static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_ejhb.docx · web...

31
LỜI TỰA Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2016 diễn ra trong bối cảnh Chính phủ mới từng bước được kiện toàn. Tại phiên họp Chính phủ đầu tiên ngày 12/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố 6 trọng tâm ưu tiên và 10 nhiệm vụ cấp bách. Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị Quyết 19, Nghị Quyết 35 nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, khẳng định quyết tâm của Chính phủ sẵn sàng đối mặt và vượt lên mọi thách thức, đưa kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định và bền vững. Trong 6 tháng đầu năm 2016, mặc dù các chỉ số kinh tế vĩ mô tiếp tục tăng trưởng, tuy nhiên mức tăng trưởng thể hiện chưa vững chắc, với GDP 6 tháng chỉ đạt 5,52% thấp hơn nhiều so với mức tăng 6,32% năm 2015 và có khả năng không đạt mục tiêu tăng trưởng do Quốc hội đề ra. Trong bối cảnh biến động bất thường của kinh tế thế giới, đặc biệt sau sự kiện Brexit, vấn đề đặt ra cần phải phân tích thấu đáo những nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế ở mức thấp, đề ra những giải pháp cấp bách điều hành nền kinh tế, tập trung vào quản lý thâm hụt ngân sách và nợ công, xử lý nợ xấu, cải cách hành chính và nâng cao năng lực thể chế, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế cũng như đề ra các kịch bản ứng phó với mọi biến động tình hình kinh tế thế giới. Báo cáo số 55/2016 của Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2016, phân tích kỹ một số vấn đề đáng lưu ý của nền kinh tế, đề xuất một số giải pháp trọng tâm cấp bách nhằm tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng cuối năm. Trung tâm nghiên cứu hy vọng Báo cáo này sẽ là một tài liệu bổ ích, là nguồn tham khảo bổ sung phục vụ cho các đồng chí Lãnh đạo, các cơ quan chức năng đưa ra những quyết sách phù hợp với tình hình. Xin trân trọng cảm ơn! Trung tâm Nghiên cứu BIDV

Upload: others

Post on 30-Dec-2019

0 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

LỜI TỰA

Kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2016 diễn ra trong bối cảnh Chính phủ mới từng bước được kiện toàn. Tại phiên họp Chính phủ đầu tiên ngày 12/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố 6 trọng tâm ưu tiên và 10 nhiệm vụ cấp bách. Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị Quyết 19, Nghị Quyết 35 nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, khẳng định quyết tâm của Chính phủ sẵn sàng đối mặt và vượt lên mọi thách thức, đưa kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định và bền vững. Trong 6 tháng đầu năm 2016, mặc dù các chỉ số kinh tế vĩ mô tiếp tục tăng trưởng, tuy nhiên mức tăng trưởng thể hiện chưa vững chắc, với GDP 6 tháng chỉ đạt 5,52% thấp hơn nhiều so với mức tăng 6,32% năm 2015 và có khả năng không đạt mục tiêu tăng trưởng do Quốc hội đề ra. Trong bối cảnh biến động bất thường của kinh tế thế giới, đặc biệt sau sự kiện Brexit, vấn đề đặt ra cần phải phân tích thấu đáo những nguyên nhân dẫn đến tăng trưởng kinh tế ở mức thấp, đề ra những giải pháp cấp bách điều hành nền kinh tế, tập trung vào quản lý thâm hụt ngân sách và nợ công, xử lý nợ xấu, cải cách hành chính và nâng cao năng lực thể chế, tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế cũng như đề ra các kịch bản ứng phó với mọi biến động tình hình kinh tế thế giới.

Báo cáo số 55/2016 của Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh tế vĩ mô 6 tháng đầu năm 2016, phân tích kỹ một số vấn đề đáng lưu ý của nền kinh tế, đề xuất một số giải pháp trọng tâm cấp bách nhằm tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế 6 tháng cuối năm.

Trung tâm nghiên cứu hy vọng Báo cáo này sẽ là một tài liệu bổ ích, là nguồn tham khảo bổ sung phục vụ cho các đồng chí Lãnh đạo, các cơ quan chức năng đưa ra những quyết sách phù hợp với tình hình.

Xin trân trọng cảm ơn!

Trung tâm Nghiên cứu BIDV

Page 2: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh
Page 3: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

NGÂN HÀNG TMCP ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU (Báo cáo số: /2016)

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc

Hà Nội, ngày tháng 06 năm 2016

BÁO CÁOĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ VĨ MÔ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2016, DỰ

BÁO CẢ NĂM VÀ ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẤP BÁCH Trong 6 tháng đầu năm 2016, kinh tế thế giới tiếp tục thể hiện xu hướng phục

hồi dù còn ở mức thấp, không đồng đều giữa các khu vực và còn nhiều rủi ro, dễ tổn thương. Điểm sáng là kinh tế Mỹ vẫn duy trì đà tăng trưởng khá và là động lực chủ yếu cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trong khi Châu Âu, Nga và Trung Quốc dự báo vẫn phải đối mặt với tăng trưởng chậm, nhiều nước/khu vực như châu Âu, Nhật Bản... vẫn tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ kích thích tăng trưởng, lạm phát, hỗ trợ xuất khẩu.... Sự kiện Brexit càng tăng thêm sự bất ổn cho kinh tế toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, Kinh tế Việt Nam diễn ra trong bối cảnh Chính phủ mới từng bước được kiện toàn. Tại phiên họp Chính phủ đầu tiên ngày 12/4, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã tuyên bố 6 trọng tâm ưu tiên và 10 nhiệm vụ cấp bách. Chính phủ cũng đã ban hành các Nghị Quyết 19, Nghị Quyết 35 nhằm cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, khẳng định quyết tâm của Chính phủ sẵn sàng đối mặt và vượt lên mọi thách thức, chèo lái con thuyền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng ổn định, bền vững. Tăng trưởng GDP 6 tháng đạt 5,52%, tuy thấp hơn mức 6,32% năm 2015 nhưng cao hơn mức tăng các năm 2012-2014. Lạm phát tiếp tục duy trì ở mức thấp, CPI bình quân 6 tháng tăng 1,72% so với cùng kỳ; Xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng 5,9%; Vốn FDI giải ngân tăng 15,1% so với cùng kỳ; Thị trường tiền tệ ổn định trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động; Thị trường chứng khoán diễn biến tích cực. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn bộc lộ những tồn tại cần lưu ý: tỷ lệ nợ công và bội chi ngân sách còn cao; xử lý nợ xấu chưa triệt để trong khi quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều sâu còn chậm, những hạn chế này có thể tiềm ẩn rủi ro trong dài hạn nhất là trong bối cảnh diễn biến chính trị-kinh tế thế giới trở nên khó lường hơn sau sự kiện Brexit.

