Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật...

111
1 Độ ma dĐộ người khó Sư Tôn Lư Thắng Ngn Chúng ta mọi người đều biết rằng bình thường muốn độ một người quy y Pht là mt vic rất khó khăn, có mt sngười đối vi tín ngưỡng tôn giáo có cũng được mà không cũng không sao, đối vi hmà nói mi tôn giáo đều như nhau, cũng đều là khuyên người làm vic thin.Thật ra đối vi Pht giáo mà nói không phi hoàn toàn như vậy; bi vì làm vic thiện là điểm chung ca tt ctôn giáo Ta Bà thế gii, đều khuyên mọi người làm vic thin, ch1 điểm cơ bản nht ca tôn giáo, cao hơn là bản thân mình tu thành thánh nhân, không nhng thành thánh nhân mà thành thiên nhân, không nhng thành thiên nhân mà phi thành Pht BTát, tc là thành tiên thành Pht. Vmt mặt nào đó, đối vi mt sngười tôn giáo có thcó và có thkhông, bi do bn thân hTa Bà thế gii bhoàn cnh nhim mà không mun ri khi Ta Bà thế gii để ly khmà hưởng lc, đây cũng đều là do hoàn cnh ảnh hưởng và bhoàn cnh bao vây. Có người hi, ti sao lúc làm lpháp hội siêu độ cho thân trung m, trong chc lác có thsiêu độ được rt nhiu linh hn vãng sanh tây phương cực lc? Chúng sanh Ta Bà thế giới khó độ, ti sao chcn làm pháp hội siêu độ cho thân trung m, thì có thđộ được rt nhiu thân trung ấm vãng sanh tây phương cực lc, mà hđều

Upload: others

Post on 12-Sep-2019

2 views

Category:

Documents


0 download

TRANSCRIPT

Page 1: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

1

Độ ma dễ Độ người khó

Sư Tôn Lư Thắng Ngạn

Chúng ta mọi người đều biết rằng bình thường muốn độ một người

quy y Phật là một việc rất khó khăn, có một số người đối với tín

ngưỡng tôn giáo có cũng được mà không cũng không sao, đối với

họ mà nói mọi tôn giáo đều như nhau, cũng đều là khuyên người

làm việc thiện.Thật ra đối với Phật giáo mà nói không phải hoàn

toàn như vậy; bởi vì làm việc thiện là điểm chung của tất cả tôn

giáo ở Ta Bà thế giới, đều khuyên mọi người làm việc thiện, chỉ là

1 điểm cơ bản nhất của tôn giáo, cao hơn là bản thân mình tu thành

thánh nhân, không những thành thánh nhân mà thành thiên nhân,

không những thành thiên nhân mà phải thành Phật Bồ Tát, tức là

thành tiên thành Phật.

Về một mặt nào đó, đối với một số người tôn giáo có thể có và có

thể không, bởi do bản thân họ ở Ta Bà thế giới bị hoàn cảnh nhiễm

mà không muốn rời khỏi Ta Bà thế giới để ly khổ mà hưởng lạc,

đây cũng đều là do hoàn cảnh ảnh hưởng và bị hoàn cảnh bao vây.

Có người hỏi, tại sao lúc làm lễ pháp hội siêu độ cho thân trung ấm,

trong chốc lác có thể siêu độ được rất nhiều linh hồn vãng sanh

tây phương cực lạc? Chúng sanh ở Ta Bà thế giới khó độ, tại sao

chỉ cần làm pháp hội siêu độ cho thân trung ấm, thì có thể độ được

rất nhiều thân trung ấm vãng sanh tây phương cực lạc, mà họ đều

Page 2: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

2

cùng có thể tin Phật? Đạo lý này ở đâu? Thật ra đạo lý này rất đơn

giản, bởi vì thân trung ấm và con người ở Ta Bà thế giới không

giống nhau, thân trung ấm có thể nói đã không chịu sự hạn chế của

gia đình, cũng không chịu sự hạn chế của hoàn cảnh tác động bên

ngoài, nhất là khi đến cảnh giới linh hồn thân trung ấm, thì hiểu

được đạo lý vô thường bởi do sau khi con người mất đi, thành thân

trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói

chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể không chịu sự ràng

buộc của gia đình, hoàn cảnh, nhục thân, càng hiểu rõ được sự vô

thường; cho nên trong pháp hội siêu độ giảng Phật lý cho họ nghe,

rất nhanh chóng họ có thể tín sự phụng hành, bởi do biết rằng hiện

nay đã là linh hồn rồi, và cũng biết rằng ở thế giới Ta Bà cũng là

một hiện tượng ảo giác mà thôi, tất cả cũng sẽ biến thành không,

cho nên có thể thể nhập vô thường, có thể từ trong đạo lý Phật học

mà chân chánh sám hối, chỉ cần sám hối, tín sự phụng hành thì có

thể dễ dàng tiếp thọ quy y và siêu độ, rất nhanh có thể vãng sanh

Tây Phương cực lạc thế giới.

Bởi vì con người ở Ta Bà thế Giới, thành phần nhục thể nhiều hơn

tinh thần. Tham, sân si nhiều hơn thanh tịnh, đối với thế giới sắc

tướng thì xem rất quan trọng, cho nên trong chốc lát không thể rời

bỏ, còn những thân trung ấm (trong pháp hội siêu độ thân trung

ấm), một là họ hiểu được vô thường, chỉ nghe được Phật pháp là

hiểu được phải rời bỏ thì có thể vãng sanh Tây Phương cực lạc thế

Page 3: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

3

giới, bởi không chịu sự ràng buộc của gia đình, nhục thân và hoàn

cảnh, rất dễ dàng vãng sanh, đó là điểm thù thắng của pháp hội

siêu độ thân trung ấm chúng ta làm.

Bình thường chúng ta độ một người rất khó, nhưng đến khi đợi đến

lúc trở thành thân trung ấm thì độ họ sẽ trở nên dễ dàng hơn

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 24 tháng 9 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 4: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

4

HOÀN TOÀN TỊNH TÍN (1)

Lúc trước Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ từng nói chỉ cần <Kính Thầy,

Trọng Pháp, Thực Tu> thì có thể khai ngộ, có thể đắc chứng.

Ở Tây Tạng lưu truyền một câu truyện, kể về 1 Thượng sư và đệ tử

qua sông, dòng sông chảy rất xiết, bản thân đệ tử đối với vị

Thượng sư rất có lòng tin. Rất có lòng tin trì niệm tâm chú của vị

thượng sư, nên sang sông trước, bởi do lòng tin rất kiên cố, Long

Thần Hộ Pháp liền xuống ở phía trước chỉ dẫn người đệ tử, phía

sau thì thúc đẩy thậm chí nhấc bổng toàn thân của người đệ tử đó

lên, cho nên đệ tử đó qua sông rất dễ dàng. Dòng sông chảy rất xiết,

Vị thượng sư ở bờ bên kia liền hỏi đệ tử, làm sao để qua sông?

Làm sao có thể thuận lợi qua sông như vậy? Đệ tử ở bờ bên kia

bèn nói: <Là con trì tâm chú của Thượng sư, được Long Thiên Hộ

Pháp giúp đỡ mới được thuận lợi qua sông.>

Bây giờ đến lượt sư phụ qua sông, sư phụ nghe đệ tử nói xong bèn

nói <A, thì ra tâm chú của ta hữu dụng như vậy!> ông ta cho rằng

tâm chú của ông ta là bình thường, nhưng thực ra đối với chính bản

thân mình mà phát tín tâm thì ông ta cảm thấy có 1 chút sợ, bởi

con sông chảy rất xiết, nhưng đệ tử có thể trì tâm chú của thượng

sư bình an qua sông, làm thượng sư đương nhiên là phải dũng cảm

hơn để qua sông, vừa bước xuống sông thì có cảm giác dòng chảy

rất xiết, tâm do dự không quyết, dòng nước trong 1 lát đã cuốn vị

Page 5: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

5

thượng sư đi, ông ta không còn đứng vững nữa, chỉ trong chốc lát

dòng nước đã cuốn mất ông ta, và vị thượng sư đã chết, từ câu

chuyện Tây Tạng trên ta có thể thể nhập, lĩnh hội được điều Ngài

Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đã nói, chỉ cần có <tịnh tín >, tức là tin hoàn

toàn, thì bạn có thể đắc.

Câu chuyện trên có thể nói như vậy, vị Thượng sư mà người đệ tử

quy y là giả, tâm chú mà người đệ tử trì cũng là giả, bản thân vị

thượng sư đức hạnh chưa đầy đủ, không phải là một thượng sư đắc

chứng, đối với tâm chú và tu hành bản thân cũng không có tín tâm,

nhưng vì danh vọng tiếng tăm, nên thu nhận rất nhiều đệ tử, và còn

dạy đệ tử trì tâm chú của thượng sư, tuy rằng vị thượng sư còn

nghi ngờ năng lực tâm chú của bản thân, nhưng mà đệ tử có thể trì

tâm chú của bản thân, trì đến Long thần hộ pháp đến hộ trì, đạo lý

này là từ đâu? Là từ <tịnh tín – niềm tin thanh tịnh> mà ngài Liên

Hoa Sanh Đại Sĩ từng nói, hoàn toàn y chỉ thượng sư, hoàn toàn y

chỉ mật pháp mà tu hành, đối với Thầy chỉ cần có một chút nghi

hoặc thì sẽ không thành, vậy thì về nhà cho rồi, nếu tin thì phải

<tịnh tín>, tức hoàn toàn y chỉ, trì chú cũng hoàn toàn y chỉ, cung

kính thượng sư cũng phải hoàn toàn y chỉ, không có 1 chút nghi

hoặc, bởi do bạn hoàn toàn cung kính thượng sư của bạn, cho dù

thượng sư là giả, nhưng bạn vẫn rất cung kính ông ta, trì tâm chú

của ông ta. Nói cho bạn biết 1 đạo lý rất đơn giản, bởi do lòng

thành cung kính hoàn toàn tin của bạn, Long Thần Hộ Pháp vì do

Page 6: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

6

lòng thành cung kính hoàn toàn của bạn mà đến hộ trì và gia trì

cho bạn, là xuyên thấu qua tay của thượng sư mà gia trì cho bạn,

đưa bạn đến bỉ ngạn (vượt bờ bên kia), đệ tử có thể thành Phật

nhưng Thượng sư có thể xuống địa ngục, bởi do vị thượng sư đối

với tín ngưỡng của chính bản thân mình, đối với mật pháp không

hoàn toàn trăm phần trăm tin tưởng, nhưng mà đệ tử thì hoàn toàn

tin, thượng sư chỉ tin một nữa, còn một nữa thì do dự không quyết,

cho nên đệ tử thì thành Phật còn thượng sư thì không có cách nào

thành Phật, ý nghĩa của câu chuyện này là như vậy.

Cho nên cho dù bạn quy y 1 vị thượng sư rất ngu, trước lúc quy y

không có tìm hiểu rõ, sau khi quy y mới phát hiện vị thượng sư rất

ngu, đối với Phật pháp cũng không thông, nhưng bạn vẫn hoàn

toàn tín ngưỡng sư phụ này và trì tâm chú của ông ta, nói ra rất kỳ

lạ, như vậy sẽ làm sinh ra năng lực, pháp lưu của Long thần hộ

pháp sẽ thông qua tay của sư phụ bạn mà gia trì cho bạn, để đệ tử

đắc được pháp lưu, tu mật pháp thì sẽ đạt được thành tựu lớn,

nhưng bản thân sư phụ là giả, không có đức hạnh chân chính, cho

nên không thể thành Phật, nhưng đệ tử thì thành Phật. Nếu như

bạn không hiểu thì để sau này sẽ nói.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Page 7: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

7

Chỉ cần bạn kiên trì trì chú, thì sẽ sanh ra năng lực, nếu như cho

rằng sư phụ không tốt, đối với tâm chú đang trì còn hoài nghi, vậy

thì vô dụng rồi, vậy thì về nhà quy y người khác đi, ở đây tồn tại

đạo lý của nó, nếu bạn không hoàn toàn viên mãn mà tín ngưỡng,

vậy thì đừng tu, tại sao vậy? Bởi vì mật pháp phải <tịnh tín>, tức là

hoàn toàn tin, tuy rằng sư phụ có khuyết điểm, nhưng bạn hoàn

toàn tin ở mật pháp, chú là trăm phần trăm, nội pháp cũng là trăm

phần trăm, như vậy bạn có thể đắc được, nếu như bạn còn hoài

nghi, vậy thì bạn có thể về nhà không cần tu, các bạn có thể để tóc

cũng có thể cưới vợ, cũng có thể gả chồng.

A Di Đà Phật

Ngày 27 tháng 9 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 8: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

8

HOÀN TOÀN TỊNH TÍN ( 2 )

Hôm qua nói về vấn đề <tịnh tín>, nói về tịnh tín thì hình như rất

dễ, nhưng thực ra thì rất khó. Thời xưa những người đại thành tựu

độ chúng sanh đương nhiên là phải chọn đệ tử tịnh tín, sau đó thì

đem toàn bộ Phật pháp truyền lại cho họ; nhưng trong thực tế,

trong tất cả các đệ tử muốn tìm ra một số đệ tử hoàn toàn tịnh tín là

một việc rất khó khăn, ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ đã từng nhắc

nhở qua, sau này nếu muốn truyền bộ pháp tinh diệu nhất cho đệ tử,

nhất định phải tìm tịnh tín, họ gọi là < đệ tử tâm truyền >, cũng tức

là đem tâm yếu truyền cho đệ tử.

Thời nhà Đường, Thiện Vô Úy truyền mật pháp Thai Tạng giới,

Kim Cang Trí truyền mật pháp Kim Cang giới, 1 người là truyền

<Đại Nhật Kinh>, 1 người là truyền <Kim Cang Đỉnh Kinh>, Bất

Không thì đem Kim Cang giới và Thai Tạng giới liên hợp lại phổ

truyền. Đệ tử theo ngài Bất Không học rất đông, nhưng trên thực tế,

người có thành tựu tức là người đắc được tâm pháp của ngài, chỉ

có 12 người, trong đó có 1 người là Tuệ Quả Lão Hòa Thượng,

Tuệ Quả Lão Hòa Thượng đem tất cả các mật pháp truyền lại cho

Không Hải Đại Sư từ Nhật Bản đến, và từ Không Hải Đại Sư đem

đến Nhật Bản thành <Đông Mật>, từ kết quả này có thể biết rằng,

từ chúng học giả thành tựu chỉ có 12 người, trên thực tế từ cổ đến

nay truyền thừa mật giáo và đắc được đại thành tựu cũng chỉ có

Page 9: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

9

mười mấy hai mươi người, từ Ngài Liên Hoa Sanh Đại Sĩ truyền

có 30 người thành tựu, chỉ có như thế thôi.

Cho nên muốn tìm người <tịnh tín> thì rất khó, nếu muốn tìm

người hoàn toàn tín ngưỡng mật giáo, đối với Phật, Pháp, Tăng

hoàn toàn tín ngưỡng là việc rất khó khăn. Nhưng nếu bạn không

có tịnh tín thì rất khó thành tựu, bởi chỉ cần có 1 chút nghi hoặc,

pháp sẽ không còn, Lực gia trì của bổn tôn và lực không hành của

hộ pháp sẽ không còn, như vậy nếu muốn đạt được đại thành tựu

sẽ rất khó khăn, cho nên Liên Sư nói <sau này tìm tâm truyền đệ tử

nhất định phải là đệ tử hoàn toàn tịnh tín, mới có thể đem tâm pháp

truyền lại.>, nếu tìm đệ tử không hoàn toàn tịnh tín, không phải tin

hoàn toàn, còn có 1 chút nghi hoặc, nếu truyền pháp cho họ thì sẽ

gặp rất nhiều việc phiền phức và hủy báng phát sinh.

Cho nên về mặt truyền thừa của Phật giáo mà nói, tóm lại nếu

truyền thừa mật pháp chân chính, hoàn chỉnh toàn bộ, từ <ngoại

pháp> cho đến <mật mật pháp>, từ quán thứ 1, quán thứ 2, quán

thứ 3, quán thứ 4 đến <đại viên mãn> của toàn bô quá trình, muốn

tuyển người truyền thụ, người này nhất định phải có <tịnh tín> mới

có thể được, đây là nguyên nhân mật giáo được gọi là <mật giáo>

là nguyên nhân không thể phổ truyền rộng rãi, đại khái là ở điểm

này. OM Ma Ni Bat Mi Hung

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Ngày 28 tháng 9 năm 1993

Page 10: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

10

NỘI NGHĨA THÂM SÂU CHÂN LÝ KHÔNG THỂ NÓI

Không cần biết mật giáo hoặc Thiền tông, trong nội nghĩa thậm

sâu, cũng đều không thể nói, cái không thể nói này gọi là : <Bí mật

pháp tánh>, tại sao bí mật pháp tánh không thể nói ra? Bởi vì nói

cũng nói không trúng, cũng không có 1 câu nói nào có thể thay thế

được cho nên mới gọi là không thể nói, bí mật pháp tánh chỉ có thể

dùng hình tượng để biểu thị.

Thời xưa có người hỏi các thiền Tôn Đại Đức Phật là gì? Pháp là

gì? <Chân lý là gì?> họ đều không nói, chỉ đưa ra 1 ngón tay để

thay thế, câu chuyện này trong công án của thiền tông cũng có

thuật lại. Cho nên sau khi trực tiếp hiểu rõ được bí mật pháp tánh

thì đưa ra 1 ngón tay để biểu đạt, cũng biến thành công án của

thiền tông. Giống như có người hỏi <Chân lý là gì?>. Sư phụ liền

đưa ra 1 ngón tay, đệ tử liền học xong, người khác hỏi đệ tử <Phật

là gì?> nó cũng đưa ra 1 ngón tay. Sư phụ thấy được nổi giận, đem

ngón tay của đệ tử chặt bỏ, bởi vì cái này không thể học.

Bạn có kiến địa được không chỉ có bản thân bạn biết, bạn biết

nhưng không nói ra được. Thời trước có 1 hòa thượng đã kiến địa,

có người hỏi ông ta <Chân lý là gì?> ông ta bèn cầm cây gậy đánh

xuống đất, mọi người bèn gọi ông ta là hòa thượng đánh đất, cũng

là do người ta hỏi ông ta cái gì, ông ta cũng đều lấy cây đánh

xuống đất để biểu thị, không phải ông ta không nói, mà là nói

Page 11: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

11

không ra, bởi vì <Chân lý>làm sao mà diễn tả ra được? Cho nên

ông ta dùng đánh để biểu thị; Có một hôm, có người đem cây gậy

của ông ta đi mất, ông ta không cách nào đánh xuống đất, lại hỏi

ông ta <chân lý là gì>? Ông ta bèn dùng miệng nín thở, biểu thị

biết được, nhưng không nói ra được, nói ra thì đúng ra không thể

nghĩ bàn.

Liên quan đến biểu đạt nội nghĩa thâm sâu, trong thiền tông có rất

nhiều dùng hình tượng để biểu thị. Trong mật giáo lúc trước tôi

cũng đã từng nói qua có lúc dùng thủy tinh cầu để biểu thị ; Hỏi

<chân lý là gì>? Ông ấy bèn dùng thủy tinh cầu cho bạn xem. Tại

sao thủy tinh cầu lại tượng trưng cho chân lý? Thứ nhất bởi nó

trong suốt, thứ 2 là cho dù đứng ở chỗ nào nhìn vào nó cũng là

hình tròn, xem bên trái, xem bên phải, xem phía trên, phía dưới

cũng là hình tròn (viên mãn). Trong đó cũng không có tạp chất

nhìn trong suốt, thông đạt, trên thế gian này không có đồ vật nào

thích hợp dùng để biểu thị chân lý, chỉ có duy nhất là thủy tinh cầu

dùng để biểu thị.

Nội nghĩa thâm sâu chân chính của mật pháp cũng đều muốn bạn

phải thể hội, xem xét, đi vào để nhận biết, chứng đắc chứng lượng

của nội nghĩa thâm sâu; nhưng đến khi thuyết giảng nói về nội

nghĩa thâm sâu thì đó là bí mật, không thể nói ra, cho nên nói rằng

trong đó có rất nhiều phương pháp có thể biểu thị nội nghĩa thâm

sâu.

Page 12: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

12

Trong mật giáo có rất nhiều bí mật không thể nói và có rất nhiều

phương tiện thiện xảo, và có rất nhiều nội nghĩa thâm sâu cũng đều

không thể nói ra, đó là do vấn đề từng thứ lớp. Bạn mới học Phật

pháp, từ cơ bản học thì nhất định phải học <ngoại pháp >, sau đó là

<nội pháp>, thứ 3 là <Vô thượng mật>, thứ 4 mới là <đại viên

mãn>.

Trong Yoga mà nói, thứ nhất là <Chuyên nhất yoga >, thứ 2 là <ly

hỉ yoga>, thứ 3 biến thành <nhất vị yoga>, tức là giai đoạn cao rồi,

thứ 4 mới là <vô tu yoga>. Đó là hình thức tịnh tiến, thực ra thứ 1,

thứ 2 cũng có thể nói, thứ 3, thứ 4 thì biến thành không thể nói

nữa rồi.

Cho nên trong Phật pháp, Hiển giáo cũng chỉ chừng ở thứ 1- ngoại

pháp mà thôi, mật giáo thì nói thứ 3, thứ 4, thứ 5, thiền tông thì

không giống, nó có nội nghĩa thâm sâu trong đó, cho nên đến khi

chân chính thấy được minh thể, ấn chứng minh thể, đến khi dung

nhập được minh thể thì có thể hiểu được nội nghĩa thâm sâu của

mật pháp.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 29 tháng 9 năm 1993

Liên Hoa cúc Phương kính ghi

Page 13: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

13

<DUYÊN KHỞI> VÀ< TÁNH KHÔNG>

Khi ta nghiên cứu sâu về Phật pháp, có thể thể lĩnh hội được, một

đời thuyết pháp của Đức Phật được chia làm 2 căn bản lớn, chúng

ta nói là <căn bản tam muội>, cũng là Phật Đà thuyết chia thành 2

<căn bản tam muội> rất lớn. Căn bản thứ nhất là nói <tánh

Không>, và cái kia thì nói về <Duyên Khởi>, cho nên trong đó có

<Tánh không tam muội> và <Duyên khởi tam muội>, cũng từ đây

mà phân thành 2 chi lưu. Thật ra < Duyên Khởi > và < Tánh

Không > đều là một, nếu nói ra thì không thể tách biệt, cuối cùng

vì thuyết pháp không thể không tách.

Chúng ta biết < Tánh Không > là chân đế, < Duyên Khởi > là tục

đế >, nghiên cứu Phật pháp y theo < chân đế > và < tục đế > mà

phân tích thì có thể hiểu rõ ràng minh bạch, chân đế tức là < tánh

Không >, tục đế tức là < Duyên Khởi >, chân đế tức là chân thực,

tức là < liễu nghĩa >. Tục đế là phương tiện, cũng là < bất liễu

nghĩa >, phải chia như vậy thì sẽ hiểu được rất rõ thuyết pháp của

Phật Đà.

Thực ra nếu bước vào chân đế thì tốt, tại sao lại phải nói < duyên

khởi > và < tánh không >? Bởi vì tất cả chúng sanh đều ở trong

Duyên Khởi, bạn không thể không nói duyên khởi, không nói

phương tiện, muốn độ chúng sanh thì nhất định phải cần duyên

khởi, phải cần phương tiện; Giống như trong ngũ đại trí huệ của

Page 14: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

14

Như Lai, trong đó có 3 trí huệ là thuộc < tánh không >, hai trí huệ

là thuộc < duyên khởi >. Vậy 3 trí huệ nào thuộc < tánh không >?

