4 dinh kien gioi doc pd va lv- bui tran phuong
TRANSCRIPT
Phạm Duy và Lê Vân, giải mã thông điệp về vai trò và định kiến giới ở Việt Nam
TS. Bùi Trân Phượng
TÓM TẮT
Từ lâu, các quan niệm về vai trò giới và định kiến giới đã tồn tại ở Việt Nam. Những quan niệm và định kiến ấy không chỉ thể hiện qua lời nói, hành động nhất thời, mà còn ăn sâu vào tiềm thức, gây ảnh hưởng đến quyết định cuộc đời của nhiều người Việt. Trong Đọc Phạm Duy và Lê Vân: Tư duy về nam và nữ giới, tác giả John C. Schafer đã nêu lên các phát hiện của mình về ý thức giới ở Việt Nam thông qua hai hồi kí của hai nghệ sĩ nổi tiếng thời bấy giờ: Phạm Duy và Lê Vân. Tuy Phạm Duy và Lê Vân đều không tiêu biểu cho đàn ông và đàn bà ở Việt Nam, tác giả cho rằng hai nhân vật này đã cung cấp minh chứng để phân tích và trả lời câu hỏi của Lê Thị Nhâm Tuyết: “Tại sao đàn ông cứ bình thản là đàn ông, trong khi phụ nữ lúc nào cũng là nạn nhân của mọi thứ định kiến, đồng thời là đối tượng được nâng niu trân trọng trong vai trò của ngọn nguồn sáng tạo văn học nghệ thuật?” Nghiên cứu đã để lại cho người đọc nhiều băn khoăn, trăn trở khi đã chỉ ra bất bình đẳng giới vẫn còn sâu sắc đối với người Việt ở nhiều thế hệ, hoàn cảnh chính trị – xã hội. Đồng thời, nghiên cứu cũng khuyến khích việc “đọc lại”, nhằm “giải mã những thông điệp nằm dưới tầng sâu tác phẩm văn học, kể cả nằm ngoài ý thức người kể” để rồi tạo điều kiện cho “một cuộc đối thoại mới về văn hóa truyền thống”.
NỘI DUNG
Đọc Phạm Duy và Lê Vân… của John C. Schafer là một quyển sách nên đọc, cần đọc vì nhiều
lẽ. Không phải chỉ vì Phạm Duy và Lê Vân tuy kẻ nam người nữ và thuộc hai thế hệ khác nhau,
có những trải nghiệm rất khác biệt song là hai nghệ sĩ được đông đảo người Việt vô cùng yêu
quý, bất chấp tranh cãi kéo dài. Không phải chỉ vì tác giả John Schafer và dịch giả-vợ hiền của
ông đều là người nặng lòng yêu người Việt, văn hóa Việt và đã thể hiện tình yêu đó suốt cả một
đời nghiên cứu của anh John, với sự hỗ trợ dịch thuật của chị Quỳnh. Mà trên hết còn vì đọc như
John Schafer “đọc lại” là điều bổ ích biết bao, cần thiết biết bao cho những người Việt bình
thường, không hề là người nổi tiếng như Lê Vân hay Phạm Duy, và cho bất cứ ai quan tâm hiểu
thêm về người Việt, văn hóa Việt.
