liendoanconggiao.netliendoanconggiao.net/doc/phungvu/cn02ps2010/baigiang.doc · web viewkể từ...

212
CHA NHT II PHC SINH - C Ga 20,19-31 11-04-2010 ĐC GIÊSU HIN RA VI CC MÔN Đ ………..Lm. PX Vũ Phan Long, ofm 02 CC MÔN Đ VUI MNG V ĐƯC THY ..…… Lm. Carolô Hồ Bc Xái 10 LY CHA CON V THIÊN CHA CA CON …. Lm. Mark Link, SJ 28 CHA NHT II PHC SINH - C ………………..…. Lm. Augustine, SJ 33 HY NHN XEM …………….……...………... Lm. Antôn Nguyn Cao Siêu, SJ 39 CHNG NHÂN PHC SINH ……...………... Lm. Phm Thanh Liêm, SJ 43 CHA NHT PHC SINH - C ……………….….…. Lm. Ignatiô Hồ Thông 46 MT NN TNG CHO NIM TIN ……………..….. Lm. Ignatiô Trn Ng 63 BNH AN CHO ANH EM …………..…….. Lm. Giuse Nguyn Hưng Lợi, CSsR 65 HIN RA VI CC MÔN Đ .……….….. Lm. Giacôbê T Chc 68 BNH AN CHO ANH EM ..……………...... Lm. Giuse Phm Ngc Ngôn, Csjb 70 LNG THƯƠNG XT CHA THT VÔ BIÊN ... Lm. Giuse T Duy Tuyn 74 TNH CHA THƯƠNG XT .……..…….. Lm. Anphong Trn Đc Phương 78 PHC CHO AI KHÔNG THY M TIN ………… Lm. Giuse Đinh Lp Lim 81 1

Upload: others

Post on 24-Jan-2020

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

CHUA NHÂT II PHUC SINH - CGa 20,19-31 11-04-2010

ĐƯC GIÊSU HIÊN RA VƠI CAC MÔN ĐÊ ………..Lm. PX Vũ Phan Long, ofm 02CAC MÔN ĐÊ VUI MƯNG VI ĐƯƠC THÂY ..…… Lm. Carolô Hồ Băc Xái 10LAY CHUA CON VA THIÊN CHUA CUA CON …. Lm. Mark Link, SJ 28CHUA NHÂT II PHUC SINH - C ………………..…. Lm. Augustine, SJ 33HAY NHIN XEM …………….……...………... Lm. Antôn Nguyên Cao Siêu, SJ 39CHƯNG NHÂN PHUC SINH ……...………... Lm. Pham Thanh Liêm, SJ 43CHUA NHÂT PHUC SINH - C ……………….….…. Lm. Ignatiô Hồ Thông 46MÔT NÊN TANG CHO NIÊM TIN ……………..….. Lm. Ignatiô Trân Nga 63BINH AN CHO ANH EM …………..…….. Lm. Giuse Nguyên Hưng Lợi, CSsR 65HIÊN RA VƠI CAC MÔN ĐÊ .……….….. Lm. Giacôbê Ta Chuc 68BINH AN CHO ANH EM ..……………...... Lm. Giuse Pham Ngoc Ngôn, Csjb 70LONG THƯƠNG XOT CHUA THÂT VÔ BIÊN ... Lm. Giuse Ta Duy Tuyên 74TINH CHUA THƯƠNG XOT .……..…….. Lm. Anphong Trân Đưc Phương 78PHUC CHO AI KHÔNG THÂY MA TIN ………… Lm. Giuse Đinh Lâp Liêm 81TRAI TIM NGƯƠI THÂY, TRAI TIM HOC TRO .. Lm. Minh Anh 93BINH AN CHO CAC CON ………………………... Lm. Giuse Nguyên Hưu An 96CHUA NHÂT CHUA THƯƠNG XOT .…………... Lm. Giuse Nguyên Hưu An 100TÔN VINH LONG THƯƠNG XOT CHUA …….…Pm. Cao Huy Hoang 103SƯ ĐIÊP PHUC SINH NIÊM VUI VA BINH AN …………...Lm. An Phong, OP 107LICH SƯ TINH YÊU ..…….……................ Lm. Giuse Đô Vân Lưc, OP 109ĐƯC TIN LA MÔT HÔNG ÂN ….……..…. Lm. Giuse Nguyên Cao Luât, OP 114NIÊM TIN PHUC SINH …………….……… Lm. Giacôbê Pham Văn Phượng, OP 117CHUA SÔNG LAI, ĐANG Ơ GIƯA ……… Gm. Bartôlômêô Nguyên Sơn Lâm 121CHUA NHÂT PHUC SINH – C …………... Gp. Vinh Long …..…………. tư 132 – 140LƯƠC SƯ VIÊC KINH LONG CHUA THƯƠNG XOT ………………………………. 141

1

ĐƯC GIÊSU HIÊN RA VƠI CAC MÔN ĐÊGioan 20,19-31

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

I. NGƯ CANHXem trong bài Ga 20,19-23. 

II. BÔ CUCBản văn có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu hiện ra với các môn đêï không có Tôma (20,19-23):a. Lời chào  “bình an” thứ nhất với việc chứng minh

(cc. 19-20),b. Lời chào  “bình an” thứ hai với sứ mạng (cc 21-23); 

2) Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (20,24-29):

a. Tôma không tin anh em (cc. 24-25),b. Đức Giêsu và Tôma (cc. 26-31);

3) Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (20,30-31).  

III. VAI ĐIÊM CHU GIAI- Nếu tôi không thấy dấu đinh... (25): Đây là lời Tôma khẳng định rằng ông không tin, hoặc để ông tin, Đức Giêsu cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ kia. Đức Giêsu đã đáp ứng yêu cầu của ông, Người đã mời ông làm như ông nói lúc này, để có thể tin.

- Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin (27): Dịch sát là “đừng cứ tiếp tục không tin nữa, nhưng hãy bắt đầu tin đi”. Đức Giêsu mời Tôma thay đổi thái độ.

- Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con (28): Đây vừa là một tiếng kêu vừa là một hô-cách dưới dạng chủ-

2

cách (=“Lạy Chúa và lạy Thiên Chúa của con!”) vừa là một lời tuyên xưng đức tin (= “Ngài là Chúa và Thiên Chúa của con”) độc đáo chưa ai làm. “Chúa của con” nhắm đến Đức Giêsu của lịch sử, còn “Thiên Chúa của con” là một lượng định mang tính thần học về bản thân Người. Tuyên xưng Đức Giêsu là “Đức Chúa” thì Maria Mácđala và các môn đệ đều đã làm (20,18.25); nhưng tuyên xưng vị “Chúa tể” này là “Thiên Chúa”, thì chỉ có Tôma mới làm ở đây. Vì thế, cũng có thể hiểu câu này là một phép thế đôi (hendiadys): “Chúa của con” cũng là “Thiên Chúa của con”.

- là  để anh em tin rằng (31): Bản văn Hy-lạp ghi “để anh em tin” là hina pisteu[s]¢te (với con chữ sigma nằm trong ngoặc đơn), tức là có thể đọc hina pisteus¢te hoặc hina pisteu¢te. Cả hai cách đọc đều có thể chấp nhận, nhưng đưa tới hai ý nghĩa rất khác nhau:

(1) Cách đọc thứ nhất, hina pisteus¢te (subjuntive aorist)1: Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em có thể đi đến đức tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật là truyền giáo. Những người nhận bản văn hẳn là những người ở bên ngoài cộng đoàn Kitô hữu.(2) Cách đọc thứ hai, hina pisteu¢te (subjuntive present)2: Cách đọc này có thể dịch ra như sau: “để anh em tiếp tục tin”. Trong trường hợp này, mục tiêu của bài tường thuật chỉ là khuyến thiện. Những người nhận bản văn hẳn là những người thuộc về cộng đoàn Kitô hữu.

Cho dù cách hợp lý hơn là cách đọc thứ hai, ta cũng không thể chỉ vì có hoặc không có một con chữ sigma (s) mà phân biệt để xác định rằng mục đích của tác phẩm là truyền giáo hay không. Ta còn phải khảo sát tất cả các cách dùng liên từ

3

hina, rồi khảo sát cấu trúc văn chương tổng quát của tác phẩm. Dù sao, khi nghiên cứu TM IV kỹ càng hơn, ta có thể nghĩ rằng tác phẩm được ngỏ với những người đã là Kitô hữu.  IV. Y NGHIA CUA BAN VĂNTrong cả hai lần Đức Giêsu hiện ra, thời gian là “ngày thứ nhất trong tuần”, “ngày của Chúa”, ngày Chúa Nhật. Người chào các môn đệ với những lời như nhau, “Bình an cho anh em!”. Đây là cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu. Đức Giêsu Phục Sinh tỏ mình ra cho các môn đệ của Người. 

* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ không có Tôma (19-23)

Khi hiện ra, điều đầu tiên Đức Giêsu làm là  cho các môn đệ thấy rằng các ông có Người đang sống giữa các ông. Rồi Người không chỉ nói về bình an, Người còn cung cấp nền tảng chắc chắn cho lời của Người: các vết thương. Vậy Người chính là Đấng đã chết trên thập giá, nhưng Người đã thắng cái chết. Các vết thương cũng là dấu chỉ cho thấy tình yêu vô biên của Người. Do đó, Người là nền tảng của sự bình an và nguồn mạch tuôn trào niềm vui cho các môn đệ.      Đức Giêsu lại ban cho sự bình an cho các ông, rồi cho các ông được thông phần vào chính sứ mạng, chính sự sống và quyền của Người là tha tội. Các ông sẽ bị từ chối, ghét bỏ, nên chỉ khi nào bám vững vào sự bình an của Người, các ông mới chu toàn được nhiệm vụ. Như Chúa Cha đã sai Người, nay Người sai các môn đệ. Trong tư cách Chúa Con, Người làm chứng về Chúa Cha; trong tư cách môn đệ Người, các môn đệ đi làm chứng về Người và đưa người ta tới chỗ tin vào Người, để rồi trong Người, các ông

4

được thông hiệp với Chúa Cha. Để các ông chu toàn được sứ mạng, Đức Giêsu ban cho các ông Chúa Thánh Thần là sự sống mới không tàn phai. Nối tiếp sứ mạng của Người, các môn đệ sẽ tha tội và cầm buộc. Bất cứ ai không ở với cộng đoàn thì sẽ không nghe lời hoặc những lời chia sẻ của Đức Giêsu. Muốn trải nghiệm sự hiện diện của Đức Giêsu, nghe được lời chào hoặc những lời dạy dỗ của Đức Giêsu, người ta phải ở với cộng đoàn.

Ở  trong một thế giới đang làm cho các ông phải lo sợ, các ông đã có ở giữa mình Đấng chiến thắng thế gian (x. 16,33) và được đầy sự bình an và niềm vui của Người. Đức Giêsu đã mở cửa ra cho các ông và làm cho các ông có thể đi vào thế giới và mang các ân huệ đến cho thế giới. Các môn đệ không được khép mình lại trong nỗi sợ hãi trước thế giới, nhưng phải đầy tin tưởng đi vào thế giới. 

* Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và Tôma (24-29)Các môn đệ đã gặp Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra và được Người sai đi (cc. 19-23) đảm bảo với Tôma rằng: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, nhưng Tôma không tin anh em. Người môn đệ vắng mặt nơi cuộc gặp gỡ hàng tuần của cộng đoàn Kitô hữu thì không gặp được Chúa Phục Sinh, trải nghiệm niềm vui của Người và nhận lãnh Thánh Thần. Tôma đã hụt một lần, bây giờ ông yêu cầu Đấng Phục Sinh cũng phải hiện ra với ông, như đã hiện ra với các môn đệ khác. Không những ông muốn thấy Người, ông còn muốn chạm vào các vết thương của Người. Vì ông khép mình lại trước lời chứng của anh em, nên chưa tìm ra con đường đưa tới đức tin và sự bình an phục sinh. Phản ứng của Tôma rất đáng trách, vì ông đã tỏ ra không tin vào lời chứng về Đức Giêsu Phục Sinh (“thấy Chúa”: “thấy” là động từ chuyên biệt để nói về

5

đức tin; “Chúa” là danh xưng của Đức Giêsu sau Phục Sinh) của tập thể (“chúng tôi” # Hội Thánh).

Đức Giêsu lại hiện ra với các môn đệ, và cũng như lần trước, Người ban bình an, sự vững vàng an toàn và sự che chở. Rồi Người ngỏ lời với Tôma. Làm sao Người biết những chuyện đã xảy ra? Chúng ta không biết, vì bản văn không nói, nhưng khả năng hiểu biết này của Đức Giêsu chứng tỏ rằng kể từ nay, Người hiện diện gần gũi với các môn đệ, cho dù về thể lý, họ không nhìn thấy Người. Người cho Tôma thấy những dấu chỉ của cái chết và tình yêu của Người, và cũng chứng minh rằng Người là nguồn mạch ơn cứu độ. Tôma đã tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu, một lời tuyên xưng chưa hề có ai nói lên: “Lạy Chúa của con và là Thiên Chúa của con”. Ông đi theo một lộ trình dài hơn mọi anh em, nhưng ông đã đến gần Đức Giêsu hơn mọi anh em. Vì đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và Thiên Chúa. Người là Đức Chúa, có quyền năng cứu độ. Quan hệ với Người có tính vững bền trọn vẹn mãi mãi vì Người là Thiên Chúa.

Sau đó, Đức Giêsu đã đưa ra một sự đối lập giữa “thấy” và “tin” (cc.  8b.18.20b.25ab.27.29ab; x. 1,45; 4,50), và nhìn đến các thế hệ tín hữu tương lai. Kể từ nay, chứng từ về kinh nghiệm mà các môn đệ đã có về Đức Giêsu Phục sinh phải là động lực đưa mọi người đến đức tin, chứ không phải là kinh nghiệm về một cuộc hiện ra trực tiếp của Đấng Phục Sinh hay về một thánh tích.   

* Tóm tắt mục tiêu sứ mạng của Đức Giêsu (30-31)

6

Cuối cùng, tác giả TM IV tóm tắt mục tiêu của công trình của Đức Giêsu và cho thấy, đối với những người không được thấy, đâu là nẻo đường đưa tới đức tin. Các tín hữu hôm nay được mời gọi tin vào Đức Giêsu là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Đức tin nối kết chúng ta với Người, và nhờ Người là Chúa Con, chúng ta được đưa vào thông hiệp với Chúa Cha. Đó là sự sống đời đời. 

Phải chăng ở đây có nguy cơ chủ quan? Chính là xuyên qua tính chủ quan mà ta đạt được tính khách quan. Kinh nghiệm đức tin của một người riêng lẻ phải được đối chiếu với kinh nghiệm đức tin của cộng đoàn. Đức tin của một người tự nó không đủ. Chứng từ của cộng đoàn luôn cần để bảo đảm cho đức tin của từng người. Tuy nhiên, đức tin của cộng đoàn không bao giờ thay thế đức tin của từng người. Nếu TM IV có nhấn mạnh là nhấn mạnh trên điểm này: chiều kích cá vị của tương quan với Đức Giêsu Phục Sinh. 

+ Kết luậnChúng ta có thể đọc bản văn trên đây như  một bức tranh bộ đôi: trong tất cả các bài tường thuật này, ta ghi nhận chiều kích cá vị trong tương quan với Đức Giêsu. Ân ban căn bản của Đấng Phục Sinh là sự bình an (20,19.21.26). Ngay trong các diễn từ cáo biệt, Đức Giêsu đã hứa ban sự bình an này cho các môn đệ. Người có tư cách để ban sự bình an này vì Người về cùng Chúa Cha (14,27) và vì Người thắng thế gian (16,33). Nay Người đã thực sự thắng cái chết, là dấu chỉ tối hậu về sức mạnh tiêu diệt của thế gian, và đã thật sự lên cùng Chúa Cha. Người đã đạt tới mục tiêu của Người, Người lại đang sống giữa các môn đệ trong tư cách là Đấng chiến thắng. Chính Người là nền tảng của sự bình an của các ông.

7

Đã nhận được các lời chứng của các môn đệ, kinh nghiệm của Tôma, các Kitô hữu hôm nay được mời gọi xác tín: quả thật, Đức Giêsu là Đức Kitô, là Con Thiên Chúa, và hãy tin vào Người. Niềm tin nối kết họ với Người, và nhờ Người là Chúa Con, các Kitô hữu được đưa vào hiệp thông với Thiên Chúa Cha.  

V. GƠI Y SUY NIÊM1. Tôma đã  tuyên xưng đức tin vào Đức Giêsu theo cách chưa ai làm: “Lạy Chúa của con và lạy Thiên Chúa của con”. Ông đã đi theo con đường dài hơn con đường của các anh em, nhưng đã đến gần Đức Giêsu hơn. Đối với cá nhân ông, Đức Giêsu là Đức Chúa và là Thiên Chúa. Ông tin, ông quy phục Đức Giêsu, ông bày tỏ niềm tin vào Người. Maria Mácđala cũng như các môn đệ đã tin vào Đức Giêsu như là Đức Chúa. Tương quan của họ với Người nay có giá trị vĩnh viễn và trọn vẹn, bởi vì Đức Chúa ấy chính là Thiên Chúa. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đang tìm đến gần con người để ban cho con người sự sống đời đời. Tôma nhận biết Đức Giêsu như thế và gắn bó với Người. Do đó, người nào chỉ nói đến một Tôma thiếu lòng tin, là quên mất là ông đã đạt đến niềm tin nào nhờ sự trợ giúp của Đức Giêsu. Thật ra ngay cả các tông đồ của thấy tin vào sự Phục Sinh là điều không dễ chút nào!

2. Nghe lời “Phúc cho những người không thấy mà tin”, chúng ta cảm thấy phấn khởi vì chúng ta đâu có được thấy Đức Giêsu bằng xương bằng thịt! Nhưng tại sao lại “co phúc” có lẽ chúng ta nghĩ rằng bởi vì tin dù không thấy thì khó hơn, nên có công trạng hơn. Thật ra, “có phúc” là vì

8

niềm tin này trung thực hơn, tinh trong hơn. Người nào thấy thì đã có sự chắc chắn, có chứng cớ không thể chối cãi về một sự kiện, nhưng như thế thì không phải là đức tin.

3. Hôm nay, ngày lễ “Lòng Thương xót Chúa” mà Đức cố giáo hoàng Gioan-Phaolô II đã thiết lập ngày 30-4-2000, chúng ta nhớ đến hình ảnh Đức Giêsu từ bi thương xót do thánh Faustina Kowalska (1905-1938; Đức Gioan-Phaolô II phong thánh 30-4- 2000 và thiết lập lễ Lòng Thương Xót Chúa) để lại: Người mặc y phục trắng, bàn tay phải ban phép lành, bàn tay trái vén mép áo ngực, từ đó thoát ra các tia sáng xám và đỏ, tượng trưng Bí tích Thánh Thể và Bí tích Rửa Tội. Đức Giêsu là hiện thân Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Chúng ta hãy cùng với thánh nữ Faustina Kowalska và Đức Gioan-Phaolô II thưa với Người: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Người!” Chúng ta hãy trở thành hiện thân của Lòng Chúa thương xót qua lối sống hợp nhất, chia sẻ nâng đỡ nhau, sẵn sàng tha thứ cho nhau.

Lm PX Vũ Phan Long, ofm

CAC MÔN ĐÊ VUI MƯNG VI ĐƯƠC THÂY CHUA

9

Lm. Carolô Hồ Băc Xái

I. DÂN VAO THANH LÊAnh chị em thân mến Các môn đệ đang sợ hãi giam mình trong phòng kín, nhưng khi gặp thấy Chúa Giêsu phục sinh thì các ông vui mừng. Chúa Giêsu phục sinh cũng đang ở giữa chúng ta. Vậy chúng ta hãy vui mừng cùng Ngài dâng lễ tạ ơn lên Thiên Chúa là Cha toàn năng của chúng ta.

II. GƠI Y SAM HÔI Chúa Giêsu phục sinh là bảo đảm cho chiến thắng

của sự thiện trên sự ác. Nhưng chúng ta chưa xác tín điều ấy nên chưa tích cực chiến đấu chống lại sự ác.

Chúa Giêsu phục sinh luôn hiện diện bên cạnh chúng ta. Nhưng chúng ta thường quên điều đó nên sống và làm việc như không có Ngài bên cạnh.

Chúa Giêsu phục sinh là nguồn gốc và nền tảng của vui mừng và bình an. Nhưng chúng ta thường để mình bị giao động bởi những buồn phiền lo lắng thế tục.

III. LƠI CHUA

1. Bai đoc I Cv 5,12-16Trích đoạn này từ sách Công vụ cho thấy hai tác động lớn của việc Chúa Giêsu phục sinh trên các tông đồ: (1) Chúa đã thông ban cho các ngài quyền năng đến nỗi có thể làm nhiều phép lạ; (2) Chúa làm cho uy tín các ngài tăng cao trước các tín hữu và cả những người lương.

2. Bai đoc II Kh 1,9-13.17-19

10

Thị kiến đầu tiên trong sách Khải huyền:Hoàn cảnh của người được thấy thị kiến: Thánh Gioan Tông đồ đang sống trong cảnh gian truân vì bị bắt bớ: "Tôi cùng chia xẻ nỗi gian truân... cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Chúa Giêsu. Lúc ấy tôi đang ở đảo gọi là Pátmô vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và lời chứng của Chúa Giêsu".Thị kiến nhằm an ủi và khích lệ kẻ đang bị bắt bớ: "Đừng sợ... Ta là Đấng hằng sống. Ta đã chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Âm phủ"

3. Tin Mưng Ga 20,19-31Hai lần hiện ra cách nhau 8 ngày này nhằm những mục tiêu sau:

- Chúa Giêsu nâng đức tin của các một đệ lên một bậc: từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng mà giác quan kiểm nghiệm được (câu 20 "Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn Ngài"; câu 25, Tôma đòi điều kiện "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài...) lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe (câu 29: "Phúc cho những ai không thấy mà tin")

- Chúa Giêsu ban bình an cho các môn đệ để rồi các ông lại ban bình an cho người khác qua việc tha tội. Sự bình an này là hoa trái của Thánh Thần, và đặt nền tảng trên việc tin vào Chúa Giêsu phục sinh.

IV. GƠI Y GIANG

11

1. Đấng chữa lành vẫn còn mang thương tíchKhi hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu phục sinh vẫn còn mang những thương tích của cuộc thụ nạn. Điều này có ý nghĩa gì? Câu chuyện sau đây có thể cung cấp vài tiêu điểm giúp chúng ta tìm hiểu.

Chuyện kể về một góa phụ lao động ở thành phố New York. Trong khoảng thời gian 6 năm, bà đã chứng kiến cảnh 3 đứa con của mình bị bắn chết, đứa nhỏ nhất bị bắn ngay trước cửa nhà bà. Những cảnh ấy đã để lại một vết thương sâu đậm trong lòng bà, và vết thương ấy cứ như sống lại làm bà nhức nhối mỗi lần bà nghe tin có một ai đó bị giết chết. Tuy nhiên bà không để mình bị trói buộc trong nỗi sợ hãi. Trái lại bà tìm cách đến với người khác. Bà đi diễn thuyết khắp nơi và trở thành một nhà hùng biện tranh đấu cho việc kiểm soát vũ khí. Bà lập một hiệp hội gồm những phụ nữ cùng hoàn cảnh với Bà. Mỗi khi có một đứa con bị giết chết, bà đến thăm và an ủi cha mẹ chúng. Bà cho biết ban đầu bà ước sao cho những đứa trẻ vô tội ấy đừng sinh ra còn hơn. Nhưng bây giờ thì bà nói: "Hẳn nhiên trong cái chết của chúng có một nỗi buồn phiền, thế nhưng cũng có một niềm vui không thể tin được. Nếu tôi đã không có 3 đứa con bị giết thì tôi đã không là một con người như hôm nay. Chúng giúp tôi mạnh mẽ, chúng giúp tôi sống không ích kỷ". Khung cửa nhà bà vẫn còn lại những vết đạn đã bắn chết đứa con út của bà. Tuy nhiên bà không cho sửa lại khung cửa ấy. Tại sao? Bà nói "Tôi muốn những lỗ đạn ấy còn mãi ở đấy để nhắc cho mọi người nhớ là có người đã bị giết chết ngay chỗ ấy. Nếu sửa lại thì người ta sẽ quên".

12

"Khi sửa lại thì người ta sẽ quên". Có lẽ đó là lý do tại sao Chúa Giêsu phục sinh vẫn giữ lại những vết thương của cuộc chịu nạn. Trước hết, những vết thương ấy giúp các môn đệ nhận ra Ngài: Đấng hôm nay chiến thắng sự dữ vẫn là một với Đấng hôm trước đã chịu nạn chịu chết để nhờ đó Thiên Chúa chiến thắng cái chết. Thứ hai, những vết thương ấy là bằng chứng tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu không chỉ nói suông về tình yêu, Ngài đã chịu đau khổ để làm chứng cho tình yêu. Đó là những thương tích mà Người mục tử chịu đựng để bảo vệ đàn chiên yêu quý của mình.

Chúa Giêsu không dấu những thương tích. Ngài cho Tôma thấy và mời ông chạm vào. Khi Tôma chạm vào đấy, nỗi hoài nghi của ông tan biến và đức tin của ông sống lại.

Những thương tích thánh thiện của Chúa Giêsu là nguồn an ủi, nguồn can đảm và nguồn hy vọng của chúng ta. Chúng giúp ta chịu đựng đến cùng những thương tích của chúng ta. Chúng bảo ta đừng sống ích kỷ. Nhờ những thương tích của Ngài, chúng ta được chữa lành khỏi chứng bệnh tự thương xót mình và mặc cảm là nạn nhân.

Người ta có khuynh hướng che dấu những thương tích vì nghĩ rằng người khác mà thấy được sự yếu ớt của mình thì sẽ không còn kính trọng mình. Tuy nhiên những kẻ dám cho người khác biết những cuộc chiến đấu của mình thì sẽ là một nguồn an ủi cho người khác. (FM)

2. Tần số tình yêu

13

Người cha dắt đứa con nhỏ đi dạo ngang qua một đài phát thanh của thành phố. Đứa bé chỉ ngọn tháp cao vút hỏi người cha:

- Ba ơi! Cái tháp đó để làm gì vậy?Người cha giải thích:

- Con ạ! Đó là ăng-ten của đài phát thanh, hàng giây hàng phút nó phát đi những tin tức, âm nhạc và các chương trình hữu ích cho đại chúng.

- Nhưng thưa ba, con có nghe thấy gì đâu!- Muốn nghe được những thông tin và các chương trình

bổ ích đó, con chỉ cần có một cái máy thu thanh thật tốt, mở đúng tần số là con sẽ nghe rõ ràng, như cha con mình đang nói chuyện với nhau đây!

Chiều Phục Sinh đầu tiên, Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ, vắng mặt Tôma, một con người thực tế, muốn kiểm chứng bằng mắt thấy, tai nghe, tay sờ thì mới tin. Tám ngày sau, Đấng Phục Sinh lại hiện ra với các ông, có cả Tôma. Người gọi đích danh ông: "Tôma, hãy nhìn xem tay Thầy, hãy đặt ngón tay vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin" (Ga 20,27). Ông chỉ còn biết run sợ mà thưa với Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con" (Ga 20,28).

Tại sao Gioan chỉ cần nhìn thấy ngôi mộ trống và tấm khăn liệm xếp gọn gàng là ông đã tin Thầy sống lại, còn Tôma đã được các môn đệ làm chứng Thầy đã phục sinh mà ông lại không tin. Vậy điều khác nhau cơ bản giữa Gioan và Tôma chính là chiếc máy thu thanh của Tôma không mở đúng tần số. Đó là tần số tình yêu, tần số của con tim. Tôma đòi phải

14

xỏ tay vào lỗ đinh ở chân tay Thầy ông mới tin; còn Gioan, không cần thấy Thầy bằng con mắt thịt nhưng bằng con mắt đức tin, con mắt tình yêu. Chính tình yêu đã khiến Gioan chạy đến mộ Thầy nhanh hơn Phêrô, chính tình yêu đã mở mắt cho Gioan nhận ra Thầy đầu tiên trên bờ biển Galilê, chính tình yêu đã làm cho ông trở nên "người môn đệ Chúa Giêsu thương mến" (Ga 21,7).

Tại sao Phêrô và Gioan đều thấy ngôi mộ trống và khăn liệm, mà Phêrô thì "rất đỗi ngạc nhiên" còn Gioan thì "ông đã thấy và ông đã tin"? (Ga 20,8). Vì thế, Phêrô phải cố gắng vượt qua những dấu chỉ khả giác để đến với niềm tin, và Tôma cũng phải vượt qua cái nhìn của giác quan để đến với cái thấy của đức tin. Nhưng Chúa Giêsu đã nói: "Phúc thay những người không thấy mà tin!" (Ga 20,29). Đó cũng chính là phần thưởng của đức tin.

Sở dĩ Gioan nhận ra sự kiện ngôi mộ trống và khăn liệm như dấu chỉ của sự phục sinh, là vì ông đã nhớ lại lời Kinh Thánh: "Ngày thứ ba, (Người) sẽ cho chúng ta chỗi dậy" (Hs 6,2) và phép lạ "ông Giôna ở trong bụng cá ba ngày ba đêm" (Ga 2,1). Vâng, chính Kinh Thánh sẽ soi sáng, hướng dẫn chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Thiên Chúa trong mỗi biến cố hằng ngày.

Niềm tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta hôm nay không phải là một niềm tin mơ hồ, mà là một niềm xác tín vào lời chứng chắc chắn của các Tông đồ qua Kinh Thánh. Trong bài giảng đầu tiên của ngày lễ Ngũ Tuần; Phêrô đứng chung vớt mười một Tông đồ lớn tiếng tuyên bố rằng: "Chính Chúa Giêsu đó, Thiên Chúa đã làm cho sống lại, về

15

điều nầy, tất cả chúng tôi xin làm chứng" (Cv 2,32). Vâng, chính sự phục sinh của Chúa Giêsu đã bảo đảm cho niềm tin của chúng ta. Thánh Phaolô viết: "Nếu Đức Ki tô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình" (1Cr 15,17).

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con tình yêu nhiều hơn nữa, để chúng con tin Chúa mãnh liệt hơn.Xin dạy chúng con biết siêng năng suy niệm Lời Chúa, để Lời Chúa mãi là đèn soi cho chúng con bước, là ánh sáng chỉ đường chúng con đi. Amen. (TP)

3. Bình anSau khi sống lại, mỗi lần hiện ra với các môn đệ, Chúa Giêsu đều chào các ông "Bình an cho các con". Đây là lời chào thông thường của người Do thái "Shalom". Giáo hội cũng bắt chước lối chào đó, trong Thánh lễ, Chủ tế chào giáo dân "Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em", và giáo dân chào lại "Và ở cùng Cha", nghĩa là "Và cũng xin bình an của Chúa hằng ở cùng Cha". Xét ra lời chào này hơi lạ so với những kiểu chào mà chúng ta quen biết, nhưng có ý nghĩa nhiều hơn. Quả thực. Bình an là điều quý nhất mà chúng ta cần có và cũng là điều tốt nhất mà chúng ta cầu chúc cho nhau. Nhưng bình an là gì mà quý như vậy? và làm thế nào để có được bình an? Đó là điều mà chúng ta sẽ đưa vào bài Tin Mừng hôm nay để tìm hiểu.

Khi ấy các môn đệ đang sợ: Thầy đã bị bắt và bị giết chết rồi. Rất có thể tới phiên các ông cũng sẽ bị bắt và bị giết như vậy. Cho nên họ sợ, và họ trốn trong nhà đóng kín cửa lại.