Như < Pháp giới thể tánh trí >, < Bình Đẳng tánh trí >, < Đại viên

cảnh trí > cho đến < Diệu quán sát trí >, < Thành sở tác trí > cũng

đều là duyên khởi, cho nên bạn dùng chân đế, tục đế, tánh không,

duyên khởi nghiên cứu Phật pháp thì đúng rồi.

Trong một đời thuyết pháp của Phật Đà, lúc thì nói phương tiện,

lúc thì nói tánh không, bạn không nói phương tiện, chúng sanh

không hiểu, nhưng mà phương tiện thì là < Bất liễu nghĩa >, cần

phải chân chánh < liễu nghĩa > mới là tánh Không, cho nên cần

phải từ duyên khởi chỉ dẫn bạn nhập < tánh Không >. Nhưng mà

hoàn toàn tánh Không thì không thể được, bởi vì hoàn toàn tánh

Không thì không cần nói, đó gọi là < ly ngôn thuyết >, không thể

nói, không được nói, lìa văn tự, cho nên thiền tông đến căn bản sau

cùng là ngôn ngữ đạo đoạn, mà Phật Thích Ca đưa ra bông hoa

không nói, tức là biểu thị < tánh Không >.

Bổn lai của thiền tông là nói < tánh không >, mật giáo xem trọng <

duyên khởi > và cũng xem trọng < tánh không >. Nghi quỹ của

Phật giáo từ < bắt đầu khai đàn, cho đến tu < ngoại pháp > đều là

phương tiện, nhị quán < nội pháp > dùng thân thể mà tu, ngũ đại

của thân thể đất, nước, gió, lửa, không, chứng minh ngũ đại của hư

không, đó cũng là phương tiện, < nội pháp > cũng là phương tiện.

Tam quán < vô thương mật > cũng là phương tiện, là tận dụng

Page 15: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

15

chính tham dục mà tu, chỉ có đến tứ quán < bí mật đại viên mãn >

mới là tánh không. Cho nên, duyên khởi tức là từ < phương tiện

duyên khởi >, mà chỉ dẫn bạn chứng minh phương pháp < chân lý

tánh không >, nói cho mọi người biết đó là Phật pháp.

Phật pháp chia ra < chân đế >, < tục đế >, < tánh không >, < duyên

khởi > < liễu nghĩa > và < bất liễu nghĩa > đạo lý đều ở trong đó,

đạo lý < không > và <có > đều > ở trong đó, cho nên nếu bạn phân

tích thật rõ ràng, thì bạn sẽ hiểu được Phật pháp, phân tích không

rõ ràng thì không có cách hiểu được, bạn sẽ bị lộn lung tung.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 30 tháng 9 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 16: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

16

<DUYÊN KHỞI> VÀ < TÁNH KHÔNG > ( 2 )

Hôm qua chúng ta bàn về 2 bí mật của Phật pháp, một là < bí mật

tánh không >, một là < bí mật duyên khởi >; Trong Phật pháp có

rất nhiều thứ đều là phương tiện, từ <phương tiện> mà dẫn nhập

vào trong < chân đế >, có thể đem hai cái này mà phân tích rõ ràng,

sau này nếu nghiên cứu Phật pháp, thì có thể thâm nhập rất sâu.

Trong rất nhiều pháp môn, chúng ta thấy trong thực tế không phải

đều là suy nghĩ 1 bên

Cũng không phải hoàn toàn là trung đạo, cũng không phải hoàn

toàn là trung quán. Dùng đạo lý tiểu thừa mà nói, là hoàn toàn từ

bỏ vật chất, tức là những đồ vật thuộc vật chất thì không cần, đối

với những đồ vật thuộc về vật chất thì phải bài trừ, như là về mặt

nhà cửa, đất đai, tiền bạc đều phải hoàn toàn bài trừ, có thể nói,

tiểu thừa là giữ giới luật của Phật nghiêm cẩn nhất. Về đại thừa mà

nói, đại bô phận đều nói < duy tâm >. Như là Duy Thức tông, rất

đơn giản là thiên về duy tâm mà nói, tức là nói về tâm linh, Nói về

tôn giáo đa số đều nói về duy tâm nhiều hơn. Cho nên nói đại thừa

và tiểu thừa thiên về < tánh không >.

Mọi người suy nghĩ 1 chút, Về mặt < Tánh không > mà nói như

thiền tông, không dùng đàn thành, cũng không dùng niệm Phật, cái

gì cũng không dùng, chỉ là từ < không >, Từ < Vô > mà nhập vào,

không dùng ngôn ngữ, không dùng kinh điển cũng không dùng văn

Page 17: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

17

tự, tất cả đều không dùng, hoàn toàn là từ < tánh không > trực tiếp

mà tiến vào, chỉ thẳng tâm, cũng tức là kêu bạn lập tức khai ngộ,

đây là cách làm của thiền tông.

Tôi cảm thấy đến đoạn diễn biến sau cùng thì thành mật giáo. Tại

sao mật giáo lại sản sinh vậy? Bởi vì mật giáo là nói < Tâm vật bất

nhị >, cũng tức là thế giới của vật chất tức là thế giới của tâm linh,

thế giới của tâm linh cũng tức là thế giới của vật chất, < tâm > và <

vật > không được phân ra, cho nên trên thực tế < tánh không > và

< duyên khởi > là không thể phân chia.

Toàn bộ sản sinh của vũ trụ và sản sinh của nhân loại đều là <

duyên khởi >, vậy < duyên khởi > là từ đâu mà đến? Duyên khởi

tức là từ < Tánh không > mà đến, nếu đã có thế giới < duyên khởi >

rồi thì không thể đem toàn bộ thế giới < duyên khởi > mà phủ

nhận chối bỏ. Cho nên mật giáo nói < Tâm vật bất nhị ( tâm và vật

không có 2 ) tức là tâm linh và vật chất từ trước là không có sự

phân biệt, tánh không là duyên khởi, duyên khởi cũng là tánh

không, đây mới là con đường trung quán.

Trong tu hành của Phật pháp, nói về < Duy tâm rất nhiều >, cũng

tức là nói về tâm thức rất nhiều, mật giáo cường điệu < tâm và vật

không có hai >, từ thân thể cũng có thể tu, từ tâm linh cũng có thể

tu, thân và tâm đều có thể tu, cũng tức là < tánh không > và <

mạng > cùng đều có thể cùng tu, đây tức là mật giáo.

Page 18: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

18

Lý của mật giáo thiên về trung quán, thật ra đến sau cùng Phật giáo

nói trung quán, cũng nói trung đạo, họ không hoàn toàn từ bỏ vật

chất, mà còn đem < có > và <không > nói rất là viên dung, đem

tánh không và duyên khởi, chân đế và tục đế nói rất là viên chất là

không phải 2 >, như vậy mới hợp với tu hành hiện nay, cũng hợp

với tư tưởng Phật Đà; cho nên thiên về < không > và thiên về < có >

đều là không đúng, phải nói là < Tâm vật không có 2> mới là

đúng.

Om Ma Ni Bát Mi Hung

ngày 1 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 19: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

19

< DUYÊN KHỞI > VÀ, < TÁNH KHÔNG > ( 3 )

Mấy ngày nay chúng ta nói rất nhiều về < tánh không > và < duyên

khởi >, chúng ta hiểu được chân đế tức là < tánh không >, tục đế

tức là < duyên khởi >, <tánh không >tức là chân lý, duyên khởi tức

là < phương tiện >, có người nghe hơn nửa ngày cũng không hiểu

rõ ràng. Trong kinh Phật có nói < tánh không > là tuyệt đối, <

duyên khởi > thì có rất nhiều, tức là gọi phương tiện có rất nhiều

cách, nếu nghe không hiểu, tôi cho 1 ví dụ rất đơn giản, mọi người

sẽ hiểu rất rõ ràng.

Tôi nhớ trong tiết học vật lý ở thời tiểu học, thầy vật lý đem đến rất

nhiều bảng màu không cùng màu sắc, có đỏ, cam, xanh, xanh lá

cây, vàng, tím, chàm, 7 màu, đem những bảng nhỏ này xỏ thành 1

vòng tròn, chính giữa có thể xoay, đem những bản màu sắc này

xoay, cũng tức là sau khi 7 màu sắc xoay, mắt chúng ta cũng chỉ

nhìn thấy 1 màu, đó là màu trắng, rất nhiều màu như vậy tại sao lại

biến thành màu trắng vậy? Và tại sao màu trắng sau khi chia tách

ra lại thành 7 màu, chúng ta đem < tánh không > và < duyên khởi >

mà thí dụ

< tánh không > là tuyệt đối, là đơn nhất, cũng tức là bằng với <

chân lý >,< chân như > cũng là tánh tuyệt đối, đến 2 mà nói, thì

biến thành 2 phần, cũng tức là tương đối, tính chất của tương đối

thì biến thành 2 thứ, phương tiện có nhiều cách, cũng tức là có thể

Page 20: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

20

biến thành rất nhiều rất nhiều, từ 1 biến thành 2, từ 2 biến thành 3,

từ 3 có thể biến thành rất nhiều, thậm chí từ 2 cũng có thể biến

thành rất nhiều, ở đây có 1 chân lý ở bên trong. Giống như Phật

pháp, tông phái rất nhiều, có 1 cuốn < Kinh Hoa Nghiêm > thì xuất

hiện < Hoa Nghiêm tông >. Có 1 cuốn < Diệu Pháp Liên Hoa kinh >

thì xuất hiện < Nhật Liên Tông >. Có cuốn < Kinh A Di Đà > thì

có < Tịnh Độ tông >. Có rất nhiều cũng vì có cuốn kinh mà xuất

hiện tông phái, cho nên biến thành phương tiện có rất nhiều pháp,

học tập rất nhiều Phật pháp cuối cùng là < tánh không >, cũng tức

là hoàn toàn tuyệt đối.

Cho nên < cuối cùng chân lý là gì >? < Cuối cùng Phật là gì >?

Lục Tổ Huệ Năng nói < không nghĩ thiện, không nghĩ ác >. Ý

nghĩa của câu nói này, tức không phải là tương đối, cũng không

phải là tuyệt đối, trong chân lý thật ra không có < thiện >, cũng

không có < ác >, bởi vì thiện và ác là tương đối, Lại nói < Mặn >

và < Chay > cũng không phải là tương đối, đây cũng không phải là

chân lý. Chân lý tức là tánh không, cũng tức là tuyệt đối, trong

Thánh Đế là chân như hoàn toàn tuyệt đối, cũng tức là thật tướng

của nó là như vậy, vì phương tiện độ chúng sanh, mới có pháp

phương tiện trong Phật pháp rất quý báu, bạn muốn hiểu rõ Phật

pháp, thì nhất định phải nghiên cứu vấn đề này. Om Ma Ni Bát

Mi Hung

Ngày 4 tháng 10 năm 1993 Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 21: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

21

TƯỢNG TRƯNG CỦA CÁC MÀU SẮC

Hôm qua chúng ta có nói về màu sắc, có rất nhiều màu sắc khi ta

hợp lại sẽ thành màu trắng, lúc trước trong mật giáo có nói qua,

mỗi vị ngũ phương Phật có mỗi màu sắc tượng trưng, như <Tức

(pháp an bình)> < Tăng (pháp tăng trưởng)> < Hoài (pháp thu

hút) > < Tru (pháp giáng phục)> đều có những màu sắc khác

nhau, trên thực tế, không cần biết pháp xuất thế hay pháp nhập thế,

cũng đều có màu sắc tượng trưng.

Màu sắc càng được tượng trưng rõ ràng hơn trong mật giáo, trong

các < Hộ Ma >, < Kiết ma pháp > và tất cả các pháp đều dùng màu

sắc làm biểu thị, giống như moi người cho tôi xem hình phóng

quang, kỳ thật sau này cũng không cần hỏi sư tôn, mọi người có

thể nhận biết màu sắc của quang mà biết được là quang gì. Giống

như quang màu trắng thì nhất định là quang tiêu tai. Phóng quang

màu đỏ thì nhất định là quang gia trì gia đình bạn viên mãn, là

quang kính ái. Phóng quang màu vàng, nhất định là quang gia tăng

phước cho bạn, là quang tăng ích. Phóng quang màu xanh lam,

biểu thị tiêu trừ nghiệp chướng, hoặc là hàng phục tâm bản thân,

đều được tượng trưng bằng quang màu xanh lam. Phóng quang

màu đen là biểu thị tiêu nghiệp chướng. Các màu sắc trong hình

mọi người trong chúng ta đều có thể phân biệt.

Page 22: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

22

Cũng như Ngũ Phương Phật đều dùng màu sắc để thay thế, Chính

giữa có Đại Nhật Như Lai, Tỳ Lô Giá Na Phật tức là dùng màu

trắng để tượng trưng, đông phương A Súc Phật dùng màu xanh

dương để tượng trưng, tây phương A Di Đà Phật dùng màu đỏ để

tượng trưng, bắc phương Bất Không Phật dùng màu đen (hoặc

xanh lục) để tượng trưng, nam phương Bảo Sanh Phật dùng màu

vàng để tượng trưng, đều có mỗi màu của riêng từng vị. Chúng ta

đều biết trung ương Tỳ Lô Gía Na Phật, rất đơn giản là màu trắng,

còn lại 4 màu đều được phân bố 4 hướng đại diện cho ngũ đại trí

huệ của Như Lai, cũng tức là ngũ trí của Phật. Như tức, tăng, hoài,

tru cũng đều dùng màu sắc mà biểu thị, phương vị cũng như vậy

dùng màu sắc mà biểu thị, là dựa theo nơi hướng bạn đứng mà

định, cũng như mật đàn của sư tôn nơi đứng là phương đông, vậy

thì dùng màu xanh dương để biểu thị. Nơi đàn bạn đứng là phương

đông, vậy thì dùng màu xanh dương để tượng trưng, đàn của nơi

bạn đứng là phương tây, vậy thì dùng màu đỏ để tượng trưng. Cho

nên đối với mật giáo về mặt dùng màu sắc thì có qui định rất

nghiêm khắc.

Trong pháp nhập thế mà nói, tại sao màu trắng dùng để tượng

trưng cho tiêu tai vậy? Bởi vì màu trắng thay thế cho thanh tịnh tức

là tiêu tai rồi. Vậy tại sao màu đỏ thay thế cho kính ái vậy? Bởi vì

màu đỏ thay thế cho nhiệt tình, đương nhiên là kính ái. Vậy màu

vàng tại sao là tăng ích? Bạn xem vàng có phải màu vàng không,

Page 23: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

23

mọi người đều thích màu này, cho nên màu vàng thay thế cho tăng

ích. Màu xanh và màu đen tại sao lại tượng trưng cho hàng phục?

Bởi vì 2 màu này lợi hại hơn, cho nên Kim Cang Hộ Pháp thần đa

số đều dùng màu xanh dương và màu đen để tượng trưng, biểu thị

uy lực của họ.

Cho nên nói, không cần biết pháp xuất thế hoặc pháp nhập thế,

trong mật giáo đều tương thông. Giống như dùng màu trắng thay

thế cho nhiệt tình thì không đúng rồi, mọi người thấy màu trắng sẽ

có cảm giác mát mẻ, tức là tiêu tai, đại diện cho thanh tịnh, tại sao

lại là nhiệt tình? Nhiệt tình giống như lửa thì đó là màu đỏ, ở đây

đều có pháp vị của nó, thực tế xuất thế và nhập thế đều tương

thông.

Màu cuối cùng và màu tối cao nhất là màu trắng, bởi vì màu trắng

là tổng hợp của tất cả các màu, thậm chí từ màu trắng có thể chia

tách ra rất nhiều màu; giống như ngũ phương Phật, Trung Ương

Phật là tượng trưng màu trắng, còn các màu khác được phân bố ở 4

bên, thật ra suy nghĩ một chút màu sắc và chúng sanh đều có đạo lý

tồn tại; giống như trái đất thuộc về bắc bán cầu đa số đều là màu

trắng, thuộc về trung ương (chính giữa) đa số đều là màu vàng, về

phương nam đa số đều là màu đen, đại bộ phận của trái đất đều

được phân chia như vậy, bởi phương bắc thuộc thủy do đó bị nước

tẩy trắng, cho nên người là màu trắng. Phương nam thuộc hỏa, do

đó bị nướng khét, cho nên chủ yếu là người da đen. Ở đây đều tồn

Page 24: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

24

tại đạo lý của nó, không cần biết pháp xuất thế hay pháp nhập thế

hoặc từ phân bố của toàn bộ trái đất mà nói đều tồn tại đạo lý của

nó.

Cho nên bạn nghiên cứu Phật pháp và mọi cái của thế gian mà phối

hợp lại thì có thể biết, bao gồm tính tình của mỗi con người đều có

thể phân ra, người này thuộc loại hình hàng phục, người kia thuộc

loại hình tiêu tai, và 1 người khác thuộc loại hình kính ái, và cũng

có người thuộc loại hình tăng ích, có thể dùng pháp xuất thế và

pháp nhập thế mà phân chia, đều có thể phân tách ra được, mọi

người nếu nghiên cứu Phật pháp như vậy, trong khô khan có thể

sinh ra mùi vị

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 5 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 25: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

25

BỐN TẦNG CÔNG PHU CỦA MẬT GIÁO

Trong toàn bộ công phu của mật giáo mà nói, chúng ta hiểu được

quán đảnh có thể chia thành 4 tầng công phu, cũng tức là quán

đảnh < ngoại pháp >, quán đảnh < nội pháp>, quán đảnh mật pháp

và cuối cùng là quán đảnh < mật mật pháp >.

Thât ra công phu chân chính của mật pháp cũng chia thành 4 đẳng,

4 đẳng này có thể nói bào hàm toàn bộ công phu của mật pháp.

Thứ 1 gọi là < pháp tụng niệm >, tức là bình thường thật niệm tụng,

kim cang giới niệm tụng pháp, thai tạng giới niệm tụng pháp, và tất

cả niệm tụng pháp của các chư tôn, như niệm chân ngôn, niệm

tụng tán, niệm kệ cũng thuộc về < pháp niệm tụng >, pháp niệm

tụng cũng có nhiều loại, như niệm ra tiếng và niệm không ra tiếng,

có khi chỉ là nhúc nhích đầu lưỡi, cũng có chỉ là dùng tâm niệm,

Kim Cang niệm và các pháp niệm tụng khác, đều thuộc về loại

hình thức nhất.

Thứ 2 chúng ta nói về <quán tưởng pháp >, trong mật giáo cũng rất

đặc thù, sau khi niệm chơn ngôn còn có < quán tưởng pháp >, các

tôn pháp khác thường rất ít pháp này, cho nên quán tưởng cũng là

công phu của mật giáo.

Thứ 3 tức là < khí, huyệt, minh điểm pháp >, cũng chỉ có mật

pháp mới có, nói tu < khí >, < thông mạch >, < vận minh điểm >

như thế nào và làm sao đem nó biến thành trí tuệ.

Page 26: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

26

Cuối cùng là nói về < tánh không >, điểm này và tất cả các tôn

phái khác là tối cao nhất vô thượng chánh đẳng chánh giác là

tương đồng, < tánh không > trong mật giáo cũng tức là < đại viên

mãn thành tựu >.

Đây là 4 tầng thứ công phu, nếu nghiêm túc mà phân chia < pháp

niệm tụng > cũng tức là đang nói < mật ngữ >, < chân ngôn của

mật ngữ >, cũng tức là < khẩu mật >. < Pháp quán tưởng > là nói <

ý mật >, một thứ bí mật của ý niệm thanh tịnh. < Khí, huyệt, minh

điểm pháp > tức là nói về < thân mật >, bí mật của tức thân, bao

gồm < kim cang quyền >, < bảo bình khí >, < cửu tiết Phật

phong >, cũng là đang nói < khí >. < Khí > và <Mạch > cùng với <

Minh Điểm > đều có quan hệ tương quan, cũng thuộc về < nội

mật >, tức là nói thanh tịnh của thân, khẩu mật có rồi, ý mật có rồi,

thân mật cũng có rồi, ba cái hợp lại cho đến chứng được < tánh

không >, tức là < vô thượng mật >, bộ hòa < đại viên mãn >, đây là

4 công phu của mật giáo.

Cho nên nghiên cứu mật tông, nhất định phải từ < pháp niệm tụng>

bắt đầu, sau đó là bước vào < quán tưởng pháp >, lại bước vào <

khí, huyệt, minh điểm >, cuối cùng mới là <vô thượng mật >, < đại

viên mãn >, có thể chứng được đến < tánh không > tức là thành

Phật, cho nên đây là tánh mạng song tu.

Bây giờ mọi người đã biết 4 tầng quán đảnh của mật giáo rồi, tức

là: ngoại pháp, nội pháp, mật pháp, mật mật pháp. Bốn tầng công

Page 27: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

27

phu các bạn cũng đã biết rồi, cũng tức là: pháp niệm tụng, pháp

quán tưởng, khí-mạch-minh điểm và tánh không ( vô thượng mật

đại viên mãn ). Bản thân mật giáo mà nói, bốn tầng công phu nhận

biết rõ ràng, bạn nghiên cứu và thật tu thì sẽ rất dễ dàng rồi.

Om Ma Ni Bát Mi Hung

Ngày 7 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 28: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

28

TU MẬT DỄ TU THIỀN KHÓ

Hôm qua chúng ta nói đến: niệm tụng, quán tưởng, khí, mạch,

minh điểm, và tánh không là 4 tầng công phu của mật giáo, mà <

niệm tụng > lẽ ra phải thuộc về < bí mật của duyên khởi >, cũng

tức là phương tiện, < duyên khởi > tức là từ nhân duyên mà bắt

đầu của 1 phương pháp tu hành.

Thật ra mật giáo là lấy từ ngũ đại của vũ trụ mà tu hành, < ngũ đại >

tức là : đất, nước, gió, lửa, không; là lấy từ âm thanh mà tu; Ở Phật

học mà nói, vũ trụ hình thành là từ âm thanh mà hình thành, cho

nên ngũ đại sẽ có âm thanh, cũng tức là tận dụng âm thanh của ngũ

đại mà tu, cũng giống như khi đất thành, lửa phun ra có âm thanh,

gió thổi qua cũng có âm thanh, không thanh của vũ trụ cũng có âm

thanh, thật ra cơ thể con người cũng như vậy, đất, nước, gió, lửa,

không. Phải dùng ngũ đại của cơ thể để ấn chứng ngũ đại âm thanh

của vũ trụ, sau đó mới tu hành.

Chú âm của mật giáo tức là âm thanh bí mật của Phật Bồ Tát phát

ra, có mọi công dụng và hiệu năng, cho nên mật giáo là từ < chân

ngôn > chú ngữ niệm tụng bắt đầu, phân chia thành 4 tầng thứ, tức

là: niệm tụng, quán tưởng, khí-mạch-minh điểm và tánh không, và

cũng tức là dùng ngũ đại của thân thể mà tu, sau đó mới bước vào

tánh không.

