hoạt động trong tình huống cụ thể hay tổ chức ngôn ngữ lớn hơn chính nó.

2. Bổ ngữ, chủ ngữ và quan hệ chủ - vịXét động từ bên ngoài câu, người ta nhận thấy rằng các yếu tố do nó chi phối

là bình đẳng với nhau: chủ thể, khách thể, đối thể gián tiếp, yếu tố chỉ phương tiện, cách thức dùng thực hiện hành động. Ví dụ:

+"hành động viết":-"người viết" -"vật được viết ra"-"người nhận" -"đồ dùng để viết"

Tuy vậy, trong khi dùng vào câu nói, một trong số các yếu tố do động từ chi phối đó thường được chọn làm vật cần đưa ra làm chủ đề của câu nói, yếu tố đó là "yếu tố được giải thích". Còn động từ chỉ hành động tự mình hoặc cùng với yếu tố khác làm thành bộ phận giải thích hoặc, để cho thống nhất, cũng được gọi là "yếu tố giải thích". Ví dụ trong các câu dưới đây yếu tố được nhấn mạnh là "yếu tố được giải thích":

(a) Hải Đăng viết thư cho Việt Anh bằng bút bi.(b) Thư này viết cho Việt Anh.(c) Bút này viết rõ lắm.(d) Giấy này viết thư.Trái lại, những yếu tố khác còn lại không được chọn, lại có tác dụng giải thích

cho động từ. Và trong trường hợp này động từ trở thành yếu tố được giải thích của chúng. Đố là các yếu tố: thư, Việt Anh, bút bi ở (a), Việt Anh ở (b), rõ lắm ở (c), thư ở (d). Vậy là, vào trong câu các yếu tố do động từ chi phối có những cương vị khác nhau. Yếu tố được chọn làm yếu tố được giải thích có cương vị chủ ngữ của câu, và sẽ được vị ngữ giải thích cho. Trong lúc đó các yếu tố khác còn lại lại có nhiệm vụ giải thích cho động từ, vì vậy chúng là những bổ ngữ hoặc trạng ngữ của động từ. Đó là chỗ chủ ngữ khác với các bổ ngữ.

Quan hệ giữa yếu tố được giải thích và yếu tố giải thích là một kiểu quan hệ hạn định (như động từ với bổ ngữ). Nhưng quan hệ giữa chủ ngữ với vị ngữ lại có nét riêng của nó. Vốn là yếu tố do động từ chi phối, nhưng khi được chọn làm chủ đề của câu, chủ ngữ chi phối trở lại động từ. Chẳng hạn nếu cho ta động từ hót thì tự nó gợi lên yếu tố chim. Nhưng khi chim xuất hiện như đối tượng cần nói đến thì nó lại quy định sự xuất hiện của hót vì hót là năng lực của chim, vì vậy chủ ngữ và vị ngữ trở thành 2 thành phần quy định lẫn nhau, chúng được coi là 2 thành phần chính của câu.

Nét đặc thù làm cho quan hệ chủ - vị khác với các kiểu quan hệ giữa yếu tố được giải thích và yếu tố giải thích khác là ở chỗ chủ ngữ vừa chỉ ra cái đối tượng mà câu nói đề cập đến lại vừa hàm chứa hoặc có thể chấp nhận (tức là quy định) cái đặc trưng (quan hệ, tính chất, trạng thái, hành động) sẽ được nói lên trong vị ngữ và thường có trật tự chủ ngữ trước, vị ngữ sau (trong tiếng Việt). Nói cách khác giữa chủ ngữ với vị ngữ vừa có quan hệ giữa yếu tố được giải thích với yếu tố giải thích, lại vừa có yếu tố nghĩa lặp.

