bÙi thỊ hƯƠng trẦm · 2019-09-20 · bảng 4.5: quan niệm về hạnh phúc theo mức...
Post on 02-Feb-2020
1 Views
Preview:
TRANSCRIPT
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2019
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
BÙI THỊ HƯƠNG TRẦM
QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
VỀ HẠNH PHÚC
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH XÃ HỘI HỌC
Mã số: 62 31 03 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. Lê Ngọc Văn
2. TS. Hà Việt Hùng
Hà Nội - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực,
có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án
Bùi Thị Hương Trầm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .......................................... 20
1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu ................................................................. 20
1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc ............................................ 25
1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc ................................... 29
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc 36
1.5. Kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu của luận án ..................... 44
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU ................... 52
2.1. Cơ sở lý luận ................................................................................... 52
2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 64
Chương 3: QUAN NIỆM CHUNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC .. 79
3.1. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên .... 79
3.2. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội .................. 81
3.3. Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân ................................ 84
3.4. Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc .............. 86
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VỀ HẠNH PHÚC ........................................................................................... 95
4.1. Khu vực sống và quan niệm hạnh phúc .......................................... 95
4.2. Nhóm tuổi và quan niệm hạnh phúc ............................................... 97
4.3. Tôn giáo và quan niệm hạnh phúc ................................................ 100
4.4. Dân tộc và quan niệm hạnh phúc .................................................. 103
4.5. Mức sống và quan niệm hạnh phúc .............................................. 108
Chương 5: ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ
VỀ HẠNH PHÚC .......................................................................................... 113
5.1. Tình trạng hôn nhân và quan niệm hạnh phúc .............................. 113
5.2. Độ dài hôn nhân và quan niệm hạnh phúc .................................... 118
5.3. Đặc điểm hôn nhân, đặc điểm cá nhân và quan niệm hạnh phúc .. 129
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 137
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....... 144
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 146
PHỤ LỤC ........................................................................................................................ 157
DANH MỤC BẢNG
Trang
Bảng 1: Thông tin người trả lời 14
Bảng 2: Phân bố mẫu phỏng vấn sâu 17
Bảng 3.1:Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự
nhiên xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
79
Bảng 3.2: Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội xếp
theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
82
Bảng 3.3: Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân xếp theo thứ
tự ưu tiên của người trả lời
84
Bảng 4.1: Quan niệm hạnh phúc theo nhóm nông thôn - đô thị 96
Bảng 4.2: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tuổi 98
Bảng 4.3: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tôn giáo 101
Bảng 4.4: Quan niệm về hạnh phúc theo dân tộc 105
Bảng 4.5: Quan niệm về hạnh phúc theo mức sống 109
Bảng 5.1: Quan niệm về hạnh phúc theo tình trạng hôn nhân 114
Bảng 5.2: Quan niệm hạnh phúc theo độ dài hôn nhân 119
Bảng 5.3: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực kinh tế - môi trường tự nhiên
127
Bảng 5.4: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực gia đình - xã hội
130
Bảng 5.5: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực đời sống cá nhân
132
DANH MỤC BIỂU
Trang
Biểu 3.1: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc 87
Biểu 3.2: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc
chia theo giới tính
92
Hộp: Quan niệm hạnh phúc thay đổi theo giai đoạn phát triển của gia đình 123
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phụ nữ là một nửa của nhân loại. Không có vấn đề gì liên quan đến
nhân loại mà không liên quan đến phụ nữ. Hạnh phúc không phải là một
ngoại lệ. Ở Việt Nam và trên thế giới, từ trước đến nay mặc dù có rất ít công
trình nghiên cứu riêng biệt liên quan đến quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc, nhưng đã có khá nhiều tranh luận. Đáng tiếc, những tranh luận đó
lúc đầu phần lớn là ý kiến của đàn ông. Họ đưa ra và ấn định những giá trị,
chuẩn mực khuôn mẫu ứng xử, vai trò đặc trưng cho phụ nữ và nam giới. Trải
qua những thời kỳ lịch sử rất lâu dài của các hình thái kinh tế - xã hội tiền
công nghiệp hóa, cho đến trước các cuộc cách mạng về công nghiệp, nữ tính
và nam tính là điều không một ai nghi ngờ. Nó chi phối quan niệm về hạnh
phúc gắn liền với phẩm chất giới tính mà xã hội gán cho họ.
Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc chỉ thật sự thay đổi khi chính
phụ nữ nhận thức lại về cái gọi là “nữ tính” của mình từ các làn sóng nữ quyền
do phụ nữ khởi xướng, bắt đầu từ làn sóng nữ quyền thứ nhất cuối thế kỷ XIX
sang đầu thế kỷ XX, xuất hiện ở nước Anh và phát triển mạnh ở Mỹ, đến làn
sóng nữ quyền thứ hai những năm 1960 - 1970 của thế kỷ XX, phát triển ở Anh,
Mỹ sang các nước phương Tây, và làn sóng nữ quyền thứ ba bắt đầu từ những
năm 1980 lan rộng ra toàn cầu. Kể từ đây, quan niệm về hạnh phúc trở thành
cuộc tranh luận của hai giới chứ không còn là sự áp đặt của đàn ông.
Có thể nhận thấy trong xã hội Việt Nam truyền thống, hạnh phúc từ
quan niệm của người phụ nữ về căn bản hầu như không mang mầu sắc cá
nhân mà gắn liền với hạnh phúc của gia đình, cộng đồng. Ngay cả những việc
riêng tư liên quan trực tiếp đến đời sống cá nhân của mình như chuyện hôn
nhân, người phụ nữ cũng tùy thuộc vào sự định đoạt của người khác. Nhà sử
học Nguyễn Thừa Hỷ gọi đó là những cuộc hôn nhân “phi cá nhân”. Ông viết:
2
“Đặc điểm cơ bản của hôn nhân trong xã hội Việt Nam truyền thống là tính
chất phi cá nhân, nghĩa là không chỉ là việc riêng tư của hai người nam nữ tự
nguyện đến với nhau trên cơ sở gắn bó tình cảm và giao kết xã hội. Đó là một
công việc dân sự được dàn xếp “theo quy ước” của tập thể, có ý kiến và sự công
nhận của cộng đồng (cha mẹ, gia đình, họ hàng, làng xóm)” [84, tr.162]. Chính
vì không có quyền quyết định hạnh phúc của mình cho nên trong hôn nhân,
người phụ nữ chỉ còn biết trông chờ vào sự may rủi và tin vào duyên số: “Thân
em như tấm lụa đào/Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?; Thân em như giếng giữa
đàng/Người khôn rửa mặt, người phàm rửa chân”; Thân em như hạt mưa sa/Hạt
vào đài các hạt ra ruộng cày (Ca dao) [124, tr.223]
Khi đã lấy chồng, người phụ nữ tiếp tục phụ thuộc vào chồng và gia
đình nhà chồng. Họ quan niệm hạnh phúc gắn liền với việc thực hiện tốt nhất
và đẩy đủ nhất vai trò, bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu
trong gia đình theo những chuẩn mực và mong đợi của người khác. Trong
suốt cuộc đời của mình, phụ nữ là người lao động, người nội trợ, chăm sóc gia
đình, hy sinh cho chồng con và gia đình nhà chồng. Hạnh phúc của họ là lấy
chồng, có nhiều con, yêu chồng, thương con, nghe theo lời dạy bảo của
chồng, cha mẹ chồng và “gánh vác giang sơn nhà chồng”.
Liệu đây có phải là một “bí ẩn nữ tính” của người phụ nữ? Bởi vì
dường như không phải chỉ có người phụ nữ Việt Nam truyền thống coi gia
đình, chồng con là niềm hạnh phúc duy nhất của mình mà hàng triệu cô gái Mỹ
vào các thập niên 50-60 của thế kỷ XX cũng ước mơ trở thành “bà nội trợ”.
Betty Friedan, người Mỹ, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Bí ẩn nữ tính” xuất
bản lần đầu tiên ở Mỹ năm 1963 đã viết: “Mơ ước duy nhất của họ [những
người phụ nữ Mỹ] là trở thành người vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn
nhất của họ là có năm đứa con và một ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của
họ là làm sao có chồng và giữ được chồng. Họ không nghĩ tới các vấn đề phi
nữ tính của thế giới bên ngoài nhà; họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng
3
đại. Họ hãnh diện với vai trò phụ nữ của mình, và tự hào điền vào chỗ trống
trong mục điều tra dân số cụm từ: “Nghệ nghiệp: nội trợ” [39, tr.33].
Thực tiễn này đã và đang gây ra những tranh luận cả trong đời sống và
trong khoa học xung quanh quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Trong
nhiều thập kỷ đã qua, về mặt lý thuyết ít nhất chúng ta đã chứng kiến hai
trường phái đối lập nhau. Đó là trường phái chức năng và trường phái nữ
quyền. Trường phái chức năng (đại diện là T. Parsons) cho rằng, quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc gắn liền với bản năng giới tính của họ. Các
nhà chức năng luận sáng tạo ra một thuật ngữ, một khái niệm phù hợp với
luận điểm này, đó là “thiên chức của người phụ nữ”. Theo đó, bản tính tự
nhiên của phụ nữ là sinh đẻ, nuôi con, làm việc nhà, và với họ hạnh phúc là
khi có chồng, có con và làm tốt tất cả những công việc trong phạm vi gia
đình. Hạnh phúc của người phụ nữ là “hạnh phúc của bà nội trợ”. Ngược lại,
bản tính tự nhiên của người đàn ông là hoạt động bên ngoài xã hội, và người
đàn ông chỉ cảm thấy hạnh phúc khi tạo dựng nên sư nghiệp cho bản thân và
kiếm tiền nuôi sống vợ con, gia đình. Phụ nữ và nam giới có vai trò khác nhau
nhưng “bổ sung” cho nhau. Sự kết hợp giữa nam và nữ, vợ và chồng tạo nên
một gia đình hoàn hảo, ở đó người chồng đóng vai trò “công cụ”, người vợ
đóng vai trò “biểu cảm” (T. Parons). Quan niệm này đã hình thành từ rất lâu
trong lịch sử, tạo nên những giá trị và khuôn mẫu ứng xử vững bền được cả
người dân và người lãnh đạo xã hội đồng tình. Nó chính là cơ sở xã hội để
hình thành nên quan điểm chức năng luận trong lý thuyết xã hội học về vai trò
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội.
Quan niệm chức năng luận này không hề bị thách thức gì trong các xã
hội nông nghiệp châu Á và cả xã hội phương Tây trong thời kỳ đầu của quá
trình công nghiệp hóa (trong đó có nước Mỹ). Nhưng với quá trình công
nghiệp hóa, nhiều giá trị nhân văn mới về tự do, dân chủ, bình đẳng, về quyền
con người đã hình thành trong lòng các nước phương Tây. Đây là cơ sở xã hội
4
để hình thành trường phải nữ quyền thay đổi quan niệm về hạnh phúc của
người phụ nữ. Người ta xem xét lại cái gọi là “thiên chức giới tính của phụ
nữ”. Các nhà nữ quyền là những người đầu tiên lên tiếng về sự không thỏa
đáng của khái niệm này. Đối với các nhà nữ quyền, nữ tính không bao gồm tất
cả những vai trò mà xã hội gán cho người phụ nữ ngoài hai đặc điểm không
thay đổi là sinh đẻ và cho con bú. Những vai trò còn lại như làm việc nhà,
chăm sóc trẻ em, người già, người ốm… là những công việc mà cả phụ nữ và
nam giới đều có thể làm được và có thể chuyển hóa cho nhau tùy hoàn cảnh.
Kết quả nghiên cứu của các nhà nữ quyền về đời sống gia đình ở Mỹ và các
nước phương tây khác đã đưa ra những kết luận ngược lại với quan điểm chức
năng về cảm nhận của người phụ nữ đối với công việc nội trợ trong gia đình.
Đó không phải là cảm nhận hạnh phúc như người ta gán cho họ mà là sự buồn
chán khi phải nuôi con nhỏ, làm việc nhà, đó là cảm giác bị cầm tù khi chỉ
sống quanh quẩn trong bốn bức tường của ngôi nhà với những công việc lặp
đi lặp lại từ ngày này sang ngày khác. Gavron, H. (1966) đã sử dụng khái
niệm “người vợ bị giam cầm” để mô tả và phân tích những người mẹ trẻ
thuộc tầng lớp trung lưu và tầng lớp lao động cảm nhận về sự bất hạnh của
mình trong hôn nhân. Tác giả đi đến kết luận rằng, mặc dù có một số cặp vợ
chồng trẻ chia sẻ công việc gia đình (đó là loại gia đình mà sau này Young và
Willmott (1975) gọi là “gia đình đối xứng -symmetrical family”, còn lại hầu
hết những người vợ khác cảm thấy hôn nhân là một thứ cạm bẫy (traped) và
là nơi bị giam hãm (imprisoned) dẫn theo Lê Ngọc Văn [66].
Ngày nay quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đã có nhiều thay
đổi, nhưng cuộc tranh luận về hạnh phúc vẫn còn tiếp diễn trên phạm vi toàn
thế giới, từ các nước phương Tây sang các nước phương Đông, từ các nước
phát triển sang các nước đang phát triển. Các nước Phương Tây đã có lịch sử
nghiên cứu 50 năm về phụ nữ và hạnh phúc và đã đạt được các bước đi dài. Ở
Việt Nam, cuộc tranh luận này dường như chỉ mới bắt đầu. Hơn thế nữa,
những quan niệm khác nhau về hạnh phúc không dừng lại ở phạm vi các
5
“tranh luận” mà quan trọng hơn, nó được thể hiện bằng các hành động trong
đời sống thực tiễn.
Nhìn lại các nghiên cứu về phụ nữ, ta sẽ không xa lạ gì với những
nghiên cứu về sự bất hạnh như ly hôn, bạo lực, bất bình đẳng, trầm cảm...
Những nghiên cứu về hạnh phúc lại ít nhiều bị thờ ơ. Con người thường dễ kể
về những căng thẳng, đau khổ, lo lắng hơn là chia sẻ cách họ thụ hưởng hạnh
phúc như thế nào. Nói chung, con người trải nghiệm các cảm giác tiêu cực
một cách sẵn sàng và mãnh liệt hơn so với cảm giác tích cực. Dường như,
chiến lược tồn tại của con người thường là hướng đến ngăn chặn rủi ro hơn là
tìm kiếm hạnh phúc.
Rất khó để tìm thấy một tiêu đề hay một tên đề tài trọn vẹn cho một
nghiên cứu riêng về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Có lẽ quan
điểm “phi cá nhân” về hạnh phúc đã chi phối chủ đề nghiên cứu này? Điểm
qua các công trình nghiên cứu có liên quan đến quan niệm của người phụ nữ
về hạnh phúc, có thể thấy một xu hướng nổi bật là quan niệm hạnh phúc chỉ
được đề cập đến trong các chủ đề về hạnh phúc gia đình, cộng đồng và xã hội.
Chẳng hạn, Ở Việt Nam, xuất hiện các bài viết đề cao vai trò của người phụ
nữ trong việc xây dựng và bảo vệ hạnh phúc gia đình như: “Vài nét bàn về
hạnh phúc gia đình ở Việt Nam” [71]; “Gia đình hạnh phúc”, “Bảo vệ hạnh
phúc gia đình”, “Xây dựng gia đình hạnh phúc” [69]; “Quan niệm về hạnh
phúc gia đình thời kỳ đổi mới” [98].
Có thể nhận thấy, nghiên cứu khoa học về hạnh phúc ở Việt Nam nói
chung và về người phụ nữ nói riêng còn để lại quá nhiều khoảng trống cả về
lý thuyết và thực tiễn. Thế giới đã bước vào giai đoạn hậu hiện đại hóa với
mục tiêu nâng cao chất lượng cuộc sống và mang lại hạnh phúc cho tất cả mọi
người, trong đó phụ nữ là một nửa nhân loại. Vậy, người phụ nữ quan niệm
như thế nào về hạnh phúc? Vì sao hình thành các tranh luận khác nhau, thậm
chí đối lập nhau về hạnh phúc? Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc có
6
thay đổi theo thời gian hay không? Vì sao thay đổi hoặc không thay đổi? Có
sự khác biệt trong quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau về
hạnh phúc hay không? Vì sao có sự khác biệt hay không khác biệt? Những
câu hỏi này chỉ có thể được trả lời thông qua các nghiên cứu xã hội học thực
nghiệm. Đề tài: “Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh
phúc” là một nỗ lực của tác giả góp phần làm sáng tỏ quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, qua đó cung cấp những luận cứ
khoa học góp phần nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ và kiểm chứng tính
đúng đắn của các lý thuyết xã hội học có liên quan qua trường hợp Việt Nam.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn trong quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc; trên cơ sở đó cung cấp những luận
cứ khoa học nhằm nâng cao hạnh phúc của người phụ nữ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng cơ sở lý luận nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc.
- Nhận diện quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
- Phân tích điểm tương đồng và khác biệt trong quan niệm của người
phụ nữ ở các nhóm xã hội khác nhau về hạnh phúc.
- Cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá
trị hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những
chính sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
7
3.2. Khách thể nghiên cứu
Người phụ nữ tại các điểm nghiên cứu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung, vấn đề nghiên cứu: Quan niệm của người phụ nữ
Việt Nam hiện nay về hạnh phúc được xem xét trên ba lĩnh vực chính: quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên;
quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực gia đình - xã hội; và quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ trong lĩnh vực đời sống cá nhân.
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: Luận án sẽ phân tích bộ số liệu
của đề tài độc lập cấp quốc gia: “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm,
thực trạng và chỉ số đánh giá” do PGS.TS Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực
hiện từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018. Với tư cách là thành viên và là thư
ký đề tài, tác giả luận án đã được chủ nhiệm cho phép gắn các nội dung phục
vụ riêng cho luận án vào trong bộ công cụ của đề tài (phiếu hỏi, hướng dẫn
phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm) để thu thập thông tin. Bên cạnh đó, chủ
nhiệm đề tài cũng tạo điều kiện để tác giả luận án thực hiện riêng các phỏng
vấn sâu trong thời gian khảo sát thực địa để phục vụ luận án. Luận án chính là
một sản phẩm đào tạo của đề tài cấp Nhà nước.
Đề tài độc lập cấp quốc gia điều tra tại 05 tỉnh, thành phố đại diện cho
05 vùng địa lý, mỗi tỉnh lựa chọn 01 phường và 01 xã. Cụ thể như sau:
Vùng Đồng bằng sông Hồng: Ninh Bình
Vùng Tây Bắc Bộ: Sơn La
Vùng Tây Nguyên: Đắc Lắc
Vùng Đông Nam Bộ: Tp. Hồ Chí Minh
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long: An Giang
8
- Phạm vi về thời gian: Phạm vi thời gian được nói ở đây là khoảng thời
gian mà đối tượng nghiên cứu đang vận hành. Nói một cách cụ thể, đề tài cần
nghiên cứu quan niệm và thực tế hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
Tuy nhiên, muốn thấy được hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam
hiện nay thì tất yếu cần phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội
nông nghiệp cổ truyền trước đó. Như vậy, trong một chừng mực nào đó, luận
án sẽ mở rộng phạm vi về thời gian qua việc thực hiện các nghiên cứu hồi cố
(cũng có thể qua các tài liệu lịch sử, các dấu ấn để lại qua văn hóa dân gian,
các tác phẩm văn học, nghệ thuật, v.v…) về hạnh phúc của người phụ nữ Việt
Nam qua các giai đoạn lịch sử khác nhau.
4. Câu hỏi nghiên cứu
- Người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc?
- Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có quan niệm khác
nhau về hạnh phúc?
- Yếu tố nào tác động rõ nhất đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc?
5. Giả thuyết nghiên cứu, biến số và khung phân tích
5.1. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh phúc là có thu
nhập ổn định, gia đình hòa thuận và có sức khỏe tốt.
Giả thuyết 2: Người phụ nữ ở những nhóm xã hội khác nhau có sự
tương đồng nhiều hơn khác biệt trong quan niệm về hạnh phúc.
Giả thuyết 3: Yếu tố mức sống có tác động rõ nhất đến quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc.
9
5.2. Biến số
- Biến độc lập:
Yếu tố cá nhân: tuổi, học vấn, giới tính, tôn giáo, khu vực, mức sống, việc
làm, tài sản, sức khỏe, tình trạng hôn nhân.
Yếu tố xã hội: sự tham gia, các mối quan hệ thân hữu, sự cân bằng cuộc
sống và công việc.
Yếu tố tự nhiên: các vấn đề môi trường, các vấn đề đô thị hóa.
- Biến can thiệp: Điều kiện kinh tế - xã hội của 05 địa bàn nghiên cứu;
quan điểm, chính sách, pháp luật của Nhà nước nhằm mục tiêu đảm bảo hạnh
phúc cho phụ nữ.
- Biến phụ thuộc: Quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về
hạnh phúc được đo trên ba khía cạnh: quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực
kinh tế-môi trường tự nhiên; quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình-xã
hội; quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân.
5.3. Khung phân tích
10
Điều kiện kinh tế - xã hội đất nước và địa phương
Hệ thống chính sách và các quy định pháp luật
Định
hướng
giải
pháp
Đặc điểm cá nhân: khu vực
nông thôn - đô thị, nhóm tuổi,
tôn giáo, dân tộc, mức sống
Đặc điểm hôn nhân: tình trạng
hôn nhân, độ dài hôn nhân
QUAN
NIỆM
CỦA
NGƯỜI
PHỤ NỮ
VỀ HẠNH
PHÚC
Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực kinh tế-
môi trường tự nhiên
Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực gia
đình-xã hội
Quan niệm hạnh phúc
trong đời sống cá nhân
11
6. Cơ sở lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu
6.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận
Luận án ứng dụng một số lý thuyết sau:
- Lý thuyết hệ thống
Lý thuyết này nhìn nhận sự phát triển của mỗi cá nhân trong sự phát
triển của một hệ thống. Trong hệ thống này bao gồm rất nhiều yếu tố và
chúng luôn tương tác với nhau tạo thành thể thống nhất.
Cho dù hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng nó lại
dựa trên những yếu tố khách quan - cơ sở tạo nên sự cảm nhận hạnh phúc - đó
là mức độ thỏa mãn của con người trong các mối quan hệ với môi trường
sống xung quanh. Đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi
trường của chính bản thân cá nhân con người. Như vậy, cảm nhận hạnh phúc
của người phụ nữ vốn có quan hệ không thể tách rời với ba môi trường sống
đã nêu và lý thuyết hệ thống là cơ sở giúp tìm được mẫu số chung, giúp trả lời
câu hỏi người phụ nữ hiện nay quan niệm như thế nào về hạnh phúc, nhìn một
cách tổng thể.
- Lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một
trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Trong
thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của con
người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu về an toàn (safety needs)
Nhu cầu về xã hội (social needs)
Nhu cầu về được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
12
Luận án nghiên cứu sử dụng lý thuyết này để phân tích và lý giải trong
mối tương quan giữa nhu cầu và quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ.
Cũng có khi quan niệm thúc đẩy nhu cầu và có khi quan niệm hạn chế nhu
cầu. Đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện
nay, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thể hiện trong mối liên hệ
chặt chẽ với việc đáp ứng các nhu cầu như thế nào.
Cụ thể, lý thuyết nhu cầu của Maslow được vận dụng để giải thích sự
thay đổi quan niệm của người phụ nữ Việt Nam về hạnh phúc qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau và sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ thuộc
các nhóm xã hội khác nhau. Những thay đổi và khác biệt này phản ánh sự
thỏa mãn nhu cầu của người phụ nữ ở các cấp độ khác nhau. Gỉa thuyết ở đây
là phụ nữ trong xã hội truyền thống đề cao việc thỏa mãn các nhu cầu kinh tế
- vật chất, các mối quan hệ gia đình, họ hàng, cộng đồng; trong khi phụ nữ
trong xã hội hiện đại ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn, quan hệ bên
trong gia đình, hộ hàng, cộng đồng, còn thỏa mãn nhu cầu trong các mối quan
hệ xã hội, và nhu cầu được thể hiện mình… Tương tự như vậy, hạnh phúc
theo quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm nghèo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số… nghiêng về thỏa mãn nhu cầu cơ bản về kinh tế - vật chất và quan
hệ gia đình, trong khi phụ nữ ở khu vực thành phố, phụ nữ có trình độ học vấn
cao, phụ nữ nhóm kinh tế khá giả… có thể sẽ đề cao các giá trị hạnh phúc
thuộc về thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội và cống hiến bản thân cho xã hội…
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu
Phương pháp này bao gồm việc sưu tầm và sử dụng các kết quả nghiên
cứu đã có, các số liệu thống kê, các tài liệu có liên quan... Phương pháp phân
tích thứ cấp giúp cho luận án sử dụng các nguồn dữ liệu đã có theo quan điểm
của riêng mình. Nhưng điều quan trọng hơn là các nguồn tài liệu thứ cấp còn
giúp cho những người thực hiện đề tài biết được lịch sử vấn đề nghiên cứu,
13
trong đó các tác giả đi trước đã làm được gì, những gì họ chưa làm được,
những gì họ đã làm nhưng chưa đủ, cần phải bổ sung, hoàn thiện. Các tài liệu
thứ cấp cũng giúp tác giả luận án có được cái nhìn mang tính lịch sử - so sánh
để phát hiện sự khác biệt về hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam trong bối
cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện
nay với hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam ở các xã hội nông nghiệp cổ
truyền trước đó. Tóm lại, việc điểm lại các nghiên cứu và tài liệu đã có sẽ giúp
tác giả luận án biết được rằng cần bắt đầu từ đâu và cần đi tiếp như thế nào.
6.2.2. Phương pháp phân tích số liệu thống kê có sẵn
Như đã đề cập tới ở phần phạm vi không gian nghiên cứu, luận án sẽ sử
dụng số liệu của đề tài cấp Nhà nước “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan
niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” để phân tích quan niệm và các yếu tố tác
động tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc của người phụ nữ. Qua
đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung và những chính
sách đặc thù cho phụ nữ nói riêng.
Cơ sở số liệu:
Đề tài “Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số
đánh giá” là một nhiệm vụ quan trọng mà Chính phủ đã giao cho Viện Hàn lâm
Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì, Lê Ngọc Văn làm chủ nhiệm, thực hiện trong
30 tháng (từ tháng 10/2015 đến tháng 3/2018). Đề tài tiến hành điều tra khảo sát
theo phương pháp điều tra định lượng và điều tra định tính.
Điều tra định lượng: Tiến hành điều tra 2.500 phiếu theo phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên tại 05 tỉnh/thành. Tuy nhiên, vì luận án chỉ tìm hiểu
quan niệm của người phụ nữ nên sẽ tiến hành lọc mẫu, chỉ chọn ra người trả
lời là nữ để có được thông tin một cách trực tiếp: người phụ nữ tự đưa ra quan
niệm của chính bản thân mình về hạnh phúc. Chính vì thế mẫu phân tích của
luận án còn 1.443 phiếu.
14
Đặc điểm mẫu phân tích:
Bảng 1: Thông tin người trả lời
Số lượng Tỉ lệ (%)
Khu vực sống
Nông thôn 644 44,6
Đô thị 799 55,4
Nhóm tuổi
Dưới 40 674 46,8
40-59 622 43,2
60 trở lên 145 10,0
Theo tôn giáo
Có 791 54,9
Không 649 45,1
Dân tộc
Kinh 1013 70,7
Dân tộc khác 420 29,3
Mức sống
Khá 260 18,1
Trung bình 738 51,5
Nghèo 436 30,4
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn 1205 91,3
Độc thân 115 8,7
Độ dài hôn nhân
1-10 năm 367 29,7
11-30 năm 590 47,8
31 năm trở lên 277 22,5
Nguồn: Số liệu xử lý của luận án
15
Điều tra định tính: thực hiện 192 cuộc tọa đàm, phỏng vấn sâu, thảo
luận nhóm đại diện cho các nhóm xã hội.
Phương pháp phân tích số liệu:
Trên cơ sở số liệu gốc, tác giả tiến hành lọc người trả lời là nữ để phân
tích theo mục đích, nội dung nghiên cứu của luận án bằng chương trình SPSS.
Các phân tích tần suất (frequency), phân tích nhị biến (crosstabs), hồi quy
logistic sẽ được sử dụng.
Phân tích tần suất (frequency): cung cấp thông tin chung về quan niệm
hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
Phân tích nhị biến (crosstabs): kiểm nghiệm mối quan hệ giữa từng yếu
tố độc lập đến hạnh phúc của người phụ nữ. Hệ số Khi-bình phương (chi-
square) được sử dụng để xem xét những yếu tố đó có mức độ quan hệ như thế
nào đến hạnh phúc của người phụ nữ, các biến số đó có ý nghĩa về mặt thống
kê không?.
Phân tích hồi quy logistic: phân tích hồi quy là sự phân tích mối quan
hệ phụ thuộc của một biến số (gọi là biến phụ thuộc) vào các biến số khác
(gọi là biến độc lập hoặc biến giải thích). Trên cơ sở khung lý thuyết đã được
xây dựng, tất cả các biến số được giả định có liên quan về mặt lý thuyết với
hạnh phúc của người phụ nữ (đã phân tích nhị biến) sẽ được đưa vào mô hình
hồi quy đa biến. Phân tích hồi quy cho phép xác định được những yếu tố tác
động thực sự đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Nếu chỉ dừng lại
ở phân tích nhị biến, một số biến số có thể tác động đồng thời đến quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc. Nói một cách cụ thể hơn, phân tích hồi quy
logistic giúp tác giả luận án nhận diện rõ hơn sự khác biệt/tương đồng trong
quan niệm của người phụ nữ thuộc các nhóm xã hội khác nhau.
16
6.2.3. Phương pháp phỏng vấn sâu
Bên cạnh phương pháp phân tích số liệu của đề tài cấp nhà nước, tác
giả sẽ thực hiện riêng các phỏng vấn sâu bởi có nhiều lý do khiến các câu hỏi
định lượng không thể có được đầy đủ những thông tin mà luận án cần thu
thập. Luận án sẽ tiến hành phỏng vấn sâu 50 người phụ nữ đảm bảo cơ cấu về
độ tuổi, dân tộc, học vấn, tôn giáo, mức sống, vùng miền… Cụ thể:
Tỉnh Sơn La: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh Ninh Bình: 10 phỏng vấn sâu
Thành phố Hồ Chí Minh: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh An Giang: 10 phỏng vấn sâu
Tỉnh Đắc Lắc: 10 phỏng vấn sâu
Luận án thực hiện phương pháp nghiên cứu case study bởi đặc trưng
của hạnh phúc là mang tính chủ quan, là một quá trình dựa trên trạng thái
tương đối ổn định, dài lâu, không phải là trạng thái tinh thần, tình cảm viên
mãn hay hứng thú nhất thời, bất chợt. Nội dung các cuộc phỏng vấn sâu sẽ tập
trung nghiên cứu tình huống để xác định điểm mốc thời gian mà người phụ nữ
cảm thấy hạnh phúc. Từ điểm mốc này, các sự kiện/yếu tố liên quan sẽ được
khai thác để tìm hiểu quan niệm và yếu tố tác động tới quan niệm hạnh phúc
của người phụ nữ.
Luận án chọn mẫu phỏng vấn sâu theo phương pháp có chủ đích và
phân chia theo năm tiêu chí chính: khu vực, nhóm tuổi, mức sống, tôn giáo,
dân tộc. Một số tiêu chí khác như trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, độ dài
hôn nhân được lồng ghép trong 5 tiêu chí chính vừa nêu.
17
Bảng 2: Phân bổ mẫu phỏng vấn sâu
Nhóm tuổi Mức sống Dân tộc
Tổng <40 40-59 >=60 Giàu TB Nghèo Thiểu số Kinh
Ninh
Bình
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Sơn La Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Đắc Lắc Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Tp. Hồ
Chí
Minh
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
An
Giang
Nông thôn 1 1 1 1 1 5
Đô thị 1 1 1 1 1 5
Tổng 6 6 7 6 8 7 5 5 50
Kinh nghiệm cho thấy, người học vấn cao thường có nhiều hiểu biết
việc điều tra, cho nên họ thường dễ dàng tiếp nhận các câu hỏi và thường cho
những trả lời chính xác; người thuộc tầng lớp trung bình thường đưa ra những
câu trả lời thường không thật chính xác lắm; người nhút nhát thường không
dám trả lời vì sợ sai; người có quá khứ phức tạp thường dè dặt; đối với người
tự tin thì người nghiên cứu rất khó tìm câu trả lời chuẩn xác; đối với người
bông đùa, khôi hài thì người nghiên cứu thường thu được những câu trả lời có
độ tin cậy thấp; còn người ba hoa thường hay đưa vấn đề đi lung tung. Khó
nắm bắt nhất là những người có bản lĩnh tự tin thái quá, vì họ rất kín kẽ, biết
cách dấu kín một cách nhất quán mọi suy nghĩ, nếu người nghiên cứu không
có kinh nghiệm "cài các bẫy logic", thì rất khó tìm được câu trả lời ở những
người này [82]. Chính vì thế, trước mỗi đối tượng được chọn để phỏng vấn,
người nghiên cứu cần có những cách tiếp cận phỏng vấn khác nhau. Phương
pháp tiếp cận tâm lý học cũng sẽ được áp dụng để thu thập những thông tin
cần thiết cho nghiên cứu.
Nguồn: đã trích dẫn
18
6.2.4. Phương pháp xử lý thông tin
- Thông tin thu thập được từ thực tế bao gồm: báo cáo tình hình kinh tế
xã hội tại các địa bàn nghiên cứu, các file ghi âm phỏng vấn sâu và báo cáo
điền dã tại thực địa.
- Các file ghi âm sẽ được gỡ băng trên Word.
- Luận án sử dụng phần mềm SPSS 20.0 để xử lý thông tin định lượng.
- Các thông tin định lượng và định tính sẽ được kết hợp hợp lý trên cơ
sở khoa học để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Các phân tích định lượng được
phân tích trên mối quan hệ nhân quả. Các phân tích định tính sẽ hỗ trợ để giải
thích, làm rõ số liệu.
7. Điểm mới của luận án
- Trên thế giới hiện nay, rất nhiều nghiên cứu về hạnh phúc đã được
thực hiện nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này ít được đề cập tới. Đến thời điểm
hiện tại, ở Việt Nam chỉ có thể kể tên 05 nghiên cứu trực tiếp về hạnh phúc
nói chung và chưa có nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc của người phụ nữ
(điều này sẽ được làm rõ trong phần tổng quan tài liệu). Vì vậy, kết quả của
luận án sẽ góp phần nhận diện quan niệm về hạnh phúc từ góc nhìn của người
phụ nữ.
- Tại Việt Nam, mới chỉ có một số ít công trình nghiên cứu về hạnh
phúc. Những công trình sử dụng mô hình hồi quy đa biến để phân tích các yếu
tố tác động tới hạnh phúc còn ít ỏi hơn. Bằng việc sử dụng mô hình hồi quy
đa biến trong phân tích bộ số liệu của đề tài cấp nhà nước đầu tiên về bộ chỉ
số hạnh phúc của người Việt Nam, tác giả luận án hy vọng rằng sẽ xác định
được những yếu tố thúc đẩy hoặc hạn chế hạnh phúc của người phụ nữ. Qua
đó, cung cấp những luận cứ khoa học tạo cơ sở cho việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong các chính sách phát triển và gợi mở những hướng nghiên cứu
tiếp theo.
19
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
8.1. Ý nghĩa lý luận
- Luận án góp phần xây dựng nhận diện và hoàn thiện hơn khái niệm
“Hạnh phúc” từ góc nhìn của người phụ nữ.
- Thông qua việc vận dụng các lý thuyết để phân tích, giải thích kết quả
điều tra thực nghiệm quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh
phúc, luận án góp phần kiểm định mức độ phổ biến, tính đúng đắn của 02 lý
thuyết (lý thuyết hệ thống và lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow) trong
bối cảnh của xã hội Việt Nam.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Kết quả của luận án sẽ mang đến những nhận thức mới có tính hệ
thống về quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, và đó
là những bằng chứng quan trọng cho việc hoạch định chính sách hoặc triển
khai những biện pháp can thiệp nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của
người phụ nữ nói riêng và những chính sách phát triển kinh tế-xã hội nói chung.
- Trên thế giới hiện nay, việc nghiên cứu về hạnh phúc đã trở thành một
ngành khoa học thực thụ nhưng ở Việt Nam, lĩnh vực này dường như vẫn
đang bị bỏ trống. Tác giả luận án hy vọng rằng, kết quả nghiên cứu sẽ góp
phần nhỏ trong việc đặt nền móng cho quá trình hình thành một chuyên ngành
khoa học xã hội về hạnh phúc trong tương lai ở Việt Nam.
- Luận án là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích trong quá trình nghiên
cứu, giảng dạy các bộ môn xã hội học gia đình, giới và phát triển…
9. Kết cấu luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung luận án gồm 5 chương (20 tiết).
20
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Đôi nét về nguồn tài liệu
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và phát
triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, phụ nữ là nhóm xã hội có nhiều
biến động theo những chiều hướng khác nhau, từ lao động việc làm đến đời
sống hôn nhân và gia đình, từ sức khỏe sinh sản đến bình đẳng giới trong gia
đình và xã hội, v.v… Những vấn đề này thu hút được một khối lượng khá lớn
các nghiên cứu xã hội học với những quy mô khác nhau, từ quy mô quốc gia
đến quy mô vùng miền, khu vực và cả các nghiên cứu trường hợp (case
studies). Những nghiên cứu này đã mô tả và cung cấp cho người đọc thông tin
đa dạng, nhiều chiều về đời sống của người phụ nữ, lý giải nguyên nhân xã
hội những biến đổi vị trí, vai trò của người phụ nữ trong gia đình và ngoài xã
hội, v.v…
Tuy nhiên, ở Việt Nam cho đến nay, hạnh phúc với tư cách là đối
tượng nghiên cứu của khoa học thực nghiệm, đặc biệt là xã hội học hầu như
còn vắng bóng cả trên bình diện hạnh phúc xã hội nói chung và hạnh phúc của
các nhóm xã hội nói riêng, trong đó có nhóm phụ nữ.
Khi tìm kiếm các công trình nghiên cứu về hạnh phúc, tác giả luận án
nhận thấy: nếu phạm trù “happiness” (hạnh phúc) được đề cập đến rất nhiều
trong các công trình nghiên cứu nước ngoài thì phạm trù “conception of
happiness” (quan niệm về hạnh phúc) lại ít được đề cập tới. Các công trình
liên quan tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc còn hiếm hoi hơn rất
nhiều và thường là những công trình nghiên cứu về gia đình (với các chủ đề
như: sự hài lòng/không hài lòng về cuộc sống gia đình, sự hài lòng/không hài
lòng về quan hệ hôn nhân, gia đình, trong mối quan hệ cộng đồng) chứ không
phải những công trình nghiên cứu riêng về hạnh phúc … Và như thế mới chỉ
đề cập tới được những khía cạnh xung quanh hạnh phúc của người phụ nữ
21
chứ chưa phải là một cái nhìn tổng thể và quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc cũng chưa được đề cập đến.
Ở Việt Nam, trong bối cảnh các công trình nghiên cứu về hạnh phúc là
rất ít, tác giả chưa tìm được công trình nghiên cứu riêng nào về hạnh phúc từ
góc nhìn của phụ nữ. Có một công trình gần nhất với vấn đề nghiên cứu của
luận án là một luận văn thạc sỹ của Chương trình đào tạo kinh tế Fulbright
(FETP) sử dụng bộ số liệu của cuộc Điều tra giá trị thế giới tại Việt Nam năm
2001. Luận văn này đề cập đến hạnh phúc trong tương quan giới tính (nam-
nữ): giữa phụ nữ và nam giới, ai là người hạnh phúc hơn?, có nghĩa là mới chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu một khía cạnh rất nhỏ trong cảm nhận hạnh phúc chứ
không phân tích quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
Trong khi quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thường vắng bóng
ở các công trình nghiên cứu thì lại được nhắc đến khá thường xuyên trên báo
chí Việt Nam, tiêu biểu là Báo Phụ nữ Việt Nam, Báo Phụ nữ Thủ đô, Báo Phụ
nữ thành phố Hồ Chí Minh, Báo Thanh niên hay một số báo mạng như
Phununet.com, Vietnamnet.vn, VnEpress... Các báo này thường có các diễn
đàn về hạnh phúc trên chuyên mục Phụ nữ và thời cuộc, Đời sống, Bạn đọc,
Tâm sự, Chia sẻ…Cách hiểu về “hạnh phúc” trên báo chí mang nhiều tính chất
giải trí và đặt quan niệm hạnh phúc gắn liền với quan niệm hạnh phúc gia đình.
Do có ít các công trình nghiên cứu trực tiếp về quan niệm của người
phụ nữ về hạnh phúc nên luận án sẽ mở rộng phạm vi tìm kiếm tài liệu ở hai
khía cạnh: (1) không chỉ tìm các tài liệu về “conception of happiness”(quan
niệm hạnh phúc) mà tìm thêm các tài liệu về “happiness” (hạnh phúc), “self-
reported happiness” (hạnh phúc chủ quan), “life satisfaction” (sự thỏa mãn
về cuộc sống), “quality of life” (chất lượng cuộc sống), “welfare/well-being”
(phúc lợi) và (2) không chỉ tìm các công trình nghiên cứu khoa học, sách, luận
án, luận văn mà còn tìm thêm các báo cáo, bài viết, tư liệu ghi chép, báo, tạp
chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật.
22
Muốn hiểu được quan niệm của người phụ nữ hiện nay về hạnh phúc,
tất yếu phải so sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ
truyền trước đó. Để làm được điều này, luận án sẽ tìm kiếm các tài liệu lịch sử
ở dạng tư liệu ghi chép, báo, tạp chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật từ
đầu thế kỷ 20 đến năm 1975.
Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập được, trong phần tổng quan, tác giả
luận án chia thành ba phần: (1) Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc; (2)
Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc; (3) Các yếu tố ảnh hưởng đến
quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Từ đó, tác giả phát hiện các vấn
đề đặt ra từ nguồn tài liệu, đánh giá về các kết quả nghiên cứu đã có, xác định
kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu cho luận án.
Hạnh phúc bắt đầu trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học thực
nghiệm từ những năm 1960 và hạnh phúc của người phụ nữ được quan tâm
nghiên cứu từ những năm 1970 ở các nước phương Tây. Martin Sehgman,
GS. Đại học Pennsylvania, Chủ tịch Hiệp hội bác sĩ tâm lý Mỹ là một trong
những người nhiệt thành lên tiếng đòi môn nghiên cứu về hạnh phúc phải
được chú trọng với tính cách là một khoa học liên ngành, chuyên nghiên cứu
định lượng về hạnh phúc, nhằm bổ sung, thay thế cho những lĩnh vực mà triết
học và tôn giáo còn đang giải thích một cách rối rắm hoặc trừu tượng [54].
Các chủ đề về phụ nữ liên quan tới hạnh phúc được tập trung chủ yếu ở
ngành Tâm lý học xã hội và Xã hội học. Tâm lý học chú trọng đến trị liệu và
tư vấn để người phụ nữ có những cảm xúc tích cực hơn. Xã hội học chú trọng
lý giải nguồn gốc và các yếu tố tác động tới hạnh phúc của người phụ nữ từ
các góc độ: cá nhân, gia đình, xã hội.
