vẬn dỤng tƯ tƯỞng hỒ chÍ minh vỀ chÍnh sÁch xà hỘi...

167
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN CÔNG LẬP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2017

Upload: others

Post on 31-Aug-2019

1 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CÔNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2017

Page 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN CÔNG LẬP

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. NGUYỄN THỊ KIM DUNG

2. TS. TRẦN VĂN HẢI

HÀ NỘI - 2017

Page 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

TÁC GIẢ

Nguyễn Công Lập

Page 4: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN

LUẬN ÁN 6

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đến luận án 6

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề luận án tiếp tục

nghiên cứu 25

Chương 2: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI 29

2.1. Khái niệm chính sách xã hội 29

2.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội 33

Chương 3: THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ

CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 75

3.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội

thời kỳ đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh 75

3.2. Những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội ở

Việt Nam trong 30 năm đổi mới (1986 - 2016) theo tư tưởng

Hồ Chí Minh 86

3.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế việc thực hiện chính

sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới 104

Chương 4: NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 116

4.1. Những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với việc

thực hiện chính sách xã hội hiện nay 116

4.2. Giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội ở

Việt Nam hiện nay 122

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

Page 5: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động

tổ chức, điều hành và quản lý xã hội. Hiệu quả việc thực hiện chính sách xã

hội góp phần phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế

mang tính bền vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng,

công bằng và tiến bộ. Ngoài ra, chính sách xã hội còn góp phần trợ giúp

những con người, những nhóm xã hội, đảm bảo mức sống cho một số nhóm

đối tượng yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc

sống. Do vậy, ở bất kỳ thời đại nào, chế độ chính trị nào, chính sách xã hội

cũng đóng vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện chính sách xã hội là giải quyết

các vấn đề liên quan trực tiếp đến con người, qua đó nâng cao đời sống vật

chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy, ngay từ khi thành lập nước, Người rất

chú trọng đến việc xây dựng các chính sách xã hội nhằm quản lý đất nước và

phục vụ sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là

một hệ thống các quan điểm về mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực

lượng thực hiện chính sách xã hội. Tư tưởng của Người về chính sách xã hội

là tài sản tinh thần quý giá, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc

Việt Nam giành được những thắng lợi to lớn.

Trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam, thực hiện nhiệm vụ xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc, Đảng và Nhà nước đã vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ

Chí Minh về chính sách xã hội cho phù hợp với tình hình mới, góp phần

giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực chất đây là

quá trình nhận thức đúng đắn hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp

với thực tiễn Việt Nam, là thực hiện di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với

mong muốn đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,

nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Page 6: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

2

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, chính sách xã hội đã phát huy được

năng lực của cá nhân, cộng đồng trong xây dựng và phát triển đất nước,

hạn chế ở mức độ nhất định những tiêu cực phát sinh từ môi trường kinh tế

thị trường và quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh những

thành tựu đạt được, vẫn còn một số hạn chế cần phải tiếp tục điều chỉnh, bổ

sung, hoàn thiện, như: Vấn đề việc làm cho người lao động, xóa đói giảm

nghèo, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chính sách đối với người có công

với cách mạng.

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đổi mới

và hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội để giải quyết tốt vấn đề con người.

Trong đó, chính sách xã hội là công cụ quan trọng, góp phần vào thực hiện

mục tiêu cơ bản của quản lý xã hội nhằm cân bằng nhu cầu và lợi ích của

con người trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để

hoạch định được chính sách xã hội tiến bộ, phù hợp với yêu cầu của sự

nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, cần có nhận thức và giải quyết đúng đắn

những vấn đề lý luận về chính sách xã hội, những đòi hỏi từ thực tiễn của

đất nước hiện nay.

Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, việc nghiên cứu và

vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội còn nhiều vấn đề đặt ra,

đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ để vận dụng sáng tạo, phù hợp với

thực tiễn hiện nay. Chỉ trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước mới có được tầm

nhìn, năng lực của chủ thể hoạch định đường lối, chính sách và thực hiện tốt

công tác lãnh đạo, quản lý việc thực hiện chính sách xã hội đạt hiệu quả cao

trên thực tế.

Vì vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội để vận

dụng vào việc xây dựng và thực thi chính sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn

hiện nay là một trong những vấn đề cần thiết, có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận

và thực tiễn. Nhận thức được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề này,

Page 7: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

3

nghiên cứu sinh chọn đề tài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” làm luận án tiến sĩ khoa học chính trị,

chuyên ngành Hồ Chí Minh học.

2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Nghiên cứu làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội,

thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội thời kỳ đổi

mới, từ đó, đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm

nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Luận giải những khái niệm cơ bản liên quan đến luận án.

- Phân tích một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã

hội (Mục đích, đối tượng, nội dung, yêu cầu và lực lượng thực hiện chính sách

xã hội).

- Phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính

sách xã hội thời kỳ đổi mới với những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của

thành tựu, hạn chế. Trên cơ sở đó, đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở Việt

Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận dụng tư tưởng đó

vào thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản chính sách

xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh gồm chính sách lao động và việc làm, chính

sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân,

chính sách đối với người có công với nước và sự vận dụng của Đảng, Nhà

nước trong thời kỳ đổi mới.

Page 8: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

4

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

xã hội cả trong tư duy lý luận lẫn hoạt động thực tiễn và sự vận dụng tư tưởng

của Người về chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước từ năm 1986 đến nay.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà

nước về chính sách xã hội.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Quá trình thực hiện luận án, nghiên cứu sinh sử dụng phương pháp nghiên

cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra,

tác giả còn kết hợp một số phương pháp cụ thể như: lịch sử và lôgíc, phân tích

và tổng hợp, thống kê và so sánh, quy nạp và diễn dịch,…

5. Đóng góp khoa học của luận án

- Phân tích, luận giải một cách có hệ thống, góp phần làm sáng tỏ hơn các

quan điểm của Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.

- Khảo sát khá toàn diện tình hình thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi

mới ở Việt Nam, trên cơ sở đó, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và nguyên

nhân của ưu điểm, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới

theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

- Đề xuất một số giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

xã hội ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí

Minh về chính sách xã hội dưới góc độ chuyên ngành Hồ Chí Minh học như là

cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước hoạch định và thực thi chính sách xã hội thời

kỳ đổi mới đất nước hiện nay.

Page 9: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

5

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan

nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo bậc đại học và sau đại học trong nhóm

ngành khoa học chính trị, khoa học xã hội và nhân văn. Ngoài ra, luận án còn

làm tài liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh

trong các Học viện, trường Đại học, Cao đẳng.

7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình của tác giả liên

quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 9 tiết.

Page 10: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Tình hình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

xã hội

Tập thể tác giả trong cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và về

chính sách xã hội do Lê Sỹ Thắng chủ biên [129] đề cập quan điểm con người

từ trong truyền thống của dân tộc Việt Nam đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên

cơ sở phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và tư tưởng về chính sách

xã hội đối với con người thâm nhập vào nhau trong chỉnh thể tư tưởng nhân

văn Hồ Chí Minh, cuốn sách làm rõ nhiệm vụ và chức năng của chính sách xã

hội; mối quan hệ giữa chính sách xã hội với cơ cấu xã hội, quản lý xã hội; mối

quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách kinh tế, văn hóa; mối quan

hệ giữa chính sách xã hội với công bằng xã hội; về chủ thể hoạch định và thực

hiện chính sách xã hội; về chiến lược “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí

Minh. Cuốn sách khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về con người luôn là cơ sở

cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội trong sự nghiệp đổi mới ở

nước ta hiện nay. Tuy vậy, công trình không đi sâu tìm hiểu các chính sách xã

hội cụ thể mà dừng lại ở việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng cho

việc hoạch định các chính sách ấy.

Cuốn sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội

học [130] do Nguyễn Thế Thắng chủ biên đã làm rõ khái niệm chính sách xã

hội và một số cách tiếp cận về chính sách xã hội từ góc nhìn xã hội học. Qua

đó, tác giả cuốn sách trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về hệ thống chính sách

xã hội tác động vào cơ cấu giai cấp, tác động của chính sách xã hội, vào các

nhóm xã hội đặc thù; vào các quan hệ xã hội trong quá trình sản xuất; trên lĩnh

vực phân phối, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội; về một số cơ sở khoa học của

việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong thực tiễn. Ngoài ra, cuốn sách

khẳng định dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,

Page 11: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

7

Đảng ta giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công

bằng xã hội bằng một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn. Bên cạnh đó, cuốn

sách còn trình bày thực tiễn và thành tựu thực hiện các chính sách xã hội giải

quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội

trong sự nghiệp đổi mới.

Liên quan đến chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, trong

cuốn Bác Hồ với ngành y tế Việt Nam [20] có các bài viết: Tư tưởng Hồ Chí

Minh về một nền y tế Việt Nam của Nguyễn Văn Hồng; Chủ tịch Hồ Chí Minh

với việc xây dựng ngành y tế của Vũ Ngọc Khánh; Quan điểm về y tế và đạo

đức người thầy thuốc của Hồ Chí Minh của Đỗ Nguyên Phương; Một số quan

điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng nền y học Việt Nam của Nguyễn

Dương Quang; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác bảo vệ sức khỏe của Võ

Nguyên Giáp;… Các tác giả cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến

việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân; quan điểm về y tế, về công tác chăm sóc

sức khỏe nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân văn cao

cả, tấm lòng nhân hậu hết mực vì nhân dân, vì con người.

Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội [109], tác giả

Nguyễn Năng Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội

phải lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm và đích hướng tới của mọi

chính sách; phải xuất phát từ cơ cấu xã hội - giai cấp; phải phù hợp với trình độ

phát triển kinh tế, gắn với chính sách kinh tế; “có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ

mà phải có biện pháp cụ thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để

thực hiện bằng được kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp

phải hai phần, cố gắng phải ba phần”; giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi

và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ; phải cắn cứ vào bản sắc văn hóa dân tộc,

tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại.

Tác giả A.X.Varônhin trong bài viết Chính sách xã hội và tinh thần thời

đại của Hồ Chí Minh [147] đã khẳng định con đường giải phóng đất nước và

xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn là một trong những chiến lược xã

Page 12: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

8

hội đặc sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Đi theo con đường của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc

giải quyết những vấn nạn xã hội nghiêm trọng do quá khứ thời phong kiến đô

hộ và chiến tranh tàn phá kéo dài để lại. Kinh tế như nền tảng vật chất của

chính sách xã hội phát triển bền vững và sôi động. Hệ thống bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế và hệ thống thượng lưu ngày càng được củng cố và cải thiện.

Tuy nhiên, cùng với thế giới ngày càng quan tâm hơn tới kinh nghiệm của Việt

Nam cũng sẽ có một số thế lực muốn bôi nhọ lý tưởng và tư tưởng mà Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã đấu tranh suốt cuộc đời mình để biến thành hiện thực. Những

thế lực này tìm cách làm giảm uy tín chính sách xã hội của Người khi gọi nó là

chủ nghĩa không tưởng, không phù hợp với thực tiễn chính trị và chuẩn mực xã

hội đương thời. Trong bối cảnh đó, nhiệm vụ quan trọng là phải luôn tìm tòi

sáng tạo để phát triển hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, khéo léo chứng minh

được rằng chiến lược đấu tranh giành độc lập dân tộc và xã hội mà Người đã đề

ra, kinh nghiệm thắng lợi mà nhân dân Việt Nam đã có được trong quá trình

thực hiện chiến lược này là vô giá. Tư tưởng Hồ Chí Minh cho đến ngày hôm

nay vẫn soi sáng con đường của nhân dân Việt Nam đi đến tương lai, cho

người dân thêm vững tin vào sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, một xã hội

công bằng và tiến bộ cả về vật vất và tinh thần.

Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong trong cuốn sách Văn hóa và triết lý phát

triển trong tư tưởng Hồ Chí Minh [80], đã khẳng định những thành tựu của sự

nghiệp đổi mới ở Việt Nam, như về hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển bền

vững, văn hóa chính trị, văn hóa lãnh đạo - quản lý,… đều khởi nguồn từ tầm

nhìn và bản lĩnh Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cuốn sách có một bài viết đề cập đến

nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, trong đó tập trung làm rõ

chính sách xã hội gắn với quyền lợi và trách nhiệm của cá nhân và cộng đồng

dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; chính sách xã hội gắn với

chính sách phát triển kinh tế và văn hóa; chính sách xã hội phải hướng đến

công bằng xã hội; trồng người là chiến lược hàng đầu.

Page 13: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

9

Nguyễn Đình Nhạ trong bài viết Từ lời căn dặn trong Di chúc, tìm hiểu tư

tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người [7], đã làm

rõ quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con người được thể hiện

trong Di chúc. Trên cơ sở đó, tác giả bài viết khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh

về con người và chính sách xã hội đối với con người được thể hiện đa dạng và

phong phú, thấm đậm trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của

Người. Do vậy, chỉ có thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về con người mới có thể đề ra chính sách xã hội đúng đắn theo hướng

“lấy con người làm trung tâm”.

Trong bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội và sự vận

dụng sáng tạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới [69], tác giả Nguyễn Thị

Minh Thùy đã trình bày những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội. Bài viết cho rằng, để thực hiện có hiệu quả chính sách xã hội

phải lấy con người làm gốc và mục tiêu; phải phù hợp và gắn với chính sách

kinh tế; phải bắt nguồn từ cơ cấu xã hội - giai cấp. Tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận và thực tiễn. Do vậy, việc

thực hiện nhất quán tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là nhân tố

quan trọng đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của công cuộc đổi

mới, là biện pháp hữu hiệu để hạn chế và khắc phục mặt trái của cơ chế thị

trường, là cơ sở vững chắc để tạo nên sự ổn định và đồng thuận xã hội đưa Việt

Nam tiến tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Bàn về công bằng xã hội trong xây dựng xã hội mới, trong bài viết Tư

tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội [140] tác giả Vũ Văn Thuấn trình bày

những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội phải được

thể hiện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đồng thời, tác giả

bài viết còn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có sự gắn

bó chặt chẽ với bình đẳng xã hội.

Phạm Xuân Nam trong bài viết Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng

Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội [108] đã luận

Page 14: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

10

giải quan điểm của Hồ Chí Minh về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội.

Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đề xướng và đặt nền móng cho việc

thực hiện các chính sách xã hội nói chung và chính sách an sinh xã hội, phúc

lợi xã hội nói riêng ở Việt Nam. Đồng thời, bài viết còn phân tích quan điểm

của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới về hệ thống an sinh xã hội, phúc

lợi xã hội và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính

sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ở Việt Nam.

Khẳng định Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã hội trong

tư tưởng Hồ Chí Minh [87], tác giả Lê Quốc Lý khẳng định tư tưởng Hồ Chí

Minh về xóa đói, giảm nghèo là một triết lý phát triển bền vững, bảo đảm tăng

trưởng kinh tế cao gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, môi trường, môi sinh

trong lành, tươi đẹp. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh đòi hỏi phải coi

xóa đói, giảm nghèo là một trong những thước đo quan trọng thể hiện sự đúng

đắn về đường lối, chính sách và giải pháp trong xây dựng và phát triển đất nước.

Tinh thần chiến đấu chống đói nghèo theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải biến

thành lẽ sống, khát vọng làm giàu, vươn lên của toàn thể nhân dân, dân tộc, để

Việt Nam thật sự dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Các công trình nghiên cứu trên là tài liệu để tác giả luận án tham khảo một

số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Theo đó, chính

sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế và văn hóa; phải hướng đến công

bằng và tiến bộ xã hội;… Ngoài ra, luận án còn tham khảo vấn đề hoạch định

và vai trò của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ

Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xóa đói giảm

nghèo, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có

công với nước, là những tài liệu tham khảo cho luận án.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới

Trong các cuốn sách Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội của Phạm

Như Cương [16]; Chính sách xã hội, một số vấn đề lý luận và thực tiễn do Bùi

Page 15: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

11

Đình Thanh (Chủ biên) [133]; Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta

hiện nay của Hoàng Chí Bảo [4]. Các tác giả đã tập trung nghiên cứu lý luận và

phương pháp luận về chính sách xã hội, khái niệm và nội dung của chính sách

xã hội cũng như mối quan hệ giữa chính sách xã hội với các chính sách khác.

Đề tài Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc giải quyết

các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ năm 1986 - 1995) [48], tác giả Trần

Đồng đã trình bày khái niệm, nhiệm vụ, vai trò của chính sách xã hội; cơ sở đề

ra chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta hiện nay; một số vấn đề xã hội

cấp bách cần giải quyết trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, lao động và việc

làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân,…; thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu

quả chính sách xã hội trong giai đoạn cách mạng mới.

Nguyễn Văn Nhớn với đề tài Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với

việc nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [114], đã làm rõ vai trò của nhân tố

con người trong chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới theo định hướng

xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc

nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

Bàn về Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện [63],

Trần Đình Hoan (chủ biên), đã trình bày những nội dung cơ bản về chính sách

xã hội ở nước ta và sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý trong việc thực

hiện chính sách xã hội nhằm nâng cao tính hiệu quả của nó trong việc giải

quyết các vấn đề xã hội cấp bách của con người.

Phân tích những luận cứ khoa học và giải pháp cho việc đổi mới chính

sách xã hội, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta, trong cuốn

sách Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp [106], tác giả Phạm

Xuân Nam (Chủ biên) đã đưa ra một số vấn đề lý luận và phương pháp luận về

chính sách xã hội. Đánh giá thực trạng biến đổi cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội

và việc thực hiện các chính sách xã hội trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế

Page 16: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

12

kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều

thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, các tác giả còn dự báo xu hướng vận

động của các quá trình trên, đề xuất những kiến nghị về quan điểm và giải pháp

cho việc đổi mới chính sách xã hội và cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách

xã hội của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn 1996 - 2000. Đặc biệt, các tác giả

cũng phân tích một số chính sách xã hội phổ biến: chính sách dân số, chính

sách lao động và việc làm, chính sách bảo đảm xã hội, chính sách xã hội nhằm

bảo đảm an ninh xã hội, phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội; chính sách đối

với các giai tầng xã hội: chính sách đối với giai cấp công nhân, chính sách đối

với giai cấp nông dân, chính sách phát huy năng lực lao động sáng tạo của trí

thức và sinh viên, chính sách đối với tầng lớp chủ doanh nghiệp tư nhân; chính

sách xã hội đối với các giới đồng bào: chính sách đối với thanh niên, chính

sách đối với phụ nữ và gia đình, chính sách đối với các dân tộc thiểu số, chính

sách tôn giáo.

Trong đề tài Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông thôn ngoại

vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình cải cách kinh tế

[144], bằng một hệ thống những số liệu cụ thể và sinh động, tác giả Nguyễn Từ

đã khái quát được nhiều vấn đề bức xúc trong bức tranh xã hội ở khu vực miền

núi phía Bắc, đó là: Tệ nạn xã hội và tội phạm, sự phân hóa giàu nghèo, trình

độ dân trí của người dân, những hủ tục lạc hậu trong văn hóa,… Qua đó, tác giả

cũng đã nêu lên những giải pháp toàn diện để giải quyết các vấn đề xã hội bức

xúc ở nông thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá

trình cải cách kinh tế.

Nguyễn Thị Thanh với đề tài Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực

hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới (1986 - 1991) [134] và đề tài

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991

đến năm 2001 [135] đã trình bày nội dung và vai trò của chính sách xã hội

trong xây dựng đất nước; quá trình thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ

Page 17: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

13

đổi mới về lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, ưu đãi đối với người có

công với cách mạng. Tác giả phân tích làm rõ một số kinh nghiệm trong thực

hiện chính sách xã hội như: Đổi mới nhận thức về vai trò của chính sách xã hội,

chú trọng phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội, kết hợp

chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giải quyết

đúng đắn về mối quan hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.

Đề tài Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp phần xóa đói giảm nghèo

trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn đồng bằng

Bắc bộ [104], tác giả Ngô Quang Minh đã khái quát tình trạng đói nghèo của cư

dân nông thôn vùng đồng bằng Bắc bộ, nêu lên những thành tựu và hạn chế

trong công tác xóa đói giảm nghèo. Ngoài ra, tác giả còn đưa ra những giải pháp

cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của kinh tế nhà nước trong tham gia xóa

đói, giảm nghèo ở khu vực nông thôn đồng bằng Bắc bộ.

Đề tài Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc giải quyết các vấn đề

xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ trong công cuộc đổi mới ở

nước ta hiện nay [40]. Dưới góc độ triết học, tác giả Đinh Thế Định đã phân

tích sâu sắc những vấn đề lý luận về phát triển hài hòa, phát triển bền vững ở

vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ. Từ cách tiếp cận này, tác giả cũng đã

phân tích một cách toàn diện những vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trong quá

trình phát triển kinh tế - xã hội ở khu vực này và nêu lên những giải pháp cơ

bản nhằm hướng đến sự phát triển bền vững ở nông thôn Bắc Trung bộ.

Tác giả Lê Thị Liên trong bài viết Suy nghĩ từ những lời dặn của Chủ tịch

Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ trong Di chúc [7] đã phân tích quan

điểm của Người thể hiện tinh thần nhân văn cách mạng đối với những người đã

hy sinh cho nền độc lập tự do của Tổ quốc. Qua đó, bài viết khẳng định giá trị

tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đối với người có công với cách

mạng trong việc hoạch định và thực thi chính sách đối với họ của sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Bài viết là tài liệu tham khảo cho luận án

Page 18: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

14

về quan điểm Hồ Chí Minh đối với gia đình có công với cách mạng và sự vận

dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.

Ngoài ra, trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối

với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng - Bốn mươi năm nhìn

lại [71], tác giả Nguyễn Hữu Chí tiếp tục khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là

người khởi xướng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Suốt cả cuộc đời Người đã

dành tình cảm đặc biệt cho thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ. Bên cạnh đó,

tác giả bài viết cũng khẳng định sau 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt sâu sắc lời căn dặn của Người

thông qua những chủ trương, chính sách đối với thương bệnh binh và gia đình

có công với cách mạng.

Bài viết Đảng và Nhà nước thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo [7] của tác giả Lê Văn Tích đã khẳng định Di

chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là điểm tựa vững chắc và giữ vai trò định hướng

cho Đảng, Nhà nước ta hoạch định đường lối, chính sách xóa đói giảm nghèo.

Ngoài ra, bài viết còn trình bày những kết quả đáng ghi nhận sau 40 năm thực

hiện Di chúc của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo.

Trong cuốn sách Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và quản lý phát

triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới [6], Hoàng Chí Bảo (Chủ biên), đã cung

cấp những nội dung quan trọng về vấn đề phát triển xã hội và quản lý phát triển

xã hội như là một trong những trục định hướng cơ bản của sự nghiệp đổi mới.

Cuốn sách là sự tập hợp các bài viết về những vấn đề phương pháp luận và cơ

sở lý luận của phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội; lý thuyết và mô hình

phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội của một số nước trên thế giới -

Những tham khảo cho Việt Nam; biến đổi xã hội và quản lý phát triển xã hội

trên một số lĩnh vực chủ yếu ở nước ta hiện nay; những nhân tố tác động,

quan điểm định hướng và hệ giải pháp phát triển xã hội ở nước ta đến năm

2020. Đặc biệt, trong cuốn sách có một số bài viết đề cập đến một số nội dung

liên quan đến chính sách xã hội và một số kinh nghiệm của Đảng ta về lãnh

Page 19: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

15

đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm đổi mới (1986-2010), như bài

viết của tác giả Đoàn Minh Huấn và Nguyễn Thị Ngọc Mai. Trên cơ sở phân

tích, đánh giá chính sách xã hội thời kỳ trước đổi mới và nhu cầu đổi mới tư

duy lý luận về giải quyết các vấn đề xã hội, quá trình đổi mới tư duy lý luận

của Đảng về chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới, bài viết trình bày một

số kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội qua 25 năm

đổi mới như: Nhận thức đầy đủ vai trò của chính sách xã hội đối với nhu cầu

định hình giá trị xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới; xử lý đúng đắn mối

quan hệ giữa phát huy vai trò nòng cốt của Nhà nước và mở ra khả năng xã

hội hóa trong thực hiện các chính sách xã hội; giải quyết đúng đắn mối quan

hệ giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.

Vấn đề giải quyết việc làm đã được tác giả Phạm Đức Kiên đề cập trong

bài viết Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải quyết việc làm trong 25

năm thực hiện đường lối đổi mới” [77]. Tác giả khẳng định giải quyết việc làm

là yếu tố cực kỳ quan trọng để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát

triển kinh tế nên cần được đặt trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế - xã

hội. Ngoài ra, tác giả còn nêu lên một số kết quả đạt được trong việc gắn phát

triển kinh tế với giải quyết việc làm. Từ thực trạng đó, tác giả bài viết nêu lên

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc giải quyết việc làm ở nước ta

trong thời gian tới.

Nhằm đánh giá kết quả thực hiện chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới,

tác giả Đinh Xuân Lý với cuốn sách Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực

hiện chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986 - 2011) [84] đã phân tích

cơ sở hình thành chủ trương, chính sách xã hội của Đảng ta trong 25 năm đổi

mới và kết quả quá trình thực hiện chính sách xã hội về lao động và việc làm,

xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, ưu đãi người có công với cách mạng, bảo

trợ xã hội, phòng chống tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, cuốn sách bước đầu đánh

giá sự lãnh đạo và nêu một số kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo của Đảng đối

với lĩnh vực xã hội ở nước ta. Bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải nhận

Page 20: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

16

thức đúng vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong tổng thể đường lối của

Đảng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; cần quán triệt quan điểm về sự

thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội; cần thường xuyên

nâng cao năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng đối với phát triển xã hội.

Tác giả Nguyễn Thị Thơm trong bài viết Xóa đói giảm nghèo bằng chính

sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo [138] đã khẳng định

xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta trong quá

trình đổi mới và thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ. Để thực hiện chủ trương

này, Đảng và Nhà nước đã đề ra một hệ thống chính sách, trong đó có nhóm

chính sách về hỗ trợ phát triển sản xuất cho hộ nghèo, vùng nghèo. Bài viết

cũng trình này những kết quả đạt được trong công tác xóa đói, giảm nghèo

bằng chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo của Đảng

và Nhà nước ta trong những năm gần đây và đề ra một số khuyến nghị đối với

những tồn tại về vấn đề này.

Cuốn sách Chính sách xóa đói giảm nghèo. Thực trạng và giải pháp [85],

tác giả Lê Quốc Lý đưa ra một số vấn đề lý luận về xóa đói, giảm nghèo;

những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xóa đói,

giảm nghèo; thực trạng đói nghèo ở Việt Nam; một số cơ chế nhằm thực hiện

có hiệu quả chính sách xóa đói, giảm nghèo của Việt Nam và giải pháp xóa đói,

giảm nghèo ở Việt Nam thời gian tới. Đặc biệt, cuốn sách còn nêu lên những

chủ trương, đường lối và chính sách của Đảng, Nhà nước về xóa đói, giảm

nghèo thời kỳ đổi mới đất nước.

Luận giải Một số vấn đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay

[17], tác giả Mai Ngọc Cường (Chủ biên) giới thiệu một cách khái quát về đặc

điểm, mục tiêu, nguyên tắc và quá trình thực hiện chính sách xã hội, cũng như

hệ thống các chính sách xã hội phổ biến ở các nước và những nội dung có khả

năng vận dụng để xây dựng ở nước ta. Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến

những thành tựu đạt được và những hạn chế, vướng mắc của chính sách xã hội

dưới góc độ các lĩnh vực về thu nhập, giảm nghèo và an sinh xã hội; chính sách

Page 21: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

17

việc làm; chính sách cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, cung ứng các dịch vụ

xã hội cá nhân; chính sách đối với người có công; chính sách bình đẳng giới.

Trên cơ sở đó, tác giả đã đề ra những giải pháp và một số khuyến nghị về xây

dựng hệ thống chính sách xã hội ở Việt Nam những năm tới.

Trong bài viết An sinh xã hội cho nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [73], tác giả Đông Thị Hồng luận giải về vai

trò của an sinh xã hội với nông dân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; thực trạng chính sách an sinh xã hội cho

nông dân trong những năm qua và đề ra một số giải pháp nhằm tăng cường an

sinh xã hội cho nông dân giai đoạn hiện nay.

Bài viết An sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay: chính

sách và thực tiễn [145], tác giả Nguyễn Đình Tuấn và Phạm Thị Tính đã phân

tích một số chính sách và thực tiễn về an sinh xã hội cho người cao tuổi ở

nước ta hiện nay nhằm làm rõ hơn các quan điểm, chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước ta về chính sách an sinh xã hội cho người cao tuổi, cũng

như phân tích thực trạng an sinh xã hội cho người cao tuổi ở nước ta hiện nay.

Qua bài viết Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng miền núi Đông Bắc

Việt Nam giai đoạn 2001-2010 [141], tác giả Hoàng Thu Thủy đã có những

đánh giá về quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo tại các tỉnh miền

núi Đông Bắc Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 và đưa ra một số bài học kinh

nghiệm trong công tác xóa đói giảm nghèo đối với vùng này.

Bài viết Một năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW một số vấn đề về

chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020: Cơ hội và thách thức [25] của Nguyễn

Trọng Đàm khái quát về những thành tựu và hạn chế thực hiện chính sách xã

hội. Trong đó, bài viết chia chính sách xã hội thành hai nhóm: chính sách ưu

đãi người có công với cách mạng và chính sách an sinh xã hội. Bài viết cũng

chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với nước ta khi thực hiện chính sách xã

hội trong những năm tiếp theo.

Page 22: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

18

Trong cuốn Một số lý thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã

hội [132] của tác giả Ngô Ngọc Thắng, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên), đã

trình bày một số lý thuyết về phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội như lý

thuyết về di dân; lý thuyết về hệ thống và lý thuyết cấu trúc - chức năng; lý

thuyết về vốn phi tài chính; lý thuyết về xã hội dân sự; lý thuyết về rủi ro xã hội

và quản trị rủi ro xã hội; lý thuyết về an sinh xã hội và những vận dụng cho

việc xây dựng sàn an sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Khẳng định chính sách an sinh xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong

việc duy trì sự ổn định và phát triển bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa, tác

giả Nguyễn Văn Chiều với cuốn sách Chính sách an sinh xã hội và vai trò của

Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam [9] đã

trình bày một cách có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính sách

an sinh xã hội; vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã

hội; kinh nghiệm thực hiện chính sách an sinh xã hội của một số nước trên thế

giới và thực trạng chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam trong gần 30 năm thực

hiện đường lối đổi mới đất nước; đề xuất phương hướng và những giải pháp

nâng cao vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở

Việt Nam hiện nay. Cuốn sách là tài liệu tham khảo về giải pháp kiện toàn bộ

máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc thực hiện chính sách xã hội.

Ngô Ngọc Thắng trong bài viết Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh

tái cấu trúc mô hình tăng trưởng [131] khẳng định chính sách an sinh xã hội là

một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nằm trong chiến lược phát triển

kinh tế và xã hội của đất nước. Do vậy, việc xây dựng và tổ chức việc thực hiện

các chính sách an sinh xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực để ổn định chính

trị - xã hội, hướng đến sự phát triển bền vững, lâu dài.

Trong bài viết Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính

sách với người có công [119], tác giả Nguyễn Trọng Phúc trình bày nội dung

quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công với nước. Thực

hiện Di chúc của Người, Đảng, Nhà nước và đồng bào cả nước đã chăm lo ưu

Page 23: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

19

đãi người có công với tất cả sự quý trọng, lòng biết ơn sâu sắc. Để thực hiện

chính sách với người có công, Đảng và Nhà nước đã phát huy vai trò của hệ

thống chính trị, huy động nguồn lực của toàn dân, toàn xã hội. Việc thực hiện

chính sách với người có công phải được đặt trong tổng thể các chính sách xã

hội, giải quyết các vấn đề xã hội và chú trọng phát triển kinh tế, tạo cơ sở vững

chắc cho thực hiện chính sách xã hội và chính sách đối với người có công.

Nghiên cứu sự vận dụng, học tập và làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân có các bài viết Tư

tưởng Hồ Chí Minh với y học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước của

Hoàng Đình Cầu, Một số vấn đề xây dựng ngành y tế theo tư tưởng Hồ Chí

Minh của Phạm Hồng Chương, Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc xây

dựng và phát triển nền y tế Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại

hóa đất nước của Phạm Duy Đức, Xã hội hóa y tế ở nước ta sau gần 30 năm

nhìn lại của Đào Văn Phương, Tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng hệ thống

khám, chữa bệnh để nâng cao chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh, chăm sóc

sức khỏe nhân dân của Nguyễn Thị Kim Tiến [20]. Nội dung các bài viết luận

giải về sự cần thiết phải thực hiện chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân

dân thông qua công tác xây dựng và phát triển ngành y tế Việt Nam theo tư

tưởng Hồ Chí Minh.

Luận giải về tính tất yếu phải Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công

bằng xã hội trong thời kỳ đổi mới [127], tác giả Nguyễn Hồng Sơn khẳng định

tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội có giá trị khoa học và nhân bản sâu

sắc, là sự kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ về công bằng xã hội,

dưới ánh sáng thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và

những giá trị căn cốt của truyền thống văn hóa, đạo lý dân tộc, có ý nghĩa lý

luận và thực tiễn, là cơ sở, kim chỉ nam cho hoạt động cách mạng của toàn

Đảng và toàn dân ta trong công cuộc xây dựng xã hội mới, công bằng, dân chủ,

văn minh. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, qua tổng kết

thực tiễn và nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có

Page 24: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

20

nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về công bằng xã hội và đạt được nhiều thành

tựu nhất định. Ngoài ra, bài viết cũng chỉ ra một số hạn chế trong việc thực

hiện công bằng xã hội và đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy

thành tựu đạt, khắc phục hạn chế thực hiện công bằng xã hội ở nước ta thời

gian tới.

Qua bài viết Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí

Minh [116], tác giả Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh khẳng định trong quá trình

đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức, vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh để giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và

công bằng xã hội như là một trong những giải pháp quan trọng để giữ vững

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Bàn về chính sách an sinh xã hội, trong cuốn sách Chính sách an sinh xã

hội. Thực trạng và giải pháp [86] do tác giả Lê Quốc Lý (Chủ biên) tập trung

làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính sách an

sinh xã hội; những trở ngại trong thực thi các chính sách an sinh xã hội ở nước

ta những năm gần đây qua đánh giá của nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ

hưởng chính sách; mục tiêu, quan điểm và giải pháp thực thi hiệu quả chính

sách an sinh xã hội ở Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, cuốn sách có làm rõ

giải pháp về đổi mới tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận về an sinh xã hội;

về nâng cao nhận thức, kỹ năng, đạo đức của cán bộ thực thi chính sách an sinh

xã hội.

Tiếp tục bàn về chính sách an sinh xã hội, tác giả Phạm Xuân Nam làm rõ

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội

[107]. Thông qua bài viết, tác giả cũng đưa ra một số nội dung của hệ thống an

sinh xã hội và phúc lợi xã hội trong các quốc gia phát triển và đang phát triển

trên thế giới. Theo đó, cần chủ động “phòng ngừa rủi ro” cho tuyệt đại đa số

người dân trong xã hội; “giảm thiểu rủi ro” cho những đối tượng có liên quan

cần được xem xét kỹ và giải quyết chu đáo về cả hai phương diện xã hội và tự

nhiên; lập ra quỹ “khắc phục rủi ro” cho những người không có khả năng lao

Page 25: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

21

động; bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội đòi hỏi phải có một nền kinh tế

tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, cũng như có một nền văn hóa

thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ và tiến bộ.

Qua bài viết Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người với tư

cách là đối tượng phục vụ của chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới [117],

tác giả Trần Văn Phòng và Nguyễn Thị Hoàng đã chỉ ra sự phát triển về chất

trong quá trình đổi mới nhận thức về con người trong chính sách xã hội của

Đảng, Nhà nước ta. Bài viết phân tích trước đổi mới, chúng ta chỉ mới khẳng

định con người là chủ thể thực thi chính sách xã hội, nhưng ttong thời kỳ đổi

mới, Đảng và Nhà nước ta không chỉ coi con người là chủ thể thực thi chính

sách xã hội mà còn là đối tượng phục vụ của chính sách xã hội.

Nguyễn Mai Phương với bài viết Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an

sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay [121] đi sâu phân tích, luận giải an sinh xã hội

chính là lưới an toàn xã hội với nhiều tầng, nấc khác nhau để bảo vệ, trợ giúp

các thành viên trong xã hội trước những rủi ro trong cuộc sống, các cú sốc về

kinh tế - xã hội làm cho họ mất đi nguồn sinh kế rơi vào cảnh nghèo khổ, bần

cùng hóa. Việc trợ giúp được thực hiện thông qua các chính sách thuộc hệ

thống an sinh xã hội như: xóa đói, giảm nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

trợ giúp xã hội và ưu đãi xã hội. Do vậy, thực hiện và bảo đảm an sinh xã hội

được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.

Khẳng định chính sách an sinh xã hội giữ vai trò quan trọng trong giải

quyết các vấn đề xã hội, tác giả Nguyễn Văn Chiều tiếp cận bài viết Một số vấn

đề về quyền an sinh xã hội [10] nhằm khẳng định quyền an sinh xã hội trong

nhà nước pháp quyền là một trong những vấn đề quan trọng. Mức độ xác lập và

thực hiện quyền an sinh xã hội phản ánh mức độ giải phóng con người của các

nhà nước trong lịch sử. Hiện nay, quyền an sinh xã hội là kết quả của sự liên

kết có tính toàn cầu và được quốc tế hóa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa Việt Nam đã ghi nhận và xác lập những biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo

Page 26: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

22

quyền an sinh xã hội cho công dân. Để quyền này ngày càng được mở rộng thì

yêu cầu đặt ra cho Nhà nước là phải từng bước quốc tế hóa, đổi mới tư duy,

hoàn thiện hệ thống và quy trình xây dựng pháp luật về an sinh xã hội.

Tác giả Nguyễn Mai Phương trong bài viết Chủ trương của Đảng

Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội từ Đại hội XI đến Đại hội XII [122]

đã khẳng định Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến đời sống của người

dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách, tầng lớp người nghèo, yếu thế

trong xã hội. Trong đó, tập trung giải quyết vấn đề xóa đói, giảm nghèo;

chăm lo, quan tâm đối với gia đình có công; giải quyết việc làm; phát triển

và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo

hiểm tai nạn giao thông.

Trong cuốn sách 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam [75] đã trình bày

thực trạng việc thực hiện chính sách lao động và việc làm, chính sách chăm sóc và

bảo vệ sức khỏe nhân dân, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách ưu đãi người

có công, chính sách an sinh xã hội trong quản lý phát triển xã hội. Những thành tựu

nêu trên có nhiều nguyên nhân: Các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà

nước giải quyết các vấn đề xã hội cơ bản là đúng đắn, hợp lòng dân. Đã động

viên khai thác các nguồn lực trong nhân dân cùng với Nhà nước và sự hỗ trợ

của nhiều tổ chức quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội. Những hạn chế nêu

trên do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ

quan là chính. Là một nước nông nghiệp vốn nghèo nàn, lạc hậu, thường

xuyên bị thiên tai, chịu tác động mạnh của biến đổi khí hậu toàn cầu lại trải

qua hơn 30 năm chiến tranh để lại nhiều hậu quả xã hội nặng nề, cho nên các

vấn đề xã hội phải tốn nhiều nguồn lực và thời gian để khắc phục. Xu hưởng

già hóa dân số nhanh hơn dự kiến đặt ra những thách thức về chi phí liên

quan đến chăm sóc sức khỏe người cao tuổi và chính sách an sinh xã hội, bảo

hiểm xã hội. Nhận thức của nhiều cấp ủy đảng và chính quyền về các vấn đề

xã hội, chính sách xã hội chưa đầy đủ và sâu sắc; có nơi còn coi nhẹ mô hình

Page 27: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

23

và phương thức quản lý xã hội, chưa có sự gắn kết giữa chính sách phát triển

kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội. Chính sách xã hội chậm đổi mới so

với chính sách kinh tế. Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo. Các

chính sách giảm nghèo còn thiết kế theo hướng cào bằng, bao cấp, tạo tâm lý

trông chờ, ỷ lại vào hỗ trợ của Nhà nước, chưa khuyến khích người dân tự

vươn lên. Còn thiếu những giải pháp hữu hiệu để thu hẹp khoảng cách về

mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức thực hiện

chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa các bộ,

ngành, địa phương chưa chặt chẽ; phân công trách nhiệm không rõ; thiếu thể

chế và thiết chế để tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất. Công tác

thanh tra ở nhiều nơi chưa được coi trọng. Nhu cầu nguồn lực để giải quyết

các vấn đề xã hội rất lớn nhưng khả năng đáp ứng thực tế của đất nước, còn

rất hạn hẹp, lại sử dụng chưa hiệu quả, còn phân tán, lãng phí, thậm chí tiêu

cực; chưa động viên, thu hút được nhiều sự tham gia của xã hội và khuyến

khích người thụ hưởng chính sách tự vươn lên. Nguồn lực thực hiện các

chính sách xã hội chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, mức hỗ trợ còn thấp,

sử dụng nguồn lực còn manh mún, dàn trải. Chưa huy động được sự tham gia

mạnh mẽ của người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội; nguồn lực từ

cộng đồng chủ yếu là tự phát và chưa được quản lý chặt chẽ.

