tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · web view · 2018-01-11ĐẠi hỌc khoa hỌc xÃ...

87
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM KHOA TÂM LÝ HỌC BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH HỌC Chủ đề: GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh Tú LỚP : VB2 K04 SVTH : Nhóm 3 1. Nguyễn Trần Hoài Ân - 1566160001 2. Trần Bội Ân – 1566160002 3. Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh – 1566160006

Upload: hadang

Post on 12-May-2018

221 views

Category:

Documents


5 download

TRANSCRIPT

Page 1: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCMKHOA TÂM LÝ HỌC

BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH HỌCChủ đề:

GVHD: TS. Nguyễn Thị Minh TúLỚP : VB2 K04SVTH: Nhóm 3

1. Nguyễn Trần Hoài Ân - 15661600012. Trần Bội Ân – 15661600023. Nguyễn Ngọc Quỳnh Anh – 15661600064. Lê Thị Mỹ Giang – 15661600235. Ngô Thị Nhàn - 15661600616. Trần Thanh Tài – 15661600777. Tô Hồng Tuấn – 15661601048. La Thị Anh Thư – 1536616011

TP.HCM, ngày 28 tháng 12 năm 2017

Page 2: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

M c l cụ ụGi ới thiệu

Tổng quan về Rối Loạn Nhân cách...............................................................................................5

Phần I: RỐI LOẠN NHÂN CÁCH NHÓM A.............................................................................19

1.    RLNC Hoang tưởng2.    RLNC Phân liệt

3.    RLNC Dạng phân liệt

Phần II: RỐI LOẠN NHÂN CÁCH NHÓM B............................................................................31

1. RLNC Chống đối Xã hội2. RLNC Ranh giới3. RLNC Kịch tính4. RLNC Ái kỷ

Phần III:....................................................................................................................................... 45

RỐI LOẠN NHÂN CÁCH NHÓM C.........................................................................................45

1. RLNC ám ảnh cưỡng chế..................................................................................................45

2.RLNC né tránh :...................................................................................................................49

3.RLNC phụ thuộc:..................................................................................................................53

Phần IV: Kết luận........................................................................................................................ 58

Tài Liệu Tham Khảo

Page 3: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

CÔNG VIỆC CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM:

Nhóm có 8 người. Chia ra làm 4 nhóm nhỏ. Mỗi nhóm có hai người để làm việc cùng nhau.

Công việc chung1. Mỗi nhóm về tìm hiểu về phần nội dung đã được phân công. 2. Họp lần 1 : Mỗi nhóm trình bày về phần kiến thức mà nhóm mình đã được

phân chia để cho các nhóm khác hiểu. Sau đó thảo luận và chọn nội dung một loại rối loạn để làm clip.

3. Họp lần 2: Bàn về kịch bản đã soạn để làm clip, chỉnh sửa, bổ sung kịch bản cho hoàn chỉnh. Chọn và phân vai diễn. Hẹn địa điểm để quay clip. Có hai địa điểm là nhà Quỳnh Anh (h m 184 Nguy n Xí, p.26, Q.Bình Th nh ẻ ễ ạ(chung c B c Đinh B Lĩnh, lô A7-4),ư ắ ộ và quán cà-phê Artfolio Coworking Café ( 5A/2 Trần Phú, phường 4, Q. 5)

4. Họp lần 3: Quay clip nguyên ngày thứ 7. 5. Cùng nhau xem và chỉnh sửa file text cuốn tiểu luận và file PPT trình chiếu

thuyết trình trên lớp.

CÔNG VIỆC RIÊNG Nhóm 1: Tài và Bội Ân Phụ trách phần nội dung kiến thức tổng

quát của RLNC và thuyết trình

Page 4: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Nhóm 2: Anh Thư và Nhàn Phụ trách phần nội dung kiến thức RLNC nhóm A và thuyết trình

Nhóm 3: Quỳnh Anh và Hồng Tuấn Phụ trách phần nội dung kiến thức RLNC nhóm B và thuyết trình

Nhóm 4: Hoài Ân và Mỹ Giang Phụ trách phần nội dung kiến thức RLNC nhóm C và thuyết trình

Vai diễn, quay và dựng clip: -Tài: đóng chồng - Hoài Ân: nhân vật nữ chính (RLNC Phụ Thuộc) - Hồng Tuấn: đóng vai sếp - Quỳnh Anh, Anh Thư, Bội Ân: đóng vai đồng nghiệp -Mỹ Giang: đóng vai cô hàng xóm - Nhàn: phụ trách quay và dựng clip.

Giới thiệu Tổng quan về Rối Loạn Nhân cách

Tất cả chúng ta đều nghĩ rằng ai cũng hiểu nhân cách là gì. Đó là cách mà một người hành xử và suy nghĩ: "Michael có khuynh hướng xấu hổ"; "Mindy thích gây ấn tượng"; "Juan luôn luôn nghi ngờ người khác"; "Annette thì hòa đồng"; "Bruce dường như nhạy cảm và dễ buồn với cả những điều nhỏ nhặt "; "Sean có tính cách

Page 5: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

hướng nội". Chúng ta có xu hướng là loại người nào đó bởi vì chúng ta cư xử theo một cách trong nhiều tình huống. Ví dụ, như Michael, trong số chúng ta hầu hết đều nhút nhát với những người mà chúng ta không quen, nhưng chúng ta sẽ không nhút nhát với những người bạn của mình. Một người nhút nhát thật sự là người nhút nhát với ngay cả những người mà họ đã quen biết trước đây. Sự nhút nhát là một phần trong cách người này hành xử trong mọi tình huống. Chúng ta cũng có thể cư xử theo tất cả các cách khác lưu ý ở đây (thích gây ấn tượng, nghi ngờ, hòa đồng, dễ buồn). Tuy nhiên, khi những đặc điểm nhân cách ảnh hưởng đến các mối quan hệ với những người khác, là nguyên nhân con người đau khổ hoặc gây gián đoạn những hoạt động cuộc sống hàng ngày, chúng ta coi đây là những "rối loạn nhân cách" (Skodol, 2012). Trong chương này, chúng ta xem xét cách hành xử đặc trưng liên quan đến một số rối loạn nhân cách cụ thể. Đầu tiên, chúng ta xem xét khái niệm các rối loạn nhân cách và các vấn đề liên quan đến chúng; sau đó chúng ta mô tả các rối loạn.

Các khía cạnh của rối loạn nhân cách

Điều gì sẽ xảy ra nếu một người với những đặc trưng trong cách suy nghĩ và hành vi gây ra đau khổ đáng kể cho chính bản thân họ hay người khác? Điều gì sẽ xảy ra nếu người đó không thể thay đổi cách thức này trong tương quan thế giới và họ không hạnh phúc? Chúng ta có thể xem người này có rối loạn nhân cách. Không giống nhiều rối loạn mà chúng ta đã thảo luận, rối loạn nhân cách là loại rối loạn mãn tính; rối loạn này không xuất hiện và mất nhưng bắt nguồn từ thời thơ ấu và tiếp tục trong suốt tuổi trưởng thành (Widiger, 2012).

Bởi vì những vấn đề mãn tính ảnh hưởng đến nhân cách, chúng bao trùm mọi khía cạnh của cuộc sống của một người. Ví dụ, nếu một phụ nữ quá đa nghi (một dấu hiệu có thể của một rối loạn nhân cách hoang tưởng), đặc điểm này sẽ ảnh hưởng đến hầu hết mọi thứ cô ấy làm, bao gồm cả cô ấy việc làm (cô ấy có thể thay đổi công việc thường xuyên nếu cô ấy tin rằng các đồng nghiệp có âm mưu chống lại cô), trong mối tương quan của cô ấy (cô ấy có thể không thể duy trì được mối quan hệ lâu dài nếu như cô ấy không thể tin bất cứ ai), và thậm chí cả nơi cô ấy sống (cô ấy có thể thường xuyên chuyển nhà nếu nghi ngờ chủ nhà sẽ làm hại cô ấy).

Một rối loạn nhân cách là một khuôn mẫu cảm xúc, nhận thức và hành vi cố định mà kết quả nó gây ra những căng thẳng tinh thần lâu dài cho người bị ảnh hưởng và/ hoặc người khác và có thể gây ra những khó khăn trong công việc và các mối quan hệ (American Psychiatric Association, 2013). DSM-5 lưu ý rằng có rối loạn nhân cách có thể gây lo lắng cho người bị ảnh hưởng. Cá nhân bị rối loạn nhân cách có thể không cảm thấy bất kỳ sự lo lắng chủ quan nào, tuy

Page 6: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

nhiên; trong thực tế những người khác cảm thấy cực kỳ đau khổ vì những hành động của người có rối loạn. Điều này đặc biệt phổ biến với rối loạn nhân cách chống lại xã hội, bởi vì cá nhân có thể coi thường những quyền của người khác nhưng không hối hận (Hare, Neumann, & Widiger, 2012). Trong một số trường hợp, ai đó khác chứ không phải người có rối loạn nhân cách phải quyết định liệu rối loạn này có gây suy yếu chức năng đáng kể hay không bởi vì người bị ảnh hưởng thường không thể đưa ra phán quyết như vậy.

DSM-5 liệt kê 10 rối loạn nhân cách cụ thể. Mặc dù triển vọng điều trị thành công cho những người có rối loạn nhân cách có thể lạc quan hơn suy nghĩ trước đây (Nelson, Beutler, & Castonguay, 2012), nhưng không may bởi vì những điều bạn thấy sau, nhiều người rối loạn nhân cách còn có các vấn đề tâm lý khác (ví dụ, trầm cảm) có khuynh hướng làm cho việc điều trị khó khăn hơn. Một nhân tố quan trọng để điều trị thành công (hoặc không thành công) là cách mà nhà trị liệu cảm nhận về thân chủ. Cảm xúc của các nhà trị liệu đến từ thân chủ (được gọi là "chuyển đổi ngược" của Sigmund Freud) – cảm giác phức tạp của nhà trị liệu tâm lý đối với thân chủ) có xu hướng tiêu cực cho những người được chẩn đoán mắc chứng rối loạn nhân cách, đặc biệt là những người trong Cluster A (như bạn sẽ thấy tiếp theo) (lẻ hoặc lập dị cluster) và Cluster B (cụm kịch tính, tình cảm, hoặc thất thường) (Liebman & Burnette, 2013). Các nhà trị liệu cần phải tránh việc để cho những cảm xúc cá nhân của mình can thiệp vào việc điều trị khi làm việc với những người có rối loạn nhân cách.

Trước DSM-5, hầu hết các rối loạn chúng ta thảo luận trong cuốn sách này nằm trong Axis I của DSM-IV-TR, bao gồm các rối loạn truyền thống khác. Các rối loạn nhân cách đã được bao gồm trong một trục riêng biệt, Axis II, bởi vì như một nhóm rối loạn nhân cách được nhìn thấy như là khác biệt. Khác biệt đó được nghĩ rằng những nét đặc trưng đã ăn sâu hơn và cứng ngắc ở những người có rối loạn nhân cách, và các rối loạn này ít có khả năng được sửa đổi thành công. Với những thay đổi được thực hiện ở DSM-5, hai trục tách biệt này đã được loại loại bỏ và bây giờ các rối loạn nhân cách được liệt kê với phần còn lại của rối loạn DSM-5 (American Psychiatric Association, 2013). Bạn có thể ngạc nhiên khi biết rằng sự phân loại rối loạn nhân cách có thể gây tranh cãi, bởi vì nó liên quan đến một số vấn đề chưa giải quyết được. Việc nghiên cứu những vấn đề này có thể giúp bạn hiểu được tất cả các rối loạn được mô tả trong cuốn sách này.

Các mô hình phân loại

Hầu hết chúng ta thỉnh thoảng nghi ngờ của người khác và một chút hoang tưởng, quá nhạy cảm, quá vị kỷ, hoặc cô lập. May mắn thay, những đặc điểm này không

Page 7: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

kéo dài hoặc không quá cường điệu; những đặc điểm này đã không làm suy yếu đáng kể cách chúng ta sống và làm việc. Tuy nhiên, người với rối loạn nhân cách hiển thị đặc điểm vấn đề trong những giai đoạn kéo dài và trong nhiều tình huống mà có thể gây đau đáng kể về tinh thần cho bản thân, người khác, hoặc cả hai (Widiger,2012). Khó khăn của họ có thể được xem như là một trong những mức độ hơn là phân loại; nói cách khác, những vấn đề của người rối loạn nhân cách có thể chỉ là phiên bản quá khích của những trải nghiệm tạm thời của chúng ta với nhiều vấn đề chẳng hạn như bị nhút nhát hoặc nghi ngờ (Nam, Oltmanns, & Krueger, 2011).

Sự khác biệt giữa các vấn đề về mức độ và các vấn đề về loại thường được mô tả trong thuật ngữ “dimesions – chiều kích” hơn là dùng từ phân loại. Vấn đề tiếp tục được tranh luận trong lĩnh vực này là liệu rối loạn nhân cách có phải các phiên bản cực đoan của sự thay đổi nhân cách thường bình thường khác không (chiều kích) hoặc các cách liên quan khác nhau với hành vi sức khỏe tâm lý (Chủng loại) (Widiger & Trull, 2007). Bạn có thể thấy sự khác biệt giữa chiều kích và chủng loại trong cuộc sống hàng ngày. Ví dụ: chúng ta có khuynh hướng xem xét giới tính một cách rõ ràng. Xã hội nhìn chúng ta trong một việc phân loại - "nữ" - hay khác - "nam". Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể nhìn vào giới tính theo hướng chiều kích. Ví dụ, chúng ta biết rằng "nam tính" và "nữ tính" được xác định một phần bởi hormone. Chúng ta có thể xác định những người cùng testosterone, estrogen, hoặc cả hai chiều kích và đánh giá chúng trên dựa trên mối tương quan nữ tính và nam tính hơn là phân biệt rạch ròi nam hoặc nữ. Chúng ta cũng thường đánh dấu kích thước của người dùng theo cách phân loại rõ ràng như cao, trung bình, hoặc thấp. Nhưng chiều cao cũng có thể được xem theo là kích thước trong đơn vị đo lường theo inch hoặc cm.

Nhiều nhà nghiên cứu và bác sĩ lâm sàng trong lĩnh vực này nhìn rối loạn nhân cách là cực đoan trên một hoặc nhiều chiều kích tính cách. Tuy nhiên, bởi vì cách mọi người được chẩn đoán theo DSM, rối loạn nhân cách - giống như hầu hết các rối loạn khác - kết thúc là xem trong các phân loại. Bạn có hai lựa chọn - hoặc bạn có ("có") hoặc bạn không ("không") có rối loạn. Ví dụ: bạn có rối loạn nhân cách chống lại xã hội hoặc không. DSM không xếp hạng bạn phụ thuộc như thế nào; nếu bạn đáp ứng tiêu chí, bạn sẽ được dán nhãn là có rối loạn nhân cách phụ thuộc. Không có "phần nào" khi nói đến rối loạn nhân cách. Có những thuận lợi khi sử dụng các mô hình phân loại hành vi, điều quan trọng nhất là sự tiện lợi của nó. Tuy nhiên với việc đơn giản hóa thì có vấn đề. Một những vấn đề là chỉ là hành động của việc sử dụng các phân loại dẫn đến việc các bác sỹ lâm sàng có thể cụ thể hóa chúng; có nghĩa là, để xem rối loạn như thực sự "những việc" so sánh với thực tế của một nhiễm trùng hoặc một cánh tay gãy. Một số cho rằng rối loạn nhân cách

Page 8: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

không phải là những thứ tồn tại nhưng chỉ ra rằng xã hội nào quyết định một cách cụ thể liên quan đến thế giới đã trở thành một vấn đề. Điều quan trọng là vấn đề vẫn chưa được giải quyết: Liệu chứng rối loạn nhân cách chỉ là một biến thể cực đoan của nhân cách bình thường, hay chúng khác biệt rõ rệt?