Tóm lại, chủ ngữ giống bổ ngữ ở chỗ có yếu tố nghĩa lập, nhưng khác với bổ ngữ ở chỗ nó được chọn làm đối tượng mà câu nói đề cập đến. Mặt khác chủ ngữ giống đề ngữ (ví dụ: Sách này tôi đọc rồi) ở chỗ cả 2 đều là đối tượng mà câu nói đề

cập, nhưng giữa đề ngữ với yếu tố ngôn ngữ tiếp liền sau no không cần có yếu tố nghĩa lặp (ở đây là giữa sách này với tôi)

3. Các kiểu cơ bản của câu đơn 2 thành phầnMột cách khái quát, câu đơn 2 thành phần chia thành 2 kiểu: câu có từ không

độc lập chỉ quan hệ làm thành tố chính ở vị ngữ và câu có vị từ (tính từ và động từ) làm vị ngữ.

3.1. Câu có từ không độc lập chỉ quan hệ làm thành tố chính ở vị ngữ- Vị ngữ chỉ quan hệ đồng nhất, ví dụ:Người này là thợ mộc.- Vị ngữ chỉ quan hệ với vật liệu, ví dụ:Cái ấm này bằng nhôm.1) Quan hệ của phần đề với phần thuyết (hay phần nêu với phần báo) chỉ lấy

tính chất được giải thích và giải thích làm cơ sở, chưa có nội dung cụ thể, vậy nó bao hàm được cả kiến trúc chủ - vị, cả kiến trúc gồm để ngữ (như một thứ thành phần phụ của câu - khởi ngữ) với phần câu còn lại (thường là một nòng cốt câu), lẫn một số kiểu câu ghép có cơ sỏ là các phép kéo theo logic.

- Vị ngữ chỉ nguyên nhân, ví dụ:Việc này tại đồng chí X.- Vị ngữ chỉ mục đích, ví dụ:Cái bàn này để ăn cơm.- Vị ngữ chỉ quan hệ sở thuộc, ví dụ:Hàng này của xí nghiệp chúng tôi.- Vị ngữ chỉ quan hệ so sánh (tương đương), ví dụ:Dân như nước mình như cá.(Hồ Chủ tịch)3.2. Câu có vị từ làm vị ngữ a/ Câu có tính từ làm vị ngữ, ví dụ:Nhà bạn Nam rất gần.Nhà bạn Nam rất gần trường học.b/ Câu có động từ làm vị ngữ gồm 2 kiểu nhỏ: câu có vị ngữ là động từ nội

động và câu có vị ngữ là động từ ngoại động, ví dụ:Bạn Hải Đăng đang ngủ. (Động từ nội động)Bạn Hải Đăng đang học bài. (Động từ ngoại động)Trong kiểu nhỏ thứ hai đáng lưu ý là những động từ thường đòi hỏi 2 bổ ngữ,

ví dụ:Bạn Nam tặng bạn Việt Anh một quyển sách.Bạn Nam mượn của bạn Việt Anh một quyển sách.

Bạn Nam pha cà phê với sữaCũng trong kiểu nhỏ câu có động từ làm vị ngữ người ta thường tách ra kiểu

câu "gây khiến" như một dạng riêng biệt. Thuộc về kiểu câu gây khiến có 3 kiểu con sau đây:

- Câu chỉ hệ quả, ví dụ:Bão đổ cây.Bão làm đổ cây.- Câu khiên động - ("bắt làm"), ví dụ:Thầy giáo gọi em Nam đọc bài.- Câu đánh giá, thừa nhận, ví dụ:Tôi coi anh ấy là bạn.Họ bầu ông ta làm đại biểu.Ở đây, trừ ví dụ đầu, trong các ví dụ sau ta có một bổ ngữ (hay trạng ngữ) chỉ

hệ quả (đổ) hoặc bổ ngữ nội dung (nội dung điều sai khiến, điều đánh giá, thừa nhận; đó là: đọc bài, là bạn, làm đại biểu).