Hạnh phúc của người phụ nữ là một trong những nội dung quan trọng
của điều tra xã hội của Mỹ (General Social Survey - GSS). Tuy nhiên, trước
đó, vào năm 1861 công trình The Science of Happiness (Khoa học về hạnh
phúc) do một nhóm tác giả xuất bản tại Luân Đôn của nước Anh được coi là
23
tác phẩm đầu tiên nghiên cứu khoa học về hạnh phúc. Từ đó đến nay, nhiều
bài báo khoa học về hạnh phúc đã được công bố, nhiều công trình khoa học
về hạnh phúc đã được xuất bản.
Báo cáo Hạnh phúc thế giới (World Happiness Report) đầu tiên được
công bố vào tháng 4 năm 2012, nhằm hỗ trợ Hội nghị cấp cao của Liên Hợp
Quốc về hạnh phúc và phúc lợi xã hội. Số liệu của báo cáo được thu thập từ
người dân tại hơn 150 quốc gia. Với Hội nghị này, LHQ khuyến cáo các nước
nên coi hạnh phúc là thước đo đúng đắn của tiến bộ xã hội và là mục tiêu của
chính sách công. Kể từ đó WHR được tiếp tục nghiên cứu và công bố vào
Ngày Quốc tế về Hạnh phúc các năm 2013, 2015, 2016, 2017, 2018. Khoảng
thời gian mỗi báo cáo giới hạn để đo đạc hạnh phúc của các quốc gia là 3
năm, chẳng hạn Báo cáo 2016 nghiên cứu, đánh giá hạnh phúc của các quốc
gia trong các năm từ 2013 đến 2015, Báo cáo 2017 nghiên cứu, đánh giá hạnh
phúc của các quốc gia trong các năm từ 2014 đến 2016.
Ban đầu, hầu hết các nghiên cứu về hạnh phúc nằm trong một chủ đề
nghiên cứu rộng hơn là chất lượng cuộc sống (quality of life). Các nghiên cứu
về chủ đề này cố gắng xác định xem thế nào là một cuộc sống tốt đẹp và thực
tế đã đáp ứng được những yêu cầu hiện thực hóa nó được bao nhiêu, từ đó tìm
ra những điều làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Trường phái nghiên cứu này
xuất phát từ hệ tư tưởng của thời Khai sáng (Enlighment) mà theo đó, trọng
tâm của cuộc đời con người chính là cuộc sống của chính họ, chứ không phải
phục vụ cho các đấng quân vương hay ở một cõi thiên đường nào đó. Vì vậy,
việc cố gắng để đạt được mục đích và sự hạnh phúc là những giá trị chủ đạo và
có thực của mọi thời đại, và đời sống xã hội chính là môi trường để công dân có
được cuộc sống tốt đẹp đó. Sang thế kỷ 19, thuyết Thực lợi (Utilitarian) cho rằng
một xã hội tốt đẹp là xã hội mang lại cuộc sống hạnh phúc cho nhiều người nhất.
Đến thế kỷ XX, quan điểm này được mở rộng và được hiện thực hóa thông qua
24
những cải cách xã hội và có tác động quan trọng đến việc xây dựng các nhà
nước phúc lợi (Welfare State) [65].
1.2. Hướng tiếp cận nghiên cứu hạnh phúc
1.2.1. Hướng tiếp cận xã hội học
Đến những năm 1970, hạnh phúc đã trở thành tâm điểm của các nghiên
cứu về Chỉ báo xã hội ở Mỹ (American Social Indicator), ở Đức và các khu
vực thuộc vùng Normandi. Vào những năm 1980, lần đầu tiên một cuộc khảo
sát lịch đại quy mô về hạnh phúc được thực hiện ở Australia do hai tác giả
Heady và Wearing thực hiện. Đây có thể coi là một nghiên cứu biến đổi quan
niệm về hạnh phúc của con người ở tầm quốc gia qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau. Các tác giả như Veenhoven (1984), Argyle (1987) và Meyers (1992)
đều có những nghiên cứu về chủ đề này. Năm 1993, Veenhoven (hiện nay là
Giám đốc Cơ sở dữ liệu Hạnh phúc thế giới, tại Hà Lan) đã xây dựng một thư
mục gồm 2.475 nghiên cứu về đánh giá cuộc sống và đó chính là một phần
trong cơ sở dữ liệu thế giới về hạnh phúc.
Những nghiên cứu về hạnh phúc chú trọng vào một số câu hỏi như:
• Hạnh phúc là gì?
• Con người thực sự hạnh phúc là như thế nào?
• Mọi người có hạnh phúc như nhau không?
• Nếu không thì tại sao lại có sự khác biệt đó?
• Những yếu tố nào quyết định mức độ hạnh phúc?
• Hạnh phúc có đo được không?
• Liệu có thể kéo dài hạnh phúc và làm cho nó tăng lên không?
Hạnh phúc của người phụ nữ là chủ đề rất được quan tâm trong lĩnh
vực nghiên cứu giới, đặc biệt khi nghiên cứu về bất bình đẳng: bất bình đẳng
trong giáo dục, bất bình đẳng trong việc làm, bất bình đẳng trong tham chính,
bất bình đẳng trong thụ hưởng hạnh phúc… Theo tác giả Betsey Stevenson và
25
Justin Wolfers: trên thực tế, tồn tại một khoảng cách giới trong thụ hưởng
hạnh phúc. Betsey Stevenson and Justin Wolfers đưa ra một “nghịch lý suy
giảm hạnh phúc của phụ nữ” (paradox of declining female happiness). Hai tác
giả phân tích hạnh phúc của phụ nữ trong 35 năm bằng việc phân tích bộ số
liệu Khảo sát Xã hội của Mỹ (GSS - General Social Survey). Khảo sát này bắt
đầu thực hiện từ năm 1972 và được lặp lại hàng năm. Mẫu nghiên cứu khoảng
1.500 người mỗi năm từ 1972-1993 (ngoại trừ năm 1979, 1981, 1992) và tiếp
tục với khoảng 3.000 người mỗi năm từ 1994 đến 2004, tăng lên 4.500 người
vào năm 2006. Khoảng thời gian dài của GSS và việc sử dụng phương án
khảo sát phù hợp để đo lường hạnh phúc là rất lý tưởng cho việc phân tích xu
hướng hạnh phúc theo thời gian [2].
Kết quả phân tích GSS cho thấy: những năm 1970, phụ nữ hạnh phúc
hơn nam giới nhưng sau đó, mức độ hạnh phúc của phụ nữ có xu hướng giảm,
trong khi mức độ hạnh phúc của nam giới ở một khoảng ổn định. Đến những
năm 1990, phụ nữ hạnh phúc ít hơn nam giới. Điều này liên quan đến quyền
lực kinh tế và quyền của người phụ nữ. Phong trào giải phóng phụ nữ, quyền
tự do kinh tế, chính trị, xã hội đã thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và họ cũng
kỳ vọng rằng người phụ nữ sẽ cảm thấy hạnh phúc. Tuy nhiên, trên thực tế
không phải như vậy. Người phụ nữ vừa phải nỗ lực kiếm tiền ngoài xã hội,
vừa phải chăm sóc con cái và làm việc nhà. Việc nhà ít khiến đàn ông bị trầm
cảm nhưng đóng góp vào sự trầm cảm của phụ nữ [2]
Cuộc tranh luận về sự khác biệt giữa nam và nữ trong cảm nhận về
hạnh phúc diễn ra sôi nổi ở nhiều ấn phẩm khoa học nghiên cứu về hạnh
phúc. Tác giả Chris Herbst cùng đồng quan điểm với Betsey Stevenson và
Justin Wolfers khi cho rằng: có sự khác biệt về giới trong cảm nhận hạnh
phúc. Sự khác biệt này thay đổi theo thời gian, giai đoạn lịch sử và khác nhau
ở mỗi quốc gia, khu vực. Do đó, quan hệ giữa giới và hạnh phúc cũng theo đó
mà rất khác biệt [5].
Một nghiên cứu xã hội học bàn nhiều tới hạnh phúc của người phụ nữ
một cách tương đối tổng hợp là công trình phân tích của Giáo sư Doh Chull
26
Shin (người Hàn Quốc), giảng dạy ở khoa chính trị, đại học Mosouri,
Columbia, Mỹ. Dựa trên số liệu nghiên cứu về hạnh phúc thế giới (năm 2004)
thu thập được ở 7 nước có nền văn hóa nho giáo nổi bật (Hồng Kong, Hàn
Quốc, Singapor, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam), ông phân tích
mức độ hạnh phúc theo thang bậc likert (từ -2 đến +2) và chỉ ra rằng: hôn
nhân (sự ràng buộc vợ chồng) chứ không phải thu nhập, mới đem lại hạnh
phúc cho con người và mối quan hệ này có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong 7
quốc gia nho giáo kể trên, Singapo, Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc nổi
lên là các quốc gia hạnh phúc tốp đầu. Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan ở
các tốp sau, vì chịu nhiều các yếu tố khác chi phối không phải là hôn nhân.
Về xếp hạng khu vực, đây là khu vực có những quốc gia có nhiều hạnh phúc
hơn bất hạnh nhưng đa số người dân chưa đạt đến mức độ rất hạnh phúc [49].
Hướng tiếp cận xã hội học thể hiện rõ ưu điểm trong những nghiên
cứu lịch đại về hạnh phúc. Các nghiên cứu không chỉ đo lường được sự
biến đổi hạnh phúc theo thời gian mà còn phân tích các yếu tố tạo nên hạnh
phúc theo nhiều chiều cạnh, nhiều tầng lớp. Một số các yếu tố tạo nên hạnh
phúc của phụ nữ được các nghiên cứu xã hội học nhấn mạnh như: quyền
lực kinh tế và công việc chăm sóc không được trả công [2]; quyền quyết
định trong gia đình [13]; tình trạng hôn nhân, khu vực nông thôn - đô thị
[3]; sự gắn kết vợ chồng [102]…
1.2.2. Hướng tiếp cận tâm lý học
Từ năm 1861 công trình The Science of Happiness (Khoa học về hạnh
phúc) do một nhóm tác giả xuất bản tại Luân Đôn nước Anh được coi là tác
phẩm đầu tiên nghiên cứu khoa học về hạnh phúc. Những học giả đầu tiên có
công trong việc hình thành khoa học về hạnh phúc là nhà tâm lý Martin
Seligman thuộc Đại học Pennsylvania (Mỹ); nhà tâm lý Edward Diener với
biệt hiệu "tiến sĩ Hạnh Phúc", thuộc Đại học Illinois (Mỹ), và nhà tâm lý học
Mihaly Csikszentmihalyi (người Mỹ gốc Hungary).
27
Nhìn chung, hạnh phúc được nghiên cứu theo một số chủ đề lớn như:
sức khỏe liên quan đến chất lượng cuộc sống, tâm lý tích cực của con người...
Kết quả nghiên cứu của một số tác giả tiêu biểu về chủ đề này đã được xuất
bản vào các năm 1987 (Argyle), 1999 (Diener), 2006 (Dolan và các tác giả
khác), 1984, 1995 (Veenhoven). Từ năm 2000, tạp chí Nghiên cứu về Hạnh
phúc (Journal of Happiness Studies) đã ra đời.
Cuộc khảo sát đầu tiên có sự đo lường về hạnh phúc được thực hiện ở
Mỹ trong những năm 1960. Mục đích của nó là lập biểu đồ về sức khỏe tinh
thần của con người. Vào thời điểm đó, hạnh phúc cũng là một chủ đề trong
một nghiên cứu quốc gia về những vấn đề cần quan tâm đối với con người
của tác giả Cantril (1965).
Kiểm soát được những cảm xúc tiêu cực là một trong những bí quyết
của hạnh phúc. Cách chúng ta phản ứng lại những điều khó chịu liên quan
mật thiết với trạng thái tinh thần khỏe mạnh tổng thể của ta. Khi Davidson
khảo sát trạng thái tâm lý của đối tượng thí nghiệm, ông phát hiện ra rằng sự
chiếm ưu thế vượt trội của phần bên trái hay phần bên phải trong thùy trước
trán cũng được phản ảnh trong cuộc sống hàng ngày. Những người có não
phải hoạt động mạnh hơn, ít kiểm soát cảm xúc tiêu cực hơn thường có xu
hướng sống nội tâm, bi quan và hay nghi ngờ. Họ hay trầm trọng hóa những
vấn đề nhỏ, có tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm tương đối cao và nói chung có xu
hướng bất hạnh. Ngược lại, những người có thùy trước trán bên trái hoạt động
mạnh hơn thường tỏ ra vui vẻ, hướng ngoại. Họ luôn tự tin, lạc quan, tinh thần
phấn chấn. Họ thấy dễ dàng gần gũi mọi người và dường như được sinh ra với
khả năng luôn nhìn thấy phía tươi đẹp của cuộc sống [103].
Trong lĩnh vực nghiên cứu về não bộ của phụ nữ và nam giới, các nhà
khoa học cũng luôn băn khoăn để tìm ra câu trả lời, liệu có hay không chính
xác cụm từ: “Bộ não phụ nữ và Bộ não nam giới”?. Bộ não phụ nữ có khác bộ
não nam giới trong cách kiểm soát những cảm xúc tiêu cực để hạnh phúc?
28
Dưới tác động về hoóc môn giới tính và sự khác biệt về nhiễm sắc thể,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, về cơ bản bộ não của phụ nữ và nam giới là
khác nhau trên cơ sở sinh học, mà không cần có sự can thiệp nào khác từ các
yếu tố xã hội hay văn hóa (Richie và cộng sự 2017, Brizenine 2007, Kimura
1999; trích theo Trần Thị Vân Nương, 2017). Các ấn phẩm như “You Just
Don’t Understand” (Chỉ là Anh không hiểu) (1990) của Tannen và “Men from
Mars, Women from Venus” (Đàn ông đến từ sao Hỏa, đàn bà đến từ sao Kim)
(1992) của John Gray, phân tích sự khác nhau cơ bản giữa phụ nữ và nam
giới. Một số công trình gần đây thảo luận về sự khác nhau giữa não bộ của
phụ nữ và nam giới (Ví dụ, The Female Brain (Bộ não nữ giới) (2006) của
Brizendine; Why Gender Matters (Tại sao giới lại là vấn đề) (2005) của Sax.
Qua các kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học theo tiếp cận tâm lý hy
vọng sẽ tạo ra nhiều phương pháp để áp dụng các khám phá khoa học thần
kinh mới hướng tới một cuộc sống hạnh phúc hơn.
1.2.3. Hướng tiếp cận kinh tế học
Bên cạnh các nhà tâm lý học, các nhà kinh tế học cũng bắt đầu nghiên
cứu về hạnh phúc. Trên thực tế, các nhà triết học và kinh tế học cổ điển như
Aristotle, Bentham, Mill, Smith đã từng đưa vấn đề hạnh phúc vào trong các
công trình nghiên cứu của mình. Kinh tế học về hạnh phúc nhấn mạnh đến
những quan niệm mở rộng về tính thực dụng (utility) và phúc lợi (welfare).
Richard Easterlin, nhà kinh tế học hiện đại, là người đầu tiên trở lại chủ đề
nghiên cứu về hạnh phúc vào những năm 1970. Đến cuối những năm 1990,
nhiều công trình nghiên cứu về chủ đề này đã được các nhà kinh tế khác thực
hiện. Nói đến kinh tế học về hạnh phúc không có nghĩa là cách đo lường phúc
lợi dựa trên thu nhập, mà là cách tiếp cận nhằm đo lường sự mở rộng về chất
lượng cuộc sống con người (wellbeing).
Luận điểm quan trọng của tiếp cận kinh tế trong nghiên cứu hạnh phúc
là: dù những cá nhân là khác nhau nhưng đều có chung mức độ ổn định về
29
hạnh phúc chủ quan. Những sự kiện cuộc sống quan trọng có thể tạo ra sự
phân tán tại thời điểm nhưng ảnh hưởng thường là tạm thời, sau một thời gian
“phân tán”, mọi người lại quay trở về thời điểm trước đây của họ. Khi phân
tích hạnh phúc từ tiếp cận kinh tế, cần phải giải thích mối liên kết ít nhất giữa
bộ ba của các biến số: tính cách ổn định của con người (bao gồm cả những nét
tính cách riêng); các sự kiện đời sống quan trọng, những thang đo của hạnh
phúc chủ quan (sự hài lòng cuộc sống, tác động tích cực); và tình trạng ốm
yếu (lo lắng, thất vọng, tác động tiêu cực). Cách phân tích này rất thuyết phục
vì nó được phát triển trong một kết cấu tích lũy từng tầng lớp chứng minh để
hỗ trợ nó và làm cho nó có vẻ hấp dẫn hơn trong việc giải thích các liên kết
giữa ba bộ biến. Tiếp cận kinh tế học chỉ ra rằng các cá nhân khác nhau về
đường cơ sở hay điểm khởi đầu của hạnh phúc chủ quan một phần do sự khác
biệt về điểm số đặc tính cá nhân ổn định của tinh thần hướng ngoại và thần kinh
nhạy cảm. Những người hướng ngoại đạt điểm hạnh phúc chủ quan cao hơn so
với những người hướng nội và những người tương đối nhạy cảm (dễ bị kích
thích) đạt điểm thấp hơn những cá nhân ổn định về mặt cảm xúc.
Tiếp cận kinh tế học có một ý nghĩa quan trọng khi đưa ra dự báo các
sự kiện cuộc sống sẽ xảy ra trong bất kỳ một khoảng thời gian nhất định của
một người bình thường, sau đó hạnh phúc chủ quan sẽ không thay đổi. Mô
hình này của các kết quả đã giúp đưa ra “mức độ cân bằng” của hạnh phúc và
đau khổ (chứ không phải là “đường cơ sở” hoặc “điểm khởi đầu”) và để nhận
thức tính cách, sự kiện cuộc sống, hạnh phúc và đau khổ như đang được ở
trạng thái cân bằng.
1.3. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
Tìm hiểu quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc là một điều khó
khăn bởi bản chất của hạnh phúc là do ý chủ quan của người trả lời. Trong khi
đó, ý chủ quan lại được phát triển và hình thành thông qua trải nghiệm sống
cùng với sự giáo dục và văn hóa. Đôi khi tồn tại sự xung đột giữa quan niệm
30
và hành động. Theo Menis Yousry, quan niệm gồm hai phần: phần thứ nhất là
ý thức hiện tại của chúng ta - chúng ta có thể gọi đây là bản chất của chúng ta
(phần mà chúng ta cũng có thể gọi là trái tim hoặc tiếng nói bên trong, và đây
là bản thân chúng ta) - và phần thứ hai là tính cách của chúng ta, phần mà
chúng ta sử dụng để thể hiện bản thân với thế giới. Hai chiều này của ý thức
có thể xung đột với nhau khi quan niệm của chúng ta thường không phù hợp
với những gì được cho là bản thân chúng ta và cách chúng ta nên hành xử [76,
tr.21]. Khi đề cập tới mâu thuẫn này trong quan niệm về hạnh phúc của phụ
nữ Mỹ đầu thế kỷ 20, Betty Fridan với công trình nghiên cứu “Bí ẩn nữ tính”
đã tạo nên một bước đột phá mang tính tiên phong về giá trị hạnh phúc của
phụ nữ. Cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1963 và được đánh giá là cuốn sách
quan trọng nhất thế kỷ 20. “Bí ẩn nữ tính” phân tích quan niệm, suy nghĩ,
niềm tin ở phụ nữ “rõ đến nỗi mỗi người đều có thể nhận ra mình trong đó…
mọi thứ giữa đàn ông và đàn bà là khác nhau” (Nhận xét của Caroline Birt
trong phần mở đầu của cuốn sách Bí ẩn nữ tính).
Theo quan niệm của phụ nữ Mỹ đầu thế kỷ 20, hạnh phúc là khi vai trò
bà nội trợ hiện đại được đáp ứng, gồm: làm vợ, làm bồ, làm mẹ, làm y tá,
người tiêu dùng, đầu bếp, lái xe, chuyên gia về trang trí nội thất, chăm trẻ, sửa
thiết bị, làm mới đồ gỗ, dinh dưỡng và giáo dục (13 vai trò) [39, tr.49]. Người
phụ nữ dường như không có bất kỳ một tham vọng nghề nghiệp nào. Quan
niệm của phụ nữ về hạnh phúc lúc bấy giờ là kết hôn và có bốn đứa con. Các
chuyên gia thống kê đặc biệt sửng sốt trước sự gia tăng đột biến số trẻ em.
Thay vì sinh hai con như trước, giờ phụ nữ có bốn, năm, sáu đứa con. Những
người phụ nữ từng muốn theo đuổi nghề nghiệp thì nay biến con cái thành
nghề nghiệp của mình [39, tr.31]. Mơ ước duy nhất của họ là trở thành người
vợ, người mẹ hoàn hảo; tham vọng lớn nhất của họ là có năm đứa con và một
ngôi nhà đẹp, cuộc chiến duy nhất của họ là làm sao có chồng và giữ được
chồng. Họ muốn đàn ông đưa ra quyết định trọng đại. Họ hãnh diện với vai
31
trò phụ nữ của mình và tự hào điền vào chỗ trống trong mục điều tra dân số
cụm từ: “Nghề nghiệp: nội trợ” [39, tr.33].
Câu hỏi đặt ra ở đây là: khi người phụ nữ suy nghĩ theo quan niệm
chung của xã hội về hạnh phúc, liệu họ có quan niệm riêng của họ về hạnh
phúc không? Quan niệm của chính họ về hạnh phúc là gì? Một bà mẹ bốn
con, bỏ học đại học năm 19 tuổi để lấy chồng và “đã thử mọi thứ mà người ta
cho là phụ nữ hay làm – có thú vui riêng, làm vườn, muối dưa, làm đồ hộp,
giao du với hàng xóm, tham gia các ủy ban, tổ chức những buổi tiệc trà bên
Hội phụ huynh… nhưng tôi tuyệt vọng. Tôi bắt đầu thấy mình không có tính
cách. Tôi chỉ là người bưng đồ ăn, mặc quần áo cho bọn trẻ, dọn giường, ai đó
được gọi đến khi muốn có thứ gì đó. Nhưng tôi là ai mới được chứ?” [39,
tr.37]. Rõ ràng người phụ nữ Mỹ giữa thế kỷ 20 đã “bị mắc bẫy” giữa quan
niệm xã hội về “bà nội trợ Mỹ hạnh phúc” với quan niệm của chính bản thân
họ về hạnh phúc.
Vấn đề đặt ra trong cuốn sách của Betty Fridan cho thấy quan niệm
hạnh phúc là một phạm trù không dễ trở thành đối tượng mổ xẻ duy lý và
định lượng của khoa học. Từ trước đến nay, khoa học vẫn thường bất lực
trước sự biến thiên phức tạp của đối tượng này. Thật khó để hiểu thế nào là
hạnh phúc. Định lượng được nó qua các phân tích khoa học chính xác lại càng
khó hơn. Nhưng chẳng lẽ khoa học, đặc biệt các khoa học chính xác và thực
nghiệm lại không giúp được gì để con người có thể hiểu hạnh phúc một cách
dễ dàng hơn. Ý tưởng này không được các nhà triết học và thần học hưởng
ứng. Nhưng nó lại thôi thúc các nhà tâm lý học, các chuyên gia khoa học xã
hội và thậm chí cả các nhà toán học... bất chấp thất bại, nhẫn nại nghiên cứu
và thể nghiệm [54].
Vấn đề là ở chỗ, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc dẫu phức
tạp thế nào cũng không thể tách rời khỏi bối cảnh xã hội và những đặc điểm
cá nhân của chính người phụ nữ đó. Và như thế thì quan niệm hạnh phúc của
32
người phụ nữ không phải là một đại lượng trừu tượng. Với cách tiếp cận khoa
học phù hợp, ta có thể tìm hiểu và định lượng được nó một cách cụ thể. Đi
theo hướng này, luận án bắt đầu thử nghiệm tìm hiểu quan niệm của người
phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
Như đã đề cập ở phần đôi nét về nguồn tài liệu: muốn hiểu rõ được
quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc, tất yếu phải so
sánh với mẫu hình của nó trong các xã hội nông nghiệp cổ truyền trước đó.
Dựa vào các nguồn tài liệu thu thập được, luận án chia làm 04 giai đoạn: đầu
thế kỷ 20 đến 1945; từ 1946 - 1954; từ 1955 đến 1975; từ 1976 đến nay.
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đầu thế kỷ 20 đến 1945
Những biến chuyển về bối cảnh kinh tế xã hội giai đoạn này tác động
trực tiếp tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Việc mở riêng các
trường nữ học cho nữ thanh niên đã định hướng quan niệm về hạnh phúc.
Theo quan niệm của một bộ phận phụ nữ cấp tiến lúc bấy giờ: hạnh phúc là có
học hành, có nghề nghiệp, có ý chí tự lập và tự chủ về kinh tế. Phụ nữ được
cổ vũ học hành để nâng cao kiến thức, tập thể dục để nâng cao sức khoẻ, và
có nghề nghiệp để tự chủ cuộc sống. Trên các tờ báo thời bấy giờ, có thể bắt
gặp những khẩu hiện như “Chị em ta đừng ăn bám chồng con nữa” (Phương
Lan, Phụ nữ Tân Văn số 64, tr.5). Hạnh phúc là khi phụ nữ được nhìn nhận và
tôn trọng: “phụ nữ biết khuyên chồng, dạy con nên người hữu ích cho xã hội,
biết lo về nghề nghiệp để gia đình được sung túc, đất nước được thịnh vượng,
thì ấy là quốc sự” (Cái chức vụ của phụ nữ trong các kỳ tuyển cử, Phụ nữ Tân
Văn, số 4, tr.5). Theo ghi chép “Hồ sơ Guermut” của phái bộ điều tra do
chính phủ Pháp phái sang thuộc địa, ở mục “điều kiện của đàn bà và trẻ con”
thể hiện rõ quan niệm hạnh phúc của phụ nữ: có quyền đối với tài sản do
mình làm ra, đi học tại trường thực nghiệm cho con gái, có nơi tìm việc làm
dành riêng cho phụ nữ, luật lao động được thi hành nghiêm túc, được đảm bảo
quyền nghỉ ngơi khi sinh nở, quyền ly dị khi chồng ngoại tình…
Tuy nhiên, quan niệm hạnh phúc trên mang tính “hình mẫu” của một
cuộc đấu tranh ý thức hệ nhiều hơn là trên thực tế. Đó là quan niệm của phụ
33
nữ tầng lớp thị dân và trí thức. Xét trên diện rộng toàn xã hội, các lề thói cũ
đạo lý Khổng Mạnh vẫn được duy trì. Vai trò của gia tộc can thiệp khá sâu
vào đời sống cá nhân và người phụ nữ cũng không nằm ngoài quy luật này.
Hạnh phúc trong quan niệm của người phụ nữ giai đoạn này không phải là
hạnh phúc cá nhân mà là hạnh phúc của gia tộc, là việc duy trì truyền thống
danh giá của dòng họ [48].
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1946 - 1954
Giai đoạn này là thời kỳ đất nước đối mặt với vô vàn khó khăn thách
thức do tình trạng thù trong giặc ngoài. Không khí kháng chiến, đánh giặc giữ
nước, bảo vệ tự do dân tộc là mục tiêu, là mong muốn của mỗi cá nhân, mỗi
gia đình. Với người phụ nữ, hạnh phúc trong giai đoạn này là có chồng đi
kháng chiến và gánh vác các công việc ở hậu phương. Phụ nữ làm tất cả các
công việc của nghề nông thay thế cho nam giới. Phụ nữ tham gia công an xã,
dân quân, hoặc trở thành đội trưởng, đội phó sản xuất. Rất nhiều phòng trào
được phát động: “Phụ nữ tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”, “Phụ nữ học
cày, học bừa”, “Chống bắt lính”, “Tầm vông diệt giặc”, “đòn gánh đánh càn”.
Có thể nói, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc bị ảnh hưởng sâu sắc
bởi cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc. Hình ảnh một người phụ nữ
hạnh phúc là đảm đang, thủy chung, hiếu thuận và yêu nước. Hạnh phúc là
được tuyên dương, khen thưởng vì lao động giỏi [92].
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1955 - 1975
Trong giai đoạn này, nền kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của miền
Bắc có sự biến đổi sâu sắc. Xu hướng xây dựng và nhịp điệu biến đổi ở miền
Bắc luôn luôn bị chi phối bởi sự nghiệp chống Mỹ сứu nước, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trong
giai đoạn này là đảm đang các công việc gia đình và tích cực tham gia công
tác chính trị - xã hội.
34
Trong gia đình, người phụ nữ đảm nhiệm vai trò quan trọng trong phát
triển kinh tế. Nhà sử học Nguyễn Hồng Phong đã miêu tả sinh động hoạt động
kinh tế của người phụ nữ như sau: “Trên đám ruộng của người tiểu nông họ
trồng đủ các thứ lúa, khoai, vừng, lạc, đậu. Trong thửa vườn nho nhỏ mùa nào
thứ ấy, mỗi thứ một tý. Có chuồng gia súc với trâu bò, lợn và có sân gia cầm:
gà, vịt, ngỗng, ngan,… Ngoài ra lại có khung cửi để dệt vải lụa. Nghĩa là
trong kinh tế gia đình chúng ta thấy đủ các thành phần của nền kinh tế toàn
quốc: có cây công nghiệp như thầu dầu, vừng, lạc, đậu,… và cây lương thực;
có chăn nuôi gia súc và gia cầm; có ao chuôm thả cá, thả bèo, thả rau muống;
có thủ công nghiệp - nghề phụ của người dân” [91, tr.481]. Ngoài xã hội,
người phụ nữ tham gia tích cực các hoạt động từ cấp cơ sở đến cấp trung
ương… Trên báo Phụ nữ Việt Nam thời kỳ này đăng tải rất nhiều tấm gương
điển hình phụ nữ trong mọi lĩnh vực của hợp tác hóa nông nghiệp, Ví dụ:
“Hàng năm, hàng nghìn kiện tướng làm phân, làm thủy lợi đã chiếm những kỷ
lục cao nhất như Nguyễn Thị Hoàn, Cao Thị Min, Phùng Thị Thử, Phạm Thị
Ngoãn,v.v…” (15 năm phấn đấu thực hiện và bạo vệ quyền nam nữ bình
đẳng. Báo PNVN, số 84, tháng 9/1960).
Có thể nói, thời kỳ này, quan niệm hạnh phúc được định hướng bởi
nhân sinh quan xã hội chủ nghĩa. Mô hình “gia đình dân chủ, hòa thuận và
hạnh phúc”, hay mô hình gia đình mới, gia đình xã hội xã hội chủ nghĩa đã
được nhà nước chủ trương xây dựng và tuyên truyền phát động khá sâu rộng
như là mô hình gia đình lý tưởng để hướng tới [89]. Và mô hình này cũng
định hướng quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
- Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc giai đoạn 1976 - nay
Đây là giai đoạn nước Việt Nam đã hoàn toàn thống nhất, bước vào
thời kỳ đổi mới tư duy về mọi mặt. Nền kinh tế phát triển đã tạo ra giá đỡ vật
chất cho những biến đổi xã hội, trong đó có biến đổi cơ cấu xã hội, biến đổi
giá trị xã hội. Theo nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Ủy, quan niệm của
35
người phụ nữ về hạnh phúc không gắn với tiền bạc mà nghiêng nhiều hơn về
gia đình. Do đó, phụ nữ luôn hạnh phúc hơn nam giới. Tác giả luận giải điều
này từ văn hóa phương Đông nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng là: nữ
giới thường an phận hơn, hạnh phúc của họ không gắn liền với tiền bạc và
kinh tế nên ít bị ảnh hưởng bởi các suy thoái kinh tế và cảm thấy hạnh phúc
hơn [113, tr.37].
Trái ngược với kết quả này, điều tra của Công ty Nghiên cứu thị
trường Nielsen lại chỉ ra rằng phụ nữ Việt Nam kém hạnh phúc hơn nam
giới. Trong 51 quốc gia tham gia điều tra, chỉ có 3 quốc gia có thực tế này
là Việt Nam, Brazil và Nam Phi. Theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh
phúc là khi họ có những mối quan hệ tích cực và ba mối quan hệ quan
trọng là: mối quan hệ với bạn bè, mối quan hệ với con cái và mối quan hệ
với đồng nghiệp và lãnh đạo [127].
Trên đây là kết quả rất khác biệt của hai điều tra có quy mô lớn đề cập
tới quan niệm về hạnh phúc. Sự khác biệt có thể do thời điểm điều tra khác
nhau hoặc do lựa chọn mẫu nghiên cứu khác nhau.
Dưới tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa, xã
hội Việt Nam đang có biến chuyển sâu sắc, dẫn theo đó là những biến đổi
trong hệ giá trị. Cuộc sống vật chất của con người ngày một nâng cao và điều
này ảnh hưởng như thế nào tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc?
Những bài viết trên báo chí đã đưa ra một thực trạng: quan niệm kiểu “hạnh
phúc là một tấm chăn hẹp” hay “chỉ có hạnh phúc khi có tiền”, “hạnh phúc
của người này là khổ đau của người kia”… đang dần len lỏi vào suy nghĩ của
một bộ phận người dân. Những yếu tố cốt yếu tạo nên hạnh phúc của người
phụ nữ trong truyền thống như sự hy sinh, nhường nhịn, chung thủy, lòng
khoan dung…có thể không còn là những giá trị quan trọng trong suy nghĩ của
một bộ phận phụ nữ hiện nay.
36
Việc các kết quả nghiên cứu khác nhau và sự biến đổi trong quan niệm
về hạnh phúc đã cho thấy sự cần thiết có một nghiên cứu cụ thể về quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc. Trên thực tế, người phụ nữ quan niệm như
thế nào về hạnh phúc? Đây là câu hỏi sẽ được giải đáp trong luận án.
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc
1.4.1 Mức sống và hạnh phúc
Xưa nay, hầu hết các lý thuyết đạo đức xã hội thường nói rằng, tiền bạc
gần như không có liên hệ nhân quả nào với hạnh phúc. Tuy nhiên, các nhà
khoa học đã cố gắng tìm hiểu mối quan hệ này và kết quả cũng rất khác biệt.
Nhà xã hội học Glenn Firebaugh, Đại học Pennsylvama and Laura
Tach, Đại học Harvard (Mỹ) đã nghiên cứu về vấn đề này và rút ra kết luận:
hạnh phúc là khi có tiền nhưng với điều kiện người kiếm ra tiền phải cảm thấy
họ kiếm được nhiều hơn những người quanh họ. Cũng cho kết quả tương sự là
nghiên cứu của Edward Diener, nhà tâm lý học Đại học lninois (Mỹ). Diener
kết luận, sẽ là không đúng nếu nói hạnh phúc không cần đến tiền bạc nhưng
mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp. Quan niệm hạnh phúc là khi có tiền tồn
tại tương đối phổ biến. Dẫn chứng là nhóm người giàu thường có tỉ lệ hài
lòng với cuộc sống cao hơn nhiều so với nhóm người nghèo. Hiện tượng này
đúng cho cả những nước giàu và những nước nghèo. Chuyên gia kinh tế
Andrew Oswald của Đại học Warwick (Anh) cũng đồng ý với Edward Diener
khi nghiên cứu một nhóm người trúng xổ số từ 2.000 USD đến 250.000 USD.
Kết quả chỉ ra là mức độ hài lòng với cuộc sống của nhóm người này tăng so
với hai năm trước khi họ trúng số. Và mức độ hài lòng tăng tỷ lệ thuận với
mức thưởng: trúng thưởng càng lớn người trúng thưởng càng hài lòng hơn với
cuộc sống của mình [53].
Các nghiên cứu ở Châu Mỹ La tinh cũng cho thấy bất bình đẳng thu
nhập có tác động tiêu cực đến cảm nhận hạnh phúc của người nghèo và có tác
37
động tích cực đến người giàu. Ở khu vực mà bất bình đẳng lớn và những thiết
chế công cũng như thị trường lao động không hiệu quả thì bất bình đẳng là
biểu hiện của những ưu thế hoặc yếu thế kéo dài chứ không phải là cơ hội và
tính cơ động của các nhóm. Tình trạng mất quyền và nghèo khổ thường
không thể làm cho người ta hạnh phúc [26].
Tuy nhiên, Daniel Kahneman, người nhận giải Nobel kinh tế năm 2002,
cùng các đồng nghiệp ở Đại học Princeton, Mỹ lại thu được kết quả khác và
đưa ra phát hiện mới khi nghiên cứu mối liên hệ giữa hạnh phúc và thu nhập
của các hộ gia đình. Trước tiên, nghiên cứu của Daniel Kahneman xác nhận là
tỷ lệ hạnh phúc ở những gia đình có thu nhập trên 90.000 USD cao gấp đôi
những gia đình có thu nhập dưới 20.000 USD. Nhưng số liệu cho thấy hầu
như không có sự khác biệt nào về hạnh phúc giữa nhóm gia đình có thu nhập
trên 90.000 USD với nhóm có thu nhập từ 50.000 đến 90.000 USD. Daniel
Kahneman kết luận: quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc rất mờ nhạt và quan
niệm “hạnh phúc là khi có tiền” không có cơ sở rõ ràng. Không phải ngẫu
nhiên mà các tư tưởng gia thường khuyên con người không nên lấy tiền bạc
làm thước đo hạnh phúc [53].
Đồng quan điểm với Daniel Kahneman, các nhà nghiên cứu hạnh phúc
theo tiếp cận kinh tế học cho rằng: người nghèo vẫn có thể có hạnh phúc và
người giàu chưa hẳn đã có hạnh phúc; một quốc gia giàu có chưa hẳn là một
quốc gia có nhiều người hạnh phúc hơn một quốc gia kém giàu có hơn. Vì
người nghèo có ít nhu cầu hơn nên họ có thể dễ thỏa mãn hơn và do đó cũng
dễ cảm thấy hạnh phúc hơn khi đạt được các nhu cầu cơ bản và tất yếu. Người
nghèo thì thoát nghèo là hạnh phúc, trong khi người giàu lại lo chất lượng
cuộc sống bị suy giảm [4].
Ở nghiên cứu đầu tiên của mình, Easterlin chỉ ra một nghịch lý vẫn
chưa có lời giải đáp. Khi hầu hết các nghiên cứu về hạnh phúc đều cho kết
quả là trong mỗi quốc gia, những người giàu có hạnh phúc hơn những người
38
nghèo, thì các nghiên cứu về hạnh phúc giữa các quốc gia và theo thời gian
khác nhau lại cho thấy rất ít mối liên hệ nếu có giữa tăng thu nhập bình quân
đầu người với mức độ hạnh phúc [26]. Nhìn chung, ở các nước giàu có hơn
thì người dân ở đó sẽ hạnh phúc hơn, nhưng hạnh phúc dường như chỉ tăng
theo mức tăng thu nhập đến một điểm nhất định và không vượt qua điểm mốc
đó. Ngay cả giữa các quốc gia nghèo hơn và kém hạnh phúc hơn thì mối quan
hệ giữa thu nhập trung bình và mức hạnh phúc trung bình cũng không rõ ràng.
Khi nghiên cứu về hạnh phúc ở các nước Châu Á, yếu tố thu nhập cũng
là một trong những yếu tố chủ điểm. Có hai luồng tranh luận về sự cần thiết
nghiên cứu mối quan hệ giữa thu nhập và hạnh phúc. Quan điểm thứ nhất, ví
dụ quan điểm của Doh Chull Shin [49], nghiên cứu hạnh phúc cần thoát ly
khỏi yếu tố thu nhập bởi kinh nghiệm nghiên cứu hạnh phúc ở những quốc
gia Nho giáo (trong đó có Việt Nam) cho thấy, nhiều người vẫn còn chịu chi
phối bởi văn hóa Nho giáo truyền thống nên lo ngại rằng nếu phát biểu những
quan niệm gắn liền với vật chất có thể bị coi là người dung tục, tầm thường.
Quan điểm thứ hai cởi mở, cân bằng hơn khi coi thu nhập là một trong những
yếu tố tạo nên hạnh phúc. Ví dụ: Frijters, Haisken-DeNew & Shields (2004)
đã ghi nhận rằng sự tăng lên của thu nhập dẫn tới hạnh phúc cao hơn. Hay
nghiên cứu của Stevenson, B. and J.Wolfers (2008) cho thấy thu nhập rất
quan trọng bởi nó định hướng mức sống và khả năng tiêu dùng - những yếu tố
tiền đề của hạnh phúc. Những kết quả khác nhau về mối quan hệ giữa mức
sống và hạnh phúc gợi ra rằng: trong quan niệm về hạnh phúc, tiền chỉ là một
yếu tố, chắc chắn còn có những yếu tố khác nữa.
1.4.2 Tình trạng hôn nhân và hạnh phúc
Người phụ nữ có quan niệm hạnh phúc là phải kết hôn? Một số
nghiên cứu đã đi tìm câu trả lời cho câu hỏi này. Nghiên cứu của Carol
Graham, Soumya Chattopadhyay thực hiện năm 2012 cho thấy có mối liên hệ
giữa hạnh phúc và tình trạng hôn nhân. Nhìn chung, những người đã kết hôn
cảm thấy hạnh phúc hơn những người không kết hôn. Những người trẻ đã kết
39
hôn (trong độ tuổi từ 15-40) ít hạnh phúc hơn mức trung bình, trong khi đó,
những người trên 40 tuổi đã kết hôn hạnh phúc hơn mức trung bình. Cùng với
đó, những người đã kết hôn ở khu vực đô thị hạnh phúc hơn mức trung bình.
Tuy vậy không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ hạnh phúc giữa
những người kết hôn và không kết hôn ở khu vực nông thôn [3].
Một nghiên cứu cũng bàn nhiều tới các yếu tố tạo nên hạnh phúc một
cách tương đối tổng hợp là công trình phân tích của Giáo sư Doh Chull Shin
(người Hàn Quốc), giảng dạy ở khoa chính trị, đại học Mosouri, Columbia,
Mỹ. Dựa trên số liệu nghiên cứu về hạnh phúc thế giới (năm 2004) thu thập
được ở 7 nước có nền văn hóa nho giáo nổi bật (Hồng Kong, Hàn Quốc,
Singapo, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Việt Nam), ông phân tích mức độ
hạnh phúc theo thang bậc likert (từ -2 đến +2) và chỉ ra rằng: hôn nhân (sự
ràng buộc vợ chồng) chứ không phải thu nhập, mới là yếu tố đem lại hạnh
phúc và mối quan hệ này có ý nghĩa về mặt thống kê. Trong 7 quốc gia nho giáo
kể trên, Singapo, Việt Nam, Nhật Bản và Trung Quốc nổi lên là các quốc gia
hạnh phúc tốp đầu. Hồng Kong, Hàn Quốc và Đài Loan ở các tốp sau, vì chịu
nhiều các yếu tố khác chi phối không phải là hôn nhân. Về xếp hạng khu vực,
đây là khu vực có những quốc gia có nhiều hạnh phúc hơn bất hạnh nhưng đa số
người dân chưa đạt đến mức độ rất hạnh phúc [49].
Mối quan hệ giữa hôn nhân và hạnh phúc là mối quan hệ rất đặc biệt.
Nếu hôn nhân là chỉ báo cao nhất thể hiện hạnh phúc gia đình thì ly hôn lại là
chỉ báo thể hiện sự thất vọng về hạnh phúc gia đình ở mức độ cao. Trong
quan niệm của người phụ nữ, hôn nhân đem tới hạnh phúc nhưng các vấn đề
trong hôn nhân như bạo lực, căng thẳng… lại có tác động rất tiêu cực đến tình
trạng sức khỏe thể chất và tinh thần cũng như cảm nhận hạnh phúc của phụ
nữ đó. Thậm chí làm gia tăng tỷ lệ tự tử, trầm cảm, nghiện rượu và nhiều tệ
nạn xã hội khác…
40
1.4.3 Mức gắn kết vợ chồng và hạnh phúc
Theo tác giả Moos, R. and Moos, B.S. (1994) khái niệm gắn kết là
“mức độ cam kết, giúp đỡ và hỗ trợ mà các thành viên trong gia đình dành
cho nhau” [trích theo 20, tr.6]. Trong đó, những cam kết về vai trò trách
nhiệm có tác động rất quan trọng tới quan niệm và cảm nhận hạnh phúc của
người phụ nữ.