Đọc đi đọc lại
Như John Schafer giải thích ngay từ đầu sách, anh đọc Hồi ký Phạm Duy và tự truyện của Lê
Vân đều không phải tình cờ. Anh thấy ở hai tác phẩm đó những cứ liệu đủ để chúng là công cụ
thích hợp giúp anh tìm hiểu ý thức giới ở Việt Nam. Anh đã giải trình việc tìm hiểu của mình
một cách cẩn trọng và khoa học nhứt có thể. Anh thừa nhận Phạm Duy và Lê Vân đều không tiêu
biểu cho đàn ông và đàn bà ở Việt Nam; song “nhân vật mà Phạm Duy tự giới thiệu trong cuốn
hồi ký của ông (…) đã để lộ ra những nét nam tính rất cổ điển của đàn ông Việt Nam mặc dầu
dưới một lăng kính phóng đại rất lớn”; còn Lê Vân “tự định nghĩa đời mình qua những giá trị
truyền thống”, “trong tâm can lúc nào cũng chỉ muốn làm một người vợ đúng nghĩa: hiền hậu,
hết lòng với gia đình chồng con. Đó là những phẩm chất của phụ nữ Á đông mà [chị] đã ‘bị
ngấm’ từ khi nào không rõ”. Vì vậy, John cho rằng hai nhân vật nầy cung cấp minh chứng để
anh phân tích và trả lời câu hỏi của Lê Thị Nhâm Tuyết: “Tại sao đàn ông cứ bình thản là đàn
ông, trong khi phụ nữ lúc nào cũng là nạn nhân của mọi thứ định kiến, đồng thời lại là đối tượng
được nâng niu trân trọng trong vai trò của ngọn nguồn sáng tạo văn học nghê thuật?” Câu hỏi
không của riêng bà Nhâm Tuyết, nhà nghiên cứu phụ nữ giàu kinh nghiệm, cho nên chắc ai trong
chúng ta cũng sẽ quan tâm đến câu trả lời mà cuốn sách của John Schafer đề xuất.
Cuốn sách là sự chia sẻ của một người đã đọc đi đọc lại, trải nghiệm, yêu thương, nghĩ ngợi, tư
duy không chỉ khi đọc sách của và về hai nhân vật đã chọn, mà trong cả cuộc đời mình. Từ
những thập niên 1960, 1970, John “đã say mê những bài tình ca của Phạm Duy như Nghìn trùng
xa cách, Trả lại em yêu, Ngày đó chúng mình”, “từ lâu [anh] đã muốn tìm hiểu thêm về hai giới
ở Việt Nam – như vợ chồng phân chia công việc trong gia đình như thế nào, có phải người vợ
thật sự là nội tướng và đàn ông là ngoại trưởng hay không. Những tò mò này càng gia tăng thêm
khi [anh] cưới vợ Việt Nam vào năm 1973”. Qua Yêu và sống, anh muốn “được biết thêm về cái
nhìn của người phụ nữ xem họ tự đánh giá mình như thế nào trong cuộc sống hiện đại”.
Tư duy
Điều mà độc giả Việt Nam có thể học được nhiều nhứt ở cách đọc của John Schafer là sự lắng
nghe, tôn trọng người viết và nhân vật mà mình nghiên cứu; đồng thời, với tri thức và công cụ tư
duy hiện đại – chẳng hạn lý thuyết của Roland Barthes – anh phanh phui, “bốc mộ” (chữ dùng
của Bùi Mai Hạnh), giải mã những thông điệp nằm dưới tầng sâu tác phẩm văn học, kể cả nằm
ngoài ý thức người kể, người viết hồi ký và tự truyện; và do đó, không hiển nhiên bộc lộ cho
những độc giả Việt Nam từng đọc các tác phẩm mà anh “đọc lại”. Theo John, trong Yêu và sống,
“Lê Vân gợi lên những ‘văn bản’ mà người Việt đã theo đó để dựng nên quan điểm của họ về nữ
giới. [Anh] nói “gợi lên” thay vì “trích dẫn” bởi vì [anh] phân tích không những chỉ các văn bản
Lê Vân trích dẫn – ví dụ một số câu trong Truyện Kiều – mà còn cả những văn bản Roland
Barthes gọi là “trích dẫn không có dấu ngoặc kép”: những ám chỉ bằng thành ngữ và châm ngôn
và những tập tục văn hóa không rõ nguồn gốc.” Anh chứng minh các văn bản đó hình thành một
“hệ thống chặt chẽ nhằm duy trì quyền lợi của đàn ông và hạn chế quyền lợi của đàn bà.” Và qua
đó anh giúp chúng ta hiểu rõ hơn “vì sao đàn ông như Phạm Duy sung sướng trong vai trò đàn
ông trong khi đàn bà như Lê Vân lại cảm thấy mình là nạn nhân”. Mà nào đâu chỉ có Phạm Duy
mới sung sướng, thoải mái, bình thản làm đàn ông; nào đâu chỉ có Lê Vân mới cảm thấy mình là
nạn nhân lắm khi tự nguyện, đôi lúc còn tự hào làm người (bị) hy sinh.