Nghiên cứu chính sách đối với người có công với cách mạng, tác giả

Nguyễn Đình Liêu trong cuốn cách Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu

đãi người có công [82] và tác giả Lê Văn Hân trong bài viết Chính sách đối với

thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng của Đảng, Nhà nước ta

hiện nay [58] đều khẳng định chính sách đối với người có công với nước và sự

cần thiết phải hoàn thiện pháp luật ưu đãi đối với người có công thể hiện truyền

thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” của Đảng và Nhà

nước ta. Qua đó, các tác giả đã phân tích những chủ trương, chính sách về công

tác thương binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng để bày tỏ lòng biết ơn sâu

Page 28: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

24

sắc đối với sự hy sinh, cống hiến của các liệt sĩ, thương binh, người có công

trong sự nghiệp giải phóng đất nước trước đây cũng như xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc hiện nay.

Cuốn sách Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường

đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi mới [118] đã trình bày những vấn

đề cơ bản nhất của quá trình đổi mới và phát triển ở nước ta trên các lĩnh vực chính trị

và xây dựng Đảng, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người, quốc phòng, an ninh, đối

ngoại. Đặc biệt, trên lĩnh vực xã hội, cuốn sách đã trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn

xây dựng hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội ở nước ta; thực trạng hệ thống an

sinh xã hội và phúc lợi xã hội về vấn đề tạo việc làm, tạo thu nhập và tham gia thị

trường lao động, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã

hội; những nhân tố ảnh hưởng tới hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội như dân

số giáo dục khoa học và công nghệ, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đô thị

hóa, quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế; một số giải pháp, định hướng hoàn

thiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Khi luận giải một số giải pháp,

định hướng hoàn thiện chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cuốn sách tập

trung làm rõ sự cần thiết phải đổi mới tư duy về hoạch định chính sách an sinh xã hội

và phúc lợi xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên

và nhân dân những tri thức hiện đại về quyền con người và nhân tố con người đối với

sự phát triển bền vững của xã hội; bảo đảm tính hiệu quả, hiệu lực của chính sách trợ

giúp người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn để họ thoát khỏi tình trạng nghèo

triền miên, không có cơ hội phát triển; xây dựng chương trình an sinh con người

thông qua hệ thống chính sách an toàn xã hội; đẩy mạnh các hoạt động tài chính để

thực hiện chính sách an sinh xã hội trong các cộng đồng khó khăn, thực hiện bảo

hiểm và nâng cao năng lực tự an sinh; phát triển công tác xã hội để triển khai các

chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, an toàn xã hội tới từng địa bàn dân cư; tập

trung nguồn lực cho phúc lợi xã hội để giảm nghèo đa chiều cho người lao động, đưa

nhanh những hộ gia đình nghèo đạt tới chuẩn cận nghèo và trung lưu hóa đội ngũ lao

Page 29: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

25

động tri thức; phát huy sức mạnh của các tổ chức xã hội trong công tác an sinh xã

hội; đẩy mạnh tiến độ xây dựng xã hội học tập, thực hiện việc học tập suốt đời để

nâng cao năng lực tự an sinh cho người lao động.

Tác giả Lương Thị Hồng trong bài viết Nhìn lại 30 năm thực hiện công

tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân (1986 - 2016) [74], đã

trình bày quan điểm đổi mới của Đảng về xóa đói, giảm nghèo và khái quát

những thành tựu cơ bản và thách thức về thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở

Việt Nam nhìn lại sau 30 đổi mới đất nước. Tác giả cho rằng, công cuộc đổi

mới ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử. Trong

đó, Việt Nam đã và đang được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong 18

quốc gia có thành tích xóa đói, giảm nghèo tốt nhất thế giới và là một trong số

ít những quốc gia đạt 5/8 mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Chính đường lối

đúng đắn, được sự đồng thuận và ủng hộ của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội,

công cuộc xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam đã giành được những thắng lợi rất

đáng tự hào.

Tóm lại, các công trình nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo cho luận án

tiếp cận khái niệm và nội dung chính sách xã hội, an sinh xã hội và phúc lợi xã

hội; một số quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về giải

quyết các vấn đề xã hội thời kỳ đổi mới; thực trạng chính sách xã hội và một

số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới đất

nước. Nghiên cứu một số chính sách xã hội về lao động và việc làm; xóa đói,

giảm nghèo; đối với người có công với cách mạng cũng cung cấp tài liệu

tham khảo cho luận án. Ngoài ra, luận án còn tham khảo các công trình nghiên

cứu nêu trên về nội dung thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong tư tưởng

Hồ Chí Minh.

1.2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN

TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, có thể rút ra

những đánh giá chung như sau:

Page 30: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

26

1.2.1. Những kết quả nghiên cứu đạt được liên quan đến luận án

Thứ nhất, các công trình, bài viết của các tác giả đã đưa ra khái niệm, bản

chất của chính sách xã hội. Ngoài ra, các công trình nghiên cứu trên cũng đã

phân tích, đánh giá về thực trạng thực hiện chính sách xã hội được thể hiện trên

một số lĩnh vực xã hội cụ thể và đi đến khẳng định những luận cứ, giải pháp

cho đổi mới cơ chế quản lý việc thực hiện chính sách xã hội trong sự nghiệp

đổi mới đất nước. Ngoài ra, một số nghiên cứu còn đi sâu phân tích về chính

sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ở một số nước trên thế giới và bài học kinh

nghiệm cho Việt Nam. Từ việc phân tích về sự cần thiết phải thiết lập mạng

lưới an sinh xã hội, các tác giả khẳng định giữa chính sách an sinh xã hội và

chính sách xã hội có mối quan hệ hữu cơ, không thể tách rời, chính sách an

sinh xã hội là một bộ phận của chính sách xã hội trong việc giải quyết những

vấn đề xã hội bức xúc liên quan đến con người trong sự nghiệp đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, luận giải một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính

sách xã hội như là luận cứ khoa học cho việc hoạch định, thực hiện và đổi mới

chính sách xã hội ở nước ta. Các tác giả đã phân tích sâu sắc về mối quan hệ

giữa chính sách xã hội và con người; vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong

việc phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực

của sự phát triển. Ngoài ra, các tác giả còn đi sâu phân tích tư duy biện chứng

của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi giải quyết mối quan hệ giữa chính sách xã hội

phải gắn với chính sách kinh tế và văn hóa, gắn với quản lý xã hội và hướng

đến công bằng xã hội. Từ đó, các tác giả khẳng định tầm vóc lớn lao, giá trị to

lớn tư tưởng Hồ Chí Minh đặt nền móng cho việc xây dựng chính sách xã hội

vì mục tiêu quản lý phát triển xã hội.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp quan trọng

khi khẳng định tính nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong việc vận dụng tư

tưởng Hồ Chí Minh về một số chính sách xã hội cụ thể trong việc giải quyết

Page 31: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

27

các vấn đề xã hội bức bách cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đóng góp

vào việc nghiên cứu sự vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về chính

sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới, một số tác giả bước đầu làm rõ giá trị tư

tưởng Hồ Chí Minh về con người, về chính sách xã hội để Đảng, Nhà nước ta

xây dựng chính sách xã hội giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, các tác giả

nghiên cứu đã phân tích thực trạng thực hiện chính sách xã hội nói chung,

chính sách trên một số lĩnh vực xã hội cụ thể nói riêng và đưa ra một số nhóm

giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả chính sách xã hội thời kỳ đổi mới theo tư

tưởng Hồ Chí Minh.

1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu

Qua phân tích trên cho thấy, những công trình nghiên cứu đạt được những

kết quả liên quan và làm tài liệu tham khảo cho luận án. Nhưng do mục đích

nghiên cứu và cách tiếp cận khác nhau nên các tác giả nghiên cứu nội dung tư

tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội ở những khía cạnh khác nhau, vì thế,

chưa luận giải, khái quát một cách đầy đủ, toàn diện nội dung và giá trị nhân

văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Các công trình nghiên cứu nêu trên tuy đi sâu

phân tích, khảo sát thực trạng thực hiện chính sách xã hội và có đề ra một số

giải pháp nhằm khắc phục những yếu kém còn tồn tại, nhưng chưa có tác giả,

công trình nào nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống dưới góc độ chuyên ngành

Hồ Chí Minh học về vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã

hội giai đoạn hiện nay. Đây là một trong những khoảng trống cần được bổ sung

nhằm góp phần nghiên cứu về thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới toàn

diện, đồng bộ ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì thế, những vấn đề

luận án cần tiếp tục nghiên cứu:

- Một là, hệ thống hóa và phân tích nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội. Đây là nội dung quan trọng cung cấp cơ sở lý luận để nghiên

cứu về chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới đất nước.

- Hai là, từ sự phân tích thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội, luận án chỉ ra những kết quả đạt được và những hạn chế

Page 32: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

28

trong việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới, nguyên nhân của những

thành tựu và hạn chế.

- Ba là, luận án đề xuất các nhóm giải pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí

Minh về chính sách xã hội nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả việc thực hiện

chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Chính sách xã hội giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc duy trì sự ổn

định và phát triển bền vững kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội. Qua tổng quan

tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án cho thấy:

Ở nhóm nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội, đã luận

giải một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội như là

luận cứ khoa học cho việc hoạch định, thực thi và đổi mới chính sách xã hội ở

nước ta.

Ở nhóm nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã

hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, các công trình đã nghiên cứu chính sách xã hội

của Đảng, Nhà nước và việc thực hiện chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi

mới; nghiên cứu những giải pháp đổi mới chính sách xã hội trong quản lý và

phát triển xã hội; nghiên cứu chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; nghiên

cứu một số chính sách xã hội cụ thể về xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm,

chăm sóc sức khỏe nhân dân và chính sách đối với người có công với nước.

Kết quả nghiên cứu của các công trình liên quan là nguồn tư liệu tham

khảo để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của luận án. Tuy nhiên, từ tổng

quan tình hình nghiên cứu cũng đặt ra những vấn đề luận án cần tiếp tục giải

quyết như trình bày một cách có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

xã hội; phân tích, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính

sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ đổi mới. Thông qua đó, đề xuất một số giải

pháp vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tiếp tục nâng cao hiệu quả thực

hiện chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Page 33: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

29

Chương 2

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

2.1. KHÁI NIỆM CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Chính sách xã hội luôn gắn với sự phát triển của các thể chế chính trị nhất

định và là vấn đề được nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu. Ở Việt

Nam, những vấn đề liên quan đến chính sách xã hội đã được nêu trong các văn

bản pháp quy, trong các bài viết, các công trình nghiên cứu, nhưng vẫn chưa

đưa ra một khái niệm thống nhất về chính sách xã hội.

Để có cách hiểu đúng đắn và khoa học hơn về khái niệm chính sách xã

hội, trước hết cần làm rõ khái niệm xã hội - một khái niệm được dùng rất

nhiều nhưng lại được hiểu một cách chưa thống nhất. Thuật ngữ xã hội được

hiểu ở hai mức độ khác nhau. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ xã hội được hiểu là

tổng hòa tất cả những quan hệ giữa các cá nhân tạo nên cộng đồng xã hội và

nhằm phân biệt với giới tự nhiên. Xã hội bao gồm đời sống xã hội với bốn

lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; tổ chức thiết chế quản

lý mà trụ cột là nhà nước; chế độ xã hội với vai trò của ý thức hệ và lực lượng

lãnh đạo xã hội.

Theo nghĩa hẹp, xã hội là phương diện xã hội của đời sống xã hội, hoạt

động sống của con người trong một quốc gia, một chế độ xã hội nhất định. Nó

là mặt xã hội của đời sống và được sử dụng để phân biệt với khía cạnh kinh tế,

chính trị, văn hóa. Mặt xã hội là một tập hợp lớn, một hệ thống các vấn đề xã

hội trong phát triển, liên quan trực tiếp đến đời sống của con người như lao

động và việc làm, mức sống, tình trạng đói nghèo, dân số, sức khỏe và y tế

cộng đồng, nhà ở, giáo dục, vệ sinh môi trường,… là tất cả những vấn đề của

đời sống cá nhân và cộng đồng, có tính chất và hệ quả xã hội mà xã hội và nhà

nước phải giải quyết bằng chính sách. Đó là hệ thống chính sách xã hội và hệ

thống chính sách an sinh xã hội [6, tr.29-30].

Bên cạnh việc làm rõ khái niệm xã hội cũng cần hiểu về khái niệm chính

sách. Chính sách là những quy định, quyết định được thể chế hóa bởi các cơ

Page 34: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

30

quan, tổ chức có thẩm quyền nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội của con người, giải quyết những vấn đề xã hội nhằm thực hiện

những mục tiêu đã được xác định.

Vận dụng quan niệm về chính sách vào lĩnh vực xã hội, chính sách xã hội

là một loại chính sách nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội của con người,

giải quyết những vấn đề xã hội đang đặt ra và thực hiện bình đẳng, công bằng,

tiến bộ xã hội, phát triển toàn diện con người. Với cách tiếp cận này, chính sách

xã hội được các cơ quan có thẩm quyền sử dụng nhằm điều chỉnh những quan

hệ xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội để tạo ra động lực phát triển xã hội,

phát triển con người. Chính sách xã hội là biện pháp, là công cụ của các nhà

lãnh đạo, quản lý góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng xã hội, thực

hiện công bằng và tiến bộ xã hội, đảm bảo an sinh xã hội [65, tr.177].

Nhà xã hội học V.Z.Rôgôvin cho rằng: Với tính cách là một môn khoa

học, chính sách xã hội là một lĩnh vực tri thức xã hội học, nghiên cứu hệ thống

về các quá trình xã hội quyết định hoạt động sống của con người trong xã hội,

xét về khả năng tác động quản lý đến các quá trình đó. Có đầy đủ cơ sở để xem

xét chính sách xã hội như là sự hòa quyện của khoa học và thực tiễn, như là sự

phân tích phức hợp, dự báo về các quan hệ, các quá trình xã hội và sự vận dụng

thực hiện những tri thức thu nhận được nhằm mục đích quản lý các quá trình và

các quan hệ ấy [124, tr.10-11].

Theo Nguyễn Thiện Nhân: Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của

Đảng và Nhà nước để thực hiện và điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được

đặt ra đối với con người (con người ở đây xét theo góc độ con người xã hội, chứ

không phải con người kinh tế hay con người kỹ thuật) để thỏa mãn hoặc phần

nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các

đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời

kỳ nhất định, nhằm đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội [133, tr.65-66].

Nhà nghiên cứu Bùi Đình Thanh cho rằng: Chính sách xã hội là cụ thể

hóa và thể chế hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương, những biện

Page 35: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

31

pháp để giải quyết các vấn đề xã hội dựa trên những tư tưởng, quan điểm của

chủ thể lãnh đạo, phù hợp với bản chất chế độ xã hội - chính trị, phản ánh lợi

ích và trách nhiệm của cộng đồng xã hội nói chung và của từng nhóm xã hội

nói riêng nhằm mục đích cao nhất là thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng

về đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần của nhân dân [133, tr.23].

Theo Mai Ngọc Cường: Chính sách xã hội là tổng thể các hệ thống quan

điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp được thể chế hóa bằng pháp luật

của Nhà nước để giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong một thời gian và

không gian nhất định, nhằm tăng cường phúc lợi, bảo đảm công bằng xã hội và

tạo cơ hội cho người dân hòa nhập vào sự phát triển của xã hội [17, tr.18].

Từ điển Bách khoa Việt Nam nêu quan điểm về chính sách xã hội: Chính

sách xã hội - Một bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính Đảng hay

chính quyền nhà nước trong việc giải quyết và quản lý các vấn đề xã hội, chính

sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, điều kiện lao động và

sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp và quan hệ

xã hội. Một trong những đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội là sự thống

nhất biện chứng của nó với chính sách kinh tế… Chính sách xã hội phải đạt

mục đích đem lại đời sống tốt đẹp cho con người, mang lại sự công bằng, dân

chủ cho mỗi con người [143, tr.478].

Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người không đưa ra khái niệm về chính

sách xã hội nhưng trong nội hàm tư tưởng của Người đã thể hiện rõ quan điểm

về chính sách xã hội. Theo đó, Người cho rằng, với tư cách là chủ thể lãnh đạo,

quản lý xã hội, Đảng và Nhà nước ta cần thông qua hệ thống chính sách để giải

quyết các vấn đề xã hội liên quan đến con người, không ngừng nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho người dân. Bàn về yêu cầu thực hiện chính sách

xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định về sự cần thiết phải gắn chính sách xã

hội với quản lý xã hội, với chính sách kinh tế, văn hóa và phải hướng đến công

bằng xã hội.

Page 36: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

32

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện

nay, để giải quyết tốt những vấn đề xã hội bức bách nhằm phát huy nhân tố con

người, cần xác định rõ nội hàm khái niệm tư tưởng của Người về chính sách xã

hội. Theo đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội là hệ thống quan

điểm về đối tượng và nội dung của chính sách xã hội, lực lượng và yêu cầu

thực hiện chính sách xã hội, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho con người, cho nhân dân.

Từ những phân tích trên, có thể nêu khái quát về khái niệm chính sách xã

hội như sau: Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của

một chính Đảng hay chính quyền nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội và

giải quyết những vấn đề xã hội đặt ra trong không gian, thời gian nhất định,

nhằm mục đích cao nhất để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu

cuộc sống chính đáng của con người, phù hợp với các đối tượng khác nhau,

trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội của các thời kỳ nhất định, nhằm

đảm bảo sự ổn định và phát triển của xã hội đảm bảo sự ổn định, phát triển xã

hội, đảm bảo an sinh xã hội, tạo ra động lực phát triển xã hội, phát triển con

người. Chính sách xã hội có mối quan hệ với các chính sách khác, nhưng đặc

điểm cơ bản là sự thống nhất của nó với chính sách kinh tế nhằm mang lại sự

công bằng, tiến bộ và dân chủ cho con người.

Từ khái niệm chính sách xã hội như trên, có thể khái quát các yếu tố cơ

bản hợp thành chính sách xã hội như sau:

- Chủ thể đề ra chính sách xã hội: Tổ chức chính trị lãnh đạo, quản lý

xã hội.

- Nội dung của chính sách xã hội: Bao gồm hệ thống chính sách khác

nhau về giải quyết các vấn đề xã hội bức bách của con người nhằm điều chỉnh

các quan hệ xã hội nhất định.

- Mục đích của chính sách xã hội: Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

cho con người, đảm bảo sự ổn định và phát triển xã hội, phát triển con người.

Page 37: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

33

- Đặc điểm cơ bản của chính sách xã hội: Thống nhất với chính sách kinh

tế và hướng đến công bằng, tiến bộ và dân chủ xã hội.

Trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay, vận dụng

tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội cũng cần làm rõ khái niệm hiệu

quả thực hiện chính sách xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội là quá

trình Nhà nước ta hiện thực hóa hệ thống chính sách vào cuộc sống trên cơ sở

phản ánh đúng thực tiễn vận động của đất nước và thời đại, nhằm giải quyết tốt

các vấn đề xã hội bức bách để góp phần làm giảm bớt tình trạng bất bình đẳng

xã hội. Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội nghĩa là đời sống vật chất và tinh

thần của con người phải không ngừng được nâng cao trên thực tế, góp phần

phát triển lành mạnh các mối quan hệ xã hội, phát triển kinh tế mang tính bền

vững và phát triển toàn diện con người trên cơ sở bình đẳng, công bằng, tiến bộ

và dân chủ xã hội. Muốn vậy, Đảng và Nhà nước ta phải thường xuyên tổng kết

lý luận và thực tiễn bằng việc lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, trong đó có tư

tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội.

2.2. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

2.2.1. Mục đích, đối tượng của chính sách xã hội

Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc giành độc lập

cho Tổ quốc để đi tới một xã hội dân chủ, tự do, hạnh phúc, giàu mạnh là

hướng đi tất yếu của xã hội Việt Nam. Con đường phát triển đó xuất phát từ

thực tế Việt Nam gắn với xu thế của thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân

dân, thể hiện được triển vọng phát triển xã hội. Bản chất của chủ nghĩa xã hội

là nhân văn, nhân đạo thể hiện lý tưởng cao đẹp về giải phóng triệt để con

người và tạo ra sức mạnh nội sinh, động lực to lớn thúc đẩy xã hội đi lên phù

hợp với lý tưởng chân chính của dân tộc Việt Nam.

* Mục đích của chính sách xã hội

Thực chất của chủ nghĩa xã hội là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và

toàn diện mọi nhu cầu chính đáng có tính chất nhân văn của con người. Tự do,

Page 38: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

34

hạnh phúc của mọi người là cốt lõi của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa và

cũng là nội dung mang tính cốt lõi trong quan niệm phát triển xã hội của Chủ

tịch Hồ Chí Minh. Chính vì tự do, hạnh phúc của con người mà Người luôn

đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ

nghĩa xã hội chỉ có giá trị thật sự khi mang lại tự do, hạnh phúc cho con người.

Đối với Việt Nam, quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa là

bước tiến mới trong tiến trình phát triển lịch sử dân tộc. Quá trình cải tạo và

xây dựng xã hội mới thực sự là một cuộc cách mạng về mọi mặt của đời sống

xã hội, cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc

thượng tầng, khắc phục khuyết tật do chế độ cũ để lại, giải quyết những vấn đề

mới nảy sinh. Để giải quyết các vấn đề xã hội, một trong những nhiệm vụ cơ

bản là đề ra chính sách xã hội.

Chính sách xã hội luôn gắn liền với chế độ chính trị - xã hội nhất định.

Mỗi chế độ chính trị - xã hội sẽ quyết định bản chất của chính sách xã hội.

Chính sách xã hội xã hội chủ nghĩa khác về bản chất so với chính sách xã hội

trong xã hội do các giai cấp bóc lột thống trị. Dưới chế độ dân chủ mới - dân

chủ xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải

đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, con người vừa là mục tiêu,

vừa là động lực của cách mạng, phải coi trọng, chăm sóc, phát huy nhân tố con

người. Mục tiêu ấy không những định hướng cho chính sách xã hội mà còn

định hướng cho các chính sách khác. Ngược lại, thông qua việc hoạch định và

thực thi hệ thống các chính sách, trong đó có chính sách xã hội, thể hiện được

bản chất ưu việt của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây

dựng. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định:

Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng

sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động

được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa

bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh

thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội [101, tr.438].

Page 39: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

35

Quan điểm trên đây đã định hướng cho mọi chủ trương, chính sách của

Đảng và Nhà nước, một chủ nghĩa xã hội như vậy, đầy sức hấp dẫn đối với

nhân dân Việt Nam, ai cũng muốn phấn đấu cho sự thắng lợi của chủ nghĩa xã

hội. Tựu trung lại, trục xuyên suốt trong quan niệm Hồ Chí Minh về chủ nghĩa

xã hội là một xã hội “dân giàu, nước mạnh”, dân và nước là hai mặt thống nhất,

trong đó, dân là gốc nước, dân có giàu thì nước mới mạnh và nước mạnh thì

dân giàu. Mối quan hệ thống nhất giữa dân và nước đặt trong mối quan hệ

thống nhất giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Theo nghĩa đó, “nếu nước

được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có

nghĩa lý gì” [92, tr.64]. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay việc làm cho dân

có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành.

Sau khi giành được chính quyền, thiết lập nhà nước do nhân dân lao động

làm chủ và là chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra

nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách từng bước xóa bỏ tình trạng người áp

bức bóc lột người, giải phóng sức sản xuất, phát triển sản xuất, từng bước xóa

bỏ nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân lao

động. Rõ ràng, chủ nghĩa xã hội là xã hội vì con người, tất cả vì hạnh phúc con

người thông qua việc điều tiết và làm lành mạnh các quan hệ xã hội để hình

thành một cơ cấu xã hội phù hợp, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế,

hoàn thiện các quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Vì vậy, chính

sách xã hội dưới chủ nghĩa xã hội quan tâm đến con người một cách toàn diện

nhằm phát huy nhân tố con người, để đến lượt nó, con người với tư cách là chủ

thể, là động lực sáng tạo nên mọi tiến bộ và phát triển xã hội.

Mục đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh lấy việc

phục vụ con người làm mục đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con người

trong quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa. Con người ở đây

với tư cách là người lao động được giải phóng không chỉ là động lực của chủ

nghĩa xã hội, mà còn là mục tiêu của chính sách xã hội. Cần lưu ý rằng, mỗi

chế độ chính trị - xã hội, mỗi giai cấp có quan điểm giải quyết các vấn đề xã

hội khác nhau, nên chính sách xã hội cũng khác nhau. Tính giai cấp của chính

Page 40: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

36

sách xã hội đại diện cho nguyện vọng, ý chí và lợi ích của giai cấp thống trị xã

hội. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, không ít người đã mô tả một cách thái quá

sự giàu có về vật chất, cường điệu về sự quan tâm đầy đủ của giai cấp tư sản

đối với con người. Tính giai cấp của chính sách xã hội tư bản chủ nghĩa là

nhằm duy trì ách thống trị của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản sử dụng chính

sách xã hội làm công cụ mị dân, làm “cái van bảo hiểm” làm giảm áp lực của

cuộc đấu tranh giai cấp, phục vụ lợi ích và quyền lợi của giai cấp tư sản. Vì thế,

chính sách xã hội dưới chủ nghĩa tư bản phát triển tới mức độ nào đó, hình thức

biểu hiện có đa dạng, phong phú đến đâu thì bản chất vì lợi nhuận tối đa cho

giai cấp tư sản và mức sống tối thiểu cho người lao động vẫn không thay đổi

[114, tr.68-69].

* Đối tượng của chính sách xã hội

Dưới chế độ dân chủ mới ở Việt Nam, đứng trên lập trường giai cấp công

nhân, mục đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ vì

lợi ích của giai cấp công nhân, mà cả lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể

dân tộc Việt Nam. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tốt nhu cầu, lợi ích của

các giai cấp, tầng lớp và đông đảo quần chúng nhân dân. Không có gì khó khăn

khi nêu khẩu hiệu “vì hạnh phúc nhân dân”, “vì hạnh phúc con người” cho bất

kỳ kế hoạch, chủ trương nào. Nhưng, vấn đề là ở chỗ lời nói phải đi đôi với

việc làm. Bằng chính đời sống và mức sống cụ thể của mình, nhân dân cảm

nhận trực tiếp và chính xác lời nói và việc làm của Đảng và Nhà nước có thật

vì lợi ích của họ hay không [129, tr.43].

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng nhuần nhuyễn mối quan hệ giữa giai

cấp và dân tộc để không tách biệt một cách siêu hình các giai cấp, tầng lớp xã

hội cơ bản với các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Giai cấp và quan hệ giữa các

giai cấp, tầng lớp xã hội cơ bản là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan

tâm và chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng của Người. Vị thế,

vai trò và mối quan hệ của các giai tầng trong xã hội đã được Người chỉ ra,

phân tích sâu sắc và trở thành nền tảng tư tưởng cho các chủ trương, chính sách

xã hội của Đảng, Nhà nước tác động vào các giai cấp, tầng lớp, các nhóm xã

Page 41: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

37

hội đặc thù trong quá trình xây dựng xã hội mới. Trước lúc đi xa, trong Di

chúc, Người xác định rõ: “Đầu tiên là công việc đối với con người” - Đối tượng

của chính sách xã hội. Theo đó, Đảng và Nhà nước cần quan tâm giúp đỡ, tạo

điều kiện để những người có công với cách mạng có công ăn, việc làm thích

hợp, quyết không để họ đói rét. Đối với những chiến sĩ trẻ tuổi trong các lực

lượng vũ trang nhân dân và thanh niên xung phong, Đảng và Chính phủ cần

chọn một số ưu tú nhất cho đi học thêm các ngành, các nghề, để đào tạo họ

thành những cán bộ và công nhân có kỹ thuật giỏi, tư tưởng tốt, lập trường cách

mạng vững chắc. Đối với phụ nữ, Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch

thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ

trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Đối với những nạn nhân của chế

độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v…, thì Nhà nước

phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên

những người lao động lương thiện. Đối với nông dân, Đảng và Chính phủ miễn

thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ

hả, mát dạ lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất [103, tr.616-617].

Như vậy, giữa mục đích và đối tượng của chính sách xã hội có mối quan

hệ hữu cơ với nhau, theo đó, mục đích của chính sách xã hội phải hướng đến

đối tượng của chính sách xã hội nhằm góp phần trợ giúp những con người,

những nhóm xã hội, đồng thời, đảm bảo mức sống cho một số nhóm đối tượng

yếu thế, giúp họ vượt qua khó khăn khi gặp những rủi ro trong cuộc sống. Từ

đó cho thấy, chính sách xã hội là một trong những công cụ quản lý nhà nước, là

phương thức tổ chức hoạt động của đời sống xã hội. Chính sách xã hội không

chỉ giải quyết các vấn đề xã hội liên quan đến cuộc sống con người, làm cho

mỗi cá nhân trong cộng đồng người được khẳng định. Chính sách xã hội còn

góp phần điều hòa các mối quan hệ giữa lợi ích và trách nhiệm, cống hiến và

hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ của từng cá nhân, tập thể, của các giai cấp,

tầng lớp trong xã hội. Do vậy, chính sách xã hội là công cụ để khai thác mọi

tiềm năng của mỗi cá nhân cũng như của cả cộng đồng để thúc đẩy sự phát

triển mọi mặt của xã hội. Chính sách xã hội như là đòn bẩy kích thích tính tích

Page 42: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

38

cực lợi ích cá nhân, chuyển lợi ích cá nhân riêng lẻ thành động lực trực tiếp của

sự phát triển kinh tế xã hội và tác động, tạo điều kiện để xây dựng các mối

quan hệ xã hội trên cơ sở công bằng, bình đẳng.

Tóm lại, quan điểm về mục đích, đối tượng và vai trò của chính sách xã

hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện tư duy phát triển đầy tính sáng tạo

chủ nghĩa Mác - Lênin vào xây dựng xã hội mới ở Việt Nam, nhằm không

ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thân cho con người, điều tiết và làm

lành mạnh các mối quan hệ xã hội. Chỉ trên sở hoạch định và thực thi chính

sách xã hội lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi sự phát

triển mới tạo nên sức hấp dẫn của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng và

góp phần tạo nên đường hướng, nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành

động để Đảng và Nhà nước vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

2.2.2. Nội dung cơ bản của chính sách xã hội

2.2.2.1. Chính sách lao động và việc làm

Con người trong xã hội thuộc nhiều tầng lớp, thứ hạng khác nhau, nhưng

bao giờ Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dành tình cảm, tâm hồn, lòng yêu thương

cho những người cùng khổ. Vì muốn giải phóng cho những người cùng khổ mà

Người đã hiến cả đời mình cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp và giải phóng con người. Dưới chế độ thực dân, lao động của người

dân, đặc biệt là công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề và rơi vào tình cảnh bần

cùng hóa. Do vậy, khi nước nhà giành được độc lập, Người luôn nhấn mạnh sự

cần thiết phải “làm sao cho nhân dân có công ăn việc làm” [98, tr.65] để nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên. Muốn vậy, “chính quyền

và quân đội nhân dân phải bảo vệ cho nhân dân làm ăn yên ổn” [95, tr.487] và

“phải tuyên truyền rộng khắp các chính sách khuyến khích sản xuất” [98,

tr.213]. Ngoài ra, Người còn yêu cầu: “Phải ra sức khôi phục lại kinh tế: nông

nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp, vận tải” [97, tr.226] nhằm tạo ra công ăn

việc làm cho nhân dân lao động theo nguyên tắc “công và tư đều được chiếu

Page 43: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

39

cố, chủ và thợ đều có lợi. Các bạn công nhân hăng hái sản xuất. Bà con công,

thương hăng hái kinh doanh” [97, tr.80].

Như vậy, trong quan điểm Hồ Chí Minh, chính sách lao động và việc làm

giữ vị trí, vai trò quan trọng trong việc nâng cao đời sống nhân dân và khẳng

định trách nhiệm của chủ thể quản lý xã hội đối với quá trình tạo ra công ăn

việc làm cho người dân khi tham gia vào đời sống mới. Ngược lại, với tư cách

là người chủ đất nước, người dân phải luôn nhớ rằng “lao động là một nghĩa vụ

thiêng liêng của mỗi người công dân đối với Tổ quốc. Ai cũng phải tuỳ khả

năng mình mà tự nguyện tự giác tham gia lao động, góp phần xây dựng nước

nhà” [98, tr.545]. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh, lao động là nghĩa

vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi người, mọi nhà khi

nó mang lại lợi ích cho nhân dân, cho xã hội. Do vậy, trong lao động sản xuất

cần gạt bỏ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa vì đây là nguồn gốc đẻ ra căn bệnh lười

biếng, tham ô, thích hưởng thụ. Người từng nói:

Trong xã hội ta, không có nghề nào thấp kém, chỉ những kẻ lười

biếng, ỷ lại mới đáng xấu hổ. Người nấu bếp, người quét rác cũng

như thầy giáo, kỹ sư, nếu làm trọn trách nhiệm thì đều vẻ vang như

nhau. Ai sợ khó, sợ khổ, muốn “ngồi mát ăn bát vàng”, người đó mới

là kém vì không phải là người xã hội chủ nghĩa [101, tr.69].

Trong lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nêu cao quan điểm không

phân biệt ngành nghề, lao động chân tay hay lao động trí óc, thậm chí “người

lao động trí óc phải làm được lao động chân tay. Nếu lao động trí óc không làm

được lao động chân tay và lao động chân tay không có trí óc thì đó là người lao

động bán thân bất toại” [99, tr.400]. Do đó, cần phải xoá bỏ dần sự tách rời đó,

cần phải làm cho những người lao động trí óc và lao động chân tay đoàn kết

chặt chẽ với nhau, để cùng nhau xây dựng một xã hội mới tốt đẹp. Tuy nhiên,

Người cũng đưa ra quan điểm về sự cần thiết phải dùng hình thức kỷ luật lao

động nhằm nâng cao nhận thức lao động, nhất là cho người lao động chân tay

để khắc phục tình trạng vô kỷ luật trong lao động sản xuất và tạo ra sự công

Page 44: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

40

bằng xã hội cho người tham gia lao động. Ngược lại, người tham gia lao động

phải tự giác giữ kỷ luật lao động, phải giữ gìn của công và thực hành tiết kiệm.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người nói chung, người lao động và

công nhân nói riêng là vốn quý nhất. Cho nên, trong sản xuất phải bảo đảm an

toàn lao động, bảo vệ tính mạng và sức khỏe cho người lao động, vì “nếu để

xảy ra tai nạn là thiệt chung cho bản thân, gia đình, cho Đảng, Chính phủ và

nhân dân. Người bị nạn không đi làm được, gia đình sẽ gặp khó khăn, sức lao

động của nhân dân do vậy cũng kém sút” [100, tr.142]. Xuất phát từ bản chất

tốt đẹp của xã hội xã hội chủ nghĩa nhằm làm cho nhân dân lao động, trong đó

có công nhân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm,

được ấm no và hạnh phúc, theo Người, Nhà nước, Công đoàn phải quan tâm

đến đời sống cá nhân, đến điều kiện sinh hoạt vật chất, “phải làm tốt công tác

bảo hộ lao động. Phải thật sự chăm nom nơi ăn, nhà ở của công nhân, viên

chức” [101, tr.434], “phải cải thiện dần đời sống công nhân, nâng cao đời sống

vật chất, văn hóa của giai cấp công nhân nói riêng và của nhân dân nói chung”

[98, tr.479]. Chính sách lao động và việc làm phải đảm bảo tính công bằng, hợp

lý trong phân công và sử dụng lao động. Người lưu ý: “Sức người có nhiều

loại: có thanh niên, có phụ nữ, có người trẻ, có người già. Phải phân công cho

hợp lý, người khỏe thì làm việc nặng, người yếu thì làm việc nhẹ” [103, tr.259].

Qua việc phân tích nêu trên cho thấy tư duy biện chứng của Chủ tịch Hồ

Chí Minh trong việc giải quyết mối quan hệ giữa lao động, việc làm với việc

nâng cao đời sống cho nhân dân lao động. Chỉ trên cơ sở giải quyết tốt lao

động và việc làm mới phát huy vai trò to lớn của nhân dân lao động đối với quá

trình xây dựng xã hội mới, khẳng định bản chất tốt đẹp và nhân văn của chế độ

xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn phấn đấu vì mục tiêu mang lại hạnh

phúc cho con người, sự phồn thịnh cho đất nước.

2.2.2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo

Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh, chỉ có chế độ xã hội chủ nghĩa mới

làm cho mọi người Việt Nam trở nên giàu có. Điều này nói lên sự khác biệt về

Page 45: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

41

chất và tính nhân văn sâu sắc của chế độ xã hội mà toàn Đảng, toàn quân, toàn

dân lựa chọn và quyết tâm xây dựng thành công để đạt đến mục tiêu phát triển

xã hội, làm cho các quan hệ xã hội mang tính nhân bản và đạt đến trình độ

người cao nhất. Người nói: “Miền Bắc nhất định phải tiến lên chủ nghĩa xã

hội” [103, tr.627]. Từ hoài bão lớn nhất đến quyết định lựa chọn mô hình phát

triển xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa thể hiện tư tưởng mang tính nhất

quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hoài bão lớn nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dân tộc Việt Nam hoàn

toàn được độc lập, nhân dân được sống trong tự do, hạnh phúc. Người nói:

“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được

hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo

mặc, ai cũng được học hành” [103, tr.627]. Đó là mục đích cao cả, nhất quán,

xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn phấn

vì một nước Việt Nam độc lập, con người thoát khỏi mọi áp bức, bất công, đói

nghèo, để không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào.

Sinh thời, Người dành tất cả lòng hiền từ ấm áp cho đồng bào, già, trẻ, gái, trai,

miền Bắc, miền Nam, miền xuôi, miền ngược. Trước lúc đi xa, Người còn “để

lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho

các cháu thanh niên và nhi đồng” [103, tr.628].

Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu cuộc sống đói khổ đến cùng

cực của nhân dân Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong

kiến tay sai. Hậu quả để lại ở Việt Nam sau gần một thế kỷ sống dưới chế độ

“cướp của, giết người và hiếp dâm” là “người nghèo khổ thì nhiều, người no

ấm thì ít” [93, tr.113]. Sự nô dịch và bóc lột tàn bạo của bọn thực dân Pháp

không chỉ để lại đói nghèo, dốt nát cho cả một dân tộc mà còn triệt tiêu mọi

khả năng để phát triển con người. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng đất

nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Người cho rằng:

Page 46: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

42

Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,

thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do,

của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.

Chúng ta phải thực hiện ngay:

1. Làm cho dân có ăn.

2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành [92, tr.175].

Có thể coi đây là những phác thảo đầu tiên về chính sách xóa đói, giảm

nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi dân tộc Việt Nam vừa mới giành độc lập.

Cùng với dốt nát, giặc ngoại xâm, Người coi đói khổ là một trong những loại

giặc cần phải kiên quyết tiêu diệt. Do đó, diệt giặc đói là việc làm cần thiết và

cấp bách nhằm mục tiêu phấn đấu đưa nhân dân thoát khỏi nạn bần cùng, mọi

người có cuộc sống ấm no, có công ăn, việc làm và đời sống hạnh phúc. Để xóa

đói, giảm nghèo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tăng gia

sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người yêu cầu phải thực hiện “Tăng gia sản

xuất! Tăng gia sản xuất ngay! Tăng gia sản xuất nữa! Đó là khẩu hiệu của ta

ngày nay. Đó là cách thiết thực của chúng ta để giữ vững quyền tự do, độc lập”

[92, tr.135]. Còn phong trào thực hành tiết kiệm gạo không chỉ góp phần cứu

đói, cứu dân nghèo, mà còn thể hiện nghĩa cử cao đẹp của Người đối với việc

xóa đói, giảm nghèo. Người nói: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến

kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào

cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng

nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [92, tr.33].

Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần nhân

văn sâu sắc, chứa đựng triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển xã

hội. Theo đó, một đất nước mà người dân còn nghèo, thiếu ăn, thiếu mặc thì ở

đó xã hội còn chưa phát triển. Đối với chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt

Page 47: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

43

Nam, mục tiêu làm cách mạng là vì dân, mang lại lợi ích cho dân, “phải đem

hết sức dân, tài dân, của dân làm cho dân” [93, tr.75]. Do vậy, việc để người

dân phải sống trong cảnh đói nghèo thì trách nhiệm thuộc về Đảng và Chính

phủ. Vì vậy, Đảng và Chính phủ phải chăm lo đời sống của nhân dân, phải lãnh

đạo, tổ chức nhân dân chăm lo sản xuất, ra sức thực hành tiết kiệm. Người nói:

“Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống

của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và

Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là

Đảng và Chính phủ có lỗi” [97, tr.518]. Quan điểm này của Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã định hướng cho chủ thể quản lý, mà trước hết ở vai trò, trách nhiệm

của Đảng và Chính phủ khi hoạch định, thực hiện chính sách xã hội phải luôn

đảm bảo dân sinh, nâng cao dân trí và hiểu rõ dân tình. Trách nhiệm này vô

cùng nặng nề nhưng cũng rất vẻ vang, vì hễ còn người dân nào bị bóc lột, bị

nghèo nàn, thì Đảng và Chính phủ chưa làm tròn nhiệm vụ. Vì lẽ đó, trong Di

chúc, Người căn dặn Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế,

văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân.