Sự gắn kết vợ chồng có ý nghĩa quan trọng trong quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc. Hai vợ chồng dành cho nhau những lời khen,
thường xuyên biểu lộ tình yêu, tạo cơ hội gặp nhau ngay cả khi giải quyết
mâu thuẫn (tránh giải quyết qua tin nhắn), mềm dẻo trong giải quyết vấn đề
và đôi khi cần sự tức giận (“Angry but honest conversations”) - có thể tức
giận nhưng trung thực rất có ích cho việc đem lại hạnh phúc lâu dài. Khi nói
lên sự thật, sẽ dễ tha thứ và quên. Hơn thế nữa, khi nói rõ ràng về sự tức giận
có vai trò rất quan trọng. Nó như một dấu hiệu để người bạn đời biết rằng
hành vi đó là không được chấp nhận, qua đó mỗi cá nhân sẽ tự điều chỉnh
hành vi [23].
Một số nghiên cứu cho thấy quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
bị ảnh hưởng bởi khuôn mẫu giới trong gia đình. Với người phụ nữ, hạnh
phúc là khi có người chồng làm chỗ dựa về kinh tế. Cả hai vợ chồng đều kiếm
được tiền càng tốt nhưng để hạnh phúc, nhất định vợ không nên kiếm tiền
nhiều hơn chồng. Khi người chồng khẳng định được vai trò “công cụ” của
mình thì khi đó, hạnh phúc của người phụ nữ là “giữ lửa” cho gia đình. Người
phụ nữ sẽ không mong gì hơn là gia đình hoà thuận, các quan hệ nội ngoại ôn
hoà. Tuy nhiên, mối liên hệ giữa hạnh phúc và tình trạng kinh tế của người
chồng là thay đổi theo thời gian. Năm 1950, với người phụ nữ, hạnh phúc là
có người chồng có tình trạng và năng lực nghề nghiệp cao hơn mình. Đến
cuối năm 1970, kết quả nghiên cứu cho thấy hạnh phúc là khi chồng - vợ có
tình trạng kinh tế xã hội tương đương nhau [2].
41
Không chỉ nhắc đến trách nhiệm kinh tế của người chồng, theo quan
niệm của người phụ nữ, hạnh phúc là khi người chồng biết chia sẻ với vợ việc
nhà bởi hạnh phúc luôn xuất phát từ những điều “nhỏ nhặt” nhưng không gì
có thể thay thế. Theo thông báo chính thức của Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ, thời gian lao động của nữ thường cao hơn nam giới 3-4h/ngày
[90]. Khi quỹ thời gian lao động bị xé lẻ bởi nhiều việc không tên trong gia
đình thì khả năng cân bằng giữa công việc và gia đình để người phụ nữ có thể
cảm nhận được trọn vẹn hạnh phúc là một điều khó khăn.
Những nghiên cứu về gia đình từ lâu đã nhấn mạnh sự tham gia của
phụ nữ vào lực lượng lao động được trả lương không phải là sự chuyển đổi vị
trí từ công việc nhà, vì thế phụ nữ làm các công việc chăm sóc không được
trả công là làm “ca thứ hai”. Việc nhà ít khiến đàn ông bị trầm cảm nhưng
đóng góp vào sự trầm cảm của phụ nữ. Betsey Stevenson và Justin Wolfers
(2009) đã đưa ra một nghịch lý suy giảm hạnh phúc của phụ nữ [2]. Phong
trào giải phóng phụ nữ, quyền tự do kinh tế, chính trị, xã hội đã thúc đẩy sự
tiến bộ của phụ nữ và họ cũng kỳ vọng rằng người phụ nữ sẽ cảm thấy hạnh
phúc. Tuy nhiên, trên thực tế không phải như vậy. Nhiều sự lựa chọn cũng
làm cuộc sống của phụ nữ trở nên phức tạp hơn và việc gia tăng cơ hội việc
làm của nữ giới trên thị trường đã dẫn đến sự gia tăng tổng số lượng công
việc mà phụ nữ phải đảm nhiệm. Người phụ nữ vừa phải nỗ lực kiếm tiền
ngoài xã hội vừa phải chăm sóc con cái và làm việc nhà. Áp lực này là
nguyên nhân suy giảm hạnh phúc của người phụ nữ.
Để có được hạnh phúc, người phụ nữ cũng mong muốn người chồng
giải quyết mâu thuẫn một cách chủ động, lành mạnh như một cách thể hiện sự
tôn trọng với vợ. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng phải được giải quyết một cách
thẳng thắn, không đi đường vòng theo kiểu hình tam giác, nghĩa là nhờ một
thành viên khác trong gia đình truyền đạt lại cảm xúc và đứng ra thực hiện.
Cần mềm dẻo trong giải quyết vấn đề. Không có phép mầu nào cũng như
không có cách giải quyết một chiều nào. Hiệu quả của mỗi quyết định tuỳ
thuộc vào từng tình huống liên quan đến quyết định đó [13].
42
1.4.4 Văn hóa và hạnh phúc
Văn hóa đóng một vai trò hiển nhiên trong nhận thức về hạnh phúc [39].
Có hai luồng quan điểm về tác động của văn hóa tới quan niệm hạnh phúc.
Quan điểm thứ nhất xuất phát từ tiếp cận sinh học. Quan điểm này cho
rằng mặc dù chúng ta tiếp tục học hỏi và phát triển cho đến những ngày cuối
đời, nhưng phần lớn những gì tạo nên con người chúng ta, khiến chúng ta trở
thành như hôm nay, đều xảy ra trong giai đoạn đầu đời. Mối quan hệ đầu tiên
con người có là với cha mẹ, đặc biệt là với mẹ, và mối quan hệ này tạo mô
thức cho các mối quan hệ của đứa con trong suốt cuộc đời. Trước khi chào
đời, mỗi cá nhân đã trải nghiệm thế giới và cảm xúc của người mẹ ngay từ
trong bụng mẹ. Bằng cách này, người mẹ đã định hình cấu trúc não bộ về mặt
xã hội của đứa bé. Trong cuốn “Cuộc sống bí mật của đứa trẻ chưa chào đời”,
Thomas Verny và John Kelly giải thích rằng bụng mẹ là trải nghiệm đầu tiên
và là ngôi nhà đầu tiên mà đứa trẻ chưa chào đời biết đến. Nếu môi trường đó
bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc lo lắng hoặc thậm chí cảm xúc bị hắt hủi ở
bên trong người mẹ thì đứa trẻ trước tiên sẽ có cảm giác thế giới là một nơi
không thân thiện. Người cha, bằng sự gắn kết và tương tác với đứa con, cũng
bộc lộ những định kiến, những giá trị vô thức của mình qua cách ứng xử và
đóng góp vào việc tạo ra bản chất của đứa trẻ. Khả năng đáp ứng và nuôi
dưỡng của cha mẹ ảnh hưởng lớn đến sự nhận thức về bản thân và những
tương tác xã hội của đứa trẻ trong suốt cuộc đời [76].
Như vậy, theo tiếp cận sinh học, định hướng hạnh phúc của một con
người được hình thành từ trong bụng mẹ, bị ảnh hưởng bởi những ý nghĩ và
cảm xúc của người mẹ. Cảm xúc của người mẹ in sâu vào tinh thần của đứa
con chưa chào đời đến mức chúng có thể tồn tại trong suốt cuộc đời. Nếu
trong quá trình phát triển trong bụng mẹ, đứa con cảm thấy không an toàn thì
nó củng cố một dự đoán vô thức rằng thế giới mà nó sắp chào đời cũng giống
như thế giới mà nó đã trải nghiệm trong bụng mẹ. Đứa trẻ được hướng tới
43
một tính cách nhất định trong cách nó hiểu người khác, cách nó cảm nhận về
cuộc sống cá nhân và xã hội. Nếu như trong cuộc sống của bà mẹ mang thai
đã có sẵn cảm xúc tiêu cực thì thường những cảm xúc này vẫn tiếp diễn sau
khi đứa trẻ chào đời và nó hướng tới những tổn thương tương tự. Nó sẽ khó
có thể cảm nhận được những cảm xúc tích cực và với nó, hạnh phúc là một
điều khó khăn. Sẽ cần rất nhiều nỗ lực mới có thể thay đổi được những ảnh
hưởng này. “Ví dụ hoàn hảo nhất là trường hợp sinh ra trong một gia đình
theo tôn giáo mà chúng ta có thể sẽ bảo vệ hoặc đấu tranh vì nó trong suốt
cuộc đời” [76].
Quan điểm thứ hai theo định hướng khác biệt văn hoá lại nhấn mạnh
vai trò của ý nghĩa và thực hành xã hội trong việc hình thành cảm xúc. Những
ý nghĩa và thực hành xã hội này tạo nên cái gọi là “lối sống” ở mỗi cộng đồng
và đó là văn hoá. Với những nhà lý luận này, cảm xúc không phải là kết quả
trực tiếp từ cơ chế hoạt động của hệ thần kinh và tâm sinh lý mà nó luôn hiện
hữu và chịu ảnh hưởng của bối cảnh văn hoá cụ thể. Nói một cách ngắn gọn là
con người ở các nền văn hoá khác nhau có quan niệm hạnh phúc rất khác
nhau [66].
Trú ngụ trong tiềm thức sâu thẳm của con người là ảnh hưởng của thời
gian và truyền thống thúc đẩy chúng ta đi theo một hướng nhất định. Các
nghiên cứu hạnh phúc ở Châu Á cho rằng trong ý thức chung về Nho giáo,
tính tập thể được bắt nguồn như một đặc điểm quan trọng và không giống như
người phương Tây luôn coi cá nhân là trung tâm của mọi ý nghĩ, hành động.
Quan niệm hạnh phúc trong bối cảnh văn hóa Nho giáo phải có đặc trưng
mang tính chung, mục tiêu chung, sở thích chung và mong ước mang tính tập
thể hơn là tính cá nhân. Trong đời sống Khổng giáo, hạnh phúc là khi một
người có mối quan hệ tốt với mọi người và quan hệ này còn quan trọng hơn
tri thức hay tiền bạc của cá nhân đó. Khi nghiên cứu hạnh phúc ở Hàn Quốc,
Park (2009) cũng phát hiện rằng, quan niệm hạnh phúc luôn gắn với mối
44
quan hệ cá nhân. Các cá nhân chỉ hạnh phúc khi cá nhân đó có các mối quan
hệ tích cực trong gia đình và có cuộc sống tương đối đầy đủ về vật chất. Bối
cảnh Châu Á mang tính chất tiêu biểu, chứng minh cho nhận định: “Con
người là một sản phẩm của bối cảnh xã hội. Bất cứ nỗ lực nào nhằm cố gắng
để hiểu được họ phải đánh giá dựa trên gia đình của họ” [15, tr.106].
Đối với người phụ nữ Việt Nam, vai trò trách nhiệm bị ảnh hưởng rõ
bởi khuôn mẫu giới trong gia đình. Khuôn mẫu này gắn phụ nữ chủ yếu với
việc chăm sóc và nam giới với việc duy trì gia đình về vật chất, quyết định
những việc quan trọng. Đây là vai trò được truyền thông, giáo dục và dân gian
ủng hộ. Câu nói nổi tiếng của Khổng Tử là “Nghĩa vụ của đàn bà không phải
là kiểm soát hay chịu trách nhiệm” đã tác động đến giáo dục, thần thoại và
truyền thông của Việt Nam. Tư tưởng này tác động đến quan niệm của người
phụ nữ về hạnh phúc theo nhiều tầng lớp. Hạnh phúc của người phụ nữ là
chồng làm chỗ dựa cho gia đình (hàm ý người chồng có tiềm lực mạnh về
kinh tế, có mối quan hệ xã hội rộng và chịu trách nhiệm về những quyết định
quan trọng của gia đình).
Mối quan hệ giữa văn hóa và quan niệm về hạnh phúc rất cần được
quan tâm nghiên cứu, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa, hiện đại hóa hiện
nay. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, những nhu cầu và mong muốn của con
người tăng lên do những giá trị, chuẩn mực toàn cầu mới quy định, nhưng
những cơ hội lại bị hạn chế do những điều kiện khác nhau ở các địa phương,
các nước khác nhau. Vì vậy, quan niệm hạnh phúc cũng rất khác nhau.
1.5. Kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu của luận án
1.5.1 Vấn đề đặt ra từ nguồn tài liệu, đánh giá về các kết quả nghiên
cứu đã có
Các tài liệu tác giả luận án thu thập được phần lớn không bàn trực tiếp
đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc nhưng việc mở rộng nội hàm
khái niệm tìm kiếm và đa dạng các loại tài liệu tìm kiếm đã giúp tác giả có cái
45
nhìn bao quát về quan niệm hạnh phúc theo thời gian và nhận ra được khoảng
trống trong nghiên cứu.
Ở các nước phương Tây, chủ đề hạnh phúc được bắt đầu nghiên cứu
bởi các ngành khoa học thực nghiệm từ những năm 1960 và thu hút một khối
lượng đồ sộ các công trình nghiên cứu từ những nghiên cứu cơ bản nền tảng
về hướng tiếp cận, các trường phái lý thuyết … đến những nghiên cứu ứng
dụng về những khía cạnh rất nhỏ như tiền bạc và hạnh phúc, sức khỏe và hạnh
phúc, trầm cảm và hạnh phúc, tỷ lệ trúng xổ số và hạnh phúc… Tuy nhiên,
chủ đề nghiên cứu hạnh phúc liên quan tới phụ nữ chỉ được thực sự quan tâm
từ những năm 1970 (muộn hơn 10 năm so với những nghiên cứu chung về
hạnh phúc). Các chủ đề nghiên cứu hạnh phúc liên quan tới phụ nữ được ghi
nhận bởi cuộc đấu tranh của phong trào nữ quyền nhằm bảo vệ và mở rộng
các quyền của người phụ nữ. Theo đó, xem xét sự phát triển phụ thuộc, tình
trạng bất bình đẳng nam nữ là kết quả của kiến tạo xã hội và ảnh hưởng chủ
yếu của chuẩn mực, tập tục, điều kiện xã hội - văn hoá (nghĩa là các đặc điểm
giới), chứ không phải do những đặc điểm giới tính (sinh học, bẩm sinh) qui
định. Do vậy, quan điểm nữ quyền tự do cho rằng, nếu những rào cản mang
tính cấu trúc (kinh tế- xã hội) bị xóa bỏ sẽ mở ra nhiều không gian, sự tự do
chọn lựa linh hoạt cho cả phụ nữ, nam giới và sẽ định hướng quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc [67].
Ở Việt Nam cho đến nay, hạnh phúc với tư cách là đối tượng nghiên
cứu của khoa học thực nghiệm, đặc biệt là xã hội học hầu như còn vắng bóng
cả trên bình diện hạnh phúc xã hội nói chung và hạnh phúc của các nhóm xã
hội nói riêng, trong đó có nhóm phụ nữ. Chủ đề nghiên cứu hạnh phúc liên
quan tới phụ nữ thường được lồng ghép trong những công trình nghiên cứu về
gia đình với các chủ đề như: sự hài lòng/không hài lòng về cuộc sống gia
đình, sự hài lòng/không hài lòng về quan hệ hôn nhân, gia đình, cộng đồng…
chứ không phải là những công trình nghiên cứu về hạnh phúc. Và như thế mới
46
chỉ đề cập tới được những khía cạnh xung quanh hạnh phúc chứ chưa phải là
một cái nhìn tổng thể theo quan niệm của người phụ nữ.
Có thể kể tên một số nghiên cứu trực tiếp về hạnh phúc nói chung,
trong đó có lồng ghép quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc:
- Điều tra Giá trị thế giới năm 2001: Đây là cuộc điều tra quốc tế về sự
thay đổi văn hóa, xã hội và chính trị, được thực hiện qua những cuộc thăm dò
ý kiến người dân mang tính đại diện cho quốc gia thuộc hơn 65 xã hội tại 6
châu lục với gần 80% dân số. Tính đến năm 2001, đây là cuộc điều tra duy
nhất về hạnh phúc được thực hiện tại Việt Nam. Viện Nghiên cứu con người -
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã thực hiện cuộc điều tra tại Hà
Nội dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Phạm Minh Hạc và sự hỗ trợ của Trung
tâm Nghiên cứu Dân chủ thuộc Đại học California tại Irvine. Các lần nghiên
cứu sau của tổ chức này ở Việt Nam (ví dụ năm 2010, 2012) chỉ thấy công bố
thứ hạng của Việt Nam chứ không có các báo cáo như đợt khảo sát 2001.
Điều tra này đã tiến hành tìm hiểu quan niệm, niềm tin của người dân về các
vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội. Kết quả phân tích cho thấy có sự khác biệt
giữa nam và nữ về hệ giá trị và quan niệm hạnh phúc. Những khác biệt này
được tạo ra trong quá trình xã hội hóa, hay chịu sự tác động của văn hóa [94].
- Điều tra toàn cầu về hạnh phúc của Công ty Nghiên cứu thị trường
Nielsen thực hiện năm 2008 trên 51 quốc gia (trong đó có Việt Nam) với
28.153 người tham gia trả lời qua mạng. Kết quả của điều tra này chỉ ra rằng
phụ nữ Việt Nam kém hạnh phúc hơn nam giới. Trong 51 quốc gia tham gia
điều tra, chỉ có 3 quốc gia có thực tế này là Việt Nam, Brazil và Nam Phi.
- Điều tra “Sự hài lòng với cuộc sống” được tiến hành năm 2011 bởi
nhóm nghiên cứu Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Nghiên cứu
điều tra tại 4 tỉnh/thành phố lớn trên cả nước: Hà Nội, Hải Dương, Bình
Dương, Thành phố Hồ Chí Minh với mẫu 2.400 người. Ở nghiên cứu này,
hạnh phúc được nghiên cứu qua sự hài lòng. Kết quả nghiên cứu cho thấy
47
người dân Việt Nam khá lạc quan về đời sống gia đình. Mức độ hài lòng với
các khía cạnh: hôn nhân, con cái, mối quan hệ với con cái của người dân ở cả
miền Bắc và Nam là tương đối cao. Mức độ hài lòng ở các khía cạnh gia đình
được người dân đánh giá cao hơn các khía cạnh khác như kinh tế, nghề
nghiệp, thu nhập hay điều kiện môi trường sống [44].
- Luận văn thạc sỹ của tác giả Trần Hữu Ủy trong chương trình
Fulbright năm 2009: “Các nhân tố ảnh hưởng đến hạnh phúc của người Việt
Nam”. Tác giả luận văn đã sử dụng bộ số liệu của cuộc Điều tra Giá trị Thế
giới năm 2001 để phân tích. Luận án này nghiêng nhiều về chuyên ngành kinh
tế học khi sử dụng các mô hình kinh tế lượng để phân tích hạnh phúc. Kết quả
phân tích được nhắc tới ở phần trên [113].
Ngoài các công trình trên, có một số bài đăng trên các tạp chí chuyên
ngành dựa trên các số liệu điều tra được trích từ kết quả của các dự án nghiên
cứu về các vấn đề gia đình, trong đó có lồng ghép các câu hỏi quan niệm về
hạnh phúc. Ví dụ Lê Thi [70;71], Hồ Sĩ Quý [54], Hoàng Bá Thịnh [57], Bùi
Thị Hương Trầm [40; 41]... Trong các nghiên cứu này, quan niệm của người
phụ nữ về hạnh phúc thường gắn liền với cuộc sống hôn nhân - gia đình.
Hạnh phúc chính là sự hài hòa các mối quan hệ gia đình. Việc nuôi dưỡng tốt
các mối quan hệ gia đình cũng là tạo điểm tựa cho hạnh phúc cá nhân. Các
nghiên cứu mới chỉ mang tính phát hiện bước đầu và gợi mở cho các nghiên
cứu tiếp theo về hạnh phúc ở Việt Nam.
Gần đây nhất (đầu tháng 12/2017), Hội thảo Tâm lý học Đông Nam Á
đã tổ chức ở Việt Nam với chủ đề “Hạnh phúc con người và phát triển bền
vững”. Đây là hoạt động của Hiệp hội Tâm lý học ứng dụng quốc tế (IAAP)
tổ chức 2 năm/lần. Hội thảo khu vực lần đầu tiên được tổ chức tại Trung Quốc
(1995), sau đó tại Mexico (1997), Nam Phi (1999), Ấn Độ (2001), Ả-rập-xê-
út (2003)… Hội thảo Tâm lý học khu vực Đông Nam Á 2017 là hội thảo tâm
lý học đầu tiên của khu vực Đông Nam Á do Việt Nam đăng cai tổ chức. Hội
48
thảo đã thu hút rất nhiều bài viết liên quan đến hạnh phúc nhưng chỉ từ góc độ tâm
lý học (đánh giá, đo lường tâm lý, ứng dụng tâm lý học vào đời sống xã hội...).
Trong bối cảnh quá ít các nghiên cứu về hạnh phúc của người phụ nữ
Việt Nam như thế thì một số nghiên cứu lại đưa ra những kết quả khác nhau
như phần trên đã phân tích về nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Ủy và điều tra
của Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsen.
Trong khi quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thường vắng bóng
ở các công trình nghiên cứu thì lại được nhắc đến khá thường xuyên trên báo
chí Việt Nam, tiêu biểu là Báo Phụ nữ Việt Nam, Báo Phụ nữ Thủ đô, Báo
Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Báo Thanh niên hay một số báo mạng như
Phununet.com, Vietnamnet.vn, VnExpress... Các báo này thường có chuyên
mục “Phụ nữ và thời cuộc”, “Đời sống”, “Bạn đọc”, “Tâm sự”, “Bàn về hạnh
phúc gia đình”, thực chất là diễn đàn để các độc giả cùng quan tâm chia sẻ
quan niệm về hạnh phúc. Nhiều nội dung thảo luận dưới những tiêu đề như
“bí quyết giữ hạnh phúc gia đình”, “làm thế nào để giữ hạnh phúc gia đình”,
“vụt mất hạnh phúc”... Ví dụ bài viết “Điểm chung của các đôi hạnh phúc”
của tác giả Kim Anh [63], bài “Tuyệt chiêu giữ hôn nhân hạnh phúc” của tác
giả Thụy Ân [112], bài “Tại sao các cặp vợ chồng càng hạnh phúc càng giống
nhau” của tác giả Vương Linh [125]...
Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trên báo chí thường gắn liền
gia đình. Ví dụ: nhiều báo tổ chức các cuộc thi viết về hạnh phúc gia đình và
lý giải hạnh phúc gia đình, trong đó nhấn mạnh phụ nữ phải có trách nhiệm
“giữ lửa” hạnh phúc và chỉ thực sự hạnh phúc khi gia đình hạnh phúc. Đó là
những bài giật tít theo kiểu như “Biết tha thứ để được hạnh phúc” tác giả
Ngọc Thi [79]; “Khổ vì mẹ khó tính, buồn vì vợ không nhẫn nhịn” tác giả
Văn.ht [120]; “Vũ khí bí mật của những người vợ hạnh phúc” tác giả Thanh
Mai [105]; “Muốn hôn nhân hạnh phúc, phụ nữ cần một chút “mánh khóe”
tác giả Tú Anh [118]. Các bài báo này thường hướng tới các quy chuẩn đạo
49
đức, mang tính chất khuyên răn, dựa nhiều trên cảm nhận chủ quan của người
viết mà ít tính học thuật.
Nhìn chung, các nghiên cứu về hạnh phúc thường được đặt trong bối
cảnh văn hóa. Con người ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ thường được
khuyến khích khẳng định cái tôi của mình và chủ động tìm kiếm hạnh phúc cá
nhân, trong khi ở châu Á lại nhấn mạnh đến tính kết nối và phụ thuộc lẫn
nhau của cá nhân với những người khác. Sự kết nối và phụ thuộc lẫn nhau là
tâm điểm của suy nghĩ, hành động và động cơ thúc đẩy hành động. Có vẻ như
sự hỗ trợ và chăm sóc của người thân sẽ có vai trò trong quan niệm hạnh phúc
của nhiều người ở châu Á. Vì vậy, quan niệm hạnh phúc ở nền văn hóa Bắc
Mỹ là những thành tích cá nhân và sự tự trọng. Còn ở châu Á, hạnh phúc là sự
điều chỉnh theo chuẩn mực xã hội và thực hiện nghĩa vụ. Hạnh phúc được
xem là trạng thái thỏa hiệp giữa các chủ thể trên cơ sở sự cảm thông, tình cảm
và hỗ trợ lẫn nhau [35].
1.5.2. Kinh nghiệm và định hướng nghiên cứu của luận án
Về nội dung nghiên cứu, luận án xác định một khía cạnh rất cụ thể là:
quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc. Luận án
nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trong ba lĩnh vực: hạnh
phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên, hạnh phúc trong lĩnh vực
gia đình - xã hội, hạnh phúc trong đời sống cá nhân.
Bởi quan niệm hạnh phúc không thể tách rời đặc điểm cá nhân của
chính người phụ nữ đó và bối cảnh xã hội nói chung nên luận án cũng tìm
hiểu mối quan hệ giữa quan niệm hạnh phúc với các yếu tố đặc điểm cá nhân
của người phụ nữ, đặc điểm xã hội của người phụ nữ và các yếu tố tự nhiên.
Đặc điểm cá nhân của người phụ nữ được xác định như: tuổi, học vấn, giới
tính, tôn giáo, thu nhập, việc làm, tài sản, nhà ở, sức khỏe, tình trạng hôn
nhân, tình trạng gia đình, mức độ tin tưởng vào tương lai. Đặc điểm xã hội: sự
tham gia, các mối quan hệ thân hữu, sự cân bằng cuộc sống và công việc. Yếu
50
tố tự nhiên: các vấn đề môi trường, các vấn đề đô thị hóa, sự an toàn. Luận án
cũng tìm hiểu điều kiện kinh tế - xã hội của 05 địa bàn nghiên cứu; quan
điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước như là những
yếu tố trung gian nhằm nhận diện rõ nét hơn quan niệm hạnh phúc.
Về phương pháp nghiên cứu, như đã phân tích ở trên, quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc chỉ được đề cập nhiều qua các bài báo và chủ yếu
dựa trên sự chiêm nghiệm cá nhân. Sự thiếu vắng cách tiếp cận định lượng
trong nghiên cứu hạnh phúc không khỏi gây khó khăn cho người đọc trong
việc nhận quan niệm về hạnh phúc và việc hình dung sự biến đổi quan niệm
hạnh phúc theo thời gian, khó khăn trong việc xác định các yếu tố tác động
đến quan niệm hạnh phúc theo nhiều chiều cạnh, nhiều tầng lớp.
Luận án sẽ phân tích bộ số liệu của đề tài độc lập cấp Nhà nước “Hạnh
phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” được
thực hiện từ tháng 10/2016 đến tháng 3/2018. Đề tài cấp Nhà nước tiến hành
điều tra 2.500 phiếu theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên tại 05 tỉnh/thành.
Tuy nhiên, vì luận án chỉ tìm hiểu quan niệm của người phụ nữ nên sẽ tiến
hành lọc mẫu, chỉ chọn ra người trả lời là nữ để có được thông tin một cách
trực tiếp: người phụ nữ tự trả lời về hạnh phúc của chính bản thân họ. Chính
vì thế mẫu phân tích định lượng của luận án sẽ còn khoảng 1.300 phiếu.
Bên cạnh phương pháp phân tích số liệu của đề tài độc lập cấp nhà
nước, tác giả đã thực hiện riêng các phỏng vấn sâu bởi có nhiều lý do khiến
các câu hỏi định lượng không thể có được đầy đủ những thông tin mà luận án
cần thu thập. Luận án tiến hành phỏng vấn sâu 50 người phụ nữ đảm bảo cơ
cấu về độ tuổi, dân tộc, học vấn, tôn giáo, mức sống, vùng miền…
Bằng việc kết hợp phương pháp định lượng và phương pháp định
tính, luận án sẽ cung cấp được những luận cứ khoa học xác thực cho vấn
đề nghiên cứu.
51
Tiểu kết chương 1
Các nước Phương Tây đã có lịch sử nghiên cứu 50 năm về hạnh phúc
của người phụ nữ và đã đạt được các bước đi dài. Ở Việt Nam cho đến nay,
hạnh phúc với tư cách là đối tượng nghiên cứu của khoa học thực nghiệm,
đặc biệt là xã hội học hầu như còn vắng bóng cả trên bình diện hạnh phúc xã
hội nói chung và hạnh phúc của các nhóm xã hội nói riêng, trong đó có nhóm
phụ nữ.
Chủ đề nghiên cứu hạnh phúc liên quan tới phụ nữ thường được lồng
ghép trong những công trình nghiên cứu về gia đình hoặc những bài báo
mang nhiều tính chiêm nghiệm cá nhân. Và như thế mới chỉ đề cập được
những khía cạnh xung quanh hạnh phúc chứ chưa phải là một cái nhìn tổng
thể theo quan niệm của người phụ nữ. Trong bối cảnh quá ít các nghiên cứu
về hạnh phúc ở Việt Nam như thế thì một số nghiên cứu lại đưa ra những kết
quả khác nhau như phần trên đã phân tích về nghiên cứu của tác giả Trần Hữu
Ủy và điều tra của Công ty Nghiên cứu thị trường Nielsen.
Ngày nay quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đã có nhiều thay
đổi, nhưng cuộc tranh luận về hạnh phúc vẫn còn tiếp diễn trên phạm vi toàn
thế giới, từ các nước phương Tây sang các nước phương Đông, từ các nước
phát triển sang các nước đang phát triển. Hơn thế nữa, những quan niệm khác
nhau về hạnh phúc không dừng lại ở phạm vi các “tranh luận” mà quan trọng
hơn, nó được thể hiện bằng các hành động trong đời sống thực tiễn. Do đó, rất
cần thiết có những nghiên cứu chuyên sâu về quan niệm hạnh phúc. Luận án
sẽ nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đặt trong tổng thể ba
lĩnh vực: hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế-môi trường tự nhiên, hạnh phúc
trong lĩnh vực gia đình - xã hội, hạnh phúc trong đời sống cá nhân.
52
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1 Các khái niệm công cụ
Để thực hiện nghiên cứu khoa học, công việc đầu tiên mỗi nhà nghiên
cứu cần phải tiến hành đó là thao tác xác định khái niệm, lý thuyết; xây dựng
hoặc vận dụng các cơ sở lý luận, tức luận cứ lý thuyết cho nghiên cứu của mình.
- Khái niệm “Hạnh phúc”
Câu hỏi quan trọng nhất trong mọi câu hỏi là: hạnh phúc thực sự là gì?
Vilayanur S.Ramachandran - nhà khoa học lỗi lạc gốc Ấn - người đã gây chấn
động với lý thuyết về một “khối Chúa” (God module) trong não bộ giúp khám
phá những điều bí ẩn về cơ thể con người, giúp con người thoát khỏi nỗi đau
của thể xác nhưng khi nói về hạnh phúc của con người, ông vẫn phải thốt lên
“Và chúng ta thậm chí chưa biết hạnh phúc là gì” (Vilayanur
S.Ramachandran nói câu này vào năm 2000, [trích theo 103, tr.2]). Câu nói
của S.Ramachandran chính là chất xúc tác cho công trình nghiên cứu về hạnh
phúc của Stefan Klein. Càng đi sâu vào chủ đề này, Stefan Klein phát hiện ra
rằng: S.Ramachandran đã sai. Hạnh phúc - cái cảm giác phức tạp có vẻ siêu
phàm này lại được nghiên cứu rất cẩn thận dưới góc độ khoa học và từ nhiều
chuyên ngành khác nhau.
Hạnh phúc không phải là một khái niệm mang tính khung mẫu
(paradigm) kiến tạo nên diện mạo riêng của bất kỳ học phái triết học hay thần
học nào. Song vẫn là một giá trị nhân sinh quan trọng bậc nhất của đời sống
con người nên ngay từ rất sớm trong lịch sử nhận thức, hạnh phúc đã là đối
tượng được mọi tôn giáo và nhiều trường phái triết học quan tâm, đặc biệt,
các triết thuyết theo dòng nhân học (Philosophical Anthropology). Việc xác
định khái niệm hạnh phúc cùng với những tiêu chuẩn mang đậm màu sắc chủ
53
quan của nó đã trở thành lý do tồn tại của mọi tôn giáo và mọi nhân sinh quan
triết học. Hạnh phúc trở thành đối tượng phân tích không bao giờ cạn, được
coi là vấn đề vĩnh cửu để triết học, thần học và các lý thuyết nhân sinh và xã
hội phải chiêm nghiệm và bàn luận [53].
Khái niệm hạnh phúc được sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau. Theo
nghĩa rộng nhất, hạnh phúc là một khái niệm tổng hợp dùng cho những điều
tốt đẹp. Nghĩa này thường được sử dụng đồng nghĩa với các khái niệm như
“well-being”, hay “chất lượng cuộc sống” và dùng để chỉ cả phúc lợi xã hội
và cá nhân. Giáo sư Ruut Veenhoven ở trường Đại học Erasmuss Rotterdam,
Hà Lan là một trong những nhà khoa học có nhiều công trình nghiên cứu về
hạnh phúc và nhiều bài viết đề cập đến nội hàm khái niệm này. Theo ông:
“hạnh phúc là một khái niệm chỉ rõ mức độ mà theo đó, các cá nhân nhận
thấy những mong ước trong cuộc đời họ đều có thể đạt được. Đó cũng là thời
điểm mỗi người có những cảm xúc tốt đẹp về cuộc sống. Hạnh phúc thúc đẩy
sự tích cực của mỗi người, tạo nên sức khỏe và làm cho họ trở nên năng động,
sáng tạo hơn” [21].
Theo nghĩa hẹp hơn, khái niệm hạnh phúc được sử dụng để chỉ cảm
giác tận hưởng cuộc sống của chủ thể. Trong các công trình nghiên cứu của
tác giả phương Tây, hạnh phúc thường được giải thích là sự thỏa mãn nhu cầu
cá nhân trong một bối cảnh xã hội cụ thể, bao gồm các nhu cầu về vật chất,
tinh thần, môi trường tự nhiên và xã hội… Hạnh phúc là sự đánh giá tổng thể
về chất lượng sống, là trạng thái tinh thần tốt lành, bao gồm cả tích cực và
tiêu cực và những phản ứng do xúc cảm của con người đối với các trải
nghiệm của họ [16].
- Khái niệm hài lòng với cuộc sống (life satisfaction)
Khái niệm “hài lòng với cuộc sống” (life satisfaction) có ý nghĩa tương
tự và thường được sử dụng như khái niệm “hạnh phúc”. Điểm mạnh của khái
niệm “hài lòng” so với khái niệm “hạnh phúc” là nó nhấn mạnh đến đặc điểm
54
chủ quan của chủ thể. Khái niệm hạnh phúc bao gồm cả khía cạnh tốt khách
quan, đặc biệt đối với những nhà triết học. Vì vậy, người ta thường sử dụng từ
“hạnh phúc chủ quan” để tránh nhầm lẫn. Khái niệm hạnh phúc chủ quan chỉ
một đánh giá tổng thể về cuộc sống, liên quan đến những tiêu chí trong tâm trí
của con người như suy nghĩ thế nào, có thoả mãn sự mong đợi không, có đạt
được mức độ mong muốn mà người ta nghĩ đến không. Khách thể đánh giá là
cuộc sống xét trên tổng thể chứ không phải một lĩnh vực nào đó trong cuộc
sống, như việc làm hay gia đình. Trên quan điểm đó, hạnh phúc được coi là
sự đánh giá của một người về cuộc sống của mình xét trên tổng thể, chứ
không chỉ là những điều kiện tiên quyết để có một cuộc sống tốt đẹp (như có
môi trường dễ sống và có những khả năng tốt) [22]. Cách nhìn mới mẻ này
khác với quan niệm đồng nhất hạnh phúc với chất lượng cuộc sống (quality of
life) trong đó chỉ bao gồm những gì tốt đẹp.
- Hạnh phúc và bất hạnh
Hạnh phúc không có nghĩa là sẽ không có những điều phàn nàn hay
buồn chán. Một người khá hài lòng với cuộc sống của họ xét trên phương
diện tổng thể nhưng vẫn có thể có những nỗi buồn phiền hay lo lắng. Bởi vì,
chính những buồn phiền, lo lắng sẽ lại góp phần xây dựng hạnh phúc cho
tương lai. Thậm chí, trong cuộc sống của con người, nếu không có điều gì
phải phàn nàn và lo lắng nữa, thì người ta cũng chẳng còn lý do nào để phấn
đấu cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Ruut Veenhoven định nghĩa hạnh phúc là
“phép cộng của vui sướng và khổ đau” [22].
Cảm giác hạnh phúc không hề loại bỏ cảm giác bất hạnh. Con người
thường xuyên trải nghiệm trạng thái mâu thuẫn này nhưng thường không ý
thức được những sắc thái tinh tế của nó. Cuộc sống luôn bị phân tách thành
hai mặt như yêu và ghét, sống và chết, trẻ và già, ngày và đêm… và hạnh
phúc cũng không nằm ngoài quy luật. Bản chất hai mặt của hạnh phúc và bất
hạnh là nền tảng nhất và rõ ràng nhất “Hạnh phúc hóa thành bất hạnh: đó là
55
hai mặt của vấn đề, như hai mặt của một đồng xu. Nếu bạn đang ở phía bên
này, hẳn là mặt bên kia đang ẩn náu và chờ cơ hội để xuất hiện” [93, tr.20].
Một người khá hài lòng với cuộc sống của họ xét trên phương diện tổng thể
nhưng vẫn có thể có những nỗi lo lắng. Tương tự như vậy, hiện nay hạnh
phúc được coi là sự đánh giá của một người về cuộc sống của mình xét trên
tổng thể. Theo quan niệm này, hạnh phúc là kết quả của cuộc sống và nó khác
biệt với những điều kiện tiên quyết để có một cuộc sống tốt đẹp, như có môi
trường dễ sống và có những khả năng tốt. Cách quan niệm này khác với quan
niệm hiện đang được quan tâm là chất lượng cuộc sống (quality of life), bao
gồm tất cả những gì tốt đẹp.
- Sự khác biệt văn hóa và hạnh phúc
Trong tâm lý học cổ điển, cảm xúc thường được xem là yếu tố quan
trọng và nó xuất phát từ khía cạnh sinh học. Tuy nhiên, gần đây, một số tác giả
theo định hướng khác biệt văn hoá lại nhấn mạnh vai trò của ý nghĩa và thực hành
xã hội trong việc hình thành cảm xúc. Những ý nghĩa và thực hành xã hội này tạo
nên cái gọi là “lối sống” ở mỗi cộng đồng và đó là văn hoá. Với những nhà lý luận
này, cảm xúc không phải là kết quả trực tiếp từ cơ chế hoạt động của hệ thần kinh
và tâm sinh lý mà nó luôn hiện hữu và chịu ảnh hưởng của bối cảnh văn hoá cụ
thể. Nói một cách ngắn gọn là con người ở các nền văn hoá khác nhau có thể trải
nghiệm hạnh phúc của mình rất khác nhau [65].
Là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng hạnh phúc lại dựa trên
những yếu tố khách quan - cơ sở tạo nên sự cảm nhận hạnh phúc - đó là mức
độ thỏa mãn trong các mối quan hệ với môi trường sống xung quanh. Người
hạnh phúc là người chủ động trong cuộc sống, trong công việc, cống hiến của
mình, và biết lựa chọn và thụ hưởng một cách hợp lý tất cả những yếu tố mà
cuộc sống đem lại. Như vậy, hạnh phúc là đầu ra của toàn bộ quá trình phấn
đấu của con người với tư cách là một cá nhân và thành viên của cộng đồng,
dân tộc, đất nước. Con người có thể tìm kiếm và trải nghiệm về hạnh phúc, do
56
đó, người ta không chỉ có thể cảm nhận, mà còn có thể mô tả và phân tích nó
trên bình diện khoa học.
Trong luận án, tác giả sử dụng khái niệm hạnh phúc của Ruut
Veenhoven: “Hạnh phúc là một khái niệm chỉ rõ mức độ mà theo đó, các cá
nhân nhận thấy những mong ước trong cuộc đời họ đều có thể đạt được” [21].
Luận án sẽ đi tìm hiểu các yếu tố tạo nên hạnh phúc theo mong ước của người
phụ nữ.
Có thể nêu lên một số đặc trưng chủ yếu của hạnh phúc như sau để
tạo cơ sở cho việc thao tác hóa khái niệm:
- Hạnh phúc được đặc trưng bởi phương thức đạt mục tiêu. Chẳng
hạn, thu nhập cao có được bằng cách hủy hoại môi trường không được
đánh giá cao so với đạt được thu nhập ấy bằng áp dụng công nghệ mới để
phát triển nền kinh tế xanh (bảo vệ môi trường); hạnh phúc không chỉ hạn
hẹp trong lĩnh vực vật chất mà còn cả trong lĩnh vực tinh thần.
- Hạnh phúc là trạng thái cảm xúc hình thành trên cơ sở thỏa mãn
nhu cầu vật chất, tinh thần và môi trường sống. Đây là đặc trưng bản chất
của hạnh phúc, nó không chỉ định hướng các tiêu chí tạo nên hạnh phúc mà
còn quy định phương pháp nghiên cứu hạnh phúc. Bởi vì, bản chất của đối
tượng bao giờ cũng quyết định nội dung và phương pháp xác định nó.
- Hạnh phúc là một quan hệ tác động qua lại giữa một bên là trạng thái
tình cảm và bên kia là các nhu cầu về vật chất, tinh thần và môi trường sống
được đáp ứng. Điều này có nghĩa là hạnh phúc không chỉ cảm nhận được mà
còn có thể lượng hóa được qua những sự vật, hiện tượng đối ứng với nó.
- Hạnh phúc là một quá trình dựa trên trạng thái tương đối ổn định,
dài lâu, không phải là trạng thái tinh thần, tình cảm viên mãn hay hứng thú
nhất thời, bất chợt.
57
2.1.2 Thao tác hóa khái niệm “Quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc”
Luận án thao tác hóa khái niệm “Quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc” dựa trên hai cơ cở:
- Cơ sở thứ nhất: Dựa trên đặc trưng bản chất của hạnh phúc (là trạng
thái cảm xúc hình thành trên cơ sở thỏa mãn nhu cầu vật chất, tinh thần và
môi trường sống).
- Cơ sở thứ hai: Dựa trên hạnh phúc chủ quan (liên quan đến những
tiêu chí mong ước trong suy nghĩ của con người để có được hạnh phúc).
Có hai cách tiếp cận chính trong xây dựng các tiêu chí để tính chỉ số
hạnh phúc. Một là, xây dựng dựa vào các chỉ báo, đơn chiều hoặc đa chiều, đo
lường hạnh phúc chủ quan của các cá nhân (gọi là tiêu chí hạnh phúc chủ
quan). Thứ hai là loại tiêu chí hạnh phúc tổng thể được xây dựng trên cơ sở
mở rộng công thức tính bằng cách bổ sung vào các tiêu chí về điều kiện và
môi trường sống khách quan bên ngoài. Cách tiếp cận của luận án thuộc loại
thứ nhất và các tiêu chí được nói ở đây là tiêu chí hạnh phúc chủ quan.