16

Rồi Chúa Giêsu hiện đến ở với họ, trò chuyện với họ, cho họ xem các vết thương, ăn uống với họ, khích lệ họ... Thế là họ không còn sợ nữa. Họ được bình an. Nhưng do đâu mà họ được bình an? Có phải là vì nguy hiểm đã qua đi rồi chăng? Thưa không, nguy hiểm vẫn còn đó, kẻ thù vẫn còn vẫn đang tìm cách hãm hại các ông. Nhưng nay họ không sợ nữa là vì họ biết đã có Chúa ở bên cạnh họ. Có Chúa bên cạnh thì mọi nguy hiểm không còn làm họ nao núng nữa. Thực ra họ chưa hoàn toàn bình an đâu. Sau khi Chúa Giêsu biến đi thì họ lại sợ, lại đóng cửa trốn. Có lần họ cũng đánh bạo cùng nhau đi đánh cá. Nhưng mới thấy có một cái bóng đen tiến đến là họ lại sợ, họ tưởng là ma. Và khi biết đó là Chúa thì họ lại hết sợ. Mãi tới khi Chúa Giêsu nói với họ trước khi về trời rằng: "Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế", thì họ mới hết sợ hoàn toàn, họ mới hoàn toàn được bình an. Kể từ đó trở đi, các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng. Người ta bắt, họ cũng không sợ, người ta tra tấn, họ không sợ mà còn vui mừng vì được chịu khổ vì Thầy; người ta xử tử, họ vẫn bình an vui sướng vì được giống như Thầy.

Như vậy, Bình an tức là một sức mạnh, một nơi nương tựa, một nguồn an ủi khiến ta không nao núng sợ sệt dù phải đứng trước bất cứ gian truân nguy hiểm nào. Bình an ấy có được khi ta ý thức có Chúa vẫn ở bên cạnh mình.Giống như một em bé. Em đang chơi vui vẻ thì trời đổ mưa lớn. Sấm chớp ầm ầm, em hoảng sợ khóc thật lâu. Nhưng mẹ em đã đến, bế em vào lòng, em cuộn mình trong lòng mẹ và ngủ thiếp đi. Sau đó dù mưa vẫn cứ rơi, sấm chớp vẫn cứ ầm ầm, nhưng em vẫn ngủ yên vì em đang ở trong vòng tay che chở của mẹ. Đó là một hình ảnh rất đẹp giúp ta hiểu thế nào là sự bình an.

17

Phần chúng ta, nếu chúng ta luôn ý thức có Chúa ở bên cạnh mình, và ta luôn nương tựa vào Chúa như em bé nương tựa vào mẹ nó thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.

Có một gia đình nọ, nhà nghèo, lao động thật là vất vả, tính toán làm ăn rất là lo âu. Nhưng chiều về, vợ chồng con cái đều quây quần trước bàn thờ gia đình và cùng đọc kinh tối chung. Họ dâng lên Chúa những lao nhọc trong ngày, họ xin Chúa thứ tha những vấp váp lỗi lầm đã phạm, họ phó dâng cuộc sống cùng tất cả mọi âu lo cho Chúa. Sau đó họ lên giường ngủ. Bình an! Biết bao gia đình khác cũng lao động vất vả như họ, cũng lo âu toan tính như họ, nhưng các gia đình đó không có được một giấc ngủ bình an. Chỗ khác nhau là một bên có Chúa và biết sống với Chúa, còn một bên thì không.

Hay như một cụ già kia đang hấp hối, cái chết gần kề mà vẫn bình thản sẵn sàng buông tay nhắm mắt ra đi không hề sợ sệt, vì cụ già ấy biết rằng mình ra đi là ra đi trong tay Chúa. Trong khi có biết bao nhiêu người khác đối diện với cái chết mà lòng hoang mang sợ hãi, họ sợ không dám ra đi, vì họ không biết đi về đâu, họ không có Chúa cùng đi với họ.Kinh nghiệm mà các môn đệ đã trải qua là một bài học quý giá cho chúng ta. Sau khi Chúa Giêsu bị quân thù bắt giết đi, các ông đã sợ hãi trốn kín trong phòng đóng cửa lại, sợ vì cảm thấy cô thế không có Thầy nâng đỡ. Nhiều lần chúng ta gặp cảnh túng thiếu, gian truân, hiểm nguy, chúng ta cũng sợ hãi như thế, chúng ta muốn rút lui trốn tránh, chúng ta muốn ngã lòng, là vì chúng ta không có Chúa ở với mình. Nhưng khi các môn đệ đã biết có Chúa ở bên cạnh họ, cho

18

dù Chúa chỉ hiện diện một cách vô hình sau khi Chúa đã về trời, các ông không còn sợ nữa mà lòng luôn bình an dù phải đối diện với bất cứ hiểm nguy nào. Thì chúng ta cũng thế: Chúa hằng ở bên cạnh chúng ta nếu chúng ta ý thức được điều đó, nếu chúng ta biết tin yêu phó thác vào Chúa và làm việc gì chúng ta cũng nghĩ là có Chúa cùng làm với chúng ta thì chúng ta cũng sẽ luôn được bình an.Nguyện chúc bình an của Chúa hằng ở cùng chúng ta luôn mãi. Amen.

4. Bài học từ TômaThật là sai lầm khi tưởng rằng tin là chuyện dễ dàng đối với những kẻ may mắn được thấy Chúa Giêsu hơn là đối với chúng ta ngày nay. Tin Mừng đã cho thấy có nhiều người đã được thấy Chúa Giêsu nhưng họ vẫn không tin. Vậy "thấy" không nhất thiết sẽ dẫn tới "tin". Muốn tin thì phải có một quyết định.

Thực thế, các sách Tin Mừng đã kể rằng ngay cả các tông đồ mà cũng gặp khó khăn trong việc tin. Tôma không phải là người duy nhất đã hồ nghi về việc Chúa Giêsu sống lại, mọi tông đồ khác cũng thế. Tin Mừng Thánh Mác cô kể rằng khi Chúa Giêsu hiện ra với họ vào buổi chiều ngày phục sinh thì Ngài đã "trách họ vì sự không tin và cứng lòng bởi họ đã không tin theo lời của những người đã từng thấy Ngài sau khi Ngài sống lại" (Mc 16,14)

Chúng ta có thể thông cảm với các tông đồ. Việc Chúa Giêsu bị đóng đinh quả là một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt họ. Họ đã đầu tư rất nhiều vào Ngài. Họ đã bỏ nghề nghiệp và bỏ hết mọi sự để theo Ngài. Rồi bỗng nhiên Ngài

19

bị giết chết. Thực tế về cái chết của Ngài càng rõ ràng bao nhiêu thì họ càng cảm thấy mất mát bấy nhiêu. Giá trị và ý nghĩa của mọi thứ đều bị đe dọa: tình thân với Ngài, niềm tin vào Ngài, và cả cuộc đời của họ nữa.

Đang lúc đó thì một chuyện không thể tin được xảy ra: đột nhiên họ nhìn thấy Ngài đang đứng ở giữa họ. Việc đầu tiên Ngài làm là chỉ cho họ thấy các vết thương của Ngài. Tại sao Ngài làm thế? Thứ nhất là vì những vết thương ấy giúp họ nhận dạng được Ngài, xác định Ngài vẫn là người trước đó đã bị đóng đinh. Thứ hai là những thương ấy là bằng chứng rằng Ngài yêu thương họ, một tình yêu chứng tỏ bằng hành động. Kế đó Chúa Giêsu mời họ hãy xem và hãy sờ vào những vết thương ấy.

Thái độ của Tôma rất đáng làm gương cho chúng ta. Đó là một thái độ thẳng thắn vì không dấu diếm nỗi hồ nghi của mình. Hồ nghi thường là dấu chỉ của sự yếu kém. Khi chúng ta hồ nghi ai thì đồng thời chúng ta cảm thấy như mình có lỗi với người ấy. Tuy nhiên hồ nghi cũng có thể là một bước khởi đầu tốt, dẫn tới một sự hiểu rõ hơn và sâu hơn. Đây là trường hợp của Tôma: nhờ hồ nghi nên sau đó Tôma đã đạt tới một lời tuyên xưng đức tin cao nhất trong sách Tin Mừng "Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con".

Ở thế gian này, chẳng có gì là tuyệt đối chắc chắn về những sự thiêng liêng, vì nếu có thì đâu cần tới đức tin nữa. Những sự tuyệt đối chắc chắn có thể dẫn tới thái độ ngạo mạn, bất khoan dung và ngu xuẩn. "Người có đức tin mà không bao giờ cảm thấy hồ nghi thì thực ra không phải là người có đức tin" (Thomas Merton)

20

Mỗi cộng đoàn đều cần có một con người như Tôma, tức là con người dám đặt ra những câu hỏi mà không ái khác dám đặt ra. Người như thế là người đáng tin, người như thế còn giúp những khác trở thành những kẻ đáng tin, bởi vì người như thế giúp cho những người đang tin nhận ra đức tin của họ còn yếu kém lắm, và đồng thời cũng làm cho những kẻ hồ nghi cảm nhận được nỗi ray rứt khi không có niềm tin.

Sau khi vượt qua cơn khủng hoảng đức tin, Tôma đã mạnh dạn làm chứng cho Chúa Giêsu và trở thành một trong những vị thừa sai vĩ đại nhất của Giáo Hội sơ khai. Theo thánh truyền, ngài đã mang Tin Mừng đến các xứ Ba Tư, Syria và Ấn Độ, nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là vị tông đồ đầu tiên chết vì đức tin.

Chúa Giêsu mời chúng ta đến gần Ngài trong đức tin và chạm vào các vết thương của Ngài. Mặc dù chúng ta không thể chạm tới Ngài một cách thể lý, nhưng chúng ta có thể đến gần Ngài một cách thiêng liêng. Chúa Giêsu cũng mời chúng ta làm chứng cho Ngài trước mặt những người khác. Nhiệm vụ của chúng ta là làm cho Chúa Giêsu trở thành hữu hình trong thế giới hôm nay. Đó cũng là nhiệm vụ của các tông đồ ngày xưa. Ngày xưa khi các tông đồ đã nhìn thấy Chúa rồi thì các ông cảm thấy được thúc đẩy phải làm cho nhiều người khác cũng biết và tin vào Ngài.

Thế giới hôm nay đầy dẫy những hoài nghi và những người không tin. Cách duy nhất khiến họ tin là làm sao cho họ "thấy" được Ngài, "chạm" được Ngài nơi những môn đệ của Ngài. Thế nhưng, nếu các môn đệ của Chúa Giêsu không có

21

những vết thương để chỉ cho người ta thấy và cho người ta chạm vào thì làm sao mà người ta tin được!

Ước gì chúng ta được ở trong số những người được Chúa Giêsu công khai chúc phúc "Phúc cho những ai tuy không thấy mà vẫn tin" (FM)

5. Khủng hoảng đức tinKhủng hoảng đức tin là chuyện thường gặp. Tôma đã gặp, và Tolstoy cũng đã gặp, như câu chuyện sau đây:Năm 1879, Tolstoy 51 tuổi. Khi đó ông có đầy đủ mọi lý do để thỏa mãn về đời mình. Ông đã viết nhiều tác phẩm, đặc biệt hai bộ "Chiến tranh và Hòa bình", và "Anna Kerenina". Những tác phẩm ấy đã khiến ông nổi tiếng và bảo đảm cho ông một vị trí nổi bật trong lịch sử văn chương thế giới. Ai cũng công nhận ông là người có thiên tài và đầy óc sáng tạo. Lẽ ra Tolstoy phải rất hạnh phúc. Thế nhưng ông lại cảm thấy bất hạnh. Ông thấy đời mình thật vô nghĩa lý. Một câu hỏi luôn ám ảnh ông: "Liệu trong dời mình có cái gì có ý nghĩa mà không bị sự chết hủy diệt đi không?". Khoảng thời gian ấy thật khủng khiếp đối với Tolstoy, đến nỗi ông đã tính đến việc tự tử. Ông đi tìm câu trả lời trong mọi lãnh vực kiến thức loài người. Ông tìm kiếm suốt ngày suốt đêm, giống như một người sắp chết đi tìm đường sống. Nhưng tìm mãi mà ông chẳng gặp gì cả.

Thế rồi ông tìm nơi những niềm tin Kitô giáo. Thực ra ông đã được sinh ra và lớn lên trong đức tin Kitô giáo nhưng ông cũng đã bỏ nó từ lâu, lý do là ông thấy nó quá vô nghĩa trong môi miệng những người sống ngược hẳn với đức tin của họ. Tuy nhiên cũng chính đức tin ấy lại thu hút ông khi ông nhìn

22

những tín hữu sống đức tin ấy. Ông viết: "Tôi đã nghĩ rằng chẳng có sự thật chắc chắn nào trong đời. Nhưng rồi tôi đã tìm thấy một nguồn sáng chắc chắn, ấy là Tin Mừng. Tôi đã loá mắt vì sự sáng ngời của Tin Mừng. Những lời dạy của Chúa Giêsu quả thực là một giáo huấn tinh tuyền nhất và trọn vẹn nhất cho đời sống. Từ 2000 năm nay, những lời dạy cao quý ấy đã tác động lên biết bao người một cách tuyệt vời không thể tìm được nơi bất cứ ở nào khác. Từ đó một ánh sáng đã bừng chiếu trong tôi và quanh tôi, và ánh sáng ấy không bao giờ rời xa tôi nữa".

Có nhiều người được sinh ra trong đức tin, và trải qua bao năm tháng đức tin ấy vẫn cứ vững mạnh. Thật là một ơn ban vô cùng quý giá. Nhưng cũng có nhiều người mà đức tin luôn là một cuộc chiến đấu liên lỉ. Họ phải trải qua những cơn khủng hoảng đức tin rồi mới có được một đức tin sâu sắc và xác tín.

Nói cách lý thuyết, chỉ có đức tin mới trả lời được cho những câu hỏi sâu xa về cuộc đời. Nhưng trên thực tế, chúng ta không nên hy vọng rằng đức tin sẽ giải quyết hết mọi vấn đề của chúng ta. Không phải chỉ vì chúng ta tin mà chúng ta có được mọi câu trả lời. Tuy nhiên chúng ta đâu cần biết hết mọi câu trả lời, vì tin là tín nhiệm chứ không phải là chắc chắn.

Câu chuyện của văn hào Tolstoy giúp chúng ta nhận thức rằng đức tin được chứa đựng trong một chiếc bình dễ vỡ như thế nào. Nó cũng giúp ta hiểu thêm rằng đức tin kitô giáo chủ yếu không phải là tin vào một mớ giáo điều, mà là tin vào một Đấng đã yêu thương chúng ta - những thương

23

tích của Ngài chứng tỏ điều đó. Hơn nữa, Thánh Kinh còn cho ta biết điều quan trọng không phải là niềm tin chúng ta đặt vào Thiên Chúa mà là niềm tin mà Thiên Chúa đặt vào chúng ta. (FM)

6. Chuyện minh họaCó một vị hoàng đế kia trị vì một đất nước giàu có hùng mạnh. Nhưng tâm hồn ông không thoải mái an vui vì ông luôn bị ray rứt bởi những tội lỗi tàn bạo đã phạm trong thời quá khứ. Một hôm ông bỏ hoàng cung đi vào rừng, cất một túp lều đơn sơ. Trong rừng có một vị ẩn sĩ. Nhà vua tìm đến và nói: "Thưa Ngài, tôi muốn từ bỏ kinh thành ồn ào náo nhiệt vào đây để tìm được một sự bình an như Ngài đang hưởng". Ẩn sĩ đáp: "Tâu đức vua, ở đây cũng không hơn gì nơi khác, vì bình an phải ở trong lòng người". Nhà vua trở về lều mình. Khi thì quỳ gối tha thiết đọc kinh, khi thì thơ thẩn trong rừng, chỉ ăn lương khô và uống nước lã. Chiều đến nhà vua mệt lả ngả mình xuống đất có trả một mớ lá khô. Nhưng suốt đêm cứ trằn trọc không ngủ được. Sáng hôm sau ông tìm đến vị ẩn sĩ: "Thưa ngài, lương tâm tôi cắn rứt làm tôi không ngủ được. Xin ngài nghe lời thú tội của tôi". Ẩn sĩ đáp: "Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội thôi". Nhà vua cãi: "Nhưng tôi không nghe được tiếng Chúa". Ẩn sĩ trả lời: "Tiếng Chúa chỉ nghe được trong thinh lặng, mà thinh lặng chỉ có ngay trong lòng ta. Người nào chỉ biết kêu cầu than rên rỉ mãi mà không biết thinh lặng lắng nghe thì sẽ không nghe được tiếng Chúa". Nhà vua trở về. Vài hôm sau ông đến chào vị ẩn sĩ: "Tôi đã nghe lời ngài, tôi không kêu than rên rỉ nữa mà tập thinh lặng lắng nghe, và tôi đã được nghe tiếng Chúa. Nhưng đó không như tiếng loài người, tôi chỉ nhận thấy như một cảm xúc êm dịu là lỗi lầm của tôi đã

24

được tha thứ. Xin cám ơn ngài, hôm nay tôi sẽ trở về triều đình".

Vài năm sau nhà vua lại trở vào rừng, và cũng tìm đến vị ẩn sĩ: "Thưa ngài không bao giờ tôi quên được tâm trạng an bình khi sống trong rừng này. Hôm nay tôi muốn trở lại đây ít lâu để cầu xin Chúa cất bớt những gánh nặng mà hằng ngày tôi phải vác". Ẩn sĩ đáp: "Tâu Bệ Hạ, khi chúng ta phàn nàn với Chúa về các gánh nặng của mình thì cách đáp ứng tốt nhất của Chúa là không phải cất những gánh nặng đó đi, nhưng là tăng cường đôi vai của ta để ta có thể vác nổi những gánh nặng đó". Nhà vua thắc mắc: "Nhưng làm sao biết được Chúa đang tăng cường sức mạnh cho ta?" Ẩn sĩ: "Bao lâu ta còn dãy dụa chiến đấu thì ta chưa nhận biết được điều đó. Cần phải thinh lặng, ngưng chiến đấu mà chờ đợi sự trợ giúp của Chúa thì khi đó ta mới cảm thấy được bàn tay uy quyền của Chúa đang giúp sức cho ta". Nhà vua cám ơn lui về. Vài ngày sau trở lại chào biệt vị ẩn sĩ: "Thưa ngài tôi đã cảm nghiệm rằng Đấng đã làm cho cỏ cây xanh tốt và nuôi nấng chim trời cũng đang dang tay tăng sức mạnh cho đôi vai tôi. Xin cám ơn ngài và chào ngài".

Thế là nhà vua trở về triều đình. Mấy năm sau ông lâm trọng bệnh, sai người đi mời vị ẩn sĩ đến. Khi ẩn sĩ đến, nhà vua nói: "Thưa ngài đã hai lần ngài giúp tôi tìm thấy bình an. Bây giờ là lần thứ ba mà cũng là lần chót, vì tôi sắp từ giã cõi đời này". Ẩn sĩ hỏi: "Bệ Hạ có còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp đầu tiên rời xa Bệ Hạ?" Vua đáp: "Không bao giờ tôi quên, đó là ngày tôi biết lắng nghe tiếng Chúa trong thâm tâm". Ân sĩ hỏi tiếp: "Bệ hạ còn nhớ cái ngày mà cơn khủng khiếp thứ hai rời xa Bệ Hạ không?" Nhà vua đáp: "Cũng

25

không bao giờ quên, đó là ngày tôi biết chờ đợi trong thinh lặng ơn Chúa đến tăng sức cho tôi". Ẩn sĩ bây giờ cao giọng: "Tâu Bệ Hạ, Bệ Hạ đã được nghe tiếng Chúa, Bệ Hạ đã được thấy bàn tay Chúa tăng sức cho Bệ Hạ. Bây giờ Bệ Hạ sắp được chiêm ngưỡng Chúa". Nhà vua sung sướng như đang mơ: "A, tôi sẽ được chiêm ngưỡng Chúa. Nhưng làm sao được?" Ẩn sĩ giải thích: "Chỉ khi ở trong yên lặng tuyệt đối, khi cái nhìn của chúng ta không còn nhìn vào cõi đời đầy những sầu thương tang tóc, không còn ngó nhìn về những tương lai với những ước mơ hay sợ sệt, không còn ngó vào bên trong mình để ngắm chính cuộc đời mình, mà chỉ nhìn về hướng duy nhất là Chúa thôi, thì khi ấy chúng ta sẽ được chiêm ngưỡng Chúa". Nhà vua thì thầm: "Yên lặng tuyệt đối. Người ta có thể yên lặng tuyệt đối không?" Ẩn sĩ đáp: "Ở đời này thì không. Nhưng trong sự chết thì được". Nhà vua sung sướng thì thầm: "Thế thì tôi muốn chết". Và ông sai sứ giả đi khắp nơi trong nước ra lệnh cho thần dân đừng cầu nguyện cho ông khỏi chết nữa. Còn trong phòng của nhà vua thì cả ngày hôm đó rất yên tĩnh. Khi bình minh ló rạng thì nhà vua ra đi an bình. Cái nhìn của ông như chìm vào một cõi xa xăm, một nụ cười tươi sáng rạng ngời trên gương mặt của nhà vua. Ông đã chiếm hữu được sự an bình vĩnh cửu (Vị Ẩn sĩ)

7. Thơ Tagore "Vào hôm thần chết đến gõ cửa, anh sẽ lấy gì biếu hắn hở anh?Ồ, tôi sẽ đặt trước mặt khách cốc rượu đời mình tràn đầy, tôi sẽ chẳng chịu để khách ra đi tay không.Lúc năm tháng đời tôi khép lại, khi thần chết đến gõ cửa mời đi, tôi sẽ đặt trước hắn tất cả trái nho thơm dịu của

26

những ngày mùa thu, những đêm mùa hè, những gì kiếm được, những gì chắt chiu trong suốt cuộc đời cực nhọc.Ôi thần chết, ngươi làm cuộc đời tràn đầy lần cuối. Thần chết của ta ơi, hãy lại và thì thầm cùng ta chứ (...)Tôi biết ngày ấy thế nào cũng đến, lúc tôi nhắm mắt thôi không nhìn trái đất này, rồi cuộc đời sẽ thầm lặng ra đi, kéo manh che kín mắt tôi lần cuối (...)Khi tôi nghĩ đến phút giây cuối cùng ấy (...) nhờ ánh sáng lâm chung tôi thấy thế giới Ngài trần trề châu ngọc. Ở đó, chỗ nương thân tầm thường nhất cũng thú vị, ở đó cuộc đời hèn mọn nhất cũng thơm tho (...)Tôi đã được phép giã từ. Chúc tôi ra đi may mắn nhé, anh em! Tôi cúi đầu chào tất cả trước khi lên đường!"

V. LƠI NGUYÊN CHO MOI NGƯƠI Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Kitô là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta hãy tôn vinh Người và dâng lời cầu xin:

1. Chúa luôn hiện diện trong Hội thánh cho đến ngày tận thế / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các giám mục / linh mục / phó tế / biết luôn chu toàn sứ mạng dẫn dắt Dân Chúa trên con đường lữ thứ trần gian.2. Khát vọng sâu xa nhất của hết thảy mọi người trên trái đất này / là được sống trong hòa bình và thịnh vượng / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa ban cho thế giới được bình an / và mọi người thoát được cảnh đói nghèo.3. Khi sống lại từ cõi chết / Chúa đem niềm hy vọng đến cho những ai tin Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin Người thương nâng đỡ những kẻ tật nguyền đau yếu / cho họ mau bình phục / để họ sống mạnh khỏe an vui.

27

4. Lạy Chúa / Lạy Thiên Chúa của con / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / cũng biết noi gương thánh Tôma mà tuyên xưng niềm tin của mình / bằng đời sống mến Chúa yêu người.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, sau khi Phục sinh vinh hiển, Chúa đã hiện ra cho các tông đồ được thấy tỏ tường. Xin củng cố niềm tin còn quá yếu kém của chúng con. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lm. Carolô Hồ Băc Xái

LAY CHUA CON VA THIÊN CHUA CUA CONChủ đề: "Mỗi người chúng ta phải tuyên xưng đức tin của riêng mình vào Chúa Giêsu và nói rằng, "Lạy Chúa con và Thiên Chúa của con."

Lm. Mark Link, SJ

Một bác sĩ chuyên giải phẫu bàn tay, trong một bài báo được phát hành trên toàn quốc, ông viết rằng trong mọi cuộc giải phẫu, ở một điểm nào đó, ông đã phải kêu lên, "Lạy Chúa con và Thiên Chúa của con!"

Câu chuyện đằng công việc giải phẫu bất thường này được phát xuất trong thời gian ông ở Việt Nam. Một tối kia, sau khi mới tốt nghiệp y khoa, ông được gọi đến để lấy một viên đạn từ tay một người lính. Đã vậy, ông phải thi hành điều đó dưới ánh sáng của đèn pin. Cuộc giải phẫu ấy đã làm ông cảm động đến nỗi, sau cuộc chiến, ông quyết định chuyên ngành giải phẫu bàn tay.

28

Vì sự chuyên môn này, nhà phẫu thuật rất thấu hiểu sự đau đớn khủng khiếp gây nên bởi vật gì đó, tỉ như viên đạn, xuyên xé qua xương, bắp thịt, và các thần kinh của bàn tay.Ông nói cứ mỗi lần ông nghĩ về sự đau đớn khủng khiếp mà Chúa Giêsu phải chịu khi bị đóng đinh trên thập giá thì ông phải nhăn mặt.

Nói về bài phúc âm hôm nay, vị bác sĩ cho biết ông nghĩ rằng lời kêu than của Thánh Tôma, "Lạy Chúa của con và Thiên Chúa của con," không chỉ là một lời tuyên xưng đức tin, mà đó còn là lời sửng sốt bàng hoàng khi thấy các bàn tay của Chúa Giêsu bị xé nát và sứt sẹo biết chừng nào. Chỉ lúc bấy giờ Thánh Tôma mới thực sự nhận thức được sự đau đớn mà Chúa Giêsu đã chịu trên thập giá. Và sự khám phá đó, vị bác sĩ nói, "vượt quá mức chịu đựng của Thánh Tôma."

Vị bác sĩ này chấm dứt bài viết thật xúc động với lời chứng sau: "Mỗi lần tôi giải phẫu và nhìn vào bên dưới lớp da... của bàn tay con người, tôi được nhắc nhở rằng Đức Kitô đã hy sinh bàn tay lành lặn của Người vì tôi. Và, cùng với Thánh Tôma, tôi nói, 'Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con.'" Dr. C. Scott Harrison, Guideposts (April 1985)

Tôi thích câu chuyện này vì nó dẫn chúng ta về một điểm đức tin mà chúng ta thường hay quên. Điểm đó là:

Mỗi người chúng ta phải đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Chúa Giêsu . Chúng ta không thể tin chỉ vì bạn hữu chúng ta tin. Phải, đức tin của họ giúp đỡ chúng ta, nhưng điều đó chưa đủ. Chúng ta phải đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Chúa Giêsu, giống như vị bác

29

sĩ đã làm trong câu chuyện trên, và cũng như Thánh Tôma đã làm trong phúc âm hôm nay.

Và vì thế, hãy xem đến một vài trường hợp ngắn gọn của một số người, giống như chúng ta, đã đạt đến mức độ trực tiếp tin vào Chúa Giêsu.

Tác giả Robert Cleath được dẫn đến sự tin tưởng khi chiêm niệm về sự biến đổi không thể tin được đã xảy ra nơi các môn đệ của Chúa Giêsu vào ngày Phục Sinh.

Trước Phục Sinh, họ vỡ mộng, tiêu tan hy vọng. Sau Phục Sinh họ biến đổi một cách lạ lùng. Ngay cả họ được sức mạnh để làm phép lạ. Ông Cleath nói: "Không một giải thích nào đủ lý lẽ để giải thích về sự biến đổi đời sống của họ ngoại trừ chính họ: họ đã thấy Đức Giêsu... còn sống."

Ông Blaise Pascal, một thiên tài toán học, đã phải tin khi suy niệm về dữ kiện sau, đó là không có sự đe dọa ghê gớm nào, dù cái chết, có thể ngăn cản các môn đệ của Chúa Giêsu đừng hô lớn cho thế giới biết rằng Người đã sống lại.Ông Pascal cho biết, ông tin rằng có những người sẵn sàng "chịu cắt cổ" vì điều họ rao giảng.

Và sau cùng, là những tù nhân ở trong trại tù bên sông Kwai. Qua những cảm nghiệm của chính họ về quyền năng của Chúa Giêsu đang hoạt động trong đời sống của họ mà họ đã phải tin. Nên nhớ rằng các tù nhân buộc phải làm việc dưới ánh nắng gay gắt mà không được đội nón và đi chân không. Chỉ sau một vài tuần, những người vạm vỡ trở thành các bộ xương biết đi. Nhuệ khí chỉ còn là con số không. Phải thi hành một điều gì đó.

30

Chính vào lúc này, hai tù nhân trong trại phân chia các tù nhân khác thành nhóm nhỏ để học hỏi Kinh Thánh. Từ việc học hỏi này, các tù nhân biết rằng Chúa Giêsu đã sống lại và đang ở giữa họ. Tất cả những gì họ phải làm là tìm đến với Người. Khi các tù nhân tìm đến với Chúa Giêsu, họ cảm nghiệm được sự biến đổi lạ lùng trong đời sống của họ. Chính cảm nghiệm này đã giúp họ quỳ xuống và nói với Chúa Giêsu rằng, "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con."

Điều này giúp chúng ta nhìn lại chính con người của mình. Chúng ta cũng phải tin nơi Chúa Giêsu một cách cá biệt. Chúng ta cũng phải tìm ra lý do của riêng mình để giúp chúng ta quỳ xuống và nói với Chúa Giêsu rằng, "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con."

Chúng ta không thể ngược dòng thời gian đi vào lịch sử 2,000 năm trước với ngày Phục Sinh đầu tiên. Chúng ta không thể đặt ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay của Chúa Giêsu, như Thánh Tôma đã làm. Chúng ta không thể giải phẫu bàn tay con người, như vị bác sĩ đã làm, để qua cảm nghiệm ấy biết được sự đau khổ vô cùng mà Chúa Giêsu đã phải chịu.

Chúng ta có thể làm như các tù nhân ở sông Kwai đã làm.Chúng ta có thể tin vào Phúc Âm. Chúng ta có thể đến với Chúa Giêsu qua đức tin. Từ những cảm nghiệm của riêng mình, chúng ta có thể khám phá rằng Chúa Giêsu đã sống lại ở giữa chúng ta và sẵn sàng giúp đỡ chúng ta, cũng như Người đã giúp đỡ các tù nhân. Đây là lời mời gọi mà bài Phúc Âm hôm nay đưa ra cho chúng ta. Đây là lời mời gọi mà chính Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta khi Người nói với

31

Thánh Tôma: "Có phải anh tin là vì anh thấy Thầy? Phúc cho những ai không thấy mà tin!" Gioan 20:29

Anh chị em thân mến trong Chúa Kitô, khi Chúa Giêsu nói với Thánh Tôma, "Thật phúc cho những ai không thấy Thầy mà tin!" đó là Chúa nói với chúng ta. Người nói với hàng tỉ người Kitô Hữu trong lịch sử rằng: "Phúc cho các con nếu các con tin vào Phúc Âm. Phúc cho các con nếu các con đến với Thầy qua đức tin. Thật vậy, phúc cho các con vì các con sẽ khám phá ra điều mà các tù nhân đã làm. Các con sẽ khám phá ra rằng Thầy đã sống lại, Thầy đang sống, ngay bây giờ Thầy đang ở giữa các con, sẵn sàng để giúp đỡ các con."