Page 29: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

29

Tu hành của thiền tông trên thực tế mà nói là không dùng pháp

niệm tụng, không dùng quán tưởng, cũng không nói khí, mạch,

minh điểm, mà trực tiếp thể nhập < tánh không >, < trực chỉ nhân

tâm >, < kiến tánh thành Phật > của thiền tông, có < bất lập văn

tự >. Cái gì gọi là < bất lập văn tự > vậy? Bất lập văn tự tức là

không dùng văn tự, cũng tức là không dùng âm thanh, hoàn toàn

dùng < che pháp > cái gì gọi là che pháp? Tức là che mọi thứ lại,

cho đến khi bạn kiến nhập < tánh không >, đây là tác pháp của

thiền tông.Tác pháp này của thiền tông có thể nói, là trực tiếp dùng

bí mật của tánh không mà tu.

Tu trì của mật giáo là có thứ tự, trước tiên là < niệm tụng pháp> tới

< quán tưởng >, tới < khí mạch minh điểm >, đến sau cùng chứng

ngộ tánh không, đây có lẽ là phương pháp <bí mật duyên khởi

(tức phương tiện)>; mà thiền tông là pháp môn < bí mật tánh

không >, nhưng cuối cùng mục tiêu của cả hai đều là < tánh

không >, đều là thành Phật.

Tu Thiền thì thật không phải dễ dàng. Hiện nay có rất nhiều đệ tử

nói không tu mật tông mà học thiền, Thiền tông là người có căn

khí rất lớn học, nhưng họ nghĩ rằng mật tông rất khó, phải học

thiền tông thì dễ dàng hơn, thật ra là sai rồi. Học mật tông dễ dàng

hơn, thiền tông là trực tiếp thể nhập tánh không, bạn biết rằng thiền

tông là không niệm Phật, nếu như mỗi ngày bạn niệm Phât mà nói

ở thiền tông là sai rồi. Cho nên thiền tông trực chỉ tâm là ở đây,

Page 30: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

30

cũng tức là trực tiếp kiến nhập tánh Không, phải là < Phật đến sát

Phật > cái gì đến thì sát cái đó, sát đến sau cùng không có thì thành

Phật tức là kiến tánh rồi. Ở đây nói cho các bạn biết có lẽ rất sâu,

cái gì là < Phật đến sát Phật, Tổ đến sát Tổ >? Phật và Tổ bị bạn

giết hết rồi. Thiền tông là nói cái gì vậy? Là nói tánh Không.

Có rất nhiều đệ tử nói mật tông rất khó, phải học thiền tông, mỗi

ngày niệm A Di Đà Phật, vậy là sai rồi, đây là học Tịnh độ, niệm A

Di Đà Phật tức là một trong những pháp niệm tụng. Thiền tông

không niệm Phật, là phải trực tiếp ấn chứng tánh Không, chứng

tiếp sản sinh chứng lượng là người phải có căn khí rất lớn mới tu

được. Giống như chúng ta căn khí nhỏ chỉ có từng bước một mà tu,

trước tiên học pháp niệm tụng, bước tới là học quán tưởng, thêm

nữa là bước vào nội pháp luyện khí, mạch, minh điểm. Bắt đầu từ

âm thanh mà tu, dùng ngũ đại âm thanh của cơ thể mà ấn chứng,

thể nghiệm ngũ đại âm thanh của vũ trụ, và đem ngũ đại âm thanh

biến thành không có, thì tiến nhập < tánh không >.

Cho nên trong Phật học có nhiều thứ rất thâm sâu, thế tục phàm

phu không thể hiểu được, mỗi người chỉ có chân thật mà tu thì tốt

hơn, trừ khi bạn là người đại căn khí, vậy tổ thứ 7 có thể là bạn,

đúng không.

Chân chính có thể từ thiền kiến tánh, thực tế không nhiều, tu mật

giáo có thể đắc đại thành tựu đã là rất khó, từ bản thân thiền đi kiến

Phật tánh của bản thân, thì càng khó

Page 31: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

31

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 8 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

ĐỐI TRỊ < THAM >

Tối hôm qua có Phật tử hỏi tôi : < Rõ ràng biết là tham thì sẽ là

không, nhưng không có cách nào để hạn chế tham niệm của

mình >. Mọi người đều hiểu rõ Phật pháp, cũng biết rằng đời người

< vô thường nhanh chóng >, nhưng mà ở tiền bạc mà nói, không có

thì lại muốn có, có rồi thì lại muốn có nhiều hơn, nhiều đến khi nào

mới mãn nguyện? Đáp án là < vĩnh viễn không mãn nguyện >, đấy

là tham. Cũng biết rằng tham cũng sẽ là không, không được gì cả,

nhưng vẫn tham cầu không chán, vậy phải làm sao đây?

Về mặt tham, không những chỉ tiền bạc và cũng chỉ địa vị, ngoài ra

còn bao gồm tất cả vật chất và sắc tướng. Trong Phật pháp dạy

chúng ta như vậy, trong Phật giáo tiểu thừa hoàn toàn dạy chúng ta

quán bất tịnh và quán đống xương trắng để đối trị. Cái gì gọi là

quán bất tịnh? Tức là cho rằng trên thế gian cái gì có hình thể đều

sẽ bị hư hoại, không sạch sẽ; về mặt sắc tướng thì quán thành bạch

cốt ( đống xương trắng ).

Đại thừa Phật pháp thì dùng <bình đẳng quán> để đối trị, nếu

muốn sanh tâm từ bi, thì phải dùng < chúng sanh giai bình đẳng >

Page 32: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

32

để suy tưởng, phải dùng < không có phân biệt > để suy niệm, thậm

chí phải suy niệm < vô ngã >, <lợi tha> mà tưởng niệm, như vậy

mới chặn tham, đó là < phát bồ đề tâm của đại thừa >, đại từ đại bi

cũng là từ < vô ngã >, < lợi tha > mà khởi điểm, dùng < bình đẳng

không phân biệt > làm điểm xuất phát, mới có biện pháp làm được.

Trong mật giáo kim cang thừa mà nói tham, sân, si, nghi, mạn,

năm thứ độc này, < tham niệm > là tội đầu tiên, trong mật giáo trực

tiếp tận dụng tham để chuyển thành < không >, có thể đem tham

chuyển thành < không > là một < hoàn tịnh pháp >, bởi vì bản thân

của tham đều có trong nhân tính mỗi con người, không nên sợ hãi

tham, chỉ cần biết phương pháp < hoàn tịnh > thì có thể đem tham

niệm chuyển hóa thành không, cũng giống như từ ô uế mà biến

thành thanh tịnh. Trong pháp tu hành của mật giáo tức là đem

phương pháp tham chuyển hóa thành không, tham tức là không,

phương pháp < hoàn tịnh > này chỉ có kim cang thừa mới có.

Chúng ta có thể như vậy, phương pháp đối trị tham, trong tiểu thừa

dùng < bất tịnh quán >, < bạch cốt quán > ( quán đống xương

trắng ) để đối trị. Trong đại thừa dùng < bình đẳng không phân

biệt > phát khởi bồ đề tâm đại từ đại bi, và dùng phương pháp < vô

ngã > < lợi tha > để đối trị, trong kim cang thừa thì từ < tham >

chuyển nhập thành < không > và < pháp hoàn tịnh > để đối trị. Đây

đều là những phương pháp chặn tham, chúng ta cần pháp thật tu và

tu luyện chính bản thân mình, chỉ biết đạo lý, nhưng không thực

Page 33: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

33

hành cũng chỉ là uổng công, cho nên hy vọng mọi người đối với

tham có thể tỉ mỉ mà thể hội, thực tế tu trì.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 11 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

ĐỐI TRỊ <SÂN >

Hôm qua chúng ta nói về đối trị tham, hôm nay chúng ta bàn về

đối trị sân. Trên thực tế, tham, sân, si, nghi, mạn, năm thứ độc này

đều là một trong những thứ vốn sẵn trong nhân tính, nhưng nếu chỉ

cần đem 5 độc này chuyển hóa thành ngũ trí của Như Lai, cũng tức

là thân, khẩu, ý thanh tịnh, cũng tức là bản tánh của chính Như Lai.

Từ nhân tính đến Phật tính, thật ra đều là nhờ công phu chuyển hóa,

như là chữ < sân > trong pháp tu của chúng ta đã là tu tập rồi,như <

tứ vô lượng tâm > từ bi hỷ xả, chân chính học được< tứ vô lượng

tâm > thì không có chữ < sân >. Ngoài ra có thể học đến < vô ngã >

< vô nhân > cũng sẽ không có chữ < sân >. Trên thực tế nếu có thể

học đến từ bi hỷ xả, cũng có thể chân chính xả được mọi thứ còn

có sân si cái gì nữa? Cho nên nói chỉ cần làm được đến < tứ vô

lượng tâm >, chữ < sân > sẽ không còn.

Trong giới luật của tiểu thừa có nói đến < vô ngã >, có thể < vô

ngã > thì không còn phiền não, nếu đã không có phiền não thì sẽ

Page 34: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

34

không còn có < sân > nữa, vậy nếu có thể tu đến < vô nhân > thì

càng không còn sân nữa, bởi không ai có lỗi với bạn cả, vậy thì

còn có sân nữa đâu mà nói nữa? Cho nên < vô ngã > < vô nhân >

cũng tức là đem chữ <sân > chuyển hóa rồi đó.

Trong mật giáo có rất nhiều pháp dùng < sân > mà tu ra đại kim

cang, có rất nhiều hộ pháp kim cang mặt rất hung ác, hai mắt là

mắt phẫn nộ, như < Đại Uy Đức Kim Cang >, < Bất Động Minh

Vương >, < Uế Tích Kim Cang >, họ đều là hộ pháp, cũng có mắt

phẫn nộ, tại sao các vị phẫn nộ Kim Cang này đại dùng < sân >

vậy? Thật ra dùng khuôn mặt rất dữ, là để hộ pháp dùng; là đem

<sân > và < tánh không > kết hợp lẫn nhau, thì biến thành phẫn nộ

Kim Cang. Hoàn toàn là dùng để từ bi cứu thế độ sanh dùng điểm

xuất phát là phẫn nộ, đây cũng là < phẫn nộ> và < từ bi > cùng với

< tánh không > kết hợp lẫn nhau của hộ pháp kim cang. Loại sân

này và sân của phàm phu là không giống nhau; chúng ta biết rằng

sân của phàm phu là thuộc loại thấp tục, là vì lợi ích của bản thân

mà nổi giận, loại < sân > này của phàm phu là sân hận, còn phẫn

nộ của hộ pháp Kim Cang là lợi tha, từ bi chúng sanh, là hộ trì phật

pháp mà cứu độ chúng sanh. Chữ < Sân > này là dùng < sân

niệm >, < từ bi >, < tánh không > ba cái hợp lại lẫn nhau, là tượng

phẫn nộ của Kim Cang hộ pháp thần, là tướng phẫn nộ lợi tha, mà

không phải là tướng vì bản thân mà phẫn nộ, hai cái này có sự khác

biệt. Rất đơn giản nói rằng phẫn nộ của phàm phu là vì bản thân,

Page 35: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

35

còn phẫn nộ của hộ pháp Kim Cang thần là lợi tha, là từ bi chúng

sanh, là hộ trì Phật pháp.

Cho nên trong mật giáo có rất nhiều tượng hộ pháp Kim Cang thần

phẫn nộ, nhìn khiến cho người ta cảm thấy sợ, nhưng cái sợ này là

tận dụng tâm của con người là < sân niệm >, < tánh không >, < từ

bi > kết hợp lại, tu thành thân Kim Cang hộ pháp, khác với sự phẫn

nộ của phàm phu.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 12 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương Kính ghi

ĐỐI TRỊ CỦA < SI >

Hai ngày trước chúng ta nói tham và sân, hôm nay chúng ta nói

đến đối trị < si >.< Si > có lúc là do trời sanh, có liên quan đến trí

nhớ và lực lý giải của chúng ta, có người trời sanh trí nhớ không

tốt, có người trời sanh lý giải rất kém, vậy phải đối trị ra sao? Nói

ra chỉ có 2 chữ, cũng tức là hai chữ < tinh tấn > được dùng trong

lục độ đại thừa, người ta chỉ cần mất 5 phút để lý giải, còn bạn phải

mất thời gian là 50 phút, người ta dùng một tiếng đồng hồ đi lý giải,

còn bạn phải mất 19 tiếng đi lý giải nó, đó cũng là lời nói của

người Trung Quốc < cần năng bù chuyết - chỉ cần siêng năng thì

Page 36: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

36

có thể bù lắp ngu đần của bạn, có rất nhiều người ngu si của họ

không thể hóa giải được, bạn nói cách nào họ cũng không thông

suốt, cũng không củ nhất phản tam, những ngu đần và ngu si này là

do trời sanh rất khó hóa giải, không cần biết như thế nào trong tiểu

thừa và đại thừa đều dùng tinh tấn bù đắp.

Còn một loại người là càng ngủ càng ngu, những người ngu chúng

ta có thể thấy rõ, đa số đều mập mạp, còn có 1 câu Đài ngữ nói

rằng < người mập thì không xa đần >, cũng tức là người càng mập

thì nhất định người đó ngủ rất tốt, ngủ càng nhiều thì càng ngu.

Cũng giống như con khỉ ốm nhách, nó ngủ rất ít thì hiển thị ra rất

tinh minh, những người ngu thì nhất định không linh hoạt, đầu óc

không sáng sủa, thường là ăn rất tốt và ngủ rất nhiều, tướng ngu

đần sẽ hiển thị ra.

Cho nên trong tiểu thừa hành giả có lúc tu trì < bất đảo đơn >, cũng

tức là không muốn nằm xuống để ngủ, để bảo trì thanh minh của

bản thân. Cũng có một số người ngủ càng ít đầu óc càng tốt, càng

sáng sủa tinh minh, trái lại có người ngủ càng nhiều thì tướng ngu

đần càng hiển thị rõ ràng, trong đây cũng là nói phải tinh tấn học

Phật pháp, về mặt trí tuệ cũng phải rất tinh tấn, tức là về mặt cầu

giải và trí nhớ đều phải siêng năng bổ chuyết, cho nên nếu muốn

đối trị chữ < si > thì phải dùng phương pháp tinh tấn.

Trong mật giáo có 1 phương pháp có thể gia tăng trí nhớ và trí tuệ,

đó là < Hư Không Tạng Bồ Tát trí tuệ pháp >, tôi đã từng viết

Page 37: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

37

trong sách mật tông < Kiết Ma Pháp >. Pháp này là thời xưa do

ngài Không Hải đại sư sau khi bản thân đắc tương ứng mà truyền

lại.

Theo tôi được biết, tông minh và ngu đần của con người khi ở trên

thế gian đã được định sẵn, cũng bởi do bạn đem đến bao nhiêu

nhật hoa mà định, cũng tức là do ngày giờ sinh của bạn đem được

bao nhiêu ánh sáng mặt trời, đem đến ánh sáng mặt trăng là bao

nhiêu, và đem đến bao nhiêu ánh sáng của địa cầu và ánh sáng của

các ngôi sao phối hợp lại, thì trong đầu óc bạn sẽ hình thành linh

quang hay không linh quang, cũng là trời định sẵn. Hành giả chỉ có

dùng phương pháp tinh tấn hoặc phương pháp tu để thay đổi năng

lực trí tuệ của bản thân, cũng tức là cải thiện trí nhớ lực và lý giải

lực của bạn. Nếu giả như hành giả không thể dùng tinh tấn và

phương pháp tu để thay đổi năng lực trí tuệ, vậy thì bạn vĩnh viễn

là người rất ngu đần rồi.

Trên thực tế, tu nữa cũng không có cách thay đổi năng lực trí tuệ

trời sanh, nếu mà như vậy, thì sẽ không có cách đạt được cảnh giới

khai ngộ, cho nên trong lục độ có < tinh tấn >, cũng tức là kêu bạn

phải siêng năng đi bù đắp khuyết điểm ngu si của mình

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 13 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 38: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

38

ĐỐI TRỊ CỦA < NGHI >

<Tham >, <sân >, <si > mấy ngày trước đã nói qua, hôm nay

chúng ta nói chữ < nghi >, cũng tức là hoài nghi của chữ < nghi >,

thật ra nghi cũng là căn bệnh của chúng sanh, trong thiền tông mà

nói là không bài trừ chữ nghi, mà lợi dụng phương pháp <nghi>

mà tu hành, thiền tông có nói <đại nghi trắc đại ngộ, tiểu nghi trắc

tiểu ngộ, bất nghi trắc bất ngộ >. Phương pháp của thiền tông

không phải là dạy chúng sanh đi hoài nghi Phật pháp, mà là muốn

bạn từ nghi mà nhập môn, nhưng < nghi > này là < nghi > theo cầu

chân lý, không phải là hoài nghi Phật pháp, hoài nghi sư phụ, cũng

không phải là hoài nghi pháp truyền lại của Thích Ca Mâu Ni Phật,

mà là trong Phật lý từ < nghi > mà tìm kiếm chân lý.

Cho nên thiền tông có rất nhiều công án, kỳ thật cũng là từ < nghi >

mà tìm kiếm thiền lý chân chính ở đâu; như < người niệm Phật là

ai >, thì bạn phải bắt đầu suy nghĩ, là bản thân bạn đang niệm Phật,

vậy thì bản thân này mà từ đâu mà đến vậy? Như vậy thì phải tiến

thêm 1 bước sâu hơn, cũng tức là đi tìm cầu chân lý sâu hơn.

Giống như vị thiền sư lúc trước từng nói < tâm bạn ở đâu vậy?>

Vậy thì bạn phải đi theo đuổi tâm, theo đuổi đến sau cùng thì có

thể tìm ra được chân lý, đây là 1 phương pháp của thiền tông.

Trong thiền tông còn có công án < người kéo xác chết là ai? > đạo

lý này cũng như nhau, cũng tức là kêu bạn đi theo đuổi người kéo

Page 39: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

39

cái vỏ này đích thực là người nào? Cũng tức là hỏi < hôm nay tại

sao bạn lại kéo theo cái vỏ này đi khắp nơi vậy >, bạn phải truy

cứu, đây là 1 công phu dùng < nghi > để sau đó thâm nhập nội

minh.

Trong mật giáo không có dùng < nghi >, bởi vì là một trong 5 thứ

độc, mà là đem nghi thăng hoa hoàn toàn thành kiên cố, thành bất

nghi ( không nghi ), nhưng mà đa số người trên thế gian nghi niệm

của họ rất nặng, hôm nay tín tâm rất kiên cố, hai ngày sau xem lại

thì thấy không được rồi, còn rất nhiều sai sót, tâm của họ liền thoái,

nghi niệm xuất hiện, như vậy cứ thường lặp đi lặp lại, đây là căn

bệnh của chúng sanh, hôm nay có tín tâm nhưng ngày mai thì lại

hoài nghi, hôm sau thì lại có tín tâm, lại qua ngày kia thì nghi ngờ,

cũng giống như những cơn sóng, có lúc hoài nghi Phật pháp, có lúc

hoài nghi sư phụ, còn lúc hoài nghi trên thế gian có tồn tại Phật lý

không, còn tồn tại nhân quả không, có tồn tại luân hồi không,

nhưng mà mật giáo là dạy bạn nhận rõ ràng Phật pháp, phải tự chủ

sanh tử, phải biết rõ con đường này là chuẩn xác, bạn sẽ không thể

nghi ngờ mà nhất định phải kiên cố chân chính đối với tín ngưỡng

Phật pháp, cung kính truyền pháp của thượng sư, nếu bạn trực tiếp

chạy, bạn sẽ sản sinh 1 loại chứng lượng. Từ nghi niệm đến chứng

lượng có thể phá trừ 1 thứ tâm lý đa nghi.

Cho nên thiền tông là từ < nghi > đi tìm kiếm chân lý, mật giáo là

dùng < chứng lượng > để phá trừ nghi niệm, chúng ta chỉ cần tu

Page 40: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

40

được chứng lượng của bản thân mình, nghi niệm có thể phá giải,

nếu mà khi bạn tu ra khí, biết được cơ thể có khí, bạn thông mạch

rồi, thì biết được mạch và huyệt có ánh sáng, bởi vì thấy ánh sáng,

bạn có thể nhìn ra được minh điểm, bạn đã kiên cố rồi đó, đó là

chứng lượng của bạn, là lúc chứng lượng sản sinh ra đương khí,

mạch, minh điểm, thì sẽ biết được sở đắc, bạn đắc được pháp vị đó

tín tâm sẽ rất kiên cố, cho nên 1 số người có nghi niệm đại đa số là

do chứng lượng không đầy đủ.

< Nghi > của người phàm phu là nghi tới đi lui, là 1 loại < nghi >

không tin Phật pháp, không tin nhân quả luân hồi, < Nghi> của

thánh nhân và < nghi > của thiền tông là như nhau, họ có thể trực

tiếp đi phân tích Phật lý, đạt được chứng ngộ sâu nhất cao nhất, đó

là nghi của thánh nhân. Cho nên nghi của phàm phu và nghi của

thánh nhân là không giống nhau, < nghi > của phàm phu chỉ là tới

lui, < nghi > của thánh nhân là truy tìm chân lý, hai cái này có sự

phân biệt. Và mật giáo là phải phá trừ < nghi > là dùng chứng

lượng mà phá trừ.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 14 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 41: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

41

ĐỐI TRỊ CỦA < MẠN >

Hôm nay chúng ta nói về tham, sân, si, nghi, mạn, là chữ < mạn >

này, chữ mạn này là cho cống cao ngã mãn, thế tục giải thích là

kiêu ngạo, một số mà nói tham, sân, si, nghi, mạn là bệnh của

người thế tục, hình như mỗi người ai cũng có, mà phương pháp đối

trị trong tiểu thừa là dùng phương pháp bình đẳng tâm để trị, cũng

tức là nói, thật ra mọi người đều bình đẳng, giống < vô ngã, vô

nhân, vô chúng sanh > cũng đều ở tại 1 chữ < vô >, tức là bình

đẳng, khi có tâm bình đẳng, tâm < ngã mạn > sẽ không dễ dàng

khởi lên được.

Chúng ta cũng nói qua đại thừa cũng là <lợi tha>, bởi vì Bồ Tát

cũng là < lợi tha >, nếu là lợi tha thì tâm ngã mạn cũng không dễ

dàng khởi lên được.

Ở đại thừa là < lợi tha >, nếu nói lợi tha thì là Bồ Tát, làm sao có

tập khí < ngã mạn > của người phàm phu? Nó cững không khởi

phát lên được, bởi vì bình thường đối với tất cả chúng sanh hoặc là

những người kém hơn bạn một chút, hoặc đối với những người trí

tuệ kém hơn bạn, căn khí kém hơn bạn, những người liệt căn tánh

nặng, bạn đã từ bi với họ rồi thì sẽ không dễ dàng sinh ra tâm ngã

mạn, cho nên nói đại thừa Bồ Tát là nói < từ bi lợi tha > thì tâm <

ngã mạn > sẽ không dâng khởi lên được; tiểu thừa thì trực tiếp nói

bình đẳng, tâm ngã mạn thì sẽ giảm bớt.