Bảng 1: Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu thực hiện 6 tháng và dự báo cả năm 2016

Các chỉ tiêu Mục tiêu 2016

TH 6 tháng 2015

TH 6 tháng 2016

Dự báo cả năm 2016

Tăng trưởng GDP (%) 6,7 6,32 5,52 6,3-6,5CPI (so đầu năm) (%) 5,0 0,55 2,35 4,5-5

Page 4: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

Cán cân TM (tỷ USD) (8,5) (3,7) 1,54 4 + Xuất khẩu (tỷ USD)

180 77,7 82,24 180-185 + Nhập khẩu (tỷ 188,5 81,5 80,7 176-181FDI đăng ký (tỷ USD) - 6,3 11,28 24,5-25FDI giải ngân (tỷ USD) - 5,5 7,3 14,8-15Tỷ giá (VNĐ/USD) 21.800-

21.82022.300-22.500

22.400-22.900.(Nguồn: Tổng hợp từ TCTK, NHNN, Bộ KHĐT và Dự báo của TTNC)

I. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH KINH TẾ VĨ MÔ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 20161. Một số điểm nổi bật về kinh tế thế giới Trong 6 tháng đầu năm 2016, kinh tế thế giới tiếp tục thể hiện xu hướng phục

hồi dù còn ở mức thấp, không đồng đều giữa các khu vực và còn nhiều rủi ro, dễ tổn thương. Điểm sáng là kinh tế Mỹ vẫn duy trì đà tăng trưởng khá với tăng trưởng GDP quý I/2016 đạt 0,8%, cao hơn mức 0,6% của cùng kỳ năm trước do sự tăng lên của chi tiêu cá nhân (tăng 1,6%) và chi tiêu và đầu tư chính phủ (tăng 1,2%) so với cùng kỳ năm trước. Doanh số bán lẻ 5 tháng đầu năm 2016 tăng 3,2%, duy trì đà tăng ổn định so với cùng kỳ năm trước cho thấy nền kinh tế Mỹ bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng dù số việc làm mới có xu hướng chậm lại. Thị trường lao động của Mỹ có sự cải thiện khi tỷ lệ thất nghiệp chỉ còn 4,7% trong tháng 5/2016, mức thấp nhất trong vòng 42 năm qua; tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ chỉ tạo ra 38.000 việc làm mới trong tháng 5/2016, mức thấp nhất kể từ tháng 9/2010 và thấp hơn nhiều so với dự báo. Trong khi đó, Kinh tế Châu Âu trong 6 tháng đầu năm 2016 phục hồi chậm chạp, với GDP quý I/2016 tăng 0,5% so với quý IV/2015 và tăng 1,5% so với cùng kỳ năm trước, lạm phát vẫn ở mức thấp. Sản lượng của khu vực kinh tế châu Âu có xu hướng chững lại với chỉ số PMI tổng hợp tháng 5/2016 chỉ đạt 52,9 điểm, mức thấp nhất trong vòng 16 tháng qua, gây quan ngại về khả năng Eurozone có thể rơi vào suy thoái trong quý III. Kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm lại trong nửa đầu năm 2016, theo Cục Thống kê Trung Quốc, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 5 tăng 6% so với mức 6,1% cùng kỳ năm trước, doanh số bán lẻ trong 5 tháng đầu năm 2016 tăng 10,2%, thấp hơn mức tăng 10,4% cùng kỳ đầu tư vào tài sản cố định chỉ tăng 9,6% trong 5 tháng đầu năm 2016 so với mức tăng 11,4% cùng kỳ. Ngày 24/6, khi kết quả bỏ phiếu Brexit được công bố với kết quả Anh sẽ rời EU đã gây ra chấn động kinh tế toàn cầu, đồng GBP sụt giảm mạnh 8,1%, đồng EUR giảm 2,4%, các thị trường chứng khoán toàn cầu sụt giảm, giá vàng tăng vọt có lúc đạt 1.342USD/ounce. Theo nhiều chuyên gia, trong bối cảnh kinh tế EU sẽ tiếp tục rơi vào tình trạng giảm phát và tác động tiêu cực của Brexit thì kinh tế Mỹ sẽ phục hồi khó khăn hơn nhiều. Và khi cả kinh tế Mỹ lẫn EU suy giảm, có thể tác động xấu mang tính dây chuyền tới kinh tế Châu Á (nhất là Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc và Australia). Triển vọng tăng trưởng thấp của Anh và phần còn lại của EU các quốc gia đóng

Page 5: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

góp 23% GDP toàn cầu - sẽ có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư và tài chính-tiền tệ của các quốc gia có quan hệ kinh tế, trong đó có Việt Nam.

2. Bức tranh kinh tế trong nước (1) Tăng trưởng kinh tế sụt giảm do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên song

sức cầu vẫn chuyển biến khả quan: GDP 6 tháng đầu năm 2016 tăng 5,52% so với cùng kỳ năm 2015, thấp hơn mức 6,32% năm 2015, nhưng cao hơn mức tăng 5,22% cùng kỳ năm 2014 và 4,9% năm 2013, 4,93% năm 2012 cho thấy kinh tế Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng. Tính theo cơ cấu, chỉ khu vực dịch vụ với mức tăng 6,35% có mức tăng cao hơn mức 5,9% cùng kỳ năm 2015, trong khi khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,12% so với cùng kỳ thấp hơn mức tăng năm 2015 (9,09%) cùng kỳ; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản suy giảm 0,18%. Như vậy, có thể thấy nguyên nhân cản trở tăng trưởng GDP năm nay do: (i) ảnh hưởng nặng của hạn hán, ngập mặn và biến đổi khí hậu tới khu vực nông nghiệp của Việt Nam và (ii) biến động giá dầu trên thế giới ảnh hưởng tới Công nghiệp khai khoáng suy giảm 2,2% so với cùng kỳ, (chủ yếu do khai thác dầu thô giảm 6,1%). Chỉ số sản xuất công nghiệp, IIP 6 tháng đầu năm tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng 9,8% của năm 2015, tuy nhiên cao hơn một số năm gần đây.

Sức cầu trong nước tiếp tục tăng trưởng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng tăng 9,5%, sau khi loại trừ yếu tố giá còn tăng 7,5% thấp hơn so với mức 8,8% cùng kỳ năm 2015; Về tình hình hoạt động doanh nghiệp, 6 tháng đầu năm nay, cả nước có 54.501 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng vốn đăng ký là 427,8 nghìn tỷ đồng, tăng 20% về số doanh nghiệp và tăng 51,5% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 20151; số vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 7,8 tỷ đồng, tăng 26,2%. Bên cạnh đó còn có 16.125 lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn với tổng vốn tăng thêm 774,7 nghìn tỷ đồng, nâng tổng số vốn đăng ký và bổ sung thêm vào nền kinh tế trong 6 tháng đầu năm 2016 đạt 1202,5 nghìn tỷ đồng. Số lượng doanh nghiệp và số vốn đăng ký 6 tháng đầu năm tăng mạnh so với cùng kỳ năm trước cho thấy tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư và hiệu quả các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đã thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần khởi nghiệp và tạo niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp và các nhà đầu tư.

Biểu đồ 1: GDP 6T đầu năm từ 2011 đến 2016 Biểu đồ 2: Tăng hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm từ 2011 đến 2016

1 So với cùng kỳ năm trước, số doanh nghiệp thành lập mới 6 tháng đầu năm 2015 tăng 21,7%; số vốn đăng ký tăng 22,3%.

Page 6: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

Nguồn: TCTK, TTNC tổng hợp

(2) Lạm phát tiếp tục duy trì ở mức kiểm soát Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số CPI tháng 06/2016 tăng 0,46% so với tháng

trước, tăng 2,35 % so với đầu năm và CPI bình quân 6 tháng tăng 1,72% so với cùng kỳ năm 2015. CPI tháng 6 tăng chủ yếu do: (i) mức tăng giá ở một số nhóm hàng hóa, dịch vụ: nhóm giao thông (tăng 2,99%) và nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng (tăng 0,55%), nhóm thực phẩm (tăng 0,36%) và nhóm giải trí, du lịch (tăng 0,18%); (ii) Giá dầu hồi phục và sự điều chỉnh giá xăng dầu trước đó. Tính chung cả 6 tháng đầu năm, CPI bình quân tăng 1,72% so với cùng kỳ 2015, cao hơn so với mức tăng 1% của cùng kỳ năm ngoái do chính sách điều chỉnh tăng giá các dịch vụ y tế nên nhóm dịch vụ y tế tăng mạnh (34,02%), dịch vụ giáo dục (2,61%), các nhóm mặt hàng lương thực, nhà ở và vật liệu xây dựng tăng nhẹ, tương ứng mức 2,94% và 2,03%; và (iii) Độ trễ của tăng tín dụng của năm 2015 (17,2%).