Tóm lại, từ quan điểm coi đói nghèo là giặc đến quyết tâm “đánh đuổi”,

“tiêu diệt” đói nghèo nhằm mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho

con người thể hiện triết lý sâu sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói,

giảm nghèo. Thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm

nghèo trong quản lý phát triển xã hội, đòi hỏi phải coi việc xóa đói, giảm nghèo

là một trong những tiêu chí, thước đo quan trọng đánh giá về tính đúng đắn của

chính sách xã hội, tính nhân văn của thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa mà Việt

Nam đang xây dựng.

2.2.2.3. Chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt

quan tâm đến việc chăm lo sức khỏe cho toàn dân. Người xác định sức khỏe là

vốn quý nhất của con người, là một trong những yếu tố quyết định thắng lợi

Page 48: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

44

của mọi công việc, thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người

từng nói: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân

mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ…Dân cường thì quốc thịnh” [92, tr.241].

Sức khỏe quan trọng là như thế, cho nên Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn

coi trọng quyền bình đẳng được bảo vệ sức khỏe cho mọi người dân. Do đó,

việc phục vụ sức khỏe toàn dân cần giảm thiểu những chênh lệch về khoảng

cách giàu nghèo, cấp chức, vùng miền trong cả nước, phải hướng tới mọi người

dân, đồng thời phải chú trọng đến các đối tượng ưu đãi và chính sách xã hội.

Người dân phải được bình đẳng về quyền được khám chữa bệnh, được nằm

viện điều trị khi cần, được hưởng thuốc theo bệnh và sử dụng các phương pháp

điều trị phù hợp. Thực hiện quyền bình đẳng trong y tế cho mọi người dân, bởi

lẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn ý thức rằng: “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân

được đảm bảo thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì

kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công” [96, tr.154].

Cần lưu ý rằng, sức khỏe ở đây không chỉ là sức khỏe toàn dân mà còn mang

tính toàn diện, tức là phải làm sao cho mọi người đều vui khỏe cả về tinh thần

và thể chất. Quan điểm về sức khỏe toàn diện của Người được đưa ra từ rất

sớm, mang tính hiện đại và sau này rất tương đồng với Tuyên ngôn Alma Ata

khi định nghĩa về sức khỏe phải là sự thoải mái về tâm hồn và thể chất đối với

toàn xã hội. Qua đó cho thấy, sức khỏe còn hàm chứa trong đó cả chất lượng

cuộc sống, hiệu quả đóng góp của cuộc sống đối với sự phát triển của xã hội.

Theo các chuyên gia y tế thế giới, sự tác động của y học và y tế là một

trong năm yếu tố chính tác động đến sức khỏe của con người. Chủ tịch Hồ Chí

Minh xếp y tế ở nhóm ưu tiên, là hoạt động không thể thay thế. Người luôn coi

trọng công tác y tế vì đây là lĩnh vực quan trọng, trực tiếp chăm lo sức khỏe

cho con người. Người nhận thức sâu sắc rằng, dưới chế độ thực dân, phong

kiến, y tế chỉ phục vụ quyền lợi cho thực dân, tay sai và những người giàu có

trong xã hội, sức khỏe của quảng đại quần chúng không được đảm bảo, hơn

nữa, lĩnh vực y tế chỉ chú trọng về điều trị mà không quan tâm đến công tác

phòng bệnh. Người yêu cầu hoạt động y tế trong chăm sóc sức khỏe nhân dân

Page 49: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

45

phải thực hiện phương châm dự phòng là chính, kết hợp phòng bệnh với chữa

bệnh và kết hợp đông - tây y theo nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng.

Bảo vệ sức khỏe là trách nhiệm của mọi người dân, là nhiệm vụ của Đảng

và Nhà nước, nhưng ngành y tế giữ vai trò nòng cốt, trong đó đội ngũ cán bộ

thầy thuốc trực tiếp làm nhiệm vụ này. Cũng như các hoạt động xã hội khác,

mặt trận y tế cần có đội ngũ cán bộ trong công tác bảo vệ sức khỏe nhân dân.

Số lượng và chất lượng cán bộ y tế là khâu then chốt trong tổ chức và hoạt

động của bộ máy y tế. Theo đó, “cán bộ cần phải thương yêu, săn sóc người

bệnh như anh em ruột thịt của mình, coi họ đau đớn cũng như mình đau đớn”

[97, tr.343] và “Lương y phải như từ mẫu”. Trong quan niệm Hồ Chí Minh, y

tế là một mặt trận đặc biệt nên cần đến vai trò của những người cán bộ vừa có

tài, vừa có đức, vừa có kiến thức khoa học, vừa có lòng vị tha, giàu lòng bác ái.

Đức là gốc, là cần thiết của người thầy thuốc, nhưng chữa bệnh cho người, y

học lại là một khoa học thật sự. Vì thế, người thầy thuốc không chỉ có đức mà

cần phải có trình độ, hiểu biết chuyên môn, phải có tài. Khác với nhiều lĩnh

vực, trong y học, khám chữa bệnh cho người dân không được phép sai sót, bởi

lẽ đằng sau các chẩn đoán, cách điều trị đúng hay sai là tính mạng một con

người, là sự sống hay cái chết. Vì thế, người thầy thuốc không chú tâm học tập,

nghiên cứu, tu nghiệp, không có kiến thức và hiểu biết thì không được hành

nghề y, khám chữa bệnh cho mọi người. Đức và tài được Chủ tịch Hồ Chí

Minh nhìn nhận trong sự thống nhất biện chứng, trong đó, đạo đức làm tiền đề

cho tài phát triển, ngược lại, tài giỏi sẽ làm cho các ý tưởng, mong muốn đạo

đức được hiện thực hóa, tình thương người có cơ sở thực tế, thông qua hành

động và việc làm cụ thể.

Ngành y tế giữ vai trò nòng cốt trong việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe

nhân dân, nhưng mỗi người dân phải nêu cao ý thức bảo vệ sức khỏe của mình

trong xây dựng xã hội mới bằng việc thường xuyên luyện tập thể dục, phải

quan tâm đến giữ gìn vệ sinh. Mỗi hoạt động lớn hay nhỏ, ở từng con người,

từng tập thể hay đơn vị, địa phương nếu có lợi cho sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí

Page 50: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

46

Minh đều cho đó là thể hiện tinh thần yêu nước. Người coi thể dục là biện pháp

tốt để rèn luyện sức khỏe, thân thể khỏe mạnh. Người gọi phong trào diệt muỗi

của nhân dân là “vệ sinh yêu nước” vì nó không chỉ liên quan đến công tác vệ

sinh mà nó còn có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa. Người còn yêu

cầu: “Trong nhà ngoài vườn, luôn luôn sạch sẽ gọn gàng” [93, tr.118], “đường

sá phải sạch sẽ. Ao tắm giặt, giếng nước uống phải phân biệt và săn sóc cẩn

thận. Những ao hồ không cần thì lấp đi, cho đỡ muỗi” [93, tr.119]. Vì theo

Người, “sạch sẽ tức là một phần đời sống mới. Sạch sẽ thì ít đau ốm. Sức khoẻ

thì làm được việc, làm được việc thì có ăn. Xem đó thì biết rằng ai cũng nên

làm đời sống mới” [93, tr.114].

Quan điểm Hồ Chí Minh về chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân thể

hiện tính nhân văn, khoa học. Tính biện chứng trong tư duy của Người khi

khẳng định y tế là một mặt trận đặc biệt nên cần đến những người thầy thuốc

vừa có tài vừa có đức, vừa có vừa kiến thức y học vừa có lòng vị tha, độ lượng.

Quan điểm của Người mang giá trị khoa học, nhân văn sâu sắc, không chỉ trở

thành nền tảng lý luận cho sự hình thành và phát triển nền y học Việt Nam tiên

tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc truyền thống, mà còn định hướng cho việc hoạch

định và thực thi chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân trong giai

đoạn hiện nay.

2.2.2.4. Chính sách đối với người có công với cách mạng

Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, nhằm thực hiện bản

chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới, đồng thời kế thừa và phát huy đạo lý truyền

thống ngàn đời của dân tộc “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng

cây”, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, bệnh binh, thân nhân

các liệt sĩ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc. Bởi lẽ, trong tiến trình cách mạng

Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến

chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hàng triệu người con ưu tú của

dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sự sống của mình cho Tổ quốc.

Page 51: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

47

Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ, những người vợ, người chồng

và những người con đã mãi mãi không thể gặp lại người thân của mình.

Ngay từ những năm tháng ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân

Pháp xâm lược, Người đã chỉ thị chọn một ngày trong năm làm “Ngày Thương

binh”. Thực hiện chỉ thị của Người, một Hội nghị trù bị gồm đại biểu của các

cơ quan, các ngành ở trung ương, khu và tỉnh đã họp ở Phú Minh, Đại Từ, Thái

Nguyên và nhất trí lấy ngày 27- 7- 1947 làm “Ngày Thương binh, liệt sĩ” đầu

tiên trong cả nước. Từ đó, ngày 27- 7 hàng năm đã trở thành “Ngày Thương

binh, liệt sĩ” của cả nước. Đối với mỗi người dân Việt Nam:

Ngày 27- 7 là một ngày kỷ niệm. Mỗi năm đến ngày ấy, thì những

người ái quốc Việt Nam càng tưởng nhớ đến anh em thương binh,

tưởng nhớ đến các gia đình tử sĩ, tưởng nhớ đến những người vô

danh anh hùng, hoặc đã hy sinh tính mệnh, hoặc đã góp một phần

xương máu trong cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc ta [94, tr.415].

Đến ngày 27- 7 hàng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gửi thư động viên,

khích lệ cho thương binh và các gia đình liệt sĩ. Không chỉ gửi thư, Người còn

trích một tháng lương của mình và dành những món quà để tặng thương binh.

Ngoài ra, Người còn đi thăm một số cơ sở chăm sóc thương binh, thăm những

gia đình có công với cách mạng, gia đình có đông con đi bộ đội và gia đình liệt

sĩ. Dù bận nhiều việc trong lãnh đạo kháng chiến, nhưng Người vẫn dành thời

gian đến viếng các nghĩa trang liệt sĩ. Người viết:

Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng công trạng to lớn của các liệt sĩ đã ghi

sâu vào lòng dạ của toàn dân và non sông đất nước.

Các liệt sĩ đã hy sinh, nhưng chí khí dũng cảm của các liệt sĩ đã thấm

nhuần vào tâm hồn của toàn quân và dân ta trong cuộc kiên quyết

đấu tranh đặng giành hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ trong

cả nước.

Máu nóng của các liệt sĩ đã nhuộm lá Quốc kỳ vẻ vang càng thêm

thắm đỏ. Tiếng thơm của các liệt sĩ sẽ muôn đời lưu truyền với sử

xanh [97, tr.223].

Page 52: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

48

Quan điểm nhất quán của Người đối với thương binh, bệnh binh và gia

đình liệt sĩ là dù trong hoàn cảnh nào cũng giúp họ từng bước ổn định và nâng

cao dần đời sống vật chất, tinh thần. Người thường xuyên nhắc các cơ quan và

các đoàn thể phải thực hiện thật tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước đối

với thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với cách mạng; phải có

những việc làm thiết thực để đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ,

những người có công, giúp họ ổn định cuộc sống, có cơ hội tham gia vào các

hoạt động của xã hội và góp phần vào việc xây dựng đất nước.

Việc giúp đỡ phải thiết thực, cụ thể, có tổ chức và tùy theo khả năng của

từng người. Vì đây là công việc tình nghĩa, nên tuyệt đối không cưỡng bức và

cần giúp đỡ lâu dài chứ không chỉ trong một thời gian ngắn, không phải bằng

cách góp gạo nuôi thương binh, mà bằng cách tạo điều kiện và công ăn việc

làm cho họ. Mọi người nên coi đây là một nghĩa vụ, chứ không phải là một

việc “làm phúc”.

Với các thương binh, bệnh binh, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Đã là

quân nhân cách mạng thì bao giờ cũng phải là chiến sĩ anh dũng. Tránh ỷ lại,

công thần, kém kỷ luật, kém tin tưởng, không tích cực công tác, không bi quan

chán nản. Phải luôn luôn cố gắng đem hết khả năng của mình để tăng gia sản

xuất, dần dần có thể tự lực cánh sinh, tiến tới tự cấp tự túc, giảm bớt khó khăn

cho bản thân, gia đình và xã hội. Phấn đấu để trở thành người công dân kiểu

mẫu ở hậu phương cũng như các đồng chí đã làm người chiến sĩ kiểu mẫu ở

ngoài mặt trận.

Xuất phát từ tình cảm và sự quan tâm sâu sắc đối với những người có

công với nước, với các gia đình thương binh liệt sĩ, trong suốt 24 năm lãnh đạo

đất nước, từ khi Cách mạng tháng Tám thành công cho đến trước lúc đi xa,

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta lời căn

dặn cuối cùng trong Di chúc về thương binh, liệt sĩ. Người chỉ rõ:

Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của

mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong,…),

Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi

Page 53: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

49

ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp

với mọi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây

dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh của các liệt sĩ, để đời

đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.

Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao

động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì

chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ họ có

công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ đói rét [103, tr.616].

Tình cảm thân thương, niềm tin và sự quan tâm của Người là định

hướng, là chỗ dựa về mặt tinh thần vững chắc, là nguồn động viên, cổ vũ lớn

lao để bộ đội, chiến sĩ vượt qua mọi khó khăn, thử thách phấn đấu hoàn thành

nhiệm vụ của mình trước vận mệnh của nước nhà trong mọi giai đoạn lịch sử.

Quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách đối với người có công với cách mạng

không chỉ ghi nhận lòng biết ơn sâu sắc của Nhà nước, cộng đồng và xã hội,

mà còn thể hiện tinh thần nhân văn cao cả của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa

mà chúng ta đang xây dựng, góp phần ổn định chính trị - xã hội, giữ vững thể

chế, tạo điều kiện cho phát triển đất nước trong thế ổn định, bền vững của

hiện tại và tương lai.

2.2.3. Yêu cầu thực hiện chính sách xã hội

2.2.3.1. Chính sách xã hội phải gắn với quản lý xã hội

Trong bất kỳ thể chế chính trị - xã hội nào cũng đều quan tâm đến vấn đề

quản lý xã hội. Đối với Việt Nam, quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã

hội chủ nghĩa cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong điều kiện lịch sử nước

ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu, bị

chiến tranh tàn phá nặng nề, nhiệm vụ quản lý xã hội là một quá trình không

ngừng đổi mới và hoàn thiện.

Quản lý xã hội là sự tác động khoa học của các cơ quan lãnh đạo điều

hành, quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội, nhằm đảm bảo cho xã hội hoạt

động và phát triển tối ưu, đạt tới mục đích đề ra. Quá trình quản lý xã hội mang

Page 54: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

50

tính khoa học là quá trình kết hợp lý luận với thực tiễn, kết hợp những nguyên

lý của chủ nghĩa xã hội khoa học với hành động có trách nhiệm và sáng tạo của

các tầng lớp nhân dân. Đó là sự kết hợp giữa việc nghiên cứu đề ra các đường

lối đến việc đưa đường lối vào cuộc sống bằng các biện pháp tổ chức và các

chính sách xã hội [106, tr.12]. Ngược lại, chính sách xã hội có vai trò và tác

động trở lại đối với quản lý xã hội. Chính sách xã hội là một “phương tiện” của

quản lý xã hội, một bộ phận của quản lý xã hội.

Bàn về quản lý xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Quản lý một

nước cũng như quản lý một doanh nghiệp: Phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc

gì phải làm ngay, việc gì phải chờ, hoãn hay bỏ, món nào đáng tiêu, người nào

đáng dùng: tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận” [6, tr.110]. Chủ tịch Hồ

Chí Minh hiểu rất rõ quản lý xã hội là sự nhận thức, tính toán, cân đối, bố trí và

sử dụng các nguồn lực của đất nước, của nhân dân một cách hợp lý nhằm đem

lại hiệu quả cao nhất và mang tính bền vững. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí

Minh hết sức hiện đại, đúng đắn, không chỉ phù hợp với điều kiện của Việt

Nam mà còn đúng cho mọi quốc gia, dân tộc trong quản lý phát triển xã hội

phải đạt đến sự tiến bộ và phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nội dung quản lý xã hội phong phú, rộng

lớn bao gồm hệ thống vấn đề xã hội liên quan trực tiếp đến đời sống con người:

lao động và việc làm, tình trạng đói nghèo, dân số, sức khỏe nhân dân,… Do

đó, đòi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo và một hệ thống các cơ quan quản lý

chuyên nghiệp. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, dưới chế độ ta, quản lý xã hội

phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là Đảng

cầm quyền, là đại biểu trung thành cho lợi ích không chỉ của giai cấp công

nhân, nhân dân lao động mà cho cả dân tộc Việt Nam. Đảng và Nhà nước

hoạch định đường lối, chủ trương, sử dụng các công cụ hành chính và pháp lý

để tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua

vai trò quản lý của Nhà nước và nếu biết dựa vào nhân dân thì mới phát huy

được tính hiệu quả. Mặc dù chưa chính thức sử dụng phạm trù “Đảng lãnh

đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” với tư cách là cơ chế quản lý xã

Page 55: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

51

hội, nhưng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên đề cập đến cơ

chế này.

Người nhiều lần nói rõ, Đảng phải “một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc

và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích

gì khác” [97, tr.31]. Người đòi hỏi Đảng phải là đạo đức, là văn minh, là người

lãnh đạo đồng thời là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, phải không

ngừng đổi mới chỉnh đốn Đảng, phải giữ mối quan hệ máu thịt với nhân dân.

Đảng phải giữ được vai trò là người chỉ lối, dẫn đường cho nhân dân làm cách

mạng. Đảng phải kính yêu nhân dân, phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của

nhân dân, phải có tinh thần chí công vô tư, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ.

Giữ vai trò là chủ thể quản lý xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà

nước là một tổ chức để thực thi quyền lực của nhân dân và có trách nhiệm phục

vụ nhân dân. Từ quan niệm “lấy dân làm gốc”, đã hình thành một Nhà nước

của dân, do dân và vì dân. Người nhấn mạnh:

Dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng. Vì vậy, chúng

ta phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng. Vì

vậy, mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của

chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải

nghe theo nguyện vọng của dân chúng. Mà muốn hiểu biết, học hỏi

dân chúng, thì ắt phải có nhiệt thành, có quyết tâm, phải khiêm tốn,

phải chịu khó. Nếu không vậy, thì dân chúng sẽ không tin chúng ta.

Biết, họ cũng không nói. Nói, họ cũng không nói hết lời. Dân chúng

đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì

làm cũng không nên [93, tr.333].

Nhân dân làm chủ mọi mặt của đời sống xã hội thông qua vai trò hướng

dẫn của Đảng và Nhà nước. Vai trò hướng dẫn của Đảng và Nhà nước được thể

hiện ở việc xác định đúng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật để nhân

dân phát huy tối đa vai trò là chủ và làm chủ của mình. Do vậy, trong quản lý

xã hội, nhân dân không chỉ là đối tượng chỉ biết thực thi các chính sách, quyết

Page 56: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

52

định quản lý mà phải trở thành mục tiêu và động lực của quá trình quản lý, là

chủ thể đích thực, có địa vị cao nhất trong hệ thống quyền lực quản lý ở nước

ta. Bản chất dân chủ của quản lý xã hội trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh

chính là ở điểm mấu chốt này.

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến đến vai trò và trách

nhiệm của chủ thể quản lý xã hội. Theo đó, quản lý xã hội đòi hỏi một năng lực

tổng hợp về các phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn

nghiệp vụ để không ngừng đổi mới tư duy, trau dồi tác phong sâu sát thực tiễn,

liên hệ mật thiết với nhân dân. Nhiệm vụ của chủ thể quản lý xã hội không phải

chỉ đề ra hệ thống các chính sách, mà chủ thể quản lý xã hội còn phải tự đổi

mới, tự chỉnh đốn và tự hoàn thiện để không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị,

nắm vững tâm lý xã hội, đặc điểm lịch sử, truyền thống văn hóa mỗi quốc gia,

dân tộc mà đưa ra phương thức lãnh đạo mới phù hợp với xu thế phát triển của

xã hội.

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn yêu cầu chủ thể quản lý xã hội cần

phải biết tiếp thu sáng tạo, có chọn lọc các giá trị quốc tế và hiện thực nó vào

trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách xã hội. Nguyên tắc phương

pháp luận này không chỉ mở ra đường lối đối ngoại và hợp tác quốc tế cho

nước Việt Nam độc lập, thông qua đó, chủ thể quản lý còn sử dụng sức mạnh

thời đại như là động lực bên ngoài góp phần nâng cao hiệu quả việc hoạch định

và thực thi chính sách xã hội. Với phương châm Việt Nam muốn “Làm bạn với

tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai” [93, tr.256], Chủ tịch

Hồ Chí Minh đã không chỉ vạch ra, mà còn thực hiện nguyên tắc chung sống

hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Với các nước dân

chủ, Việt Nam sẵn sàng mở cửa, hợp tác mọi lĩnh vực. Với các nước khác, sẵn

sàng mở rộng các cảng, sân bay, đường giao thông và cho quá cảnh quốc tế.

Với các tổ chức quốc tế, Việt Nam sẵn sàng tham gia mọi tổ chức kinh tế quốc

tế và các tổ chức quốc tế khác. Với cá nhân các nhà tư bản, kể cả Pháp và Mỹ,

sẵn sàng hợp tác, cộng tác trong các lĩnh vực chuyên môn, kỹ thuật, thương

Page 57: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

53

mại; sẵn sàng dành sự tiếp nhận thuận lợi cho việc đầu tư các ngành kỹ nghệ

[115, tr.239]. Những khởi xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế

đã định hướng cho đường lối đối ngoại của Đảng ta mang tính độc lập, tự chủ,

đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế trong giải quyết các vấn đề xã

hội giai đoạn hiện nay.

Trong quản lý xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vai trò của

pháp luật và mối quan hệ của nó với quản lý xã hội. Pháp luật là nhân tố quan

trọng nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội và là công cụ hữu hiệu nhất để quản lý

xã hội. Theo Người, pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải nghiêm minh và

phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước ta cũng sử dụng pháp luật để quản lý xã

hội. Song, pháp luật của ta đã có sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai

cấp công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ,

vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Đây là điểm

khác biệt về chất giữa luật pháp của ta với luật pháp của chế độ thực dân,

phong kiến ở Việt Nam trước đây. Luật pháp của chế độ thực dân, phong kiến

đặt ra là để giữ gìn trật tự xã hội theo hướng có lợi cho chế độ thực dân, phong

kiến, không có lợi gì cho toàn thể nhân dân lao động.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vai trò pháp luật trong quản lý xã hội không

phải là để trừng trị con người mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con

người. Tư tưởng pháp quyền của Người không chỉ dừng lại ở các quyền con

người được ghi trong các văn bản pháp luật mà còn thấm đượm một tấm lòng

thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân, thấm đượm

lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo lý truyền thống ngàn năm của dân tộc

Việt Nam. Vì thế, pháp quyền Hồ Chí Minh là pháp quyền đặc biệt, pháp

quyền nhân nghĩa - một thứ nhân nghĩa có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân

tộc và dân chủ sâu sắc. Điều này được thể hiện nhất quán và xuyên suốt từ sau

khi Cách mạng tháng Tám thành công đến thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội

khi Người khẳng định:

Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự

do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có

Page 58: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

54

tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải

tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do quá

mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp [88, tr.178].

Trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh về quản lý xã hội là sự thống nhất

giữa chính trị, đạo đức và văn hóa. Một thứ chính trị rất đạo đức và cũng rất

văn hóa; một thứ đạo đức, văn hóa cũng rất chính trị. Với ý nghĩa đó, khi

nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về quản lý xã hội cần nhận thức đầy đủ về

mối quan hệ giữa vai trò điều hành xã hội của pháp luật với việc giáo dục đạo

đức, nâng cao trình độ giác ngộ, tự giác của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh

cho rằng, trong cuộc đấu tranh chống lại các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã

hội, rất cần đến vai trò nghiêm minh của pháp luật vì “Nếu nhất luật không xử

phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn

toàn không dùng xử phạt là không đúng. Mà chút gì cũng dùng đến xử phạt

cũng không đúng” [93, tr.324]. Do đó, theo Người, “Pháp luật phải thẳng tay

trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì” [94,

tr.127]. Trong quản lý xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhận thức tham

ô, lãng phí, quan liêu là kẻ thù của nhân dân, là trở lực của sự nghiệp xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Nó là giặc nội xâm, giặc trong lòng, là con đẻ của chủ nghĩa

cá nhân nên việc đấu tranh chống lại những thứ giặc đó luôn là vấn đề cần kíp

và quan trọng. Nhằm răn đe đồng thời để giáo dục cán bộ, Người dẫn lại lời

của Lênin:

Không xử bắn lũ ăn của đút lót, mà xử một cách pha trò, mềm mỏng

nhẹ nhàng như vậy, - đó là một điều xấu hổ cho những đảng viên

cộng sản, cho những người cách mạng. Cần phải nêu những đồng chí

đã ăn hối lộ ra để cho dư luận quở trách và cần phải đuổi họ ra khỏi

Đảng… Phải lập tức đề nghị một đạo luật để trừng trị những vụ hối

lộ (ăn hối lộ, tặng hối lộ, và những cách hối lộ khác). Ít nhất cũng

phải phạt 10 năm giam cầm và 10 năm khổ sai [95, tr.364].

Trong khi khẳng định vai trò nghiêm minh của pháp luật trong quản lý xã

hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không

Page 59: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

55

đúng. Do đó, trong chỉ đạo hoạt động của Đảng và Nhà nước cần chú ý đến yếu

tố “có lý, có tình”. Hai yếu tố này gắn chặt với nhau trong việc xây dựng cũng

như quá trình thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Tư duy biện chứng Hồ Chí

Minh khi bàn về vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội đó chính là sự kết

hợp nhuần nhuyễn, thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”. Theo Người, “giáo

dục là chính, trừng phạt là phụ” [95, tr.361]. Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ

quyền lợi chính đáng của nhân dân lao động, bằng tấm lòng độ lượng, khoan

dung, Người dùng sức cảm hóa để ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực, luôn đấu

tranh một cách chân thành và thẳng thắn đối với những sai lầm, khuyết điểm,

những hành vi phạm pháp. Còn “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ,

như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu, v.v., thì Nhà nước phải dùng vừa

giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người

lao động lương thiện” [103, tr.617].

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng sự công minh, công bằng và bình

đẳng trong thi hành luật. Người thường xuyên nhắc nhở chủ thể quản lý xã hội

không được xét xử thiếu công bằng, lẫn lộn giữa công và tội. Vấn đề không

phải ở chỗ quá nhiều luật, quan trọng hơn là phải hết sức quan tâm đến việc

đưa pháp luật đi vào đời sống, tạo ra cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi

hành, cần có cơ chế kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật. Trong điều kiện

cụ thể ở nước ta, tăng cường vai trò của pháp luật cũng có nghĩa là đề cao

phương thức lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý của Nhà nước và quyền làm

chủ của nhân dân.

Như vậy, quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chính sách

xã hội và quản lý xã hội, cần đặc biệt coi trọng vai trò của pháp luật. Vì chính

sách xã hội là sự cụ thể hóa bằng pháp luật những đường lối, chủ trương của

Đảng và Nhà nước để giải quyết các vấn đề xã hội, gắn với từng đối tượng cụ

thể trong cơ cấu xã hội, từng địa phương, từng hoàn cảnh, vì lợi ích nhân dân.

Người khái quát:

Đảng và Chính phủ điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận nhằm

vào lợi ích chung của nhân dân, đặt chính sách. Cán bộ phải nghiên

Page 60: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

56

cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà

điều tra, nghiên cứu, hiểu suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình,

địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực, để giải

thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu

thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi

thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy [95, tr.249].

Quan niệm trên cho thấy, để đưa chính sách xã hội vào cuộc sống, nhiệm

vụ quan trọng cần giúp cho đối tượng của chính sách xã hội hiểu biết về chính

sách của Đảng và Chính phủ liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của họ,

khuyến khích họ đóng góp ý kiến xây dựng chính sách xã hội. Do vậy, đội ngũ

cán bộ phải nghiên cứu, thấm nhuần chính sách để giải thích, tuyên truyền, vận

động quần chúng tham gia thực hiện.

Tóm lại, khi khẳng định quan điểm của Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện

chứng giữa chính sách xã hội và quản lý xã hội, cần hiểu rằng, chính sách xã

hội là sự cụ thể hóa và thể chế hóa bằng pháp luật của Nhà nước từ những

đường lối, chủ trương của Đảng để giải quyết các vấn đề xã hội. Điều này cho

thấy, không thể nói chính sách xã hội một cách chung chung, mà phải gắn với

những đối tượng cụ thể trong cơ cấu xã hội, trong các lĩnh vực hoạt động của

đời sống xã hội. Mặt khác, chính sách xã hội gắn với quản lý xã hội trên cơ sở

tăng cường pháp luật cũng có nghĩa là đề cao vai trò và trách nhiệm lãnh đạo

của Đảng, phát huy mạnh mẽ quyền lực của nhân dân thông qua hiệu lực của

bộ máy nhà nước. Đó cũng chính là quan điểm chỉ đạo của Hồ Chí Minh về các

chính sách nói chung và chính sách xã hội nói riêng.

2.2.3.2. Chính sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế, văn hóa

Nét nổi bật trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tập trung giải quyết mối

quan hệ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế và văn hóa. Chủ tịch Hồ

Chí Minh rất coi trọng chính sách kinh tế, nhưng không phải vì mục đích tự

thân của nó, quan trọng hơn nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem

lại hạnh phúc cho con người. Còn phát triển văn hóa nhằm mục đích xây dựng

Page 61: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

57

nền tảng tinh thần cho xã hội, cho sự tồn tại của đời sống con người, xã hội loài

người. Do vậy, cùng với chính sách kinh tế và văn hóa, chính sách xã hội trở

thành một trong ba vấn đề lớn, vấn đề trung tâm của mọi sự phát triển.

Trong triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh, mọi việc làm đều vì hạnh

phúc của con người, giải phóng cho con người. Theo đó, phát triển kinh tế

nhằm thỏa mãn các nhu cầu về ăn, ở, mặc,… nghĩa là thỏa mãn các nhu cầu

của sự sinh tồn và phát triển của con người. Đời sống kinh tế sẽ vận động theo

hướng làm cho người nghèo đói trở nên đủ ăn, người đủ ăn trở nên khá, người

khá trở nên giàu, người giàu thì giàu thêm, cuối cùng đạt đến mục tiêu dân

giàu, nước mạnh, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng. Còn phát

triển văn hóa làm nền tảng tinh thần cho sự tồn tại của đời sống con người và

của xã hội. Phát triển văn hóa nhằm làm cho mọi người không ngừng hoàn

thiện về nhân cách, hướng con người đến giá trị Chân - Thiện - Mỹ, đời sống

tinh thần lành mạnh, trong sạch, xã hội ta thật sự trở thành một xã hội có đạo

đức và văn minh.

Trước hết, về kinh tế, Người yêu cầu phải tập trung phát triển sản xuất,

kinh doanh, tạo nền tảng vật chất vững chắc cho sự phát triển xã hội lâu dài và

ổn định. Trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính

sách xã hội, nhưng các mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động kinh

tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Phải luôn luôn nhớ rằng: Điều quan trọng

bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời

sống của nhân dân” [98, tr.314]. Điều này cho thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh

luôn đặt chính sách xã hội trong mối quan hệ không thể tách rời chính sách

kinh tế. Tức là cần làm rõ tính chất xã hội, mục tiêu xã hội trong kế hoạch phát

triển kinh tế và cả những điều kiện đảm bảo của nền kinh tế trong cơ sở xã hội.

Xuất phát từ mục đích của chủ nghĩa xã hội nhằm không ngừng nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động,

Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phát triển một nền kinh tế toàn diện và phát

triển cân đối, hài hòa giữa các ngành từ nông nghiệp, công nghiệp, thương

nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, văn hóa, giáo dục, y tế tới

Page 62: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

58

phát triển các loại hình dịch vụ. Khi nói về mô hình kinh tế trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội, Người đã sớm nói về sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu,

nhiều hình thức phân phối và do đó phải tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Theo

Chủ tịch Hồ Chí Minh, để đảm bảo quốc kế dân sinh và phát triển kinh tế phải

tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người nói: “Đảng và Chính phủ rất

muốn cho mọi người được no ấm nên đã đề ra tăng gia sản xuất và thực hành

tiết kiệm. Chỉ trên cơ sở tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm mới cải thiện

sinh hoạt cho nhân dân, cán bộ, quân đội” [98, tr.589]. Tăng gia sản xuất và

thực hành tiết kiệm là điều “cần thiết nhất để phát triển chế độ dân chủ nhân

dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội” [98, tr.545], là “làm cho đời sống đồng bào

địa phương ngày càng khá hơn, cả về vật chất và tinh thần” [101, tr.225].

Có thể nói, mục đích nâng cao đời sống cho nhân dân là tư tưởng nhất

quán trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và

cũng là mục đích của kế hoạch kinh tế. Cần nhận thức rằng, nền kinh tế xã hội

chủ nghĩa phải là một nền kinh tế có kế hoạch. Theo đó, cách xây dựng kế

hoạch phải nhằm mục đích làm sao cho kế hoạch kinh tế có hiệu quả, kế hoạch

sản xuất không định theo cách chủ quan mà phải liên hệ chặt chẽ với tình hình

kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta. Từ đó,

Người phê phán cách làm kế hoạch chủ quan:

Có người theo ảo tưởng của mình mà định kế hoạch, chứ không nghĩ

đến vốn liếng. Họ quên rằng: Nếu không có một số vốn tối thiểu,

không có một số tiền hậu bị tối thiểu, thì chẳng những không đạt

được kế hoạch công nghệ nào, mà cũng không xây dựng được những

xí nghiệp “to lớn bao la”. Họ quên điều đó, họ chạy trước sự thực.

Thế nào là chạy trước sự thực mà đặt kế hoạch? Là không cân nhắc

lực lượng, mà làm ẩu. Là đặt kế hoạch rất to tát, động viên hàng

nghìn hàng vạn công nhân, xem rất oai. Nhưng rồi thấy vốn liếng

không đủ, phải để công nhân về, phải cấp lộ phí cho họ về. Kết quả

là hao tổn rất nhiều, gây ra thất vọng cho công cuộc xây dựng, gây

mối khó khăn cho chính trị [95, tr.366].

Page 63: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

59

Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “Khi đặt kế hoạch phải nhìn xa.

Có nhìn xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc gì là

chính. Phải thấy rộng. Có thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách

cân đối” [102, tr.462]. Lời chỉ dẫn của Người đã định hướng cho những người

làm kế hoạch khi xây dựng một kế hoạch, một dự án phải tính toán cẩn thận

đến hiệu quả kinh tế - xã hội, phải xuất phát từ lợi ích chính đáng của con

người để tránh được những sai lầm, nóng vội, chủ quan, duy ý chí làm hại đến

dân, đến nước.

Trong triết lý phát triển kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một nền tảng

kinh tế vững chắc và quá trình sản xuất ra của cải vật chất có liên quan mật

thiết đến chất lượng dân sinh. Theo đó, mức sống với sản xuất như thuyền với

nước, “nước dâng thì thuyền lên. Sản xuất, kinh tế của chúng ta có phát triển

thì đời sống mọi người mới cải thiện” [98, tr.562]. Với Người, vì nước, vì dân,

vì sự tiến bộ của xã hội phải vì lợi ích chính đáng của nhân dân, cả về vật chất

lẫn tinh thần. Chỉ trên cơ sở đáp ứng được những nhu cầu chính đáng của nhân

dân mới tạo ra được động lực vô cùng to lớn cho mọi sự phát triển. Ngược lại,

những nhu cầu, lợi ích đó nếu không được quan tâm giải quyết thì mọi chính

sách dù hay mấy cũng không thực hiện được. Cho nên, trong khuôn khổ của

hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và là nhân tố quan

trọng để phát triển sản xuất. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn

mạnh trong Di chúc: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế

và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân” [103, tr.612].

Nếu Đảng và Chính phủ thực hiện tốt vấn đề “Đưa tiền của dân và sức của dân

để làm việc ích lợi cho dân, thì bao giờ dân cũng hăng hái, việc cũng thành

công. Việc gì dù to lớn tốn kém mấy, dân đồng sức, đồng lòng thì làm cũng

được” [94, tr.172].

Qua việc phân tích nêu trên cho thấy, việc tiếp cận các vấn đề kinh tế hay

các vấn đề xã hội chỉ là cách tiếp cận khác nhau đối với việc nghiên cứu một

quá trình duy nhất, có quan hệ hữu cơ, phụ thuộc và thâm nhập vào nhau. Cụ

Page 64: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

60

thể, cùng với chính sách xã hội, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật

chất để giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Ngược lại, khi các vấn đề xã hội được

giải quyết mang tính hợp lý, công bằng, tiến bộ thông qua chính sách xã hội

sẽ góp phần tạo ra động lực mạnh mẽ để thực hiện các mục tiêu kinh tế. Cách

tiếp cận này tạo cơ sở khoa học cho chủ thể lãnh đạo, quản lý định ra được

những chính sách phát triển kinh tế, xã hội đúng đắn, phù hợp với thực tiễn

vận động của đất nước.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu chính sách xã hội trong sự tác

động qua lại với chính sách kinh tế là rất quan trọng, song cũng cần chú ý đến

mối quan hệ giữa chính sách xã hội với văn hóa. Bởi vì, giữa văn hóa và xã hội

có sự gắn bó khăng khít với nhau, mục tiêu của sự phát triển xã hội cũng chính

là mục tiêu văn hóa. Điều này khẳng định, văn hóa phải phục vụ nhân dân, lấy

hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc làm mục tiêu. Văn hóa là mục tiêu, vì sự

phát triển xã hội nhằm mục tiêu vì con người, phát triển con người toàn diện.

Do đó, văn hóa không thể đứng ngoài chính kinh tế, chính trị và xã hội, văn

hóa phải soi đường cho quốc dân đi và lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập,

tự cường và tự chủ. Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội

chủ nghĩa dưới sự dẫn dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự nghiệp văn hóa vĩ

đại, trong đó kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng với phát triển và hoàn thiện con

người. Giải phóng con người là giá trị văn hóa cao cả nhất, nhưng sự sâu sắc

của giá trị văn hóa cao cả đó nhằm làm cho con người tự đứng lên giải phóng

bằng chính sự phát triển và hoàn thiện của mình. Lấy đoàn kết toàn dân để giải

phóng dân tộc, làm cho nhân dân đồng thuận để xây dựng xã hội mới, lấy

thống nhất thay vì đối đầu, loại trừ là đường lối và phương pháp cách mạng Hồ

Chí Minh. Giải phóng con người ở tầm cao văn hóa như thế đã tạo ra nguồn

năng lượng và động lực cực kỳ mạnh mẽ của toàn dân làm nên thắng lợi trong

cả sự nghiệp giải phóng và xây dựng Tổ quốc. Đó là bí quyết thành công của

cách mạng Việt Nam. Đó là bí quyết văn hóa Hồ Chí Minh.

Page 65: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

61

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân

không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” [92,

tr.64]. Độc lập, tự do phải đi tới ấm no hạnh phúc và phát triển. Triết lý phát

triển Hồ Chí Minh cho thấy mục tiêu, lý tưởng mà thể chế chính trị ta đang

xây dựng phải vì hạnh phúc của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy hạnh phúc con người làm tiêu chuẩn, thước đo của

sự phát triển xã hội, hiệu quả xã hội, mà ở đó mỗi thành viên cộng đồng có

được một cuộc sống đúng nghĩa, tức cuộc sống có văn hóa. Sự nghiệp văn

hóa Hồ Chí Minh là sự nghiệp vì dân, vì nhân dân mà phục vụ nên nền văn

hóa mới xã hội chủ nghĩa phải lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm

cơ sở, lấy lợi ích của nhân dân làm “khuôn phép”.

Mục tiêu văn hóa trong chính sách xã hội còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh

khẳng định ở định hướng phát triển bền vững, trong đó chứa đựng những yếu

tố về xóa đói, xóa nghèo, khuyến khích làm giàu hợp pháp, phổ cập giáo dục

tiểu học, nam nữ bình đẳng và nâng cao vị thế cho phụ nữ, vấn đề chăm sóc

sức khỏe, bảo đảm bền vững về môi trường, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu.

Rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lấy sự phát triển xã hội mang tính bền vững

hướng đến vì hạnh phúc con người, nhằm mục tiêu vì con người. Cho nên, văn

hóa chính là mục tiêu của mọi sự phát triển xã hội, của quá trình thực hiện tốt

các chính sách xã hội liên quan đến vấn đề con người.