Một số người đã đề xuất rằng phần rối loạn nhân cách DSM-5 cần được thay thế hoặc ít nhất là bổ sung bằng một mô hình chiều kích (South và cộng sự, 2011, Widiger, 2012), trong đó các cá nhân không chỉ được chẩn đoán phân loại mà còn được đánh giá trên một chuỗi các chiều kích tính nhân cách. Widiger (1991) tin rằng với một hệ thống như vậy sẽ có ít nhất ba lợi thế so với hệ thống phân loại thuần túy: (1) Nó sẽ giữ lại nhiều thông tin về từng cá nhân, (2) nó sẽ linh hoạt hơn bởi vì nó sẽ cho phép phân biệt cả phân loại và chiều kích giữa các cá nhân, và (3) nó sẽ tránh các quyết định tùy tiện liên quan đến việc gán một người vào danh mục chẩn đoán. Hiện tại, có một mô hình lựa chọn của rối loạn nhân cách bao gồm trong phần về "các mô hình và biện pháp mới " trong DSM-5 được bao gồm để nghiên cứu sâu hơn (American Psychiatric Association, 2013). Mô hình này tập trung vào sự xáo trộn liên tục của "bản thân" (nghĩa là, cách bạn nhìn nhận bản thân và khả năng của bạn tự có hướng đi) và hoạt động giữa các cá nhân (nghĩa là khả năng của bạn để thấu cảm và thân mật với người khác). Điều còn lại là chờ xem mô hình này thay thế sẽ được sử dụng như thế nào trong tương lai.

Mặc dù không có sự đồng thuận chung về cơ bản chiều kích nhân cách là gì, có một số tranh cãi (South et al., 2011). Một trong những mô hình được chấp nhận rộng rãi là “mô hình năm nhân tố”, hoặc "Big Five" được lấy từ mô hình làm việc với những nhân cách bình thường (Hopwood & Thomas, 2012; McCrae & Costa Jr.,2008). Trong mô hình này, con người được đánh giá dựa trên một chuỗi chiều kích nhân cách và sự kết hợp của năm yếu tố mô tả tại sao mọi người lại khác biệt như vậy. Năm yếu tố hoặc chiều kích là sự hướng ngoại (hay nói, quyết đoán và chủ động so với im lặng, thụ động, và kín đáo); sự dễ chịu (tử tế, tin tưởng, và ấm áp trái với thù địch, ích kỷ và không tin tưởng); sự tận tâm (có tổ chức, triệt để, và đáng tin cậy so với bất cẩn, cẩu thả và không đáng tin cậy); tâm lý bất ổn (nhạy cảm so với lo lắng, tâm trạng, và thất thường); và sẵn sàng trải nghiệm (tưởng tượng, tò mò và sáng tạo so với nông cạn và thiếu thận trọng) (McCrae & Costa Jr., 2008). Trên mỗi chiều kích, con người được đánh giá cao, thấp, hoặc có thể là trung bình. Nghiên cứu xuyên văn hoá thiết lập bản chất phổ quát của năm yếu tố - mặc dù có cá nhân khác nhau giữa các nền văn hóa (Hofstede & McCrae, 2004). Ví dụ, một nghiên cứu nhận thấy rằng các mẫu ở Áo, Thụy Sĩ và Hà Lan đạt điểm cao nhất về sẵn sàng trải nghiệm, trong khi người Đan Mạch, người Malaysia, và người Ấn Độ Telugu (Ấn Độ) ghi được điểm thấp nhất về yếu tố này (McCrae, 2002). Một số nhà nghiên cứu đang cố gắng xác định cho dù những người có rối

Page 9: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

loạn nhân cách cũng có thể được đánh giá theo cách đúng nghĩa cùng với những chiều kích này và liệu hệ thống này sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về những rối loạn này (Skodol và cộng sự, 2005).

Các nhóm rối loạn nhân cách

DSM-5 chia rối loạn nhân cách thành ba nhóm, hoặc cụm; điều này có thể sẽ tiếp tục cho đến khi có đủ cơ sở khoa học được thành lập để xem chúng theo cách khác nhau (Hiệp Hội Tâm Lý Hoa Kỳ, 2013) (xem Bảng 12.1). Phân nhóm dựa trên trên sự tương đồng. Nhóm A được gọi là nhóm lẻ hoặc lập dị; nó bao gồm các rối loạn nhân cách hoang tưởng, rối loạn nhân cách phân liệt - SPD và rối loạn lưỡng cực - STPD . Nhóm B là nhóm nhạy cảm, cảm xúc, hoặc thất thường; nó bao gồm rối loạn nhân cách chống lại xã hội, rối loạn nhân cách ranh giới - BPD, rối loạn nhân cách kịch tính - HPD, và rối loạn nhân cách ái kỷ - NPD. Nhóm C là nhóm người lo lắng hoặc sợ hãi; nó bao gồm nhân cách tránh né, phụ thuộc và rối loạn nhân cách ám ảnh cưỡng chế. Chúng ta sẽ theo dõi thứ tự này trong bài.

Thống kê và Phát triển

Bởi vì nhiều người với những vấn đề này không tìm kiếm sự giúp đỡ từ chính bản thân họ về sở hữu cũng như những người có nhiều rối loạn DSM-5 khác, tập hợp thông tin về sự phổ biến của rối loạn nhân cách là khó khăn và do đó thay đổi rất nhiều. Một khảo sát quy mô cho thấy có tới 1/10 người lớn ở Hoa Kỳ có thể được chẩn đoán là bị rối loạn nhân cách (Lenzenweger, Lane, Loranger, & Kessler, 2007), mà làm cho chúng tương đối phổ biến (xem Bảng 12.2). Số lượng thay đổi theo từng quốc gia, nhưng trên toàn thế giới khoảng 6% người lớn có thể có ít nhất một nhân cách rối loạn (Huang và cộng sự, 2009). Sự khác nhau về tỷ lệ ước tính có thể là kết quả của các phương pháp khảo sát khác nhau, khảo sát người ở các cơ sở lâm sàng so với điều tra dân số nói chung - những người không tìm kiếm sự trợ giúp (Torgersen, 2012). Tương tự, giới tính sự khác biệt trong rối loạn - ví dụ, nhiều phụ nữ được chẩn đoán với rối loạn nhân cách ranh giới và nhiều nam giới được xác định với rối loạn nhân cách chống lại xã hội-rất biến đổi khi điều tra dân số nói chung. Có thể có nhiều lý do cho những khác biệt trong chẩn đoán, bao gồm sự thiên vị trong chẩn đoán và sự khác biệt trong hành vi tìm kiếm giúp đỡ và hành vi khoan dung trong một nền văn hóa. Chúng tôi thảo luận một số trong những mối quan tâm sau đó trong chương. Các rối loạn nhân cách được cho là có nguồn gốc từ thời thơ ấu và tiếp tục vào những năm trưởng thành (Cloninger & Svakic, 2009).

Page 10: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Nhiều phân tích phức tạp hơn cho thấy rối loạn nhân cách có thể thuyên giảm theo thời gian, tuy nhiên, chúng có thể bị thay thế bằng các rối loạn nhân cách khác (Torgersen, 2012). Nói cách khác, một người có thể nhận được một chẩn đoán của một rối loạn nhân cách này tại một thời điểm nhưng nhiều năm sau không còn đáp ứng các tiêu chuẩn cho vấn đề ban đầu của người đó nhưng tại giờ điểm này lại có những đặc điểm của rối loạn nhân cách thứ hai hay thứ ba. Sự thiếu thông tin liên quan về đặc điểm quan trọng này của rối loạn nhân cách như là tiến trình phát triển của nó là chủ đề được lặp đi lặp lại. Lỗ hổng trong kiến thức của chúng ta về tiến trình của khoảng một nửa các rối loạn này có thể thấy trong Bảng 12.2. Một lý do cho sự thiếu sót của nghiên cứu này là quá nhiều cá nhân không tìm kiếm sự điều trị trong giai đoạn sớm của rối loạn nhưng họ chỉ tìm đến sự điều trị sau nhiều năm chịu đau khổ. Điều này gây khó khăn cho việc nghiên cứu người với rối loạn nhân cách trong giai đoạn ban đầu, mặc dù một số ít nghiên cứu đã giúp chúng ta hiểu được sự phát triển của vài rối loạn (Pulay et al., 2009; Stinson và cộng sự, 2008).

Những người có rối loạn nhân cách ranh giới có đặc điểm là các mối quan hệ của họ rất hay thay đổi và không ổn định; họ có xu hướng cố chấp trong mọi vấn đề ở tuổi trưởng thành, với việc phải nằm viện thường xuyên, mối quan hệ cá nhân không ổn định, trầm cảm trầm trọng, và hành động tự sát. Gần 10% thử tự tử và khoảng 6% thành công (Skodol & Gunderson, 2008). Mặt tích cực, các triệu chứng của họ dần dần được cải thiện nếu họ sống sót đến 30s (Zanarini, Frankenburg, Hennen, Reich, & Silk, 2006), mặc dù các cá nhân lớn tuổi có thể gặp khó khăn trong việc lập kế hoạch và có thể gây rối trong các nhà dưỡng lão (Hunt, 2007). Con người với rối loạn nhân cách chống lại xã hội hiển thị một đặc trưng liên quan đến các quyền và cảm xúc của người khác; họ có xu hướng tiếp tục hành vi phá hoại bằng việc nói dối và thao túng thông qua tuổi trưởng thành. May mắn thay, một số có xu hướng "đốt cháy" sau khi về độ tuổi 40 và tham gia vào các hoạt động tội phạm ít (Douglas, Vincent, & Edens, 2006). Tuy nhiên, như một nhóm, những vấn đề của những người có rối loạn nhân cách tiếp tục, như thể hiện khi các nhà nghiên cứu theo tiến bộ của họ qua nhiều năm (Torgersen, 2012).

Khác biệt giới

Nam giới được chẩn đoán mắc chứng rối loạn nhân cách có khuynh hướng biểu hiển qua các đặc điểm đặc trưng như gây hấn, cứng nhắc (có cấu trúc), tự quyết và tách rời. Phụ nữ biểu hiện các đặc điểm thiên về dễ phục tùng, cảm xúc và bất an ( Torgersen, 2012). Điều này không đáng ngạc nhiên khi rối loạn nhân cách chống đối xã hội thường ở nam và rối loạn nhân cách phụ thuộc thường ở nữ. Về lịch sử, rối loạn nhân cách giả tạo và rối loạn nhân cách ranh giới thường được xác định lâm sàng ở nữ (Dulit, Marin, & Frances, 1993; Stone, 1993), nhưng theo nhiều

Page 11: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

nghiên cứu gân đây về sự phổ biến của họ trên tổng dân số, con số về nam và nữ giới có thể có hội chứng rối loạn nhân cách kịch tính và rối loạn nhân cách ranh giới là tương đương (xem bảng 12.2). Nếu quan sát này được duy trì trong những nghiên cứu tương lai, tại sao các rối loạn này được chẩn đoán chủ yếu ở nữ giới tại thực hành lâm sàng trong nhiều nghiên cứu khác?

Liệu sự chênh lệch có thể cho thấy sự khác biệt giữa nam và nữ giới trong những kinh nghiệm cơ bản nhất định là di truyền học, xã hội học, hoặc cả hai, hoặc chúng đại diện cho các thành kiến của các bác sĩ lâm sàng? Lấy ví dụ, một nghiên cứu cổ điển của Maureen Ford và Thomas Widiger (1989), đã gửi các bản báo cáo tình huống hư cấu cho các nhà tâm lý học lâm sàng để chẩn đoán. Một trường hợp mô tả một người có rối loạn nhân cách chống đối xã hội, được đặc trưng bởi hành vi vô trách nhiệm và liều lĩnh và thường được chẩn đoán ở nam giới; trường hợp khác mô tả một người có rối loạn nhân cách kịch tính, được đặc trưng bởi tình cảm quá mức và sự chú ý tìm kiếm và hơn nữa được chẩn đoán ở phụ nữ. Chủ đề đã được xác định như nam trong một số phiên bản của từng trường hợp và như phụ nữ ở người khác, mặc dù mọi thứ khác là giống hệt nhau.

Như biểu đồ trong ● Hình 12.1 cho thấy, khi trường hợp rối loạn cá nhân chống đối  xã hội được dán nhãn là nam giới, hầu hết các nhà tâm lý học đã đưa ra chẩn đoán chính xác. Khi cùng một trường hợp rối loạn nhân cách chống đối xã hội được gắn nhãn là nữ, hầu hết các nhà tâm lý học được chẩn đoán đó là rối loạn nhân cách kịch tính hơn là rối loạn nhân cách chống đối xã hội. Trong trường hợp rối loạn nhân cách kịch tính, việc dán nhãn ở phụ nữ làm tăng khả năng chẩn đoán đó. Ford và Widiger (1989) kết luận rằng các nhà tâm lý học không chính xác khi chẩn đoán nhiều phụ nữ hơn có rối loạn nhân cách kịch tính.

Page 12: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Sự khác biệt giới trong chuẩn đoán cũng bị trỉ chích bởi nhiều tác giả (xem ví dụ, Kaplan, 1983) trên bình diện rối loạn nhân cách kịch tính. Cũng như một số những rối loạn nhân cách khác là thiên vị với nữ giới. Như Kaplan (1983) chỉ ra, nhiều tính năng của rối loạn nhân cách kịch tính, như kịch hoá, kiêu kì, sự quyến rũ, và quá quan tâm đến ngoại hình, là đặc trưng của "hình mẫu phụ nữ" phương Tây. Rối loạn này có thể chỉ đơn giản là hiện thân của các đặc điểm cực kỳ "nữ tính" (Chodo, 1982); xây dựng thương hiệu như một cá nhân bị bệnh tâm thần, theo Kaplan những phản ánh xã hội thiên vị vốn có trống lại phụ nữ. (Xem Bảng 12.3 để có một cách hài hước về một phiên bản nam rối loạn nhân cách). Điều thú vị là nhân cách "nam nhi" (Mosher & Sirkin, 1984), trong đó cá thể có những đặc tính nam tính có khuôn mẫu, không có trong DSM. Vấn đề thiên vị giới trong chẩn đoán tâm lý vẫn còn nhiều tranh cãi (Liebman & Burnette, 2013).

Tiêu chí chẩn đoán cho rối loạn nhân cách "độc lập"

Đặt công việc (nghề nghiệp) lên trên mối quan hệ với những người thân yêu (ví dụ đi công tác nhiều, làm việc muộn vào ban đêm và cuối tuần).

Miễn cưỡng cân nhắc nhu cầu của người khác khi ra quyết định, đặc biệt liên

Page 13: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

quan đến sự nghiệp của cá nhân hoặc việc sử dụng thời gian rỗi, ví dụ, mong muốn vợ/ chồng và con cái di chuyển đến một thành phố khác vì kế hoạch nghề nghiệp của cá nhân.

Bị động cho phép người khác chịu trách nhiệm về các lĩnh vực chính của đời sống xã hội vì không có khả năng diễn tả cảm xúc cần thiết (ví dụ, cho phép vợ/ chồng gánh lấy trách nhiệm chăm sóc con cái)

Nguồn: Từ Kaplan, M. (1983). A woman’s view of DSM-III. American Psychologist, 38, 786–792.

Tuy nhiên, hãy nhớ rằng chỉ vì những rối loạn nhất định được quan sát thấy nhiều hơn ở nam hoặc nữ giới không nhất thiết chỉ ra xu hướng (Lilienfeld, VanValkenburg, Larntz, & Akiskal, 1986). Khi nó có mặt, thiên vị có thể xảy ra ở các giai đoạn khác nhau của quá trình chẩn đoán.Widiger and Spitzer (1991) point out that the criteria for the disorder may themselves be biased (criterion gender bias), hoặc các biện pháp đánh giá và cách thức sử dụng chúng có thể bị thiên vị (đánh giá xu hướng giới). Nói chung, các tiêu chí này dường như không có xu hướng mạnh mẽ về giới, mặc dù có thể có một số xu hướng cho các bác sĩ lâm sàng sử dụng sự thiên vị của họ khi sử dụng các tiêu chí và do đó chẩn đoán nam giới và nữ giới (Oltmanns & Powers, 2012). Khi các nghiên cứu tiếp tục, các nhà nghiên cứu sẽ cố gắng làm cho chẩn đoán rối loạn hành vi chính xác hơn về giới tính và hữu ích hơn cho các bác sĩ lâm sàng.