Chú thích: Ngoài 2 kiểu lớn (câu có từ không độc lập chỉ quan hệ và câu có vị từ ở vị ngữ) trong tiếng Việt còn có kiểu câu mà vị ngữ là danh từ hay cụm danh từ, ví dụ:

Anh ấy người Việt Nam.Căn hộ này 60 mét vuông.Con cá này 2 kilôgam.Xe này 10 bánh.III. CÂU ĐƠN (B): CÂU ĐƠN ĐẶC BIỆT1. Xác định. Câu đơn đặc biệt là một kiến trúc kín tự thân, chỉ chứa một trung

tâm cú pháp chính (có thể có thêm thành phần phụ của câu), không chứa hay không hàm ẩn một trung tâm cú pháp thứ hai có quan hệ qua lại như chủ ngữ với vị ngữ.

Câu đơn đặc biệt có thể được làm thành từ một từ hay một tổ hợp từ chính phụ, hoặc tổ hợp từ bình đẳng. Ví dụ:

- Bom tạ.(Nguyễn Đình Thi)- Một thứ im lặng ghê người.(Nam Cao)- Một chút thẹn thùng. Một chút lòng thương.(Nam Cao)- Năm hôm, - mười hôm... Rồi nửa- tháng, lại một tháng.(Nguyễn Công Hoan)

- Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch.(Nguyễn Công Hoan)- Nhơ nháp, hôi hám, ngứa ngáy, bứt rứt, bực mình. Chửi tục, càu nhàu, thở

dài.(Nam Cao)Câu đơn đặc biệt cũng có thể có thành phần phụ của cam kết kèm (trạng ngữ

hoặc đề ngữ, đó không phải là chủ ngữ !)- Chốc lại cốc một tiếng, boong một tiếng.(Nguyễn Đình Thi)- Ở làng này, khó lắm.(Nam Cao)- Cơm, toàn một thứ gạo cuống rơm đã bốc hơi.(Nam Cao)- Vịt, còn hai con.- Quân địch chết hai sĩ quan.Ở 3 câu cuối cùng phần được nhấn mạnh là đề ngữ.2. Phân loại câu đặc biệtCâu đặc biệt thường được phân loại theo bản tính từ loại của từ làm thành tố

chính của trung tâm cú pháp chính. Theo đó ta có câu đặc biệt danh từ và câu đặc biệt vị từ.

Ví dụ về câu đặc biệt danh từ:- Bom tạ.(Nguyễn Đình Thi)- Nhà bà Hòa.(Học Phi)- 30-7-50.- Chân đèo Mã Phục.(Nam Cao)- Hồi ấy, mỗi ngày một lá thư. Có ngày đến hai lá.(Nam Cao)Ví dụ về câu đặc biệt vị từ:- Ồn ào một hồi lâu.(Ngô Tất Tố)- Im lặng quá.(Nam Cao)- Ở bên kia lục sục.(Nam Cao)

- Cháy nhà !- Trong nhà có khách.- Trên bàn bày lọ hoa.3. Về ý nghĩa của câu đơn đặc biệt(Nam Cao)Nhìn chung câu đơn đặc biệt có ý nghĩa ngữ pháp khái quát là ý nghĩa tồn tại.

Nội dung "tồn tại" của ý nghĩa ngữ pháp này là một trong những đặc trưng làm cho câu đơn đặc biệt khác so với một bộ phận của câu bị tách ra thành một biến thể dưới bậc của câu (hay một ngữ trực thuộc). So sánh những câu đặc biệt danh từ nêu trên với phần nhấn mạnh là biến thể dưới bậc của câu trong ví dụ sau đây:

- Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ.(Phạm Hổ)Với nghĩa tồn tại, câu đơn đặc biệt bao gồm cả kiểu câu có khuôn hình chuyên

dụng là "giới ngữ chỉ vị trí + động từ chỉ trạng thái + danh từ", ví dụ:- Trên bàn bày hai lọ hoa.- Trên tường treo một bức tranh.- Trong phòng kê một bộ bàn ghế.Các động từ bày, treo, kê ở đây được dùng chỉ trạng thái tồn tại của vật, vì

vậy dễ dàng thay chúng bằng động từ có.Theo đó, những câu chỉ sự tiêu biến, sự xuất hiện có khuôn hình tương tự cũng