Chính sách xã hội hướng đến mục tiêu văn hóa, nhưng khi các vấn đề xã

hội liên quan đến con người được giải quyết, khi đó, vai trò văn hóa với tư

cách là động lực sẽ bồi dưỡng nguồn lực con người, cải tạo và xây dựng một

xã hội phát triển. Văn hóa phải xây dựng và củng cố niềm tin của con người

Việt Nam vào sức mạnh vô địch của họ trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang

nhằm “thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn

người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh

phúc” [100, tr.221], “biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hóa

cao” [99, tr.92]. Ngoài ra, văn hóa phải góp phần vào việc xây dựng lối sống

mới xã hội chủ nghĩa cho con người Việt Nam với tinh thần vì nước quên

Page 66: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

62

mình, vì lợi ích chung mà quên lợi ích riêng; lo trước thiên hạ, vui sau thiên

hạ; mình vì mọi người, mọi người vì mình và với một mục đích là phụng sự

đồng bào, phụng sự Tổ quốc. Với nghĩa đó, văn hóa giữ vai trò “soi đường

cho quốc dân đi” và đã tạo nên sức mạnh to lớn trong quá trình đấu tranh

giành chính quyền và xây dựng đất nước. Do vậy, mọi đường lối, chủ trương,

chính sách của Đảng và Nhà nước ta phải mở đường cho văn hóa phát triển,

phải tạo ra những điều kiện và môi trường thuận lợi cho việc vun đắp những

giá trị tinh thần tốt đẹp trong nhân dân.

Tóm lại, quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách xã hội phải gắn với

chính sách kinh tế, văn hóa thể hiện tư duy biện chứng trong việc xem xét,

giải quyết những vấn đề xã hội liên quan đến con người. Chỉ trên cơ sở lấy

mục tiêu phát triển kinh tế làm nền tảng cơ bản để thực hiện tốt các chính

sách xã hội nhằm đạt đến mục tiêu văn hóa, thì hạnh phúc con người mới

được đảm bảo và xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng mới

phát triển nhanh và mang tính bền vững.

2.2.3.3. Chính sách xã hội phải hướng đến công bằng xã hội

Công bằng xã hội là khát vọng lớn lao của con người và là vấn đề tác

động mạnh mẽ đến con người, đến nhận thức và hành động của mỗi cá nhân

trong xã hội. Nói đến công bằng xã hội là nói đến sự ngang bằng giữa người

với người về phương diện xã hội xác định như giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa

cống hiến và hưởng thụ. Điều này khẳng định tầm quan trọng và vai trò của

công bằng xã hội trong điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Nhà xã hội học

người Pháp Êmin Đuýchkêm nhận xét: Các xã hội hiện đại chỉ có thể ổn định,

nếu nó tôn trọng công bằng. Nhà xã hội học Mỹ Phơran Scapanty cho rằng:

Mục tiêu của công bằng xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua chính sách

làm giảm sự tập trung quyền lực và những nguồn tài nguyên kinh tế trong tay

một tầng lớp nhỏ đặc quyền trong xã hội [25, tr.99].

Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội như một chế độ xã

hội, trong đó mọi thiết chế, cơ cấu xã hội đều nhằm tới mục tiêu giải phóng và

phát triển toàn diện con người. Khi nói về bản chất của chủ nghĩa xã hội,

Page 67: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

63

Người khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng

nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già

yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom” [99, tr.404]. Tính hợp

lý, khoa học và nhân văn trong quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công

bằng xã hội đó là: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không

hưởng. Quan điểm này hoàn toàn khoa học, đúng đắn và phù hợp với điều

kiện Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện

tốt điều này sẽ giúp mọi người hăng hái làm việc, cống hiến và hưởng thụ,

góp phần ổn định xã hội và phát triển đất nước. Nhưng, công bằng trong chủ

nghĩa xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là hợp lý và nhân văn. Tức là,

những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ, chăm nom. Bởi

lẽ, bản chất của chủ nghĩa xã hội là vì con người, chăm lo hạnh phúc cho con

người, nhất là các đối tượng yếu thế, không may mắn trong xã hội. Nói khác

hơn, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại công bằng và bình đẳng cho tất cả

mọi người, nhân dân lao động mới thực sự được hưởng quyền “bình đẳng về

quyền lợi và nghĩa vụ” [100, tr.371].

Chủ nghĩa xã hội thực hiện công bằng dựa trên nguyên tắc phân phối theo

lao động nhằm đảm bảo tính khoa học, hợp lý và nhân văn. Theo đó, phân phối

theo lao động là nguyên tắc chủ yếu nhưng không phải là duy nhất trong việc

thực hiện công bằng xã hội. Xuất phát từ bản chất nhân văn “Mình muốn ăn no

mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm” [98,

tr.593], công bằng trong chủ nghĩa xã hội hướng đến các đối tượng yếu thế

không phải chỉ là người già neo đơn, già yếu, bệnh tật không nơi nương tựa, mà

trẻ em mồ côi cũng được xã hội nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo; những người

có công với Tổ quốc cũng được quan tâm bằng những chính sách ưu đãi xã hội

hợp lý. Phân phối theo lao động, theo cống hiến và theo các giá trị truyền thống

là một chính sách vừa hợp lý vừa mang tính đạo lý phù hợp với điều kiện Việt

Nam khi phải trải qua gần một thế kỷ chống chiến tranh xâm lược của thực dân

Pháp, hơn hai mươi năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước và nhiều

năm liền chống chiến tranh phá hoại, bảo vệ biên giới. Trong cuộc chiến tranh

Page 68: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

64

đó, rất nhiều người con của đất nước đã hy sinh một phần thân thể hay thân

nhân của những người đã hy sinh vì độc lập tự do, cán bộ về hưu,… là những

người thiệt thòi nhất, vì họ thiếu hoặc không có sức lao động, thiếu hoặc không

có vốn sản xuất, nên chính sách này là sự đãi ngộ đảm bảo công bằng xã hội.

Và đó cũng là nội dung mang tính nhân văn sâu sắc của thể chế chính trị - xã

hội mới mà Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Đảng ta luôn thực hiện nhất quán

nguyên tắc công bằng trên cơ sở giải quyết tốt về mối quan hệ lợi ích giữa các

giai cấp, tầng lớp xã hội, các thành viên trong xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh

quan tâm đến sự hài hòa về mặt lợi ích và con đường cùng tiến lên giữa các

giai tầng khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, Người cũng khuyến khích nhân dân

làm giàu chính đáng làm cho dân giàu, nước mạnh nhưng phải chú ý đến xóa

đói, giảm nghèo theo phương châm:

Làm cho người nghèo thì đủ ăn.

Người đủ ăn thì khá giàu,

Người khá giàu thì giàu thêm [93, tr.81].

Quan điểm Hồ Chí Minh đã phản ánh đầy đủ tinh thần của chủ nghĩa Mác

- Lênin về công bằng xã hội dựa trên nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo

lao động, theo cống hiến trong chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, còn thể hiện tinh

thần nhân văn sâu sắc của Người trong giải quyết những vấn đề liên quan đến

con người. Do đó, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công bằng xã hội

biểu đạt những giá trị tương đồng của chủ nghĩa xã hội với truyền thống nhân

văn sâu sắc của dân tộc ta. Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu nỗi

thống khổ, sự bất công mà người dân phải gánh chịu dưới ách cai trị của bọn

thực dân. Nhân dân ta phải nộp sưu, đóng những thứ thuế vô lý, đi lính đi phu

mà không có quyền lợi, trong khi đó, họ là những người chủ yếu sản xuất ra

của cải vật chất cho xã hội, nhờ đó mà xã hội mới tồn tại và phát triển nhưng

lại rất bất công vì họ luôn là những người nghèo khổ. Sự bất công, tàn bạo của

chủ nghĩa thực dân hoàn toàn đối lập với tính nhân văn sâu sắc và nhân đạo

triệt để của xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng chính ở việc

Page 69: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

65

giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng

thụ khi thực hiện công bằng xã hội. Đánh giá cao vai trò của nguyên tắc công

bằng trên lĩnh vực lưu thông phân phối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo:

Có khi vật tư, hàng hoá không thiếu, mà phân phối không đúng, thì

gây ra căng thẳng không cần thiết. Trong công tác lưu thông phân

phối, có hai điều quan trọng phải luôn luôn nhớ: Không sợ thiếu, chỉ

sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên

[103, tr.224].

Khi đời sống còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, con người sẵn sàng chấp

nhận và tìm cách khắc phục thiếu thốn, khó khăn. Nhưng con người không thể

chấp nhận bất công xã hội do tình trạng phân phối không công bằng gây ra. Vì

thế, thực hiện tốt công bằng xã hội luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu trong

đời sống xã hội và là nguồn gốc tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, của sự

đồng thuận xã hội trong phát triển kinh tế, xã hội.

Cần lưu ý, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao công bằng xã hội và nhấn mạnh

sự cần thiết phải thực hiện ngày càng tốt hơn, đầy đủ hơn công bằng xã hội,

nhưng Người cũng phê phán tư tưởng cào bằng, bình quân chủ nghĩa. Người cho

rằng, nếu công bằng xã hội là yếu tố quan trọng tạo lập môi trường chính trị - xã

hội tốt đẹp hướng con người vươn tới những giá trị cao đẹp, thúc đẩy xã hội phát

triển thì sự cào bằng, bình quân chủ nghĩa sẽ triệt tiêu động lực đối với sự phát

triển kinh tế - xã hội, trái với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Người chỉ rõ:

Phân phối phải theo mức lao động. Lao động nhiều thì được phân

phối nhiều, lao động ít thì được phân phối ít. Lao động khó thì được

phân phối nhiều, lao động dễ thì được phân phối ít. Không nên có

tình trạng người giỏi, người kém, việc khó, việc dễ, cũng công điểm

như nhau. Đó là chủ nghĩa bình quân. Phải tránh chủ nghĩa bình quân

[101, tr.216].

Quá trình thực hiện công bằng xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong

đó Nhà nước với tư cách là người quản lý, điều hành xã hội sẽ thông qua các

Page 70: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

66

chính sách, biện pháp tác động và điều tiết các quá trình diễn ra trong xã hội,

tạo ra sự công bằng xã hội cho các thành viên trong cộng đồng. Chủ tịch Hồ

Chí Minh cho rằng, công bằng xã hội phải tạo điều kiện để mọi người “ai

cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” [103, tr.627]; ốm đau có

thuốc; mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhà nước phải tạo

điều kiện thuận lợi cho mọi thành viên trong xã hội đều được hưởng thụ giáo

dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe, vui chơi, giải trí. Nhà nước phải có chính sách

đặc biệt quan tâm đến nông thôn, tạo mọi điều kiện để rút ngắn khoảng cách

giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, phải đảm bảo ổn định xã hội tại khu

vực rộng lớn nhất của đất nước vì nông thôn vốn là căn cứ địa trong chiến

tranh, là nơi còn tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến dân trí, dân sinh và chậm

phát triển so với thành thị; phải làm thế nào cho miền ngược tiến kịp miền

xuôi. Người đặc biệt quan tâm đến sự phát triển các vùng dân tộc, miền núi,

căn cứ địa cách mạng.

Thực hiện tốt công bằng xã hội sẽ tạo ra động lực to lớn thúc đẩy mọi sự

phát triển kinh tế - xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, để đạt được công

bằng xã hội, chủ thể quản lý xã hội cũng cần kiên quyết đấu tranh chống lại

tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Đây không chỉ là trở lực của quá

trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà còn là một trong những nguyên

nhân dẫn đến thiếu công bằng trong xã hội. Cảnh báo về nguy cơ của một

Đảng cầm quyền xa rời quần chúng và có những hành động trái với lợi ích

của nhân dân, Người tuyên bố: “Về việc Chính phủ liêm khiết, thì Chính phủ

hiện thời đã rất cố gắng liêm khiết lắm... Dù sao, Chính phủ đã hết sức làm

gương. Và nếu làm gương không xong, thì sẽ dùng pháp luật mà trị. Những

kẻ ăn hối lộ, đã trị, đương trị và sẽ trị cho kỳ hết” [88, tr.158]. Lời tuyên bố

của Người về quyết tâm tuyên chiến với nạn quan liêu, tham ô, tham nhũng

có ý nghĩa hiện thực sâu sắc về những biện pháp kiên quyết, liên tục, đồng bộ

về xử lý pháp luật và động viên toàn xã hội vào cuộc đấu tranh nhằm từng

bước đẩy lùi “quốc nạn” đó.

Page 71: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

67

Tóm lại, quan điểm phải gắn chính sách xã hội với công bằng xã hội

được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra từ rất sớm và từng bước thực hiện, coi đó

không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của chính sách xã hội. Người coi

việc thực hiện công bằng xã hội là một yêu cầu bức thiết khi hoạch định và tổ

chức thực thi chính sách xã hội. Chỉ trên cơ sở thực hiện đúng lời dạy của

Người về gắn chính sách xã hội với công bằng xã hội thì toàn Đảng, toàn

quân và toàn dân ta mới giành được thắng lợi trong xây dựng xã hội mới công

bằng, dân chủ, văn minh.

2.2.4. Lực lượng thực hiện chính sách xã hội

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước là chủ thể lãnh đạo, quản lý việc thực hiện

chính sách xã hội

Mỗi thể chế chính trị xã hội khác nhau đều chế định và thực hiện chính

sách xã hội một cách có ý thức. Việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội

của chủ thể quản lý phản ánh bản chất của Nhà nước, cũng như tổ chức lãnh

đạo Nhà nước đó. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ thể đề ra chính sách xã hội

và đối tượng chịu sự tác động của chính sách xã hội là một. Vì Đảng ta, Nhà

nước ta từ nhân dân mà ra, gắn bó máu thịt với nhân dân nên không có lợi ích

nào khác ngoài lợi ích của nhân dân. Luận điểm Đảng “là người lãnh đạo, là

người đày tớ thật trung thành của nhân dân” [103, tr.622] được xuất phát từ bản

chất cách mạng của Đảng ta, từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân

trong sự nghiệp cách mạng. Theo cách hiểu thông thường, về mặt chính trị,

người lãnh đạo và người đày tớ (người phục vụ) có những chức trách không

giống nhau. Thế nhưng, với Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng ra đời từ

phong trào cách mạng của nhân dân, có trách nhiệm lãnh đạo cách mạng vì

mục đích, lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng không có mục đích tự thân,

hoàn toàn không có bức tường ngăn cách giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ

phục vụ. Để thực hiện tốt vai trò “là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung

thành của nhân dân”, Đảng cần đề ra đường lối, chủ trương, chính sách xã hội

Page 72: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

68

đúng đắn, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Đảng

phải là công bộc của nhân dân, mục đích hoạt động của Đảng là phục vụ nhân

dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân.

Với vai trò là chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh

yêu cầu Đảng và Nhà nước ta phải có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và

tinh thần cho nhân dân. Người chỉ rõ: “Hễ còn có một người Việt Nam bị bóc

lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn

nhiệm vụ… Cho nên Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng thời vì nó

gần gũi tận trong lòng của mỗi đồng bào ta” [100, tr.402]. Người còn nhấn

mạnh: “Dân không đủ muối, Đảng phải lo. Dân không có gạo ăn đủ no, dân

không có vải mặc đủ ấm, Đảng phải lo… Ngay đến cả tương, cà, mắm, muối

của dân, Đảng đều phải lo” [101, tr.272]. Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn

nhắc nhở chủ thể quản lý phải kiên trì, thận trọng trước vấn đề hoạch định và

đưa chính sách xã hội vào cuộc sống. Người nói: “Chính phủ ta đã hứa với dân,

sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc. Trong việc kiến thiết nước

nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà

làm được hết… Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta

phải hết sức tránh” [92, tr.64-65].

Vấn đề hoạch định và thực thi chính sách xã hội vào cuộc sống phản ánh

tính đúng đắn hay sai lầm, thành công hay thất bại phụ thuộc rất lớn vào vai

trò, trách nhiệm, năng lực và tư cách của chủ thể quản lý. Theo đó, Người

khẳng định:

Chính sách đúng là nguồn gốc của thắng lợi. Song từ nguồn gốc đi đến

thắng lợi thực sự, còn phải tổ chức, phải đấu tranh. Khi đã có chính

sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi

cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba

điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích [93, tr.636].

Page 73: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

69

Như vậy, chính sách đúng là điều kiện cần để đi đến mọi thắng lợi, nhưng

muốn có thắng lợi thực sự dựa trên đường lối đúng thì cần có điều kiện đủ

chính là cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và công tác kiểm tra. Bàn về

vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích:

Mục đích sự tổ chức công tác là: động viên toàn thể nhân dân hăng hái

thi hành chính sách đã định. Mục đích lựa chọn cán bộ là dùng nhân

tài cần phải hợp lý,… Có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích

cực và lực lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết

điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời [93, tr.636].

Ngoài ra, Người còn khẳng định:

1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì

nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng

chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.

2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân

chúng giúp sức thì không xong.

3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải

có quần chúng giúp mới được [93, tr.325].

Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính đúng đắn, khoa

học, toàn diện về mối quan hệ giữa lãnh đạo và kiểm soát. Theo đó, người lãnh

đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của

mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của

mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân

chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình. Lãnh đạo đúng nghĩa, cố nhiên,

không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà viết kế hoạch, ra mệnh lệnh.

Để rèn luyện Đảng ta xứng đáng là chủ thể lãnh đạo xã hội, Chủ tịch Hồ

Chí Minh căn dặn: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm

cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ

Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân” [103, tr.616].

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, mọi việc của dân, của nước, mọi thành công,

Page 74: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

70

thất bại đều phụ thuộc trực tiếp vào phẩm chất, năng lực của Đảng. Đảng phải

chịu trách nhiệm về sự hưng thịnh hay suy vong của dân tộc. Điều đó tùy thuộc

vào đường lối cách mạng đúng đắn, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, bản lĩnh

chính trị, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Cho nên,

công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được coi là nhiệm vụ then chốt.

Thứ hai, đội ngũ cán bộ quản lý là người trực tiếp tổ chức thực hiện chính

sách xã hội

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn xây dựng một đội ngũ cán bộ có

đức, có tài, có tính chuyên môn hóa, tính chuyên nghiệp hóa cao, thật sự là

công bộc của nhân dân, là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của quần

chúng. Chỉ khi nào đội ngũ cán bộ, đảng viên xác định rõ trách nhiệm “Tất cả

những việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân

dân. Làm gì mà không nhằm mục đích ấy là không đúng” [98, tr.310], khi đó,

mới hoàn thành chức trách công việc mà nhân dân giao phó. Chủ tịch Hồ Chí

Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên với tư cách là người tổ chức thực hiện chính

sách xã hội phải chăm lo cho dân trước rồi sau đó mới nghĩ đến sự hưởng thụ

của bản thân, phải đặt quyền lợi tập thể lên trên quyền lợi cá nhân. Điều này

được Người luận giải:

Không phải chúng ta ham chuộng khổ hạnh và bần cùng. Trái lại,

chúng ta phấn đấu hy sinh, vì chúng ta muốn xây dựng một xã hội ai

cũng ấm no, sung sướng. Nhưng chúng ta biết rằng: Muốn cải thiện

đời sống, thì trước phải ra sức thi đua phát triển sản xuất; và trước

phải nâng cao mức sống của nhân dân, rồi mới nâng cao mức sống

của cá nhân mình. Tức là: “Lo, thì trước thiên hạ; hưởng, thì sau

thiên hạ” [97, tr.508].

Chất triết lý trong chiều sâu tư tưởng Hồ Chí Minh về lời dạy đối với cán

bộ, đảng viên chính là việc giải quyết tốt mối quan hệ giữa đời sống cá nhân và

đời sống tập thể, giữa nâng cao đời sống với đẩy mạnh sản xuất. Các chủ thể

quản lý chính sách xã hội cần lưu ý rằng: “Người ta ai cũng muốn ăn ngon mặc

Page 75: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

71

đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong lúc nhân dân ta

còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon mặc đẹp, như

vậy là không có đạo đức” [98, tr.589].

Thắng lợi của việc thực hiện chính sách xã hội còn tùy thuộc vào cán bộ

tốt hay xấu, tức liên quan đến năng lực và tư cách của chủ thể quản lý xã hội.

Cảnh báo về sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ quản lý xã hội, Chủ tịch

Hồ Chí Minh cho rằng:

Đã có xe rồi, lại “phấn đấu” để có chiếc xe đẹp hơn, chiếm mất phần

của người khác. Đã có nhà ở rồi, lại “phấn đấu” theo kiểu như thế để

có nhà đẹp hơn. Làm như vậy là trái với đạo đức cách mạng. Các chú

có biết rằng dân tộc ta vĩ đại, Đảng ta vĩ đại, ta được anh em bầu bạn

khắp năm châu yêu mến và ca ngợi là vì cái gì không? Vì cuộc chiến

đấu chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta do Đảng ta lãnh đạo là chí

công vô tư, mình vì mọi người [103, tr.672].

Để chống lại những biểu hiện tiêu cực trong quản lý xã hội, quét sạch chủ

nghĩa cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải

thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công

vô tư” [103, tr.622]. Đạo đức của người cách mạng được hợp thành bởi nhiều

yếu tố, theo Người, trong điều kiện Đảng cầm quyền, phẩm chất cần kiệm liêm

chính, chí công vô tư là những thành tố cơ bản nhất, quyết định nhất. Đó cũng

chính là vấn đề then chốt nhất đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh của Đảng,

làm cho Đảng thực sự là người lãnh đạo, là người đày tớ trung thành của nhân

dân. Để có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, mỗi cán

bộ, đảng viên phải nghiêm khắc đấu tranh khắc phục mọi biểu hiện của chủ

nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết đấu tranh chống lại mọi biểu

hiện tiêu cực trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách xã hội. Người

xem chủ nghĩa cá nhân là trở lực, là giặc nội xâm đẻ ra nạn tham ô, lãng phí,

quan liêu, gây hậu quả không chỉ về kinh tế mà cả về chính trị, đạo đức, văn

hóa, làm giảm niềm tin của nhân dân vào chế độ, vào vai trò lãnh đạo của Đảng

Page 76: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

72

và quản lý của Nhà nước. Do vậy, cuộc đấu tranh chống những biểu hiện tha

hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ quản lý trong thực hiện chính sách xã hội là

nhu cầu sống còn mang tính nhân văn mà Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền

đại diện.

Thứ ba, quần chúng nhân dân lao động vừa là đối tượng của chính sách

xã hội, vừa là lực lượng thực hiện chính sách xã hội

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước với tư cách là chủ thể

quản lý xã hội. Tuy vậy, nhân dân lao động lại là người làm chủ mọi mặt đời

sống xã hội thông qua vai trò hướng dẫn của Đảng và Nhà nước. Việc hoạch

định và thực thi chính sách xã hội phát huy tính hiệu quả trong cuộc sống đòi

hỏi chủ thể quản lý phải tạo lập được các thiết chế đủ mạnh để tổ chức, vận

động toàn dân, huy động sức mạnh tổng hợp của nhân dân trong giải quyết các

vấn đề xã hội. Chính sách xã hội xuất phát từ nhu cầu của người dân, được

Đảng cầm quyền phát hiện, xây dựng thành chế độ, chính sách, rồi lại phải trở

về trong dân chúng và chính dân chúng là người trực tiếp thực hiện và thụ

hưởng các kết quả mà họ sáng tạo nên. Với ý nghĩa đó, quần chúng nhân dân

không chỉ là mục tiêu mà chính sách xã hội hướng đến mà còn là động lực của

quá trình quản lý việc thực hiện chính sách xã hội.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Thắng đế quốc và phong kiến là tương

đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều” [100, tr.402]. Trong

quản lý xã hội thông qua việc thực hiện chính sách xã hội sẽ không tránh khỏi

mò mẫm, vấp váp, sai lầm nên phải dựa vào dân. Bởi vì “Dân chúng biết giải

quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài

giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra” [93, tr.335]. Nói tóm lại, là

phải theo đúng quan điểm quần chúng. Nghĩa là: “Việc gì cũng phải học hỏi và

bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. Tin vào dân chúng. Đưa mọi

vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết… tuyệt đối không nên

theo đuôi quần chúng” [93, tr.337-338].

Page 77: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

73

Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng thực hiện chính sách xã hội

không chỉ có giá trị về mặt lý luận nhằm giáo dục, rèn luyện Đảng và Nhà nước

ta trong vai trò quản lý xã hội, quan trọng hơn, Người đã hiện thực hóa quan

niệm của mình trong toàn bộ quá trình lãnh đạo và điều hành đất nước với tư

cách là người có vị trí quyền lực cao nhất. Triết lý phát triển xã hội của Chủ

tịch Hồ Chí Minh đạt đến chiều sâu nhất của chủ nghĩa nhân văn hành động khi

lấy con người, mà trước hết là nhân dân lao động làm điểm trung tâm, nơi xuất

phát và cũng là điểm cuối cùng của việc thực hiện chính sách xã hội. Chỉ trên

cơ sở nhận thức đúng quan điểm con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực

của mọi sự phát triển thì Đảng và Nhà nước ta mới phát huy vai trò là chủ thể

thực hiện chính sách xã hội.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Bất kỳ thể chế chính trị nào muốn tồn tại và phát triển đều phải quan tâm

giải quyết các vấn đề xã hội, bởi nó không chỉ liên quan đến quản lý phát triển

xã hội, mà còn duy trì địa vị thống trị của giai cấp cầm quyền. Nhận thức

được con đường giải phóng dân tộc để đi tới một xã hội dân chủ, tự do, hạnh

phúc, giàu mạnh là hướng đi tất yếu của xã hội Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí

Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, làm cho xã

hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được

ấm no và hạnh phúc.

Dưới chế độ dân chủ mới, đứng trên lập trường giai cấp công nhân, mục

đích của chính sách xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải chỉ vì lợi

ích của giai cấp công nhân, mà cả lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân

tộc Việt Nam. Chính sách xã hội nhằm giải quyết tốt nhu cầu, lợi ích của các

giai cấp, tầng lớp, các cộng đồng dân tộc, đồng bào tôn giáo. Ngoài ra, chính

sách xã hội còn điều tiết và làm lành mạnh các quan hệ xã hội để hình thành

một cơ cấu xã hội phù hợp, góp phần giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh

Page 78: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

74

tế, hoàn thiện các quan hệ xã hội và bản chất xã hội của con người. Như vậy,

lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con

người với tư cách là động lực của quá trình xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội

chủ nghĩa là đặc trưng bản chất và cũng là mục đích của chính sách xã hội

trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chính sách xã hội trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh mang tính khoa

học, hợp lý và nhân văn. Dưới gốc độ quản lý phát triển, chủ thể cần phải gắn

chính sách xã hội với chính sách kinh tế, văn hóa và bảo đảm công bằng xã hội.

Chỉ trên cơ sở lấy mục tiêu phát triển kinh tế làm nền tảng cơ bản để thực hiện

tốt các chính sách xã hội nhằm đạt đến mục tiêu văn hóa, thì hạnh phúc con

người mới được đảm bảo và xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây

dựng mới phát triển nhanh, bền vững, hợp lý, công bằng và văn minh. Để đưa

chính sách xã hội vào cuộc sống, một mặt phải nâng cao năng lực của chủ thể

lãnh đạo, quản lý xã hội, mặt khác phải nâng cao hiểu biết cho nhân dân về

chính sách liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi của họ, khuyến khích họ đóng

góp ý kiến xây dựng chính sách xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội gợi mở nhiều vấn đề có tính

chất phương pháp luận và tính hiện đại sâu sắc nhằm định hướng việc hoạch

định và thực thi chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta khi giải quyết các

vấn đề liên quan đến con người. Vì thế, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội thời kỳ đổi mới ở Việt Nam không chỉ khẳng định bản chất

ưu việt, tốt đẹp vì con người của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang

xây dựng, mà còn khẳng định tầm vóc và ý nghĩa lớn lao của triết lý hành động

Hồ Chí Minh đối với quá trình thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước lấy con người vừa là mục tiêu, vừa là động

lực của mọi sự phát triển.

Page 79: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

75

Chương 3

THỰC TRẠNG VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM

3.1. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ CHÍNH SÁCH XÃ

HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Trong sự nghiệp đổi mới, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội

luôn được Đảng ta kế thừa và phát triển khi khẳng định cùng với phát triển

kinh tế, giải quyết các vấn đề chính trị và văn hóa, phải quan tâm giải quyết

các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội. Quan điểm về giải quyết các

vấn đề xã hội, thực hiện chính sách xã hội là một bộ phận quan trọng của

đường lối cách mạng Việt Nam. Việc thực thi chính sách xã hội có tác dụng

khơi dậy, phát huy những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn của con

người, làm nên những thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ

Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), với đường lối đổi mới

toàn diện, Đảng đã đặt đúng vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội khẳng định chính sách xã hội là một bộ

phận quan trọng trong hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước, một bộ

phận cấu thành chiến lược kinh tế - xã hội, là động lực to lớn phát huy vai trò

nhân tố con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Theo đó, lần

đầu tiên trong văn kiện của Đảng đã nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách

xã hội và đưa ra khái niệm “Chính sách xã hội”. Nội hàm của chính sách xã hội

được xác định là “bao trùm mọi mặt cuộc sống con người: điều kiện lao động

và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ

dân tộc,…” [26, tr.86]. Nghị quyết cũng nêu lên quan điểm cơ bản làm cơ sở

cho đổi mới chính sách xã hội là: “xây dựng và tổ chức thực hiện một cách

thiết thực và có hiệu quả các chính sách xã hội. Chính sách xã hội nhằm phát

Page 80: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

76

huy mọi khả năng của con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích

cao nhất. Coi nhẹ chính sách xã hội cũng là coi nhẹ yếu tố con người trong sự

nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” [26, tr.221]. Điều này

thể hiện tính nhất quán trong quan niệm của Đảng Cộng sản Việt Nam về sự

vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh khi lấy con người là đối tượng phục vụ của

chính sách xã hội.

Vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chính

sách xã hội và chính sách kinh tế, Đảng ta khẳng định: “Cần thể hiện đầy đủ

trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính

sách kinh tế và chính sách xã hội” [26, tr.86] và “Trình độ phát triển kinh tế là

điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội

lại là mục đích của các hoạt động kinh tế” [26, tr.86]. Ngay trong khuôn khổ

của hoạt động kinh tế, chính sách xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất

lao động, chất lượng sản phẩm, là nhân tố quan trọng để phát triển sản xuất.

Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về vai trò của chính sách xã hội, Đảng ta xác

định cần phải có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài và xác định được những

nhiệm vụ, mục tiêu phù hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu

tiên của sự nghiệp đổi mới. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy của Đảng

ta trong lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách xã hội. Từ

quan điểm đổi mới về chính sách xã hội, Đảng ta chủ trương tập trung giải

quyết vấn đề lao động và việc làm; ổn định và nâng cao đời sống nhân dân;

thực hiện kế hoạch hóa gia đình; chăm lo người có công với cách mạng; chăm

sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân; đảm bảo cho người lao động

có thu nhập; phòng chống các tệ nạn;… Những chủ trương đó đi vào cuộc

sống từng bước cải thiện đời sống nhân dân, giải phóng các năng lực sản xuất,

đặt cơ sở cho sự ổn định và phát triển đất nước.

Điểm mới trong quan điểm về chính sách xã hội tại Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI của Đảng được khái quát ở những điểm cơ bản sau đây: Chính

sách xã hội không chỉ là thước đo tiến bộ và công bằng xã hội, mà nhằm phát

Page 81: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

77

huy mọi khả năng vốn có của con người vốn bị che khuất bởi cơ chế kế hoạch

hóa tập trung quan liêu, bao cấp. Con người không chỉ là mục tiêu của chính

sách xã hội, mà còn là động lực của chính sách xã hội, với việc huy động sức

mạnh của toàn dân, nguồn lực của mọi thành phần kinh tế, trong đó Nhà nước

giữ vai trò trụ cột, mới đảm bảo chính sách xã hội vì con người. Chính sách xã

hội không thể tách rời chính sách kinh tế; mục tiêu của chính sách xã hội thống

nhất với mục tiêu phát triển kinh tế; phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để

thực hiện các chính sách xã hội, và ngược lại, thực hiện tốt chính sách xã hội là

động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Chính sách xã hội phải tuân thủ nguyên

tắc phân phối theo lao động là chủ yếu, đảm bảo hài hòa giữa cống hiến và

hưởng thụ, giữa trách nhiệm và quyền lợi, đạt đến giá trị tiến bộ và công bằng

xã hội, khắc phục chủ nghĩa bình quân của thời kỳ trước đó.

Phát triển tư duy đổi mới về chính sách xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam

tiếp tục khẳng định:

Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh

tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con

người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã

hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất

và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở, là

tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, và thực hiện tốt chính sách

xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế [29, tr.73].

Về chính sách xã hội, Đảng không chỉ tập trung giải quyết các vấn đề xã

hội nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho các tầng lớp dân cư về

lương thực, nhà ở, vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường, giao thông công

cộng; dân số và kế hoạch hóa gia đình; bảo vệ và chăm sóc sức khỏe; chính

sách người có công với cách mạng;… và nhằm giữ vững bản chất chế độ xã hội

chủ nghĩa. Quan trọng hơn, Đảng đã đề cập đến nhiều vấn đề mới nhằm thích

ứng với quá trình xác lập của cơ chế thị trường, giải quyết những bức xúc nảy

sinh từ cơ chế đổi mới kinh tế, thể hiện bước tiến trong tư duy của Đảng về

Page 82: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

78

chính sách xã hội. Đó là, chủ trương đổi mới chính sách tiền lương và thu nhập,

khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa vào kết quả lao động

và hiệu quả kinh tế; bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu

nhập giữa các bộ phận dân cư, các ngành và các vùng; đấu tranh ngăn chặn thu

nhập phi pháp. Về đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng mọi người

lao động và đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều đóng góp vào quỹ

bảo hiểm xã hội. Từng bước tách quỹ bảo hiểm xã hội đối với công chức, viên

chức nhà nước ra khỏi ngân sách và hình thành quỹ bảo hiểm xã hội chung cho

người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Về giải quyết lao động và việc

làm phải trên cơ sở thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, coi trọng

cả phát triển sản xuất và dịch vụ. Kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ với

phân bố lại lao động trên phạm vi cả nước. Giải quyết việc làm là trách nhiệm

của mọi ngành, mọi cấp, mọi đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, của từng gia

đình, từng người, với sự đầu tư của Nhà nước, các đơn vị kinh tế và nhân dân

[29, tr.73-79].

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

cùng với Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được

Đại hội VII của Đảng thông qua tiếp tục có những phát triển mới về quan điểm,

phương hướng, nhiệm vụ của chính sách xã hội. Theo đó, Đảng ta khẳng định:

“Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc của con người, là động lực to lớn

phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội” [27, tr.13]. Đặc biệt, để xử lý đúng đắn các vấn đề xã hội bức

bách trong cơ chế mới, trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội

đến năm 2000, Đảng ta đề ra những nhiệm vụ cụ thể để giải quyết từng bước

các vấn đề xã hội như giải quyết việc làm, sử dụng tối đa tiềm năng lao động.

Thực hiện chính sách toàn dân đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, gia đình

liệt sĩ, những người có công với nước, chính sách bảo trợ trẻ mồ coi, người tàn

tật, người già cô đơn, chính sách cứu trợ những vùng gặp thiên tai rủi ro và

Page 83: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

79

những gia đình quá nghèo khổ [29, tr.14]. Với quan điểm trên cho thấy những

thay đổi cơ bản trong nhận thức của Đảng ta về chính sách xã hội khi xác định

đối tượng cơ bản của chính sách xã hội là con người, để đạt mục tiêu cơ bản là

giải phóng con người, phát triển con người, bảo đảm cho con người có cuộc

sống ấm no, tự do, hạnh phúc và có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.

Tư duy mới về chính sách xã hội theo chủ trương Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VII và các Hội nghị Trung ương khóa VII là tăng cường các luật

nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của người lao động, vừa khuyến khích đầu tư

phát triển, vừa hạn chế bất công xã hội; từng bước thực hiện rõ hơn về nhiều

hình thức phân phối, bên cạnh phân phối theo lao động, còn có hình thức phân

phối theo nguồn vốn đóng góp vào sản xuất kinh doanh; đẩy mạnh đào tạo tay

nghề, mở rộng hệ thống dịch vụ tư vấn lao động; có chính sách ưu đãi hợp lý

về nhiều mặt để tạo điều kiện cho người nghèo vươn lên, khuyến khích làm

giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo [84, tr.74].

Từ những chủ trương định hướng về chính sách xã hội của Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứu VII của Đảng

và qua thực tiễn giải quyết các vấn đề xã hội trong 10 năm đầu của thời kỳ đổi

mới (1986 - 1996), Chính phủ đã đưa ra 10 định hướng lớn về những lĩnh vực

xã hội chủ yếu cần tập trung thực hiện tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát

triển xã hội, họp tại Copenhagen vào tháng 3- 1995 như sau:

1. Giải quyết việc: hướng vào mục tiêu phát triển nguồn nhân lực, sử dụng

có hiệu quả nguồn nhân lực, chuyển dịch cơ cấu lao động gắn với cơ cấu kinh

tế, đa dạng hóa các hình thức giải quyết việc làm.

2. Xóa đói giảm nghèo: Định hướng khuyến khích mọi người làm giàu

hợp lý, coi một bộ phận dân cư giàu trước, một vùng giàu trước là cần thiết cho

sự phát triển và tiến bộ chung, đồng thời có chính sách đặc biệt trợ giúp người

nghèo, dần dần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.

3. Hòa nhập xã hội: Quyền mỗi người sống bình đẳng, tự do và hạnh phúc

bao gồm các vấn đề (phụ nữ, trẻ em, thanh niên, dân tộc, người tàn tật, người

Page 84: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

80

cao tuổi, giúp đỡ đồng bào các vùng khó khăn, phòng chống và khắc phục hậu

quả thiên tai, hòa nhập với cộng đồng).

4. Tăng cường vai trò của gia đình

5. Phát triển giáo dục.

6. Dân số - kế hoạch hóa gia đình.

7. Chăm sóc sức khỏe nhân dân.

8. Bảo trợ xã hội bao gồm: Bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội (người có

công, người chịu nhiều thiệt thòi rủi ro trong cuộc sống, người già cô đơn

không nơi nương tựa, trẻ mồ coi bất hạnh trong cuộc sống, những người không

còn khả năng lao động).

9. Môi trường: Đồi núi trọc, hoang hóa xói mòn, tài nguyên cạn kiệt, nước

sông hồ bị ô nhiễm, chất thải công nghiệp và sinh hoạt ở khu dân cư.

10. Hạn chế và ngăn ngừa các hành vi tội phạm ma túy, mại dâm, buôn

lậu, tham nhũng, làm giàu bất chính [84, tr.75-76].

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đánh dấu sự hoàn chỉnh

các quan điểm đổi mới về chính sách xã hội cho thời kỳ phát triển mới của đất

nước - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu

dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ

nghĩa xã hội. Nghị quyết của Đại hội nêu rõ:

- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay

trong từng bước đi cũng như trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội

phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn khâu phân phối

kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và

sử dụng tốt năng lực của mình.

- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao

động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng góp các

nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc

lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người

lao động.

Page 85: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

81

- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.

Thu hẹp dần về khoảng cách trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng,

các dân tộc, các tầng lớp dân cư.

- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”,

“Đền ơn đáp nghĩa”, nhân hậu thủy chung.

- Các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa,

Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh

nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham

gia giải quyết những vấn đề xã hội [30, tr.113-114].

Quan điểm trên cho thấy, việc hoạch định các chính sách xã hội phải dựa

trên quan điểm cơ bản về mối quan hệ chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát

triển xã hội và phát triển con người. Không chờ kinh tế phát triển cao rồi mới

giải quyết các vấn đề xã hội, mà ngay trong từng bước và suốt quá trình phát

triển, tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội.

Mục tiêu và động lực của sự phát triển nằm trong việc giải quyết mối quan hệ

hài hòa giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội.

Để thực hiện tốt chính sách xã hội trong việc giải quyết các vấn đề xã hội,

Đảng ta yêu cầu chính sách xã hội đều được giải quyết theo tinh thần xã hội

hóa. Trong đó, Nhà nước đóng vai trò nòng cốt, đồng thời cần động viên sự

tham gia ủng hộ của từng người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội.