Biểu đồ 3: Biến động CPI Q1/2013-Q2/2016 Biểu đồ 4: Biểu đồ CPI tháng 6 các năm 2013-2016

Nguồn: TCTK, BIDV tổng hợp

(3) Xuất, nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng khá: Tính chung 6 tháng đầu năm, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 82,24 tỷ USD, tăng 5,9% so với cùng kỳ 2015 và đạt 46,5% kế hoạch năm 2016. Đa số các mặt hàng xuất khẩu đều tăng so với cùng kỳ năm 2015 trong đó xuất khẩu dệt may - giày dép và điện thoại - linh kiện tiếp tục giữ vai trò chủ đạo. Nhập khẩu trong 6 tháng đầu năm ước đạt 80,7 tỷ USD, giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản phẩm điện tử và linh kiện tăng nhẹ 2,6%, điện thoại và linh kiện giảm 7,3%, sắt thép các loại tăng 0,7%.

Page 7: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

Nhập khẩu giảm nhẹ một phần do giá cả hàng hóa thế giới giảm. Như vậy, cán cân thương mại 6 tháng năm 2016 xuất siêu ~1,54 tỷ USD, trong đó các DN có vốn FDI thặng dư 11,2 tỷ USD và các DN trong nước thâm hụt 9,7 tỷ USD.

Biểu đồ 5: Xuất, nhập khẩu 6T 2011-2016(ty USD)

Biểu đồ 6: Thu hút FDI 6T 2011-2016 (ty USD)

Nguồn:Bloomberg, TTNC tổng hợp

(4) Vốn FDI giải ngân tiếp tục tăng ổn định Thu hút vốn FDI tăng trưởng khả quan, tổng vốn đăng ký 6 tháng đầu năm

2016 lên 11,28 tỷ USD, tăng 105,4% so với cùng kỳ năm 2015. Trong khi đó FDI thực hiện trong 6 tháng 2016 lên mức 7,3 tỷ USD, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước. Về cơ cấu ngành, lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo vẫn chiếm tỷ trọng thu hút FDI cao nhất (chiếm hơn 71,5%), tiếp sau là lĩnh vực kinh doanh bất động sản và lĩnh vực nghệ thuật và vui chơi giải trí. Về cơ cấu nhà đầu tư, Hàn Quốc vẫn dẫn đầu về tổng vốn đăng ký, tiếp theo là Singapore và Đài Loan.

(5) Tín dụng tăng trưởng khả quan và thấp hơn tăng trưởng huy động vốn, lãi suất có xu hướng giảm, thanh khoản ổn định; tỷ giá và thị trường ngoại hối diển biến ổn định trở lại so với cuối năm 2015; thị trường chứng khoán diễn biến tích cực.

Theo NHNN, tính đến hết tháng 5/2016, tín dụng của toàn hệ thống đạt gần 4,9 triệu tỷ đồng, tương đương với mức tăng gần 5,5% so với cuối năm 2015, trong đó tăng trưởng tín dụng bằng VND tăng 6,75%. Huy động vốn toàn hệ thống có mức tăng cao hơn tăng trưởng tín dụng và đạt hơn 7% với tổng vốn huy động tính đến hết tháng 5/2016 đạt hơn 5,5 triệu tỷ đồng. Lãi suất huy động có xu hướng giảm nhẹ (0,1-0,2%) sau 2 đợt điều chỉnh tăng lãi suất huy động (0,2-0,4%) của các ngân hàng trong tháng 2 (thời điểm trước Tết âm lịch) và nửa cuối tháng 3 đầu tháng 4/2016. Lãi suất cho vay ổn định, nhiều ngân hàng đã chủ động tiết giảm chi phí hoạt động để hạ mặt bằng lãi suất cho vay với mức giảm 0,5-1,0%/năm nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp theo lời kêu gọi của Thống đốc NHNN tại Hội nghị đối thoại của TTCP với các doanh nghiệp ngày 29/4/2016.

Thị trường ngoại hối 6 tháng đầu năm tương đối ổn định với việc áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm theo ngày, cùng với những biện pháp can thiệp thị trường từ

Page 8: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

cuối 2015 đã phát huy hiệu quả, trong điều kiện gia tăng tốc độ giải ngân vốn FDI và kết quả khả quan của hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá đã giảm từ mức khoảng 22.500 cuối năm 2015 về quanh mức 22.360, sau khi tăng lên mức 22.480 từ nửa đầu tháng 6/2016 trong điều kiện thuận lợi khi FED chưa nâng lãi suất trong tháng 6 do kinh tế Mỹ chưa ổn định như kỳ vọng và lo ngại tác động tiêu cực của Brexit, và tác động của các biện pháp chống đô la hóa của NHNN.

Mặc dù khởi đầu năm 2016 không thuận lợi nhưng về tổng thể TTCK Việt Nam đã có một giai đoạn khởi sắc. Cụ thể, sau khi chứng kiến sự giảm điểm khá mạnh trong tháng 1/2016 bởi các thông tin tiêu cực về kinh tế, tài chính thế giới như những bất ổn tại Trung Đông, giá dầu sụt giảm, TTCK Trung Quốc giảm điểm do những vấn đề nôi tại của nền kinh tế cũng như của chính TTCK Trung Quốc, TTCK Việt Nam đã hồi phục từ cuối tháng 1/2016 và diễn biến khá tích cực trong tháng 2 cũng như nửa đầu tháng 03/2016, giúp chỉ số VN-Index chạm đỉnh vào ngày 17/3 tại 579,3 điểm (mức cao nhất kể từ đầu năm 2016). Thị trường chứng khoán Việt Nam tiếp tục diễn biến khá tích cực trong nửa đầu tháng 4/2016 do kết quả kinh doanh đã bắt đầu được công bố thông qua các cuộc họp đại hội cổ đông thường niên. Bên cạnh đó, giá dầu cũng là tâm điểm theo dõi trong tháng 4 khi cổ phiếu ngành dầu khí đang có sự chi phối tương đối lớn đến thị trường chứng khoán. Trái ngược với dự đoán TTCK Việt Nam sẽ diễn biến không tích cực trong tháng 5 và tháng 6 do đây là giai đoạn khoảng trống thông tin xuất hiện (hầu hết các tin tức vĩ mô quan trọng đều được công bố vào quý 1 và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp chủ yếu rơi vào tháng 4), TTCK Việt Nam lại cho thấy sự xu hướng tăng điểm trong 2 tháng này.

(6) NHNN ban hành các cơ chế chính sách hỗ trợ hoạt động các NHTM, qua đó tác động tích cực đến khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp.

NHNN đã ban hành 03 Thông tư (Thông tư 06, 07 và 08) đáng chú ý thời gian qua. Trong đó, thông tư 06 đã thay đổi hệ số rủi ro đối với khoản phải đòi kinh doanh BĐS, thay đổi tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn… theo hướng chặt chẽ hơn quy định tại thông tư 36 nhằm mục tiêu đảm bảo an toàn hoạt động và nâng cao dự phòng rủi ro cho toàn hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, Thông tư số 07/2016/TT-NHNN cho phép vay ngoại tệ trở lại với một nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu, sau khi việc cho vay này đã bị ngưng từ ngày 01/04/2016, và các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động ngoại hối cho khách hàng là người cư trú vay vốn ngắn hạn bằng ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu vốn ở trong nước nhằm thực hiện phương án sản xuất, kinh doanh hàng hóa xuất khẩu qua cửa khẩu biên giới Việt Nam mà khách hàng vay có đủ ngoại tệ từ nguồn thu xuất khẩu để trả nợ vay. Việc mở lại cơ chế trên theo NHNN là nhằm tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí vốn trong điều kiện

Page 9: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn. Thông tư 08 gia hạn thời hạn của trái phiếu đặc biệt (TPĐB) từ 5 năm lên tối đa không quá 10 năm cho các TCTD đang thực hiện phương án cơ cấu lại, gặp khó khăn về tài chính mà việc trích lập DPRR cho trái phiếu đặc biệt của VAMC dẫn đến chênh lệch thu chi trước thuế dự kiến của năm đề nghị gia hạn thời hạn TPĐB bị “âm”, với điều kiện các TCTD được NHNN chấp thuận việc gia hạn thời hạn TPĐB không được chia cổ tức để tạo nguồn thu xử lý nợ xấu cho đến khi TPĐB đã gia hạn được thanh toán.