Chúng ta hãy chấm dứt với một bài thơ. Một độc giả ở Cedar Rapid, Iowa , gửi cho bà Ann Landers. Bà đã in lại trong tiết mục của bà trong tờ báo ngày Chúa Nhật Phục Sinh. Bài thơ gửi cho những người như chúng ta, mà trong những lúc yếu đuối, nhiều khi chúng ta bị cám dỗ nghi ngờ không biết Thiên Chúa có thực sự hiện diện hay không, và nếu Người hiện diện, không biết Người có lo lắng gì đến chúng ta không. Bài thơ viết:"Này bạn, là người không thể di chuyển nổi một vì sao,Không làm nổi một ngọn núi từ mặt đất,Hoặc vẽ ra được đường nét của một hoa tuyếtHay hiểu được sự lạ lùng của sự sinh nở,

"Này con người kiêu ngạobạn không thể thay đổi vũ trụ trong bất cứ phương cách nào,Hay tạo thành một búp hoa, hay thả ra một giọt mưaHay tung ra một cụm mây vào ngày nắng đẹp,

32

"Ôi người trần tục, ngươi không thể vẽ ra cảnh hoàng hônHay tạo ra cảnh bình minh le lói.Ôi con người nhỏ béNgươi không thể tạo ra dù chỉ một phép lạ,Sao ngươi dám nghi ngờ Đấng duy nhất có thể làm được điều đó." Vô Danh

Lm. Mark Link, SJ

CHUA NHÂT II PHUC SINH - CLm. Augustine, SJ

Những Dòng Chữ Hết Sức Lạ Lùng Sau một trận chiến khốc liệt, giữa bao xác chết ngổn ngang trên trận địa, người ta tìm thấy đủ mọi kỷ vật nơi túi áo những binh sĩ Nga đã ngã gục dưới bom đạn. Trong số những thứ được kể như có giá trị nhất về thiêng liêng, phải kể đến một bức thư trong đó người ta đọc thấy những dòng chữ hết sức lạ lùng về lòng tin của một người thanh niên từng lớn lên và được giáo dục theo chủ thuyết vô thần!

Chỉ nhờ một hồng ân đặc biệt đến thẳng từ trời cao, người thanh niên này mới có thể tin vào Đấng mà mắt phàm anh không thể thấy được. Anh chỉ nhận thấy Người hiện hữu qua bầu trời với bao tinh tú lấp lánh đẹp đẽ một cách lạ thường! Anh không chỉ tin Người trong đầu óc anh, nhưng lòng anh thực sự đã rung động khi anh viết những dòng sau đây để thưa thốt với Người:

33

"Lạy Chúa, Chúa có nghe thấy tiếng con không? Con chưa hề bao giờ nói chuyện với Chúa. Nhưng ngày hôm nay đây con cảm thấy nhu cầu cần phải chào hỏi Chúa. Con biết rằng ngay từ lúc con còn thơ ấu, người ta đã không ngừng lặp đi lặp lại với con rằng "Chúa không hiện hữu. Không có Chúa đâu!" Và con, con thật dại dột ngu si đến độ đã tin rằng điều đó là thật, nghĩa là không có Chúa. "Cho đến giờ phút này đây con cũng chưa bao giờ để ý hoặc chiêm ngưỡng vẻ đẹp thiên nhiên. Chỉ mới ngày hôm nay con mới nhận ra vẻ đẹp này. Đối diện với trái đất và bầu trời lấp lánh đầy sao trên đầu con, con lặng lẽ chiêm ngắm vẻ đẹp tuyệt vời của bầu trời rực rỡ với muôn tinh tú. Oi đẹp biết chừng nào! Làm sao mà con đã có thể bị lừa dối một cách phủ phàng cay đắng đến thế!

"Lạy Chúa, con không biết Chúa có giơ tay tiếp nhận con không. Nhưng phần con, con xin xưng thú điều này với Chúa và con tin rằng Chúa sẽ hiểu con: Đó là một phép lạ đã xảy ra. Bởi vì giữa vực thẳm của trần gian khủng khiếp này, ánh sáng đã chiếu dọi, và con đã tìm thấy ánh sáng. Con sẽ không nói với Chúa điều gì khác nữa ngoài việc bày tỏ với Chúa niềm vui vì được biết rằng Chúa thực sự hiện hữu. Chúa là Đấng hằng sống. "Chúng con đã được lệnh đúng nửa đêm nay phải bắt đầu cuộc tấn công. Nhưng kể từ giờ phút này con không còn sợ hãi gì nữa cả, bởi vì con biết rằng Chúa đang chăm chú nhìn con.

"Thôi Chúa ơi, đã có tiếng còi báo hiệu rồi. Phải làm sao bây giờ? Con không có lựa chọn nào khác hơn là phải thi hành quân lệnh. Tuy nhiên nếu được ở yên nơi đây với Chúa, thì thật là tuyệt diệu, êm ái biết chừng nào!

34

Có Lẽ Đêm Nay Con Sẽ Gõ Cửa Nhà Chúa "Con còn muốn vội vàng bày tỏ thêm với Chúa điều này nữa: Chúa biết không, trận chiến này sẽ vô cùng khốc liệt. Có lẽ ngay đêm nay con sẽ đến gõ cửa nhà Chúa, dù rằng con đã không bao giờ là bạn hữu của Chúa. Nhưng Chúa có cho phép con vào cư ngụ nơi nhà Chúa không? Coi kìa, người ta sẽ bảo rằng con đang khóc! Nhưng Chúa có thấy là một điều lạ lùng đang xảy ra nơi con không? Sở dĩ con khóc là vì đôi mắt tinh thần của con đã được mở ra.

"Lạy Chúa, xin hãy tha thứ cho con. Con sắp xông vào trận chiến. Con biết chắc chắn rằng con sẽ không còn sống sót để trở về với gia đình nữa. Nhưng mà lạ lùng và tuyệt diệu thay! Con không cảm thấy sợ chết chút nào! Dù sống trong hoàn cảnh nào, dù không được biết đến Chúa hay cố tình chối bỏ và chống lại Chúa, con người vẫn luôn là đối tượng của tình thương nhân hậu và khoan dung, tình thương của một Thiên Chúa chỉ biết yêu thương tha thứ và không ngừng theo đuổi con người."

Điều nổi bật trong bài Tin Mừng hôm nay dĩ nhiên là niềm tin của tông đồ Tôma. Ông đã được Chúa Giêsu Phục Sinh chiếu cố hiện ra một cách đặc biệt dành riêng cho ông. Chính nhờ vậy mà lòng tin của ông được biến chuyển. Ông đã ra mềm lòng để thưa với Chúa "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con." (c.28).

Nhưng liền sau đó, Chúa Giêsu Phục Sinh còn chiếu cố và quan tâm tới niềm tin của bao người khác nữa khi Người nói với ông Tôma: "Vì đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" (c.29). Những người không

35

thấy mà tin nói đây, thực sự phải bao gồm cả người lính Nga được ơn trở lại để tin vào Chúa ở phút chót của đời anh, cũng như phải bao gồm mọi người tin vào Thiên Chúa mà mắt họ chưa hề thấy.

Bài Tin Mừng trước hết cho thấy mười môn đệ đã thấy và đã tin vào Chúa Phục Sinh, nhờ đó các ông được vui mừng (cc.19-20). Riêng Tôma vắng mặt không tin lời mười ông kia kể lại mà còn đòi phải đụng chạm tới Thầy thì ông mới tin (c.25).

Đòi Đụng Chạm Tới Cạnh Sườn Và Các Lỗ Đinh Vậy Gioan lần lượt cho ta thấy niềm tin vào Chúa Phục Sinh ở những cấp độ khác nhau. Thoạt tiên, người môn đệ được Chúa Giêsu yêu chỉ thấy các băng vải và khăn che mặt nơi mộ trống mà đã tin (Ga 20,5-8). Kế đến là Maria Mácđala thấy Chúa Giêsu nhưng không nhận ra Người cho tới khi Người gọi cô đích danh (c.16). Tiếp theo là mười môn đệ đã thấy Chúa và đã tin (c.20). Còn Tôma thì đòi điều kiện là chính ông phải được đụng chạm tới cạnh sườn và các lỗ đinh nơi thân xác Chúa thì ông mới tin (c.25).

Như vậy một cách tinh vi, Gioan nêu vấn đề về niềm tin của các thế hệ tương lai. Niềm tin ấy sẽ theo mẫu nào: như niềm tin của người môn đệ Chúa Giêsu yêu? Của Maria Mácđala? Của mười môn đệ? Hay của ông Tôma?

Thực ra câu hỏi tương đương như vậy đã được đặt ra liên quan tới biến cố Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Người trong Cựu Ước tại núi Sinai. Biến cố ấy có tầm ảnh hưởng như thế nào đối với các thế hệ kế tiếp của dân Do Thái qua

36

các thế kỷ? Vào khoảng năm 250 sau Đức Kitô, một bậc thầy của người Do Thái trả lời như sau về những người nhập Do Thái Giáo từ các đạo khác: "Họ được Thiên Chúa yêu quí hơn dân Ít-ra-en xưa tại núi Sinai. Bởi lẽ dân Ít-ra-en xưa đã không chấp nhận Luật Chúa nếu họ không được chứng kiến sấm sét, lửa cháy, núi đồi rung chuyển cũng như những tiếng kèn ầm vang. Riêng những người nhập đạo chẳng được thấy những điều gì như vậy mà họ cũng phó thác bản thân họ cho Thiên Chúa và chấp nhận Luật Chúa. Thử hỏi còn có ai đáng quí hơn những con người đáng kể như vậy?"

Không Thấy Mà Tin Cũng vậy, Chúa Giêsu Phục Sinh trong bài Tin Mừng hôm nay ca ngợi đa số dân Thiên Chúa trong Tân Ước là những người chưa bao giờ được thấy Đức Kitô tận mắt mà họ cũng tin. Chính nhờ Chúa Thánh Linh dẫn đưa nên họ mới có thể nhìn nhận Đức Kitô là Chúa và là Thiên Chúa của họ. Như vậy bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Đấng Phục Sinh quan tâm đến hoàn cảnh của đa số các Kitô hữu khắp nơi trên thế giới qua các thời đại. Đức tin của họ được đánh giá cao theo hướng đức tin của người môn đệ Chúa Giêsu yêu, là người không thấy Chúa nhưng đã tin dựa vào một số dấu chỉ mà thôi (Ga 20,5-8).

Rõ ràng trường hợp người lính Nga trong câu chuyện nói trên chỉ nhờ vào dấu chỉ là thiên nhiên đẹp đẽ tuyệt vời mà tin và phó thác bản thân cho Thiên Chúa. Có lẽ chỉ tới ngày phán xét chung người ta mới được thấy rõ tương quan giữa anh và Thiên Chúa như thế nào. Hay nói theo Đức Gioan Phaolô II là "Tóm lại, chỉ mình Thiên Chúa mới cứu được

37

con người miễn là con người cùng cộng tác vào. Việc con người có thể cộng tác vào công trình cứu độ của Thiên Chúa chính là điều làm cho con người nên cao cả. Sự kiện con người được mời gọi làm việc với Thiên Chúa cho cùng đích đời mình, tức là cho ơn cứu độ và công cuộc thần hóa bản thân, đã được truyền thống Đông Phương gọi là "thần nhân đồng tác" (Synergisme): Cùng với Thiên Chúa, con người "tạo nên" thế giới; cùng với Thiên Chúa, con người "làm nên" ơn cứu độ của mình. Việc thần hoá con người là việc của Thiên Chúa, nhưng dẫu vậy, con người vẫn luôn phải cộng tác với Người." (Entrez dans l"Espérance, Plon-Mame, 1994, p.284).

Một số câu hỏi gợi ý1. Bạn nghĩ niềm tin của bạn đối với Chúa Giêsu Phục

Sinh giống niềm tin của ai: Của người môn đệ Chúa yêu? Của Maria Mácđala? Của mười tông đồ? Của tông đồ Tôma?

2. Chính bạn có bao giờ được đánh động do thiên nhiên đẹp đẽ tuyệt vời như người lính Nga trong câu chuyện nói trên? Trong trường hợp đó, bạn nói gì với Thiên Chúa về những điều kỳ diệu Người làm trước mắt bạn?

3. Bạn nghĩ gì về cuộc trở lại của người lính Nga trong câu chuyện nói trên?

Lm. Augustine, SJ

38

HAY NHIN XEMLm. Antôn Nguyên Cao Siêu, SJ

LƠI CHUA: Ga 20,19-31 19 Chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Dothái. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an!" 20 Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.

21 Người lại nói với các ông: "Bình an cho anh em! như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em". 22 Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: "Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. 23 Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ".

24 Một người trong Nhóm Mười Hai, tên là Tôma, cũng gọi là Ðiđymô, không ở với các ông khi Ðức Giêsu đến. 25 các môn đệ khác nói với ông: "Chúng tôi đã được thấy Chúa!" Ông Tôma đáp: "Nêu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin".

26 Tám ngày sau, các môn đệ Ðức Giêsu lại có mặt trong nhà, có cả ông Tôma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Ðức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: "Chúc anh em được bình an" 27 Rồi Người bảo Tôma: "Ðặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Ðưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Ðừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". 28

Ông Tôma thưa Người: "Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa

39

của con!" 29 Ðức Giêsu bảo: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!"

30 Ðức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. 31 Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.  SUY NIÊM Thân xác chúng ta thường mang những vết sẹo, hậu quả của những lần bị trầy trụa, té ngã. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng kỷ niệm. Dù vui hay buồn thì cũng là chuyện đã qua. Vết sẹo làm ta kém đẹp, nhưng không làm đau như xưa.

Khi Ðức Giêsu phục sinh hiện ra thăm các môn đệ, Ngài giúp họ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Ðấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được cái chết. Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Chúa phục sinh có sẹo, dù điều đó chẳng đẹp gì. Ngài không ngượng mà cho các môn đệ xem. Những cái sẹo sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Chúng gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có chúng thì cũng chẳng có phục sinh. Chẳng cần phải xóa đi khỏi ký ức cuộc khổ nạn kinh hoàng và cái chết nhục nhã.

Chúng ta cũng lên thiên đàng với các vết sẹo của mình.

40

Sống ở đời sao tránh khỏi những dập gẫy, thương tích. Nếu chúng ta đón nhận mọi sự với tình yêu thì mọi sự sẽ trở nên nhịp cầu cứu độ.

Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành.Có những vết thương tưởng chẳng thể nào thành sẹo Chúng ta có dám cho người khác thấy sẹo của mình không? Cuộc khổ nạn của Thầy đã làm các môn đệ bị thương. Các vết sẹo của Thầy sẽ chữa lành những vết thương đó. Hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Chính lúc đó ông khám phá thật sâu một Tình Yêu. Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại. Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Ông đâu dám mong Thầy sẽ đích thân hiện đến để thỏa mãn những đòi hỏi quá quắt của mình. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông ra khỏi được sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt khỏi cái thấy. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu Tôma, nhưng chúng ta vẫn được thấy Chúa theo những kiểu khác.Cần tập thấy Chúa để rồi tin. Có khi phải tập nhìn lại những vết sẹo của mình, của Hội Thánh, của cả thế giới, để rồi tin rằng Chúa phục sinh vẫn đang có mặt giữa những trăn trở và vấp váp, thất bại và khổ đau. "Phúc cho những ai không thấy mà tin", và phúc cho những ai biết thấy nên tin. 

41

GƠI Y CHIA SE Ðọc lại bài Tin Mừng trên, bạn thấy Chúa Phục Sinh

đã tặng cho các môn đệ những món quà nào? Chắc các môn đệ khác đã thấy khó chịu trước thái độ

của ông Tôma. Tập thể nào cũng có những Tôma!  Thái độ của Chúa Giêsu có giúp bạn giải gỡ những xung đột trong nhóm của bạn không?

  CÂU NGUYÊN Lạy Chúa,xin cho con luôn vui tươi.dù có phải lo âu và thống khổ,xin cho con đừng bao giờ khép lại với chính mình;nhưng biết nghĩ đến những người quanh con,những người - cũng như con - đang cần một người bạn.

Nếu như con nên yếu đuối,thì xin cho con biết yêu thương và sáng suốt hơn,thông cảm và nhân từ hơn. Nếu bàn tay con run rẩy,thì xin giúp con luôn biết mở ra và cho đi.khi lâm tử,xin cho con biết đón nhận khổ đau và bệnh tậtnhư một lời kinh.

Ước chi con sẽ chết trong khiêm hạ và tín thác,như một lời xin vâng cuối cùng.Và con sẽ về nhà Chúa,để dự tiệc yêu thương muôn đời. Amen.

Lm. Antôn Nguyên Cao Siêu, SJ

42

CHƯNG NHÂN PHUC SINHLm. Phạm Thanh Liêm, SJ

Không phải chỉ có ông Thomas cứng tin, vì tất cả các tông đồ khác cũng đâu có tin Đức Giêsu Phục Sinh (Mc.16, 9-14) cho đến khi chính các ông được Ngài hiện ra cho (Ga.20, 19-23); tuy nhiên ông Thomas được coi là người cứng tin vì ông đã phát biểu rõ ràng lập trường của mình: “nếu tôi không thấy các dấu đinh nơi tay người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và nếu tôi không tra bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi chẳng tin” (Ga.20, 25). Tinh thần “thực nghiệm” của Thomas đâu có kém tinh thần “cân đo đong đếm” của con người ngày nay. Tất cả các tông đồ chỉ tin Đức Giêsu Phục Sinh khi các ông đã được thấy Ngài, tuy dù đã ba lần Ngài báo trước Ngài sẽ bị bắt, bị giết, và ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại (Mc.8, 31; 9, 31; 10, 33-34), tuy dù các chị phụ nữ đã báo cho các ông biết Chúa đã phục sinh.

Các tông đồ đã trở thành chứng nhân phục sinh (Cv.10, 39-43), và có nhiều người tin lời rao giảng của các tông đồ. Họ là những Kitô hữu tiên khởi. Nếu Đức Giêsu chỉ là người, nếu Đức Giêsu phục sinh chỉ có ích lợi riêng cho bản thân Ngài, thì chắc người khác không phải quan tâm nhiều đến biến cố này như vậy, và các tông đồ cũng không cần phải đem cả sinh mạng ra làm chứng, vì điều đó đâu có ích gì cho các tông đồ cũng như cho người khác. Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh phải có thật quan trọng thì các tông đồ mới phải xả thân loan tin mừng phục sinh và dám đem chính mạng sống mình bảo đảm cho lời loan báo này. Thật vậy, theo những chứng nhân phục sinh, Đức Giêsu Phục Sinh là

43

một sự kiện ảnh hưởng đến số phận tất cả con người, liên hệ đến sự sống và hạnh phúc của mọi người.

Đức Giêsu phục sinh chỉ là sự kiện khởi đầu, là dấu chỉ của thực tại khôn dò: Ngài là Đấng Vô Cùng Đặc Biệt. Qua biến cố Đức Giêsu Phục Sinh, người ta biết, Đức Giêsu không chỉ là người. Ngài là Đấng luôn kết hiệp với Thiên Chúa, Ngài lấy Ý Cha làm ý Ngài (Mc.14, 36), đến độ coi Ý Cha là lương thực nuôi sống Ngài (Ga.4, 34). Với tác giả sách Khải Huyền, Đức Giêsu là đầu và là cuối: “Ta là đầu và là cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời; Ta giữ chìa khóa tử thần và âm phủ” (Kh.1, 17-18). Biến cố Đức Giêsu Phục Sinh là biến cố sinh tử đối với con người. Vì Ngài đã phục sinh, người ta nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa nhập thể, qua đó người ta nhận ra Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Thiên Chúa tha thứ mọi lỗi lầm cho con người. Thiên Chúa muốn con người sống và sống hạnh phúc vĩnh cửu với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người hạnh phúc ở đời sau và ngay cả ở đời này nữa. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt cho con người, và Ngài sẽ làm tất cả nên tốt cho những kẻ yêu mến Thiên Chúa.

Tất cả các tông đồ trở thành chứng nhân của Đức Giêsu Phục Sinh. Giáo Hội tiếp tục sứ mạng của các tông đồ, luôn rao giảng Đức Giêsu Phục Sinh. Nếu người ta tin nhận Đức Giêsu Phục Sinh, thì người ta có cơ hội nhận ra chân tướng của Đức Giêsu, nhận ra sứ điệp Thiên Chúa muốn nói với con người qua Đức Giêsu: Thiên Chúa yêu thương thế gian đến độ đã ban Con Một Ngài cho thế gian, để những ai tin Con Ngài, thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời. Sứ mạng của Đức Giêsu là làm cho con người tin nhận

44

Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, để họ phó thác đời họ cho Thiên Chúa, ngay cả khi họ gặp khó khăn tưởng chừng như tuyệt vọng. Tin vào Thiên Chúa tình yêu, giúp con người sống trong bình an và hy vọng, giúp người ta sống bình an hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh.

Mỗi Kitô hữu được mời gọi để trở thành chứng nhân của Đức Kitô Phục Sinh. Là chứng nhân của Đức Giêsu Phục Sinh, là thực hiện sứ mạng của Đức Giêsu. Sứ mạng của Đức Giêsu là làm sao để con người tin thực Thiên Chúa yêu thương con người. Đức Giêsu đã yêu con người đến cùng, đã hiến mạng cho con người. Bí tích Thánh Thể là bằng cớ cho thấy Đức Giêsu yêu thương con người đến độ nào. Cái chết trên thập giá của Đức Giêsu cho người ta nhận ra tình yêu của Ngài và của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng.

Kitô hữu phải yêu thương con người hôm nay như Đức Giêsu đã yêu thương con người thời của Ngài. Chỉ khi yêu thương những con người cụ thể sống với mình, Kitô hữu mới có thể làm chứng cho họ thấy rằng Thiên Chúa yêu thương họ. Đức Giêsu đã yêu thương con người đến hy sinh chính bản thân mình, yêu đến hiến dâng chính mạng sống, yêu đến chết, mong rằng khi con người thấy tình yêu của Ngài đối với họ, họ sẽ rung động trước tình yêu của Thiên Chúa và sẵn sàng đáp trả tình yêu. Đến lượt mình, các Kitô hữu cũng phải yêu đến độ hy sinh cho những người mình sống với, để họ nhận ra Thiên Chúa yêu thương họ qua các Kitô hữu. “Thầy mang lửa xuống trần gian, thầy mong ước gì nếu không phải là muốn cho lửa ấy bừng cháy lên” (Lc.12, 49).

45

Câu hỏi gợi ý chia sẻ1. Tại sao bạn tin Đức Giêsu đã phục sinh?2. Bạn có thấy niềm tin vào Đức Giêsu Phục Sinh chi

phối cuộc đời bạn không? Xin chia sẻ.

Lm. Phạm Thanh Liêm, SJ

CHUA NHÂT PHUC SINH - CChúa Nhật II Phục Sinh tiếp tục tưởng niệm sự Phục Sinh và những hoa trái vô tận của nó. Trong cả ba năm phụng vụ, Chúa Nhật II Phục Sinh này là một Chúa Nhật của Đức Tin.

Lm. Ignatiô Hồ ThôngCv 5: 12-16Đức tin của các tín hữu tiên khởi được thể hiện ở nơi sự đồng tâm nhất trí của họ gây nên một sự thán phục và lôi kéo những người theo đạo mỗi ngày một đông hơn. Đức tin của các Tông Đồ mà những việc lạ lùng họ thực hiện làm chứng rằng Đấng Phục Sinh khải hoàn đang hoạt động.

Kh 1: 9-11a, 12-13, 17-19Đức tin của nhà thấu thị Pát-mô, được soi sáng bởi thị kiến vinh quang về Đức Ki-tô Phục Sinh, thật sự là bảo chứng của niềm hy vọng và an ủi cho các Ki-tô hữu bị bách hại.

Ga 20: 19-31Đức tin của thánh Tô-ma Tông Đồ đã trải qua từ nghi nan ngờ vực đến bằng chứng tỏ tường về sự Phục Sinh. Chúa Giê-su công bố: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”.

BAI ĐOC I Cv 5: 12-16Trong những chương đầu tiên sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca nhiều lần phác họa cuộc sống của cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem. Mỗi năm trong ba năm phụng vụ dâng hiến cho chúng ta một trong những

46

bức phác họa này. Vào năm A, chúng ta đọc bức phác họa đầu tiên: xoay quanh cộng đoàn huynh đệ và đời sống cầu nguyện (Cv 2: 42-47); vào năm B, bức phác họa thứ hai: tập trung vào cộng đồng mọi sự đều là của chung (4: 32-35). Vào năm C này, chúng ta đọc bức phác họa thứ ba: nêu bật những việc lạ lùng mà các Tông Đồ thực hiện.

1. Một cộng đoan mẫu mưc:Cộng đoàn Ki tô hữu ở giữa lòng cộng đoàn Do thái hình thành nên một khuôn mẫu đạo đức, nhiệt thành và một lòng một ý với nhau: “Mọi tín hữu đều đồng tâm nhất trí, thường hội họp tại hành lang Sa-lô-mon”.

Hành lang Sa-lô-mon là hành lang rộng nhất và chứa nhiều người nhất trong số các hành lang bên trong Đền Thờ; hành lang này chạy dài suốt bức tường phía đông của sân dành cho dân ngoại. Ấy vậy, Hê-rô-đê đại đế tái thiết không chỉ Đền Thờ nhưng còn những bức tường thành, vì thế, sân trước được mở rộng gấp hai lần, cũng như những hành lang đã được xây dựng lại rộng rãi theo kiến trúc Hy-lạp. Những người Ki-tô hữu tiên khởi có thể tụ họp đông đúc ở đây, vì hành lang này dành cho dân ngoại. Thánh Phê-rô thường ngỏ lời với đám đông ở đây.

Những Ki-tô hữu tiên khởi, xuất thân từ Do thái giáo, tiếp tục tham dự đời sống tôn giáo của dân Ít-ra-en: “Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ” (Cv 2: 46); họ ý thức rằng niềm tin vào Chúa Ki-tô không đoạn tuyệt nhưng kiện thành niềm tin Do thái giáo; niềm tin Do Thái giáo của họ nhường chỗ cho Chúa Ki-tô Phục Sinh. Đó là lý do tại sao thánh Lu-ca gọi họ là “tín hữu”. Họ muốn làm chứng niềm tin của mình vào Đấng Phục Sinh ở giữa lòng Thành

47

Thánh, bất chấp những nguy hiểm mà họ có nguy cơ gặp phải và điều này sẽ được xác minh rất nhanh. Sự đoạn giao sẽ đến từ phía giai cấp lãnh đạo Do thái giáo, chứ không từ phía dân chúng, dân chúng “ca tụng họ”. Trước đây, thánh Lu-ca cũng đã nói rằng các Ki tô hữu “ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến” (Cv 2: 47). Số tín hữu mỗi ngày mỗi thêm đông: “Càng ngày càng có thêm nhiều người tin vào Chúa: cả đàn ông đàn bà rất đông”. Qua biểu thức tuyệt vời này, thánh Lu-ca nêu bật rằng những người mới theo đạo không kết nạp mình vào một nhóm, nhưng gắn bó với con người của Chúa Ki-tô.

2. Nối tiếp sư mang của Đưc Giê-su:“Nhiều dấu lạ điềm thiêng được thực hiện trong dân, nhờ bàn tay các Tông Đồ”. Đây là cách diễn tả rất khái quát mà thánh Lu-ca đã sử dụng rồi và thánh nhân sẽ còn sử dụng nữa (x. 2: 43; 6: 8); thánh nhân cho những chi tiết chỉ trong vài trường hợp xác định: việc chữa lành một người què bên Cửa Đẹp (3: 1-9), hay chữa một người tê bại ở Lốt (9: 32-35), hoặc cho một người chết sống lại ở Gia-phô (9: 36-42). Ở đây chỉ hai điều ghi nhận đặc biệt: việc đám đông hâm mộ thánh Phê-rô chứng nhận rằng họ nhận ra ở nơi thánh nhân “vị lãnh tụ của các tín hữu”; và danh tiếng của các Tông Đồ vượt ra bên ngoài thành thánh Giê-ru-sa-lem.

Những việc lạ lùng mà các Tông Đồ thực hiện được định vị vào trong cùng một bối cảnh với những việc lạ lùng mà Chúa Giê-su đã thực hiện; chúng nhằm nâng đỡ sứ điệp. Nói một cách chính xác, những việc lạ lùng này cho thấy rằng sứ điệp của các Tông Đồ đồng nhất với sứ điệp của Chúa Giê-su, và đồng thời Đấng Phục Sinh đang hiện diện và hoạt động qua các môn đệ của Ngài.

48

Chúng ta nên lưu ý rằng thánh Lu-ca cho rằng niềm tin được lan tràn không do những việc lạ lùng của các Tông Đồ, nhưng do cách ăn nếp ở của các tín hữu khiến dân chúng thán phục.

BAI ĐOC II Kh 1: 9-11a, 12-13, 17-19Nhà giảng thuyết lừng danh, Giám Mục Bossuet, đã định nghĩa sách Khải Huyền của thánh Gioan là “Tin Mừng về Đấng Phục Sinh”. Quả thật, toàn bộ tác phẩm này, với muôn vàn hình ảnh, ca ngợi vinh quang của Chúa Ki-tô khải hoàn, Con Chiên sát tế đã trải qua từ sự yếu đuối đến quyền năng, cùng ngự trị với Thiên Chúa và khai mở một cuộc chiến vĩ đại chống lại những thế lực sự ác. Ngài diệt trừ triệt để thế lực sự ác, trong khi lại ban muôn vàn ân phúc cho những người được tuyển chọn ở thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.

Vào Mùa Phục Sinh này, phụng vụ giới thiệu cho chúng ta những đoạn trích sách Khải Huyền trong sáu tuần lễ liên tiếp. Hôm nay chúng ta đọc thị kiến khai mạc, thị kiến này giới thiệu toàn bộ sách, nhưng đặc biệt hơn, giới thiệu phần thứ nhất từ chương 1 đến chương 4.

1. Khải Huyên:Từ “Khải Huyền” được phiên dịch từ từ Hy-lạp: “apocakalupto” (“apo”: tách riêng ra, và “kulupto”: che dấu) để chỉ “những điều bí nhiệm được vén mở ra”, đồng nghĩa với từ “mặc khải”, từ đầu tiên của sách Khải Huyền: “Mặc khải của Đức Giê-su, mặc khải mà Thiên Chúa đã ban cho Người, để Người tỏ cho các tôi tớ Người biết những việc sắp phải xảy đến”.

49

Văn chương Khải Huyền phát sinh vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, để tiếp tục sự nghiệp của trào lưu ngôn sứ vào lúc đó đã biến mất. Văn chương Khải Huyền này rất gần với văn chương bói toán Đông Phương: vén mở những bí nhiệm, giải thích những giấc mộng, vân vân; văn chương này cốt yếu dùng ngôn ngữ biểu tượng. Những hình ảnh, màu sắc, con số, sự vật hay con vật, những điều huyền hoặc là những lối nói phóng dụ, không dể giải mã ý nghĩa của chúng.

Sách Khải Huyền đầu tiên là sách Đa-ni-en (đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên); văn thể này đã được vài bản văn Giô-en, Ê-dê-ki-en, Da-ca-ri-a dọn đường. Sách Khải Huyền của thánh Gioan mượn rất nhiều ở nơi các vị tiền nhiệm này.Sách Đa-ni-en đã được viết khi dân Do thái phải chịu cuộc bách hại dưới thời thống trị của vua Sy-ri, An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, giữa những năm 167 và 164 trước Công Nguyên. Mục đích của tác giả là an ủi các tín hữu trung thành, phải đối mặt với những hành động tàn bạo và cái chết, đồng thời cho họ nghe tiếng nói tràn đầy hy vọng. Đó cũng là ý định của thánh Gioan khi viết tác phẩm Khải Huyền này vào thời kỳ bách hại dữ dội, chính thánh nhân cũng bị lưu đày ở đảo Pát-mô. Chắc chắn đây là cuộc bách hại của hoàng đế Đô-mi-xiên vào những năm 93-96, sau Công Nguyên, tuy nhiên, vài đoạn văn có thể đặt niên biểu vào cuộc bách hại của vua Nê-ron (năm 64 sau Công Nguyên). Tác giả nhằm nâng đỡ những người Ki-tô hữu “kiên trì chịu đựng” (diễn ngữ này được lập đi lập lại nhiều lần) trong cảnh đời gian truân thừ thách, đặc biệt khi phải đối mặt với cuộc tử đạo, đồng thời

50

cho họ thoáng thấy vinh quang tương lai bên cạnh Chúa Ki-tô khải hoàn.