ComorbidityXem Bảng 12.2 và thêm tỷ lệ hiện nhiễm vào các chứng rối loạn nhân cách, bạn có thể kết luận rằng có tới 25% tất cả mọi người bị ảnh hưởng. Trên thực tế, tỷ lệ phần trăm dân số trong nhóm có rối loạn nhân cách có thể gần 10% (Huang và cộng sự, 2009, Lenzenweger và cộng sự, 2007). Điều gì cho sự khác biệt này? Một mối quan tâm lớn với rối loạn nhân cách là người ta có xu hướng được chẩn đoán có nhiều hơn một. Thuật ngữ comorbidity historically mô tả các điều kiện trong đó một người có nhiều bệnh (Caron & Rutter, 1991). Một số lượng lớn bất đồng đang được tiến hành về việc sử dụng thuật ngữ này với các rối loạn tâm lý do sự chồng chéo thường xuyên các rối loạn khác nhau (Skodol, 2005). Chỉ trong một ví dụ, Zimmerman, Rothschild và Chelminski (2005) đã tiến hành nghiên cứu 859 bệnh nhân ngoại trú tâm thần và đánh giá có bao nhiêu người mắc một hoặc nhiều chứng rối loạn về chất.

Niềm tin cốt lõi gắn liền với các rối loạn nhân cách cụ thể

Page 14: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Rối loạn nhân cách Niềm tin cốt lõi

Rối loạn nhân cách thể hoangtưởng (Paranoid personalitydisorder)

Tôi không thể tin ở con người

Rối loạn nhân cách thể giống phân liệt (Schizotypal personality disorder)

Tốt hơn là nên cô lập với người khác

Rối loạn nhân cách thể phân lập(Schizoid personality disorder)

Các mối quan hệ thì lộn xộn, không mong muốn

Rối loạn nhân cách thể kịch tính (Histrionic personality disorder)

Mọi người đang ở đó để phục vụ hoặc ngưỡng mộ tôi

Rối loạn nhân cách thể tự mê (Narcissistic personality disorder)

Vì tôi là người đặc biệt, tôi xứng đáng được hưởng các quy tắc đặc biệt

Rối loạn nhân cách thể bất định(Borderline personality disorder)

Tôi xứng đáng bị trừng phạt

Rối loạn nhân cách thể chống đối xã hội (Antisocial personality disorder)

Tôi có quyền phá vỡ các quy tắc

Rối loạn nhân cách thể lẫn tránh (Avoidant personality disorder)

Nếu người ta biết con người thật của tôi họ sẽ từ chối tôi thôi.

Rối loạn nhân cách thể lệ thuộc(Dependent personality disorder)

Tôi cần người khác để tồn tại, hạnh phúc

Rối loạn nhân cách thể ám ảnh cưỡng bức (Obsessivecompulsive personality disorder)

Người ta nên làm điều tốt hơn, cố gắng nhiều hơn

Định nghĩa tổng quát RLNC:

Trước khi hiểu về định nghĩa RLNC, thì cần hiểu về cá tính trước.

Page 15: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

-Cá tính là cách mọi người suy nghĩ với cảm giác, cảm xúc; cách mình cư xử với những người khác, tự do giao tiếp với xã hội, gia đình, trong công việc, nơi công cộng.

- Cái sự khác biệt giữa cá tính riêng biệt của mọi người và khi nào trở thành 1 rối loạn nhân cách thì những vấn đề trong cá tính là khi cách cư xử, cách nhận xét trong xã hội của mình trở thành quá cứng ngắt đi, tạo vấn đề không những cho sự thành công của cá nhân đó mà thành vấn đề trong mối quan hệ với những người xung quanh mình, trở thành vấn đề có thể là trở ngại để có một cuộc sống hạnh phúc với gia đình mình, và công việc thành công trong sở làm thì lúc đó sẽ thấy những vấn đề trong cá tính.

- Mỗi người chúng ta đều có 1 cá tính riêng, đó là nét đặc biệt trong mỗi người chúng ta. Và thậm chí là mình muốn là mình có cá tính nữa chứ, nếu mình hoàn toàn không có cá tính, người ta nói gì mình nghe theo đó, thì mình cũng không muốn mình như vậy. Nhưng mà, mình phải uyển chuyển trong cuộc sống.

Ví dụ: đối với cấp trên mình có thể mình phải ứng xử khác với bạn bè của mình. Mà những người có RLNC thì họ không biết được, họ không có phân biệt được thì đối với bất kỳ hoàn cảnh nào dù là chuyện lớn chuyện nhỏ thì họ cũng có 1 cách ứng xử rất cứng ngắt kinh khủng giống nhau thì khi mà nó như vậy thì họ không nhận được là cảm giác của những người xung quanh là như thế nào? cho nên họ gặp trở ngại rất là nhiều với mối quan hệ xung quanh.

Nhân cách nó khác với tính cách là như thế nào?

- Tính cách là personality giống như là tính tình của mình nhưng mà khi chúng ta nói sâu hơn về RLNC thì chúng ta thấy có những tính tình mà theo một cực hướng quá cực đoan thì nhiều khi nó ảnh hưởng đến nhân cách, cái cách mà mình đối xử với người khác . Ví dụ như mình không để ý đến quyền lợi hoặc cảm giác của những người xung quanh mà mình chỉ làm những gì mình muốn, mình thích. Nghĩa là chỉ biết cái tôi thôi ( It’s all about

Page 16: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

ME) không biết được ngườikhác nữa. .

Chúng ta hay có câu “ trời sanh ra cái tánh” thì làm sao thay đổi được.? Điều này đúng. Chúng ta có thể thấy trong mỗi nhà có các em nhỏ. Các em tuy nhỏ nhưng mỗi em đều có tánh tình riêng. Có những bé rất là nhát, có những bé rất là gan… nói chung bé có tính khí có sẵn rồi nhưng cái đó là 1 phần thôi. Cái hoàn cảnh môi trường trong gia đình thế nào? trong xã hội thế nào? thì khi đứa bé lớn lên thì cái tính tình bắt đầu hình thành, bắt đầu nó thay đổi. Và tới khi mình thành người lớn , từ 18 tuổi trở lên thì tính tình đã hình thành rồi và ổn định . Cho nên khi nói đến RLNC thì không nói bé nhỏ bị cái này mà phải chờ đến khi bé thành 18 tuổi thì mới chuẩn đoán là có RLNC hay không? Và dĩ nhiên trước 18 tuổi thì mình có thể thấy những đặc trưng RLNC đó từ trước chỉ là những đặc trưng đó nó chưa hình thành mà thôi. Sau 18 tuổi cũng vậy, cũng chưa chắc đặc trưng đó đã hình thành vì có rất nhiều người chúng ta thực ra mà nói thì ít nhiều chúng ta đều có đặc điểm của cá tính này nhưng mà chỉ có đều là nó ít hay là nhiều thôi. Với lại 1 người chúng ta không chỉ có 1 cá tính này, không chỉ có cá tính kia mà thôi, thường thường chúng ta là hỗn hợp rất là nhiều thứ. Có người có lúc rất là nhát, có lúc thì rất là nghi ngờ người khác …cho nên nó sẽ không rõ ràng đâu. Nhưng mà khi mình nói tới thì để cho nó dễ thì mình có thể nói đến đặc điểm. Mình coi là những người xung quanh hoặc là người quen của mình có những đặc điểm của cá tính này không?

**Hiện tại rối loạn nhân cách có 3 nhóm:

Page 17: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Hiện tại có 10 loại được chia làm 3 nhóm khác nhau. Tại sao lại chia làm 3 nhóm khác nhau? Vì trong 10 loại đó có những loại có đặc trưng tương tự giống như nhau cho nên những loại có được cái nét giống giống nhau đó thì ta để chung chúng vào một nhóm. Như là nhóm A: đó là những người có chung những nét , đặc điểm của họ là họ hay nghi ngờ , có vẻ những người khác thấy họ hơi kỳ dị.

Nhóm B: là những người họ có rất là nhiều cảm xúc, khi cảm xúc của họ không nhất định.

Page 18: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Nhóm C: là những người rất là thường họ có rất nhiều cái lo âu và lo lắng.

Page 19: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH
Page 20: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH
Page 21: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Phần I: RỐI LOẠN NHÂN CÁCH NHÓM ABa rối loạn nhân cách nhóm A: hoang tưởng, schizoid, và schizotypal chia sẻ các tính năng phổ biến mà giống với một số các triệu chứng tâm thần thấy trong tâm thần phân liệt. Những rối loạn nhân cách lẻ hoặc lập dị này được mô tả tiếp theo.

1.Rối loạn nhân cách hoang tưởng (Paranoid Personality Disorder)

Mặc dù có thể thích nghi với một chút thận trọng của người khác và động cơ của họ, nhưng quá không tin tưởng có thể can thiệp vào việc kết bạn, làm việc với người khác và nói chung là thông qua các tương tác hàng ngày theo cách thức có chức năng. Những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng là quá đáng ngờ nghệch và nghi ngờ người khác, không có bất kỳ biện minh. Họ cho rằng những người khác đang làm hại hoặc lừa họ; do đó, họ có xu hướng không tin tưởng vào người khác. Xem xét trường hợp của Jake.

Nghiên cứu trường hợp của Jake…Jake lớn lên trong một khu phố trung lưu, và mặc dù anh không bao giờ gặp rắc rối nghiêm trọng, anh đã có một danh tiếng ở trường trung học để tranh cãi với giáo viên và bạn học. Trường trung học đệ nhất cấp, anh ghi danh vào trường cao đẳng cộng đồng địa phương, nhưng anh vẫn chưa vượt qua được năm thứ nhất. Sự thất bại của Jake trong trường học phần nào là do sự thất bại của ông trong việc nhận trách nhiệm về những điểm kém của mình. Ông bắt đầu phát triển các lý thuyết âm mưu về đồng nghiệp và giáo sư, tin rằng họ làm việc cùng nhau để thấy ông thất bại. Jake bị trả về từ việc làm, mỗi lần phàn nàn rằng chủ nhân của anh đang theo dõi anh ta tại nơi làm việc và ở nhà.Ở tuổi 25 - và trái với mong muốn của cha mẹ - ông đã dọn ra khỏi nhà của bố mẹ mình đến một thị trấn nhỏ ngoài tiểu bang. Thật không may, những bức thư mà Jake đã viết về nhà hàng ngày đã làm dấy lên nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của bố mẹ. Anh ta ngày càng bận rộn với các lý thuyết về những người đã ra ngoài để làm hại anh ta. Jake đã trải qua rất nhiều thời gian trên máy tính của mình khám phá các trang web và ông đã phát triển một lý thuyết tinh vi về cách nghiên cứu đã được thực hiện như thế nào với ông trong thời thơ ấu. Các bức thư của ông ở nhà mô tả niềm tin của ông rằng các nhà nghiên cứu làm việc với CIA đã uống thuốc cho ông khi còn nhỏ và cấy ghép một thứ gì đó trong tai ông phát ra lò vi sóng. Ông tin rằng lò vi sóng này, đang được sử dụng để gây ra ung thư. Hơn 2 năm, ông trở nên ngày

Page 22: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

càng bận tâm với lý thuyết này, viết thư cho các nhà chức trách khác nhau cố gắng thuyết phục họ rằng ông đang bị giết chết từ từ.Afer đã đe dọa làm hại đến một số quản trị viên trường cao đẳng địa phương, cha mẹ anh ta đã được liên lạc và đưa anh ta đến một nhà tâm lý học, người đã chẩn đoán anh ta với chứng rối loạn nhân cách hoang tưởng và trầm cảm nặng.

Mô tả lâm sàngĐặc điểm bảo vệ của những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng là một sự không tin cậy bất hợp lý lan rộng (Hopwood & Tomas, 2012). Chắc chắn, có thể có những lúc người nào đó lừa dối và "lấy bạn"; tuy nhiên, những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng là đáng ngờ trong những tình huống mà hầu hết mọi người đều đồng ý với những nghi ngờ của họ là vô căn cứ. Ngay cả những sự kiện không liên quan gì đến chúng cũng được hiểu là các cuộc tấn công cá nhân (Bernstein & Useda, 2007). Những người này sẽ nhìn thấy con chó sủa của người hàng xóm hoặc một chuyến bay của hãng hàng không chậm trễ như là một cố gắng có chủ ý để làm phiền họ. Thật không may, sự không tin tưởng như vậy mở rộng đến những người gần gũi với họ và làm cho các mối quan hệ có ý nghĩa rất khó khăn.Hãy tưởng tượng những gì một sự tồn tại cô đơn này phải được. Sự ngờ vực và không tin cậy có thể thể hiện mình bằng nhiều cách. Những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng có thể là tranh cãi, có thể phàn nàn, hoặc có thể yên tĩnh. Phong cách giao tiếp này được thông tin, đôi khi không chung chung, với người khác, dẫn đến sự khó chịu trong số những người tiếp xúc với họ do sự biến động này. Những cá nhân này nhạy cảm với những lời chỉ trích và có nhu cầu về tính tự chủ cao (Bernstein & Useda, 2007). Có rối loạn này làm tăng nguy cơ tự tử và hành vi bạo lực, và những người này có xu hướng có chất lượng cuộc sống kém (Hopwood & Tomas, 2012).BẢNG 12.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn tính cách hoang tưởng DSM 5

A. Một sự nghi ngờ tràn lan và nghi ngờ của người khác để động cơ của họ được hiểu là ác độc, bắt đầu từ giai đoạn trưởng thành sớm và hiện diện trong nhiều ngữ cảnh, như được chỉ ra bởi bốn (hoặc nhiều hơn) những điều sau đây:

1. Nghi ngờ, không có cơ sở chu đáo, rằng những người khác đang khai thác, làm hại hoặc lừa dối người đó.

2. Nghiện lộn với những nghi ngờ không công bằng về sự trung thành hoặc đáng tin cậy của bạn bè hoặc cộng sự.

3. Là miễn cưỡng để tâm sự với người khác vì lo sợ không chính đáng rằng thông tin sẽ được sử dụng một cách độc hại đối với anh ta hoặc cô ta.

Page 23: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

4. Đọc những ý nghĩa hạ thấp hay đe doạ vào những nhận xét hay sự kiện ôn hòa.5. Kiên trì chịu đựng những mối hận thù, tức là, không tha thứ cho những lời phỉ

báng, chấn thương, hoặc chửi thề.6. Nhận thấy các cuộc tấn công vào nhân vật hoặc danh tiếng của mình mà không

rõ ràng đối với người khác và nhanh chóng phản ứng giận dữ hoặc phản công.7. Có nghi ngờ lặp lại, không có lý do, liên quan đến sự không chung thủy của vợ /

chồng hoặc bạn tình.B. Không xảy ra trong giai đoạn tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực hoặc rối

loạn trầm cảm với các đặc điểm tâm thần hoặc rối loạn tâm thần khác và không liên quan đến các ảnh hưởng sinh lý của một tình trạng sức khoẻ khác.