Tuy nhiên, sự phân tích khoa học của John Schafer hoàn toàn không lệ thuộc, cũng không chút
nhân nhượng, thỏa hiệp với những phân trần tự biện hộ của Phạm Duy hay những tự thán đẫm
nước mắt thương thân của Lê Vân-Bùi Mai Hạnh. Anh nhiều lần tranh luận, đối chất với nhân
vật của mình, và cả với xã hội Việt đang dung dưỡng những định kiến ăn sâu về giới. Hoài nghi,
chất vấn, trước hết, với tư cách người ngoài, người đến từ nền văn hóa có những xác tín khác với
số đông người Việt. Phạm Duy ngụy biện “nói rằng người Việt đã quá khe khắt với ông trong
[một “tai nạn ái tình”, theo diễn đạt của ông], còn với người Âu Mỹ thì không như vậy.” John
phủ định dứt khoát: “Mặc dầu xã hội Mỹ phóng túng hơn Việt Nam thật nhưng ngoại tình với vợ
của em trai vợ mình là một điều không bao giờ được dư luận chấp nhận tại Mỹ.” Anh “tin nhiều
độc giả ngoại quốc sẽ rất ngạc nhiên (hay bật cười, hay khiếp đảm) khi thấy Phạm Duy quá tự
tin”, dễ dãi với bản thân, với cái ông gọi là “nết xấu” độc nhứt của ông là “đa tình”. Nhưng, chặt
chẽ và vững chắc hơn, John Schafer đã phản biện cả Phạm Duy và Lê Vân-Bùi Mai Hạnh bằng
tri thức và tư duy khoa học khi anh chỉ rõ “người Việt vẫn còn giữ hai tiêu chuẩn, một cho đàn
ông và một cho đàn bà”. Thực trạng đó, gọi đúng tên, không gì khác hơn là bất bình đẳng giới.
Theo John, nó trầm trọng ở Việt Nam và vẫn tồn tại kể cả ở Mỹ, John cho chúng ta biết, khi anh
dẫn lại tác giả Mỹ Mary Gergen phân tích và chứng minh “có hai loại tự truyện, một của đàn ông
và một của đàn bà”. Anh nhận xét cả Phạm Duy và Lê Vân đều không ra ngoài thông lệ chung về
sự phân biệt đó khi tường thuật đời mình; có nghĩa chiều kích giới luôn hiển hiện.
Về Phạm Duy, John Schafer kết luận: “Bốn tập hồi ký của ông đã giúp chúng ta hiểu ông nhiều
hơn. Còn về việc đây có phải là hồ sơ của “một người Việt tự do” (như Phạm Duy tự nhận, với
sự đồng tình của một số người, BTP) thì cần phải tìm hiểu thêm ý nghĩa hai chữ tự do ở đây. (…)
Trong các liên hệ tình cảm với phụ nữ ông đã tận dụng tất cả những đặc quyền mà nền văn hóa
phụ hệ Việt Nam đã ban cho ông. Có thể vì ông kiêu ngạo, không hề có một chút mảy may thiếu
tự tin, nên hồi ký của ông thiếu cái nhìn lại về mình. Ông hầu như không bao giờ tự chất vấn các
hành động của mình.” “Đọc lại” với sự chất vấn cần thiết ấy, John đã giúp nhiều gợi ý bổ ích
chẳng những cho đại chúng ở Việt Nam, mà cho cả các nhà phê bình, nghiên cứu chuyên nghiệp.