Cái khung văn chương này dâng hiến hai lợi ích: trước hết, những hình tượng cho phép thiết lập ngôn ngữ mật mã, một sự cẩn trọng cần thiết trước thế lực bách hại. Vì thế, Rô-ma không được nêu tên ; nó được chỉ dưới những ngôn từ khác nhau: Ba-by-lon, Con Vật, con điếm, con số 666. Thứ nữa, những sách khải huyền có mối liên hệ gần gũi với thể loại ngôn sứ, vì thế, nhà thấu thị Pát-mô muốn truyền đạt một sứ điệp với tư cách ngôn sứ.

2. Tôi la Gioan…Những sách khải huyền Do thái có một nét đặc trưng chung là vô danh. Tác giả không nêu tên mình; họ cẩn trọng đặt nhan đề tác phẩm của mình theo tên một nhân vật quá khứ lừng danh, như tác giả sách Đa-ni-en đã làm (ông Đa-ni-en đã sống vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên trong khi tác giả sách Đa-ni-en sống vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên). Cũng một cách như vậy, sách Ê-nốt (tên của một tổ phụ), sách Quy Thiên của ông Mô-sê, sách thứ tư của ông Ét-ra, sách Khải Huyền của ông Ba-rúc..

Trái lại, các sách ngôn sứ đều nêu tên chính vị ngôn sứ ấy: “Có Lời của Đức Chúa phán với…” ông A-mốt, ông Hô-sê, ông I-sai-a, ông Giê-rê-mi-a, ông Ê-dê-ki-en, vân vân. Tức khắc, thánh Gioan phá vỡ tập quán của các sách khải huyền Do thái: ông tự nêu tên mình và tự định vị mình vào hàng ngũ các ngôn sứ. Các sách khải huyền Do thái xoay quanh sự đăng quang của thời cánh chung, trong khi sách Khải Huyền của thánh Gioan đem đến câu trả lời Ki tô giáo: sự

51

đăng quang này sẽ là sự đăng quang của Chúa Ki-tô, Con Chiên bị sát tế khải hoàn.

Gioan là ai? Truyền thống xa xưa nhất nhận dạng ông với vị Tông Đồ, con ông Dê-bê-đê, tác giả Tin Mừng Thứ Tư. Lúc ấy, thánh nhân bị lưu đày ở đảo Pát-mô “vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và làm chứng cho Đức Giê-su”. Theo thánh Victorien, giám mục Pettau, ở Styrie, tử đạo dưới thời hoàng đế Dioclétien, thánh Gioan đã bị kết án khổ sai tại các hầm mỏ. Các nhà chú giải hiện đại đã nêu lên nhiều vấn đề trong đó vấn đề ngôn ngữ của sách Khải Huyền khác với ngôn ngữ của sách Tin Mừng Gioan. Tuy nhiên đề tài trung tâm: Con Chiên, con chiên bị sát tế, Đấng cứu chuộc, nguồn ơn cứu độ, Đấng khải hoàn, là đề tài của Tin Mừng Gioan. Dù thế nào, chắc chắn tác giả đang sống trong cảnh gian truân, và thấy mình liên đới với những người Ki-tô hữu bị bách hại, “tôi cùng chia sẻ nỗi gian truân, cùng hưởng vương quốc và cùng kiên trì chịu đựng với anh em trong Đức Ki-tô”. Chúng ta đã nói rồi, từ “kiên trì chịu đựng” là một trong những từ then chốt của sách Khải Huyền. Còn về từ “vương quốc”, từ này được nhiều lần minh giải. Đức Ki-tô “đã lấy máu mình rửa sạch tội lỗi chúng ta, làm cho chúng ta trở thành vương quốc” và cho chúng ta cùng ngự trị với Ngài (Kh 1: 5-6; 5: 10; 20: 6). Thánh Gioan muốn cho hiểu rằng việc kiên trì chịu đựng những nỗi gian truân cho chúng ta dự phần vào những đau khổ của Đức Ki-tô và cho phép chúng ta cùng ngự trị với Ngài.

3. Thị Kiến khai mac:Trong khi xuất thần, thánh Gioan thấy xuất hiện “Con Người”, nhân vật sách Đa-ni-en này, mà Đức Ki tô đã tự đồng hóa mình và Ngài đã nhận lấy tên này cho mình, như

52

một tước hiệu Mê-si-a. Ngôn sứ loan báo rằng “Con Người” này lãnh nhận “quyền thống trị, vinh quang và vương vị” (Đn 7: 13-14). Khi kỳ hạn đến, Con Người là lãnh tụ của Giáo Hội, Chủ Tể vũ trụ, Thiên Chúa Hằng Sống, Đấng Phục Sinh chiến thắng tử thần và Chủ Tể Lịch Sử.

4. Ngay của Chua:Trong toàn bộ Tân Ước, diễn ngữ: “Ngày của Chúa” chỉ được gặp thấy ở đây. Quả thật, cho đến lúc đó chúng ta đọc thấy: “ngày thứ nhất trong tuần”. Đây là lần đầu tiên “ngày của Chúa” Ki tô giáo, tức là ngày Chúa Nhật, được kể ra rõ ràng. Trong Cựu Ước, “Ngày của Chúa” có nghĩa “Ngày của Đức Chúa”, ngày phán xét vào thời cánh chung. Ấy vậy, đối với người Ki tô hữu, sự Phục Sinh của Đức Ki-tô  đã khai mạc thời kỳ cánh chung; đó là lý do tại sao những cử hành ngày Chúa Nhật của chúng ta có một ý nghĩa vừa phục sinh vừa cánh chung.

Cung giọng nỗi bật của sách Khải Huyền là cung giọng phụng vụ. Việc gợi lên “có một tiếng lớn như tiếng kèn”, kèn là dụng cụ tế tự truyền thống của phụng vụ Do thái, rõ ràng nhấn mạnh cung giọng phụng vụ: “Tôi xuất thần vào ngày của Chúa và nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như thể tiếng kèn”.

5. Đấng Phục Sinh, Thủ Lãnh Giáo Hội:Như các ngôn sứ, thánh Gioan thấy và nghe; ngoài ra, thánh nhân còn được yêu cầu phải viết và gởi sứ điệp đến cho bảy Hội Thánh của miền Tiểu Á. Quả thật, thư gởi cho bảy Hội Thánh chiếm lấy phần thứ nhất của sách Khải Huyền. Con số bảy là con số chỉ sự viên mãn và chiều kích hoàn vũ; sứ điệp có giá trị đối với toàn thể Giáo Hội. Con số bảy là một

53

trong những con số thường hằng của sách Khải Huyền: bảy Thần Khí Thiên Chúa, bảy ngôi sao, bảy dấu ấn, bảy tiếng kèn, bảy đầu, bảy sừng, bảy con mắt, vân vân.

Cũng con số bảy là “bảy cây đèn bằng vàng”, chính xác biểu thị bảy Hội Thánh, như được xác định rõ phía dưới một chút (Kh 1: 20). Con Người xuất hiện ở giữa bảy cây đèn bằng vàng này, tức là Đức Ki-tô sống giữa Giáo Hội của Ngài; Ngài là Thủ Lãnh. Chúng ta nên ghi nhận rằng thánh Gioan cũng sử dụng cùng cách nói như tác giả sách Đa-ni-en: “Có ai giống như Con Người”. Đây là từ “như” thứ nhất trong nhiều từ “như” của sách Khải Huyền, ví dụ, xuống dưới một chút chúng ta gặp thấy: “Khi thấy Người, tôi năm vật xuống dưới chân Người, như chết vậy”. Tất cả từ “như” này đều nhằm nhấn mạnh những phỏng chừng không thể tránh khỏi của ngôn ngữ phàm nhân toan tính diễn tả mầu nhiệm Thiên Chúa.

Cũng chính trong sách Đa-ni-en (nhưng thị kiến của chương 10 chứ không còn ở chương 7), mà thánh Gioan mượn vài nét đặc trưng của cách kể chuyện như: “Tôi là Đa-ni-en…đang ở ven sông Cả, tức là sông Tích-ra, tôi ngước mắt nhìn lên, thì này: Một người mặc áo vải gai, lưng thắc đai vàng U-phát, thân mình giống kim lục thạch, dung mạo ví như ánh chớp…Tôi nghe tiếng người vang dội. Vừa nghe thấy, tôi liền ngất xỉu, chúi mặt xuống đất…Bấy giờ đấng giống như con người lại đụng đến tôi một lần nữa và làm cho tôi nên can đảm. Người nói: “Hỡi người được quý mến, đừng sợ. Cứ an tâm…Ta sắp báo cho ngươi biết điều đã được ghi chép trong sách sự thật” (Đn 10: 2-21). Trong sách Khải Huyền, Con Người, mình mặc áo chùng và ngang ngực có

54

thắt đai bằng vàng: áo chùng chắc chắn là y phục tư tế, áo bằng vải len và đai bằng vàng chắc chắn là huy hiệu vương đế.

6. Chủ Tể hoan vũ:“Ta là khởi nguyên  và là cùng tận”. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã sử dụng hai lần biểu thức này cho Đức Chúa: “Ta là khởi nguyên, Ta là cùng tận; chẳng có thần nào hết, ngoại trừ Ta” (Is 44: 6 và 48: 12). Diễn ngữ này cũng được lập lại hai lần trong sách Khải Huyền (Kh 2: 8 và 22: 13).

Như vậy, Chúa Giê-su khẳng định thần tính của Ngài và ngang bằng với Chúa Cha. Ngài là khởi nguyên và cùng đích; Ngài có quyền trên vũ trụ và Lịch Sử; Ngài đã có trước muôn loài muôn vật.

7. Thiên Chua Hằng Sống:“Ta là Đấng Hằng Sống” cũng quy chiếu đến thần tính của Ngài. Cựu Ước gọi Đức Chúa là “Thiên Chúa Hằng Sống”, nhất là đối lập Ngài với các thần linh của dân ngoại, chúng chỉ là ngẫu tượng do tay nghệ nhân làm ra; còn Đức Chúa là Đấng Hằng Hữu.

8. Đấng chiến thắng tử thân:Đấng Phục Sinh cũng là Đấng Hằng Sống vì Ngài đã chiến thắng tử thần: “Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời”. “Ta giữ chìa khóa của Tử Thần và Âm Phủ”. Chúng ta có thể thấy ở đây một ám chỉ đến việc Đức Ki-tô xuống Âm Phủ mà thánh Phê-rô gợi lên trong thư thứ nhất của thánh nhân (1Pr 3: 19-21) và thánh Phao-lô dường như ám chỉ đến việc này nhiều lần (Rm 10: 6-10 và Ep 4: 9).

55

9. Chủ Tể Lịch Sử:Câu cuối cùng: “Vậy, ngươi hãy viết những gì đã thấy, những gì đang diễn ra và những gì sẽ xảy ra sau này”, xem ra là một lời loan báo khái quát bố cục của sách Khải Huyền; nhưng đó không phải muốn nói rằng Đấng Phục Sinh là chủ tể của quá khứ, hiện tại và tương lai sao?

TIN MƯNG Ga 20: 19-31Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: Đức Giê-su của niềm tin đích thật là Đức Giê-su của lịch sử. Các Tông Đồ chứng thực biến cố Phục Sinh; hơn nữa, nhờ vào sự cứng tin của một trong số họ, các ngài được hưởng một sự kiểm chứng vài ngày sau đó.

Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vì thánh ký nói với chúng ta rằng Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau đó”. Quả thật, chúng ta đọc bài trình thuật thành hai giai đoạn: Chúa Giê-su hiện ra cho mười Tông Đồ đúng vào chiều Phục Sinh (20: 19-25), và Ngài hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma một tuần sau đó (20: 26-29).

1. Đưc Giê-su phục sinh hiện ra cho mười Tông Đồ:“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”, tức là đúng vào buổi chiều biến cố Phục Sinh. Việc chỉ rõ thời gian này thì rất quý: “ngày thứ nhất trong tuần”, tức là ngày mà những người Ki tô hữu tiên khởi đã chọn rất sớm cho những buổi hội họp của họ, như vậy nhấn mạnh tính cách Phục Sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Chúa Giê-su xuất hiện cho thánh Tô-ma tám ngày sau đó, cũng được định vị vào “ngày thứ nhất trong tuần”.

56

Các Tông Đồ cùng nhau quy tụ lại, chỉ có mười vị, vì rõ ràng không có mặt thánh Tô-ma, ông xem ra đã không tha thiết gì đến cuộc tụ họp này. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ các ông để thông bào cho các ông biết những biến cố vừa mới xảy ra: cuộc khám phá ngôi mộ trống, việc chứng kiến đồ liệm được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, những lời nói của các người phụ nữ, trong số đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la nói là mình đã gặp Đức Giê-su và Ngài đã nói với bà.

Chúng ta đoán các Tông Đồ đã gặp nhau trong bầu khí vừa nghi nan vừa hy vọng, thêm nữa là nỗi sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. “Người Do thái” trong Tin Mừng Thứ Tư, trước tiên chỉ rõ giai cấp lãnh đạo tôn giáo ở Giê-ru-sa-lem. Những người này đã kết án tử Thầy của họ, bây giờ họ sẽ không ra tay bắt các môn đệ của Ngài sao?

Và này Đức Giê-su bất ngờ hiện ra giữa các ông dù cửa vẫn đóng then vẫn cài; Ngài hiện diện ở giữa lòng nỗi sợ hãi và xao xuyến của các ông, như Ngài đã định vị mình ở bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau. Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ biến thành niềm vui.

- Bình an cho anh em:Đây là lời chào truyền thống của dân Ít-ra-en, nhưng không bao giờ chỉ là là lời chào hỏi xả giao cả. Đức Giê-su đem đến sự bình an của Ngài, bình an mà Ngài đã hứa, cho những môn đệ này, những người đã bỏ rơi Ngài vì chán nãn và thất vọng; Ngài đem đến sự bình an từ cuộc hiện diện của Ngài và sự tha thứ của Ngài;

57

không một lời quở trách, không một ám chỉ đến những khuyết điểm của họ, ngay cả họ đã bỏ mặc Ngài một mình cô độc.

Để cho họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho các ông xem những vết thương của Ngài như chiến tích khải hoàn và như chứng thực sự đồng nhất giữa thân thể phục sinh của Ngài và thân thể khổ nạn của Ngài.

Ở đây chúng ta đo lường tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, không có một thân xác bị hư hoại trong mồ, mặt khác, không là một bóng ma hiện ra cho các môn đệ: chỉ là một thân thể duy nhất, đang sống, có thể đụng chạm, mang lấy những vết thương của cuộc khổ hình. Không nghi ngờ gì nữa, “lúc đó, các ông vui mừng”.

Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nói “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”, trong khi trong bài tường thuật song song, thánh Lu-ca viết: “Người đưa tay chân cho các ông xem”. Thánh Gioan là người môn đệ duy nhất đã kể tình tiết về một người lính Rô-ma lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn của Đức Ki-tô; ông đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân ban cuối cùng của Chúa Ki-tô đã chết rồi. Thánh ký đã thấu hiểu ở nơi sự kiện này một dấu chỉ biểu tượng: dấu chỉ về sự sinh hạ Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy và phép Thánh Thể. Ở đây, thánh ký nhấn mạnh thêm một lần nữa. Nói một cách chính xác, Giáo Hội sẽ sinh ra, vào buổi chiều Phục Sinh, dưới hơi thở Thần Khí và qua việc sai các Tông Đồ ra đi thi hành sứ vụ.

58

- Sai đi thi hành sứ mạng:“Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan nhấn rất mạnh khía cạnh này của con người Đức Giê-su: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Đó là lý do tại sao thánh ký không bao giờ ban cho các môn đệ danh xưng “tông đồ”, vì danh xưng này có nghĩa “người được sai đi”. Chỉ một mình Đức Giê-su là Đấng Được Sai Đi.

Có một mâu thuẫn đáng ngạc nhiên: cho những người này: giam mình giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa đóng then cài, thu mình lại và sợ hãi, Đức Giê-su truyền lệnh ra đi thi hành sứ mạng: gặp gỡ với hết mọi người không trừ một ai, như Ngài đã hứa.

Việc sai đi thi hành sứ mạng tại thánh Gioan còn long trọng hơn tại thánh Mát-thêu. Thánh Mát-thêu đặt việc sai đi thi hành sứ mạng vào cuối sách Tin Mừng của mình, ở đó Đức Giê-su công bố: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28: 19).

- Hơi thở Thần Khí:“Nói xong, Người thổi hơi vào các ông…”. Trong Tân Ước, diễn ngữ này chỉ được gặp thấy ở đây. Động từ được dùng ở đây được gặp thấy trong đoạn văn của sách Sáng Thế về cuộc sáng tạo con người: Đức Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một sinh linh” (St 2: 7, được Kn 15: 11 lấy lại), cũng như trong bản văn Ê-dê-ki-en về sự hồi sinh của các bộ xương khô: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Chúa Giê-su làm cho các môn đệ Ngài trở thành những

59

con người mới và ban cho họ quyền chỉ thuộc về Thiên Chúa: quyền tha thứ tội lỗi.

- Tha thứ tội lỗi:Thánh ký diễn tả quyền nầy theo cách thức sê-mít: “tha thứ hay cầm giữ”. Thánh Mát-thêu sử dụng một cặp đối nghịch tương tự: “cầm buộc hay tháo cởi”: “Dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy.” (Mt 16: 19; 18: 18).

Tha thứ hay cầm giữ, cầm buộc hay tháo cởi là những biểu thức được Do Thái giáo dùng để cấm hay cho phép. Các biểu thức nầy chỉ ra rằng các vị lãnh đạo tôn giáo được quyền khai trừ hay hội nhập một tín đồ vào cộng đoàn. Đức Giê-su mở rộng vô cùng tận ý nghĩa diễn ngữ này. Cốt yếu là quyền xá tội được trao ban cho Giáo Hội. Chúng ta đừng nhầm lẫn cách phát biểu sê-mít. Văn phong sê-mít chủ ý sử dụng sự cân bằng giữa một khía cạnh khẳng định và một khía cạnh phủ định, khía cạnh thứ hai nhằm mục đích tăng cường khía cạnh thứ nhất. Vì thế, không cốt thiết hạn chế ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hơn nữa, Giáo Hội có thể “cầm giữ” một tội nhân trong khi mong chờ sự ăn năn hối cải hữu hiệu hơn.

Tha thứ tội lỗi là thành quả cốt thiết của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chính đó là lý do tại sao thánh Gioan đặt việc Đức Kitô trao ban ơn tha tội ngay từ lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ Ngài. Tại thánh Lu-ca, Đức Giê-su nhắc lại cho các môn đệ ân huệ này, ngay trước khi lên trời: “Có lời Kinh

60

Thánh chép rằng: Đức kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội.” (Lc 24: 45-47).

2. Đưc Giê-su phục sinh hiện ra cho thánh Tô-ma cưng lòng tin:Chắc chắn thánh Tô-ma đã gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô; thánh nhân đã yêu mến Ngài và đã tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng, với cả bầu nhiệt huyết, thánh nhân đã dõng dạc công bố: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11: 16). Nhưng ông đã không mong chờ một cái chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm ông vỡ mộng. Nỗi thất vọng, buồn phiền đã khiến ông tách riêng một mình với các bạn đồng môn. Vốn là một con người thực tế, xưa kia ông đã đặt cho Đức Giê-su một câu hỏi thiết thực và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 5), bây giờ ông từ chối tin vào sự Phục Sinh nếu không có bằng chứng được ông đích thân kiểm chứng. Chúng ta hiểu thánh nhân. Chúng ta nhận ra con người Tô-ma đang ngủ trong chính bản thân mình: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.

- Đức tin của thánh Tô-ma:Đức Giê-su chạnh lòng thương người môn đệ đầy nhiệt huyết đang đắm mình trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hoan hĩ mừng vui; vì thế, Ngài sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của ông.

61

“Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Chắc hẳn thánh Tô-ma đã không làm như thế, bởi vì trái với cung giọng của Tin Mừng Gioan. Đúng hơn phải lập lại những gì thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi vừa mới bước chân vào ngôi mộ: “Ông đã thấy và đã tin”. Thánh Tô-ma đã ngộ ngay lập tức trước bằng chứng mà Đấng Phục Sinh đã trưng ra cho ông thấy. Lập tức, ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.

- Đức tin của thánh Tô-ma và đức tin của các tín hữu mọi thời:Trong các sách Tin Mừng, đây là “lần đầu tiên” tước hiệu “Thiên Chúa” được ban cho “Đức Giê-su”. Còn dấu lạ nào bày tỏ Thần Tính của Ngài rực rỡ hơn sự Phục Sinh của Ngài? Lời cảm thán rất riêng tư của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông vì Đức Ki-tô đã quan tâm đặc biệt đến ông, Ngài không bỏ mặc ông trong nỗi thất vọng và phiền muộn.

Chúa Giê-su nói: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin”. Đoạn, nghĩ đến những người đã không bao giờ được diễm phúc như ông, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông những tín hữu của mọi thời: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Nhưng lời chúc phúc này, mối phúc độc nhất của Tin Mừng Gioan, trước hết, rõ ràng dựa trên lời chứng của Nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.

Lm. Ignatiô Hồ Thông

62

MÔT NÊN TANG CHO NIÊM TINLm. Ignatiô Trần Ngà

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, sau biến cố tử nạn đau thương, Chúa Giê-su phục sinh bất thần hiện ra giữa các môn đệ đang họp nhau trong phòng đóng kín khiến các ông ngạc nhiên đến sững sờ.

Thấy các môn đệ hoang mang vì tưởng mình là hồn ma hiện về, Chúa Giê-su cho các ông xem tay và cạnh sườn, để chứng thật đây chính là Giê-su có thân xác chứ chẳng phải là hồn ma. Bấy giờ các môn đệ vui mừng khôn xiết vì Thầy Giê-su đã thực sự sống lại.

Thế nhưng hôm ấy ông Tô-ma vắng mặt nên không thể chứng kiến biến cố trọng đại nầy. Khi được các môn đệ khác thuật lại cho hay sự kiện đó, Tô-ma tỏ ra ngờ vực và đòi kiểm chứng: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin." (Ga 20,25)

Cũng như Tô-ma, nhiều người ngày nay không dễ tin vào bất cứ điều gì nếu không được tận mắt trông thấy, hay ít ra, được thuyết phục bằng những chứng cớ hiển nhiên.

Hôm nay, để vững tin vào biến cố Chúa Giê-su phục sinh, chúng ta không thể đòi cho được “thấy dấu đinh ở tay Người” hoặc “xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Người” như ông Tô-ma ngày xưa, vì Chúa Giê-su không còn hiện diện cách hữu hình giữa chúng ta, nhưng chúng ta có thể nhận biết Chúa Giê-su đã thật sự sống lại

63

nhờ dựa vào sự kiện các tông đồ của Người đã hiến cả mạng sống và đổ máu mình ra mà minh chứng.

Nếu Chúa Giê-su chết đi mà không sống lại như lời Người đã báo trước, thì các tông đồ sẽ có những phản ứng sau đây:

Các ông sẽ ngộ ra rằng Thầy Giê-su mà họ đem lòng tin tưởng, yêu mến và ngưỡng mộ bấy lâu nay không phải là Con Thiên Chúa như lời Người nói mà chỉ là một tên lừa bịp và tất nhiên các ông sẽ oán ghét Người, phế bỏ Người.

Các ông sẽ không dựng lên chuyện Chúa Giê-su phục sinh rồi đi rao truyền khắp nơi để lừa bịp người khác, vì không có lợi lộc gì khi làm như thế; trái lại, phải chịu thiệt hại rất nhiều.

Các tông đồ sẽ không điên rồ đến nỗi từ bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, lại phải chịu đòn vọt, xiềng xích, tù đầy và chịu chết để đi loan truyền một điều láo khoét.

Trong thực tế, các phản ứng kể trên không hề xảy ra, nên ta có thể tin chắc là Chúa Giê-su đã sống lại thật.

Chỉ khi tận mắt nhìn thấy Đức Giê-su thực sự sống lại thì các tông đồ mới tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa và sẵn sàng vâng lệnh Chúa Giê-su để loan báo cho mọi người nhận biết Người là Đấng Cứu Độ muôn dân, cho dù phải hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình.

Vậy thì ta có thể kết luận rằng: Sau khi Chúa Giê-su chịu chết và được mai táng trong mồ, sự kiện các tông đồ của Chúa Giê-su tiếp tục từ bỏ gia đình,

64

cha mẹ, vợ con và nhất là từ bỏ cả mạng sống để làm chứng rằng Đức Giê-su sống lại, thì đó là một lời chứng hoàn toàn đáng tin. Không ai liều chết và đánh mất tất cả chỉ vì một điều bịa đặt bao giờ. Vậy sự kiện Đức Giê-su sống lại là hoàn toàn chắc chắn.

Sự hi sinh mạng sống mình vì Chúa Ki-tô của các tông đồ ngày xưa trở thành bằng chứng thuyết phục nhất giúp chúng ta tin Chúa Giê-su sống lại.

Vậy cộng đoàn chúng ta, giáo xứ chúng ta và bản thân mỗi người chúng ta cũng phải cố gắng trở thành một dấu chỉ thật thuyết phục về sự phục sinh của Chúa Giê-su Ki-tô để giúp mọi người tin vào Chúa Ki-tô và được hưởng ơn cứu độ do Người trao ban.

Lm. Ignatiô Trần Ngà

BINH AN CHO ANH EMLm. Giuse Nguyên Hưng Lợi, CSsR

Sống ở đời cơm, áo, gạo, tiền đầy đủ là ước vọng của mọi người. Tuy nhiên, có cơm ăn, có áo mặc nhưng đời sống không vui, không an bình vẫn chưa đầy đủ. Do đó, con người ở mọi thời đại vẫn có những ước mơ, những mong ước có cuộc sống an bình, tâm hồn thư thái. Đó là ước nguyện chân chính và thiết thực.

65

Muôn thời con người vẫn sống trong hồi hộp đủ thứ: nào thiếu ăn, thiếu mặc, lo sợ bệnh tật, sợ hãi chiến tranh, thiên tai lũ lụt, bão táp vv…Sống trong những tâm trạng và những hoàn cảnh như thế thì làm sao có an bình ? Có những người đã sống trong tuyệt vọng, buông xuôi tất cả. Sự lo âu, sợ hãi cũng bao trùm cả các môn đệ, những người đã được Chúa Giêsu tuyển chọn, cất nhắc, những người đã được Chúa nuôi dưỡng, dạy dỗ, các Ngài đã được đón nhận Tin Mừng, được Chúa mạc khải và vén mở con đường thập giá, thế mà khi Chúa bị bắt, bị lên án và bị treo trên thập giá thì ôi thôi các Ngài đã hết sức lo âu, sợ hãi, thất vọng không hề dám đi đâu cả, khi ở với nhau trong nhà thì các Ngài cũng sợ sệt phải đóng kín cửa cài then ( Ga 20, 19 ). Sự sợ hãi ấy tưởng chừng không bao giờ chấm dứt nhưng thật bất ngờ, Chúa Phục Sinh đã hiện đến với các Ngài và đã nói với các Ngài đến ba lần :” Bình an cho các con “ (Ga 20, 19; 21 và 26 ).

Các môn đệ của Chúa chỉ hết lo sợ khi trước mặt của các Ngài, Chúa Giêsu đã giơ bàn tay bị đóng đinh và cạnh sườn bị đâm thâu. Thật lạ lùng và hạnh phúc cho các môn đệ. Chúa đã phục sinh thật và sự bình an của Ngài đã được trao ban cách nhưng không và hết sức hiệu quả cho các Ngài…Sự bình an của Chúa sống lại là bình an đích thực. Bình an của Chúa phục sinh là tình yêu, sự tha thứ. Chúa đã thứ cho con người, cho loài người. Nên, con người và nhân loại có được bình an. Chúa muốn mỗi người cũng biết chia sẻ bình an mà mình đã nhận lãnh nơi Chúa sống lại để chính họ cũng biết tha thứ cho anh em của mình và loan báo cho mọi người biết Thiên Chúa luôn yêu thương con người, luôn rộng lòng tha thứ khi con người thật lòng ăn năn sám hối trở về với Chúa. Bình an mà Thiên Chúa trao ban cho loài người, cho con người khác với sự an bình mà con người

66

thường trao cho nhau. Sự an bình của Chúa là sự hòa bình đích thực trong tâm hồn, nơi thân xác. Sự bình an xưa các thiên thần đã loan báo ngày Chúa giáng trân :” Vinh danh Tiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người thiện tâm “.

Sự bình an chính là Tin Mừng, chính là Thiên Chúa. Sự bình an là tha thứ đến bảy mươi lần bảy, tha thứ không ngừng, tha thứ mãi mãi. Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô trao ban cho nhân loại, cho loài người, cho mỗi người ơn cứu độ. Ơn cứu độ của Chúa là sự tha thứ, là ơn giải thoát khỏi tội lỗi và ban cho con người sự bình an, hòa bình và hạnh phúc viên mãn, trường cửu. Sự bình an của Thiên Chúa là Tin Mừng cứu độ, là chính Đức Giêsu, Đấng giầu lòng thương xót. Sự bình an ấy trường tồn muôn đời, muôn kiếp. Chính vì thế, Chúa sống lại là tình thương vô biên, an bình tuyệt đối cho mọi người.“Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống“.

Shalom, lời chúc bình an của Chúa phục sinh là lời bình an thực Chúa trao ban cho những tâm hồn thành tâm thiện chí. Tôma thưa với Chúa phục sinh:” Lay Chúa, lạy Thiên Chúa của con “. Chúa phục sinh là sự an bình vĩnh cửu cho Toma, cho các môn đệ, cho các tông đồ và tất cả những kẻ có lòng ngay ở dưới thế.

Lạy Chúa phục sinh, xin ban bình an cho chúng con như Chúa đã trao ban sự an bình của Chúa cho các môn đệ qua sự tác động của Thần khí. Amen.

Lm. Giuse Nguyên Hưng Lợi, CSsR

67

HIÊN RA VƠI CAC MÔN ĐÊLm. Giacôbê Tạ Chúc

Sau nhiều biến cố xảy ra, các môn đệ sống trong một tâm trạng hoang mang cao độ. Mọi sinh hoạt chung, hội họp, cử hành phụng vụ đều hết sức dè dặt. Các ông sợ người Do Thái. Bởi vì tất cả họ đều có mối liên hệ đến cuộc đời của Chúa Giê-su. Người mà sau khi chết, ai cũng chú ý đến Ngài, bởi lẻ, Chúa Giê-su nói Ngài sẽ sống lại.

Chua hiện đến với mười môn đệ (không có Tô-ma)Giữa lúc cửa đóng, then cài, các môn đệ không dám công khai bày tỏ niềm tin. Họ lén lút và nhát đảm. Tâm hồn các ông thiếu vắng sự bình an. Chúa Giê-su đến, như thuở sinh thời, là nguồn bình an. Ngài vượt lên cả tất cả những giới hạn về thể lý, những trói buộc của những điều kiện tự nhiên. Không thấy nói Chúa đi xuyên qua tường: đơn giản Ngài có thể hiện diện cách khác với loài người. “Chúc anh em được bình an”, Chúa nói. Đây không chỉ là lời chúc xã giao như trong những lần gặp gỡ, mà còn có nghĩa là một quà tặng của ân sủng, ơn cứu độ, sự bình an của Đấng Phục Sinh. Có một sự biến đổi lạ lùng của Chúa Giê-su. Tuy nhiên các dấu đinh trên tay và cạnh sườn chứng tỏ Ngài là Chúa Giê-su trong cuộc Tử nạn và nay đã phục sinh.