Lưu ý: Nếu các tiêu chí được đáp ứng trước khi bắt đầu bệnh tâm thần phân liệt, thêm "premorbid", nghĩa là "rối loạn nhân cách hoang tưởng (premorbid).Nguyên nhân:Bằng chứng về sự đóng góp sinh học đối với rối loạn nhân cách hoang tưởng bị hạn chế. Một số nghiên cứu cho thấy rối loạn này có thể gặp nhiều hơn ở người thân của những người mắc bệnh tâm thần phân liệt, mặc dù mối liên quan dường như không mạnh mẽ (Tienari et al., 2003). Nói cách khác, người thân của các cá nhân bị tâm thần phân liệt có thể có nhiều rối loạn nhân cách hoang tưởng hơn những người không có họ hàng với tâm thần phân liệt. Nhìn chung, dường như có một vai trò mạnh mẽ đối với di truyền học trong rối loạn nhân cách hoang tưởng (Kendler và cộng sự, 2006). Như bạn sẽ thấy sau cùng với các rối loạn nhân cách kỳ quái hoặc bất thường khác trong Cluster A, có vẻ như có một số mối quan hệ với tâm thần phân liệt gây ra một số gợi ý loại bỏ nó như là một rối loạn riêng biệt từ DSM (Triebwasser, Chemerinski, Roussos, & Siever, 2012).Những đóng góp tâm lý cho rối loạn này còn ít chắc chắn hơn, mặc dù đã có những suy đoán thú vị. Nghiên cứu hồi cứu - yêu cầu những người rối loạn này nhớ lại các sự kiện từ thời thơ ấu của họ - cho thấy những hành vi ngược đãi sớm hay những trải nghiệm thời thơ ấu có thể đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của rối loạn nhân cách hoang tưởng (Natsuaki, Cicchetti, & Rogosch, 2009). Cảnh báo được đảm bảo khi giải thích những kết quả này bởi vì, rõ ràng, có thể có thiên vị mạnh mẽ trong việc thu hồi những cá nhân này, những người đã có xu hướng xem thế giới như là một mối đe dọa.Một số nhà tâm lý học chỉ thẳng vào những suy nghĩ (còn được gọi là "giản đồ") của những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng như là một cách để giải thích hành vi của họ. Một quan điểm là những người có rối loạn này có những giả định sai lầm cơ bản sau đây về những người khác: "Người ta ác độc và lừa đảo", "Họ sẽ

Page 24: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

tấn công bạn nếu họ có cơ hội" và "Bạn có thể ổn mà chỉ khi bạn ở lại ngón chân "(Lobbestael & Arntz, 2012). Đây là một cách không thích hợp để nhìn thế giới, nhưng nó dường như bao trùm mọi khía cạnh của cuộc sống của những cá nhân này.Mặc dù chúng ta không biết tại sao họ lại phát triển những nhận thức này, nhưng một số suy đoán là nguồn gốc của chúng là trong việc giáo dục sớm. Cha mẹ Teir có thể dạy họ cẩn thận về những sai lầm và có thể gây ấn tượng với họ rằng họ không khác gì những người khác. Sự cảnh giác khiến họ nhìn thấy những dấu hiệu cho thấy những người khác lừa dối và độc ác (Carroll, 2009). Chắc chắn là mọi người không phải luôn luôn nhân từ và chân thành, và sự tương tác của chúng ta đôi khi mơ hồ đủ để làm cho ý đồ của người khác không rõ ràng. Nhìn quá chặt chẽ những gì người khác nói và làm đôi khi có thể dẫn bạn để hiểu sai chúng.Các yếu tố văn hoá cũng liên quan đến rối loạn nhân cách hoang tưởng. Một số nhóm người như tù nhân, người tị nạn, người khiếm thính và người lớn tuổi bị cho là đặc biệt nhạy cảm vì những trải nghiệm độc đáo của họ (Rogler, 2007). Hãy tưởng tượng xem bạn có thể xem những người khác như thế nào nếu bạn là một người di dân, người có sự khác biệt với ngôn ngữ và phong tục tập quán mới của bạn. Những điều vô hại như những người khác cười hoặc nói chuyện một cách lặng lẽ có thể được diễn giải theo cách nào đó với bạn. Nhà âm nhạc muộn Jim Morrison của The Door đã mô tả hiện tượng này trong bài hát "People Are Strange" (lời nói và âm nhạc của The Doors, "© 1967 Doors Music Co., được sử dụng theo sự cho phép):" Mọi người lạ, / Khi bạn là một người lạ mặt / khuôn mặt trông xấu xí, / Khi bạn cô đơn "Bạn đã thấy cách một người nào đó có thể hiểu nhầm các tình huống mơ hồ như ác độc. Do đó, các nhân tố nhận thức và văn hoá có thể tương tác để tạo ra sự nghi ngờ quan sát thấy ở một số người bị rối loạn nhân cách hoang tưởng.

Điều trịVì những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng không tin tưởng ai, họ không có nhu cầu tìm kiếm sự trợ giúp chuyên môn khi họ cần và họ đã phát triển rất khác biệt các mối quan hệ tin tưởng cần thiết cho liệu pháp thành công (Skodol & Gunderson, 2008). Việc thiết lập một liên minh trị liệu có ý nghĩa giữa khách hàng và nhà trị liệu trở thành một bước quan trọng (BENDER, 2005). Khi những cá nhân này tìm kiếm liệu pháp, kích hoạt thường là một cuộc khủng hoảng trong cuộc sống của họ-như các mối đe dọa của Jake đối với người lạ - hoặc các vấn đề khác như lo lắng hoặc trầm cảm, không nhất thiết là rối loạn nhân cách của họ (Kelly, Casey, Dunn, Ayuso-Mateos , & Dowrick, 2007).

Page 25: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Các nhà trị liệu cố gắng tạo ra một bầu không khí thuận lợi để phát triển lòng tin (Bender, 2005). Họ sử dụng liệu pháp nhận thức để chống lại những giả định sai lầm của người khác về người khác, tập trung vào việc thay đổi niềm tin của mọi người rằng tất cả mọi người đều có tính ác độc và hầu hết mọi người không thể tin tưởng được (Skodol & Gunderson, 2008). Cần lưu ý, tuy nhiên, cho đến nay không có cuộc biểu tình tập thể nào rằng bất kỳ hình thức điều trị nào có thể cải thiện đáng kể cuộc sống của những người bị rối loạn nhân cách hoang tưởng. Một cuộc khảo sát của các chuyên gia về sức khoẻ tâm thần chỉ ra rằng chỉ có 11% các nhà trị liệu điều trị rối loạn nhân cách hoang tưởng nghĩ rằng những người này sẽ tiếp tục được điều trị lâu dài để được giúp đỡ (Quality Assurance Project, 1990).

2. Schizoid Personality Disorder-RLNC phân lập Có biết ai đó là "cô độc" không? Ai đó sẽ chọn một bước đi đơn độc qua lời mời dự tiệc? Một người đến lớp một mình, ngồi một mình, và bỏ đi một mình? Bây giờ, phóng to tùy chọn này cho sự cô lập nhiều lần và bạn có thể bắt đầu nắm bắt được tác động của rối loạn nhân cách phân liệt (Hopwood & Tomas, 2012). Những người có rối loạn nhân cách này cho thấy một mô hình tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội và một phạm vi cảm xúc giới hạn trong các tình huống giữa các cá nhân. Họ có vẻ xa cách, lạnh lùng, và indi khác với người khác. Thuật ngữ schizoid là tương đối cũ, đã được sử dụng bởi Bleuler (1924) để mô tả những người có khuynh hướng hướng về phía trong và ra khỏi thế giới bên ngoài. Những người này được cho là thiếu biểu cảm cảm xúc và theo đuổi những lợi ích mơ hồ. Xem xét trường hợp của ông Z.MR.Z ... Tất cả trên của riêng mìnhMột nhà khoa học 39 tuổi được đưa ra sau khi trở về từ một chuyến công tác ở Nam Cực, nơi ông đã ngừng hợp tác với người khác, đã rút về phòng mình và bắt đầu tự mình uống rượu. Ông Z. bị mồ côi ở tuổi 4, nuôi bởi một cô cho đến khi 9 tuổi, và sau đó được chăm sóc bởi một người quản gia tách biệt. Ở trường đại học, ông đã giỏi về vật lý, nhưng cờ vua là mối liên hệ duy nhất với người khác. Trong suốt cuộc đời sau này của mình, anh không có bạn thân và tham gia chủ yếu vào các hoạt động đơn độc. Cho đến khi tham quan nhiệm vụ ở Nam Cực, ông đã khá thành công trong công việc nghiên cứu vật lý của mình. Bây giờ, ông đã có một vài tháng nghỉ hưu, uống ít nhất một chai Schnapps mỗi ngày, và công việc của ông đã tiếp tục xấu đi. Ông trình bày như là tự kiềm chế và không phô trương và đã rất khó khăn để tham gia e ff ectively. Anh ấy đã mất mát để giải thích sự tức giận của đồng nghiệp

Page 26: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

với sự kiên định của mình ở Nam Cực và xuất hiện với ý nghĩ của họ về anh ta. Anh ta dường như không yêu cầu bất kỳ mối quan hệ cá nhân, mặc dù anh ta đã phàn nàn về một số buồn tẻ trong cuộc đời của mình và tại một thời điểm trong cuộc phỏng vấn trở nên buồn, bày tỏ mong muốn được gặp chú ở Đức, mối quan hệ duy nhất của anh ta.Mô tả lâm sàng:Những người có rối loạn nhân cách phân liệt dường như không ham muốn cũng không được gần gũi với người khác, kể cả những mối quan hệ lãng mạn hay tình dục. Kết quả là chúng xuất hiện lạnh và tách rời và không có vẻ là một ff được khen ngợi hoặc chỉ trích. Một trong những thay đổi trong DSM-IV-TR từ các phiên bản trước đó là sự thừa nhận rằng ít nhất một số người có rối loạn nhân cách phân liệt rất nhạy cảm với ý kiến của người khác nhưng không muốn hoặc không thể diễn tả cảm xúc này. Đối với họ, cô lập xã hội có thể cực kỳ đau đớn. Thật không may, vô gia cư dường như phổ biến trong số những người có rối loạn nhân cách này, có lẽ là do thiếu tình bạn thân thiết và thiếu sự không hài lòng về việc không có quan hệ tình dục với một người khác (Rouff, 2000).Những thiếu sót xã hội của những người có rối loạn nhân cách phân liệt cũng tương tự như những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng, mặc dù chúng cực kỳ khắc nghiệt. Như Beck và Freeman (1990, trang 125) cho hay, họ "tự coi mình là người quan sát chứ không phải là những người tham gia vào thế giới xung quanh họ." Tey dường như không có những quá trình tư duy bất thường đặc trưng cho các rối loạn khác trong Cluster A ( Cloninger & Svakic, 2009) (xem Bảng 12.6). Ví dụ, những người bị chứng hoang tưởng và rối loạn nhân cách có tư tưởng tham khảo, niềm tin sai lầm rằng các sự kiện vô nghĩa chỉ liên quan đến họ. Ngược lại, những người có rối loạn nhân cách phân liệt chia sẻ sự cô lập xã hội, mối quan hệ nghèo nàn, và giảm áp (cho thấy không có cảm xúc tích cực cũng không tiêu cực) thấy ở những người có rối loạn nhân cách hoang tưởng. Bạn sẽ thấy trong Chương 13 rằng sự khác biệt giữa các triệu chứng giống như bệnh tâm thần là rất quan trọng để hiểu được những người mắc bệnh tâm thần phân liệt, một số người cho thấy các triệu chứng "tích cực" (các hành vi tích cực khác thường như ý tưởng tham khảo) và những người khác chỉ là những triệu chứng "tiêu cực" những biểu hiện thụ động hơn của sự cô lập xã hội hoặc mối quan hệ kém với những người khác).Nguyên nhân và cách điều trịNghiên cứu sâu rộng về các đóng góp về di truyền học, thần kinh học, và tâm lý xã hội cho rối loạn nhân cách phân liệt vẫn còn phải được tiến hành (Phillips, Yen, và

Page 27: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Gunderson, 2003). Trên thực tế, rất ít nghiên cứu thực nghiệm đã được công bố về bản chất và nguyên nhân của rối loạn này (Skodol và cộng sự, 2011). Sự nhút nhát thời thơ ấu được báo cáo như là một tiền thân cho chứng rối loạn nhân cách schizoid ở người trưởng thành sau này. Có thể rằng đặc điểm tính cách này được thừa kế và đóng vai trò như một yếu tố quyết định quan trọng trong sự phát triển của rối loạn này. Lạm dụng và bỏ rơi trẻ em cũng được báo cáo trong số những người bị rối loạn này (Johnson, Bromley, và McGeoch, 2005). Nghiên cứu trong vài thập kỷ qua đã chỉ ra các nguyên nhân tự nhiên của bệnh tự kỷ (cha mẹ trẻ em bị chứng tự kỷ có nhiều khả năng bị rối loạn nhân cách schizoid (Constantino và cộng sự, 2009). Có thể là một rối loạn sinh học được tìm thấy trong cả chứng tự kỷ và rối loạn nhân cách phân liệt kết hợp với việc học sớm hoặc các vấn đề ban đầu với các mối quan hệ giữa các cá nhân để tạo ra các khiếm khuyết xã hội defne schizoid rối loạn nhân cách (Hopwood & Tomas, 2012).Rất hiếm khi một người có rối loạn này yêu cầu điều trị trừ khi đáp ứng với một cuộc khủng hoảng như trầm cảm cực đoan hoặc mất việc làm (Kelly và cộng sự, 2007). Terapists ofen bắt đầu điều trị bằng cách chỉ ra giá trị trong các mối quan hệ xã hội. Những người có rối loạn thậm chí có thể cần phải được dạy những cảm xúc của người khác để học sự đồng cảm (Skodol & Gunderson, 2008). Bởi vì kỹ năng xã hội của họ chưa bao giờ được thiết lập hoặc đã bị suy giảm do thiếu sự sử dụng, nên những người mắc chứng rối loạn tâm thần phân liệt nhận được đào tạo kỹ năng xã hội. Bác sĩ trị liệu lấy phần của một người bạn hoặc một người khác trong một kỹ thuật được gọi là vai trò và giúp bệnh nhân thiết lập và duy trì các mối quan hệ xã hội (Skodol & Gunderson, 2008). Loại hình đào tạo kỹ năng xã hội này được trợ giúp bằng cách xác định một mạng lưới xã hội-một người hoặc những người sẽ hỗ trợ (Bender, 2005). Kết quả nghiên cứu về phương pháp tiếp cận này rất không may là rất hạn chế, vì vậy chúng ta phải thận trọng trong việc đánh giá tính hiệu quả của điều trị cho những người có rối loạn nhân cách phân liệt.BẢNG 12.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn nhân cách Schizoid DSM 5A. Một mô hình lan rộng của sự tách rời khỏi các mối quan hệ xã hội và một phạm vi hạn chế biểu hiện cảm xúc trong các môi trường giữa các cá nhân, bắt đầu từ giai đoạn trưởng thành sớm và hiện diện trong nhiều ngữ cảnh, như được chỉ ra bởi bốn (hoặc nhiều hơn)1. Không ham muốn, cũng không có mối quan hệ gần gũi, bao gồm cả việc là một phần của gia đình.2. Gần như luôn luôn chọn các hoạt động đơn độc.

Page 28: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

3. Có rất ít, nếu có, quan tâm đến việc có kinh nghiệm tình dục với người khác.4. Có niềm vui trong rất ít, nếu có, các hoạt động.5. Thiếu những người bạn thân hay những người bạn tâm tình khác ngoài thân nhân của họ.6. Xuất hiện không quan tâm đến lời khen ngợi hay phê bình của người khác.7. Thể hiện cảm xúc lạnh lùng, tách rời, hoặc cảm xúc dâng tràn.B. Không xảy ra độc nhất trong suốt quá trình tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm với các tính trạng tâm thần, rối loạn tâm thần khác, chứng rối loạn phổ tự kỷ và không phải là do các ảnh hưởng sinh lý của một tình trạng sức khoẻ khác.Lưu ý: Nếu các tiêu chí được đáp ứng trước khi bắt đầu bệnh tâm thần phân liệt, hãy thêm "premorbid", ví dụ như "schizoid disorders disorders (premorbid)

3. Schisotypal Personality Disorder - Rối loạn nhân cách dạng phân liệt (STPD) Người bị rối loạn nhân cách dạng phân liệt Schisotypal Personality Disorder cách biệt với xã hội tương tự như người bị rối loạn nhân cách phân liệt Schizoid Personality Disorder. Thêm đó, họ còn thường xuyên hành xử theo cách mà đa số chúng ta thấy là không bình thường và họ thường có xu hướng nghi ngờ và niềm tin kỳ quặc (Kwapil & Barrantes-Vidal, 2012). Rối loạn nhân cách dạng phân liệt được coi là trên cùng phổ với tâm thần phân liệt – loại rối loạn trầm trọng mà chúng ta sẽ thảo luận trong chương kế tiếp- nhưng không có một số triệu chứng suy nhược, chẳng hạn như ảo giác và hoang tưởng. Trên thực tế, vì mối quan hệ gần gũi này, DSM-5 bao gồm rối loạn này được liệt kê dưới cả mục rối loạn nhân cách cũng như rối loạn phân liệt tâm thần phân liệt (American Psychiatric Association, 2013). Xem xét trường hợp của ông S.

Ông S. Người đàn ông với một sứ mệnh

Ông S. là một người thất nghiệp 35 tuổi, được thầy thuốc cho là bị thiếu vitamin. Điều này xảy ra vì ông S. đã tránh bất kỳ loại thực phẩm nào "có thể đã bị ô nhiễm bởi máy móc".