Page 42: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

42

Phương pháp của mật giáo và đại, tiểu thừa có chỗ không giống

nhau, phương pháp của mật giáo là đem ngã mạn trực tiếp thăng

hoa thành < Phật mạn >. Cái gì gọi là < Phật mạn >? Là 1 thứ mạn

vô thượng tối cao nhất của bản thân Phật, bản thân Phât mà nói, là

tối cao vô thượng, < mạn > này không phải là cống cao ngã mạn;

nếu mà nói ở đây < Phật mạn > trong mật giáo và < ngã mạn > của

phàm phu là không giống nhau, khác biệt chỉ có 1 chút, < Phật

mạn > của mật giáo, là nói: ta đã khai ngộ, vì muốn độ chúng sanh,

thì phải học Phật, đi phát đại nguyện, nếu như phát đại nguyện rất

lớn là độ tận tất cả chúng sanh, thì phải học đại hạnh của Phật, phải

dùng vô úy hoằng pháp độ hành vi của chúng sinh, đấy là đại hạnh,

muốn phát đại nguyện thì phải phát đại hạnh, cũng phải đại từ đại

bi, thật ra nếu nói ra đều là Phật mạn.Cũng giống như Phật Thích

Ca, lẽ ra ngài cũng có ngã mạn, nhưng < ngã mạn > này là phải

thuộc về Phật mạn, Bởi những gì ngài nói là Phật lý đi độ chúng

sanh, tận dụng thời gian, tiền bạc, sức lực 1 đời của mình mà làm

công tác hoằng pháp, ở đây đã đem ngã mạn thăng hoa thành Phật

mạn, cho nên nếu nói ra phải nói là không có gì kiêu mạn cả, cũng

tức là bạn đã là Phật vô thượng tối cao nhất, vậy Phật vô thượng

tối cao cũng tức là phải phát đại nguyện, hành đại hạnh cũng phải

đại từ và cũng phải đại bi.

Tiểu thừa dùng tâm bình đẳng để đối trị < Cống cao ngã mạn >, đại

thừa Bồ Tát là dùng tâm < lợi tha >, mật thừa là trực tiếp dùng <

Page 43: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

43

ngã mạn > của phàm phu thăng hoa thành < Phật mạn >, mà bản

thân Phật thì hành đại hạnh nguyện, hành đại bi, hành đại từ, đó

tức là Phật mạn. Cho nên tham, sân, si, nghi, mạn, là có thể đối trị

như vậy đó, cũng có thể thăng hoa.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 15 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

< BIẾT MỘNG > VÀ < CHUYỂN MỘNG > MỚI CÓ THỂ

VÃNG SANH

Chúng ta đã từng nói qua, nằm mộng cũng là 1 pháp giới, hành giả

mật giáo phải biết trong mộng mà biết được mộng, cũng tức là

đang nằm mộng thì biết mình đang ở trong mộng, nếu như đang

nằm mộng mà không biết mình đang nằm mộng thì biểu thị rằng

việc tu hành của bạn chưa tới đâu cả, cũng tức là không bảo đảm

sau này bạn sẽ vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, đạo lý này

rất đơn giản, bởi tình trạng thân trung ấm ( tức linh hồn, thần thức )

và cảnh giới mộng không khác nhau bao xa.

Chúng ta biết được rằng thành phần của thân trung ấm < phong -

gió> là nhiều nhất, trong tứ đại thì < phong đại > là nhiều nhất, mà

cảnh giới mộng của chúng ta và cảnh giới < phong đại > cũng gần

Page 44: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

44

như là nhiều nhất, cũng gần như không có thực chất, không có 1

loại thể chất thực tại, cũng tức là cảnh giới phong đại thường là

nhiều hơn, khi bạn chết thần thức, linh hồn xuất ra rồi, bạn cũng

không biết đây là cảnh giới linh hồn, làm sao mà vãng sanh?

Cho nên 1 hành giả của mật giáo trong mộng phải biết mộng,

không những như vậy, mà còn phải tu đến chuyển mộng, cũng tức

là nói cảnh khí mộng không tốt, nằm mộng thấy có người đuổi giết

bạn, lập tức bạn có thể chuyển mộng, cũng tức là đem cảnh giới

mộng chuyển thành tốt, lập tức được an lạc, đây cũng là công phu

tu hành của bạn. Nếu như trong cảnh giới mộng bạn không thể

chuyển mộng, cảnh giới trong mộng rất nguy hiểm, bạn cũng chịu

sự ảnh hưởng của mộng cảnh, cũng tức là tu hành của bạn chưa đủ.

Cho nên một hành giả tu hành mật giáo nhất định phải biết đây là

cảnh giới mộng, mà còn phải trong cảnh giới mộng này ở vào lúc

không tốt nhất có thể chuyển thành tốt, như vậy mới có một chút

công phu, bảo đảm bạn khi ở thân trung ấm ( thần thức, linh hồn

xuất hiện ) thì có thể vãng sanh.

Khi hiện tượng thân trung ấm xuất hiện, trong thiền định cũng có

thể xuất ra, trong lúc ngồi thiền thân trung ấm cũng có thể xuất ra,

trong hư không nhìn xem thân thể và gương mặt của bản thân mình,

đợi đến khi xuất định thân trung ấm lại về trong cơ thể mình. Giả

như nếu có thể thường ở trong thiền định, thân trung ấm có thể

chu du, bạn có thể tự chủ được trung ấm, bạn đã nắm chắc vãng

Page 45: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

45

sanh rồi, bởi vì linh hồn bạn có thể thường xuất ra mà không phải

đợi đến chết mới ra. Bình thường linh hồn cũng có thể xuất ra, mà

có nhất niệm vãng sanh có thể trực tiếp đến Phật quốc, vậy thì bạn

nắm chắc vãng sanh rồi.

Giả như thân trung ấm của bạn chưa từng xuất ra ngoài, mà bản

thân tu luyện của bạn trong mộng lại không biết là cảnh giới mộng,

chỉ là cười theo mộng, khóc theo mộng, khi bạn nằm mộng thấy

trong mộng rất ác liệt mà bạn không có cách giải thoát, thì biểu thị

công phu của bạn còn chưa được, cũng tức là sau này khi trung ấm

của bạn xuất ra, gặp được hoàn cảnh không tốt thì lập tức sẽ điên

đảo mộng tưởng, đọa vào lục độ luân hồi, đạo lý này rất đơn giản,

cho nên muốn có thể biết mộng, chuyển mộng và khi thân trung

ấm xuất hiện có thể tự chủ, đây mới chính là bảo chứng để vãng

sanh.

Cho nên mọi người hãy tỉ mỉ suy nghĩ, hiện giờ khi bạn nằm mộng

có biết được là đang nằm mộng hay không? Suy nghĩ 1 lần nữa có

phải không lập tức có thể tự chủ mộng của mình.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 18 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 46: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

46

< BI > < TRÍ > < DŨNG> - TAM ĐỨC

Lúc trước có 1 bộ phim tên là < Tam Đức Hòa Thượng >, các bạn

có nghe qua chưa? Bởi có rất nhiều người hỏi cái gì là tam đức?

bạn biết có 1 vị < Tam Đức Hòa Thượng >, tại sao lại kêu < Tam

Đức Hòa Thượng > vậy? Đó là tam đức nào? Kỳ thật tam đức rất

đơn giản, cũng tức là nói người tu hành phải ứng dụng tam đức để

ứng xử thế trên thế gian, làm 1 số pháp vụ cũng là nhờ tam đức,

sau này có thành tựu cũng là nhờ tam đức. Tu hành cũng nói rất

nhiều, thật ra < tam đức > này mới là quan trọng nhất, một là Văn

Thù Sư Lợi Bồ Tát làm đại diện, một là Quán Âm Bồ Tát làm đại

diện, một là Kim Cang Thủ Bồ Tát làm đại diện. Văn Thù Sư Lợi

Bồ Tát tức là đại bểu cho trí tuệ, bởi vì trí tuệ của ngài là đứng đầu ;

Quán Thế Âm Bồ Tát tức là lấy từ bi dẫn đầu, Kim Cang Thủ Bồ

Tát tức là đại biểu cho pháp lực (uy dũng) ( Kim Cang Thủ Bồ Tát

tức là Kim Cang Tát Đỏa chỉ do ngài biến hóa thân tức là Kim

Cang Thủ Bồ Tát ), cho nên tam đức tức là < bi >, < trí >, <dũng

(lực) >, đây chính là tam đức của Phật pháp.

Lúc trước chúng ta xem phim < Tam Đức Hòa Thượng >, đúng cái

gì gọi là tam đức không ai biết, Kỳ thực tam đức tức là < Bi > < trí >

< lực >. Hôm nay chúng ta học Phật cũng là muốn được < vô

thượng trí tuệ >, tất cả mọi người đều biết rồi, nhưng mà bạn muốn

đạt được vô thượng trí tuệ để làm gì? Tức là phải từ bi với chúng

Page 47: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

47

sanh, đem trí tuệ cho chúng sanh, nhưng mà bạn cho chúng sanh trí

tuệ là chưa đủ, bạn nhất định phải giải trừ phiền não của chúng

sanh, ở đây phải nhờ cái gì? Tức là phải nhờ < pháp lực > tức là

pháp lực của Kim Cang Thủ Bồ Tát.

Chúng ta tu hành ở trên thế gian này là để làm cái gì? Là để theo

cầu vô thượng trí tuệ, sau đó cho chúng sanh từ bi, giải quyết phiền

não của chúng sanh, đấy là lợi tha. Nhưng nếu mà dùng tự lợi mà

nói, bạn cũng là đang theo cầu vô thượng trí tuệ đó! Bạn cũng phải

rèn luyện, tập luyện pháp lực của mình. Trong mật giáo mà nói, chỉ

có Kim Cang Thủ Bồ Tát pháp lực của ngài là pháp lực lớn nhất,

bởi Ngài là trưởng tử của Ngũ Phương Phật, cũng tức là tập hợp

biến hóa ứng thân của Ngũ Phương Phật.

< Trí tuệ> và < Từ Bi > chúng ta cũng đã nói rất nhiều, vậy còn <

pháp lực>? Kỳ thật < pháp lực > trong Ngũ Phương Phật cũng đã

có rồi, <thành sở tác trí> là thành tựu của Bất Không Thành Tựu

Phật, cái gì gọi là < thành sở tác trí >? Tức là < pháp lực>. Thành

tựu của Phật Bất Không là <thành sở tác trí >, ý nghĩa của nó là sở

tác của bạn cũng có thể thành tựu, đây chính là lực lượng ( pháp

lực ), cho nên chúng ta phải giải quyết phiền não đau khổ của

chúng sanh, tức là phải dùng lực của chúng ta giúp đỡ họ mà phát

huy ra để có thể thành tựu tất cả các tác vi gọi là < pháp lực >.

Cho nên trên thế gian hành giả chỉ có thể ứng dụng 3 thứ này để

cứu độ chúng sanh, 3 thứ này gọi là < tam đức >, một cái là < vô

Page 48: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

48

thượng trí tuệ >, một cái là < vô thượng từ bi >, một cái là < vô

cùng của pháp lực >. Nếu chúng ta đều đắc được 3 cái trên, cũng

tức là bạn ở thế giới Ta Bà dùng 3 cái này cứu độ chúng sanh, thật

ra nếu bạn đắc được 3 cái trên cũng tức là bạn thành Phật, bản thân

Phật cũng dùng 3 cái này đi cứu độ chúng sanh, Phật cũng là dùng

vô thượng trí tuệ giác ngộ của chánh giác mà thành Phật, phải

dùng đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát phát bồ đề tâm cứu độ

chúng sanh, dùng lực Phật pháp vô biên đi giải trừ những đau khổ

và phiền não của chúng sanh, đó chính là < tam đức> - sự cần có

đầy đủ của người tu hành, nếu bạn có được < tam đức> rồi, bạn có

thể thành Phật. Cho nên học Phật chúng ta nói rất nhiều, kỳ thật <

tam đức > là quan trọng nhất, tóm lại mà nói <tam đức > tức là

chúng ta đã nói về < tam đức > ở trên đó, các bạn có hiểu được

không?

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 19 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 49: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

49

TU MẬT PHÁP PHẢI CÓ CHÂN CHÍNH KIM CANG

THƯỢNG SƯ HƯỚNG DẪN, MẬT BẢN TRÊN THỊ

TRƯỜNG KHÔNG THỂ TU

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều sách mật giáo được phiên

dịch ra như < Bổn tục Hỷ Kim Cang >, còn có < Mật Giáo Kim

Cang Bổn Tục >, cũng có < Bổn Tục của Thời Luân Kim Cang >,

lúc trước rất lâu tôi đã từng xem qua 1 cuốn < đạo quả >, cuốn

sách này thuộc Hoa giáo (dòng Sakya), < đạo quả > cuốn sách này

cũng tức là viên mãn thành Phật của Hỷ Kim Cang đứng thứ 2.

Hiện nay có rất nhiều loại sách mật tông được lưu hành ở ngoài rất

nhiều, đệ tử mật giáo đi thỉnh những cuốn sách này về xem, đa số

đều không thể hiểu, tại sao vậy? Cũng bởi do có 1 số thượng sư khi

đem những cuốn sách này truyền ra ngoài, có 1 số là cố ý làm điên

đảo thứ liệt, tại sao? Cũng tức là muốn cho mọi người biết có 1 số

mật pháp, nếu như không có Kim Cang thượng sư thực tu hướng

dẫn cho bạn, bạn không thể tu được, bởi những cuốn sách thứ tự

của nó là điên đảo, như cuốn sách < Đạo quả > cũng không phải từ

1 cuốn pháp bổn nào ra, bạn y theo pháp bổ tu, thì sẽ có cách hiểu

được toàn bộ nghi quỹ trong sách, bởi những sách mật giáo phiên

dịch, thật sự đến những khẩu khuyết quan trọng hoặc khi đến

những vấn đề kỹ thuật, cũng là đều viết < mời bạn đi thỉnh giáo

Kim Cang thượng sư >, hoặc là dùng ẩn ngữ ( tức là ngôn ngữ

Page 50: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

50

được ẩn dấu ), hoặc là dùng <…….> để thay thế cho đây là bí mật,

bạn phải đi thỉnh giáo Kim Cang Thượng Sư mới hiểu rõ, cho nên

những cuốn sách được lưu hành ở bên ngoài như < Kim Cang Mật

Giáo Bổn Tục >, < Thời Luân Kim Cang Bổn Tục >, < Hỷ Kim

Cang Bổn Tục > và các nghi quỹ của tạng mật, đều không hoàn

chỉnh, khẩu khuyết cũng không rõ ràng, cũng có rất nhiều phương

tiện thiện xảo và khẩu khuyết quan trọng đều được ẩn dấu, cũng

không thể khởi tu, bạn chỉ có thể xem, bởi xem rồi cũng không biết

bắt đầu tu từ đâu, một thí dụ rất đơn giản như < Chuyết Hỏa Thứ

Đệ > mà nói, nhất định phải có nội nhiệt trước tiên, kế đến là có

khói, tức là có độ nóng sau đó là có khói, từ khói sau đó biến thành

hỏa, có hỏa rồi sẽ biến thành quang ( ánh sáng ), không cần biết là

thế nào, bạn có độ nóng, có khói, có hỏa, có quang trong các quá

trình trên bạn cũng sẽ thấy các ảo cảnh, bạn thấy các ảo cảnh là

biểu thị cảnh giới của bạn đã tới đâu, cũng tức là chỉ thị bạn phải tu

như thế nào, phải tăng cường ở mặt nào, mặt nào không nên chấp,

cũng đều phải cần khẩu khuyết của Kim Cang thượng sư.

Cho nên về mặt truyền thọ mật pháp, một vị Kim Cang Thượng sư

chân tu thật sự mới có thể chân chính dùng khẩu khuyết truyền lại

cho bạn, sách chỉ có thể dùng để tham khảo. Thật sự khi nhìn thấy

1 cảnh ảo giác nào đó cần phải có thượng sư thật tu nói cho bạn

biết, < những cái nhìn thấy được là gì >, là muốn bạn phải tăng

cường phong của 2 bên mà tiến vào trong huyệt, hoặc là bạn đã sản

Page 51: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

51

sinh trí tuệ khí rồi, từ phong tức mà chuyển thành trí tuệ khí, tức là

khí của thế tục đã chuyển thành trí tuệ khí, hoặc trong huyệt cũng

đã tới tề luân ( rốn ) rồi, hoặc là đã tới tâm luân rồi, nếu đã thông

tới tề luân thì tâm luân cũng sẽ hiển thị không cùng cảnh giới, nhất

định phải có thật tu Kim Cang thượng sư nói cho bạn biết mới hiểu

rõ được, nếu như không nói cho bạn biết, thì bạn sẽ cho rằng trung

huyệt đã thông rồi, cho nên trong đó có rất nhiều kỹ xảo khẩu

khuyết và rất nhiều phương pháp quan trọng, cũng là nhất định

phải cần có chân chính thật tu Kim Cang thượng sư mới có biện

pháp dạy cho bạn, chỉ dựa vào sách bên ngoài, bạn xem nữa ngày

cũng không biết phải tu như thế nào.

Nhất là còn có bộ < Vô Thượng Mật > rất quan trọng, toàn bộ

những gì được nói trong đó đều không có lộ ra, trong pháp bổn

cũng không có, trong đó có rất nhiều thứ nhất định phải là từ

miệng của thượng sư nhất nhất nói cho bạn mới hiểu rõ được, cho

nên việc thọ pháp của thượng sư là tính chất thực tế quan trọng,

không phải là ở bên ngoài mua mấy cuốn sách dạy mật pháp rồi có

thể bắt đầu tu pháp.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 21 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 52: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

52

TU HÀNH DUNG NHẬP VÀO TRONG ĐỜI SỐNG SINH

HOẠT HẰNG NGÀY

Chúng ta thường nghe nói rằng, tu hành tức là dung nhập vào trong

đời sống sinh hoạt thường ngày, về mặt này có thể chia ra thành 4

tình cảnh, đại đa số là ở trong đời sống sinh hoạt thường này trừ tu

pháp ra, tức là đang làm việc, cho nên trừ tu pháp và làm việc ra

gần như tất cả thời gian là ngủ, ngủ cũng cũng được chia thành thật

sự đang ngủ vả đang nằm mộng, cũng tức là nói có thể chia thành

<tu pháp >, < làm việc >, < ngủ>, < nằm mộng > 4 tình cảnh.

Bốn loại này có thể nói, cũng có phương pháp đặc biệt của nó, ví

dụ khi đang ngủ có thể tu < quang minh pháp >, trước khi ngủ phải

quán chiếu bản thân mình phóng quang, sau đó sẽ ngủ trong ánh

sáng quang minh đó, lúc trước đã từng dạy mọi người, đem gường

của mình trước tiên quán chiếu thành bông sen, sau đó bản thân

mình ngủ trong bông sen đó, bản thân còn phải kỳ cầu sự gia trì và

trì chú của bổn tôn và thượng sư, phải quán tưởng cổ họng của

chúng ta phóng quang màu trắng, đem bản thân mình che lại thành

kiết giới, đó là pháp tu trước khi ngủ, khiến cho giấc ngủ của bạn

kéo dài đến khi tỉnh, đó là pháp tu ngủ.

Nếu như bạn đang nằm mộng thì nhất định phải biết mộng, tức là

phải biết mình đang nằm mộng, bạn chạy theo mộng cũng không

sao, nhưng nếu trong mộng gặp những chuyện không tốt, phải biết

Page 53: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

53

dừng lại kịp lúc, cũng tức là lúc thường ngày khi thức chúng ta

phải biết làm việc thiện, nhưng trong mộng thì không có biện pháp

khắc chế, cho nên không những bạn phải biết mộng, mà còn phải

biết trong mộng khắc chế bản thân, tức là khi ngủ nằm mộng và

khi tỉnh hoàn toàn là như nhau, tình trạng này gọi là đang tu mộng,

không những khi đang ngủ tu quang minh, ngủ trong hoa sen

quang minh, bạn có thể tu hành trong mộng, đó là giai đoạn thứ hai.

Khi chúng ta đang tu pháp càng không thể nói được, bởi khi tu

pháp là nhất định đang tu pháp. Khi đang làm việc thì phải làm sao

đây? Có một số người nói, khi đang làm việc thì không có cách tu

hành được, trong mật giáo có một cách quán tưởng rất đơn giản,

tức là trước tiên trong một sát na đem bản thân mình biến thành

bổn tôn? Nếu bổn tôn của bạn là Quán Thế Âm Bồ Tát, khi đang

làm việc bạn phải luôn đem bản thân mình biến thành Quán Thế

Âm Bồ Tát, vừa làm việc vừa có thể trì chú, ý niệm đang ở Quan

Thế Âm Bồ Tát và đang lúc trì Ngài ở trong tâm, đó cũng là đang

tu hành. Ví dụ chúng ta đang trả lời thư cũng có thể vừa trả lời vừa

trì tâm chú của bổn tôn mình, cũng có thể đem bản thân mình quán

tưởng thành bổn tôn, nếu tiếp tục trì như vậy, cũng tức là bổn tôn

đang trì tâm chú và đang làm việc, cho nên trong lúc đang làm việc

cũng có thể tu hành.

Một số khi đang tu pháp làm hộ ma, bạn nhất định phải quán tưởng

thành bổn tôn, bổn tôn và bạn là không thể tách rời, cho nên nói

Page 54: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

54

yếu khuyết của hộ ma là < bổn tôn, bạn, hỏa, 3 cái hợp nhất >,

cũng tức là bổn tôn và bạn cùng nhau làm hỏa cúng, 3 cái là không

thể tách ra, cho nên khi đợi bạn tu lâu rồi, bổn tôn và bạn bất kể lúc

nào cũng không thể tách rời, bất kể là đang ngủ, đang nằm mơ,

đang làm việc, đang tu pháp, bổn tôn và bạn là hoàn toàn không

thể chia tách, sau này khi vãng sanh bản thân rất nhanh có thể biến

thành bổn tôn.

Cho nên người học Phật thường nghe 1 câu nói, tu hành không

phải là không làm việc, không ăn uống, không ngủ, chỉ là ngồi tọa

thiền, ngồi nhiều sẽ biến thành tinh thần thất thường, bởi bạn

không ăn, không ngủ, cũng không làm việc, mỗi ngày đều ngồi đó,

ngồi đến sau cùng người bình thường đều phát giác bạn không

bình thường, người không bình thường nhìn bạn càng không bình

thường, bởi bản thân bạn đã đi sai đường, cho nên 1 người tu hành

bình thường tu hành là có thời gian, thời gian làm việc, thời gian

ngủ, thời gian làm việc, thậm chí là có thời gian ăn cơm, có thể

sống 1 cuộc sống sinh hoạt bình thường, không phải là nói hiện

nay tôi bắt đầu tu rồi thì bèn bỏ công việc đang làm, buổi tối không

ngủ cũng không ăn, đói đến chỉ còn da bọc xương, đến đúng biến

thành triệu chứng chán ăn, đến sau cùng sẽ thành bệnh.

Cho nên đem việc tu hành hòa nhập vào sinh hoạt đời thường có

rất nhiều phương pháp, như bình thường phải tu như thế nào, làm

việc phải tu như thế nào, lúc ngủ phải tu như thế nào, khi nằm

Page 55: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

55

mộng thì phải tu như thế nào, nếu như có thể đem việc tu hành

hoàn toàn dung nhập vào trong sinh hoạt thường ngày, sau này

nhất định sẽ có thành tựu rất lớn.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 21 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

CẦU < NỘI PHÁP > NHẤT ĐỊNH PHẢI TRANG BỊ ĐẦY ĐỦ

CƠ BẢN

Hôm nay phải nói, sau này khi truyền thụ < nội pháp >, < mật

pháp >, < mật mật pháp > cũng tức là < nội pháp khí, mạch, minh

điểm >, < vô thượng mật > và < đại viên mãn > vậy đích thực cần

phải có những điểm cơ bản nào mới có thể đến cầu được?