Chua hiện đến với mười một môn đệ, có cả Tô-maNếu như lần hiện ra trước, Tô-ma không tin vào lời chứng của mười môn đệ kia, thì lần này, chính Chúa Giê-su đã giải đáp mọi nghi vấn của ông: “ Rồi Người bảo Tô-ma: “ Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy

68

tin.” (Ga 20, 27). Ông Tô-ma muốn kiểm chứng bằng thực nghiệm, và cả kinh nghiệm. Không thể dễ dàng chấp nhận một sự kiện hết sức lớn lao mà chỉ bằng lời chứng của các bạn hữu. Tô-ma đòi cho bằng được những sự kiện cụ thể, mắt thấy, tai nghe, và đụng chạm bằng xúc giác: “ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sười Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20, 25). Như vậy, nếu xét tội của Tô-ma, thì ông có hai tội:

Trước hết là không tin vào lời chứng của các môn đệ.Sau nữa, ông nghi ngờ Chúa Giê-su sống lại

Tuy nhiên sự cứng tin của Tô-ma cũng cho ta thấy hai điều: Khi nhấn mạnh đến những vết thương trên Thân Thể Chúa Giê-su, làm cho ta thấy có sự kết hợp mật thiết giữa Chúa Giê-su chịu đóng đinh và Chúa Giê-su được tôn vinh. Và riêng với Tô-ma người cứng tin lại cho chúng ta thấy một đức tin trỗi vượt khi Tô-ma dành cho Chúa Giê-su một tước hiệu vĩ đại: “ Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28).

Trao ban Sư vụKhông chỉ dừng lại ở những gặp gỡ, tay bắt, mặt mừng nhưng Chúa Giê-su Phục sinh còn trao ban cho các môn đệ một Sứ vụ mới, xuất phát từ Chúa Cha, và trong hơi thở của Thần Khí: “ Như Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”, nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “ Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần.” (Ga, 21-22). Gặp gỡ Đấng Phục Sinh là để làm chứng cho Ngài trước mặt toàn thể mọi người, điều này các môn đệ đã làm. Cụ thể trong một vài ngày, các ông đã gầy dựng được một cộng đoàn tín hữu

69

hơn 3000 người ở Giêrusalem sống trong niềm vui và tình huynh đệ tha thiết. Đó là khởi đầu của Giáo hội, một Giáo hội đang tồn tại cho tới ngày hôm nay.

Đón nhận đức tin vào Đấng Phục Sinh có lẽ không ai giống ai, nhưng có một điều xác tín là trải qua dòng thời gian hơn hai mươi thế kỷ, Danh Đức Giê-su vẫn rạng ngời nơi tâm hồn của các tín hữu, và các môn đệ, trong cuộc sống ngày hôm nay vẫn rao truyền Tin Mừng Phục sinh cho con người trong thế giới hôm nay.

Lm. Giacôbê Tạ Chúc

BINH AN CHO ANH EMLm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

Cùng với các môn đệ, chúng ta đang sống trong những ngày sau cái chết của Chúa Kytô và, cùng với các ngài, chúng ta đang sống và sinh hoạt vào thời điểm sau biến cố Phục Sinh đó là vào chiều ngày thứ nhất trong tuần vốn được xem là ngày đoàn tụ của các Kytô hữu tiên khởi. Đồng thời đó cũng là ngày đặc biệt, ngày mà Đấng Phục sinh chọn để hiện diện giữa một cộng đoàn còn non trẻ để chia sẻ với họ niềm vui Phục Sinh, đồng hành với họ trong việc cử hành Lời Chúa và nghi lễ Bẻ bánh và sau cùng là sai họ ra đi rao giảng Tin mừng cho nhân loại.

Từ Bình an của Đấng Phục sinh… Từ sau biến cố xảy đến cho Thầy, các môn đệ chưa hết bàng hoàng đớn đau, các ông lại phải đối diện với sự bách hại khác từ phía những người Dothái. Các ông sợ người Dothái hay đúng hơn sợ

70

các ông thủ lãnh Dothái. Các môn đệ sợ là phải. Lý do là vì ngay đến Thầy mà họ còn không buông tha, còn đối xử tàn ác đến như vậy huống gì trò. Chính vì thế, cách tốt nhất để bảo vệ mình là “bế quan toả cảng, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để tránh sự săn lùng và dòm ngó của người Dothái. Đang sống trong tâm trạng bất an và não nề như thế, Đấng Phục Sinh xuất hiện và điều Ngài mang đến cho các ông thời điểm này chính là hoa trái của sự Bình an (Shalom). Bình an cho anh em. Đây không chỉ là lời chào hỏi xã giao thông thường mà đó còn là một sự xác quyết mạnh mẽ về sự hiện diện đích thực của Đấng Phục Sinh. Bình an đích thực chỉ đến từ Đấng Phục sinh và chính Ngài và từ nơi Ngài mới có thể đem bình an đến cho những ai đang sống trong tâm trạng bất an nặng nề.

Sự hiện diện của Đấng Phục Sinh không chỉ thuần tuý mang ánh sáng và bình an để phá tan bóng tối mây mù đang rình rập các môn đệ, xua tan nỗi thống khổ ưu phiền của các ông mà còn là việc trao ban Thần Khí và sai các ông tiếp tục sứ mạng mà Chúa Cha đã trao phó cho Người. Như thế, chúng ta thấy rõ rằng, sứ mạng đi vào thế giới của các môn đệ xuất phát từ sau biến cố Phục Sinh. Đặc biệt hơn, đối với thánh sử Gioan thì đây lại là một sứ mạng nối tiếp sứ mạng của Chúa Giêsu vốn phát xuất từ Chúa Cha. Để được như thế, chính Đấng Phục Sinh trao ban hay đúng hơn là thổi Thần Khí vào các môn đệ như gợi nhớ ngày Giavê Thiên Chúa thổi sinh khí để làm nên con người trong buổi đầu công trình tạo dựng (x. St 2,7) hay làm cho con người hồi sinh (x. Ed 37,5.9). Các môn đệ nhận lãnh Thần Khí của Đấng Phục Sinh, tiếp tục sứ mạng của Thầy nhằm rao giảng cho muôn dân Tin mừng Phục sinh, xoá bỏ tội lỗi và ban ơn tha thứ. Đến lời tuyên xưng của Tôma

71

Thật thú vị là lần hiện ra của Chúa Phục Sinh cách đây tám ngày không có sự hiện diện của Tôma Điđymô. Tôma đi đâu? Tin mừng không đề cập, nhưng cứ theo sự thường, chúng ta có thể thấy Tôma có lẽ cũng đang ở trong tâm trạng hoảng loạn, mất phương hướng, thậm chí chán nản sau cái chết của Thầy. Tệ hơn, có thể Tôma không đủ can đảm để gánh vác trách nhiệm, để chia sẻ với anh em đồng môn trong tình cảnh “xẻ đàn tan nghé”, mà hơn lúc nào hết rất cần đến sự “chung lưng đấu cật” để vượt qua khó khăn. Việc Tôma không ở cùng các môn đệ phải chăng là sự thoái thác một phần hay hoàn toàn trách nhiệm? Và phải chăng đó còn là sự thể hiện tính nhút nhác, sợ liên lụy với các đồng môn của mình mà ông biết rằng các thủ lãnh Dothái sẽ không tha như đã xử với Thầy? Tôma ra đi, xa rời nơi nguy hiểm, xa rời nơi ẩn náu của anh em để tìm cho mình một sự bình an, một sự an toàn chắc chắn cho riêng mình. Ông có biết đâu đó cũng chính là lần mà ông đã mất đi diễm phúc được nhìn thấy Chúa Phục Sinh, mất đi lời chúc Bình an của Người, mất tất cả.

Khi được các môn đệ thuật lại việc các ông thấy Chúa, Tôma lại cho rằng đó là việc không tưởng, rỗi hơi, khéo tưởng tượng, óc mụ mẫm của đàn bà con gái, chứ làm gì có chuyện đó. Tôma dõng dạc tuyên bố trước mặt anh em : “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin”. Trước lời tuyên bố hùng hồn của Tôma, các môn đệ khác đành tiu nghỉu im lặng. Mà không tiu nghỉu im lặng sao được khi lý luận mà Tôma đưa ra không chê vào đâu được. Đối với các ông, việc thấy Chúa sống lại là một niềm vui qúa sức mong đợi, như quên đi tất cả, còn tâm trí đâu để ý đến chân với tay, lỗ đinh với cạnh sườn để

72

giờ đây đành phải “bí” trước đòi hỏi của Tôma. Tôma quả đúng là ông tổ của khoa học thực nghiệm: không bao giờ đi đến kết luận nếu trước đó chưa có kiểm nghiệm cách chắc chắn.

Một lần nữa Chúa Phục sinh hiện đến với các môn đệ và chính Người mới có thể hoá giải thế bí cho các môn đệ đồng thời để giải đáp những yêu sách của “ông tổ khoa học thực nghiệm” là Tôma đưa ra. “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Được đứng trước Thầy và được nghe những lời chúc bình an thốt ra từ môi miệng Thầy, Tôma làm gì còn tâm trí mà thử với chả nghiệm. Phản ứng tức thời của ông là lời tuyên xưng vốn được xem là lời tuyên xưng duy nhất trong Tin mừng để chuộc lấy lỗi lầm vì đã không tin việc Người sống lại. “Lạy Chúa của con! Lạy Thiên Chúa của con!”. Lời tuyên xưng của Tôma cũng chính là lời tuyên xưng được vang lên trong các kinh Tin kính của các cộng đoàn Kytô tiên khởi, được nối tiếp qua các thời đại và sẽ còn vang vọng đến muôn đời.

“Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin”. Từ sau lần ấy, đức tin của Tôma cũng như của các thế hệ mai sau sẽ không còn dựa trên những thực nghiệm, những kinh nghiệm cụ thể về Đấng Phục Sinh hiện ra nữa mà chính là dựa trên lời chứng do các Tông đồ rao giảng – những người đã chứng nghiệm rõ ràng, được thấy, được tận hưởng niềm vui ngọt ngào của Đấng Phục sinh.

Là những người thừa kế di sản của Tin mừng và tiếp nối niềm tin vào Đấng Phục sinh từ các tông đồ rao giảng,

73

chúng ta thật diễm phúc. Nếu chỉ dừng lại ở việc mắt thấy, việc chiêm ngưỡng hình ảnh Đấng Phục sinh, các Tông đồ là người hạnh phúc hơn chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức tin là một ân ban nhưng không mà Thiên Chúa ban tặng cho con người, nên việc chúng ta xác tín niềm tin vào Đấng Phục sinh cũng xứng đáng xếp chúng ta vào hàng ngũ các tông đồ của Chúa. Chính vì thế, chúng ta cảm tạ Thiên Chúa về hồng ân lớn lao này, đồng thời cũng xin Chúa trợ giúp chúng ta để mỗi một ngày trôi qua, chúng ta không ngừng tiếp bước sứ vụ mà các Tông đồ đã truyền lại để ra đi rao giảng tin vui Phục sinh cho muôn người.

Lm. Giuse Phạm Ngọc Ngôn, Csjb

LONG THƯƠNG XOT CHUA THÂT VÔ BIÊNLm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Nếu tình yêu là bản tính của Thiên Chúa thì lòng thương xót là cách thức Chúa bày tỏ tình yêu, là dấu chỉ cho tình yêu vững bền của Ngài. Lòng thương xót nhìn kẻ tội lỗi không oán giận, không trả thù bằng sự giận dữ hay chừng phạt, nhưng xót xa vì họ lầm đường lạc lối, xót xa vì họ đang đi đến hố diệt vong. Lòng thương xót tựa như ánh mắt của tình yêu, giúp người ta nhận ra nhu cầu của tha nhân để chia sẻ, cảm thông, nâng đỡ, xoa dịu hay chữa lành. Chúng ta có thể cảm nghiệm lòng thương xót của Chúa qua suốt dọc dài lịch sử cứu độ.

Khởi từ tội lỗi của Adam, Chúa không đoạn nghĩa dứt tình với Adam. Chúa vẫn thương Adam và xót xa dường nào khi thấy Adam tủi hổ lẩn trốn trong vườn địa đàng. Adam là kẻ

74

phản bội làm sao dám vác mặt gặp Chúa. Tội lỗi làm cho người ta mặc cảm, xấu hổ và lo sợ khi phải đối diện với sự thật. Thế nhưng Adam phần nào đã bớt đi sự sợ hãi, bớt đi áp lực tâm lý khi nghe tiếng gọi: “Adam, Adam ngươi đang ở đâu?”. Âm thanh của tiếng gọi không mang âm sắc của giận dữ hay quở mắng, nhưng tiếng gọi vẫn thân thương dịu ngọt, có điều pha trộn chút âm điệu xót xa: “Phải chăng ngươi đã ăn trái cây trong vườn mà Ta đã cấm?”.

Tội có thể được tha, nhưng hình phạt vẫn phải chịu. Nhưng ai là người phải chịu phạt thay cho tội Adam. Thiên Chúa không suy tính thiệt hơn. Không đắn đo suy xét. Ngay tức thời, lời hứa cứu độ đã được ban ra. Chính Ngôi Hai Thiên Chúa sẽ gánh lấy tội Adam và đền thay cho tội lỗi Adam. Có thể nói, lòng thương xót của Chúa được tỏ bày cụ thể và rõ nét trong cuộc đời của Chúa Giêsu. Cả cuộc đời luôn sống vì người khác, luôn đi đến mọi hang cùng ngõ hẻm để thi ân giáng phúc. Cả trong những lúc đau khổ nhất của cuộc đời, Ngài vẫn không nghĩ đến mình: Ngài xót thương các bà mẹ thành Giêrusalem “đừng than khóc Ta nhưng hãy than khóc con cháu các người”; Ngài xót thương những kẻ đã làm hại mình, vì “họ không biết việc họ làm”; Đỉnh cao của lòng thương xót đó là ơn tha tội và ban thưởng hạnh phúc trường sinh. Đó là đặc ân mà anh trộm lành được diễm phúc đón nhận đầu tiên từ cây thập giá: “ngay đêm nay ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”.

Chính điểm này mà trong dịp giảng tĩnh tâm Giáo triều Rôma, Đức cố hồngY Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã nêu ra 10 điểm khiếm khuyết của CGS, trong đó có sự hay quên: chỉ 1 câu nói thành thật với chính mình của tên trộm lành mà Chúa đã quên cả quá khứ tội lỗi của anh. Chỉ

75

cần thấy bóng dáng thằng con trời đánh bỏ nhà đi hoang nay thất thểu trở về là người cha đã quên hết quá khứ đi hoang của người con. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy. Một vì Thiên Chúa chậm bất bình và rất mực khoan dung mà vua Đavít đã từng nói lên rằng: “ Nếu Chúa chấp tội nào ai đứng vững”. Tình yêu Chúa cao hơn tội lỗi chúng ta, đến nỗi có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.

Người ta kể rằng: Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Cho tới một hôm nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ hay được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục liền nhờ bà hỏi xem: tôi đã phạm tội gì? Thế là mấy ngày sau gặp lại, vị linh mục đã hỏi bà là Chúa đã nói gì? Bà trả lời: Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa!

Bài Phúc âm hôm nay cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban bình an cho các ông.

Hôm nay kính nhớ lòng thương xót của Chúa, Giáo hội mời gọi chúng ta nhận ra mình là một tội nhân đã được Chúa cứu chuộc bằng giá máu cực thánh, chúng ta hãy biết đền đáp tình yêu Chúa bằng sự hoàn thiện con người của mình như Cha chúng ta ở trên trời. Đồng thời chúng ta cũng dâng

76

hy sinh, lời cầu nguyện cho các tội nhân được ơn trở về với Chúa.

Có lẽ đây là vấn đề mà những người kytô hữu phải lo lắng quan tâm. Vì qua báo chí và các phương tiện truyền hình truyền thanh chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn thấy một thế hệ trẻ sa đoạ, cuồng loạn và lạc mất hướng đi của đời người. Con số thống kê về sì ke, ma túy, mại dâm, phá thai, bệnh nhân nhiễm HIV hay Aid mỗi ngày một tăng theo cấp số nhân, mà một ai đó đã nói một cách mỉa mai rằng: những điều tốt thì không thấy năm nay tăng hơn năm trước, nhưng sự xấu, sự dữ thì năm nào cũng được nghe câu nói quen thuộc: “năm nay cao hơn năm trước!”.

Có lẽ Chúa cũng đang cần những con người thanh sạch như như ông Lót trong thành Sôdôma. Ông đã bị dày vò bởi những cảnh đồi bại luân lý diễn ra hằng ngày quanh mình. Ông cố thuyết phục dân thành ăn năn hầu tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, nhưng không ai nghe ông. Rồi Abaraham cũng nài xin Chúa tha thứ nhưng lại không kiếm được 10 người công chính, thế là cả thành bị tiêu diệt.

Và hôm nay, Chúa đang cần có nhiều người như thánh nữ Faustina, biết dâng những hy sinh đau khổ của mình như lễ vật tôn thờ Thiên Chúa và cứu thế gian khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Biết phó dâng bản thân, gia đình và nhân loại cho lòng thương xót của Chúa. Chúa vẫn mời gọi chúng ta dù là tội nhân, hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa để Chúa chữa lành, phục hồi sự sống trong con người mới, con người của ân sủng.

77

Ước gì mỗi người chúng ta biết tín thác vào lòng thương xót Chúa. Hãy để Chúa chữa lành những đam mê, tật nguyền. Hãy để Chúa phục hồi sự sống trong ân sủng của Chúa. Nguyện xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu. Xin Chúa thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Amen

Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

TINH CHUA THƯƠNG XOTLm. Anphong Trần Đức Phương

Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phụng Tự đã ra quyết định chọn ngày Chúa Nhật II mùa Phục Sinh là ngày Chúa Nhật “Tình Chúa Thương Xót” (Divine Mercy Sunday) để các tín hữu trên toàn thế giới dùng Chúa Nhật này đặc biệt suy ngắm về Lòng Thương Xót của Chúa đối với toàn thể nhân loại.

Vì thương xót “con người đã được dựng nên theo hình ảnh của Chúa” (Sáng Thế 1:27), nên “Ngôi Hai Thiên Chúa đã xuống thế làm người và ở giữa chúng ta” (Gioan 1: 14). Ngài đã không sinh ra trong “lầu cao gác tía”, trong một gia đình quyền qúy, nhưng đã sinh ra trong cảnh hèn mọn trong hang đá bò lừa, lớn lên trong gia đình thợ thuyền nghèo khó để cùng chia sẻ kiếp sống khổ đau của những con người nghèo khổ trong xã hội. Sau đó, Ngài đã ra đi rao giảng Tin Mừng tình thương cho mọi người. Ngài đến với những người nghèo đói bị xã hội bỏ rơi, đến với những người bệnh hoạn để nâng đỡ ủi an, đến với những người trót sa ngã phạm tội để giúp họ tìm về đường ngay nẻo chính. Sau cùng, Ngài đã sẵn sàng chịu nạn, chịu chết để chuộc tội nhân loại. Nhưng

78

Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại và hiện ra với các Tông đồ và một số môn đệ để củng cố niềm tin cho họ và sai các ông ra đi để tiếp tục công cuộc rao giảng “Tình thương Xót” của Chúa cho nhân loại.

Trong bài Phúc Âm hôm nay (Gioan 20: 19-31), Chúa Giêsu đã hiện ra với các Tông Đồ vào chính ngày “Chúa Nhật” (Ngày thứ nhất trong tuần), ngay tại nơi các ông cùng tụ họp và cầu nguyện. Chúa đã chúc bình an, ban ơn Chúa Thánh Thần và trao cho các ông quyền tha tội nhân danh Chúa: “Các con tha tội cho ai thì người đó được tha…”; đồng thời Chúa cũng củng cố đức tin cho Tông đồ Tôma là “kẻ cứng lòng tin”. Vì Tôma “thấy mới tin” nhưng Chúa nói: “Hạnh phúc cho những ai không thấy mà tin!”

Tất cả là do tình thương xót của Chúa, nên chúng ta thật hạnh phúc là những người “không thấy mà tin” qua ơn Chúa Thánh Thần mà Thiên Chúa thương ban cho chúng ta; vì Đức tin là một ơn huệ Chúa thương ban cho mỗi người, nhưng Chúa vẫn để chúng ta được tự do đón nhận hay không, và khi có Đức tin rồi, chúng ta có nỗ lực thực hành Đức tin hay không? Thực hành Đức Tin trong cuộc sống bác ái, yêu thương phục vụ mọi người, nêu gương tình thương xót của Chúa. Các tín hữu lúc ban đầu mỗi lúc mỗi gia tăng (Bài Đọc I) và đều sống đức tin mạnh mẽ bằng cách chia sẻ của cải giúp đỡ lẫn nhau trong tình yêu thương đùm bọc thật cảm động (Công Vụ Tông Đồ 4: 32-35).

“Trong ngày Lễ kính “Tình Thương Xót Chúa” lòng nhân từ thương xót thẳm sâu của Cha mở ra. Cha tuôn đổ cả một Đai dương ơn phúc cho những tâm hồn nào đến múc nguồn

79

thương xót của Cha. Những ai ngày đó đi xưng tội, đi dâng Thánh Lễ và Rước Lễ sẽ nhận được sự tha thứ hoàn toàn mọi tội lỗi và mọi hình phạt.” (Trích Nhật Ký của Thánh Nữ Faustina).

Năm nay, Chúa Nhật II Phục Sinh, “Chúa Nhật Tình Thương Xót Chúa ” vào ngày 11 tháng 4, 2010. Chúng ta hãy cùng hợp nhau cầu nguyện xin Chúa cho chúng ta biết noi gương lòng thương xót của Chúa để chúng ta cùng biết xót thương mọi người, nhất là những người nghèo khó, bất hạnh, bị xã hội bỏ rơi, đặc biệt những nạn nhân trong cuộc động đất tại Haiti và Chile vừa qua.

Lạy Chúa Giêsu, khi hiện ra với các Tông đồ, Chúa luôn chúc “Bình an cho các con!” Xin Chúa thương đến nhân loại khổ đau chúng con. Trong thế giới chúng con hôm nay còn nhiều hận thù và chia rẽ. Xin cho Phẩm Giá, Sự Sống, và Tự Do, nhất là Tự Do Tôn Giáo được tôn trọng ở khắp nơi. Xin cho Hòa Bình và Hạnh Phúc thực sự trở lại miền Trung Đông và khắp nơi trên thế giới.

Xin Chúa thương xót chúng con! Xin Chúa ban bình an cho chúng con! Amen! Alleluia! Alleluia!

Lm. Anphong Trần Đức Phương

80

PHUC CHO AI KHÔNG THÂY MA TINLm. Giuse Đinh Lập Liêm

Chính ngày Phục sinh, Đức Giêsu đã hiện ra với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly để làm cho các ông tin rằng Ngài đã sống lại thật, đồng thời trao cho các ông nối tiếp sứ mạng  của Ngài, và ban Thánh Thần để các ông có quyền tha tội. Nhưng trong dịp này, rất tiếc ông Tôma lại vắng mặt, có lẽ vì ông sợ quá phải tránh xa, và ông cũng không tin lời chứng của các Tông đồ kia.

Tám ngày sau, Đức Giêsu lại thương hiện ra để củng cố niềm tin cho các Tông đồ, cách riêng cho Tôma. Khi Tôma được thấy những lỗ đinh ở tay và cạnh sườn Ngài thì đã tuyên xưng đức tin một cách chân thành :”Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con”. Tôma đã xem thấy nên đã tin và tuyên xưng một cách mạnh mẽ : Đức Giêsu là Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu nói với ông :”Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Sự hoài nghi và cứng lòng của Tôma cũng có ý nghĩa đối với chúng ta : ông không tin, rồi lại tin khi xem thấy Chúa, điều ấy nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chúng ta không tin vào việc Chúa sống lại  qua mấy lời nói suông nhưng dựa vào một người đã tận mắt xem thấy hay thọc ngón tay vào lỗ đinh và đã tuyên xưng đức tin một cách thành thật. Dựa vào Kinh thánh và lời chứng của các Tông đồ, chúng ta tuyên xưng Đức Kitô đã sống lại :”Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh kinh” (Kinh Tin kính) và chúng ta có bổn

81

phận phải loan truyền cho người khác biết Chúa đã sống lại thật để nhiều người được hưởng ơn Phục sinh của Chúa và được hưởng ơn cứu độ muôn đời.

I. BÔI CANH HAI LÂN HIÊN RA.Ngày lễ Phục sinh chúng ta chỉ đề cập đến ngôi mộ trống, việc đó chưa xác định được việc Chúa sống lại. Nhưng trong suốt tuần bát nhật này, chúng ta  đề cập tới việc Đức Giêsu hiện ra nhiều lần với nhiều người, sự kiện đó chứng tỏ rằng Đức Giêsu đã sống lại thực sự hiện ra chứ không phải tà ma. Đức Kitô hiện ra với các môn đệ trao cho các ông nối tiếp sứ mạng của Ngài và ban Thánh Thần cho các ông. Mối hoài nghi của Tôma đã được giải quyết khi Đức Giêsu lại tái hiện. Sau khi được chạm tới các vết thương, Tôma liền tuyên xưng lòng tin của mình. Ông tuyên xưng như thế là người có phúc, nhưng ai không trông thấy mà tin thì có phúc hơn. 1. Hiện ra lân thư nhất.Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, các phụ nữ ra viếng mồ Chúa và trông thấy mồ trống. Phêrô và Gioan cũng xác nhận điều ấy. Sự kiện này làm dân chúng xôn xao, nhà cầm quyền điên đầu vì khó xử, các môn đệ nửa tin nửa ngờ nên qui tụ nhau lại để bàn bạc, cầu nguyện, nhưng vì có tiếng đồn các môn đệ đã lấy trộm xác Đức Giêsu nên các ngài sợ bị theo dõi, đã đóng kín cửa phòng họp lại. Ngay buổi chiều hôm đó, Đức Giêsu hiện ra cùng các môn đệ đang ẩn náu trong căn phòng Tiệc ly. Họ thấy Ngài hiện diện giữa họ mà không cần mở cửa vào vì xác thân Ngài nay đã biến thành linh thiêng, nhưng để đánh tan sự hiểu lầm Ngài là hồn ma hiện về, Đức Giêsu chỉ cho các ông thấy

82

vết thương nơi hai tay và cạnh sườn : chính thật là Chúa nay đã phục sinh. Ngoài ra, Đức Giêsu còn hai lần chào họ bằng kiểu người Do thái chào khi gặp nhau. Những lời của Ngài khiến các tông đồ lấy lại bình tĩnh cũng như xua tan sự xấu hổ làm nặng lòng các ông vì đã bất trung với Ngài. Các ông không còn nghi ngờ gì  việc Chúa sống lại, không phải dựa vào lời chứng của ai khác mà chính Ngài hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt. Nhưng rất tiếc, lúc này ông Tôma vắng mặt không biết vì lý do gì, ông được các tông đồ kể lại cho biết Chúa đã sống lại và hiện ra với các ông. Tôma không tin mà còn thách thức :”Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Ngài, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Ngài, thì tôi không tin”(Ga 20,25). 2. Hiện ra lân thư hai.Tám ngày sau, các môn đệ họp nhau trong nhà, có Tôma ở với các ông. Đức Giêsu lại hiện ra với các ông trong cùng một khung cảnh như lần trước, nhưng lần này có cả Tôma ở đây như là một cái cớ để Ngài hiện ra lần này. Việc Đức Giêsu hiện ra nói lên: Ngài kiên nhẫn chấp nhận những thách thức của Tôma… Nhưng khi Ngài hiện ra, ta không thấy Tin mừng nói Tôma có xỏ ngón tay và bàn tay như ông đòi hỏi hay không ? Nhưng ta hiểu là Tôma đã không kiểm nghiệm như ông đã đòi hỏi. Chỉ nguyên việc gặp gỡ và nghe lời Chúa nói đã đủ đánh động con người ấy. Khi được trông thấy Chúa, Tôma xúc động, không dám kiểm nghiệm như mình đã đòi hỏi trước kia mà chỉ biết kêu lên với

83

tất cả tấm lòng:”Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con”. Tôma là người môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại là người đầu tiên xưng nhận thần tính của Ngài. Lời xưng nhận ấy là tuyệt điểm của lòng tin. Theo cha Garigou Lagrange, một học giả Kinh thánh nổi tiếng : đây là lần thứ nhất Đức Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chua” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước.          II. NOI VÊ CON NGƯƠI TÔMA 1. Bản chất con người Tôma.Tôma có biệt hiệu là Điđimô có nghĩa là con sinh đôi, ông vốn là người có tính thẳng thắn, rõ ràng và thực tiễn. Ôâng rất nhiệt tình với Chúa, dám liều chết với Ngài. Chúng ta có thể đưa ra một vài bằng chứng :a. Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:’Con đường

Thầy đi, sau này họ cũng sẽ đi”. Tôma liền thưa:”Nhưng chúng con không biết Thầy đi đâu, thì làm sao biết được đường lối của Thầy”(Ga 14,5).

b. Khi thấy Đức Giêsu dứt khoát muốn lên Giêrusalem bất chấp nguy hiểm, thì Tôma lại bảo anh em: “Nào cả chúng ta nữa, hãy lên Giêrusalem chịu chết với Ngài”.

c. Tôma vẫn giữ tính đó khi nghe Đức Giêsu sống lại, Tôma đã không căn cứ vào sự kiện ngôi mồ trống, những bài Thánh kinh, nhất là lời Đức Giêsu nói trước về sự sống lại. Ngay cả việc Ngài hiện ra với các môn đệ khác vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nhưng Tôma đòi những điều kiện khả giác chắc chắn là : nhìn thấy vết đinh, thọc ngón tay vào lỗ đinh.

 

84

2. Con người hoai nghi va thưc tiên.Qua câu truyện Tin mừng kể lại, có người coi ông Tôma là “bổn mạng” của các kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như “ ông tổ” của phái duy lý, duy thực nghiệm. Nghĩ như thế thì hơi quá đáng và bất công. Phải chăng sau này triết gia Descartes, ông tổ của hoài nghi,  đã lấy hoài nghi làm phương pháp luận để đề ra “Hoài nghi có phương pháp” (doute méthodique)  để làm nền tảng cho triết thuyết của ông ? Trường hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng ta. Ôâng đã chứng tỏ một sự chân thành thật thú vị. Ôâng không hề cố gắng che đậy những nghi ngờ của mình. Người ta thường nhìn sự hoài nghi như là một dấu hiệu của sự yếu đuối. Chúng ta thường hay mặc cảm tội lỗi, vì đã có những hoài nghi. Nhưng hoài nghi có thể là một điểm nói lên sự đang phát triển, là một hòn đá bước lên để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều chắc chắn đối với Tôma, bởi vì theo Tin mừng của thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên xưng cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu :”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (McCarthy). Ở đây,  trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối biết chắc chắn về những điều thiêng liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không cần đến lòng tin nữa. Sự tuyệt đối chắc chắn có thể đưa dẫn đến thói kiêu ngạo, không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi, thì không phải là kẻ tin nữa” (Thomas Merton). Trên thực tế, Tin mừng còn cho thấy rằng ngay cả các Tông đồ mà còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không phải là người tông đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại. Tất cả các Tông

85

đồ đều như vậy cả. Thánh Marcô kể cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối Phục sinh, “Ngài khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Ngài, sau khi Ngài chỗi dậy” (Mc 16,14). 3. Một nha truyên giáo vi đai.Ông Tôma cũng như mọi người đều cần có ơn Chúa để tin, nhưng ông đã nhận được một bằng chứng đặc biệt; niềm tin của ông sẽ được phúc hơn nếu chấp nhận bằng chứng của các Tông đồ. Các chân lý mạc khải thường được chuyển trao qua lời rao giảng, qua chứng từ của các vị được Đức Kitô sai đi với quyền năng của Chúa Thánh Thần để rao giảng kho tàng đức tin :”Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô (Rm 10,17). Tôma, sau khi chế ngự được khủng hoảng, đã tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức Kitô, và trở thành một trong những nhà truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đem Tin mừng đến tận Ba tư, Syria và Aán độ, là nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là người tông đồ đầu tiên chịu chết vì đức tin. III. PHUC CHO AI KHÔNG THÂY MA TIN. 1. Tin va không tin.Trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng như các tông đồ, mọi người nghe tin hoặc tai nghe mắt thấy mà có cái tin, có cái không tin. Riêng việc Đức Giêsu sống lại, mặc dầu các Tông đồ đã nghe tin, đã thấy mà cũng chưa tin (Mc 16,11; Lc 24,11). Ngay việc Ngài đích thân hiện đến mà họ vẫn tưởng là ma. Ngài phải cho các ông rờ chân tay và cạnh

86

sườn Ngài, các ông vẫn chưa tin, Ngài mới hỏi:”Ở đây các con có gì ăn không ? Các ông đưa cho Ngài một mẩu cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn trước mặt các ông”(Lc 20,40-43), qua một số sự việc sờ sờ ra trước mắt các ông mới tin. Đức Giêsu cố gắng mở mắt cho các ông, mà không đe dọa hoặc ép buộc ai cả. Ngài chỉ mời gọi, mong muốn họ tự nguyện tin theo bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Tại sao các ông cứng lòng đến nỗi Chúa phải làm đủ cách, các ông mới tin ?  Thưa :

- Thứ nhất, vì cả loài người có ai chết mà tự mình sống lại đâu ! Các ông đã biết : Dầu là tổ phụ như Abraham, Giacóp, Giuse, vĩ đại như Maisen, Đavít, Salomôn và các tiên tri làm nhiều phép lạ như Eâlia, Eâzêkiên vẫn phải chết.