Theo ý kiến của nhiều nhà khoa hoc, việc đo lường hạnh phúc sẽ thiếu
chính xác nếu chỉ thực hiện bằng một câu hỏi tổng hợp kiểu “Theo Ông/ Bà,
cần đạt được các tiêu chí gì để có được hạnh phúc”. Trong trường hợp của
Việt Nam, việc khảo sát bằng một câu hỏi “thô” như thế có nhiều khả năng
dẫn đến những kết quả sai lệch, không chính xác. Để tránh những rủi ro như
thế, cần thao tác hóa khái niệm hạnh phúc thành những tiêu chí thực nghiệm
cụ thể hơn. Qúa trình thao tác hóa đó được triển khai qua hai bước. Bước một,
thao tác hóa khái niệm hạnh phúc thành các tiêu chí gộp trung gian và bước
hai, tiếp tục thao tác hóa các tiêu chí trung gian này thành các tiêu chí thực
nghiệm cụ thể.
Quan niệm hạnh phúc được đo lường thông qua 3 tiêu chí gộp trung
gian là ba lĩnh vực sau :
58
• Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
• Lĩnh vực gia đình - xã hội
• Lĩnh vực đời sống cá nhân
Tiếp tục quá trình thao tác hóa làm “mịn hóa” 3 tiêu chí gộp trung gian
trên thành các tiêu chí thực nghiệm, thu được tổng cộng 33 tiêu chí cơ sở chia
đều cho 3 lĩnh vực. Cụ thể, các tiêu chí như sau:
- Những tiêu chí trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên gồm:
• Được ăn ngon
• Được mặc đẹp
• Có nhà ở riêng
• Có công ăn việc làm đầy đủ
• Được làm công việc mình thích
• Có đủ tiện nghi sinh hoạt
• Có thu nhập ổn định
• Có tài sản và tiền để dành
• Có hệ thống dịch vụ tốt
• Môi trường tự nhiên trong lành
• An toàn vệ sinh thực phẩm tốt
- Những tiêu chí trong lĩnh vực gia đình - xã hội gồm:
• Gia đình hoà thuận
• Con cháu chăm ngoan, học hành tấn tới
• Quan hệ họ hàng tốt
• Quan hệ láng giềng tốt
• Có bạn bè tốt
59
• Quan hệ nơi làm việc tốt
• Có vị thế, địa vị xã hội
• An ninh, an toàn xã hội đảm bảo
• Chính quyền thân thiện, công tâm
• Được tự chủ, tự quyết về bản thân
• Môi trường xã hội tự do, dân chủ
- Những tiêu chí trong lĩnh vực đời sống cá nhân gồm:
• Có sức khoẻ tốt
• Có năng lực làm việc
• Có trình độ học vấn
• Thể hiện được năng lực của mình
• Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí
• Có niềm tin vào con người, xã hội
• Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn
• Thành công trong cuộc sống
• Làm được việc có ý nghĩa
• Luôn có mục tiêu phấn đấu
• Thích ứng nhanh với cuộc sống
2.1.3 Các lý thuyết nghiên cứu
Luận án ứng dụng một số lý thuyết sau:
- Lý thuyết hệ thống
Luận điểm cơ bản của lý thuyết hệ thống
60
Lý thuyết này nhìn nhận sự phát triển của mỗi cá nhân trong sự phát
triển của một hệ thống. Trong hệ thống này bao gồm rất nhiều yếu tố và
chúng luôn tương tác với nhau tạo thành thể thống nhất. Luận điểm cơ bản
của thuyết này là: hệ thống là khả năng con người có thể nhận biết một cái gì
đó ở tư cách là cái toàn bộ. Đây là luận điểm quan trọng áp dụng trong nghiên
cứu hạnh phúc của người phụ nữ bởi hạnh phúc không phải là một cảm giác
tĩnh, “nhất thành bất biến” mà luôn vận động và biến đổi trong không gian và
theo thời gian. Do vậy, hạnh phúc là cả một quá trình cảm nhận và chiêm
nghiệm. Hay hiểu như tác giả Ruut Veenhoven khi định nghĩa hạnh phúc là
“phép cộng của vui sướng và khổ đau” [22], có nghĩa hạnh phúc được coi là
sự đánh giá của một người về cuộc sống của mình xét trên tổng thể - sự cộng
lại của những điều may mắn và không may mắn, chứ không phải chỉ có may
mắn. Và một người hạnh phúc thì điều đó chỉ có nghĩa là họ có nhiều điều tốt
đẹp, nhiều may mắn hơn so với những gì tệ hại và không may mắn.
Sự vận dụng lý thuyết hệ thống trong luận án
Cho dù hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng nó lại
dựa trên những yếu tố khách quan - cơ sở tạo nên sự cảm nhận hạnh phúc - đó
là mức độ thỏa mãn của con người trong các mối quan hệ với môi trường
sống xung quanh. Đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi
trường của chính bản thân cá nhân con người. Như vậy, hạnh phúc của người
phụ nữ vốn có quan hệ không thể tách rời với ba môi trường sống đã nêu và
lý thuyết hệ thống là cơ sở giúp tìm được mẫu số chung, giúp trả lời câu hỏi
các yếu tố nào sẽ tạo nên hạnh phúc cho người phụ nữ, nhìn một cách tổng thể.
- Lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow
Luận điểm cơ bản của lý thuyết
Nhà tâm lý học Abraham Maslow (1908-1970) được xem như một
trong những người tiên phong trong trường phái Tâm lý học nhân văn. Năm
1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của nó
61
được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau
Trong thời điểm đầu tiên của lý thuyết, Maslow đã sắp xếp các nhu cầu của
con người theo 5 cấp bậc:
Nhu cầu cơ bản (basic needs)
Nhu cầu an toàn (safety needs)
Nhu cầu xã hội (social needs)
Nhu cầu được quý trọng (esteem needs)
Nhu cầu được thể hiện mình (self-actualizing needs)
+ Nhu cầu cơ bản như ăn, uống, ngủ, không khí để thở, tình dục, các
nhu cầu làm cho con người thoải mái,… Đây là những nhu cầu cơ bản nhất và
mạnh nhất của con người. Trong hình kim tự tháp, chúng ta thấy những nhu
cầu này được xếp vào bậc thấp nhất: bậc cơ bản nhất. Maslow cho rằng,
những nhu cầu ở mức độ cao hơn sẽ không xuất hiện trừ khi những nhu cầu
cơ bản này được thỏa mãn và những nhu cầu cơ bản này sẽ chế ngự, hối thúc,
giục giã một người hành động khi nhu cầu cơ bản này chưa đạt được. Chúng
ta có thể kiểm chứng dễ dàng điều này khi cơ thể không khỏe mạnh, đói khát
hoặc bệnh tật, lúc ấy, các nhu cầu khác chỉ còn là thứ yếu.
62
+ Khi con người đã được đáp ứng các nhu cầu cơ bản, tức các nhu cầu này
không còn điều khiển suy nghĩ và hành động của họ nữa các nhu cầu về an toàn,
an ninh sẽ bắt đầu được kích hoạt. Con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự
sống còn của mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này thường được khẳng định
thông qua các mong muốn về sự ổn định trong cuộc sống, được sống trong các
khu phố an ninh, sống trong xã hội có pháp luật, có nhà cửa để ở,… Nhiều người
tìm đến sự che chở bởi các niềm tin tôn giáo, triết học cũng là do nhu cầu an toàn
này, đây chính là việc tìm kiếm sự an toàn về mặt tinh thần.
+ Nhu cầu thứ ba còn được gọi là nhu cầu mong muốn thuộc về một bộ
phận, một tổ chức nào đó (belonging needs) hoặc nhu cầu về tình cảm, tình
thương (needs of love). Nhu cầu này thể hiện qua quá trình giao tiếp như việc
tìm kiếm, kết bạn, tìm người yêu, lập gia đình, tham gia một cộng đồng nào
đó, đi làm việc, đi chơi picnic, tham gia các câu lạc bộ, làm việc nhóm. Mặc
dù, Maslow xếp nhu cầu này sau 2 nhu cầu phía trên, nhưng ông nhấn mạnh
rằng nếu nhu cầu này không được thoả mãn, đáp ứng, nó có thể gây ra các
bệnh trầm trọng về tinh thần, thần kinh.
+ Nhu cầu tầng thứ tư còn được gọi là nhu cầu được quý trọng (self
esteem needs) vì nó thể hiện 2 cấp độ: nhu cầu được người khác quý mến, nể
trọng thông qua các thành quả của bản thân, và nhu cầu cảm nhận, quý trọng
chính bản thân, danh tiếng của mình, có lòng tự trọng, sự tự tin vào khả năng
của bản thân.
+ Nhu cầu ở tầng thứ năm, nhu cầu “thể hiện mình”, chính là nhu cầu
được sử dụng hết khả năng, tiềm năng của mình để tự khẳng định mình, để
làm việc, đạt các thành quả trong xã hội.
Hai thành tố nhu cầu và tình cảm thường gắn với nhau như hình với
bóng. Nhu cầu là trạng thái thiếu hụt một cái gì đó, là trạng thái mất cân bằng
về mặt tâm lý trong cơ thể. Chính trạng thái này đòi hỏi con người phải hành
động để lập lại cân bằng. Khi nhu cầu được thỏa mãn sẽ xuất hiện tình cảm
63
tích cực, ngược lại khi nhu cầu không được thỏa mãn, trạng thái mất cân bằng
không được khắc phục sẽ làm cho con người xuất hiện tình cảm tiêu cực.
Tình cảm có tính bền vững, ổn định và chân thực, nó phản ánh chính xác nội
tâm thực của con người. Tình cảm được thể hiện thông qua các xúc cảm cụ
thể và tình cảm càng sâu sắc bao nhiêu thì xúc cảm sẽ càng thể hiện mãnh liệt
bấy nhiêu.
Sự vận dụng lý thuyết bậc thang nhu cầu của Maslow trong luận án
Đề tài nghiên cứu sử dụng lý thuyết này để phân tích và lý giải trong
mối tương quan giữa nhu cầu và quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ.
Cũng có khi quan niệm thúc đẩy nhu cầu và có khi quan niệm hạn chế nhu
cầu. Đặt trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện
nay, quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thể hiện trong mối liên hệ
chặt chẽ với việc đáp ứng các nhu cầu như thế nào.
Cụ thể, lý thuyết nhu cầu của Maslow được vận dụng để giải thích sự
thay đổi quan niệm của người phụ nữ Việt Nam về hạnh phúc qua các thời kỳ
lịch sử khác nhau và sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ thuộc
các nhóm xã hội khác nhau. Những thay đổi và khác biệt này phản ánh sự
thỏa mãn nhu cầu của người phụ nữ ở các cấp độ khác nhau. Gỉa thuyết ở đây
là phụ nữ trong xã hội truyền thống đề cao việc thỏa mãn các nhu cầu kinh tế
- vật chất, các mối quan hệ gia đình, họ hàng, cộng đồng; trong khi phụ nữ
trong xã hội hiện đại ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu sinh tồn, quan hệ bên
trong gia đình, hộ hàng, cộng đồng, còn thỏa mãn nhu cầu trong các mối quan
hệ xã hội, và nhu cầu được thể hiện mình… Tương tự như vậy, hạnh phúc
theo quan niệm của phụ nữ thuộc các nhóm nghèo, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số… nghiêng về thỏa mãn nhu cầu cơ bản về kinh tế - vật chất và quan
hệ gia đình, trong khi phụ nữ ở khu vực thành phố, phụ nữ có trình độ học vấn
cao, phụ nữ nhóm kinh tế khá giả… có thể sẽ đề cao các giá trị hạnh phúc
thuộc về thỏa mãn nhu cầu quan hệ xã hội và cống hiến bản thân cho xã hội…
64
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội
Sau hơn 30 năm đổi mới (từ 1986), xã hội Việt Nam đã và đang trải
qua những biến đổi cực kỳ sâu sắc trên nhiều phương diện, mà xét về bản
chất, thì đó là sự chuyển đổi từ nền văn minh nông nghiệp cổ truyền sang nền
văn minh công nghiệp và hiện đại, đồng thời chuyển từ cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Người ta gọi
đây là một cuộc “chuyển đổi kép”.
Về kinh tế, đó là sự chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp chỉ với hai thành
phần kinh tế: nhà nước và tập thể (hợp tác xã) sang nền kinh tế thị trường với
sự xuất hiện của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế tư nhân đang ngày
càng có vị trí quan trọng của cấu trúc kinh tế quốc gia. Qua các kỳ Đại hội
Đảng, vị trí và vai trò của khu vực kinh tế tư nhân dần được khẳng định và
nhấn mạnh. Văn kiện Đại hội X của Đảng năm 2006 nhận định: Kinh tế tư
nhân là khu vực “có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền
kinh tế”; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng năm 2011 cho rằng: “Hoàn thiện cơ
chế, chính sách để phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế”. Gần đây, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII (tháng
5/2017) đã ban hành Nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với mục tiêu
phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đưa kinh tế tư nhân phát triển nhanh,
bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất
lượng và tỷ trọng trong tổng sản phẩm nội địa (GDP). Nghị quyết được đánh
giá là một bước tiến mới, tạo động lực thúc đẩy phát triển cho khu vực kinh tế
tư nhân và toàn bộ nền kinh tế.
Nhờ chính sách mở cửa, Việt Nam đã vượt qua đói nghèo lạc hậu vươn
lên nước có thu nhập trung bình, chủ động hội nhập kinh tế toàn cầu (vào
WTO), nền kinh tế không ngừng phát triển, mức sống vật chất của người dân
65
được nâng cao đáng kể. Về chính trị, Việt Nam thực hiện một chính sách
ngoại giao đổi mới, mở cửa với phương châm: đa dạng hóa, đa phương hóa,
làm bạn với tất cả các nước và các dân tộc trên thế giới không phân biệt chế
độ chính trị và trình độ phát triển. Về văn hóa, trong thời kỳ mới, Việt Nam
chủ trương xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là
nền văn hóa luôn biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, đồng thời cởi mở tiếp nhận các giá trị nhân văn mới của nhân
loại làm giàu cho bản sắc văn hóa dân tộc.
Cuộc chuyển đổi kép này vẫn đang còn tiếp diễn, thậm chí đang ở buổi
ban đầu, khi các giá trị và khuôn mẫu văn hóa của xã hội công nghiệp chưa
hình thành một cách đầy đủ, mà các giá trị và khuôn mẫu của xã hội nông
nghiệp vẫn chưa mất đi những ảnh hưởng của nó . Tình trạng quá độ giữa hai
thời đại chắc chắn sẽ làm thay đổi quan niệm về sự lựa chọn giá trị. Con
người Việt Nam hiện nay đang sống đồng thời với cả 3 nền văn minh: nông
nghiệp, công nghiệp và hậu công nghiệp và tương ứng với nó là 3 nền văn hóa
với sự đan xen và trầm tích của 3 hệ thống giá trị khác nhau. Nền văn minh
nông nghiệp đề cao các giá trị trong các mối quan hệ gia đình, cộng đồng,
trong khi nền văn minh công nghiệp nhấn mạnh các giá trị vật chất và sự giàu
có của cá nhân. Còn nền văn minh hậu công nghiệp coi trọng chất lượng cuộc
sống, cống hiến, sáng tạo, bảo vệ môi trường, tự do cá nhân, dân chủ xã hội.
Sự đan xen của các hệ giá trị này chắc chắn sẽ tạo nên bức tranh đa màu sắc
trong quan niệm và lựa chọn hạnh phúc của con người Việt Nam trong bối
cảnh hiện nay. Nói cách khác, đó là quan niệm và sự lựa chọn hạnh phúc của
con người Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường
và hội nhập kinh tế, văn hóa quốc tế.
Ngoài những biến đổi kinh tế - xã hội chung, trong thời kỳ đổi mới, cấu
trúc xã hội Việt Nam cũng có nhiều thay đổi. Như chúng ta đã biết, xã hội là
một tập hợp người có nhiều điểm chung như cùng sống với nhau trong một
66
lãnh thổ có chủ quyền, có chung lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển
kinh tế, gắn bó với nhau bằng pháp luật, ngôn ngữ ..v..v.. Do có chung quan
niệm về giá trị, khuôn mẫu ứng xử, vai trò xã hội, tức là có chung một nền
văn hóa. Tuy nhiên, ngoài những điểm chung, tập hợp người trong một quốc
gia còn có vô số những đặc điểm khác nhau như giới tính, độ tuổi, học vấn,
mức sống, nghề nghiệp, tộc người, tôn giáo… tạo thành những nhóm hay
cộng đồng xã hội khác nhau trong lòng một xã hội rộng lớn và người ta gọi đó
là các cấu trúc xã hội. Mỗi nhóm, cộng đồng xã hội như thế là một yếu tố của
cấu trúc xã hội tổng thể, nhưng cũng có những sắc thái riêng, có vị trí vai trò
khác nhau trong hệ thống cấu trúc xã hội, do đó hình thành các tiểu văn hóa
nhóm với những quan điểm độc đáo về giá trị và sự lựa chọn giá trị.
Hạnh phúc với tư cách là giá trị cao nhất của con người đương nhiên sẽ
được các nhóm xã hội tiếp nhận vừa theo những chuẩn mực văn hóa chung,
vừa mang dấu ấn của các tiểu văn hóa (văn hóa nhóm). Câu hỏi đặt ra là quan
niệm hạnh phúc và mức độ hạnh phúc giữa các nhóm xã hội ở Việt Nam hiện
nay là tương đồng nhiều hơn hay khác biệt nhiều hơn? Vì sao? Số liệu điều tra
của đề tài sẽ giúp chúng ta đưa ra câu trả lời cuối cùng cho câu hỏi này. Tuy
nhiên, giả thuyết nghiên cứu của chúng tôi ở đây là sự tương đồng sẽ chiếm ưu
thế so với sự khác biệt. Giả thuyết này dựa trên cả thực tiễn và lý thuyết.
Về thực tiễn, trong thời kỳ Đổi mới, xã hội Việt Nam đang có sự
chuyển biến mạnh mẽ cấu trúc xã hội do tác động của quá trình CNH, HĐH,
hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện và cùng với đó là
sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư. Theo tác
giả Đỗ Thiên Kính, ở Việt Nam hiện nay khi phân chia các nhóm xã hội dựa
vào nghề nghiệp, chúng ta có một cấu trúc thứ bậc bao gồm 9 tầng lớp xã hội
cơ bản. Đó là (1) các nhà lãnh đạo các cấp và các ngành; (2) nhóm doanh
nhân; (3) các nhà chuyên môn bậc cao; (4) những người nhân viên; (5) những
người công nhân (thợ thuyền); (6) tầng lớp buôn bán – dịch vụ; (7) tầng lớp
67
tiểu thủ công nghiệp; (8) những người lao động giản đơn; (9) tầng lớp nông
dân [50, tr.120].
Tuy nhiên, theo nhận xét của Lê Ngọc Văn, sự phân tầng (một biểu
hiện của cấu trúc xã hội) mà tác giả Đỗ Thiên Kính nêu lên là sự phân tầng
chưa triệt để, chưa đạt đến sự lắng kết cần thiết, do đó chưa tạo thành một
chỉnh thể thống nhất (như chỉnh thể “hai giai một tầng” thời bao cấp, hay
chỉnh thể “sĩ, nông, công, thương” thời phong kiến). Nói một cách hình ảnh
đó mới chỉ là những lớp “bùn non” phủ lên một hệ thống giá đỡ cũng chưa có
gì chắc chắn. Hệ thống giá đỡ đó chính là những đặc trưng về văn hóa, mà
biểu hiện tập trung là hệ giá trị của từng nhóm, từng giai tầng xã hội đã hình
thành nên tiểu văn hóa của riêng mình, có thể tái tạo qua các thế hệ khác
nhau, thì khi ấy sự phân tầng xã hội mới đạt đến sự ổn định cần thiết [66,
tr.29-30]. Về vấn đề này, nhà xã hội học người Pháp Pierre Bourdieu (1984)
cũng cho rằng, các giai cấp không chỉ khác nhau về kinh tế và nghề nghiệp, mà
còn khác nhau về văn hóa. Theo ông, mỗi giai cấp có một nền văn hóa riêng (nhu
cầu, sở thích, phong cách ngôn ngữ, cách ứng xử, các nghi lễ, v.v…). Sự khác biệt
văn hóa vừa là chỉ báo để nhận biết giai cấp, vừa là điều kiện để các cá nhân gia
nhập vào các giai cấp, giai tầng xã hội. Bourdieu cũng đặc biệt nhấn mạnh về tính
liên tục và tính bền vững của văn hóa giai cấp [100].
Ở Việt Nam, các giai tầng, giai cấp mới được hình thành trong thời kỳ
Đổi mới rõ ràng là chưa có sự lắng kết cần thiết về văn hóa hay nói như
Bourdieu là chưa đạt đến tính liên tục và tính bền vững của văn hóa giai cấp.
Thực tế này cho chúng ta một giả định rằng sự khác biệt văn hóa giữa các giai
tầng ở nước ta chưa thật sự rõ nét, trong khi đó sự tương đồng văn hóa có thể
chiếm ưu thế hơn, mặc dù họ thuộc các nhóm xã hội khác nhau theo số liệu
thống kê quốc gia.
Về lý thuyết, văn hóa có hai lĩnh vực: văn hóa vật chất (kinh tế, kỹ
thuật, giao thông, phương tiện sinh hoạt…) và văn hóa phi vật chất/văn hóa
68
tinh thần (giá trị, chuẩn mực, khuôn mẫu ứng xử, luật pháp, phong tục tập
quán, đạo đức…). Hai lĩnh vực này có quan hệ và tác động qua lại với nhau.
Văn hóa vật chất thay đổi làm tiền đề cho thay đổi văn hóa tinh thần và ngược
lại văn hóa tình thần thay đổi thúc đẩy thay đổi văn hóa vật chất. Văn hóa vật
chất có tốc độ và cường độ biến đổi nhanh hơn và mạnh hơn văn hóa phi vật
chất. Do đó, trong sự biến đổi xã hội, đặc biệt là các xã hội đang phát triển
thường xuất hiện sự không tương ứng giữa biến đổi văn hóa vật chất và văn
hóa phi vật chất. Nhà xã học Mỹ W.F.Ogburn gọi là “chậm trễ văn hóa”
(cultural lag) .
Ở Việt Nam, “sự chậm trễ văn hóa” thể hiện ở chỗ, mặc dù Việt Nam
đã bước vào thời kỳ CNH, HĐH, HNQT nhưng nhiều giá trị cổ truyền được
hình thành trong lịch sử vẫn được lưu giữ và tiếp tục là sự lựa chọn của đại đa
số dân cư. Các giá trị và khuôn mẫu ứng xử trong gia đình, xã hội vẫn tiếp nối
các khuôn mẫu truyền thống. Điều này chắc chắn ảnh hưởng đến quan niệm
hạnh phúc của người phụ nữ. Vì thế mặc dù đời sống kinh tế vật chất, phương
tiện sinh hoạt đã có những thay đổi đáng kể và có sự khác biệt về mức sống
giữa nhưng quan niệm về hạnh phúc của các nhóm phụ nữ trong xã hội vẫn có
sự tương đồng nhiều hơn sự khác biệt.
Trên đây là bối cảnh kinh tế - văn hóa - xã hội làm nền tảng cho việc
nghiên cứu quan niệm của người phụ nữ Việt Nam hiện nay về hạnh phúc.
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn bản pháp luật định hướng
giá trị hạnh phúc trong sự phát triển của phụ nữ
Tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ không những được nhìn nhận như
một tư tưởng chính trị mà còn là tư tưởng về xã hội và quản lý xã hội. Hồ Chí
Minh đặc biệt quan tâm tới sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng
nam nữ, tạo cho phụ nữ cuộc sống ấm no tự do và hạnh phúc. Người thức tỉnh
69
phụ nữ phải tự vươn lên, tự giải phóng mình, chủ động đấu tranh cho sự phát
triển và tiến bộ của chính mình và của cả giới nữ.
Những quan niệm và tư tưởng Hồ Chí Minh về phụ nữ, tựu trung lại,
xoay quanh hai chủ đề lớn: giải phóng phụ nữ và thực hiện phát triển vì sự
tiến bộ của phụ nữ. Người rất chú ý tới các mối quan hệ xã hội mà thông qua
đó thể hiện rõ vai trò của phụ nữ. Có một số khía cạnh sau được đề cập tới:
- Phụ nữ với tư cách người lao động, người dân trong cộng đồng xã hội
và người công dân trong thể chế nhà nước. Do đó, phụ nữ, trong tư cách con
người, để có được hạnh phúc phải được hưởng các quyền tự nhiên mà ai cũng
có: quyền được sống, được lao động, quyền tự do, quyền bình đẳng thuộc
nhân quyền và dân quyền.
- Phụ nữ trong tư cách con người là một chủ thể, một cá nhân cần phải
được tôn trọng tính cách, đạo đức, nhân phẩm.
- Phụ nữ mang thiên chức đặc thù gắn với đặc điểm tâm sinh lý của giới
nữ. Đó là thiên chức làm vợ, làm mẹ, thực hiện sứ mệnh tái sản xuất xã hội.
Đây không chỉ là sự tồn tại và phát triển sinh học mà hơn thế, phụ nữ tham
gia trực tiếp vào sáng tạo văn hoá của mọi nền văn hoá của nhân loại.
- Phụ nữ còn hiện diện với tư cách là một lực lượng lao động, sản xuất
và làm kinh tế, tạo ra sự phồn vinh của cả cộng đồng xã hội. Do đó, nguồn
nhân lực nữ là một bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu nguồn nhân lực xã
hội. Không một lĩnh vực nào tạo nên đời sống mà lại không có mặt phụ nữ.
- Với Việt Nam, phụ nữ còn nằm trong kết cấu đa dân tộc, do đó, Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm tới chất lượng sống và hạnh phúc của phụ nữ các
dân tộc thiểu số [59].
Khẳng định vai trò của phụ nữ trong xã hội, Hồ Chí Minh không chỉ
thấy ở đó giá trị nhân đạo cao quý do cách mạng đem lại cho phụ nữ mà còn
nhấn mạnh tới tính pháp lý của việc thừa nhận, công nhận và thực hiện vai trò
70
cũng như quyền đó của phụ nữ. Là người trực tiếp chỉ đạo soạn thảo Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới, năm 1946 và Hiến pháp sửa đổi, năm
1959, Người nhấn mạnh: “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật. Đàn bà có
quyền bình đẳng với đàn ông về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
gia đình” [60, tr.586-587].
Tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới đảm bảo hạnh phúc cho phụ nữ là
nguồn sức mạnh tinh thần thúc đẩy mỗi người và cả cộng động dân tộc trong
đó có phụ nữ vươn lên trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Hiện nay, phụ nữ
Việt Nam đang nhập cuộc mạnh mẽ vào công cuộc công nghiệp hóa, điện đại
hóa và hội nhập quốc tế, cùng đồng hành với dân tộc, hướng tới tầm nhìn
2020 để xây dựng xã hội Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc. Phụ nữ Việt
Nam đang tham gia vào cuộc đấu tranh đó với sức cổ vũ và tỏa sáng cao quý
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Văn bản pháp luật
Văn bản pháp luật quốc tế
Trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng và toàn diện vào
nền kinh tế thế giới, việc thực hiện các cam kết chính trị, các mục tiêu phát
triển chung của quốc gia và toàn cầu, trong đó có mục tiêu bình đẳng giới là
một giải pháp nền tảng nhằm hướng tới mục tiêu đảm bảo hạnh phúc cho
người dân nói chung và người phụ nữ nói riêng. Chỉ khi phụ nữ được bình
đẳng, phụ nữ mới có thể thụ hưởng hạnh phúc.
Các văn bản pháp lý quốc tế giai đoạn 1945-1962: Trong giai đoạn này,
một số vấn đề trước đó vốn được coi là riêng tư (nội bộ gia đình) bắt đầu vượt
qua những rào cản văn hoá, tập tục và truyền thống cũ, và được trao đổi và
tranh luận cởi mở hơn ở cấp độ toàn cầu, nhằm góp phần đảm bảo phụ nữ
được hạnh phúc trên cơ sở hưởng đầy đủ các quyền con người cơ bản v.v.
71
Giai đoạn 1963 đến 1975: LHQ tăng cường tập trung các hoạt động
nâng cao vai trò phụ nữ với tư cách là người tham gia, hưởng lợi và chủ thể
phát triển.
Giai đoạn 1976-1985: thúc đẩy vị thế phụ nữ và đạt mục tiêu BĐG tại
Hội nghị quốc tế, thúc đẩy hợp pháp hoá phong trào quốc tế phụ nữ.
Giai đoạn 1985-1995: “Bình đẳng, phát triển và hoà bình” cho phụ nữ
và mọi thành viên trong xã hội.
Tóm lại, ở cấp độ phát triển toàn cầu, trong khoảng 3 thập kỉ gần đây,
đã có những nỗ lực khắc phục rào cản về nhận thức, thay đổi cách nhìn và
theo hướng đồng thuận về cam kết chính trị và định hướng chương trình hành
động chung nhằm mục tiêu BĐG và quyền thụ hưởng hạnh phúc của phụ nữ,
coi đó là tiền đề cơ bản đảm bảo ổn định chính trị, hoà bình, an ninh và phát
triển bền vững ở các cộng đồng, quốc gia.
Văn bản pháp luật Việt Nam
Quốc triều hình luật (Luật Hồng Đức, thời Lê Sơ)
Luật Hồng Đức tiếp thu nhiều thành tựu lập pháp của Trung Hoa (chịu
ảnh hưởng của luật pháp nhà Đường và nhà Minh) nhưng nó có những điểm
không giống với các bộ luật của nhà nước phong kiến Trung Quốc cả về nội
dung lẫn bố cục. Điểm tiến bộ đặc biệt trong luật Hồng Đức là vai trò của
người phụ nữ đó được đề cao hơn rất nhiều so với các bộ luật đương thời
trong khu vực. Điểm này thể hiện rất rõ ở hai chương "Hộ hôn" và "Điền
sản". Các tòa án thời Pháp thuộc hay Tòa thượng thẩm Sài Gòn thời Việt Nam
Cộng hòa thường dựa trên các quy định này để phân xử các vụ kiện tụng liên
quan tới tài sản vợ-chồng.
Những điểm tiến bộ cụ thể:
- Phụ nữ được trả công ngang bằng với nam, "không có sự phân biệt về
tiền công nhật cho lao động đàn ông với đàn bà" (Điều 23).
72
- Con gái có thể huỷ hôn nếu chồng chưa cưới có tật: "Con gái thấy
chồng chưa cưới có ác tật có thể kêu quan mà trả đồ sính lễ" (Điều 322).
- Người vợ được phép ly hôn trong trường hợp chồng không chăm
nom, săn sóc vợ trong 5 tháng (1 năm - nếu vợ đó có con). Nếu vợ đem đơn
đến công đường thì bộ luật cho phép cưỡng bức ly hôn. Nghĩa là, người
chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì người vợ cũng không buộc phải
làm tròn bổn phận của mình (Điều 310).
- Khi thuận tình ly hôn, phải có chứng nhận của cả hai vợ chồng: Giấy
ly hôn được làm dưới hình thức hợp đồng, người vợ và người chồng mỗi bên
giữ một bản làm bằng (Điều 167).
- Khi ly hôn, người vợ được quyền giữ tài sản riêng và hưởng 1/2 tài
sản chung. Tài sản của vợ chồng được hình thành từ 3 nguồn: Tài sản của
chồng thừa kế từ gia đình nhà chồng; tài sản của người vợ thừa kế từ gia đình
nhà vợ và tài sản do hai vợ chồng tạo dựng trong quá trình hôn nhân (tài sản
chung). Khi gia đình tồn tại, tất cả tài sản được coi là của chung. Khi ly hôn,
tài sản của ai, người đó được nhận riêng và chia đôi tài sản chung của hai
người (Điều 374, 375 và 376).
- Không phân biệt con trai và con gái trong quyền thừa kế tài sản: Nếu
cha mẹ mất cả thì lấy 1/20 số ruộng đất làm phần hương hỏa, giao cho người
con trưởng giữ, còn lại chia đều cho các con (điều 388); "người giữ hương
hỏa có con trai trưởng thì dựng con trai trưởng, không có con trai trưởng thì
dựng con gái trưởng" (điều 391). "Ruộng hương hỏa giao cho con trai, cháu
trai, nếu không có thì giao cho cháu gái ngành trưởng".
- Hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân
nam: không áp dụng hình phạt "trượng" cho đàn bà (Điều1).
73
Có thể thấy, nhà nước thời Lê Sơ đã bắt đầu nhận thấy vai trò lớn lao
của người phụ nữ trong sản xuất và trong cuộc sống. Đó là điểm tiến bộ trong
các triều đại phong kiến Việt Nam.
Hệ thống pháp luật hiện thời
Việt Nam là một trong các quốc gia có môi trường pháp lý tích cực về
bình đẳng giới. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể
nhằm phù hợp với tinh thần các công ước quốc tế và xu thế hội nhập, tích cực
cụ thể hoá cam kết thực hiện mục tiêu chung về bình đẳng giới và các mục
tiêu phát triển toàn cầu. Nguyên tắc bình đẳng giới đã được chú trọng ngay từ
khâu lựa chọn nhân sự để thành lập Ban soạn thảo, thường có 30-45% thành
viên nữ (CHXHCNVN 1999: 22).
Bình đẳng trong lĩnh vực chính trị
Quyền bình đẳng tham gia chính trị của phụ nữ được ghi nhận trong:
- Hiến pháp 1946, Hiến pháp sửa đổi 1992 “Công dân Việt Nam có
quyền bình đẳng ngang nhau về mọi mặt kinh tế chính trị văn hóa, xá hội và
gia đình” (Điều 63, Hiến pháp năm 1992).
- Luật bình đẳng giới năm 2006 (điều 11).
- Nghị quyết số 11- NQ/TƯ của Bộ chính trị về “Công tác phụ nữ thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” .
- Chiến lược Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm
2010, Và chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 của Thủ
tướng chính phủ ngày 24/12/2010.
Bình đẳng trong quyết định và chia sẻ công việc gia đình
- Điều 17 Luật Hôn nhân và Gia đình, 2017 quy định: “Vợ, chồng bình
đẳng với nhau, có nghĩa vụ và quyền ngang nhau về mọi mặt trong gia đình”.
74
- Khoản 3, Khoản 5, Điều 18, Luật Bình đẳng giới, 2006 quy định: “Vợ
chồng bình đẳng với nhau trong việc bàn bạc, quyết định lựa chọn và sử dụng
các biện pháp kế hoạch hoá gia đình phù hợp; sử dụng thời gian nghỉ khi con
ốm theo quy định của pháp luật; các thành viên nam, nữ trong gia đình cú
trách nhiệm chia sẻ công việc gia đình”.
- Khoản 2, Điều 33, Luật Bình đẳng giới, 2006 quy định: “Giáo dục các
thành viên (trong gia đình) có trách nhiệm chia sẻ và phân công hợp lý công
việc gia đình”
- Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn
2030 tiếp tục khẳng định quan điểm: Gia đình là tế bào của xã hội, là môi
trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và
phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn
nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bình đẳng vợ chồng về sở hữu tài sản trong gia đình
- Khoản 2, Điều 18, Luật Bình đẳng giới, 2006 quy định: “Vợ, chồng
có quyền, nghĩa vụ ngang nhau trong sở hữu tài sản chung, bình đẳng trong sử
dụng nguồn thu nhập chung của vợ chồng và quyết định các nguồn lực trong
gia đình”.
- Khoản 3, Điều 48, mục 5 Luật Đất đai (sửa đổi), 2003 ghi: “Trường
hợp quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ và chồng thỡ giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất phải ghi cả họ, tên vợ và họ, tên chồng”.
- Điều 43, Nghị định181/2004/NĐ CP ngày 29/10/2004 quy định về
việc ghi tên người sử dụng đất trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
“Trường hợp gia đình sử dụng đất nông nghiệp được nhà nước giao đất không
thu tiền sử dụng đất là tài sản chung của cả vợ và chồng thì ghi cả họ, tên vợ
và họ, tên chồng; trường hợp hộ gia đình đề nghị chỉ ghi họ, tên vợ hoặc họ,
75
tên chồng thì phải có văn bản thoả thuận của vợ và chồng có chứng thực của
Ủy ban Nhân dân xã, phường, thị trấn”.
Bình đẳng trong lao động, việc làm
- Hiến pháp 1992 quy định "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân".
- 14 Công ước của Tổ chức Lao động thế giới (ILO), trong đó có Công
ước 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ cho một
công việc có giá trị ngang nhau, Công ước 45 về sử dụng phụ nữ vào những
công việc dưới mặt đất, trong hầm mỏ,...
Các nội dung chính của pháp luật đối với lao động nữ trong lĩnh vực
lao động bao gồm: quyền được đảm bảo về việc làm, về tiền lương, đảm bảo
về xã hội (bảo hiểm xã hội), bảo vệ chức năng sinh học và được đào tạo nghề
dự phòng. Các nội dung pháp luật nêu trên được xây dựng xuất phát từ quan
điểm là trong nền kinh tế thị trường, lao động nữ thuộc một trong những
nhóm dễ bị tổn thương cần hỗ trợ của chính phủ, của xã hội và của cộng
đồng. Hệ thống luật pháp, chính sách việc làm đối với lao động nữ quy định
một số biện pháp tích cực, ưu tiên nhằm bù đắp thiệt thòi của họ và giúp cho
lao động nữ khắc phục các rào cản về giới, khuyến khích lao động nữ vừa
hoàn thành tốt các công tác xã hội và vai trò làm mẹ, làm vợ trong gia đình.
Bình đẳng trong giáo dục - đào tạo
- 3 Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục.
- Chiến lược tăng trưởng xoá đói giảm nghèo và nhiều cam kết khác
của Chính phủ. Trong đó chú trọng một số mục tiêu chính như chất lượng và
sự phù hợp giáo dục cho mọi người; phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ
sở vào năm 2010; tạo cơ hội học tập suốt đời, huy động tham gia của cộng
đồng vì sự nghiệp giáo dục và đào tạo; quản lý sử dụng hiệu quả nguồn lực
giáo dục. Các chính sách chung cho giáo dục đào tạo và các điều kiện hỗ trợ
cho nhóm học sinh đặc biệt, nghèo, dân tộc, vùng khó khăn, cung cấp tín
76
dụng cho sinh viên, mượn sách, học bổng nhằm tăng cường cơ hội tiếp cận
giáo dục ở các bậc học cao hợn,... và các hoạt động nhằm thúc đẩy bình đẳng
giới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo (ví dụ, quĩ, sáng kiến hỗ trợ,...)
Phòng, chống bạo lực trong gia đình
- Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, 2007 với 6 chương và 46 điều đã
giải thích về hành vi bạo lực gia đình, những nguyên tắc phòng, chống bạo
lực gia đình, xử phạt hành vi bạo lực gia đình. Các hành vi bạo lực gia đình bị
cấm bao gồm: hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại
đến sức khoẻ, tính mạng; lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự,
nhân phẩm; cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu
quả nghiêm trọng; ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia
đình giữa ông, bà và cháu; giữa cha mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh,
chị, em với nhau; cưỡng ép quan hệ tình dục; cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết
hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; chiếm đoạt, huỷ hoại,
đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản riêng của thành viên
khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình; cưỡng ép
thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả năng của
họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo ra tình trạng phụ
thuộc về tài chính (Khoản 1, Điều 2). Người có hành vi vi phạm pháp luật về
phòng, chống bạo lực gia đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý
vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật (Khoản 1, Điều 42).
Chương 2 của luận án đã tập trung luận giải cơ sở lý thuyết và cơ sở
thực tiễn liên quan đến quan niệm hạnh phúc. Cơ sở lý thuyết bao gồm khái
niệm, thao tác hóa khái niệm, lý thuyết áp dụng trong luận án. Cơ sở thực
tiễn gồm (1) Bối cảnh kinh tế-văn hóa-xã hội; (2) Tư tưởng Hồ Chí Minh
và các văn bản pháp luật định hướng giá trị hạnh phúc trong sự phát triển
của phụ nữ.
77
Lý thuyết mang ý nghĩa dẫn luận chỉ đường khai mở cho nghiên cứu
khoa học. Dó đó, trên cơ sở xác định khái niệm, thao tác hóa khái niệm, luận
án sẽ xác định được trọng tâm vấn đề nghiên cứu. Luận án cũng sử dụng ba lý
thuyết trong nghiên cứu: Lý thuyết hệ thống, lý thuyết nhu cầu và lý thuyết
điểm hạnh phúc. Theo quan điểm của tác giả, nghiên cứu quan niệm về hạnh
phúc của người phụ nữ Việt Nam là một chủ đề khó và phức tạp. Do đó, khó
có một lý thuyết nào có thể giúp giải quyết các vấn đề một cách triệt để và
thấu đáo. Việc vận dụng đồng thời ba cách tiếp cận như trên có ngụ ý rằng
các lý thuyết sẽ bổ sung cho nhau, qua đó giúp cho việc nhìn nhận, phân tích
và đánh giá vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ và sâu sắc hơn.
Thông qua việc điểm lại, phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn
bản pháp luật quốc tế cũng như Việt Nam cho tấy, việc định hướng giá trị
hạnh phúc trong các chính sách phát triển cho phụ nữ không phải là vấn đề có
tính chất kĩ thuật mà là quá trình chính trị. Hạnh phúc không thể xem xét một
cách tách rời với những quan tâm chính trị khác và cần đặt hạnh phúc ở trọng
tâm của quản trị chính trị, gắn bó mật thiết với phát triển và hoà bình. Điều
này đòi hỏi các nhà lãnh đạo, hoạch định chính sách khắc phục các khuôn
mẫu, tư duy thiên lệch về phụ nữ và nam giới, xây dựng quan điểm triết lí,
cách suy nghĩ mới, theo đó mọi thành viên nữ và nam cần được coi trọng với
tư cách là đối tác, chủ thể chính của mục tiêu hạnh phúc. Trên cơ sở thông
điệp đó, cộng đồng quốc tế nhất trí xây dựng một khung khổ quan điểm rộng
mở, với những điểm nhấn tích cực hơn về bình đẳng giới cũng như tạo cơ sở
cho việc định hướng giá trị hạnh phúc trong các chính sách phát triển và gợi
mở những hướng nghiên cứu tiếp theo.
78
Tiểu kết chương 2
Chương 2 trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của nghiên cứu. Luận án
tập trung làm rõ các khái niệm công cụ và các đặc trưng chủ yếu của hạnh
phúc để tạo cơ sở cho việc thao tác hóa khái niệm.
Luận án thao tác hóa khái niệm “Quan niệm của người phụ nữ về
hạnh phúc” dựa trên hai cơ cở: 1) Dựa trên đặc trưng bản chất của hạnh
phúc và 2) dựa trên hạnh phúc chủ quan. Do đó, luận án nghiên cứu quan
niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trên 03 lĩnh vực: Quan niệm hạnh phúc
trong lĩnh vực kinh tế-môi trường tự nhiên; Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực gia đình-xã hội và Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân. Ba lĩnh
vực này được cụ thể thành rất nhiều tiêu chí.
Luận án ứng dụng hai lý thuyết trong nghiên cứu quan niệm của người
phụ nữ về hạnh phúc: lý thuyết hệ thống, lý thuyết nhu cầu của Maslow.
Cho dù hạnh phúc là cảm nhận chủ quan của con người, nhưng lại dựa
trên những yếu tố khách quan - đó là mức độ thỏa mãn của con người trong
các mối quan hệ với môi trường sống xung quanh. Lý thuyết hệ thống là cơ sở
giúp trả lời câu hỏi các yếu tố nào sẽ tạo nên hạnh phúc cho người phụ nữ, nhìn
một cách tổng thể. Lý thuyết nhu cầu của Maslow được vận dụng để giải thích
sự thay đổi quan niệm của người phụ nữ Việt Nam về hạnh phúc qua các thời
kỳ lịch sử khác nhau và sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ thuộc
các nhóm xã hội khác nhau. Luận án cũng làm rõ bối cảnh văn hóa, xã hội; tư
tưởng Hồ Chí Minh và điểm lại các văn bản pháp luật định hướng giá trị hạnh
phúc làm cơ sở nghiên cứu cho luận án.