Ông đã bắt đầu phát triển các ý tưởng thay thế về chế độ ăn uống ở độ tuổi 20 và sớm rời khỏi gia đình, và bắt đầu học một tôn giáo phương Đông. “Nó mở ra

Page 29: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

con mắt thứ ba của tôi”.

Bây giờ ông đang sống một mình trong một trang trại nhỏ, cố gắng tự trồng thực phẩm, trao đổi đồ mà anh không thể tự trồng. Ông dành cả ban ngày và tối để nghiên cứu nguồn gốc và cơ chế ô nhiễm thực phẩm và bởi vì các kiến thức này, ông đã phát triển một nhóm nhỏ đi theo những ý tưởng của mình.

Ông chưa bao giờ lập gia đình và duy trì rất ít liên hệ với gia đình: "Tôi chưa bao giờ gần gũi bố tôi. Tôi là người ăn chay”.

Ông nói ông dự định tham gia khóa học về chế độ ăn uống để cải thiện chế độ ăn của mình trước khi trở lại cuộc sống ở trang trại. Ông từ chối trị liệu của y sĩ và trở nên khó chịu khi họ thảo luận với ông về vấn đề thiếu vitamin.

(Cases and excerpts reprinted, with permission of the Royal Australian and New Zealand College of Psychiatrists, from Quality Assurance Project, 1990. Treatment outlines for paranoid, schizotypal and schizoid personality disorders. Australian and New Zealand Journal of Psychiatry, 24, 339–350.)

Mô tả lâm sàng

Những người bị chẩn đoán loạn nhân cách dạng phân liệt Schisotypal Personality Disorder có các triệu chứng giống như rối loạn tâm thần psychotic (nhưng không phải psychotic) (như tin tưởng vào mọi thứ liên quan đến cá nhân họ), thâm hụt xã hội, và đôi khi bị suy giảm nhận thức hoặc hoang tưởng paranoia (Kwapil & BarrantesVidal, 2012). Những cá nhân này thường được coi là kỳ quái hoặc quái gở vì cái cách họ liên đới đến người khác, cách họ nghĩ và hành xử, và thậm chí cả cách ăn mặc.

Họ có những ý tưởng xét lại ideas of reference; ví dụ, họ có thể tin rằng bằng cách nào đó mọi người trên một xe buýt đang nói về họ, nhưng họ có thể có thể biết điều này có lẽ không thật. Một lần nữa, như bạn sẽ thấy trong Chương 13, một số người mắc bệnh tâm thần phân liệt cũng có ý tưởng xét lại, nhưng thường thì họ không thể "kiểm tra được thực tế" hoặc thấy được sự vô lý trong các ý tưởng của họ.

Page 30: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Những người bị chứng rối loạn nhân cách dạng phân liệt cũng có những niềm tin kỳ quặc hoặc tham gia vào "tư duy huyền bí", ví dụ như tin rằng họ là bà đồng hoặc thần giao cách cảm. Ngoài ra, họ có những trải nghiệm nhận thức bất thường, bao gồm những ảo tưởng như cảm thấy sự hiện diện của người khác khi họ ở một mình. Chú ý sự khác biệt tinh tế nhưng quan trọng giữa cảm giác như thể người khác đang ở trong phòng và sự bóp méo cảm giác cực đoan ở những người bị tâm thần phân liệt khiến họ cho rằng có người khác trong phòng khi không có. Không giống những người chỉ đơn giản có những sở thích hoặc niềm tin bất thường, những người rối loạn nhân cách dạng phân liệt có khuynh hướng nghi ngờ và có những tư tưởng hoang tưởng, thể hiện cực ít cảm xúc và có thể ăn mặc hoặc hành xử theo những cách bất thường (ví dụ mặc nhiều lớp quần áo vào mùa hè hoặc tự lầm bầm với bản thân) (Chemerinski, Triebwasser, Roussos, & Siever, 2012). Các nghiên cứu về trẻ vị thành niên, những nười sau đó phát triển chứng rối loạn nhân cách dạng phân liệt, cho thấy họ có xu hướng thụ động và không liên kết với người khác và nhạy cảm với những lời chỉ trích (Olin et al., 1997).

Vì những người rối loạn nhân cách dạng phân liệt thường có niềm tin xung quanh các chủ đề tôn giáo hoặc tâm linh (Bennett, Shepherd, & Janca, 2013), các nhà lâm sàng phải biết rằng các tín ngưỡng hoặc thực tiễn văn hoá khác nhau có thể dẫn đến chẩn đoán sai rối loạn này. Ví dụ, một số người thực hành các nghi lễ tôn giáo nhất định-chẳng hạn như nguyện, theo tôn giáo voodoo, hoặc ngoại cảm- và thực hiện chúng với sự ám ảnh khiến cho họ có vẻ vô cùng bất thường, do đó dẫn đến một chẩn đoán sai (American Psychiatric Association, 2013) . Nhân viên chăm sóc sức khoẻ tâm thần phải đặc biệt nhạy cảm với thực tiễn văn hoá có thể khác với văn hóa của chính họ và có thể bóp méo quan điểm đối với các hành vi có vẻ như bất thường.

Nguyên nhân

Về mặt lịch sử, từ schizotype được sử dụng để mô tả những người có xu hướng phát triển tâm thần phân liệt (Meehl, 1962, Rado, 1962). Rối loạn nhân cách dạng phân liệt được xem là một kiểu hình của kiểu gen tâm thần phân liệt. Nhớ lại rằng phenotype là một cách mà di truyền học của một người được thể hiện. Genotype là gen hoặc các gen tạo thành một rối loạn cụ thể. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nhiều ảnh hưởng khác, cách mà kiểu hình của bạn có thể khác với những người khác có cùng

Page 31: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

một kiểu gen. Một số người được cho là có "gen di truyền tâm thần phân liệt" (genotype), vì sự thiếu hụt tương đối của các ảnh hưởng sinh học (ví dụ như các bệnh trước khi sinh) hoặc các áp lực môi trường (ví dụ như nghèo đói, ngược đãi), một số người sẽ rối loạn nhân cách dạng phân liệt ít nghiêm trọng hơn (genotype) (Kwapil & Barrantes-Vidal, 2012).

Ý tưởng về mối quan hệ giữa rối loạn nhân cách dạng phân liệt và tâm thần phân liệt phát sinh một phần từ cách mà những người rối loạn hành xử. Nhiều đặc điểm của rối loạn nhân cách dạng phân liệt, bao gồm các ý tưởng xét lại, ảo tưởng, và tư duy hoang tưởng, tương tự nhau nhưng các hình thức của các hành vi nhẹ hơn được quan sát thấy ở những người bị tâm thần phân liệt. Nghiên cứu di truyền cũng dường như hỗ trợ mối quan hệ giữa hai dạng này. Các nghiên cứu gia đình, song sinh và nhận con nuôi đã cho thấy sự gia tăng tỷ lệ rối loạn nhân cách dạng phân liệt đối với những người có họ hàng với người tâm thần phân liệt (Siever & Davis, 2004). Tuy nhiên, những nghiên cứu này cũng cho chúng ta biết rằng môi trường có thể ảnh hưởng mạnh đến rối loạn nhân cách dạng phân liệt. Một số nghiên cứu cho thấy các triệu chứng dạng phân liệt có liên quan chặt chẽ đến hành hạ ngược đãi trẻ em ở nam giới, và hành vi ngược đãi trẻ em này dường như dẫn đến các triệu chứng rối loạn căng thẳng sau chấn thương (PTSD) (xem chương 5) ở phụ nữ (Berenbaum, Thompson, Milanak, Boden, & Bredemeier, 2008 ). Đánh giá nhận thức của những người có rối loạn này cho thấy có sự giảm từ nhẹ đến trung bình khả năng của họ khi thể hiện trong các bài kiểm tra liên quan đến trí nhớ và học tập, cho thấy một số tổn hại ở bán cầu não trái (Siever & Davis, 2004). Các nghiên cứu khác, sử dụng hình ảnh cộng hưởng từ, chỉ ra những bất thường về não nói chung ở những người có rối loạn nhân cách dạng phân liệt (Modinos et al., 2009).

Điều trị

Ước tính rằng từ 30% đến 50% số người rối loạn nhân cách dạng phân liệt yêu cầu trợ giúp lâm sàng cũng đáp ứng các tiêu chí chính bị rối loạn trầm cảm. Điều trị bao gồm một số phương pháp điều trị y tế và tâm lý cho chứng trầm cảm (Cloninger & Svakic, 2009; Mulder, Frampton, Luty, & Joyce, 2009).

Các nghiên cứu có kiểm soát về nỗ lực điều trị các nhóm bệnh nhân rối loạn nhân cách dạng phân liệt là rất ít. Hiện nay, mối quan tâm này đang ngày càng trở

Page 32: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

nên nhiều hơn trong điều trị chứng rối loạn này vì nó được coi là tiền thân của tâm thần phân liệt (McClure và cộng sự, 2010). Một nghiên cứu đã sử dụng cách kết hợp các phương pháp tiếp cận, bao gồm thuốc chống rối loạn tâm thần, điều trị cộng đồng (nhóm chuyên gia hỗ trợ dịch vụ điều trị) và đào tạo kỹ năng xã hội để điều trị các triệu chứng của những người mắc rối loạn này. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng sự kết hợp các cách tiếp cận này làm giảm các triệu chứng hoặc trì hoãn sự khởi phát của tâm thần phân liệt (Nordentoft và cộng sự, 2006). Ý tưởng điều trị cho những người trẻ tuổi có các triệu chứng rối loạn nhân cách dạng phân liệt với thuốc chống rối loạn tâm thần và liệu pháp hành vi nhận thức để tránh sự khởi phát của bệnh tâm thần phân liệt đang chứng tỏ là một chiến lược phòng ngừa đầy hứa hẹn (Correll, Hauser, Auther, & Cornblatt, 2010; Weiser, 2011).

Tiêu chuẩn chẩn đoán rối loạn nhân cách dạng phân liệt

A. Một mô hình thiếu liên kết xã hội và cá nhân, đánh dấu bởi sự khó chịu và giảm khả năng thu nhận các mối quan hệ gần gũi, cũng như các nhận thức hay sự méo mó cảm giác và sự lệch chuẩn của hành vi, bắt đầu từ giai đoạn đầu trưởng thành và hiện diện trong nhiều ngữ cảnh, được chỉ ra bởi năm (hoặc nhiều hơn) những điều sau đây:

1. Ý tưởng xét lại (không bao gồm Hoang tưởng liên hệ delusions of reference).

2. Những niềm tin kỳ quặc hay những suy nghĩ về pháp thuật ảnh hưởng đến hành vi và không phù hợp với các chuẩn mực về văn hoá con người (ví dụ như mê tín dị đoan, niềm tin vào sự thấu thị, thần giao cách cảm, hoặc giác quan thứ sáu) ở trẻ em và thanh thiếu niên, những tưởng tượng kỳ quái hay những mối bận tâm preoccupations).

3. Kinh nghiệm nhận thức bất thường, bao gồm cả ảo giác cơ thể.

4. Kiểu suy nghĩ và lời nói kỳ quặc (ví dụ, mơ hồ, giản dị, ẩn dụ, quá công phu, hoặc rập khuôn).

5. Hoài nghi hay hoang tưởng.

6. Cảm xúc thiếu hòa hợp (inappropriate affect - là sự không phù hợp giữa cảm xúc và tư duy hoặc ngôn ngữ đi kèm, gặp trong bệnh tâm thần phân liệt.) và Cảm

Page 33: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

xúc thu hẹp (restricted or constricted affect) cũng là sự giảm cường độ cảm xúc nhưng ít hơn trong cảm xúc cùn mòn. (https://bacsinoitru.vn/f70/trieu-chung-hoc-tam-than-148.html)

7. Hành vi hoặc ngoại hình kì quái, khác thường, lập dị.

8. Thiếu những người bạn thân hay những người bạn tâm tình không phải là bà con gần nhất.

9. Hội chứng sợ xã hội, hay ám ảnh sợ xã hội (Social anxiety) mà không giảm bớt dù quen thuộc và có khuynh hướng gắn liền với nỗi sợ hoang tưởng hơn là những phán đoán tiêu cực về bản thân.

B. Không xảy ra độc nhất trong suốt giai đoạn tâm thần phân liệt, rối loạn lưỡng cực hoặc rối loạn trầm cảm với các đặc điểm tâm thần, rối loạn tâm thần khác, rối loạn phổ tự kỷ.

Lưu ý: Nếu các tiêu chí có trước khi bắt đầu bệnh tâm thần phân liệt, hãy thêm "premorbid", ví dụ như "schizoid disorders disorders (premorbid)."

From American Psychiatric Association. (2013). Diagnostic and statistical manual of mental disorders (5th ed.). Washington, DC.

Page 34: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Phần II: RỐI LOẠN NHÂN CÁCH NHÓM B Nhóm các rối loạn tính cách "kịch tính" (nhóm B) bao gồm các rối loạn nhân cách chống lại xã hội, biên giới, “đóng kịch” và ái kỷ. Các hành vi của những người có những vấn đề này rất kịch tính, cảm xúc, hoặc thất thường vì hầu như không thể có được mối quan hệ thực sự.

1.Rối loạn nhân cách chống đối xã hội 

Rối loạn nhân cách chống đối xã hội (Antisocial personality disorder-ASPD) là một trạng thái không bình thường của nhân cách biểu hiện chủ yếu bằng sự khó hoặc không thích ứng thường xuyên với các quy tắc đạo đức xã hội và pháp luật. Đây là một dạng trong nhóm bệnh rối loạn nhân cách. Không quá ngạc nhiên khi các nghiên cứu chỉ ra rằng rối loạn nhân cách chống xã hội có tỷ lệ cao ở tù nhân (những người thường có hành vi bạo lực), tương tự như vậy người lạm dụng rượu và các chất gây nghiện cũng được ghi nhận là có nhiều khả năng mắc hơn so với cộng đồng.

Mô tả lâm sàng (Clinical Description)

Cá nhân có rối loạn nhân cách chống lại xã hội thường có xu hướng dài lịch sử vi phạm quyền của người khác (Hare và cộng sự, 2012). Họ thường được miêu tả như là hung dữ, không quan tâm đến mối quan tâm của người khác. Nói dối và gian lận dường như là bản chất thứ hai đối với họ. Họ không tỏ ra hối tiếc hay lo lắng về những hậu quả do họ gây ra.

Họ thường lạm dụng chất gây nghiện, xảy ra ở 60% số người có rối loạn nhân cách chống lại xã hội và dường như suốt đời họ ở trong tình trạng nghiện ngập này (Taylor và Lang, 2006).

Page 35: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Họ thực hiện hành động hầu hết chúng ta sẽ thấy không thể chấp nhận, chẳng hạn như ăn cắp từ bạn bè và gia đình. Họ cũng có xu hướng vô trách nhiệm, bốc đồng, lừa dối (De Brito & Hodgins, 2009).

Họ hoàn toàn thiếu lương tâm và sự đồng cảm, họ ích kỷ lấy những gì họ muốn và làm theo ý họ, vi phạm tiêu chuẩn xã hội và không có dấu hiệu tỏ ra hối lỗi (Hare, 1993).

Tiêu chuẩn chẩn đoán

A. Coi thường và xâm phạm quyền lợi của người khác, thường xuất hiện sớm từ khoảng 15 tuổi và có ít nhất 3 trong các biểu hiện dưới đây:

1. Không có khả năng hòa nhập vào các chuẩn mực xã hội quy định các hành vi hợp pháp, thể hiện qua việc thường xuyên bị tạm giữ.

2. Khuynh hướng lừa dối để lợi dụng hay chỉ để bỡn cợt (nói dối liên tục, xài tên giả, lừa đảo…).

3. Xung động nhất thời, không có khả năng lường trước hậu quả.4. Gây hấn thường xuyên.5. Coi thường sự an toàn chính bản thân và người khác.6. Vô trách nhiệm toàn diện, không có khả năng duy trì bền bỉ một công việc

hoặc không có uy tín về tiền bạc.7. Không hối hận, hoàn toàn lãnh đạm sau khi đã gây thương tổn đến người

khác.

B.Tuổi chẩn đoán ít nhất 18 tuổi

C.Thường trước 15 tuổi đã có các rối loạn cư xử

D.Không xuất hiện trong giai đoạn tiến triển của tâm thần phân liệt hoặc giai đoạn hưng cảm.