- Thứ đến, gần ba năm các ông theo Thầy hình như chỉ mong được địa vị danh vọng quyền bính, chỉ mong Thầy lên Giêrusalem để cai trị Israel, nhưng Thầy lại chịu chết. Ngay cả khi Thầy sắp sống lại, sắp về trời, các ông còn hỏi :”Phải chăng đã đến lúc Thầy phải khôi phục vương quốc Israel”(Cv 1,6). Cho nên, dầu Thầy đã ba lần báo trước :”Con người phải chịu nhiều đau khổ…bị giết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 20,17-18. Mc 10,33-34), các ông vẫn mơ ước có ngày được vinh quang trần thế. Những tham vọng phàm tục đó đã che mắt đức tin của các ông (Vũ khắc Nghiêm).

 Trong đời sống hằng ngày có kẻ chỉ nghe mà tin, có kẻ phải mắt thấy tai nghe mới tin như các thánh nữ, có người đòi chứng nghiệm, thử nghiệm rồi  mới tin, như các nhà khoa học phải thí nghiệm đúng  mới công nhận. Phải chăng các môn đệ thuộc hạng các nhà khoa học ?

87

Ngoài ra, chúng ta thấy có những người không tin gì cả khi họ “chưa thấy” và “chưa hiểu” được cả về phương diện thiêng liêng.  Họ là những người kiêu căng, họ cho là họ có thể hiểu được tất cả, cái gì họ không hiểu được là không có. Họ nghĩ rằng mình có thể thấu hiểu mọi vấn đề, kể cả những điều thực sự vượt quá trí hiểu của mình và cho tin như vậy là làm nhụt trí khôn đi. Họ đã quên rằng không phải những điều xa lạ mà họ không hiểu, nhưng  chính những điều trước mắt mà họ cũng không hiểu nổi. Truyện : hậu sinh khả úy.Hồi Khổng Tử còn sống, chính ông đã được nếm bài học này : Hôm ấy ông cỡi xe đi dạo, dọc đường ông gặp một em bé đang ngồi nghịch, lấy đất xây thành. Khổng Tử làm hiệu cho em bé tránh lối, nhưng em trợn mắt hỏi :          - Xe tránh thành hay thành tránh xe.Nghe câu hỏi hóc búa, Khổng Tử vội vã trụt xuống đấu dịu để vượt qua, nhưng em bé không nghe mà còn hỏi một câu khác nếu thưa được sẽ cho đi. Câu ấy như sau :          Thiên thượng linh linh hữu kỷ tinh,          Địa hạ lục lục hữu kỷ ốc ?          (Trời chi chít bao nhiêu ngôi sao,          Dưới đất san sát có bao nóc nhà) ?Khổng Tử bối rối. Ông hạ giọng :

- Con hỏi ông những sự trước mắt, ông có thể thưa, nhưng với những sự trên trời dưới đất thì ông chịu.

Em bé hỏi luôn :- Mục trung hữu kỷ mao ? (Trước mắt thầy có mấy cái

lông) ?Khổng Tử chịu và vội vã bước lên xe quay trở lại, miệng lẩm bẩm câu :”Hâu sinh khả uy” (rất đáng sợ người sinh sau đẻ muộn).

88

Cũng có những người biết rõ có Chúa – có thưởng có phạt, nhưng họ không muốn tin tại vì tin có Chúa phải thờ Chúa – và tin có thưởng có phạt thì phải lo làm lành lánh dữ, đang khi mình làm điều dữ. Phải nói rằêng những người này chỉ tin có Chúa khi cần phải tin – tin để có lợi cho họ. Truyện : Người ta chỉ vô thần khi bình an thôi.Hôm ấy trên con tầu lênh đênh giữa biển, hành khách truyện vãn với nhau, trong đó có bàn về Thiên Chúa. Trong số những người có mặt, có một vị vô thần. Ôâng này tìm mọi lẽ bác bỏ Thiên Chúa. Lời ông nói, lý ông đưa ra khá mạnh, khiến một số thính giả xiêu lòng. Câu truyện đương đi  thì thình lình có cơn  bão lớn khiến con tầu muốn đắm

Người ta thấy mất ông vô thần. Họ bảo nhau đi kiếm thì thấy ông đương quỳ cầu nguyện trong phòng rửa mặt.Một người hỏi khích ông :

- Ông cầu nguyện với ai? Ông là người vô thần cơ mà?Ông khiêm nhường đáp :

- Người ta chỉ vô thần khi bình an thôi. 3. Tin trong gian lao thử thách.Đức Maria đã bị thử thách : làm sao sinh con mà vẫn còn đồng trinh ? Hoặc biết ăn nói làm sao với thánh Giuse về cái bào thai trong bụng ? Và còn nhiều thử thách trong suốt cuộc đời ? Đức Maria chỉ biết thực hành câu “Xin vâng”.  Lời xin vâng được thực hành với tất cả niềm tin và lòng yêu mến.  Chính tình yêu hỗ trợ cho niềm tin. Thánh Augustinô đã nói lên ý tưởng đó khi ngài nói :”Ama et fac quod vis” : hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm. 

89

Truyện : Tình yêu hỗ trợ.Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu :

- Em có bằng lòng lấy anh không ?- Bằng lòng.- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng. Em chỉ nghe

anh nói thế thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của anh. Sao em tin anh thế ?

- Vì em yêu anh.Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin (Góp nhặt). Đức Giêsu sống lại đã làm cho các môn đệ tin tưởng, một niềm tin vững chắc ngay trong những gian nan thử thách, không gì có thể làm cho họ nhụt chí. Blaise Pascal, vị thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm về sự kiện không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Đức Giêsu nói thật to cho thế giới biết rằng Ngài đã sống lại. Pascal nói rằng ông tin chắc chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “cắt cổ” vì lời rao giảng của chính mình. Truyện : Trên bờ sông Kwai.Những tù nhân trên bờ sông Kwai được lôi cuốn đến với đức tin qua cảm nhận riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh này từng bị lao động đầu trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành bộ xương biết đi. Tinh thần họ xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xẩy ra. Thế nhưng vào ngay thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm tìm hiểu Kinh thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục sinh đang ở giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc

90

với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã được biến đổi một cách kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng liêng này khiến họ quỳ gối xuống thưa cùng Chúa Giêsu: “Lạy Chúa là Thiên Chúa của con”(Mark Link). 4. Lời Chua với chung ta hôm naySau khi Tôma đã thưa với Đức Giêsu :”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”, thì Ngài đã nói với ông :”Vì đã trông thấy Thầy, nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm đến chúng ta hôm nay và muôn thế hệ nữa, là những người không được đặc ân nghe tiếng Ngài, đụng chạm đến thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Hội thánh. Phải chăng chúng ta mỗi người đều là Tôma ? Chúng ta cũng cứng lòng như Tôma trong những cơn gian nan thử thách ?  Nhưng Tôma sau khi đã cảm nghiệm về Chúa Phục sinh, ông đã tin, một niềm tin sâu xa và vững mạnh nhất : Đức Giêsu là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ được vững mạnh về đức tin khi chúng ta có cảm nghiệm về niềm tin đó. Chúng ta tin vào tình thương Chúa khi chúng ta có cảm nghiệm bằng cách đón nhận tình thương của Chúa trong cuộc sống của mình. Đức Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với Ngài trong lòng tin, và vào những vết thương của Ngài. Mặc dầu chúng ta không được đụng chạm vào Ngài về mặt thể lý, nhưng chúng ta có thể tiến lại gần Ngài về mặt thiêng liêng. Và chúng ta cũng được kêu gọi mang lời chứng đến cho những người khác. Công việc của chúng ta là làm cho Đức Giêsu trở thành

91

“nhìn thấy được” trên thế giới. Các môn đệ đầu tiên đã làm theo cách này. Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết Ngài. Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất khiến cho họ được biến đổi trong lòng tin, đó là làm như thể họ “nhìn thấy” Đức Giêsu và “đụng chạm “ vào Ngài thông qua những kẻ đi theo Ngài. Nhưng những kẻ đi theo Ngài lại không hề có vết thương tình yêu để bầy tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết phục được những kẻ không tin (Flor McCarthy). Chúng ta có thể kết luận : Việc Tôma không tin lúc đầu là một bảo đảm cho lòng tin của chúng ta thêm vững chắc vì niềm tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và sờ tận tay vào thân xác sống lại của  Chúa. Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói :”Ngón tay đa nghi của Tôma đã trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Đức Giêsu Kitô đã phục sinh”.

Lm. Giuse Đinh Lập Liêm

92

TRAI TIM NGƯƠI THÂY, TRAI TIM HOC TROLm. Minh Anh

Các bạn trẻ thân mến,

Thiên Chúa là tình yêu, một khi đã yêu, Ngài yêu cho đến cùng. Thật ý nghĩa khi chúng ta chiêm ngắm hình ảnh Đấng Phục Sinh tỏ mình cho các môn đệ nhân Chúa Nhật “LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA”. Trong vài phút, chúng ta thử quan chiêm Trái Tim Đức Giêsu, trái tim người Thầy; đồng thời cũng thoáng qua trái tim Tôma, trái tim học trò; nhờ đó có thể hiểu được đôi chút lòng Chúa, đôi chút lòng ta.

Trái Tim Giêsu, một trái tim chan chứa yêu thương mà Tin Mừng không ngừng lặp đi lặp lại. Đã bao lần “Ngài chạnh lòng thương” trước cảnh cùng khốn của con người: Thấy dân chúng tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy người ta khiêng đi chôn con trai duy nhất của một bà goá, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy những người phong cùi tiến đến từ xa, “Ngài chạnh lòng thương”; thấy hai người mù đang dò dẫm lại gần, “Ngài chạnh lòng thương”... Và chắc hẳn các tông đồ, kể cả Tôma, cũng đã ít nhiều cảm nhận cái thổn thức “chạnh thương” đó nơi Thầy mình. Cũng trái tim đó, bởi đã chạnh thương cho đến cùng nên bị đâm thâu, để giọt máu sau hết và chút nước cuối cùng nhỏ xuống mà có lẽ Tôma đã chứng kiến xa xa hay ít nữa đã nghe thuật lại chiều ngày thứ Sáu hôm ấy vì ông không dám lại gần.

Trái Tim Tôma, một trái tim nhát đảm và ngờ vực. Thầy mất, không ai biết vì lý do gì, “Đi Đi Mô” rời bỏ cộng đoàn. Phải

93

chăng trái tim Tôma đang tan nát vì thương tích, vì những vết đau dù không nhìn thấy nhưng là những thương tích có thật và đau thật. Một trái tim ngờ vực khủng hoảng đến tội nghiệp, “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài thì tôi không tin”. Ôi, còn đâu bao lời tiên báo và giáo huấn của người Thầy khả ái? Còn đâu những cảm nghiệm đầy thán phục khi chứng kiến bao phép lạ của Con Đức Chúa Trời?

Thật là mỉa mai, thật là chua xót cho người môn sinh tuyệt vọng. Thật là thất đoạt, thật là vô ích cho người Thầy luống công. Sự ngã lòng của Tôma xúc phạm đến Thầy đâu kém việc bán Thầy hay chối Thầy của hai bạn đồng môn! Có khi còn tệ hơn; bởi lẽ, Juđa và Phêrô tránh né liên luỵ đến một người sắp từ giã cõi sống trong khi Tôma lại đan tâm chối nhận một Đấng vừa trở về từ cõi chết.

Vì thế, cũng bởi “chạnh thương”, tám ngày sau, Vị Thầy lại phải hiện ra một lần nữa và trái tim đã yêu dấu loài người quá bội đó đã biết lựa lời khôn khéo nhẹ nhàng trách yêu người học trò. Ngài dỗ dành chứ không mắng mổ, chìu chuộng chứ không phỉ báng, “Hãy đặt ngón tay con vào đây, hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Thôi, đừng cứng lòng nhưng hãy tin”.

Lạ thay, Tin Mừng không nói đến việc Tôma có sấn tới thọc tay vào lỗ đinh Thầy, đặt tay vào cạnh sườn Thầy mà trong đó cũng có một trái tim hay không. Nhưng chúng ta có thể đoan chắc, chính Đức Giêsu Phục Sinh đã một lần nữa “chạnh thương chạm đến” và băng bó trái tim thương tích của môn sinh. Tim đụng tim, lòng chạm lòng! Nhờ đó, bình

94

an lại đến với tâm hồn người môn đệ; và thay vì reo lên Magnificat, Linh hồn tôi ngợi khen Chúa, cách nào đó, Tôma đã phải cất cao Credo, Tôi tin! Bởi lẽ, trước tiên là phải tin, sau đó mới có thể ca khen Đấng mình tuyên xưng.

Vậy là tim chữa lành tim, lòng cảm mến lòng. Tim Thầy chữa lành tim trò, lòng Thầy khoả lấp lòng môn đệ. Nhờ lòng Thầy chạnh thương mà từ đây, lòng người môn đệ xác tín thay cho ngờ vực; yêu mến thay cho hững hờ; chứng tá, thay cho trốn chạy; và bình an thay cho bất an.

Hơn lúc nào hết, có lẽ mỗi người trong chúng ta hôm nay, dù ở đấng bậc nào, cũng đều cảm thấy cần đến lòng Chúa xót thương hơn bất kỳ ai. Vì chỉ có Chúa mới là Đấng xót thật và thương thật; chỉ có Chúa mới biết được mỗi người cần đến lòng Ngài xót thương biết bao; chỉ có Chúa là Đấng có thể chữa lành, có thể hàn gắn, có thể băng bó, có thể đem về và trao tặng bình an, một sự bình an không ai lấy mất. Vì bình an của Chúa là chính Chúa.

Mừng kính Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa trong Năm Linh Mục, chúng ta không quên cầu nguyện cách riêng cho các mục tử của mình và cho cả đoàn chiên được Chúa trao phó cho các ngài. Vì nhiều lúc, cả đoàn chiên lẫn chủ chiên cũng đang “đi đi mô”, bất an vì ngờ vực, hững hờ vì thiếu lòng mến, trốn chạy vì nhát đảm.“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,

xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.“Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,

xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”. “Vì sự đau khổ của Chúa Giêsu Kitô,

xin Cha thương xót chúng con và các Linh mục”.

95

Lm. Minh Anh

BINH AN CHO CAC CONLm. Giuse Nguyên Hữu An

Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.

Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái. Chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi con người thì khao khát bình an. Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36). Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình

96

an, can đảm. “Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi”(Ga 14,27). Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”. 1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn. Chúa Giêsu Phục Sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an. "Bình an cho các con". Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông. "Bình an cho các con". Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại; bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm... Tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.

Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vị vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”. Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng

97

trẫm chưa hài lòng.”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.

Bình an không giống như yên ổn. Yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ. Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được. Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài. "Bình an cho các con". Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống. 2. Hoa quả của Bình An. Có

98

nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù. Có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó. Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục... Tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh; chúng ta biết thông cảm với người làm ta bực mình; dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến; sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình...

Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội. Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn. Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật. Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần. Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.

99

Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội. Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc xao xuyến, âu lo, sợ hãi, thử thách, luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.

Lm. Giuse Nguyên Hữu An

CHUA NHÂT CHUA THƯƠNG XOTLm. Giuse Nguyên Hữu An

Ngày 23 tháng 5 năm 2000, Thánh Bộ Phượng Tự đã ra quyết định chọn ngày Chúa Nhật II Phục Sinh là ngày Chúa Nhật “Chúa Thương Xót, để các tín hữu trên toàn thế giới dùng Chúa Nhật này suy ngắm về lòng thương xót của Chúa đối với mỗi người và toàn thể nhân loại. Tin tưởng ở lòng Chúa Thương Xót, chúng ta sẽ luôn vững lòng trông cậy, phó thác nơi Chúa khi gặp những thử thách, những biến cố khủng khiếp xảy ra cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta và thế giới.

Việc tôn sùng “Lòng Thương Xót Chúa” đã được bà Thánh Faustina Kowalska cổ động. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã suy tôn Bà lên bậc hiển Thánh ngày 30 tháng 4 năm 2000. Sau đây là một số đoạn Đức Thánh Cha đã viết về Chúa Nhật “Chúa Thương Xót.”

100

Trong Lễ Phong Thánh cho Chân Phước Nữ tu Ba Lan Mary Faustina Kowalska (1905-1938), sáng ngày 30-4-2000 tại Giáo đô Rôma, ĐTC Gioan-Phaolô II đã long trọng tuyên bố: "Trên khắp thế giới, Chúa nhật thứ 2 sau Phục Sinh sẽ được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót Chúa".

Tường thuật của bài Tin Mừng theo Thánh Gioan (20,19-31) chúng ta nghe công bố trong Thánh Lễ hôm nay, một lần nữa cho các tín hữu biết Lòng Thương Xót lớn lao của Chúa Giêsu, sau khi Ngài khải hoàn phục sinh từ kẻ chết: Vì lòng thương xót vô bờ, Chúa Giêsu đã hiện đến với

các môn đồ Ngài "vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần" (c. 19a), khi họ phải đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Họ có 101 nỗi sợ người Do Thái, nhất là sợ bị đóng đinh vào cây gỗ như Thầy mình đã bị chỉ mới 3 ngày qua.

Vì lòng thương xót vô lường, Chúa Giêsu đã "đứng giữa các ông và nói: 'Chúc anh em được bình an!' Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đồ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: 'Chúc anh em được bình an! Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em. '" (cc. 19b-21)

Vì lòng thương xót hải hà, Chúa Giêsu đã "thổi hơi vào các ông và bảo: 'Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì kẻ ấy được tha; anh em cầm giữ ai, kẻ ấy bị cầm giữ. '" (cc. 22-23)

Vì lòng thương xót bao la, Chúa Giêsu đã hiện ra lần thứ hai cho các môn đồ vào "tám ngày sau" (c. 26), khi các cửa nhà của những kẻ "yếu bóng vía người Do Thái", dù họ đã được Thầy chúc bình an 2 lần và ban Thánh Thần

101

vào 8 ngày trước. "Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: 'Chúc anh em được bình an!'"

Vì lòng thương xót vô biên, Chúa Giêsu đã đặc biệt dành một hồng ân cho ông Tôma, người đã đi trốn [ở nơi bí mật nào đó khi Thầy bị bắt và tử hình, nên không được chứng kiến việc Chúa hiện ra với các môn đồ anh em mình trong buổi chiều ngày Ngài trỗi dậy từ mộ huyệt lạnh lùng. ] và, [sau khi được các bạn cho biết Thầy đã thực sự hiện ra: "Chúng tôi đã được thấy Chúa" (c. 25a)] đã tuyên bố chắc nịch: "Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Ngài, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ chẳng có tin" (cc. 25b). Hồng ân đó là: "Rồi Ngài bảo ông: Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin'. Ông Tôma thưa Ngài: 'Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!' Đức Giêsu bảo: 'Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!'" (cc. 27-29)

Vì lòng thương xót vô song, Chúa Giêsu đã "làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đồ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này…" (c. 30)

Chúng ta cũng hãy nhớ: Việc tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa, mà Đức Giêsu đã hiện ra mặc khải cho Thánh Faustina, thôi thúc các tín hữu chúng ta hành động thường ngày với "tinh thần thương xót" cho người đồng loại bằng những kinh nguyện, những lời nói và những việc làm.

Lm. Giuse Nguyên Hữu An

102

TÔN VINH LONG THƯƠNG XOT CHUAPm. Cao Huy Hoàng

“Con xin tôn vinh lòng thương xót Chúa thật lớn lao, lớn hơn muôn ngàn tội lỗi của con và nhân loại. Con xin tín thác lòng thương xót Chúa mãi muôn đời. Con xin tín thác lạy Chúa Giêsu Chúa con ơi”

Kitô hữu công giáo khắp vũ hoàn hân hoan mừng Chúa Phục Sinh, vì mầu nhiệm phục sinh đã làm chứng rằng tình yêu của Thiên Chúa đã chiến thắng sự chết và khai mở một niềm hy vọng mới cho nhân loại.

Không ai thấy được Thiên Chúa. Cũng không ai nhìn thấy tình yêu. Nhưng nơi Người Con Chí Ái, hình ảnh và tình yêu của Thiên Chúa được tỏ hiện. Chân dung một Đức Giêsu đến và chung phần đau khổ với người trần thế đã bộc bạch tấm lòng của Thiên Chúa Cha cho nhân loại. "Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng để cứu vớt những tội nhân hối cải trở về" (Mt 9:13). Và lòng yêu thương, ước muốn cứu rỗi những con người tội lỗi đã làm kim chỉ nam cho hành trình dương thế của Ngài dẫn tới quyết định chọn cái chết đau thương nhất để đền thay tội lỗi nhân loại. Chỉ có cái chết mới thỏa lòng yêu của Thiên Chúa Cha. Chỉ có cái chết mới đúng giá cứu chuộc. Quả vậy, tội lỗi nhân loại thật nặng nề, kinh khủng, nhưng Tình Yêu của Thiên Chúa mãnh liệt hơn.

Tình yêu ấy tuôn trào từ Lòng Chúa Cha, và thể hiện nơi trái tim của Người Con:

103

“Ôi Máu và Nước, từ trái tim Chúa Giêsu như mạch nguồn tình thương tuôn trào ra cho chúng con. Nầy con tin tưởng nơi Chúa, con tin tưởng nơi Ngài” (Lời nguyện Lòng Thương Xót Chúa - Lời ca bài hát Lòng Thương Xót Chúa của Ns. Nguyễn Chánh).

Tình yêu ấy là tình yêu cứu độ. Máu và Nước ấy là nguồn suối cứu độ:

“Tôi đã thấy nước từ bên phải đền thờ chảy ra. Alleluia. Và nước ấy chảy đến những ai thì tất cả đều được cứu rỗi và reo lên. Alleluia. Alleluia”

Đáp lại tình yêu vô cùng của Thiên Chúa cách cân xứng phải là một Đức tin tuyệt đối vào Đức Giêsu. Tin tưởng và phó thác vào Ngài.

Thánh Tôma không tin vào lời chứng của những người đã gặp Chúa Giêsu sống lại. Ông đòi cho được tận mắt xem thấy nơi nguồn nước cứu độ chảy ra, tận tay sờ vào những dấu đinh của người tử nạn. Và ông được thỏa mãn. Đúng là Chúa đã sống lại thật.

Tôi nhớ ở chỗ tôi, những năm 1985, có trung tá Dương Văn Bình-quen gọi là Bình Cụt- cải tạo về làm lò rèn nuôi vợ nuôi con. Mọi người rất thương ông, vì ông đã hy sinh 2 chân mình. Ông thường nói: “đây không phải là vết sẹo của chiến tranh đâu nghe mấy chú, nhưng là vết sẹo của tình yêu quê hương đất nước đấy!”. Và còn những vết sẹo trên thân Cha, trong người Mẹ, của người thân… Những vết sẹo do phẩu thuật, do tai nạn lao động trên rừng, trên rẫy…trong cuộc đời

104

cũng không hiếm là những vết sẹo của tình yêu, của hy sinh đấy chứ!

Nhưng, thiết tưởng không có vết sẹo nào kinh hoàng cho bằng những lỗ đinh và vết đòng nơi thân người Chúa Giêsu. Và còn đặc biệt hơn nữa, lỗ đinh và vết đòng ấy làm chứng một tình yêu hiến thân đã chiến thắng sự chết- Tình Yêu Phục Sinh. Vì yêu đã chết, và vì yêu đã sống lại, để người mình yêu cũng được sống lại và tràn đầy hạnh phúc tình yêu không bao giờ phai tàn.

Cảm ơn Thánh Tôma đại diện cho một thế hệ thực dụng để nhờ đó, những con người thực dụng thời nay có được một chân lý “phúc cho ai không thấy mà tin”. Cứ nhìn ngắm Chúa Giêsu trên Thánh Giá và nhớ rằng Ngài đã sống lại mà vẫn còn mang những dấu vết của cuộc tử nạn, sẽ không còn lý do gì để ngờ vực về tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người. Tình yêu ấy là “lòng thương xót”- tên gọi dành cho tội nhân. Ai không cảm thấy mình là người có tội, ai mất cảm thức về tội, sẽ không hiểu thấu lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa. Có lẽ bạn và tôi, chúng ta, không ai dám nói mình vô tội! Vậy thì, hãy đến với lòng thương xót vô cùng của Thiên Chúa, qua Chúa Giêsu tử nạn và phục sinh.

Không chỉ ở bên Mỹ, mà bên Việt Nam ngày nay, nhiều nơi nhiều người đã “Tôn vinh lòng thương xót Chúa” qua việc thực hiện Tuần Cửu Nhật Thương Xót, lần chuỗi thương xót, đọc kinh 3 giờ chiều… là tín hiệu thật đáng mừng để công trình thương xót của Thiên Chúa không trở nên vô ích.

Những anh em Phan Sinh yêu mến Thánh Phụ, theo linh

105

đạo của Thánh Phụ đã từng được gọi là Thánh Phanxicô 5 dấu đã sớm đón nhận chương trình Tôn Vinh Lòng Thương Xót Chúa và nhận được muôn vàn hồng ân từ việc tín thác hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Tôi vẫn nghe anh em hát và sống điều mình hát cách hồn nhiên lắm: “Chúa ôi, xin cho lòng con luôn khao khát, được thuộc về Chúa khi còn sống trên đời nầy. Vì ngoài Chúa ra, có nơi nào hạnh phúc? Vì ngoài Chúa ra, có nơi nào bình yên?”.

Một số anh em bệnh tật và đau khổ vì những bất hạnh trong gia đình, đã kết hiệp những đau khổ của mình với Chúa Giêsu lòng thương xót “máu nước tuôn trào” và đã tìm được bình an, hạnh phúc thật trong lòng.

Các gia trưởng, các bà mẹ đã bắt đầu những giờ kinh lòng thương xót. Và quả thật, lòng thương xót Chúa đã biến đổi đời sống đức tin các gia đình đến mức không ngờ!

3 giờ chiều thứ bảy tuần thánh tôi nhận được một message: “Đêm qua, đông người quá, em không hôn chân Chúa được. Bây giờ, em xuống nhà thờ hôn chân Chúa và đọc kinh Lòng Thương Xót Chúa dưới chân Chúa luôn. Xin Chúa thương xót chúng con và toàn thế giới.”

Lạy Chúa Giêsu, Lòng Thương Xót Vô Cùng Của Thiên Chúa Cha, xin cho 3 giờ chiều mỗi ngày trở nên giờ hẹn của những người cần đến lòng Chúa thương xót. A men.

Pm. Cao Huy Hoàng

106

SƯ ĐIÊP PHUC SINH NIÊM VUI VA BINH ANLm. An Phong, OP

Tin mừng hôm nay là trình thuật Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ và nói : "Chúc anh em được bình an". Đang khi các ông đang hoang mang, sợ hãi và kinh hoàng vì những biến cố thương đau Thầy mình phải chịu, Đức Giêsu hiện đến đem lại niềm vui và bình an, điều các ông không tưởng nghĩ đến.

Cùng với niềm vui và bình an của Đấng phục sinh, các tông đồ đã lãnh nhận Thánh Thần và sứ mạng ra đi rao giảng tin mừng : "Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Cùng với niềm vui và bình an của Đấng phục sinh, "nhờ việc Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Thiên Chúa đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống, được hưởng gia nghiệp không hư nát, tinh tuyền, không suy tàn... được bảo vệ trong quyền năng của Thiên Chúa... và vui mừng... " (1Pr 1,6-8).

Cùng với niềm vui và bình an của Đấng phục sinh, Tôma - người cứng lòng tin - đã tin. "Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Tôma là hình ảnh con người không dễ tin vào lời của người khác, ông đòi tự mình phải cảm nghiệm : "Nếu tôi không thấy... không xỏ ngón tay... tôi không tin". Thực ra, Tôma là hình ảnh một con người yêu mến tha thiết, nên khi tuyệt vọng, người đó dễ có thái độ ngang tàng, lời lẽ như thách đố, vì sợ người ta lừa bịp. Đức Giêsu hiện đến. Người chấp nhận con người Tôma. Người chiều ý ông. Người thỏa

107

mãn ước nguyện điên rồ của ông. Đức Giêsu đã đối xử dịu hiền với Tôma. Và ông đã thưa : Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của tôi. Đây thực là một kinh nghiệm đức tin tuyệt vời.

Mỗi ngày, niềm vui và bình an của Đấng phục sinh được tái hiện qua thánh lễ. Thánh lễ là một cuộc tụ họp trong và quanh Đức Giêsu phục sinh để ngợi khen, tôn vinh Thiên Chúa, đồng thời cầu xin ơn phúc cho con người. "Chúa ở cùng anh chị em", "bình an của Chúa ở cùng anh chị em" được lặp đi lặp lại trong thánh lễ nhiều lần. Đây vừa là lời chúc, lời cầu xin, lời trấn an. Thánh lễ là hiệp thông trong cuộc tử nạn và phục sinh của Đức Kitô. Hiến tế cứu độ Đức Giêsu thực hiện trên thập giá năm xưa được tái hiện trên bàn thờ mỗi ngày. Đức Giêsu đến với chúng ta mỗi ngày.

"Chúa Giêsu ưa thích đến với chúng ta.Như CHÂN LÝ để tinNhư SỰ SỐNG để sốngNhư ÁNH SÁNG để chiếu tỏaNhư TÌNH YÊU để yêu thươngNhư NIỀM VUI để ban phátNhư BÌNH AN để chan hòa.Amen". "Hoa trái của Thinh Lặng là Cầu NguyệnHoa trái của Cầu Nguyện là Niềm TinHoa trái của Niềm Tin là Yêu MếnHoa trái của Yêu Mến là Phục VụHoa trái của Phục Vụ là Bình An. Amen". (Mẹ Têrêsa Calcutta)

108

Lạy Chúa, Xin cho niềm tin chúng con được trưởng thành. Xin Chúa dẫn đưa chúng con tới chỗ thành toàn: là tham dự vào Ánh Sáng Chúa và sống nhờ Bình an Chúa. Cho niềm tin chúng con linh hoạt. Cho chúng con không xem niềm tin như một tài sản bất động. Nhưng là khởi điểm công cuộc tìm kiếm, là bước đầu hành trình, mỗi lúc thêm gian lao, mỗi lúc thêm cấp bách, tiến về chân lý và khôn ngoan.Xin cho luồng đức tin thổi vào cuộc sống chúng con. Linh hoạt và biến đổi cuộc sống thành một ân huệ yêu thương.

Lm. An Phong, OP

LICH SƯ TINH YÊULm. Giuse Đổ Vân Lực, OP

Nhân loại đang chóng mặt vì những tiến bộ ngoạn mục của khoa học kỹ thuật. Trong cơn chóng mặt đó, người ta vẽ nên những nét lịch sử nguệch ngoạc. Đó là những nét vòng hay đường thẳng ? Có lẽ khó kiếm được những đường thẳng trong muôn vàn nét nguệch ngoạc đó. Tình yêu cũng có nét lịch sử riêng. Đó là những nét vòng chung quanh cuộc đời mỗi người và cộng đoàn.