Về tự truyện của Lê Vân do Bùi Mai Hạnh chấp bút, John Schafer cảm phục chị đã “dám viết ra
một cách trung thực đến tàn nhẫn, (…) đã cho độc giả một bài học về lòng dũng cảm”. Anh nhận
định xác đáng là “Yêu và Sống (…) đã kể lại một hành trình giàu cảm xúc và trí tuệ đầy lôi
cuốn”. Anh cũng tinh tế nhận xét tuy Lê Vân không đại diện cho phụ nữ Việt nhưng “chuyện đời
của cô phản ánh những văn bản mà người Việt theo đó để dựng nên quan điểm của họ về nữ
giới”. Anh phân tích quan điểm này dựa trên 6 chủ đề mà anh cho là then chốt để khái quát quan
điểm Việt về nữ giới: huyền thoại về mẫu hệ và người nội tướng, tiết hạnh, tứ đức, hy sinh, quan
hệ tam giác, lãng mạn và định mệnh. Mặc dù việc tách các chủ đề còn có thể tranh cãi – chẳng
hạn, vì sao tiết hạnh phải thành chủ đề riêng trong khi đó là đức quan trọng nhứt trong tứ đức? –
song John đã phanh phui khá kỹ các chủ đề để vừa tỏ ra thấu hiểu, cảm thông sâu sắc vừa phản
biện thẳng thắn với định kiến giới của xã hội Việt và cả với những lập luận của Lê Vân, người
không ngừng nỗ lực đấu tranh với định kiến để xác lập quyền được hạnh phúc của mình, quyền
được yêu và sống mà chị diễn đạt thành quyền được “là tôi, là đàn bà”. John Schafer sắc sảo ghi
nhận: Lê Vân “kết tội phụ nữ không phải vì họ hy sinh mà vì không nhận thức được các văn bản
– các tập tục văn hóa liên quan đến sự hy sinh – đã bẫy họ và buộc họ phải hy sinh nhiều hơn
đàn ông. Cô đổ lỗi cho họ đã thiếu một sự ý thức về nữ quyền.” Anh đồng thời tỉnh táo phản biện
nhân vật của mình: “Nếu bạn có một người chồng ngoại tình, một người chồng không xứng đáng
với sự hy sinh của bạn, [Lê Vân] dường như muốn nói, thì hãy li dị anh ta và tìm một người tốt
hơn. Nếu không thì bạn là một người “ngu xuẩn,” chỉ biết tuân theo phong tục mà không biết tự
cởi trói cho mình. Đã từng vứt bỏ hai người đàn ông mà cô thấy không xứng, Lê Vân lẽ dĩ nhiên
đã thực hành những gì cô phát ngôn. Tuy nhiên độc giả chắc không thể không tự hỏi một người
đã từng cướp chồng của ba người đàn bà có phải là người xứng đáng để phát ngôn thông điệp
này cho phụ nữ không.” Hay, khi nói về số phận, “Lê Vân có thể nói rằng cô đã “buộc số phận
phải theo mình,” nhưng làm sao cô có thể vừa bắt số phận theo mình vừa đổ tội cho số phận đã
bắt cô có những hành động phạm lỗi mà cô thừa nhận là sai trái?”
Cách “đọc lại” vừa cặn kẽ, vừa thấu tình đạt lý của John Schafer giúp chúng ta hiểu hơn về hai
nhân vật anh đề cập; về tiêu chuẩn kép mà xã hội Việt vẫn đang áp dụng phổ biến cho hai giới,
thể hiện bất bình đẳng giới còn trầm trọng từ di sản văn hóa lâu đời; về tình hình, theo nhận định
của một số nhà nghiên cứu từ bên ngoài mà John trích dẫn, “tự do của phụ nữ lại bị ngăn cản, sự
tự vận động (agency) của họ bị đàn áp, và bình đẳng giới thật sự bị đặt ra ngoài tầm với của họ”.
Nó còn góp thêm một tiếng nói lý tính, có sự chặt chẽ (rigor) khoa học vào cuộc tranh luận cần
thiết – nhưng vẫn thường bị né tránh – về vấn đề bình đẳng giới, một trong những vấn đề mà
định kiến xã hội rất sâu gốc bền rễ và thường nhân danh truyền thống văn hóa, nhân danh lòng
yêu nước, quan tâm bảo tồn “tình tự dân tộc” và nhiều thứ ‘nghĩa’, ‘tình’ vấn vít, nhập nhằng
khác. Hãy nghe John Schafer dí dỏm chất vấn Phạm Duy khi ông “mong mỏi người con gái Việt
Nam đi tị nạn ở Âu Mỹ gìn giữ hộ tôi nguyên vẹn cả tinh thần lẫn thân thể”: “Tóm lại ‘em’ giữ
gìn giá ngọc không phải là do sự tôn trọng, bảo trì những giá trị truyền thống, mà để cho ‘anh’.