Thật ra trình tự của Phật pháp, là có thứ đệ, thứ nhất là phải sám

hối các nghiệp chướng mình đã làm lúc trước, bổn lai của Phật

pháp là bắt đầu từ sám hối, sau khi sám hối cơ bản nhất của Phật

pháp là học < Thập Thiện pháp >, sau khi bạn sám hối rồi, cũng

hành thập thiện rồi ( Thập Thiện pháp cũng tức là cơ bản của trời

người ), kế đến là phải hiểu được < xuất ly > và < vô ngã > của

tiểu thừa, bạn nhất định phải biết được < xuất ly > là gì? < vô ngã >

là gì. Kế tiếp là học < lợi tha > < phát bồ đề tâm > < từ bi tâm >

của đại thừa và tâm cứu độ tất cả các chúng sanh, có được cơ bản

Page 56: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

56

như vậy sau này tiếp tục học< Kim Cang thừa > tức là < Gia hành

pháp >và < Thượng Sư tương ứng pháp >, tu tiếp đến < bổn tôn

pháp >, những cái này tương ứng rồi, thì có thể nói bạn tu < nội

pháp > đã có cơ bản rồi đó.

Bạn muốn cầu <nội pháp > < vô thượng mật >, < đại viên mãn >

thành Phật, trước tiên phải sám hối tất cả các nghiệp chướng, tiếp

đến hành < thập thiện nghiệp > làm tốt cơ bản của trời người, từ

tâm < xuất ly > < vô ngã > của tiểu thừa đến < phát bồ đề tâm >

cứu độ chúng sanh < lợi tha > của đại thừa, tiếp đến là < tứ gia

hành > tương ứng rồi, < thượng sư pháp > cũng tương ứng rồi, <

bổn tôn > cũng tương ứng rồi, cơ bản này đã đủ rồi, thì có thể bắt

đầu tu nội pháp cho đến thành Phật.

Nếu như bạn không có những cơ bản này, thì nhất định phải y theo

trình tự của Phật pháp mà làm, khi cơ bản vững vàng rồi, và tự tin

đã có đầy đủ các điều kiện trên, thì có thể cầu < nội pháp >, sư tôn

sẽ dạy mọi người tu < khí, huyệt (mạch), minh điểm > như thế nào,

làm thế nào để được kim cang bất hoại thân, làm sao để được thân

Phật, làm sao để thành tựu thánh nghĩa quang minh đại viên mãn,

sau này sẽ nhất nhất truyền tới cho mọi người.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 25 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 57: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

57

BỐN TẦNG THỨ MẬT GIÁO - < QUÁN >, < KHÍ>, < DỤC >,

< KHÔNG >

Chúng ta phải hiểu được tầng thứ tu hành của mật giáo, được chia

thành < ngoại pháp >,< nội pháp >, < mật pháp >, < mật mật

pháp >, những cái này chúng ta đều đã hiểu rõ, cũng biết rằng

ngoại pháp tức là tu đến < bổn tôn pháp >, nội pháp tức là < khí,

mạch, minh điểm >, mật pháp tức là < vô thượng mật >, mật mật

pháp tức là < đại viên mãn >. Thật ra tất cả đều có những trọng

điểm của nó, nếu như bạn thâm nhập sâu vào trong mật giáo, rất

nhanh có thể ứng dụng phương pháp tu hành, hiểu được trong đó là

nói cái gì.

Ngoại pháp quan trọng nhất là < quán > chữ, dùng những đồ vật có

duyên với mình và tâm của bản thân mình dùng phương pháp <

quán > mà tu.

Còn nội pháp? Rất đơn giản chỉ là tu một chữ < khí >, tuy rằng

huyệt mạch và minh điểm đều là những thứ có trên người bạn, chỉ

là bạn ứng dụng phong tức, cho nên quan trọng nhất của nội pháp

là tu < khí >, cũng tức là < phong tức >.

Thêm một bước nữa là tu < vô thượng mật >, tức là tam quán, bản

thân tam quán mà nói, tức là hoàn toàn tu trên thân bạn mà tu <

dục >, cũng tức là đem những dục vọng trên người bạn chuyển hóa.

Page 58: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

58

Vậy đại viên mãn là tu những gì? Tức là tu < không >, thuộc < tứ

quán >, cho nên tôi đem nó chia thành: sơ quán tức là < quán >,

nhị quán tức là < khí >, tam quán là < dục >, tứ quán tức là <

không >. Bạn có thể tự mình suy nghĩ, đích thực là như vậy.

Sơ quán là ngoại duyên tức là dùng quán tưởng, dùng niệm lực, nhị

quán tức là tu khí, huyệt mạch, minh điểm, hoàn toàn là dùng khí

mà tu < nội pháp >, đến quán thứ 3 tức là < vô thượng mật > tức là

đem dục vọng của bạn chuyển hóa, cũng tức là đang tu dục, đến

quán thứ tư thì tiến vào < đại không >, đắc được đại viên mãn

thành tựu niết bàn thắng nghĩa quang minh, đây tức là < không >,

cũng chỉ là một chỉ thôi, các bạn phải thể hội cho rõ.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 26 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 59: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

59

QUAN TRỌNG CỦA NỘI PHÁP TU HÀNH

Thời trước rất lâu, đọc < Diêu Trì Kim Mẫu giải thoát chân kinh >,

trong đó có nhắc đến, thân thể của con người có rễ, thân, lá, cũng

có hoa, có quả, căn bản nhất là có rễ, bởi nếu không có rễ thì

không có thân và lá, cũng không có hoa, không có quả, cũng tức là

< tu đạo cũng là tu căn >.

Chúng ta suy nghĩ tỉ mỉ, kỳ thật trong < Diêu Trì Kim Mẫu giải

thoát chân kinh > đề cập đến là nội pháp, < tinh, khí, thần > của

bạn từ đâu mà ra, thì từ đó mà thu trở về, tu đạo tức là một < căn

bản >. Chúng ta đều hiểu được tu hành là gì, tu hành tức là tu tâm,

tu tâm rất quan trọng. Nhưng mà đến khi Đạt Ma sư tổ hỏi bạn <

tâm ở đâu > bạn sẽ không trả lời được, kêu bạn đem tâm cho tôi

xem < tâm ở đâu? >, mọi người đều biết tu tâm, kỳ thân của tâm là

<không >, không có thực thể, cũng tức là đồ vật không có căn bản,

cho nên nếu bạn có thể thể hội đến Phật pháp, thì bạn sẽ biết tâm là

không, thân thể tức là phương tiện, bạn nói tu tâm, tu tâm là không

có thực chất đồ vật tồn tại, bạn dùng thân thể tu là chính xác, cho

nên mật giáo nói < thân tâm bất nhị >, là 1 thứ đồ vật, thân thể tức

là tâm, tâm tức là thân thể, thân thể tức là phương tiện, tâm tức là <

không huệ >, cho nên nói: nội pháp là tu thân, đây cùng với < Diêu

Trì Kim Mẫu chân kinh > tương ứng phù hợp, ngài cũng hoàn toàn

là tu căn, bản thân của nội pháp mà nói cũng là tu căn, từ thân thể

Page 60: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

60

bạn bắt đầu tu, có thể tìm kiếm đến thắng nghĩa quang minh, quang

minh thắng nghĩa này tức là < tâm >, là tâm của vũ trụ, từ phương

tiện bắt đầu tu cho đến khi tìm được quang minh thắng nghĩa, đó là

chân như của tâm, cũng tức là từ thân thể có hình tướng, tu đến

tâm vô hình, đây cũng là công dụng tu hành nội pháp của mật giáo.

Cho nên nội pháp rất quan trọng, cũng tức là đem thân thể hoàn

toàn vào trong tỉ mỉ nhất, ứng dụng địa, thủy, hỏa, phong, vào

trong thân thể cho đến giải thích đến không cảnh, cũng không phải

là kêu bạn đừng sờ được biên tế, chúng ta nói đến tu tâm đa số đều

là không sờ vào biên tế, tâm tức là < không tuệ >, bạn nói tu như

thế nào? Hay là còn từ phương tiện thân thể mà bắt đầu tu, mà

phương tiện của thân thể là nội pháp, điểm này rất quan trọng.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 27 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương Kính ghi

Page 61: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

61

DANH XƯNG CỦA < NGŨ KHÍ > VÀ TÁC DỤNG

Trong nội pháp của mật giáo nói về < khí > có rất nhiều danh từ,

có mấy danh từ cơ bản, mọi người cần phải nhận biết. Thật ra

nhiều danh từ quá cũng không tốt, tôi cho rằng danh từ nhiều quá

ảnh hưởng đến thực tu, bởi vì danh từ nhiều quá sẽ rất hỗn loạn.

Thật ra khi thực tu có rất nhiều danh từ chỉ cần nhớ là được rồi,

không cần phải thuộc lòng, nếu không sẽ dễ làm rối loạn việc thực

tu của bạn.

Khí ở phàm phu mà nói, gọi là < khí thô >, đó là khí hơi thô tục

một chút, tức là trên mỗi con người chúng ta đều có khí, bởi không

có khí thì không thể sống. Nếu như bạn bắt đầu tu nội pháp, < khí >

được dùng là <khí tỷ>. Từ tu nội pháp mà sanh ra < khí trí tuệ >, <

khí > này được gọi là < tối tỷ khí >.Phần nhiều khí được chia thành,

thô, tỷ, và tối khí.

Trong mật giáo có nói đến < ngũ khí >, 5 loại khí này thật ra cũng

là 1 loại khí, nhưng tác dụng không giống nhau, cho nên được chia

thành 5 loại khí. Cái thứ 1 gọi là < mệnh khí > là không thể động

được, là thuộc về trường thọ sống lâu, trên thân thể bạn quý nhất là

< mệnh khí>. Cái thứ 2 gọi là < hạ hành khí >, tức là khống chế

khí của nửa thân dưới. Nói ngược lại khống chế nửa thân trên thì

gọi là < thượng hành khí >. Còn có 1 cái gọi là < trụ khí >, cũng

giống như đem khí trụ ở hạ đan điền, khí này gọi là < bình trụ

Page 62: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

62

khí >, đem khí trụ ở hạ đơn điền, trung điền gọi là < bình trụ khí >.

Còn có 1 cái gọi là < thiên hành khí >, là phân bố ở tứ chi, như ở

tay, chân, là ở nơi những phạm vi khống chế.

Cho nên nói, khống chế nửa thân dưới là < hạ hành khí >; khống

chế nửa thân trên là < thượng hành khí >; có thể khống chế được

trụ ở nơi nào là < bình trụ khí > ; không chế tánh mạng gọi là <

mệnh khí >; thuộc về tay chân gọi là < Thiên hành khí >. Rất đơn

giản mà nói, khi bạn tu chuyết hỏa (nội hỏa – tummo), nhất định

phải dùng bình trụ khí, bởi vì là đem khí trụ ở một nơi, khi bạn

luyện kim san quyền, nhất định là biên hành khí, bởi kim san

quyền là dùng tay và chân. Thật ra bình trụ khí, thiên hành khí,

thượng hạ hành khí, mệnh khí đều có tương quan lẫn nhau, chỉ là

tác dụng không giống nhau thôi.

Quam trọng nhất là về mặt < khí > khi tu nội pháp, là đem khí thô

của phàm phu biến thành tỷ khí khi tu nội pháp, kỳ thật tỷ khí cũng

là 1 phương tiện khí, đem phương tiện khí biến thành < trí tuệ

khí >, tức là < tối tỷ khí >. Trí tuệ khí là làm cái gì? Thật ra là 1

loại quang minh, một cách nói khác là thắng nghĩa, chúng ta từng

nói < thắng nghĩa quang minh > tức là < tối tỷ khí >. Chúng ta nói,

tánh không, quang minh, chân như, Phật cũng thuộc thắng nghĩa

quang minh, cũng tức là chuyển hóa của 1 loại tỷ khí, cũng đều có

liên quan với việc tu mật pháp, bổn tôn và Phật của chúng ta.

Page 63: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

63

Tu nội pháp cũng tức là từ tu khí trực tiếp ấn chứng đến < Phật >,

< Như Lai > < chân lý >, < thắng nghĩa quang minh > < trí tuệ

khí >, cũng tức là từ thô đến tỷ (vi tế), đến tối tỷ (tối vi tế), ứng

dụng ngũ khí của thân thể mà tu hành.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 28 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

THỀ NGUYỆN HỌC NỘI PHÁP VÀ < TAM MUỘI DA

GIỚI > (SAMAYA – Giới nguyện Mật thừa)

Gần đây chúng ta đều nói đến nội pháp, vô thượng mật, đại viên

mãn, nếu muốn tu nội pháp thì nhất định phải thệ nguyện, cũng tức

là thề và nguyện vọng, thật ra ở kim cang thừa khi bắt đầu quy y đã

có thề nguyện, có thể nói là < tam muội da giới > cũng tức là thề

nguyện của thân thể, cũng tức là từ đây thân thể biến thành 1 đàn

thành (mạn đà la), cũng tức là trước khi bạn tu kim cang thừa cũng

đã thề nguyện tam muội da giới (samaya – mật giới) rồi. Đến nội

pháp thì thệ nguyện càng sâu, bởi vì nội pháp, vô thượng mật và

đại viên mãn có rất nhiều bí mật trong đó và những khẩu khuyết

không thể nói, nếu là những bí mật và những khẩu khuyết không

thể nói thì đương nhiên là sư phụ không thể tùy tiện truyền, đệ tử

Page 64: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

64

thọ pháp cũng không thể tùy tiện nói, trừ khi là thượng sư nói với

bạn có thể đi truyền thọ cho người khác, đó là bạn đã phát thệ

nguyện độ chúng sanh và thông qua sự ấn chứng, công nhận của

thượng sư mà bạn có thể đi truyền nội pháp, vô thượng mật, đại

viên mãn.

Tại sao phải như vậy? Bởi vì nội pháp, vô thượng mật, đại viên

mãn của mật pháp qui định là không được nói cho người chưa

thành thục, cũng tức là chỉ người này đối với mật pháp chưa thành

thuộc, họ đối với nội pháp, vô thượng mật, đại viên mãn thật ra là

chưa hiểu rõ, đối với những người sơ quán, thượng sư và bổn tôn

chưa tương ứng, cho nên đối với những người này nếu như bạn

đem nội pháp, vô thượng mật, đại viên mãn truyền cho thì hai bên

sẽ cùng phạm giới, là < đối với người chưa thành thục nói mật

pháp giới >, cho nên trong đó có thề nguyện, tức là người học mật

pháp cần phải ở trước Phật và Bồ Tát thề nguyện, sau khi bạn được

những thề nguyện trên là phài thành tựu Phật và Bồ Tát sau này

cũng phải độ chúng sanh, đó chính là nguyện. Cho nên có thề, có

nguyện, mới thành < tam muội da>, bạn phạm giới như vậy, gọi là

phạm < tam muội da giới > (mất giới).

Có rất nhiều người hỏi tôi, cái gì là < tam muội da giới >? Tức là

chỉ trong thân thể của bạn bao gồm nội ngoại mật đều ở trong đó.

Giới tức là giới luật, cho nên sau này khi tu học nội pháp, vô

Page 65: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

65

thượng mật, đại viên mãn phải ở trước Phật và Bồ Tát thề nguyện,

thề nguyện này tức là < tam muội da giới >.

Rất nhiều người nói có thể ở trước mặt Phật và Bồ tát thề nguyện,

nhưng hôm nay thề rồi ngày mai lại quên mất, không được như vậy.

Ở mật giáo mà nói thì rất nghiêm trọng. Cho nên những thề nguyện

tùy tiện là không tính. Kỳ thật Phật và Bồ Tát độ chúng sanh cũng

là thừa nguyện tái lai, các ngài thừa nguyện gì vậy? Tức là thừa thề

nguyện mà trở lại. Và còn hộ trì chúng sanh thật ra là cũng có

những thề nguyện của kiếp trước, kiếp trước bạn đã thề với sư tôn

thì kiếp này bạn phải đến đây để trả thề nguyện này, duyên của kết

thề nguyện này là như nhau. Kiếp này thề nguyện thì kiếp sau hoặc

là trong kiếp này phải thực hiện, cho nên thề nguyện không phải là

thề không.

Thật ra < tam muội da giới > là lời thề quan trọng trong kim cang

thừa, cũng là duyên khởi, tức là 1 thứ duyên phận dâng lên cùng ở

chung nhau. Cho nên sau khi bạn ở trước mặt Phật và Bồ Tát thề

nguyện, đến kiếp sau vẫn còn tồn tại.

Hôm nay chúng ta nói về tam muội da giới thề nguyện của Phật

giáo, mọi người phải nhận biết rõ ràng, đây chính là duyên khởi,

bạn không được phạm tam muội da giới. Sau này phải dạy thọ nội

pháp, vô thượng mật, đại viên mãn, trong đó có rất nhiều thề

nguyện, làm sư phụ nhất định phải nói rõ cho đệ tử biết, trước khi

cầu pháp nhất định phải ở trước Phật và Bồ Tát thề nguyện rõ ràng,

Page 66: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

66

cũng không được tùy tiện truyền ra ngoài, trừ phi được thượng sư

căn bản cho phép, bản thân bạn cũng phải có chứng lượng tương

ứng mới có thể truyền, đây chính là điểm đặc biệt không giống và

sơ quán bổn tôn là không như nhau. Sơ quán bổn tôn là bất cứ

người nào cũng có thể tu học, nếu chân chính bước lên thêm 1 tầng

của mật pháp thì có rất nhiều người không thể theo được. Bởi vì

cần phải xem pháp khí: Có thể tu thành được không? Có thành

thục không? Những điểm này là quan trọng nhất. Không thành

thuộc sàn như thế nào đi nữa cũng gặp bại lụy, cũng là không thể

thành thuộc, không phải pháp khí.

Cho nên hôm nay phải hiểu được cái quý của nội pháp, và cái trân

quý của vô thượng mật, đại viên mãn, không phải như sơ quán lần

trước chỉ là nói sơ sài tùy tiện, mọi người nghe xong cười ha hả rồi

xong. Những cái này rất quý, bắt đầu từ bây giờ mỗi ngày đều nói

cho mọi người 1 chút.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 29 tháng 10 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 67: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

67

< BẢO BÌNH KHÍ > LÀ CƠ BẢN CỦA TU KHÍ PHÁP

Ở toàn bộ nội pháp mà nói, cũng là dùng bảo bình khí làm cơ bản.

Sau khi bạn tu < bổn tôn pháp > được tương ứng, thì có thể bắt đầu

học tập bảo bình khí, bởi chỉ cần đem bình khí luyện đến rất thuần

thục thì sẽ có 1 cảm giác rất chân thật, cái gì gọi là cảm giác chân

thật? Tức là cảm giác của cơ thể khi đầy khí và cảm giác khi không

còn khí, rất nhanh có thể lộ ra ngoài. Đây chính là những cảm nhận

rất chân thật.

Một số người chúng ta nói làm bình khí, tốt nhất là sau khi đem

khí hít vào, thì sẽ trụ lại dưới tề luân. Tại sao phải trụ lại ở tề luân?

Bởi vì sau này phải < đề > thì dễ dàng hơn. Nếu trụ ở tâm luân và

đỉnh luân, khi < đề > thì sẽ mất, Nếu trụ ở dưới tề luân, thì có thể

đề lên phía trên, cho nên trong bình khí (thở bình) mà nói, phải

đem khí hoàn toàn trụ dưới tề luân.

Về đề pháp, tức là đem khí vào trong trung mạch, sau đó mới đề.

Có rất nhiều phương pháp, như làm sao để khí lưu động được, làm

sao trụ khí, làm sao để khí tan hòa, làm sao đề khí, làm sao hạ khí,

trong đó có rất nhiều khẩu khuyết và phương pháp. Cho nên chúng

ta hiểu được < hạ > < đề> < trì > < tán > và tự mình biết ứng dụng

đúng thì có thể biến thành thần thông tự tại. Đây cũng là việc bắt

đầu cho việc tu nội pháp ở trong khí pháp.

Page 68: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

68

Nhưng mà, mỗi đệ tử khi bắt đầu tu <khí > pháp, nhất định phải tu

bảo bình khí (thở bình), cái gì là bảo bình khí, tức là không hít

không thở, cho nên nói nguyên lý của bảo bình khí là < không hít

không thở >.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 1 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

QUÁN ĐẢNH PHẢI Y PHÁP VÀ ĐIỀU KIỆN HAI BÊN

KHẾ HỢP

Có 1 lần ở GoldGate, có 1 đệ tử chạy đến phòng khách của 1 tiệm

cơm, yêu cầu sư tôn làm quán đảnh < hộ ma pháp >. Lúc đó tôi nói

với y: Quán đảnh như vậy là không y pháp, bởi vì đang ở phòng

khách của tiệm cơm không thể làm quán đảnh được. Tôi mời y đến

trước đàn thành làm quán đảnh. Ở đây tôi phải nói cho các thượng

sư và chúng đệ tử biết chúng ta phải hiểu được thường thức của

mặt này. Quán đảnh là không phải làm ở đâu cũng được nhất định

phải có đầy đủ hai điều kiện:

Điều kiện thứ nhất là ở trước đàn thành, điều kiện thứ 2 là bản thân

thượng sư phải quán tưởng bản thân mình thành quán đảnh bổn tôn,

đó là những chuẩn bị trước khi quán đảnh, đã nói rất nhiều lần rồi,

Page 69: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

69

nhưng đa số người vẫn chưa hiểu cho rằng sư tôn mọi lúc mọi nơi

đều có thể quán đảnh. Còn tốt người đệ tử này không phải là ở

trong nhà vệ sinh yêu cầu quán đảnh.

Sự thật là như vậy, mỗi thượng sư khi làm quán đảnh cho người

nhất định phải ở nơi rất trang nghiêm, không phải là tùy tiện làm ở

đâu cũng được.Và có một số thượng sư phải làm quán đảnh thì

trước tiên phải tu pháp đó trước mới làm quán đảnh sau. Như quán

đảnh < Hoàng thần tài > thì nhất định phải tu tốt pháp Hoàng thần

tài trước rồi mới làm quán đảnh. Nếu như làm quán đảnh < Địa

Tạng Vương Bồ Tát > thì cũng phải tu pháp Địa Tạng Bồ Tát rồi

sau đó mới quán đảnh cho người ta, như vậy mới là đúng pháp.

Có một số thượng sư khi quán 1 quán đảnh, phải tu pháp đó 7 ngày

trước rồi mới quán đảnh pháp đó, không thể tùy tiện. Ở đây cũng

có hai yếu khuyết, một là đàn thành, một là bổn tôn. Cũng tức là

chu vi khi quán đảnh, tức là đàn thành của bổn tôn đó, bản thân

thượng sư cũng hóa thành bổn tôn đó rồi. Thời xưa các vị đại thành

tựu khi làm quán đảnh cho đệ tử, còn hiển lộ trên không trung đàn

thành (mạn đà la) cho đệ tử xem, cho nên đệ tử cũng có thể nhìn

thấy bổn tôn đó hiện lên không trung của đàn thành, quán này mới

đúng pháp.