Quan điểm đổi mới về chính sách xã hội của Đảng ta còn được thể hiện

trong giải quyết các vấn đề xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn thị trường trong nước với

thị trường quốc tế. Đặc biệt, “phát triển thị trường lao động; người lao động

được tìm việc và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy mạnh xuất khẩu lao

động với sự tham gia của các thành phần kinh tế” [32, tr.192-193]. Trong giải

quyết chính sách xã hội, cần tăng cường vai trò của Nhà nước theo hướng vừa

là người điều tiết, vừa là nhà đầu tư. Là người điều tiết, thông qua vai trò quản

lý xã hội, Nhà nước cần ban hành thể chế và chính sách đúng để đảm bảo tính

hợp lý, công bằng xã hội. Là nhà đầu tư, Nhà nước tăng cường đầu tư vào các

Page 86: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

82

lĩnh vực gắn với các nhóm đối tượng dễ bị tác động mạnh từ ngoại ứng tiêu cực

của cơ chế thị trường, có cơ hội vươn lên trong cuộc sống. Thực hiện quá trình

đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần coi trọng công

bằng trong hưởng thụ các dịch vụ, đặc biệt là công bằng trong thụ hưởng dịch

vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho những đối tượng, những

vùng khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn. Xã hội hóa việc giải quyết các

vấn đề xã hội theo chiều sâu mang tính thích ứng với việc động viên toàn xã

hội tham gia thực hiện trên cơ sở xác định rõ sự khác nhau về tính chất và mức

độ của từng lĩnh vực, từng khía cạnh mà khu biệt hóa cho phù hợp. Theo đó,

những đối tượng có khả năng tham gia các loại dịch vụ lớn hơn phải tạo điều

kiện cho họ được thụ hưởng chất lượng dịch vụ tương ứng. Ngược lại, những

đối tượng khó khăn, không hoặc ít có khả năng chi trả các dịch vụ, Nhà nước

và cộng đồng có trách nhiệm giúp đỡ họ bằng chế độ bảo hiểm.

Tiếp tục bổ sung, phát triển quan điểm đổi mới về chính sách xã hội,

Đảng ta chủ trương: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng

bước và từng chính sách phát triển” với các định hướng lớn về giải quyết các

vấn đề xã hội. Cụ thể:

- Khuyến khích mọi người làm giàu theo pháp luật, thực hiện có hiệu quả

các chính sách xóa đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng

các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát

nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Khắc phục tư

tưởng bao cấp, ỷ lại.

- Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ

công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo

việc làm, chăm sóc sức khỏe, văn hóa - thông tin,… Xây dựng hệ thống an sinh

xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến

tới bảo hiểm y tế toàn dân. Đa dạng hóa các loại hình cứu trợ xã hội, tạo việc

làm, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, hướng tới xuất khẩu lao động trình độ cao.

Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập.

Page 87: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

83

- Phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân

được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.

- Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người

Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện giống nòi.

- Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

- Chú trọng các chính sách ưu đãi xã hội.

- Đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công

cộng. Phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công

cộng, nâng cao năng lực quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động của các

đơn vị công lập và huy động mạnh mẽ nguồn lực của xã hội [36, tr.101-105].

Tiếp tục khẳng định và nêu cao vai trò của chính sách xã hội đối với con

người trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta cho rằng:

Phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực

hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo

đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người

nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh

tế khó khăn, suy giảm [37, tr.181].

Thuật ngữ “An sinh xã hội” lần đầu tiên xuất hiện trong Văn kiện Đại hội

Đảng lần thứ IX với nội dung: “từng bước mở rộng vững chắc hệ thống bảo

hiểm xã hội và an sinh xã hội” [32, tr.212]. Từ đó, chủ trương của Đảng về

công tác an sinh xã hội được đề cập phổ biến, rõ nét hơn. Nghị quyết Hội nghị

lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XI quan niệm an sinh xã hội là

một hệ thống các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng

xã hội thực hiện nhằm bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và giảm nghèo, về

chăm sóc sức khỏe, về tiếp cận giáo dục và về thụ hưởng các phúc lợi cho

mọi thành viên trong xã hội, thông qua việc nâng cao năng lực tự an sinh của

cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng và thông qua quản lý, kiểm soát các rủi ro

do mất việc làm, tuổi già, ốm đau, thiên tai, tác động tiêu cực của kinh tế thị

trường… dẫn đến giảm hoặc bị mất thu nhập và giảm khả năng tiếp cận các

dịch vụ cơ bản. Đây là điểm mới mang tính đột phá trong tư duy của Đảng

Page 88: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

84

Cộng sản Việt Nam về an sinh xã hội, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà

nước đối với vấn đề xã hội quan trọng này.

Theo đó, việc thực hiện chính sách xã hội bảo đảm an sinh xã hội cần tiếp

tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất

nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi

thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua

khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Chuyển các loại hình trợ giúp, cứu trợ

xã hội sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho

các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng

đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu.

Điều này cho thấy vai trò to lớn của an sinh xã hội với tư cách vừa là

phương tiện, vừa là mục tiêu bảo đảm phát triển đất nước theo hướng bền vững

và thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. An

sinh xã hội được đảm bảo sẽ mang lại những ảnh hưởng tích cực về mặt xã hội

trong điều kiện Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa. An sinh xã hội bảo đảm cho các đối tượng “yếu thế” nói riêng,

người lao động nói chung được chăm sóc, bảo vệ, có cơ hội để khắc phục

những rủi ro, có cơ hội để phát triển và hòa nhập cộng đồng. Qua đó, an sinh xã

hội nếu được thực hiện đúng và toàn diện sẽ phát huy vai trò nhân tố con người

với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi sự tăng trưởng và phát

triển kinh tế, góp phần ổn định tình hình chính trị của đất nước. Theo đó:

Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực

mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm công bằng, bình đẳng

về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp chặt chẽ, hợp lý phát

triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công

bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách; phát triển hài

hòa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, không ngừng nâng cao

đời sống của mọi thành viên trong xã hội [37, tr.79-80].

Page 89: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

85

Đặc biệt, Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương, khóa XI đã

ban hành Nghị quyết số 15-NQ/TW: “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai

đoạn 2012 - 2020”. Nghị quyết khẳng định chính sách ưu đãi người có công và

an sinh xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội và khả năng

huy động, cân đối nguồn lực của đất nước trong từng thời kỳ; ưu tiên người có

công, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, người nghèo và đồng bào dân tộc

thiểu số. Hệ thống an sinh xã hội phải đa dạng, toàn diện, có tính chia sẻ giữa

Nhà nước, xã hội và người dân, giữa các nhóm dân cư trong một thế hệ và giữa

các thế hệ; bảo đảm bền vững, công bằng. Nhà nước bảo đảm thực hiện chính

sách ưu đãi người có công và giữ vai trò chủ đạo trong việc tổ chức thực hiện

chính sách an sinh xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức,

doanh nghiệp và người dân tham gia. Ðồng thời tạo điều kiện để người dân

nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh. Tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm

nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng và thực hiện các chính sách an

sinh xã hội.

Tiếp tục tư duy đổi mới về chính sách xã hội, Đảng ta đã có sự bổ sung và

phát triển trong quan điểm về sự cần thiết phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh

tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống

của nhân dân, bảo đảm để nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả

của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước…; bảo đảm an sinh xã

hội, nâng cao phúc lợi xã hội [39, tr.30-31]. Điều này cho thấy sự vận động về

nội dung quan điểm của Đảng về chính sách xã hội trong 30 năm đổi mới theo tư

tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện,

đồng bộ không chỉ giải quyết các vấn đề xã hội mà phải giải quyết có hiệu quả

những vấn đề xã hội bức xúc. Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với

mục tiêu phát triển kinh tế phải nhằm mục đích nâng cao chất lượng cuộc sống

của nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội.

Tóm lại, bước vào thời kỳ đổi mới, với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật,

đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập

Page 90: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

86

những quan điểm đúng đắn về vị trí, vai trò chính sách xã hội dựa trên nền tảng

tư tưởng Hồ Chí Minh. Khắc phục những hạn chế trong tư duy lý luận và thực

tiễn chỉ đạo việc giải quyết các vấn đề xã hội thời kỳ trước đổi mới, chính sách

xã hội thời kỳ đổi mới hướng vào lành mạnh hóa các quan hệ xã hội, đảm bảo

quá trình tăng trưởng và phát trển kinh tế vững chắc gắn với tiến bộ và công

bằng xã hội, đảm bảo an sinh xã hội, tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của

đất nước. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách xã hội thời kỳ

đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh khẳng định bản chất ưu việt của một chế độ

luôn phấn đấu cho mục tiêu vì con người, do con người và trở thành một tiêu chí

xác định sự định hình dần từng bước giá trị của chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở đó,

Đảng ta đã tập trung lãnh đạo việc thực hiện chính sách xã hội với mục tiêu

hướng tới con người, vì con người, xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh và

văn minh theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

3.2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016) THEO TƯ TƯỞNG

HỒ CHÍ MINH

Những kết quả đạt được trong 30 năm đổi mới đất nước đã khẳng định

năng lực và vị thế lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong việc thực

hiện chính sách xã hội. Việc khẳng định con người vừa là mục tiêu, vừa là

động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm

chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Điều này thể hiện sự vận dụng tư tưởng

Hồ Chí Minh về chính sách xã hội của Đảng ta trong sự nghiệp đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

3.2.1. Chính sách lao động và việc làm

Trong quan điểm Hồ Chí Minh, giải quyết tốt chính sách lao động và việc

làm không chỉ nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, mà

còn thể hiện trách nhiệm lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước ta trong

Page 91: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

87

việc “làm sao cho nhân dân có công ăn việc làm” khi tham gia vào đời sống

mới. Vận dụng sáng tạo quan điểm Hồ Chí Minh về chính sách lao động và

việc làm thời kỳ đổi mới, Đảng ta khẳng định: “Giải quyết việc làm là yếu tố

quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm

lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của

nhân dân” [32, tr.210]. Việc giải quyết việc làm cho người lao động phải gắn

chặt với việc thực hiện nó thông qua chương trình phát triển kinh tế nhằm thúc

đẩy nhịp độ tăng trưởng kinh tế nước nhà, qua đó, giảm dần tỷ lệ thất nghiệp,

nhất là tỷ lệ lao động thiếu việc làm ở nông thôn, tạo ra sự ổn định và an toàn

xã hội.

Mục tiêu hàng đầu giải quyết việc làm cho người lao động là phát triển và

sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực trong việc đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ

cấu nền kinh tế và sắp xếp lại lao động của quá trình đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới, với quan điểm, đường lối

đúng đắn của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm cho người lao động,

Quốc hội và Chính phủ đã thể chế hóa thành những chính sách cụ thể, như

Quyết định số 111, 120, 176, 315 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ)

đã huy động nguồn thu từ ngân sách nhà nước, nguồn thu do đưa lao động đi

làm việc ở nước ngoài, sự trợ giúp của các tổ chức quốc tế hoặc chính phủ các

nước cho việc giải quyết việc làm.

Thực hiện Chương trình quốc gia giải quyết việc làm, người lao động có

điều kiện tham gia vào các ngành nghề mới và lĩnh vực sản xuất mới. Nhà

nước không làm thay cho dân như trước đây, mà tạo điều kiện và môi trường,

có sự đầu tư trợ giúp một phần như là “bà đỡ” để người lao động tự tạo việc

làm; cho vay vốn ưu đãi; xây dựng kết cấu hạ tầng; chuyển giao công nghệ;

đào tạo, phổ cập nghề.

Tạo lập thị trường sức lao động là vấn đề cơ bản nhất để hình thành chính

sách việc làm trong điều kiện mới. Hệ thống chính sách việc làm đã được Nhà

nước ban hành và thể chế hóa bằng pháp luật nhằm bảo đảm cho mọi công dân

được tự do hành nghề, tự do liên doanh, liên kết, hợp tác và thuê mướn lao

Page 92: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

88

động, phát huy khả năng tự tạo việc làm và phát triển việc làm trong khuôn khổ

của pháp luật. Nhờ thực hiện chính sách phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa với những hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa

dạng, phong phú đã làm cho thị trường lao động trở nên sôi động, linh hoạt, tạo

điều kiện giải phóng triệt để sức lao động, người lao động có nhiều cơ hội tự

tạo việc làm và thu hút thêm lao động cho xã hội.

Để giải quyết việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn,

thông qua các chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và chuyển

giao công nghệ - kỹ thuật, chính sách xóa đói giảm nghèo, đã tạo ra việc khai

thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả mọi tiềm năng lao động, phát huy các

nguồn lực tại chỗ và lợi thế của mỗi địa phương, trong mỗi gia đình và cộng

đồng dân cư. Kết hợp giữa phân công lao động và tạo việc làm tại chỗ với việc

phân bố, điều chỉnh lại dân cư và lực lượng sản xuất trên cơ sở đẩy mạnh quá

trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đa dạng hóa ngành

nghề và hình thức hoạt động sản xuất, kinh doanh của dân cư, đa dạng hóa việc

làm và thu nhập. Để giải quyết việc làm cho người nghiện ma túy, gái mại dâm,

trộm cắp mãn hạn tù, thực hiện Nghị định 05 và 06 của Chính phủ về phòng

chống và kiểm soát ma túy, hàng năm, Nhà nước đầu tư 7 - 8 triệu USD để

giúp các đối tượng nêu trên có điều kiện chữa bệnh, học nghề, tìm kiếm việc

làm, giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng.

Thực hiện Nghị định số 370 của Hội đồng Bộ trưởng về chiến lược việc

làm, nước ta đã mở rộng hợp tác lao động, xuất khẩu lao động đi làm việc có

thời hạn ở nước ngoài. Đồng thời, nghiên cứu các chính sách cụ thể có liên

quan, tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế trong nước tìm kiếm thị trường và

ký kết trực tiếp với nước ngoài trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, trên cơ sở

quản lý thống nhất về mặt nhà nước của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

Ngoài ra, Chính phủ đã thành lập Ngân hàng Chính sách xã hội cho vay vốn,

tạo việc làm, học nghề, xuất khẩu lao động, hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ vay vốn

phát triển sản xuất; thành lập mạng lưới trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao

dịch và tư vấn việc làm, xây dựng các trung tâm dạy nghề, hướng nghiệp. Huy

Page 93: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

89

động các nguồn vốn đầu tư của nhân dân, viện trợ của các tổ chức quốc tế, kể

cả vay vốn nước ngoài cho phát triển dạy nghề.

Với Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo và việc làm của Chính

phủ và Chiến lược việc làm (2001 - 2010) của Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội, giai đoạn 2001 - 2005 đã góp phần tạo việc làm cho gần 7,5 triệu lao

động [84, tr.120]; cơ cấu lao động chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng lao

động công nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm lao động nông nghiệp (năm

2001 cơ cấu lao động nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và dịch vụ là 63%,

14%, 23% thì năm 2007 tương ứng là 53%, 19%,và 28%); giảm tỷ lệ thất

nghiệp ở khu vực thành thị từ 6,28% năm 2001 xuống còn 4,91% năm 2007;

tăng số lao động qua đào tạo từ 22% năm 2001 lên 35,4 % năm 2007;... [149].

Trong 5 năm (2006 - 2010), đã giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ

lệ thất nghiệp ở thành thị giảm [37, tr.154]. Năm 2010, tỉ lệ lao động qua đào

tạo tăng, đạt 40% tổng số lao động đang làm việc [37, tr.153-154]. Quy mô dạy

nghề tăng nhanh, trong 10 năm (2001 - 2010) đã dạy nghề cho khoảng 13 triệu

người; từ năm 2006 - 2010, tăng trưởng việc làm bình quân 2,58%/ năm, trong

đó khoảng 75% là từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, 25% từ các

chương trình mục tiêu việc làm, giảm nghèo và xuất khẩu lao động; thất nghiệp

thành thị có xu hướng giảm liên tục, đến năm 2010 giảm xuống dưới 5% [84,

tr.121]. Hiện nay, cả nước có 150 khu công nghiệp, trong đó có 110 khu đã đi

vào hoạt động. Các thành phần kinh tế tập thể và tư nhân phát triển mạnh. Hiện

cả nước có trên 3 triệu hộ kinh doanh cá thể, 17.535 hợp tác xã kiểu mới, trên

2.000 làng nghề,... Đây là những cơ sở góp phần rất quan trọng tạo ra công ăn

việc làm cho người lao động [149].

Từ năm 2001 đến năm 2005, Quỹ quốc gia giải quyết việc làm đã cho vay

gần 100 nghìn dự án lớn, nhỏ, góp phần tạo ra hàng triệu việc làm cho công

nhân. Xuất khẩu lao động tạo việc làm cũng đem lại kết quả khá, đến nay lao

động Việt Nam đã có mặt ở 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghề

các loại, trên 50% lao động đi làm việc ở nước ngoài đã được đào tạo nghề.

Page 94: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

90

Giai đoạn 2001 - 2005 nước ta đã đưa được 295,1 nghìn lao động đi làm việc ở

nước ngoài, năm 2006 là 78,8 nghìn và năm 2007 là 85 nghìn, nâng tổng số lao

động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trên 400 nghìn người [149]. Ngoài

việc xuất khẩu lao động phổ thông, các chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở

nước ngoài trong khuôn khổ hợp đồng với các đơn vị trực thuộc của các công

ty xuyên quốc gia đã bắt đầu thực hiện. Chẳng hạn: Tập đoàn Unilever Việt

Nam hiện có gần 20 người Việt Nam đang làm quản lý cho Unilever tại các

nước châu Á; Tập đoàn P&G Việt Nam hiện có 10 nhà quản lý cao cấp trẻ

người Việt Nam đang làm việc tại Singapo, Thái Lan, Inđônêsia, Trung Quốc

và Cộng hòa liên bang Đức; Tập đoàn vận tải Maersk hiện có 6 người Việt

Nam đang làm việc tại Singapo và 2 người làm việc tại Trung Quốc. Theo

thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, với số lượng lao động

Việt Nam làm việc tại các nước khá đông đảo, hàng năm người lao động gửi về

nước khoảng 1,6 - 2 tỷ USD, trừ đi các khoản chi phí khi kết thúc hợp đồng 2

năm, người lao động có thể tích lũy được 5.000 - 10.000 USD [6, tr.515-516].

Bên cạnh những kết quả đạt được, vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta

vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Cụ thể: Lao động khu vực nông nghiệp giảm,

nhưng không hẳn là đã dịch chuyển sang khu vực công nghiệp - xây dựng hay

dịch vụ mà cả triệu lao động là nông dân sau khi bị thu hồi đất, rất ít người tìm

được việc làm mới, số còn lại là thất nghiệp. Trước đây, lao động nông nghiệp

chỉ thiếu việc làm - không có thất nghiệp toàn phần, thì nay số lao động thất

nghiệp toàn phần có xu hướng tăng lên. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

là một tất yếu dẫn đến thường xuyên có lao động mất việc làm. Hàng năm, Việt

Nam có thêm 1,1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, khoảng nửa triệu học

sinh, sinh viên, người học nghề tốt nghiệp ra trường, nhưng hệ thống chính

sách chưa bảo đảm cho người lao động cần việc là có việc; chưa bảo đảm ổn

định tương đối lực lượng lao động sản xuất kinh doanh trong những thời gian

nhất định. Người sử dụng lao động khu vực ngoài quốc doanh, thường xuyên

thay đổi lực lượng lao động bằng cách ký nhiều hợp đồng lao động ngắn hạn.

Page 95: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

91

Hơn nữa, từ phía người lao động, nhiều người bỏ việc, tự do di chuyển nơi làm

việc mà luật pháp, chính sách không kiểm soát được. Việc làm ăn kém hiệu quả

của không ít các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty, các doanh nghiệp nhà nước

dẫn đến nợ nần quá lớn; việc nhập siêu với mức độ quá cao, đã buộc Chính phủ

phải cắt giảm nhiều công trình đầu tư càng làm cho số lao động thiếu việc làm,

mất việc tăng lên [149].

Chất lượng lao động thấp, khoảng 60 - 70% lao động chưa qua đào tạo,

trong đó một bộ phận đáng kể lao động trẻ chưa qua dạy nghề hoặc nếu được

đào tạo thì vẫn còn bị hạn chế về kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Thị trường

lao động đã hình thành nhưng chủ yếu tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm

nên đã thu hút sự chuyển dịch lớn lao động đến vùng này, gây áp lực lớn về hạ

tầng cơ sở xã hội và phát sinh nhiều tệ nạn xã hội. Bên cạnh đó, hệ thống thông

tin thị trường lao động, thông tin phục vụ quản lý lao động còn nhiều bất cập,

chưa đảm bảo cung cấp kịp thời giúp người lao động sớm tìm được việc làm và

người sử dụng lao động tuyển dụng lao động [84, tr.121].

Chính sách lao động và việc làm ở nước ta thời kỳ đổi mới tuy còn tồn tại

một số yếu tố bất hợp lý, song, với những kết quả đạt được là minh chứng

khẳng định vai trò lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong

việc hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải quyết vấn đề việc

làm cho người lao động để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,

công bằng, văn minh”.

3.2.2. Chính sách xóa đói giảm nghèo

Nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi áp bức để không ngừng nâng

cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người là công việc mà Chủ tịch Hồ Chí

Minh phấn đấu trọn đời. Người chỉ rõ, nhân dân lao động là lực lượng vĩ đại

từng bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, đã bao đời chịu đựng

gian khổ, đã trải qua biết bao hy sinh trong hai cuộc chiến tranh cho nên mặc

dù đã thoát khỏi áp bức của đế quốc nhưng họ đang còn thiếu thốn và thường

xuyên bị đói nghèo đe dọa. Do đó, lãnh đạo tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn

Page 96: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

92

hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống - xóa đói giảm nghèo cho mọi người

dân phải là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Đảng ta.

Thực hiện di huấn của Người, trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng và

Nhà nước ta coi xóa đói, giảm nghèo toàn diện, bền vững là mục tiêu xuyên

suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ

quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp phát triển đất nước theo

định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế cho thấy, khi con người được đảm bảo về

đời sống vật chất thì mới có điều kiện tham gia vào các hoạt động xã hội. Đó

cũng là lý do vì sao nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo đã được Đảng và Nhà nước

ta xây dựng thành chương trình lớn của quốc gia trong giai đoạn hiện nay.

Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và

lãnh đạo đã đạt được những thành tựu quan trọng: đất nước thoát khỏi khủng

hoảng, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống người dân được cải thiện rõ nét.

Tuy nhiên, vấn đề phân hóa giàu nghèo nổi lên giữa các vùng, các nhóm dân

cư, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc, đời sống người dân

còn hết sức khó khăn. Vì vậy, đầu năm 1991 vấn đề xóa đói giảm nghèo trở

thành chủ đề thảo luận ở nhiều diễn đàn quốc gia. Phong trào xóa đói giảm

nghèo lan tỏa mạnh trong xã hội. Năm 1996, lần đầu tiên vấn đề xóa đói giảm

nghèo được ghi nhận là Chương trình về xóa đói, giảm nghèo [30, tr.221]. Phấn

đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn khoảng 10% hộ nghèo

[32, tr.299] và “tiếp tục đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, đa dạng hóa các nguồn

lực và phương thức thực hiện xóa đói giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ

nội lực kết hợp với sử dụng có hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế” [36, tr.217].

Giải quyết vấn đề nghèo đói cũng là thể hiện mạnh mẽ cam kết của Đảng,

Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện các mục tiêu

thiên niên kỷ nhằm hướng tới mục tiêu chung là nâng cao mức sống của người

dân, giảm nhanh tỷ lệ hộ sống dưới ngưỡng nghèo. Theo Báo cáo Mục tiêu

phát triển thiên niên kỷ năm 2010, Việt Nam đã đạt được những kết quả quan

trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và cho thấy dấu hiệu khả quan của việc

hoàn thành các mục tiêu vào năm 2015. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước

Page 97: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

93

(GDP) bình quân hằng năm trong thời kỳ 2001 - 2010 đạt 7,2%, GDP bình

quân đầu người năm 2010 khoảng 1.160 USD. Cùng với tăng trưởng và phát

triển kinh tế, Việt Nam đặc biệt quan tâm và ưu tiên nguồn lực cho giảm

nghèo. Với việc giảm 1/2 hộ nghèo vào năm 2002, và đến nay đã giảm được

3/4 số hộ nghèo (so với đầu thập niên 90 thế kỷ XX), hoàn thành trước mục

tiêu thiên niên kỷ về giảm nghèo, Việt Nam chuyển vị trí từ nước nghèo sang

nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp.

Nhờ thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chương

trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo (Chương trình 133), Chương trình phát

triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc, miền núi

(Chương trình 135), Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối

với 62 huyện nghèo (Nghị quyết số 30a) và các chương trình kinh tế, xã hội

khác hướng vào mục tiêu giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm nhanh từ

22% (năm 2005) xuống còn 11,3% (năm 2009) và còn 9,45% (năm 2010), bình

quân mỗi năm giảm 2% - 3% tỷ lệ nghèo; người nghèo đã được tiếp cận tốt hơn

các nguồn lực kinh tế (vốn, đất đai, công nghệ, thị trường...) và các dịch vụ xã

hội cơ bản như: giáo dục, y tế, nước sạch,... Chính vì vậy, thành tựu giảm

nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận: “Những thành tựu

giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất

trong phát triển kinh tế” [111].

Với những kết quả đạt được về xóa đói, giảm nghèo, ngay từ năm 2002,

cơ quan đại diện Liên hợp quốc tại Việt Nam đánh giá là “hoàn thành sớm hơn

so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ hộ nghèo vào năm 2015. Cũng

theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã về đích trước 10 năm so với

mục tiêu xóa đói, giảm nghèo trong thực hiện Mục tiêu Phát triển Thiên niên

kỷ. Việt Nam được xếp thứ 27 trong số 101 nước đang phát triển xét về năng

lực xóa đói, giảm nghèo, trên cả các nước trong khu vực như Inđônêsia,

Malaysia, Philippin, Thái Lan. Đặc biệt, đến tháng 10- 2010, trong Báo cáo của

Học viện Phát triển nước ngoài (ODI) khẳng định: “Việt Nam là một trong hai

nước đi đầu trong việc giảm nghèo và cải thiện sức khỏe theo các Mục tiêu

Page 98: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

94

Phát triển Thiên niên kỷ” [84, tr.128-129]. Chỉ số phát triển con người (HDI)

của Việt Nam tăng 41% trong vòng hai thập kỷ. Năm 2014, chỉ số HDI Việt

Nam đứng thứ 127/187 quốc gia trên thế giới [74, tr.33].

Nhìn chung, kết quả xóa đói, giảm nghèo ở nước ta thời gian qua đạt được

nhiều thành tựu to lớn, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất định. Dù

tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh nhưng kết quả giảm nghèo chưa bền vững, số hộ đã

thoát nghèo nhưng mức thu nhập nằm sát chuẩn nghèo rất lớn (70% - 80%), tỷ

lệ hộ tái nghèo hàng năm so với tổng số hộ thoát nghèo còn cao (7% - 10%);

chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp, đặc

biệt là ở những huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao. Theo chuẩn nghèo mới dự

kiến áp dụng từ năm 2011, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước chiếm khoảng 15% -

17%, người nghèo tập trung phần lớn ở khu vực nông thôn chiếm khoảng 90%;

một số huyện miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, miền núi Duyên hải miền

Trung, Tây Nam Bộ là những nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, tỷ

lệ hộ nghèo trên 50% [111]. Tốc độ cải thiện đời sống của hộ nghèo ở nhiều

nơi còn chậm, nguy cơ tái nghèo cao. Nguồn lực huy động cho chương trình

giảm nghèo còn hạn chế, chưa huy động được nhiều doanh nghiệp có điều kiện

tham gia, nhiều địa phương chưa chủ động trong huy động các nguồn lực tại

chỗ tương xứng với tiềm năng. Một bộ phận người nghèo chưa tiếp cận được

các chính sách, giải pháp trợ giúp của Nhà nước, chưa được hưởng hoặc ít

được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản. Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện xóa

đói, giảm nghèo chưa đồng bộ ở nhiều địa phương; đội ngũ cán bộ làm công

tác xóa đói, giảm nghèo vừa thiếu về số lượng, vừa yếu về năng lực. Việc theo

dõi, giám sát, đánh giá chương trình vượt hệ thống chỉ tiêu thống nhất nên gây

khó khăn cho công tác tổng kết, sơ kết và chỉ đạo thực hiện chương trình từ

trung ương đến địa phương [84, tr.129-130].

Xóa đói, giảm nghèo là nhiệm vụ khó khăn, lâu dài của toàn Đảng và toàn

dân ta, để bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân

chủ, công bằng, văn minh. Trong 10 năm tới, giảm nghèo bền vững là một

Page 99: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

95

trong những nhiệm vụ trọng tâm ưu tiên trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã

hội đất nước, cũng như trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện của Chính phủ,

chính quyền các cấp nhằm phát huy nội lực của toàn xã hội cũng như sự nỗ lực,

vươn lên của người nghèo [111]. Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến

lược an sinh xã hội 2011 - 2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và

chương trình việc làm giai đoạn 2011 - 2015, phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ

nghèo giảm 2% theo chuẩn mới; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng

mạng lưới an sinh xã hội [139].

Theo thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến cuối năm

2014, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm từ 7,8% xuống còn 5,8-6% so với cuối

năm 2013 (giảm 1,8 đến 2%/năm). Gần 2 triệu học sinh nghèo, học sinh dân

tộc thiểu số được miễn giảm học phí, hỗ trợ học bán trú, hỗ trợ kinh phí học

tập với số tiền hơn 7.000 tỷ đồng. Ngân hàng chính sách xã hội đã cho hơn

400.000 lượt hộ nghèo vay vốn sản xuất, xuất khẩu lao động, hơn 60.000 học

sinh nghèo được vay vốn học tập. Nguồn lực dành cho xóa đói, giảm nghèo

không ngừng tăng, giúp đối tượng nghèo có cơ hội tiếp cận với chính sách

giảm nghèo. Năm 2014, tổng nguồn vốn thực hiện mục tiêu giảm nghèo

khoảng 34,7000 tỷ đồng, trong đó, ngân sách Trung ương với hơn 6000 tỷ

đồng để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững

[121, tr.56-57].

Chương trình xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng

và quản lý của Nhà nước mang đậm triết lý phát triển xã hội của Chủ tịch Hồ

Chí Minh, đã và đang đạt được những thành tựu to lớn. Đây thật sự là một

chương trình có nhiều ý nghĩa nhân văn và nhân đạo sâu sắc, là động lực thúc

đẩy quá trình hiện thực hóa mục tiêu xóa đói, giảm nghèo phải bảo đảm tính

toàn diện, công bằng và bền vững. Học tập và làm theo tinh thần chống đói

nghèo của Chủ tịch Hồ Chí Minh phải biến thành lẽ sống, khát vọng làm giàu,

vươn lên trong cuộc sống của toàn thể nhân dân và cả dân tộc Việt Nam trong

giai đoạn hiện nay.

Page 100: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

96

3.2.3. Chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân

Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho nhân dân luôn được Chủ tịch Hồ Chí

Minh đặc biệt quan tâm. Người từng nói: Đảng và Chính phủ là phải hết sức

chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có

lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính

phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Câu nói thấm đượm tính

nhân văn cao cả về trách nhiệm của Đảng và chính quyền trước nhân dân, dân

tộc, nhất là câu “nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”. Vì thế, Người

giao cho ngành y tế một trọng trách lớn lao là giúp đồng bào, giúp Chính phủ

xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân. Người còn yêu

cầu Đảng và Nhà nước ta cần phát triển công tác vệ sinh, y tế. Thực hiện lời

căn dặn của Người, việc chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân

luôn là nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Luật Bảo vệ sức khỏe

nhân dân khẳng định: “Sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người, là một

trong những điều kiện cơ bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu và

nhân tố quan trọng trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo vệ Tổ

quốc” [123, tr.6].

Thực hiện Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân và nhiều chỉ thị, nghị định, đặc

biệt Nghị định 95 của Chính phủ đã hỗ trợ người nghèo về y tế và người quá

nghèo khi ốm đau đến khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế Nhà nước được miễn

một phần viện phí, miễn giảm viện phí cho người nghèo. Tuy nhiên, hầu hết

các cơ sở y tế đều gặp khó khăn trong việc miễn giảm viện phí cho người bệnh

do không có nguồn kinh phí cụ thể. Chính vì vậy, đa số người nghèo đều gặp

khó khăn khi đi khám chữa bệnh.

Từ thực trạng trên, Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân

giai đoạn 2001 - 2010 được ban hành và từng bước đi vào cuộc sống. Thực

hiện Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, Nhà nước có chính

sách khám chữa bệnh miễn phí và giảm phí đối với người có công với nước,

người nghèo, người sống ở vùng có nhiều khó khǎn và đồng bào các dân tộc

Page 101: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

97

thiểu số. Ngoài ra, Quỹ khám chữa bệnh cho người nghèo đã tạo điều kiện và

cải thiện việc tiếp cận dịch vụ y tế cho đối tượng nghèo. Điều này thể hiện

bản chất nhân đạo và định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường

đòi hỏi sự công bằng và hiệu quả trong chǎm sóc sức khỏe.

Ở Việt Nam, chính sách bảo hiểm y tế bắt đầu được triển khai từ năm

1992. Đến năm 2008, với việc ban hành và áp dung Luật bảo hiểm y tế, người

nghèo, người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội

khó khăn thuộc diện được ngân sách Nhà nước chi trả tiền mua thẻ bảo hiểm y

tế. Đối tượng cận nghèo cũng được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần kinh

phí mua thẻ bảo hiểm y tế. Nhận thức được đây là lĩnh vực quan trọng cần có

bảo hiểm, số người tham gia bảo hiểm y tế ngày càng tăng qua các năm. Cụ

thể, năm 1993, chỉ có 3,79 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, nhưng đến năm

2008, tổng số người tham gia bảo hiểm y tế hơn 39,3 triệu, chiếm 46% dân số,

tăng hơn 10 lần so với năm 1993 [66, tr.180]. Đến năm 2013, cả nước có 61,67

triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 69% dân số. Đến cuối năm 2015, tỉ

lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng và chiếm 75% dân số [39, tr.239]. Mục tiêu của

bảo hiểm y tế đến năm 2020 phải thực hiện được bảo hiểm y tế toàn dân dưới

hình thức bảo hiểm bắt buộc và bảo hiểm tự nguyện.

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chăm

sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân được chú trọng. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt

73,3 tuổi vào năm 2015. Làm tốt công tác y tế dự phòng, không để dịch bệnh

lớn xảy ra. Chất lượng khám, chữa bệnh được nâng lên, ứng dụng nhiều thành

tựu khoa học - công nghệ kỹ thuật cao. Đã tích cực triển khai nhiều giải pháp

giảm quá tải bệnh viện và đạt kết quả bước đầu. Tập trung đầu tư xây dựng các

bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Đội ngũ cán bộ y tế

phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng

cao y đức và đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị y tế sự nghiệp công

lập, bước đầu thực hiện lộ trình tính đúng, tính đủ giá dịch vụ y tế cùng với

thực hiện hỗ trợ cho đối tượng chính sách, người nghèo. Các cơ sở y tế tư nhân,

Page 102: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

98

y học cổ truyền và công nghiệp dược được khuyến khích phát triển. Tăng

cường quản lý chất lượng và giá thuốc chữa bệnh. Chú trọng quản lý vệ sinh an

toàn thực phẩm [39, tr.239-240].

Những kết quả đạt được trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân

dân là một thành tựu quan trọng trong chiến lược phát triển toàn diện con người

của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt, sự tăng nhanh về chỉ số tuổi thọ đã phản

ánh mức độ tác động của yếu tố y tế trong việc nâng cao sức khỏe cho nhân

dân. Tuy vậy, do những khó khăn về kinh tế - xã hội, ngân sách đầu tư cho

ngành y tế còn thấp. Tình trạng xuống cấp ở một số bệnh viện, tình hình thu

viện phí, thái độ phục vụ bệnh nhân cần sớm được khắc phục. Một số bệnh tật

sau nhiều năm được thanh toán, nay có xu hướng tái phát và tăng lên như bệnh

sốt rét, bệnh lao, bệnh tả, bệnh AIDS cũng đang có xu hướng phát triển. Ô

nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội đang là yếu tố ảnh hưởng xấu đến sức khỏe

nhân dân, làm tăng nguy cơ mắc bệnh tật. Tỷ lệ người dân được dùng nước

sạch còn rất thấp. Công tác tuyên truyền giáo dục sức khỏe còn mang tính thời

vụ, làm theo chiến dịch, chưa tạo được phong trào nhân dân tham gia vệ sinh

phòng bệnh có tính thường xuyên, liên tục. Công tác đào tạo cán bộ được tăng

cường về số lượng nhưng chỉ số bác sĩ bình quân trên tổng số dân còn thấp.

Tình trạng thừa bác sĩ ở thành phố nhưng thiếu cán bộ y tế cơ sở ở các vùng

nông thôn, các bệnh viện tuyến huyện và các xã.

Thực hiện tốt chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân không

chỉ thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa chúng

ta đang xây dựng, mà còn góp phần thực hiện tốt lời căn dặn của Chủ tịch Hồ

Chí Minh về “Phát triển công tác vệ sinh, y tế” đối với con người thời kỳ đổi

mới. Trong nhưng năm tiếp theo, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tiếp tục quán triệt quan điểm Hồ

Chí Minh vào việc chăm lo sức khỏe cho nhân dân và xây dựng một nền y tế

Việt Nam hiện đại là vấn đề thiết thực cả về phương diện lý luận và thực tiễn.

Page 103: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

99

3.2.4. Chính sách đối với người có công với cách mạng

Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, để làm nên

thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược,

hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã hiến dâng tuổi thanh xuân và sự

sống của mình cho Tổ quốc. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ, những bậc cha mẹ,

những người vợ, người chồng và những người con đã mãi mãi không thể gặp

lại người thân của mình. Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở

Đảng, Nhà nước và các đoàn thể cần chấp hành thật tốt các chính sách đối với

thương binh, bệnh binh và các gia đình có công với cách mạng. Cùng với các

chủ trương, chính sách ưu tiên của Đảng và Nhà nước, những việc làm đền ơn,

đáp nghĩa của nhân dân ta đã thiết thực hỗ trợ người có công với nước ổn định

cuộc sống, tham gia vào các hoạt động xã hội, nỗ lực vươn lên trong cuộc sống.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính sách ưu đãi đối với

người có công với cách mạng không chỉ là đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của

dân tộc, mà đã trở thành một hệ thống chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta

trong sự nghiệp đổi mới, góp phần to lớn vào sự ổn định và phát triển xã hội.

Cùng với quá trình đổi mới đất nước, tùy vào tình hình và khả năng thực tế,

chính sách ưu đãi đối với người có công với nước từng bước được bổ sung và

hoàn thiện. Việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh “Ưu đãi

người hoạt cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người

hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” (gọi tắt là Pháp lệnh

ưu đãi người có công) và Pháp lệnh phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam

anh hùng” là bước tiến quan trọng trong hệ thống chính sách “Đền ơn đáp

nghĩa” ở nước ta. Với hai Pháp lệnh này góp phần cải thiện thêm một bước đời

sống người có công và tạo điều kiện để các gia đình chính sách phát huy năng

lực, sở trường của mình trong cơ chế mới.

Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt khi đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -

xã hội, phong trào toàn dân chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ

càng được quan tâm. Chỉ thị số 09-CT/TW, ngày 14- 12- 1996 của Bộ Chính

Page 104: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

100

trị về việc mở đợt vận động kỷ niệm 50 năm ngày Thương binh, liệt sĩ (27- 7-

1947 - 27- 7- 1997); Quyết định số 104/QĐ-TTg, ngày 14- 4- 1999 của Thủ

tướng Chính phủ về một số chính sách đối với thanh niên xung phong đã hoàn

thành nhiệm vụ trong kháng chiến. Ngày 15- 12- 1999, Chính phủ đã ban hành

Nghị định số 175/1999/NĐ-CP điều chỉnh mức trợ cấp và sinh hoạt phí đối với

các đối tượng chính sách. Chỉ thị số 80 CT/TW, ngày 01- 3- 2002 của Ban Bí

thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thương binh, liệt sĩ,

người có công với cách mạng và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” trong giai

đoạn mới.

Ngày 29- 6- 2005, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Ưu

đãi người có công sửa đổi. Ngày 14- 12- 2006, Ban Bí thư Trung ương Đảng

đã có Chỉ thị số 07/CT-TW, về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác

thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”. Ngày

18- 6- 2007, để tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công, Ủy ban

Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung chính sách ưu đãi

người có công lần thứ ba. Ngày 15- 11- 2007, Bộ Lao động - Thương binh và

Xã hội cũng có Thông tư số 25/2007/TT-BLĐTBXH, Hướng dẫn bổ sung việc

thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Pháp lệnh số

35/2007/PL-UBTVQH11 ngày 21-6-2007 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh số 26 và Nghị định số

89/2008/NĐ-CP của Chính phủ hướng dẫn thi hành Pháp lệnh số 35.

Ngày 24- 12- 2010, Chính phủ ban hành Nghị định số 116/2010/NĐ-CP

về chính sách đối với người hưởng lương trong lực lượng vũ trang công tác ở

các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, bảo đảm đồng bộ,

thống nhất chính sách xã hội đối với thương binh, gia đình liệt sĩ và người có

công với cách mạng. Tháng 5- 2014, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị

quyết Trung ương 5 khóa XI về những định hướng chính sách xã hội giai đoạn

2012 - 2020, với mục tiêu tổng quát: Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh

thần cho người có công, phấn đấu đến năm 2015 cơ bản bảo đảm gia đình

Page 105: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

101

người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của dân

cư trên địa bàn.