NHƯNG NÉT NGUÊCH NGOAC.Cộng đoàn ban đầu của Đức Giêsu thật nhỏ bé, nhưng cũng đủ tạo nên bao sóng gió và để lại những âm ba lớn lao trong lịch sử Giáo hội. Các môn đệ vẫn chưa hết bàng hoàng trước cơn biến động quá lớn : Thày vừa bị giết. Mối đe dọa Thày cũng đe dọa các môn đệ. Quả thực, cho tới khi Thày chưa hiện ra trấn an, “nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái.” (Ga 20:19) Tâm hồn và

109

con người các ông rúng động. Các sợi dây chằng chịt Thày trò đều bứt tung. Tương lai chỉ còn là tai ương. Niềm mong đợi duy nhất chi phối tất cả các môn đệ là sự bình an.

Bởi vậy, ngay khi sống lại, Đức Giêsu đã tìm mọi cách trấn an các môn đệ : “Bình an cho anh em !” (Ga 20:19, 21, 26) Sau khi đã ổn định tinh thần các môn đệ, Đức Giêsu thấy phải củng cố niềm tin các ông bằng những dấu chỉ cụ thể. “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn.” (Ga 20:20) Mạc khải đó thật trọn vẹn. Các ông đã thoát khỏi sự ngờ vực và sợ hãi. Đó là lý do tại sao “các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.”

Người ta cứ tưởng chỉ có ông Thomas là người cứng lòng tin nhất trong hàng ngũ các tông đồ. Chỉ mình ông gây rắc rối, đòi những bằng chứng cụ thể vì nặng đầu óc duy nghiệm. Thực ra, chẳng phải một mình ông Thomas. Các môn đệ khác đã từng không tin lời loan báo Phục sinh của bà Maria Mácđala (Ga 20:18). “Chỉ khi Đức Giêsu hiện ra với các môn đệ (c.19) và cho họ xem tay và cạnh sường Người (c.20), các ông mới nhận ra Chúa và vui mừng. Ong Thomas đã không hành động khác với các môn đệ khác.” (NIB: 849, vol.9)

Nhưng một khi đã thấy Chúa, họ đều tràn ngập niềm vui. Bình an Chúa hứa trong Ga16:20-22 đã nên trọn vẹn khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Đức Giêsu hiện diện như một bảo đảm hạnh phúc hiện tại và tương lai cho các môn đệ. Nói đúng hơn, Người là niềm vui và bình an của toàn thể nhân loại. Chính trong sự bình an lớn lao đó, Đức Giêsu muốn phóng cái nhìn của các môn đệ về một tương lai rực rỡ với sứ mệnh cao cả. Người nói rõ : “Như Chúa Cha đã

110

sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Họ cũng có một sứ mệnh cứu độ như chính Đức Giêsu. Sứ mệnh đó chỉ được thi hành với sức mạnh Thánh Linh. Bởi đấy, Người nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha ; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:23) Đây không phải là một sự tha thứ bình thường. Đó là một sự tha thứ trong quyền lực Thánh Linh. Không phải bất cứ sự tha thứ nào cũng do Thánh linh. Tha thứ đồng nghĩa với cứu độ. Chính Thánh Linh đã là sức mạnh khiến Đức Giêsu có thể hoàn thành công cuộc cứu độ đó. Nhất là sự tha thứ tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân càng cần tới quyền lực Thánh Linh.

Hơn nữa, không nhờ cái chết và phục sinh của Con Chúa, không thể có ơn cứu độ. Nói khác, đây là cuộc tạo dựng lần thứ hai. Nếu Thánh linh đã đóng vai chính trong việc tạo dựng lần thứ nhất. Người cũng đóng vai cực kỳ quan trọng trong việc tạo dựng lần thứ hai. Bởi vậy, khi bắt đầu cuộc tạo thành mới, Đức Giêsu “thổi hơi vào các ông” (Ga 20:22) như Thiên Chúa đã từng thổi sinh khí vào Adam. Đức Giêsu làm chủ và tạo dựng một vũ trụ mới, trong đó mọi người sẽ lột xác thành tạo vật mới. Một nền văn minh tình yêu sẽ chan hòa mặt đất. Mọi người sẽ là anh em với nhau và cùng đều tôn xưng Đức Giêsu là Anh Cả vì cùng chung một Cha duy nhất là Thiên Chúa. Một nền văn minh sự sống sẽ xây dựng lại tất cả từ đầu trong sức mạnh Phục sinh. Bởi đó niềm vui sẽ chan hòa mặt đất.

Niềm vui đó đã đến với các môn đệ khi Đức Giêsu “cho các ông xem tay và cạnh sườn” (Ga 20:20) và khi “Người bảo ông Thomas: ‘đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay

111

Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy.’” (Ga 20:27) Niềm vui đã đến vì các ông đã thấy tất cả sự thật, một sự thật đã giải thoát các ông khỏi mọi sợ hãi vàlàm cho các ông xác tín vào những điều Thầy đã hứa. Bừng tỉnh trước sự thật đó, “ông Thomas thưa Người : ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !’” (Ga 20:28) Muốn có được sự bình an sau khi đã qua những cơn sóng gió, các môn đệ cần phải gặp Đức Giêsu trong niềm vui Phục sinh. Niềm vui đó chính là dấu chỉ của hồng ân cứu độ.

Sự thật đã khuất phục Thomas cũng là sự thật sẽ giải thoát chúng ta. Sự thật đó xuất hiện qua những dấu lạ. Những dấu lạ đó chỉ dành cho một số ít chứng nhân Phục sinh. Không phải ai thấy dấu lạ đều có thể đọc được sự thật. Ngược lại cũng có thể thấy sự thật mà chẳng cần dấu lạ. Đó là một hồng ân dành cho những người Chúa đã tuyển chọn. Bởi đấy, Đức Giêsu mới nói : “Phúc thay những người không thấy mà tin !” (Ga 20:29) Không thấy, nhưng nghe có đủ làm cho chúng ta tin Chúa Phục sinh chăng ? Niềm tin không phải là kết quả của những đụng chạm, ngắm nhìn hay ăn uống với Chúa. Tất cả chỉ là những dấu chỉ mà thôi. Tin hoàn toàn là một nhân đức siêu nhiên, nghĩa là phải do ân sủng Thiên Chúa, chứ không do nỗ lực giác quan. Tất cả những lần Chúa hiện ra đều nhằm giúp “anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20:31) Nói khác, sự hiện diện thể lý đó chỉ là một sự trợ lực, chứ không thể thay thế động lực chính tạo nên niềm tin vào Chúa Phục sinh. Động lực chính đó là Thánh Linh, tác giả tạo dựng cả thiên nhiên và siêu nhiên, cả vật chất lẫn tinh thần. Ngay cả thân xác Chúa, từ khi được tạo thành trong lòng Trinh Nữ Maria đến lúc phục sinh khỏi lòng đất, cũng đều do một tay Chúa

112

Thánh linh tạo nên. Chính vì thế, niềm vui và bình an mới tràn ngập tâm hồn và con người các môn đệ. Nói khác, nơi nào có Thánh linh, nơi đó có bình an và vui mừng.

NIÊM VUI HÔM NAY.Đúng hơn, bình an và niềm vui đó được chính Đức Giêsu bảo đảm. Giữa cơn thử thách trần gian, Người vẫn lên tiếng : “Đừng sợ ! Ta là Đầu và là Cuối. Ta là Đấng Hằng Sống, Ta đã chết, và nay Ta sống đến muôn thuở muôn đời ; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Am phủ.” (Kh 1:17-18) Người là chính niềm vui và an bình của chúng ta. Người không bị khuất phục. Trái lại, Người nắm quyền kiểm soát cả thời gian lẫn không gian. Ai tin tưởng vào Người sẽ không bao giờ thất vọng. Ngày nay thất vọng đang lan tràn mặt đất. Hôm nay vẫn có người tin vào sức mạnh bạo lực trong việc giải quyết những tranh chấp giữa người và người. Bằng chứng Tuần Thánh vừa qua, cánh hữu bán-võ-trang tại Colombia đã vi phạm lệnh ngưng bắn, khiến cả trăm người chết, hầu hết là thường dân vô tội. Nhưng Đức Hông Y Rubiano tại Bogota nói : “Những tổ chức đó hoàn toàn sai lầm nếu họ tưởng rằng với võ lực họ có thể làm được một cái gì giá trị. Bất cứ phe nhóm nào dính líu vào cuộc tranh chấp này tưởng rằng hòa bình có thể thực hiện bằng vũ lực, họ hoàn toàn sai lầm.” (CWNews 18/4/2001) Chính Đức Giêsu, nạn nhân của bạo lực, đã phục sinh để minh chứng tình yêu mạnh hơn sự chết. Ngày nay vẫn có những tín hữu sẵn sàng hi sinh mạng sống để chứng minh Đức Giêsu Kitô đã chiến thắng tử thần. Ngay tại một nước Hồi giáo như Malesia, một nữ tín hữu đã mạnh dạn kiện chính phủ để được chuyển đạo từ Hồi giáo sang Kitô giáo trên thẻ căn cước, mặc dù biết trước những nguy hiểm đe dọa tính mạng (CWNews 18/4/2001)

113

Lm. Giuse Đổ Vân Lực, OP

ĐƯC TIN LA MÔT HÔNG ÂNLm. Giuse Nguyên Cao Luật, OP

Ngôi mộ trốngThoạt đầu là chứng nhận của giác quan: Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, nhiều người phụ nữ, trong đó có bà Maria Mácđala, đi ra mồ Đức Giêsu để khóc thương Người. Các bà thấy hòn đá lấp cửa mồ đã được lăn qua một bên, thế là các bà vội vã về báo cho các môn đệ biết rằng xác của Thầy đã bị người ta lấy đi rồi.

Ngôi mộ trống tự nó không nói lên điều gì, không chứng minh được gì, cần phải có ánh sáng của Chúa Kitô phục sinh soi chiếu vào, sự kiện ấy mới mang ý nghĩa trọn vẹn. Nguyên nó chỉ có nghĩa là ngôi mộ đã bị xâm phạm, xác người chôn trong mộ đã bị lấy mang đi.

Sự kiện mồ trống không bao lâu sau đã được các tín hữu hiểu ra ý nghĩa nhờ Kinh Thánh Cựu Ước. Tức là sự kiện ấy hợp với chương trình của Thiên Chúa liên quan đến Đức Giêsu. Thánh vịnh 16 giúp các tín hữu hiểu rằng thân xác của Đức Giêsu không phải chịu cảnh hư nát trong mồ (x. Cv 2,2531). Tin Mừng thánh Gioan hôm nay cũng cho thấy rằng, cần phải dựa vào Kinh Thánh Cựu Ước để thấy để hiểu sự kiện Đức Giêsu phục sinh : thân xác Đức Giêsu không còn trong mồ nữa, đó là điều hợp với kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kế hoạch này đã được tỏ bày trong Kinh Thánh : Đức Giêsu đã được Thiên Chúa cho phục sinh từ cõi chết.

114

Cả hai ông Phêrô và Gioan đều tới, cùng chứng kiến ngôi mộ trống và thấy khăn liệm Đức Giêsu đã được gấp lại hẳn hoi và đặt riêng một bên. Sự kiện này cho thấy rằng xác không thể bị đánh cắp.

Và tất cả, ngôi mộ trống và khăn liệm vẫn còn đó, cho thấy điều gì ? Đức Giêsu, Đấng đã được mai táng ở đây, nơi người chết không còn ở đây, nơi người chết nữa. Thế thôi. Vậy Người đang ở đâu ?

Người đã phục sinh“Ông đã thấy và ông đã tin”. Giữa sự kiện tức là những gì giác quan cảm thấy và lòng tin có một khoảng cách, một sự nhảy vọt. Mồ trống, khăn liệm vẫn còn cho thấy Đức Giêsu không còn trong mồ nữa. Nhưng để tin rằng Người đã phục sinh, cần phải có ánh sáng của Thiên Chúa soi chiếu.

Hai môn đệ làng Emmau cũng thế. Cứ trò chuyện với người khách lạ mà mắt vẫn như có cái gì che phủ khiến không thể nhận ra người khách lạ kia chính là Thầy mình, là Đức Giêsu đã phục sinh đang đồng hành với mình trên lộ trình vật chất lẫn lộ trình sầu buồn trong tâm hồn. Phải đến lúc mắt các ông như được mở ra, các ông mới nhận ra Người và mới hồi tưởng lại những gì mình đã cảm thấy khi còn trò chuyện với Người dọc đường. Vẫn cần có một khoảng cách, một bước nhảy, một sự mở mắt giùm để có thể nhận ra Đức Giêsu phục sinh.

Hay như ông Tôma. Nằng nặc đòi chứng nghiệm thân thể thương tích của Thầy. Đến khi Thầy bảo xỏ ngón tay vào lỗ

115

đinh trên tay Thầy, xỏ bàn tay vào thương tích ở cạnh sườn Thầy thì ông lại tuyên xưng Thầy bằng tước hiệu dành cho Đấng phục sinh : “Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con !” Lại cần có một sự nâng đỡ để có thể nhảy từ lãnh vực chứng nghiệm bằng giác quan sang lãnh vực nhận biết bằng cảm quan thiêng liêng, bằng đức tin.

Và như Bà Maria Mácđala. Rõ ràng Đức Giêsu phục sinh đang đứng đó. Nhưng bà lại cứ ngỡ rằng đó là ông làm vườn. Bà chân thành hỏi ông để ông chỉ cho biết chỗ ông đã giấu xác Thầy, người Thầy bà quí mến. Phải đến khi Đức Giêsu gọi tên bà, thì ông lúc nãy bà cho là người làm vườn không còn là người làm vườn nữa mà đúng là Thầy bà đang đi tìm. Tin Mừng nói rằng Đức Giêsu phục sinh gọi tên bà. Nhưng đó không phải là nhận ra một giọng nói quen thuộc, mà là một kiểu cách cho thấy có một ánh sáng từ Đấng Phục sinh soi chiếu cho con người có thể vượt lên trên lãnh vực giác quan tự nhiên để sang lãnh vực đức tin. Tin Đức Giêsu đã phục sinh.

Niềm tin căn bản“Chúa đã phục sinh”. Đó là lời rao giảng đầu tiên của thánh Phêrô và các Tông Đồ. Các ông chứng minh, dựa vào Kinh Thánh, cho các thính giả biết rằng Đức Giêsu, con người đã bị kết án đóng đinh đã chết, đã được mai táng, nhưng đã phục sinh và được Thiên Chúa tôn làm Chúa. Đó chính là điều căn bản nhất. Trước khi có những chỉ dẫn phải sống như thế nào, phải cư xử làm sao cho xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu, điều căn bản, điều phải có trước hết, đó là lòng tin Đức Giêsu đã chỗi dậy từ trong cõi chết. Chính đây là điểm phát xuất những đòi buộc luân lý. Và như thế phải

116

sống thế nào, cư xử làm sao, chỉ là lời đáp lại một ân huệ quí giá mình đã được, hơn là một cái gì ràng buộc mình.Niềm tin này căn bản đến độ nếu không có thì sẽ không có gì hết, và những người tin Đức Giêsu chỉ sống ở đời này mà thôi sẽ là những kẻ khốn nạn nhất trong thiên hạ. Thánh Phaolô đã quả quyết như thế, ấy là chưa nói đến chuyện không có niềm tin này, mọi chứng tá đều là hư không, nhất là lại đi ngược với Thiên Chúa nữa.

Cùng với Thánh Thần, Hồng Ân Đức Giêsu ban tặng, người tín hữu vẫn cần nỗ lực không ngừng để vượt qua những giới hạn của giác quan đạt tới niềm tin sống động và hoạt động. Chính niềm tin sống động này sẽ biểu lộ một cách thật tự nhiên ra cuộc sống theo như những lời mời gọi của Tin Mừng. Khoa học cứ tiến, nhưng vẫn có một khoảng cách giữa những thành tựu của khoa học và đức tin. Chính Thiên Chúa tạo đà nhảy để vượt qua khoảng cách này. Nói cách khác, đức tin là một hồng ân Thiên Chúa ban tặng. Như thế, tâm hồn chân thành tìm kiếm chính là thái độ biết xin, biết sẵn sàng để đón nhận hồng ân quý báu đó.

Lm. Giuse Nguyên Cao Luật, OP

NIÊM TIN PHUC SINHLm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Cuộc đời Chúa Giê-su đã kết thúc bằng cái chết vô cùng đau thương và nhục nhã. Nhưng Ngài có chết luôn không ? thân xác Ngài có nằm im bất động mãi trong mộ đá như mọi người không ? Không, tuy Ngài đã chết thật, nhưng Ngài đã sống lại. Đối với chúng ta hôm nay, việc Chúa Ki-tô phục

117

sinh là một sự kiện khách quan lịch sử, nhưng cũng là một mầu nhiệm cao cả mà khoa lịch sử không tài nào kiểm chứng được như người ta kiềm chứng một cuộc chiến thắng hay một biến cố lịch sử nào khác, bởi vì việc Chúa sống lại không diễn ra theo định luật tự nhiên. Thực vậy, một con người có tên là Giê-su, đã sống như bao người khác, bị án tử hình, chết, an táng, rồi sống lại. Sống lại không như đời sống trước nữa, tuy vẫn là con người ấy, cũng xác cũng hồn, cũng kiểu ăn nói ấy, nhưng nay tất cả đã được biến đổi, nên như loài thiêng, và bước vào một đời sống khác hẳn đời sống con người trần thế này, đời sống ngoài những điều kiện của thời gian và không gian. Đây chính là một tín điều cao siêu của đạo Công giáo, tín điều này cũng mặc khải cho chúng ta biết về tình trạng sau khi tận thế của thân xác chúng ta, nghĩa là lúc đó thân xác chúng ta cũng sẽ trở nên giống thân xác của Chúa Ki-tô sau khi sống lại, nghĩa là trở nên siêu việt và linh thiêng như thế, tuy vẫn còn là thân xác của mình. 

Những điều trên đây, có những nét mà khoa lịch sử có thể ghi nhận được, như có một người tên là Giê-su, ở nước Do Thái, người đó sống thế nào, chết thế nào, an táng thế nào…và sau đó không còn trong lịch sử nữa. Tất cả những sử gia trung thực, hay nếu là đồng thời, thì mọi nhà báo săn tin đúng đắn, đều có thể ghi nhận được rõ ràng. Cảnh sát, công an, tòa án, nếu cần, cũng có thể điều tra tới nơi tới chốn. Nhưng cũng có những nét vượt qua phạm vi của một sử gia, của một cuộc điều tra của công an, cảnh sát, đó là một thế giới khác thế giới này, một nếp sống không lệ thuộc không gian, thời gian. Đây là một nhận thức về tôn giáo thuần túy, chỉ có niềm tin mới có thể chấp nhận được.

118

Cũng như lịch sử hay tòa án nào có thể nói gì về việc bà hiện ra ở Lộ Đức với Béc-na-đét là Đức Mẹ Ma-ri-a ? Hay về việc Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa ? Vì các tiêu chuẩn để nhận định những sự việc đó vượt phạm vi của khoa học thực nghiệm. Cũng vậy, sự phục sinh của Chúa Ki-tô là mầu nhiệm cao siêu mà con người không thể nào dùng những lý luận hay những bằng chứng khoa học để minh chứng và cưỡng bách người khác phải tin nhận. Tuy nhiên, khi xem xét hậu quả của niềm tin nơi mầu nhiệm đó, người ta có thể nhận ra mầu nhiệm ấy chân thật, vững chắc.

Hậu quả của niềm tin đó là Ki-tô giáo nói chung và Giáo hội Công giáo nói riêng. Nói rõ hơn, Ki-tô giáo chính là một bằng chứng lịch sử cho sự kiện phục sinh của Chúa Ki-tô. Quả thực, nhìn lại lịch sử Ki-tô giáo từ đầu cho tới ngày nay, người ta phải công nhận rằng : không thể cắt nghĩa được đám cháy vĩ đại Ki-tô giáo ngày nay, mà lại không cần có một mồi lửa tiên khởi, mồi lửa đó chính là sự phục sinh của Chúa Ki-tô, nghĩa là từ một người thợ mộc vô danh, sinh sống ở thôn quê, tại một thuộc địa xa xôi trong đế quốc Rô-ma cách đây hai ngàn năm, một ngày đẹp trời tháng 4 bị công an bắt giữ, đem hành quyết treo trên thập giá. Vậy mà hiện nay một phần lớn nhân loại đang quì gối thờ lạy con người ấy. Làm sao có thể giải thích hiện tượng này ? Phải có một nguyên cớ nào đó, biến cố có một không hai, đó là sự phục sinh của con người ấy. Như vậy, chính sự kiện Chúa Ki-tô phục sinh đã phát sinh ra Ki-tô giáo, và cho đến ngày nay mầu nhiệm phục sinh vẫn là nền tảng của Ki-tô giáo. Không có Chúa Ki-tô phục sinh không thể có Ki-tô giáo, hủy bỏ được Chúa Ki-tô phục sinh, đạo Ki-tô không còn.

119

Tất cả những điều trên cho chúng ta biết : Mặc dầu Kinh Thánh đã cống hiến cho chúng ta một số bằng chứng về sự phục sinh của Chúa Ki-tô, nhưng đối với mầu nhiệm cao cả nòng cốt này vẫn đòi hỏi chúng ta phải có một niềm tin, hay đúng hơn, một đức tin. Bài Tin Mừng hôm nay, qua câu nói với thánh Tô-ma, Chúa Giê-su cũng bảo cho chúng ta biết : “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Nói như vậy không có nghĩa là ca tụng một đức tin mù quáng, dị đoan, vô lý, nhưng muốn nói rằng : từ  thánh Tô-ma về sau, việc sờ mó vào thân xác Chúa như Tô-ma sẽ không bao giờ được nữa, từ đây, tin Chúa Ki-tô phục sinh là tin qua thế giá của Kinh Thánh, của Chúa Thánh Thần, của Giáo hội, của các bậc tiền nhân. Cũng như chúng ta biết được một sự kiện lịch sử hay một nhân vật lịch sử nào đó là do sách vở ghi chép lại hay do người khác kể lại, thì việc Chúa phục sinh được Sách Thánh ghi lại và nhờ vào thế giá của bao nhiêu thánh nhân, của chính Giáo hội hiện hữu. Ai tin qua đó là có phúc.

Hôm nay chúng ta tuyên xưng niềm tin vào Chúa Ki-tô. Ngài đã nhận cái chết, để rồi từ cái chết Ngài đã sống lại. Ngài đã chiến thắng cả tội lỗi lẫn sự chết và đưa chúng ta vào cuộc sống đời đời trong Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta luôn xác tín vào mọi mầu nhiệm trong đạo và sống niềm tin ấy bằng chính đời sống tốt đẹp của chúng ta.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

120

CHUA SÔNG LAI, ĐANG Ơ GIƯA HÔI THANHGm. Bartôlômêô Nguyên Sơn Lâm

PHUC ÂM: Ga 20, 19-31"Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến".Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: "Bình an cho các con". Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: "Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con". Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: "Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại". Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: "Chúng tôi đã xem thấy Chúa". Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: "Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin".

Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: "Bình an cho các con". Ðoạn Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Tôma thưa rằng: "Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!" Chúa Giêsu nói

121

với ông: "Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin!"

Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người. SUY NIÊMChúng ta vừa nghe đọc một bài sách Công vụ các Tông đồ, một bài sách Khải huyền và một bài Tin Mừng theo thánh Gioan. Ðó là ba quyển sách mà Phụng vụ sẽ trích đọc trong tất cả các Chúa nhật Phục sinh năm nay; và cũng theo thứ tự trên. Không nhất thiết mỗi lần ba bài đọc ấy đều ăn ý với nhau; nhưng luôn luôn cả ba đều nói về mầu nhiệm Phục sinh. Cứ chung mà nói, các Tin Mừng sẽ cho chúng ta thấy Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ. Các bài sách Công vụ nói Tin Mừng Phục sinh đã xây dựng Hội Thánh thế nào; và các bài sách Khải huyền mở cửa trời cho chúng ta chiêm ngưỡng Chúa Phục sinh ở trên ấy. Như vậy, trong suốt mùa Phục sinh này, chúng ta sẽ được hiểu biết mầu nhiệm Chúa sống lại ở những bình diện khác nhau và bù đắp cho nhau. Chúng ta sẽ thấy nhờ việc sống lại từ kẻ chết, Chúa Giêsu còn hiện diện và hoạt động hơn trước nơi tâm hồn tín hữu, trong Hội Thánh của Người và hướng dẫn lịch sử các dân tộc nữa.

Chúng ta sẽ cố gắng tiếp thu giáo huấn của phụng vụ trong mùa này để làm sống động ơn Phục sinh mà Chúa đã ban cho chúng ta một cách đặc biệt trong ngày kỷ niệm việc

122

Người sống lại. Và chúng ta sốt sắng đón nhận thêm ơn ấy mỗi khi tham dự thánh lễ. Ðó là những công việc chúng ta bắt đầu làm ngay từ trong thánh lễ này, để hiểu biết hơn và đón nhận nhiều hơn ơn phục sinh của Chúa.

Vậy trước hết, các bài Kinh Thánh đọc hôm nay, nói gì với chúng ta? Chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của thánh Tôma hay là Chúa nhật của Hội Thánh? Thiết tưởng, tuy câu chuyện về thánh Tôma hôm nay rất nổi, chúng ta vẫn không thấy hình ảnh của ông che hết được những sự kiện khác đã xảy đến cho Hội Thánh sau ngày Chúa sống lại. Cả ba bài đọc dường như đều chú trọng đến việc Chúa sống lại đang ở giữa Hội Thánh và chúng ta nên gọi Chúa nhật này là Chúa nhật của Hội Thánh được Chúa sống lại viếng thăm. Ngay cả câu chuyện về thánh Tôma cũng nằm trong bối cảnh chung này. Và vì nó rất nổi, chúng ta hãy bắt đầu với nó. 1. Chua Sống lai Hiện Ra Với Các Tông ÐồCâu chuyện Tôma xảy ra vào ngày thứ 8 sau hôm Chúa sống lại tức là vào chính ngày hôm nay, sau khi chúng ta đã mừng lễ Phục Sinh của Chúa vào Chúa Nhật trước. Vì lý do ấy, năm nào phụng vụ cũng đọc bài Tin Mừng này vào Chúa Nhật II Phục Sinh. Nhưng sở dĩ có việc Chúa hiện ra với Tôma là vì 8 hôm trước Chúa đã hiện ra với các môn đệ. Hôm ấy Tôma không có mặt. Ðược anh em nói cho biết Thầy đã sống lại và hiện ra, ông thấy thiệt thòi và thua kém. Nhất nữa ông là người đã giục anh em: "Nào chúng ta hãy lên Giêrusalem với Thầy và chịu chết với Thầy". Ông nghĩ mình có quyền được xem thấy Chúa sống lại ít là như mọi anh em.

123

Thế nên ông cương quyết không chịu tin lời anh em kể lại về việc Chúa đã hiện ra và ông đòi phải được sờ vào Người. Tên của ông lại có nghĩa là "sinh đôi", nên ông muốn được Chúa lập lại cho ông thấy việc Người đã làm cho anh em.

Chúng ta có quyền nghĩ về tâm lý Tôma như vậy, vì Thánh Kinh đã khẳng định một điều chắc chắn các tông đồ đã được xem thấy Chúa sống lại. Thế mà Tôma cũng là một tông đồ. Ông phải được Chúa sống lại hiện ra để chứng của ông cũng chắc chắn như chứng của mọi anh em. Và rất có thể trong câu chuyện này, tác giả Gioan cũng đã theo thói quen của mình, lấy trướng hợp một cá nhân để làm sáng tỏ việc xảy đến cho nhiều người. Việc Tôma vắng mặt lúc Chúa hiện ra lần đầu tiên với các môn đệ, là hữu ý để người ta lại được thấy Chúa hiện ra nữa và rõ hơn, để không ai còn có thể nghi ngờ được nữa.

Quả vậy, đọc kỹ bài tường thuật hôm nay, chúng ta thấy tác giả Gioan kể hai lần Chúa hiện ra dường in hệt như nhau. Lần sau như chỉ "lập lại" lần trước, chỉ cá biệt và rõ ràng hơn thôi. Chúng ta thấy hai lần đều xảy ra vào ngày Chúa nhật, ngày của Chúa sống lại, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa phục sinh đến gặp gỡ Hội Thánh. Ðiều đáng để ý là cả hai lần nhà cửa các môn đệ đều đóng kín. Như vậy, lần hiện ra trước chưa đủ làm cho họ trở thành những con người mới sao? Hay là tác giả Gioan còn muốn giữ họ ở lại trong nhà cho đến ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống? Chúng ta có thể nghiêng về ý nghĩa sau, vì hôm Chúa hiện ra có mặt cả Tôma, cửa nhà các môn đệ còn đóng kín nhưng không thấy nói "vì sợ người Do Thái" nữa.

124

Rồi Chúa cũng đột xuất đứng giữa họ và nói: "Bình an cho các ngươi". Người ta có thể nghĩ Người đã dùng công thức chào hỏi thông thường của người Do Thái, nhưng đang lúc các môn đệ còn ở trong nhà đóng kín cửa, lời chào ấy có một ý nghĩa khác. Nó có tác động trấn an thật sự, nếu chúng ta chưa muốn gán cho nó hiệu lực của mầu nhiệm thập giá đã đem bình an này mới là sự bình an mà Ðức Giêsu trước đây đã hứa với môn đệ rằng: "Thầy để bình an lại cho các con; Thầy ban bình an của Thầy cho các con, sự bình an mà thế gian không thể ban được".

Dù sao, sau đó Người đã cho môn đệ thấy tay và cạnh sườn của Người. Và riêng hôm nay, Người bảo Tôma hãy đem ngón tay đặt vào đấy. Trong cả hai lần cũng là một việc, tuy lần sau có rõ hơn lần trước nhưng cũng chỉ có một ý nghĩa. Chúa làm như vậy không phải để trấn an môn đệ, vì tính cách đột xuất của việc hiện đến có thể khiến họ tưởng Người là ma. Không, ma không thể có thân thể như Người có đây.

Tuy nhiên, Chúa đã nhằm cho môn đệ tin Người đã sống lại. Người đã chết thật, nhưng đã sống lại. Các vết thương làm chứng Người đã chết; nhưng con người đã chịu những vết thương đó bây giờ đang sống giữa họ đây. Người đã sống lại thật. Họ phải tin như vậy.

Lần trước, niềm tin ấy đã khiến họ mừng rỡ. Hôm nay, niềm tin đã được đào sâu và tiến bộ. Họ như nói trong lời tuyên xưng của Tôma: "Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi". Chúng ta thường để ý đến lời Tôma phát biểu trước đây khi

125

nghe anh em nói rằng Thầy đã sống lại và hiện ra. Nhưng chúng ta lại hay quên lời tuyên xưng của ông hôm nay.

Ðó là lời tuyên xưng đầu tiên và căn bản của Hội Thánh về Ðức Giêsu Kitô sau khi đã ý thức việc Người sống lại. Chính niềm tin về sự Phục Sinh của Người đã khiến Hội Thánh thấy Người là Chúa và là Thiên Chúa của mình. Và Hội Thánh bắt đầu tuyên xưng Người như vậy. Tác giả Gioan đã cho Tôma được vinh dự nói lời tuyên xưng ấy lần đầu tiên ở trong Hội Thánh. Như vậy, tác giả đâu có muốn cho Tôma bị tiếng là cứng lòng tin? Chúng ta phải nghĩ rằng Gioan đã dành cho Tôma vinh dự tiêu biểu cho Hội Thánh: trước chưa tin, rồi đã tin và mỗi ngày càng tin sâu xa hơn, đến nỗi trước mới chỉ vui mừng vì đã tin và đã được cứu độ; sau đã sốt sắng tuyên xưng niềm tin ấy và muốn chia sẻ ơn cứu độ cho mọi người.