được coi là câu đơn đặc biệt. Ví dụ:- Ở đây hay mất xe dạp.- Từ trong bụi rậm vụt chạy ra hai con thỏ.- Bỗng xuất hiện hai người lạ mặt.(Câu có trạng ngữ thời gian có thể không cần giới ngữ đứng đầu do cách biểu

thị ý nghĩa thời gian này không đòi hỏi cách cấu tạo như vậy)Những danh từ chỉ chủ thể đứng cuối ở đây không có tư cách chủ ngữ vì chúng

không được chọn làm chủ đề của câu, làm yếu tố "được giải thích", trái lại chúng giữ cương vị yếu tố giải thích cho động từ đứng trước. Do đó, chúng là những bổ ngữ, cụ thể hơn, là những bổ ngữ - chủ thể.(l)

IV. CÂU GHÉP1. Xác dịnhCâu ghép là câu chứa hai nhóm từ chủ - vị trở lên, không bao hàm lẫn nhau,

liên hệ với nhau bằng những quan hệ ngữ pháp nhất định.Câu ghép, về thực chất, là câu đơn có thành phần được mở rộng thành nhóm

từ chủ - vị. Tuy nhiên chỉ quy ước coi là câu ghép khi hoặc trạng ngữ của câu, hoặc

đề ngữ của câu, hoặc giải ngữ của câu được mở rộng thành nhóm từ chủ - vị. Đối chiếu:

Câu đơn- Vì ốm, anh ấy nghỉ việc.- Cách sống giản dị của Hồ Chủ tịch chúng ta đã biết.Câu ghép- Vì anh ấy ốm, anh ấy nghỉ việc.- Lối ăn ở của Hồ Chủ tịch giản dị như thế nào, chúng ta đã từng biết.(Phạm Văn Đồng)(1) Do dung lượng sách, ở đây chúng tôi không trình bày phần câu dưới bậc.

Tuy nhiên, cũng cần nêu những điểm cơ bản sau đây:Câu dưới bậc là tên gọi tắt các biến thể dưới bậc của câu. Chúng có những đặc

trưng sau đây:a/ Không đầy dủ về cấu tạo ngữ pháp (xét từ trong ra).b/ Liên kết với câu lân cận hữu quan bằng quan hệ ngữ pháp thành phần câu

một cách hiển nhiên.c/ Có tác dụng bổ sung ý nghĩa cho câu lân cận hữu quan theo lối tách rời -

nhấn mạnh. Ví dụ về câu dưới bậc (phần dược nhấn mạnh):- Tôi nghĩ đến sức mạnh của thơ. Chức năng và vinh dự của thơ.(Phạm Hổ)Có ngưòi gọi câu dưới bậc là "ngữ trực thuộc" và không phân biệt nó với câu

đặc biệt.Những danh từ chỉ chủ thể đứngc uối ở đây không có tư cách chủ ngữ vì chúng

không được chọn làm chủ đề của câu, làm yếu tố “được giải thích”, trái lại chúng giữ cương vị yếu tố giả thích cho động từ đứng trước. Do đó, chúng là những bổ ngữ, cụ thể hơn, là những bổ ngữ - chủ thể.

IV. CÂU GHÉP1. Xác định Câu ghép là câu chứ hai nhóm từ chủ - vị trở lên, không bao hàm

lẫn nhau, liên hệ với nhau bằng những quan hệ ngữ pháp nhất định. Câu ghép, về thực chất, là câu đơn có thành phần được mở rộng thành nhó từ

chủ - vị. Tuy nhiên chỉ quy ước coi là câu ghép khi hoặc trạng ngữ của câu, hoặc đề ngữ của câu, hoặc giải ngữ của câu được mở rộng thành nhóm từ chủ - vị. Đối chiếu:

Câu đơn- Vì ốm, anh ấy nghỉ việc.- Cách sống giản dị của Hồ chủ tịch chúng ta đã biết- Rồi bà cười ha hả, cái cười ích kỷ, vơ vào.(Nguyễn Công Hoan)