Đương nhiên đệ tử thọ quán đảnh và thượng sư quán đảnh phải có

đầy đủ nhiều điều kiện, nếu điều kiện hai bên có thể khế hợp nhau,

quán đảnh đó sẽ đúng pháp. Cho nên thương sư tôn phái và tất cả

Page 70: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

70

các đệ tử đều phải có quán đảnh thường thức, không phải là tùy

tiện ở phòng khách của quán cơm yêu cầu sư tôn làm các quán

đảnh như vậy thì không thể được, phải có đàn thành, phải có bổn

tôn, tốt nhất là sau khi tu xong pháp này mới cầu quán đảnh.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 3 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương Kính ghi

HỘ MA CỦA < PHÒNG MA > VÀ < GIA TRÌ >

Hiện nay ở tông phái chúng ta đã quảng truyền hộ ma pháp, cũng

có rất nhiều đệ tử thật tu hộ ma pháp. Mọi người hiểu được < tiêu

tai > là Quán Thế Âm Bồ Tát làm chủ tôn, < tăng ích > đa số là

Hoàng thần tài, < kính ái pháp > là Chuẩn Đề Phật Mẫu, về < trừ

bệnh > là của Phật Dược Sư.

Yếu khuyết của pháp hộ ma gần như đã nói hết cho mọi người rồi,

< tức, tăng, hoài, chu > và các pháp, trong lúc hộ ma mọi người có

thể có được nhiều thể nghiệm. Nhưng mà hành giả trừ đi tứ đại sự

nghiệp ra, lẽ ra còn phải yêu cầu hai thứ và hai thứ này thường là ít

người đi làm hộ ma, 1 thứ là <trừ ma> bởi khi cảnh giới của hành

giả đến đó, thì sẽ có ma của cảnh giới đó đến phá, cho nên nhất

định phải tu pháp trừ ma, trong tông phái của chúng ta < trừ ma >

Page 71: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

71

thì dùng Bất Động Minh Vương là chủ tôn, hoặc là Mahakala ( tức

Đại Hắc Thiên ) là chủ tôn, có thể làm hộ ma hai chủ tôn này.

Còn nữa, trong lúc chúng ta tu hành, phải thường xuyên cầu gia trì,

cho nên trừ hộ ma của < phòng ma > ra, cò phải làm thêm hộ ma <

gia trì >, cũng tức là có thể gia trì pháp lực của bạn tăng trưởng,

gia trì chủ tôn có thể dùng Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng có thể

dùng Liên Hoa đồng tử. Trừ < tức, tăng, hoài, chu> ra, thêm vào

<phòng ma> và <gia trì >. Như vậy ở toàn bộ pháp hộ ma mà nói,

thì sẽ hoàn toàn hoàn chỉnh.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 4 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

BỐN TẦNG QUÁN ĐẢNH CỦA MẬT GIÁO (1)

Hôm nay sẽ cùng mọi người nói về sự khác biệt của bốn tầng quán

đảnh. Đại bộ phận của < Phổ quán đảnh >.< Phổ quán đảnh > là gì?

Sơ quán thì gọi là < phổ quán >, bởi vì sơ quán thì sẽ có rất nhiều

người quán đảnh, cho nên được gọi là < phổ quán đảnh > và sơ là

lấy thủy ( nước ) làm chủ, đại đa số là dùng nước trong quán đảnh

bình làm quán đảnh, tại sao phải dùng nước làm chủ vậy? Bởi

nước là chảy phổ biến, thích hợp tất các quán đảnh, gần như tất cả

Page 72: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

72

sơ quán như < tứ gia hành > < tương ứng thượng sư >< bát đại bổn

tôn > đều có thể dùng nước quán đảnh, quán đảnh này là thuộc <

phổ quán >. Còn về nhị quán, tam quán, tứ quán là biệt quán đảnh,

cũng tức là thuộc quán đảnh của 1 số ít người.

Nước của sơ quán đa số là dùng rượu ở trên đầu. Nhị pháp là thuộc

quán đảnh nội pháp, đại đa số là dùng lưỡi đi nếm, cũng tức là lấy

bất cứ đồ vật làm tượng trưng bồ đề đỏ, một đồ vật khác tượng

trưng khác là bồ đề trắng, lấy bồ đề đỏ làm chủ. Đến quán thứ 3 là

< xúc quán đảnh > là dùng thân thể làm chủ, quán thứ 4 là < không

quán đảnh >, < không > là cái gì? Tức là không dùng hình thức chỉ

là dùng tâm quán đảnh,

Cho nên quán đảnh rất đơn giản, chia thành sơ quán là < phổ

quán >, tức là dùng nước quán đảnh. Nhị quán là < vị quán đảnh >

là dùng đầu lưỡi, tam quán là dùng < xúc > là dùng thân làm chủ.

Tứ quán lấy tâm làm chủ, không cấu hình thức.

Bốn loại quán đảnh của mật giáo, một số người biết rất ít, có thể

hiểu được thượng sư thì mới chân chính hiểu rõ

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 8 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 73: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

73

BỐN TẦNG QUÁN ĐẢNH CỦA MẬT GIÁO ( 2)

Hôm qua chúng ta nói về bốn tầng quán đảnh của mật giáo, đối với

sơ quán ( tất cả quán đảnh của bổn tôn ) là dùng nước quán đảnh,

mọi người có thể nhận biết, bởi nước thay thế cho quảng đại tự tại,

cho nên có thể bao hàm tất cả bổn tôn.

Nhị quán là dùng lưỡi, vậy phải biểu thị làm sao? Thật ra nhị quán

là phải ăn bồ đề đỏ, trắng, mọi người biết rằng bồ đề trắng, đỏ rất

khó có được, bởi vì lúc đó những đồ vật trên thân thể, làm sao có

thể ăn được bồ đề trắng và bồ đề đỏ? Tức là dùng cánh hoa màu

trắng và cánh hoa màu đỏ làm tượng trưng, tức là sau khi căn bản

thượng sư đem cánh hoa màu trắng và màu đỏ sau khi làm tượng

trưng để gia trì, cho thọ quán đảnh đệ tử ăn vào thì gọi là < nhị

quán >.

Tam quán là thân quán đảnh còn gọi là < xúc quán đảnh > bởi

không thể dùng thân thể làm bất kỳ quán đảnh, cũng chỉ là dùng

viết lông ở trên bất kỳ 1 nơi trên thân thể đặt bút vẽ làm tượng

trưng thì gọi là < xúc quán đảnh >, đấy chính là tam quán, mật

tông tây tạng cũng làm như vậy.

Tứ quán là khó hiểu nhất, là quán đảnh đại viên mãn, tức là dùng

các hình thức đi quán đảnh, thật ra Phật Thích Ca Mâu Ni cũng đã

từng làm qua tứ quán đảnh là nổi tiếng nhất, tức Thích Ca Mâu Ni

Phật cầm 1 cành hoa mỉm cười không nói 1 câu, các đệ tử ở dưới

Page 74: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

74

không hiểu ý, chỉ có Đại Ca Diếp là mỉm cười, biểu thị biết THích

Ca Mâu Ni Phật đang làm gì, ý nghĩa này ở đây cũng tức là Đại Ca

Diếp đắc được tâm ấn của Phật Thích Ca, đây là < Tâm Truyền >,

Đại Ca Diếp được tâm truyền của Thích Ca Mâu Ni Phật, đây là <

tứ quán >, cho nên tứ quán là khó hiểu ý, bởi Thích Ca Mâu Ni

Phật cầm cành hoa không nói 1 câu là thay thế cho < không huệ>,

và Đại Ca Diếp thì hiểu được không lý, cho nên biết được Phật

Thích Ca đang làm gì, khi tâm và tâm hiểu được nhau gọi là < ấn

tâm >, quán đảnh này gọi là < tứ quán >.

Cho nên sơ quán là dùng nước, nhị quán dùng bồ đề trắng đỏ, tam

quán là dùng viết lông vẽ trên thân thể ở bất kỳ một nơi, tứ quán

không huệ dùng tâm ấn, đó là đại ý của bốn tầng quán đảnh mật

giáo.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 9 tháng11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 75: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

75

< THÀNH PHẬT Ở THÂN TRUNG ẤM > VÀ < TỨC THÂN

THÀNH PHẬT >

Sư Tôn thường nói cái gì là < tiếp dẫn thành Phật >, cái gì là < tức

thân thành Phật >, có đệ tử hỏi : < Cái gì là thành Phật ở thân trung

ấm?> lúc trước tôi từng nói qua thân trung ấm tức là linh hồn, là

thần thức, biểu thị lúc sinh thời không thành tựu Phật đạo, cho đến

khi chết từ linh hồn, từ thần thức chuyển hóa mà thành Phật, gọi là

< thân trung ấm thành Phật >.

Thân trung ấm thành Phật đại đa số là sau khi con người chết đi

mới thành Phật, sanh thời không phải là Phật. Còn < tức thân thành

Phật >? Có thể nói lúc sinh thành đã giác ngộ rồi, cho nên đã giác

ngộ thành Phật gọi là < tức thân thành Phật >, như Thích Ca Mâu

Ni Phật trước lúc viên tịch đã thành Phật tức là < tức thân thành

Phật >, sau khi Thích Ca Mâu Ni Phật thành Phật, ngôn hành của

Ngài có thể nói là 1 hiện tượng giác ngộ.

Làm sao để phân biệt thân trung ấm thành Phật và tức thân thành

Phật? Tức thân thành Phật là lúc còn sống, còn thân trung ấm

thành Phật tức là sau khi chết. Còn có 1 cái nữa là sau khi con

người chết đi trên đỉnh đầu sẽ thông 1 lỗ, từ trên lỗ đó mà xuất

hiện pháp thân, sau khi pháp thân ra rồi thì phi thăng, như vậy

cũng gọi là tức thân thành Phật, bởi chỉ cần tu luyện được pháp

thân, từ pháp thân mà trực tiếp mở ra thiên linh ( trên đỉnh đầu )

Page 76: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

76

thăng lên cũng đều gọi là tức thân thành Phật, nếu mà từ thân trung

ấm chuyển hóa thành Phật thì gọi là trung ấm thành Phật. < Tiếp

dẫn thành Phật > thì là do Phật Bồ Tát hiển thị kim thân mà tiếp

dẫn.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 10 thàng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

TRUNG MẠCH TỨC LÀ ĐÀN THÀNH VÀ TỊNH THỔ

Bản thân tôi cảm thấy trong nội pháp, quan trọng nhất là đả thông

trung mạch (kinh mạch trung ương), tại sao vậy? Bởi vì mọi người

biết khí là 1 thứ tác dụng, minh điểm tức là trực tiếp thành Phật.

Trung mạch có thể nói là đàn thành (mandala) và tịnh thổ, muốn

thành Phật nhất định ứng dụng trung mạch, có thể nói trung mạch

tức là tất địa (siddhi – thành tựu).

Ứng dụng của khí rất quan trọng, nhưng mà nhất định phải ở trong

trung mạch ứng dụng, minh điểm cũng nhất định phải theo trung

mạch, có đàn thành và tịnh thổ như thế này mới có thể khiến minh

điểm có nơi trụ. Nếu như trung mạch không thông, khí sẽ không có

tác dụng, còn có minh điểm sẽ không có nơi trụ.

Page 77: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

77

Cho nên khi mới bắt đầu, phải thông trung mạch trước, bình

thường chúng ta làm < cửu tiết Phật phong >, mọi người nghĩ là

không quan trọng, thật ra cửu tiết Phật phong là quán tưởng tạo

trung khí nhập trung mạch, Khí từ bên trái, phải tiến vào trung

mạch, đây là hoàn toàn quán tưởng đả thông trung mạch, sau này

khi trung mạch của bạn thông rồi, thì có thể thấy tịnh quang, lúc

trước chúng ta thường nói có khói rồi mới có lửa, nhìn thấy mặt

trời, thấy mặt trăng, thấy các chấm điểm ngôi sao và tịnh quang

xuất hiện.

Trung mạch thông rồi thì có thể thấy tịnh quang, nếu như có Phật

và Bồ Tát giáng lâm xuống đàn thành trên thân bạn và tịnh thổ, thì

bạn có thể thấy Phật Bồ Tát, mà tác dụng của khí chủ yếu nhất là

dẫn chuyết hỏa (nội hỏa), khí và chuyết hỏa cùng tiến vào trung

mạch, đây chính là điểm bắt đầu của nội pháp, có thể nói thông

trung mạch là đầu tiên cần nhất, chuyết hỏa cũng vậy, hai cái này

đều cùng khí có liên quan, sau cùng quan trọng nhất là minh điểm.

Chúng ta thường nói như vậy, khí là 1 thứ tác dụng, trung mạch

tức là đàn thành và tịnh thổ, minh điểm tức là trực tiếp thành Phật.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 11 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 78: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

78

BỐN LOẠI GIÁC THỌ CỦA NỘI PHÁP TU KHÍ

Chúng ta nói về mật giáo < nhị quán >, về mặt nội pháp đại đa số

chú trọng ở tu khí, nội pháp cũng lấy vận chuyển khí làm chủ đạo,

nó có 4 cảm thọ rất minh hiển, cái gì là cảm thọ? Cũng tức là chỉ

thân thể bạn sẽ có 1 cảm giác, mà còn có 1 phản ứng rất minh hiển,

có hiện tượng như vậy gọi là< cảm thọ >.

Bản lai của khí là vô hình, nhưng ở trên thân thể bạn sản sinh ra 1

cảm thọ gọi là khí, nó có 4 loại giác thọ:

Thứ 1 gọi là < túc khí >, túc khí là gì? Tức là khi vận khí sẽ cảm

giác khí rất đầy đủ trên thân thể bạn, ví dụ như hít thở sâu, hít 1

hơi, sau khi dùng hơi này nín thở, thì sẽ có cảm giác luồng khí này

trong thân thể rất sung mãn, nhưng mà giả dụ bạn đem luồng hơi

này thở ra, cho dù bạn nín thở, cũng không có cảm giác khí rất

sung mãn, đó là hiện tượng túc khí. Đơn giản thí dụ như vậy, nếu

như bánh xe đạp không có hơi (khí), bạn bơm hơi vào, bơm rất

căng, đó là hiện tượng khí túc, nếu bạn không bơm hơi, bánh xe sẽ

xẹp, cho nên trong thân thể của bạn khí có đầy đủ không, bản thân

mình sẽ có cảm giác, đó chính là cảm thọ.

Thứ 2 là < tụ khí >, cũng tức là tập trung ở 1 nơi nào đó, như tập

trung ở hạ đan điền, hạ đan điền sẽ có cảm giác tụ khí, nếu như tập

trung ở trung đan điền, thượng đan điền, ở thân tâm cũng có cảm

giác, cảm giác này gọi là cảm giác giác thọ, trước hết phải có cảm

Page 79: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

79

giác khí rất sung mãn, tinh thần rất tốt, kế đến là sẽ có cảm giác khí

cùng tụ lại nhau, tức là dùng ý niệm của bạn đem khí tụ lại với

nhau, đó là điểm thứ 2.

Thứ 3 là < khí năng hành >, không những khí phải tụ lại một nơi,

còn phải khiến cho khí trong thân thể mình lưu chuyển, lúc trước

đã từng nói qua, khí sẽ từ một số khí mà thành trí tuệ khí, khi

xuyên thông qua tất cả các kinh mạch, sẽ có một cảm giác an nhẹ

đó tức là pháp vị, đó là cảm giác thứ 3, cũng tức là nói, khi bạn đầy

đủ khí túc, khí tụ, và có thể hành khí, bạn sẽ có được một 1 thứ

giác thọ, khi khí đang vận chuyển thông kinh mạch, bạn sẽ có 1

cảm giác an nhẹ, cảm giác an nhẹ này ở hành giả mà nói đó là pháp

vị.

Thứ 4 là < khí tán >, khí tại sao lại hòa tan vậy? Bởi do bản thân

bạn sau khi dùng những khí này, phải từ lỗ mũi, miệng, từ những

lỗ nhỏ trên da mà thoát ra, ở các bộ phận trên thân thể bạn mà phát

tán ra, phát tán này gọi là tán khí, sẽ có 1 cảm giác lười biếng và

lỏng lẻo, tới thời kỳ nghiêm trọng, còn có 1 cảm giác < chết >, cảm

giác này gọi là cảm thọ < khí tán >.

Cho nên trong nội pháp của chúng ta mà nói có bốn loại giác thọ là:

định khí, tụ khí, hành khí, và tán khí.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 12 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi.

Page 80: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

80

TÁC DỤNG CỦA < KHÍ >.

Hôm này chúng ta vừa hoàn thiện xong đem đàn thành từ trong căn

phòng nhỏ rời ra ngoài phòng khách, cũng có chuyện tương ứng,

tức là sau khi vừa rời xong, bên ngoài có mưa đá và xuất hiện cầu

vồng, đó là điềm rất cát tường, bởi thần hộ pháp Mahakala khi đến

sẽ có hiện tượng mưa đá, mưa đá là hiện tượng rất khó có được,

hôm nay chúng ta vừa mới cúng Mahakala màu trắng xong thì lập

tức mưa đá, trong một năm không có mấy lần mưa đá, có 1 điềm

cát tường như vậy là tương ứng rất tốt, xuất hiện cầu vồng cũng là

điềm tốt, bởi vì mật giáo dùng cầu vồng làm ký hiệu, đại pháp tối

cao nhất của Liên Hoa Sanh Đại Sĩ là < Bất Tử Hồng Quang Thân >

tức là đem bản thân mình chuyển hóa thành cầu vồng. Có thể thấy

được cầu vồng trong lúc kiến lập đàn thành, vừa có mưa đá và mưa,

đều là rất kiết tường.

Có đệ tử hỏi sư tôn: <khí trên thân thể con người đều thuộc tục khí,

tục khí này cho dù có đầy đủ khí ( khí túc ), khí tụ, khí tán và khí

hành làm sao có thể đem tục khí biến thành trí tuệ khí? > Thật ra

trong mật giáo mà nói, khí của một số người là phương tiện khí tức

là tục khí, muốn biến thành trí tuệ khí, nhất định phải đem trí tuệ

khí vào trung mạch, nếu như có thể vận khí vào trung mạch mới có

thể chuyển thành trí tuệ khí, nếu như không thể vận chuyển vào

trung mạch thì vĩnh viễn là phương tiện khí.

Page 81: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

81

Khí có tác dụng gì vậy? Lúc trước nói qua là khí dùng cho vận

minh điểm, cũng có người hỏi: <vận khí minh điểm thuận theo

trung mạch vận đi đến đâu?>. Hồi trước học đạo sư phụ nói vận

đến tập trung ở ngũ luân, hoặc là đem minh điểm vận ở khắp nơi

trên cơ thể, vận đến toàn bộ nơi đốt sống lưng vậy. Mà mật giáo

nói như vậy là dùng trí tuệ khí đả thông minh điểm vận trung mạch,

đến sau cùng vận đến nơi bổn tôn, trực tiếp tận dụng trí tuệ khí

đem minh điểm vận đến trong hư không, cho đến trong tâm của

bổn tôn, như vậy mới chính xác, bởi minh điểm tức là Phật, sau

này bạn phải biến hóa thành bổn tôn, bạn không đem minh điểm

vận vào trong tâm, làm sao biến hóa thành bổn tôn? Cho nên minh

điểm giống như bạch quang dùng trí tuệ khí vận hành thông trung

mạch cho đến dẫn nhập vào trong tâm bổn tôn, như vậy rất chính

xác. Ở đây có 1 điểm, tức là trụ đỉnh của bổn tôn nhất định rất

minh hiển, nếu như bổn tôn mơ hồ, làm sao mà đem minh điểm

vận vào trong tâm bổn tôn?

Cho nên khi trụ đỉnh bổn tôn phải rất minh hiển, trung mạch của

bản thân bạn trực tiếp thông đến trung mạch của bổn tôn, có thể

trực tiếp từ trung mạch của chính bản thân bạn đem minh điểm

vận trực tiếp vận đến tâm trung mạch của bổn tôn, đó là phương

pháp căn bản trong mật giáo biến hóa thành bổn tôn. Om Ma Ni

Bat Mi Hung

Ngày 15 tháng 11 năm 1993 Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 82: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

82

BẢO BÌNH KHÍ ( 1 )

Trước khi làm bảo bình khí có lúc là từ < cửu tiết Phật phong > sau

đó mới tiến vào bảo bình khí, nếu như bạn không có tu luyện cửu

tiết Phật phong, đối với việc tu luyện bảo bình khí thì sẽ hơi khó

khăn.

Lúc trước tiên làm cửu tiết Phật phong cũng là từ lỗ mũi bên phải

hít khí trước, sau đó sẽ từ lỗ mũi bên trái mà ra, lại lỗ mũi trái hít

vào, bên phải ra, lại hai lỗ mũi cùng hít, hai lỗ mũi ra, liên tục làm

phương pháp cửu tiết Phật phong đem khí hít vào thở ra, nhưng mà

khi mới bắt đầu làm cửu tiết Phật phong, khi chưa có biện pháp

khống chế lỗ mũi kia hít khí, nhất định phải dùng tay trợ giúp,

cũng tức là khi dùng lỗ mũi bên phải hít khí, có thể dùng hai ngón

tay bịt lỗ mũi bên trái lại, sau đó hít vào và xoay vòng, sau khi thở

ra phải di dời, luyện tập như vậy cho đến khi có thể dùng ý niệm

khống chế lỗ mũi trái phải, thì không dùng đến tay nữa.

Về mặt hít khí, lúc trước nói qua, là quán tưởng bạch quang mà hít

vào, bạch quang đại diện cho gió thanh tịnh của vũ trụ, có thể quán

tưởng tất cả gió của tam thiên đại thiên thế giới, sau đó hít vào,

trên thân thể bạn xoay vòng đấy chính là luyện tập phong tức, sau

khi làm cửu tiết phong một lần, hai lần, ba lần sau cùng mới có thể

đem tất cả gió của tam thiên đại thiên thế giới hít vào trong thân

thể bạn, sau đó nín thở và đừng thở ra, không thở ra thì biến thành

Page 83: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

83

bảo bình khí, khi không thở ra cũng tức là tức cả gió trong thân thể

mà vận chuyển, đó là ngũ luân thông thông chuyển, cũng tức là mi

tâm luân, hầu tâm luân, tề luân và mật luân của bạn toàn bộ đều

đang chuyển theo phong tức mà xoay vòng, đó là cơ bản của bảo

bình khí.

Khi bạn hít gió vào từ trên mà xuống tề luân, trong đó có 1 khẩu

khuyết, tức là phải nuốt 1 ngụm nước miếng, tại sao vậy? Là do

phải nhuận ngũ luân, và để cho khí của bạn vào trung mạch, đó là

khẩu khuyết quan trọng, nếu như bạn có thể nín thở vận chuyển

khí trong thân thể, thời gian càng lâu càng tốt, một số mà nói sau

khi luyện tập lâu, bạn nín thở thời gian sẽ dài hơn, mới bước đầu

thì thời gian ngắn, sau này sẽ càng ngày càng dài, từ cửu tiết Phật

phong dẫn nhập vào trong bảo bình khí, cho nên bình thường

không làm cửu tiết Phật phong, nếu muốn làm bảo bình khí ngay

quán tưởng sẽ không thuần thục, nếu làm cửu tiết Phật phong sẽ

biết được làm thế nào để vận khí tới tề luân, cũng biết được sau khi

hít 1 hơi thở vào làm sao để tuần hoàn, làm sao để xuất ra ngoài.