II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÁNG LƯU Ý ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ:1. Chất lượng tăng trưởng thấp, quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng

theo chiều sâu còn nhiều hạn chế khi năng suất lao động chậm được cải thiện, tái cơ cấu nền kinh tế chuyển biến chưa rõ nét

Mặc dù năng suất lao động người Việt đã có sự cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều, bình quân giai đoạn 2006-2015 tăng 3,9% mỗi năm. So với năm 2010, năng suất lao động đã tăng 23,6%, song vẫn thấp hơn so với mục tiêu đề ra là 29-32% và chưa đủ bù đắp khoảng cách về năng suất với các quốc gia khác trong khu vực. Theo tính toán của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thì năng suất lao động của người Việt Nam hiện đang ở mức thấp so với các nước ASEAN–6 (các nước phát triển hơn trong ASEAN) và mức cuối bảng so với các nước Châu Á – Thái Bình Dương. Năng suất lao động Việt Nam bằng 1/5 lao động Malaysia, 2/5 Thái Lan và 1/15 Singapore. Một số nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do: (i) Cơ cấu kinh tế chậm chuyển dịch, lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao (46,3% lao động trong toàn nền kinh tế) trong khi năng suất ngành này lại thấp ; (ii) Máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ của Việt Nam còn lạc hậu, chất lượng, cơ cấu và hiệu quả sử dụng lao động chưa đáp ứng yêu cầu: (iii) Xét về yếu tố con người: lĩnh vực giáo dục và đào tạo của Việt Nam chưa chú trọng yếu tố thực hành thực tế, việc dạy và đào tạo tại các trường dạy nghề chưa theo sát trình độ phát triển của các nước tiên tiến trong khu vực; nền tảng văn hoá của người Việt Nam xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, ý thức của người lao động chưa mang tính công nghiệp hoá; bên cạnh đó, mức thu nhập bình quân của các hộ gia đình còn thấp dẫn đến đầu tư cho con người còn hạn chế cả về thể chất và tinh thần.

Trong khi đó, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế mặc dù đã đem lại nhiều kết quả tích cực trong giai đoạn 2011-2015 nhưng vẫn chưa đạt kỳ vọng đặt ra. Quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước diễn ra chậm chạp dẫn đến số lượng DNNN tại Việt Nam hiện vẫn còn quá lớn với hơn 3.100 DN Nhà nước sở hữu trên 50% vốn, 796 DN do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Đây là một con số rất cao nếu so với số lượng DNNN tại các quốc gia phát triển có nền kinh tế thị trường đầy đủ

Page 10: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

như Australia có 17 DNNN, Pháp có 51 DNNN, Đức có 59 DNNN, Hàn Quốc, Anh chỉ có 21 DNNN… Hiệu quả hoạt động của khối DNNN vẫn còn hạn chế, chỉ tạo ra việc làm cho 1,4 triệu/11,8 triệu lao động đang làm việc trong các DN, trong khi DN FDI lại đang sử dụng gần 3,4 triệu lao động và DN tư nhân sử dụng hơn 7 triệu lao động…

Tái cơ cấu đầu tư công mới chỉ dừng lại ở siết chặt kỷ luật đầu tư công chứ chưa tập trung vào các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư, tránh lãng phí đầu tư. Luật Đấu thầu (2013) và Nghị định số 15/2015/NĐ-CP, ngày 14/02/2015 về đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng để có thể áp dụng nguyên tắc thị trường trong phân bổ vốn đầu tư công, nhưng cho đến nay vẫn chưa đi vào cuộc sống do còn thiếu các văn bản hướng dẫn. Các bộ, ngành, địa phương vẫn chưa xây dựng được hệ thống tiêu chí thống nhất để phân bổ, giám sát, đánh giá nguồn vốn đầu tư công. Mặt khác, dù đã có những văn bản pháp luật quy định chặt chẽ, nhưng tại nhiều địa phương vẫn xảy ra sai phạm và không thực hiện nghiêm các chỉ thị, quy trình quản lý đầu tư công. Vấn đề tái cơ cấu vùng, ngành chưa có dấu hiệu chuyển biến, hiện mới chỉ có Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp nhưng những vấn đề như thị trường phân phối, thị trường đầu vào của ngành Nông nghiệp chưa có giải pháp cụ thể. Chiến lược phối hợp các ngành tạo dựng các cụm liên kết ngành là công cụ cạnh tranh quan trọng trong thời kỳ toàn cầu hóa chưa được đề cập tới.

Về tái cơ cấu các TCTD, Đề án 254 về tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã được triển khai rất tích cực và góp phần thiết lập lại trật tự thị trường tạo nền tảng ổn định cho hoạt động ngành; tái cơ cấu thành công hệ thống các TCTD giúp gia tăng tính lành mạnh hoạt động của hệ thống tạo nền tảng cho phát triển giai đoạn tới. Tuy nhiên, hoạt động quản trị rủi ro, điều hành, kiểm toán, kiểm soát nội bộ tại một số TCTD còn lỏng lẻo. Tình trạng tập trung vốn tín dụng vào một số ngành và khách hàng (đầu tư trái phiếu doanh nghiệp tiềm ẩn rủi ro hoặc cho vay nhiều đối với các dự án BOT), cho vay trung dài hạn chưa phù hợp với cơ cấu kỳ hạn nguồn vốn. Tình hình thoái vốn đầu tư của tổ chức tín dụng vào những ngành, lĩnh vực phi tài chính hoặc lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro và tình hình thoái vốn của Tập đoàn, TCT nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng vẫn còn chậm. Các NHTM khi xây dựng đề án tái cơ cấu đã lên phương án thoái vốn vào những lĩnh vực phi tài chính và lĩnh vực đầu tư nhiều rủi ro, tuy nhiên, tình hình thực hiện còn chậm, kết quả đạt được chưa cao.

Ngoài ra, đối với khối NHTMNN với vai trò chủ đạo trong hệ thống NHTM, bên cạnh vai trò cung cấp tín dụng, dịch vụ cho nền kinh tế, còn là công cụ điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh giá trị tuyệt đối tổng tài sản và vốn thấp, hệ số an toàn vốn (CAR) của khối NHTMNN hiện nay bị suy giảm nghiêm trọng, với CAR của khối hiện nay ở mức 9,21% - gần chạm ngưỡng

Page 11: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

tối thiểu 9% theo quy định của NHNN, thấp hơn mức bình quân của ASEAN là 10,3% trong khi tiêu chuẩn tính CAR của Việt Nam thấp hơn các nước. Tuy nhiên các NHTMNN đang trong tình trạng nan giải khi thực hiện các giải pháp tăng vốn nhằm đảm bảo năng lực tài chính, khi nguồn cổ tức hàng năm – thường được dùng để tăng vốn theo thông lệ, phải chuyển trả về ngân sách nhà nước; giải pháp tăng vốn từ phát hành thêm cổ phần cho nhà đầu tư hiện hữu, thu hút thêm nhà đầu tư và lựa chọn nhà đầu tư chiến lược nước ngoài hiện đang rất khó khăn để thực hiện. Các giải pháp khác như tăng vốn từ NSNN, tăng khả năng sinh lời và thực hiện điều chỉnh cơ cấu bảng tổng kết tài sản giúp giảm TSCRR, tiết kiệm chi phí quản lý, mở rộng các nguồn thu ngoài lãi… hiện đều khó thực hiện hoặc chỉ bù đắp được một phần nhỏ nhu cầu tăng vốn.