Việc từng bước bổ sung, hoàn thiện chính sách ưu đãi người có công và từ

thực tiễn lãnh đạo, tổ chức thực hiện công tác chăm sóc thương binh, gia đình

liệt sĩ và người có công với cách mạng của Đảng đã mang lại những kết quả to

lớn. Hiện cả nước có hơn 8 triệu người có công với 13 diện đối tượng được

hưởng chế độ ưu đãi và chăm sóc, trong đó có khoảng 1,5 triệu người hưởng

trợ cấp hàng tháng; gần 4,2 triệu người hưởng trợ cấp một lần; hàng chục nghìn

con thương binh, liệt sĩ được hưởng chế độ ưu đãi về giáo dục đào tạo, chăm

sóc y tế; 14.500 cán bộ lão thành cách mạng được hỗ trợ cải thiện nhà ở. Cùng

với việc hoàn thành công tác xác nhận người có công với cách mạng, phong

trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã trở thành nét đẹp trong đời sống văn hóa của nhân

dân ta. Từ phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” hơn 300 nghìn gia đình chính sách

được tặng nhà tình nghĩa, hơn 600 nghìn sổ tiết kiệm gửi đến các gia đình

chính sách còn khó khăn.

Năm 2008, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa” đã trao tặng thêm 5.200 nhà

tình nghĩa, sửa chữa 7.500 nhà, tặng 20 nghìn sổ tiết kiệm, vận động Quỹ “Đền

ơn đáp nghĩa” được hơn 250 tỷ đồng; đã có 9.568/10.340 xã, phường (đạt tỷ lệ

92%) được Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố công nhận làm tốt công tác

thương binh, liệt sĩ [110, tr.6-7]. Năm 2010, trong điều kiện kinh tế đất nước

còn nhiều khó khăn nhưng Quỹ đền ơn đáp nghĩa Trung ương đã nhận được sự

ủng hộ 290 tỉ đồng, chúng ta đã xây mới 11.202 nhà tình nghĩa, sửa chữa nâng

cấp 7.317 nhà cho đối tượng người có công với tổng số tiền hơn 401 tỉ đồng.

Hơn 94% số xã, phường trong toàn quốc làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa,

trên 95% đối tượng chính sách đạt được mức sống bằng và cao hơn mức sống

trung bình của xã hội, 100% bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được phụng

dưỡng và chăm sóc chu đáo, tặng 16.282 sổ tình nghĩa với tổng số tiền trên 13

tỉ đồng. Hầu hết các nghĩa trang liệt sĩ quy mô quốc gia và địa phương, các khu

tưởng niệm danh nhân, anh hùng liệt sĩ và những “địa chỉ Đỏ” được nhân dân

Page 106: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

102

và các tổ chức xã hội góp công, góp của trị giá hàng trăm tỉ đồng để xây dựng

và tu bổ [111].

Nguồn ngân sách thực hiện chế độ ưu đãi xã hội đối với người có công

không ngừng tăng qua các năm. Năm 2012, đã bố trí 25.285,043 tỷ đồng, tăng

4.124,114 tỷ đồng so với năm 2011. Đến năm 2013, ngân sách nhà nước chi ưu

đãi người có công là 29.987,100 tỷ đồng. Năm 2014, tổng dự toán ngân sách

chi ưu đãi người có công là 32.390 tỷ đồng. Mức hỗ trợ đối với người có công

cũng không ngừng được cải thiện. Từ năm 2008 đến năm 2013, Chính phủ đã 7

lần điều chỉnh mức chuẩn trợ cấp ưu đãi người có công, từ 470.000 đồng/tháng

(năm 2007) lên mức 1.220.000 đồng/tháng (năm 2013), cao hơn mức lương tối

thiểu chung (1.115.000 đồng/tháng) [121, tr.58].

Theo Báo cáo tổng kết việc thực hiện Chính sách ưu đãi người có công

tính đến tháng 2- 2001, cả nước có 3.037 nghĩa trang liệt sĩ là nơi yên nghỉ vĩnh

hằng của hơn 740.000 liệt sĩ. Cùng với nghĩa trang liệt sĩ, nhiều công trình

tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ được xây dựng, trong đó có 1.915 nhà Bia ghi

tên Liệt sĩ được xây dựng và đưa vào hoạt động. Việc tìm kiếm, cất bốc,

chuyển hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam hy sinh tại Lào và Campuchia

về nước được Chính phủ đặc biệt quan tâm. Đến năm 2004, khoảng 36.340 hài

cốt liệt sĩ được đưa về nước an táng tại các nghĩa trang liệt sĩ. Ngân sách Trung

ương cấp 73 tỷ đồng và hàng trăm tỷ đồng từ ngân sách các địa phương được

huy động cho việc xây dựng, cải tạo, nâng cấp mộ, nghĩa trang liệt sĩ.

Thực hiện lời Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy thương binh “tàn nhưng không

phế”, hiện nay công tác chăm sóc thương binh, gia đình liệt sĩ và người có công

với đất nước của Đảng ta luôn gắn liền với việc tạo mọi điều kiện thuận lợi cho

họ tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương như

vay vốn, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, xây dựng nền văn hóa mới,

con người mới. Điều này đã phát huy vai trò gương mẫu tự vươn lên của

thương binh, bệnh binh, cũng như vai trò của các gia đình liệt sĩ và những

người có công với cách mạng trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Ngoài ra, Nhà

Page 107: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

103

nước còn đầu tư xây dựng hệ thống các khu điều dưỡng, trung tâm phục hồi

chức năng, cơ sở dạy nghề,... dành riêng cho thương binh, bệnh binh và thân

nhân liệt sĩ.

Việc thực hiện tốt chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng

của Đảng và Nhà nước ta đã tạo ra nguồn động lực to lớn trong công cuộc xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Bằng sự cố gắng

của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, chúng ta quyết tâm làm cho đời sống

thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công, các Bà mẹ Việt Nam anh hùng

từng bước được cải thiện, thể hiện tấm lòng của toàn dân ta “Uống nước nhớ

nguồn, đền ơn đáp nghĩa” [105, tr.4]. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Nhà nước,

cộng đồng và gia đình chính sách cùng chăm lo thực hiện chính sách thương

binh, liệt sĩ, ưu đãi người có công theo phương châm “Đồng bào sẵn sàng giúp,

Chính phủ ra sức nâng đỡ, và anh em có quyết tâm”. Trong đó, chính sách của

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, sự hỗ trợ của cộng đồng là vô cùng quan trọng

và sự nỗ lực vươn lên của gia đình chính sách có ý nghĩa quyết định.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách đối với

thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng vẫn còn một hạn chế cần

được khắc phục, giải quyết. Đó là tình trạng sai sót đối tượng trong việc thực

hiện chính sách hỗ trợ vẫn còn diễn ra ở không ít địa phương. Công tác đền

ơn đáp nghĩa ở một số nơi chưa gắn với việc giáo dục truyền thống, tuyên

truyền mục đích, ý nghĩa của phong trào, tôn vinh người tốt, việc tốt. Chế độ

trợ cấp ưu đãi nhìn chung còn thấp. Phong trào xã hội hóa công tác người có

công với cách mạng chưa đều, chưa đáp ứng được nhu cầu của người có công

và còn phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, tình cảm và trách nhiệm của từng địa

phương. Đời sống của gia đình chính sách tuy được cải thiện nhưng vẫn còn

thấp, học hành và việc làm của con em chưa được bảo đảm. Những sai sót,

nhầm lẫn, tiêu cực trong thực hiện chính sách xảy ra ở một số nơi, gây không ít

phiền hà cho người hưởng chính sách, gây dư luận không tốt trong xã hội. Do

vậy, cần tiếp tục hoàn thiện chính sách tiền lương và trợ cấp xã hội đối với

Page 108: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

104

người có công với nước. Tích cực ban hành, bổ sung, sửa đổi chế độ phụ cấp,

trợ cấp đối với các ngành nghề đặc thù quân sự, với các lực lượng làm việc trên

các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tiếp tục cải thiện

điều kiện sống và làm việc của cán bộ, chiến sĩ; động viên tinh thần học tập, lao

động sáng tạo của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang [58, tr. 32].

Nhìn chung, việc thực hiện chính sách xã hội ở nước ta trong sự nghiệp

đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần giải quyết tốt các vấn đề

xã hội bức bách của con người. Chỉ số phát triển con người (HDI) không

ngừng tăng, xã hội ngày càng ổn định và phát triển. Tuy vậy, việc thực hiện

chính sách xã hội hiện nay vẫn còn một số hạn chế nhất định, chất lượng

cuộc sống con người còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, nhiều vấn đề

xã hội tiếp tục phát sinh trong cơ chế mới. Do đó, cần có sự đánh giá đúng

thực trạng, nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế, để tìm ra những giải

pháp nhằm tiếp tục phát huy những kết quả đạt được và khắc phục dần mặt

thiếu sót việc thực hiện chính sách xã hội thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ

đất nước.

3.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ VIỆC THỰC

HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI

3.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu

Một là, Đảng đề ra chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn, kịp thời,

tương đối đồng đều.

Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực phát huy

mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc. Sau 30 năm đổi mới chính sách xã hội đã khẳng định sự lãnh đạo đúng

đắn của Đảng, quản lý của Nhà nước và vai trò làm chủ của nhân dân trong

việc hoạch định, tổ chức thực thi chính sách xã hội. Nếu như thời kỳ trước đổi

mới, các vấn đề xã hội chưa được nhận thức với tư cách là một phân hệ lĩnh

vực trụ cột của phát triển xã hội, mà nó thường được gắn với các chủ trương về

kinh tế hoặc văn hóa - xã hội. Cùng với tiến trình đổi mới toàn diện đất nước,

Page 109: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

105

Đảng ta đã nhận thức đúng đắn hơn về các vấn đề xã hội, về vấn đề trung tâm

của xã hội là con người. Bước tiến quan trọng trong đổi mới tư duy về chính

sách xã hội khi Đảng ta xác định các vấn đề xã hội với tư cách là một phân hệ

trụ cột của xây dựng, phát triển xã hội Việt Nam gắn với tính định hướng xã

hội chủ nghĩa. Điều này được Đảng ta khẳng định: “Từ thực tiễn xây dựng đất

nước mấy chục năm qua, chúng ta nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, xã hội,

văn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ

nghĩa” [36, tr.32].

Như vậy, đường lối đổi mới về chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước ta

thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở

lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và

kim chỉ nam cho mọi hành động, đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng là yếu

tố giữ vai trò quyết định đến thắng lợi của quá trình hoạch định và thực thi

chính sách xã hội. Tư duy về giải quyết các vấn đề xã hội được bổ sung, hoàn

thiện, phát triển mang tính nhất quán khi Đảng ta có những đổi mới quan trọng

trong nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế, tăng trưởng kinh tế phải

gắn với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách

phát triển, mà ở đó con người là vốn quý nhất, là động lực và mục tiêu của phát

triển xã hội bền vững. Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể đã

chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của các tầng lớp

dân cư. Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu

tượng; thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế

là bình quân, cào bằng đã từng bước thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả

lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp các

nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Nhờ

vậy, công bằng xã hội được thể hiện ngày một rõ hơn. Từ chỗ không đặt đúng

tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối quan hệ tương tác với chính

sách kinh tế đã đi đến thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội. Từ

chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần dần

Page 110: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

106

chuyển trọng tâm sang cơ chế, chính sách để các thành phần kinh tế và người

lao động đều tham gia tạo việc làm. Từ chỗ không chấp nhận có sự phân hóa

giàu - nghèo đã đi đến khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với

tích cực xóa đói giảm nghèo, coi việc có một bộ phận dân cư giàu trước là cần

thiết cho sự phát triển. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm

sóc sức khỏe nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành; có chính sách

trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo [34, tr.75-78].

Hai là, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết các vấn đề

xã hội được đổi mới.

Thời kỳ trước đổi mới, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao

cấp, sự lãnh đạo của Đảng đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội là trực tiếp.

Đảng quyết định từ các vấn đề chiến lược, đường lối đến những vấn đề cụ thể,

đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách được thực hiện một cách thống

nhất, khẩn trương và nghiêm ngặt. Thời kỳ đổi mới, sự lãnh đạo của Đảng đối

với lĩnh vực xã hội không bằng con đường trực tiếp, mà thông qua những mục

tiêu chiến lược nói chung, cụ thể về chính sách xã hội được thể hiện trong các

kế hoạch, chiến lược phát triển và tầm nhìn, được các lực lượng của hệ thống

chính trị chủ động tham gia hiện thực hóa do Đảng lãnh đạo. Thực tế cho thấy,

phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực xã hội thời kỳ đổi mới mang

tính gián tiếp, thay cho phương thức trực tiếp thời kỳ trước đổi mới. Phương

thức lãnh đạo gián tiếp của Đảng làm cho những quan điểm, mục tiêu, phương

hướng, nhiệm vụ của Đảng đi vào cuộc sống, thẩm thấu vào xã hội và trở thành

hành động tự giác của xã hội [84, tr.162-163]. Sự chỉ đạo tổ chức thực hiện

chính sách xã hội của Đảng thông qua vai trò quản lý của Nhà nước và các tổ

chức chính trị - xã hội, đã giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội bức xúc,

tạo cơ sở cho sự “năng động hóa xã hội”, tạo nền tảng đẩy mạnh “xã hội hóa”

việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo tính khả thi của chính sách xã hội

trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.

Page 111: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

107

Có thể khẳng định, vai trò lãnh đạo của chủ thể quản lý và phát triển xã

hội sẽ quyết định đến thành công hay thất bại của việc hoạch định, thực thi các

chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Vấn đề đặt ra là chủ thể đó phải biết rõ

mình phải làm gì, phải hành động như thế nào trước những biến đổi của thời

cuộc và hoàn cảnh, biết điều chỉnh hợp lý những kế hoạch, chính sách và giải

pháp để tồn tại, phát triển trong thế giới đầy biến động. Tư duy đổi mới của

Đảng về chính sách xã hội là minh chứng sinh động nhất về tính nhất quán

trong phương thức lãnh đạo và chỉ đạo tổ chức thực hiện để đạt hiệu quả cao

đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Những thành tựu đạt được về chính

sách xã hội thời kỳ đổi mới đã khẳng định tính khoa học và nghệ thuật trong

vai trò lãnh đạo của Đảng ta khi nhận biết và xử lý “cái có thể”, làm cho “cái

có thể” tích cực trở thành hiện thực, đồng thời làm cho “cái có thể” tiêu cực

yếu dần đi và không thể xảy ra, hoặc giảm thiểu những tác hại của nó tới mức

thấp nhất [125, tr.82].

Ba là, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy nguồn lực bên trong, đồng

thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài để giải quyết các vấn đề xã hội.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn

đề xã hội là vấn đề được Đảng luôn quan tâm thực hiện, là nhiệm vụ chiến

lược nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Để tăng cường nguồn lực tổng

hợp giải quyết các vấn đề xã hội, Đảng đề ra phương châm: “Phát huy cao độ

nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài… để phát triển nhanh, có

hiệu quả và bền vững” [32, tr.89]. Với đường lối đối ngoại đúng đắn, Việt

Nam không chỉ tích cực, chủ động hội nhập ngày càng sâu vào quá trình toàn

cầu hóa, mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, mà còn đẩy

mạnh hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề chung mang tính toàn cầu. Nhờ

mở rộng, tăng cường các mối quan hệ hợp tác quốc tế, góp phần thu hút

nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển kinh tế và giải quyết

các vấn đề xã hội. Thông qua quá trình dịch chuyển tư bản và các nguồn viện

Page 112: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

108

trợ của các nước phát triển, Việt Nam có thêm điều kiện và cơ hội để giải

quyết việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, phát triển dịch vụ y

tế,… Ngoài ra, hợp tác quốc tế còn thúc đẩy quá trình dịch chuyển lao động

giữa Việt Nam với các nước thông qua xuất khẩu lao động, qua đó khắc phục

tình trạng thiếu việc làm, tạo nên sự phát triển hài hòa giữa cung và cầu về

nguồn lao động.

Những thành tựu đạt được về chính sách xã hội thời kỳ đổi mới khẳng

định vai trò lãnh đạo đúng đắn của Đảng, quản lý của Nhà nước và các tổ

chức chính trị - xã hội trong chỉ đạo, tổ chức thực thi giải quyết các vấn đề xã

hội. Chính sách xã hội đúng đắn phải lấy việc phục vụ con người làm mục

đích cao nhất, nhằm phát huy nhân tố con người, điều tiết và làm lành mạnh

hóa các quan hệ xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, thể hiện

bản chất ưu việt của chế độ xã hội mà chúng ta đang xây dựng. Do vậy, việc

phân tích, đánh giá nguyên nhân của những thành tựu về chính sách xã hội

thời kỳ đổi mới có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với công tác chỉ đạo

thực hiện chính sách xã hội, đòi hỏi Đảng, Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu

để kế thừa, phát triển cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện mới trong những

năm tiếp theo.

3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế

3.3.2.1. Nguyên nhân khách quan

Một là, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nảy sinh nhiều vấn đề xã

hội, làm giảm hiệu quả thực hiện chính sách xã hội.

Trong cơ chế thị trường, những hiện tượng tiêu cực trên lĩnh vực kinh tế

đã kéo theo sự suy thoái, rạn nứt về mặt xã hội bởi sự tác động của trào lưu

chạy theo đồng tiền, bất chấp đạo lý, xem nhẹ nhân phẩm càng làm giảm hiệu

quả việc thực hành chính sách xã hội. Ngoài ra, sự phân hóa nhanh, mạnh

trong nền kinh tế thị trường đã tác động đến các nhóm xã hội yếu thế theo

hướng ngày càng yếu hơn và dễ bị tổn thương hơn. Các dòng di chuyển việc

Page 113: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

109

làm, di chuyển lao động diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, tạo áp lực lớn

cho việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của các nhóm dân cư yếu thế, dễ

bị tổn thương.

Hai là, dân số tăng nhanh, trình độ dân trí chưa cao là một khó khăn lớn

cho việc thực hiện chính sách xã hội.

Sự nghiệp phát triển con người ở Việt Nam là do chính người dân thực

hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Nhưng với một nước

mà người dân chịu ảnh hưởng của thói quen, phong tục tập quán lạc hậu, trình

độ dân trí chưa cao sẽ là một khó khăn lớn trong việc thực hiện chính sách xã

hội. Vấn đề nóng bỏng và gay gắt là số người không có hoặc thiếu việc làm còn

lớn, trong khi tỷ lệ tăng dân số vẫn ở mức cao, trình độ lao động còn thấp so

với yêu cầu thị trường sức lao động trong và ngoài nước. Đây là bài toán khó

cho Đảng và Nhà nước khi giải quyết vấn đề việc làm trong điều kiện hội nhập

kinh tế quốc tế hiện nay. Dân số đông và tăng nhanh không chỉ gây sức ép về

giải quyết việc làm, mà còn là gánh nặng đối với ngành y tế trong công tác

chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh ở các vùng

dân tộc thiểu số cao nhất nước, chất lượng y tế vẫn còn rất thấp. Do chịu ảnh

hưởng của lối sống cũ nên người dân ở các tỉnh miền núi thường chữa bệnh tại

nhà theo các biện pháp của những thầy mo. Đây là một trong những nguyên

nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tử vong cao, nhất là tình trạng tử vong ở bà mẹ

và trẻ em. Dân số tăng nhanh, kinh tế chậm phát triển, chất lượng nguồn nhân

lực chưa cao,... là những thách thức lớn đối với việc nâng cao hiệu quả chính

sách xã hội ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

3.3.2.2. Nguyên nhân chủ quan

Một là, nhận thức của cán bộ hoạch định chính sách xã hội còn hạn chế

nên việc thiết kế chính sách chưa phù hợp.

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhờ

đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng mà nền kinh tế không ngừng được tăng

trưởng, phát triển, góp phần giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc. Tuy

Page 114: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

110

nhiên, trong tổ chức thực thi chính sách xã hội cũng còn tồn tại nhiều bất cập.

Nguyên nhân của những bất cập do cán bộ hoạch định chính sách xã hội chưa

nhận thức đúng vai trò của chính sách xã hội và tầm quan trọng của công tác

xã hội hóa chính sách xã hội dẫn đến việc thiết kế chính sách chưa phù hợp,

thiếu cơ chế động viên người dân tham gia. Cán bộ hoạch định chính sách

chưa phân định rõ vai trò của Nhà nước và vai trò của thị trường trong phân

bố các nguồn lực, nên nhiều chính sách xã hội chưa được đặt ngang tầm với

chính sách kinh tế, chưa được đầu tư thỏa đáng, lại còn phụ thuộc quá nhiều

vào ngân sách nhà nước. Đầu tư cho chính sách xã hội chỉ được tính toán sau

khi Nhà nước giải quyết xong các khoản đầu tư khác. Điều này dẫn tới việc

chậm trễ trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, hoặc giải quyết nhưng tính

hiệu quả không cao. Sự tích tụ cái cũ và sự phát sinh cái mới các vấn đề xã

hội sẽ tác động tiêu cực đến đời sống xã hội nói chung và các quan hệ giữa

con người với con người nói riêng. Bên cạnh đó, nhiều chính sách xã hội cần

có sự đầu tư từ ngân sách nhà nước lại có xu hướng xóa bao cấp một cách tràn

lan, thị trường hóa bằng bất cứ giá nào. Trái lại, một số chính sách lại được

bao cấp nặng theo kiểu ban phát, với cơ chế “xin - cho” dẫn đến tâm lý ỷ lại,

trong chờ vào viện trợ Nhà nước, trong khi ngân sách nhà nước còn hạn chế,

không có đủ khả năng để điều tra nhu cầu, phát hiện bất cập, điều chỉnh chính

sách và bổ sung chính sách.

Hai là, quy trình xây dựng chính sách xã hội chưa hợp lý, thiếu tính khả

thi, nhiều nội dung còn bất cập, gây trở ngại trong thực thi chính sách xã hội.

Trong hoạch định, thiết kế chính sách xã hội thiếu điều tra đánh giá nhu

cầu xã hội nên thiếu cơ sở khoa học trong một số khâu của quy trình chính

sách; chưa chú trọng đến việc điều tra, tổng kết thực tiễn và chưa đủ mạnh để

giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư. Chẳng hạn, chính sách lao động

và việc làm chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư phát

triển kinh tế, tạo nhiều việc làm vì thiếu chính sách khuyến khích phát triển thị

trường lao động, cụ thể là chính sách tiền lương, tiền công chưa thật sự theo

Page 115: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

111

nguyên tắc thị trường và hiệu quả; chưa có hệ thống chính sách khuyến khích

hộ nghèo thoát nghèo,… Trong thực thi chính sách xã hội, nhận thức và trách

nhiệm của cán bộ thực thi chính sách còn nhiều hạn chế. Cán bộ thực thi chính

sách chưa “đọc” được và hiểu đúng các hợp phần chính sách, nên chưa có kế

hoạch triển khai phù hợp với từng hợp phần chính sách gắn với từng đối tượng,

từng phạm vi, từng vùng miền khác nhau. Do vậy, việc chưa nhận thức đầy đủ,

đúng đắn mục tiêu, ý nghĩa, nội dung của chính sách và các giải pháp thực hiện

thuộc về trách nhiệm của các nhà hoạch định, tổ chức thực thi chính sách, lực

lượng tham gia và cả đối tượng chịu ảnh hưởng chính sách. Từ đó, chưa tạo

nên sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, chưa phát huy được sức mạnh

tổng hợp khi tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách. Vì thế, việc thực hiện

chính sách xã hội đòi hỏi các ngành, các cấp, các cá nhân cần hiểu rõ vai trò,

trách nhiệm, quyền hạn của mình trong việc tham gia thực thi chính sách.

Ba là, phương pháp tuyên truyền, kiểm tra giám sát, thu nhận và phản hồi

thông tin của chủ thể thực thi chính sách xã hội còn hạn chế về năng lực, tính

chuyên môn hóa chưa cao.

Hình thức tuyên truyền thiếu tính linh hoạt, chưa hấp dẫn, chưa phù hợp

với từng đối tượng cụ thể, từng trường hợp rủi ro, từng vùng miền nên người dân

(đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội) và các tổ chức chính trị - xã hội (đối

tượng thụ hưởng, phối hợp thực hiện chính sách xã hội) chưa hiểu đúng về

quyền hạn, nghĩa vụ mà mình nhận được khi tham gia chính sách hoặc hiểu

nhằm về chính sách nên quá trình triển khai chính sách không mang lại hiệu quả

cao. Thực tế những năm qua đã và đang thực thi chính sách giảm nghèo là minh

chứng điển hình cho thấy nhiều bất cập và tính không bền vững. Hiện nay, chính

sách giảm nghèo nặng về tính bao cấp, các gói hỗ trợ về tiền thường cho không

hơn là hỗ trợ vay ưu đãi. Người đứng đầu Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

cho rằng nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ việc Nhà nước đã không

chỉ hỗ trợ người nghèo “cần câu” mà hỗ trợ luôn “con cá”. Do vậy, tạo ra tâm lý

ỷ lại cho người thụ hưởng nên khá nhiều người chưa có ý thức vươn lên thoát

nghèo, thậm chí không muốn thoát nghèo [86, tr.96-97].

Page 116: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

112

Bốn là, bộ máy thực thi chính sách xã hội còn nhiều thủ tục hành chính.

Nếu như mô hình tổ chức hoạt động của các cơ quan thực thi chính sách

xã hội chậm đổi mới, phương thức triển khai chính sách của chủ thể quản lý

thiếu đa dạng, thiếu chủ động, chưa phù hợp đến tính đặc thù của từng đối

tượng thụ hưởng chính sách xã hội là một trở ngại, thì việc thiết lập thể chế tổ

chức bộ máy thực thi chính sách xã hội với thủ tục hành chính cồng kềnh,

nhiều khâu nấc, rườm rà, nhiêu khê, không phân định rõ trách nhiệm sẽ dẫn

đến việc triển khai chính sách xã hội kém hiệu quả, ảnh hưởng đến chất lượng,

mục tiêu của chính sách. Tình trạng tham nhũng, bớt xén, ăn chặn, sử dụng sai

mục đích các khoản cứu trợ, tiền bảo hiểm y tế,… cũng dẫn đến việc triển khai

chính sách xã hội chậm, kém hiệu quả và gây mất niềm tin của người dân vào

chính sách. Những hiện tượng lợi dụng, tham ô tiền cứu trợ trong thực thi chính

sách xã hội không chỉ bộc lộ đạo đức yếu kém của một bộ phận quan chức

công quyền mà còn làm sai lệch ý nghĩa cao đẹp của công việc cứu trợ xã hội

và chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta.

Năm là, nhận thức của người dân về chính sách xã hội còn hạn chế.

Đảng, Nhà nước lãnh đạo, quản lý việc hoạch định và tổ chức thực thi

chính sách xã hội góp phần ổn định thể chế chính trị, phát triển kinh tế và thực

hiện tiến bộ xã hội, đảm bảo cho mọi người được sống trong tình nhân ái, bình

đẳng và công bằng. Tuy nhiên, nhận thức của cộng đồng về chính sách xã hội

hoặc chưa biết, hoặc biết chưa đầy đủ hoặc không đủ niềm tin vào chính sách,

tâm lý, thói quen và đạo đức của người dân trước những rủi ro cần chia sẻ còn

nhiều hạn chế là nguyên nhân dẫn đến tình trạng không tham gia, không phối

hợp với chính quyền trong thực thi chính sách xã hội. Hiện nay, trong xã hội ta

tồn tại hai loại tâm lý về chính sách xã hội. Một là, số người trong đối tượng

được hưởng chính sách xã hội thường quan niệm xã hội phải có trách nhiệm

với mình nên trông chờ vào sự viện trợ của Nhà nước, do đó thiếu ý chí khắc

phục khó khăn, vươn lên cống hiến cho xã hội. Loại tâm lý này do ảnh hưởng

bởi tư duy thời bao cấp, việc gì cũng nhờ vào Đảng và Nhà nước. Số người

ngoài diện chính sách lại hiểu mình bị phân biệt đối xử nên lơ là với trách

Page 117: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

113

nhiệm công dân, thậm chí có người tùy tiện xoay sở, vi phạm kỷ cương, phép

nước. Ngay cả lãnh đạo nhiều địa phương, nơi thực hiện chính sách xã hội

cũng có những hạn chế trong nhận thức hoặc trong đạo đức nghề nghiệp khi

còn nặng về tư tưởng chưa muốn thoát nghèo để nhận được nhiều hơn ngân

sách nhà nước. Hai là, đối tượng được thụ hưởng chính sách xã hội mang tâm

lý sĩ diện, ngại cho người khác biết hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn của mình.

Loại tâm lý này không chỉ tồn tại trong người dân mà còn tồn tại ở một số cán

bộ địa phương. Điều này phản ánh sai lệch thực trạng kinh tế, sai lệch thông tin

về nghèo đói và nhiều vấn đề xã hội bức xúc khác của nhiều địa phương, gây

ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả thực hiện chính sách xã hội [86, tr.91-92].

Nhận định nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong thực hiện chính

sách xã hội thời kỳ đổi mới, Đảng ta cho rằng: “Nước ta còn nghèo, hậu quả

chiến tranh để lại rất nặng nề, thiên tai xảy ra thường xuyên, gây thiệt hại lớn.

Quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo. Chính sách xã hội còn chậm

đổi mới so với chính sách kinh tế. Còn thiếu các giải pháp hữu hiệu để thu hẹp

khoảng cách về mức sống và an sinh xã hội giữa các vùng, miền. Việc tổ chức

thực hiện chính sách, pháp luật chưa nghiêm, hiệu quả thấp; sự phối hợp giữa

các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Công tác thanh tra, kiểm tra ở nhiều

nơi chưa được coi trọng. Nguồn lực thực hiện các chính sách xã hội còn hạn

hẹp, chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước; chưa động viên thu hút được nhiều

sự tham gia của xã hội và khuyến khích người thụ hưởng chính sách tự vươn

lên” [38, tr.105]. Trong thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ hiện nay, trên cơ sở

làm rõ nguyên nhân gây ra những trở ngại trong thực thi chính sách xã hội,

Đảng và Nhà nước cần tìm ra các nhóm giải pháp cụ thể nhằm khắc phục

những hạn chế, trở ngại. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục đổi mới

quá trình nhận thức và thực hiện chính sách xã hội theo những chỉ dẫn mang

tính định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh để tiếp tục nâng cao chất lượng,

hiệu quả thực hiện chính sách xã hội ở nước ta.

Page 118: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

114

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong 30 năm đổi mới, thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to

lớn, góp phần giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc nhằm cải thiện, nâng cao

đời sống vật chất và tinh thần của con người, được cộng đồng quốc tế ghi nhận

và đánh giá cao là một trong những quốc gia đi đầu trong việc thực hiện Mục

tiêu Thiên niên kỷ. Tuy nhiên, xem xét cụ thể từng chính sách thì các giá trị -

mục tiêu của hệ thống chính sách xã hội về phúc lợi, công bằng và hòa nhập xã

hội mới đạt được ở mức độ thấp và còn tồn tại nhiều yếu kém, bất cập.

Thứ nhất, chính sách lao động và việc làm mặc dù đã được quan tâm và

đạt được nhiều thành tựu, nhưng đến nay việc làm cho người lao động vẫn

chưa bền vững, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng gia tăng.

Thứ hai, chính sách xóa đói giảm nghèo mặc dù đạt được những kết quả

ấn tượng nhưng thiếu vững chắc, tỷ lệ hộ cận nghèo, tái nghèo còn cao.

Thứ ba, chính sách chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân còn nhiều hạn

chế. Y tế tuyến cơ sở nhiều nơi còn yếu kém; nguy cơ bùng phát dịch bệnh lớn;

vệ sinh an toàn thực phẩm chưa bảo đảm.

Thứ tư, chính sách đối với người có công với cách mạng còn hạn chế.

Mức trợ cấp ưu đãi đối với người có công tuy đã được điều chỉnh tăng cao hơn

tiền lương nhưng vẫn còn thấp so với mức bình quân tiêu dùng của xã hội. Đời

sống của một bộ phận người có công còn khó khăn.

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, yếu kém trên đây.

Về nguyên nhân khách quan: Do tác động tiêu cực của cơ chế thị trường

nảy sinh nhiều vấn đề xã hội, làm giảm hiệu quả thực hiện chính sách xã hội;

dân số tăng nhanh, trình độ dân trí thấp là một khó khăn lớn cho việc thực hiện

chính sách xã hội.

Về nguyên nhân chủ quan: Nhận thức của cán bộ hoạch định chính sách

xã hội còn hạn chế nên việc thiết kế chính sách chưa phù hợp; quy trình xây

Page 119: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

115

dựng chính sách xã hội chưa hợp lý, thiếu tính khả thi, nhiều nội dung còn bất

cập, gây trở ngại trong thực thi chính sách xã hội; phương pháp tuyên truyền,

kiểm tra giám sát, thu nhận và phản hồi thông tin của chủ thể thực thi chính sách

xã hội còn hạn chế về năng lực, tính chuyên môn hóa chưa cao; bộ máy thực thi

chính sách xã hội còn nhiều thủ tục hành chính; nhận thức của người dân về

chính sách xã hội còn hạn chế.

Để khắc phục những hạn chế còn tồn tại và tiếp tục nâng cao hiệu quả

việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam trong những năm tới, cần tiếp tục

quán triệt việc nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội trên cơ sở phân tích, đánh giá, tổng kết thực tiễn cho phù hợp

với xu thế vận động của quá trình đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện

đại hóa đất nước hiện nay.

Page 120: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

116

Chương 4

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

4.1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI

VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI HIỆN NAY

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Đảng Cộng sản Việt

Nam khẳng định: “Tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và

khó khăn, thách thức đan xen; đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới to lớn,

phức tạp hơn đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ độc lập,

chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc” [39, tr.70-75]. Điều này

cho thấy, đây là những nhân tố có tác động mạnh mẽ và đặt ra nhiều vấn đề đối

với việc tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội trong

những năm tiếp theo.

4.1.1. Những nhân tố tác động đến việc thực hiện chính sách xã hội

hiện nay

Thứ nhất, sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến mọi lĩnh

vực của đời sống xã hội.

Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ và là

nhân tố tác động đến việc hoạch định, thực thi chính sách xã hội cả chiều thuận

lẫn chiều nghịch. Toàn cầu hóa không chỉ là tác nhân giúp các quốc gia chủ

động hội nhập quốc tế, ra sức tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học

và công nghệ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức

mà còn phát sinh nhiều hậu quả tiêu cực cần được khắc phục. Đảng ta khẳng

định: “Nước ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang

thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường” [36, tr.95]. Kinh tế thế giới tuy có

dấu hiệu được phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn tiềm ẩn nhiều khó

khăn, bất ổn, nảy sinh nhiều vấn đề an sinh xã hội mới như thất nghiệp, nghèo

Page 121: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

117

đói, dịch bệnh, an toàn thu nhập,… đòi hỏi phải có sự tham gia, đối thoại và

hợp tác của nhiều quốc qua.

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo cơ hội để Việt Nam học tập kinh

nghiệm, giao lưu, hợp tác với các nước trong phát triển hệ thống chính sách xã

hội mang tính hiện đại, hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và

tiến tới phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Mở cửa, hội nhập quốc tế không chỉ

giúp nước ta học hỏi kinh nghiệm quốc tế, huy động thêm các nguồn lực để

thực thi chính sách xã hội, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước mà còn

giúp Việt Nam tiếp thu quan điểm quốc tế về những thay đổi trong nhận thức

về chính sách xã hội theo hướng ngày càng mở rộng quyền và dịch vụ cho

người dân. Nghĩa là, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện chính sách xã hội không

chỉ thể hiện ở việc duy trì mức sống vật chất cần thiết, mà quan trọng hơn con

người được phát triển về mặt tinh thần với lối sống có văn hóa và giáo dục, dân

trí ngày càng cao trong vai trò và trách nhiệm xã hội [9, tr.191].

Tuy nhiên, quá trình toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế cũng tạo ra những áp

lực mới trong việc thực hiện chính sách xã hội. Đó là sự phân cực giàu - nghèo,

làm trầm trọng thêm những bất công và bất bình đẳng trong xã hội, sự bùng nổ

dân số, sự đe dọa an toàn và an ninh trong phát triển bởi chủ nghĩa khủng bố

gia tăng, nguy cơ phá vỡ truyền thống và đánh mất bản sắc văn hóa trước sự

xâm thực của những biến thái mới của chủ nghĩa thực dân như chủ nghĩa thực

dân công nghệ, tài chính và sự xâm lăng văn hóa [117, tr.50-51]. Trong bối

cảnh đó, sự điều chỉnh chính sách của các nước, nhất là các nước lớn làm cho

độ rủi ro và tính bất định tăng lên. Tình trạng nguy nan về cạn kiệt tài nguyên

và suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu nhất là hiện tượng nước biển dâng

cao là một khó khăn lớn đối với việc hoạch định và tổ chức thực hiện chính

sách xã hội ở nước ta trong thời gian tới. Những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng,

phức tạp, khó lường với nhiều nghịch lý, tác động tiêu cực của những cú sốc

khó lường trước của tình hình thế giới những năm đầu thế kỳ XXI đã và đang

Page 122: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

118

đặt ra những thách thức lớn đối với quá trình hoạch định, thực thi chính sách xã

hội ở Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa

ngày càng phát triển nhưng đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức.

Qua 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam

khởi xướng và lãnh đạo, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu to

lớn, trong đó có việc thực hiện chính sách xã hội nhằm phát huy nhân tố con

người. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Thế và

lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày

càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây

dựng và bảo vệ Tổ quốc” [150, tr.73]. Tuy nhiên, sự nghiệp đổi mới đất nước

theo định hướng xã hội chủ nghĩa nói chung, việc thực hiện chính sách xã hội

nói riêng trong những năm tiếp theo còn đối mặt với nhiều khó khăn, thách

thức trên các phương diện chính trị, kinh tế và xã hội.

Về chính trị, nhiều vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động trong cơ chế

quản lý chưa được tổng kết, làm rõ và chưa mang lại kết quả mong muốn.

Những bất cập trong tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế vận hành bộ máy

cũng là nguyên nhân gây khó khăn cho việc hoạch định và thực thi chính sách

xã hội. Việc thiết lập thể chế tổ chức bộ máy thực thi chính sách xã hội với

thủ tục hành chính cồng kềnh, nhiều khâu nấc, không phân định rõ trách

nhiệm sẽ dẫn đến việc triển khai chính sách xã hội kém hiệu quả, ảnh hưởng

đến chất lượng, mục tiêu của chính sách. Quy trình xây dựng chính sách xã

hội thiếu điều tra đánh giá nhu cầu xã hội nên thiếu cơ sở khoa học trong một

số khâu của quy trình chính sách; chưa chú trọng đến việc điều tra, tổng kết

thực tiễn và chưa đủ mạnh để giải phóng triệt để mọi nguồn lực cho đầu tư.

Tình trạng tham nhũng, lãng phí và sử dụng sai mục đích, kém hiệu quả các

nguồn lực cho an sinh xã hội, thực hiện chính sách xã hội còn tồn tại ở nhiều

cơ quan, địa phương.

Page 123: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

119

Về kinh tế, tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức tương đối cao,

nhưng do quy mô của nền kinh tế còn nhỏ, chất lượng tăng trưởng còn thấp, lại

bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, nên sức cạnh tranh của nền

kinh tế chưa cao, ảnh hưởng đến nguồn lực vật chất thực hiện chính sách xã

hội. Nguồn lực đầu tư cho việc thực hiện chính sách xã hội còn hạn chế, khả

năng huy động từ các nguồn khác, đặc biệt từ cộng đồng còn thấp, chủ yếu dựa

vào nguồn ngân sách nhà nước, với diện bao phủ và mức độ hỗ trợ thấp, chưa

theo kịp với sự phát triển của cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Khả năng cân đối và sử dụng các nguồn lực thực hiện chính sách xã hội, kể cả

quỹ bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và các chế độ bảo trợ xã hội còn gặp

nhiều khó khăn và thách thức lớn. Trong nền kinh tế thị trường, chênh lệch về

các chỉ số an sinh xã hội, khả năng mở rộng quyền và dịch vụ cho người dân

giữa miền núi, vùng đồng bào dân tộc bằng với mức trung bình của cả nước

vẫn còn lớn. Nhóm người nghèo, người dân tộc thiểu số ở các vùng sâu, vùng

xa ngày càng trở nên dễ bị tổn thương do những bất cập về mức hưởng lợi từ

tăng trưởng kinh tế.

Về xã hội, tỷ lệ hộ nghèo, hộ cận nghèo vẫn còn cao, giảm nghèo chưa

bền vững, chênh lệch về khoảng cách giàu - nghèo đang gia tăng. Hậu quả

chiến tranh vẫn còn ảnh hưởng nặng nề, đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư nguồn

ngân sách đảm bảo an sinh xã hội đối với các đối tượng thuộc diện gia đình

chính sách, gia đình có công với nước. Các dòng di dân tự do, di chuyển việc

làm từ nông thôn lên thành thị, từ vùng này sang vùng khác, từ trong nước ra

nước ngoài với cường độ ngày càng mạnh, tạo áp lực cho Nhà nước trong việc

thực hiện chính sách xã hội. Xu hướng già hóa dân số đang diễn ra với tốc độ

chưa từng có trong lịch sử. Theo ước tính của Ủy ban quốc gia Người cao tuổi

đến năm 2020, tỷ lệ người cao tuổi ở Việt Nam sẽ chiếm khoảng 16% dân số

[9, tr.188]. Xu hướng này đặt ra nhiều áp lực đối với Nhà nước và cộng đồng

trong thực hiện chính sách xã hội đối với người già trong những năm tiếp theo.