Sao ‘anh’ lại may mắn thế?” Hài hước mà thâm thúy, là một thú vị khác của văn phong John
Schafer.
… Và trăn trở
Tôi đã rất hào hứng Đọc Phạm Duy và Lê Vân cùng John Schafer, qua bản dịch của Cao Thị
Như Quỳnh và Nguyễn Trương Quý. Tôi cảm phục sự phân tích, chất vấn lấp lánh trí tuệ và biết
ơn thông điệp nhân bản nhắc nhở rằng “hệ thống văn bản Việt về vấn đề giới tính” kể cả trong
thực trạng xã hội cuối thế kỷ 20 đầu thế kỷ 21 còn bất bình đẳng, bất công, bất lợi cho nữ giới
đến chừng nào. Tôi cảm nhận và hoàn toàn chia sẻ những trăn trở của John Schafer và các nhà
nghiên cứu người Việt hay người nước khác từ ngoài Việt Nam cùng chung trăn trở đó.
Và tôi còn có đôi điều băn khoăn, trăn trở khác.
“Hệ thống văn bản Việt về vấn đề giới tính” là có thật; và, về nhiều phương diện, nó đáng làm
người ta bất an, vì bất bình đẳng giới còn sâu sắc, và càng bất an hơn, khi người Việt cả ở thế hệ
Phạm Duy và thế hệ của Lê Vân, cả những người sống phần lớn cuộc đời mình ở thành thị miền
Nam thời chiến như Phạm Duy hay trong xã hội miền Bắc kể cả trong và sau chiến tranh như Lê
Vân đều có vẻ như bị hệ thống văn bản đó chi phối nặng nề, đến mức họ có vùng vẫy lắm như
Lê Vân cũng không sao thoát được. Ít nhứt đó là cảm giác của tôi khi nghe John Schafer “đọc
lại”. Cứ như là “hệ thống văn bản” đó chỉ riêng có trong văn hóa Việt, cứ như là nó nhất thành
bất biến, và trói chặt người Việt nữ cũng như nam vào một ‘định mệnh’ không sao thoát được.
Vậy mà John Schafer đã tự nhắc mình từ đầu: Nếu tin chỉ có tiếng nói của văn hóa thì rất dễ bỏ
sót những chỗ trong câu chuyện đời mà trong đó “ý chí cá nhân chống lại hình thức văn hóa.”
Vậy mà John đã biết là Phạm Duy viết hồi ký với “sự luyến tiếc một thời đã qua, với một cái
nhìn rất chủ quan, hoàn toàn dựa vào cảm hứng và nhận thức của tác giả”. Vậy mà anh cũng đã
phân tích rõ và tinh tế về sự tự vận động của Lê Vân.
Những thông điệp chân thành, mạnh mẽ và thống thiết của Lê Vân kêu gọi nữ quyền – không chỉ
riêng cho phụ nữ Việt, chưa rõ vì sao, đã không được John “đọc” với xác tín rằng đó là ý thức
tỉnh táo về quyền mà chị gọi là quyền được “là đàn bà”, thực chất là quyền được “là tôi”, là con
người tự do. Sự tự do ấy, John cũng quả quyết nó có được là nhờ “kinh tế thị trường đã tạo ra
những cơ hội mới cho phụ nữ”. Không ai phủ nhận chính sách “Đổi mới” và xã hội “hậu đổi
mới” là bối cảnh thực tế trong đó Lê Vân đã “yêu và sống”. Nhưng có vẻ là giản lược khi chúng
ta không lắng nghe đúng mức con người cá nhân từ thuở nhỏ đã cảm nhận mình cô đơn và khác
biệt, như Lê Vân. Ý thức nữ quyền của chị dĩ nhiên thay đổi theo thời gian và hoàn cảnh sống.