Kết quả tái cơ cấu nền kinh tế còn hạn chế, năng suất lao động chậm cải thiện là nguyên nhân chính kìm hãm năng lực cạnh tranh và đà tăng trưởng của nền kinh tế. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị nới rộng khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới trong cuộc đua phát triển kinh tế và xu hướng hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ nếu như nhược điểm về chất lượng tăng trưởng thấp không được khắc phục. Đại hội XI của Đảng đã xác định: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu dựa theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả” cũng như đề ra mục tiêu đến năm 2020 đóng góp của TFP vào tăng trưởng kinh tế là 35%. Để chuyển sang mô hình tăng trưởng mới, đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao tỷ lệ đóng góp của yếu tố TFP vào tăng trưởng GDP. Dựa vào tiềm năng trong nước và khả năng mở rộng hợp tác khoa học - công nghệ với các nước trong bối cảnh hội nhập, Việt Nam Nam có thể nâng tỷ lệ đóng góp của TFP lên tới 40% vào năm 2020 (là mức gần ngang bằng với các nước Indonesia, Malaysia, Thailand,… hiện nay). Trên cơ sở mô hình tăng trưởng này, các lĩnh vực tái cơ cấu DNNN, đầu tư công, TCTD, ngành (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) và vùng miền vẫn cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa trong giai đoạn 2016-2020.

2. Thâm hụt ngân sách và nợ công tuy vẫn ở trong ngưỡng cho phép nhưng liên tục tăng và đang ở mức đáng lo ngại

Tổng thu ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2016 ước tính đạt 425,6 nghìn tỷ đồng, bằng 42% dự toán năm, trong đó thu nội địa đạt 343,8 nghìn tỷ đồng, bằng 43,8%; thu từ dầu thô 17,7 nghìn tỷ đồng, bằng 32,5%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu 63,0 nghìn tỷ đồng, bằng 36,6%. Thu từ dầu thô và thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu 6 tháng đầu năm đạt thấp chủ yếu do giá dầu thô, sản phẩm hóa dầu xuất khẩu giảm mạnh và tác động của việc tham gia các hiệp định thương mại tự do.

Page 12: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

Tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/6/2016 ước tính đạt 508,5 nghìn tỷ đồng, bằng 39,9% dự toán năm, trong đó chi đầu tư phát triển đạt 74,5 nghìn tỷ đồng, bằng 29,2%; chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể đạt 363,4 nghìn tỷ đồng, bằng 44,1%; chi trả nợ và viện trợ đạt 68 nghìn tỷ đồng, bằng 43,8%. Như vậy, bội chi NSNN 6 tháng đầu năm 2016 ước 82,9 nghìn tỷ đồng, bằng 32,6% dự toán năm, chiếm 4,4% GDP 6 tháng đầu năm.

Về tình hình nợ công, theo báo cáo của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), bội chi NSNN tăng từ mức 65,8 nghìn tỷ đồng năm 2011 lên mức 263,2 nghìn tỷ đồng năm 2015. Theo đó, bội chi đã tăng từ mức 4,4% GDP năm 2011 lên mức 6,1% GDP năm 2015, cao hơn giới hạn 5% theo quy định của Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030. Do bội chi tăng cao, nợ công cũng tăng nhanh trong giai đoạn 2011-2015, từ mức 50,1% GDP lên 62,2% GDP, tiệm cận giới hạn 65% theo quy định của Luật Quản lý nợ công. Năm 2015 cũng là năm dư nợ Chính phủ đạt 50,3%, cao hơn giới hạn 50% theo quy định. So với các nước trong khu vực, theo IMF, Việt Nam có mức nợ công/GDP cao hơn hẳn các nước trong ASEAN, gấp đôi nhiều nước và gấp rưỡi Thái Lan, nước có mức nợ công/GDP đứng sau Việt Nam. Cùng với đó là  tốc độ tăng nghĩa vụ nợ rất nhanh, tỷ lệ nghĩa vụ nợ trên thu ngân sách cũng tăng nhanh. Nếu chỉ tính riêng nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ, tỷ lệ này là 22,4% năm 2013, tăng lên mức 29,9% năm 2015. Báo cáo của HSBC tháng 5/2016 dự báo tỷ lệ nợ công năm 2016 đạt 64,5% GDP, tiệm cận ngưỡng giới hạn Quốc hội đề ra 65%. Theo HSBC, tỷ lệ nợ công cao trong bối cảnh tình trạng tài chính công căng thẳng sẽ tăng rủi ro tài chính trong tương lai. Theo thông cáo báo chí số 16/183 của IMF ngày 22/4/2016 về tham vấn Điều IV 2016 với Việt Nam, rủi ro đối với triển vọng kinh tế xuất phát từ hạn hán, tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm hơn và tác động lan tỏa từ biến động thị trường tài chính toàn cầu. Nợ công tăng nhanh của Việt Nam là một mối quan ngại. Điều đó làm giảm dư địa tài khóa cho điều chỉnh và có thể gây áp lực lên lai suất trong nước, điều này có thể ảnh hưởng bất lợi đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp và ngân hàng, tạo ra những rủi ro và thách thức trong trung và dài hạn.

3. Xử lý nợ xấu chưa được giải quyết triệt để, trong khi thị trường mua bán nợ vẫn chưa được khai thông.

Theo số liệu công bố chính thức, đến cuối năm 2015 tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống là 2,55% tương đương khoảng 132.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, con số này chưa phản ánh chính xác chất lượng tài sản tín dụng trong hệ thống các TCTD Việt Nam hiện nay do các yếu tố: (i) số nợ xấu giảm chủ yếu đạt được nhờ xử lý thông qua VAMC (tổng số nợ VAMC đã mua khoảng 245.000 tỷ đồng), nhưng thực chất chỉ

Page 13: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

là việc chuyển hạch toán tài chính không phải là phương pháp xử lý nợ; (ii) trong tiêu chuẩn về nợ xấu của Việt Nam không tính nợ nhóm 1 và 2 nhưng có nhiều khoản nợ trong số này về thực chất đã trở thành nợ xấu, như một số khoản nợ được cơ cấu lại theo Quyết định 780 trước đây (tổng số nợ tái cơ cấu giữ nguyên nhóm nợ khoảng 158.000 tỷ đồng). Để phản ánh chính xác chất lượng tài sản tín dụng của hệ thống TCTD Việt nam hiện nay, khái niệm “nợ có vấn đề” cần được sử dụng thay thế cho “nợ xấu” và theo ước tính của IMF số nợ có vấn đề của Việt Nam hiện nay là hơn 12%. Theo VAMC, tính đến 30/4/2016, VAMC đã mua được 24.560 khoản nợ tại 41 TCTD, với tổng dư nợ gốc gần 245 nghìn tỉ đồng. Việc chưa giải quyết dứt điểm nợ xấu có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, gây áp lực đến lãi suất cho vay và tạo rủi ro thanh khoản cho hệ thống ngân hàng cũng như toàn nền kinh tế.

Ngoài ra sự liên quan mật thiết giữa nợ xấu của TCTD với nợ đọng XDCB và nợ lẫn nhau của hệ thống doanh nghiệp khiến nợ xấu vẫn đang là vấn đề nổi cộm ảnh hưởng đến khả năng tăng trưởng tín dụng lành mạnh của nền kinh tế đòi hỏi cần phải tập trung giải quyết kịp thời, sát sao hơn nữa trong thời gian tới.