Đó là các vấn đề về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, dịch vụ chăm sóc sức

Page 124: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

120

khỏe, vấn đề nhà ở, hệ thống trợ cấp lương hưu, cũng như nhiều vấn đề an sinh

xã hội khác. Bên cạnh đó, những rủi ro về mặt xã hội và hạn chế về khả năng

phòng ngừa rủi ro do ảnh hưởng dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển

dâng, thiên tai, lụt bão, xâm nhập mặn, hạn hán, mất mùa diễn ra với tần suất

ngày càng lớn và gây thiệt hại ngày càng nặng. Trong khi đó, Nhà nước chưa

có phương án hiệu quả để hạn chế thiệt hại cho người dân, dẫn đến nhiều bất

cập trong hoạch định và tổ chức thực thi chính sách.

4.1.2. Những vấn đề đặt ra đối với việc thực hiện chính sách xã hội

hiện nay

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, khi mà đất nước bước vào giai đoạn

thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và thực hiện các

nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII

của Đảng, việc giải quyết các vấn đề xã hội, nhằm nâng cao chất lượng cuộc

sống cho con người, góp phần ổn định và phát triển xã hội là vấn đề có ý nghĩa

quan trọng hàng đầu. Do vậy, với tư cách là chủ thể lãnh đạo và quản lý xã hội

trong tình hình mới, Đảng và Nhà nước ta cần giải quyết tốt những vấn đề đặt

ra đối với việc thực hiện chính sách xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ nhất, thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam nhằm khắc phục những

khuyết tật của kinh tế thị trường.

Kinh tế thị trường với quy luật vốn có tác động rất lớn đến chính sách xã

hội cả chiều thuận và chiều nghịch. Một mặt, tạo cơ hội cho con người phát

huy khả năng, tiềm năng vốn có của mình, kích thích mọi cá nhân, tập thể và

toàn xã hội tham gia giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác, các rủi ro về kinh

tế, xã hội trong nước, trên toàn cầu ngày càng đa dạng, phức tạp, làm cho con

người luôn có những bất an về mặt xã hội và bất lợi cao trong đời sống xã hội.

Do vậy, cần khắc phục những rủi ro do cơ chế thị trường mang lại nhằm phát

huy vai trò nhân tố con người với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là động lực của

quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Page 125: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

121

Thứ hai, thực hiện chính sách xã hội đảm bảo để nhân dân được hưởng

thụ ngày một tốt hơn thành quả của công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển

đất nước.

Công cuộc đổi mới toàn diện và đồng bộ hiện nay cần nhận thức sâu sắc

vị trí, tầm quan trọng của phát triển xã hội bền vững và quản lý phát triển xã

hội đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện chính sách xã hội

phải bảo đảm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,

văn minh, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong

từng bước và chính sách phát triển. Phải đảm bảo giải quyết tốt những vấn đề

xã hội bức xúc; bảo đảm sự hài hòa về lợi ích, về quan hệ xã hội, quan tâm

thích đáng đến các tầng lớp, bộ phận yếu thế trong xã hội, đồng bào các dân tộc

thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, khắc phục xu hướng gia tăng phân hóa

giàu - nghèo. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc người có công; giải quyết lao

động, việc làm và thu nhập của người lao động; đảm bảo an sinh xã hội, nâng

cao phúc lợi xã hội; coi trọng chăm sóc sức khỏe nhân dân, công tác dân số - kế

hoạch hóa gia đình, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; góp phần giảm

nghèo bền vững, ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, phải tăng cường xã hội hóa các nguồn lực trong nước và hợp tác

quốc tế trong việc thực hiện chính sách xã hội.

Thứ tư, thực hiện chính sách xã hội phải gắn kết chặt chẽ với chính sách

kinh tế. Theo đó, chính sách phát triển kinh tế phải nhằm thực hiện mục tiêu xã

hội nhất định, phải tìm động lực phát triển trong xã hội, hướng tới sự ổn định

và phát triển xã hội. Trong tăng trưởng kinh tế, phải quán triệt quan điểm vì

con người, mang lại hạnh phúc cho con người, đảm bảo cho các nhóm dân cư

trong xã hội, nhất là nhóm xã hội yếu thế đều được thụ hưởng thành quả của

tăng trưởng kinh tế.

Hiệu quả thực hiện chính sách xã hội phụ thuộc vào việc giải quyết những

vấn đề xã hội đặt ra. Trong những năm tiếp theo, để giải quyết những vấn đề

Page 126: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

122

đặt ra đối với chính sách xã hội, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục quán

triệt, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Chỉ trên

cơ sở đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội mới được hiện thực hóa

trong cuộc sống, mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước

mới đảm bảo tính đúng đắn, hướng đến mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc

sống con người, đảm bảo an sinh xã hội và nâng cao phúc lợi xã hội.

4.2. GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH

XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức

Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho cấp

ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách xã hội.

Thực tiễn đổi mới đất nước để lại cho Đảng Cộng sản Việt Nam bài học

kinh nghiệm về giữ vững tính định hướng xã hội chủ nghĩa, mà ở đó chính sách

xã hội thể hiện cả tầng nổi lẫn tầng sâu giá trị về bản chất của chế độ xã hội

mới mà chúng ta đang xây dựng. Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò

của chính sách xã hội đối với thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn quán

triệt, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh để tiếp tục ban hành nhiều chính sách

xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất

nước, đặt con người vào vị trí trung tâm chiến lược của mọi sự phát triển kinh

tế - xã hội.

Từ nhận thức đó càng thấy rõ chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan

trọng trong quản lý phát triển xã hội, trong việc giải quyết những vấn đề xã hội

bức bách qua từng thời kỳ cách mạng. Hiệu quả việc giải quyết các vấn đề xã

hội không chỉ góp phần tạo nên sự ổn định, phát triển lành mạnh các quan hệ

xã hội mà còn thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng và phát triển kinh tế

đảm bảo tính bền vững, lâu dài. Chính sách xã hội chỉ trở thành động lực của

sự phát triển nếu đó là những chính sách đúng đắn, thể hiện được nguyên tắc

công bằng, dân chủ, hợp lý và nhân văn. Ngược lại, chính sách xã hội sai lầm

Page 127: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

123

hoặc lạc hậu so với thực tiễn vận động của đất nước có thể kìm hãm sự phát

triển của xã hội, ảnh hưởng tiêu cực đến việc phát huy nhân tố con người.

Thời kỳ trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, cơ

chế phân phối bình quân được xác lập và đồng nhất chủ nghĩa bình nghĩa với

công bằng xã hội. Bước vào thời kỳ đổi mới, với sự phát triển nền kinh tế nhiều

thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, sự phân hóa xã hội diễn ra ngày

càng sâu sắc, bất công xã hội diễn ra dưới nhiều hình thức, có nguy cơ đẩy các

quan hệ xã hội đến chỗ căng thẳng, xa rời bản chất nhân đạo của chủ nghĩa xã

hội. Do vậy, tính định hướng xã hội chủ nghĩa về phương diện xã hội góp phần

phòng ngừa nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa [6, tr.190], mà ở đó, chính

sách xã hội chính là các chỉ báo cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa, củng cố

giá trị xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp, nhân đạo của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Vì thế, chính sách xã hội có quan hệ chặt chẽ tới yêu cầu giữ vững định hướng

xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực chính trị và kinh tế, góp phần ổn định chính trị,

phát triển kinh tế, mang lại sự tiến bộ, công bằng xã hội cho con người.

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chính

sách xã hội được Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức theo quan điểm đổi mới

và phát triển. Đảng chỉ rõ: “Khắc phục thái độ coi nhẹ chính sách xã hội, tức là

coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [29,

tr.86]. Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn

phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội nhằm phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng,

bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế

với tiến bộ, công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần;

giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân

với tập thể và cộng đồng xã hội.

Muốn thực hiện mục tiêu vì con người và phục vụ lợi ích cho con người,

chính sách xã hội phải là một bộ phận hợp thành chiến lược kinh tế - xã hội.

Trong lý luận cũng như trên thực tế, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế, thực

hiện công bằng xã hội và thúc đẩy tiến bộ xã hội phản ánh mối quan hệ bản

Page 128: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

124

chất vốn có của chế độ ta. Do vậy, nhận thức đúng đắn, đầy đủ về vai trò của

chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ theo nguyên tắc

công bằng, dân chủ và nhân đạo sẽ góp phần định hình giá trị xã hội chủ nghĩa

và tạo ra động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển đất nước mang tính bền vững.

Thứ hai, thường xuyên mở các lớp tập huấn nhằm nâng cao tinh thần,

trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên làm công tác chính sách xã hội.

Tính khả thi của chính sách xã hội phụ thuộc rất lớn vào vị trí, vai trò của

đội ngũ cán bộ làm công tác hoạch định và thực thi chính sách. Chủ tịch Hồ

Chí Minh từng khẳng định: “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán

bộ tốt hoặc kém” [93, tr.260]. Theo đó, đội ngũ cán bộ quản lý và thực hiện

chính sách xã hội đòi hỏi phải có một năng lực tổng hợp về các phẩm chất

chính trị, đạo đức, trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ để không ngừng

đổi mới tư duy, trau dồi tác phong sâu sát thực tiễn, liên hệ mật thiết với quần

chúng nhân dân.

Trên thực tế, những năm qua, một trong những nguyên nhân làm cho

chính sách xã hội thiếu tính khả thi, nhiều bất cập, khó triển khai trong thực

tiễn cuộc sống chính là do nhận thức, trách nhiệm và trình độ công tác của đội

ngũ cán bộ thực thi chính sách còn nhiều hạn chế. Bởi lẽ, muốn triển khai có

hiệu quả chính sách, cán bộ phải “đọc” được chính sách và hiểu đúng về chính

sách, từ đó tạo ra sự đồng thuận trong cả hệ thống chính trị, tạo nên sức mạnh

tổng hợp tổ chức thực hiện có hiệu quả chính sách. Vì thế, nâng cao nhận thức,

trình độ công tác, kỹ năng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ thực thi chính sách xã

hội là việc làm hết sức cần thiết. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý, việc hoạch định

chính sách và thực thi chính sách thường là những chủ thể khác nhau nên việc

nâng cao nhận thức, chuyển giao chính sách là yêu cầu bắt buộc.

Việc nâng cao tinh thần và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên làm

công tác xã hội nên thực hiện thông qua các lớp tập huấn, bồi dưỡng chính

sách. Đối với các lớp tập huấn nên phân theo chủ thể triển khai, đối tượng thụ

hưởng chính sách, theo từng chính sách và theo địa bàn cụ thể. Tại các buổi tập

huấn, ngoài việc nâng cao nhận thức, trình độ công tác cần trang bị thêm các kỹ

Page 129: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

125

năng thực thi, kỹ năng tuyên truyền, hướng dẫn người dân về chính sách và

động viên người dân tham gia chính sách. Chỉ như vậy, đội ngũ cán bộ, đảng

viên triển khai mới nhận thức đầy đủ, đúng đắn về mục tiêu, ý nghĩa, nội dung

của chính sách và các giải pháp thực hiện, mới có thể triển khai thành công

chính sách trong cuộc sống và xử lý những vướng mắc phát sinh trong quá

trình triển khai.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia

thực hiện chính sách xã hội.

Để đưa chính sách xã hội vào cuộc sống, cần giúp cho đối tượng của

chính sách xã hội hiểu biết về chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến

nghĩa vụ và quyền lợi của họ, khuyến khích, động viên họ đóng góp ý kiến xây

dựng và tham gia thực hiện chính sách xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng cần

đến vai trò của chủ thể quản lý để giải thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng,

làm cho mọi người hiểu thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như

là của họ, rồi thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy [95, tr.249]. Thực hiện lời

dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước luôn đẩy mạnh công tác

tuyên truyền, vận động người dân tham gia thực hiện chính sách xã hội, góp

phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm của mỗi cá nhân, các nhóm xã hội và

cả cộng động tham gia chính sách trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước.

Công tác tuyên truyền chính sách xã hội là một hoạt động quan trọng để

chính sách đi vào cuộc sống, để người dân và các tổ chức kinh tế - xã hội nhận

thức đúng đắn, đầy đủ hơn về quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích mà mình có

được khi tham gia chính sách xã hội. Để công tác tuyên truyền, vận động tham

gia thực hiện chính sách xã hội phát huy tính hiệu quả, đòi hỏi nhận thức của

đội ngũ cán bộ chuyên trách và người dân phải đạt đến một trình độ nhất định

để hiểu, chấp nhận hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền.

Thực tế cho thấy, năng lực chuyên môn và nghiệp vụ tuyên truyền của

cán bộ, cơ quan thực thi chính sách xã hội còn nhiều hạn chế, thiếu linh hoạt.

Kinh phí chi cho hoạt động tuyên truyền, phổ biến còn thiếu so với yêu cầu.

Page 130: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

126

Công tác thông tin, tuyên truyền chính sách xã hội ở địa phương còn chậm,

chưa mang tính phổ biến. Hơn nữa, hình thức tuyên truyền thiếu tính phong

phú, đa dạng, thậm chí mang tính nghèo nàn, chưa phù hợp với từng đối

tượng, từng vùng miền cụ thể nên người dân chưa nắm bắt được mục đích,

nội dung và hình thức tham gia, dẫn đến tình trạng người dân chưa thật sự

thiết tha với việc tham gia đóng góp. Như vậy, trở ngại lớn nhất khiến người

dân không, không thể, không muốn tham gia chính sách xã hội xuất phát từ

nhận thức không đầy đủ của họ về chính sách. Người dân chưa hiểu rõ đối

tượng thụ hưởng của từng loại chính sách, hoặc cho rằng, quyền lợi của mình

thường không được bảo đảm.

Vì thế, để tiếp tục tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến,

vận động tham gia thực hiện chính sách xã hội một cách có hiệu quả, cần thay

đổi cách thức triển khai chính sách với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng

và cách làm mang tính linh hoạt, sáng tạo. Cụ thể:

Một là, thường xuyên tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với nhân dân để

giải đáp những thắc mắc về chính sách xã hội, giúp người dân hiểu hơn về

chính sách xã hội. Xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền,

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tuyên truyền, phổ biến

và tổ chức thực hiện chính sách xã hội.

Hai là, thay đổi cách thức theo dõi các đối tượng được hưởng chính sách

xã hội ở Trung ương và địa phương.

Ba là, xác định đối tượng cần phổ biến, truyền thông về chính sách xã

hội mà tổ chức các hình thức tuyên truyền, quán triệt sao cho phù hợp. Riêng

đối với các đối tượng tham gia trực tiếp vào quá trình tổ chức thực hiện và

kiểm tra thực hiện chính sách cần mở các lớp tập huấn để quán triệt, nghiên

cứu nội dung chính sách, bàn về các giải pháp khắc phục trở ngại trong thực

thi chính sách xã hội. Ngoài ra, tổ chức các lớp phổ biến, tuyên truyền về

chính sách xã hội cho các cơ quan thông tin đại chúng, đội ngũ cán bộ làm

công tác truyền thông. Cung cấp tài liệu hướng dẫn việc thực thi chính sách

Page 131: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

127

xã hội cho các tổ chức, doanh nghiệp liên quan để xây dựng chương trình

tham gia chính sách.

Bốn là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến chính sách xã

hội đến mọi tầng lớp nhân dân và các đối tượng liên quan để mọi người được

biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, từ đó tạo dư luận xã hội và môi

trường thuận lợi cho quá trình thực thi chính sách. Chẳng hạn, để đạt được mục

tiêu bảo hiểm y tế toàn dân, cần triển khai thường xuyên, đồng bộ công tác

truyền thông về bảo hiểm y tế và Luật bảo hiểm y tế để người dân hiểu rõ hơn

về lợi ích khi tham gia bảo hiểm y tế đối với bản thân, gia đình và cộng đồng.

Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách xã hội phải

đặc biệt quan tâm đầu tư xây dựng và phát triển hệ thống báo chí, nhất là hệ

thống báo chí chuyên ngành về chính sách xã hội, để lực lượng này đảm bảo

trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cung cấp thông tin chính thống, chủ động định

hướng và làm chủ thông tin, tăng cường hiệu quả truyền thông. Thông qua vai

trò báo chí, năng lực nhận thức người dân và toàn xã hội về chính sách xã hội,

về thực hiện quy định pháp luật chính sách xã hội được nâng cao. Để các cơ

quan báo chí làm tốt vai trò, trách nhiệm của mình, cơ quan quản lý, chỉ đạo

báo chí cần kịp thời định hướng, chỉ đạo thông tin, tuyên truyền về các vấn đề

xã hội để đạt được mục tiêu chiến lược truyền thông. Đồng thời, có những

chương trình tập huấn ngắn hạn, dài hạn cho lãnh đạo và phóng viên các cơ

quan báo chí về chính sách xã hội để sáng tạo, đăng tải các tác phẩm có giá trị,

xứng đáng là người chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, văn hóa, đi đầu trong cuộc

đấu tranh vì con người, vì an sinh xã hội và sự phát triển bền vững của quốc

gia, dân tộc.

Sáu là, kịp thời phát hiện, khen thưởng, động viên các địa phương, cơ

quan, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân thực hiện tốt công tác truyền thông về

chính sách xã hội. Đồng thời, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp

luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác trong thực hiện chính sách xã hội

[86, tr.286-292].

Page 132: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

128

4.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện

Thứ nhất, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc

thực hiện chính sách xã hội

Những thành tựu đạt được trong việc giải quyết các vấn đề xã hội bức

bách của con người đã minh chứng cho tính đúng đắn của việc hoạch định và

tổ chức thực thi chính sách xã hội của Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đổi mới.

Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tất cả những việc Đảng và

Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không

nhằm mục đích ấy là không đúng” [98, tr.310], trong đường lối đổi mới đất

nước, Đảng và Nhà nước luôn phấn đấu thực hiện mục tiêu phải hết sức chăm

nom đến đời sống của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của

toàn xã hội.

Trong tổ chức và thực thi chính sách xã hội, các cơ quan nhà nước có

nhiều nỗ lực trong việc hoàn thiện khung khổ và hướng dẫn pháp lý cho việc

thực hiện chính sách xã hội. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như việc

ban hành một số văn bản vẫn chưa bảo đảm thời gian theo luật định, những quy

định chưa rõ ràng, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ ban hành chậm, thiếu đồng bộ

nên tạo ra nhiều kẽ hở và tình trạng vi phạm pháp luật về thực hiện chính sách

xã hội còn phổ biến. Tính quy định về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị thực

hiện chính sách xã hội chưa rõ ràng. Tính liên thông giữa các cơ quan này chưa

cao nên chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, triển khai chính sách còn chậm

và hiệu quả thấp. Năng lực quản lý và tổ chức thực thi chính sách xã hội của

đội ngũ cán bộ nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Bộ máy thực hiện

chính sách xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế, kinh phí chi cho hoạt

động thông tin, tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chính sách xã hội còn thiếu,

chế độ đãi ngộ chưa tương xứng với chức năng, nhiệm vụ của cán bộ chuyên

trách. Công tác quản lý nhà nước về tổ chức thực hiện chính sách xã hội của

chính quyền ở địa phương cũng còn nhiều hạn chế, bất cập như việc thanh tra,

kiểm tra, giám sát chưa chặt chẽ, thường xuyên và thiếu tính đồng bộ. Điều này

Page 133: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

129

dẫn đến tình trạng chủ trương, chính sách thì đúng nhưng việc triển khai chưa

mang lại hiểu quả như mong đợi [9, tr.162-164].

Ngoài ra, quy trình thực hiện chính sách xã hội còn rườm rà, nhiều khâu,

nhiều nấc. Từ việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách đến việc tổ chức

thực hiện chính sách còn chậm, hiệu quả chưa cao, gây mất niềm tin trong nhân

dân. Vì thế, cần tiếp tục kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều

hành việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa Trung

ương và địa phương, giữa các cấp quản lý, trong đó, tập trung vào đổi mới quy

trình, phương thức và cải tiến thủ tục hành chính.

Để đổi mới quy trình thực thi chính sách xã hội, trước hết cần cụ thể hóa

chính sách bằng các chương trình hành động, chương trình mục tiêu, đề ra kế

hoạch thực hiện và ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách trên cơ

sở nghiên cứu hợp lý để tránh sự rườm rà, phức tạp nhằm tạo ra tính ổn định

tương đối cho môi trường thực thi chính sách. Chuẩn bị nguồn lực cho việc

thực hiện chính sách, bao gồm nguồn nhân lực và nguồn kinh phí. Về nguồn

nhân lực, để bảo đảm tính hiệu quả của chính sách, cần đào tạo đội ngũ cán bộ

làm công tác xã hội cả về số lượng và có trình độ chuyên môn cao về năng lực

quản lý, tổ chức thực thi chính sách. Trong đó, đặc biệt chú ý việc tăng cường

và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội ở sơ sở, nhất là

vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thiết lập bộ máy tổ chức thực

hiện và bộ máy giám sát trên cơ sở ngành dọc và ngang, đảm bảo tính hệ thống,

hạn chế tình trạng phân tán, cát cứ như hiện nay. Về nguồn kinh phí, cần khai

thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm chi phí từ ngân sách nhà nước,

nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm khai

thác các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước. Cơ quan

nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng kinh

phí nhằm phát hiện, phòng ngừa và xử lý hành vi sử dụng nguồn kinh phí

không đúng mục đích, kém hiệu quả.

Page 134: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

130

Đổi mới quy trình triển khai chính sách xã hội cần tổ chức thực hiện một

cách khoa học, hợp lý, phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức, cá nhân

liên quan. Cần xác định rõ ai là người chịu trách nhiệm chính và tham gia phối

hợp trong quá trình tổ chức thực thi chính sách xã hội. Trong phân công tổ

chức thực hiện, nên căn cứ vào thế mạnh, khả năng và tính chất chuyên môn

của từng cá nhân mà giao nhiệm vụ phụ trách, tránh tình trạng trùng chéo

nhiệm vụ hay không rõ trách nhiệm. Cuối cùng, cần thực hiện tốt công tác

thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách xã hội, qua đó phát hiện

yếu kém trong cơ chế quản lý, trong chính sách để kiến nghị với cơ quan có

thẩm quyền đề ra biện pháp khắc phục. Đồng thời, thông qua đó nhằm phát huy

những nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước

đối với việc tổ chức thực thi chính sách xã hội.

Kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc thực thi có

hiệu quả chính sách xã hội phải thực hiện tốt công tác cải tiến thủ tục hành

chính theo hướng đơn giản hóa các thủ tục rườm rà, nhiều nấc, nhiều khâu,

nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức và cá nhân có thể sử dụng hệ

thống dịch vụ của chính sách xã hội. Bên cạnh đó, còn khuyến khích, tạo điều

kiện để các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia ủng hộ và đầu tư

vào các lĩnh vực liên quan. Để thực hiện nhiệm vụ này, ngoài việc xây dựng

đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội có đạo đức nghề nghiệp, trình độ chuyên

môn cao, giỏi về nghiệp vụ, việc nâng cấp hệ thống trang thiết bị hiện đại phục

vụ cho các hoạt động liên quan đến hệ thống chính sách xã hội cần được tăng

cường cả về số lượng và chất lượng. Lấy việc phân cấp quản lý là khâu đột phá

trong cải cách thủ tục hành chính, xây dựng lại quy trình giải quyết chính sách

xã hội nhằm thay đổi nhận thức, lề lối, tác phong làm việc và nâng cao trách

nhiệm công việc cho cán bộ phụ trách. Tiếp tục duy trì chế độ một cửa, các thủ

tục hành chính được niêm yết công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tượng

nắm bắt thông tin, giám sát trực tiếp quá trình thực hiện “chuyển đổi phong

cách hành chính sang tác phong phục vụ” [86, tr.277-280].

Page 135: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

131

Thực tiễn đổi mới đất nước và sự tác động mạnh mẽ của quá trình toàn

cầu hóa, hợp tác quốc tế luôn đặt ra yêu cầu phải kiện toàn, hoàn thiện bộ máy

cơ quan các cấp trong tổ chức, quản lý, điều hành việc thực thi chính sách xã

hội. Thực hiện tốt giải pháp này không chỉ nâng cao hiệu quả chính sách xã hội

trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, mà

còn thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc đề ra chính sách đúng

đắn và cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác chính sách xã hội.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ. Theo Người, cán bộ là gốc của mọi việc, do vậy, thông qua đào

tạo và bồi dưỡng cán bộ mới tạo ra đội ngũ thực hiện chính sách xã hội vừa

có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, vừa giỏi về

chuyên môn nghiệp vụ. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội ở Việt

Nam hiện nay còn thiếu về số lượng và chất lượng. Trong những năm tiếp

theo, để khắc phục trình trạng này, cần xây dựng chính sách đào tạo, bồi

dưỡng đội ngũ thực thi chính sách xã hội mang tính thường xuyên, lâu dài và

chú trọng những vấn đề sau:

- Tuyển chọn công chức, viên chức để tham gia các lớp đào tạo, bồi

dưỡng thực thi chính sách xã hội phải bảo đảm tính khách quan, công bằng,

phù hợp với đặc thù công việc, có bằng cấp, đạo đức nghề nghiệp và thâm niên

công tác để tham gia thực hiện và tuyên truyền chính sách. Cần có điểm ưu tiên

cho những đối tượng tốt nghiệp ở nước ngoài với khả năng ngoại ngữ để có thể

tiếp cận những thông tin, tài liệu nước ngoài về hướng dẫn quy trình hoạch

định chính sách tiên tiến, hiện đại. Đây là khâu có ý nghĩa quan trọng vì liên

quan đến công tác cán bộ như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Mục đích lựa

chọn cán bộ là dùng nhân tài cần phải hợp lý” [93, tr.636].

- Tổ chức đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân viên triển khai chính

sách xã hội thường xuyên, định kỳ để có định hướng đào tạo, bồi dưỡng.

Page 136: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

132

- Nghiên cứu làm rõ mục tiêu, nội dung, phương thức đào tạo nguồn nhân

lực làm công tác xã hội. Trong đó, nội dung đào tạo cần chú trọng cả kiến thức

và kỹ năng triển khai chính sách xã hội, đặc biệt là những kiến thức về các đối

tượng thụ hưởng, kỹ năng tổ chức, kỹ năng tuyên truyền chính sách.

- Tiếp tục thực hiện mục tiêu phát triển công tác xã hội thành một nghề

mang tính chuyên nghiệp theo Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng

Chính phủ. Với khoản kinh phí 2.347,4 tỷ đồng để thực hiện Đề án phát triển

nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 - 2020, mục tiêu của Đề án là xây dựng

đội ngũ cán bộ, viên chức, nhân viên và cộng tác viên công tác xã hội đạt yêu

cầu về chất lượng gắn với phát triển hệ thống cơ sở cung cấp dịch vụ công tác

xã hội tại các cấp, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ cho 60.000 cán bộ, nhân viên công tác xã hội ở trình độ sơ cấp,

trung cấp, cao đẳng và đại học. Trong đó, mỗi xã, phường, thị trấn có ít nhất

từ một đến hai cán bộ, nhân viên công tác xã hội với mức phụ cấp hàng tháng

bằng mức lương tối thiểu, xác định rõ việc áp dụng ngạch, bậc lương viên

chức công tác xã hội phù hợp với đặc thù nghề nghiệp. Bộ Giáo dục và Đào

tạo có nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan quy hoạch

mạng lưới các trường đại học, cao đẳng đào tạo trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến

sỹ công tác xã hội theo hướng hội nhập quốc tế. Ở Việt Nam, mặc dù công tác

xã hội được công nhận là một nghề, nhưng vấn đề việc làm, chính sách đãi

ngộ vẫn chưa tạo động lực cho người làm nghề công tác xã hội bám trụ nghề

nghiệp lâu dài. Vì thế, cần tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nhằm

tạo cơ hội việc làm, điều chỉnh mức lương và các chính sách đãi ngộ khác để

phát triển mạng lưới công tác xã hội, phục vụ cho việc thực hiện chính sách

xã hội đạt hiệu quả [86, tr.273-275].

Thứ ba, huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã hội.

Phương thức thực hiện chính sách xã hội là Nhà nước và cộng đồng xã hội

cùng chia sẻ trách nhiệm. Bàn về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn

dặn: Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của

Page 137: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

133

mình, Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn

chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người

để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.

Lời dạy của Người không chỉ thể hiện trách nhiệm của chủ thể quản lý xã

hội và đồng bào cả nước đối với công tác thương binh, liệt sĩ và người có công

với nước nói riêng, mà còn tạo tiền đề cho phương châm xã hội hóa, tăng

cường sự tham gia của người dân vào việc thực hiện chính sách xã hội nói

chung. Ở Việt Nam, huy động nguồn lực trong dân, trong các tổ chức kinh tế,

xã hội là biện pháp quan trọng để phát huy truyền thống đoàn kết, tương thân

tương ái của con người vào việc giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh đó, xã

hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội còn góp phần xác lập những giá trị

mới cho mối quan hệ giữa người với người trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Do

vậy, trong đường lối đổi mới đất nước, cần quán triệt phương châm xã hội hóa

thực hiện chính sách xã hội.

Thực tế cho thấy, trong cơ chế cũ, chế độ bao cấp tràn lan và kéo dài đã

tạo nên tâm lý thụ động, ỷ lại, thói vô trách nhiệm của người dân và do đó triệt

tiêu vai trò, khả năng sáng tạo trong nhân dân. Chuyển sang cơ chế mới, khi

khẳng định phương châm xã hội hóa là giải pháp cơ bản, bền vững việc thực

hiện chính sách xã hội phải nhằm mục đích phát huy cao nhất tiềm năng, sức

mạnh, trách nhiệm của cá nhân, cộng đồng, xã hội và mọi thành phần kinh tế

vào giải quyết các vấn đề xã hội, góp phần giảm bớt gánh nặng ngân sách nhà

nước. Và sẽ là sai lầm nếu đồng nhất xã hội hóa với triệt để xóa bỏ bao cấp

sang hoạt động kinh doanh hoặc thả nổi cho thị trường. Vì đây là nhận thức

chưa đúng về xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa phát huy vai trò nòng cốt của

Nhà nước và mở ra khả năng xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội. Vai

trò của Nhà nước trong thực hiện chính sách xã hội thể hiện cách thức điều tiết

linh hoạt, mềm dẻo, phù hợp, trước hết thông qua hệ thống pháp luật, các công

cụ quản lý vĩ mô nhằm đẩy lùi các hiện tượng bất bình đẳng, duy trì ổn định

trật tự xã hội. Cũng cần lưu ý rằng, xã hội hóa thực hiện chính sách xã hội là

Page 138: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

134

điều cần thiết để giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước, nhưng nếu xã hội

hóa quá mức, hoặc thiếu lộ trình xã hội hóa phù hợp sẽ gây ra những hệ lụy khi

triển khai chính sách xã hội trong cuộc sống. Ngược lại, nếu quá xem nặng vai

trò của Nhà nước và nguồn lực từ ngân sách sẽ gây khó khăn cho việc mở rộng

đối tượng thụ hưởng, không đảm bảo nguồn lực cho thực thị chính sách, nhất là

trong điều kiện những rủi ro kinh tế, xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp và có

diện ảnh hưởng rộng.

Xã hội hóa còn thể hiện ở khía cạnh tổ chức thực thi chính sách xã hội với

khả năng tham gia của các tổ chức đoàn thể, nghiệp đoàn, doanh nghiệp, cộng

đồng, xã hội, cá nhân. Điều này không chỉ thể hiện xu hướng dân chủ hóa, xã

hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội, cho phép phát huy đầy đủ sức mạnh

và trách nhiệm của xã hội, cộng đồng, mà còn đảm bảo các nguồn lực đầu tư

trực tiếp đi vào cuộc sống, không bị thất thoát ở những khâu trung gian và nhờ

đó mang lại hiệu quả. Do vậy, ở khía cạnh tổ chức thực thi chính sách xã hội

theo xu hướng xã hội hóa cần quán triệt phương châm việc gì xã hội làm tốt

hơn Nhà nước thì để xã hội làm, Nhà nước chỉ quản lý và định hướng bằng

định chế luật pháp. Ngược lại, việc gì xã hội không thể làm hoặc làm không tốt

thì Nhà nước có trách nhiệm phải làm [6, tr.194].

Phương châm xã hội hóa việc thực hiện chính sách xã hội ở Việt Nam

hoàn toàn phù hợp với xu hướng mở rộng xã hội hóa và dân chủ hóa công tác

xã hội trong thế giới hiện đại trên cơ sở phát triển hệ thống mạng lưới các tổ

chức xã hội và phi chính phủ (NGO). Theo quan niệm quốc tế, việc huy động

các tổ chức xã hội và phi chính phủ tham gia vào thực hiện các chính sách xã

hội được đặt vào hệ thống các giải pháp quan trọng để đảm bảo tính khả thi của

chính sách. Bởi lẽ, chỉ có thông qua các tổ chức của chính họ thì chính sách xã

hội mới đến đúng đối tượng và có hiệu quả. Đối với Việt Nam, việc phát huy

vai trò của các tổ chức xã hội còn có ý nghĩa to lớn về mặt chính trị, góp phần

gắn bó quần chúng với tổ chức của mình và củng cố tổ chức ngày càng vững

mạnh. Đồng thời, còn góp phần tạo ra môi trường cạnh tranh giữa các tổ chức,

Page 139: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

135

khơi dậy tính sáng tạo, chủ động và tích cực của cộng đồng, nhờ vậy có thể đa

dạng hóa và tăng nguồn cung ứng các dịch vụ công cho xã hội, đáp ứng ngày

càng tốt hơn nhu cầu của người dân. Vì vậy, xã hội hóa việc thực hiện chính

sách xã hội là bài học không thể thiếu, là giải pháp quan trọng trong công tác

lãnh đạo, quản lý việc giải quyết các vấn đề xã hội của Đảng và Nhà nước

trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong những năm tiếp theo, để tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác xã hội

hóa việc thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác thông

tin, tuyên truyền, vận động về từng loại hình chính sách để người dân tham gia

thực hiện. Mở rộng dân chủ trong thực hiện chính sách xã hội để người dân

tham gia đóng góp ý kiến, kiểm tra, giám sát và phản biện chính sách. Khuyến

khích sự tham gia của các chủ thể xã hội vào quá trình thực hiện chính sách xã

hội, nhất là phát triển mô hình “phúc lợi doanh nghiệp” đối với người lao động

và cộng đồng. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần thực hiện phương thức có sự tham

gia của các đối tác xã hội như: hộ gia đình, tổ chức phi lợi nhuận, bệnh viện tư

nhân, trung tâm dạy nghề tư nhân,… để hỗ trợ các đối tượng yếu thế có cơ hội

tiếp cận với các chính sách xã hội. Rõ ràng, đẩy mạnh xã hội hóa thực hiện

chính sách xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải thực hiện tốt chức năng của mình

nhằm tạo ra sự thống nhất, công bằng cho mọi đối tượng, đồng thời, giải quyết

đúng đắn mối quan hệ Nhà nước - thị trường để không rơi vào tình trạng xem

nhẹ vai trò của Nhà nước hoặc quá đề cao vai trò của tư nhân, của thị trường.

Cùng với tăng cường vai trò của Nhà nước và cộng đồng trong thực hiện

xã hội hóa chính sách xã hội, bản thân các đối tượng cũng cần nâng cao trách

nhiệm và năng lực tự vươn lên trong cuộc sống theo lời dạy của Chủ tịch Hồ

Chí Minh. Theo đó, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện để người dân được hưởng

giá trị về mặt vật chất lẫn tinh thần và có biện pháp hỗ trợ để mỗi đối tượng

chính sách có điều kiện tự lo cho bản thân, gia đình. Chỉ trên cơ sở nhận thức

đầy đủ, đúng đắn về phương châm và nội dung xã hội hóa thực hiện chính sách

xã hội, Nhà nước ta mới thực hiện đúng chức trách: “Đưa tiền của dân và sức

Page 140: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

136

của dân để làm việc ích lợi cho dân, thì bao giờ dân cũng hăng hái, việc cũng

thành công. Việc gì dù to lớn tốn kém mấy, dân đồng sức, đồng lòng thì làm

cũng được” [94, tr.172].

Thứ tư, mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm

trong việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.

Trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội

nhập quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội là xu thế mang tính tất yếu và là

giải pháp quan trọng khắc phục tình trạng hạn chế nguồn lực dành cho thực

hiện chính sách xã hội. Từ quan điểm Hồ Chí Minh, Việt Nam làm bạn với tất

cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai đến chủ trương “đa

phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” [37,

tr.83], thể hiện tính nhất quán, xuyên suốt việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ

Chí Minh về hợp tác quốc tế để tranh thủ nguồn lực cho việc thực hiện chính

sách xã hội, đảm bảo mục tiêu an sinh xã hội.

Những khởi xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác quốc tế đã định

hướng cho đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước mang tính độc lập, tự chủ,

đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế trong giải quyết các vấn đề xã hội

giai đoạn hiện nay. Theo đó, chủ động và tăng cường hợp tác quốc tế đòi hỏi

chủ thể quản lý xã hội phải biết tiếp thu sáng tạo, có chọn lọc các giá trị quốc tế

và hiện thực nó vào trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách xã hội,

đồng thời, sử dụng sức mạnh thời đại như là động lực bên ngoài để thực hiện

chính sách xã hội.

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn mang giá trị hiện thời, khi mà

hội nhập quốc tế không chỉ tạo cơ hội để nước ta học tập kinh nghiệm các nước

trong phát triển hệ thống chính sách xã hội phù hợp với trình độ phát triển của

đất nước, với chuẩn mực quốc tế, hợp tác với các nước nhằm huy động thêm

các nguồn lực để thực thi chính sách xã hội, mà còn phát sinh nhiều vấn đề

phức tạp và khó lường. Do vậy, muốn tăng cường hợp tác quốc tế để có thêm

nguồn lực, kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách xã hội, Nhà nước cần

Page 141: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

137

xây dựng chiến lược toàn diện về hợp tác quốc tế trong tình hình mới. Trong

đó, cùng với các nước xây dựng tầm nhìn chung về sự phát triển, xu hướng và

vai trò của chính sách xã hội trong xu thế hội nhập. Tập trung xây dựng chiến

lược về hệ thống chính sách xã hội quốc gia, bảo đảm hài hòa giữa khung định

hướng phát triển dài hạn với giải quyết những vấn đề ưu tiên trước mắt. Tiếp

tục nghiên cứu và cải cách tổng thể hệ thống chính sách xã hội quốc gia cho

phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế. Nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu,

đánh giá một cách toàn diện, chính xác những tác động của hội nhập quốc tế

đến việc thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, để đề ra chính

sách ứng phó kịp thời, giảm thiểu rủi ro, vướng mắc.

Chủ động cùng với chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực

đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế, xã hội gắn với giải quyết các vấn đề xã hội của

Việt Nam. Tiếp tục mở rộng và giữ vững vai trò của Việt Nam với các đối tác

trong tiến trình đối thoại, hợp tác về bảo đảm an sinh xã hội. Tăng cường giao

lưu, trao đổi và học tập kinh nghiệm các nước có hệ thống chính sách xã hội

phát triển, mạng lưới an sinh xã hội hiện đại về ứng phó với các tác động xã

hội, trong đó có việc duy trì lưới an toàn nhằm đảm bảo tính công bằng, hợp lý

về mặt cơ hội, phân bổ nguồn, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững,

ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Tích cực, chủ

động và thực hiện có hiệu quả các điều ước và thỏa thuận quốc tế việc thực

hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh xã hội (việc làm, nghèo đói, bệnh tật,

biến đổi khí hậu,…) mà Việt Nam đã tham gia.

Trong hợp tác quốc tế, phải cải cách thể chế chính sách xã hội sao cho phù

hợp với các tiêu chí quốc tế, bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại. Muốn

vậy, Nhà nước cần nhận diện đầy đủ hệ thống chính sách xã hội các nước để

hình thành các tiêu chí về mục tiêu, nội dung, phương thức thực hiện chính

sách xã hội của Việt Nam. Chính việc nhận diện này sẽ giúp cho quá trình xây

dựng, triển khai chính sách xã hội phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và thích ứng

được với quá trình vận động của cộng đồng quốc tế. Ngoài ra, còn phải tiếp tục

Page 142: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

138

sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện văn bản pháp lý cho phù hợp với thông lệ của luật

pháp quốc tế về chính sách xã hội [9, tr.245-246]. Chỉ trên cơ sở đó, việc tăng

cường hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc xây dựng

và thực hiện chính sách xã hội mới đạt được hiệu quả. Những dự báo về “bối

cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp và khó lường” [37, tr.95] sẽ

không là trở lực cho quá trình xây dựng và phát triển đất nước nói chung, quá

trình hoạch định và thực thi chính sách xã hội nói riêng.