Nhưng khao khát làm người, và được sống tự do, luôn hiển hiện cả trong ký ức của chị về tuổi ấu
thơ – dẫu biết hồi ký không thể xem là tư liệu gốc để hiểu sự thật – cả ở tuổi trung niên khi tưởng
chừng ‘số phận’ đã an bài. Sao có thể dễ dãi tin Phạm Ngọc Vân rằng “Lê Vân tìm thấy hạnh
phúc trong sự dâng hiến” để rồi kết luận: “vòng tròn luẩn quẩn lại được lặp lại (…) và rồi phụ nữ
Việt Nam lại tiếp tục ‘tự nguyện’ hy sinh bản thân mình”?
Tôi hoàn toàn đồng ý với John Schafer và các nhà nghiên cứu mà anh trích dẫn rằng “bình đẳng
giới vẫn còn là một lời hứa chưa được thực hiện”. Đó là thực trạng không chỉ ở Việt Nam, nhưng
ở Việt Nam nó nặng nề, khắc nghiệt hơn ở Âu Mỹ nói chung, hẳn là vậy; và những thành kiến
nam tôn nữ ti còn sức sống dai dẳng. Càng đáng băn khoăn hơn khi những nhà nghiên cứu phụ
nữ cũng “mong muốn quay trở về với những nội dung truyền thống của nữ giới – với huyền thoại
mẫu hệ, truyền thuyết về đức hy sinh, vân vân – mà không đặt câu hỏi cho những văn bản này,
hoặc vạch ra những mâu thuẫn trong chúng, hoặc khám phá những đa nghĩa trong chúng”. “Để
tạo điều kiện cho một cuộc đối thoại đúng nghĩa”, chắc chắn “đọc lại” là cần thiết.
Tuy nhiên, để đối thoại với truyền thống, cũng nhứt thiết cần nhìn nhận chiều kích không gian và
thời gian của lịch sử, kể cả ngoài phạm vi một đất nước, một nền văn hóa; mà bản thân đất nước
Việt Nam, như nhiều quốc gia có lịch sử lâu đời, vốn dĩ đã đa tầng văn hóa. Tôi không tin sức
sống của truyền thống mẫu hệ từ cội nguồn văn hóa Đông Nam Á đối với văn hóa Việt chỉ đơn
thuần là huyền thoại; mặc dù hiểu rõ sự viện dẫn “di sản mẫu hệ” nhiều khi là lý cớ cho kết luận
sai lầm là đấu tranh bình đẳng giới không còn cần thiết. Tôi cũng chưa được thuyết phục lắm khi
John Schafer khẳng định chắc nịch: “Phụ nữ ở cả hai miền [nam bắc] đều chịu ảnh hưởng bởi
những văn bản giống hoặc tương đương nhau.” Đặc thù văn hóa vùng miền ở Việt Nam cũng
như ở nhiều nước khác là một thực tế; quan hệ giới là một trong những lãnh vực mà đặc thù đó
khá rõ nét trong văn hóa Việt, không thể đơn giản ‘bỏ nó trong dấu ngoặc’. Mặt khác, những
hiện tượng như đề cao sự ‘vị tha’ và ‘sẵn sàng, tự nguyện hy sinh’ của phụ nữ không riêng có ở
Việt Nam hay Đông Á, mà đại đồng tiểu dị đã hiện diện khắp Đông Tây kim cổ, trước khi ý thức
nữ quyền trỗi dậy và cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới giành được thành quả nhứt định. “Cái sự
‘ngậm bồ hòn làm ngọt,’ biết chịu nhục, biết hy sinh (…) trở thành những phẩm chất luôn được
ca tụng”, chẳng phải chỉ ở “đàn bà xứ Việt” mà trong mọi xã hội còn bất bình đẳng giới nặng nề.