4. Cải cách thể chế và cải thiện môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập: 4.1 Hiệu quả cải cách thể chế:Năm 2015 là năm được đánh giá là năm có nhiều thay đổi với về thể chế

chính sách và  đặc biệt là những cải cách đổi mới của các thể chế liên quan đến các hoạt động kinh tế. Từ ngày 1/7/2015 có 12 luật có liên quan tới lĩnh vực kinh tế có hiệu lực thi hành, trong đó đáng chú ý là Luật Nhà ở; Luật Kinh doanh bất động sản; Luật Doanh nghiệp; Luật Đầu tư; Luật đầu tư công... Sau 1 năm thực thi có hiệu lực, với nhiều sửa đổi, bổ sung mang tính đột phá, các văn bản luật trên có những tác động tích cực tới lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, sau thời gian triển khai thi hành đã phát sinh một số vướng mắc, hạn chế làm giảm hiệu quả và hiệu lực của các hệ thống luật. Cụ thể là:

- Sự cồng kềnh về hệ thống văn bản pháp luật: Hiện nay, các Luật, pháp lệnh, nghị định thường có nội dụng giao cơ quan cấp dưới hướng dẫn thực hiện một số nội dung. Do vậy, sau khi ban hành và có hiệu lực các Luật, Pháp lệnh, Nghị định cần chờ có văn bản hướng dẫn chi tiết mới có thể đi vào đời sống thực tiễn. Việc đồng thời tồn tại văn bản của nhiều cấp cùng quy định về một lĩnh vực gây ra sự cồng kềnh, đôi khi là chồng chéo, mâu thuẫn trong nội tại của hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam, gây khó khăn trong việc áp dụng. Trong một số trường hợp, các cơ quan được giao hướng dẫn luật/nghị định, lại quy định thêm các điều kiện, thủ tục cụ thể dẫn đến việc có thể làm giảm tính hiệu lực, hiệu quả của các luật.

- Điều kiện kinh doanh còn chưa được áp dụng thống nhất: Luật Đầu tư 2014 đã quy định các nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng khi Luật Đầu tư và các luật chuyên

Page 14: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

ngành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc này vẫn chưa được thực hiện triệt để, đồng bộ. Các địa phương vẫn còn những quy định về điều kiện kinh doanh cục bộ, hoặc có những cách giải thích chưa thống nhất về các quy định của Luật Đầu tư 2014. Điều này đã gây ra nhiều khó khăn, cản trở cho nhà đầu tư trong việc thực hiện đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

- Chậm ban hành văn bản hướng dẫn: Theo thông tin từ Bộ Tư pháp, hiện còn tới 86 văn bản (Nghị định, Quyết định của Chính phủ, Thủ tướng) cần ban hành trước 01/7/2016. Trong đó có 49 Nghị định hướng dẫn về điều kiện kinh doanh theo Luật đầu tư.Theo thông tin được biết, tính đến ngày 20/6/2016, các Bộ, ngành đã đề xuất xây dựng 50 Nghị định quy định về điều kiện đầu tư kinh doanh, trong đó: 49 Nghị định cần ban hành theo Luật Đầu tư; 01 Nghị định quy định chi tiết về điều kiện đầu tư kinh doanh theo quy định Luật an toàn thông tin mạng. Thực tế hiện nay, Bộ Tư pháp đã và đang rất gấp rút thẩm định các dự thảo Nghị định, tuy nhiên theo như Vụ trưởng Vụ pháp luật Dân sự Kinh tế thì khối lượng công việc là rất lớn trong khi các cơ quan chịu trách nhiệm rà soát, soạn thảo Nghị định làm việc kiểu nước đến chân mới nhảy, vẫn còn tình trạng nhiều Bộ ngành lồng ghép các yếu tố lợi ích vào Nghị định, gây khó khăn cho quá trình thẩm định văn bản.

4.2 Cải thiện môi trường kinh doanhSự ra đời của Nghị quyết 35/NQ-CP, Nghị quyết 19/2016/NQ-CP sau khi

Chính phủ mới được kiện toàn khẳng định quyết tâm cao của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, hỗ trợ và phát triển DN. Sau 3 năm triển khai Nghị quyết 19 và các giải pháp hỗ trợ Doanh nghiệp, Việt Nam đã có sự cải thiện về môi trường kinh doanh: Việt Nam đã cải thiện 6 bậc về chỉ tiêu khởi sự kinh doanh; thời gian tiếp cận điện năng giảm được 56 ngày, cải thiện 27 bậc; nộp thuế và Bảo hiểm xã hội giảm 102 giờ, tăng 4 bậc; … Tuy nhiên, DN Việt Nam vẫn còn đối diện với những thách thức. Theo Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016 của World Bank đã chỉ ra 5 nhóm vấn đề được coi là trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam, gồm: Tiếp cận tài chính, chính sách không ổn định,  lao động qua đào tạo không đủ, kỷ luật lao động kém và tham nhũng. Bên cạnh đó, Báo cáo của VCCI năm 2016 chỉ ra sự cải thiện năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong giai đoạn 2006-2015 cho thấy các lĩnh vực không được cải thiện hoặc có chiều hướng đi xuống, đó là: chi phí không chính thức, tính năng động của chính quyền, tiếp cận đất đai  và cạnh tranh bình đẳng. Những khó khăn trên đặt ra yêu cầu rất lớn trong thực thi Nghị quyết 35 và nghị quyết 19 của Chính phủ trong thời gian tới.  

Với những cam kết mạnh mẽ và sự chủ động của Chính phủ và các Bộ ngành trong bảo vệ môi trường an toàn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của DN, không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự, giảm chi phí kinh doanh cho DN, năm 2016 sẽ là năm đột phá của DN, trong đó “khu vực tư nhân, các DN khởi nghiệp và

Page 15: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

hoạt động đổi mới sáng tạo” sẽ là 3 động lực chính tạo nên sự bứt phá trong hoạt động của toàn hệ thống DN Việt Nam, góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng tăng trưởng. Tuy nhiên, để đưa chính sách vào cuộc sống, khâu thực thi và đôn đốc, giám sát thực thi, cưỡng chế, chế tài và đánh giá hiệu quả chính sách để có điều chỉnh kịp thời và phù hợp hiện nay càng quan trọng hơn bao giờ hết.

5. Bất ổn của tình hình kinh tế thế giới:Trong 6 tháng vừa qua, Thế giới chứng kiến sự biến động ngoạn mục của giá

dầu. Việt Nam là một nước xuất khẩu dầu và nhập khẩu xăng nên cũng chịu ảnh hưởng của biến động này. Giá dầu mặc dù giảm mạnh trong 2 tháng đầu năm (giá dầu Brent có lúc giảm xuống dưới 30 USD/thùng) nhưng đã phục hồi mạnh mẽ từ tháng 3/2016 (hiện xoay quanh mức 48 USD/thùng). Giá dầu biến động bên cạnh ảnh hưởng tới lạm phát, còn tác động trực tiếp đến thu NS và tăng trưởng GDP của Việt Nam.

Bên cạnh đó, kết quả cuộc trưng cầu dân ý Brexit ngày 24/6/2016 với việc Anh rời EU cũng là một sự kiện có tầm ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu. Triển vọng tăng trưởng thấp của Anh và phần còn lại của EU các quốc gia đóng góp 23% GDP toàn cầu - sẽ có tác động trực tiếp tới hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư và tài chính-tiền tệ của các quốc gia có quan hệ kinh tế, trong đó có nhiều đối tác quan trọng của Việt Nam cũng như bản thân nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn, thị trường vàng, tỷ giá và thị trường chứng khoán sẽ bị ảnh hưởng ngay lập tức và theo hướng tiêu cực. Về trung và dài hạn, trên cơ sở quan hệ kinh tế Việt – Anh và Việt-EU, Brexit sẽ có những ảnh hưởng đáng kể đến Việt Nam (nhất là trên thị trường chứng khoán, vàng, ngoại tệ và trong các lĩnh vực thương mại, đầu tư, du lịch, tài chính-ngân hàng). Đồng thời, tiến trình ký kết và có hiệu lực của Hiệp định FTA giữa Việt Nam-EU có thể bị chậm lại do Anh và EU tập trung giải quyết những vấn đề sau Brexit và Việt Nam cần đàm phán thêm với Anh về 1 hiệp định riêng…v.v.