4.2.3. Nhóm giải pháp về kiểm tra, giám sát; tổng kết lý luận và thực

tiễn việc thực hiện chính sách xã hội

Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính

sách xã hội.

Hiệu quả việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội phụ thuộc vào

cách tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và công tác kiểm tra. Chủ tịch Hồ Chí

Minh cho rằng, nếu ba điều ấy thực hiện sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng

vô nghĩa. Theo Người, có kiểm tra mới huy động được tinh thần tích cực và lực

lượng to tát của nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới

sửa chữa và giúp đỡ kịp thời và “phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát

đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được” [93, tr.325].

Quan điểm trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính đúng đắn, khoa

học, toàn diện về mối quan hệ giữa chủ thể quản lý xã hội, phát triển xã hội và

công tác kiểm tra, giám sát. Theo đó, chủ thể quản lý không nên kiêu ngạo, mà

nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh

đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải

dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của

mình. Lãnh đạo đúng nghĩa, cố nhiên, không phải cứ ngồi trong phòng giấy mà

viết kế hoạch, ra mệnh lệnh. Người cán bộ quản lý không được chỉ biết khai

hội nghị, viết nghị quyết, ra chỉ thị, mà không biết điều tra, nghiên cứu, đôn

đốc, giúp đỡ, khuyến khích, kiểm tra. Đây là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh

quan liêu, tham ô, lãng phí và hậu quả chỉ đưa đến một kết quả là hỏng việc.

Page 143: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

139

Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kiểm soát đối

với quá trình thực thi chính sách xã hội không chỉ là trách nhiệm của chủ thể

quản lý xã hội mà còn ở vai trò là chủ và làm chủ của người dân tham gia vào

quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ khi thực hiện chức trách

công việc. Phát huy dân chủ trong quản lý phát triển xã hội thông qua việc

kiểm tra, kiểm soát tức là làm cho dân có quyền nêu sáng kiến cải tiến quản lý

của mình, đồng thời, còn phát hiện những yếu kém trong thực hiện chính sách

xã hội có liên quan đến năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý. Nhờ

tăng cường cơ chế tham gia của người dân vào kiểm tra, kiểm soát mà năng

lực, chất lượng hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước trong việc thực hiện

chính sách xã hội được cải thiện và chuyển biến tích cực, đáp ứng được yêu

cầu xây dựng xã hội mới, phù hợp với nền kinh tế thị trường gắn với tính định

hướng xã hội chủ nghĩa.

Đối với người dân, thực hiện tốt công tác kiểm tra, kiểm soát góp phần tăng

cường vai trò phản biện xã hội trong việc hoạch định và thực thi chính sách xã

hội. Phản biện xã hội giữ vai trò quan trọng giúp chủ thể hoạch định chính sách

có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học về vấn đề cần triển khai, tránh

những thiếu sót, sai lầm trong ban hành chính sách gây ảnh hưởng đến đời sống

nhân dân, uy tín lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nhân dân tham gia

phản biện xã hội thể hiện quyền và nghĩa vụ người chủ đất nước tham gia hoạch

định, thi hành các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Do

vậy, để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thu hút và động viên quần chúng

nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội bằng công tác kiểm tra,

kiểm soát, cần tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt quyền và trách nhiệm

phản biện xã hội. Thông qua kiểm tra, kiểm soát, phản biện xã hội để thấy được

giá trị tiếng nói của nhân dân về hoạt động của Nhà nước và như là phương thức

để Nhà nước gần dân hơn, thân dân hơn. Qua đó, hạn chế sự lạm dụng quyền

lực, sự độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong bộ máy

quản lý và chủ thể hoạch định, tổ chức thực thi chính sách xã hội.

Page 144: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

140

Với tư cách là chủ thể quản lý phát triển xã hội, việc tăng cường công tác

kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với việc tổ chức thực hiện chính sách xã

hội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trên thực tế, chỉ trong giai đoạn 2009 - 2011,

các cơ quan nhà nước đã trực tiếp kiểm tra 20 bệnh viện trên toàn quốc và giám

sát việc thực hiện Luật bảo hiểm y tế đối với trẻ em dưới 6 tuổi tại 15 tỉnh, thành

phố trực thuộc Trung ương. Hàng năm, Quốc hội còn tổ chức nhiều đoàn giám

sát việc thực thi chính sách, pháp luật về chính sách xã hội trên nhiều lĩnh vực, ở

nhiều địa phương trong cả nước. Qua kiểm tra, kiểm soát đối với việc tổ chức

thực hiện chính sách xã hội, các cơ quan nhà nước đã phát hiện, phòng ngừa,

chấn chỉnh và kịp thời giải quyết những vướng mắc, khó khăn, qua đó góp phần

làm cho chính sách xã hội phát huy được hiệu quả [9, tr.134]. Đây là một hoạt

động quan trọng nhằm tìm thấy những sơ hở trong cơ chế quản lý, trong chính

sách và pháp luật để kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền đề ra biện pháp khắc

phục nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức liên quan.

Tuy nhiên, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, nhất là công tác xử lý vi

phạm pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội thời gian qua chưa được

thực hiện thường xuyên và hiệu quả. Việc các tổ chức, doanh nghiệp vi phạm

pháp luật trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp

là rất phổ biến, thường xuyên, nhưng kết quả kiểm tra, giám sát của các cơ

quan nhà nước còn quá ít và chậm trễ. Bên cạnh đó, quy định xử lý về các hành

vi vi phạm pháp luật về đóng bảo hiểm xã hội còn bất hợp lý, cơ chế xử phạt

không đảm bảo tính nghiêm minh, kịp thời, phụ thuộc vào các cơ quan chức

năng khác, cũng như sự quan tâm của chính quyền địa phương [9, tr.165].

Do vậy, để chính sách xã hội thật sự đi vào cuộc sống, Đảng và Nhà nước

cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nhằm phát hiện những bất cập và

phản hồi kịp thời cho các cơ quan liên quan khắc phục. Củng cố bộ máy kiểm

tra, giám sát thực hiện chính sách xã hội độc lập ở Trung ương và địa phương.

Tăng cường tính pháp chế và xử phạt nghiêm minh đối với những hành vi vi

Page 145: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

141

phạm pháp luật chính sách xã hội. Xây dựng phương thức phối hợp giữa thực

thi chính sách với giám sát chính sách để kịp thời điều chỉnh, sửa chữa những

bất cập, khó khăn, vướng mắc [86, tr.281].

Thứ hai, đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện

chính sách xã hội.

Thực tiễn của đời sống xã hội rất phong phú, đa dạng và luôn đặt ra

nhiều vấn đề xã hội bức bách cần giải quyết thông qua việc thực hiện các

chính sách xã hội. Ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể, việc hoạch định và tổ chức

thực thi chính sách xã hội vào cuộc sống cần được đẩy mạnh nghiên cứu cả

trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết

thực tiễn nhằm phát hiện những mâu thuẫn và trở ngại trong việc thực hiện

chiến lược con người và chính sách xã hội để điều chỉnh sao cho phù hợp với

đà phát triển mới của đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi chúng ta không thể

xem nhẹ vì ý nghĩa có tầm chiến lược của nó. Điều này được Chủ tịch Hồ Chí

Minh nhắc nhở:

Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút,

một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời,

nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để

bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp

tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi

trước [92, tr.28].

Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn về thực hiện chính

sách xã hội thực chất chính là nhằm mục đích đổi mới tư duy cho phù hợp với

sự phát triển kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Vì xét cho cùng, sự yếu

kém, tụt hậu trong hoạch định, tổ chức thực thi chính sách xã hội không phải

do hạn chế về khả năng hay nguồn lực, mà chủ yếu do thiếu đổi mới về tư duy.

Ở Việt Nam, mặc dù lý luận về chính sách xã hội được quan tâm nghiên cứu,

bổ sung, phát triển, ứng dụng trong thực tiễn thông qua việc hoạch định và triển

khai thực hiện theo tinh thần:

Page 146: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

142

Đảng và Chính phủ điều tra, nghiên cứu, cân nhắc cẩn thận nhằm

vào lợi ích chung của nhân dân, đặt chính sách. Cán bộ phải nghiên

cứu, hiểu suốt, thấm nhuần chính sách ấy. Theo chính sách ấy mà

điều tra, nghiên cứu, hiểu suốt hoàn cảnh thiết thực của đơn vị mình,

địa phương mình. Rồi đặt kế hoạch rõ ràng, tỉ mỉ, thiết thực, để giải

thích, tuyên truyền, cổ động quần chúng, làm cho mọi người hiểu

thấu và ủng hộ chính sách của Đảng và Chính phủ như là của họ, rồi

thi đua thực hiện đầy đủ chính sách ấy [95, tr.249].

Tuy nhiên, chính sách xã hội chịu sự tác động của nhiều yếu tố như: Trình

độ phát triển về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của một quốc gia trong

tương quan với sự phát triển chung của thế giới tại một thời điểm lịch sử cụ

thể; sự tác động của mô hình và nền tảng phát triển của một nền kinh tế; năng

lực và trình độ hoạch định chính sách xã hội của bộ máy cầm quyền; phụ thuộc

vào sự tham gia của cộng đồng và xã hội trong việc hiện thực hóa chính sách

xã hội trong đời sống và xã hội hóa huy động các nguồn lực tài chính, nguồn

lực con người. Do vậy, đổi mới tư duy, tăng cường nghiên cứu lý luận về chính

sách xã hội là vấn đề giữ vai trò quyết định đến việc thiết kế và thực thi chính

sách xã hội phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và thời đại cần được

tiếp tục nhận thức lại, để bổ sung, hoàn thiện và phát triển ở trình độ cao hơn.

Trong xu hướng toàn cầu hóa, hợp tác quốc tế diễn ra mạnh mẽ chưa từng

có như hiện nay, song hành với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế, chính trị,

văn hóa, xã hội của đất nước thì việc giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc liên

quan đến con người thông qua việc thực hiện chính sách xã hội trở thành một

chỉ báo của sự ổn định và phát triển kinh tế, là nguồn lực cho sự phát triển bền

vững của quốc gia, dân tộc. Những năm qua, Việt Nam đã triển khai nhiều

chương trình khoa học công nghệ quốc gia về vấn đề con người và chính sách

xã hội đạt được những thành tựu nhất định. Thực trạng việc thực hiện chính

sách xã hội nói chung và các chính sách xã hội đặc thù đối với các đối tượng

chuyên biệt ở Việt Nam đã chứng tỏ Đảng và Nhà nước làm tốt công tác

Page 147: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

143

nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, công tác này vẫn còn tồn

tại một số hạn chế về tính ổn định và tính dự báo khi hoạch định và thực thi

chính sách xã hội nói chung và trên từng lĩnh vực cụ thể, “chính sách vừa mới

ban hành đã bị thay đổi, sự phát triển đôi khi không cân đối và thiếu toàn diện,

thiếu những dự báo mang tính chiến lược, chưa ưu tiên trong việc giải quyết

những vấn đề bức thiết của đời sống xã hội” [43, tr.183].

Bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước, để tiếp tục nâng

cao hiệu quả và khắc phục những hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội và

thay thế các chính sách hiện hành đã trở nên lạc hậu không thể giải quyết các

vấn đề xã hội mới đã và đang tiếp tục nảy sinh, đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần

tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Việc phát hiện tình

huống mới, dự báo xu hướng mới để kịp thời điều chỉnh chính sách xã hội cho

phù hợp với yêu cầu thực tiễn là việc làm thường xuyên và cấp thiết. Đổi mới

tư duy để hoàn thiện lý luận, nhận thức về chính sách xã hội cần tập trung vào

những vấn đề sau đây:

Một là, tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm, vị

trí, vai trò, đặc điểm, bản chất, nội dung, mục đích và cấu trúc của chính sách

xã hội, làm căn cứ cho việc xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.

Hai là, nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa chính

sách xã hội với phát triển xã hội gắn với cơ chế thị trường theo định hướng xã

hội chủ nghĩa; chính sách xã hội cần gắn với chính sách phát triển kinh tế, văn

hóa; chính sách xã hội phải bảo đảm an sinh xã hội. Đặc biệt, chính sách xã hội

phải gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội theo hướng phát triển nhanh

và bền vững. Việc hoạch định và thực thi chính sách xã hội của một quốc gia

dân tộc cần được nhìn nhận và giải quyết theo quan điểm phát triển bền vững.

Tức là, thực hiện tốt chính sách xã hội, đảm bảo an sinh xã hội góp phần giữ

vững ổn định về chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững

thông qua việc “điều hòa” các “mâu thuẫn xã hội”, hạn chế bất ổn xã hội.

Page 148: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

144

Ngược lại, phát triển bền vững tạo thêm nguồn lực để chăm lo phát triển xã hội,

thực hiện chính sách xã hội.

Ba là, tiếp tục nhận thức về hệ thống chính sách xã hội và mô hình an sinh

xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện

nay. Thể chế chính sách là trụ cột quan trọng của hệ thống chính sách xã hội.

Thể chế chính sách khẳng định trách nhiệm của các cơ quan liên quan trong

thực thi chính sách xã hội trong việc xác định đúng đối tượng tham gia, đối

tượng điều chỉnh, đối tượng cụ thể và cơ chế xác định đối tượng theo một quy

trình thống nhất. Khắc phục tình trạng đối tượng thụ hưởng không phù hợp, bỏ

sót đối tượng điều chỉnh; hoặc mức độ thụ hưởng của chính sách không đáp

ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn, không bảo đảm độ an toàn và khả năng hạn

chế rủi ro của xã hội…

Bốn là, tiếp tục nghiên cứu, làm rõ hơn vai trò, cơ chế và trách nhiệm của

các chủ thể thực hiện chính sách xã hội. Theo đó, phát huy vai trò chủ đạo của

Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý xã hội, bên cạnh đó đẩy mạnh các cuộc

vận động xã hội, cộng đồng và đối tượng chính sách tham gia thực hiện. Nhà

nước thông qua hệ thống chính sách và nguồn lực của mình gắn với xã hội hóa

huy động các nguồn lực, nhằm thúc đẩy tăng trưởng, phát triển nhanh, bền

vững và giải quyết tốt các vấn đề xã hội, đảm bảo an sinh xã hội.

Năm là, đổi mới tư duy trong cải cách tiền lương để đảm bảo thu nhập cho

người lao động, bảo đảm tính bền vững tài chính trong thực thi chính sách xã

hội. Cải cách tiền lương cần tiến hành đồng bộ ở khu vực hành chính sự

nghiệp, lực lượng vũ trang và khu vực sản xuất - kinh doanh. Ngoài ra, cần

nghiên cứu luận cứ đề xuất mục tiêu, phương hướng và giải pháp cải cách chế

độ lương hưu, trợ cấp sao cho phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội

và mức sống dân cư. Nghiên cứu luận cứ cho việc xây dựng các chính sách thị

trường tích cực, hỗ trợ, đan kết thực hiện chính sách xã hội hiệu quả, lâu dài

như: việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển hệ thống y tế,…

Page 149: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

145

Sáu là, nghiên cứu lý luận đòi hỏi phải có một hệ thống chính sách xã hội

đa tầng, đa lớp, linh hoạt phù hợp với các nhóm đối tượng và có khả năng hỗ

trợ lẫn nhau để vừa đảm bảo mức sống tối thiểu cho người dân, vừa không

ngừng nâng cao đời sống cho nhân dân, vừa tạo điều kiện để người dân thực

hiện tự an sinh. Khuyến khích và tạo điều kiện để người lao động tiếp cận và

tham gia các loại hình bảo hiểm. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi nhằm cải

thiện, nâng cao mức sống đối với người có công với nước. Mở rộng các hình

thức trợ giúp và cứu trợ xã hội, nhất là đối với các đối tượng khó khăn. Tập

trung triển khai có hiệu quả các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu,

vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức

xóa đói, giảm nghèo gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, dạy nghề và

phát triển giáo dục.

Bảy là, đổi mới tư duy về chính sách xóa đói, giảm nghèo, trước hết là tư

duy hệ thống, tức là đặt vấn đề xóa đói, giảm nghèo trong chiến lược sang mô

hình phát triển bền vững. Theo đó, xóa đói, giảm nghèo gắn liền với tăng thu

nhập, ổn định xã hội và gắn với tăng trưởng, phát triển kinh tế [86, tr.233-238].

TIỂU KẾT CHƯƠNG 4

Những thành công của sự nghiệp đổi mới về giải quyết các vấn đề xã hội

không chỉ khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong

việc chăm lo đời sống con người, phát triển con người, quan trọng hơn, thể

hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa mà Chủ tịch Hồ Chí Minh,

Đảng và nhân dân Việt Nam quan tâm xây dựng. Do đó, nghiên cứu, vận dụng

tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội trong điều kiện “nước ta bước vào

thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức

tạp và khó lường” [37, tr.95], đòi hỏi Đảng và Nhà nước cần làm rõ những

nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối với chính sách xã hội giai đoạn

hiện nay.

Page 150: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

146

Về những nhân tố tác động đến chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước cần

tiếp tục nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách toàn diện và chính xác tác

động của hội nhập quốc tế, của toàn cầu hóa đến việc hoạch định và thực thi

chính sách xã hội. Bởi vì, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế giúp các nước,

trong đó có Việt Nam ra sức tận dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học

và công nghệ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin, phát triển kinh tế

tri thức, tăng thêm nguồn lực và học tập kinh nghiệm từ các nước, nhưng cũng

phát sinh nhiều yếu tố tiêu cực, rủi ro cần được khắc phục. Ngoài ra, Đảng và

Nhà nước cũng cần lưu ý, thực hiện chính sách xã hội không chỉ chịu sự tác

động của tình hình thế giới, của quá trình hội nhập quốc tế mà còn liên quan

chặt chẽ đến trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Vì thế, để thực hiện chính

sách xã hội có hiệu quả, phải căn cứ vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của

đất nước như là nguồn lực bên trong kết hợp với những tác động của nhân tố

bên ngoài mà đề ra các nhóm giải pháp tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả

thực hiện chính sách xã hội trong những năm tiếp theo.

Về những vấn đề đặt ra đối với chính sách xã hội hiện nay, Đảng và Nhà

nước cần xác định rõ ảnh hưởng của cơ chế thị trường đã và đang tạo ra những

vấn đề xã hội bức xúc cần tiếp tục được giải quyết. Ngoài ra, trong quá trình

xây dựng và phát triển đất nước, chúng ta cần xác định con người vừa là mục

tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự chống phá của các

thế lực thù địch cũng đặt ra nhiều vấn đề đối với chính sách xã hội hiện nay.

Trên cơ sở xác định rõ những nhân tố tác động và những vấn đề đặt ra đối

với chính sách xã hội hiện nay, việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách xã

hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh cần tập trung vào 3 nhóm giải pháp sau đây:

Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho

cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách

xã hội; thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên làm công tác chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động

nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.

Page 151: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

147

Thứ hai, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc

thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác

chính sách xã hội; huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã

hội; mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc

xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính

sách xã hội; đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện

chính sách xã hội.

Page 152: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

148

KẾT LUẬN

Thực tiễn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam đã khẳng định ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh “mãi mãi soi

đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi” [37, tr.88].

Trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội đã và đang giữ vai trò

quan trọng, là cơ sở, định hướng để Đảng và Nhà nước xây dựng, thực thi

chính sách trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đối với con

người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân.

Trong bối cảnh hiện nay, khi mà toàn cầu hóa và hợp tác quốc tế ngày

càng đi vào chiều sâu thì sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước đang

đặt ra những thời cơ và thách thức mới, nhất là đối với vấn đề con người

thông qua việc thực hiện chính sách xã hội mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Do

vậy, việc nghiên cứu, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội

cần được Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị quan tâm thực hiện. Chỉ

trên cơ sở thấm nhuần quan điểm đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước mới có thể đề ra các chính sách xã hội

đúng đắn vì con người, do con người, cho con người, “lấy con người làm

trung tâm” cho mọi sự phát triển, từ đó tạo điều kiện thuận lợi để con người

được sống một cuộc sống có chất lượng, có ý nghĩa.

Nhận thức đúng đắn và thấm nhuần triết lý phát triển Hồ Chí Minh, đòi

hỏi Đảng và Nhà nước cần xác định rõ nội dung tư tưởng của Người về

chính sách xã hội hết sức phong phú và đa dạng từ việc xác định mục đích,

đối tượng, phương thức thực hiện, lực lượng tham gia đến nội dung của

chính sách xã hội. Theo đó:

Mục đích của chính sách xã hội phải lấy việc phục vụ con người, nâng

cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người làm mục đích cao nhất,

nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình xây dựng xã hội mới - xã

hội xã hội chủ nghĩa.

Page 153: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

149

Đối tượng của chính sách xã hội là những người thuộc các nhóm xã

hội yếu thế, nhóm ưu đãi xã hội, cũng như đảm bảo cho sự phát triển của tất

cả mọi người, của xã hội trong xây dựng xã hội mới.

Nội dung cơ bản của chính sách xã hội bao gồm chính sách lao động

và việc làm, chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách chăm sóc và bảo vệ

sức khỏe nhân dân, chính sách đối với người có công với cách mạng.

Yêu cầu thực hiện chính sách xã hội phải gắn với quản lý xã hội;

chính sách xã hội phải gắn với chính sách kinh tế, văn hóa; chính sách xã hội

phải hướng đến công bằng xã hội.

Lực lượng thực hiện chính sách xã hội: Đảng và Nhà nước với tư cách

là chủ thể lãnh đạo, quản lý xã hội; đội ngũ cán bộ quản lý là người trực tiếp

thực hiện chính sách xã hội; quần chúng nhân dân lao động vừa là đối tượng,

vừa là lực lượng thực hiện của chính sách xã hội.

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, từ quan niệm chính sách xã hội là

động lực của mọi sự quản lý phát triển xã hội, đến việc xác định những luận

cứ khoa học cho hệ thống chính sách xã hội, Đảng và Nhà nước không

những xây dựng được một hệ thống chính sách xã hội đúng đắn, đồng bộ,

mà còn luôn trăn trở với những vấn đề mới phát sinh, luôn nhạy bén và kịp

thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách xã hội phát triển theo đúng định

hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, chính sách xã hội đã từng bước đóng vai trò

động lực, gây ảnh hưởng tích cực đối với việc nâng cao vai trò nhân tố con

người, phát triển toàn diện con người. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành

tựu bước đầu. Những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay như việc làm, xóa đói

giảm nghèo, y tế, công bằng xã hội,… đang là những vấn đề mang tính thời

sự, cần quan tâm giải quyết.

Những yếu kém, hạn chế việc thực hiện chính sách xã hội có nhiều

nguyên nhân. Trong đó, về mặt chủ quan là do nhận thức của các cấp, các

Page 154: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

150

ngành còn chưa đầy đủ về ý nghĩa, vai trò của chính sách xã hội. Công tác

quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, chồng chéo; năng lực và trách nhiệm

của đội ngũ cán bộ quản lý còn thấp; công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát

còn nhiều hạn chế. Nguồn lực cho thực hiện chính sách xã hội còn hạn hẹp,

chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước, chưa thu hút được nhiều sự tham gia

của xã hội; hiệu quả sử dụng nguồn lực chưa cao, còn phân tán, manh mún

và dàn trải.

Vì vậy, để xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách xã hội ở Việt

Nam hiện nay, cần tiếp tục nghiên cứu và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ

Chí Minh về chính sách xã hội. Trong đó, cần tập trung thực hiện các nhóm

giải pháp:

Thứ nhất, tăng cường công tác bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức cho

cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận, đội ngũ cán bộ về vai trò của chính sách

xã hội; thường xuyên mở các lớp tập huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, đảng

viên làm công tác chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động

nhân dân tham gia thực hiện chính sách xã hội.

Thứ hai, kiện toàn bộ máy cơ quan các cấp về quản lý, điều hành việc

thực hiện chính sách xã hội; đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm công tác

chính sách xã hội; huy động các nguồn lực trong nước thực hiện chính sách xã

hội; mở rộng hợp tác quốc tế để có thêm nguồn lực, kinh nghiệm trong việc

xây dựng và thực hiện chính sách xã hội.

Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính

sách xã hội; đẩy mạnh công tác tổng kết lý luận và thực tiễn việc thực hiện

chính sách xã hội.

Page 155: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Công Lập (2014), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về chính

sách xã hội vào việc xây dựng chính sách xã hội ở nước ta hiện nay”,

Tạp chí Khoa học Trường Đại học Đồng Tháp, (3), tr.76-81.

2. Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm Hồ Chí

Minh về chính sách xã hội”, tại trang http://lyluanchinhtri.vn, ngày

13/12/2016.

3. Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự thống nhất

giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế và văn hóa”, Tạp chí Lịch

sử Đảng, (11), tr.30-33.

4. Nguyễn Công Lập (2016), “Quan điểm Hồ Chí Minh về công bằng xã hội

trong quản lý phát triển xã hội”, Tạp chí Giáo dục lý luận, (253), tr.13-16.

5. Nguyễn Công Lập (2016), ‘‘Chính sách xã hội trong triết lý phát triển Hồ

Chí Minh”, trong Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh

về xây dựng xã hội mới - Giá trị lý luận và thực tiễn, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội.

6. Nguyễn Công Lập (2017), ‘‘Sáng ngời quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về chính sách đối với người có công với cách mạng”, Kỷ yếu Hội

thảo khoa học, Nxb Đại học Huế, tr.130-133.

Page 156: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh (2004), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và

vận dụng nó ở nước ta trong điều kiện hiện nay", Kỷ yếu đề tài khoa

học cấp bộ năm 2003, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,

Hà Nội.

2. Ba mươi lăm năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (2004),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2007), Đẩy mạnh học tập và làm

theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

4. Hoàng Chí Bảo (1993), Một số vấn đề về chính sách xã hội ở nước ta hiện

nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Hoàng Chí Bảo (1998), “Đổi mới ở Việt Nam. Một số vấn đề triết học về

con người và xã hội”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (10), tr.24-29.

6. Hoàng Chí Bảo (Chủ biên) (2010), Luận cứ và giải pháp phát triển xã hội và

quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

7. Bảo tàng Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà

Nội (2009), Giá trị nhân văn của Di chúc Hồ Chí Minh, Nxb Thanh

niên, Hà Nội.

8. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1998), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp

ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

9. Nguyễn Văn Chiều (2014), Chính sách an sinh xã hội và vai trò của Nhà nước

trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Chiều (2015), "Một số vấn đề về quyền an sinh xã hội trong

nhà nước pháp quyền", Tạp chí Triết học, số 6 (289), tr.24-29.

Page 157: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

153

11. Chính sách xã hội trong sự nghiệp đổi mới (1995), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

12. Chủ nghĩa xã hội - đời sống của xã hội và của con người (1989), Nxb Sự thật,

Hà Nội.

13. Phạm Hồng Chương (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số vấn đề cơ

bản của cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

14. Nguyễn Hữu Công (2010), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con

người toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

15. Phạm Như Cương (chủ biên) (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16. Phạm Như Cương (1988), Góp phần nghiên cứu chính sách xã hội,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2013), Một số vấn đề cơ bản về chính sách

xã hội ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

18. Mai Ngọc Cường (Chủ biên) (2013), Chính sách xã hội đối với di dân

nông thôn - thành thị ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

19. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (1999), Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

20. Nguyễn Thị Kim Dung (Chủ biên) (2014), Bác Hồ với ngành y tế Việt

Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.

21. Nguyễn Tấn Dũng (2010), “Phát triển nhanh và bền vững là quan điểm

xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ta”,

tại trang http://baochinhphu.vn, [truy cập ngày 22/7/2016].

22. Nguyễn Văn Dương (2010), Giá trị di sản tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần

xây dựng con người mới Việt Nam, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

23. Thành Duy (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

24. Nguyễn Trọng Đàm (2012), ‘‘Thực hiện giảm nghèo bền vững ở Việt Nam”,

Tạp chí Lịch sử Đảng, (9).

Page 158: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

154

25. Nguyễn Trọng Đàm (2014), “Một năm thực hiện Nghị quyết số 15-

NQ/TW một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020: Cơ

hội và thách thức”, tại trang http://www.molisa.gov.vn, [truy cập ngày

2/10/2016].

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh

tế xã hội 1991 - 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc

lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ

VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 37, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21-1960,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương - Ban Chỉ đạo tổng

kết lý luận (2005), Báo cáo tổng kết những vấn đề lý luận - thực tiễn

qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 47, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XI,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban

Chấp hành Trung ương khóa XI, Hà Nội.

Page 159: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

155

39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

40. Đinh Thế Định (2000), Mối quan hệ giữa sự phát triển kinh tế và việc

giải quyết các vấn đề xã hội ở vùng nông thôn các tỉnh Bắc Trung bộ

trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết

học chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị

quốc gia Hồ Chí Minh.

41. Đinh Đăng Định (chủ biên) (2004), Một số vấn đề về lao động, việc làm và

đời sống người lao động ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lao động, Hà Nội.

42. Đặng Quang Định (2010), Quan hệ lợi ích kinh tế giữa công nhân, nông

dân và trí thức ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Nguyễn Minh Đoan (2011), Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật

Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Phạm Văn Đồng (1991), Hồ Chí Minh - Quá khứ, hiện tại và tương

lai, Nxb Sự thật, Hà Nội.

45. Phạm Văn Đồng (1998), Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Phạm Văn Đồng (1999), Về vấn đề giáo dục - đào tạo, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

47. Phạm Văn Đồng, Bản Di chúc bất hủ sáng ngời tính thời sự, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

48. Trần Đồng (1995), Chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta trong việc

giải quyết các vấn đề xã hội bức bách hiện nay (từ 1986 - 1995), Luận

văn Thạc sĩ Khoa học Lịch sử, Học viện Chính tri quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

49. Phạm Văn Đức (1999), “Một số giải pháp nhằm khai thác và sử dụng

nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (6), tr.31-33.

50. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), Tư tưởng triết học về con người trong chủ

nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội.

Page 160: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

156

51. Võ Nguyên Giáp (2003), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách

mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

52. Trần Văn Giàu (2008), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

53. Lê Thị Hải Hà (2010), Vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về phương

pháp xây dựng con người để xây dựng con người ở nước ta hiện nay,

Luận văn Thạc sĩ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính tri - Hành chính

quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

54. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục, phát triển con người phục

vụ phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

55. Phạm Minh Hạc (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp

hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ

XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Lê Văn Hân (2015), "Chính sách đối với thương binh, liệt sĩ và người có

công với cách mạng của Đảng, Nhà nước ta hiện nay", Tạp chí Lịch sử

Đảng, tr.30-33.

59. Nguyễn Thị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước

ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Nguyễn Đức Hạt (Chủ biên) (2009), Năng cao năng lực lãnh đạo của

cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

61. Phùng Thu Hiền (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người

với việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất

nước hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc

gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

62. Dương Phú Hiệp (chủ biên) (2010), Nghiên cứu văn hóa và con người

Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Trần Đình Hoan (chủ biên) (1996), Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế

quản lý việc thực hiện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 161: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

157

64. Lê Quang Hoan (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2009), Tập bài

giảng chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính cho các đối

tượng đào tạo ở trung tâm Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ

Chí Minh, phần lý luận chính trị, khối thứ nhất: Chủ nghĩa Mác -

Lênin,tư tưởng Hồ Chí Minh nền tảng tư tưởng của Đảng ta (Lưu hành

nội bộ), Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

66. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), Tập bài

giảng chương trình Cao cấp lý luận Chính trị - Hành chính dành cho

đối tượng đào tạo tập trung tại Học viện Chính trị - Hành chính, khối

thứ hai, Quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một

số lĩnh vực chủ yếu, Nxb Chính trị - Hành chính quốc gia, Hà Nội.

67. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Đường lối của Đảng

Cộng sản Việt Nam về một số lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội,

Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

68. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Đường lối, chính

sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của đời sống

xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

69. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Một số vấn đề về chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

70. Hội đồng quốc gia biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Từ

điển Bách khoa Việt Nam, tập I, Hà Nội.

71. Hội thảo khoa học 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

(2009), Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia khu vực I.

72. Nguyễn Phương Hồng (1977), Thanh niên, học sinh, sinh viên với sự nghiệp

công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Đông Thị Hồng (2013), “An sinh xã hội cho nông dân trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Giáo dục lý

luận, (202).

Page 162: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

158

74. Lương Thị Hồng (2016), "Nhìn lại 30 năm thực hiện công tác xóa đói,

giảm nghèo, nâng cao đời sống nhân dân (1986 - 2016)", Tạp chí Lịch

sử Đảng, (7), tr.29-34.

75. Đinh Thế Huynh và các cộng sự (2015), 30 năm đổi mới và phát triển ở Việt

Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

76. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người trong quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

77. Phạm Đức Kiên (2011), “Từ quan điểm, chủ trương đến kết quả giải

quyết việc làm trong 25 năm thực hiện đường lối đổi mới”, Tạp chí Lý

luận chính trị.

78. Đặng Xuân Kỳ (chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển

văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (1998), Hồ Chí Minh - Văn hóa và đổi

mới, Nxb Lao động, Hà Nội.

80. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2008), Văn hóa và triết lý phát triển

trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

81. Phan Ngọc Liên (chủ biên) (2009), Giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh

trong nhà trường, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

82. Nguyễn Đình Liêu (2000), Một số suy nghĩ về hoàn thiện pháp luật ưu đãi

người có công, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

83. Đinh Xuân Lý (2007), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận

dụng của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

84. Đinh Xuân Lý (2011), Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện

chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986-2011), Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội.

85. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2012), Chính sách xóa đói giảm nghèo. Thực

trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. Lê Quốc Lý (Chủ biên) (2014), Chính sách an sinh xã hội. Thực trạng và

giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 163: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

159

87. Lê Quốc Lý (2015), "Triết lý xóa đói, giảm nghèo vì mục tiêu phát triển

xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (5),

tr.37-41.

88. Hồ Chí Minh (1985), Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội.

89. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

90. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

95. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

97. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

98. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

99. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

100. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

101. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

102. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

103. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

104. Ngô Quang Minh (1998), Tác động của kinh tế Nhà nước nhằm góp

phần xoá đói giảm nghèo trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp

hoá, hiện đại hoá ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ, Đề tài khoa học

cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.

105. Đỗ Mười (1997), “Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa”, Tạp chí

Quốc phòng toàn dân, (7), tr.3-4.

106. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (1997), Đổi mới chính sách xã hội. Luận cứ

và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

107. Phạm Xuân Nam (2014), "Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về an

sinh xã hội và phúc lợi xã hội", Tạp chí Triết học, số 2 (273), tr.20-25.

Page 164: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

160

108. Phạm Xuân Nam (2014), Quan điểm của Hồ Chí Minh và của Đảng

Cộng sản Việt Nam về hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã hội,

Tạp chí Triết học, số 5 (276), tr.20-25.

109. Nguyễn Năng Nam (2014), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách xã hội", tại

trang http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn, [truy cập ngày 20/8/2016].

110. Nguyễn Thị Kim Ngân (2008), “Bảo đảm mức sống, từng bước cải thiện

cuộc sống người có công trong điều kiện kinh tế thị trường và lạm

phát”, Tạp chí Lao động và Xã hội, (350), tr.6-7.

111. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), “Bước ngoặt mới trong nỗ lực xóa đói,

giảm nghèo”, tại trang http://www.tapchicongsan.org.vn, [truy cập

ngày 20/10/2016].

112. Nguyễn Thị Kim Ngân (2011), “Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ưu

đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững”, tại

trang http://www.baocantho.com.vn, [truy cập ngày 22/8/2016].

113. "Nghiên cứu con người, giáo dục, phát triển và thế kỷ XXI", (1995), Kỷ

yếu Hội nghị khoa học quốc tế, Hà Nội.

114. Nguyễn Văn Nhớn (1996), Ảnh hưởng của chính sách xã hội đối với việc

nâng cao vai trò của nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới theo

định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Luận án phó Tiến sĩ Triết

học, Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

115. Bùi Đình Phong (2008), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

116. Trần Văn Phòng, Lê Thị Hạnh (2015), "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã

hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Lý luận chính trị, (7), tr.3-7.

117. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Hoàng (2015), "Quan điểm của Đảng

Cộng sản Việt Nam về con người với tư cách là đối tượng phục vụ

của chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Giáo dục lý

luận, (228), tr.38-42.

Page 165: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

161

118. Phùng Hữu Phú và các cộng sự (2016), Một số vấn đề lý luận - thực tiễn về chủ

nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam qua 30 năm đổi

mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Nguyễn Trọng Phúc (2014), "Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về chính sách với người có công", Tạp chí Lý luận chính trị,

(9), tr.37-40.

120. Đỗ Nguyên Phương (1994), “Phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo và

công bằng xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (5).

121. Nguyễn Mai Phương (2015), "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về an

sinh xã hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, tr.56-59.

122. Nguyễn Mai Phương (2017), ‘‘Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam

về an sinh xã hội từ Đại hội XI đến Đại hội XII", Tạp chí Lịch sử Đảng,

(1), tr.45-49.

123. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1991), Luật Bảo vệ

sức khỏe nhân dân, Nxb Y học, Hà Nội.

124. V.Z.Rôgôvin (1980), Chính sách xã hội trong xã hội xã hội chủ nghĩa

phát triển, Nxb Nauka, Mockba (Bản dịch của Viện Thông tin Khoa

học xã hội).

125. Tô Huy Rứa và các cộng sự (2009), Quá trình đổi mới tư duy lý luận của

Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

126. Nguyễn Văn Sáu (chủ biên) (2005), Nghiên cứu, giáo dục tư tưởng Hồ

Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

127. Nguyễn Hồng Sơn (2015), "Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng

xã hội trong thời kỳ đổi mới", Tạp chí Lý luận chính trị, (3), tr.56-61.

128. Hoàng Đức Thân, Đinh Quang Ty (Chủ biên) (2010), Tăng trưởng kinh

tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

129. Lê Sĩ Thắng (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và

về chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 166: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

162

130. Nguyễn Thế Thắng (Chủ biên) (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính

sách xã hội từ góc nhìn xã hội học, Nxb Lao động, Hà Nội.

131. Ngô Ngọc Thắng (2014), “Chính sách an sinh xã hội trong bối cảnh tái

cấu trúc mô hình tăng trưởng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (1).

132. Ngô Ngọc Thắng, Đoàn Minh Huấn (Đồng chủ biên) (2014), Một số lý

thuyết về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

133. Bùi Đình Thanh (Chủ biên) (1993), Chính sách xã hội - Một số vấn đề lý

luận và thực tiễn, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia,

Hà Nội.

134. Nguyễn Thị Thanh (1998), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện

chính sách xã hội trong thời kỳ đổi mới, Luận văn Thạc sĩ khoa học

Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

135. Nguyễn Thị Thanh (2004), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện

chính sách xã hội từ năm 1991 đến năm 2001, Luận án Tiến sĩ khoa

học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.

136. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

137. Thế giới ca ngợi và thương tiếc Hồ Chủ tịch (1971), tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội.

138. Nguyễn Thị Thơm (2011), “Xóa đói giảm nghèo bằng chính sách hỗ trợ

phát triển sản xuất hàng hóa cho vùng nghèo”, Tạp chí Lý luận chính trị.

139. “Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng”

(2011), tại trang http://vnexpress.net, [truy cập ngày 20/10/2016].

140. Vũ Văn Thuấn (2011), "Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội",

Đặc san Hồ Chí Minh học, (1).

141. Hoàng Thu Thủy (2013), “Công tác xóa đói giảm nghèo tại vùng miền

núi Đông Bắc Việt Nam giai đoạn 2001-2010”, Tạp chí Giáo dục lý

luận, (202).

Page 167: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHÍNH SÁCH XÃ HỘI …hcma.vn/Uploads/2017/9/4/Luan an _ Cong Lap _nop ra QD_.pdf · Tư tưởng Hồ Chí Minh về chính sách

163

142. Lê Văn Tích (chủ biên) (2008), Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống

- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

143. Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), tập 1, Hà Nội.

144. Nguyễn Từ (1998), Những vấn đề xã hội cần được giải quyết ở nông

thôn ngoại vi một số thị xã miền núi phía Bắc nước ta trong quá trình

cải cách kinh tế, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh.

145. Nguyễn Đình Tuấn, Phạm Thị Tính (2013), "An sinh xã hội cho người

cao tuổi ở nước ta hiện nay: Chính sách và thực tiễn", Tạp chí Nghiên

cứu con người, số 5 (86).

146. Trần Văn Tùng (2000), Tính hai mặt của toàn cầu hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội.

147. A.X.Varônhin (2016), "Chính sách xã hội và tinh thần thời đại của Hồ

Chí Minh", tại trang http://dangcongsan.vn, [truy cập ngày 15/12/2016].

148. Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996),

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

149. “Về chính sách việc làm và bảo hiểm thất nghiệp” (2008), tại trang

http://tapchicongsan.org.vn, [truy cập ngày 15/8/2016].

150. Viện Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu con người (2010), Hồ

Chí Minh - Về mối quan hệ giữa con người và văn hóa, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

151. Vũ Thị Vinh (2014), Tăng trưởng kinh tế với giảm nghèo ở Việt Nam

hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

152. Vũ Thiện Vương (2001), Triết học Mác - Lênin về con người và việc xây

dựng con người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.