Nó không chỉ do hoàn cảnh chiến tranh mà có, chiến tranh chỉ có thể khiến sự mâu thuẫn giữa
‘hô hào nữ giới gánh việc xã hội’ và ‘đòi hỏi họ hy sinh gấp đôi’ gay gắt hơn thôi. Cái “vị trí
quan hệ tam giác kết nối dân tộc và gia đình, không hy sinh có thể bị dán nhãn là không yêu
nước” là phiên bản Việt của một thực trạng mà nghiên cứu quốc tế về phụ nữ và chiến tranh từng
gọi là “quốc hữu hóa” phụ nữ, nghĩa là tìm cách huy động phụ nữ phục vụ tổ quốc khi có chiến
tranh, có cách mạng hay cần gia tăng dân số, v.v… Lúc đó phụ nữ không còn chỉ bị nhốt trong
khuôn khổ gia đình mà trở thành người đối thoại của nhà nước; nữ quyền do đó được gia tăng
cũng có, mà bị xâm hại cũng có. “Hy sinh” vì vậy, thường là một giá trị lưỡng tính, như ý nghĩa
từ nguyên của khái niệm nầy.
Sự “đọc lại” sẽ phong phú, đa chiều hơn nếu cuộc đối thoại tiếp diễn sau cuốn sách của John
Schafer. John chắc hẳn là người mong muốn điều đó hơn ai hết, vì anh tin “bằng việc đọc lại,
chúng ta sẽ nhận ra các văn bản mà chúng ta tưởng là đơn thanh và độc thoại, thật ra là đa thanh
hơn và tương thoại hơn”. Với lòng biết ơn và sự đồng cảm, chia sẻ với tác giả và hai dịch giả, xin
mời chúng ta cùng “đọc lại”.
B.T.P.
10/2014
TÀI LIỆU THAM KHẢO
John C. Schafer. Cao Thị Như Quỳnh và Nguyễn Trương Quý dịch. Đọc Phạm Duy và Lê Vân –
Tư duy về nam và nữ giới. NXB Hồng Đức và Đại học Hoa Sen. 2015.
ĐÔI NÉT VỀ TÁC GIẢ
Bà Bùi Trân Phượng sinh năm 1950 trong một gia đình có nhiều thế hệ theo nghề giáo, được
thừa hưởng những phẩm chất sư phạm từ người thân và tiếp nối truyền thống gia đình. Sau khi
hoàn thành chương trình trung học Pháp tại trường Marie Curie, bà đậu Tú tài hạng Ưu và đi du
học Pháp vào năm 1968. Tốt nghiệp cử nhân giáo khoa Lịch sử đại học Paris I, Pháp (1972); tốt
nghiệp Thạc sĩ tại Đại học Paris VII, Pháp (1994), Tốt nghiệp Thạc sĩ Quản trị kinh Doanh UBI
(2003) và bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ tại Đại học Lyon 2, Pháp (2008).
Từ năm 1972 đến 1975, bà dạy học tại trường Marie Curie và thỉnh giảng tại Đại học Cần Thơ.
Từ 1975 đến 1991, bà công tác tại Đại học Sư Phạm TP.HCM, và trải qua các chức vụ: Chủ
nhiệm Bộ môn Lịch sử Việt Nam, Phó Chủ nhiệm Khoa Sử. Về Hoa Sen từ năm 1991, bà lần
lượt đảm nhận các cương vị: Trưởng Bộ môn tiếng Pháp, Trưởng ngành Quản trị Văn phòng,
Phó Hiệu trưởng phụ trách hợp tác quốc tế, rồi trở thành Hiệu trưởng từ năm 1996 đến nay
không ngừng phát triển nhà trường.
Từ 1975 đến 1992, các công trình của bà chủ yếu tập trung vào lịch sử cận hiện đại Việt Nam.
Từ 1992 đến nay, bà đi sâu nghiên cứu lịch sử văn hóa và lịch sử phụ nữ Việt Nam.
Luận án tiến sĩ Lịch sử của bà có đề tài “Việt Nam 1920 - 1945, giới và hiện đại: những nhận
thức và trải nghiệm mới”.