Câu ghép- Vì anh ấy ốm, anh ấy nghỉ việc.- Lối ăn ở của Hồ Chủ tịch giản dị như thế nào, chúng ta đã từng biết(Phạm Văn Đồng).- Thế rồi bỗng một hôm – chắc rằng hai cậu bàn nhau mãi – hai cậu chợt nghỉ

kế rủ Oanh chung tiền mở cái trường (Nam Cao) Ngoài 3 thành phần vừa nêu, những thành phần khác của câu được mở rộng

thành nhóm từ chủ - vị, thì câu sẽ được gọi là câu mở rộng bàng nhóm từ chủ - vị (những biến thể của câu đơn), mà không gọi là câu ghép.

2. Phân loại câu ghépXét ở mặt ngữ pháp có thể chia câu ghép thành 4 loại chính:- Câu ghép đẳng lập, dùng kết từ bình đẳng,- Câu ghép chính phụ, dùng kết từ chính phụ,- Câu ghép qua lại, dùng cặp phụ từ liên kết,- Câu ghép chuỗi, không dùng kết từ và cặp phụ từ liên kết.Ngoài ra cũng gặp kiểu câu có giải ngữ là một nhóm từ chủ - vị làm thành

kiểu:- Câu ghép lồng.2.1. Câu ghép đẳng lập thường dùng các kết từ bình đẳng và, mà, còn..., ví

dụ:- Vợ anh không kêu, mà bà trùm cũng không giục rặn nữa.(Nguyễn Công Hoan)2.2. Câu ghép chính phụ thường dùng các cặp kết từ:- Vi (do, tại, giả sử)... cho nên chỉ nguyên nhân - hệ quả...- Nếu (hễ, giá mà, giả sử).., thì chỉ điều kiện/giả thiết - hệ quả.- Tuy (dừ, mặc dâu)... nhưng chỉ ý tăng tiến - nhượng bộ.Các ví dụ:- Vì tên Dậu là thân nhân của hắn, cho nên chúng con bắt phải nộp thay.(Ngô Tất Tố) - Nếu cụ chỉ cho một đồng, thì còn hơn một đồng nữa, chúng con không biết

chạy vào đâu được.(Ngô Tất Tố)Dù ai nói ngả nói nghiêng,Lòng ta vấn vững như kiềng ba chân(Tố Hữu)Chú thích:

a/ Các kết từ thứ hai trong từng cặp kết từ này có thể dễ dàng vắng mặt, nội dung ý nghĩa của các mối quan hệ giữa hai vế vẫn rõ.

b/ Khi cần đảo vế sau lên trước phải xóa các kết từ vốn có ở vế sau đó.c/ Kiểu câu ghép chỉ hệ quả - nguyên nhân dùng cặp kết từ sở dĩ... là vì không

thể thay đổi trật tự của 2 vế, ví dụ:Sở dĩ nó thi hỏng là vì nó học kém.2.3. Câu ghép qua lại thường dùng các cặp từ phụ hô ứng: không những

(chỉ) ... mà còn, có... mới, vừa...đã, chưa... đã, mới... đã, đã... lại, không... cũng, càng... càng, vừa... vừa, ví dụ:

- Em Nam không những thông minh mà em ấy còn rất chăm học nữa.- Có thực mới vực dược dạo.- Tiếng còi vừa dứt thì họ đã có mặt đông đủ.- Quả cây chưa chín trẻ con đã vặt sạch.- Nó đã bực mình anh lại còn trêu nó.- Nó không giúp, tôi cũng làm được.Chú thích:a/ Các vế trong kiểu câu ghép dùng cặp từ phụ hô ứng khó tách ra thành câu

riêng mà vẫn giữ được nội dung quan hệ qua lại. Tuy nhiên thảng hoặc vẫn gặp cách dùng tách vế câu thành câu riêng, nhất là đối với những câu dài, ví dụ:

- Cố nhiên không phải chi vì muốn tận tâm với hai cậu mà thôi. Còn vì lợi riêng của nó.