2.Rối loạn nhân cách ranh giới  (Borderline Personality Disorder).

Rối loạn nhân cách ranh giới (Borderline personality disorder. Viết tắt: BPD) hay còn biết đến với các tên gọi: rối loạn nhân cách tâm trạng không ổn định, thể loại không biết phân biệt ranh giới hoặc hay bốc đồng, là một dạng rối loạn nhân cách. Đặc điểm chung của người có BPD bao gồm: nhiều hành vi không có kiểm soát và thể hiện sự bất thường từ cách họ đối xử với bản thân cho tới

Page 36: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

những mối quan hệ xã hội. Những dấu hiệu nói trên xuất hiện bắt đầu từ khi họ còn nhỏ và trong nhiều bối cảnh khác nhau.

Các triệu chứng khác có thể kể tới, đơn giản từ tỏ ra khó chịu với người khác cho đến giận dữ tột độ, sợ hãi bị bỏ rơi đến tột cùng với những lý do hoàn toàn vô lý. Người có BPD đối xử với người khác một cách bất thường: vừa nãy còn khen ngợi, bây giờ đã ghét bỏ. Ngoài ra, người có BPD thường sử dụng ma túy, tự làm hại bản thân (hình thức cao nhất là tự tử.)

Mô tả lâm sàng (Clinical Description)

Rối loạn nhân cách biên giới là một trong những tính cách phổ biến nhất trong các rối loạn quan sát thấy được ở các cơ sở lâm sàng; nó được quan sát trong mỗi nền văn hoá và được nhìn thấy trong khoảng 1% đến 2% dân số nói chung (Torgersen, 2012). Họ có xu hướng gây những mối quan hệ hỗn loạn, họ sợ bị bỏ rơi nhưng thiếu kiểm soát cảm xúc của họ (Hooley, Cole, & Gironde, 2012). Họ thường tham gia vào các hành vi như tự tử, tự làm tổn thương; họ tự cắt, đốt, hoặc đấm mình. Đôi khi họ sử dụng thuốc lá để đốt cháy lòng bàn tay hoặc cẳng tay.

Những người có rối loạn nhân cách này thường căng thẳng, đi từ tức giận đến trầm cảm sâu trong một thời gian ngắn.

Những người này đôi khi được miêu tả là mạn tính chán nản và thường có cảm giác trống rỗng và vô cảm; và có những khó khăn với bản sắc riêng của mình (Linehan & Dexter-Mazza, 2008).

Nguyên nhân (Causes)

Kết quả từ nhiều nghiên cứu cho thấy những người BPD phổ biến hơn ở các gia đình có rối loạn và có liên quan đến rối loạn tâm trạng (Distel, Trull, & Boomsma, 2009).

Đa số những người nhận được chẩn đoán BPD đã từng bị lạm dụng nặng hoặc họ bỏ bê cha mẹ, lạm dụng tình dục, lạm dụng thể chất của người khác (Ball & Liên kết, 2009).

Rối loạn nhân cách biên giới đã được quan sát thấy trong số những người đã trải qua những thay đổi văn hoá nhanh chóng: Những lo lắng, sợ hãi bị bỏ rơi,

Page 37: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

và những thay đổi trong môi trường văn hóa mới đã được tìm thấy ở trẻ em và người di cư trưởng thành(Laxenaire, Ganne-Vevonec, & Streiff, 1982, Skhiri, Annabi, Bi & Allani, 1982).

Những quan sát này hỗ trợ thêm khả năng rằng những chấn thương trước đó (như bị lạm dụng tình dục, lạm dụng thể chất) có thể, ở một số cá nhân, dẫn tới đường biên giới rối loạn nhân cách.

Tiêu chuẩn Chẩn đoán cho Đường biên Rối loạn nhân cách(Diagnostic Criteria for Borderline Personality Disorder)

Những người mắc chứng BPD thường biểu hiện qua những điều sau đây:

Những nỗ lực điên cuồng để tránh bị bỏ rơi trên thực tế hoặc do tưởng tượng.

Gặp khó khăn gìn giữ những mối quan hệ xã hội hiện tại vì sự thay đổi bất thường trong nhận thức về người kia: nãy còn thần tượng họ, lúc sau lại cho rằng họ vô tâm hoặc độc ác.

Nhận thức về bản thân bất ổn định: liên tục thay đổi mục tiêu và giá trị bản thân, đôi khi cho rằng không có ai cần mình và đáng lẽ bản thân không nên được sinh ra trên đời này.

Hành vi tự tử thường xuyên hoặc có những cử chỉ hành vi tự hủy hoại. Có những thời điểm tâm trạng bất thường và thay đổi liên tục kéo dài từ vài

giờ cho tới vài ngày như: hạnh phúc, khó chịu, xấu hổ, lo lắng, trầm cảm.. đều ở trạng thái tột đỉnh.

Cảm giác trống rỗng. Giận dữ một cách thái quá hoặc thường xuyên giận dữ với lý do không đáng

có, thể hiện qua hành vi bạo hành (tâm lý, thể xác,...) với người kia.

Một mô hình tổng hợp (An Integrative Model) Lý thuyết "3 dễ bị tổn thương" (Barlow, 2002; Suárez, Bennett, Goldstein, & Barlow, 2008):

- Lỗ hổng thứ nhất là tổn thương sinh học tổng quát. Chúng ta có thể thấy tính dễ tổn thương về di truyền đối với phản ứng cảm xúc trong những người có

Page 38: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

rối loạn nhân cách biên giới và ảnh hưởng như thế nào chức năng não đặc hiệu.

- Lỗ hổng thứ hai là tâm thần dễ bị tổn thương. Những người có tính cách này rối loạn, họ thường xem thế giới là mối đe dọa và họ phản ứng mạnh mẽ với các mối đe dọa có thể xảy ra trên thực tế và thậm chí chỉ trong tưởng tượng.

- Lỗ hổng thứ ba là một tổn thương tâm lý cụ thể, được học hỏi từ sớm kinh nghiệm từ môi trường; đây là nơi chấn thương ban đầu (như bị lạm dụng tình dục, thể chất), có thể nâng cao độ nhạy cảm này đối với các mối đe dọa. Điều này có thể dẫn đến những vụ bộc phát và các hành vi tự tử thường xảy ra quan sát thấy trong nhóm này. Mô hình sơ bộ này đang chờ xác nhận và nghiên cứu sâu hơn.

Điều trị (Treatment)

Tuy BPD đã được đưa vào DSM (Tài liệu thống kê và hướng dẫn chẩn đoán bệnh thần kinh của APA, lần tái bản thứ tư) nhưng vì tính không ổn đinh và nhiều tranh cãi, khó chữa trị của chứng rối loạn nhân cách nói chung và BPD nói riêng nên bác sĩ thường không đưa ra chẩn đoán và xét nghiệm cho những trường hợp có triệu chứng của BPD dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, một số bác sĩ khác cho rằng BPD nếu không được điều trị sớm có thể càng khó chữa hơn khi bệnh nhân BPD lớn tuổi.

Một trong những nghiên cứu kỹ lưỡng các phương pháp điều trị được phát triển bởi Marsha Linehan (Linehan et al, 2006; Linehan và cộng sự, 1999; Linehan & Dexter-Mazza, 2008). Cách tiếp cận này được gọi là phác đồ hành vi biện chứng (dialectical therapy therapy - DBT) bao gồm việc giúp đỡ mọi người đối phó với những người căng thẳng mà dường như kích hoạt hành vi tự sát. Ưu tiên trong điều trị đầu tiên là can thiệp vào liệu pháp hành vi tự tử, và cuối cùng, can thiệp vào chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Kết quả từ một số nghiên cứu cho thấy rằng DBT có thể giúp giảm nỗ lực tự tử (Linehan & Dexter-Mazza, 2008, Stanley & Brodsky, 2009). Theo dõi 39 phụ nữ nhận được hành vi biện chứng điều trị hoặc hỗ trợ điều trị chung trong 1 năm cho thấy rằng, trong 6 tháng đầu theo dõi, phụ nữ trong nhóm DBT ít tự sát, ít giận dữ, và điều chỉnh tốt hơn trong tương quan xã hội (Linehan & Kehrer, 1993). Những

Page 39: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

người tham gia cũng được cải thiện trong một số lĩnh vực, chẳng hạn như với sự suy giảm trầm cảm, tuyệt vọng, biểu hiện tức giận, và phân ly.

3.Rối loạn nhân cách “kịch tính” (Histrionic personality disorder)

Những người có rối loạn nhân cách “đóng kịch” có xu hướng quá kịch tính và có vẻ như gần như là diễn kịch, đó là lý do tại sao sử dụng thuật ngữ histrionic được dùng với nghĩa là đóng kịch trong cách xử sự.

Mô tả lâm sàng

Những người có rối loạn nhân cách “đóng kịch” thường có khuynh hướng thể hiện cảm xúc của mình theo cách phóng đại, ví dụ như ôm người mà họ vừa gặp hoặc khóc không kiểm soát được trong một bộ phim buồn (Blashfield, Reynolds & Stennett, 2012). Họ cũng có khuynh hướng tự phụ, cho mình là trung tâm và không thoải mái khi họ không ở trong ánh đèn sân khấu. Họ thường quyến rũ trong xuất hiện và hành vi, và họ thường quan tâm đến vẻ ngoài của họ. Ngoài ra, họ tìm kiếm sự yên tâm, sự tán thành liên tục và có thể trở nên khó chịu hoặc tức giận khi những người khác không tham dự hoặc ca ngợi họ. Những người có rối loạn nhân cách “đóng kịch” cũng có xu hướng bốc đồng và gặp khó khăn lớn trong việc trì hoãn sự hài lòng.

Nhận thức của người có rối loạn nhân cách “đóng kịch” là ấn tượng (Beck, Freeman, & Davis, 2007), đặc trưng bởi khuynh hướng xem các tình huống một cách chung chung. Bài phát biểu thường mơ hồ, thiếu chi tiết, và đặc trưng bởi sự phóng đại (Nestadt và cộng sự, 2009).

Tỷ lệ chẩn đoán cao ở phụ nữ so với nam giới làm tăng các câu hỏi về tính chất của rối loạn và các tiêu chuẩn chẩn đoán của họ. Như chúng ta đã thảo luận ở phần đầu của chương này, có một số ý kiến cho rằng những đặc điểm của rối loạn nhân cách “đóng kịch”, như quá kịch hóa, phù phiếm, quyến rũ và quan tâm đến ngoại hình, là đặc trưng của "phụ nữ khuôn mẫu phương Tây" và có thể dẫn đến chẩn đoán ở phụ nữ. Sprock (2000) đã kiểm tra câu hỏi quan trọng này và tìm thấy một số bằng chứng cho sự thiên vị giữa các nhà tâm lý học và bác sĩ tâm thần học để kết hợp chẩn đoán với phụ nữ hơn là nam giới.

Theo DSM5 Tiêu chuẩn chẩn đoán Rối loạn nhân cách “đóng kịch”:

Page 40: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Một mô hình lan rộng của cảm xúc và sự chú ý quá mức, bắt đầu từ giai đoạn trưởng thành sớm và hiện diện trong nhiều ngữ cảnh, như được chỉ ra bởi năm (hoặc nhiều hơn) những điều sau đây:

1. Không thoải mái trong những tình huống mà người đó không phải là trung tâm của sự chú ý.

2. Tương tác với người khác thường được đặc trưng bởi hành vi tình dục quyến rũ hoặc khiêu khích không thích hợp.

3. Biểu hiện bởi sự thay đổi nhanh và biểu cảm nông cạn trong cảm xúc.

4. Thường xuyên sử dụng ngoại hình vật chất để thu hút sự chú ý đến bản thân.

5. Có một phong cách diễn đạt quá ấn tượng nhưng lại thiếu cụ thể.

6. Thể hiện sự biểu hiện tự cảm hóa, kịch hóa và phóng đại của cảm xúc.

7. Dễ bị ám thị (tức là dễ bị ảnh hưởng bởi người khác hoặc hoàn cảnh).

8. Quan tâm đến mối quan hệ thân mật hơn thực tế.

Từ Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. (2013). Cẩm nang chẩn đoán và thống kê rối loạn tâm thần (lần thứ 5). Washington DC. 

Nguyên nhân

Giải thích sự rối loạn nhân cách “kịch tính” như thế nào?

Hầu hết các nhà lý thuyết về tâm lý học cho rằng khi còn nhỏ, những người bị rối loạn này có những mối quan hệ không lành mạnh trong đó cha mẹ kiểm soát và lạnh lùng đã khiến họ cảm thấy không được yêu thương và sợ bị bỏ rơi (Horowitz & Lerner, 2010; Bender và cộng sự, 2001). Để phòng ngừa những lo sợ mất mát, những người học cách cư xử một cách nghiêm túc, tạo những khủng hoảng đòi hỏi người khác chú ý bảo vệ.

Giải thích về nhận thức thay vào đó là sự thiếu hụt chất ở những người có rối loạn nhân cách “đóng kịch”. Những lý thuyết này cho thấy những cá nhân như ngày càng ít người quan tâm đến thế giới bởi vì họ rất tự tập trung và cảm xúc. Không có những kỷ niệm chi tiết về điều họ chưa bao giờ học được, họ phải dựa vào linh cảm hay người khác để hướng dẫn họ trong cuộc sống (Blagov và cộng sự, 2007). Một số nhà lý luận nhận thức cũng đề xuất rằng những người có rối loạn này có giả

Page 41: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

thiết chung rằng họ không tự chăm sóc bản thân họ, và họ thường xuyên tìm kiếm những người khác sẽ đáp ứng được nhu cầu của họ (Weishaar & Beck, 2006; Beck và cộng sự, 2004).

Cuối cùng, các nhà lý thuyết văn hoá xã hội, đặc biệt là đa văn hóa, tin rằng rối loạn nhân cách “đóng kịch” ở mỗi người xảy ra một phần bởi các tiêu chuẩn và mong đợi về văn hoá. Cho đến gần đây, xã hội của chúng ta khuyến khích các cô gái giữ thời thơ ấu và sự phụ thuộc khi lớn lên. Hành vi vô ích, kịch tính và ích kỷ của nhân cách “đóng kịch” có thể thực sự là một sự cường điệu của nữ tính như nền văn hoá của chúng ta đã từng định nghĩa nó (Fowler và cộng sự, 2007). Tương tự như vậy, một số nhà quan sát lâm sàng cho rằng rối loạn nhân cách “đóng kịch” được chẩn đoán ít hơn ở các nền văn hoá châu Á và các nền văn hoá khắc khe về tình dục so với các nền văn hoá Mỹ và Mỹ Latinh vốn có tính khoan dung hơn đối với tình dục (Patrick, 2007, Trull & Widiger, 2003 ). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đã không nghiên cứu một cách có hệ thống quan điểm này.

Một giả thuyết được đặt ra có thể có một mối quan hệ liên quan với rối loạn nhân cách chống lại xã hội. Bằng chứng cho thấy rằng nhân cách “đóng kịch” và nhân cách chống lại xã hội xảy ra thường xuyên hơn nếu có cơ hội. Lilienfeld và các đồng nghiệp (1986) đã phát hiện ra rằng khoảng hai phần ba số người có nhân cách “đóng kịch” cũng đáp ứng các tiêu chí về rối loạn nhân cách chống lại xã hội. Bằng chứng cho mối liên hệ này đã dẫn đến gợi ý (xem, ví dụ, Cloninger, 1978; Lilienfeld, 1992) rằng nhân cách “đóng kịch” và nhân cách chống lại xã hội có thể là các biểu hiện thay thế về tình dục cùng một tình trạng cơ bản chưa được xác định. Phụ nữ có tình trạng cơ bản có thể có xu hướng miêu tả mô hình hiếu chiến trước mắt, trong khi nam giới có tình trạng tiềm ẩn có thể có xu hướng phô bày một mô hình chống xã hội. Cho dù mối liên hệ này tồn tại vẫn là một vấn đề gây tranh cãi, tuy nhiên, và nghiên cứu thêm về mối quan hệ tiềm năng này là cần thiết (Dolan & Völlm, 2009, Salekin, Rogers, & Sewell, 1997)

Điều trị

Mặc dù đã những cách giúp đỡ những người có rối loạn nhân cách “đóng kịch”, nhưng ít nghiên cứu cho thấy sự thành công (Cloninger & Svakic, 2009). Làm việc với họ có thể là rất khó khăn, vì những yêu cầu, cơn giận dự và quyến rũ mà họ có thể thể hiện khi làm việc. Phần lớn các liệu pháp cho những người này thường tập trung vào các mối quan hệ giữa các cá nhân có vấn đề. Họ thường lôi kéo những

Page 42: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

người khác thông qua những cuộc khủng hoảng tình cảm, sử dụng sự mê hoặc, tình dục, vẻ quyến rũ, hoặc phàn nàn (Beck và cộng sự, 2007). Một vấn đề nữa là những cá nhân này có thể giả vờ có những hiểu biết quan trọng hoặc trải nghiệm sự thay đổi trong quá trình điều trị chỉ để làm vừa lòng nhà trị liệu. Để khắc phục những vấn đề như vậy, các nhà trị liệu vẫn phải duy trì khách quan và duy trì ranh giới chuyên môn nghiêm ngặt (Blagov và cộng sự, 2007; Sperry, 2003).