Thật vậy, hôm trước thấy môn đệ đã tin thì Chúa Giêsu đã thở hơi ban Thánh Thần cho họ để họ có thể tha tội cho người ta. Hôm nay chúng ta thấy ý tưởng truyền giáo ấy được gói trong câu Chúa bảo Tôma: "Bởi thấy Ta, ngươi đã tin; phúc cho những ai không thấy mà tin". Cả hai hôm đều có sự phân biệt giữa đoàn môn đệ và người ta. Môn đệ nhận được Thánh Thần và đức tin là để người ta được khỏi tội và được tin. Hạng trước phải phục vụ hạng sau. Chúa sống lại hiện ra với các tông đồ là để họ trở thành nhân chứng về sự Phục Sinh của Người ở trước mặt các dân tộc; và để họ thành lập cộng đồng các tín hữu. Chúng ta hãy xem họ có làm nổi công việc này không?

 

126

2. Các Tông Ðồ Xây Dưng Hội ThánhBài sách Công Vụ Các Tông Ðồ hôm nay là một trong ba bản văn tóm tắt tình hình chung của Hội Thánh ở buổi đầu tiên (xem chương 2,42 và 4,32). Thật ra mỗi bản văn đã làm nổi bật một số điểm trên một cái nền chung. Ở đây, tác giả chú trọng đến việc các tông đồ đã làm được nhiều dấu lạ điềm thiêng. Và điều này khá phù hợp với tư tưởng của hai bài Kinh Thánh khác trong thánh lễ hôm nay, nhất là bài Tin Mừng chúng ta vừa đọc.

Nhưng trước hết chúng ta hãy để ý đến nền ảnh chung. Tác giả viết: "Bấy giờ họ đồng tâm nhất trí thường họp với nhau hết thảy nơi trụ lang Salomon". Ðiều này làm chứng cho những lời tác giả nói trước đây. Các tín hữu của Chúa thời bấy giờ hiệp nhất như chỉ có một linh hồn. Và cũng phải nói: họ như chỉ có một thân thể nữa, vì họ không thể nào chịu để cho trong họ có người thiếu thốn. Thế nên ai có sở hữu nhiều thì đã đem bán đi, lấy tiền, đem lại cho các tông đồ để chia sẻ cho những người túng thiếu hơn.

Tuy nhiên, điều đáng để ý nhất ở nơi họ, vẫn là sự đồng tâm nhất trí về tinh thần, biểu lộ đặc biệt trong những khi họ hội họp nhau để nghe giáo huấn các tông đồ và cử hành phụng vụ. Ở đây, chúng ta thấy họ đang có mặt ở tất cả ở các trụ lang Salomon là chỗ khá rộng rãi thuộc đền thờ để tín hữu làm công việc thờ phượng. Chính tại nơi này, xưa kia Chúa Giêsu đã đi đi lại lại (Ga 10,23); và cách đây lít lâu, Phêrô đã làm cho một người què được khỏi tức thì.

Hôm nay, tín hữu của Chúa cũng họp nhau lại đây để nghe giáo huấn và cầu nguyện. "Không ai dám sát lại gần họ". Vì

127

sợ người Do Thái ư? Chắc không phải, vì như sau sẽ nói, số tín hữu cứ mỗi ngày mỗi tăng. Nhưng người ta chưa dám lại gần cộng đoàn dân Chúa chỉ vì đang là giờ phụng vụ riêng của Hội Thánh mà người ta chưa thể tham dự được. Cũng rất có thể những lúc như vậy người ta thấy họ được dồi dào các ơn Thánh Thần và sốt sắng đặc biệt, như tác giả sách Công vụ đã nhiều lần nói (vd. 4,31).

Dù sao không dám lại gần, nhưng người ta cũng ca tụng họ vì quả thật họ đáng ca tụng khi hội họp nhau đồng tâm nhất trí và sốt sắng như vậy. Dĩ nhiên sự ca tụng này cũng bao gồm cả những lần khác khi người ta thấy các tín hữu ăn ở tốt lành và có lòng bác ái chia sẻ trong đời sống xã hội.

Chính những hình ảnh đẹp đẽ này đã lôi kéo nhiều người gia nhập dân Chúa, mỗi ngày mỗi đông, đoàn đoàn lũ lũ, đàn ông đàn bà. Và gia nhập có nghĩa là tin theo Chúa khiến chúng ta thấy các môn đệ đã thi hành được sứ mạng Chúa giao cho mình. Sau khi sống lại, như bài Tin Mừng hôm nay viết, Chúa đã hiện ra với họ, ban Thánh Thần để họ tha tội, ban đức tin để họ làm cho có nhiều người không thấy Chúa mà vẫn tin. Thế thì bài sách Công vụ hôm nay cho thấy ơn Thánh Thần và đức tin của các môn đệ càng ngày càng lan sang cho đoàn đoàn lũ lũ. Hội Thánh đã thành hình và phát triển nhờ ơn Chúa Phục Sinh vậy.

Ở giữa Hội Thánh này, các tông đồ đóng một vai trò quan trọng, và đặc biệt là Phêrô. Chúa làm cho họ được nhiều dấu lạ điềm thiêng để củng cố lời rao giảng của họ, như Người đã từng hứa; và như họ vẫn thường xin (4,30). Họ biết khả năng tự nhiên của họ quá ít; họ còn ý thức hơn nữa

128

tính cách siêu việt của Lời Chúa và sự khó đoán nhận tự nhiên của xác thịt về phía người nghe. Chúa có trợ sức, lời giảng về Mầu nhiệm Thập giá mới trở thành thần lực. Và khi có dấu lạ điềm thiêng kèm theo, lời giảng Tin Mừng mới có sức mạnh.

Chúng ta hãy chú ý: các dấu lạ điềm thiêng ở đây không hề có tính cách phô trương mê hoặc, nhưng hoàn toàn chỉ bày tỏ ơn Thánh Thần và bác ái. Ðặc biệt hôm nay chúng ta thấy toàn là việc chữa bệnh tật để nói lên ơn tha tội và sự sống Phục Sinh của lời giảng. Và khi nhìn thấy quang cảnh người ta từ khắp nơi khiêng bệnh nhân đến và đặt la liệt trên đường đi cho bóng của Phêrô đi ngang qua rợp trên những người đau yếu, làm sao tự nhiên chúng ta lại không nhớ lại Chúa Giêsu ngày trước đã nhiều lần như thế. Phêrô bây giờ là hình ảnh của người, và là hiện thân của Chúa Phục Sinh, nếu chúng ta nói được như vậy. Nhất là khi Phêrô xua trừ được tà thần, thì rõ rệt sức mạnh của Chúa Giêsu sống lại đang ở với ông và ở trong Hội Thánh. Chúa Giêsu đang ở cùng Hội Thánh hằng ngày cho đến tận thế. Và điều này cũng được bài sách Khải Huyền hôm nay nói lên. 3. Hội Thánh Của Chua Sống LaiTác giả Gioan tự giới thiệu mình như là một phần tử đang ở giữa cộng đoàn dân Chúa. Người là anh em với mọi người; và đang đồng hành với anh em. Một thân phận chung đang trùm lên mọi người. Hội Thánh của Chúa ở trần gian đang trong cơn thử thách; nhưng đó là thử thách mang lại vương quyền như cuộc tử nạn của Chúa Giêsu trước đây. Và vì thế Hội Thánh đang kiên nhẫn ở trong Người.

129

Nói một cách cụ thể hơn, Gioan đang chia sẻ sự bắt bớ mà Hội Thánh đang chịu. Ông, bị đày ra đảo Patmos vì Lời Chúa và vì chứng của Chúa Giêsu. Ông đã thi hành sứ mạng Tông đồ, rao giảng Lời Chúa và làm chứng cho Chúa Giêsu, nên người ta đày ông ra đảo này.

Nhưng cho dù bị tách rời anh em về phần xác, Gioan vẫn ở giữa cộng đồng Hội Thánh bằng tinh thần và ngày Chúa nhật hôm ấy, ngày Hội Thánh gặp nhau, ngày Chúa viếng thăm Hội Thánh cách đặc biệt, Gioan được "ngất trí" để sống giữa Hội Thánh và phục vụ Hội Thánh với cương vị tông đồ của mình.

Ông nghe thấy có tiếng nói lên ở đàng sau tựa tiếng loa. Ðó là tiếng "thần thánh" nói trong "đầu óc" ông. Tiếng đó bảo ông phải viết những điều ông trông thấy để gởi các giáo đoàn, tức là cho cả Hội Thánh. Ông phải làm vai trò rao giảng Lời Chúa như ơn Chúa đã kêu gọi ông.

Và ông thấy gì? Có 7 trụ đăng vàng, tiêu biểu cho 7 giáo đoàn sẽ nhận được thư ông. Và giữa các trụ đăng ấy có ai giống như Con Người, mình bận áo chùng, lưng thắt đai vàng. Chẳng thể hồ nghi gì nữa, đó là Chúa Giêsu ở giữa Hội Thánh, mặc áo tư tế và thắt lưng đai vua. Cảnh tượng ấy khiến Gioan lập tức sấp mình kính sợ thờ lạy. Nhưng Chúa Giêsu đã đặt tay hữu lên ông và bảo: đừng sợ! Rồi Người cho ông biết: Người là Ðầu hết và là Sau hết; là Ðấng Hằng Sống, nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ. Người bảo ông hãy viết những điều này và những điều sau này nữa mà gửi cho Hội Thánh.

130

Chúng ta hãy hiểu ý của Người, khi xưng mình là Ðầu hết và Sau hết, Chúa Giêsu đã đồng hóa mình với Thiên Chúa theo công thức mà Isaia đã viết trong Cựu Ước. Người ta đừng tưởng Người đã chết trên thập giá. Không, Người đã sống lại và là Ðấng Hằng Sống. Người đã chết và sống lại để nắm được chìa khóa (tức quyền hành) của sự chết và của âm phủ). Những lời mạc khải này quan trọng biết bao! Nó củng cố niềm tin của Hội Thánh về việc Chúa chết và sống lại. Và được nghe trong lúc bị bắt bớ, đày ải, những lời ấy tăng thêm sức mạnh kiên nhẫn cho Hội Thánh hơn hết mọi liều thuốc hồi sinh.

Bài sách Khải huyền, vì thế, rất phù hợp với Hội Thánh thời thánh Gioan. Và đối với chúng ta đang sống trong thân phận lữ khách trần gian, mạc khải vừa nghe cũng đem lại nhiều an ủi. Nhưng nhất là chúng ta phải thấy rõ Chúa Giêsu Phục Sinh hằng ở giữa Hội Thánh như vị Thượng Tế của đạo mới, như vị thủ lãnh có vương quyền và như Thiên Chúa đang nắm giữ vận mạng của lịch sử. Người không ở xa Hội Thánh, nhưng ở giữa. Người không bỏ rơi một phần tử nào, nhưng ban sức cho cả người lưu đày cũng được khả năng thi hành chức vụ. Hoạt động của Người không giảm đi, theo việc Người chịu chết. Trái lại, cả ba bài Kinh Thánh hôm nay đều cho thấy, từ sau ngày sống lại, Chúa Giêsu đã hoạt động hơn trước với quyền lực mới, nắm giữ cả chìa khóa sự chết và âm phủ, khiến tà thần và bệnh tật cũng phải lui mau khi các Tông đồ và Hội Thánh của Người đến gần...

Trong thánh lễ cử hành bây giờ, Chúa Giêsu cũng đến với quyền lực như thế. Người có thể làm ra những Tôma mới; Người ban cho Hội Thánh sự hiệp nhất và sức mạnh mới;

131

Người tỏ ra vẫn hiện diện mới mẻ giữa Hội Thánh. Ước gì chúng ta biết đón nhận Người với lòng tin của Tôma; cộng đoàn phụng vụ chúng ta muốn chứng tỏ tình hiệp nhất và khả năng đổi đời nhiều hơn, để chứng tỏ Ðức Giêsu hôm qua, hôm nay và mãi mãi, là Ðấng Hằng Sống, hằng trị, và hằng cứu độ mọi người. Amen.

Gm. Bartôlômêô Nguyên Sơn Lâm

PHUC SINH 2 PHUC SINHGa 20,19-31

Gp. Vinh Long

Buổi chiều ngày thứ I, Đức Giêsu hiện đến với các tông đồ, vắng Tôma.Ngày thứ I, ngày của Chúa : Đây là ngày Chúa đã làm ra……Các tông đồ đang hội nhau..cầu nguyện. Là ngày hội của cộng đoàn. Đức Giêsu đến – Chúc bình an – thổi hơi trên các ông – ban thần khí – quyền tha tội - sai đi…Tôma vắng – vì bị mắc – không nhận được - bình an – hơi thở-thần khí – và mọi thứ khác ie. không được gì hết – vì vắng mặt do bị mắc gì đó. Mắc gì thì mắc nhưng không được gì hết thì mới đáng nói.

Tôma bỏ Chúa Nhật - ngày của Chúa - Ngày hội của cộng đoàn-không nhận dược gì mà Chúa ban trong ngày ấy. Cho nên thay vì nhận được bình an của Đấng Phục Sinh mà mọi người đang âu lo sợ hải rất cần. Nên Tôma không được

132

bình an mà còn tỏ thái độ mà Thánh Gioan muốn chúng ta lưu ý qua tường thuật của ông. Không tin – Gioan trong suốt Phúc Âm thứ IV dường như chỉ chú trọng đặc biệt đến tin- không- tin. Tin thì được sống. Không tin thì không được. Tôma không tin nên nghe các ông khác nói đã thấy Chúa và thấy các dấu đinh ở tay chân và lổ cạnh sừơn Người nữa. Ông còn khinh khỉnh: Nếu tôi không xỏ ngón tay vào lổ đinh….mà không thấy mình quá đáng. Không tin là như vậy.

Người tín hữu không có mặt ngày Chúa Nhật thì cũng như vậy. Ngay việc không có mặt trong ngày hội của cộng đoàn đã là dấu không tin rồi. Kẻ vắng mặt thì không được tính.

Chúa Giêsu đã quở Tôma : vì anh thấy nên anh mới tin. Thấy thì là thấy chớ còn gì mà gọi là tin nữa. Phúc cho kẻ không thấy mà tin. Người do thái đòi dấu lạ mới tin Đức Giêsu cũng đã quở nặng.

Ngày nay vẫn thế. Người ta vẩn chờ dấu lạ, vẫn di tìm phép lạ. Người ta đi Tác Sậy cầu xin Cha Phanxicô như là cha Phanxicô mới cho, Chúa không có cho. Đi Tà Pao xin Đức Mẹ. Người ta nói Mẹ ở đó chờ, hãy đến để Mẹ thương, Mẹ ban ơn. Như ở đó mới có Mẹ. Sự lạ là dấu Mẹ hiện diện. Tôi đến thăm Mẹ. Như người ta kể: người nầy chuyến đi Tà Pao nào cũng có mặt mà ở nhà không có tới nhà thờ ngày Chúa Nhật.

Có người nói giữ đạo vì có lợi là lợi dụng. Nếu chỉ để xin ơn phần xác thôi thì có lẻ đúng. Còn nếu để dược lợi linh hồn

133

và sự sống đời đời thì lợi dụng cũng nên. Lợi được sự sống đời đời thì phải lợi dụng chứ. Nên lắm chứ.

Hãy có mặt ngày của Chúa. Chúa có thấy mặt mới đặt tên, mới ban bình an,mới thở hơi Phục Sinh cho, mới biến đổi thành con người mới và mới sai đi.

Chúc Phục Sinh Bình An trong Niềm tin.

CHUA NHÂT II PHUC SINHGa 20,19-31

Gp. Vinh Long

Anh chị em thân mến. Nếu có dịp đi về miền quê, chúng ta sẽ ngạc nhiên khi nhìn thấy phương tiện giao thông rất đơn sơ, thế mà người ta vẫn bằng lòng và vui vẻ chấp nhận dễ dàng.

Có lần tôi nhìn thấy, một chiếc xe không biết có từ bao giờ, cũng có thể không có một chiếc xe thứ hai như thế trên thế giới. Nó vừa cũ, vừa không an toàn, hình thể của nó cũng được biến đỗi sao cho phù hợp với thôn quê, vừa là xe khách, vừa là xe tải. Trên xe chất đầy người và hàng hóa cho đến đỗi không còn nhìn thấy chiếc xe, chỉ thấy một khối người từ từ tiến tới. Bổng nhiên chiếc xe dừng hẳn và không còn chuyển động được nữa. Hành khách xuống xe, không có gì là vội vã. Chủ xe lo sữa chữa. Một lúc sau, chủ xe xin mọi người trợ lực cho chiếc xe để nó có thể lăn bánh. Hành trình lại tiếp tục.

134

Tôi suy nghĩ. Đáng lẽ chiếc xe phải về hưu, nó phải được nghĩ ngơi, sau một thời gian làm việc. Nói đúng hơn, khả năng của chiếc xe, không còn xứng đáng để xử dụng được nữa. Thế mà trong thực tế, chiếc xe vẫn còn hữu dụng cho nhiều người, vì những người nầy cần đến nó và biết cách xử dụng nó, nên nó vẫn phục vụ cách đắc lực.

Các môn đồ sợ sệt vì có liên hệ với phạm nhân bị tử hình. Các ông dường như là những người bị bỏ đi của xã hội, còn đối với Thầy, các ông không còn xứng đáng là những môn đồ trung tín, vì các ông đã bỏ Thầy mà chạy trốn. Chúa Giêsu vẫn tìm đến với những con người dường như bị bỏ đi nầy, Ngài nói lời chúc bình an. Ngài còn trao cho sứ mệnh, đó là Ngài xử dụng họ vào công việc của Ngài. Còn Tôma, vẫn chưa chấp nhận được cách xử dụng bình thường của Chúa Giêsu.

Cổ máy của con người ông chưa thể hoạt động được. Ngài phải ra tay, phải trợ lực để cổ máy được xử dụng theo ý muốn của Ngài. " Hãy đặt ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy. Đưa bàn tay con ra và đặt vào cạnh sường Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin". Nhìn thấy được nhu cầu, Chúa Giêsu không ngần ngại vì người môn đồ đặt biệt nầy. Tất cả các môn đồ đã nhìn thấy những điều Tôma đã thấy, tất cả đã được nghe những điều Tôma đã nghe. Tất cả cũng đã nhận được những điều Tôma đã được. Nhưng tất cả không có được hành động mà ông đã có. Tất cả cũng không nói được lời mà ông đã tuyên xưng đối với những gì mà ông đã nghe, đã nhìn thấy và đã nhận được. Chúa Giêsu đã xử dụng con người mà dường như không ai xử dụng

135

được, nên những gì Ngài xử dụng đều trở nên công cụ đắc lực cho Ngài.

Khi vừa nghe qua bài phúc âm, chắc chúng ta thầm trách Tôma, nếu thế thì các môn đồ kia còn đáng trách hơn, vì hành động của các ông chưa đi đôi với lời nói để Tôma có thể tin được. Còn Tôma đã biểu lộ niềm tin mình bằng hành động cụ thể. Còn chúng ta, nếu nhìn lại, chúng ta còn đáng trách hơn Tôma, hơn cả các môn đồ ngày xưa nhiều.

Chúng ta không chỉ nghe một lần Lời chúc bình an. Nhưng nghe rất nhiều, trong mỗi thánh lễ, trong đời sống hằng ngày, trong từng công việc, qua những người chúng ta tiếp xúc. Chúng cũng không chỉ nhìn thấy những vết đinh. Nhưng chúng ta còn nhìn thấy hiệu quả, không phải nơi người khác, nhưng chính nơi bản thân của mình. Chúng đã nhận rất nhiều hồng ân của Chúa, Ngài đã đến vì nhu cầu riêng cho chúng ta trong cuộc sống. Bao ước mơ, bao nguyện vọng đã được đáp ứng. Lời nói với Tôma ngày xưa cũng vang bên tai chúng ta : "Chớ cứng lòng, nhưng hãy tin".

Lời nói đã làm cho Tôma tỉnh giấc, quỳ gối, sụp lạy, và tuyên xưng niềm tin của mình. Còn những Tôma của thời đại mới nầy, vẫn còn khô cứng trong những suy tư của mình , khô cứng trong lối sống của mình. Chúng ta không nhận ra được Chúa đến với chúng ta, đáp ứng như cầu của chúng ta, thì làm sao nghe được để có thể thay đỗi cách sống cho xứng với niềm tin.

Thay vì trách Tôma, phiền trách những người chung quanh, chúng ta có tự trách mình đã quá khô cứng, để không còn

136

nhìn thấy, không còn biết lắng nghe và cũng không thể thay đỗi được con người không thể chấp nhận được của chúng ta. Không lẽ chúng ta là một chiếc xe không thể chuyển động được mà chủ xe không thể chữa nổi. Không lẽ chúng ta không còn có thể xử dụng được vào một việc gì nữa sao? Như thế thì những ngày tháng sống ở trần gian này lại vô dụng sao?

Xin Chúa cho chúng ta biết nhận ra Chúa trong cuộc sống đời thường, để biết lắng nghe và sống cho xứng đáng với những Hồng Ân bằng tất cả niềm tin.

PHUC CHO AI KHÔNG THÂY MA TINGa 20,19-31

Gp. Vinh Long

1. Từ hồi rất bé khi có dịp ra viếng Đất Thánh quê tôi, tôi thường được mẹ dẫn đến viếng hai ngôi mộ bằng đá ong cũ kỹ, mẹ nói đây là phần mộ của ông sơ và bà sơ của tôi. Có lần tôi hỏi: “Mẹ có biết mặt ông bà sơ không ? Mẹ có dự lễ an táng của ông bà sơ không ?”. Mẹ tôi trả lời :” Mẹ chỉ nghe ông bà ngoại (của tôi) nói lại thôi, ông bà sơ qua đời đã lâu lắm rồi, nhưng mẹ tin chắc rằng đó là mộ của ông bà sơ”. Trong cuộc sống, có những điều chính mắt chúng ta chứng kiến, kiểm nghiệm… nhờ đó ta tin, thế nhưng có những điều chúng ta tin nhờ vào người khác.

2. Đoạn Tin Mừng hôm nay kể lại hai lần Đức Giêsu Phục Sinh hiện ra với các môn đệ. Lần thứ nhất không có Tôma, khi các môn đệ khác kể lại với ông : “Chúng tôi đã xem thấy

137

Chúa”, thì ông đáp lại: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người… thì tôi không tin”. Đó là nguyện vọng rất bình thường, rất hợp lý của Tôma. Tám ngày sau, Đức Giêsu Phục Sinh lại hiện ra, lời đề nghị của Tôma được đáp ứng. Chúa nói với ông : “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra xỏ vào cạnh sườn Thầy, chớ cứng lòng nhưng hãy tin ”. Tôma liền đáp lại và tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi ”. Giờ đây, ông chịu khuất phục vì sự hiện diện của Chúa, ông chẳng dám đưa tay ra sờ Chúa nữa, ông đã tin.

3. Chúa luôn sẵn sàng thỏa mãn những đòi hỏi của các môn đệ, của ta, nhưng bao giờ Người cũng muốn niềm tin của ta ở mức cao hơn: “Phúc thay những ai không thấy mà tin”. Thật vậy, từ mức độ thấp là tin dựa vào bằng chứng giác quan kiểm nghiệm được, lên mức độ cao là tin chỉ vì nghe , bởi vì mình đã an tâm về uy tín của người nói cho mình nghe. Như tôi tin vào lời mẹ tôi nói, mẹ tôi tin vào lời của ông bà ngoại tôi về mộ phần của ông bà sơ tôi, lẽ nào họ không nói đúng sự thật?

Tôma chậm tin vào lời chứng của các bạn, nên ông chậm tin vào Chúa Phục sinh. Ông cũng chậm tin, hay quên cả lời Chúa báo trước về sự phục sinh của Người. Điều đáng trách của Tôma là ở chỗ đó, nhưng cũng có cái hay là vì ông chậm tin, nên ngày hôm nay chúng ta vững tin vào việc Đức Kitô Phục Sinh hơn, bởi ông không là người nhẹ dạ cả tin.

4. Trong thực tế, có rất nhiều điều cần phải qua kiểm chứng để mới có thể tin được. Nhất là sống trong thời đại mà sự thật dễ bị coi thường, dễ bị lừa đảo. Thế nhưng chúng ta

138

vẫn phải tin bao điều mình không thấy : như các bạn trẻ vẫn tin vào tình yêu, tình bạn. Các đôi vợ chồng vẫn tin vào sự chung thủy của nhau. Con cái tin vào sự hướng dẫn của cha mẹ. Học trò tin vào sự hướng dẫn của thầy cô… Cái khó là nên tin vào ai, và không nên tin vào ai ? Tin điều gì và không nên tin điều gì ?

Trong cuộc sống hẳn chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm về điều này để ứng xử ; nhưng trong lãnh vực đức tin và luân lý, thì không còn nghi ngờ gì nữa, mà phải tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, vào Đức Giêsu và Lời Người dạy. Vì Lời Người là chân thật, hằng sống. Chúng ta cũng phải tin vào lời chứng của các Tông Đồ và các đấng kế vị các ngài, vào Hội Thánh của Chúa, nơi chân lý được lưu truyền. “Phúc cho ai không thấy mà tin ”, lời chúc phúc này tiếp tục trao ban cho mọi Kitô hữu, qua mọi thời, mọi nơi dù không thấy Chúa bằng mắt thường, nhưng nhận ra sự hiện diện của Người qua đức tin.

5. Thế nhưng hãy xem coi ta có xứng đáng nhận lời chúc phúc này của Đức Giêsu Phục Sinh hay không ? Bởi khi suy niệm về bài Tin Mừng hôm nay, có khi ta trách Tôma cứng lòng, còn ta ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta mới hờ hững với lời Chúa dạy? Phải chăng vì cứng lòng nên ta đến nhà thờ không phải để thờ phượng Chúa mà để gặp gỡ nhau, để lương tâm được yên ổn… vì thế cứ thích ở ngoài nhà thờ, dù bên trong nhà thờ còn rất nhiều chỗ ngồi ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta chỉ tìm lợi ích cho mình mặc ai thiệt thòi đau khổ ? Phải chăng vì cứng lòng nên ta không vui trước sự thành công của người khác ? v.v…

139

Với những cách sống như thế, chúng ta không thể là người có phúc được vì chứng tỏ ta không thực sự tin vào Chúa Phục sinh, không tin Lời Người dạy và như vậy làm sao có thể làm chứng cho tha nhân biết rằng Chúa đã phục sinh ?

Gp. Vinh Long

140

LƯƠC SƯ VIÊC SÙNG KINH LONG THƯƠNG XOT CHUA TRONG GIAO HÔI

28.11.1958 - Lời tiên báo của nữ tu Faustina Kowalska viết về sự kiện phong trào tôn sùng lòng thương xót Chúa bị huỷ bỏ đã băt đầu ứng nghiệm qua 1 nghị định kết án của Toà thánh, nghiêm cấm việc sùng kính lòng thương xót Chúa.

6.3.1959 - Theo lệnh của Đức Gioan XXIII, nghị định nghiêm cấm được giảm nhẹ và thay thế bằng 1 thông tư"đình chỉ việc truyền bá các bức hình và tài liệu cổ động việc sùng kính lòng thương xot Chúa theo các bức hìn do nữ tu Fautina khởi xướng."

21.10.1965 - Đức tổng giám mục Karol Wojtyla khởi sự thủ tục thu thập thông tin về cuộc đời và các nhân đức của nữ tu Faustina. Kể từ lúc này, nữ tu Faustina xứng đáng được tôn vinh với danh hiệu"ĐẦY TỚ CHÚA".

141

26.6.1967 - Đức TGM Karol Wojtyla vinh thăng hồng y.

20.9.1967 - Hồng y tổng giám mục Kaol Wojtyla chính thức kết thúc giai đoạn thu thập thông tin đầu tiên trong thủ tục vận động phong chân phước cho đầy tớ Chúa nữ tu Faustina Kowalska.

Kết quả cho thấy hành động của Toà Thánh đối với nữ tu Faustina (ít ra) đã dựa trên 1 chứng cứ không đầy đủ.(các liên lạc chính giữa toà thanh Roma và Giáo hội Ba lan trong thời kì sau Thế chiến II - nhất là về các vấn đề tôn giáo - gặp rất nhiều khó khăn. các văn bản liên hệ chính thức không thể đến các thẩm quyền điều tra tức là những vị chịu áp lực có trách nhiệm đưa ra phán quyết về vấn đề được đệ trình).

31.1.1968 - Theo hiệu lực 1 sắc lệnh của Thánh bộ Phong Thánh, tiến trình phong chân phước cho đầy tớ nữ tu Faustina chính thức được khởi sự.

30.6.1978- Thánh bộ Giáo Lí Đức Tin ban hành 1 thông tư tuyên bố vào năm1959 về nữ tu Fautina không còn hiệu lực.

16.10.1978 -Hồng y Karol Wojtyla đắc cử Gjáo hoàng, tức là Đức Gioan Phaolô II.

142

12.7.1979 - Dòng Đức Mẹ Nhân Lành nhận đươc 1 bức thư giải thích thêm về thông tư năm 1978. Bức thư tuyên bố rõ ràng:"... Về phía thánh bộ này không còn bất kì 1 sự ngăn trở nào trong việc truyền bá lòng tôn sùng lòng thương xót Chúa theo những hình thức chân xác mà nữ tu nói trên đã cổ động."

30.11.1980 - Đức Gioan Phaolô II công bô tông thư THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT.

18.4.1984 - Tiến trình điều tra phép lạ chữa bệnh nhờ lời bầu cử của nữ tu Fautina được khởi sự tại tổng giáo phận Cacơ, Balan.

4.11.1986 - nhân dịp lễ kính thánh Carolo, bổn mạng của Đức Gioan PhaolôII, tiến trình điều tra được đúc kết tại tổng giáo phận cracơ, đức hồng ýani đệ trình các hồ sơ chính thức về Toà thánh Roma.

10.11.1986 - Linh mục Antoni Mruk, dòng Tên, thỉnh nguyện viên vụ án phong Thánh tại Roma tiếp nhận các hồ sơ.

143

10.2.1989 - Bác sĩ Mario Meschini , tiến sĩ y khoa danh tiếng, anh em với 1 bác sĩ thuộc uỷ ban y khoa của thánh bộ Phong Thánh, viết 1 tài liệu trình bày ý kiến về vụ việc chữa bệnh trên phương diện chuyên môn. Ông xác nhận sự kiện lành bệnh ấy có tính chất nhanh chóng, hoàn toàn và dứt hẳn. Ông còn đề nghị Thánh BỘ Phong Thánh công nhận vụ việc ấy là 1 phép lạ.

12.2.1991 - Tất cả các hồ sơ liên quan đến nhân đức anh hùng của nữ tu Fautina đã dược hoàn tất và gởi về thánh bộ Phong Thánh.

10.4.1991 - Đức Gioan Phaolô II, trong1 buổi tiếp kiến chung, đã dề cập đến nữ tu Faustina , bày tỏ lòng kính trọng và liên hệ chị đến bức tông thư THIÊN CHÚA GIÀU LÒNG THƯƠNG XÓT của Ngài, đề cao sứ mạng của chị trong việc truyền bá sứ điệp lòng thương xót Chúa cho thế giới.

7.3.1992 - Đức Gioan PhaolôII ký sắc lệnh công nhận nữ tu Fautina đx thưc thi tất cả các nhân đức Kitô Giáo đến mức anh hùng. Và do đó, từ nay chị có thể được gọi là "Đấng Đáng Kính".

144

18.4.1993 - Đức GIOAN Phaolô II phong chân phước cho nữ tu Fautina tại Roma, nhằm Chúa nhật Kính Lòng Thương Xót Chúa.

30.4.2000 - Năm thánh Cứu Độ , Đức Goan PhaolôII phong hiển thánh cho nữ tu Faustina Helena Kowalskavà chính thức thiết lập lễ kính LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA trong khắp Giáo Hội vào Chúa Nhật sau lễ Phục Sinh.

145