(Nam Cao)- Tôi vừa được nhìn thấy nhà thờ Phú Cam xưa nhất xứ Huế. Tôi lại vừa được

chiêm bái cụ có ông, một đấng trung thần.(Hữu Mai)b/ Câu ghép qua lại, về thực chất, phần lớn có nội dung quan hệ chính phụ,

một số có nội dung quan hệ bình đẳng. Cần nhớ rằng trong ngữ pháp chỉ có quan hệ chủ - vị, quan hệ chính phụ và quan hệ bình đẳng.

2.4. Câu ghép chuỗi là hiện tượng những nhóm từ chủ - vị có dạng câu đơn đứng nối tiếp nhau làm thành một câu ghép và không sử dụng hết các kết từ chuyên dụng hoặc các cặp từ phụ hô ứng để liên kết các vế với nhau (không tính sự có mặt của những phụ từ lẻ có tác dụng liên kết). Ví dụ:

- Cái thì thực dẹp, cái thì thực xấu, cái thì thực mới, cái thì thực cũ.(Nguyễn Công Hoan)- Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược.(tục ngữ)- Cô bực, cô bực quá !

(Nguyễn Công Hoan)Chú thích: Việc quy câu ghép chuỗi về kiểu câu ghép có quan hệ chính phụ

hay có quan hệ bình đẳng phải do ngữ cảnh hoặc hoàn cảnh quy định, không nên chỉ căn cứ vào ý nghĩa của các vế trong câu. Chẳng hạn câu Mây tan, mưa tạnh, không nhất thiết phải hiểu là có quan hệ chính phụ (so sánh với vì mây tan, nên mưa tạnh; Nếu mây tan thì mưa tạnh. Câu này vẫn có thể chứa quan hệ bình đẳng nếu người viết muốn nêu 2 sự việc "mây tan" và "mưa tạnh" (so sánh với câu Mây tan, mưa tạnh, trời lại trở nên quang đãng).

2.5. Câu ghép lồng là kiểu câu có chứa giải ngữ là một dạng câu-dạng câu đơn hoặc dạng câu ghép. Quan hệ giữa giải ngữ với phần câu còn lại chủ yếu là quan hệ ý nghĩa (giải thích, bổ sung, nêu thái độ, hoàn cảnh...) giữa chúng hoặc không có quan hệ ngữ pháp hoặc quan hệ đó rất mờ nhạt. Ví dụ (phần được nhấn mạnh là giải ngữ):

- Cô gái nhà bên (có ai ngờ)Cũng vào du kíchHôm gặp tôi vẫn cười khúc khíchMắt đen tròn (thương thương quá đi thôi)(Giang Nam)- Tiếng Việt Nam ta giàu lắm, phong phú lắm (đây là nói về làm văn, chứ còn

về các môn học khác: khoa học, kĩ thuật, kinh tế học, triết học, thì tiếng ta còn nghèo, phải dùng chữ nước ngoài, nhưng chỉ nên dùng danh từ mà tiếng ta không có. Chúng ta nên bỏ thói quen dùng chữ nước ngoài thay tiếng Việt Nam theo kiểu dùng chữ: "kiều lộ" thay chứ "cầu đường"; "cầu đường" là tiếng Việt Nam dễ nghe, dễ hiểu lại hay, vì sao không dùng? Ở dây có nhiều chuyện nói, nhưng chỉ ngoặc nói đôi câu...) .

(Phạm Văn Đồng)V. CÂU PHỦ ĐỊNHVề mặt ngữ pháp, khi bàn đến câu phủ định (cũng giống như đối với những

kiểu câu phân loại theo mục đích Nói) trước hết người ta để cập câu phủ định đích thực, tức là câu có hình thức phủ định thể hiện nội dung phủ định.