79
Chương 3
QUAN NIỆM CHUNG CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC
3.1. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
Các yếu tố thuộc lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên được quan
niệm là tất cả những gì do con người sáng tạo, tiếp thu, lựa chọn trong mối
tương quan với môi trường tự nhiên, nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh tồn hàng
ngày của họ. Biểu hiện tập trung của nhóm này là các yếu tố đáp ứng nhu cầu
ăn, mặc, ở, đi lại. Tuy nhiên, trong việc thoả mãn các nhu cầu bất biến này, ở
mỗi thời kỳ lịch sử, biểu hiện của chúng lại có sự biến đổi rất đáng kể [66].
Trong nghiên cứu này, người phụ nữ được chọn 5/11 yếu tố mà theo quan
niệm của họ, chỉ có được hạnh phúc khi có các yếu tố này.
Số liệu bảng 3.1 cho thấy người phụ nữ quan niệm: hạnh phúc là khi có
thu nhập ổn định, có nhà ở riêng, có công ăn việc làm đầy đủ, an toàn vệ sinh
thực phẩm tốt và môi trường tự nhiên trong lành.
Bảng 3.1: Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự
nhiên xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
% N
1. Có thu nhập ổn định 76,3 1100
2. Có nhà ở riêng 70,6 1017
3. Có công ăn việc làm đầy đủ 69,0 995
4. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt 47,5 684
5. Môi trường tự nhiên trong lành 47,3 681
6. Được ăn ngon 43,4 626
7. Được làm công việc mình thích 36,2 522
8. Có đủ tiện nghi sinh hoạt 34,2 493
9. Có tài sản và tiền để dành 32,4 467
10. Được mặc đẹp 29,9 431
11. Có hệ thống dịch vụ tốt 13,8 199
N= 1443
Nguồn: đã trích dẫn
80
Thu nhập là một trong những yếu tố chủ điểm khi nghiên cứu về hạnh
phúc chủ quan. Có hai luồng tranh luận về sự cần thiết đo lường mối quan hệ
giữa thu nhập và hạnh phúc. Quan điểm thứ nhất, ví dụ quan điểm của Doh
Chull Shin [49], đo lường hạnh phúc thoát ly khỏi yếu tố thu nhập bởi kinh
nghiệm nghiên cứu hạnh phúc ở những quốc gia Nho giáo (trong đó có Việt
Nam) cho thấy, còn khá nhiều người vẫn còn chịu chi phối bởi văn hóa Nho
giáo truyền thống nên lo ngại rằng nếu phát biểu những quan niệm gắn liền
với vật chất có thể vẫn bị coi là người dung tục, tầm thường. Quan điểm thứ
hai cởi mở, cân bằng hơn khi coi thu nhập là một trong những yếu tố có ảnh
hưởng tới hạnh phúc. Ví dụ: Frijters, Haisken-DeNew & Shields [9] đã ghi
nhận rằng sự tăng lên của thu nhập dẫn tới hạnh phúc chủ quan cao hơn. Hay
nghiên cứu của Stevenson, B. and J.Wolfers [24] cho thấy thu nhập rất quan
trọng bởi nó định hướng mức sống và khả năng tiêu dùng - những yếu tố tiền
đề của hạnh phúc.
Nghiên cứu này đã mạnh dạn đưa yếu tố thu nhập vào tìm hiểu quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ. Kết quả chỉ ra rằng “có thu nhập ổn định”
là ưu tiên lựa chọn hàng đầu, sau đó là “có công ăn việc làm đầy đủ” -
phương tiện để tạo thu nhập ổn định, bền vững. Như vậy, yếu tố sinh tồn đáp
ứng nhu cầu sống cơ bản là rất quan trọng trong đảm bảo hạnh phúc của
người phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả phỏng vấn sâu cũng góp phần
làm rõ điều này:
“Trước tiên cứ phải có thu nhập. Tiền vẫn quan trọng. Khi có tiền mình
hạnh phúc hơn bởi vì mình tự tin hơn, có thể làm những việc mình thích, có
thể giúp đỡ mọi người mà không cần phải lo lắng […] Mình chủ động được
thu nhập thì mình cũng chủ động được trong nắm giữ hạnh phúc” (PVS nữ,
mức sống trung bình, kết hôn dưới 10 năm, xã Ninh Giang, Ninh Bình)
Nguồn: Dữ liệu định tính của luận án
81
“Bây giờ mọi người nghĩ về tiền nhiều hơn nên tiền cũng quan trọng
hơn trong đem lại hạnh phúc. Có tiền là có hạnh phúc. Hết tiền là hết hạnh
phúc” (PVS nữ, mức sống trung bình, kết hôn hơn 20 năm, Tp. Buôn Ma
Thuột, Đắc Lắc)
Với hai yếu tố được lựa chọn là “có nhà ở riêng” và “môi trường tự
nhiên trong lành” đã cho thấy kết quả tương đồng với một số nghiên cứu
trước đây về các yếu tố tác động đến hạnh phúc chủ quan. Ô nhiễm tiếng ồn
và ô nhiễm không khí có tác động tiêu cực đáng kể đến sự hài lòng về cuộc
sống [7]. Có những bằng chứng chứng tỏ rằng điều kiện nhà ở có tác động
đến hạnh phúc chủ quan. Hiểu được mối quan hệ giữa chất lượng môi trường
với hạnh phúc chủ quan là rất quan trọng để kết nối các điều kiện môi trường
thực tế (bao gồm chất lượng nguồn không khí và mở rộng không gian xanh)
với những chính sách đảm bảo hạnh phúc cho phụ nữ. Hiểu được nhu cầu có
nhà ở riêng là một thành tố quan trọng của điều kiện vật chất trong đời sống
của người phụ nữ sẽ hướng nhà nước quan tâm hơn tới chính sách nhà ở.
Người phụ nữ luôn mong muốn có nơi ở an toàn, tạo cho họ cảm giác họ
thuộc về nơi đó.
3.2. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội
Những yếu tố thuộc lĩnh vực gia đình - xã hội phản ánh quan hệ giữa
con người với con người. Về mặt tâm lý học, các mối quan hệ xã hội là một
trong những động lực nội sinh (intrinsic motivation) có thể làm tăng hạnh
phúc một cách mạnh mẽ [6].
Trong lĩnh vực này, người phụ nữ cũng được yêu cầu lựa chọn 5/11 yếu
tố cho là có tác động quan trọng nhất tới hạnh phúc. Số liệu bảng 3.2 cho thấy
5 yếu tố người phụ nữ ưu tiên lựa chọn là: gia đình hoà thuận; con cháu chăm
ngoan, tấn tới; quan hệ họ hàng tốt; an ninh, an toàn xã hội bảo đảm và quan
hệ láng giềng tốt.
Nguồn: Đã trích dẫn
82
Bảng 3.2: Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội xếp theo
thứ tự ưu tiên của người trả lời
% N
1. Gia đình hoà thuận 96 1383
2. Con cháu chăm ngoan, tấn tới 77,4 1115
3. Quan hệ họ hàng tốt 60,8 876
4. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm 54,4 784
5. Quan hệ láng giềng tốt 50,6 135
8. Có bạn bè tốt 31,9 460
7. Môi trường xã hội tự do, dân chủ 30,7 443
6. Được tự chủ, tự quyết về bản thân 29,8 430
10. Chính quyền thân thiện, công tâm 24,6 355
9. Quan hệ nơi làm việc tốt 21,2 305
11. Có vị thế, địa vị xã hội 15,3 220
N= 1443
Các nghiên cứu hạnh phúc ở Châu Á cho rằng trong ý thức chung về
Nho giáo, tính tập thể được bắt nguồn như một đặc điểm quan trọng và không
giống như người phương Tây luôn coi cá nhân là trung tâm của mọi ý nghĩ,
hành động. Một cuộc sống hạnh phúc trong bối cảnh văn hóa Nho giáo phải
có đặc trưng mang tính chung, mục tiêu chung, sở thích chung và mong ước
mang tính tập thể hơn là tính cá nhân. Trong đời sống Khổng giáo, hạnh phúc
chỉ xuất hiện nếu một người có mối quan hệ tốt với mọi người và quan hệ này
còn quan trọng hơn tri thức hay tiền bạc của cá nhân đó trong việc tạo nên
hạnh phúc. Khi nghiên cứu hạnh phúc ở Hàn Quốc, Park (2009) cũng phát
hiện rằng mối quan hệ của một cá nhân rất quan trọng trong việc nâng cao
hạnh phúc. Các mối quan hệ gia đình và cuộc sống tương đối đầy đủ về vật
Nguồn: Đã trích dẫn
83
chất sẽ mang lại hạnh phúc, sự thỏa mãn và cuộc sống viên mãn cho mọi cá
nhân. Bối cảnh Châu Á mang tính chất tiêu biểu, chứng minh cho nhận định:
“Con người là một sản phẩm của bối cảnh xã hội. Bất cứ nỗ lực nào nhằm cố gắng
để hiểu được họ phải đánh giá dựa trên gia đình của họ” [15].
Kết quả nghiên cứu cho thấy: theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh
phúc của họ vẫn gắn liền với những mối quan hệ gia đình hơn là những yếu tố
mang tính cá nhân - những giá trị tự thể hiện như “có vị thế, địa vị xã hội”,
“được tự chủ, tự quyết về bản thân”. Yếu tố mang lại hạnh phúc cho người
phụ nữ không gì khác mà chính là nhu cầu tình cảm đến từ gia đình, con cháu,
họ hàng. Một phụ nữ còn chia sẻ quan điểm rằng: nếu người phụ nữ hướng
quá nhiều tới thành công bên ngoài có thể lại là nguồn cơn của bất hạnh, chứ
không phải tiền đề của hạnh phúc:
“Để người phụ nữ thực sự hạnh phúc thật không đơn giản vì
phải phụ thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt là những mối quan hệ với gia
đình mình, gia đình hai bên. Phụ nữ vẫn trọng gia đình hơn. Gia đình
vẫn là số một. Gia đình hạnh phúc thì phụ nữ sẽ hạnh phúc […] Nếu
người phụ nữ hướng quá nhiều tới thành công bên ngoài chưa chắc đã
hạnh phúc đâu, nhiều khi là bất hạnh đấy và có thể có hậu quả nghiêm
trọng” (PVS nữ, mức sống trung bình, kết hôn hơn 20 năm, thị trấn
Nông Trường, Sơn La)
Có thể nói, trong suy nghĩ của người phụ nữ, gia đình là một tổ ấm cho
hạnh phúc cá nhân, nơi các sợi dây ràng buộc về mặt tình cảm giữ vai trò
trung tâm. Hạnh phúc cá nhân chính là sự hài hoà các mối quan hệ trong gia
đình. Việc nuôi dưỡng tốt các mối quan hệ gia đình cũng là tạo điểm tựa cho
hạnh phúc cá nhân. Điều này đưa đến một nhận định rằng: thay đổi bối cảnh
gia đình (hoặc các mối quan hệ gia đình) sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đối
với các thành viên trong gia đình nói chung và đối với cảm nhận hạnh phúc
của người phụ nữ nói riêng. Cách con người quan hệ với người khác có ý
nghĩa hơn những gì họ có.
Nguồn: Đã trích dẫn
84
3.3. Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân
Khi tiến hành đo đạc, tính toán về hạnh phúc, một khía cạnh không thể
bỏ qua trong cấu trúc hạnh phúc của con người là những yếu tố thuộc đời
sống cá nhân như sức khoẻ, trình độ học vấn, năng lực làm việc… Trong đó,
có cả những yếu tố tinh tế và phức tạp như niềm tin cá nhân, đời sống tinh
thần, cảm nhận thành công trong cuộc sống…
Trong 11 yếu tố đưa ra ở nghiên cứu này, 05 yếu tố được người phụ nữ
lựa chọn có tác động quan trọng nhất tới hạnh phúc là: có sức khoẻ tốt; đời
sống tinh thần, tâm linh yên ổn; có thời gian nghỉ ngơi, giải trí; làm được việc
có ý nghĩa và có niềm tin vào con người, xã hội.
Bảng 3.3: Quan niệm hạnh phúc trong đời sống cá nhân
xếp theo thứ tự ưu tiên của người trả lời
% N
1. Có sức khỏe tốt 96,0 1383
2. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn 60,9 878
3. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí 58,1 837
4. Thành công trong cuộc sống 45,3 653
5. Có trình độ học vấn 43,8 631
6. Làm được việc có ý nghĩa 43,3 624
7. Có năng lực làm việc 43,3 624
8. Có niềm tin vào con người, xã hội 36,1 520
9. Luôn có mục tiêu phấn đấu 33,6 484
10. Thể hiện được năng lực của mình 21,8 314
11. Thích ứng nhanh với cuộc sống 17,3 250
N= 1443
Nguồn: Đã trích dẫn
85
Mặc dù sức khỏe là biến số khá phức tạp để có thể đo lường trong các
khảo sát về hạnh phúc nhưng đã có những bộ công cụ đo lường về sự hài lòng
cuộc sống đặt trong tương quan so sánh với tình trạng sức khỏe. Cả sức khỏe
thể chất và tinh thần đều có mối liên hệ với mức độ hạnh phúc chủ quan.
Khảo sát ở các nhóm gặp vấn đề về sức khỏe thấy có sự suy giảm hạnh phúc.
Theo báo cáo của ONS (2012) những người khỏe mạnh có tỷ lệ hài lòng về
cuộc sống cao hơn rất nhiều những người ốm đau dài hạn. Theo số liệu báo
cáo của Lucas (2007) từ các nghiên cứu panel quy mô lớn đại diện quốc gia
đã ghi nhận sự ốm yếu, bất lực có liên quan đến mức độ giảm sút hạnh phúc
(với độ lệch chuẩn 0,40 đến 1,27).
Trong nghiên cứu này, “có sức khỏe tốt” là yếu tố được người phụ nữ
ưu tiên lựa chọn cao nhất (98,9%). Sức khỏe mang tính chất nền tảng cho mọi
hoạt động hướng đến hạnh phúc:
“Một người hạnh phúc chắc chắn là một người khỏe mạnh. Khi
mình khỏe, mình mới cảm nhận được cuộc sống, mình mới có thể vạch
ra các kế hoạch của cuộc đời và nỗ lực để đạt được nó [...] Khi mình
khỏe mạnh, mình có nhiều điều để ước. Còn khi không khỏe mạnh thì
chỉ có một điều ước duy nhất là được khỏe mạnh mà thôi” (PVS nữ,
mức sống khá, kết hôn hơn 20 năm, xã Ninh Giang, Ninh Bình)
Yếu tố tiếp theo được lựa chọn là “có đời sống tinh thần, tâm linh yên
ổn”. Một nghiên cứu gần đây về giá trị gia đình đã chỉ ra rằng: gia đình là cội
nguồn nuôi dưỡng đời sống tinh thần, tâm linh của mỗi người. Những giá
trị mà gia đình mang đến hết sức bền vững, ẩn sâu, lan tỏa và tạo nên giá trị
tâm linh của văn hóa gia đình. Xét đến cùng, con người cần tổ ấm gia đình tức
là cần có một giá trị tâm linh để duy trì sự sống của mình trên một bình diện
văn hóa mà chỉ ở đó con người mới có [41]. Như phần trước đã phân tích, với
người phụ nữ, hạnh phúc luôn gắn với gia đình nên đến phần này, người phụ
Nguồn: Đã trích dẫn
86
nữ tiếp tục lựa chọn yếu tố đem lại hạnh phúc là có đời sống tinh thần, tâm
linh yên ổn cũng là điều hợp logic.
Với hai yếu tố mà người phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu lựa chọn là “có
sức khỏe tốt” và “có đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn” đã gợi đến một quốc
đảo được Báo cáo chỉ số hạnh phúc hành tinh 2006 (HPI - Happy Planet
Index) đánh giá là hạnh phúc nhất thế giới - quốc đảoVanuatu. Đây là kết quả
nghiên cứu của NEF (New Economics Foundation), một Tổ chức nghiên cứu
kinh tế - xã hội có trụ sở chính tại Vương quốc Anh. Dựa vào các số liệu chọn
lọc từ các quốc gia, các tổ chức quốc tế và các số liệu do chính NEF điều tra,
NEF đã tập hợp và đưa ra được bức tranh về thực trạng hạnh phúc của 178
nước (tức là hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới). Trong báo cáo,
chỉ số hạnh phúc của Vanuatu là 68,2 - cao nhất thế giới.Vanuatu - tên gọi
đảo quốc này nghĩa là "Miền đất vĩnh hằng". Quốc gia này nằm ở phía nam
Thái Bình Dương. Dân số Vanuatu gồm nhiều sắc tộc nhưng sống rất hoà
thuận với nhau. Ở Vanuatu hiện vẫn rất ít các thiết bị tiêu dùng hiện đại,
người dân không ưa những dịch vụ kiểu siêu thị hay nhà hàng Mc
Donaldnhưng ở đây phần đông dân số sống thanh thản bình yên đến tận 85-90
tuổi. Nhiều tài liệu ca ngợi Vanuatu là thiên đường nơi hạ giới bởi môi trường
trong lành, con người khoẻ mạnh, thân thiện [53].
Mặc dù đã có những tranh cãi về báo cáo HPI của NEF khi quá quy
giản các chỉ số đo hạnh phúc nhưng không thể phủ nhận rằng hai yếu tố sức
khỏe và đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn là hai yếu tố quan trọng trong
quan niệm hạnh phúc chủ quan.
3.4. Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc
Sau khi đưa ra quan niệm về hạnh phúc ở ba lĩnh vực riêng rẽ như đã phân
tích ở trên, người phụ nữ tiếp tục được hỏi về quan niệm của mình khi phải
lựa chọn hai trong ba lĩnh vực. Theo quan niệm của người phụ nữ, hai nhóm
yếu tố nào trong ba nhóm (kinh tế-môi trường tự nhiên, gia đình-xã hội, đời
87
sống cá nhân) sẽ đem lại hạnh phúc? Kết quả nghiên cứu cho thấy: lĩnh vực
gia đình-xã hội được lựa chọn cao nhất và lĩnh vực đời sống cá nhân được lựa
chọn thấp nhất (Biểu 3.1). Bước phân tích tiếp theo này tiếp tục ủng hộ kết
quả nghiên cứu ở phần trên khi chỉ ra rằng, theo quan niệm của người phụ nữ,
hạnh phúc vẫn gắn liền với những mối quan hệ gia đình hơn là những yếu tố
mang tính cá nhân.
Biểu 3.1: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc (%)
Các kết quả phỏng vấn sâu cho thấy, trong các mối quan hệ gia đình,
người phụ nữ đặc biệt chú ý tới mối quan hệ vợ chồng:
“Lựa chọn hai trong ba lĩnh vực thì chị sẽ chọn đầu tiên là gia
đình, là gia đình hòa thuận đấy. Chị không biết mọi người quan
niệm thế nào chứ với chị, hạnh phúc là khi gia đình hòa thuận, hai
vợ chồng yêu thương nhau, biết chia sẻ công việc với nhau. Như các
cụ nói đấy, thuận vợ thuận chồng thì mọi cái mình đều làm được,
kinh tế cũng tự đến” (PVS nữ, mức sống trung bình, kết hôn hơn 20
năm, Tp.Hồ Chí Minh)
Nguồn: Đã trích dẫn Nguồn: Đã trích dẫn
88
Theo quan niệm của người phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu, xét riêng
trong mối quan hệ vợ chồng, “hạnh phúc là được yêu và được tôn trọng” và
biểu hiện cụ thể là thường xuyên biểu lộ tình yêu, tạo cơ hội gặp nhau ngay cả
khi giải quyết mâu thuẫn và tôn trọng sự riêng tư.
Hạnh phúc là thường xuyên biểu lộ tình yêu
Tình yêu là yếu tố không thể thiếu của hạnh phúc. “Muốn có hạnh
phúc thì phải có tình yêu trong đó. Nếu không có tình yêu thì vợ chồng không
muốn nhìn mặt nhau chứ đừng nói đến hạnh phúc” (PVS, mức sống trung
bình, kết hôn 1-10 năm, Ninh Bình). Trong suốt giai đoạn phát triển của gia
đình sẽ không tránh khỏi những căng thẳng và sự căng thẳng thường lớn nhất
tại các thời điểm chuyển giao từ một giai đoạn này sang một giai đoạn khác,
ví dụ khi gia đình thêm hoặc mất đi một thành viên. Vào những thời điểm
này, việc người chồng biết cách thể hiện tình yêu với vợ không chỉ khiến
người vợ cảm thấy hạnh phúc tại thời điểm ấy mà còn có ý nghĩa trong việc
đảm bảo hạnh phúc dài lâu bởi nó định hướng tích cực cho mối quan hệ tương
lai của hai vợ chồng.
Theo chia sẻ của một phụ nữ trẻ, thời điểm phát hiện có thai là lúc lo
lắng nhất nhưng cũng là lúc cảm nhận rõ ràng được niềm hạnh phúc nhất bởi
mọi người trong gia đình đều thể hiện tình yêu với bạn ấy một cách rõ ràng,
đặc biệt là người chồng:“Anh ấy nói chuyện ngọt ngào hơn và nói yêu vợ
thường xuyên hơn. Ví dụ, hay gọi nịnh: vợ yêu ơi, em yêu ơi. 12 giờ đêm, nếu
em đói cũng sẵn sàng vào bếp làm đồ ăn cho vợ” (PVS, mức sống trung bình,
kết hôn 1-10 năm, Sơn La)
Cách thể hiện tình yêu của những đôi vợ chồng trung tuổi thường kín
đáo hơn nhưng cũng không kém phần tinh tế. Một phụ nữ 48 tuổi kể rằng
chồng bà luôn đi cùng bà tới các buổi lễ cầu nguyện cuối tuần. Bạn ông rủ
Nguồn: Đã trích dẫn
89
ông đi trước, ông không đi mà cố tình lấy cớ gì đó để đi cùng bà. Sau rồi mọi
người biết, không rủ ông nữa và thỉnh thoảng trêu chọc “đôi vợ chồng nhà
này dính nhau như sam”. Ban đầu, bà hơi ngại vì già rồi mà vẫn bị trêu nhưng
sau bà thấy vui vì ông và bà có thời gian bên nhau nhiều hơn. Bà bảo hai vợ
chồng từ khi lấy nhau đều thế, làm việc gì cũng có nhau.
Trên thực tế, mọi hành động trong cuộc sống hằng ngày đều có thể
được xem là một tín hiệu của tình yêu dù chỉ những người trong cuộc mới
nắm bắt được. Những thế hệ khác nhau sẽ có cách thể hiện tình yêu khác nhau
nhưng rõ ràng sự thể hiện thường xuyên tình yêu của người chồng là cách để
người phụ nữ thấy mình được yêu - yếu tố tạo nên hạnh phúc.
Hạnh phúc là tạo cơ hội gặp nhau ngay cả khi giải quyết mâu thuẫn
Gia đình không chỉ là tổ ấm, là chỗ dựa tinh thần cho các cá nhân mà
còn là nơi có những mối quan hệ căng thẳng, bất hòa, mẫu thuẫn, xung đột
giữa các thành viên. Những mâu thuẫn trong gia đình là tất yếu và đôi khi là
cần thiết. Qua những lần mâu thuẫn này, mối quan hệ vợ chồng được cân
bằng lại, xác định lại và tổ chức lại để giải quyết và chấp nhận những khác
biệt. Điều quan trọng là cách giải quyết mâu thuẫn như thế nào. Các cuộc
phỏng vấn sâu ghi nhận cách giải quyết mâu thuẫn của người chồng là điều
phụ nữ rất lưu tâm. Phụ nữ mong muốn người chồng giải quyết mâu thuẫn
một cách chủ động, lành mạnh như một cách thể hiện sự tôn trọng với vợ.
Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng phải được giải quyết một cách thẳng
thắn, không đi đường vòng theo kiểu hình tam giác, nghĩa là nhờ một thành
viên khác trong gia đình truyền đạt lại cảm xúc và đứng ra thực hiện. Cần
mềm dẻo trong giải quyết vấn đề. Không có phép mầu nào cũng như không có
cách giải quyết một chiều nào. Hiệu quả của mỗi quyết định tuỳ thuộc vào
từng tình huống liên quan đến quyết định đó. Nghiên cứu về tâm lý học xã hội
đã chỉ ra rằng những cặp đôi thường xin lỗi, giải quyết các vấn đề qua tin
nhắn điện thoại có xu hướng ít hạnh phúc hơn. Một trong những yếu tố để
90
giải quyết mâu thuẫn hiệu quả là trao đổi một cách trực tiếp. Đôi khi những
cuộc nói chuyện “angry but honest conversations” - có thể tức giận nhưng
trung thực - rất có ích cho việc đem lại hạnh phúc lâu dài. Khi nói lên sự thật,
sẽ dễ tha thứ và quên. Hơn thế nữa, khi nói rõ ràng về sự tức giận như là một
dấu hiệu để người bạn đời biết rằng hành vi đó là không được chấp nhận và từ
đó sẽ dần điều chỉnh hành vi [13].
Câu chuyện một phụ nữ chia sẻ về cách giải quyết mâu thuẫn của hai
vợ chồng là một minh họa cho quan niệm: hạnh phúc là được tôn trọng trong
mọi hoàn cảnh, đặc biệt khi gia đình có mâu thuẫn:
“Hai vợ chồng cô có một quy định: chuyện gì cũng phải nói với nhau,
ngay cả khi không vừa ý với nhau điều gì cũng phải nói, không được
để bụng, đặc biệt không được để bố mẹ hai bên can thiệp vào chuyện
vợ chồng. Hai vợ chồng tự giải quyết với nhau là tốt nhất. Đôi lúc
cũng to tiếng đấy, cũng giận nhau cả tuần nhưng khi nói được với
nhau thì cũng hiểu nhau hơn, tôn trọng quan điểm của nhau hơn.
Hạnh phúc không thể thiếu được điều này đâu” (PVS, mức sống trung
bình, kết hôn 10-20 năm, Ninh Bình)
Hạnh phúc là tôn trọng sự riêng tư cá nhân
Một yếu tố nữa đem lại hạnh phúc theo quan niệm của phụ nữ là tôn
trọng sự riêng tư cá nhân. Dường như đây là một quan niệm mới về hạnh
phúc xét riêng trong mối quan hệ vợ chồng. Đề tài ghi nhận được điều này ở
một số phụ nữ trẻ sống tại địa bàn thành phố. Theo họ, phụ nữ hiện nay có rất
nhiều mối quan hệ xã hội - có những mối quan hệ bạn bè thân mật, có những
mối quan hệ công việc, xã giao và người chồng cần tôn trọng điều này. Trong
một phỏng vấn sâu, người phụ nữ trẻ kể chuyện về một đôi vợ chồng khác mà
cô ấy biết. Anh chồng rất ghen và thường xuyên kiểm soát vợ bằng các hình
thức như quy định giờ có mặt ở nhà, không muốn vợ về thăm ông bà ngoại
Nguồn: Đã trích dẫn
91
quá thường xuyên vì người yêu cũ của vợ ở gần đó, kiểm tra điện thoại và
theo dõi các mối quan hệ xã hội của vợ trên facebook. Anh chồng sử dụng cả
bạo lực để “dạy” vợ khi có bất cứ nghi ngờ gì về khả năng không chung thuỷ
của vợ. Người phụ nữ trẻ dùng từ “bất hạnh” để mô tả về người vợ trong câu
chuyện. Từ một người sôi nổi, thích tham gia các hoạt động xã hội, khi lấy
chồng, người vợ trở thành người khép kín, thụ động. Kết thúc câu chuyện,
người phụ nữ trẻ khẳng định: người chồng cần tin tưởng vợ hơn là kiểm soát
và trong không gian gia đình vẫn cần tồn tại không gian cá nhân. Rõ ràng, nhu
cầu được tôn trọng sự riêng tư cá nhân trong mối quan hệ vợ chồng là nhu cầu
có thực của phụ nữ tại địa bàn nghiên cứu. Kết quả của đề tài chỉ mang tính
gợi mở những có lẽ cần quan tâm nghiên cứu tới mối quan hệ giữa sự riêng tư
và quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Đây là chủ đề nghiên cứu khá
thú vị khi gia đình đang biến đổi trong bối cảnh công nghiệp hoá - hiện đại
hoá và hội nhập quốc tế.
Có khác biệt về ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm của phụ nữ
và nam giới về hạnh phúc?
Cơ sở của sự khác biệt giữa nam và nữ đã được đề cập trong nhiều
nghiên cứu. Nhiều quan niệm truyền thống về sự khác biệt vai trò của giới
được xác định bởi các đặc điểm giới tính. Những quan điểm hiện đại đã có
nhiều thay đổi. Vai trò của giới có thể học được trong quá trình xã hội hóa của
từng cá nhân. Yếu tố văn hóa cũng tác động rất lớn đến việc xác định vai trò
của giới trong một xã hội cụ thể. Những khác biệt giới có thể được tìm thấy
trong thái độ đối với một số vấn đề trong cuộc sống. Vậy trong quan niệm về
hạnh phúc, giữa nam và nữ có khác biệt?
Kết quả chỉ ra rằng nam và nữ không có khác biệt trong ưu tiên lựa
chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc. Tỷ lệ lựa chọn lĩnh vực gia
đình-xã hội đều cao nhất ở cả nam và nữ, sau đó đến lĩnh vực kinh tế-môi
trường tự nhiên và lĩnh vực đời sống cá nhân (Biểu 3.2).
92
Biểu 3.2: Ưu tiên lựa chọn lĩnh vực trong quan niệm về hạnh phúc
chia theo giới tính (%)
Tỷ lệ lựa chọn lĩnh vực gia đình-xã hội cao gần gấp đôi tỷ lệ lựa chọn
lĩnh vực đời sống cá nhân cho thấy trong quan niệm của cả phụ nữ và nam
giới, tính “chung” được đề cao hơn tính “riêng” trong việc tạo nên hạnh phúc.
Giải thích điều này từ góc độ văn hóa, tác giả P.Mus (1952) cho rằng điều này
là dễ hiểu với nền văn hóa Châu Á bởi “mỗi cá nhân thuộc về làng trước khi
thuộc về chính bản thân mình” [97].
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, con người được sinh ra và lớn
lên trong ba tổ chức cộng đồng là: cộng đồng gia đình, cộng đồng thân tộc và
cộng đồng làng xã. Ba cộng đồng đó là thế giới riêng của con người. Họ sống
nhờ vào các cộng đồng đó và cũng vì các cộng đồng đó. Sự hiện diện của một
con người không có nghĩa cá nhân đó là ai mà là ở chỗ anh ta là con ai, cháu
ai, người của làng nào. Cái giá trị anh ta mang không phải là cái anh ta có, mà
là cái gia đình, họ hàng, làng xã anh ta có [66]. Mối quan hệ qua lại giữa ba
cộng đồng này tạo nên sự cố kết, là khởi nguyên cho tinh thần tương thân
tương ái của các thành viên, giúp các thành viên không cảm thấy bơ vơ, cô
Nguồn: Đã trích dẫn
93
độc, ít nhiều có được một sự đùm bọc của những người thân (theo nghĩa
rộng). Trong cộng đồng này, gia đình có vị trí rất quan trọng. Gia đình không
đơn thuần là địa hạt của “việc nhận” với ý nghĩa đối ngược của “việc tạo ra”
mà là một phần của cuộc sống, trong đó con người đầu tư rất nhiều cảm xúc,
năng lượng sáng tạo và những tưởng tượng mới của mình [116]. Và như thế,
hạnh phúc - một dạng cảm xúc chủ quan - cũng luôn gắn với những cảm xúc
được sáng tạo và tái tạo trong môi trường gia đình.
Có thể nói, giữa phụ nữ và nam giới, sự giống nhau về quan niệm
hạnh phúc vẫn là cơ bản. Sự khác biệt, nếu có, có thể cần phân tích kỹ hơn
trong các nhóm cụ thể, ví dụ: giữa nam và nữ trong nhóm tuổi khác nhau,
mức sống khác nhau, học vấn khác nhau, nghề nghiệp khác nhau…
94
Tiểu kết chương 3
Chương 3 phân tích quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc trong ba
lĩnh vực. Trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên, năm yếu tố tạo nên
hạnh phúc là có thu nhập ổn định, có nhà ở riêng, việc làm đầy đủ, an toàn vệ
sinh thực phẩm tốt và môi trường tự nhiên trong lành. Trong lĩnh vực gia đình
- xã hội, hạnh phúc là khi gia đình hòa thuận, con cháu chăm ngoan, quan hệ
họ hàng tốt, an toàn xã hội và quan hệ láng giềng tốt. Trong lĩnh vực đời sống
cá nhân, hạnh phúc là khi có sức khỏe tốt, tinh thần yên ổn, có thời gian nghỉ
ngơi, thành công trong cuộc sống và có trình độ học vấn.
Kết quả của luận án đồng thuận với một số nghiên cứu trước đây khi
chỉ ra rằng theo quan niệm của người phụ nữ, hạnh phúc vẫn gắn liền với
những mối quan hệ gia đình hơn là những yếu tố mang tính cá nhân - những
giá trị tự thể hiện như “có vị thế, địa vị xã hội”, “được tự chủ, tự quyết về bản
thân”. Yếu tố mang lại hạnh phúc cho người phụ nữ không gì khác mà chính
là nhu cầu tình cảm đến từ gia đình, con cháu, họ hàng.
Giải thích điều này từ góc độ văn hóa, tác giả P.Mus (1952) cho rằng
điều này là dễ hiểu với nền văn hóa Châu Á bởi mỗi cá nhân thuộc về làng
trước khi thuộc về chính bản thân mình. Trong xã hội Việt Nam truyền thống,
con người được sinh ra và lớn lên trong ba tổ chức cộng đồng là: cộng đồng
gia đình, cộng đồng thân tộc và cộng đồng làng xã. Trong cộng đồng này, gia
đình có vị trí rất quan trọng. Gia đình không đơn thuần là địa hạt của “việc
nhận” với ý nghĩa đối ngược của “việc tạo ra” mà là một phần của cuộc sống.
Và như thế, hạnh phúc - một dạng cảm xúc chủ quan - cũng luôn gắn với
những cảm xúc được sáng tạo và tái tạo trong môi trường gia đình.
95
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM CÁ NHÂN
VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC
Ở phần trên, báo cáo đã phân tích quan niệm về hạnh phúc của người
phụ nữ nhìn một cách tổng thể. Nhưng như chúng ta đã biết, không có người
phụ nữ chung chung, trừu tượng, chỉ có người phụ nữ tồn tại trong các nhóm
xã hội, tôn giáo, học vấn, độ tuổi, mức sống,… khác nhau. Nghiên cứu quan
niệm hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam là nghiên cứu hạnh phúc của tất
các các nhóm phụ nữ trong xã hội và tổng hòa lại là hạnh phúc chung của
người phụ nữ Việt Nam. Do đó, luận án tiếp tục đi tìm hiểu xem ở những
nhóm phụ nữ khác nhau thì quan niệm về hạnh phúc có điểm nào tương đồng
và khác biệt?
Nhìn chung, các nghiên cứu, các cuộc thảo luận về hạnh phúc đều củng
cố quan điểm rằng: hạnh phúc - ở cả cấp độ quốc gia và cấp độ cá nhân - là
một vấn đề đa chiều và phức tạp. Trong giới hạn của luận án, tác giả chỉ phân
tích phụ nữ trong một số nhóm xã hội chia theo đặc điểm cá nhân (theo khu
vực nông thôn-đô thị, nhóm tuổi, tôn giáo, dân tộc, mức sống) và trong tổng
số 33 yếu tố, luận án cũng chỉ chọn ra 15 yếu tố chia đều cho cả 3 lĩnh vực đã
được người phụ nữ ưu tiên lựa chọn.
4.1. Khu vực sống và quan niệm hạnh phúc
So với nhiều nước trên thế giới, đô thị ở Việt Nam phát triển tương đối
chậm. Cho đến khoảng 1945, đại đa số cư dân Việt Nam vẫn sống ở nông
thôn, còn văn hóa Việt Nam, nói như nhà sử học Trần Quốc Vượng, là “văn
hóa xóm làng”. Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, Việt Nam lại trải qua 30
năm chiến tranh, phần lớn cư dân đô thị lại tản cư/sơ tán về nông thôn, họ
sống không khác gì người dân nông thôn. Từ ngày Đổi mới (1986) với tốc độ
công nghiệp hóa và đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, nhiều làng xã lại nhanh
chóng trở thành phố phường. Điều này có nghĩa là lối sống nông thôn và lối
sống đô thị ở Việt Nam đã và đang có sự giao thoa/xen kẽ rất sâu sắc. Liệu
96
đặc điểm này có được phản ánh qua kết quả điều tra về việc lựa chọn yếu tố
tạo nên hạnh phúc ở hai khu vực hay không (xem bảng 4.1).
Bảng 4.1: Quan niệm hạnh phúc theo nhóm nông thôn-đô thị (%)
Nông thôn Đô thị
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 75,8 76,8
2. Có công ăn việc làm đầy đủ** 73,3 65,7
3. Môi trường tự nhiên trong lành 50,3 44,8
4. Có nhà ở riêng 68,8 72
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt** 52,2 43,7
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận 96,7 95,4
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới 83,4 72,5
8. Quan hệ họ hàng tốt 65,0 57,4
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm 57,5 51,9
10. Quan hệ láng giềng tốt 59,4 56,6
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt* 97,0 95,1
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn* 65,2 57,6
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí 59,2 57,2
14. Thành công trong cuộc sống 45,0 45,6
15. Có trình độ học vấn 42,1 45,2
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05 ***P<0,01
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Ở nhóm khu vực, sự lựa chọn yếu tố tạo nên hạnh phúc thể hiện tính
tương đồng nhiều hơn khác biệt khi chỉ có 4/15 yếu tố là có ý nghĩa thống kê.
Trong 4 yếu tố này, nông thôn đều có tỷ lệ lựa chọn cao hơn nhóm đô thị. Ở
yếu tố “có công ăn việc làm đầy đủ”, tỷ lệ lựa chọn ở nông thôn là 73,3%,
trong khi tỷ lệ lựa chọn ở đô thị là 65,7%. Điều này có thể xuất phát từ khác
biệt về thị trường việc làm giữa nông thôn và đô thị. Địa bàn đô thị mà
nghiên cứu lựa chọn là một phường trung tâm của thành phố - nơi thị trường
Nguồn: Đã trích dẫn
97
lao động rất đa dạng so với địa bàn nông thôn - một xã thuần nông, khá khép
kín. Theo báo cáo của Uỷ ban nhân dân các xã nghiên cứu, khoảng 70% -
75% dân số xã làm nông nghiệp là chủ yếu. Mặc dù người dân cũng tham gia
các nghề phụ như thợ mộc, thợ nề, buôn bán sản xuất vật liệu xây dựng...
nhưng chủ yếu là nam giới và công việc chỉ mang tính chất vụ mùa, tự phát.
Người phụ nữ chỉ ở nhà làm nông nghiệp và chăm sóc gia đình. Vì thế, nhu
cầu có công việc làm đầy đủ là nhu cầu thực tế của người phụ nữ nông thôn.
Trong khi đó với người phụ nữ đô thị, việc tìm kiếm việc làm cũng phần nào
dễ dàng hơn nên có thể họ chuyển sự lựa chọn sang các yếu tố khác như lời
chia sẻ của một người dân:
Ở thành phố, công việc dễ kiếm hơn. Phụ nữ tham gia công tác xã hội
xong có thể làm thêm công việc chuyên môn hoặc buôn bán, chạy chợ.
Còn ở nông thôn, phụ nữ chỉ làm ruộng, nuôi mấy con vịt, con gà. Những
lúc nông nhàn thì chồng đã đi làm nghề phụ rồi nên mình phải ở nhà
trông coi ruộng vườn, chăm sóc con cái cho chồng yên tâm” (PVS, mức
sống trung bình, kết hôn 10-20 năm, Tp. Hồ Chí Minh)
So sánh sự lựa chọn trong ba lĩnh vực, bảng 4 cho thấy sự khác biệt ở
lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên với 2 yếu tố có ý nghĩa thống kê, và
lĩnh vực đời sống cá nhân có 2 yếu tố, trong khi lĩnh vực gia đình - xã hội
không có yếu tố nào. Điều này cho thấy với người phụ nữ tại địa bàn nghiên
cứu, không phân biệt nông thôn hay đô thị, các mối quan hệ gia đình vẫn là
tiêu chí hàng đầu trong quan niệm hạnh phúc.
4.2. Nhóm tuổi và quan niệm hạnh phúc
Những người cùng lứa tuổi thường có những hồi ức chung về các sự
kiện lớn, về hoàn cảnh, môi trường mà họ đã trải qua, những dấu ấn thời gian
đã để lại trong họ những tình cảm đặc biệt, khiến trong thâm tâm họ thường
có một ý thức chung về cách nhìn nhận và hướng giải quyết các vấn đề diễn
ra trong đời sống. Trong khi đó, đặc điểm khác nhau giữa các nhóm tuổi là
cách nhận biết và giải quyết các vấn đề cùng xảy ra trong cùng một thời điểm.
Họ có những đặc điểm khác nhau trong suy nghĩ, hành động vì họ được thúc
Nguồn: Đã trích dẫn
98
đẩy bởi các hệ giá trị tư tưởng khác nhau, diễn ra trong các hoàn cảnh lịch sử
khác nhau… [71]. Trong nghiên cứu này, nghiên cứu muốn tìm hiểu xem ở
những nhóm tuổi khác nhau liệu người phụ nữ có quan niệm khác nhau về
yếu tố tạo dựng hạnh phúc?.
Tuổi của người trả lời được chia thành 3 nhóm. Khoảng cách trung bình
giữa các nhóm được tính là 20 năm. Thế hệ người cao tuổi là những người từ
60 tuổi trở lên. Thế hệ trung tuổi được tính tương đương nhóm từ 40 đến 59
tuổi. Thế hệ trẻ tương đương nhóm từ 18 đến 39 tuổi.
Kết quả ở bảng 4.2 cho thấy: ở những nhóm tuổi khác nhau, có cả sự
tương đồng và khác biệt ở cả ba nhóm yếu tố.
Bảng 4.2: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tuổi (%)
< 40 40-59 60+
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 77,9 75,7 72,4
2. Có công ăn việc làm đầy đủ* 68,4 70,7 66,2
3. Môi trường tự nhiên trong lành 45,8 47,5 52,4
4. Có nhà ở riêng** 65,8 74,2 76,6
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt 45,9 47,8 53,8
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận 95,5 96 97,9
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới*** 70,4 81,6 91,7
8. Quan hệ họ hàng tốt 58,8 62,0 64,8
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm** 50,8 57,2 59,3
10. Quan hệ láng giềng tốt** 52,9 62,0 62,8
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt 95,4 96,5 96,6
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn*** 55,0 65,7 69,0
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí** 55,7 58,5 68,3
14. Thành công trong cuộc sống** 49,9 43,0 33,8
15. Có trình độ học vấn 43,1 45,0 41,4
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05 *** P<0,01
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Nguồn: Đã trích dẫn
99
Ở nhóm kinh tế - môi trường tự nhiên, có 2/5 yếu tố thể hiện sự khác
biệt. Trong đó, nhóm phụ nữ trẻ chú trọng nhiều hơn tới yếu tố đem lại hạnh
phúc là “có công ăn việc làm đầy đủ”, nhóm phụ nữ cao tuổi chú trọng nhiều
hơn tới “có nhà ở riêng”. Có thể thế hệ trẻ đang trong giai đoạn tự lập và gây
dựng sự nghiệp nên dành sự quan tâm nhiều hơn cho việc làm, còn những
người cao tuổi đã đến ngưỡng ổn định nên yếu tố việc làm không còn là điều
băn khoăn nữa. Nhóm phụ nữ cao tuổi rất chú ý tới yếu tố “có nhà ở riêng” vì
theo một ý kiến chia sẻ, nhà ở riêng như một không gian riêng tư, giúp họ
chủ động được các hoạt động mà không ảnh hưởng đến các thành viên khác,
đặc biệt là con cái.