Như vậy, 6 tháng đầu năm, ngoài những khó khăn nội tại vốn có của nền kinh tế, kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ của thiên tai, hạn hán, ngập mặn và biến đổi khí hậu; biến động tình hình kinh tế thế giới đặc biệt sau sự kiện Brexit. Vấn đề đặt ra Chính phủ cần theo dõi sát sao và chủ động đề ra các kịch bản ứng phó phù hợp trong thời gian tới.

III. DỰ BÁO TRIỂN VỌNG KINH TẾ NĂM 2016 Trong 6 tháng đầu năm, các tổ chức quốc tế như IMF, WB, OECD đều hạ dự

báo tăng trưởng KTTG năm 2016 về mức thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Trong tháng 4/2016, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đã tiếp tục hạ dự báo tăng trưởng KTTG năm 2016 xuống mức 3,2% (cao hơn mức 3,1% năm 2015 nhưng thấp hơn

Page 16: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

dự báo 3,4% hồi tháng 1/2016),WB tháng 6/2016 đã hạ mức dự báo tăng trưởng toàn cầu xuống mức 2,4% (thấp hơn so với mức 2,9% đưa ra hồi tháng 1/2016) do tốc độ tăng trưởng chậm tại các nền kinh tế phát triển, giá hàng hóa nguyên liệu vẫn giữ ở mức thấp, thương mại toàn cầu yếu và dòng vốn đầu tư suy giảm, sự kiện Brexit cũng là nhân tố tác động tiêu cực đến kinh tế toàn cầu. Sau sự kiện Brexit, khả năng các tổ chức này còn đưa ra mức dự báo KTTG tăng trưởng ở mức thấp hơn (Deutsche Bank dự báo kinh tế Anh sẽ giảm 0,3% năm 2016 và 1,2% năm 2017, trong khi kinh tế EU sẽ giảm 0,1% năm 2016 và 0,4% năm 2017). Căn cứ trên bối cảnh kinh tế quốc tế, thực trạng của nền kinh tế 6 tháng đầu năm và các giải pháp điều hành của Chính phủ, TTNC dự báo triển vọng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm 2016 như sau:

- Về tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng các quý tới sẽ tiếp tục khởi sắc do: (i) Các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho SXKD, hỗ trợ thị trường tiếp tục được đẩy mạnh, nhờ đó sức cầu hồi phục mạnh hơn; (ii) Xuất nhập khẩu tiếp tục giữ đà tăng trưởng khá khi các doanh nghiệp FDI dệt may- giày dép, điện tử- linh kiện nhận được đơn hàng ổn định; (iv) Thu hút FDI tăng trưởng tích cực và giải ngân FDI vẫn duy trì khả quan; (iv) Yếu tố chu kỳ hàng năm GDP quý 3, 4 có xu hướng tăng cao hơn do các DN đẩy mạnh sản xuất. Tuy nhiên để đạt mức tăng trưởng 6,7% theo kế hoạch của Quốc hội, GDP quý III phải đạt 7,2 và quý IV phải đạt 8,1%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quý III và quý IV năm 2015 (6,87% và 7,01%). Trong bối cảnh thâm hụt ngân sách hiện nay, việc theo đuổi mục tiêu trên khiến Việt Nam có khả năng phải đánh đổi sự ổn định, bền vững trong trung và dài hạn. Dự báo tăng trưởng GDP cả năm 2016 trong khoảng 6,3-6,5%.

- Về lạm phát, trong điều kiện cung tiền vẫn có xu hướng tăng khá, tín dụng tăng trưởng tích cực và khả năng mức tăng của nhóm lương thực, thực phẩm có thể cao hơn trong các tháng cuối năm khi xuất khẩu lương thực có những diễn biến tích cực việc điều chỉnh giá dịch vụ y tế, giáo dục được áp dụng, cùng với việc giá dầu có xu hướng tăng nhẹ trở lại (trên 50 USD), CPI cả năm 2016 dự kiến tăng ở mức 4,5-5% so với năm 2014.

- Về xuất khẩu, trên cơ sở hiệp định song phương với Hàn Quốc, hiệp định liên minh kinh tế Á-Âu, khối AEC đã có hiệu lực và triển vọng TPP, FTA Việt Nam – EU có hiệu lực, dự báo năm 2016 xuất khẩu của Việt Nam dự kiến đạt 180-185 tỷ USD, nhập khẩu dự kiến 176-181 tỷ USD, như vậy đạt thặng dự cán cân thương mại khoảng 4 tỷ USD.

- Về FDI, kỳ vọng từ FTAs nêu trên và những kết quả tích cực trong việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia trong khi vĩ mô ổn định, dự kiến FDI đăng ký đến cuối năm ước đạt 24,5-25 tỷ USD và FDI giải ngân ước đạt 14,8-15 tỷ USD.

Page 17: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

- Tín dụng được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng khả quan từ nay đến cuối năm và có thể đạt mức 16-18%, do (i) các cơ chế, chính sách (NQ35, NQ19, Thông tư 06, 07) bắt đầu đi vào cuộc sống, (ii) tính chu kỳ tín dụng tăng mạnh vào quý 3 và 4. Tuy nhiên, trong điều kiện các NHTMNN đang gặp vấn đề suy giảm CAR, nếu các NHTMNN không được tăng vốn sẽ hạn chế khả năng tăng trưởng tín dụng và có ảnh hưởng đáng kể tới tăng trưởng tín dụng chung toàn hệ thống (do khối NHTMNN hiện chiếm 50% dư nợ tín dụng toàn ngành). Theo tính toán nếu các NHTMNN không được tăng vốn trong năm 2016 (trong điều kiện khối NHTMCP tăng trưởng bình thường) thì tăng trưởng tín dụng năm 2016 chỉ ở mức 12 – 13% (giảm 5-7% so với dự kiến), từ đó ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng GDP.

- Về tỷ giá, thị trường ngoại hối được dự báo sẽ có một số biến động theo mùa vụ và áp lực từ tăng trưởng kinh tế kéo theo nhập khẩu gia tăng. Sự kiện Brexit có thể sẽ khiến FED chưa tăng lãi suất trong năm nay, nhưng cũng sẽ có tác động đến tỷ giá (do đồng GBP, EUR và CNY dự tính yếu đi trong khi USD và JPY mạnh lên), NHNN có thể thực hiện tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1,5-2,5% và tỷ giá USD/VND dự báo dao động trong biên độ 22.400-22.900. Đây cũng là mức hợp lý hỗ trợ thúc đẩy xuất khẩu song không tạo áp lực lớn đối với nợ nước ngoài và nhập khẩu.

- Về lãi suất, lãi suất huy động dự báo cũng sẽ khó có thể giảm (do kỳ vọng lạm phát ở mức khoảng 5%), và sẽ đi ngang do không bị ảnh hưởng nhiều vì lượng TPCP đến giữa tháng 6 đã phát hành được khoảng 75% chỉ tiêu 2016, nên nhu cầu VND trong thời gian tới bớt áp lực hơn; mặt khác, các chính sách gần đây (Thông tư 06 và 07) góp phần giảm áp lực tăng huy động vốn trung dài hạn. Đồng thời, với nhiều biện pháp như cắt giảm chi phí, tăng thời gian trích lập dự phòng rủi ro đến 10 năm đối với nơ xấu bán cho VAMC (Thông tư 08), lãi suất cho vay ít nhất sẽ được giữ ổn định.

IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊTrên cơ sở thực trạng phát triển kinh tế 6 tháng đầu năm 2016, nhằm tiếp tục

ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy đà tăng trưởng của nền kinh tế, Trung tâm nghiên cứu BIDV có một số đề xuất giải pháp cấp bách như sau:

1. Về tổng thể nền kinh tế: - Chính phủ giao Bộ KH-ĐT nghiên cứu, xây dựng cụ thể các kịch bản tăng

trưởng kinh tế năm 2016 phù hợp với tiềm năng của VN trong bối cảnh kinh tế Thế giới nhiều biến động.