1. Các phương tiện chuyên dụng để tạo ý phủ địnhĐể tạo ý phủ định, tiếng Việt dùng các phụ từ không, chàng, chàng, chưa,

dừng, chớ; muốn tạo thêm các sắc thái nhấn mạnh có thể thêm từ hề để có không hề, chẳng hề, chưa hề, và để tạo ý phủ định bác bỏ có thể dùng các tổ hợp chứa từ phải, như không phải, chẳng phải, chưa phải hoặc dùng các khuôn không trực tiếp chứa từ mang ý nghĩa phủ định như (không), có sao đâu, nào có... đâu, đâu có (...), làm gì có (...), có phải... đâu, dầu (có) phải v.v...

2. Phân loại hiện tượng phủ định trong tiếng ViệtVề mặt ngữ pháp có thể phân loại hiện tượng phủ định trong tiếng Việt như

sau:2.1. Yếu tố phủ định làm thành câu đặc biệt.Yếu tố phủ định có thể tạo thành câu đặc biệt để dùng khi cần bác bỏ bằng

cách phủ định một sự kiện, một tình huống, một ý kiến. Trong trường hợp này nó không phải là dạng rút gọn của một câu hay một cụm từ tương ứng và nó cũng không phải là một bộ phận của một câu lân cận nào đó tách ra. Ví dụ:

Nó lắc đầu- Em không sợ. Em làm ra tiền mà ăn. Không đi ăn mày.Đức bảo nó:- Thì tội gì mà khổ thân. Cứ ở nhà này.- Không- Thế thì tôi đi với mợ.Nó sợ hãi:- Không.(Nam Cao)2.2. Câu có vị ngữ bị phủ dịnhTrong kiểu câu này, yếu tố phủ định đứng đầu bộ phận vị ngữ hoặc các khuôn

chuyên dụng tác dụng ý nghĩa lên bộ phận chính ở vị ngữ. Ví dụ:- Anh không tin ?(Nam Cao)- Em chả dám.(Nam Cao)- Tôi có biết chuyện đó đâu.- Anh ấy làm gì có ở nhà giờ này,- Tôi không phải nghi ngờ anh mà là chưa tiện nói.2.3. Câu có chủ ngữ bị phủ địnhThông thường ở đây có 2 kiểu cấu tạo bộ phận chủ ngữ:a/ không phải + danh từ (hay nhóm danh từ) [không phiếm định], ví dụ:,- Không phải ông giám đốc cho mời anh mà tôi mời anh đến có việc.- Chẳng phải người đó tòm bác mà người lúc nãy kia.b/ không + danh từ (hay nhóm danh từ) chứa yếu tố phiếm định , ví dụ:- Hắn không biết, cả làng Vũ Đại cũng không ai biết.(Nam Cao)- Chẳng có người nào làm như thế cả.- Không có gì quý hơn độc lập tự do.

(Hồ Chủ tịch)2.4. Câu có thành phần phụ phủ định nòng cốt câuThành phần phụ của câu ở đây không phải là trạng ngữ câu mà chỉ là một thứ

phụ ngữ câu. Ví dụ:- Không phải mẹ bảo con đến dây (mà là con đi học về ghé qua thôi).- Chẳng phải quyển sách này của tôi (mà là của bạn kia).Kiểu câu này khó phân biệt với kiểu câu có chủ ngữ và vị ngữ bị phủ định nếu

không tính đến ngữ điệu.Phụ ngữ phủ định cũng có thể đứng sau nòng cót câu, ví dụ:- Quyển sách này của tôi (?), đâu phải.Phụ ngữ cũng có thể là khuôn gián đoạn, ví dụ:- Chẳng có ai việc gì đâu. (Trả lời câu hỏi: Có ai việc gi không ?)2.5. Câu có thành phần phụ của từ và thành phần phụ của câu bị phủ định.Các ví dụ:- Anh đọc không rõ.- Họ đi chưa ra khỏi ngó thi gặp khách đến.- Sẽ không bao giờ chị được trở lại miền Bắc, trở lại quê hương.(Hữu Mai)2.6. Hiện tượng phủ định đặc biệt ở câu đặc biệtCác ví dụ:- Không có giường, chỉ có một cái chõng tre.(Nam Cao)- Làm gì có nhiều mật mà ngọt.(Nam Cao)- Trong nhà (chẳng) có người nào đâu.- Trên trời không một vì sao.- Không phải anh này.- Không phải không có giường. (Phụ ngữ phủ định)3. Phủ định miêu tả và phủ định bác bỏXét mặt dụng học, câu phủ định cũng được dùng trong nhiều hành vi ngôn