Những người có rối loạn nhân cách “đóng kịch” thường cần được chỉ ra những lợi ích ngắn hạn có được từ cách tiếp cận tương tác này dẫn đến những tổn thất lâu dài và họ cần phải được dạy những cách thích hợp hơn để thương lượng về nhu cầu và mong muốn của họ. Các nhà trị liệu về nhận thức đã cố gắng giúp những người rối loạn này thay đổi niềm tin của họ rằng họ vô vọng và cũng có thể phát triển những cách suy nghĩ và giải quyết vấn đề tốt hơn, có chủ ý hơn (Beck và Weishaar, 2011, Weishaar & Beck, 2006, Beck và cộng sự, 2004). Liệu pháp tâm lý học và các phương pháp điều trị nhóm khác nhau cũng được áp dụng (Horowitz & Lerner, 2010). Trong tất cả các phương pháp này, các nhà trị liệu cuối cùng nhằm mục đích giúp khách hàng nhận ra sự phụ thuộc quá mức của họ, tìm thấy sự hài lòng bên trong và trở nên tự chủ hơn. Các báo cáo trường hợp lâm sàng gợi ý rằng mỗi phương pháp có thể hữu ích.

Liệu pháp điều trị bằng thuốc có vẻ không thành công ngoại trừ việc làm giảm các triệu chứng trầm cảm mà một số bệnh nhân gặp phải (Bock và cộng sự, 2010, Grossman, 2004, Koenigsberg và cộng sự, 2002)

4.Rối loạn nhân cách ái kỷ (Narcissistic Personality Disorder)Chúng ta đều biết những người nghĩ về bản thân họ - có lẽ phóng đại những khả năng thực sự của họ. Họ tự coi mình là khác biệt so với những người khác và đáng được đối xử đặc biệt.

Trong rối loạn nhân cách ái kỷ, xu hướng này được đưa đến cực đoan của nó. Trong thần thoại Hy Lạp, Narcissus là một thanh niên đã từ chối tình yêu của Echo, vì anh đã bị mê đắm bởi vẻ đẹp của mình. Mỗi ngày anh đều tự ngắm mình qua hồ nước và ngưỡng mộ hình ảnh của mình phản chiếu trong nước. Trong phân tâm học, kể cả Freud, sử dụng thuật ngữ Narcissistic để mô tả những người thể hiện một tinh thần tự phóng đại tầm quan trọng và luôn bận tâm với sự chú ý (Ronningstam, 2012).

Mô tả lâm sàng

Page 43: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Những người có rối loạn nhân cách ái kỷ có một ý thức không có lý trí về tầm quan trọng của bản thân và quá bận tâm với bản thân họ dẫn đến việc họ thiếu sự nhạy cảm và từ bi đối với những người khác (Ronningstam, 2012). Họ không cảm thấy thoải mái trừ khi ai đó ngưỡng mộ họ. Cảm xúc phóng đại và tưởng tượng của họ về sự vĩ đại, được gọi là vẻ hùng vĩ, tạo ra một số thuộc tính tiêu cực. Họ đòi hỏi và mong đợi rất nhiều sự chú ý đặc biệt - bàn tốt nhất trong nhà hàng, khu vực đậu xe trái phép ở phía trước rạp chiếu phim. Họ cũng có xu hướng sử dụng hoặc khai thác người khác vì lợi ích của họ và cho thấy sự đồng cảm ít. Khi đối mặt với những người thành công khác, họ có thể rất ghen tị và kiêu ngạo. Và bởi vì họ thường không đạt được những kỳ vọng của họ, do đó họ thường bị trầm cảm.

Theo DSM5  Tiêu chuẩn chẩn đoán đối với rối loạn nhân cách ái kỷ

Một kiểu mẫu hoành tráng (trong viễn tưởng hoặc hành vi), cần phải thán phục, và thiếu sự đồng cảm, bắt đầu từ giai đoạn trưởng thành sớm và hiện diện trong nhiều ngữ cảnh, như được chỉ ra bởi năm (hoặc nhiều hơn) những điều sau đây:

1. Có một ý thức vĩ đại về tầm quan trọng của bản thân (ví dụ, phóng đại thành tựu và tài năng, dự kiến sẽ được công nhận là cấp trên mà không có những thành tựu tương xứng).

2. Bận tâm với tưởng tượng của sự thành công không giới hạn, sức mạnh, sự sáng chói, vẻ đẹp, hoặc tình yêu lý tưởng.

3. Tin rằng họ là "đặc biệt" và độc nhất và chỉ có thể hiểu được, hoặc nên liên kết với, những người đặc biệt hoặc những người có vị trí cao khác (hoặc các tổ chức).

4. Yêu cầu sự ngưỡng mộ quá mức.

5. Có ý thức về quyền lợi (nghĩa là những mong đợi không hợp lý về việc điều trị đặc biệt thuận lợi hoặc tự động tuân thủ những mong muốn của họ).

6. Lợi dụng giữa các cá nhân (ví dụ, lợi dụng người khác để đạt được kết quả của mình).

7. Không thấu cảm: không muốn nhận ra hoặc xác định với cảm xúc và nhu cầu của người khác.

8. Thường ghen tị với người khác hoặc tin rằng người khác ghen tị với người đó.

Page 44: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

9. Cho thấy sự kiêu ngạo, hành vi hoặc thái độ kiêu căng.

Từ Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ. (2013). Cẩm nang chẩn đoán và thống kê rối loạn tâm thần (lần thứ 5). Washington DC.

Nguyên nhân và cách điều trị

Chúng tôi bắt đầu khi trẻ được tự chăm sóc và đòi hỏi, đây là một phần của cuộc đấu tranh để sinh tồn. Tuy nhiên, một phần của quá trình xã hội hoá bao gồm việc dạy trẻ em cảm thông và vị tha. Một số nhà văn, bao gồm cả Kohut (1971, 1977), tin rằng rối loạn nhân cách ái kỷ phát sinh chủ yếu từ một thất bại sâu sắc của cha mẹ với mô hình sự đồng cảm sớm trong sự phát triển của một đứa trẻ. Kết quả là, đứa trẻ vẫn còn mắc kẹt ở một giai đoạn phát triển. Ngoài ra, đứa trẻ (và sau đó là người trưởng thành) tham gia vào một cuộc tìm kiếm vô tận và không có kết quả cho người lý tưởng, những người sẽ đáp ứng những nhu cầu cảm thông chưa được hoàn thiện của mình.

Theo quan điểm xã hội học, Christopher Lasch (1978) đã viết trong cuốn sách nổi tiếng "Văn hoá Ái kỷ" rằng rối loạn nhân cách này đang gia tăng ở hầu hết các xã hội phương Tây, chủ yếu là hậu quả của những thay đổi xã hội quy mô lớn, bao gồm sự nhấn mạnh hơn về chủ nghĩa khoái lạc ngắn hạn, chủ nghĩa cá nhân , khả năng cạnh tranh và thành công. Theo Lasch, "thế hệ của tôi" ("Baby Boomers" sinh ra giữa năm 1946 và 1954) sản sinh ra nhiều hơn số người có rối loạn nhân cách ái kỷ. Thật vậy, các báo cáo khẳng định rằng rối loạn nhân cách ái kỷ đang gia tăng ở mức phổ biến ( Huang và cộng sự, 2009). Tuy nhiên, sự gia tăng rõ ràng này có thể là kết quả của sự gia tăng về việc quan tâm và nghiên cứu về rối loạn này.

Nghiên cứu về các lựa chọn điều trị là rất hạn chế trong cả nghiên cứu và báo cáo về sự thành công (Cloninger & Svakic, 2009, Dhawan, Kunik, Oldham, & Coverdale, 2010). Khi điều trị với những người này, nó thường tập trung vào sự già đi, quá mẫn cảm với đánh giá, và sự thiếu thấu cảm đối với người khác (Beck và cộng sự, 2007). Liệu pháp nhận thức cố gắng thay thế tưởng tượng của họ bằng cách tập trung vào những trải nghiệm thú vị hằng ngày thực sự có thể đạt được. Các chiến lược đối phó như đào tạo thư giãn được sử dụng để giúp họ đối mặt và chấp nhận những lời chỉ trích. Giúp họ tập trung vào cảm xúc của người khác cũng là một mục tiêu. Vì những người có rối loạn này dễ bị trầm cảm trầm trọng, đặc biệt là ở độ tuổi trung niên, điều trị thường bắt đầu cho trầm cảm. Tuy

Page 45: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

nhiên, không thể rút ra bất kỳ kết luận nào về tác động của việc điều trị đối với rối loạn nhân cách ái kỷ.

Page 46: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Phần III:

RỐI LOẠN NHÂN CÁCH NHÓM CLà những người rất là thường họ có rất nhiều cái lo âu và lo lắng. Rối loạn nhân cách nhóm C được chia làm 3 loại: RLNC tránh né, RLNC phụ thuộc, RLNC ám ảnh cưỡng chế.

1. RLNC ám ảnh cưỡng chếTrước tiên cần phân biệt RLNC ám ảnh cưỡng chế với OCD – RL ám ảnh cưỡng chế. Những người mắc triệu chứng OCD họ cũng có những hành vi cứng nhắc mang tính hoàn hảo như: đếm gạch, chứng ám ảnh vi khuẩn, hành vi cứng nhắc rập khuôn của bước chân,… Tuy nhiên họ ý thức được sự khó chịu của bản thân khi phải thực hiện hành vi đó. Ngược lại, những người mắc chứng RLNC ám ảnh cưỡng chế họ không ý thức được sự bất thường cứng nhắc trong hành vi của mình.

Triệu chứng:

Các triệu chứng điển hình của RLNC ám ảnh cưỡng chế như mối bận tâm về chủ nghĩa hoàn hảo, ám ảnh ranh giới trật tự, ngày càng phát triển theo hướng tiêu cực hơn và các triệu chứng này lan rộng từ tuổi thiếu niên cho đến hiện tại, càng lớn tuổi thì càng ở mức độ cứng nhắc hơn. Biểu hiện ít nhất 4 trong những triệu chứng dưới đây:

Page 47: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

- Bận tâm chi tiết với danh sách, quy tắc, thứ tự, tổ chức hoặc lịch trình trong phạm vi đề ra, trong khi không để tâm đến điểm điểm chính quan trọng.

- Đề ra chủ nghĩa hoàn hảo đến mức làm ảnh hưởng đến việc thực hiện. (Không thể hoàn thành một việc gì đó vì bản thân đề ra các tiêu chuẩn quá hoàn hảo)

- Tập trung quá nhiều năng lượng cho công việc mà không màng đến các hoạt động khác trong cuộc sống. (Dù không vì mục đích tài chính.)

- Nhận thức cứng nhắc, thận trọng, suy nghĩ cứng nhắc về các vấn đề về luân lý, đạo đức hoặc cá giá trị.

- Không thể vứt bỏ những thứ đồ đã bị hư dù nó không mang giá trị về tình cảm.

- Không giao công việc cho người khác nếu họ không làm theo đúng ý mình muốn.

- Có lối chi tiêu hà khắc đối với bản thân và người khác, họ có khuynh hướng muốn tích trữ tiền cho những tai nạn trong tương lai.

- Cứng nhắc và ngoan cố.

Mô tả lâm sang:

Với bệnh nhân RLNCAACC , vì họ không dành thời gian cho những điều không giúp ích cho công việc của họ nên họ bỏ ngoài cuộc sống của mình những thú vui giải trí dẫn đến cuộc sống xã hội của họ khá tẻ nhạt.(Tất nhiên ở quan điểm của họ thì không). Do tính cách cứng nhắc này, họ có xu hướng có mối quan hệ cá nhân kém.(Samuel & Costa, 2012)

Một học thuyết thú vị khác được Ferreira (2000) ghi nhận lại hồ sơ tâm lý của nhiều kẻ giết người hang loạt chỉ ra rằng điểm mấu chốt là do vai trò của RLNCAACC ảnh hưởng chứ họ không phải điển hình của bệnh tâm thần nặng như tâm thần phân liệt, mà họ là bậc thầy của việc điều khiển người bị hại. Những người này có nhu cầu kiểm soát mọi khía cạnh của tội phạm, điều này phù hợp với mô hình kiểm soát của những người RLNCAACC, kết hợp với một số kinh nghiệm xấu từ thời thơ ấu có thể dẫn đến các hành vi rối loạn để trở thành tội phạm. RLNCAACC cũng đóng vai trò trong số những tội phạm liên quan đến tình dục, đặc biệt là ấu dâm.

Page 48: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Mặt khác, chứng RLNCAACC cũng thường xuất hiện ở những đứa trẻ thiên tài, vì việc đòi hỏi sự hoàn hảo của chúng là rất cao.

Nguyên nhân và điều trị: “It’s a process, change take time. It doesn’t happen overnight.”

RLNCAACC có vẻ bị ảnh hưởng ít của di truyền. (Cloniger & Svakic, 2009). Một số người sẽ thiên về một kiểu tính cách trong cuộc sống nhưng để đạt đến rối loạn thì có thể gia đình đã củng cố thêm trong việc gọn gàng và tuân thủ mang tính cứng nhắc.

Việc trị liệu chứng RLNCAACC này tất nhiên sẽ cần thời gian để bệnh nhân thay đổi cách suy nghĩ , từ đó thay đổi hành vi. Nhà trị liệu sẽ nhắm thẳng vào nỗi sợ hãi của họ. Những cá nhân này luôn nghĩ rằng những gì mình làm là chưa đủ, vì vậy họ luôn trì hoãn và nghĩ quá nhiều về những điều quan trọng, những chi tiết nhỏ. Các nhà tâm lý sẽ dùng hình thức trị liệu hành vi nhận thức, sử dụng các kỹ thuật phân tâm để chuyển hướng những suy nghĩ cứng nhắc đó, giúp họ có thể uyển chuyển tính cách của mình thích hợp với từng hoàn cảnh cuộc sống. Như vậy mới có thể cải thiện chất lượng sống của họ, giúp họ tương tác tốt hơn trong các mối quan hệ cũng như cảm thấy bớt áp lực hơn trong công việc.

Page 49: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Có nhiều người vì công việc làm của họ như bác sỹ, y tá thì họ quen sạch sẽ hoặc họ sơ vi trùng lây nhiễm cho người khác nhưng nếu cái hành vi này chỉ diễn ra ở trong đúng môi trường công việc của họ là trạm xá hay bệnh viện thì là điều này là bình thường là không phải là bệnh. Nhưng nếu trong bất cứ hoàn cảnh nào họ cũng làm như vậy thì có thể là họ RLNC.

Cái này là ví dụ cho trường hợp là hoàn cảnh hình thành nên cá tính nào đó mà mình không thấy được trong thời thơ ấu.

Khi nói đến RLNC vừa nói ở trên thì nó nằm trong RLNC ám ảnh cưỡng chế.

Page 50: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

2.RLNC né tránh (nhóm C) :Ví dụ: 1 đứa nhỏ ngăn nắp, sống trong gia đình ngăn nắp thì làm sao biết được là bệnh hay tại vì từ lúc nhỏ ba má đã dạy như vậy?