“Già rồi rất cần có nhà ở riêng, đặc biệt khi mình có các nhu cầu,
mong muốn khác với thế hệ trẻ. Con cái bây giờ ngủ muộn, dậy muộn,
thích đưa nhau ra nhà hàng ăn. Người già thì thích sáng dậy sớm, tập
thể dục giữ gìn sức khoẻ, nấu mấy món dân dã đơn giản […] Khi ở
chung, không phải mình muốn làm gì cũng được. Cứ ở riêng, muốn gì
làm nấy là hạnh phúc nhất” (PVS, mức sống khá, kết hôn hơn 20 năm,
An Giang)
Không gian gia đình vừa là một cấu trúc tự nhiên vừa là một cấu trúc
xã hội nên không nên noi việc “có nhà ở riêng” như một nhu cầu đơn thuần
về khía cạnh kinh tế mà nên hiểu như là một phần của sự biến đổi quan niệm
cá nhân, mà đặc trưng của nó là sự khẳng định quyền tự chủ của người cao
tuổi trên con đường tìm kiếm hạnh phúc. Trước đây, mô hình sống ưa thích
là tam tứ đại đồng đường, người cao tuổi sống cậy nhờ con cháu. Hiện nay,
tại địa bàn nghiên cứu, người phụ nữ cao tuổi muốn có nhà ở riêng như một
nhu cầu về sự riêng tư, độc lập trong cuộc sống.
Ở nhóm gia đình - xã hội, có 3/5 yếu tố thể hiện sự khác biệt là “con
cháu chăm ngoan, tấn tới” “an ninh, an toàn xã hội đảm bảo” và “quan hệ họ
hàng tốt”. Tỷ lệ lựa chọn của nhóm trẻ đều thấp hơn nhóm cao tuổi ở cả 3
yếu tố này. Đặc biệt, ở yếu tố “con cháu chăm ngoan, tấn tới”, tỷ lệ lựa chọn
của nhóm trẻ thấp hơn rất nhiều: 70,4% so với 91,7% (Bảng 5). Trường hợp
này liên quan đến học thuyết kinh điển của William Goode (1963) rằng công
Nguồn: Đã trích dẫn
100
nghiệp hoá và đô thị hoá đã đẫn đến việc chuyển từ hệ thống gia đình đa hệ
sang hệ thống gia đình vợ chồng. Xu hướng toàn cầu hoá hướng đến vai trò
trung tâm của quan hệ vợ chồng, hay còn gọi theo tác giả Yunxiang Yan là
“sự chiến thắng của quan hệ hôn nhân” - mối quan hệ hôn nhân theo chiều
ngang thay thế cho mối quan hệ cha-con theo chiều dọc [37]. Nhóm phụ nữ
trẻ trong nghiên cứu này chính là thế hệ từ khi sinh ra là bắt đầu của thời kỳ
đổi mới. Họ trưởng thành trong thời kỳ đất nước đang có sự chuyển đổi từ cơ
chế bao cấp sang kinh tế thị trường, từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công
nghiệp và hiện đại hóa và chịu sự chi phối của xu thế toàn cầu hóa và hội
nhập quốc tế. Nhóm trẻ theo phong cách sống hiện đại, phần nào không còn
lệ thuộc quá nhiều vào các giá trị truyền thống nên cũng ít dành sự ưu tiên
cho yếu tố “con cháu chăm ngoan, tấn tới”.
Ở nhóm đời sống cá nhân, cũng có 3/5 yếu tố thể hiện sự khác biệt, tuy
nhiên khoảng cách không quá lớn. Càng nhiều tuổi, càng quan tâm nhiều hơn
tới thời gian nghỉ ngơi giải trí và có đời sống tinh thần tâm linh yên ổn trong
công cuộc kiếm tìm hạnh phúc.
Nhìn chung, ở những nhóm tuổi khác nhau sẽ có quan niệm khác nhau
về yếu tố tác động quan trọng tới hạnh phúc. Điều này cũng rất phù hợp với
quy luật văn hóa bởi sự biến đổi văn hóa sẽ diễn ra nhiều hơn trong những
nhóm trẻ, từ đó dẫn tới những khác biệt giữa các thế hệ. Sự biến đổi sẽ xảy ra
rộng khắp khi một thế hệ mới trẻ hơn thay thế thế hệ già hơn trong cư dân
trưởng thành của một xã hội.
4.3. Tôn giáo và quan niệm hạnh phúc
Tôn giáo là một bộ phận quan trọng của văn hóa. Đây là nhận định đã
được nhiều nhà khoa học nhất trí. Triết lý và giáo luật của tôn giáo có ảnh
hưởng rất lớn tới nhận thức, tư tưởng, tâm lý và lối sống không chỉ của chính
tín đồ mà ảnh hưởng đến cả xã hội thế tục, xét trên nhiều phương diện. Vậy
tôn giáo có ảnh hưởng đến quan niệm về hạnh phúc? Tại địa bàn nghiên cứu
có ba tôn giáo: Phật giáo, Thiên chúa giáo và Hòa Hảo, trong đó Thiên chúa
giáo là chủ đạo. Nghiên cứu gộp ba tôn giáo này thành một nhóm - “có tôn
giáo”, và nhóm thứ hai là những người không theo tôn giáo - “không tôn giáo”.
101
Kết quả bảng 4.3 cho thấy, sự khác biệt là không nhiều trong quan niệm
về hạnh phúc cho dù thực tế phụ nữ có theo tôn giáo hay không. Rõ ràng,
hạnh phúc là một giá trị phổ quát. Sự xuất hiện của tôn giáo cũng không ngoài
mục tiêu đem lại an lạc, hạnh phúc cho tín đồ và loài người.
“Ước mong về hạnh phúc là điều ước chung của con người, không
phân biệt tôn giáo. Người bên Lương hay người bên Giáo, muốn hạnh
phúc cũng cần có kinh tế ổn định, cần có gia đình, các mối quan hệ họ
hàng và cần được đáp ứng nhu cầu về đời sống tâm linh” (PVS nữ,
mức sống trung bình, kết hôn 10-20 năm, xã Ninh Giang, Ninh Bình)
Bảng 4.3: Quan niệm về hạnh phúc theo nhóm tôn giáo (%)
Có tôn giáo Không tôn giáo
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 75,1 77,8
2. Có công ăn việc làm đầy đủ 68,8 69,5
3. Môi trường tự nhiên trong lành** 44,6 50,5
4. Có nhà ở riêng** 73,7 66,7
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt** 44,6 51,0
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận** 94,6 97,7
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới*** 72,2 83,7
8. Quan hệ họ hàng tốt** 57,0 65,3
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm* 51,5 58,1
10. Quan hệ láng giềng tốt** 61,6 53,2
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt** 94,7 97,5
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn 60,8 61,2
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí* 55,6 61,2
14. Thành công trong cuộc sống 46,3 44,1
15. Có trình độ học vấn 44,7 42,7
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Nguồn: Đã trích dẫn Nguồn: Đã trích dẫn
102
Ở nhóm kinh tế - môi trường tự nhiên, có 3/5 yếu tố thể hiện sự khác
biệt. Người phụ nữ theo tôn giáo nghiêng nhiều hơn về yếu tố “có nhà ở
riêng”, trong khi người phụ nữ không theo tôn giáo nghiêng về yếu tố “môi
trường tự nhiên trong lành” và “an toàn vệ sinh thực phẩm”. Sự chênh lệch là
không nhiều. Nguyên nhân khác biệt có thể không nằm ở yếu tố tôn giáo
mà xuất phát từ địa bàn nghiên cứu. Cần có thêm nghiên cứu để hiểu rõ
hơn điều này.
Một cảm nhận chung khi phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm là: nhóm
phụ nữ theo tôn giáo bày tỏ rằng hạnh phúc là khi sống có niềm tin – niềm tin
vào đấng linh thiêng, niềm tin vào con người, niềm tin vào xã hội. Điều này
có thể xuất phát từ những điều răn dạy của tôn giáo mà người phụ nữ đi theo.
Trong bốn điều đức Phật răn dạy để hướng tới cuộc sống tương lai hạnh phúc
thì điều răn thứ nhất là “có niềm tin trọn vẹn về giá trị đạo đức và tâm linh”.
Trong mười điều răn - được gọi là bản hiến pháp mà Thiên Chúa ban cho con
chiên, điều răn thứ nhất bao gồm đức tin-cậy-mến. Con người cần tin tưởng,
yêu mến và hy vọng vào Thiên Chúa. Yêu mến Thiên Chúa thì phải yêu mến
tha nhân (nghĩa là yêu mến con người).
“Nếu không có đức tin thì không thể sống hạnh phúc được. Cần tin vào
Chúa, tin vào con người. Điều quan trọng là phải cố gắng chứng tỏ với
Chúa, với người khác về sự chân thật của niềm tin, nghĩa là mình
không nên nghi ngờ, ngay cả là nghi ngờ trong lòng” (PVS, mức sống
trung bình, kết hôn 1-10 năm, Ninh Bình)
Đã có nhiều học giả bàn về vai trò của niềm tin đời thường và niềm tin
tôn giáo trong đời sống.
Niềm tin trong đời thường là sự hy vọng, trông mong rất bình dị của
chúng ta vào những điều trong cuộc sống giúp chúng ta siêu việt lên những
Nguồn: Đã trích dẫn
103
khó khăn của cuộc sống hay làm cho đời sống tinh thần của chúng ta được
thăng hoa. Niềm tin đời thường - từ những niềm tin của những người bình
thường nhất cho đến các bậc vĩ nhân - đều có một vai trò rất lớn trong đời
sống của họ. Chúng ta thử tưởng tượng một người không có niềm tin thì cuộc
sống của anh ta sẽ như thế nào. Tôi tin rằng người đó khó thể có được hạnh
phúc và sự bình lặng nội tâm cho dù là một phút giây ngắn ngủi và rốt cuộc
dẫn anh ta đến sự tự hủy hoại bản thân, hủy hoại môi trường sống và hủy diệt
cuộc sống của người khác [123, tr.1].
“Niềm tin tôn giáo hay trong hợp từ tín ngưỡng tôn giáo hàm ý một
niềm tin ở những cái siêu nhiên, nhưng đối với tôn giáo vẫn rất hiện thực, thậm
chí còn hiện thực hơn cả thế giới hiện tượng nữa, nhưng vẫn ở ngoài tầm nắm
bắt của giác quan và tri thức của con người bình thường” [78, tr.63]. Như vậy,
niềm tin tôn giáo là niềm tin trong đời thường đã được thăng hoa thành niềm tin
thiêng liêng trong các tôn giáo lớn. Con người không thể sống mà thiếu niềm tin
và cho dù là niềm tin đời thường hay niềm tin tôn giáo cũng đều hướng con
người tới điểm đích cuối cùng là có được một cuộc sống hạnh phúc.
4.4. Dân tộc và quan niệm hạnh phúc
Theo quan điểm của thuyết tương đối văn hoá do F. Boas khởi xướng,
mỗi tộc người, mỗi cộng đồng có những khác biệt riêng của mình dựa trên
những điều kiện địa lý, xã hội, lịch sử cụ thể và tất cả các cộng đồng cư dân
trên thế giới đều bình đẳng về văn hoá. Ở khía cạnh nhân học, con người hoàn
toàn có thể thoái mái sống và hài lòng với những gì mà họ có trong điều kiện
cụ thể và họ đang được sống trong nền văn hoá của chính họ. Văn hoá không
phải là mớ lộn xộn, pha tạp mà nó có tính mạch lạc, đi vào khuôn mẫu với sự
nỗ lực của từng cá nhân riêng lẻ. Những cá nhân ấy hiểu được cuộc sống của
họ và những gì có ý nghĩa đối với họ trong mối quan hệ với các thành viên
khác [46]. Vậy các dân tộc khác nhau có khác nhau trong quan niệm về hạnh
phúc?. Nghiên cứu này khảo sát 08 dân tộc gồm dân tộc Kinh, Thái, Mường,
104
Tày, Mông, Chăm, Ê đê và Khơ me. Tuy nhiên vì cỡ mẫu của các dân tộc
thiểu số tương đối ít nên luận án gộp lại thành hai nhóm dân tộc là dân tộc
Kinh và các dân tộc khác.
Trong lĩnh vực kinh tế-môi trường tự nhiên, có 3/5 yếu tố thể hiện sự
khác biệt, trong đó hai yếu tố thể hiện sự khác biệt rõ rệt là “môi trường tự
nhiên trong lành” và “an toàn vệ sinh thực phẩm tốt”. Tỷ lệ lựa chọn hai tiêu
chí này của phụ nữ dân tộc Kinh cao hơn phụ nữ dân tộc thiểu số với các tỷ lệ
tương ứng là 51,5% so với 37,4% và 50,5% so với 40,2% (Bảng 4.4). Điều
này có thể xuất phát từ đặc thù địa bàn nghiên cứu. Trong nghiên cứu này,
mỗi tỉnh sẽ chọn 01 phường (đại diện cho đô thị) và 01 xã (đại diện cho nông
thôn), người Kinh thường cư trú trên địa bàn phường và người dân tộc thiểu
số cư trú trên địa bàn xã. Do người Kinh cư trú trên địa bàn đô thị, luôn phải
đối diện với tình trạng ô nhiễm ngày càng tăng trong quá trình đô thị hóa nên
người Kinh lo lắng nhiều hơn về môi trường tự nhiên và an toàn vệ sinh thực
phẩm và chọn tiêu chí này là tiêu chí quan trọng tạo nên hạnh phúc.
Trong khi đó, người dân tộc thiểu số sống ở nông thôn – nơi chịu tác
động bởi đô thị hóa ít hơn nên có thể vấn đề môi trường chưa cần chú ý so với
những nhu cầu khác của cuộc sống. Bên cạnh đó, văn hóa người dân tộc thiểu
số sống chủ yếu dựa vào tự nhiên, gắn bó mật thiết với thiên nhiên nên họ có
những kinh nghiệm và cách thức bảo vệ, khai thác môi trường tài nguyên
thiên nhiên từ rất lâu đời. Ví dụ: luật tục của người Thái quy định về sự cân
bằng sinh thái giữa con người với rừng núi; nó thể hiện trong tập quán phân
loại rừng thành từng khu vực nhằm phục vụ các nhu cầu khác nhau của cuộc
sống như: rừng núi phòng hộ nằm trên khu vực đầu nguồn nước, tuyệt đối
cấm khai thác; rừng núi dành cho việc khai thác tre, gỗ để dựng nhà và phục
vụ các nhu cầu cuộc sống thì tuyệt đối không được chặt đốt làm nương; núi
rừng phục vụ cuộc sống tâm linh, được gọi bằng tên chung là “rừng thiêng”.
105
Với cách thức bảo vệ rừng như vậy, trong một thời gian dài các dân tộc thiểu
số đã tạo được môi trường sống trong lành [58].
Bảng 4.4: Quan niệm về hạnh phúc theo dân tộc (%)
Kinh Dân tộc
khác
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 76,4 76,0
2. Có công ăn việc làm đầy đủ 70,1 66,0
3. Môi trường tự nhiên trong lành*** 51,5 37,4
4. Có nhà ở riêng* 72,2 66,4
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt*** 50,5 40,2
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận** 95,3 97,6
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới*** 73,6 87,1
8. Quan hệ họ hàng tốt*** 56,1 72,1
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm 53,4 56,7
10. Quan hệ láng giềng tốt 58,5 55,7
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt*** 95,1 98,1
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn 59,9 63,3
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí*** 54,7 66,4
14. Thành công trong cuộc sống 43,9 48,1
15. Có trình độ học vấn 44,2 43,1
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05 ***P<0,01
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Nguồn: Đã trích dẫn
106
Nếu ở lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên, người phụ nữ Kinh có tỷ
lệ lựa chọn các yếu tố đem lại hạnh phúc cao hơn người phụ nữ dân tộc khác
thì ở lĩnh vực gia đình - xã hội lại ngược lại. Người phụ nữ dân tộc thiểu số có
tỷ lệ lựa chọn các yếu tố thể hiện sự khác biệt cao hơn người phụ nữ Kinh.
Các tỷ lệ tương ứng là 97,6% và 95,3% ở yếu tố “gia đình hòa thuận”; 87,1%
và 73,6% ở yếu tố “con cháu chăm ngoan, tấn tới”; 72,5% và 56,1% ở yếu tố
“quan hệ họ hàng tốt”.
Các dân tộc thiểu số cư trú thành các làng bản lớn, có mối quan hệ chặt
chẽ trong cộng đồng làng bản, dòng họ và gia đình. Các mối quan hệ đó đã
tạo dựng nên những đặc trưng văn hoá truyền thống có sức sống lâu bền trong
cộng đồng các tộc người thiểu số ở Việt Nam. Khảo sát các dân tộc trong
nghiên cứu này cũng có đặc điểm xã hội chung như vậy. Sống trong cộng
đồng làng bản, con người cảm thấy được an toàn, được che chở, bảo vệ trong
tình yêu thương bởi những người thân trong gia đình, dòng họ và cộng đồng
của họ. Mỗi thành viên trong gia đình thường gắn bó với những người thân
trong các sinh hoạt thường ngày, sự quan tâm chăm sóc và họ cũng được giáo
dục, rèn luyện để trở nên là người có trách nhiệm của mình với gia đình, dòng
họ và cộng đồng ấy. Trong bối cảnh văn hoá đó, đặt sự chú ý tới các yếu tố
tạo nên hạnh phúc thuộc về gia đình, dòng họ, cộng đồng cũng là một đặc
điểm tất yếu đối với người phụ nữ các dân tộc thiểu số.
Trong quan niệm của người Mông, “phải sống như thế nào để đến lúc
chết có người khiêng quan tài” hay “đi đâu cũng phải có vợ, có chồng thì mới
thấy vui, có hạnh phúc”. Trong quan hệ vợ chồng, cũng phải có sự chia sẻ, hỗ trợ
cho nhau như “vợ là cái bếp lò, lúc nào cũng phải đỏ lửa, chồng là cái nồi đặt
trên bếp, lúc nào cũng phải có cái gì đó cho vào nồi để nấu chín thì gia đình mới
107
hạnh phúc được, cả vợ và chồng mới có hạnh phúc” (PVS, mức sống trung bình,
Dân tộc Mông, Sơn La)
Trong lĩnh vực đời sống cá nhân, người phụ nữ dân tộc lựa chọn yếu tố
“có thời gian nghỉ ngơi, giải trí” cao hơn người phụ nữ dân tộc Kinh: 66,4%
so với 54,7%. Trong các phỏng vấn sâu, người phụ nữ dân tộc cho biết hiện
nay cuộc sống quá bận rộn, mọi người bận làm ăn nên ít tham gia các ngày
hội dân tộc. Các ngày hội dân tộc cũng không tổ chức nhiều các hoạt động
như ngày trước, hoặc rút ngắn thời gian, hoặc phong tục tập quán cũng có
những thay đổi giống người Kinh. Cảm nhận chung của người phụ nữ dân tộc
là sự thiếu vắng các câu hát ví, hát đối hay những điệu kèn trong lễ hội truyền
thống nên “các ngày hội đi chơi không vui như ngày xưa” (PVS, mức sống
trung bình, Sơn La).
“Trong đám cưới, các cụ nhà trai nhà gái ngày xưa còn có ca hát ca ví
này kia với nhau. Nhà trai đối đáp nhà gái, 2 bên đối đáp với nhau, bên
nào thua là phải uống rượu. Thế nhưng bây giờ là bỏ cái đấy. Tôi thấy
cái đấy là không giữ được, mà đưa vào những cái nhạc rock nhạc pop,
những cái nhạc gì mà coi như là ngồi mà không thể nói chuyện được
với nhau. Bây giờ ngồi nói chuyện với nhau mà cứ mở nhạc lên thì còn
ai nghe được nữa. Một người nói to thì cả mâm cũng phải nói to, rồi cả
một dãy mâm kia cũng thế. Ngồi được một lúc là về thôi” (PVS, mức
sống khá, Sơn La).
Có thể nói, trong cuộc sống của người dân tộc, các hoạt động nghỉ ngơi
giải trí thường thể hiện rõ tính cách cũng như bản sắc của dân tộc mình. Tuy
nhiên các lễ hội dân tộc đã mất dần một số yếu tố văn hóa – điều này có thể
phù hợp với nhịp sống mới nhưng lại khiến người người dân tộc không cảm
Nguồn: Đã trích dẫn
108
thấy hạnh phúc. Có thể vì lý do này mà người phụ nữ dân tộc ưu tiên lựa chọn
yếu tố “có thời gian nghỉ ngơi, giải trí” cao hơn người phụ nữ Kinh trong
quan niệm về hạnh phúc.
4.5. Mức sống và quan niệm hạnh phúc
Yếu tố mức sống luôn giữ vai trò chủ điểm trong nghiên cứu hạnh
phúc. Tiền có tạo nên hạnh phúc không là câu hỏi làm đau đầu rất nhiều các
nhà nghiên cứu cũng như các nhà đạo đức và câu trả lời không hề dễ dàng.
Câu hỏi này thu hút một lượng khá lớn các nghiên cứu xã hội học, kinh tế học
và các kết quả đưa ra cũng rất khác biệt. Một quan điểm đi theo châm ngôn
nổi tiếng của Benjamin Franklin “tiền không mua được hạnh phúc” hay tiền
không đong đếm được hạnh phúc. Kết quả một số nghiên cứu ủng hộ quan
điểm này khi cho rằng: người nghèo vẫn có thể có hạnh phúc và người giàu
chưa hẳn đã có hạnh phúc; một quốc gia giàu có chưa hẳn là một quốc gia có
nhiều người hạnh phúc hơn một quốc gia kém giàu có hơn. Khi giá trị quan
thiếu hụt thì vật phẩm sẽ trở thành thước đo duy nhất. Một khi con người tìm
thấy cảm giác về giá trị của bản thân, mới phát hiện ra rằng kỳ thực con người
không cần quá nhiều vật chất để hạnh phúc [4; 26; 49; 54].
Quan điểm thứ hai coi thu nhập là một trong những yếu tố tạo nên
hạnh phúc. Các nghiên cứu ghi nhận rằng sự tăng lên của thu nhập dẫn tới
hạnh phúc cao hơn và thu nhập rất quan trọng bởi nó định hướng mức
sống, định hướng khả năng tiêu dùng - những yếu tố tiền đề của hạnh phúc
[9;24]. Báo cáo hạnh phúc thế giới năm 2017 xác nhận một thực tế rằng:
người dân hạnh phúc hơn thường đi kèm với sự tăng trưởng mạnh mẽ về
kinh tế. Trong số 20 quốc gia có mức tăng hạnh phúc nhiều nhất trong giai
đoạn 2005-2007 và 2014-2016 thì 11 nước là thuộc diện có tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao hàng đầu, chủ yếu tập trung ở Trung và Đông Âu (Báo
cáo Hạnh phúc thế giới 2017).
Luận án cũng muốn tìm hiểu xem liệu mức sống có ảnh hưởng tới quan
niệm của người phụ nữ về hạnh phúc hay không? Biến mức sống được xây
109
dựng tổng hợp trên ba tiêu chí: 1- Tiêu chí tự đánh giá của người trả lời về
mức sống; 2- Số tài sản gia đình sở hữu và 3- Loại hình nhà ở. Kết quả thể
hiện ở bảng 4.5 dưới đây.
Bảng 4.5: Quan niệm về hạnh phúc theo mức sống (%)
Khá Trung
bình
Nghèo
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 80,8 74,5 76,4
2. Có công ăn việc làm đầy đủ* 68,5 66,9 73,2
3. Môi trường tự nhiên trong lành*** 53,5 40,2 55,7
4. Có nhà ở riêng 70,4 71,3 69,0
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt** 52,3 43,1 52,3
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận 96,2 95,4 97,0
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới*** 68,5 77,0 84,2
8. Quan hệ họ hàng tốt** 54,2 59,6 67,0
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm 53,1 53,9 56,2
10. Quan hệ láng giềng tốt** 52,3 61,0 55,7
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt 96,5 94,4 98,2
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn*** 51,5 60,6 67,9
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí* 58,1 55,6 62,2
14. Thành công trong cuộc sống*** 51,2 48,8 35,6
15. Có trình độ học vấn** 53,1 43,5 38,9
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05 *** P<0,001
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Nguồn: Đã trích dẫn
110
Kết quả nghiên cứu cho thấy, với yếu tố “có thu nhập ổn định” tỷ lệ lựa
chọn rất cao và không có sự khác biệt giữa các nhóm mức sống. Hay nói cách
khác, theo quan niệm của người phụ nữ, tiền vẫn là yếu tố quan trọng để hạnh
phúc. Có hai cách lý giải cho vấn đề này.
Cách thứ nhất, có thể với cả phụ nữ thuộc nhóm mức sống khá giả
trong nghiên cứu này, thu nhập hiện nay của họ vẫn chưa đủ đến “điểm hạnh
phúc” theo cách lý giải của một số nhà nghiên cứu: hạnh phúc sẽ tăng theo
mức tăng thu nhập đến một điểm nhất định và không vượt qua điểm mốc đó.
Khi đến được điểm mốc, sự tăng tiền sẽ không làm tăng hạnh phúc [26]. Vậy
điểm mốc thu nhập là bao nhiêu sẽ là điểm hạnh phúc? Điều này tùy thuộc
vào điều kiện kinh tế và bối cảnh xã hội của mỗi quốc gia. Daniel Kahneman
- người nhận giải Nobel kinh tế năm 2002, cùng các đồng nghiệp ở Đại học
Princeton, Mỹ đã thực hiện một nghiên cứu xác nhận tỷ lệ hạnh phúc dựa trên
thu nhập. Kết quả xác nhận những gia đình có thu nhập trên 90.000 USD cao
gấp đôi những gia đình có thu nhập dưới 20.000 USD. Nhưng số liệu cho thấy
hầu như không có sự khác biệt nào về hạnh phúc giữa nhóm gia đình có thu
nhập trên 90.000 USD với nhóm có thu nhập từ 50.000 đến 90.000 USD [54].
Như vậy, tại thời điểm Daniel Kahneman nghiên cứu, 50.000USD có thể
được coi là điểm thu nhập hạnh phúc.
Cách thứ hai, theo công bố mới của Ashley Whillans - giáo sư Đại học
Harvard khi nghiên cứu cách con người dùng tiền để giải thoát khỏi những
trải nghiệm tiêu cực và mua thời gian hạnh phúc. Tiền mua được thời giờ, và
từ đó, có thể khiến người ta hạnh phúc. Cụ thể, tiền có thể thuê người làm đỡ
việc nhà như giặt giũ, gấp quần áo và dọn dẹp. Tiền có sức mạnh làm những
phép trừ như trừ số giờ một người bị kẹt xe ngoài đường, trừ số giờ được coi
đi làm mà thực tế ngồi sau bánh lái - lúc đáng lẽ đã ở nhà, và trừ số giờ lau
nhà. Nghiên cứu của Whillans cũng thống kê người Mỹ ngày nay có nhiều
thời gian rảnh hơn 40 năm trước. Tuy nhiên thay vì tận hưởng, họ dành quỹ
111
thời gian này nhận thêm việc, kiếm thêm tiền. Nên dù giờ làm việc rút ngắn,
con người ngày càng stress. Nhiều người thậm chí chấp nhận đi làm xa để sở
hữu ngôi nhà thật đẹp, khi mà chẳng còn mấy thời gian để ở. "Mua" thời gian
bằng phương thức thuê người làm thay việc dọn dẹp để tận hưởng cuộc sống
là cần thiết. Có thể dành thời gian này cho bạn bè, cho gia đình, cho những sở
thích cá nhân… Mất 4-5 giờ làm việc nhà một dịp cuối tuần cũng đồng nghĩa
với việc sẽ mất đi 4-5 tiếng làm việc khác khiến bản thân hạnh phúc (trừ
trường hợp họ coi làm việc nhà là một trong những sở thích cá nhân khiến
bản thân hạnh phúc) [1].
Cũng đề cập tới vấn đề sử dụng thời gian, Elizabeth Gilbert cảnh báo:
người Mỹ không có khả năng thả lỏng mình trong thú vui thuần túy. Người
Mỹ ngày càng làm nhiều giờ cật lực hơn, dài hơn và căng thẳng hơn bất kỳ ai
trên thế giới ngày nay để rồi phải dành cả ngày nghỉ cuối tuần trong áo ngủ,
ăn hạt ngũ cốc ăn liền và ngây người nhìn tivi. Đây là hiện tượng mà
Elizabeth gọi là “mẫu rập khuôn Mỹ buồn thảm hết sức” khi người quản lý
cao cấp quá căng thẳng được nghỉ phép nhưng không thể thư giãn, không thật
sự biết làm sao để không làm gì cả, không biết cách để tận hưởng cuộc sống
và để hạnh phúc [8, tr.106].
Nghiên cứu về quan hệ đánh đổi giữa tiền bạc và thời gian của Ashley
Whillans đã làm thay đổi cách con người tiêu xài thời gian để có hạnh phúc.
Thời gian chính là tiền bạc và tiền bạc cũng chính là thời gian. Thuê người
làm thay một số việc mà bản thân không thích là một trong những cách chi
tiêu đó.
112
Tiểu kết chương 4
Chương bốn tìm hiểu ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân tới quan
niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
Kết quả phân tích tương quan hai biến chỉ ra rằng: mặc dù ở những
nhóm xã hội khác nhau nhưng người phụ nữ có quan niệm tương đối thống
nhất về hạnh phúc. Trong quan niệm chung của người phụ nữ hiện nay, hạnh
phúc là khi có thu nhập ổn định. Rõ ràng không phải những người hạnh phúc
nhất là những người giàu có nhất nhưng chúng ta vẫn không thoát khỏi suy
nghĩ tiền có thể mua được hạnh phúc - hay ít nhất nó cũng mang lại cho ta
cảm giác hạnh phúc. Rất khó có thể thoát ra khỏi quan niệm bất thành văn ấy.
Tuy nhiên, cần lưu ý tính chất hai mặt của đồng tiền. Tiền mang lại hạnh phúc
nhưng nếu quá coi trọng đồng tiền sẽ rơi vào cái bẫy mà Elizabeth gọi là
“mẫu rập khuôn Mỹ buồn thảm hết sức” - khi con người chỉ biết mải mê kiếm
tiền mà quên đi cách tận hưởng những niềm vui của cuộc sống, thậm chí khi
được nghỉ ngơi cũng không biết cách để thư giãn. Thời gian cuối tuần là thời
gian trong áo ngủ, ăn hạt ngũ cốc ăn liền và ngây người nhìn tivi, qua ngày
nghỉ lại lao vào kiếm tiền.
Điểm khác biệt thể hiện ở nhóm tuổi. Người phụ nữ càng ở độ tuổi trẻ
càng đánh giá cao yếu tố “thành công” của cá nhân trong việc đem lại hạnh
phúc. Điều này cũng rất phù hợp với quy luật văn hóa bởi sự biến đổi văn hóa
sẽ diễn ra nhiều hơn trong những nhóm trẻ, từ đó dẫn tới những khác biệt giữa
các thế hệ.
Có thể nói quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc đã có sự biến
đổi, không phải đơn giản chỉ là sự tiếp tục chuẩn mực truyền thống mà nó còn
là sản phẩm của những quyết định duy lý hiện đại
113
Chương 5
ĐẶC ĐIỂM HÔN NHÂN
VÀ QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI PHỤ NỮ VỀ HẠNH PHÚC
5.1. Tình trạng hôn nhân và quan niệm hạnh phúc
Một số nghiên cứu đã chỉ ra mối liên hệ giữa hạnh phúc và tình trạng
hôn nhân như trong phần tổng quan của luận án đã phân tích [3; 49; 15].
Nghiên cứu cụ thể về hạnh phúc ở Châu Á, hai tác tả Nichols và Schwartz đã
đưa ra nhận định: bối cảnh Châu Á mang tính chất tiêu biểu, chứng minh cho
quan điểm “Con người là một sản phẩm của bối cảnh xã hội. Bất cứ nỗ lực
nào nhằm cố gắng để hiểu được họ phải đánh giá dựa trên gia đình của họ”
[15, tr.106]. Chính vì thế, luận án muốn tìm hiểu xem tình trạng hôn nhân có
chi phối quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc không?.
Để đảm bảo tính chính xác của thông tin, trong phần này, luận án
loại khỏi mẫu những người góa, ly hôn/ly thân. Như vậy, đề tài đã loại
khỏi mẫu 123 trường hợp và mẫu nghiên cứu hiện tại chỉ còn lại 1.320
trường hợp.
Trong tổng số 33 yếu tố, luận án cũng chỉ chọn ra 15 yếu tố đã được
người phụ nữ ưu tiên lựa chọn chia đều cho cả 3 lĩnh vực.
Bảng 5.1 cho thấy, trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên, có ba
yếu tố thể hiện sự khác biệt trong quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
là “môi trường tự nhiên trong lành”, “có nhà ở riêng” và “an toàn vệ sinh
thực phẩm tốt”. Trong đó, sự khác biệt nhiều nhất thể hiện ở yếu tố “có nhà ở
riêng” với tỷ lệ lựa chọn của người phụ nữ có chồng là 71,2% và của người
phụ nữ độc thân là 53%.
114
Bảng 5.1: Quan niệm về hạnh phúc theo tình trạng hôn nhân (%)
Có chồng Độc thân
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 73,6 79,1
2. Có công ăn việc làm đầy đủ 68,8 70,4
3. Môi trường tự nhiên trong lành** 46,9 59,1
4. Có nhà ở riêng***
71,2 53,0
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt** 47,0 56,5
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận 96,0 94,8
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới*** 78,8 52,2
8. Quan hệ họ hàng tốt** 61,6 51,3
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm 53,9 56,5
10. Quan hệ láng giềng tốt*** 58,8 39,1
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt 95,8 94,8
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn 60,6 54,8
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí** 58,0 47,8
14. Thành công trong cuộc sống 46,0 41,7
15. Có trình độ học vấn** 43,6 55,3
N 1205 115
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05 *** P<0,001
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Nguồn: Đã trích dẫn
115
Trong tháp nhu cầu của Maslow, nhà ở được xếp vào nhu cầu thứ hai –
nhu cầu an toàn: con người mong muốn có sự bảo vệ cho sự sống còn của
mình khỏi các nguy hiểm. Nhu cầu này thường được khẳng định thông qua
mong muốn về nhà ở riêng như một phương thức ổn định cuộc sống. Trong
văn hóa Việt Nam, nhà ở được coi là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành
công trong sự nghiệp, sự trưởng thành, độc lập, tự chủ trong cuộc sống: “an
cư lạc nghiệp”. Theo truyền thống văn hóa Việt Nam, sau khi kết hôn, phần
lớn các cặp vợ chồng sẽ ở cùng gia đình chồng. Khi nghiên cứu về mô hình
chung sống sau hôn nhân ở Việt Nam, nhà nghiên cứu Nancy Wiegerma đã
hỏi nhiều phụ nữ nông thôn rằng họ sống ở đâu sau khi kết hôn, những phụ
nữ này coi đó là một câu hỏi “lạ lùng, kỳ cục” và đáp: “Tất nhiên là chúng tôi
sống với bố mẹ chồng chứ sống ở đâu khác?” [72, tr.35]. Các cặp vợ chồng
sẽ tách riêng khi đủ năng lực tự lập, tự chủ về kinh tế hoặc con cái của họ đã
lớn [95; 80; 81].
Với người phụ nữ có chồng, nhà ở riêng mang ý nghĩa nhiều hơn trong
quan niệm về hạnh phúc bởi với họ nhà ở riêng không chỉ đơn thuần là nơi
bảo vệ gia đình mà nó còn là tượng trưng cho một cuộc sống ổn định, tự chủ,
độc lập. Bên cạnh đó, có nhà ở riêng cũng đồng nghĩa với khoảng không gian
riêng tư mà người phụ nữ có thể thoải mái thể hiện những hành động tình cảm
với chồng mà không cần để ý tới thái độ của bố mẹ. Trong bối cảnh xã hội
truyền thống, khi những biểu hiện của tình cảm vợ chồng không được khuyến
khích thể hiện ở chỗ đông người thì có thể thấy nhà ở riêng là không gian
riêng tư để hai vợ chồng nảy sinh cảm xúc và gần gũi nhau.
“Không dám mạnh dạn trước mặt bố mẹ hay mọi người đâu. Có lúc
nào ngơi việc dành thời gian cho nhau là vợ chồng chui vào buồng rồi
thì ôm hôn nhau trong im lặng thôi chứ làm sao mà dám mạnh dạn như
bây giờ” (Thảo luận nhóm nữ, An Giang).
Nguồn: Đã trích dẫn
116
“Hồi đấy xấu hổ chứ không như bây giờ. Không dám nói câu yêu nhau
ra ngoài đâu. Chỉ có ngủ với nhau, tâm sự với nhau mới nói yêu hay
thương mình lắm thế nọ thế kia thôi. Độc nói hai người với nhau thôi.
Ban ngày không dám nói” (PVS, nữ, mức sống trung bình, Đắc Lắc)
Còn với người phụ nữ độc thân, có thể họ chưa nghĩ nhiều tới yếu tố
nhà riêng mà đang dành sự quan tâm cho những vấn đề khác.
Trong lĩnh vực gia đình - xã hội, cũng có ba yếu tố thể hiện sự khác
biệt quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc là “con cháu chăm ngoan, tấn
tới”, “quan hệ họ hàng tốt” và “quan hệ láng giềng tốt”. Trong đó, có hai yếu
tố thể hiện sự khác biệt nhiều hơn. Tỷ lệ lựa chọn lần lượt ở nhóm phụ nữ có
vợ/chồng và nhóm phụ nữ độc thân ở yếu tố “con cháu chăm ngoan tấn tới” là
78,8% và 52,2% và ở yếu tố “quan hệ láng giềng tốt” là 58,8% và 39,1%
(Bảng 5.1). Kết quả này góp phần khẳng định thêm nhận định của các học giả
trước đây khi nghiên cứu về “tính chung” trong quan niệm hạnh phúc ở Châu
Á: quan niệm hạnh phúc trong bối cảnh văn hóa Nho giáo phải có đặc trưng
mang tính chung, mục tiêu chung, sở thích chung và mong ước mang tính tập
thể hơn là tính cá nhân. Hạnh phúc là khi một người có mối quan hệ tốt với
mọi người và quan hệ này còn quan trọng hơn tri thức hay tiền bạc của cá
nhân đó. Trong nghiên cứu này, theo quan niệm của người phụ nữ, họ chỉ
hạnh phúc khi có mối quan hệ tốt với láng giềng và khi con cháu hạnh phúc.
Họ lấy việc thỏa mãn nhu cầu của người khác làm hạnh phúc cho mình. Quan
niệm này thể hiện rõ ràng hơn ở những người phụ nữ đã có gia đình.
Trong lĩnh vực đời sống cá nhân, quan niệm của người phụ nữ có
vợ/chồng và phụ nữ độc thân thể hiện sự tương đồng nhiều hơn khác biệt. Chỉ
có hai yếu tố khác biệt với độ chênh lệch không nhiều. Trong khi người phụ
nữ có vợ/chồng lựa chọn yếu tố “có thời gian nghỉ ngơi giải trí” cao hơn
(58,0% so với 47,8%) thì người phụ nữ độc thân lựa chọn yếu tố “có trình độ
Nguồn: Đã trích dẫn
117
học vấn” cao hơn (55,3% so với 43,6%) (Bảng 5.1). Có thể vì người phụ nữ
độc thân chưa bận rộn với công việc gia đình nên họ có nhiều thời gian hơn
để theo đuổi con đường học vấn và chủ động hơn trong sắp xếp thời gian nghỉ
ngơi vui chơi giải trí. Với người phụ nữ có gia đình, quỹ thời gian trong ngày
bị xé lẻ cho nhiều công việc, đặc biệt là những công việc chăm sóc không
được trả công.
Logic thông thường là khi phụ nữ tham gia ngày càng nhiều trong các
lĩnh vực hoạt động chuyên môn và xã hội, thì sự tham gia của nam giới trong
các công việc gia đình cần phải được tăng lên. Tuy nhiên các nghiên cứu cho
thấy lượng thời gian người chồng sử dụng cho công việc gia đình và chăm sóc
con cái không liên quan đến việc vợ của anh ta có một công việc được trả
lương hay không. Có nghĩa là người phụ nữ dù là ai, như thế nào thì công việc
gia đình và chăm sóc con cái vẫn là bổn phận của họ, bất chấp họ làm nội trợ
hay lao động kiếm tiền. Một số nghiên cứu gần đây ở Việt Nam chỉ ra rằng:
phụ nữ trung bình dành hơn 5 giờ đồng hồ mỗi ngày cho những công việc
“không tên” như nấu nướng, dọn dẹp, chăm sóc con… nhiều hơn nam giới từ
2 tới 2,5 giờ đồng hồ (Vụ Bình đẳng Giới, 2016). Hay một nghiên cứu khác
cho thấy: tổng số thời gian người vợ dành cho các công việc gia đình gấp đôi
người chồng (1.879 so với 986 phút ở người chồng) và nếu tính theo ngày,
tình hình cũng tương tự khi người vợ phải dành 4,4 giờ cho các công việc gia
đình ngoài công việc sản xuất, trong khi người chồng chỉ mất trung bình 2,3
giờ [114]. Sự tham gia vào thị trường lao động cũng như thực hiện những
công việc tạo thu nhập của người phụ nữ sẽ bị hạn chế bởi trách nhiệm với
các công việc gia đình. Việc dành nhiều thời gian cho các công việc gia đình
dẫn đến tình trạng nghèo thời gian và trực tiếp ảnh hưởng đến quyền làm việc,
quyền học tập và quyền nghỉ ngơi của phụ nữ. Việc nhà ít khiến đàn ông bị
trầm cảm nhưng đóng góp vào sự trầm cảm của phụ nữ [2].
118
“Sau một ngày làm việc mệt mỏi, nhiều áp lực, về nhà lại cơm nước,
con cái, dọn dẹp, không còn thời gian cho riêng mình nữa. Được ngày
nghỉ lại đưa đón con đi học thêm, hoạt động bên nội, bên ngoại. Đến
thời gian ngủ còn thiếu chứ đừng nói đến nghỉ ngơi, giải trí. Bảo sao
cứ hay tức chồng, quát con… Có được ngày nghỉ mà chỉ ăn với ngủ
thôi đã là hạnh phúc” (PVS, nữ cán bộ, kinh tế trung bình, lập gia
đình 10 năm, Ninh Bình).
Do đó, nam giới nếu chỉ ghi nhận đóng góp của phụ nữ thôi chưa đủ mà
cần tham gia nhiều hơn vào công việc gia đình nếu muốn đem lại hạnh phúc
cho phụ nữ nói riêng và đảm bảo hạnh phúc gia đình nói chung.
5.2. Độ dài hôn nhân và quan niệm hạnh phúc
Theo thời gian, mọi cuộc hôn nhân đều thay đổi vì bản thân người vợ
người chồng luôn liên tục thay đổi và dần trở thành một người nào đó khác
hẳn về tri thức, về xã hội và cảm xúc. Vậy quan niệm hạnh phúc của người
phụ nữ có thay đổi theo độ dài hôn nhân?.