ngữ khác nhau như nhiều kiểu câu khác, chẳng hạn:- Hành vi miêu tả (Trên trời không một vì sao)- Hành vi bác bỏ (Không phải anh này.)- Hành vi giao tiếp đưa đẩy, như hỏi thay vì chào (Sáng mai không đi đâu

chứ ?).Hiện nay có sự chú ý phân biệt hành vi phủ định miêu tả với hành vi phủ định

bác bỏ. Câu phủ định miêu tả được hiểu là câu phủ định dùng trong hành vi miêu tả

sự vật, hiện tượng, sự kiện. Câu phủ định bác bỏ dùng trong đối đáp để cải chính, bác bỏ ý kiến, nhận định của người khác, hoặc dùng trong quá trỉnh suy nghĩ để tự bác bỏ ý kiến, điều cảm nghĩ của chính mình.

Tất cả các hiện tượng phủ định kể trên đều có thể dung làm câu phủ định bác bỏ. Riêng những kiểu có kèm theo từ phải và những khuôn phủ định không trực tiếp chứa từ phủ định và nhất là các khuôn chứa đại từ phiếm định, thường được dùng nhiều trong hành vi phủ định bác bỏ.

Dễ thấy là sự phân biệt hai kiểu câu phủ định này dựa nhiêu vào ngữ cảnh và tình huống dùng câu, chứ các dấu hiệu ngôn ngữ bên trong câu, nói chung, không có hiệu lực phân biệt chúng với nhau. Chẳng hạn với câu:

Không có gì quý hơn độc lập tự do. (Hổ Chủ tịch) nếu xét nó như một khẩu hiệu chính trị thì có thể coi đây là câu phủ định miêu tả, nếu đặt trong ngữ cảnh sự tranh luận, nó sẽ có thể là câu phủ định bác bỏ, nhưng nếu xét ở mặt ý nghĩa sâu xa như một chân lí thì nó lại là một điều khẳng định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH(Phần IV)1. Nguyễn Tài Cẩn. Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại. Nxb Khoa học xã

hội. H. 1975.2. Nguyễn Kim Thản. Động từ trong tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội. H. 1977.3. Kasevich. V. B. Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương. Nxb Khoa

học M.1977 (tiếng Nga).4. Kochergina. V.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học Tổng hợp Moskva,

1979 (tiếng Nga).5. Maslôv Jul. X. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học M. 1975.NHỮNG TÀI LIỆU SINH VIÊN CẦN ĐỌC6. Diệp Quang Ban. Ngữ pháp tiếng Việt phổ thông (2 tập) Nxb Đại học và

gdcn, H. 1989.7. Nguyễn Tài Cẩn. Ngữ pháp tiếng Việt (tiếng, từ ghép, đoản ngữ) Nxb Đại

học và then, H. 1975.8. Đinh Văn Đức. Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại) Nxb Đại học và then, H. 1986.9. Hoàng Trọng Phiến. Ngữ pháp tiếng Việt (câu). Nxb Đại học và then H.

1980.10. Nguyễn Kim Thản. Nghiên cứu vè ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Khoa học. H.

1963 (tập I). 1964 (tập II).11. Ngữ pháp tiếng Việt. Nxb Khoa học xã hội. H. 1983.12. Rephormatskij. A.A. Dẫn luận ngôn ngữ học. Nxb Đại học M 1967 (tiếng

Nga).