RLNC khi quan hệ trong xã hội, quan hệ trong sở làm vì cái tính quá ngăn nắp đến nỗi làm cho sự cô lập trong quan hệ thì khi họ tới tìm nhà tham vấn thì họ sẽ tìm lại những lịch sử thời thơ ấu thì họ sẽ hiểu nhiều khi có những yêu cầu cao của cha mẹ về ngăn nắp , đứa trẻ sẽ học được những cái đó trở thành mức độ thái quá hơn nữa .Và khi trẻ lớn lên, trở thành người lớn đi nữa thì sẽ càng trở nên ngăn nắp và không nghĩ tới cảm xúc của người khác, trong quan hệ cảm thấy bị cô lập thì lúc đó mới thấy RLNC . Tại vì nó tạo ra rất nhiều vấn đề trong cuộc sống, trong xã hội, thành công trong công sở. Thì chuyên gia sẽ xác nhận..ồ những người này có rối loạn trong tính cách.

Nếu họ không thấy cảm giác mình có vấn đề trong xã hội, trong việc làm mà cũng thành công và cũng không ai lằn nhằn về tính cách của họ thì họ sẽ không có vấn đề gì tính cách này.

Mô tả lâm sàng:

Theo Theodore Millon ( 1981), người đầu tiên đề xuất chẩn đoán này, lưu ý điều quan trọng là cần phân biệt những người tương giao với người khác bằng thái độ thờ ơ, không quan tâm và những người tương giao với người khác với thái độ thường lo lắng và sợ bị từ chối, sợ bị chê bai này nọ.

RLNC né tránh . Họ không muốn sống với người khác, hoặc họ muốn sống với người khác nhưng họ rất sợ hãi. Họ muốn có mối quan hệ với người khác nhưng lại sợ người này xem, biết được họ có những điểm xấu để không thích mình, nếu biết được cá tính của mình thì cho rằng ng này không tốt nên tôi không muốn chơi nữa. Họ rất sợ hãi những phên bình của những người khác. Ví dụ như được phê bình là hôm nay bạn mặc đồ không được đẹp lắm thì người bình thường sẽ nói ok , vậy hả. Người RLNC né tránh sẽ sợ.Họ sợ đến nỗi không muốn đối thoại , đến nỗi không muốn xuất hiện trước mặt người khác thì ng này sẽ phê bình mình. Vì mình không chịu được những phê bình của những người khác. Vì mình quá sợ hãi nên họ cô lập mình đi. Nhưng cái đó chỉ là 1 mặt bên đây. Mặt bên kia thì họ lại muốn trở lại , làm cách nào đó để mình có mối quan hệ với người khác hay không? Lúc nào cũng có 2 luồng suy nghĩ đấu tranh như vậy.

Page 51: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Những người có RLNC né tránh này sẽ gặp nhà tham vấn hỏi và hỏi tại sao lúc nà họ cũng quá bị cô lập đi, họ không biết làm sao để có thể quan hệ với người khác. Thì chuyên gia tâm lý sẽ hiểu rằng vì họ quá sợ hãi. Lúc nào họ cũng nghĩ là nếu mình mở miệng ra nói thôi là người khác không thích mình liền. Những người này vì lòng tự tin của họ quá thấp . Họ không tin là khả năng họ giỏi, họ đủ tốt, họ sẽ làm được việc này, việc kia. Họ không tin được khả năng giao tiếp trong đời sống của mình. Với suy nghĩ như vậy nên từ đó họ trở nên xa lánh người khác.

Sự tự tin thấp kém của họ cùng với sự sợ hãi từ chối làm cho họ bị giới hạn trong tình bạn của họ và phụ thuộc vào những người họ cảm thấy thoải mái (Sanislow, da Cruz, Gianoli, & Reagan, 2012). Thường những người này thì họ sẽ không có bạn bè nhiều, không có bạn bè thân vì rất khó với họ khi họ phải giao tiếp với những người xung quanh.

Page 52: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Nguyên nhân:

Một số bằng chứng cho thấy rối loạn nhân cách tránh né có liên quan đến rối loạn liên quan đến chứng rối loạn tâm thần phân liệt, xảy ra thường xuyên hơn ở những người có bệnh tâm thần phân liệt (Fogelson và cộng sự, 2007). Một số lý thuyết đã được đề xuất kết hợp các ảnh hưởng sinh học và tâm lý xã hội như nguyên nhân của rối loạn nhân cách tránh. Ví dụ, Millon (1981) gợi ý rằng những cá nhân này có thể được sinh ra với tính khí hoặc tính cách khó tính. Sự khó tính này của trẻ có thể làm cho cha mẹ của họ tránh quan tâm hoặc tránh trao tình yêu thương cho họ. Những trẻ khi từ nhỏ ít nhận được sự quan tâm và yêu thương thì sau này có thể dẫn đến lòng tự trọng thấp và sự xa lánh xã hội trong giai đoạn trưởng thành. Các ảnh hưởng tâm lý xã hội trong nguyên nhân gây rối loạn nhân cách tránh né là không nhiều so với nguyên nhân do cách nuôi dạy con từ nhỏ. Những kinh nghiệm từ thời ấu thơ của việc cô lập , từ chối quan tâm và yêu thương của cha mẹ và người nuôi dưỡng đã ảnh hưởng đến sự né tránh của họ sau này.

Theo DSM5, đưa ra một số tiêu chuẩn chẩn đoán sau:

1. Tránh né hoạt động trong nghề nghiệp mà có ý nghĩa quan trọng cần khi giao tiếp với người khác vì sợ bị từ chối, sợ những lời chỉ trích.

2. Không muốn tiếp xúc với người khác trừ khi chắc chắn là thích. 3. Thể hiện sự dè dặt ( sự giữ kẻ) trong các mối quan hệ thân mật vì sợ bị hỗ

thẹ và chế nhạo.

Page 53: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

4. Bận tâm với việc bị chỉ trích hoặc bác bỏ trong các tình huống xã hội.5. Trong các tình huống giao tiếp với người lạ thì thường bị ức chế bởi vì cảm

giác mình không đủ xứng, không đủ tầm. 6. Nhìn nhận bản thân không thân thiện với xã hội, bản thân không hấp dẫn,

hoặc thấp kém hơn người khác. 7. Không chấp nhận rủi ro hoặc không tham gia bất kỳ hoạt động mới nào bởi

vì sẽ làm cho họ lung túng.

Điều Trị: Các kỹ thuật can thiệp hành vi cho các vấn đề về lo lắng và kỹ năng xã hội đã có một số thành công (Borge và cộng sự, 2010, Emmelkamp và cộng sự, 2006). Bởi vì những vấn đề mà những người có rối loạn nhân cách tránh né được giống với những người có ám ảnh xã hội, nhiều phương pháp điều trị tương tự được sử dụng cho cả hai nhóm . Liên minh trị liệu - sự kết hợp hợp tác giữa nhà trị liệu và khách hàng, dường như là một yếu tố tiên đoán quan trọng cho thành công điều trị trong nhóm này (Strausset al, 2006).

3.RLNC phụ thuộc ( nhóm C): Mô tả lâm sàng:

- Họ có niềm tin cốt lõi là :Tôi cần người khác để tồn tại và hạnh phúc.

Những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc thường đồng ý với ý kiến của người khác mặc dù ý kiến của họ khác để không bị từ chối (Bornstein, 2012). Mong muốn của họ là duy trì , nuôi dưỡng mối quan hệ với những người khác được người khác chăm bẩm vì đặc tính của họ nhút nhát và thụ động. Những người có rối loạn này tương tự như những người có rối loạn nhân cách tránh né trong cảm giác không đủ năng lực, nhạy cảm với những lời chỉ trích, và cần được đảm bảo an toàn. Tuy nhiên, những người có rối loạn nhân cách tránh né phải đáp ứng những cảm xúc này bằng cách tránh các mối quan hệ, trong khi những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc đáp ứng bằng cách bám vào các mối quan hệ (Bornstein, 2012). Điều quan trọng cần lưu ý là trong các nền văn hoá nhất định (ví dụ như Nho giáo phương Đông) có thể được coi là một trạng thái giao tiếp mong muốn (Chen, Nettles, & Chen, 2009)

Page 54: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

RLNC phụ thuộc là tính quá phụ thuộc vào người khác. Xét về mặt văn hóa mấy chục năm về trước, người phụ nữ Á Đông rất phụ thuộc vào chồng, họ phải ở nhà. Họ không có cơ hội học cao, không có cơ hội ngoài xã hội giao tiếp nhiều. Không có khả năng để tự lập thì nhiều khi phải phụ thuộc vào người đàn ông trong gia đình. Đây cũng là 1 cách phụ thuộc nhưng đối với văn hóa thì đây là 1 cái bình thường.

Nhưng thời buổi hiện nay thì người phụ nữ có nhiều cơ hội hơn nhiều.

Ví dụ: cô này cổ quen rất nhiều người bạn trai, người nào cổ cũng ráng chiều chuộng hết mực, những việc cô không muốn nhưng cổ cũng ráng chiều để ảnh không bỏ nhưng cuối cùng ảnh cũng bỏ, những người này cũng ra đi.

Page 55: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Chia tay , cô rất là lo lắng vì từ nào đến giờ cũng đã chiều chuộng hết mực vậy mà, từ nào đến giờ cổ đã quen sự có mặt hiện diện của 1 người đàn ông bên cạnh rồi, vì vậy khi chia tay, cô rất dễ và rất nhanh quen người khác để cho người bạn trai này tiếp tục chăm lo chăm sóc cho cô.

Có những quý bà bị chồng đánh, bị xỉ nhục nhưng không bao giờ rời chồng, lúc nào cũng hầu chồng. Tôi thương con, con vì gia đình, thì lúc nào sẽ là RLNC?

Page 56: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Phải xem cái quyết định của họ có phụ thuộc hay không.

-Nếu như người đàn bà này ở lại trong bất cứ gia đình đó, trong hoàn cảnh đó vì thương con.

-Nếu như suy nghĩ của họ tôi không có dám rời bỏ vì tôi sẽ không có thể tự lo cho mình được.

Hai cái trên là 2 luồng suy nghĩ khác nhau. Còn nếu cô ấy TIN, nếu tôi đi tôi có tự lo cho mình được, có thể tự lập được nhưng vì con tôi ở lại thì sẽ khác.

Đó là sự khác biệt giữ tự quyết định, không lệ thuộc và vì lệ thuộc không thể quyết định được. Đó là 2 cách suy nghĩ khác nhau. Quyết định ở lại hy sinh cho con là quyết định lớn hơn so với quyết định à là vì mình ko thể quyết định được, không thể độc lập được nên mình dám rời được. Đó là suy nghĩ hoàn toàn trái nhau trái ngược. Có thể là những đặc điểm RLNC phụ thuộc nó rất là nhỏ, nên mình khó thấy được trong cuộc sống của mình.

Tất cả chúng ta đều biết có một ý gì đó hay một lý do nào đó để phụ thuộc vào người khác. Tuy nhiên, những người RLNC phụ thuộc thì họ không biết đều đó. Họ dựa vào những người khác để đưa ra những quyết định bình thường cũng như quan trọng nên dẫn đến một sự sợ hãi vô nghĩa về sự bỏ rơi của người mà họ đang phụ thuộc.

Page 57: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

DSM5 , đưa ra một số tiêu chuẩn chẩn đoán sau: 1. . Có khó khăn trong việc đưa ra quyết định hàng ngày mà không có sự tư vấn và cam kết quá mức từ người khác.2. Cần những người khác chịu trách nhiệm về hầu hết các sự kiện quan trọng của cuộc đời mình.3. Có khó khăn khi thể hiện sự bất đồng với người khác vì sợ mất sự hỗ trợ hoặc chấp thuận. (Lưu ý: Không bao gồm những nỗi sợ hãi thực tế về tội ác).4. Có rất nhiều dự án bắt đầu hoặc làm việc riêng của mình (vì thiếu sự tự tin trong sự phán đoán hoặc khả năng chứ không phải là thiếu động cơ hoặc năng lượng).5. Đi quá dài để có được sự chăm sóc và hỗ trợ từ người khác, đến mức tình nguyện làm những việc không vui.6. Cảm thấy khó chịu hoặc bất lực khi một mình vì những nỗi sợ hãi phóng đại về việc không thể chăm sóc bản thân mình.7. Khẩn cấp tìm kiếm mối quan hệ khác như một nguồn chăm sóc và hỗ trợ khi mối quan hệ gần gũi kết thúc.8. Vẫn chưa thực sự lo lắng về những lo sợ về việc để lại mình để chăm sóc bản thân mình.

Nguyên nhân và điều trịTất cả chúng ta đều sống phụ thuộc vào người khác vì lương thực, bảo vệ thể chất và nuôi dưỡng. Một phần của quá trình xã hội hóa ở hầu hết các nền văn hoá liên quan đến việc giúp chúng ta sống độc lập (Bornstein, 1992).Người ta cho rằng những sự gián đoạn như sự chết sớm của cha mẹ hoặc do người chăm sóc từ chối hoặc bỏ mặc có thể làm cho con người lớn lên sợ hãi bị bỏ rơi (Stone, 1993). Tuy nhiên, các ảnh hưởng di truyền sinh học cũng rất quan trọng trong sự phát triển của rối loạn (Gjerde và cộng sự, 2012). Những gì chưa được hiểu là các yếu tố sinh lý nằm trong ảnh hưởng di truyền này và cách chúng tương tác với ảnh hưởng của môi trường (Sanislow và cộng sự, 2012).Các tài liệu điều trị cho rối loạn này chủ yếu là mô tả; ít nghiên cứu tồn tại để chỉ ra liệu một cách điều trị đặc biệt hiệu quả (Borge và cộng sự, 2010, Paris, 2008). Trên bề mặt, vì sự chú ý và sự nhiệt tình của họ để đưa ra trách nhiệm về các vấn đề của họ cho các nhà trị liệu, những người có rối loạn nhân cách phụ thuộc có thể xuất hiện là bệnh nhân lý tưởng. Sự phục tùng đó tuy được phủ nhận là một trong những mục tiêu chính của liệu pháp, đó là làm cho người đó trở nên độc lập hơn và có trách nhiệm với chính mình (Leahy & McGinn, 2012). Liệu pháp tiến triển dần dần khi bệnh nhân tự tin vào khả năng tự quyết định của mình (Beck và cộng sự, 2007). Có một nhu cầu đặc biệt cho việc chăm sóc mà bệnh nhân không trở nên quá phụ thuộc

Page 58: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

vào nhà trị liệu.

Page 59: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Phần IV: Kết luậnNếu quyết định là người này đã có bệnh thì có cách nào chữa không?

Page 60: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

Cách suy nghĩ, cách đánh giá, xử lý những vấn đề trong xã hội .

RLNC thì mình không thể chữa khỏi 100% được nhưng mình có thể giúp giảm bớt, giúp họ hiểu được cách suy nghĩ của mình cần có sự uyển chuyển , đừng có quá cứng ngắt thì lúc đó có thể giúp họ thay đổi cách suy nghĩ , thay đổi cách xử lý , cách quan hệ với người khác để giảm bớt đi cái cách cứng ngắt trong cái cá tính của họ mà chỉ giảm bớt ở mức dần dần thôi .

Vì 1 tính cách qua bao nhiêu năm rồi thì người nào mà càng lớn tuổi thì cái tính cứng ngắt đó sẽ cứng hơn. Nhưng nếu mình cho họ thấy cái cá tính chứng ngắt của

Page 61: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH

họ làm mất đi cơ hội thành công trong việc, mối quan hệ giao tiếp với mọi người thì mình mong rằng họ sẽ có thể thay đổi được 1 tí trong cái cá tính cứng ngắt này.

Tài liệu tham khảo:

1. H.Barlow, D., & Durand, V. (2014). Abnormal Psychology: An integrative approach (7 ed.). Cengage Learning.

2. J.Comer, R. (2013). Abnormal Psychology (8 ed.). New York: Worth Publishers.

3. Cluster C personality disorders , https://www.youtube.com/watch?v=_n2YUhNg41M

4. Sức khỏe tâm thần – Rối Loạn Nhân Cách nhóm C- Personality Disorder Cluster C 56 p1-4.

https://www.youtube.com/watch?v=BSk08c_Mmlc

Page 62: tamlyvanbang2k04.files.wordpress.com…  · Web view · 2018-01-11ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TP. HCM. KHOA TÂM LÝ HỌC. BÀI CUỐI KỲ MÔN TÂM BỆNH