Khi làm cửu tiết Phật phong và bảo bình khí lúc hô hấp không thể

dùng miệng, hoàn toàn là phải dùng mũi, bởi vì chỉ cần dùng mũi

hô hấp thì có thể tiến vào trung mạch, dùng miệng thì sẽ không

được. Lúc trước có người nói khi thở ra phải giống như phóng

cung tên, tức là khí thở ra phải rất nhanh, gọi là < tiễn tức >, thật ra

như vậy là không đúng, bởi khí thở ra càng nhanh thì càng mau

Page 84: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

84

chết, cho nên khi làm cửu tiết Phật phong và bảo bình khí thở ra và

hít vào phải thật chậm, tôi cũng đã từng nói qua: <tỉ (chậm), mạn

(mảnh), trường (dài)> nếu như bạn thở nhanh như cung tên, sau

này bạn sẽ giảm thọ, dù thế nào đi nữa thở ra và hít vào phải rất

chậm mà còn phải dùng ý niệm để dẫn phong tức của tam thiên đại

thiên thế giới, trong thân thể bạn xoay vòng chuyển ngũ luân trong

thân thể bạn đấy chính là sự bắt đầu.

Om Ma NI Bat Mi Hung

Ngày 16 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

BẢO BÌNH KHÍ (2)

Chúng ta biết được < nhị quán mật pháp > trong mật giáo đa số

chủ yếu là dùng < khí>, khi bắt đầu là tu Phật phong nhập bảo bình

khí, ngoại truyền của bảo bình khí rất đơn giản, đa số là hít khí vào,

sau đó là trong thân thể làm 1 hoạt động, trong đó đã bao hàm <

nhập > và < trụ >, khí hít vào tức là nhập, nín thở để nó ở trong cơ

thể gọi là trụ, thật ra bảo bình khí không phải đơn giản như vậy,

bởi vì nếu thật sự biết rõ bảo bình khí, thời gian nín thở ngắn nhất

phải duy trì được hai phút đồng hồ, cũng tức là khí ngừng ở trong

thân thể ngắn nhất là hai phút, dài nhất có thể là nửa giờ hoặc là 1

Page 85: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

85

tiếng đồng hồ, thời xưa các hành giả du già có thể biểu diễn bị

chôn sống dưới đất nửa tiếng hoặc 1 tiếng đồng hồ mới đào khỏi

mặt đất, họ vẫn còn sống, đó chính là bản thân họ tu tập du già

thuật có thể nín thở đến 1 giờ đồng hồ, cho nên trong 1 giờ đồng

hồ đào lên họ vẫn không có vấn đề.

Tu bảo bình khí tư thế tay có 2 loại, thứ nhất là ngón cái ở ngoài,

tức là có thể dẫn khí đến đó rất dễ dàng, còn 1 cái nữa là ngón cái

ở trong, thì có thể dễ giữ được khí, ấn pháp tức là đè trên đầu gối,

cũng có 1 giáo pháp là dùng ngón trỏ và ngón cái ấn vào ngón cái

của hai bàn chân, ngón tay duỗi dài, lưng bàn tay duỗi thẳng ra

nắm chặt ngón chân cái. (cũng tức là các phương pháp tọa của tỳ lô

thất chi – tư thế 7 điểm Vairocana), sau đó là khí tiến vào trong cơ

thể, để khí vào trong trung mạch sau đó có thể chuyển ngũ luân,

hôm qua tôi nói chỉ có xoay vòng của tề luân là hướng về bên trái,

còn lại là hướng về phải xoay vòng. Bạn muốn tu đến trình độ nào?

Bảo bình khí không phải đơn giản, khí ở trong thân thể là từ mi

tâm hướng xuống chuyển động, cho đến hầu luân, tâm luân, tề luân,

mật luân, năm ngũ luân này khí ở đâu thì ý niệm đến đó, luân sẽ

độn tới đó, cho nên tôi nói qua, khi bạn hít 1 hơi đem ý niệm tập

trung ở mi tâm, thì khí ở mi tâm, khi ý niệm ở cổ họng, thì bạn ở

cổ họng, ý niệm ở tâm, thì khí ở tâm, ý niệm ở tề, thì khí ở tề, ý ở

mật luân thì khí ở mật luân và ở nơi đó sẽ ngưng cố, khi bạn học

đến ý niệm ở tâm luân, khí sẽ ngưng ở đó, bạn có phải có thể cảm

Page 86: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

86

giác khí theo ý niệm của bạn mà chu du ngũ luân không? Nếu

được như vậy là bảo bình khí của bạn bước đầu đã có công phu.

Cho nên bảo bình khí không phải là chỉ nín thở hai phút hoặc một

tiếng đồng hồ, mà còn phải vận dụng khí động, đem khí vận đến

mi tâm đến hầu đến tâm đến tề luân đến mật luân, còn phải biết

chuyển, cũng tức là khí đến đâu thì luân động đến đó, đó là công

phu bảo bình khí, bạn học xong bảo bình khí này rồi, kế đến là sẽ

nói kim cang quyền, bảo bình khí mỗi người đều có thể tu, kim

cang quyền thì không phải ai cũng được.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 17 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 87: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

87

BẢO BÌNH KHÍ (3 )

Trong mật pháp tu nội pháp, đều có liên quan rất lớn đến bảo bình

khí, hôm qua chúng ta nói đến: khí động đến luân nào thì luân đó

chuyển động, chỉ có tề luân là xoay bên trái, còn lại là xoay bên

phải. Chuyển động của luân là 1 chuyển động trên ý niệm, cũng

tức là muốn bạn dùng ý niệm chuyển ngũ luân.

Ở mật giáo và đạo gia ở Trung Quốc, pháp tu khí có những nơi

tương thông, cũng tức là ở đây, nhưng pháp không tương đồng,

Đạo gia có 1 câu nói: < đại đạo điên đảo điên, có người điên đắc

chuyển, tức là Đại La Tiên >, cũng tức là nói nếu bạn để nó chuyển

động, vậy bạn là thần tiên, thật ra ngũ luân nếu có thể chuyển thì

bạn cũng đã là gần giống thần tiên rồi.

Pháp tu mật giáo đem: ngũ mi tâm luân, hầu luân, tâm luân, tề luân,

mật luân gọi là ngũ luân, khi năm ngũ luân này chuyển động thì

tức là thân thể bạn có tinh, khí, thần, toàn bộ là 1 loại thăng hoa,

một loại vận động, khi toàn bộ bạn có thể chuyển hóa, tức là bạn

đã là 1 vị Phật rồi, cho nên tu luyện mật pháp đặc biệt không giống,

trong đó phải phối hợp < kim cang quyền pháp > tức là khi chuyển

ngũ luân không chỉ dùng ý niệm mà còn phải dùng kim cang quyền

pháp để nâng cao khiến nó chân chính chuyển động, trong đó có <

giáng >, <đề >, <đặc >, < tán > những cái này khi nói lên đều rất bí

mật.

Page 88: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

88

Khi nói bảo bình chỉ đề cập cho mọi người về vận động thân thể, ở

khởi linh học của tôi có nhắc đến < đại ôn dưỡng pháp >, cũng tức

là bảo bình khí của đạo gia, nhưng mà thân thể cần phải dao động,

cũng tức là sau khi khí tồn tại trong thân thể bạn, phải dùng động

tác thân thể phối hợp đại ôn pháp, Liên Hàn đại sư tu đại ôn pháp

rất lâu, thân thể của ông ta động làm sao? Là đong đưa như vậy

( thị pháp động tác ), phần dưới cơ thể không động, nhưng phần

trên thì động, như quả lắc đồng hồ, đong đưa như vậy, đây cũng là

1 loại < đề>, khi khí tồn tại đơn mạch, tận dụng khí và dao động

của cơ thể làm 1 động cơ thúc đẩy, là phương pháp đem nước

hướng lên trên. Trong mật giáo tu bảo bình khí trước tiên cần động

ngũ luân, ở trong này đều là những bí mật cho nên rất ít người biết

được rõ ràng, cũng có rất ít người nói như vậy, yếu quyết là hai tay

cầm lấy hai ngón cái trước, truyền pháp của mật giáo và đạo giáo

không giống nhau, là cơ thể hướng phải chuyển động mạnh 3 lần,

hướng trái 3 lần, cách chuyển là như vậy ( thị phạm động tác ), khi

cơ thể chuyển động khí cũng ở trong đó, không thể thở ra, hoàn

toàn là nín thở, không có hô hấp, khí bạn hít 1 ngụm khí làm bảo

bình khí, sau đó quán tưởng ngũ luân chuyển động, trước tiên phải

xoay người mỗi bên 3 lần, đây là phương pháp phụ trợ giúp ngũ

luân chuyển động. Khi khí tồn tại trong đó thì cần phải làm 9 lần,

chỉ cần luyện tới toàn bộ ngũ luân chuyển động rồi, bạn có thể làm

< hạ, đề, đặc, tán > ngũ luân không thể chuyển thật ra là phong và

Page 89: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

89

luân cũng không có động, làm sao < thăng > đây? Làm sao <

giáng > đây? Làm sao < trì bình > đây? Làm sao đem khí < phân

tán > đây?

Cho nên nhất định luân phải chuyển, kế đến là phối hợp kim cang

quyền, khiến động tác, ý niệm, chuyển luân, ba cái hợp lại, tu nội

pháp thì có thể thành tựu, hôm nay chúng ta nói tới đây.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Có ngồi có đứng, toàn bộ < Đề> pháp học xong rồi thì rất dễ dàng

đắc được kim cang bất hoại. Nhưng mà kim cang quyền cần phải

chọn người dạy, khẩu khuyết bảo bình khí đại khái chỉ có thể nói

tới đây, chuyển động này thuộc về một phương pháp của kim cang

quyền, khi vặn xoay người tốt nhất là toàn thân có thể xoay được

90 độ, trước và sau tốt nhất cũng cần phải 90 độ, có một số người

phía trước và sau không thể gập người 90 độ, cho nên phía trước

có thể là 45 độ và phía sau 45 độ tức là 90 độ, liên tục làm 3 lần,

kế tiếp là quán tưởng toàn bộ ngũ luân đều động, khi làm những

động tác này toàn bộ không hô hấp, tức là một phương pháp làm

bảo bình khí, như vậy mới có hiệu quả, luân tài sẽ từ từ động, đây

là một khẩu khuyết quan trọng, không có sư phụ dạy thì không thể

được, khi ngũ luân chân chính chuyển động thì có thể làm <đề

Page 90: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

90

pháp>, và nín thở nhất định phải là hai phút, có thể tu thành tức là

kim cang bất hoại rồi.

A Di Đà Phật.

BẢO BÌNH KHÍ (4)

Có người cho rằng < bảo bình khí > là rất đơn giản, và khẩu khuyết

cũng không khó khăn, thật ra nếu nói ra thì cũng rất đơn giản, khẩu

khuyết cũng không khó khăn, nhưng mà thực tế quan trọng nhất là

thật tu bởi vì công phu nín thở càng lâu càng tốt, phải là do công

phu tu luyện lâu mới đắc được, nếu như công phu nín thở luyện

không lâu chỉ khoảng nửa phút thôi. Một số người nín thở chỉ nửa

phút đến một phút, nếu vượt qua hai phút thì sẽ rất khó khăn, cho

nên cần phải luyện tập lâu.

Bảo bình khí vận động nhất định yêu cầu bạn phải cúi phía trước,

ngữa phía sau, có tác dụng gì? Thật ra đều có tác dụng riêng, cúi

phía trước ngửa phía sau đều là đem trung mạch kéo thẳng, khi cơ

thể chuyển động phải nhớ kéo ngón cái lại. Khi chúng ta vặn người

xoay trái phải để làm gì? Là đem toàn bộ ngũ luân chuyển động,

khi xoay chuyển tức là đem khí áp tới trung mạch, bởi khí không

vào trung mạch, phải ép như vậy, thì có thể vào được.

Có người nói làm nhưng động tác cúi gập người phía trước và sau

cũng giống như chúng ta thường làm động tác cúi gập khi nằm

Page 91: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

91

ngồi, vậy thì xoay người? Khi chúng ta làm vận động cũng thường

xoay vặn cơ thể, những động tác này đều rất đơn giản, có những bí

mật gì? Đây không có gì sai hết nhưng mà khi bạn đang vận động

có biết được phải nín thở không? Đó chính là tồn tại của khẩu

khuyết, khi bạn cúi gập người phía trước và sau, xoay vặn người

90 độ đều phải nín thở, bởi khi bạn nín thở rồi, cơ thể xoay chuyển

động mới có thể khiến khí vào trung mạch, bình thường tập thể dục

đều là đang hô hấp không có nín thở, cho nên khí là không thể vào

trung mạch được, khẩu khuyết quan trọng ở đây là khi khí tồn tại ở

dưới tề (rốn), khi cơ thể vừa xoay vặn xong thì đem khí ép vào

trung mạch, nếu như bạn không nín thở để làm các vận động này,

khí sẽ không vào trung mạch mà chỉ là vận động cơ bắp và khí

không có liên quan.

Cho nên đạo lý khí công, tức là chỉ khí ở trong cơ thể vận chuyển

mới gọi là khí công, mật giáo tu khí bắt đầu là ứng dụng bảo bình

khí trước đem khi đưa vào trung mạch, lại quán tưởng toàn bộ ngũ

luân chuyển động, không những toàn bộ ngũ luân chuyển động mà

từ quán tưởng biến thành thực tế toàn bộ ngũ luân đang động, bắt

đầu như vậy thì sẽ sản sinh ra một năng lực, năng lực này một khi

sanh ra rồi, ứng dụng năng lực này thì có thể làm < giáng, đề, trì,

tán >, lại phối hợp kim cang quyền, như vậy nội pháp thì có thể tu

thành rồi.

Page 92: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

92

Ngoại pháp đã tương ứng rồi, nội pháp cũng tu thành rồi, trung

mạch cũng có thể thông rồi, toàn bộ ngũ luân đã khai rồi, có thể

thấy được < minh thể >, < quang minh > Phật - Bồ Tát - Bổn Tôn

đều ở trong đó, < minh điểm > tức là Phật, < trung mạch > tức là

đàn thành, khí hoàn toàn là 1 thứ vận động, cho nên trong mật giáo,

tu khí, mạch, minh điểm là đem trung mạch xem như đàn thành,

đem < minh điểm > xem như thành Phật, đến khi đó bạn vận dụng

minh điểm thể nhập vào trung tâm Phật bổn tôn, tức bạn thành tựu

bổn tôn, đây chính là nội pháp tu hành của mật giáo. Chỉ cần bạn

có thể đề < minh điểm >, thì có thể đem minh điểm đưa vào trung

tâm bổn tôn, sau này có thể thành tựu bổn tôn trưc tiếp có thể

thành Phật, điều này rất quan trọng.

Bây giờ bạn đã biết cách tu của bảo bình khí, tức là phải luyện đến

khí ở trong cơ thể càng lâu càng tốt, kế đến là nhập vào trung mạch,

lại chuyển động ngũ luân, đem ngũ luân mở ra, kế đến là thấy được

minh thể, kế đến là tu chuyết hỏa, có được chuyết hỏa thì có thể

vận chuyển minh điểm, minh điểm trực tiếp đưa đến trung tâm bổn

tôn thì có thể tức thân thành Phật, thành tựu bổn tôn

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 19 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 93: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

93

BẢO BÌNH KHÍ (5) VÀ <TRỰC THỰC CỦA PHÁP KHAI

QUANG >

Mấy ngày trước chúng ta vừa nói xong toàn bộ bảo bình khí pháp,

bảo bình khí tu không tốt thì nội pháp sẽ không có cách tiến hành,

về mặt khí mà nói, hít vào thở ra một ngụm rồi có hàm ý rất lớn,

chúng ta biết trọng điểm của ngoại pháp là quán, trọng điểm nội

pháp là khí, trọng điểm vô thượng mật là dục, trọng điểm đại viên

mãn là ở không, bốn cái này mọi người cần phải biết rõ.

Trong khi chúng ta hít vào thở ra, khí của bản thân phải quán

tưởng làm sao? Mỗi lần hít một hơi dài, ở ý niệm phải là tất cả

công đức của tam thiên đại thiên thế giới sung mãn toàn thân, cho

nên năng lực này là rất lớn, bởi khi bạn hít 1 hơi, tất cả công đức

của tam thiên đại thiên thế giới sung mãn trong thân của bạn, đó là

ý niệm của việc hít một hơi thở. Thở ra một hơi thở bản thân cũng

là một ý niệm, khi bạn thở ra một hơi, quán tưởng tất cả đều hóa

thành tánh không, biến thành trạng thái hoàn toàn hư không, cũng

tức là khi hơi thở ra là hoàn toàn hư không, là hoàn toàn tánh

không, hít vào hoàn toàn là công đức tam thiên đại thiên thế giới,

tồn niệm hít vào thở ra là ở đây, nếu bạn ứng dụng tốt, thì có thể

tức thân thành Phật, nếu như hơi thở này và hơi thở bình thưởng

như nhau, vậy bạn là phàm phu rồi, cho nên tu pháp nội khí là một

công phu tạo khí.

Page 94: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

94

Lẽ ra bảo bình khí là không thể công khai, hiện nay vì từ bi với

chúng sanh mà được giảng giải trong đó, và còn có ghi âm, mỗi

Phật tử của Chân Phật tông chỉ cần bổn tôn pháp tương ứng rồi, thì

có thể tu bảo bình khí, sau đó mới cầu nội pháp quán đảnh.

Lúc trước nói qua sơ quán là dùng < nước >, nhị quán là dùng <

cánh hoa đỏ trắng >, tam quán là dùng bí mật của thân, cũng tức là

< xúc > quán đảnh, xúc quán đảnh làm sao quán đây? Phương

pháp đơn giản là dùng viết lông vẽ bât kỳ trên thân thể bạn 1 chấm,

tứ quán đảnh là không cần dùng hình thức, tức là ấn tâm, quán

đảnh tánh Không. Có thể nói hiện nay nội pháp đã được nói ra, sau

này phải chọn các đệ tử có pháp khí, truyền thụ nội pháp, quán

đảnh kim cang quyền và vô lậu pháp, lại nói làm thế nào tu tập,

như vậy từ khí, chuyết hỏa, và kim cang quyền, quán tưởng trì chú

cho đến bản thân mình biến thành < kim cang bất hoại >, tiến vào

<ngũ đại kim cang pháp >.

Hôm nay sẽ cùng mọi người nói về < chân thật khai quang là cái

gì?> Lúc trước chúng tôi đã từng dạy mọi người khi khai quang

nhất định phải làm quán tưởng, ví dụ bạn khai quang Quán Thế

Âm Bồ Tát, trước hết quán tưởng Quán Thế Âm Bồ Tát trong hư

không của trí tuệ bổn tôn từ trong hư không hạ xuống, đến kim

thân của Quán Thế Âm Bồ Tát, sau đó cầm viết niệm < chú khai

quang >, khai mắt quang, nhĩ quang, khẩu quang, khai tâm quang,

kim thân, khai liên hoa chú, khai ấn chú, khai túc chú, sau khi niệm

Page 95: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

95

chú xong thì y theo nghi quỹ làm đại lễ bái, đại cúng dường, tứ quy

y, như vậy là lễ thành rồi.

Lúc trước sư phụ chỉ dạy < pháp chân thật khai quang > chưa từng

được nói qua, cái gì là chân thật khai quang pháp? Thật ra là khi

khai quang trước tiên đem bản thân mình biến thành bổn tôn làm

toàn bộ pháp sự là tất cả cơ bản pháp sự, như bổn tôn là A Di Đà

Phật, thì bản thân phải biến mình thành A Di Đà Phật, đấy là đều

cùng khí có liên quan nhau, bởi đây là một loại khai quang của khí,

sau khi bạn biến thành bổn tôn, trước tiên quán tưởng trung tâm

<……> chữ màu trắng, sau khi bạn thở ra một hơi, < …..> chữ

màu trắng này theo hơi thở ra của bạn mà ra, sau đó bay đến kim

thân mà bạn cần phải khai quang, sau đó xúc giải trên kim thân, đó

chính là chân thật khai quang, chỉ trong chốc lát là hoàn thành.

Một số khai quang là theo nghi thức mà làm, trong mật giáo chân

chính khai quang chỉ cần bản thân biến thành bổn tôn, sau đó quan

tưởng trong tâm bản thân là chữ <…..> màu trắng sau khi bạn đã

học xong bảo bình khí, sau khi thở ra một hơi, <…….> sẽ theo hơi

mà ra, vào trong kim thân bạn cần khai quang và chữ <…..> xúc

giải ở thân.

Sau khi Phât tượng khai quang, mỗi ngày bạn cần phải hô hấp như

vậy, chữ <…..> theo đó mà ra xúc nhập vào trong kim thân, thời

gian lâu, kim thân đó thân bạn người thứ hai, dạy bạn bí mật này,

đợi bạn sau khi học xong bảo bình khí, cần phân thân có thể học

Page 96: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

96

phương pháp này, kim thân này chính là bạn sau này, có hiểu được

đạo lý này không? Tôi nghĩ mọi người phải biết rồi, bởi khí của

bạn là trí tuệ khí, chữ <…..> màu trắng trong tâm bạn có thể là đại

diện cho bất kỳ một vị Phật, nó là một tánh trung hòa, kim thân

này có thể đại diện bạn, cho nên bất kỳ bạn khai quang qua vị Phât

và Bồ Tát cũng có thể thành phân thân của bản thân bạn, chính là

những kỳ diệu sâu xa trong đó.

Cho nên chân chính khai quang tức là khi bạn hít vào thở ra một

hơi, chữ <…..> màu trắng trong tâm cũng được thở ra theo, sau đó

chữ <….> màu trắng xúc giải ở trong kim thân, và làm theo nghi

quỹ, sau khi bạn thở ra như vậy, tức là < chân chính khai quang >

OM Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 22 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 97: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

97

TU < NỘI PHÁP> PHẢI THUẬN THEO THỨ TỰ MÀ TU

Lúc trước chúng tôi từ Tát Ca (Sakya) Chứng Không thượng sư

được <đạo quả> pháp bổn, từ Các Ma Ba (Karmapa) được pháp

bổn <thậm thâm nội ý> còn có Kim Cang Hợi Mẫu chuyết hỏa

định> pháp bổn, trong đó bao hàm pháp của Hoa giáo (Sakya) và

pháp của Bạch giáo (Kagyu), thật ra trình tự của những cuốn pháp

bổn này không sắp xếp theo thứ tự, theo thượng sư nói, vì bởi do

thứ tự bị đảo ngược, là muốn tất cả các đệ tử không nên theo sách

mà tu, trong đó có sách Đạo quả khi nói về khẩu khuyết chân chính

hoặc là kỹ thuật đặc biệt, cũng là dùng (….. ) thay thế, ở phía dưới

còn ghi rõ < khẩu khuyết ở đây nhất định phải thỉnh giáo thượng

sư của bạn, ở cuốn Thậm Thâm Nội Ý cũng như vậy, bao gồm Hỷ

Kim Cang, Thánh Lạc Kim Cang các pháp bổn đều như vậy, tại

sao vậy? Lúc trước tôi đã từng thỉnh giáo qua thượng sư của tôi, tại

sao trình tự trong các cuốn sách pháp này đều bị đảo lộn? Theo các

ngài giải thích, là mỗi một vị tu hành phải theo thự tự sinh bắt đầu

và đến thứ tự viên mãn, là thuận theo thứ tự mà tu, quyết không

được nhảy cấp, giống như khi bạn học lớp một thì đi xem sách giáo

khóa lớp sáu, học lớp sáu thì bạn lại đi xem sách của đại học, trừ

phi là thiên tài, đó là ngoại lệ, nếu không nhất định phải tu mãn

sanh trước rồi đến trình tự viên mãn, cho nên trong các pháp bổn

Page 98: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

98

trên cố ý đảo lộn, là muốn các bạn nhất định phải có chân chính

thượng sư chỉ dạy, như vậy mới có thể tu.