Tương tự như phần trên, luận án loại khỏi mẫu những người chưa kết
hôn, những người góa và số ít trường hợp trả lời “không nhớ” về năm kết hôn.
Như vậy, đề tài đã loại khỏi mẫu 209 trường hợp và mẫu nghiên cứu hiện tại
chỉ còn lại 1.234 trường hợp.
Trong tổng số 33 yếu tố, luận án cũng chỉ chọn ra 15 yếu tố đã được
người phụ nữ ưu tiên lựa chọn chia đều cho cả 3 lĩnh vực.
Số năm kết hôn của người phụ nữ được chia thành 3 khoảng: 10 năm
trở xuống, 11-30 năm và 31 năm trở lên với giả định về đường đời của gia
đình là khoảng thứ nhất ứng với giai đoạn khởi đầu, hình thành cuộc hôn nhân
và có con; khoảng thứ hai ứng với giai đoạn nuôi con nhỏ đến khi con trưởng
thành; khoảng thứ ba ứng với giai đoạn chia tách bắt đầu khi đứa con lớn nhất
trưởng thành.
Nguồn: Đã trích dẫn
119
Bảng 5.2: Quan niệm hạnh phúc theo độ dài hôn nhân (%)
1-10
năm
11-30
năm
31 năm
trở lên
Lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
1. Có thu nhập ổn định 78,2 75,8 78,3
2. Có công ăn việc làm đầy đủ 66,8 70,5 67,9
3. Môi trường tự nhiên trong lành 46,0 45,4 52,0
4. Có nhà ở riêng*** 65,4 74,7 72,6
5. An toàn vệ sinh thực phẩm tốt* 49,9 42,9 52,3
Lĩnh vực gia đình - xã hội
6. Gia đình hoà thuận* 94,8 95,3 98,6
7. Con cháu chăm ngoan, tấn tới*** 68,4 79,7 91,0
8. Quan hệ họ hàng tốt* 56,7 62,5 65,3
9. An ninh, an toàn xã hội bảo đảm*** 53,1 51,0 62,8
10. Quan hệ láng giềng tốt*** 51,8 61,7 62,8
Lĩnh vực đời sống cá nhân
11. Có sức khỏe tốt* 94,8 95,6 98,2
12. Đời sống tinh thần, tâm linh yên ổn*** 55,6 59,2 71,5
13. Có thời gian nghỉ ngơi, giải trí 54,0 59,7 60,6
14. Thành công trong cuộc sống*** 50,7 46,8 37,3
15. Có trình độ học vấn* 39,8 46,8 41,5
Mức ý nghĩa thống kê: *P<0,1 ** P<0,05 *** P<0,001
Các yếu tố có dấu * thể hiện sự khác biệt
Nguồn: Đã trích dẫn
120
Số liệu bảng 5.2 cho thấy nhóm yếu tố gia đình - xã hội thể hiện sự
khác biệt nhiều nhất theo số năm kết hôn. Số năm kết hôn càng nhiều, người
phụ nữ càng chú ý tới các mối quan hệ gia đình - xã hội, trong đảm bảo hạnh
phúc cá nhân. Về mặt lý thuyết, các cá nhân thường dựa vào gia đình như
nguồn lực duy nhất để tạo nền tảng hỗ trợ trước nền công nghiệp hóa tư bản
chủ nghĩa, quá trình đô thị hóa và những xu hướng cực đoan trong giáo dục.
Tuy nhiên, thiết chế gia đình yếu đi khiến các quan hệ gia đình chuyển từ
nguồn lực xã hội thành các rủi ro. Một cá nhân có thể bị buộc phải giúp đỡ
các thành viên khác trong gia đình hoặc họ hàng thay vì nhận được sự giúp đỡ
của họ. Nhiều trường hợp quyết định hoãn kết hôn, hoãn sinh con để tránh
mọi rủi ro. Giải thích cho điều này, Chang Kyung-Sup (2010) đưa ra khái
niệm “xu hướng cá nhân nhằm tránh rủi ro”. Xu hướng cá nhân hóa nhằm
tránh rủi ro được định nghĩa là khuynh hướng xã hội của các cá nhân nhằm
giảm thiểu những rủi ro liên quan đến gia đình trong cuộc sống hiện đại bằng
cách quay trở lại trạng thái cá nhân trong cuộc sống.
Có thể những người kết hôn trong khoảng 1-10 năm trở lại đây ít bị ảnh
hưởng bởi văn hóa truyền thống hơn, trong khi lại tiếp nhận công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nhiều hơn nên trong quan niệm hạnh phúc của họ, các yếu tố gia
đình không xếp vị trí cao như những người kết hôn 31 năm trở lên. Họ có xu
hướng nghiêng về những yếu tố cá nhân, ví dụ yếu tố “thành công trong cuộc
sống” như bảng kết quả đã chỉ ra. Tỷ lệ lựa chọn yếu tố “thành công trong
cuộc sống” ở lớp thế hệ kết hôn 1-10 năm là 50,7% - cao hơn tỷ lệ lựa chọn ở
lớp thế hệ kết hôn 31 năm trở lên là 37,3%. Mặc dù vậy, điều này chưa phải là
biểu hiện của cá nhân chủ nghĩa. Nó chỉ phản ánh ý nghĩa của các mối quan
hệ gia đình trong quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc.
Những người kết hôn 31 năm trở lên dành sự chú ý đặc biệt cho các
mối quan hệ gia đình-xã hội. Phải chăng trải qua một chặng đường dài với rất
nhiều sự kiện trong cuộc sống gia đình, vui sướng có, khổ đau có, người phụ
nữ mới nhận thức được rằng hạnh phúc của cá nhân chỉ có được khi các mối
121
quan hệ gia đình - xã hội được thỏa mãn? hay những người kết hôn 31 năm
trở lên chính là lớp thế hệ đã sống và được nuôi dưỡng trong nền văn hoá
truyền thống đề cao các giá trị gia đình, đề cao tính kết nối và phụ thuộc lẫn
nhau. Sự kết nối và phụ thuộc là tâm điểm của suy nghĩ và các cá nhân được
khuyến khích hành động với cam kết về vai trò, trách nhiệm trong các mối
quan hệ sẵn có. Trong nền văn hoá truyền thống này, hạnh phúc của người
phụ nữ chính là là hy sinh cho chồng, cho con như một ý kiến chia sẻ:
“Người phụ nữ hạnh phúc là hy sinh. Thấy chồng con hạnh phúc là mình
hạnh phúc”(PVS, mức sống khá, kết hôn 31 năm trở lên, Ninh Bình).
“Để hạnh phúc thì người phụ nữ phải biết sống, nghĩa là tôn trọng bố
mẹ, chăm lo cho các thành viên, đảm đang việc nội trợ và biết nhịn
chồng” (PVS, mức sống khá, kết hôn 10-20 năm, Tp. Hồ Chí Minh)
Sự hy sinh này không phải đến từ một phía người phụ nữ mà cả những
thành viên khác, đặc biệt là người chồng:
“Chồng mình cũng hy sinh nhiều thứ cho gia đình nên mình cũng phải
hy sinh chứ, không thể nghĩ cho riêng mình được. Chồng mình hạnh
phúc khi mình hạnh phúc thì mình cũng hạnh phúc khi chồng hạnh
phúc”(PVS, mức sống khá, kết hôn hơn 20 năm, Ninh Bình).
Sự hy sinh trong câu chuyện của người phụ nữ chia sẻ không phải là
một điều gì đó quá nặng nề mà mang nghĩa “bao dung” “độ lượng” nhiều hơn.
Bao dung là thái độ ứng xử cho qua, xả bỏ, coi như không có gì, khi đứng
trước lỗi lầm, sai trái của người khác, khi gặp việc không vừa ý. Độ lượng là
thái độ dễ cảm thông và tha thứ cho người có sai sót, lầm lỡ. Không chỉ người
chồng cảm nhận được hạnh phúc từ sự bao dung của người phụ nữ mà ngay
bản thân người phụ nữ cũng nhận được hạnh phúc từ chính sự bao dung ấy.
Logic này được hiểu theo quan niệm của đạo Phật “cho đi nghĩa là nhận lại”
hay theo thuyết “sự lựa chọn hợp lý” của xã hội học. Người phụ nữ cho và
Nguồn: Đã trích dẫn
122
nhận là để được sống trong một hạnh phúc.
Để khẳng định quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ có đồng nghĩa
với sự hy sinh không cần có thêm những nghiên cứu chuyên sâu khác. Nhưng
có thể nói quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ bị chi phối bởi các mối
quan hệ gia đình, đặc biệt là mối quan hệ vợ chồng. Nhận định này được thể
hiện một cách rõ ràng hơn qua việc xem xét “hành trình đường đời” của người
phụ nữ với quan niệm hạnh phúc. Trong suốt “hành trình đường đời” này,
hình ảnh của người chồng luôn thể hiện vai trò chi phối rất nổi bật.
Dưới đây là lược đồ mô phỏng lại đường đời gia đình của người phụ
nữ. Lược đồ này dựa trên tiếp cận phát triển (tiếp cận đường đời) để mô
phỏng đường đi của nó. Các điểm nút thay đổi của gia đình được xem xét
thông qua các sự kiện, những thách thức mà hai vợ chồng phải đối mặt cũng
như cách thức mà họ giải quyết các khó khăn để cảm nhận hạnh phúc, hướng
tới hạnh phúc. Dĩ nhiên không phải mọi sự kiện quan trọng của gia đình đều
được ghi nhận đầy đủ trên lược đồ bởi mục tiêu của luận án là tìm hiểu xem
mối quan hệ vợ chồng chi phối như thế nào tới quan niệm của người phụ nữ
về hạnh phúc hơn là quá chú ý đến mọi sự kiện có thể có.
Lược đồ: Đường đời gia đình của chị Mai1
1975 1980 1998 2006
1976 1986 2000 2016
Gia đình hoà thuận
Có thu nhập ổn định
Con cháu chăm
ngoan, tấn tới
Có sức khỏe tốt
Ghi chú: Đường nét liền biểu diễn đường đời gia đình của chị Mai.
Năm ghi mốc các sự kiện đáng nhớ của gia đình. Các cột ghi quan niệm
hạnh phúc ứng với từng giai đoạn.
1 Tên những người trong câu chuyện đã được thay đổi
123
1975: Chị Mai cưới anh Sơn
1976: Chị Mai sinh con gái đầu lòng
1980: Chị Mai sinh con trai thứ hai
1986: Thời kỳ bắt đầu đổi mới
1998: Con lớn của chị Mai lập gia đình
2000: Chị Mai có cháu ngoại đầu tiên
2006: Chồng chị Mai mất
2016: Chị Mai hiện ở cùng gia đình con trai thứ hai
Câu chuyện gia đình chị Mai được nêu dưới đây là một minh họa
về mối quan hệ vợ chồng ảnh hưởng đến quan niệm hạnh phúc theo từng
giai đoạn của gia đình.
Hộp: Quan niệm hạnh phúc thay đổi
theo giai đoạn phát triển của gia đình
Chị Mai lập gia đình năm 1975. Khi đó là giải phóng miền Nam nên kinh tế gia
đình rất khó khăn. Hai vợ chồng cùng làm công nhân nhà máy điện nên đám cưới
của hai anh chị được cơ quan đứng ra tổ chức. Năm 1976, chị Mai sinh con gái đầu
lòng. 4 năm tiếp theo, chị sinh con trai thứ hai. Giai đoạn chị Mai lập gia đình cho
tới khi sinh 2 con là đang thời bao cấp, mọi hàng hoá, lương thực đều khan hiếm. Vì
bận con nhỏ nên việc xếp hàng mua nhu yếu phẩm đều do anh Sơn đảm nhiệm. Chị
Mai nhớ nhất hình ảnh anh Sơn sau khi làm ca về là đứng xếp hàng mua gạo, thịt,
củi. Nhiều khi phải xếp hàng đến 1- 2 giờ sáng, đem cả màn đi mắc hoặc xếp gạch
ngồi chờ. Khi về đến nhà, anh Sơn lại tranh thủ giúp chị làm việc nhà, chăm con,
không ngại việc gì, thậm chí giặt cả đồ sau sinh cho vợ vì bố mẹ và họ hàng đều ở
xa. Với chị Mai, hạnh phúc lúc này là khi vợ chồng chia sẻ, quan tâm, động viên và
cùng hiểu nhau để gia đình luôn vui vẻ, hoà thuận.
Từ năm 1986, khi nhà nước thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện, gia đình
chị Mai cũng phải đối diện với nhiều thách thức. Lương công nhân của hai vợ
Nguồn: Đã trích dẫn
124
chồng phải rất tiết kiệm mới nuôi được hai con ăn học và chi tiêu hàng ngày. Khi
hàng hoá được tự do chọn lựa cũng là lúc phải đối diện với câu chuyện về đồng
tiền. Theo chị Mai, thời bao cấp mọi người đều nghèo nhưng sống với nhau vô tư,
chan hòa. Từ khi Đổi mới, mọi người nghĩ về tiền nhiều hơn và tiền cũng quan
trọng hơn trong đem lại hạnh phúc. Cả hai vợ chồng đều cố gắng làm tăng ca. Anh
Sơn cùng bạn bè nhận thêm công việc sửa chữa đồ điện để đảm bảo thu nhập cho
gia đình. Hạnh phúc lúc này với chị Mai là gia đình có nguồn thu nhập ổn định.
Năm 1998, con gái lớn của chị Mai lập gia đình và năm 2000, chị Mai có cháu
ngoại đầu tiên. Vì gia đình con gái lớn ở cùng phường với gia đình chị Mai nên thời
gian này, cả hai vợ chồng chị Mai đều dành nhiều thời gian sang nhà con gái, vừa
giúp con gái làm việc nhà, vừa chăm cháu nhỏ. Khi nhìn thấy các con công việc ổn
định, thăng tiến, các cháu khoẻ mạnh là chị Mai thấy hạnh phúc.
Năm 2006, anh Sơn mất đột ngột do ngã cầu thang. Đây là một cú sốc lớn với
chị Mai. Trong cả cuộc đời cho đến khi chồng đột ngột ra đi là mốc thời gian chị
không bao giờ quên. Chị Mai sút 10 kg và buông xuôi tất cả. “Tôi đã chết theo
chồng” - lời chia sẻ của chị. Chị thấy cuộc đời không còn ý nghĩa và không còn mục
tiêu để sống. 3 năm sau đó, chị Mai mới ổn định được tinh thần. Sau khi chồng chị
Mai mất, vợ chồng con gái mua nhà về ở ngay cạnh nhà chị để cả nhà quây quần.
Đến thời điểm đề tài khảo sát, năm 2016, niềm hạnh phúc của chị Mai, ưu tiên trước
hết, là mong có sức khoẻ tốt, không bệnh tật, không nghĩ đến tuổi tác. Hạnh phúc
của chị Mai tóm tắt lại là “3 quên, 4 có, 5 không”;
- 3 quên: quên tuổi tác, quên bệnh tật, quên hận thù
- 4 có: Có gia đình chung (không sống cô đơn), có con cháu, có nhà riêng, có
tài sản, có bạn đời/bạn tri kỷ.
- 5 không: không chăm cháu, không ở chung với con cháu, không bán nhà đi ở
với con cháu, không can thiệp đến công việc riêng của con, không từ chối khi con
cho tiền.
Xem xét lược đồ và câu chuyện về gia đình chị Mai có thể thấy, quan
niệm về hạnh phúc của chị Mai thay đổi theo những giai đoạn phát triển của
gia đình. Và đằng sau sự thay đổi đó là câu chuyện tình cảm của hai vợ
chồng. Cách hai vợ chồng cùng chia sẻ mọi vui buồn, khó khăn từ khi kết hôn
đến khi một trong hai người ra đi đã khẳng định rằng: với người phụ nữ,
125
người chồng luôn có một vị trí quan trọng và mối quan hệ vợ chồng luôn có
ảnh hưởng sâu sắc đến quan điểm, suy nghĩ của người phụ nữ nói chung và
đến quan niệm về hạnh phúc của người phụ nữ nói riêng.
5.3. Đặc điểm hôn nhân, đặc điểm cá nhân và quan niệm hạnh phúc
Kết quả phân tích tương quan hai biến cho thấy có rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Tất cả các yếu tố này
sẽ được đưa vào mô hình phân tích đa biến logistic (logistic regression) để
đánh giá ảnh hưởng riêng của mỗi yếu tố lên biến phụ thuộc.
Luận án sẽ phân tích mối quan hệ giữa 15 yếu tố đã được người phụ
nữ ưu tiên lựa chọn với các yếu tố liên quan đến đặc điểm cá nhân và các yếu
tố đặc trưng cho hôn nhân. Trước tiên, hệ biến đặc điểm cá nhân sẽ được đưa
vào trước, sau đó đưa tiếp hệ biến đặc trưng cho hôn nhân để xem có sự thay
đổi hay không.
Biến phụ thuộc gồm 15 biến, chia đều cho cả 3 lĩnh vực (lĩnh vực kinh
tế - môi trường tự nhiên; lĩnh vực gia đình - xã hội; lĩnh vực đời sống cá
nhân) như đã phân tích ở tương quan hai biến. Mỗi một biến sẽ có hai giá trị:
1- Có chọn; 0- Không chọn.
Với mỗi yếu tố mà người phụ nữ lựa chọn, luận án sẽ chạy 2 mô hình
hồi quy logistic với hệ biến độc lập cụ thể như sau:
Mô hình 1: hệ biến đại diện cho đặc điểm cá nhân gồm: khu vực sinh
sống (nông thôn/đô thị), tuổi, tôn giáo, dân tộc, mức sống.
Mô hình cuối: đưa tiếp hệ biến đặc trưng cho hôn nhân gồm: tình trạng
hôn nhân và độ dài hôn nhân.
5.3.1. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên
Bảng 5.3 cung cấp kết quả chạy hồi quy: tương ứng với các phân loại
của mỗi biến số là tỷ số chênh lệch giữa tác động của loại đặc trưng đó đến
việc lựa chọn hành động. Trong bảng này, luận án chỉ đưa ra kết quả của mô
126
hình cuối cùng (khi tất cả các biến số phân tích đều được đưa vào mô hình).
Số liệu trong bảng ứng với các phân loại của mỗi biến số là tỉ số chênh lệch
[odd ratios] giữa tác động của loại đặc trưng đó đến quan niệm hạnh phúc của
người phụ nữ so với tác động của loại đặc trưng dùng để so sánh. Tỷ số cho
loại dùng để so sánh luôn nhận giá trị bằng 1. Nếu tỷ số chênh lệch của một
loại đặc trưng nào đó lớn hơn 1, nghĩa là nhóm người mang đặc trưng đó ghi
nhận hành động mang lại hạnh phúc cao hơn nhóm người mang loại đặc trưng
dùng để só sánh. Ngược lại, nếu tỷ số chênh lệch cho loại đặc trưng nào đó
nhỏ hơn 1 thì nhóm người mang đặc trưng đó ít có khả năng ghi nhận hành
động trong việc đem lại hạnh phúc hơn nhóm người mang loại đặc trưng dùng
để so sánh. Các dấu sao (*, **, ***) ghi bên cạnh tỷ số chênh lệch cho thấy
tác động của loại đặc trưng này có ý nghĩa về mặt thống kê hay không. Tỷ số
càng kèm nhiều dấu sao thì tác động càng quan trọng. Tỷ số không kèm dấu
sao nghĩa là không có bằng chứng để khẳng định tác động của loại đặc trưng
đang xét có ý nghĩa về mặt thống kê.
Trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên, mô hình hồi quy logistic
cho thấy: khi đưa thêm các yếu tố đặc trưng hôn nhân không làm thay đổi
nhiều về mức độ tác động của các biến độc lập. Tổng mẫu phân tích trong mô
hình cuối là 1153 trường hợp.
Kết quả hồi quy logistic khẳng định kết quả phân tích hai biến khi chỉ ra
rằng: mặc dù ở những nhóm xã hội khác nhau nhưng người phụ nữ có quan niệm
tương đối thống nhất về hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên.
Trong đó quan niệm hạnh phúc là khi có “thu nhập ổn định” và “có nhà ở riêng”
là nhiều sự tương đồng hơn cả. Hay nói cách khác, trong quan niệm chung của
người phụ nữ hiện nay, hạnh phúc là khi có thu nhập và có nhà ở.
127
Bảng 5.3: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực kinh tế-môi trường tự nhiên (kết quả phân tích hồi quy logistic)
Biến số độc lập
Thu
nhập ổn
định
(Mô hình
cuối)
Việc làm
đầy đủ
(Mô hình
cuối)
Môi
trường
trong
lành
(Mô hình
cuối)
Nhà ở
riêng
(Mô hình
cuối)
An toàn
VSTP
(Mô hình
cuối) N
Tỷ số
chênh
lệch
Tỷ số
chênh
lệch
Tỷ số
chênh
lệch
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh lệch
Đặc điểm cá nhân
Khu vực
Nông thôn 0,9 1,7*** 1,6*** 0,9 1,8*** 541
Đô thị 1 1 1 1 1 612
Nhóm tuổi
Dưới 40 1,3 1,1 0,8 0,7 0,5** 549
40-59 tuổi 1,3 1,1 0,9 0,8 0,8 508
60 trở lên 1 1 1 1 1 96
Tôn giáo
Có tôn giáo 0,9 0,9 0,6*** 1,3 0,6*** 617
Không tôn giáo 1 1 1 1 1 536
Dân tộc
Kinh 0,9 1,3* 2,5*** 1,3 2*** 804
Dân tộc khác 1 1 1 1 1 349
Mức sống
Khá 1,1 0,8 0,8 1,1 0,9 204
Trung bình 0,8 0,6*** 0,5*** 1,1 0,7** 593
Nghèo 1 1 1 1 1 356
Đặc trưng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân
Có chồng 1 3,1 0,4 1,2 0,7 1146
Độc thân 1 1 1 1 1 7
Độ dài hôn nhân
10 năm trở xuống 0,8 0,9 1 0,9 1,6* 360
11-30 năm 0,9 1 0,9 1,2 1 550
31 năm trở lên 1 1 1 1 1 243
1153
Mức ý nghĩa: ***<0,01; **<0,05; *<0,1
Nguồn: Đã trích dẫn
128
Trong phần tương quan hai biến, luận án đã phân tích hai luồng quan
điểm xung quanh chủ đề hạnh phúc và tiền. Quan điểm thứ nhất “tiền không
làm nên hạnh phúc” và quan điểm thứ hai “có tiền là có hạnh phúc”. Kết quả
của luận án bước đầu đồng thuận với quan điểm thứ hai xét từ quan niệm của
người phụ nữ trong bối cảnh Việt Nam hiện nay. Rõ ràng không phải những
người hạnh phúc nhất là những người giàu có nhất nhưng chúng ta vẫn không
thoát khỏi suy nghĩ tiền có thể mua được hạnh phúc - hay ít nhất nó cũng
mang lại cho ta cảm giác hạnh phúc. Rất khó có thể thoát ra khỏi quan niệm
bất thành văn ấy. Như quan điểm một bạn trẻ khi được hỏi về tiền và hạnh
phúc “Tiền làm nên hạnh phúc chứ. Nếu chị có tiền mà không hạnh phúc
nghĩa là chị không biết tiêu tiền” (PVS nữ, mức sống trung bình, Thành phố
Hồ Chí Minh). Điều này gợi ra rất nhiều hướng nghiên cứu xung quanh chủ
đề tiền và hạnh phúc: đâu là giới hạn của tiền để đem lại hạnh phúc?, thói
quen tiêu dùng và hạnh phúc? Ví dụ nghiên cứu của Ashley Whillans (2019)
nghiên cứu cách con người dùng tiền để giải thoát khỏi những trải nghiệm
tiêu cực và mua thời gian hạnh phúc. Sự đánh đổi giữa tiền bạc và thời gian là
cách con người tiêu xài thời gian để có hạnh phúc.
Tương tự như thu nhập, nhà ở là một yếu tố đem lại hạnh phúc theo
quan niệm chung của phụ nữ. Hiện nay, trong cuộc sống hiện đại, nhà ở riêng
trong quan niệm hạnh phúc được gọi tên là “không gian hạnh phúc” - nó
không chỉ là không gian sống riêng giới hạn bởi diện tích m2 mà còn được đo
bằng hệ sinh thái và tiện ích xung quanh khu vực sống. Điều này làm thay đổi
quan niệm về hạnh phúc: ngôi nhà không chỉ là nơi hình thành các liên kết
chặt chẽ của các thành viên trong gia đình mà còn là nơi hình thành các liên
kết chặt chẽ của gia đình với cộng đồng, với thiên nhiên. Không phải ngẫu
nhiên mà Chỉ số hạnh phúc hành tinh (Happy Planet Index – HPI) chọn yếu tố
sinh thái là một trong ba tiêu chí đánh giá cuộc sống hạnh phúc lâu dài và bền
vững. Hạnh phúc không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển hay
không phát triển, giàu hay nghèo, có nhiều tiện nghi hay ít tiện nghi… mà phụ
Nguồn: Đã trích dẫn
129
thuộc vào tuổi thọ bình quân cao hay thấp, hài lòng hay không hài lòng với
cuộc sống của mình, và đặc biệt là việc tiêu dùng tài nguyên thiên nhiên ảnh
hưởng nhiều hay ít đến hệ sinh thái xung quanh.
Sự khác biệt quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực kinh tế - môi trường
tự nhiên thể hiện rõ ràng nhất ở nhóm phụ nữ chia theo khu vực (nông thôn -
đô thị) và nhóm phụ nữ chia theo dân tộc.
Phụ nữ ở nông thôn lựa chọn yếu tố “môi trường tự nhiên trong lành”
cao gấp 1,6 lần phụ nữ ở đô thị; gấp 1,7 lần ở yếu tố “có việc làm đầy đủ” và
gấp 1,8 lần ở yếu tố “an toàn vệ sinh thực phẩm”.
Người phụ nữ Kinh lựa chọn yếu tố “môi trường tự nhiên trong lành”
cao gấp 2,5 lần và ở yếu tố “an toàn vệ sinh thực phẩm” cao gấp 2 lần người
phụ nữ dân tộc khác.
Trong nghiên cứu này, lựa chọn địa bàn nghiên cứu của nhóm phụ nữ
Kinh là địa bàn phường, nhóm phụ nữ người dân tộc là địa bàn xã. Do người
phụ nữ Kinh cư trú trên địa bàn đô thị, luôn phải đối diện với tình trạng ô
nhiễm ngày càng tăng trong quá trình đô thị hóa nên họ lo lắng nhiều hơn về
môi trường tự nhiên và an toàn vệ sinh thực phẩm và chọn tiêu chí này là tiêu
chí quan trọng tạo nên hạnh phúc.
Trong khi đó, người phụ nữ dân tộc thiểu số sống ở nông thôn – nơi
chịu tác động bởi đô thị hóa ít hơn nên có thể vấn đề môi trường chưa cần chú
ý so với những nhu cầu khác của cuộc sống. Bên cạnh đó, văn hóa người dân
tộc thiểu số sống chủ yếu dựa vào tự nhiên, gắn bó mật thiết với thiên nhiên
nên họ có những kinh nghiệm và cách thức bảo vệ, khai thác môi trường tài
nguyên thiên nhiên từ rất lâu đời.
5.3.2. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội
Tiếp theo, luận án tiếp tục tìm hiểu mối quan hệ giữa năm yếu tố tạo nên
hạnh phúc trong lĩnh vực gia đình - xã hội theo quan niệm của người phụ nữ với
các biến độc lập. Hệ biến độc lập và cách chạy mô hình hồi quy logistic cũng
tương tự như phần phân tích trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên.
130
Bảng 5.4: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực gia đình - xã hội (kết quả phân tích hồi quy logistic)
Biến số độc lập
Gia đình
hòa thuận
(Mô hình
cuối)
Con cháu
chăm
ngoan
(Mô hình
cuối)
Quan hệ
họ hàng
tốt
(Mô hình
cuối)
An ninh
bảo đảm
(Mô hình
cuối)
Quan
hệ láng
giềng
tốt
(Mô
hình
cuối)
N
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh
lệch
Tỷ số
chênh
lệch
Đặc điểm cá nhân
Khu vực
Nông thôn 1,2 2*** 1,2 1,3* 1 541
Đô thị 1 1 1 1 1 612
Nhóm tuổi
Dưới 40 1,4 0,6 0,9 0,6* 1,3 549
40-59 tuổi 1,4 0,6 0,9 0,9 1,2 508
60 trở lên 1 1 1 1 1 96
Tôn giáo
Có tôn giáo 0,6 0,6*** 0,9 0,7*** 1,5*** 617
Không tôn giáo 1 1 1 1 1 536
Dân tộc
Kinh 0,6 0,6*** 0,6*** 0,9 1,1 804
Dân tộc khác 1 1 1 1 1 349
Mức sống
Khá 0,9 0,9 0,8 0,9 0,8 204
Trung bình 0,7 0,7* 0,7** 0,9 1,0 593
Nghèo 1 1 1 1 1 356
Đặc trưng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân
Có chồng 1 6,3** 1,1 0,4 1,2 1146
Độc thân 1 1 1 1 1 7
Độ dài hôn nhân
0-10 năm 0,2** 0,2*** 0,6* 1 0,5** 360
11-30 năm 0,2** 0,4*** 0,9 0,7* 0,8 550
31 năm trở lên 1 1 1 1 1 243
1153
Mức ý nghĩa: ***<0,01; **<0,05; *<0,1
Nguồn: Đã trích dẫn
131
Mô hình hồi quy logistic cho thấy: khi đưa thêm các yếu tố đặc trưng
hôn nhân đã làm thay đổi rất nhiều mức độ tác động của các biến độc lập, đặc
biệt là biến lớp thế hệ kết hôn và độ dài hôn nhân. Tổng mẫu phân tích trong
mô hình cuối vẫn là 1.153 trường hợp.
Lớp thế hệ kết hôn càng xa càng đánh giá cao các yếu tố thuộc lĩnh vực
gia đình - xã hội trong việc tạo nên hạnh phúc. Cụ thể, với yếu tố “gia đình
hòa thuận” tỷ lệ lựa chọn ở lớp thế hệ kết hôn giai đoạn 1957-1985 cao gấp
5,5 lần tỷ lệ lựa chọn ở lớp thế hệ kết hôn giai đoạn 2006-2017. Tương tự, tỷ
lệ lựa chọn ở yếu tố “con cháu chăm ngoan” cao gấp 5 lần và ở yếu tố “quan
hệ láng giềng tốt” cao gấp 1,9 lần. Điều này có thể lý giải rằng những người
kết hôn giai đoạn 1957-1985 là lớp thế hệ “thấm” nhiều hơn văn hóa Nho
giáo mà như các kết nghiên cứu hạnh phúc ở Châu Á đã chỉ ra rằng: một cuộc
sống hạnh phúc trong bối cảnh văn hóa Nho giáo phải có đặc trưng mang tính
chung, mục tiêu chung, sở thích chung và mong ước mang tính tập thể hơn là
tính cá nhân. Trong đời sống Khổng giáo, hạnh phúc chỉ xuất hiện nếu một
người có mối quan hệ tốt với mọi người và quan hệ này còn quan trọng hơn
tri thức hay tiền bạc của cá nhân đó trong việc tạo nên hạnh phúc. Trong quan
niệm của người phụ nữ, hạnh phúc cá nhân được đặt trong hạnh phúc gia đình
- nơi các sợi dây ràng buộc về mặt tình cảm giữ vai trò trung tâm. Việc nuôi
dưỡng tốt các mối quan hệ gia đình cũng là tạo điểm tựa cho hạnh phúc cá
nhân. Điều này đưa đến một nhận định rằng: thay đổi bối cảnh gia đình (hoặc
các mối quan hệ gia đình) sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đối với các thành
viên trong gia đình nói chung và đối với hạnh phúc của người phụ nữ nói
riêng. Mối quan hệ của người phụ nữ với gia đình có ý nghĩa hơn những gì họ
có. Tạo dựng một mối quan hệ với gia đình, họ hàng, cộng đồng là một trong
những cách cơ bản để người phụ nữ có thể tìm thấy tính liên tục và ý nghĩa
của xã hội.
5.3.3. Quan niệm hạnh phúc trong lĩnh vực đời sống cá nhân
Bảng 5.5 đưa ra kết quả phân tích hồi quy logistic về quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc trong lĩnh vực đời sống cá nhân. Kết quả tiếp tục
chỉ ra rằng: quan niệm của người phụ nữ có nhiều điểm tương đồng hơn khác
biệt. Khác biệt rõ nhất là hai biến số: nhóm tuổi và nhóm mức sống.
132
Bảng 5.5: Tác động của các yếu tố tới quan niệm hạnh phúc trong lĩnh
vực đời sống cá nhân (kết quả phân tích hồi quy logistic)
Biến số độc lập
Sức khỏe
tốt
(Mô hình
cuối)
Tinh thần
yên ổn
(Mô hình
cuối)
Có thời
gian nghỉ
ngơi
(Mô hình
cuối)
Thành
công
(Mô hình
cuối)
Có học
vấn
(Mô
hình
cuối) N
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh lệch
Tỷ số
chênh
lệch
Đặc điểm cá nhân
Khu vực
Nông thôn 1,6 1,2* 1,1 0,9 0,9 541
Đô thị 1 1 1 1 1 612
Nhóm tuổi
Dưới 40 1,3 1,1 1 2,2** 0,5** 549
40-59 tuổi 1,7 1,4 0,9 1,5 0,7* 508
60 trở lên 1 1 1 1 1 96
Tôn giáo
Có tôn giáo 0,8 1,1 1,2 1 1 617
Không tôn giáo 1 1 1 1 1 536
Dân tộc
Kinh 0,4* 0,9 0,5*** 0,9 0,8 804
Dân tộc khác 1 1 1 1 1 349
Mức sống
Khá 0,6 0,6** 1,1 1,9*** 1,6*** 204
Trung bình 0,3** 0,7** 0,8* 1,7*** 1,1 593
Nghèo 1 1 1 1 1 356
Đặc trưng hôn nhân
Tình trạng hôn nhân
Có chồng 1 1,2 0,5 5,4 0,6 1146
Độc thân 1 1 1 1 1 7
Độ dài hôn nhân
0-10 năm 0,4 0,6** 0,7 1 1,3 360
11-30 năm 0,4 0,6*** 0,9 1 1,6** 550
31 năm trở lên 1 1 1 1 1 243
1153
Mức ý nghĩa: ***<0,01; **<0,05; *<0,1
Nguồn: Đã trích dẫn
133
Về sự tương đồng, có thể thấy trong toàn thể các biến số, biến số tôn
giáo không thay đổi nhiều tỷ số chênh lệch. Có thể nói, trong lĩnh vực đời
sống cá nhân, người phụ nữ có chung quan niệm về hạnh phúc dù người phụ
nữ đó theo tôn giáo hay không. Dù người phụ nữ có thực hiện các nghi lễ tâm
linh hay không thực hiện các nghi lễ tâm linh cũng luôn hướng đến một đời
sống tinh thần yên ổn, tạo ra một nơi yên nghỉ an toàn cho những cảm giác
hân hoan hay tổn thương phức tạp nhất của mình. Xét về khía cạnh tâm lý, tất
cả mọi người đều cần một cất giữ an toàn cho các cung bậc cảm nhận của
mình và hạnh phúc là một trong những trải nghiệm đó để duy trì chính mình -
tinh thần và tâm linh - ở một tọa độ xác định, trong một trạng thái cân bằng
hoàn hảo. Vì vậy mà mỗi con người cần biết chính xác mình đang ở đâu tại
mỗi thời điểm, cả trong quan hệ với thiêng liêng và với gia đình của mỗi
người ở đây, trên trần thế này. Nếu đánh mất sự cân bằng đó, mỗi cá nhân sẽ
mất sức mạnh của mình và khó có thể tìm thấy hạnh phúc. Do đó, không phải
là một giả thuyết buồn cười khi nói người Bali là những bậc thầy cân bằng
toàn cầu, những người mà đối với họ duy thì thăng bằng hoàn hảo là một nghệ
thuật, một khoa học và một tôn giáo của hạnh phúc [8].
Về sự khác biệt, biến số “nhóm tuổi” được sử dụng như một chỉ báo về
sự biến đổi quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc và rõ ràng quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc đã thay đổi theo thời gian. Người phụ nữ càng
ở độ tuổi trẻ càng đánh giá cao yếu tố “thành công” của cá nhân trong việc
đem lại hạnh phúc. Cụ thể, tỷ lệ lựa chọn yếu tố này ở nhóm phụ nữ dưới 40
tuổi cao gấp 2,2 lần nhóm phụ nữ 60 tuổi trở lên. Trong một số phỏng vấn
sâu, những người tuổi trẻ đôi khi không hiểu được tại sao mẹ và bà của mình
lại phải “hy sinh” bản thân cho gia đình nhiều đến thế, phải chịu “thiệt thòi”
nhiều đến thế, không thể tự đưa ra lựa chọn của riêng mình nếu sự “thành
công” của cá nhân có thể ảnh hưởng đến gia đình.
“Đến bây giờ, em vẫn không thể hiểu được tại sao mẹ em lại chịu hi
sinh, thiệt thòi nhiều đến thế vì gia đình. Thời trẻ mẹ em xinh nhất làng và hát
rất hay. Một dịp có đoàn hát về làng biểu diễn, mẹ em rất muốn được đi theo
134
đoàn hát, muốn được biểu diễn nhưng ông bà ngoại không cho, bắt ở nhà lấy
chồng, bảo đó là nghề “xướng ca vô loài”, làm xấu mặt gia đình. Mẹ kể rằng,
hồi đó mẹ em khóc nhiều lắm, nhịn ăn mấy ngày. Đoàn hát đi rồi mà mẹ ngẩn
ngơ cả tháng” (PVS nữ 28 tuổi, cán bộ, Ninh Bình).
Elizabeth Gilbert trong nghiên cứu của mình cũng mô tả một cảm nhận
băn khoăn tại sao trong quá khứ, người phụ nữ (cụ thể là người mẹ của mình)
lại có thể sống độc lập, mạnh mẽ, không phụ thuộc, không đòi hỏi điều gì ở
bất kì ai. Họ có thể tự làm mọi thứ cho bản thân như “một cái máy tự cấp”
trong khi vẫn đáp ứng hoàn hảo nhu cầu của các thành viên khác trong gia
đình. “Cách người phụ nữ hành xử trong cuộc hôn nhân của mình - độc lập,
mạnh mẽ, không phụ thuộc. Một cái máy tự cấp. Có thể tồn tại mà không cần
những liều lượng lãng mạn hay tán tỉnh thường xuyên từ người nông dân cô
độc là cha tôi. Có thể hớn hở trồng vườn hoa cúc giữa những vách đá im lặng
không thể giải thích nổi mà đôi khi cha tôi dựng lên quanh ông. Tôi lớn lên
thấy trong nhà mình một người mẹ thường đón nhận tình yêu và trìu mến của
chồng bất cứ khi nào ông ấy nghĩ cần phải mang lại, nhưng sau đó luôn có thể
tránh đi và tự lo cho mình khi ông trôi dạt vào vũ trụ riêng biệt thờ ơ quên
lãng kém cỏi của ông. Dù sao, nó đã có vẻ như vậy đối với tôi, khi xem xét
cái điều rằng không ai (và nhất là trẻ con) có thể hiểu được những bí ẩn của
hôn nhân. Tôi tin khi lớn lên đã nhìn thấy một người mẹ không đòi hỏi điều gì
từ bất kì ai” [8, tr.140].
Nhìn chung kết quả phân tích quan niệm của người phụ nữ về hạnh
phúc trong cả ba lĩnh vực cho thấy: quan niệm của người phụ nữ về hạnh
phúc đã có sự biến đổi, không phải đơn giản chỉ là sự tiếp tục chuẩn mực
truyền thống mà nó còn là sản phẩm của những quyết định duy lý hiện đại.
Nguồn: Đã trích dẫn
135
Tiểu kết chương 5
Chương năm tìm hiểu ảnh hưởng của đặc điểm hôn nhân tới quan niệm
của người phụ nữ về hạnh phúc. Sau đó, tất cả các yếu tố đặc điểm hôn nhân
và đặc điểm cá nhân (đã được phân tích ở chương 4) được đưa vào mô hình
phân tích đa biến logistic (logistic regression) để đánh giá ảnh hưởng riêng
của mỗi yếu tố lên biến phụ thuộc.
Nhìn chung, các nghiên cứu, các cuộc thảo luận về hạnh phúc đều củng
cố quan điểm rằng: hạnh phúc - ở cả cấp độ quốc gia và cấp độ cá nhân - là
một vấn đề đa chiều và phức tạp. Kết quả phân tích cho thấy có rất nhiều yếu
tố ảnh hưởng đến quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc nhưng nhìn
chung quan niệm của người phụ nữ (dù có đặc điểm cá nhân, đặc điểm hôn
nhân khác nhau) về hạnh phúc có nhiều điểm tương đồng hơn khác biệt.
Dù mỗi cá nhân có nhận ra một cách rõ ràng hay không nhưng tất cả
những nỗ lực trong cuộc sống đều hướng đến mục đích cuối cùng là được
hạnh phúc. Như kết quả phân tích đã chỉ ra: dù người phụ nữ có thực hiện các
nghi lễ tâm linh hay không thực hiện các nghi lễ tâm linh cũng luôn hướng
đến một đời sống tinh thần yên ổn, tạo ra một nơi yên nghỉ an toàn cho những
cảm giác hân hoan hay tổn thương phức tạp nhất của mình. Như Marci
Shimoff (2009) đã mô tả rất hay về cách con người giống nhau trong công
cuộc kiếm tìm hạnh phúc: hạnh phúc như một chuỗi hạt mà con người cần
nhiều thời gian và công sức để tìm kiếm những hạt chuỗi. Nhưng dù những
hạt chuỗi đẹp, xấu hay xoàng xĩnh đi nữa thì nhất định phải có một sợi dây để
xâu chúng lại. Sợi dây đó chính là nội tâm thanh thản, bình yên - khi đó mới
có hạnh phúc thực sự.
Điểm khác biệt thể hiện ở lớp thế hệ kết hôn. Lớp thế hệ kết hôn càng
xa càng đánh giá cao các yếu tố thuộc lĩnh vực gia đình - xã hội trong việc tạo
nên hạnh phúc. Đôi khi những người phụ nữ hiện nay không thể hiểu được
136
cách người phụ nữ ở thế hệ trước tìm thấy hạnh phúc trong một cuộc hôn
nhân nhiều trách nhiệm và ràng buộc. Để hiểu được họ cần phải nhìn nhận
trong bối cảnh văn hóa. Những người kết hôn giai đoạn 1957-1985 là lớp thế
hệ “thấm” nhiều hơn văn hóa Nho giáo mà một cuộc sống hạnh phúc trong
bối cảnh văn hóa Nho giáo phải có đặc trưng mang tính chung, mục tiêu
chung, sở thích chung và mong ước mang tính tập thể hơn là tính cá nhân. Họ
lấy hạnh phúc của các thành viên trong gia đình làm hạnh phúc của mình. Họ
độc lập, mạnh mẽ, không phụ thuộc ngay cả với cảm xúc của mình.
137
KẾT LUẬN
1. Những điểm chính
1.1. Hạnh phúc là một hiện tượng xã hội đa chiều và có nhiều yếu tố.
Hạnh phúc tác động đến nhiều khía cạnh khác nhau trong cuộc sống của mỗi
người, và nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác nhau, trong đó đáng chú ý đến
vai trò riêng của các mối quan hệ thân thiết. Việc đánh giá cuộc sống của một
người dựa trên hai yếu tố hợp thành hạnh phúc. Đầu tiên là nhận thức, thứ hai
là cảm nhận thực tế. Nói cách khác, các cá nhân trải qua quá trình suy nghĩ,
thông qua đó họ đánh giá những thành tựu của họ theo quan niệm của chính họ.