- NHNN cần theo dõi sát sao, phân tích, đánh giá tác động của sự kiện Brexit và xây dựng kịch bản ứng phó phù hợp đối với biến động về tỷ giá, lãi suất. Phối

Page 18: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

hợp chặt chẽ với các bộ ngành tiếp tục thực hiện điều hành chính sách tiền tệ chủ động linh hoạt, chặt chẽ, duy trì mặt bằng lãi suất thị trường ở mức hợp lý, đồng thời bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát và đề phòng lạm phát quay trở lại, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.

- Bộ TC, Bộ Công thương phối hợp NHNN xây dựng kịch bản ứng phó đối với biến động thương mại XNK trong mối quan hệ Việt – Anh; Việt – EU cũng như các đối tác lớn có thể chịu tác động tiêu cực của Brexit.

- Về nâng cao năng suất lao động: (i) Bộ KH&ĐT đầu mối xây dựng Chiến lược tổng thể tăng năng suất lao động với mũi nhọn tập trung vào các DN lớn có tiềm lực tài chính và tri thức tiếp thu, phát triển công nghệ trên thế giới đồng thời tạo môi trường lan toả tri thức và công nghệ cho các DN nhỏ hơn trong nước; (ii) Thúc đẩy chuyển dịch lao động ra khỏi khu vực nông lâm thuỷ sản có năng suất thấp sang khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nhờ đó tăng năng suất lao động nói chung và tạo điều kiện áp dụng sản xuất ở quy mô lớn trong nông nghiệp để nâng cao hiệu quả trong ngành nông lâm thuỷ sản; (iii) Có chính sách tập trung vào mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng hệ thống đào tạo dạy nghề phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động, nhanh chóng khắc phục tình trạng phần lớn lao động chưa qua đào tạo.

- Về lâu dài, cần xác định rõ các nội dung, nguyên tắc cụ thể trong chuyển đổi mô hình từ chiều rộng sang chiều sâu, trên cơ sở đó có tổng kết, đánh giá quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế và ngành, lĩnh vực giai đoạn 2011- 2015 và tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-2020.

2. Về quản lý thâm hụt ngân sách và nợ công- Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành sớm hoàn thiện đề án nâng cao

hiệu quả quản lý NSNN và nợ công, theo hướng thực hiện chính sách tài khoá chủ động, chặt chẽ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính, ngân sách; kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước, phấn đấu giảm dần tỷ lệ bội chi NSNN, tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả vốn vay của Nhà nước; cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo hướng hiệu quả, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, an toàn nợ công; và huy động, thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế.

- Bộ Tài chính cần có chương trình cải cách tài chính, tập trung vào 3 vấn đề chính là mở rộng nguồn thu, chi tiêu công hiệu quả và điều chỉnh phương pháp kế toán phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế: (i) Để tăng nguồn thu, cần có các biện pháp hành chính nhằm hạn chế trốn thuế, công bố các trường hợp gian lận thuế và đơn giản hóa quá trình hoàn thuế VAT; (ii) Về chi tiêu công, lương cơ bản cần được điều chỉnh để tạo cơ hội cho đầu tư công và các biện pháp chi tiêu xã hội chính như là giáo dục; (iii) Điều chỉnh kế toán tài chính phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế sẽ tạo

Page 19: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

điều kiện dễ dàng so sánh xuyên quốc gia. Truyền thông tài chính được cải thiện, có thể giúp nâng cao nhận thức thị trường về nguy cơ và gia tăng trách nhiệm cùng khả năng quản lý.

- Bộ Tài chính đầu mối xây dựng, hoàn thiện trình Chính phủ phương án tái cơ cấu nợ công. Phương án này cần: (i) Khắc phục được những vấn đề phổ biến của tái cơ cấu nợ công hiện nay theo báo cáo của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD)2: sự rời rạc và thiếu sự phối hợp do khung pháp lý chưa hoàn thiện; quy mô tái cơ cấu hạn chế; và thời điểm áp dụng muộn (“too little too late”) do thiếu thông tin, những quan ngại về sự thay đổi và đổ vỡ mang tính hệ thống; (ii) Đồng thời, theo khuyến nghị của IMF (2007), trước khi áp dụng tái cơ cấu trên quy mô lớn, cần thực hiện đánh giá thực trạng tổng thể nhằm đưa ra được chiến lược toàn diện gồm: các bước, mục tiêu ưu tiên, những khó khăn, đặc biệt là rào cản về mặt kỹ thuật và năng lực. Theo đó, tiến hành áp dụng thí điểm nhằm có những điều chỉnh thích hợp trước khi áp dụng rộng.

3. Về xử lý nợ xấu- NHNN cần sớm  hoàn thiện nội dung dự thảo Nghị định về thị trường mua

bán nợ theo hướng gỡ bỏ tối đa các rào cản, tạo điều kiện thu hút các tổ chức, cá nhân có thể tham gia vào thị trường mua bán nợ.

- Cần có cơ chế đặc thù cho VAMC. Cụ thể: (i) có cơ chế riêng khi tiến hành các thủ tục pháp lý khi xử lý tài sản bảo đảm theo hướng nhanh gọn, thủ tục đơn giản; được hợp thức hóa các tài sản chưa rõ ràng về pháp lý để xử lý/chuyển nhượng, tạo thanh khoản; (ii) Được bán nợ, bán tài sản cho nước ngoài, các đơn vị, cá nhân không có chức năng mua-bán nợ; (iii) Bộ Tài chính nghiên cứu, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành quy định và hướng dẫn triển khai thực hiện việc miễn giảm các loại thuế liên quan đến việc xử lý, phát mại tài sản bảo đảm (ví dụ như thuế thu nhập của cá nhân hoặc doanh nghiệp khi chuyển nhượng tài sản bảo đảm là bất động sản), đặc biệt là các tài sản của các khoản nợ đã bán cho VAMC. Ngoài ra, NHNN cần tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa bổ sung QĐ 618/QĐ-NHNN theo hướng mở rộng đối tượng được mua bán nợ theo giá thị trường của VAMC, bao gồm cả các AMC của TCTD (cùng với việc sớm ban hành Nghị định thị trường mua-bán nợ như đã nêu).

4. Cải cách hành chính:- Tăng cường phối hợp tổ chức thực hiện CCHC và tăng cường giám sát từ

các cơ quan thanh tra giám sát, Ban chỉ đạo Đổi mới và phát triển DN, VCCI, các DN, tăng tính lan tỏa, hiệu quả CCHC; Các Bộ ngành xây dựng đề án/phương án

2 Báo cáo ‘‘Con đường hướng tới thực hiện quản lý nợ công bền vững’’ xuất bản vào năm 2015.

Page 20: static.tinnhanhchungkhoan.vnstatic.tinnhanhchungkhoan.vn/.../baocaovimoquyii_EJHB.docx · Web viewcủa Trung tâm Nghiên cứu BIDVsẽ tập trung đánh giá tình hình kinh

định lượng về CCHC như giảm tiếp bao nhiêu % số TTHC, số ngày giờ; Bộ Tư pháp phối hợp với các Bộ ngành thường xuyên tổ chức các Hội thảo, tổng kết đánh giá về CCHC và ứng dụng CNTT trong CCHC, đơn giản hóa TTHC; Đề xuất đổi mới quy trình ban hành văn bản dưới Luật theo hướng cụ thể hơn và hạn chế tối đa sự chồng chéo.

- Về mô hình tách bạch giữa chức năng quản lý/giám sát và chức năng sở hữu: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính phối hợp với Bộ Nội Vụ đề xuất phát huy vai trò của Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) trong việc đại diện chủ sở hữu, thực hiện chức năng sở hữu tại các DNNN đồng thời sớm trở thành một tổ chức đầu tư tài chính chuyên nghiệp của Chính phủ.

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU

BIDV