Có một vấn đề phải nói cho mọi người biết, là khi tôi chưa chính

thức bắt đầu nói < nội hỏa minh điểm >, nhưng đã có pháp sách rồi,

trong sách cũng nói rất nhiều về nội hỏa minh điểm, nhưng trên

thực tế dùng miệng dạy mọi người về nội hỏa minh điểm là không

có, tại sao còn chưa dạy nội hỏa minhn điểm? Bởi vì bảo bình khí

phải có trước, nội hỏa minh điểm thì ở sau, nhất định phải tu bảo

bình khí trước, kế đến là nội hỏa minh điểm, cũng giống như theo

thứ tự tu phát sinh trước được thành tựu rồi, tiếp theo là viên mãn

(hoàn thiện), đạo lý rất đơn giản, nếu sanh khởi (quán bổn tôn)

chưa xong mà bạn đã tu viên mãn (hoàn thiện), bổn tôn của bạn sẽ

không minh hiển, bổn tôn không minh hiển bạn lại tu viên mãn,

minh điểm của bạn sẽ được đưa tới đâu? Minh điểm là từ trung

mạch đưa tới trung tâm bổn tôn, bổn tôn của bạn không minh hiển,

minh điểm làm sao đưa tới đây? Cho nên nhất định phải tu xong

sanh khởi tương ứng rồi mới tu viên mãn, cho nên tôi từng bước

mà đi, trước tiên nói xong bảo bình khí, đợi đến tu bảo bình khí

thành tựu rồi, kế đến là nói chuyết hỏa, nội minh điểm, khí < bảo

bình khí > của bạn có đủ rồi thì có thể đưa minh điểm, khi có hỏa

lên rồi thì có thể dùng nó đốt minh điểm, ứng dụng bảo bình khí để

đưa minh điểm như vậy, mới có thể từ trung mạch mà đến trung

tâm bổn tôn, nếu thứ tự của bạn không tương ứng, bổn tôn cũng

Page 99: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

99

không minh hiển, tu bảo bình khí và nội hỏa minh điểm để làm gì?

Đó là đạo lý rất đơn giản.

Cho nên phải là thứ tự sanh khởi trước, viên mãn thứ tự theo sau,

bảo bình khí ở trước, nội hỏa minh điểm ở sau, đó là một trình tự,

mỗi một hành giả đều phải biết thứ tự này, không cần đi tham cầu

pháp, ví dụ người ta đang dạy Thắng Lạc Kim Cang Pháp thì bạn

đi cầu quán đảnh Thắng Lạc Kim Cang Pháp, người ta dạy Thời

Luân Kim Cang bạn lại cũng đi cầu quán đảnh Thời Luân Kim

Cang, trên thực tế bổn tôn của bạn cũng chưa tương ứng, quán

đảnh những vị này là không thể tu, cho nên dù thế nào, sanh khởi

phải tương ứng trước, bổn tôn thăng lên rất là minh hiển kiên cố,

mới có thể tiến thêm một bước viên mãn.

Hiện nay trên thị trường có rất nhiều cuốn sách như: Hỷ Kim Cang,

Thời Luân Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, bất kỳ 1 loại sách

ngũ đại kim cang nào cũng đều được phổ biến ra ngoài, nhưng mà

thự tự trong đó đều bị đảo lộn, bao gồm < Đạo Quả > cuả Tác Ca

giáo và < thậm thâm nội ý > < Kim Cang Hợi Mẫu chuyết hỏa

định > của Bạch giáo, những cuốn sách này đều có thứ tự đảo lộn,

được những cuốn sách này không phải là bạn có thể tu được, mà là

phải tu bổn tôn trước cho đến rất minh hiển, rất kiên cố, bạn và bổn

tôn tương ứng rồi, mới có thể tu bảo bình khí, bảo bình khí tu đủ

rồi, vận khí công phu đủ rồi mới kế tiếp là nội hỏa minh điểm, từ

nội hỏa đốt minh điểm, kế đến là dùng khí công bảo bình khí vận

Page 100: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

100

tống minh điểm, phải phối hợp như vậy mới đúng, từ bảo bình khí

phối hợp nội hỏa minh điểm, lại thêm ngoại tại kim cang quyền,

tổng hợp lại như vậy, hình tượng của mật giáo sẽ hoàn toàn minh

hiển, mật giáo không có cái gì, đến hôm nay nói cho mọi người

biết về thứ tự, các bạn đại khái đã hiểu rồi, phối hợp những cái này

lại, sẽ được thành tựu rất lớn.

Về mặt hiển giáo mà nói họ không trọng về < mạng > tu hành,

hoàn toàn trọng về tu < tánh >, có thể nói, họ chỉ trọng về tu hành

tâm linh, những gì trên thân thể thì coi nhẹ, kỳ thật tu tâm linh là gì?

Cũng gần giống như tu pháp bổn tôn. Mật giáo của chúng ta là <

tánh mạng song tu > mà hiển giáo là < tu tánh >, không trọng tu

mạng

Hôm nay chúng ta nói về yếu nghĩa, tức là thứ tự sanh khởi tương

ứng rồi, bảo bình khí cũng thành tựu rồi, lại tu nội minh điểm, đó

là một trình tự, nếu như bạn tu nội minh điểm trước mà không tu

khí công bảo bình khí, làm sao vận tống minh điểm đây? Đó là một

vấn đề, vậy minh điểm vận tống, nếu như bổn tôn của bạn không

minh hiển kiên cố, làm sao vận tống đây, đó cũng là một vấn đề,

cho nên chúng ta phải học pháp theo trình tự, như vậy mới đúng.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 23 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 101: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

101

NỘI TU CỦA <KIM CANG PHÁP> LÀ KHAI NGŨ LUÂN

Lúc trước rất lâu, mỗi lần tôi viết về liên quan tầng thứ tu hành của

tôn phái, đều là: Tứ Gia Hành, Tương Ứng Thượng Sư, Bổn Tôn,

Kim Cang Pháp, đến Vô Thượng Mật, lúc đầu có phần hơi thô, tức

là 5 tầng thứ này, bây giờ là từ bổn tôn sau đó là phân thành bảo

bình khí, nội hỏa, khai trung huyệt, khai ngũ luân, ngũ đại kim

cang, vô thượng mật, đến đại viên mãn những cái này thì tỉ mỉ hơn.

Chúng ta hiểu được tu hành của tầng thứ, tầng thứ của kim cang

pháp ở rất cao, ở mật giáo mới có, ở hiển giáo không có kim cang

pháp, trong mật giáo có Hỷ Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, Đại

Uy Đức Kim Cang, Thời Luân Kim Cang, Uế Tích Kim Cang,

năm đại kim cang pháp này ở hiển giáo không có, tại sao Kim

Cang Pháp lại có tầng thứ cao như vậy? Nó có tồn tại đạo lý của

nó, bởi vì < Phật > và < Kim Cang > là như nhau. Chúng ta biết

được Ngũ Phương Phật hóa thân thành Ngũ Đại Kim Cang, vậy

Ngũ Đại Kim Cang này không phải là < Phật > sao? Trong một số

sắp xếp của Mạn Đà La như < Thai Tạng giới Mạn Đà La> đem

Kim Cang Viện bố trí ở bốn bên, và một số xưng hô là như vậy

đấy, lấy < thượng sư > là tôn, kế đến là <bổn tôn>, <không hành >,

kế đến là < hộ pháp >, hộ pháp cũng xếp ở phía sau, giống như

Thai Tạng giới đem < Kim Cang Viện > xếp ở bốn bên.

Page 102: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

102

Thật ra tầng thứ của < ngũ đại kim cang >, nhìn vào là được xếp ở

phía sau. Lúc trước được xếp thô như vậy, như < tứ gia hành > <

thượng sư tương ứng >, < bổn tôn pháp > và < kim cang pháp >,

bạn chỉ cần tu kim cang pháp thành tựu, thì tức là đã thành tựu vô

thượng mật pháp, và vô thượng mật và kim cang pháp thành tựu

tức là thành Phật, cho nên ở uyên nguyên mà nói Phật hóa thân là

kim cang. Bởi vì có < thể > có < dụng >, trên bổn thể mà nói, tầng

thứ của Phật đương nhiên là lớn hơn kim cang, và uyên nguyên của

kim cang cũng là đến từ Phật. Cho nên tôi thường nói tu trì kim

cang pháp thành tựu tức là Phật rồi.

Ở nội pháp mà nói, < ngũ đại kim cang > đều phải phối bị, ngũ

luân thì phối bị ngũ kim cang, bạn phải mở ngũ luân ra, ngũ đại

kim cang của bạn mới hiện ra được, ngũ đại kim cang muốn hiện

ra là phải từ khi mở ngũ luân, tôi nói qua chỉ cần người tu hành tập

trung tinh thần, khí sẽ tụ lại ở mi tâm luân, nhưng muốn nó hạ

xuống hầu luân, tâm luân, tề luân, mật luân bạn đều phải biết trong

đó có rất nhiều thậm thâm nội ý.

Hôm nay cũng giới thiệu cho mọi người < kim cang pháp >, thật ra

kim cang pháp không phải như mọi người nghĩ, nghi quỹ của Kim

Cang Pháp ở ngoại tu mà nói, là làm hộ pháp hàng phục, về mặt

nội tu mà nói cũng tức là khai ngũ luân, có tu ngoại pháp và tu nội

pháp, còn có vô thượng mật thậm chí là từ thành tựu của kim cang

pháp, có thể đạt được đại thành tựu thành Phật, trong đó đều có nội

Page 103: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

103

ý thâm sâu, sau này những đệ tử có đại căn khí, tôi sẽ dạy họ khai

ngũ luân, sau khi trung mạch khai thông rồi thì có thể khai ngũ

luân, ngũ luân khai rồi, thì phải tu kim cang pháp, kim cang pháp

thành tựu rồi thì đã thành Phật.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 24 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

VẤN ĐỀ CÚNG CHAY VÀ CÚNG MẶN TRONG MẬT ĐÀN.

Gần đây vẫn có đệ tử hỏi: < Trong mật đàn cúng mặn tốt hay là

cúng chay tốt >? Vấn đề mặn và chay lúc trước đã nói qua nhiều

lần rồi, vậy cuối cùng trong mật đàn nên cúng mặn hay là chay đây?

Đây là vấn đề mọi người nên biết. Trong mật đàn của Chân Phật

mật uyển hình như chưa từng thấy họ cúng mặn, thông thường là

cúng mứt và bánh, trái cây và một số hoa, đều là phẩm chay, rất ít

đồ cúng mặn, một số mà nói là tùy thuận.

Quan niệm của Phật giáo Trung Quốc dùng chay là rất quan trọng,

chân chính đắc được tánh Không của Phật đối với chay và mặn là

không có phân biệt, bởi vì trong tánh Không cái gì cũng không có,

nếu đã là cái gì cũng không có thì làm gì có mặn và chay? Trong bí

mật của tánh Không, trên nguyên tắc mà nói là không có sự phân

Page 104: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

104

biệt chay và mặn, trong bí mật duyên khởi, cũng là việc hôm nay

chúng ta đang nói, cũng tức là theo nhân duyên mà khởi của các bí

mật, mới có sự phân biệt chay và mặn.

Đại bộ phận Phật giáo Trung Quốc là duyên khởi đều là hiển giáo,

hiển giáo mà nói đương nhiên là chay rồi, bởi 1400 năm nay nhân

duyên đều là chay. Hiển giáo chỉ đến bổn tôn, thường là cúng chay

Phật và Bồ Tát, đây cũng là một duyên khởi.

Trong mật giáo mặn và chay thì ít phân biệt hơn, quán thứ nhất của

mật giáo là dùng nước, quán thứ 2 là cánh hoa đỏ trắng, kỳ thật

cánh hoa đỏ trắng đương nhiên đều là chay, nhưng khi lập cánh

hoa trắng đỏ này ý nghĩa là như vậy, bởi vì cánh hoa trắng đỏ là

thay thế cho < hồng bạch bồ đề >, nhưng bản thân hồng bạch bồ đề

là mặn, không phải chay, bởi hồng bạch bồ đề là ở trong cơ thể là

thuộc về mặn, cho nên khi thọ nhị quán thì nhất định bạn phải ăn

hồng bạch bồ đề, nếu như bạn ăn chay thì không thể thọ nhị quán.

Bởi trong nguyên ý ở bạch bồ đề nói là tinh hoa, hồng bồ đề là

máu, những cái này đều là mặn, bởi vì thọ nhị quán mật pháp thì

nhất định phải ăn mặn, không có ăn chay.

Một số mà nói, một số hiển giáo là ăn chay, đó là bí mật duyên

khởi, nhưng mật giáo thì không có chay mặn, thật ra cũng là bí mật

duyên khởi, bởi trong mật đàn có rất nhiều kim cang hộ pháp. Bởi

không phải nhất định họ chứng được tánh không cho nên trong tu

hành của mật giáo,trên nguyên tắc là không phân biệt chay mặn vì

Page 105: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

105

thế sau này chúng ta cũng không phân biệt chay mặn tùy thuận mọi

người, cũng tùy thuận Phật Bồ Tát Kim Cang Hộ Pháp, bạn cúng

mặn ở mật đàn, những vị bồ Tát ăn chay sẽ không đụng đến, tùy

thuận Phật Bồ Tát cũng là tùy thuận chúng sanh, cho nên đây cũng

là bí mật của duyên khởi.

Lúc trước nếu không có Lương Võ Đế thì không có vấn đề chay

mặn, cũng là một duyên khởi, bởi do ảnh hưởng của Lương Võ Đế

quy định là ăn chay, cho nên Phật giáo Trung Quốc lấy ăn chay là

chính.

Cho nên có người hỏi về vấn đề chay mặn, bạn sẽ trả lời, tùy thuận

ý nghĩa duyên khởi của bạn, duyên khởi của bạn là chay, thì chúng

ta không dùng mặn để đãi họ, duyên khởi là mặn, chúng ta không

nhất định phải đãi họ ăn chay, cũng là hoàn toàn tùy thuâận chúng

sanh, tùy thuận ý nghĩa của tất cả Bồ Tát Kim Cang Hộ Pháp, như

vậy mới đúng.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngay29 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 106: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

106

BẢO BÌNH KHÍ (6)

Hôm nay chúng ta lại nói về bảo bình khí, thật ra tất cả các khí

pháp bắt đầu đều lấy cửu tiết Phật phong ứng, từ cửu tiết Phật

phong mà dẫn nhập vào bảo bình khí.

Bảo bình khí là rất quan trọng, đơn giản ví dụ, trong < na nhược

lục pháp > có khai đỉnh pháp, phương pháp này có 2 chữ chú, một

cái là chữ < hách > (HIK) là chữ chú đề khởi lên, một cái là <hạ>

là chữ chú giáng hạ, khai đỉnh pháp này là dùng cái gì để đưa lên

hạ vậy? Đơn giản nói cho mọi người biết là dùng khí để lên, và

dùng khí để hạ, nếu như không có cơ sở của bảo bình khí, muốn đề

lên và hạ xuống là rất khó khăn, cho nên bạn phải có khí của bảo

bình khí làm căn bản, đương nhiên là phải đem minh điểm từ trung

mạch cho lên đến đỉnh, cũng có thể đem minh điểm xuống đến chỗ

cũ, đó là đạo lý rất đơn giản.

Thật ra khí ở mật giáo rất quan trọng, chúng ta biết được sau khi

khai đỉnh rất nhiều người có cảm giác đỉnh đầu rất ngứa, ngoài ra

còn sưng nữa, có khi còn chảy 1 tí máu, đó đều là hiện tượng khai

đỉnh, một số vị Phật sống ở Tây Tạng khi khai đỉnh xong thì bạn

phải ở trên đỉnh đầu cắm vào ngọn cỏ cát tường, làm một bằng

chứng đã khai đỉnh, nhiều khi có người khai đỉnh bản thân mình sẽ

biết, như chúng ta học < Na lạc lục pháp > < khai đỉnh pháp > sẽ

kiến đỉnh dương mở ra, đó chính là chứng nghiệm khai đỉnh.

Page 107: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

107

Bạn học khí pháp đem minh điểm đến tâm thì tập trung ở tâm,

hoặc đem minh điểm tập trung ở đỉnh, sẽ có một cảm giác chóng

mặt hoặc là cảm giác muốn chết, cho nên chúng ta tu khai đỉnh

pháp nhất định phải phối hợp tu < Trường Thọ Phật Pháp >, tôi đã

từng viết sách về pháp Phật trường thọ, trọng điểm là quán tưởng,

tức là quán tưởng trong bảo bình khí của trường thọ Phật có chữ <

Xế> (Hrih) < ……> phóng quang màu trắng, chiêu thỉnh tất cả

Phật và Bồ Tát Kim Cang hộ pháp tập trung thể nhập vào bình, sau

đó chuyển hóa thành cam lồ, và từ Trường Thọ Phật di dời đến

đỉnh đầu của bạn, lấy bình này gia trì cho bạn, lúc đó những cam lồ

thanh tịnh màu trắng sẽ thể nhập vào cơ thể bạn, sung mãn toàn

thân và nhập vào tứ chi toàn bộ trăm huyệt từ cam lồ mà sung mãn,

lúc đó cảm giác minh điểm của bạn không ở đỉnh đầu cũng không

ở tâm, minh điểm sẽ dễ dàng bay ra và không bao trở lại, tức là tử

vong, ứng dụng quán tưởng pháp Phật trường thọ có thể khiến

minh điểm của bản thân được đến < tán >, khiến minh điểm sẽ

không tập trung ở đỉnh cũng không tập trung ở tâm, mà là phân tán

ở tứ chi và trăm huyệt, như vậy thì bạn sẽ được trường thọ.

Trong mật giáo có giáng, đề, trì, tán, < tán > này rất quan trọng,

nếu bạn không tán thì sẽ đoản thọ ( chết sớm ), nếu hiểu được tán

thì sẽ trường thọ, thật ra có rất nhiều người không hiểu được tại

sao phải tán, bởi vì tán mới trường thọ, nếu như bạn thường đem

minh điểm tập trung ở một nơi, để nó bay ra ngoài, vậy thì tử vong

Page 108: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

108

rồi. Cho nên sau khi khai đỉnh nhất định phải phối hợp tu Trường

Thọ Phật pháp.

Lúc nãy nói qua, trọng điểm khai đỉnh cũng là bảo bình khí, mọi

người phải ráng tu bảo bình khí, có thành tựu rồi, mọi cơ bản đều

được thông, nhất định sẽ được đại thành tựu,

Sau khi bảo bình khí thành tựu rồi thì đến < chuyết hỏa>, tu < vô

lậu >, tu < kim cang quyền >, thành tựu kim cang đại pháp rồi, kế

đến là thành Phật.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 30 tháng 11 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

Page 109: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

109

QUÁN TƯỞNG < BÁT CÚNG >

Hôm nay chúng ta bàn một tí ít về quán tưởng bát cúng, thật ra về

mặt quán tưởng cúng dường, lúc trước đây đã lâu từng nói qua, bởi

vì quán tưởng bát cúng thường phức tạp hơn, cho nên lúc đầu tôi

chỉ nói với mọi người < nhất cúng > là có thể được rồi.

Cho một ví dụ trước tiên là quán tưởng một trái táo, kế đến là biến

thành hai, lại biến thành một hàng, sau đó là một đống, sau đó biến

thành trùng trùng điệp điệp ở khắp hư không, như vậy là từ một mà

quán tưởng thành nhiều, là khi mới bắt đầu học quán tưởng dạy

cho mọi người.

Đối với những liên quan về quán tưởng bát cúng, trước tiên quán

tưởng 8 thứ cúng phẩm ở trong 8 ly cúng quán tưởng thành một

hàng, kế đến quán tưởng sung mãn toàn bộ trong hư không.

Có một số đệ tử nói, bát cúng của mật tông Tây Tạng, có một số là

không dùng vật thật làm quán tưởng, họ có 1 phương pháp quán

tưởng riêng, nếu như các bạn muốn làm quán tưởng như vậy tôi có

thể dạy các bạn, trước hết là quán tưởng chữ chú, bởi vì cho rằng

tất cả cúng dường đều là đến từ hư không, lấy hư không để cúng

dường hư không là phù hợp ý chỉ Phật pháp, cho nên trước tiên

nhất định là chữ chú (chủng tự), bởi vì trong mật giáo lấy chủng tự

bắt đầu kế đến là biến hóa thành vật thật, lúc trước tôi dạy mọi

người là trực tiếp dùng đồ vật thực tại làm cúng dường, mọi người

Page 110: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

110

muốn học phương pháp bát cúng quán tưởng của mật giáo Tây

Tạng, có thể quán tưởng chữ chú trước, tức là quán tưởng chữ

<……..>, nếu như bạn biết được khẩu khuyết của mật giáo, thì biết

được chữ <…….> là thay thế cho sự sinh ra, lẽ ra chữ <……> là

chỉ hư không còn chữ <………> là chỉ mới ra đời. Cho nên trước

tiên quán 8 cái <……> từ <…….> này mà sanh ra 8 chén sọ hoặc

8 ly cúng ( bởi tập tục của mật tông Tây Tạng là dùng thiên linh

cái (chén sọ) đựng đồ cúng dường, ở người Hán thì không có tập

tục này, cho nên có thể quán tưởng 8 ly cúng ) tức là chữ < …..> là

từ 8 ly cúng là từ <….> chữ mà thăng lên, ở trong ly dâng đồ vật

bát cúng, như: hương, hoa, đăng, trà, quả, và thêm đồ hương, nước

trơn, ốc như 8 loại bát cúng này đều ra hết, đồng thời quán tưởng

thành mặt, lại quán tưởng phân bố toàn bộ hư không, đây chính là

< bát cúng quán tưởng > của mật tông Tây Tạng.

Lúc trước tôi từng dạy quán tưởng vật thật, tức là bạn thấy một

chiếc xe rất tốt, thì quán tưởng cúng dường cho Phật và Bồ Tát,

thấy những bông hoa rất đẹp, cũng có thể quán tưởng đem hoa

cúng dường cho Phật và Bồ Tát, phàm thấy được những vật tốt

cũng có thể dùng làm quán tưởng, nếu như bạn muốn học hình

thức Tây Tạng, thì trước tiên phải quán tưởng chữ <…..> kế đến là

biến thành một đóa hoa, hoa lại biến thành một sợi dây, một mặt,

sau đó là trải ra khắp hư không, quán tưởng như vậy là rất viên

mãn.

Page 111: Độ ma dễ độ người khó · trung ấm, bản thân đã thành thành phần không vật chất, có thể nói chỉ có thành phần tinh thần, như vậy có thể

111

Bởi vì có người hỏi đến quán tưởng bát cúng, cho nên tôi giảng

giải có liên quan quán tưởng của mật giáo Tây Tạng, là từ hư

không kế đến là chữ chú biến thành đồ vật thật tại, lại biến thành

một sợi chỉ, lại biến thành một mặt, kế đến là phân bố toàn hư

không, như vậy là rất viên mãn. Đấy chính là phương pháp chủ yếu

bổ sung tất cả các quán tưởng của mật giáo Tây Tạng. Thật ra

chúng ta tu hành quán tưởng đa số cũng không rời nguyệt luân,

chữ chú, bổn tôn, kế đến là làm quán tưởng khác, vậy thì rất là viên

mãn.

Om Ma Ni Bat Mi Hung

Ngày 1 tháng 12 năm 1993

Liên Hoa Cúc Phương kính ghi

* GHI CHÚ : Trong bài có dùng <…….> là có chữ Phạn vì trong

vi tính không có nên phải để trống.