Kết quả của luận án mang tính khám phá bước đầu về yếu tố đầu tiên
hợp thành hạnh phúc: quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc. Có thể điểm
lại và bàn luận đôi nét về các vấn đề đã đề cập tới trong nghiên cứu như sau:
Quan niệm về hạnh phúc của người phụ nữ được khảo sát qua ba lĩnh vực:
kinh tế - môi trường tự nhiên; gia đình - xã hội; đời sống cá nhân. Ba lĩnh vực
này được xem là có liên quan đến hạnh phúc toàn diện của người phụ nữ. Mỗi
lĩnh vực lại bao gồm nhiều yếu tố phản ánh quan niệm chung của người phụ
nữ về những điều họ cho rằng sẽ mang lại hạnh phúc. Mặc dù nghiên cứu đã
phân tích tổng thể 33 yếu tố đại diện cho ba lĩnh vực nhưng rõ ràng 33 yếu tố
này chưa thể bao quát đầy đủ hết. Cần có những nghiên cứu tiếp theo được
thực hiện một cách bao trùm hơn nhưng có thể nói kết quả của nghiên cứu là
một nỗ lực của luận án bởi tìm hiểu quan niệm hạnh phúc của người phụ nữ là
điều cực kỳ khó khăn.
1.2. Trong lĩnh vực kinh tế - môi trường tự nhiên, “thu nhập ổn định”
- yếu tố sinh tồn đáp ứng nhu cầu sống cơ bản là rất quan trọng để đem lại
hạnh phúc. Xưa nay, hầu hết các lý thuyết đạo đức xã hội thường nói rằng,
tiền bạc gần như không có liên hệ nhân quả nào với hạnh phúc. Nhưng một số
nghiên cứu xã hội học đã chỉ ra rằng: tiền bạc có tạo ra hạnh phúc, tuy nhiên,
138
đi kèm với một số điều kiện. Ví dụ người làm ra tiền phải cảm thấy họ kiếm
được nhiều tiền hơn người khác. Tuy nhiên, khi tiền bạc đã đáp ứng được nhu
cầu của con người ở một mức nhất định thì tiền bạc không còn là thước đo
của hạnh phúc nữa. Tóm lại, tiền bạc có liên quan tới hạnh phúc song mối
quan hệ giữa chúng vô cùng phức tạp.
Trong lĩnh vực gia đình - xã hội, theo quan niệm của người phụ nữ,
hạnh phúc là “gia đình hòa thuận”. Kết quả của nghiên cứu này đồng thuận
với một số nghiên cứu hạnh phúc ở Châu Á khi chỉ ra rằng hạnh phúc của phụ
nữ vẫn gắn liền với những mối quan hệ gia đình hơn là những yếu tố mang
tính cá nhân. Lý thuyết hệ thống đã đúng khi cho rằng: “Các mối quan hệ của
các thành viên trong gia đình tạo ra một tổng thể (ở đây là gia đình) lớn hơn
tổng từng thành phần khác của nó cộng lại” [19, tr.12]. Như vậy, để người
phụ nữ hạnh phúc, rất cần lưu ý tới các chính sách nhằm nâng cao chất lượng
các mối quan hệ trong gia đình, mang các thành viên lại gần nhau hoặc can
thiệp nhằm tăng tính tương tác giữa các thành viên trong gia đình.
Trong lĩnh vực đời sống cá nhân, ngoài yếu tố sức khỏe được lựa
chọn như yếu tố nền tảng cho mọi hoạt động hướng đến hạnh phúc, người phụ
nữ quan niệm rằng hạnh phúc là có đời sống tinh thần, tâm linh, yên ổn. Có
một điểm thú vị ở các nghiên cứu trước đây trong khía cạnh này là “các kết
quả nghiên cứu thường không thật sự thuyết phục, có những kết luận trái
ngược nhau, đa số kết luận chỉ đúng trong những phạm vi rất hạn chế. Điều
này nói lên rằng, hạnh phúc, vẫn như hàng nghìn năm trước đây, là đối tượng
không dễ nắm bắt và chinh phục. Và, có lẽ, chính điều này lại càng làm cho
việc nghiên cứu và chiêm nghiệm về hạnh phúc thêm phần thú vị và cuốn
hút” [54, tr.3].
1.3. Nhìn chung, quan niệm về hạnh phúc của người phụ nữ thể hiện
tính tương đồng nhiều hơn khác biệt. Tính tương đồng thể hiện ở 3 khía cạnh:
(1) Trong các chỉ báo đưa ra, số chỉ báo thể hiện sự tương đồng chiếm chủ
139
yếu so với chỉ báo thể hiện sự khác biệt; (2) Với các chỉ báo thể hiện sự tương
đồng, xu hướng lựa chọn giống nhau không chỉ có trong nội tại mỗi nhóm mà
còn giống nhau ở trong cả 3 nhóm xã hội và (3) Ở những giá trị có sự khác
biệt, mặc dù các nhóm xã hội có lựa chọn khác nhau nhưng nếu đặt trong tổng
thể chung thì những yếu tố này đều có tỷ lệ lựa chọn cao hoặc thấp.
Trong xã hội Việt Nam truyền thống, giữa các nhóm xã hội có rất ít
sự khác biệt là do các gia đình khá giống nhau trong cấu trúc tổng thể (đặc
điểm của cấu trúc gia đình Việt Nam truyền thống là “nhất thể hóa về cấu
trúc”); đại bộ phận các hộ gia đình là sống ở nông thôn, đều làm ruộng và
đều nghèo khổ. Chỉ có một tỷ lệ nhỏ dân cư có mức sống cao hơn (gia đình
địa chủ, phú nông, quan lại…) nhưng có thể chưa đủ để hình thành một văn
hóa riêng; hơn nữa họ đều sống ở nông thôn, tuân thủ văn hóa làng xã [66].
Sau Đổi mới, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nền kinh tế thị
trường bước đầu xuất hiện các giai tầng xã hội mới, hình thành đô thị mới và
có sự phân biệt nông thôn - đô thị, cũng như hình thành lối sống khác với
nông thôn. Sự đa dạng nghề nghiệp bắt đầu tạo nên sự đa dạng của gia đình
và kéo theo đó là sự đa dạng về quan niệm cuộc sống.
1.4. Mặc dù số chỉ báo thể hiện sự khác biệt không nhiều nhưng cũng
gợi ý rằng: mỗi nhóm xã hội với đặc thù riêng đều ẩn chứa trong nó những
sắc thái riêng gắn liền với những điều kiện cụ thể cũng như những biến cố của
chính nó. Điểm khác biệt thể hiện ở nhóm tuổi và độ dài hôn nhân. Người phụ
nữ càng ở độ tuổi trẻ càng đánh giá cao yếu tố “thành công” của cá nhân trong
việc đem lại hạnh phúc. Lớp thế hệ càng xa càng đánh giá cao các yếu tố
thuộc lĩnh vực gia đình - xã hội trong việc tạo nên hạnh phúc. Điều này cũng
rất phù hợp với quy luật văn hóa bởi sự biến đổi văn hóa sẽ diễn ra nhiều hơn
trong những nhóm trẻ, từ đó dẫn tới những khác biệt giữa các thế hệ. Những
người kết hôn 31 năm trở lên là lớp thế hệ “thấm” nhiều hơn văn hóa Nho
giáo mà một cuộc sống hạnh phúc trong bối cảnh văn hóa Nho giáo phải có
140
đặc trưng mang tính chung, mục tiêu chung, sở thích chung và mong ước
mang tính tập thể hơn là tính cá nhân. Điểm tương đồng và khác biệt về quan
niệm hạnh phúc của ba nhóm xã hội đã phân tích mới chỉ dừng lại ở việc nhìn
nhận như là những hiện tượng bề mặt. Rất cần có thêm những nghiên cứu quy
mô, với cỡ mẫu đủ lớn để tìm hiểu kỹ càng về vấn đề này.
1.5. Trong suy nghĩ của người phụ nữ, gia đình là một tổ ấm cho hạnh
phúc cá nhân, nơi các sợi dây ràng buộc về mặt tình cảm giữ vai trò trung
tâm. Hạnh phúc cá nhân chính là sự hài hoà các mối quan hệ trong gia đình.
Việc nuôi dưỡng tốt các mối quan hệ gia đình cũng là tạo điểm tựa cho hạnh
phúc cá nhân. Điều này đưa đến một nhận định rằng: thay đổi bối cảnh gia
đình (hoặc các mối quan hệ gia đình) sẽ tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ đối với
các thành viên trong gia đình nói chung và đối với cảm nhận hạnh phúc của
người phụ nữ nói riêng. Cách con người quan hệ với người khác có ý nghĩa
hơn những gì họ có.
Yếu tố mức sống luôn giữ vai trò chủ điểm trong nghiên cứu hạnh
phúc. Tiền có tạo nên hạnh phúc không là câu hỏi làm đau đầu rất nhiều các
nhà nghiên cứu cũng như các nhà đạo đức và câu trả lời không hề dễ dàng.
Báo cáo hạnh phúc thế giới các kỳ xác nhận một thực tế rằng: người dân hạnh
phúc hơn thường đi kèm với sự tăng trưởng mạnh mẽ về kinh tế nhưng sự
tăng trưởng về kinh tế chỉ là một trong những thước đo mức độ hạnh phúc.
Báo cáo Hạnh phúc thế giới được thực hiện dựa trên 6 tiêu chí chính: sự giàu
có (thể hiện ở GDP bình quân đầu người), mức độ hỗ trợ xã hội, tuổi thọ và
sức khỏe, tự do lựa chọn cuộc sống yêu thích, sự hào phóng (thể hiện ở tỷ lệ
đóng góp từ thiện), và nhận thức của người dân về tham nhũng.
Tiêu chí được quan tâm nhiều nhất là sự giàu có thường rất dễ có thể
định lượng được, và thường được các chính phủ trên thế giới ưu tiên trong
việc điều hành đất nước. Trong khi đó, trường hợp các nước Tây và Bắc Âu
dẫn đầu bảng xếp hạng lại đang chỉ ra rằng, khi nền kinh tế phát triển đến
141
mức đủ để tạo ra một GDP bình quân đầu người cao và ổn định thì tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế cao hay thấp không còn là điều được xã hội quá quan
tâm. Khi GDP đầu người ở mức cao và ổn định, thì các yếu tố khác như an
sinh xã hội, an toàn và trật tự trở nên quan trọng với người dân hơn là các vấn
đề về tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Và đây là một trong những vấn đề gây tranh cãi nhất từ trước đến nay
trên toàn cầu, giữa các nhà kinh tế và các nhà chính trị: nên ưu tiên tăng
trưởng kinh tế hay ưu tiên các vấn đề an sinh xã hội. Lý tưởng nhất là đạt
được cả hai, nhưng thực tế cho thấy điều đó là khó có thể xảy ra. Những
người ủng hộ tăng trưởng kinh tế thì cho rằng các nước dẫn đầu bảng xếp
hạng hạnh phúc đang đi trên một con đường tự sát một cách êm ái. Vì khi hài
lòng với một nền kinh tế không có động lực sẽ rất nguy hiểm khi đối mặt với
bất ổn nếu xảy ra. Còn những người ủng hộ tăng thêm các biện pháp an sinh
xã hội thì cho rằng, các nhà lãnh đạo và nhà kinh tế đang lấy lý do về tầm
quan trọng của tăng trưởng để tước đi quyền lợi của người dân trong các vấn
đề an sinh xã hội.
Luận án mang tính khám phá bước đầu về quan niệm của người phụ nữ
Việt Nam hiện nay về hạnh phúc với hy vọng người phụ nữ hiểu rõ được bản
thân mình trong công cuộc kiếm tìm hạnh phúc. Mặc dù luận án đã nỗ lực
thao tác hóa khái niệm tạo cơ sở cho việc nghiên cứu nhưng khi đã khuôn lại
phạm vi cũng đồng nghĩa với việc luận án đã tự giới hạn nhận thức về quan
niệm hạnh phúc. Rõ ràng, chúng ta vẫn còn phải đi một chặng đường dài để
khám phá sự hình thành của thực tiễn sắp xếp văn hóa, phương thức biến đổi
và những hệ quả của nó với đời sống mỗi cá nhân, đời sống gia đình và mọi
mặt của đời sống xã hội.
2. Hạn chế của luận án
2.1. Do có ít các công trình nghiên cứu trực tiếp về quan niệm của
người phụ nữ về hạnh phúc nên luận án đã mở rộng phạm vi tìm kiếm tài liệu
142
ở hai khía cạnh: (1) không chỉ tìm các tài liệu về “conception of
happiness”(quan niệm hạnh phúc) mà tìm thêm các tài liệu về “happiness”
(hạnh phúc), “self-reported happiness” (hạnh phúc chủ quan), “life
satisfaction” (sự thỏa mãn về cuộc sống), “quality of life” (chất lượng cuộc
sống), “welfare/well-being” (phúc lợi) và (2) không chỉ tìm các công trình
nghiên cứu khoa học, sách, luận án, luận văn mà còn tìm thêm các báo cáo,
bài viết, tư liệu ghi chép, báo, tạp chí và các tác phẩm văn học nghệ thuật từ
đầu thế kỷ 20 đến năm 1975.
Trong khi quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc thường vắng bóng
ở các công trình nghiên cứu thì lại được nhắc đến khá thường xuyên trên báo
chí Việt Nam, tiêu biểu là Báo Phụ nữ Việt Nam, Báo Phụ nữ Thủ đô, Báo
Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh, Báo Thanh niên hay một số báo mạng như
Phununet.com, Vietnamnet.vn, VnEpress... Các báo này thường có các diễn
đàn về hạnh phúc trên chuyên mục Phụ nữ và thời cuộc, Đời sống, Bạn đọc,
Tâm sự, Chia sẻ…Cách hiểu về “hạnh phúc” trên báo chí mang nhiều tính
chất giải trí và đặt quan niệm hạnh phúc gắn liền với quan niệm hạnh phúc gia
đình. Ví dụ: nhiều báo tổ chức các cuộc thi viết về hạnh phúc, hạnh phúc gia
đình và lý giải hạnh phúc gia đình, trong đó nhấn mạnh phụ nữ phải có trách
nhiệm “giữ lửa” hạnh phúc và chỉ thực sự hạnh phúc khi gia đình hạnh phúc.
Các bài báo này thường hướng tới các quy chuẩn đạo đức, mang tính chất
khuyên răn, dựa nhiều trên cảm nhận chủ quan của người viết mà ít tính
học thuật.
Bên cạnh tư liệu là các văn bản chính sách của Đảng và nhà nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa về phụ nữ, về hôn nhân gia đình, thì các tư liệu như
sách lý luận, tư liệu ghi chép quan điểm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và
Nhà nước có đề cập đến vấn đề phụ nữ cũng được sử dụng. Ví dụ ghi chép
“Hồ sơ Guermut” của phái bộ điều tra do chính phủ Pháp phái sang thuộc địa
về 13 yêu sách của phái yếu với những tiếng nói về ý chí tự lập của phụ nữ.
143
Ví dụ cuốn “Hồ Chủ tịch với vấn đề giải phóng phụ nữ” xuất bản năm 1960,
1970; cuốn “Vai trò và nhiệm vụ của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới
của cách mạng” của Lê Duẩn năm 1974. Luận án cũng sử dụng thêm các tác
phẩm văn học của nhóm Tự lực Văn đoàn để làm nổi bật tư tưởng/quan niệm
truyền thống về hạnh phúc của người phụ nữ. Tác giả luận án cố gắng tóm
lược tất cả các tài liệu lịch sử này để tổng kết thành một mẫu hình hạnh phúc
của người phụ nữ ở xã hội nông nghiệp cổ truyền.
2.2. Luận án sử dụng số liệu của đề tài cấp Nhà nước “Hạnh phúc của
người Việt Nam: quan niệm, thực trạng và chỉ số đánh giá” để phân tích quan
niệm và các yếu tố tác động tới quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
của người phụ nữ. Như thế có nghĩa, các câu hỏi định lượng không thể có
được đầy đủ những thông tin mà luận án cần thu thập. Mặc dù luận án đã bổ
sung bằng phương pháp định tính với 50 phỏng vấn sâu nhưng sự kết hợp
giữa định tính và định lượng vẫn thiếu sự nhuần nhuyễn. Trong tương lai, rất
cần có thêm các nghiên cứu được thực hiện bằng cả hai phương pháp định
lượng và định tính về quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc nói riêng và
hạnh phúc nói chung.
144
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC
CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
1. Bùi Thị Hương Trầm (2019), bài tham gia hội thảo quốc tế: “The feeling of
happiness in marriage” (International conference: The family in modern and
global societies: persistence and change) Hội thảo do Hội Xã hội học Việt
Nam tổ chức tháng 10/2019. Bài viết đã được chấp nhận trình bày tại hội thảo
và xuất bản sách.
2. Bùi Thị Hương Trầm (2018), “Hạnh phúc của phụ nữ - tiếp cận qua một số
nghiên cứu quốc tế và Việt Nam”, Tạp chí Văn hóa dân gian, Số 2 (176),
tr.66-71.
3. Bùi Thị Hương Trầm (2017), “Quan niệm của người phụ nữ về hạnh phúc
(Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Ninh Bình) ”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình
và Giới, Số 2, tr.71-79.
4. Bùi Thị Hương Trầm (2019), “Thực hành về chăm sóc dinh dưỡng bà mẹ
mang thai và nuôi con nhỏ”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Thách thức và giải
pháp để phụ nữ dân tộc thiểu số không bị bỏ lại phía sau”. Hội thảo do Hội
Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tổ chức tháng 8/2019. ISBN: 978-604-9857-25-6.
5. Đặng Thị Hoa, Bùi Thị Hương Trầm (2019), “Bạo lực trên cơ sở giới và bạo
lực gia đình đối với phụ nữ dân tộc thiểu số: Thực trạng và các biện pháp ứng
phó”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc gia “Thách thức và giải pháp để phụ nữ dân tộc
thiểu số không bị bỏ lại phía sau”. Hội thảo do Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam tổ chức tháng 8/2019. ISBN: 978-604-9857-25-6.
6. Đặng Thị Hoa, Trần Thị Vân Nương, Bùi Thị Hương Trầm (2018). Bài đăng
quốc tế “Domestic Violence against Women and Girls from Social
Anthropology Analysis Perspective: Case study of Vietnam” (Fifth
International Conference on Women & Gender Studies 2018). ISBN: 978-
955-4543-39-3.
7. Trần Thị Vân Nương, Bùi Thị Hương Trầm (2018) “Khó khăn trong đời sống
vợ chồng giai đoạn 1976-1986”, Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, Số 6.
145
8. Tác giả thành viên (2017), Sách “Bình đẳng giới trong chính trị từ chiều cạnh
thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế”, Trần Thị Minh Thi (chủ biên), Nhà
xuất bản Khoa học Xã hội.
9. Tác giả chương sách (2016), Chương “Thực trạng hôn nhân xuyên biên giới ở
các tỉnh miền núi” (tác giả) và Chương “Thực trạng quản lý hôn nhân xuyên
biên giới ở các tỉnh miền núi hiện nay” (đồng tác giả), Trong sách “Hôn nhân
xuyên biên giới với phát triển xã hội”, Đặng Thị Hoa (chủ biên), Nhà xuất bản
Khoa học Xã hội.
10. Lê Ngọc Văn, Mai Văn Hai, Đặng Thị Hoa, Bùi Thị Hương Trầm (2016),
Sách “Hệ giá trị gia đình Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.
11. Bùi Thị Hương Trầm (2016), “Quan niệm về hoạt động dòng họ”, Tạp chí
Nghiên cứu Gia đình và Giới, Số 5, tr.71-79.
146
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Anh
1. Ashley Whillans. 2019. Use your money to buy happier time. Harvard
business review. https://hbr.org/ideacast/2019/01/use-your-money-to-buy-
happier-time [truy cập ngày 12/1/2019].
2. Betsey Stevenson, Justin Wolfers (2009), "Happiness inequality in the
United States", In “National bureau of economic research”.
3. Carol Graham, Soumya Chattopadhyay (2012), Gender and Well-Being
around the World: Some Insights from the Economics of Happiness, The
Brookings Institution.
4. Carol Graham (2005), "The Economics of Happiness: Insights on
globalisation from a ovel approach", World Economics, Vol.6, pp.41-55.
5. Chris Herbst (2012), Gender and Well-Being around the World: Some
Insights from the Economics of Happiness. Carol Graham and Soumya
Chattopadhyay The Brookings Institution.
6. Deci, E. L., & Ryan, R.M. (2000), The “What” and “Why” of Goal
Pursuits: Human needs and the self-determination of behavior.
Psychological Inquiry. 11(4), 227-268. doi: 10.1207/S15327965PL1104_01.
7. Dolan, P., T. Peasgood and M.White (2007), "Do we really know what
makes us happy? A review of theeconomic literature on the factors
associated with subjective well-being", JournalofEconomic Psychology,
Vol. 29.Pp. 94-122.
8. Elizabeth Gilbert (2006), Eat, pray, love: One Woman’s search for
everything across Italy, India and Indonesia. Nxb Bloomsbury.
9. Frijters, P., J.P.Haisken-DeNew and M.A. Shields (2004), "Money does matter!
Evidence from increasing real income and life satisfaction in East Germany
following reunification", American Economic Review, Vol 94. Pp 730-740.
147
10. Gavron, H. (1966), The Captive Wife: Conflicts of housebound mothers.
Harmondsworth: Penguin.
11. Goode, William J. (1982), The family. Second edition. Prentice-hall
Foundations of modern sociology series.
12. Marci Shimoff, Carol Kline. 2009. Happy for no reason: 7 steps to being
happy from the inside out. Free Press, a division of Simon&Schuster, Inc.
13. Meltzer, James K. McNulty, Đại học Florida (2015), SMU reseach news,
1/2015.
14. Meltzer, James K. McNulty (2011) “Marriages Are More Satisfying When
Wives Are Thinner Than Their Husbands”, SAGE Journals, Vol 2, Issue 4.
15. Nichols, M. P. & Schwartz, R. C. (1995), Family Therapy: Concepts and
Methods (3rd ed). Boston: Allyn & Bacon.
16. OECD (2013), OECD Guidelines on Measuring Subjective Well-being
17. OECD (2016), "Strategic Orientations of the Secretary-General: For 2016
and beyond", Meeting of the OECD Council at Ministerial Level Paris, 1-
2 June 2016.
18. Olson, D. H. (1993), Circumplex Model of marital and family systems:
Assessing family functioning. In Walsh, F. (Ed.). Normal family
processes. (2nd ed.)
19. Park, C.-M. (2009), The quality of life in South Korea. Social Indicators
research. 92(2), 263-294.doi: 10.1007/s11205-008-9348-y.
20. Rebecca Launt Sapp (2003), Family conflict and family cohesion: Their
relationship to Youths’ behavior problems. Doctoral Dissertations.
21. Ruut Veenhoven (1991), Is happiness relative? Published in: Social
Indicators Research 24, pp.1-34.
22. Ruut Veenhoven (2003), "Happiness", The Psychologist, Vol16, pp.128-129.
23. Sara Boboltz (2014), This Is The Happiest Relationship Ever, According To
Science. (http://www.huffingtonpost.com/2014/01/16/happy- relationship-
148
studies_n_4613060.html) [truy cập ngày 16/1/2014]
24. Stevenson, B. and J.Wolfers (2008), Economic growth and subjective
wellbeing: researching the Easterlin paradox. NBER working paper. No
14282. Cambridge. Mass.: National Bureau of economic research.
25. Stinnett, Dr. Nick and Nancy with Joe and Alice Beam (1999). Fantastic
Families/6 Proven Steps to Building a Strong Family. Howard Publishing
Co., West Monroe, LA.
26. Tapas Mishra, Mamata Parhi, Rausl Fuentes (2014). How interdependent
are cross-country happiness dynamics? Published online.
27. Veenhoven (1991), "Is happiness relative?" Published in: Social
Indicators Research 24, pp.1-34.
28. Veenhoven (2003) "Happiness", The Psychologist, Vol.16, pp.128-129
29. John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey D. Sachs (edited) (2012),
World Happiness Report 2012. New York: Sustainable Development
Solutions Network.
30. John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey D. Sachs (edited) (2013),
World Happiness Report 2013, New York: Sustainable Development
Solutions Network.
31. John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey D. Sachs (edited) (2015),
World Happiness Report 2015, New York: Sustainable Development
Solutions Network.
32. John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey D. Sachs (edited) (2016),.
World Happiness Report 2016, New York: Sustainable Development
Solutions Network.
33. John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey D. Sachs (edited) (2016),
World Happiness Report 2017, New York: Sustainable Development
Solutions Network.
149
34. John F. Helliwell, Richard Layard and Jeffrey D. Sachs (edited) (2018),
World Happiness Report 2018, New York: Sustainable Development
Solutions Network.
35. Yukiko Uchida, Vinai Ronasakkunkit, & Shinobu Kitayama (2004),
"Cultural Constructions of Happiness: Theory and Empirical Evidence",
Journal of Happiness Studies, Vol5, pp.223-239.
36. Yukiko Uchida, Vinai Ronasakkunkit, & Shinobu Kitayama (2004),
"Cultural Constructions of Happiness: Theory and Empirical Evidence",
Journal of Happiness Studies, Vol5, pp.223-239.
37. Yunxiang Yan (2003). Private life under Socialism: Love, Intimacy and family
change in a Chinese village 1949-1999, Stanford University Press.
Tài liệu tiếng Việt
38. Baird T. Spalding Nguyễn Phong (2018), Hành trình về phương Đông,
Nxb Thế giới.
39. Betty Fredan (2015), Bí ẩn nữ tính, Đại học Hoa Sen và Nxb Hồng Đức.
40. Bùi Thị Hương Trầm (2012) “Tình yêu trong hôn nhân (Qua cuộc khảo
sát tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc)”, Tạp chí Nghiên cứu gia
đình và giới, số 5.
41. Bùi Thị Hương Trầm (2017), “Quan niệm của người phụ nữ về hạnh
phúc (Nghiên cứu trường hợp tỉnh Ninh Bình)”, Tạp chí Nghiên cứu gia
đình và giới, số 2.
42. Debbie Gisonni (2011), Hạnh phúc ở trong ta, Nxb. Trẻ
43. Devid Niven (2011), Phương Anh (dịch). Bí mật của hạnh phúc. Nxb. Trẻ
44. Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (2011), Sự hài lòng về cuộc sống,
Báo cáo đề tài.
150
45. Đặng Nguyên Anh (2012), "Hạnh phúc và sự hài lòng: Mục tiêu của biến
đổi xã hội và quyền con người" Báo cáo khoa học tại Hội thảo “Biến đổi xã
hội, biến đổi khí hậu và quyền con người”
46. Đặng Thị Hoa (2018), "Quan niệm về hạnh phúc của người dân tộc thiểu
số (Nghiên cứu trường hợp tỉnh Sơn La)", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình
và Giới, Số 2.
47. Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler. M.D (2018), Ngộ Đạo, Trần Văn
Huân (dịch), Sống hạnh phúc, chết bình an, Nxb Lao động.
48. Đặng Phương Kiệt (2006), Gia đình Việt Nam các giá trị truyền thống và
những vấn đề tâm - bệnh lý xã hội, Nxb. Lao động.
49. Doh Chull Shin (2009), “Chất lượng sống của người dân châu Á theo
nho giáo: Quan niệm về hạnh phúc”, (Nguyễn Khánh Hương dịch), Tạp
chí Nghiên cứu con người, số 1 (46).
50. Đỗ Thiên Kính (2016), "Biến đổi của hệ thống phân tầng xã hội ở Việt
Nam", Trong: Đặng Nguyên Anh (chủ biên), Biến đổi xã hội ở Việt Nam -
Truyền thống & hiện đại, Nxb. KHXH. Hà Nội, 2016, tr. 117-143.
51. Emile Chartier, Hồ Thanh Vân, Cao Việt Dũng, Nguyễn Ỉ Long (dịch)
(2016), Alain nói về hạnh phúc, Nxb Trẻ.
52. Endruwei G và cộng sự (2002), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.
53. Hồ Sĩ Quý (2006), "Nghiên cứu định lượng về hạnh phúc và chỉ số
hạnh phúc (HPI) của Việt Nam trong 178 nước", Tạp chí Thông tin
Khoa học xã hội.
54. Hồ Sỹ Quý (2006), “Chỉ số hạnh phúc (HPI) của 178 nước năm 2006”,
Tạp chí Nghiên cứu con người, số 5 (72).
55. Hoàng Anh Sướng (2017), Những chuyện có thật về nhân quả và phật
pháp nhiệm màu, Nxb. Hội nhà văn.
56. Hoàng Anh Sướng (2015), Hạnh phúc đích thực, Nxb Phương Đông.
151
57. Hoàng Bá Thịnh (2012), “Sự hài lòng về hôn nhân và gia đình”, Tạp chí
Dân số & Phát triển, số 8.
58. Hoàng Văn Quynh (2018), "Luật tục bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, môi
trường của một số tộc người ở Tây Bắc và Tây Nguyên",
https://thegioiluat.vn/bai-viet-hoc-thuat/luat-tuc-bao-ve-tai-nguyen-
thien-nhien-moi-truong-cua-mot-so-toc-nguoi-o-tay-bac-va-tay-nguyen-
6472/ [truy cập ngày 21/7/2017]
59. Hoàng Chí Bảo (2016), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của phụ
nữ và nữ trí thức trong phát triển xã hội”. Tài liệu hội thảo: “Tăng
cường sự tham gia của phụ nữ tỉnh An Giang trong lĩnh vực nghiên
cứu khoa học” do Trường Đại học An Giang tổ chức.
60. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia.
61. John Gray (2011), Thạm Thị Thanh Huyền, Ngô Thị Chuyên (dịch), Đàn
ông đến từ sao Hỏa, đàn bà đến từ sao Kim, Nxb Văn hóa Thông tin.
62. Joy (2012), Hạnh phúc tại tâm, Nxb. Hồng Đức.
63. Kim Anh (2018), “Điểm chung của các đôi hạnh phúc”,
https://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/to-am/diem-chung-cua-cac-doi-
hanh-phuc-3144015.html, [truy cập ngày 6/2/2015]
64. Lê Đức Hạnh (2012), Hôn nhân và nếp sống đạo trong gia đình người
Việt công giáo, Nxb. Văn hóa - Thông tin.
65. Lê Ngọc Văn (2019), Hạnh phúc của người Việt Nam: quan niệm, thực
trạng và chỉ số đánh giá, Nxb Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.
66. Lê Ngọc Văn và cộng sự (2016), Hệ giá trị gia đình Việt Nam từ hướng
tiếp cận xã hội học, Nxb. KHXH, Hà Nội.
67. Lê Ngọc Văn (2006), Một số quan điểm lý thuyết nữ quyền trong nghiên cứu
gia đình. Trong sách Nghiên cứu gia đình - Lý thuyết nữ quyền, quan điểm
giới, Lê Ngọc Văn (chủ biên). Nxb KHXH, Hà Nội.
152
68. Lê Ngọc Hùng (2013), Lý thuyết xã hội học hiện đại, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
69. Lê Thị Nhâm Tuyết (2010), Đặc thù giới ở Việt Nam và bản sắc dân tộc,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
70. Lê Thi (2002), “Xây dựng hạnh phúc gia đình qua những bữa cơm hàng
ngày”, Tạp chí Tâm lý học, số 6.
71. Lê Thi (2012), “Vài nét bàn về quan niệm hạnh phúc gia đình ở Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu gia đình và giới, số 2.
72. Mai Huy Bích (2000), "Nơi cư trú sau hôn nhân ở đồng bằng sông
Hồng". Tạp chí Xã hội học, Số 4. Tr.33-42.
73. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
74. Mai Văn Hai, Mai Kiệm (2003), Xã hội học văn hóa, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
75. Mattieu Ricard (2003), Bàn về hạnh phúc, Nxb. Tri thức.
76. Menis Yousry, Nguyễn Bích Lan (dịch) (2017), Tìm lại chính mình, Nxb
Phụ nữ.
77. Minh Niệm (2012), Hiểu về trái tim – nghệ thuật sống hạnh phúc, Nxb Trẻ.
78. Minh Chi (1995), Các vấn đề Phật học, Viện Nghiên cứu Phật học.
79. Ngọc Thi (2005), “Biết tha thứ để được hạnh phúc”,
https://nld.com.vn/tinh-yeu-hon-nhan/biet-tha-thu-de-duoc-hanh-phuc-
125944.htm, [truy cập ngày 1/9/2005].
80. Nguyễn Hữu Minh (2008), "Khuôn mẫu cư trú sau hôn nhân ở nông thôn
Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới. Số 2.
81. Nguyễn Hữu Minh (2011), "Khuôn mẫu cư trú sau hôn nhân ở nông thôn
Việt Nam", Trong sách Gia đình nông thôn Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
153
82. Nguyễn Lan Hương (1994), Một vài nhận xét bước đầu về mức sống
hiện nay của người Hà Nội, Tiểu luận môn học Phương pháp nghiên cứu
khoa học. Đại học Tổng hợp Hà Nội.
83. Nguyễn Thanh Tuấn (2012), Văn hóa bản địa Việt Nam, Nxb. Văn hóa
Thông tin.
84. Nguyễn Thừa Hỷ (2015), Văn hóa Việt Nam truyền thống - Một góc
nhìn, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
85. Nguyễn Thừa Hỷ (2016), Một góc nhìn lịch sử, văn hóa và con người
Việt Nam, Nxb. Thông tin và Truyền thông.
86. Nguyễn Trần Bạt (2011), Văn hóa và con người, Nxb Hội nhà văn
87. Nguyễn Trần Bạt (2011), Cải cách và sự phát triển, Nxb Hội nhà văn
88. Nguyễn Trọng Phấn (2016), Xã hội Việt Nam từ thế kỷ XVII, Nxb. Tổng
hợp thành phố HCM.
89. Nguyễn Thị Thập (1960), Bốn nguyên tắc hết sức cách mạng để xây dựng
gia đình mới và tốt đẹp, Trích tham luận đọc ở khóa họp Quốc hội thứ 11.
số 76, tháng 1 năm 1960, tr 24-26.
90. Nguyễn Thị Hà (2014), Báo cáo “Nghiên cứu về sự tham chính của phụ
nữ dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc Việt Nam”, Dự án hợp tác nghiên
cứu giữa Viện CNXHKH và Văn phòng RLS tại Việt Nam.
91. Nguyễn Hồng Phong (2005), Một số công trình nghiên cứu khoa học xã
hội và nhân văn, tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Nguyễn Tri Thư (1994), Vài nết về chính quyền cách mạng cấp cơ sở
trogn thời kỳ kháng chiến Pháp (1945-1954). Trong Kinh nghiệm tổ chức
quản lý nông thôn Việt Nam trong lịch sử, Phan Đại Doãn, Nguyễn
Quang Ngọc (chủ biên). Nxb Chính trị quốc gia, tr. 164-188).
93. Osho. Lê Thị Thanh Tâm, Dương Ngọc Hân (biên dịch) (2016), Hạnh
phúc tại tâm, Nxb Hồng Đức.
154
94. Phạm Minh Hạc, Phạm Thành Nghị (2002), "Định hướng giá trị trong
thời kỳ quá độ từ kinh tế kế hoạch tập trung sang kinh tế thị trường tại
Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 1.
95. Phạm Văn Bích (2015), "Nơi cư trú sau hôn nhân của người Kinh ở đồng
bằng sông Hồng và cách xác định nó". Trong sách Gia đình Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Teramoto Miroru, Bùi Thế Cường, Phạm Văn Bích, Iwai Misaki, Viện
Nghiên cứu kinh tế Châu Á (IDE-JETRO). Tr.56-68.
96. Piere Gourou (2015), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ, Nxb. Trẻ
97. Philippe Papin, Olivier Tessier (2002), Làng ở vùng Châu thổ sông
Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
98. Phùng Thị Kim Anh (2009), "Quan niệm về hạnh phúc gia đình thời kỳ
Đổi mới", Tạp chí Nghiên cứu Gia đình và Giới, số 3/2009, tr. 12-23.
99. Richard Layard (2008) Hạnh phúc, Nxb. Tri thức.
100. Rodney Stark (2001), Xã hội học đại cương, Bản dịch của Trung tâm Xã
hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
101. Ruut Veenhoven (1991) “Is happiness relative?”, Social Indicators
Research 24. pp.1-34.
102. Sara Boboltz (2014), “This Is The Happiest Relationship Ever, According
To Science” http://www.huffingtonpost.com/2014/01/16/happy-
relationship-studies_n_4613060.html, [truy cập ngày 23/1/2014].
103. Stefan Klein. Nguyễn Thành Đạt (dịch) (2015), Sáu tỉ đường đến hạnh
phúc, Nxb Nhã Nam
104. T. An (2008), Phụ nữ Việt Nam kém hạnh phúc hơn đàn ông
http://doisong.vnexpress.net/tin-tuc/gia-dinh/phu-nu-viet-nam-kem-
hanh-phuc-hon-dan-ong-2269295.html, [truy cập ngày 30/11/2008].
155
105. Thanh Mai (2013), “Vũ khí bí mật” của những người vợ hạnh phúc
https://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/to-am/vu-khi-bi-mat-cua-nhung-
nguoi-vo-hanh-phuc-2894556.html, [truy cập ngày 14/10/2013]
106. Thích Nhất Hạnh (2018), Tìm bình yên trong gia đình, Nxb. Thế giới
107. Thích Nhất Hạnh (2017), Hạnh phúc mộng và thực, Nxb. Phương Đông
108. Thích Nhất Hạnh (2017), Quyền lực đích thực, Nxb. Phương Đông
109. Thích Nhất Hạnh (2016) Bước tới thảnh thơi, Nxb. Hồng Đức
110. Thích Nhất Hạnh, Chân Hội Nghiêm (chuyển ngữ) (2016), Hạnh phúc
cầm tay, Nxb. Lao động.
111. Thích Nhật Từ (2012), Hạnh phúc giữa đời thường, Nxb. Phương Đông.
112. Thụy Ân (2013), “Tuyệt chiêu giữ hôn nhân hạnh phúc”,
https://giadinh.vnexpress.net/tin-tuc/to-am/tuyet-chieu-giu-hon-nhan-
hanh-phuc-2923866.html?ctr=related_news_click, [truy cập ngày
15/12/2013]
113. Trần Hữu Ủy (2009), Các nhân tố ảnh hưởng đến hạnh phúc của người Việt
Nam, Luận văn thạc sỹ, Chương trình đào tạo thạc sỹ của Fulbright, Mỹ.
114. Trần Thị Minh Thi (2017), Bình đẳng giới trong chính trị từ chiều cạnh
thể chế, văn hóa và hội nhập quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội
115. Trần Văn Thọ (2012), "Phát triển và hạnh phúc", trong: Câu chuyện phát
triển và hạnh phúc, Nxb Tổng hợp, thành phố Hồ Chí Minh, tr. 66-71.
116. Trịnh Duy Luân, Helle Rydstrom, Wil Burghoorn (2008), Gia đình nông
thôn Việt Nam trong chuyển đổi, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
117. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia (2000), Các giá trị châu
Á và sự phát triển ở Việt Nam trong bối cảnh so sánh (Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế tổ chức tại Hà Nội từ ngày 24 đến 26 tháng 3 năm 1999). Hà Nội.
118. Tú Anh (2018). “Muốn hôn nhân hạnh phúc, phụ nữ cần một chút “mánh
khóe”, http://www.giadinhmoi.vn/phu-nu-can-mot-chut-manh-khoe-neu-
muon-hon-nhan-luon-hanh-phuc-d4520.html [truy cập ngày 18/6/2017]
156
119. Văn Hiến "2015", "Cảm xúc của vợ quyết định hạnh phúc hôn nhân".
https://ngoisao.net/tin-tuc/gia-dinh/go-roi/cam-xuc-cua-vo-quyet-dinh-
hanh-phuc-hon-nhan-3148280.html, [truy cập ngày 20/2/2015]
120. Văn.ht (2015), “Khổ vì mẹ khó tính, buồn vì vợ không nhẫn nhịn”,
https://ngoisao.net/tin-tuc/gia-dinh/go-roi/kho-vi-me-kho-tinh-buon-vi-
vo-khong-nhan-nhin-3207479.html, [truy cập ngày 29/4/2015]
121. Vãn Tình (2018), Mỹ Linh (dịch) Bạn đắt giá bao nhiêu?, Nxb Thế giới.
122. Viện Xã hội học, Trung tâm Dân số Đại học Michigan (2000), Phương
pháp nghiên cứu điều tra chọn mẫu, Bài viết cho khóa đào tạo về
phương pháp tại Viện Xã hội học.
123. Võ Văn Thành (2014), Thử bàn về niềm tin đời thường và niềm tin tôn
giáo, Nguyệt san Giác Ngộ. Phụ trương nghiên cứu Phật học của Báo
Giác ngộ, số 215, tháng 2.
124. Vũ Ngọc Phan (2010), Tục ngữ, Ca dao, Dân ca Việt Nam, Nxb Thời
đại, Hà Nội.
125. Vương Linh (2016), “Tại sao các cặp vợ chồng càng hạnh phúc càng
giống nhau”, http://giadinh.net.vn/gia-dinh/tai-sao-cac-cap-vo-chong-
cang-hanh-phuc-cang-giong-nhau-20160411105111694.htm, [truy cập
ngày 11/4/2016]
126. World Database of happiness (2012), trích từ Nguyễn Thị Thanh Tâm,
2014, báo cáo đề tài cấp Bộ: “Quan niệm, mức độ và các yếu tố tác động tới
hạnh phúc gia đình: nghiên cứu trường hợp tỉnh Quảng Ngãi”.
127. http://doisong.vnexpress.net/tin-tuc/gia-dinh/phu-nu-viet-nam-kem-
hanh-phuc-hon-dan-ong-2269295.html
157
PHỤ LỤC
MỘT VÀI QUAN NIỆM TIÊU BIỂU VỀ HẠNH PHÚC
Epicurus
Hạnh phúc là mục đích tối hậu của đời sống loài
người. Sự yên bình và hợp lẽ phải là nền tảng của hạnh
phúc
Aristote
Hạnh phúc là ý nghĩa và mục đích của cuộc đời, là
mục tiêu và cũng là giới hạn tận cùng của sự tồn tại
người
John Stuart Mill Hạnh phúc là sự giới hạn dục vọng hơn là thỏa mãn
dục vọng
Lucrece Tạo hóa đã an bài hạnh phúc vừa đúng mức cho mọi
người. Chỉ cần biết lựa chọn nó mà thôi
Heraclite
Nếu hạnh phúc thực sự nằm ở sự khoái cảm của cơ
thể, thì ta có thể nói rằng con bò có hạnh phúc thực sự
khi nó gặm cỏ khô
De Tocqueville Chấp nhận sự bất hạnh có lẽ còn ít đau khổ hơn là sự
mưu cầu hạnh phúc
Deni Diderot Người hạnh phúc nhất là kẻ đã tạo được hạnh phúc
cho nhiều người khác
Gustave Droz
Có một số người chỉ đạt đến mức sung sướng bằng
cách trang trọng góp nhặt từng mảnh vụn của hạnh
phúc vương vãi đó đây
Abraham Lincoln Chúng ta hạnh phúc vì tâm can ta cảm thấy vậy
Thiền sư Thích
Nhất Hạnh
Hạnh phúc chân thực chỉ có khi ta được hiểu, được
thương và ta có khả năng hiểu, thương những người
khác
Trích Hồ Sĩ Quý, 2007
top related